intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Ẩn dụ ý niệm miền “đồ ăn” trong tiếng Việt

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:256

197
lượt xem
55
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận án là vận dụng lí thuyết Ngôn ngữ học tri nhận vào thực tiễn tiếng Việt để xác lập cấu trúc ý niệm và miền ý niệm “đồ ăn”, tìm hiểu các miền đích, miền nguồn và hệ thống ánh xạ, cơ chế ánh xạ giữa các miền ý niệm; hệ thống hóa ẩn dụ ý niệm “đồ ăn” trong tiếng Việt; từ đó nghiên cứu đặc trưng tri nhận, bản sắc văn hóa riêng của người Việt qua ẩn dụ ý niệm “đồ ăn”.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Ẩn dụ ý niệm miền “đồ ăn” trong tiếng Việt

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI NGUYỄN THỊ BÍCH HỢP ẨN DỤ Ý NIỆM MIỀN “ĐỒ ĂN” TRONG TIẾNG VIỆT  Chuyên ngành : Ngôn ngữ Việt Nam Mã số           : 62.22.01.02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Đặng Thị Hảo Tâm
  2. HÀ NỘI ­ 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.  Các số liệu thống kê là hoàn toàn trung thực do tôi thực hiện. Đề tài nghiên   cứu và các kết luận khoa học của luận án chưa từng được công bố  trong  bất kì công trình nào khác.  Tác giả luận án Nguyễn Thị Bích Hợp
  3. LỜI CẢM ƠN Luận án này được hoàn thành tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội với sự   giúp đỡ quý báu của nhiều tập thể và cá nhân.  Trước tiên, tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc nhất tới PGS.TS. Đặng Thị  Hảo   Tâm, người đã luôn quan tâm khích lệ, tận tình hướng dẫn, truyền nhiệt huyết   cho tôi trong suốt quá trình học tập nghiên cứu; giúp tôi hình thành, hoàn thiện   luận án và trưởng thành trong khoa học.  Tôi xin trân trọng cảm  ơn các thầy cô giáo trường Đại học Sư phạm Hà   Nội, Viện Ngôn ngữ học, Viện Từ điển học và Bách khoa thư, Trường Đại học   Quốc gia Hà Nội và các nhà khoa học đã trang bị  kiến thức, chỉ  bảo cho tôi   trong quá trình học tập, nâng cao chất lượng đề tài nghiên cứu. Tôi đặc biệt biết  ơn Ban Giám hiệu – Lãnh đạo trường Đại học Tân   Trào, các Phòng ban, Khoa – Bộ  môn và đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ  và   chia sẻ với tôi về mọi mặt trong suốt chương trình học tập Nghiên cứu sinh. Tôi xin cảm  ơn trường Đại học Sư  phạm Hà Nội, Khoa Ngữ văn, Phòng   Sau Đại học đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành luận án. Tôi ghi nhớ  và trân trọng tình cảm, sự  nhiệt tình của anh chị  em Nghiên   cứu sinh, bạn bè đã cùng tôi vượt qua nhiều thử  thách, giúp tôi thực hiện các   điều tra xã hội học, góp ý cho tôi để kết quả nghiên cứu được trọn vẹn. Tôi xin gửi lời cảm  ơn chân thành nhất tới Bố  Mẹ, Chồng và các Con,   cùng toàn thể  gia đình – những người luôn yêu thương,  ủng hộ, chia sẻ, gánh   vác, sát cánh bên tôi trong những năm tháng nghiên cứu và phấn đấu.
