1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
---------------------------------------------
NGUYỄN THỊ HOÀNG OANH
LAN TỎA TRI THỨC, CẢI TIẾN ĐỔI MỚI CẤP NGÀNH
VÀ NĂNG SUẤT NHÂN TỐ TỔNG HỢP (TFP) CỦA DOANH NGHIỆP:
TRƯỜNG HỢP NGHIÊN CỨU Ở NGÀNH CÔNG NGHIỆP CHẾ TẠO Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kinh tế phát triển
Mã ngành: 9310105
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Người hướng dẫn khoa học:
1. TS. Phạm Khánh Nam 2. TS. Phạm Hoàng Văn
TP. HỒ CHÍ MINH, 2021
2
Công trình được hoàn thành tại:
.............................................................................................
.............................................................................................
Người hướng dẫn khoa học:
TS. Phạm Khánh Nam
TS. Phạm Hoàng Văn
Phản biện 1: .........................................................................
Phản biện 2: .........................................................................
Phản biện 3: ........................................................................
Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường tại:
.............................................................................................
.............................................................................................
Vào hồi ...... giờ ............... ngày......... tháng........... năm.........
Có thể tra cứu luận án tại thư viện: ......................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
3
Tóm tắt Nghiên cứu này đã phát triển khung phân tích của lan tỏa tri thức ở cấp ngành và kiểm định các tác động lan tỏa này từ các hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D), đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và hoạt động thương mại lên hoạt động cải tiến, đổi mới cấp ngành bằng các mô hình Hồi quy không gian. Bên cạnh đó, nghiên cứu này cũng kiểm định tác động lan tỏa từ hoạt động cải tiến, đổi mới của ngành và vốn con người của địa phương lên năng suất các nhân tố tổng hợp của 7,236 doanh nghiệp thuộc 38 ngành công nghiệp chế tạo ở 62 tỉnh thành Việt Nam bằng mô hình đa cấp độ. Bằng mô hình Hồi quy không gian với 38 ngành công nghiệp chế tạo tương ứng với bảng Input/Output từ năm 2010 đến 2014, chỉ tác động lan tỏa nội ngành thay vì liên ngành đã được tìm thấy có ý nghĩa thống kê. Điều này ủng hộ lý thuyết lan tỏa của Marshall hơn là của Jacobs. Cụ thể, chỉ các hoạt động R&D và xuất khẩu được tìm thấy có tác động dương đến cải tiến, đổi mới cấp ngành. Ngược lại, các hoạt động FDI và nhập khẩu dường như lại có tác động âm. Ở mô hình đa cấp độ, so với các đặc tính của ngành và địa phương, các đặc tính thuộc tính của doanh nghiệp có thể giải thích được nhiều nhất sự khác biệt trong năng suất các nhân tố tổng hợp ở các doanh nghiệp. Ổn định qua các mô hình, quy mô doanh nghiệp, mức độ tăng cường về vốn và hoạt động xuất khẩu được tìm thấy có tác động tích cực lên năng suất các nhân tố tổng hợp ở các doanh nghiệp. Cải tiến, đổi mới cấp ngành chuyển sang có tác động tích cực lên năng suất các nhân tố tổng hợp của doanh nghiệp sau độ trễ một năm. Ngoài ra, tác động ngoại tác của vốn con người ở địa phương cũng được tìm thấy có tác động dương lên năng suất các nhân tố tổng hợp của doanh nghiệp ở địa phương đó.
Từ khóa: Lan tỏa tri thức, cải tiến đổi mới cấp ngành, năng suất các nhân tố tổng hợp, hồi quy không gian, mô hình đa cấp độ
4
1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 1.1. VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1.1. Sự cần thiết của chủ đề nghiên cứu Vai trò của lan tỏa tri thức đến cải tiến đổi mới cấp ngành là chủ đề quan trọng cần nghiên cứu. Theo Aghion và Jaravel (2015), cải tiến đổi mới ở một doanh nghiệp hay một ngành có thể được tạo ra từ tri thức đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp khác hoặc ngành khác. Mehrizi và Ve (2008) cho rằng nghiên cứu chủ đề này ở cấp độ ngành giúp thực hiện được việc kết nối các nhân tố thuộc doanh nghiệp với môi trường kinh tế vĩ mô. Malerba (2002) cũng nhấn mạnh vai trò của việc nghiên cứu hoạt động sản xuất và cải tiến đổi mới ở cấp độ ngành. Theo Padoan (1999), việc tiếp cận cấp độ ngành có thể nghiên cứu được các lan tỏa và tích lũy tri thức. Tuy nhiên, các nghiên cứu về vai trò của lan tỏa tri thức đến cải tiến đổi mới cấp ngành còn rất hạn chế. Ở Việt Nam, hiện chưa có nhiều nghiên cứu về cải tiến đổi mới, đặc biệt là các nghiên cứu về cải tiến đổi mới ở cấp độ ngành. Do đó, mục tiêu trước tiên của luận án này là nghiên cứu vai trò của lan tỏa tri thức đến cải tiến đổi mới cấp ngành thông qua ba kênh lan tỏa từ các hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D), đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và hoạt động thương mại bằng mô hình hồi quy không gian.
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu nguồn gốc sự khác biệt trong năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) của doanh nghiệp từ các yếu tố đặc tính của doanh nghiệp và các lan tỏa từ các yếu tố thuộc ngành và địa phương cũng rất cần thiết. TFP được hiểu là phần còn lại của sản lượng không thuộc đóng góp từ yếu tố vốn và lao động. Trong mô hình của Solow (1956), phần dư
5
này là một hộp đen thể hiện vai trò của yếu tố cải tiến công nghệ đóng góp cho tăng trưởng bền vững. Rõ ràng là sự khác biệt trong TFP của doanh nghiệp chủ yếu xuất phát từ các đặc tính thuộc về doanh nghiệp. Tuy nhiên, Acemoglu (2009) cho rằng sự khác biệt trong TFP không nhất thiết là chỉ do yếu tố công nghệ. Chẳng hạn như, hai doanh nghiệp cùng sử dụng công nghệ giống nhau nhưng có thể áp dụng công nghệ đó theo các cách thức khác nhau và mang lại mức độ hiệu quả khác nhau. Tuy nhiên, ngay cả khi các doanh nghiệp này áp dụng cách thức giống nhau thì vẫn có sự khác biệt trong TFP của các doanh nghiệp này. Sự khác biệt này vẫn có thể xuất phát từ đặc tính của ngành và địa phương mà doanh nghiệp hoạt động.
