®¹i häc quèc gia hµ néi tr êng ®¹i häc khoa häc tù nhiªn
NGUYỄN THỊ THÚY HỒNG
LỚP PHỦ POLYMER FLUO CHỨA NANOSILICA BẢO VỆ CHỐNG
ĂN MÒN CHO NỀN THÉP PHỦ HỢP KIM Al-Zn
LuËn v¨n th¹c sÜ khoa häc
Hµ néi - 2011
®¹i häc quèc gia hµ néi tr êng ®¹i häc khoa häc tù nhiªn
NGUYỄN THỊ THÚY HỒNG
LỚP PHỦ POLYMER FLUO CHỨA NANOSILICA BẢO VỆ CHỐNG
ĂN MÒN CHO NỀN THÉP PHỦ HỢP KIM Al-Zn
Chuyên ngành: Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ Mã số : 604435
LuËn v¨n th¹c sÜ khoa häc
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. Trịnh Anh Trúc
Hµ néi - 2011
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT ....................................... iv
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ VÀ ẢNH ............................................................... v
DANH MỤC CÁC BẢNG ................................................................................... vi
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1 - TỔNG QUAN ................................................................................ 4
1.1. Ăn mòn kim loại ...........................................................................................4
1.1.1. Định nghĩa ............................................................................................... 4
1.1.2. Các phƣơng pháp bảo vệ chống ăn mòn kim loại .................................... 5
1.2. Lớp phủ bảo vệ chống ăn mòn ...................................................................... 6
1.2.1. Lớp phủ Al-Zn ......................................................................................... 6
1.2.1.1 Giới thiệu ............................................................................................. 6
1.2.1.2. Cơ chế bảo vệ chống ăn mòn .............................................................. 8
1.2.2. Lớp phủ hữu cơ ........................................................................................ 8
1.2.2.1. Thành phần ......................................................................................... 9
1.2.2.2. Cơ chế hoạt động của lớp phủ bảo vệ chống ăn mòn......................... 9
1.2.3. Lớp phủ polyme fluo ..............................................................................12
1.2.3.1. Giới thiệu ..........................................................................................12
1.2.3.2. Phân loại ...........................................................................................13
1.2.4. Lớp phủ kết hợp .....................................................................................16
1.3. Giới thiệu về nanosilica ..............................................................................18
1.3.1. Định nghĩa ..............................................................................................18
- i -
1.3.2. Tính chất ...............................................................................................18
1.3.2.1. Tính chất của hạt silica kích thước nano ..........................................18
1.3.2.2. Ứng dụng của hạt nanosilica ........................................................... 20
1.3.3. Các phƣơng pháp tổng hợp nanosilica ...................................................22
1.3.3.1. Phản ứng nhiệt phân .........................................................................22
1.3.3.2. Phản ứng thủy phân và phương pháp sol – gel ................................22
1.3.4. Biến tính nanosilica ................................................................................25
1.3.4.1. Biến tính bằng tương tác hóa học .................................................... 25
1.3.4.2. Biến tính bằng tương tác vật lý ........................................................ 27
1.4. Vật liệu silica nano compozit ......................................................................27
1.4.1. Giới thiệu ...............................................................................................27
1.4.2. Vật liệu nanosilica compozit ..................................................................28
CHƢƠNG 2 - THỰC NGHIỆM ..........................................................................30
2.1. Nguyên liệu .................................................................................................30
2.1.1. Nguyên liệu dùng để tổng hợp nanosilica .............................................30
2.1.2. Hợp chất hữu cơ dùng làm chất ức chế ăn mòn.....................................30
2.1.3. Nền kim loại nghiên cứu ........................................................................30
2.1.4. Chất tạo màng ........................................................................................30
2.2. Tổng hợp nanosilica và nanosilica chứa chất hữu cơ .................................32
2.2.1. Tổng hợp nanosilica ...............................................................................32
2.2.2. Biến tính nanosilica với chất hữu cơ .....................................................33
2.3. Quy trình tạo màng .....................................................................................33
2.3.1. Tạo lớp lót epoxy ..................................................................................33
2.3.2. Tạo lớp phủ bảo vệ .................................................................................34
2.4. Các phƣơng pháp nghiên cứu ....................................................................34
- ii -
2.4.1. Phƣơng pháp phân tích cấu trúc ............................................................34
2.4.1.1 Phương pháp kính hiển vi trường điện tử quét FESEM ....................34
2.4.1.2 Phương pháp phân tích nhiệt TGA ................................................... 35
2.4.2. Phƣơng pháp tổng trở điện hóa .............................................................36
2.4.3. Phƣơng pháp phổ tử ngoại khả kiến ......................................................40
2.4.4. Phƣơng trình đẳng nhiệt Langmuir nghiên cứu khả năng hấp phụ
của nanosilica .....................................................................................................41
2.4.5. Phƣơng pháp đo độ bám dính ................................................................43
CHƢƠNG 3 - KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN .....................................................44
3.1. Tổng hợp và biến tính nanosilica ................................................................44
3.2. Nghiên cứu khả năng bảo vệ chống ăn mòn thép phủ hợp kim Al-Zn
của polyme fluo và epoxy chứa nanosilica biến tính với 1H-Benzotriazole ......49
3.3. Đánh giá khả năng chịu tia tử ngoại của lớp màng epoxy và lớp màng
polyme fluo ..........................................................................................................55
3.4. Khảo sát khả năng bảo vệ chống tia tử ngoại và khả năng chống ăn mòn
của lớp phủ polyme fluo chứa nanosilica và nanosilica biến tính trên nền thép
phủ hợp kim Al-Zn...............................................................................................58
KẾT LUẬN CHUNG...........................................................................................66
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................67
- iii -
DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU
Trang
Bảng 3.1. Kết quả đo hấp phụ của nanosilica trong dung dịch 1H-Benzotriazole
theo thời gian ...................................................................................................47
Bảng 3.2. Độ bám dính của màng epoxy và màng polyme fluo .........................54
- v -
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ VÀ ẢNH
Trang
Hình 1.1. Các dạng khuyếch tán trong màng sơn ...............................................10
Hình 2.1. Kính hiển vi trường điện tử quét .........................................................34
Hình 2.2. Giản đồ Nyquist dạng tổng quát ..........................................................37
Hình 2.3. Sơ đồ mạch điện tương đương của kim loại phủ màng sơn ................38
Hình 2.4. Giản đồ Bode về sự biến đổi của modul tổng trở theo tần số và sự biến
đổi của góc pha theo tần số ..................................................................................38
Hình 2.5. Sơ đồ bình đo điện hóa ........................................................................39
Hình2.6. Đường đẳng nhiệt Langmuir và đồ thị xác định cân bằng trong phương
trình Langmuir .....................................................................................................43
Hình 3.1. Ảnh FESEM của hạt nanosilica tổng hợp ...........................................44
Hình 3.2. Phổ UV-VIS của dung dịch 1H - Benzotriazole ................................45
Hình 3.3. Phổ UV-VIS của dung dịch 1H - Benzotriazole ở các nồng độ khác nhau
..............................................................................................................................45
Hình 3.4. Đồ thị đường chuẩn của dung dịch 1H - Benzotriazole ......................46
Hình 3.5. Biến thiên của lượng hấp phụ 1H - Benzotriazole trên nanosilica theo
thời gian................................................................................................................47
Hình 3.6. Giản đồ phân tích nhiệt của nanosilica, nanosilica biến tính silan và
nanosilica biến tính 1H – Benzotriazole ..............................................................48
Hình 3.7. Phổ tổng trở của mẫu thép phủ Al-Zn phủ màng epoxy (o) và epoxy
chứa 3% SiO2-HBT (•) sau 7 ngày thử nghiệm trong dung dịch NaCl 3% .......50
Hình 3.8. Phổ tổng trở của mẫu thép phủ Al-Zn phủ màng epoxy (o) và epoxy chứa 3% SiO2-HBT (•) sau 77 ngày thử nghiệm trong dung dịch NaCl 3% .....50
- vi -
Hình 3.9. Phổ tổng trở của mẫu thép phủ Al-Zn phủ màng polyme fluo (o) và HBT
polyme fluo (•) sau 7 ngày thử nghiệm trong dung dịch NaCl 3% .....................52
Hình 3.10. Phổ tổng trở của mẫu thép phủ Al-Zn phủ màng polyme fluo (o) và
HBT – polyme fluo (•) sau 77 ngày thử nghiệm trong dung dịch NaCl 3% .......52
Hình 3.11. Sự biến thiên modul tổng trở tại tần số 100 mHz của các màng epoxy
(o) và 1HBT - epoxy (•) theo thời gian ngâm trong dung dịch NaCl 3% ...........53
Hình 3.12. Sự biến thiên modul tổng trở tại tần số 100 mHz của màng polyme fluo
(o) và polyme fluochứa nano SiO2 - HBT (•) theo thời gian ngâm trong dung dịch
NaCl 3% ...............................................................................................................53
Hình 3.13. Sự biến thiên modul tổng trở tại tần số 100 mHz của mẫu thép phủ hợp
kim Al-Zn và phủ epoxy (o), polyme fluo (•) theo thời gian chiếu UV .............55
Hình 3.14. Phổ tổng trở của mẫu polyme fluo, polyme fluo chứa nano SiO2 (MS4),
polyme fluo chứa nano SiO2 biến tính silan (MS6) sau 2 giờ chiếu UV .............59
Hình 3.15. Phổ tổng trở của mẫu polyme fluo, polyme fluo chứa nanosilica (MS4),
polyme fluo chứa nanosilca biến tính silan (MS6) sau 2 ngày chiếu UV ...........60
Hình 3.16. Phổ tổng trở của mẫu polyme fluo, polyme fluo chứa nano SiO2 (MS4),
polyme fluo chứa nano SiO2 biến tính silan (MS6) sau 4 ngày chiếu UV ..........61
Hình 3.17. Sự biến thiên modul tổng trở tại tần số 100 mHz của các màng polyme
fluo, polyme fluo chứa nanosilica và polyme fluo chứa nanosilica biến tính silan
theo thời gian chiếu UV .......................................................................................62
Hình 3.18. Ảnh FESEM mặt cắt của polyme fluo, polyme fluo chứa nano
SiO2 - HBT, polyme fluo chứa nanosilca và polyme fluo chứa nanosilica biến tính
silan ......................................................................................................................64
- vii -
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
FESEM Phương pháp kính hiển vi trường điện tử quét
HBT 1H – Benzotriazole
MS4 Polyme fluo chứa nano silica
MS6 Polyme fluo chứa nano silica biến tính silan
PA66 Polyamit
SiO2 - HBT Polyme fluo chứa nano silica biến tính HBT
TEOS Tetraethoxysiliane
TGA Phương pháp phân tích nhiệt
UV – VIS Phương pháp phổ tử ngoại khả kiến
- iv -
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam nằm ở vùng Đông Nam Á với hơn 3200 km đường bờ biển,
một vùng duyên hải rộng lớn, là một tiền đề rất tốt để phát triển giao thông
đường biển, giao thương với các nước Đông Nam Á và trên toàn thế giới, một
điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nền kinh tế quốc dân. Môi trường biển
Việt Nam với sự hà khắc của khí hậu nhiệt đới nóng ẩm có nhiệt độ trung
bình cao, độ ẩm lớn, thời gian ẩm ướt kéo dài, kèm thêm sự xâm thực mạnh của môi trường, đặc biệt là của ion clo (Cl-), đã khiến cho nhiều công trình
xây dựng ở vùng biển nước ta, đặc biệt là các thiết bị vận hành ngoài khơi
hay bờ biển với kết cấu phức tạp phải gánh chịu sự ăn mòn và phá huỷ
nghiêm trọng. Khác với các dạng ăn mòn khác như ăn mòn sunphat, rửa trôi,
tác động bào mòn của sóng biển…thì ăn mòn kết cấu thép dưới tác động của ion Cl- được xác định là dạng ăn mòn xảy ra nhanh, mạnh mẽ và phổ biến
nhất gây ra thiệt hại lớn. Chính vì vậy, cùng với sự phát triển ngày càng tăng
của các ngành công nghiệp thì nhu cầu bảo vệ chống ăn mòn cho các cấu kiện
sắt thép vận hành trên biển và ven biển ngày càng trở nên cấp bách.
Trong các biện pháp bảo vệ chống ăn mòn kim loại, phương pháp sơn
phủ vẫn được sử dụng rộng rãi do hiệu quả cao với giá thành hợp lý. Những
năm gần đây, công nghiệp sản xuất vật liệu sơn phát triển rất đa dạng; việc
nghiên cứu tìm ra các loại sơn có khả năng bảo vệ chống ăn mòn kim loại cao
đã được rất nhiều nhà khoa học quan tâm.
Các lớp phủ kẽm đã được biết đến như một lớp phủ bền trong môi
trường khí quyển. Đối với những môi trường khắc nghiệt như thủy triều và
vùng té sóng biển, việc bổ sung thêm lớp phủ hữu cơ bên ngoài đã được nhiều
công trình nghiên cứu đề cập đến, ngoài đảm bảo tính thẩm mỹ cho công trình
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 1
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
thì việc kéo dài tuổi thọ của vật liệu đã được ghi nhận. Các lớp phủ polyme
fluo hiện đang được nghiên cứu với các tính năng nổi trội như duy trì được
dáng vẻ bề ngoài (độ bóng nhẵn, màu sắc) của các tòa nhà cao ốc hay các
công trình kiến trúc khác hơn 20 năm và cũng bảo vệ các công trình cầu thép
hay bê tông từ các tia tử ngoại UV, gió, mưa và ăn mòn.
Ngày nay, nghiên cứu vật liệu nanocompozit nói chung và lớp phủ
nanocompozit nói riêng đang được quan tâm từ các nhà nghiên cứu trong
nước và trên thế giới. Ưu điểm nổi bật của vật liệu nanocompozit là kích
thước nhỏ của vật liệu làm gia tăng đáng kể diện tích bề mặt; vì vậy tính chất
gia cường của vật liệu tăng rất nhiều so với vật liệu nền ở nồng độ hạt nano
vô cơ nhỏ.
Việc kết hợp nanosilica với polyme chứa fluo là một hướng đi còn mới,
nhằm tạo ra vật liệu polyme nanocompozit có thể kết hợp ưu điểm của các
thành phần trên.
Bản luận văn với tiêu đề “Lớp phủ polymer fluo chứa nanosilica bảo
vệ chống ăn mòn cho nền thép phủ hợp kim Al-Zn” bước đầu khảo sát hệ
lớp phủ kết hợp Al-Zn và polyme nanocompozit sử dụng nanosilica với hy
vọng góp phần nghiên cứu để ứng dụng thực tiễn cho các công trình, các kết
cấu kim loại trong môi trường biển.
2. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Mục đích chính của luận văn là nghiên cứu chế tạo lớp phủ bảo vệ
chống ăn mòn mới, có khả năng bảo vệ chống ăn mòn cao và thân thiện với
môi trường. Trong đó lớp phủ Al-Zn kết hợp với lớp phủ polyme fluo chứa
nanosilica, sử dụng như một chất gia cường.
Bản luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề chính sau:
1/ Tổng hợp nanosilica và biến tính với chất ức chế ăn mòn gốc hữu cơ.
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 2
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
2/ Bước đầu nghiên cứu khả năng hấp phụ của nanosilica đối với dung
dịch chất ức chế 1H – Benzotriazole.
3/ Nghiên cứu khả năng ức chế ăn mòn của chất hữu cơ
1H –Benzotriazole trên các màng epoxy và polyme fluo trong việc bảo vệ
chống ăn mòn của các lớp phủ.
4/ Đánh giá khả năng bảo vệ chống ăn mòn của lớp màng epoxy và lớp
màng polyme fluo cùng khả năng bám dính để lựa chọn lớp lót trong hệ thống
lớp phủ.
5/ Nghiên cứu khả năng chịu tia tử ngoại của các lớp phủ epoxy,
polyme fluo, polyme fluo chứa nanosilica và polyme fluo chứa nanosilica
biến tính để lựa chọn lớp phủ bảo vệ ngoài của hệ thống lớp phủ.