  4. Trân trọng!      Hà Nội, tháng 12 năm 2015     Tác giả luận án Nguyễn Thị Bích Hợp
  5. MỤC LỤC Trang
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG
  7. DANH MỤC MÔ HÌNH, HÌNH
  8. DANH MỤC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ, LƯỢC ĐỒ   Biểu đồ 2.2.2.1b. Tỉ lệ các ý niệm trong miền “đồ ăn” Sơ đồ 3.2.1.1h. Mô hình tri nhận ý niệm thực thể “bữa”
  9. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. “Con người trước hết cần phải ăn, uống, chỗ ở và mặc đã rồi mới có   thể  làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo… được”. Đó là nhận định của  Ăng­ghen trong Điếu văn đọc trước mộ  Các­Mác,  trong đó “ăn” được xếp vào  nhu cầu bản thể đầu tiên của con người – tất nhiên, đồ ăn luôn có ý nghĩa sống  còn với sự sinh tồn. Hơn thế, đồ  ăn còn được chú ý đến trên bình diện văn hóa   tinh thần. Đỗ Hữu Châu trong [7] đã nêu quan điểm: văn hóa khác nhau thì ngôn  ngữ  khác nhau, ngôn ngữ  khác nhau thì  ứng xử  văn hóa khác nhau. Trong ngôn  ngữ,  ẩn dụ  là một điểm mở  để  tìm hiểu văn hóa.  Ẩn dụ  là những hiểu biết,   những tín điều, tình cảm;  ẩn dụ  có ý nghĩa đánh giá, gợi ra những ý nghĩa tốt,   xấu khác nhau – ẩn dụ là một bộ phận của văn hóa. Như vậy, quan điểm nhất quán đã được khẳng định từ lâu là ẩm thực cũng  như  ngôn ngữ  (cụ  thể hơn là ẩn dụ) đều có quan hệ  mật thiết với văn hóa. Nhà  nghiên cứu Trần Quốc Vượng khái quát “Bản sắc văn hóa Việt Nam đọng trong   văn hóa ngôn từ và văn hóa ăn uống” . Có thể nói, tìm hiểu văn hóa dựa trên đối   tượng nghiên cứu  ẩm thực nói chung trong ngôn ngữ  Việt Nam là góc nhìn lí   tưởng và rộng mở. Theo quan niệm của Ngôn ngữ học tri nhận thế giới, “đồ ăn” là một trong   những miền nguồn cơ bản – được Z. Kovecses xác định là “Cooking and Food”   trong [141]. Nghiên cứu ẩn dụ ý niệm “đồ ăn” trong tiếng Việt trong sự đối sánh  với ngôn ngữ khác sẽ giúp thấy được những tương đồng và khác biệt về văn hóa,   tư duy. 1.2. Ngôn ngữ  phản ánh hiện thực nhưng không đơn thuần là tấm gương   phẳng, đó là sự phản chiếu qua lăng kính chủ quan, theo quan điểm của khoa học   tri nhận: ngôn ngữ  là công cụ  tri nhận của con người. Trong đó,  ẩn dụ  là một  trong những công cụ tiêu biểu và hiệu quả. Ngôn ngữ học cấu trúc, Văn học… đã   xem ẩn dụ là cách diễn đạt bóng bẩy, mang giá trị  tu từ, đem lại hiệu quả thẩm  
  10. mĩ cao và được nghiên cứu chủ  yếu ở góc độ  tu từ, không liên quan đến tư  duy,  tâm trí. Ngôn ngữ học tri nhận đã kéo ẩn dụ sang vùng nghiên cứu mới, đặt trong  mối tương quan giữa ngôn ngữ ­ tâm lí. Kể từ công trình kinh điển Metaphors We   Live By [149] của G. Lakoff và M. Johnson, ẩn dụ vượt ra hẳn phạm vi Ngôn ngữ  học, là đối tượng nghiên cứu của khoa học liên ngành. Ẩn dụ không chỉ xuất hiện   trong thơ  ca mà còn thể  hiện vai trò trong mọi lĩnh vực: đời thường, kinh tế,   ngoại giao, quảng cáo, khoa học, điện ảnh, chính trị…   Ở  Việt Nam, đã có hàng trăm công trình, bài viết bàn luận, vận dụng lí   thuyết Ngôn ngữ  học tri nhận để  nghiên cứu Việt