Do đó, việc nghiên cứu các nhân tố tạo ra sự khác biệt trong TFP của doanh nghiệp cần được thực hiện bằng mô hình đa cấp độ. Mô hình này có thể phân tách các tác động của các nhân tố từ cấp độ doanh nghiệp đến ngành và địa phương. Tuy nhiên, hiện nay hầu hết các nghiên cứu về TFP đều tập trung vào các nhân tố thuộc cấp độ doanh nghiệp. Mặc dù TFP được xem là nhân tố chính của chất lượng tăng trưởng nhưng các nghiên cứu về TFP còn rất hạn chế ở Việt Nam (CIEM, 2010). Nghiên cứu này có thể tạo ra đóng góp mới khi áp dụng mô hình đa cấp độ để nghiên cứu về sự khác biệt trong TFP của doanh nghiệp trong mục tiêu còn lại của luận án. Nhờ đó, nghiên cứu có thể đưa ra các gợi ý chính sách không chỉ cho doanh nghiệp mà còn cho chính phủ trong các chiến lược thúc đẩy kinh tế.
1.1.2. Khoảng trống nghiên cứu và các tính mới của luận án
6
Nghiên cứu này có thể đóng góp tính mới ở lần lượt ba khía cạnh bao gồm khung phân tích, phương pháp tiếp cận và bối cảnh nghiên cứu. Về khung phân tích, yếu tố lan tỏa tri thức cấp ngành đã được xây dựng dựa trên sự tổng hợp các tích lũy tri thức ở cấp độ doanh nghiệp của Cohen và Levinthal (1989). Khung phân tích này có tính mới khi chỉ ra được sự lan toản tri thức cấp ngành không chỉ là lan tỏa nội bộ ngành mà còn cả những lan tỏa liên ngành với ba kênh lan tỏa từ hoạt động R&D, FDI và thương mại. Thêm vào đó nghiên cứu này còn thể hiện được những tác động lan tỏa từ cải tiến đổi mới cấp ngành và vốn nguồn nhân lực của địa phương lên TFP của doanh nghiệp dựa trên các ý tưởng về lợi thế theo quy mô nội bộ ngành (Marshall, 1920), lan tỏa tri thức liên ngành (Griliches, 1992) và vai trò của lan tỏa vốn nhân lực lên năng suất (Moretti, 2004).
Về mặt phương pháp, nghiên cứu này có hai cách tiếp cận mới. Trước tiên, nghiên cứu đã áp dụng mô hình hồi quy không gian để nghiên cứu vai trò của các kênh lan tỏa tri thức lên cải tiến đổi mới cấp ngành. Sau đó, nghiên cứu đã áp dụng mô hình đa cấp độ để đo lường các tác động của các yếu tố từ cấp độ doanh nghiệp đến các cấp độ ngành và địa phương đến TFP của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, nghiên cứu kết hợp các yếu tố lan tỏa tri thức, cải tiến đổi mới và năng suất các nhân tố tổng hợp trong luận án này cũng rất cần thiết và có tính mới trong bối cảnh nghiên cứu ngành công nghiệp chế tạo ở Việt Nam. Về bối cảnh của Việt Nam, chưa có nghiên cứu nào thực hiện nghiên cứu các
7
nhân tố tạo nên sự khác biệt trong TFP của doanh nghiệp từ các đặc tính thuộc cấp độ doanh nghiệp, ngành đến địa phương bằng mô hình đa cấp độ. Một vài nghiên cứu về TFP có xem xét đến vai trò của giao dịch FDI (Ni và các cộng sự, 2015; Vũ Hoàng Dương và Lê Văn Hưng, 2017; Lê Hồ Phi Khanh và các cộng sự, 2018 và Nguyễn Lan Hương, 2017) hoặc vai trò của các lợi thế của cụm kinh tế trong công nghiệp chế tạo ( Francois và Nguyễn, 2017; Toshitaka và các cộng sự, 2014) hoặc vai trò của cạnh tranh nhập khẩu trong ngành (Doan và các cộng sự, 2016). Tuy nhiên chưa có nghiên cứu nào áp dụng mô hình đa cấp độ cho vấn đề nghiên cứu trên. Việc áp dụng mô hình đa cấp độ với 63 tỉnh thành và 38 ngành thuộc ngành công nghiệp chế tạo góp phần tạo nên giá trị của nghiên cứu này trong bối cảnh của Việt Nam.
1.2. MỤC TIÊU VÀ CÂU HỎI NGHIÊN CỨU Mục tiêu thứ nhất của luận án là nghiên cứu các kênh lan tỏa tri thức lên hoạt động cải tiến đổi mới ở các ngành công nghiệp chế tạo ở Việt Nam với các câu hỏi nghiên cứu cụ thể như sau:
1.1. Cải tiến đổi mới cấp ngành có chịu sự tác động trực tiếp bởi hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) của chính ngành đó trong các ngành công nghiệp chế tạo của Việt Nam hay không?
1.2. Cải tiến đổi mới cấp ngành có chịu sự tác động gián tiếp bởi hoạt động R&D của các ngành khác trong các ngành công nghiệp chế tạo của Việt Nam hay không?
8
1.3. Cải tiến đổi mới cấp ngành có chịu sự tác động trực tiếp bởi các giao dịch với doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của chính ngành đó trong các ngành công nghiệp chế tạo của Việt Nam hay không?
1.4. Cải tiến đổi mới cấp ngành có chịu sự tác động gián tiếp bởi các giao dịch với doanh nghiệp FDI của các ngành khác trong các ngành công nghiệp chế tạo của Việt Nam hay không? 1.5. Cải tiến đổi mới cấp ngành có chịu sự tác động trực tiếp bởi các hoạt động thương mại của chính ngành đó trong các ngành công nghiệp chế tạo của Việt Nam hay không?
1.6. Cải tiến đổi mới cấp ngành có chịu sự tác động gián tiếp bởi các hoạt động thương mại của các ngành khác trong các ngành công nghiệp chế tạo của Việt Nam hay không?
Mục tiêu thứ hai của luận án là nghiên cứu các tác động của các đặc tính thuộc các cấp độ từ doanh nghiệp, địa phương và cấp ngành đến năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) với các câu hỏi nghiên cứu cụ thể như sau:
1.1. Bao nhiêu sự khác biệt trong TFP của doanh nghiệp có thể được giải thích từ các nhân tố thuộc cấp độ doanh nghiệp, cấp độ ngành và cấp độ địa phương?
1.2. Quy mô của doanh nghiệp có tác động lên TFP của doanh nghiệp trong các ngành công nghiệp chế tạo của Việt Nam hay không?