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 3
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
CHƢƠNG 1 - TỔNG QUAN
1.1. Ăn mòn kim loại
1.1.1. Định nghĩa
Ăn mòn kim loại là sự phá hủy kim loại do tương tác của kim loại với
môi trường xung quanh.
Có nhiều nguyên nhân ảnh hưởng tới quá trình ăn mòn kim loại như
bản chất của kim loại, môi trường, công nghệ vật liệu. Tùy theo cơ chế phá
hủy kim loại mà người ta chia ăn mòn kim loại thành: ăn mòn hóa học và ăn
mòn điện hóa.
Ăn mòn hóa học xảy ra do phản ứng hóa học của kim loại với môi
trường xung quanh.
Ăn mòn điện hóa là sự ăn mòn kim loại trong môi trường điện ly, trong
đó sự oxy hóa kim loại và sự khử các chất oxy hóa không chỉ xảy ra
trong một phản ứng trực tiếp mà nhờ sự dẫn điện; quá trình oxy hóa
khử còn xảy ra trong phạm vi rộng, phức tạp. Ăn mòn điện hóa tuân
theo quy luật của động học điện hóa và xảy ra với tốc độ tuân theo định
luật Faraday.
Sự phá hủy kim loại theo cơ chế ăn mòn điện hóa là rất phổ biến trong
tự nhiên. Ăn mòn điện hóa của kim loại gồm có ba quá trình cơ bản: quá trình
anot, quá trình catot và quá trình dẫn điện.
Quá trình anot là quá trình oxy hóa điện hóa, trong đó kim loại chuyển
vào dung dịch dưới dạng ion và giải phóng điện tử: n+ + ne Me → Me
Quá trình catot là quá trình khử điện hóa trong đó các chất oxy hóa
(Ox) nhận điện tử do kim loại bị ăn mòn giải phóng ra:
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 4
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
Ox + ne → Red Trong đó Red là dạng chất khử; Ox là dạng chất oxy hóa, thường là H+
hoặc O2:
Nếu Ox là H+ thì quá trình catot xảy ra như sau:
H+ + 1e → Hhp
Hhp + Hhp → H2
Trong đó Hhp là hydro hấp phụ. Ta thường gọi trường hợp này là sự ăn
mòn với chất khử phân cực hydro.
Nếu Ox là O2 thì:
Với môi trường axit, quá trình catot là: O2 + 4H+ + 4e → 2H2O
Với môi trường trung tính hoặc bazơ, qua trình catot sẽ là: O2 + 2H2O + 4e → 4OH-
Trong quá trình dẫn điện, các điện tử do kim loại bị ăn mòn giải phóng
ra sẽ di chuyển từ nơi có phản ứng anot tới nơi có phản ứng catot, còn các ion
dịch chuyển trong dung dịch. Như vậy, khi kim loại bị ăn mòn sẽ xuất hiện
vùng catot và vùng anot.
1.1.2. Các phương pháp bảo vệ chống ăn mòn kim loại
Ngày nay, để bảo vệ kim loại không bị ăn mòn người ta sử dụng nhiều
phương pháp khác nhau; chủ yếu là 4 nhóm sau:
- Lựa chọn vật liệu kim loại thích hợp, bền với môi trường xâm thực.
- Sử dụng các lớp phủ bảo vệ (phủ kim loại, phủ sơn) để ngăn cách
kim loại với môi trường xâm thực hoặc biến tính bề mặt kim loại
(cromat hóa, photphat hóa).
- Sử dụng ức chế chống ăn mòn.
- Sử dụng dòng điện (catot hoặc anot).
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 5
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
Trong thực tế, có thể kết hợp nhiều biện pháp bảo vệ chống ăn mòn để
đạt được những kết quả tối ưu, ví dụ đưa chất ức chế vào lớp phủ…
1.2. Lớp phủ bảo vệ chống ăn mòn
Trong công nghiệp, phương pháp bảo vệ kim loại được sử dụng rộng
rãi đó là ngăn cách kim loại ra khỏi môi trường xâm thực bằng lớp phủ bám
dính tốt, không thấm và kín khít, không bị ăn mòn hoặc bị ăn mòn với tốc độ
yếu hơn tốc độ ăn mòn cần được bảo vệ và có độ bền cao. Ta có thể chia lớp
phủ thành ba loại chính như sau:
- Lớp phủ kim loại
- Lớp phủ phi kim loại
- Lớp phủ hữu cơ
1.2.1. Lớp phủ Al-Zn
1.2.1.1. Giới thiệu
Trong phương pháp phủ kim loại, phủ kẽm là phương pháp có hiệu quả
cao trong môi trường khí quyển và nước. Đây là phương pháp phủ anot, do
điện thế của kẽm âm hơn thép nên kẽm đóng vai trò anot của cặp pin ăn mòn.
Có ba phương pháp chính để phủ kẽm:
Phương pháp mạ kẽm: dùng nguồn điện một chiều để kết tủa kẽm,
tạo lớp màng mỏng 8-13 µm trên bề mặt thép, lớp mạ này có khả
năng chống ăn mòn khí quyển tốt.
Phương pháp nhúng kẽm: đưa thép vào kẽm nóng chảy, giữ một
thời gian để khuyếch tán và tạo thành lớp phủ. Chiều dày của lớp
phủ phụ thuộc vào nhiệt độ bể nhúng, ở nhiệt độ khoảng 450 – 480oC thường đạt độ dày cho phép và lớp phủ đều. Trên bề mặt
kẽm luôn hình thành lớp oxit làm giảm tính chất của lớp phủ, do đó
người ta hay sử dụng các chất trợ dung, thường là hỗn hợp muối
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 6
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
ZnCl2 + NH4Cl + ZnO. Ngoài ra, để cải thiện tính bám dính của
lớp phủ, người ta thường cho một lượng nhỏ nhôm (0.1 – 0.2%); ở
hàm lượng nhôm cao hơn lại gây ảnh hưởng tới tính chất cơ lý của
lớp phủ.
Phun phủ bề mặt: là phương pháp phun vật liệu nóng chảy, được
sử dụng rộng rãi trong công nghiệp nhờ tạo thành lớp phủ Zn
chống ăn mòn cho cả các chi tiết và các kết cấu lớn. Tuy nhiên, chi
phí tăng cao của kẽm và yêu cầu lớp phủ bền hơn đã dẫn đến sự
phát triển của lớp phủ kim loại linh hoạt hơn mà chủ yếu dựa trên
các hợp kim Al-Zn.
Đối với việc sử dụng làm lớp phủ bảo vệ trong môi trường biển thì kim
loại được chủ yếu sử dụng là Zn, Al và hợp kim của chúng.
Phun phủ nhiệt Al-Zn là phương pháp bảo vệ chống ăn mòn đã được
ghi nhận từ 30 năm nay. Ngoài cơ chế bảo vệ catot, các sản phẩm ăn mòn
thường bịt kín các lỗ xốp ức chế ăn mòn.
So với phương pháp mạ kẽm, phương pháp này có những ưu điểm sau:
Nhiệt đầu vào thấp, tránh được nguy cơ biến dạng
Không giới hạn về kích thước của cấu kiện, có thể xử lý tại chỗ
So với sơn phủ hữu cơ có những lợi thế sau:
Sử dụng trên mọi bề mặt
Giảm thiểu về ô nhiễm môi trường
Hiệu suất cao
Dễ sử dụng
Độ cứng tốt, bám dính và chịu được nhiệt độ cao
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 7
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
1.2.1.2. Cơ chế bảo vệ chống ăn mòn
Thông thường, các lớp phủ nhôm có cấu trúc phẳng, được bao phủ
bằng một lớp oxit mỏng. Lớp oxit này có tác dụng như một lớp che chắn,
ngăn chặn ăn mòn lỗ và sự xói mòn. Lớp phủ kẽm có tác dụng bảo vệ catot
theo cơ chế anot hy sinh, tạo ra các sản phẩm ăn mòn khó tan, những sản
phẩm này lại bịt kín lỗ rỗ làm tăng khả năng che chắn của lớp phủ. Các lớp
phủ giả hợp kim nhôm kẽm thường bao gồm hai pha, pha nhôm và pha kẽm.
Pha nhôm có tác dụng bảo vệ ăn mòn theo cơ chế che chắn và pha kẽm theo
cơ chế anot hy sinh. Sản phẩm ăn mòn của quá trình anot hy sinh lại tăng hơn
nữa khả năng che chắn. Do vậy lớp phủ giả hợp kim Al-Zn được đánh giá tốt
hơn so với lớp phủ hợp kim Al-Zn truyền thống hoặc lớp phủ riêng rẽ nhôm
kẽm. Ngoài ra đối với lớp phủ giả hợp kim Al-Zn, hàm lượng nhôm có thể
đưa vào tùy ý trong khi hàm lượng nhôm tối đa trong lớp phủ bằng dây hợp
kim Al-Zn chỉ đến 15%.
Trong số các lớp phủ hợp kim Al-Zn, hợp kim thương mại Galvalume
[20], Galfan [23] và Lavegal [10] có chứa chủ yếu là 55%, 5% và 30% Al
tương ứng, ngoài việc bổ sung hợp kim khác để tạo thành lớp phủ. Tất cả các
lớp phủ có khả năng chống ăn mòn tốt như Galfan có độ bền ăn mòn khoảng
2 – 3 lần so với thép mạ kẽm trong công nghiệp và trong môi trường biển
[41]. Tương tự, Galvalume chống ăn mòn tốt hơn so với thép mạ kẽm khoảng
3 – 6 lần trong các môi trường đó [12].
1.2.2. Lớp phủ hữu cơ
Lớp phủ bảo vệ hữu cơ hay lớp sơn là hệ huyền phù gồm chất tạo
màng, dung môi và một số chất phụ gia khác khi phủ lên bề mặt sẽ tạo thành
lớp mỏng bám chắc, có tác dụng bảo vệ và trang trí vật liệu cần sơn.
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 8
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
1.2.2.1. Thành phần
Thành phần chính của lớp phủ bảo vệ hữu cơ bao gồm:
Chất tạo màng: là một polyme, khi đóng rắn tạo thành mạng lưới
không gian ba chiều. Chất kết dính polyme này đóng vai trò chính cho tính
chất hóa lý của một hệ sơn. Yêu cầu chính của polyme này là phải bám dính
tốt lên bề mặt cần sơn nhờ các nhóm chức phân cực trong mạch polyme.
Thông thường, bản chất hóa học của polyme quy định tên gọi của một hệ sơn,
ví dụ như: sơn epoxy, sơn ankit, polyuretan….
Dung môi: là các sản phẩm dễ bay hơi, có tác dụng pha loãng sơn.
Dung môi thường bay hơi trong quá trình khâu mạch của màng sơn. Các dung
môi phải không phản ứng với chất tạo màng và phải làm gia tăng khả năng
thấm ướt của sơn lên bề mặt tạo thành màng đồng nhất.
Chất độn: là các loại bột không tan có vai trò gia cường các tính chất
của màng. Sự có mặt của các chất độn cho phép tối ưu hóa độ chảy của một
hệ sơn trong trạng thái lỏng để vận hành dễ dàng (điều chỉnh độ nhớt, độ
chảy, lưu biến) cũng như nhiều tính chất của màng như độ ngấm, mềm dẻo,
độ bóng, chịu mài mòn hoặc chịu lửa. Ngoài ra, sự có mặt của chất độn cũng
làm giảm giá thành của sơn.
Pigment: là các chất vô cơ hoặc hữu cơ, vai trò của chúng ngoài việc
tạo màu cho sơn còn có tác dụng bảo vệ chống ăn mòn.
Phụ gia: là những chất được sử dụng một lượng nhỏ trong sơn, có
nhiều tác dụng khác nhau như tăng khả năng thấm ướt, phân tán, nhũ hóa,
chống tạo bọt, xúc tác…
1.2.2.2. Cơ chế hoạt động của lớp phủ bảo vệ chống ăn mòn
Mặc dù được sử dụng với chiều dày không cao, từ hàng chục tới hàng
trăm micromet, các lớp phủ bảo vệ hữu cơ có tính chất kháng ăn mòn rất
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 9
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
mạnh mẽ. Thông thường, việc kiểm soát ăn mòn kim loại của một lớp phủ
hữu cơ thông qua ba cơ chế chính là che chắn, bám dính và ức chế ăn mòn.
Hiệu ứng che chắn
Hiệu ứng che chắn của màng là hạn chế sự khuyếch tán của các tác 2-…) đến bề mặt kim loại gây phản ứng ăn nhân xâm thực (H2O, O2, Cl-, SO4
mòn kim loại. Tính chất che chắn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, như bản chất
của polyme (thành phần hóa học, mức độ khâu mạch, nhiệt độ chuyển hóa
thủy tinh…), bản chất của pigment và chất độn cũng như sự tương tác của
chất độn với chất tạo màng. Trên thực tế, không có loại màng phủ nào có thể
che chắn được hoàn toàn lượng nước ngấm đến bề mặt kim loại luôn luôn đủ
lớn gây nên ăn mòn.
Hình 1.1. Các dạng khuyếch tán trong màng sơn
Theo Funke [35], các cách thức khuyếch tán là đa dạng, có thể tóm tắt
như sau:
Khuyếch tán tích cực, phụ thuộc vào dao động của đoạn mạch
polyme
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 10
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
Khuyếch tán không tích cực, diễn ra trong các lỗ rỗ hoặc khuyết tật
của màng
Khuyếch tán tại ranh giới màng/kim loại hoặc pigment/chất tạo
màng
Như vậy, tất cả các hợp phần của sơn (chất tạo màng, pigment, tương
tác giữa chúng) đều ảnh hưởng tới khả năng che chắn của màng sơn.
Bản chất hóa học của chất tạo màng là một yếu tố quan trọng của khả
năng xuyên thấm. Các chất tạo màng phân cực có tính ngăn cách tốt với các
chất khí. Ngược lại, các chất không phân cực lại ngăn cách tốt với nước. Ví
dụ, các polyme phân cực như xenlulo hoặc polyvinyl ancol rất nhạy cảm với
nước trong khi các polyme với mạch hydrocarbon như polystyrene hoặc
polyolefin lại ít nhạy cảm với các tác nhân phân cực. Hay sử dụng nhất là các
loại nhựa polyacrylic, polyuretan, polyamit và epoxy mang tính chất trung
gian.
Tương tác nền kim loại/màng sơn: tính chất bám dính
Tương tác giữa các phân tử của chất tạo màng và nền kim loại đóng vai
trò quan trọng đối với tính chất bám dính của một hệ sơn và tuổi thọ của nó.
Khả năng bám dính của màng polyme với bề mặt kim loại được kiểm soát qua
ba cơ chế:
Bám dính cơ học
Bám dính phân cực
Bám dính hóa học
Bám dính cơ học là sự treo bám vật lý của màng với bề mặt, phụ thuộc
vào mức độ sần sùi của bề mặt kim loại.
Bám dính phân cực là sự hút bám của chất tạo màng với bề mặt kim
loại và phụ thuộc vào khả năng thấm ướt của kim loại bởi chất tạo màng.
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 11
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
Bám dính hóa học là sự biến đổi của bề mặt kim loại nhờ phản ứng với
màng sơn. Hiện tượng này thường diễn ra qua việc xử lý bề mặt kim loại bằng
các lớp chuyển đổi như crommat hóa hoặc photphat hóa…
Sự ngấm nước có thể ảnh hưởng đến tính chất bám dính, hiện tượng
này được Funke định nghĩa là “bám dính ướt”. Theo Funke, khả năng bám
dính ướt cao giữa màng và bề mặt kim loại là tính chất quan trọng nhất của
lớp phủ. Trên thực tế, khó có thể xác định được sự mất bám dính dẫn đến tăng
ăn mòn hay hiện tượng ăn mòn gây nên mất bám dính. Tuy vậy, khi lựa chọn
một hệ sơn cho kim loại, điều quan trọng bậc nhất vẫn là lựa chọn một loại
màng bám dính và một bề mặt được xử lý tốt.