ngữ, trong đó đa số  quan tâm  đến  ẩn dụ  ý niệm. Trào lưu này đã tạo nên một vòng xoáy khá lớn thu hút về  mình cả  những nghiên cứu  ở  những góc độ, lĩnh vực dường như  độc lập với tri  nhận. Có thể nói, Ngôn ngữ học tri nhận nói chung, ẩn dụ ý niệm nói riêng đang   nhận được sự chú ý của các nhà ngôn ngữ  học Việt Nam, bước đầu khẳng định   được vai trò của mình trong lĩnh vực nghiên cứu ngôn ngữ từ góc độ tâm lí, tư duy  và văn hóa. 1.3. Mặc dù số lượng khá lớn, nhưng trong số các nghiên cứu Ngôn ngữ  học tri nhận đã có ở Việt Nam, chưa có công trình độc lập nào tìm hiểu về đối   tượng ẩm thực trong ngôn ngữ Việt. Các ẩn dụ nổi bật – đã được bàn bạc nhiều   chủ  yếu liên quan tới các ý niệm tình cảm, thực vật, hành trình, bộ  phận cơ  thể… Kết quả  nghiên cứu về  nhóm đối tượng này còn tương đối đơn sắc, đa   phần liệt kê các  ẩn dụ, hoặc minh họa  ẩn dụ  có sẵn trong tiếng Anh, chỉ  ra   miền nguồn­đích. Hiện thực đó chưa đi tới bề  sâu của vấn đề, chưa trả  lời  được nhiều câu hỏi mang tính chất tri nhận, chẳng hạn: tại sao một miền  ý  niệm lại trở thành miền nguồn/đích (?), cơ chế nào chi phối sự ánh xạ  từ  miền  nguồn này tới miền đích khác (?), các  ẩn dụ  đó có kết nối với nhau hay không  (?), có đặc điểm nào khác biệt giữa ẩn dụ này với ẩn dụ khác, hoặc giữa ẩn dụ  của dân tộc này với dân tộc khác hay không (?).v.v… Xét riêng về  phạm vi  ăn  uống, có nhiều hướng nghiên cứu về đối tượng này như  ý niệm hóa, phạm trù 
  11. hóa, giả  thuyết nghiệm thân, hoán dụ,  ẩn dụ  ý niệm… hoặc trên các phạm vi  nghiên cứu cụ thể liên quan đến ẩm thực như  ăn hoặc uống… Trong khuôn khổ  luận án, việc bao quát hết tất cả các phương diện và phạm vi nói trên là rất khó  khăn, do đó, nghiên cứu riêng  ẩn dụ  ý niệm liên quan đến đồ  ăn có thể là một  cách tiếp cận có hứa hẹn. Từ những khoảng trống trong nghiên cứu ẩn dụ ý niệm nói chung, nghiên  cứu về  đồ ăn nói riêng như trên, với mong muốn góp phần vận dụng Ngôn ngữ  học tri nhận vào Việt ngữ, chúng tôi quyết định lựa chọn đề  tài: Ẩn dụ ý niệm   miền “đồ ăn” trong tiếng Việt . 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận án là vận dụng lí thuyết Ngôn ngữ  học tri nhận vào  thực tiễn tiếng Việt để  xác lập cấu trúc ý niệm và miền ý niệm “đồ  ăn”, tìm   hiểu các miền đích, miền nguồn và hệ  thống ánh xạ, cơ  chế  ánh xạ  giữa các  miền ý niệm; hệ thống hóa ẩn dụ ý niệm “đồ ăn” trong tiếng Việt; từ đó nghiên   cứu đặc trưng tri nhận, bản sắc văn hóa riêng của người Việt qua ẩn dụ ý niệm   “đồ ăn”.  Ngoài ra, luận án cũng lưu ý tới các hiện tượng hoán dụ tri nhận, hòa trộn ý   niệm trong mối tương quan với ẩn dụ ý niệm. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận án tập trung giải quyết những  nhiệm vụ cơ bản sau đây: ­ Hệ thống hóa các vấn đề Ngôn ngữ học tri nhận làm cơ sở lí thuyết trực  tiếp cho đề tài. ­ Tìm hiểu ý niệm “đồ  ăn” và miền ý niệm “đồ  ăn” trong tiếng Việt; xây  dựng cấu trúc của miền, xác định và phân tích điển mẫu thông qua phân tích khối  liệu và điều tra xã hội học. 