1.3. Cường độ sử dụng vốn của doanh nghiệp có tác động
đến TFP của doanh nghiệp hay không?
1.4. Có sự khác biệt trong TFP của doanh nghiệp xuất khẩu
và doanh nghiệp không xuất khẩu hay không?
9
1.5. Cải tiến đổi mới cấp ngành có tan động lan tỏa tích cực lên TFP của các doanh nghiệp thuộc ngành đó trong các ngành công nghiệp chế tạo của Việt Nam hay không?
1.6. Vốn nhân lực ở địa phương có tác động đến TFP của
các doanh nghiệp thuộc chính địa phương đó hay không?
1.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ PHẠM VI
NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu áp dụng phương pháp hồi quy không gian để phân tích tác động của ba kênh lan tỏa tri thức lên cải tiến đổi mới cấp ngành. Sau đó, nghiên cứu sẽ áp dụng mô hình đa cấp độ để nghiên cứu sự khác biệt trong TFP của doanh nghiệp đến từ ba nhóm nhân tố thuộc cấp độ doanh nghiệp, cấp độ ngành và cấp độ địa phương. Nghiên cứu này sử dụng nguồn dữ liệu Doanh nghiệp Việt Nam (VES) và dữ liệu khảo sát năng lực cạnh tranh và công nghệ Việt Nam (TCS) cùng với dữ liệu thuộc Bảng cân đối liên ngành (Input/Output) năm 2012 của Việt Nam. Ngoài ra, nghiên cứu cũng sử dụng dữ liệu khảo sát địa phương hằng năm của Tổng cục Thống kê (GSO).
Đơn vị phân tích là ngành trong nghiên cứu tác động của các hoạt động R&D, FDI và thương mại lên cải tiến đổi mới cấp ngành. Đơn vị ngành được tổng hợp từ dữ liệu doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp chế tạo Việt Nam từ năm 2010 đến năm 2014. Mối quan hệ giữa các ngành được xác định dựa trên thông tin giao dịch trao đổi nguyên vật liệu trung gian trong bảng Input/Output năm 2012 của Việt Nam. Bằng mô hình hồi quy không gian, nghiên cứu phân tích tác động trực tiếp cũng như gián tiếp của các hoạt động R&D, FDI và thương mại lên cải tiến đổi mới cấp ngành.
10
Trong khi đó, doanh nghiệp là đơn vị phân tích trong nghiên cứu về tác động của các đặc tính thuộc các cấp độ từ doanh nghiệp đến cấp độ địa phương, cấp độ ngành lên TFP của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp này cũng thuộc các ngành công nghiệp chế tạo của Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu từ năm 2011 đến 2014. Các đặc tính thuộc cấp độ doanh nghiệp được tiếp cận từ dữ liệu TCS và VES. Các đặc tính thuộc cấp độ ngành được kế thừa từ kết quả nghiên cứu của mục tiêu nghiên cứu thứ nhất thuộc nghiên cứu này. Ngoài ra, dữ liệu Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp Tỉnh (PCI) cũng được tiếp cận để xác định vốn nhân lực của địa phương.
1.4. ĐÓNG GÓP CỦA NGHIÊN CỨU Nghiên cứu này có thể có những đóng góp dưới góc độ lý thuyết cũng như hàm ý chính sách. Về mặt lý thuyết, nghiên cứu đã phát triển được khung phân tích và kiểm định giả thuyết về lan tỏa tri thức ở cấp độ ngành. Ngoài ra, nghiên cứu cũng áp dụng cách tiếp cận mới là mô hình hồi quy không gian để phân tích lan tỏa tri thức giữa các ngành. Bên cạnh đó, nghiên cứu này cũng đã nỗ lực khám phá tác động của hộp đen thuộc về bối cảnh lên TFP của doanh nghiệp. Cụ thể, nghiên cứu đã áp dụng mô hình đa cấp độ để nghiên cứu tác động lan tỏa từ cải tiến đổi mới cấp ngành và vốn nhân lực của địa phương lên TFP của doanh nghiệp.
Việc xác định các nhân tố cốt lõi của năng lực cải tiến đổi mới cấp ngành mang lại những thông tin thiết yếu cho các nhà hoạch định chính sách trong việc nâng cao năng lực ngành. Thêm vào đó, mô hình hồi quy đa cấp độ cũng có thể giúp các nhà hoạch định chính sách nắm bắt được tầm quan trọng của
11
nhóm nhân tố từ đặc tính doanh nghiệp cũng như đặc tính của ngành và địa phương đối với TFP của doanh nghiệp.
1.5. CẤU TRÚC LUẬN ÁN Luận án này bao gồm 5 chương. Chương đầu tiên giới thiệu khái quát về luận án. Chương thứ hai sẽ tổng quan nghiên cứu bao gồm thiết kế khung phân tích và tổng hợp các nghiên cứu thực nghiệm của cả hai mục tiêu nghiên cứu. Chương tiếp theo sẽ trình bày về Phương pháp nghiên cứu cụ thể về bản chất và việc áp dụng mô hình hồi quy không gian và mô hình đa cấp độ. Thêm vào đó, chương này cũng mô tả cụ thể mô hình, cách thức đo lường biến và khai thác dữ liệu. Hai chương tiếp theo là các chương về kết quả và thảo luận. Một chương mô tả và thảo luận kết quả của cải tiến đổi mới cấp ngành và các tác động lan tỏa. Chương còn lại cung cấp kết quả và thảo luận về các nhân tố ảnh hưởng đến sự khác biệt của TFP ở các doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp chế tạo ở Việt Nam.
2. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT 2.1. Khái niệm 2.1.1. Lan tỏa tri thức Một cách khái quát, lan tỏa tri thức được hiểu là việc hưởng lợi từ tri thức được khám phá bởi các tổ chức khác mà không phải chi trả hoàn toàn chi phí cho việc hưởng lợi này vì tri thức có đặc tính “lan tỏa” từ tổ chức này đến tổ chức khác. Khái niệm lan tỏa bắt nguồn từ bản chất hàng hóa công của tri thức với đặc tính là không cạnh tranh và không thể loại trừ (Arrow, 1962). Tùy theo loại hình của tri thức mà lan tỏa tri thức có thể được phân loại là được chia sẻ tự nguyện và bắt buộc giữa các tổ chức (Romer, 1990). Kaiser (1960) cũng cho rằng lan tỏa tri
12
thức bắt nguồn từ thất bại trong việc bảo vệ sở hữu tri thức được tạo ra ở các doanh nghiệp cải tiến đổi mới. Khối lượng các tri thức không thể bảo vệ quyền sở hữu được gọi là tri thức được lan tỏa. Griliches (1992) cho rằng đầu tư vào tri thức có khả năng cao sẽ bị lan tỏa để thương mại hóa bởi bên thứ ba, bên mà không phải chịu toàn bộ chi phí cho việc tiếp cận và thực hiện các ý tưởng tri thức đó. 2.1.2. Cải tiến đổi mới OECD (2005) đã đưa ra khái niệm về cải tiến đổi mới như sau “cải tiến đổi mới là việc thực hiện tạo ra sản phẩm (hàng hóa hoặc dịch vụ) mới hoặc có cải tiến đáng kể, hoặc là quy trình, phương pháp truyền thông mới hoặc phương pháp tổ chức mới trong thực tiễn kinh doanh, ở tổ chức sản xuất hoặc trong các mối quan hệ với bên ngoài.”