Tác dụng điện hóa
Như đã nói ở phần trên, một màng polyme không bao giờ hoàn toàn kín
khít. Vì vậy, sự ngăn cách của màng không đủ để ngăn các cấu tử xâm thực
đến bề mặt kim loại gây ăn mòn. Để hạn chế ăn mòn, các lớp phủ hữu cơ luôn
có chứa các pigment chống ăn mòn. Đó là các chất có tan ít nhiều, đủ để
khuyếch tán đến bề mặt kim loại. Tác dụng của chúng đa dạng, tùy thuộc vào
bản chất và vai trò ức chế phản ứng anot hay catot.
1.2.3. Lớp phủ polyme fluo [35]
1.2.3.1. Giới thiệu
Polyme fluo được biết đến trên thị trường từ những năm 1930, là loại
vật liệu đặc biệt nổi bật do hàng loạt các tính chất ưu việt như bền nhiệt, bền
hóa chất, tính cách điện, chịu nước và chịu dầu rất tốt và độ phản quang thấp.
Do vậy, cho đến nay vẫn chưa thể tìm ra được một vật liệu nào hội tụ được tất
cả các đặc tính tốt như vậy và trong nhiều ngành công nghiệp, polyme fluo
được coi là vật liệu không thể thay thế được.
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 12
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
Kể từ khi đi vào thị trường trong năm 1930, polyme fluo đã được áp
dụng như vật liệu phủ mang đầy đủ các đặc tính của nó trên các bề mặt khác
nhau. Ví dụ điển hình bao gồm lớp phủ của polytetrafluoroethylene (PTFE)
phân tán trong nước, tetrafluoroethylene hexafluoropropylene copolyme
(FEP) và tetrafluoroethylene perfluoroalkylvinylether copolyme (PFA) cho
lớp phủ chống dính và chống ăn mòn. Ngoài ra, một loại bột sơn tĩnh điện đã
được nghiên cứu, sử dụng một hỗn hợp ethylene copolyme
tetrafluoroethylene (ETFE) và sợi carbon, dùng cho mục đích chống ăn mòn.
Tuy nhiên, những polyme fluo đó không hoàn toàn phù hợp cho các ứng dụng
lớp phủ do những hạn chế như: độ hòa tan kém trong các dung môi hữu cơ thông thường, các yêu cầu nhiệt độ khâu mạch cao hơn 200oC và bám dính
kém trên bề mặt. Trong số các fluoropolymers nổi tiếng vào những năm 1960
và 1970, chỉ polyvinylidene fluoride (PVDF) đã được sử dụng dưới dạng
phân tán trong dung môi hữu cơ (ví dụ như lớp phủ trên cuộn dây thép mạ
kẽm) do tính bền thời tiết nổi bật của nó.
Nguyên tử fluo có điện tích âm cao hơn các nguyên tử khác và có bán
kính nguyên tử nhỏ nhất nên nó có thể tạo ra liên kết ngắn với cacbon với
năng lượng liên kết nhỏ (477 kJ/mol), cộng với sự phân cực của liên kết fluo-
cacbon thấp hơn hydro-cacbon nên polyme này có năng lượng bề mặt thấp. Vì
vậy polyme fluo còn được ghi nhận như một loại polyme duy nhất để sử dụng
cho những mục đích đặc biệt như lớp phủ chịu ma sát, mài mòn, các lớp phủ
không thấm dầu, thấm nước, các lớp phủ chống dính, chống bám bẩn và các
lớp phủ chịu môi trường khắc nghiệt.
1.2.3.2. Phân loại
Có thể phân loại polyme fluo thành 2 loại polyme fluo nhiệt dẻo và
polyme fluo nhiệt rắn.
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 13
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
Polyme fluo nhiệt dẻo
Trong số các polyme fluo nhiệt dẻo thì polytetrafluoetylen (PTFE),
polyclofluoetylen (PCTFE), polyfluoetylen (FEP) và polyfluoacrylat (PFA)
có nhiệt độ chảy cao và không tan trong các dung môi thông dụng. Các loại
polyme fluo đó chỉ sử dụng làm lớp phủ dạng bột hoặc phân tán trong nước
hoặc dung môi. Tuy vậy quy trình gia công lớp phủ đó phức tạp, đòi hỏi nhiệt độ cao (trên 300oC). Điều đó làm hạn chế nhiều cho ứng dụng làm lớp phủ
bền thời tiết đòi hỏi một lớp phủ mỏng và kín khít. Vì vậy, trong số các loại
polyme fluo nhiệt dẻo chỉ có PVF và PVDF là được sử dụng vì chúng có thể
tan trong dung môi và tạo 1 lớp màng chảy khi gia công, đạt được lớp màng
không khuyết tật.
Polyvinyl fluo
Polyvinyl fluo có cấu trúc –CH – CF -. So với polyvinyl clorua (PVC),
nó có tính chất bền thời tiết cao vì năng lượng liên kết của CF (477 kJ/mol),
cao hơn năng lượng liên kết của C-Cl (327 kJ/mol). PVF có tính ổn nhiệt kém
hơn polyme fluo nhiệt dẻo khác nhưng có điểm nóng chảy tương đối cao
khiến cho nó khó tan chảy mà không sử dụng ổn định nhiệt. Để tạo màng
PVF, người ta thường gia nhiệt để làm PVF tan chảy. So với PVC, màng PVF
chịu được axit, kiềm, các dung môi hữu cơ và nước do sự ổn định hóa học
nhờ các đơn vị cấu trúc -CH, -CHF-.
Một số đặc điểm của màng PVF:
Chịu hóa chất và ổn định cơ học trên dải nhiệt rộng từ -70 đến
150oC
Tính mềm dẻo
Muốn có màng bám dính tốt phải xử lý bề mặt trước
Có tính chất chống hà do năng lượng bề mặt thấp
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 14
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
Có tính chất chống cháy
Ngoài ra, độ trong suốt cao của màng ở bước sóng cao hơn 300 nm cho
phép màng PVF có thể sử dụng ngoài trời như một lớp sơn trang trí cho nền
thép mạ và nhôm.
Polyvinyliden fluo (PVDF)
Polyvinyliden fluo cũng là một polyme kết tinh với cấu trúc đoạn mạch
–CH2-CF2. Điểm chảy của PVDF thấp hơn PVF nên PVDF dễ gia công hơn.
Mặc dù vậy PVDF vẫn khó áp dụng làm màng phủ do tạo thành màng nhiều
lỗ rò và bám dính kém.
Để tăng cường tính chảy nhớt và bám dính, thường PVDF được trộn
hợp với nhựa acrylic. Sản phẩm này do hãng Pen Walt (Mỹ) chế tạo với tên
thương phẩm là Kynar-1120@ và Kynar-1140@ . Kết quả thử nghiệm hai
loại sản phẩm này tại Florida cho thấy một số tính chất cơ lý và độ dãn dài khi
đứt vẫn giữ nguyên và có khả năng kháng ăn mòn tốt. Khi sử dụng làm chất
tạo màng cho sơn, lượng acrylic đưa vào thường lớn, khoảng 60-75%. Các kết
quả thử nghiệm gia tốc cho thấy loại nhựa trộn hợp này có độ bóng và bền
màu cao hơn rất nhiều so với acrylic và silicon polyeste. Tuy nhiên sử dụng
loại nhựa này làm sơn trang trí vẫn bất cập do tương tác yếu với các chất màu,
do vậy PVDF vẫn chỉ được áp dụng cho các lớp phủ trên nhôm, thép mạ trong
các môi trường khắc nghiệt hoặc cho trần nhà.
Polyme fluo nhiệt rắn
Polyme fluo nhiệt rắn thường tan trong dung môi hữu cơ và khô trong
dải nhiệt độ rộng, có tính chất chịu thời thiết cao và áp dụng cho nhiều loại
lớp phủ. Dưới đây liệt kê vài loại polyme fluo nhiệt rắn.
Fluoepoxy
Fluoepoxy đầu tiên được nghiên cứu bởi J. R. Griffith dưới dạng lỏng
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 15
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
ở nhiệt độ thường và khâu mạch với chất đóng rắn amino silicon. Trong cấu
trúc phân tử của fluoepoxy, Bis-phenol có thế meta, điều đó giải thích sự tồn
tại dạng lỏng của hợp chất. Loại polyme fluo này có tính chất bảo vệ ăn mòn
rất cao, nhưng giá thành còn cao nên khó đưa ra thị trường.
Fluoetylenvinylete copolymer (FEVE)
Đây là một dạng polyme fluo mới có tên thương mại Lumiflon, là
polyme vô định hình, tan trong dung môi hữu cơ và khâu mạch trong dải nhiệt độ rộng tới 300oC.
Cấu trúc phân tử của FEVE bao gồm các đoạn mạch fluoolephin,
hydrocacbon vinyl ete và nhóm OH. Trong mạch polyme, mỗi đơn vị vinyl
ete kết hợp luân phiên với một đơn vị fluoolephin. Ngoài ra, trong mạch
polyme còn kết hợp được các nhóm chức khác nhau sẽ cung cấp những
polyme khác nhau có các đặc tính khác nhau như khả năng tan trong các dung
môi hữu cơ, khả năng tương thích, các phản ứng khâu mạch, các tính chất cơ
lý tốt, chịu thời tiết, bền hóa chất…Bằng cách biến tính như vậy, người ta đã
chế tạo được hàng loạt các polyme fluo FEVE với các tính chất đa dạng như
tan trong các dung môi khác nhau, phân tán trong nước và kết hợp với các tác
nhân khâu mạch khác nhau tùy mục đích sử dụng. So sánh với polyuretan và
PVDF, mẫu FEVE có độ bóng và độ bền thời tiết cao.
1.2.4. Lớp phủ kết hợp
Các công trình nghiên cứu và ứng dụng thực tế đã ghi nhận rằng các
lớp phủ hợp kim nhôm kẽm trên nền thép có tuổi thọ cao hơn hẳn các lớp phủ
hữu cơ và gấp 2 – 3 lần các lớp phủ kẽm nhúng nóng. Trên thực tế, trong quá
trình hình thành lớp phủ Al-Zn xảy ra hiện tượng làm nguội đột ngột do các
hạt kim loại nóng chảy tiếp xúc với bề mặt thép nền, làm tăng ứng suất nội,
gây nên các vết nứt ngay trong quá trình phun phủ. Vì vậy, thông thường sau
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 16
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
khi phun phủ, vẫn cần dùng một vật liệu polyme hữu cơ để bịt lỗ rò. Các vật
liệu này đa dạng, có thể là epoxy, nhựa phenol, polyester, polyetylen…và sử
dụng phương pháp quét hoặc phun trực tiếp ngay sau khi phun kim loại. Thực
tế đã chứng minh tuổi thọ của vật liệu tăng lên nhiều khi sử dụng lớp bịt lỗ
này. Mới đây, ngoài lớp phủ bịt lỗ, đối với các công trình đặc biệt làm việc
trong môi trường biển, lớp phủ hữu cơ kết hợp với lớp phủ kim loại hy sinh
(lớp phủ kép) là phương pháp phổ biến nhất của việc bảo vệ các công trình
thép chống ăn mòn. Như vậy, sự chống ăn mòn tuyệt vời của hệ thống được
cho là sự kết hợp giữa việc bảo vệ catot bằng các lớp phủ hy sinh của các hợp
kim kẽm và kết hợp với độ bền của kim loại và lớp phủ hữu cơ.
Ở Nhật Bản công nghệ phun phủ kim loại được ứng dụng rộng rãi bảo
vệ trụ các cầu từ năm 1963. Năm 1985 với mục đích nghiên cứu lựa chọn lớp
phủ bảo vệ thích hợp cho vùng triều và té sóng biển, Hiệp hội phun phủ nhiệt
Nhật bản (JACC) đã tiến hành thử nghiệm 12 lớp phủ khác nhau tại vùng biển
Chiba.
Các kết quả thử nghiệm cho thấy:
- Lớp phủ kẽm nhôm và nhôm có độ bền cao hơn lớp phủ kẽm nguyên
chất.
- Lớp phủ nhôm bằng hồ quang điện tốt hơn bằng phương pháp ngọn
lửa.
- Các lớp phủ nhôm hoặc nhôm kẽm có bịt lỗ, độ bền tăng trong khi lớp
phủ kẽm nguyên chất có bịt lỗ độ bền hầu như không thay đổi.
- Việc lựa chọn lớp sơn ngoài có ảnh hưởng lớn đến độ bền của hệ lớp
phủ, lớp sơn thích hợp có thể tăng độ bền lớp phủ lên nhiều lần trong khi lớp
sơn không thích hợp còn làm giảm độ bền của hệ lớp phủ.
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 17
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
1.3. Giới thiệu về nanosilica
1.3.1. Định nghĩa
Silica là tên thường gọi của đioxit silic (SiO2), có cấu trúc mạng lưới
không gian ba chiều; trong đó mỗi nguyên tử oxi nằm ở đỉnh, còn silic nằm ở
tâm của tứ diện đều. Nếu các tứ diện này được sắp xếp một cách trật tự và đều
đặn ta có silica cấu trúc tinh thể; ngoài ra silica còn có cấu trúc vô định hình.
1.3.2. Tính chất
Đặc tính nổi bật của silica là xốp, diện tích bề mặt lớn vì vậy silica rất
dễ hấp phụ, ví dụ, trong không khí ẩm silica hấp phụ nước lên bề mặt tạo các nhóm OH-.
Trong nước, khi pH >2, Si - OH thường phân li theo phản ứng: Si - OH → SiO- + H+
Chính vì vậy, bề mặt các hạt keo silica thường mang điện tích âm [2].
Ở nhiệt độ phòng các hạt silica hấp phụ các phân tử H2O trong các hốc
tinh thể và trên bề mặt thì silica kết hợp với H2O tạo hệ keo SiOH có các nhóm OH- mang điê ̣n tích âm rất linh đô ̣ng. 1.3.2.1. Tính chất của hạt silica kích thước nano
Cấu trúc của nanosilica là một mạng lưới ba chiều, silanol và các nhóm
siloxane được tạo ra trên bề mặt silica, dẫn đến tính chất ưa nước và dễ kết tụ
của nanosilica. Bề mặt đặc trưng của các nanosilica bị giới hạn bởi ba loại
silanol: silanol đơn, silanol hydro-liên kết và silanol kép được mô tả bởi sơ đồ
sau:
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 18
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
Silanol đơn Silanol có liên kết hidro Silanol kép
Các nhóm silanol tập trung trên các hạt liền kề, lần lượt, tạo thành liên
kết hydro và dẫn đến hình thành một khối, như trong hình:
Ban đầu, các hạt silica ghép đôi với nhau nhờ liên kết hydro để tạo
thành dạng kết tụ bậc 1 và sau đó, chúng tiếp tục kết tụ với nhau bền chặt hơn
để tạo thành dạng kết tụ bậc 2. Khuynh hướng kết tụ của các phần tử silica có
thể được minh họa như sau:
Các hạt silica ban đầu Dạng kết tụ bậc 1 Dạng kết tụ bậc 2
Các hạt nanosilica có xu hướng kết tụ tạo thành các hạt có kích thước
lớn hơn. Các phương pháp trộn/phân tán cơ học như trượt/xé hoặc nghiền tốc
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 19
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
độ cao thường không hiệu quả để phá vỡ sự kết tụ của các hạt nanosilica vì
lực tĩnh điện giữa các hạt nanosilica mạnh hơn so với lực trượt/xé tạo ra.
Silica không thể hút nước nếu bề mặt của nó có các nhóm siloxan
(-Si-O-Si), khả năng hút nước của nó chỉ thể hiện khi bề mặt có các nhóm
silanol (Si-OH). Silica kị nước có thể được chuyển thành silica ưa nước bằng
phản ứng hydroxyl hóa nhóm siloxan thành silanol. Phản ứng này có thể làm
ngược lại, silica ưa nước có thể chuyển thành silica kị nước bằng phản ứng đề hydroxyl hóa… hoặc đun nóng ở nhiệt độ >300oC.