  12. ­ Khảo sát, nghiên cứu các miền ý niệm khác có quan hệ ẩn dụ với miền ý niệm   “đồ ăn”, xác lập hệ thống ánh xạ, nhận diện cơ chế ánh xạ và hòa trộn ý niệm giữa  các miền. ­ Thống kê, phân loại, phân tích các ẩn dụ ý niệm “đồ ăn” nổi bật. ­ Chắt lọc và lí giải những giá trị văn hóa, bản sắc tư duy dân tộc qua ẩn dụ  ý niệm “đồ ăn”. ­ So sánh, đối chiếu với tiếng Anh trong các trường hợp cần thiết: giá trị tri  nhận tương đương nhưng khác biệt về phương thức; hoặc phương thức tương tự  nhưng có ý nghĩa khác. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề  tài là toàn bộ  nội hàm tri nhận, cấu trúc,   đặc trưng, cơ chế hoạt động và các vấn đề liên quan của hệ thống ẩn dụ ý niệm  miền “đồ ăn” trong tiếng Việt. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận án là hệ  thống  ẩn dụ  ý niệm miền “đồ  ăn”   tiếng Việt từ  truyền thống đến hiện đại, trong mối quan hệ  tổng thể  từ  miền   nguồn, miền đích, hệ thống ánh xạ và các giá trị văn hóa, tư duy liên quan. Đề  tài chủ  yếu tiến hành khảo sát  ẩn dụ  ý niệm miền “đồ  ăn” thông  qua ngôn ngữ  tự  nhiên, ca dao, tục ng ữ, thành ngữ  ­ nơi lưu giữ  quan ni ệm   sống, tri thức văn hóa dân gian của người Việt; ngôn ngữ  trong các tác phẩm   văn học Việt Nam hiện đại, phim  ảnh, báo chí đươ ng thời để  nhận diện  ẩn   dụ ý niệm trong truyền th ống cũng như trong đời sống hiện nay người Việt .  Ngữ  liệu tiếng Anh dùng để  đối chiếu trong luận án được trích xuất từ  kho Ngôn ngữ khối liệu Anh (British National Corpus), một công cụ  tra cứu văn  bản tại website http://www.natcorp.ox.ac.uk/. 4. Phương pháp nghiên cứu
  13. ­  Phương pháp phân tích, miêu tả: phân tích các biểu thức ngôn ngữ  gắn với ngữ  cảnh cụ thể, xác định cấu trúc ý niệm; phân tích cấu trúc ẩn dụ  ý  niệm, xác định miền đích, miền nguồn, hệ thống ánh xạ; miêu tả  ý niệm, miền   ý niệm, ẩn dụ ý niệm làm cơ sở tìm hiểu các đặc trưng tư duy và hoạt động tâm   trí của con người. ­  Thủ  pháp thống kê, phân loại:  thống kê, phân loại, hệ  thống hóa ý  niệm, miền, ẩn dụ  ý niệm “đồ  ăn” trong tiếng Việt; khảo sát văn bản học, xây  dựng ngữ liệu làm cơ sở thực tiễn để áp dụng lí thuyết Ngôn ngữ học tri nhận; ­ Phương pháp điều tra xã hội học: điều tra xã hội học bằng bảng hỏi  trực tiếp và biểu mẫu trực tuyến qua công cụ  Google­docs thu thập ngữ  liệu   sinh hoạt, tìm hiểu đặc điểm tri nhận người Việt về ý niệm “đồ  ăn”,  ẩn dụ  ý   niệm “đồ ăn”. ­ Phương pháp so sánh: so sánh  ẩn dụ  ý niệm tiếng Việt và tiếng Anh  trong các trường hợp cần thiết để thấy rõ sự  khác biệt về  tri nhận, văn hóa, tư  duy giữa hai dân tộc. 5. Đóng góp mới của luận án 5.1. Về lí luận Các kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần khẳng định vị thế của lí  thuyết ngôn ngữ học tri nhận ở Việt Nam, hệ thống hóa các vấn đề lí thuyết cơ  bản của ẩn dụ ý niệm và soi sáng bằng sự phân tích, biện luận trên ngữ liệu ẩn  dụ  ý niệm – một nguồn ngữ  liệu phong phú, hàm chứa giá trị  văn hóa, tri nhận  cao.  Luận án sẽ  góp phần thúc đẩy việc nghiên cứu khuynh hướng lí thuyết   về  ngôn ngữ  học tri nhận  ở  Việt Nam, góp phần chứng minh  ẩn dụ  tri nhận   không chỉ là hình thái tu từ của thi ca mà còn là vấn đề của tư duy, là một công   cụ quan trọng để con người nhận thức thế giới. 5.2. Về thực tiễn