Theo xu hướng phát triển kinh tế, nhiều nghiên cứu quan tâm hơn đến khía cạnh tổ chức và truyền thông và dựa vào khái niệm về cải tiến đổi mới của OECD (2005). Theo đó, cải tiến đổi mới được khái quát hóa là việc giới thiệu sản phẩm (hàng hóa hoặc dịch vụ) mới hoặc cải tiến đáng kể, quy trình mới hoặc cải tiến đáng kể, phương pháp truyền thông mới hoặc phương pháp tổ chức mới trong thực tiễn kinh doanh và hợp tác của môi trường làm việc.
2.1.3. Hàm sản xuất tri thức và các nhân tố tác động đến
cải tiến đổi mới trong nghiên cứu này
Nghiên cứu này dựa trên hàm sản xuất tri thức (KPF), được đề xuất đầu tiên bởi Pakes và Griliches (1984) để xác định các nhân tố của cải tiến đổi mới trong mô hình. Pakes và Griliches
13
(1984) đã minh họa lượt đồ đơn giản về hàm sản xuất tri thức như sau:
Hình 2.1. Khung phân tích của hàm sản xuất tri thức Nguồn: Pakes và Griliches (1984) Theo như lượt đồ trên trong hàm sản xuất tri thức, (cid:1)(cid:2) là vốn tri thức giúp chuyển đổi các đầu tư cho nghiên cứu, R và phần chưa quan sát được, U, thành các phát minh sáng chế. Phần chưa quan sát được có thể là tác động kết hợp của các yếu tố đầu vào phi chính thức của R&D và các yếu tố chưa quan sát được trong hàm sản xuất các phát minh sáng chế.
2.1.4. Hệ thống cải tiến đổi mới cấp ngành (SIS) và các
nhân tố tác động
Theo Malerba (2002), người đặt nền tảng của hệ thống cải tiến đổi mới cấp ngành, “ngành cung cấp một đơn vị phân tích
14
cốt lõi cho các nhà kinh tế, các học giả, các nhà kỹ thuật và lịch sử kinh tế trong nghiên cứu về các hoạt động sản xuất và cải tiến, đổi mới.” Ông đề xuất một hệ thống cấp ngành bao gồm các sản phẩm và mạng lưới các tổ chức tạo nên các giao dịch thị trường và phi thị trường để hình thành, sản xuất và bán các sản phẩm đó. Một hệ thống cấp ngành bao gồm một hệ thống tri thức, công nghệ, đầu vào và nhu cầu cụ thể. Giao dịch, tương tác có thể xuất hiện giữa các tổ chức trong hệ thống này. Các tổ chức có thể được biết đến là các cá nhân và tổ chức với đa dạng cấp độ liên kết. Tương tác giữa các tổ chức có thể được thực hiện thông qua trao đổi thông tin, hợp tác, cạnh tranh và được định hình bởi các thể chế. Từ đó, ông đề xuất rằng hệ thống cải tiến đổi mới cấp ngành có thể được sử dụng để giải thích cho việc hình thành, hấp thụ, chia sẻ và sử dụng tri thức và cải tiến, đổi mới ở một ngành.
2.1.5. Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP)
Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) được xác định là tỷ phần của sản lượng không được giải thích bởi các nhân tố đầu vào truyền thống là lao động và vốn. Một cách phổ quát, sản lượng được biết đến là một hàm của các nhập lượng đầu vào được sử dụng bởi doanh nghiệp và năng suất của doanh nghiệp đó (Katayama, Lu và Tybout, 2009). Một cách cơ bản, hàm sản xuất Cobb – Douglas được sử dụng để đo lường TFP.
Việc xác định phương pháp đo lường TFP trong nghiên cứu này dựa trên việc so sánh bốn phương pháp chính là Tác động cố định (Fixed effects), các biến công cụ và GMM, ước lượng
15
bán tham số của Olley vàPakes (1996) và ước lượng bán tham số được phát triển bởi Levinsohn và Petrin (2003)
2.2. Khung lý thuyết 2.2.1. Phát triển mô hình nghiên cứu lan tỏa tri thức cấp ngành Nghiên cứu bắt đầu xây dựng dạng hàm cho các phương trình kết nối các biến số trong dữ liệu nghiên cứu ở cấp ngành bắt nguồn từ các phương trình ở cấp doanh nghiệp của Cohen và Levinthal (1989).
Cohen và Levinthal (1989) đã xây dựng một mô hình về tích
lũy tri thức của doanh nghiệp như sau:
+ T)
(cid:9)(cid:11)(cid:4)
(cid:3)(cid:4) = (cid:5)(cid:4) + (cid:6)(cid:4) ((cid:7) ∑ (cid:5)(cid:9) (2.19) Trong đó (cid:3)(cid:4) là tích lũy tri thức khoa học và công nghệ của doanh nghiệp i; (cid:6)(cid:4) thể hiện tỷ lệ tri thức trong xã hội được doanh nghiệp i khai thác, tận dụng và thể hiện khả năng hấp thu của doanh nghiệp đó. (cid:7) là mức độ lan tỏa tri thức nội ngành và T là mức độ lan tỏa tri thức liên ngành. Đầu tư vào nghiên cứu và phát triển ở doanh nghiệp khác là (cid:5)(cid:9) với j≠i nhưng có đóng góp vào (cid:3)(cid:4). Mô hình này gợi mở các lan tỏa tri thức nội ngành và liên ngành giữa các ngành.