1.3.2.2. Ứng dụng của hạt nanosilica [2]
Hiện nay, trên thế giới vật liệu nano nói chung được nghiên cứu và
phát triển sâu rộng trong nhiều lĩnh vực. Ứng dụng đầu tiên và lâu đời nhất
của bột nanosilica mịn là làm chất gia cường hay chất tăng cường trong các
sản phẩm dẻo như đế giày, các loại cao su kĩ thuật, dây cáp và các loại lốp…
Nanosilica là chất gia cường có hiê ̣u quả là do : hạt nanosilica có kích thước nhỏ, dễ phân tán vào vật liệu. Trên các hạt nanosilica có nhóm silanol có ái
lực tốt với cao su, nhựa và sợi…. Điều này tạo điều kiện tốt cho sự hình thành
liên kết giữa silica với đa ̣i phân tử polyme . Các hạt nanosilica có diện tích bề
mặt lớn và có cấu trúc chuỗi rất phong phú. Vì vậy, các polyme có diện tích
tiếp xúc với nanosilica lớn, tạo thuận lợi cho sự kết hợp ở bề mặt của 2 pha và
nhờ đó cải thiện được các tính chất của vật liệu.
Khi đưa 20-50% khối lượng bột mịn silica vào cao su thiên nhiên hay
cao su tổng hợp góp phần cải thiện độ dai , độ cứng, độ bền xé của sản phẩm
ất độn tự
cao su . Khả năng tăng cường của bột mịn silica khác hẳn các ch nhiên và khác với muội than . Silica tạo ra những sản phẩm cao su trắng và
cao su màu . Với công nghệ chế ta ̣o dây cáp , bột này được sử dụng chủ yếu
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 20
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
làm vỏ bọc đặc biệt cho các loại cáp dùng ngoài trời , trên cao. Độ bền ma sát
và độ bền xé lớn của vỏ cáp giúp bảo vệ phần lõi cáp khỏi mài mòn và va đập.
Trong các sản phẩm nhựa chịu nhiệt, bột mịn silica được sử dụng như
tác nhân chống trượt để tránh hiện tượng trượt phim trong máy ảnh hay cải
thiện cơ tính của PVC.
Bột mịn silica ngày càng được sử dụng nhiều làm chất làm trắng trong
kem đánh răng bởi khả năng làm sạch rất tốt mà gần như không gây xước.
Bột silica được ứng dụng phổ biến trong sản xuất sơn và vecni. Nhờ độ
nhấp nhô của bề mặt ở mức độ hiển vi nên ánh sáng không còn phản xạ thẳng
nữa mà bị phân tán.
Trong công nghiệp giấy, bột mịn silica được sử dụng trong các sản
phẩm giấy đặc biệt (có độ chìm màu lớn và tương phản tốt khi in). Ở đây, hạt
silica đã lấp đầy vào các lỗ xốp trên giấy và tạo ra bề mặt nhẵn.
Ngoài các ứng dụng kể trên, bột mịn silica còn được ứng dụng làm chất
tăng độ bền kết cấu trong nhựa; trong chất lọc và ổn định bia; trong phân tích
máu…
Nanosilica cũng đươ ̣c ứ ng du ̣ng cho các ngành xây d ựng, hàng không,
vũ trụ… do nó đáp ứng tốt những yêu cầu khắt khe về cơ-lý-hóa, có dải làm
việc với nhiệt độ rộng, công nghệ chế tạo cũng tương đối đơn giản. Ở ngành
xây dựng, nanosilica đã được độn với xi măng làm tăng độ cứng và khả năng
chịu nhiệt cho bê tông. Một số loại nhựa đã được biến tính với nanosilica để
tạo vật liệu compozit có tính năng hơn hẳn nhựa nền ban đầu.
Nanosilica làm chất gia cường hay chất độn rất hiệu quả cho các chất
dẻo. Nhiều nghiên cứu cho thấy khi trộn nanosilica vớ i chất dẻo các tính chất cơ lí của chất dẻo được cải thiện đáng kể : làm tăng độ cứng, độ bền, modun
đàn hồi, độ nhớt, khả năng chống cháy, độ bền kéo đứt…
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 21
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
1.3.3. Các phương pháp tổng hợp nanosilica
Nanosilica thường được tổng hợp từ phản ứng nhiệt phân
tetraalkoxysilan và tetraclorosilan trong sự có mặt của nước hoặc thủy phân
trực tiếp muối natri metasilicat và tetraalkoxysilan [21, 44].
1.3.3.1. Phản ứng nhiệt phân
Phương pháp này thường dùng để tổng hợp muội silica, SiCl4 thường
được chuyển sang pha khí ở nhiệt độ cao bằng ngọn lửa hydro oxy rồi phản
ứng với nước theo phương trình:
SiCl4 + 2H2 + O2 → SiO2 + HCl
Silica tạo thành có diện tích bề mặt rất lớn, mịn và bề mặt trơn, dễ phân
tán trong nền polyme; vì vậy muội silica thường được ứng dụng nhiều trong
công nghiệp chất dẻo, sơn [25].
1.3.3.2. Phản ứng thủy phân và phương pháp sol – gel
Phương pháp sol – gel do R.Roy đề xuất năm 1956 cho phép trộn lẫn
các chất ở quy mô nguyên tử; do đó sản phẩm thu được có độ đồng nhất, độ
tinh khiết cao, bề mặt riêng lớn, và phân bố kích thước hẹp.
Ưu điểm của phương pháp này là các giai đoạn của phản ứng có thể
điều khiển được để tạo sản phẩm như mong muốn, không gây ô nhiễm môi
trường. Sử dụng phương pháp sol – gel, ta có thể chế tạo ra các hợp chất ở
dạng khối, bột siêu mịn, màng mỏng và sợi. Để tổng hợp các hạt nanosilica
theo phương pháp sol – gel thường đi từ hai khuynh hướng chính:
- Thủy phân muối
- Thủy phân các alkoxide
Phương pháp sol – gel theo con đường thủy phân muối
Dựa trên phản ứng:
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 22
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
Na2SiO3 + H2SO4 → SiO2 + H2O + Na2SO4
Kết quả tạo thành sol, rồi sol đông tụ thành gel, sau khi rửa, sấy khô và
nung ta thu được nanosilica.
Phương pháp sol – gel đi từ các alkoxide
Phản ứng tổng hợp nanosilica bằng phương pháp sol –gel thường là
phản ứng thủy phân tetraalkoxysilan, phương pháp này được mô tả bởi hai
loại phản ứng cơ bản là phản ứng thủy phân và polyme hóa ngưng tụ [26].
Si
OR
Si
OH + ROH
Phản ứng thủy phân: thủy phân các alkoxide để tạo liên kết Si – OH
+ H2O
R: gốc ankyl
Phản ứng polyme hóa ngưng tụ: tiếp theo, phân tử trung gian mới được
tạo thành tiếp tục phản ứng với phân tử TEOS ban đầu để tạo ra mối liên kết
Si – O – Si, dưới đây là hàng loạt phản ứng polyme hóa ngưng tụ:
H+ or OH-
+ H2O
Si
O
Si
Si
OH + OH Si
- Phản ứng ngưng tụ nước:
H+ or OH-
+ ROH
Si
O
Si
Si
OH + RO Si
- Hoặc phản ứng ngưng tụ rượu:
Và các phân tử mới được tạo thành sẽ nối với nhau theo phản ứng
polyme hóa để tạo ra bộ khung cấu trúc cuối cùng.
Như vậy, quá trình sol – gel bao gồm cả hai phản ứng cơ bản:
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 23
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
- Đầu tiên là các phản ứng thủy phân tạo dung dịch hoạt tính.
- Tiếp theo là phản ứng polyme hóa đa ngưng tụ cùng với sự tiếp tục
thủy phân.
Tuy nhiên các sản phẩm của quá trình polyme hóa, tốc độ các phản
ứng, pH hay các chất thêm vào khác nhau đều ảnh hưởng đến quá trình điều
chế. Cơ chế thực tế của quá trình polyme hóa chưa được hiểu rõ một cách đầy
đủ và có thể chỉ được rút ra từ các kết quả thực nghiệm. Quá trình sol – gel
cho phép chúng ta kiểm tra bản chất và xu hướng polyme hóa trong cấu trúc
thủy tinh.
Chất lượng và hình dạng của sản phẩm cuối cùng tùy thuộc vào loại
alkoxide được TEOS/H2O và các chất khác sử dụng trong phản ứng. Tỉ lệ mol
giữa TEOS/H2O sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành sản phẩm
cuối cùng.
Sau khi gel được hình thành, nó thường ở dạng xốp và còn chứa các
chất lỏng trong phần các lỗ xốp. Các chất lỏng này sẽ thường được loại bỏ
qua các quá trình sấy và xử lý nhiệt về sau. Để nhận được các oxit sản phẩm
cuối cùng, thì các khối gel xốp vô định hình này phải được nung để tách loại
các chất lỏng còn lại trong các lỗ xốp và loại bỏ bản thân các lỗ xốp. Sol – gel
còn là một phương pháp sáng tạo ra các vật liệu mới, với nhiều ưu điểm trong
nghiên cứu chế tạo vật liệu mới như dùng để chế tạo ra các tinh thể dạng bột,
bột siêu mịn, nano tinh thể, dạng thủy tinh khối, dạng màng mỏng.
Phương pháp này thường được sử dụng để tổng hợp nanosilica dạng
xốp (mesoporous). Sản phẩm nanosilica tạo thành theo phương pháp này
thường ưa nước, khó tương hợp với nền polyme và việc biến tính để sử dụng
cho các mục đích khác nhau là rất cần thiết.
1.3.4. Biến tính nanosilica
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 24
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
Việc phân tán của các hạt cỡ nanomet trên mạng lưới polyme có một
tác động đáng kể đến các tính chất của nanocompozit. Muốn phân tán tốt ta có
thể dùng phương pháp xử lý hóa học và vật lý bề mặt các hạt nano như sử
dụng máy nghiền bi năng lượng cao và máy siêu âm. Do sự không tương hợp
của polyme và vật liệu silica thường dễ gây tách pha nên sự tương tác giữa hai
bề mặt trong giai đoạn tạo thành nanocompozit là yếu tố quyết định nhất ảnh
hưởng đến tính chất vật liệu. Một loạt các phương pháp đã được sử dụng để
nâng cao khả năng tương thích giữa các polyme kị nước và nanosilica. Nhìn
chung, có thể biến tính bề mặt nanosilica bằng hai phương pháp hóa học và
vật lý [46].
1.3.4.1. Biến tính bằng tương tác hóa học [22]
Biến tính bề mặt nanosilica bằng tương tác hóa học đã dành được rất
nhiều sự quan tâm kể từ khi phương pháp này dẫn đến sự tương tác mạnh mẽ
hơn rất nhiều giữa sự biến tính và hạt nanosilica. Các phương pháp hóa học
liên quan đến sự biến tính hoặc với các chất biến tính hoặc bằng cách ghép
polyme. Silan nối các chất là cách được sử dụng nhiều nhất của các chất biến
tính. Chất biến tính thường có thể thủy phân và có chức hữu cơ. Cấu trúc của
các chất nối có thể được miêu tả như RSiX3, trong đó X là đại diện cho các
nhóm thủy phân, thường là clo, ethoxy, hoặc nhóm methoxy, R là nhóm có
thể có nhiều chức hoạt động để đáp ứng các yêu cầu của polyme. Các nhóm
chức X phản ứng với nhóm hydroxyl trên bề mặt SiO2, trong khi các chuỗi
alkyl có thể phản ứng với các polyme, silica kị nước có thể thu được. Các chất
được sử dụng để biến tính bề mặt nanosilica phổ biến nhất là các methacrylic
acid propyl silan (MPS) [29]. Ngoài ra, các polyme silan như: trimethoxysilyl
P (MA – St) cũng đã được nghiên cứu [40]. Các chất biến tính khác như:
Epichlorohydrin [24], TDI [24], 2 – Ethyl isocyanate [37], DGEBA, GMA,
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 25
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
AGE, Glycidyl phenyl ether (GPE) và Octadecylamine [30]…cũng được sử
dụng. Ghép các chuỗi polyme với hạt nanosilica cũng là một phương pháp
hiệu quả để tăng tính kị nước của các hạt và tăng tương tác bề mặt trong nano
compozit.
Có hai phương pháp hóa học chính gắn chuỗi polyme với bề mặt: liên
kết cộng hóa trị của chức hoạt động cuối cùng của polyme với bề mặt và
trong sự polyme hóa monome với sự gia tăng monome của các chuỗi polyme
từ chất khơi mào cố định ban đầu. Đôi khi, ghép polyme với hạt nanosilica
cũng có thể được xem như là polyme/nanosilica compozit.
Ngoài các phương pháp hóa học được mô tả trên, ghép polyme với hạt
nanosilica cũng có thể được thực hiện bằng phương pháp bức xạ. Zhangandco
và đồng nghiệp [43, 33] đã công bố một loạt các nghiên cứu bằng phương
pháp bức xạ và ghép chất độn nanosilica để tạo thành nanosilica compozit.
Việc biến tính các hạt nano thông qua ghép polyme đã rất hiệu quả để
tạo thành nanocompozit vì:
- Tăng tính kị nước của các hạt nano, làm cho chất độn và mạng
lưới polyme có thể trộn lẫn dễ dàng hơn.
- Cải thiện hiệu suất tương tác bề mặt bởi sự kết nối giữa các phân
tử polyme ghép trên nanosilica và mạng lưới polyme.
Biến đổi mối quan hệ tính chất – cấu trúc của nanocompozit bằng cách
thay đổi điều kiện các loại monome ghép và các điều kiện ghép từ các polyme
ghép khác nhau có thể đem lại những đặc điểm khác của bề mặt chung.
1.3.4.2. Biến tính bằng tương tác vật lý [45]
Biến tính bề mặt dựa trên sự tương tác vật lý thường được thực hiện
bằng cách sử dụng các chất hoạt động bề mặt hoặc phân tử lớn bám lên bề
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 26
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
mặt của các hạt silica. Nguyên tắc xử lý bề mặt bởi các chất hoạt động bề mặt
là hấp phụ chọn lọc của các đầu phân cực lên bề mặt silica bằng tương tác
tĩnh điện. Một chất hoạt động bề mặt có thể là giảm sự tương tác giữa các hạt
silica ngăn kết tụ bằng cách làm giảm sức hút vật lý và có thể dễ dàng trộn
hợp vào mạng lưới polyme. Ví dụ, silica được xử lý với CTAB để cải thiện sự
tương tác hóa học giữa SiO2 và polyme [11]. Hạt nanosilica đã được biến tính
với axit stearic để tăng khả năng phân tán của chúng và sự bám dính giữa chất
độn và mạng lưới polyme [27, 14]. Nanosilica đã được biến tính với axit
oleic, axit oleic liên kết trên bề mặt silica bởi một liên kết đơn của hydro
[28 - 32].
Sự hấp phụ của polyme cũng có thể làm tăng tính kị nước của bề mặt
các hạt silica [34]. Người ta đã biến tính bề mặt silica bằng sự hấp phụ của
một đại phân tử oxy – ethylene. Phân tử lớn này ưa nước do sự hiện diện của
các nhóm oxy ethylene, nó có thể hình thành liên kết hydro với nhóm chức
Si – OH có trên bề mặt silica. Ngoài ra phân tử này có chứa một nhóm
methacrylat làm cho phản ứng sau này của styrene được dễ dàng hơn.
1.4. Vật liệu silica nano compozit
1.4.1. Giới thiệu
Vật liệu compozit hữu cơ/vô cơ đã được quan tâm nghiên cứu trong
một thời gian dài. Khi pha vô cơ trong compozit có kích thước nano, người ta
gọi đó là vật liệu nanocompozit. Vật liệu nanocompozit nói chung gồm một
polyme hữu cơ kết hợp với các hạt vô cơ có kích thước nano. Điều đó cho
phép kết hợp các ưu điểm của vật liệu vô cơ như tính bền nhiệt, chống ma
sát... và các tính chất nổi bật của vật liệu hữu cơ như mềm dẻo, cách điện, dễ
gia công... Hơn thế nữa, kích thước nano của vật liệu còn tạo ra những tính
chất đặc biệt cho vật liệu compozit. Sự khác biệt đó là do sự tương tác pha
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 27
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
trong vật liệu nanocompozit tăng lên rất nhiều lần so với vật liệu compozit
truyền thống. Các hạt nano vô cơ sử dụng trong composite có thể là các hạt
kim loại Au. Ag... oxit kim loại SiO2, TiO2, Al2O3..., bán dẫn PbS, CdS..