  14. Luận án là công trình vận dụng lí thuyết Ngôn ngữ  học tri nhận vào thực   tiễn tiếng Việt, kết quả  nghiên cứu của luận án có thể phác họa bức tranh tổng  quát về ẩn dụ ý niệm miền “đồ  ăn”, lí giải những hiện tượng ngôn ngữ  có liên  quan đến ẩn dụ “đồ ăn” trong thực tiễn giao tiếp, ứng dụng vào việc giảng dạy  tiếng Việt, hoặc sử  dụng như  một ví dụ  về  để  truyền bá – giới thiệu văn hóa  Việt Nam. Tóm lại, luận án là công trình bậc tiến sĩ đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu   chuyên sâu về   ẩn dụ  ý niệm miền “đồ  ăn” theo quan điểm ngôn ngữ  tri nhận.  Trong khuôn khổ  một luận án, chúng tôi cố  gắng thực hiện triệt để  mục đích,   nhiệm vụ  nghiên cứu đã đặt ra, hi vọng đóng góp vào quá trình  ứng dụng ngôn  ngữ học tri nhận ở Việt Nam. 6. Cấu trúc của luận án Ngoài Phần mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án  gồm 4 chương: ­ Chương 1: Tổng quan về đề tài nghiên cứu và cơ sở lí thuyết ­ Chương 2: Miền ý niệm “đồ ăn” trong tiếng Việt ­ Chương 3: Ánh xạ ẩn dụ, pha trộn miền ý niệm “đồ ăn” với các miền ý  niệm khác trong tiếng Việt ­ Chương 4: Hệ thống ẩn dụ ý niệm “đồ ăn” trong tiếng Việt
  15. Chương 1 TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU  VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT 1.1. Tổng quan về đề tài nghiên cứu 1.1.1. Sơ lược về Ngôn ngữ học tri nhận và nghiên cứu ẩn dụ ý niệm Trên thế giới, những nghiên cứu về ẩn dụ ý niệm xuất hiện cùng với sự  hình thành của Ngôn ngữ  học tri nhận những năm 70 của thế  kỉ XX.  Công trình  đầu tiên đánh dấu khuynh hướng này chính là  Metaphors We Live By (Chúng ta   sống trong ẩn dụ) [149] của G. Lakoff và M. Johnson xuất bản năm 1980. Ẩn dụ từ  đây đã thực sự  vượt qua ranh giới Ngôn ngữ  học thuần túy, trở  thành đối tượng   nghiên cứu của Tâm lí học, Triết học. Tác giả khẳng định “Hệ thống ý niệm thông   thường của chúng ta, dựa vào đó chúng ta vừa suy nghĩ vừa hành động, chủ yếu có   tính ẩn dụ trong bản chất”. Thực tiễn cho thấy: trong thi ca, hình thức ngôn ngữ  có khác nhưng bản chất  ẩn dụ  không khác gì cách diễn đạt ngôn ngữ  thường   ngày. Một điểm nữa cần ghi nhận là trước đây người ta chỉ  đề  cập đến ẩn dụ  một cách chung chung, không định danh từng ẩn dụ riêng biệt; còn G. Lakoff và   cộng   sự   đã   gọi   tên   các   ẩn   dụ   như:   ARGUMENT   IS   WAR,   THEORY   IS   BUILDING .v.v.  Những năm qua, Ngôn ngữ học tri nhận thế giới nói chung, nghiên cứu về  ẩn dụ ý niệm nói riêng đã ghi danh tên tuổi G. Lakoff, M. Johnson, Z. Kovecses,  G. Fauconnier, M. Turner, C. Fillmore, J.E. Grady, M. Green… Các tác giả đã đưa  ra một số  lí thuyết, khái niệm mới như  nghiệm thân, khung tri nhận,  ẩn dụ  ý   niệm, ánh xạ, miền ý niệm, không gian tinh thần, pha trộn ý niệm… Các ứng dụng thực hành về ẩn dụ ý niệm về các đối tượng tri nhận như  cảm xúc [140], không­thời gian [155], tình dục [134]…thu được những kết quả  rộng khắp trên các lĩnh vực thi ca [143], [151], giáo dục [127], báo chí [141], điện   ảnh, chính trị  [137] và đặc biệt là ngôn ngữ  thường ngày; trong các ngôn ngữ 