s: Zs =∑ (cid:3)(cid:4)
(cid:13) (cid:4)(cid:14)(cid:15)
Nghiên cứu xác định Zs là tổng tích lũy tri thức của ngành (2.20) Tương tự, Ms là tổng hợp các yếu tố đầu vào cho tri thức
của ngành s:
(2.21)
+
(cid:13) + ∑ (cid:23)(cid:4) (cid:4)(cid:14)(cid:15)
(cid:17) . (cid:7). ∑ (cid:6)(cid:4) (cid:4)(cid:14)(cid:15)
(cid:20)(cid:21) (cid:22)
(cid:30)(cid:21) = (cid:5)(cid:16) + ((cid:26) − 1). (cid:22) . (cid:31)(cid:4) ( ≠ !) + (cid:26) " ∑ (cid:6)(cid:4)
(cid:17) (cid:5)(cid:16) =∑ (cid:5)(cid:4) . (cid:4)(cid:14)(cid:15) Sau khi chuyển đổi, ta có: (cid:18) . (cid:17) (cid:7). ∑ (cid:6)(cid:9) (cid:4)(cid:14)(cid:15)
(cid:17) (cid:4)(cid:14)(cid:15)
16
Để biểu hiện sự lan tỏa tri thức liên ngành, nghiên cứu này
dựa trên cơ sở ý tưởng của Griliches (1992).
Tổng lượng tri thức của ngành i từ tất cả các nguồn tri thức
sẵn có được thể hiện trong Griliches (1992) như sau:
(2.39)
.
(cid:17) . (cid:7). ∑ (cid:6)(cid:4) (cid:4)(cid:14)(cid:15)
(cid:30)(cid:21) (cid:22) (cid:17) (cid:4)(cid:14)(cid:15)
(cid:1)(cid:4) = ∑$(cid:4)(cid:9)(cid:1)(cid:9) Cuối cùng ta có: (cid:20)(cid:21) = (cid:5)(cid:16) + ((cid:26) − 1). (cid:18) (cid:22) (cid:17) (cid:26) ∑ (cid:6)(cid:4) . ∑ $%(cid:16) . &% (’ ≠ () + (cid:7). ∑ (cid:6)(cid:9) (cid:4)(cid:14)(cid:15) (cid:13) ∑ (cid:23)(cid:4) (cid:4)(cid:14)(cid:15)
+ . (cid:31)(cid:4) ( ≠ !) - (2.41) Kế thừa ý tưởng hàm sản xuất tri thức của Pakes và Griliches (1984), nghiên cứu đã xây dựng mô hình xác định các nguồn lan tỏa tri thức tác động đến cải tiến, đổi mới cấp ngành. 2.2.2. Các kênh lan tỏa tri thức và các giả thuyết của
mục tiêu nghiên cứu thứ nhất
Griliches (1979) đã tranh luận rằng tích lũy tri thức của bất kỳ ngành hay phân ngành nào không chỉ bắt nguồn từ đầu tư nghiên cứu phát triển của chính ngành đó mà còn có thể bắt nguồn từ tri thức học được từ các ngành, phân ngành khác. Bởi vậy, năng suất của ngành i không chỉ phụ thuộc vào đầu tư vào nghiên cứu và phát triển của ngành i mà còn từ đầu tư của ngành j, ngành h và giữa các ngành khác. Dựa vào nền tảng này, nghiên cứu kiểm định các giải thuyết về tác động trực tiếp của hoạt động R&D lên cải tiến đổi mới trong nội bộ ngành đó và tác động gián tiếp của R&D từ các ngành khác lên hoạt động cải tiến, đổi mới của một ngành như sau:
H11: Hoạt động nghiên cứu và phát triển ở ngành i có tác
động tích cực đến cải tiến, đổi mới của chính ngành đó.
17
H12: Cải tiến, đổi mới ở ngành i có thể nhận được sự lan tỏa tích cực từ hoạt động nghiên cứu và phát triển ở các ngành khác liên quan.
Hofmann và Wan (2013) đã đề xuất ngoại tác theo chiều ngang của FDI có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến doanh nghiệp trong cùng ngành bởi bốn kênh bao gồm cạnh tranh, kế thừa và tận dụng, luân chuyển lao động và tác động thông qua cung ứng nguyên vật liệu đầu vào.
Markusen và Venables (1997) đã thiết kế một khung phân tích đánh giá được các tác động của các kết nối ngành. Họ đề xuất rằng ở cấp độ ngành, sự hiện hữu của FDI có thể thay đổi cung cầu ở một ngành liên quan.
Dựa trên nền tảng của ngoại tác xuôi và ngược của FDI được đề xuất bởi Markusen và Venables (1997), Hofmann và Wan (2013), nghiên cứu đưa ra các giải thuyết sau:
H13: Giao dịch với doanh nghiệp FDI ở ngành i có thể giúp
nâng cao cải tiến đổi mới ở chính ngành đó.
H14: Cải tiến đổi mới ở ngành i có thể nhận được các tác động lan tỏa từ các giao dịch với FDI trong các ngành khác liên quan.
Grossman và Helpman (1991) đã xây dựng khung phân tích về đóng góp của yếu tố nước ngoài lên nguồn vốn tri thức tích lũy trong nước tăng lên theo số lượng các giao dịch thương mại giữa đối tác trong nước và nước ngoài. Dựa vào căn cứ trên, nghiên cứu đưa ra các giả thuyết về tác động trực tiếp và gián tiếp của xuất khẩu và nhập khẩu như sau:
H15a: Xuất khẩu ở ngành i có thể thúc đẩy năng lực cải tiến
đổi mới của chính ngành đó.
18
H15b: Nhập khẩu ở ngành i có thể thúc đẩy năng lực cải tiến
đổi mới của chính ngành đó.
H16a: Cải tiến đổi mới ở ngành i có thể được thúc đẩy bởi
hoạt động xuất khẩu ở các ngành liên quan.
H16b: Cải tiến đổi mới ở ngành i có thể được thúc đẩy bởi
hoạt động nhập khẩu ở các ngành liên quan.
2.2.3. Khung lý thuyết về lan tỏa tri thức đến các doanh nghiệp 2.2.3.1. Tranh luận về lan tỏa tri thức trong nội bộ
ngành đến các doanh nghiệp
Griliches (1991) đã khẳng định tác động lan tỏa nội ngành
thông qua năng suất các nhân tố tổng hợp như sau:
A = Y/X = ). *+,-.(cid:15) . (cid:1)/ . 0 12,3 (2.48) Như ở phương trình trên, TFP không chỉ phụ thuộc vào các nhập lượng đầu vào truyền thống mà còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố không đo lường được thay đổi theo thời gian. Trong nghiên cứu của Griliches (1991) chưa đề cập cụ thể về các nhân tố chưa đo lường được này. Nghiên cứu này đã lập luận và đề xuất các nhân tố này có thể bao gồm các nhân tố liên quan đến bối cảnh của ngành và của địa phương nơi doanh nghiệp hoạt động. Cụ thể, nghiên cứu đi vào đo lường và đánh giá tác động của cải tiến đổi mới cấp ngành và vốn nguồn nhân lực của địa phương đối với TFP của doanh nghiệp.