Hơn nữa, vật liệu nanocompozit là vật liệu thân thiện với môi trường,
có thể tái sử dụng mà vẫn duy trì được những đặc tính độc đáo. Điều này hứa
hẹn khả năng ứng dụng vật liệu nanocompozit trong tương lai.
1.4.2. Vật liệu nanosilica compozit
Thực tế, trong các loại vật liệu polyme nanocompozit, thì vật liệu
polyme nanosilica được nghiên cứu nhiều nhất với nhiều báo cáo, nghiên cứu
được công bố và đã được ứng dụng vào trong một số các lĩnh vực của đời
sống. So với các hạt nano khác, nanosilica có ưu điểm là dễ phân tán hơn
trong các polyme. Mặt khác, do đặc tính dễ tổng hợp, sẵn có, giá thành rẻ
cùng với những tính chất bề mặt đặc trưng của hạt nanosilica nên chúng có
các ứng dụng đa dạng; đặc biệt trong việc nghiên cứu chế tạo vật liệu
nanocompozit.
Kết quả nghiên cứu tính chất quang của vật liệu nanocompozit trên cơ
sở của hỗn hợp polyester/nanosilica cho thấy có sự gia tăng cường độ hấp thụ
và sự giảm độ truyền qua của bức xạ UV khi tăng hàm lượng nano SiO2 trong
hỗn hợp. Tính chất này không xảy ra đối với vật liệu độn silica ở kích thước
micromet [7].
Kết quả nghiên cứu tính chất cơ học, độ bền, tính đàn hồi của nhựa
epoxy biến tính, phối trộn với các hạt nanosilica của vật liệu cho thấy tính đàn
hồi của epoxy/nanosilica biến tính tăng lên đáng kể (>50%) so với nhựa
epoxy thông thường. Tính chất nhiệt của vật liệu được tác giả khảo sát bằng
phương pháp đo nhiệt lượng vi sai quét [39].
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 28
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
Nghiên cứu chế tạo vật liệu nanocompozit trên cơ sở hỗn hợp một pha,
hai pha của các nhựa polyeste không no và nanosilica đã được biến tính bề
mặt cho thấy việc đưa hạt cầu nanosilica vào làm tăng độ cứng, mođun đàn
hồi và tăng mạnh độ nhớt của hỗn hợp nhựa polyeste [18].
Trong lĩnh vực sơn phủ bảo vệ đã từ lâu người ta lợi dụng độ cứng cao
của các hạt silica làm chất phụ gia chống mài mòn và chống cào xước, làm
lớp phủ ngoài cùng của ô tô, xe máy. Ví dụ, hệ polyme acrylic/nanosilica
khâu mạch quang cho độ bền mài mòn cao hơn hẳn hệ polyme acrylic/oxit
nhôm sẵn có [19], phenol fomandehyt axit hóa/nanosilica có khả năng tạo
màng ngăn cách bảo vệ chống ăn mòn nhờ tương tác giữa màng và các hạt
silica [15]. Lợi ích chính của các vật liệu này là có độ bền cao với chiều dày
màng rất mỏng. Các lớp phủ nanocompozit trên cơ sở acrylat/nanosilica cũng
được ứng dụng rộng rãi cho các lớp ngoài cùng của vỏ máy, các loại ván
trượt…nhờ khả năng chịu mài mòn cao và giữ được nguyên vẹn tính trong
suốt và bền với thời tiết của màng [42].
CHƢƠNG 2 - THỰC NGHIỆM
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 29
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
2.1. Nguyên liệu
2.1.1. Nguyên liệu dùng để tổng hợp nanosilica
- Tetraethoxysiliane (TEOS) Si(C2H5O)4 loại tinh khiết của Merck
- N-(n-butyl)-3-aminopropyl trimethoxysilane loại tinh khiết của Merck
- Dung dịch ammoniac NH3 loại tinh khiết của Trung Quốc
- Cồn tuyệt đối C2H5OH của Đức Giang
- Axit nitric HNO3 loại tinh khiết của Trung Quốc
- Các dung dịch thí nghiệm đều được chuẩn bị với nước cất
2.1.2. Hợp chất hữu cơ dùng làm chất ức chế ăn mòn
- 1H-Benzotriazole: là loại tinh khiết của hãng Merck có công thức cấu
tạo như sau:
2.1.3. Nền kim loại nghiên cứu
Nền kim loại nghiên cứu là tấm thép phủ hợp kim Al-Zn kích thước
10 15 0.2 cm, được rửa sạch bằng nước, sau đó tráng bằng nước cất và cồn
tuyệt đối, sấy khô. Màng sơn được tạo trên nền kim loại bằng phương pháp
quay ly tâm trên máy Filmfuge Paint Spinner Ref 1110N của hãng Sheen,
Anh.
2.1.4. Chất tạo màng
Chất tạo màng dùng làm lớp lót là epoxy hai thành phần, loại thương
phẩm của Thái Lan:
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 30
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
- Nhựa X75 là sản phẩm trùng ngưng của epiclohidrin và bisphenol A,
có công thức cấu tạo như sau:
- Chất đóng rắn PA66 là một loại polyaminpolyamit, thuộc chất đóng rắn
amin. Các chất đóng rắn amin hầu như có thể đóng rắn tất cả các loại
nhựa epoxy, ngoại trừ epoxyeste vì không có nhóm epoxy. Các chất đóng rắn amin được ứng dụng trong một khoảng nhiệt độ rộng 0oC đến 150oC.
Quá trình đóng rắn có thể tóm tắt như sau:
Chất tạo màng dùng làm lớp phủ là fluo Lumiflon, loại thương phẩm
của Nhật, có công thức cấu tạo như sau:
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 31
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
Trong đó:
FE: Fluo Etylen
VE: Vinyl Ete
R1 , R2 , R3 , R4 các nhóm chức khác nhau tùy thuộc vào mục
đích sử dụng
2.2. Tổng hợp nanosilica và nanosilica chứa chất hữu cơ
2.2.1. Tổng hợp nanosilica
Kích thước của hạt nanosilica phụ thuộc vào nhiều yếu tố đó là: thời
gian phản ứng, nồng độ silicon alkoxide, loại silicon alkoxide, loại ancol,
nhiệt độ phản ứng, tỉ lệ H2O/TEOS, pH của dung dịch phản ứng, điều kiện
xúc tác là axit hoặc bazơ.
Tùy thuộc vào chất xúc tác trong quá trình phản ứng mà người ta có thể
chia ra 2 phương pháp chế tạo các hạt nanosilica:
- Phương pháp axit
- Phương pháp bazơ
Trong luận văn này lựa chọn phương pháp bazơ để chế tạo nanosilica. Quy trình phản ứng như sau: pha dung dịch 5.10-2M của TEOS trong cồn
(dung dịch 1) và dung dịch nước có pH = 10, điều chỉnh bằng NH3 (dung dịch
2), nhỏ từ từ dung dịch 1 vào dung dịch 2, vẫn duy trì ở pH = 10, sẽ tạo thành
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 32
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
dung dịch màu trắng đục, khuấy đều ở nhiệt độ phòng trong 12 giờ, trung hòa
bằng HNO3, sau đó ly tâm thu hồi kết tủa và rửa đến khi dung dịch nước trung tính, sấy chân không ở 80oC trong 24 giờ.
2.2.2. Biến tính nanosilica với chất hữu cơ
- Biến tính với chất hữu cơ 1H-Benzotriazole: phân tán nanosilica trong
dung dịch cồn/nước tỷ lệ 80/20 bằng máy siêu âm; trong một cốc khác
hòa tan chất hữu cơ vào dung dịch cồn/nước, điều chỉnh pH đến 3 bằng
axit HNO3, khuấy 30 phút rồi nhỏ dần dung dịch chất hữu cơ vào dung dịch chứa nanosilica, điều chỉnh pH = 4, nhiệt độ 70oC , duy trì khuấy ở
nhiệt độ này trong 24 giờ rồi đem ly tâm rửa bằng hỗn hợp cồn/nước (50/50), thu lấy kết quả. Sau đó sấy chân không ở 80oC trong 24 giờ.
Tỷ lệ mol của nanosilica/chất hữu cơ là 1/2.
- Biến tính với silan: N-(n-butyl)-3-aminopropyl trimethoxysilane được
pha loãng trong 60 ml hỗn hợp cồn/nước, khuấy 1 giờ ở nhiệt độ phòng, sau đó thêm 10g silica, phản ứng được thực hiện ở 70oC trong 2
giờ, thu hồi kết tủa bằng ly tâm, rửa kết tủa bằng cồn để loại hết silan đi, sấy bột trong chân không ở 80oC trong 24 giờ.
2.3. Quy trình tạo màng
2.3.1 Tạo lớp lót epoxy
Cân một lượng X75 và phụ gia theo một tỷ lệ nhất định trộn với nhau
theo phương pháp nghiền bi, trong quá trình nghiền bổ sung thêm dung môi
với lượng phù hợp tạo được một màng sơn phủ có độ bám dính tốt trên bề mặt
kim loại, bổ sung PA66 theo tỷ lệ đã cho và tạo màng. Quy trình tạo màng
thực hiện trên máy tạo màng ly tâm Filmfuge 1110N (Sheen). Hàm lượng
nanosilica và nanosilica biến tính được đưa vào màng là 3% theo khối lượng.
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 33
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
2.3.2 Tạo lớp phủ bảo vệ
Hàm lượng nanosilica và nanosilica biến tính được đưa vào màng
polyme fluo là 3% theo khối lượng.
Sau khi phủ lớp lót epoxy lên 3 mẫu thép trên nền Al-Zn, ta tiến hành
phủ thêm lớp polyme fluo. Quy trình tạo màng được thực hiện bằng phương
pháp quay li tâm trên máy Filmfuge 1110N (Sheen).
2.4. Các phƣơng pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp phân tích cấu trúc
Súng phóng điện tử
Cực dương
HIỂN THỊ
(Đồng bộ cuộn lái tia)
Điều khiển
2.4.1.1. Phương pháp kính hiển vi trường điện tử quét FESEM
Điện tử
thứ cấp
Xử lý tín hiệu số
Thấu kính từ quét điện tử
Giá để mẫu
Cảm biến điện tử sơ cấp Hình 2.1. Kính hiển vi trường điện tử quét (FESEM)
Nguyên tắc: chùm electron phóng ra từ một nguồn phát được gia tốc
bởi điện trường mạnh và được hội tụ lại bằng một thấu kính từ, sau đó đến
đập vào mẫu và bị tán xạ. Chùm electron tán xạ đến một đầu thu, tín hiệu qua
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 34
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
đầu thu được truyền vào máy tính và được xử lý. Dựa vào ảnh FESEM ta có
thể xác định độ đồng đều của bề mặt mẫu, kích thước hạt, cách sắp xếp của
hạt.
Mục đích: nghiên cứu hình thái bề mặt, kích thước hạt, sự phân bố của
các chất trên bề mặt mẫu.
Tiến hành: chụp trực tiếp với các mẫu bột, còn các mẫu màng chụp
mặt cắt màng. Mẫu được chụp trên máy JSM.53000 của Nhật Bản tại Viện
Vật liệu, Viện khoa học và Công nghệ Việt Nam.
2.4.1.2. Phương pháp phân tích nhiệt TGA
Nguyên tắc: ghi lại sự tổn hao khối lượng của mẫu theo sự gia tăng
tuyến tính của nhiệt độ. Trên giản đồ thường có các đường cơ bản:
- Đường T: ghi lại sự biến đổi đơn thuần về nhiệt độ của mẫu theo thời
gian, cho biết nhiệt độ xảy ra sự biến đổi của mẫu.
- Đường TG: biểu thị sự thay đổi khối lượng của mẫu trong quá trình
nung nóng, cho phép xác định sự biến đổi thành phần của mẫu khi xảy ra hiệu
ứng nhiệt.
- Đường DTG: ghi lại đạo hàm sự thay đổi khối lượng của mẫu theo
nhiệt độ, chỉ chứa các cực tiểu, diện tích giới hạn tỉ lệ với sự biến đổi khối
lượng của mẫu.
- Đường DTA: ghi lại sự biến đổi khối lượng của mẫu theo thời gian so
với mẫu chuẩn, trong đó cực đại ứng với hiệu ứng phát nhiệt, cực tiểu ứng với
hiệu ứng thu nhiệt.
Mục đích: xác định nhiệt độ tồn tại, nhiệt phân hủy và thành phần của chất
nghiên cứu.
Tiến hành: Đo trên máy SETARAM khoa Hóa học - Trường Đại học
Khoa học tự nhiên - Đại học Quốc gia HN.
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 35
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
2.4.2. Phương pháp tổng trở điện hóa
Nguyên tắc và mục đích: tổng trở điện hóa là phương pháp động cho
phép phân tích các quá trình điện hóa theo từng giai đoạn. Đây là một trong
các phương pháp hữu hiệu để nghiên cứu các quá trình ăn mòn điện hóa xảy
ra trên bề mặt kim loại. Đây cũng là phương pháp hiện đại cho kết quả có độ
tin cậy cao, có thể xác định đươc chính xác các thông số của màng phủ như:
điện trở màng Rf, điện dung màng Cf và đánh giá đúng tình trạng của mẫu,
không áp đặt điều kiện bên ngoài (phương pháp nghiên cứu không phá hủy)
và phán đoán được quá trình ăn mòn.
Áp một xung điện xoay chiều có biên độ thấp lên một điện thế tĩnh của
điện cực và theo dõi dòng phản hổi ở các tần số khác nhau. Xung điện xoay
chiều đặt vào điện cực là một hàm sin của tần số f:
∆Et = ∆E sin(ωt) với ω là tần số góc: ω = 2 ft
Biến thiên suất điện động xoay chiều là kết quả giao thoa của xung điện
(∆Et) với thế tĩnh của điện cực (Eo):
Et = Eo + ∆Et = Eo + ∆E sin(ωt)
Ở khoảng biên độ (∆Et) đủ nhỏ thì dòng phản hồi sẽ có dạng:
It = Io + ∆It với ∆It = ∆Im sin(ωt + φ)
Trong đó φ là độ lệch pha giữa dòng điện phản hồi với xung điện xoay
chiều.
Từ kết quả ∆It ta xác định được tổng trở (Z) tại tần số ω:
= exp( ) = Z(ω) =
2 =
2 +
2
Ở một tần số cho trước, tổng trở được biểu diễn dưới dạng phức:
Z = Zr + jZi
Với Zr, Zi tương ứng là phần thực và phần ảo
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 36
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
Có hai phương pháp biểu diễn trong phép đo tổng trở: giản đồ Bode và
giản đồ Nyquist.
Giản đồ Nyquist: Để biểu diễn biến thiên của tổng trở Z(ω) theo tần số f,
giản dồ Nyquist cho phép dựng trên một mặt phẳng một đường cong có dạng
hình bán nguyệt mà ở đó giá trị tần số giảm dần. Tại mỗi điểm trên đường
cong ta có một vectơ tổng trở tạo bởi phần thực (Z’) và phần ảo (-Z”) biểu
diễn tương ứng trên hai trục vuông góc.
Các thông số ở vùng tần số cao (103 Hz – 105 Hz) đặc trưng cho tính chất của màng sơn, còn các thông số ở vùng tần số thấp (10-3 Hz – 101 Hz)
- Z”
fMAX
o ả
fMAX
R+Rpore+RP
n ầ h P
FARADAYC
Phần thực
Z’
đặc trưng cho các quá trình ăn mòn (Faraday) trên giao diện màng/kim loại.