  16. ngoài tiếng Anh, chẳng hạn như tiếng Ma­rốc [125], tiếng Trung [161]… đem lại  nhiều nhận xét mới mẻ mà lịch sử nghiên cứu ẩn dụ truyền thống nhiều thế hệ  hầu như không có.  Ngoài ra, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy mối quan hệ mật thiết giữa ẩn   dụ  ý niệm và văn hóa, trong sự  ràng buộc giữa con người – ngôn ngữ  – xã hội,  coi  ẩn dụ  ý niệm là cánh cửa tìm hiểu tâm trí, tư  duy con người cũng như  các   đặc trưng xã hội riêng biệt của dân tộc [140], [142], [150], [153],…  Ở Việt Nam,  Ngôn ngữ  học tri nhận chính thức được xướng danh  trong  Ngôn ngữ  học tri nhận nhìn từ  lý thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng   Việt [103] của Lý Toàn Thắng. Tác giả giới thuyết một số khái niệm cơ sở như  tri nhận, ý niệm, hình – nền, nguyên lí “dĩ nhân vi trung”…  và đi sâu trình bày về  đặc điểm tri nhận không gian của người Việt. Đây là một công trình quan trọng   của Ngôn ngữ học tri nhận ở Việt Nam, vừa có ý nghĩa lí luận giới thiệu một xu   hướng mới, vừa có giá trị  thực tiễn khi áp dụng vào nghiên cứu tiếng Việt và   đưa ra những kết luận xác đáng, thuyết phục. Một cách khái quát, Ngôn ngữ học  tri nhận  ở  Việt Nam đã dần được định vị  bởi nhiều học giả  Lý Toàn Thắng;  Trần   Văn   Cơ  [12],   [15];   Nguyễn   Đức   Tồn   [114];   Nguyễn   Thiện   Giáp   [28];   Nguyễn Văn Hiệp [40], Đặng Thị Hảo Tâm [97], [98]…  Ẩn dụ  ý niệm trở  thành đối tượng nghiên cứu được quan tâm đặc biệt  trong nghiên cứu tri nhận ở Việt Nam. Các công trình đề cập đến đối tượng này  chia thành hai hướng: nghiên cứu trọng tâm về  ẩn dụ  ý niệm và nghiên cứu về  vấn đề tri nhận khác trong đó có một phần nội dung dành cho ẩn dụ ý niệm.  Các luận án tập trung tìm hiểu về ẩn dụ ý niệm gồm:  Ẩn dụ dưới góc độ   ngôn ngữ học tri nhận (trên cứ  liệu tiếng Việt và tiếng Anh) [60] của Phan Thế  Hưng (2010); Ẩn dụ  tiếng Việt nhìn từ  lí thuyết nguyên mẫu (so sánh với tiếng   Anh và tiếng Pháp) [29] của Võ Kim Hà (2011); Đối chiếu phương thức  ẩn dụ   nhìn từ  lí thuyết ngôn ngữ  học tri nhận trên cứ  liệu báo chí kinh tế  Anh –Việt   [32] của Hà Thanh Hải (2011); Nghiên cứu so sánh đối chiếu ẩn dụ trong tiếng  
  17. Việt và tiếng Hán từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận (trên tư liệu tên gọi bộ phận   cơ thể người) [50] của Trịnh Thị Thanh Huệ (2012);  Ẩn dụ ý niệm của phạm trù   thực vật trong tiếng Việt (có liên hệ  với tiếng Anh) [73] của Trần Thị  Phương  Lý (2012); Ẩn dụ tri nhận trong ca từ Trịnh Công Sơn [36] của Nguyễn Thị  Bích  Hạnh (2014);  Ẩn dụ  tri nhận trong thơ  Xuân Quỳnh  [91] của Phạm Thị  Hương  Quỳnh (2015)… Một hướng đi khác là các luận án vận dụng Ngôn ngữ  học tri nhận dành  một phần tương đối quan trọng cho  ẩn