2.2.3.2. Ngoại tác tích cực từ nguồn vốn nhân lực của
địa phương đến các doanh nghiệp
Moretti (2004) khởi đầu xây dựng khung phân tích và trực tiếp ước lượng các tác động ngoại tác của vốn nguồn nhân lực lên năng suất của các doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp
19
chế tạo. Để mô tả bản chất của sự cân bằng về không gian khi có sự hiện diện của lan tỏa từ vốn nguồn nhân lực, Moretti (2004) đã xây dựng khung phân tích cân bằng tổng quát. Giả sử có hai thành phố với hai loại lao động là đã qua đào tạo và chưa qua đào tạo, Moretti (2004) đã đưa ra giả định có hai loại hàng hóa một là hàng hóa được giao thương trong phạm vi quốc gia và còn lại là hàng hóa được giao thương ở phạm vi địa phương. Sử dụng hàm Cobb-Douglas, mỗi thành phố là một nền kinh tế cạnh tranh với hàm sản xuất của các doanh nghiệp như sau:
Y = A 454656 78 (2.49) Trong đó H và L lần lượt là số giờ làm việc của lao động có kỹ năng và lao động chưa có kỹ năng và K là vốn. Để tìm thấy ngoại tác tích cực từ vốn nhân lực, Moretti (2004) đã phân tích năng suất của doanh nghiệp thuộc một thành phố sẽ chịu sự tác động của tổng vốn nguồn nhân lực của thành phố đó: A = f(9̅) trong đó 9̅ là tỷ lệ lao động đã tốt nghiệp cao đẳng của thành phố nhưng không thuộc doanh nghiệp đó.
2.2.4. Mô hình đa cấp độ về năng suất các nhân tố tổng hợp của doanh nghiệp và các giả thuyết của mục tiêu nghiên cứu thứ hai
Dựa vào lý thuyết kinh tế lợi thế theo quy mô (Silberston
A., 1972) nghiên cứu đưa ra giả thuyết sau:
H21: Quy mô doanh nghiệp có tác động dương đến năng suất
các nhân tố tổng hợp (TFP) của doanh nghiệp
Trong quá trình phân tách các thành tố thuộc TFP của doanh nghiệp ở Mỹ, Solow (1962) đã tìm thấy TFP chủ yếu chịu tác
20
động bởi công nghệ so với yếu tố vốn và lao động. Dựa vào cơ sở đó, nghiên cứu đã đưa ra giả thuyết:
H22: Doanh nghiệp có tỷ suất vốn trên lao động cao sẽ có
năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) cao.
Dựa vào ý tưởng học hỏi từ xuất khẩu (LBE) được thảo luận và nghiên cứu từ giữa thập niên 1980s bởi Rhee và các cộng sự (1984), Westpha và các cộng sự (1984) và Grossman và Helpman (1991) và World Bank (1993), nghiên cứu đã đưa ra giả thuyết:
H23: Doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu có thể có năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) cao hơn các doanh nghiệp không xuất khẩu.
Dựa vào lý thuyết của Griliches (1992) về lan tỏa tri thức nội ngành lên doanh nghiệp, nghiên cứu đã kiểm định giả thuyết sau đây:
H24: Cải tiến đổi mới cấp ngành có tác động lan tỏa tích cực đến năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) của các doanh nghiệp thuộc ngành đó trong cùng một năm.
H25: Cải tiến đổi mới cấp ngành ở năm trước có tác động lan tỏa tích cực đến năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) của các doanh nghiệp thuộc ngành đó ở năm hiện tại.
Dựa vào khung phân tích của Moretti (2004), nghiên cứu
kiểm định giả thuyết:
H26: Nguồn vốn nhân lực của địa phương có thể có tác động lan tỏa tích cực đến năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) của các doanh nghiệp thuộc địa phương đó. 2.3. Các nghiên cứu thực nghiệm
21
Nội dung của phần này đã tổng hợp các nghiên cứu thực nghiệm liên quan đến ba nhóm chủ đề chính bao gồm tổng hợp các nghiên cứu liên quan đến các nhân tố ảnh hưởng đến cải tiến đổi mới cấp ngành, các kênh lan tỏa tri thức và các nghiên cứu ứng dụng mô hình hồi quy không gian. Thêm vào đó là các nghiên cứu thực nghiệm về TFP.
22
Hình 2.3. Khung phân tích của nghiên cứu
Nguồn: Tổng hợp bởi tác giả
23
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Mô hình nghiên cứu về cải tiến đổi mới cấp ngành
Nghiên cứu áp dụng mô hình hồi quy không gian (Spatial Durbin Model -SDM), một mô hình có hướng tiếp cận thích hợp để phân tích các tác động lan tỏa (Beer và Riedl, 2010) như sau:
ᵂ(cid:4)(cid:9) ;(cid:9)2 ᵂ(cid:4)(cid:9) *%(cid:9)2
(cid:13) + ∑ (cid:9)(cid:14)(cid:15)
(cid:13) ;(cid:4)2 = δ ∑ (cid:9)(cid:14)(cid:15)
θk + *%(cid:4)2 =% + Zkit γk +εit (*) (t=1……T, i=1…n) (3.1) Trong đó, biến phụ thuộc ;(cid:4)2 ở phương trình (3.1) liên quan đến hoạt động cải tiến, đổi mới lần lượt được đo bởi biến số S_modified và S_Innovation. Các biến độc lập X liên quan đến các kênh lan tỏa bao gồm S_RD_meanit, S_FDI_Supplierit, S_FDI_Customerit, S_exportit and S_InputImportit. ᵂ(cid:4)(cid:9) là ma trận thể hiện mối quan hệ giữa ngành i và ngành j thông qua việc trao đổi các nguyên vật liệu đầu vào. Mô tả chi tiết của các biến được thể hiện ở Bảng 3.1.