Hình 2.2. Giản đồ Nyquist dạng tổng quát
Mô hình mạch điện tương đương được áp dụng cho kim loại được phủ
lớp màng hữu cơ được mô tả như sau:
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 37
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
Hình 2.3. Sơ đồ mạch điện tương đương của kim loại phủ màng sơn
Giản đồ Bode: được đặt theo tên của Hendrick Wade Bode, nó thường
được dùng theo cặp đôi biểu đồ Bode của sự biến đổi của modul tổng trở log
Z theo tần số log f và sự biến đổi của góc pha log Ф theo tần số log f.
Hình 2.4. Giản đồ Bode về sự biến đổi modul tổng trở theo tần số
và sự biến đổi của góc pha theo tần số
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 38
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
Quá trình ăn mòn kim loại được xác định thông qua việc đo tổng trở
bao gồm điện trở phân cực Rp, điện trở màng qua lỗ rò Rpore và điện dung của
màng sơn Ccoat. Các chất phủ tốt thường cho thấy ít có sự biến đổi của điện trở
theo thời gian, có thể là khi số lượng các lỗ rò của màng sơn khá nhỏ. Các
chất phủ kém hơn thường cho thấy có sự giảm dần của tổng trở, và có thể
nguyên nhân là do sự hình thành nhiều hơn và lớn hơn của các lỗ rò của màng
sơn và sự tăng nhanh bề mặt tiếp xúc của nền kim loại dễ phản ứng với môi
trường có tính ăn mòn.
Hình 2.5. Sơ đồ bình đo điện hóa
Điện cực làm việc là tấm thép phủ Al-Zn được phủ trên đó màng sơn,
kẹp một ống thủy tinh hình trụ vào tấm thép, sau đó đổ dung dịch NaCl 3%. Diện tích tiếp xúc của tấm thép với dung dịch điện li là 8.04 cm2. Điện cực so
sánh là điện cực calomen bão hòa. Điện cực đối là điện cực lưới platin. Phổ
tổng trở được đo trên máy AUTOLAB 30 tại Viện kĩ thuật nhiệt đới, Viện
khoa học và Công nghệ Việt Nam. Các phép đo đặt ở chế độ quét tự động từ
dải tần số 100 kHz đến 10 mHz.
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 39
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
2.4.3. Phương pháp phổ tử ngoại khả kiến [8]
Sự hấp thụ ánh sáng bởi dung dịch là một trong những phương pháp
được sử dụng lâu đời và phổ biến nhất. Bước sóng ánh sáng mà một hợp chất
hấp thụ đặc trưng cho cấu trúc hoá học của hợp chất đó. Những khoảng đặc
biệt của phổ điện từ bị hấp thụ đưa phân tử lên trạng thái kích thích và các
nguyên tử trong phân tử có mức năng lượng cao hơn. Sự hấp thụ những ánh
sáng có bước sóng ngắn kích thích sự chuyển động quay của phân tử. Sự hấp
thụ ánh sáng vùng tử ngoại và khả kiến làm thay đổi mức năng lượng của
electron, các electron trong phân tử bị đưa lên trạng thái kích thích. Với
những phân tử chứa hệ electron liên hợp thì nó hấp thụ ánh sáng trong vùng
UV-VIS (ví dụ, benzen hấp thụ ánh sáng có bước sóng 260 nm). Khi bậc liên
hợp tăng, phổ hấp thụ sẽ chuyển về vùng có mức năng lượng thấp. Do đó,
naphthalene hấp thụ ánh sáng có bước sóng 300nm, anthracene hấp thụ ánh
sáng có bước sóng 400 nm.
Lượng ánh sáng truyền qua một dung dịch quan hệ với nồng độ của
chất theo phương trình của định luật Lambert-Beer:
-log(I/Io) = A = ε.b.C
Trong đó Io là cường độ ánh sáng tới, I là cường độ ánh sáng truyền
qua, A là độ hấp thụ, b là chiều dày cuvet chứa mẫu phân tích và C là nồng độ
dung dịch đo bằng mol/lít, ε là hằng số hấp thụ, phụ thuộc vào bước sóng và
bản chất của chất. Nghĩa là, với cùng một dung dịch thì bước sóng khác nhau
sẽ có hằng số hấp thụ khác nhau. Ngoại trừ tại một pic, trong trường hợp này
hệ số hấp thụ đạt cực đại. Do đó phổ thấp thụ có thể được sử dụng để định
lượng.
Một máy UV/VIS được chuẩn hóa để có được hệ số hấp thụ đặc trưng
cho một chất. Sự chuẩn hóa là quá trình được thực hiện để phù hợp với thiết
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 40
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
bị bởi một dung dịch đã biết nồng độ. Một đường chuẩn hóa của một hợp chất
đo bằng máy quang phổ UV/VIS là đồ thị của độ hấp thụ phụ thuộc vào nồng
độ dung dịch. Dựa vào đồ thị này để xác định nồng độ của một chất.
Các hợp chất hữu cơ, đặc biệt là những chất có độ liên hợp cao cũng
hấp thụ ánh sáng trong vùng UV-VIS. Dung môi được sử dụng thường là
nước hoặc etanol (các dung môi hữu cơ thường có mức độ hấp thụ UV đáng
kể; không phải tất cả các dung môi hữu cơ đều thích hợp trong việc sử dụng
đo phổ UV). pH và độ phân cực của dung môi có thể ảnh hưởng đến độ hấp
thụ ánh sáng của một hợp chất hữu cơ.
Phương pháp phổ UV-VIS thường được dùng để đo các mẫu chất lỏng,
đôi khi cũng dùng để đo các chất khí, thậm chí cả chất rắn. Mẫu đo được
đựng cuvet có chiều dày 1cm, trong một số loại máy quang phổ người ta còn
đựng mẫu trong ống nghiệm. Vật liệu chứa mẫu không được hấp thụ ánh sáng
trong khoảng đo, thường làm bằng thạch anh.
Phổ UV/VIS được đo trên máy Máy phổ tử ngoại khả kiến CINTRA
40, GBC (Mỹ) tại Viện Kỹ thuật nhiệt đới.
2.4.4. Phương trình đẳng nhiệt Langmuir nghiên cứu khả năng hấp phụ
của nanosilica [5]
Quá trình hấp phụ là hiện tượng tăng nồng độ của chất (rắn, lỏng, khí)
trên bề mă ̣t củ a mô ̣t chất rắn (chất hấp phu ̣).
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 41
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
Nhiều dạng phương trình hấp phụ khác nhau đã được nghiên cứu
nhưng phổ biến nhất là phương trình đẳng nhiệt Langmuir. Theo Langmuir ở
trạng thái cân bằng hấp phụ, tốc độ hấp phụ và giải hấp phụ bằng nhau. Trên
bề mặt hấp phụ chia ra thành các ô, mỗi ô chỉ chứa được một phân tử chất bị
hấp phụ, các ô đó có mức năng lượng như nhau. Trên cơ sở giả thiết đó gọi
phần diện tích bề mặt chất rắn đã được các phân tử chất bị hấp phụ chiếm chỗ
là θ, phần còn trống là 1-θ, nồng độ cân bằng là C, tốc độ hấp phụ tỉ lệ thuận
với (1-θ) và C, nên tốc độ hấp phụ là: K.C (1-θ), tốc độ giải hấp phụ tỉ lệ với θ
nên ta có:
θ =
Vì mức độ che phủ là tỉ lệ của lượng chất hấp phụ tại C so với lượng
chất hấp phụ bao phủ toàn bộ bề mặt (đơn lớp phân tử) max nên:
=
Phụ thuộc vào độ lớn của tích số KC, theo phương trình Langmuir, khi
nồng độ thấp C « , khi đó xấp xỉ max, KC là vùng hấp phụ tuyến tính
Heri. Tại nồng độ cao C » , rất nhỏ, là vùng bão hòa, bề mặt chất rắn đã
bị chiếm chỗ hết.
Để xác định hằng số cân bằng trong phương trình Langmuir, người ta
thường dùng phương pháp xác định qua đồ thị biến thiên của C/ - C. Ở đây
tgα=1/ max, qua đó ta xác định được nồng độ hấp phụ cực đại.
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 42
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
Hình2.6. Đường đẳng nhiệt Langmuir và đồ thị xác định cân bằng
trong phương trình Langmuir
2.4.5. Phương pháp đo độ bám dính
Để xác định độ bám dính của lớp màng bảo vệ người ta dùng keo dán
dán các nút to bám dính trên bề mặt mẫu, chờ cho keo khô thì tạo ra một rãnh
xung quanh các nút đó rồi dùng máy ADHESION TESTER model 525 của
hãng Erichen để xác định lực kéo nút và đó cũng chính là đo độ bám dính của
màng sơn.
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 43
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
CHƢƠNG 3 - KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Tổng hợp và biến tính nanosilica
Nanosilica được tổng hợp bằng phương pháp thủy phân TEOS trong
môi trường kiềm, sau đó biến tính với chất ức chế ăn mòn gốc hữu cơ thông
qua quá trình hấp phụ vật lý. Hình thái cấu trúc và kích thước hạt của
nanosilica và nanosilica biến tính được xác định bằng quan sát qua kính hiển
vi trường điện tử quét (FESEM).
Hình 3.1 trình bày ảnh FESEM của hạt silica tổng hợp bằng phương
pháp thủy phân TEOS trong môi trường kiềm.
Hình 3.1. Ảnh FESEM của hạt nanosilica tổng hợp
Quan sát ảnh FESEM cho thấy nanosilica tổng hợp bằng phương pháp
thủy phân TEOS trong môi trường kiềm có hình cầu, có sự keo tụ trên bề mặt
làm co cụm các hạt, kích thước tương đối đều khoảng 50-100 nm.
Khả năng hấp phụ của nanosilica được xác định qua khảo sát hấp phụ
với 1H-Benzotriazole.
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 44
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
Đường chuẩn của dung dịch 1H-Benzotriazole được xác định bằng
cách pha 1H-Benzotriazole ở các nồng độ khác nhau và đo phổ tử ngoại khả
kiến (UV-VIS). Xác định biến thiên của chiều cao của pic hấp phụ theo nồng
độ có thể xây dựng đường chuẩn. Các kết quả nghiên cứu được trình bày trên
hình 3.2, hình 3.3.
30 mg/l
15 mg/l
12 mg/l
6 mg/l
3 mg/l
Hình 3.2. Phổ UV-VIS của dung dịch 1H-Benzotriazole
Hình 3.3. Phổ UV-VIS của dung dịch 1H-Benzotriazole ở các nồng độ
khác nhau
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 45
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
Phổ UV-VIS ở hình 3.2 có hai đỉnh hấp phụ, ở bước sóng khoảng
210 nm và 260 nm. Ta thấy Aλ =260nm > Aλ =215nm, do vậy hệ số hấp phụ đã đạt
giá trị cực đại tại λ=260 nm, khi đó kết quả phân tích có độ nhạy và độ chính
xác tốt nhất. Do đó ta có thể dùng đỉnh hấp phụ ở λ = 260 nm cho việc xác
định phương trình đường chuẩn của dung dịch 1H-Benzotriazole.
Từ kết quả thực nghiệm, ta vẽ được đường chuẩn của dung dịch
1H-Benzotriazole. Hình 3.4 trình bày đường chuẩn của dung dịch
1H-Benzotriazole.
Hình 3.4. Đồ thị đường chuẩn của dung dịch 1H-Benzotriazole
Từ đường chuẩn, lượng hấp phụ của HBT trên silica có thể được xác
định theo phương pháp UV-VIS.
Bảng 3.1 và hình 3.5 trình bày lượng hấp phụ của HBT trên nanosilica
theo thời gian.
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 46
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
Bảng 3.1. Kết quả đo hấp phụ của nanosilica trong dung dịch
1H-Benzotriazole theo thời gian
Thời gian (phút) 0 15 30 60 180
0.590 0.578 0.569 0.569 0.569 Abs
3000 2940 2895 2895 2895 C (mg/l)
0 60 105 105 105 C0 - Ct (mg/l)
Biến thiên của lượng hấp phụ 1H-Benzotriazole trên nanosilica theo
thời gian được trình bày trên hình 3.5.
Hình 3.5. Biến thiên của lượng hấp phụ 1H-Benzotriazole trên
nanosilica theo thời gian
Hình 3.5 cho thấy lượng hấp phụ HBT tăng nhanh theo thời gian,
chứng tỏ nanosilica hấp phụ HBT trong dung dịch rất tốt. Ở những khoảng
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 47
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
thời gian tiếp theo Co – Ct gần như không thay đổi, lúc này lượng hấp phụ đã
đạt bão hòa. Đồ thị tuân theo đường đẳng nhiệt Langmuir.
Ngoài ra, nanosilica cũng được hữu cơ hóa bằng phản ứng hóa học với
N-(n-butyl)-3-aminopropyl trimethoxysilane. Hàm lượng chất hữu cơ hấp phụ
được xác định bằng phương pháp nhiệt trọng lượng. Hình 3.6 trình bày giản
đồ TGA của nanosilica và nanosilica biến tính.
Hình 3.6. Giản đồ phân tích nhiệt của nanosilica ( ― ), nanosilica biến tính
silan (–·–·) và nanosilica biến tính 1H – Benzotriazole (– – – –)
So sánh giản đồ TGA của nanosilica và nanosilica biến tính ta thấy có
sự suy giảm khối lượng khác nhau giữa nanosilica và nanosilica biến tính. So
sánh các mẫu nanosilica biến tính sự suy giảm khối lượng cũng khác nhau tùy
theo chất biến tính.
Đối với mẫu silica chưa biến tính, khi nhiệt độ tăng trên 100oC thì có
sự suy giảm khối lượng mạnh, tương ứng với sự mất nước trên bề mặt của
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 48
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
silica. Sự mất lượng nước trên bề mặt khá cao, khoảng 7,5 %. Tiếp theo còn xuất hiện 1 bậc suy giảm khối lượng ở khoảng nhiệt độ 330 - 550oC, tương
ứng với mất nước trong tinh thể nanosilica, lượng nước này không nhiều,
khoảng 2 %, đồ thị đoạn này gần như dạng đường thẳng.
Đối với mẫu nanosilica biến tính với HBT, sự mất nước trên bề mặt
không nhiều, khoảng 3,5 %, với mẫu nanosilica biến tính silan, hoàn toàn
không thấy có nước trên bề mặt, chứng tỏ bề mặt đã được hữu cơ hóa hoàn
toàn, trở nên kỵ nước. Tuy nhiên, khác với silica chưa biến tính, các chất
silica biến tính đều có sự suy giảm khối lượng mạnh ở khoảng nhiệt độ trên 250oC đến 650oC, do sự phân hủy chất hữu cơ hấp phụ trên bề mặt silica.
Các kết quả nghiên cứu cho thấy nanosilica đã được tổng hợp bằng
phương pháp thủy phân TEOS trong môi trường kiềm với kích thước hạt
khoảng 50-100 nm. Các nanosilica này có đặc tính hấp phụ tốt với chất
hữu cơ 1H-Benzotriazole. Giản đồ TGA cho thấy rõ sự phân hủy của phần
tử hữu cơ trên bề mặt nanosilica.
3.2. Nghiên cứu khả năng bảo vệ chống ăn mòn thép phủ hợp kim Al-Zn
của polyme fluo và epoxy chứa nanosilica biến tính với 1H-Benzotriazole
Mẫu thép phủ hợp kim Al-Zn lần lượt phủ các lớp màng epoxy, polyme
fluo, epoxy chứa nanosilica biến tính HBT và polyme fluo chứa nanosilica
biến tính HBT. Khả năng bảo vệ chống ăn mòn được xác định bằng đo tổng
trở điện hóa theo thời gian thử nghiệm trong dung dịch NaCl 3%. Hình 3.7 và
3.8 trình bày phổ tổng trở dạng Bode của màng epoxy và epoxy chứa chứa
nano SiO2-HBT sau 7 và 77 ngày thử nghiệm.