dụ  ý niệm, có thể  kể  tên các công trình  Ngữ nghĩa và cơ sở tri nhận của các từ biểu đạt tình cảm trong tiếng Anh (liên hệ   với tiếng Việt) [71] của Ly Lan (2012); Thành ngữ tiếng Anh và thành ngữ tiếng   Việt có yếu tố  chỉ  bộ  phận cơ  thể  người dưới góc nhìn của ngôn ngữ  học tri   nhận [119] của Nguyễn Ngọc Vũ (2012); Nghiên cứu thành ngữ  biểu thị  tâm lý   tình cảm trong tiếng Anh và tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ  học tri nhận [110]  của Trần Bá Tiến (2013); Nghiên cứu thành ngữ  chỉ  tâm lí tình cảm trong tiếng   Hán từ  góc độ  ngôn ngữ  học tri nhận (có liên hệ  với tiếng Việt)   [87] của Vi  Trường Phúc (2013); Nghiên cứu đối chiếu thành ngữ có từ  chỉ  ‘Nước’ và ‘Lửa’   trong tiếng Việt và tiếng Anh từ  lý thuyết  ẩn dụ  tri nhận  [63] của Huỳnh Ngọc  Mai Kha (2015); Nghiên cứu các phạm trù tình cảm trong ‘Truyện Kiều” (Nguyễn   Du) theo quan điểm của ngôn ngữ  học tri nhận  [93] của  Nguyễn Thu Quỳnh  (2015)… Ngoài các luận án tiêu biểu trên đây, còn rất nhiều bài báo, luận văn Thạc   sĩ quan tâm tới ẩn dụ ý niệm. Nhìn chung, Việt ngữ học đã vận dụng lí thuyết tri   nhận để giải quyết các vấn đề bản ngữ một cách linh hoạt. Có thể nói, bức tranh toàn cảnh về Ngôn ngữ  học tri nhận nói chung,  ẩn  dụ ý niệm nói riêng ở Việt Nam và trên thế giới ngày càng mở rộng phong phú.   Trong khuôn khổ và mục tiêu của luận án, chúng tôi chỉ  trình bày dưới đây vấn   đề có liên quan trực tiếp nhất tới đề tài, đó là tình hình nghiên cứu ẩm thực trong  Ngôn ngữ học tri nhận trong và ngoài nước.
  18. 1.1.2. Tình hình nghiên cứu ẩm thực trong Ngôn ngữ học tri nhận 1.1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới Trên thế giới, ngay từ cuốn sách kinh điển đầu tiên [149], G. Lakoff và M.   Johnson trong hệ  thống các   ẩn dụ   ý niệm thường gặp  đã nhắc  đến  ẩn dụ:  “IDEAS ARE FOOD”  “What he said left a had taste in my mouth. (Những gì anh nói đã để  lại  một mùi vị tồi tệ trong miệng tôi) All this paper has in it are raw facts, half­baked ideas, and harmed­over   theories. (Tất cả  những bài báo này chứa những dữ  kiện thô, những ý tưởng  nướng dở, những học thuyết có hại)” […] (tr.47)   Tác giả Kovecses khi nêu những miền nguồn và miền đích phổ biến trong   cuốn  Metaphor:   A   Practical   Introduction  [141]   cũng   đã   liệt   kê   miền   nguồn  “Cooking and Food”: “Cooking food as an activity has been with us ever since the   beginnings of humanity. Cooking involves a complex process of several elements:   an  agent,   recipe,   ingredients,   actions,   and  a  product,   just  to   mention   the   most   important   ones.   The   activity   with   its   parts   and   the   product   serve   as   a   deeply   entrenched source domain. Here are some examples: What’s your recipe for success? That’s a watered­down idea. He cooked up a story that nobody believed”  (Nấu ăn là hoạt động đã tồn tại cùng chúng ta ngay từ  buổi khởi đầu của nhân   loại. Nấu bao gồm một quy trình phức tạp của một số  yếu tố: chủ  thể, công   thức,   các   nguyên  liệu,   các   hành  động,   và   một  sản  phẩm,   được   đề   cập  như  những điều quan trọng nhất. Hoạt động đó với những thành phần của nó và đồ  ăn như một miền nguồn cực kì vững chắc. Đây là vài ví dụ: Công thức thành công của bạn là gì? Đó là một ý tưởng loãng toẹt Anh ta chế biến một câu chuyện mà chẳng ai tin) (tr.20)