Các ngành trong nghiên cứu này được xác định dựa trên phân ngành 4 chữ số của VSIC. Doanh nghiệp được phân theo ngành sản xuất chính ở đây là ngành mà doanh nghiệp có giá trị sản xuất hoặc doanh thu cao nhất hoặc có số lượng lao động cao nhất. Để các nhóm ngành tương thức với các nhóm ngành trong Bảng cân đối liên ngành (Input/Output), nghiên cứu gộp các ngành công nghiệp chế tạo theo VSIC thành 38 nhóm ngành tương ứng với các ngành trong Bảng Input/Output (chi tiết như trong Phụ lục 1, trang xx). Cuối cùng, nghiên cứu tạo được một dữ liệu bảng với 190 quan sát từ năm 2010 đến năm 2014.
24
3.2. Mô hình nghiên cứu về sự khác biệt trong TFP của doanh nghiệp bằng mô hình đa cấp độ
Để phân tách tác động của từng cấp độ gồm doanh nghiệp, ngành và tỉnh, mô hình đa cấp độ đơn giản được xây dựng không bao gồm biến độc lập được thể hiện như sau:
;(cid:4)((cid:16)(cid:9)) = (cid:6)>>> + ?(cid:16) + ?(cid:9) + ?(cid:16)(cid:9) + 0(cid:4)((cid:16)(cid:9))
(3.29) Trong đó ;(cid:4)((cid:16)(cid:9)) là TFP của doanh nghiệp i thuộc ngành s và ở tỉnh j, (cid:6)>>> là trung bình TFP của tất cả các ngành và tỉnh. ?(cid:16) là tác động của ngành nơi mà doanh nghiệp i hoạt động chính. ?(cid:9) là tác động của tỉnh mà doanh nghiệp i hoạt động. 0(cid:4)((cid:16)(cid:9)) là phần dư thuộc đặc tính doanh nghiệp. Ngoài ra, mô hình cũng bao gồm tác động kết hợp ngẫu nhiên của yếu tố ngành và địa phương ?(cid:16)(cid:9).
Kết quả ước lượng của mô hình theo phương trình (3.29) cho biết mức độ ảnh hưởng của từng cấp độ doanh nghiệp, ngành và tỉnh lên sự khác biệt trong TFP của doanh nghiệp. Dựa trên kết quả này, nghiên cứu sẽ xem xét việc đưa vào mô hình các biến số liên quan đến đặc tính doanh nghiệp, đặc tính ngành và địa phương như sau:
(cid:6)@ =A ;(cid:4)((cid:16)(cid:9)) = (cid:6)>>> + ∑
(cid:13) *@(cid:4)((cid:16)(cid:9)) + ∑ A(cid:14)(cid:15)
BC. 9C(cid:16)
(cid:17) @(cid:14)(cid:15) + ?(cid:16) + ?(cid:9) + 0(cid:4)((cid:16)(cid:9))
. &A(cid:4)(cid:9) + % ∑ (3.30) C(cid:14)(cid:15) Trong đó, ;(cid:4)((cid:16)(cid:9)) là TFP của doanh nghiệp i thuộc ngành s và ở tỉnh j. X là một vector bao gồm m biến số thuộc đặc tính của doanh nghiệp có tác động lên TFP của doanh nghiệp. Z là các biến số thuộc cấp tỉnh và S là các biến số thuộc cấp ngành.
25
Nghiên cứu đã kiểm soát vấn đề bỏ sót biến và nội sinh bằng việc so sánh kết quả của mô hình trên với kết quả của mô hình tác động cố định (Fixed effects). Ngoài ra, nghiên cứu cũng áp dụng phương pháp Hausman – Taylor để khắc phục vấn đề nội sinh và có được kết quả ước lượng hiệu quả hơn.
Mô tả chi tiết về các biến trong mô hình được trình bày trong Bảng 3.2. Dữ liệu doanh nghiệp (VES) được sử dụng để đo lường TFP của doanh nghiệp từ năm 2011 đến 2015. Bên cạnh đó, nghiên cứu có sử dụng dữ liệu cấp tỉnh của Tổng cục Thống kê. Tất cả các doanh nghiệp được quan sát từ năm 2011 đến 2014 với số lượng 7,236 doanh nghiệp qua từng năm tạo thành một dữ liệu bảng với 28,944 quan sát thuộc 38 ngành và 62 tỉnh thành.
4. CẢI TIẾN ĐỔI MỚI CẤP NGÀNH VÀ TÁC ĐỘNG LAN TỎA: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TỪ MÔ HÌNH HỒI QUY KHÔNG GIAN VÀ THẢO LUẬN KẾT QUẢ
Kết quả của mô hình ở mục 4.3 hầu như là thống nhất với nhau. Tác động tích cực trực tiếp của R&D lên cả hoạt động đổi mới cũng như hoạt động cải tiến của một ngành đã ủng hộ giả thuyết của Cohen và Levinthal (1989) và Griliches (1992). Tuy nhiên, nghiên cứu không tìm thấy bằng chứng của tác động gián tiếp từ R&D lên hoạt động đổi mới hay cải tiến của ngành. Về tác động của FDI, nghiên cứu cũng không tìm thấy tác động tích cực nào của FDI như trong giải thuyết của Hofmann và Wan (2013) and Markusen và Venables (1997). Ngược lại, nghiên cứu tìm thấy tác động tiêu cực của số lượng nhà cung ứng FDI trong một ngành lên hoạt động cải tiến đổi mới của
26
ngành đó. Liên quan đến xuất khẩu, nghiên cứu đã tìm thấy tác động tích cực của xuất khẩu lên hoạt động cải tiến đổi mới của một ngành. Kết quả nghiên cứu này đã ủng hộ giả thuyết của Grossman and Helpman (1991). Ngược lại, nguyên vật liệu đầu vào nhập khẩu lại có tác đông tiêu cực lên hoạt động cải tiến đổi mới của ngành.
5. KHÁC BIỆT VỀ NĂNG SUẤT CÁC NHÂN TỐ TỔNG HỢP (TFP) CỦA DOANH NGHIỆP CHẾ TẠO Ở VIỆT NAM: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TỪ MÔ HÌNH ĐA CẤP ĐỘ VÀ THẢO LUẬN KẾT QUẢ
Kết quả ước lượng về tác động của các nhân tố lên TFP của doanh nghiệp là thống nhất qua kết quả các mô hình. Theo kết quả của kiểm định LR ở Bảng A5 và Bảng A6 (phụ lục ở trang xxiv), mô hình đa cấp độ được xác định là mô hình thích hợp nhất. Nghiên cứu đã so sánh cẩn thận kết quả mô hình tác động ngẫu nhiên của ngành và tỉnh với mô hình tác động cố định. Sự thống nhất giữa kết quả của hai mô hình trên là một dấu hiệu tốt để áp dụng mô hình tác động ngẫu nhiên (Bell và Jones, 2015).