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 49
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
Hình 3.7. Phổ tổng trở của mẫu thép phủ Al-Zn phủ màng epoxy (o) và
epoxy chứa 3% SiO2-HBT (•) sau 7 ngày thử nghiệm trong dung dịch
NaCl 3%
Hình 3.8. Phổ tổng trở của mẫu thép phủ Al-Zn phủ màng epoxy (o) và
epoxy chứa 3% SiO2-HBT (•) sau 77 ngày thử nghiệm trong dung dịch
NaCl 3%
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 50
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
Theo các kết quả trên ta thấy, phổ tổng trở của các lớp phủ epoxy và
epoxy chứa SiO2-HBT có sự khác biệt với cả thời gian thử nghiệm mẫu ngắn
(7 ngày) và dài (77 ngày). Giá trị tổng trở của màng epoxy chứa nanosilica
lớn hơn hẳn màng sơn epoxy hàng trăm lần sau 7 ngày thử nghiệm và 10 lần
sau 77 ngày thử nghiệm. Hơn nữa, giá trị góc pha của màng epoxy chứa
nanosilica-HBT cũng lớn hơn, thể hiện khả năng bám dính cao hơn màng
epoxy. Theo các tài liệu đã công bố, hợp chất dị vòng chứa nitơ thường có
phản ứng tạo phức với kẽm nhờ liên kết cho nhận giữa cặp đôi điện tử và
orbital trống d của kim loại [36]. Sự hình thành liên kết này trên bề mặt tạo
thành lớp màng dày ngăn ngừa sự xâm thực của các tác nhân ăn mòn đến bề
mặt kim loại và gia tăng bám dính với nền kim loại.
Hình 3.9 và 3.10 trình bày phổ tổng trở dạng Bode của màng polyme
fluo và polyme fluo chứa nano SiO2-HBT sau 7 ngày và 77 ngày thử nghiệm.
Quan sát hình 3.9 và 3.10 ta thấy: phổ tổng trở của màng polyme fluo
và polyme fluo chứa nano SiO2-HBT, không có sự khác biệt nhiều cả sau thời
gian ngâm mẫu dài và thời gian ngâm mẫu ngắn. Sự có mặt của nano
SiO2-HBT không làm gia tăng khả năng che chắn của màng polyme fluo.
Điều đó có thể do khả năng tương tác kém giữa polyme fluo với nền Al-Zn và
giữa polyme fluo với các tiểu phần nano SiO2-HBT do cấu trúc phân cực của
nền kim loại cũng như của SiO2-HBT.
So sánh với màng epoxy (hình 3.7 và 3.8), giá trị tổng trở của màng
polyme fluo thấp hơn, điều đó cho thấy khả năng che chắn kém hơn so với
epoxy.
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 51
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
Hình 3.9. Phổ tổng trở của mẫu thép phủ Al-Zn phủ màng polyme fluo (o) và
HBT – polyme fluo (•) sau 7 ngày thử nghiệm trong dung dịch NaCl 3%
Hình 3.10. Phổ tổng trở của mẫu thép phủ Al-Zn phủ màng polyme fluo (o)
và HBT – polyme fluo (•) sau 77 ngày thử nghiệm trong dung dịch NaCl 3%
Sự suy giảm của màng theo thời gian được xác định thông qua biến
thiên của modul tổng trở tại tần số 100 mHz theo thời gian thử nghiệm.
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 52
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
Hình 3.11. Sự biến thiên modul tổng trở tại tần số 100 mHz của các màng
epoxy (o) và 1HBT-epoxy (•) theo thời gian ngâm trong dung dịch NaCl 3%
Hình 3.12. Sự biến thiên modul tổng trở tại tần số 100 mHz của màng polyme
fluo (o) và polyme fluochứa nano SiO2-HBT (•) theo thời gian ngâm trong
dung dịch NaCl 3%
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 53
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
Hình 3.11 và 3.12 trình bày biến thiên của modul tổng trở tại tần số
100 mHz của màng epoxy và epoxy chứa nano SiO2-HBT cũng như polyme
fluo và polyme fluo chứa nano SiO2-HBT.
Phù hợp với sự quan sát phổ tổng trở, ta thấy rõ ràng sự khác biệt giữa
modul tổng trở của màng epoxy và epoxy chứa chất phụ gia nano SiO2-HBT
trong khi đó ở polyme fluo không quan sát thấy sự khác biệt rõ rệt. Điều đó
có thể do khả năng tương hợp của chất hữu cơ 1H-Benzotriazole vào lớp
màng epoxy tốt hơn lớp màng polyme fluo.
Độ bám dính của lớp sơn lót với bề mặt kim loại là một trong các yếu
tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng bảo vệ chống ăn mòn kim loại. Kết
quả đo độ bám dính của màng epoxy và màng polyme fluo được trình bày
trong bảng 3.2.
Bảng 3.2. Độ bám dính của màng epoxy và màng polyme fluo
Epoxy Polyme fluo Mẫu
2.0 1.0 Độ bám dính (N/mm2)
Qua kết quả khảo sát độ bám dính và khả năng chống ăn mòn trong
dung dịch NaCl 3% của lớp màng epoxy và polyme fluo trên thép phủ hợp
kim nhôm kẽm ta thấy lớp màng epoxy có khả năng bám dính tốt trên bề
mặt thép phủ hợp kim Al-Zn và khả năng chống ăn mòn kim loại trong môi
trường xâm thực tốt hơn so với lớp màng polyme fluo. Như vậy, lớp màng
epoxy được sử dụng làm lớp lót trước khi sử dụng lớp phủ polyme fluo.
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 54
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
3.3. Đánh giá khả năng chịu tia tử ngoại của lớp màng epoxy và lớp màng
polyme fluo
Một hệ thống sơn tốt cần có một lớp lót trên nền vật liệu và một lớp
phủ ngoài cùng để bảo vệ vật liệu. Vì vậy, lựa chọn lớp lót tốt mới chỉ là yếu
tố cần, để hoàn thiện hơn ta cần tiến hành khảo sát chọn ra một lớp phủ bảo
vệ tốt bên ngoài (đây là yếu tố đủ) để có thể chống lại điều kiện khắc nghiệt
của môi trường như tia bức xạ hay các tác nhân ăn mòn vật liệu như các công
trình làm việc trong môi trường nước biển.
Khả năng chịu bức xạ của màng được xác định bằng cách chiếu tia UV
lên mẫu thép phủ hợp kim Al-Zn và phủ epoxy và polyme fluo theo thời gian
và đo tổng trở để xác định độ bền UV của màng. Độ bền của màng theo thời
gian được đánh giá qua thông số giá trị modul tổng trở theo các thời gian
chiếu UV. Kết quả được trình bày trên hình 3.13.
Hình 3.13. Sự biến thiên modul tổng trở tại tần số 100 mHz của mẫu thép phủ
hợp kim Al-Zn và phủ epoxy (o), polyme fluo (•) theo thời gian chiếu UV
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 55
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
Nhìn vào đồ thị rõ ràng thấy sự giảm mạnh giá trị modul tổng trở của
lớp phủ epoxy so với lớp phủ polyme fluo (sau 24 giờ chiếu UV, epoxy có giá
trị modul tổng trở giảm xuống gần 100 lần và có tăng không đáng kể sau các
giờ chiếu tiếp theo; trong khi lớp phủ polyme fluo chỉ giảm xuống khoảng 10
lần và có sự tăng nhẹ sau 240 giờ chiếu UV).
Theo một số tài liệu, bề mặt của nhựa epoxy thành phần thường bị suy
giảm biến đổi cả về tính chất cơ lý học và hóa học dưới các tác động như tia
tử ngoại, quá trình oxy hóa hay các tác nhân khắc nghiệt khác [17]. Tia bức
xạ tử ngoại UV với sự có mặt của oxy taọ ra một lượng nhiệt lớn và oxi hóa
mạnh đối với các vật liệu polyme. Sự suy biến nhiệt oxy hóa trên bề mặt của
nhựa epoxy dẫn tới sự phá vỡ cấu trúc do sự ứng suất cơ - nhiệt và ảnh hưởng
của sự oxi hóa. Ứng suất nhiệt tạo áp lực cơ học lên bề mặt nhựa epoxy và
trong toàn khối lớn của lớp màng dẫn tới sự rạn nứt cấu trúc và lan truyền.
Dưới tác động của tia tử ngoại, quá trình oxi hóa dẫn đến sự gia tăng mật độ
bề mặt do sự thoát ra ngoài của chất bay hơi và sự co bề mặt của lớp màng
epoxy. Việc phân mảnh cấu trúc đã dẫn tới sự giảm độ cứng, độ bền và cấu
trúc của màng epoxy không ổn định. Những khuyết tật màng này không
những làm giảm việc hình thành cấu trúc polyme mà còn là nguyên nhân tạo
ra những vết rạn vĩ mô gây phá hủy lớp màng Việc giảm tính cơ lý của
polyme là do tác nhân nhiệt (nhận được từ tia tử ngoại) phân hủy làm cho liên
kết giữa các sợi gia cường và các thành phần nhựa epoxy bị suy giảm, liên kết
lỏng lẻo làm cho mạch polyme khuyết tật tạo điều kiện cho môi trường xâm
thực tấn công.
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 56
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
Cơ chế phá hủy màng epoxy dưới tác động của tia UV có thể được mô
tả như sau [17]:
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 57
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
Trong khi đó, lớp phủ polyme fluo do có cấu trúc rất bền vững:
Liên kết C – F được liên kết một cách chặt chẽ với liên kết C – C trong
mạch chính. Độ bền cao của polyme fluo dựa trên năng lượng liên kết của nó
C – F. Năng lượng liên kết của C – F thì lớn hơn rất nhiều so với năng lượng
của các tia UV; chính vì thế mà lớp phủ polyme fluo thường được dùng để
làm lớp phủ trên cùng để bảo vệ lớp phủ trung gian và lớp nền vật liệu tránh
khỏi các tác nhân ăn mòn như UV, O2, hơi ẩm…
3.4. Khảo sát khả năng bảo vệ chống tia tử ngoại và khả năng chống ăn
mòn của lớp phủ polyme fluo chứa nanosilica và nanosilica biến tính trên
nền thép phủ hợp kim Al-Zn
Các kết quả nghiên cứu trình bày trong mục 3.2 và 3.3 đã chỉ rõ khả
năng tạo lớp lót bền ăn mòn của màng epoxy chứa nanosilica biến tính với
HBT và khả năng chịu bức xạ cao của màng polyme fluo so với màng epoxy.
Vì vậy, trong phần nghiên cứu tiếp theo, màng polyme fluo được phủ một lớp
lót epoxy trước khi phủ màng polyme fluo.
Hạt nanosilica và nanosilica silan hóa được phân tán vào màng polyme
fluo và được phủ trên nền thép phủ hợp kim Al-Zn đã được phủ sẵn một lớp
lót epoxy. Nồng độ nanosilica phân tán vào màng là 3%. Khả năng bảo vệ
chống tia tử ngoại và bảo vệ chống ăn mòn của màng được theo dõi qua giá
trị tổng trở của màng theo thời gian chiếu UV.
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 58
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
Hình 3.14, 3.15, 3.16 trình bày phổ tổng trở dạng Nyquist của màng
polyme fluo, polyme fluo chứa nanosilica và polyme fluo chứa nanosilica
biến tính silan sau 2 giờ, 2 ngày và 4 ngày chiếu UV.
Hình 3.14. Phổ tổng trở của mẫu polyme fluo, polyme fluo chứa nano SiO2
(MS4), polyme fluo chứa nano SiO2 biến tính silan (MS6) sau 2 giờ chiếu UV
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 59
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
Hình 3.15. Phổ tổng trở của mẫu polyme fluo, polyme fluo chứa nanosilica
(MS4), polyme fluo chứa nanosilica biến tính silan (MS6)
sau 2 ngày chiếu UV
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 60
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
Hình 3.16. Phổ tổng trở của mẫu polyme fluo, polyme fluo chứa nano SiO2
(MS4), polyme fluo chứa nano SiO2 biến tính silan (MS6)
sau 4 ngày chiếu UV
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 61
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
Sau 2 giờ chiếu UV, phổ tổng trở của các mẫu đều có hai phần, cung ở
tần số cao thể hiện rõ ràng, đặc trưng cho lớp màng phủ trên bề mặt kim loại,
cung ở tần số thấp không rõ ràng, phân biệt theo mỗi loại lớp phủ, đặc trưng
cho quá trình điện hóa xảy ra dưới lớp màng. Giá trị điện trở ứng với cung tần
số cao ứng với giá trị điện trở màng của các mẫu khác nhau, mẫu polyme fluo
chứa nanosilica hữu cơ hóa cho giá trị điện trở màng cao nhất, ứng với khả
năng che chắn cao với môi trường xâm thực.
So với mẫu sau 2 giờ chiếu UV, sau 2 ngày và 4 ngày chiếu UV, hình
dạng phổ tổng trở của các mẫu khác đi nhiều. Mẫu sơn polyme fluo có 2 cung
rõ ràng, trong khi các mẫu sơn polyme fluo chứa nanosilica và nanosilica biến
tính silan đều có sự xuất hiện tuy không rõ ràng của phần tần số trung, thể
hiện phản ứng ăn mòn giữa lớp sơn và nền Al-Zn. Tuy nhiên giá trị tổng trở
của mẫu polyme fluo chứa phụ gia nanosilica đều lớn hơn màng polyme fluo.
Hình 3.17. Sự biến thiên modul tổng trở tại tần số 100 mHz của các màng
polyme fluo (o) , polyme fluo chứa nanosilica (▲) và polyme fluo chứa
nanosilica biến tính silan () theo thời gian chiếu UV
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 62
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
Sự suy giảm khả năng bảo vệ chống ăn mòn của màng polyme fluo,
polyme fluo chứa nanosilica và polyme fluo chứa nanosilica biến tính silan
được theo dõi qua sự biến thiên giá trị modul tổng trở ở tần số 100 mHz theo
thời gian chiếu UV. Hình 3.17 ở trên trình bày biến thiên của modul tổng trở
theo thời gian chiếu UV.
Modul tổng trở của các mẫu polyme fluo, polyme fluo chứa nanosilica,
polyme fluo chứa nanosilica biến tính có sự biến thiên theo thời gian. Đối với
mẫu polyme fluo, theo thời gian chiếu UV từ 2 giờ đến 96 giờ, giá trị modul
tổng trở của lớp phủ polyme fluo giảm liên tục, xuống 10 lần (từ giá trị ban
đầu sau 2 giờ chiếu UV là 642 Ώ xuống còn 77.3 Ώ); sau đó giữ cân bằng.
Đối với mẫu polyme fluo chứa nanosilica và nanosilica biến tính silan, giá trị
modul tổng trở chỉ thăng giáng nhẹ, gần như không đổi trong suốt quá trình
thử nghiệm. Giá trị modul tổng trở của mẫu polyme fluo thấp hơn hẳn so với
mẫu polyme fluo chứa nanosilica và polyme fluo chứa nanosilica biến tính.
Điều này chứng tỏ khả năng ngăn cách kém hơn với môi trường xâm thực của
lớp phủ polyme fluo so với polyme fluo chứa phụ gia nanosilica. Điều này
cho thấy vai trò của nanosilica trong lớp phủ polyme fluo không những làm
gia tăng khả năng che chắn mà còn làm gia tăng khả năng chịu bức xạ của lớp
phủ polyme fluo. So sánh giữa mẫu polyme fluo chứa nanosilica và nanosilica
biến tính, thời gian đầu giá trị modul tổng trở của màng với nanosilica biến
tính lớn hơn, sau 48 giờ thì gần như không khác nhau. Giá trị lớn điện trở lớn
hơn có thể do sự tương hợp tốt hơn của nanosilica đã được hữu cơ hóa.
Hình thái cấu trúc của màng polyme fluo và polyme fluo chứa phụ gia
nanosilica được quan sát qua ảnh chụp FESEM mặt cắt của màng. Hình 3.18
trình bày ảnh FESEM mặt cắt của màng polyme fluo, polyme fluo chứa
nanosilica và nanosilica biến tính.
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 63
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
(b)
(a)
(c)
(d)
Hình 3.18. Ảnh FESEM mặt cắt của polyme fluo (a), polyme fluo chứa
nano SiO2-HBT (b), polyme fluo chứa nanosilica (c) và polyme fluo chứa
nanosilica biến tính silan
Ảnh FESEM mặt cắt cho thấy màng polyme fluo có cấu trúc nhẵn mịn
do không chứa phụ gia, trên màng chứa phụ gia có thể quan sát rõ cấu trúc
của nanosilica, cấu trúc này co cụm đối với nanosilica biến tính với HBT, do
sự kém tương hợp của chất này. Trên màng polyme fluo chứa nanosilica và
nanosilica biến tính silan quan sát thấy rõ sự phân bố đều đều của hạt
nanosilica trong màng, có thể do cấu trúc đặc xít này của màng đã làm gia
tăng khả năng che chắn và độ bền bức xạ của màng.
Các kết quả khảo sát độ bền bức xạ của màng polyme fluo chứa
nanosilica và nanosilica biến tính silan cho thấy sự có mặt của nanosilica
đã làm gia tăng cả khả năng che chắn cũng như chịu bức xạ UV của lớp
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 64
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
phủ polyme fluo. Quan sát ảnh FESEM mặt cắt của màng thấy rõ sự phân
bố đều của hạt nanosilica trong màng.
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 65
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
KẾT LUẬN CHUNG
Luận văn tập trung nghiên cứu chế tạo một hệ thống lớp phủ bảo vệ
chống ăn mòn mới, có khả năng bảo vệ chống ăn mòn cao, chịu được thời tiết
khắc nghiệt của khí hậu vùng biển và thân thiện môi trường.
Bằng phương pháp kính hiển vi trường điện tử quét FESEM cho thấy
nanosilica tổng hợp bằng phương pháp thủy phân TEOS trong môi trường
kiềm với kích thước hạt khoảng 50-100 nm. Các nanosilica này có đặc tính
hấp phụ tốt với chất hữu cơ 1H-Benzotriaole. Giản đồ TGA cho thấy rõ sự
phân hủy của phần tử hữu cơ trên bề mặt nanosilica.
Bằng phương pháp phổ tử ngoại khả kiến UV – VIS bước đầu đánh giá
được khả năng hấp phụ dung dịch hữu cơ 1H-Benzotriazole của nanosilica.
Kết quả cho thấy nanosilica được tổng hợp bằng phương pháp thủy phân
TEOS trong môi trường kiềm có đặc tính hấp phụ tốt với chất hữu cơ
1H-Benzotriazole.
Để khảo sát khả năng bảo vệ chống ăn mòn kim loại của màng
epoxy và màng polyme fluo, chúng tôi đã sử dụng phương pháp đo tổng
trở của màng epoxy và màng polyme fluo. Các kết quả khảo sát cho thấy
màng epoxy cho khả năng bảo vệ ăn mòn tốt hơn tốt hơn nhờ tính chất
bám dính tốt trên nền vật liệu thép phủ hợp kim Al – Zn so với màng
polyme fluo. Chính vì vậy, màng epoxy được lựa chọn làm lớp sơn lót
cho vật liệu trong hệ thống sơn phủ.
Đã khảo sát khả năng chịu tia tử ngoại của các màng epoxy, polyme
fluo, polyme fluo chứa nanosilica và nanosilica biến tính, sử dụng phương
pháp đo tổng trở điện hóa theo thời gian chiếu UV. Kết quả khảo sát cho thấy,
so sánh giữa màng epoxy và màng polyme fluo thì khả năng bền tia tử ngoại
của màng polyme fluo tốt hơn so với màng epoxy. Như vậy, lớp phủ polyme
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 66
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
fluo được chọn làm lớp phủ bên ngoài trong hệ thống sơn phủ hoàn thiện. Để
gia tăng đặc tính bảo vệ ăn mòn cũng như chịu bức xạ của lớp phủ polyme
fluo bên ngoài, nanosilica và nanosilica biến tính silan đã được đưa vào màng
polyme fluo, các kết quả nghiên cứu cho thấy sự có mặt của nanosilica đã làm
gia tăng cả khả năng che chắn cũng như chịu bức xạ UV của lớp phủ polyme
fluo. Quan sát ảnh FESEM mặt cắt của màng thấy rõ sự phân bố đều của hạt
nanosilica trong màng.
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 67
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Ngô Duy Cường, Hóa học và kỹ thuật vật liệu sơn, Giáo trình chuyên đề,
ĐH Tổng hợp, 1995.
2. Nguyễn Lan Hương, Khóa luận tốt nghiệp khoa hóa học, Đại học sư phạm
Hà Nội, 2011.
3. Trương Ngọc Liên, Ăn mòn và bảo vệ kim loại, NXB khoa học và kỹ thuật,
2004.
4. Nguyễn Đức Nghĩa, Công nghệ hóa học nano nền, Viện khoa học và Công
nghệ Việt Nam. Tr. 20 – 106.
5. Trần Văn Nhân, Nguyễn Thạc Sửu, Nguyễn Văn Tuế, Hóa lí - tập 2, NXB
giáo dục, 2009, tr. 159 – 202.
6. Trịnh Xuân Sén, Giáo trình điện hóa, NXB ĐHQG Hà Nội.
7. Hoàng Anh Sơn, Võ Thành Phong, Trần Anh Tuấn, Phạm Hồng Nam, Hội
nghị vật lý chất rắn toàn quốc lần thứ 5, Vũng Tàu, 12 – 14/11/2007.
8. Nguyễn Đình Triệu, Các phương pháp vật lý ứng dụng trong hóa học, Nhà
xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999, tr, 150 – 174.
9. Lương Thị ánh Tuyết, Luận văn thạc sĩ khoa học hóa học, Đại học sư phạm
Hà Nội, 2010.
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 68
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
Tiếng Anh
10. A. Bonaretti, A. Cappocia, G. Ciardetti, U. Muccino, Properties and use of
Lavegal, in: 2nd International Conference on Zinc Coated Steel Sheets, ZDA,
London, 1988, pp. SC6/1–13.
11. Ahn, S. H.; Kim, S. H.; Lee, S. G. J. Appl. Polym. Sci. 2004, 94, 812.
12. A. Humayun, The basics of 55% Al–Zn coated sheet’s legendary
performance, in: National Conference on Coil Coating and Continuous Sheet
Galvanizing, New Delhi, India, September 10–11, 1997. [10] A.R. Borzillo,
J.B. Horto, US Patent 3,393,089.
13. David Loveday, Pete Peterson and Bob Rodgers – Gamry Instruments,
Evaluation of Organic Coating with Electrochemical Impedance
Spectroscopy.
14. (a) Ding, X. F.; Zhao, J. Z.; Liu, Y. H.; Zhang, H. B.; Wang, Z. C. Mater.
Lett. 2004, 58, 3126. (b) Ding, X. F.; Wang, Z. C.; Han, D. X.; Zhang, Y. J.;
Shen, Y. F.; Wang, Z. J.; Niu, L. Nanotechnology 2006, 17, 4796.
15. Elisabeth Barna, Bastian Bommer, jurg Ku rsteiner, Andri Vital, Oliver v.
Trzebiatowski, Walter Koch,Bruno Schmid, Thomas Graule, Composites:
Part A 36 (2005) 473-480.
16. F. Deflorian, L. Fedrizzi and P. L. Bonora, Impedance study of the
corrosion protection properties of fluoropolymer coatings, June 15, 1992, 73
– 88.
17. Firas Awaja, Paul J. Pigram, Polymer Degradation and Stability, 2009,
651 – 658.
18. Frank Bauer, Roman Flyunt, Konstanze Czihal, Helmut Langguth, Reiner
Mehnert, Rolf Schubert, Michael R.Buchmeiser, Progress in Organic Coating
60 (2007)121-122.
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 69
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
19. G.Hernansdez- Padros, F.Rojas, V.Castano, Surface & Coatings
Technology 201 (2006) 1207-1214.
20. Hot Dip Coated Products: Technical Note 4, International Lead Zinc
Research Organisation, OH, US.
21. Hsiue, G. H.; Kuo, W. J.; Huang, Y. P.; Jeng, R. J, Microstructural and
morphological characteristics of PS – SiO2 nanocomposites Polymer 2000,
41, 2813.
22. Hua Zou, Shishan Wu, and jian Shen, polimer/ silica Nanocomposites:
Preparation, Characterization, properties, and Applications, School of
Chemical Engineering, Nanjing 210093, P.R.China, and College of
Chemistry and Environment Science, Nanjing Normal University, Nanjing
210097, P.R.China. (2007) 3984-3987.
23. J. Perlin et al., in: Proceedings Intergalva, London, 1982, p. 47/1.
24. Kang, S.; Hong, S. I.; Choe, C. R.; Park, M.; Rim, S.; Kim, J, Preparation
and characterization of epoxy composites filled with functionalized nanosilica
particles obtained via sol-gel process, Polymer 2001, 42, 879.
25. Kim, S. H.; Ahn, S. H.; Hirai, T, Crystallization kinetics and nucleation
activity of silica nanoparticle – filled poly (ethylene 2,6-naphthalate) Polymer
2003, 44, 5625.
26. Kolbe, G. Ph. D. Thesis, Friedrich-Schiller-Universitat Jena, Germany,
1956.
27. Lai, Y. H.; Kuo, M. C.; Huang, J. C.; Chen, M. Mater. Sci. Eng.; A 2007,
458, 158.
28. Mahdavian, A. R.; Ashjari, M.; Makoo, A. B. Eur. Polym. J. 2007, 43,
336.
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 70
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
29. Mohammad Mehdi Jalili, Siamak Moradian, Hamed Dastmalchian, Ali
Karbasi, Investigating the variations in properties of 2-pack polyurethane
clear coat through separate incorporation of hydrophilic and hydrophobic
nanosilica, Progress in Organic Coatings 59 (2007) 81-87.
30. Moncada, E.; Quijada, R.; Retuert, J. Nanotechnology 2007, 18, 335606.
31. Rajiv P. Edavan, Richard Kopinski, Corrosion Resistance of Painted Zinc
Alloy Coated Steels, 2429 – 2442.
32. (a) Reculusa, S.; Poncet-Legrand, C.; Ravaine, S.; Mingotaud, C.; Duguet,
E.; Bourgeat-Lami, E. Chem. Mater. 2002, 14, 2354. (b) Reculusa, S.; Poncet-
Legrand, C.; Perro, A.; Duguet, E.; Bourgeat. (c) Perro, A.; Reculusa, S.;
Bourgeat-Lami, E.; Duguet, E.; Ravaine, S. Colloids Surf.; A. 2006, 284, 78.
33. (a) Rong, M. Z.; Zhang, M. Q.; Zheng, Y. X.; Zeng, H. M.; Walter, R.;
Friedrich, K. J. Mater. Sci. Lett. 2009, 19, 1159. (b) Rong, M. Z.; Zhang, M.
Q.; Zheng, Y. X.; Zeng, H. M.; Walter, R.; Friedrich, K. Polymer 2001, 42,
167. (c) Zhang, M. Q.; Rong, M. Z.; Zeng, H. M.; Schmitt, S.; Wetzel, B.;
Friedrich, K. J. Appl. Polym. Sci. 2001, 80, 2218. (d) Rong, M. Z.; Zhang, M.
Q.; Zheng, Y. X.; Zeng, H. M.; Friedrich, K. Polymer 2001, 42, 3301. (e) Wu,
C. L.; Zhang, M. Q.; Rong, M. Z.; Lehmann, B.; Friedrich, K. Polym.
Compos. 2003, 11, 559. (f) Ruan, W. H.; Zhang, M. Q.; Rong, M. Z.;
Friedrich, K. J. Mater. Sci. 2004, 39, 3475. (g) Rong, M. Z.; Zhang, M. Q.;
Pan, S. L.; Lehmann, B.; Friedrich, K. Polym. Int. 2004, 53, 176. (h) Rong,
M. Z.; Zhang, M. Q.; Pan, S. L.; Friedrich, K. J. Appl. Polym. Sci. 2004, 92,
1771. (i) Ruan, W. H.; Huang, X. B.; Wang, X. H.; Rong, M. Z.; Zhang, M.
Q. Macromol. Rapid Commun. 2005, 27, 581. (j) Ruan, W. H.; Mai, Y. L.;
Wang, X. H.; Rong, M. Z.; Zhang, M. Q. Compos. Sci. Technol. 2007, 67,
2747. (k) Wu, C. L.; Zhang, M. Q.; Rong, M. Z.; Friedrich, K. Compos. Sci.
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 71
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
Technol. 2002, 62, 1327. (l) Cai, L. F.; Huang, X. B.; Rong, M. Z.; Ruan, W.
H.; Zhang, M. Q. Polymer 2006, 47, 7043. (m) Cai, L. F.; Huang, X. B.;
Rong, M. Z.; Ruan, W. H.; Zhang, M. Q. Macromol. Chem. Phys. 2006, 207,
2093. (n) Zhang, M. Q.; Rong, M. Z.; Zhang, H. B.; Freidrich, K. Polym. Eng.
Sci. 2003, 43, 490.
34. S. Deng, P. Rosso, L.Ye, K. Friedrich. Solid State phenomena Vols (2007)
121-123.
35. Seiji Munekata, Fluoropolymers As Coating Material, 1988, 113 – 134.
36. S. Manov, A.M. Lamazoueere, L. Aries, Electrochemical study of the
corrosion behaviour of zinc treated with a new organic chelating inhibitor,
Corrosion Science 42 (2000) 1235-1248.
37. Sugimoto, H.; Daimatsu, K.; Nakanishi, E.; Ogasawara, Y.; Yasumra, T.;
Inomata, K, Preparation and properties of poly (methylmethacrylate) – silica
hybrid materials incorporating reactive silica nanoparticles, Polymer 2006,
47, 3754.
38. (a) Tang, J. C.; Lin, G. L.; Yang, H. C.; Jiang, G. J.; Cheng-Yang, Y. W.
J. Appl. Polym. Sci. 2007, 104, 4096. (b) Tang, J. C.; Yang, H. C.; Chen, S.
Y.; Chen-Yang, Y. W. Polym. Compos. 2007, 28, 575.
39. Yongchun Chen, Shuxue Zhou, Guodong Chen, Limin Wu, Preparation
and characterization of polyester/silica nanocomposite resins, Progress in
Organic Coatings 54 (2005) 120–126.
40. (a) Yoshinaga, K.; Shimada, J.; Nishida, H.; Komatsu, M. J. Colloid
Interface Sci. 1999, 214, 180. (b) Yoshinaga, K.; Tani, Y.; Tanaka, Y. Colloid
Polym. Sci. 2002, 280, 85.
41. Y. Uchima, M. Hasaka, H. Koga, Effect of Structure and Mischmetal
Addition on the Corrosion Behavior of Zn5 mass% Al Alloy, GALVATECH
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 72
Nguyễn Thị Thúy Hồng Luận văn
’89, The Iron and Steel Institute of Japan (Tokyo, Japan), 1989, p. 545.
42. W. FUNKE, Proc. Sym. On Corrosion Protection by Organic Coating, Ed
M. W. Kendig et H. Leiheiser J. Electrochem Soc 1 (1987).
43. Wu, C. L.; Zhang, M. Q.; Rong, M. Z.; Friendrich, K. Compos. Sci.
Technol. 2005, 65, 635.
44. (a) Wu, C. M.; Xu, T. W.; Yang, W. H. Eur. Polym. J. 2005, 41, 1901.
(b) Zhang, S. L.; Xu, T. W.; Wu, C. M. J. Membr. Sci. 2006, 269, 142.
45. Wu, T. M.; Chu, M. S. J. Appl. Polym. Sci. 2005, 98, 2058.
46. (a) Zhang, M. Q.; Rong, M. Z.; Friendrich, K. In Handbook of Organic
Inorganic Hybrid Materials and Nanocomposites; Nalwa, H. S., Ed.;
Ameican Scientific Publishers: Stevenson Ranch, CA, 2003; Vol 2, pp 113-
150. (b) Rong, M. Z.; Zhang, M. Q.; Ruan, W. H. Mater. Sci. Technol. 2006,
22, 787.
Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ – K20 73