Nghiên cứu này đã tìm thấy nguồn gốc tạo nên sự khác biệt trong TFP của các doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệpn chế tạo ở Việt Nam. Quy mô doanh nghiệp có tác động tích cực lên TFP của doanh nghiệp đã ủng hộ giả thuyết lợi thế theo quy mô theo Silberston A. (1972). Thêm vào đó, kết quả nghiên cứu cũng ủng hộ giả thuyết về vai trì của vốn lên năng suất của doanh nghiệp như trong Solow (1962). Tác động tích cực của hoạt động xuất khẩu lên TFP cũng đã ủng hộ giả thuyết học hỏi từ xuất khẩu (LBE) của Grossman và Helpman (1991).
27
Liên quan đến tác động lan tỏa từ ngành lên TFP của doanh nghiệp, nghiên cứu cũng tìm thấy kết quả thống nhất với giả thuyết của Griliches (1992) về tác động lan tỏa nội ngành. Cụ thể, cải tiến đổi mới của ngành có thể có tác động lên TFP của doanh nghiệp với độ trễ khoảng một năm. Trong khi đó, tác động lan tỏa của vốn nguồn nhân lực của tỉnh cũng thống nhất với lý thuyết và bằng chứng trong nghiên cứu của Moretti (2004). Vốn nguồn nhân lực của tỉnh được tìm thấy có tác động lan tỏa tích cực lên TFP của doanh nghiệp thuộc tỉnh đó.
6. KẾT LUẬN VÀ THẢO LUẬN KẾT QUẢ Hoạt động R&D có thể có những tác động tích cực lên cải tiến đổi mới cấp ngành. Ngành có càng nhiều doanh nghiệp thực hiện hoạt động R&D thì ngành đó sẽ có thể nâng cao được năng lực cải tiến, đổi mới của ngành. Tuy nhiên, theo phần tổng quan thực trạng ở chương 3 thì hoạt động R&D chủ yếu được thực hiện bởi khu vực Nhà Nước. Ngoài ra, thực trạng phản ánh tính thiếu kết nối trong hoạt động R&D giữa các bên như doanh nghiệp, trường đại học, chính phủ. Do đó, hoạt động R&D cần được khuyến khích, hỗ trợ thực hiện ở cấp doanh nghiệp vì sự tham gia hiệu quả vào hoạt động R&D của doanh nghiệp không chỉ thúc đẩy doanh nghiệp đó phát triển mà còn thúc đẩy được hoạt động cải tiến đổi mới cấp ngành của doanh nghiệp đó.
Hoạt động xuất khẩu cũng được tìm thấy có tác động tích cực lên cả hoạt động đổi mới và cải tiến của ngành. Do đó, các chính sách hỗ trợ và khuyến khích xuất khẩu có thể tạo nên những tác động tích cực cho hoạt động cải tiến đổi mới thông qua việc học hỏi từ xuất khẩu.
28
Trong khi đó, trái với mong đợi, lan tỏa từ FDI được tìm thấy có tác động tiêu cực đến hoạt động cải tiến đổi mới của ngành. Như được mô tả ở chương 3, doanh nghiệp Việt Nam không thực hiện nhiều giao dịch với doanh nghiệp nước ngoài. Dường như, các doanh nghiệp Việt Nam thuộc ngành công nghiệp chế tạo cũng thiếu các năng lực hấp thu các lợi ích có thể có từ doanh nghiệp nước ngoài. Do đó, chính phủ nên có những chính sách hỗ trợ việc nâng cao năng lực cạnh tranh và hấp thu của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, chính phủ cũng nên có những quy định liên quan đến hoạt động FDI để những tác động tích cực có thể có của FDI lan tỏa vào nền kinh tế trong nước. Bên cạnh FDI, nhập khẩu nguyên vật liệu cũng có tác động tiêu cực đến hoạt động cải tiến, đổi mới cấp ngành. Việc nhập khẩu nguyên vật liệu đầu vào dường như đã làm cho các ngành tăng sự lệ thuộc vào thị trường nước ngoài thay vì tăng cường tri thức học hỏi được từ nước ngoài. Tuy nhiên, nhập khẩu nguyên vật liệu đầu vào dường như lại có tác động tích cực gián tiếp lên các ngành có liên quan. Do đó, chính phủ nên xem xét cẩn trọng danh mục các nguyên vật liệu đầu vào cần nhập khẩu và nguyên vật liệu đầu vào có thể được sản xuất trong nước.
Kết quả về sự khác biệt trong năng suất các nhân tố tổng hợp của doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp chế tạo Việt Nam cho thấy các chính sách thúc đẩy TFP không chỉ bao gồm các chính sách liên quan đến doanh nghiệp mà bao gồm các chính sách liên quan đến ngành và địa phương. Ở cấp doanh nghiệp, doanh nghiệp có quy mô lớn có thể đạt được lợi thế theo quy mô để có được TFP cao hơn. Chính sách thúc đẩy xuất khẩu và tăng cường sử dụng vốn cũng có thể giúp nâng cao
29
TFP của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được tìm thấy có năng suất cao hơn các doanh nghiệp trong nước. Do đó, các chính sách cần nghiên cứu tập trung việc học hỏi, hấp thu tri thức công nghệ hoặc phương pháp sản xuất từ doanh nghiệp nước ngoài.
Liên quan đến các nhân tố cấp ngành, cải tiến đổi mới cấp ngành được tìm thấy có tác động lan tỏa tích cực lên TFP của doanh nghiệp với một độ trễ thời gian nhất định mà trong nghiên cứu này tìm thấy độ trễ có thể là một năm. Do đó, chính phủ cần có chính sách thúc đẩy năng lực cải tiến đổi mới cấp ngành nhằm tạo tác động lan tỏa tích cực lên năng suất của các doanh nghiệp trong ngành.
Ở cấp độ tỉnh, vốn nguồn nhân lực được tìm thấy có tác động lan tỏa tích cực lên TFP của doanh nghiệp thuộc tỉnh đó. Điều này chứng tỏ sự cần thiết của các chính sách nâng cao chất lượng nguồn vốn nhân lực ở các địa phương. Bên cạnh giáo dục ở các bậc đại học và cao hơn, giáo dục dạy nghề cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy năng suất của doanh nghiệp trong nghiên cứu này. Do đó, chính phủ cũng nên quan tâm hơn đến việc tuyển sinh và nâng cao chất lượng của các chương trình giáo dục dạy nghề.