  19. Tác giả cũng liệt kê tên các ẩn dụ ý niệm kèm theo ví dụ trong công trình   này như  DESIRE IS HUNGER (tr.185), LOVE IS NUTRIENT (tr.44), LUST IS   HUNGER (tr.159), RESOURCES ARE FOOD (tr.61), THINKING IS COOKING  (tr.75). Từ  những cơ  sở  trên, các nghiên cứu tìm hiểu thêm về  đối tượng này  được   mở   rộng,   như   ẩn  dụ   ý   niệm  trong   tiếng  Anh  SEX   IS   EATING   [134];  Communicating Is Feeding Acquiring Ideas Is Eating, Interest In Ideas Is Appetite  For Food, Good Ideas Are Healthful Foods…[153].  Trong tiếng Ma­rốc, bài viết của K. Berrada [125] đã xác lập hệ thống ẩn   dụ  “đồ  ăn” phong phú: TEMPERAMENT IS FOOD, LEARNING IS EATING,   UNDERSTANDING   IS   TASTING,   OFFERING   IDEAS   IS   COOKING,  PERSUADING   IS   EATING,   HUMAN   DISPOSITIONS   ARE   FOOD  UNDERSTANDING IS DIGESTING, BELIEVING IS SWALLOWING …  Trong khả  năng bao quát của chúng tôi,  ẩn dụ  ý niệm “đồ  ăn” trên thế  giới đã được quan tâm ở mức độ nhất định, có nhiều ẩn dụ thú vị, qua đó có thể  thấy được đặc trưng văn hóa, tư duy của con người qua tri nhận về “đồ ăn”. 1.1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam Hiện nay,  ở  Việt Nam ch ỉ  có hai luận văn Thạc sĩ  Đặc điểm tri nhận   của ngườ i Việt qua tr ường t ừ  v ựng th ức  ăn   [102] của Đinh Phương Thảo  (2008) và Ẩn dụ tri nhận và hàm ý trong truyện cười về giới tính – tình dục  [9]  của Trần Thị  Quế Chi (2011) mang màu sắc tri nhận và có đề  cập đến một vài   ẩn dụ  ý niệm liên quan tới thức ăn, hoạt động ăn uống. Luận văn [100] sau khi  nghiên cứu trường từ  vựng thức ăn về  hệ  thống, cấu trúc, đặc điểm ngữ  nghĩa  đã dành chương 3 đề cập tới một số ẩn dụ ý niệm liên quan đến thức ăn: THỜI  GIAN LÀ THỨC ĂN, CON NGƯỜI LÀ THỨC ĂN. Đây là một nghiên nằm   trong xu hướng bắc cầu từ Ngôn ngữ học cấu trúc sang Ngôn ngữ  học tri nhận,   các ẩn dụ ý niệm được xác lập là ẩn dụ cấu trúc – loại ẩn dụ thường gặp nhất   trong ngôn ngữ  cũng như  trong văn học. Luận văn [9]  của Trần Thị  Quế  Chi 
  20. cũng nêu một ẩn dụ ý niệm liên quan đến ăn uống trong hệ thống các ẩn dụ  tri  nhận được xác lập trong các truyện cười hiện đại: TÌNH DỤC LÀ ĂN UỐNG. Trong số các công trình bậc Tiến sĩ ở Việt Nam có Đặc điểm trường ngữ   nghĩa ẩm thực (trên tư liệu tiếng Hán và tiếng Việt)  [80] của Ngô Minh Nguyệt  là công trình chuyên sâu nhất về   ẩm thực  ở  Việt Nam nhưng không đi theo lí  thuyết tri nhận. Tác giả tập trung nghiên cứu các từ, ngữ liên quan đến ăn uống,   chỉ ra đặc điểm cấu trúc, đặc trưng ngữ nghĩa, từ đó nêu ra những hàm ý văn hóa   của các từ  ngữ   ẩm thực: đặc điểm con người, đặc trưng văn hóa ẩm thực mỗi   nước. Điểm mạnh của luận án là nguồn ngữ  liệu phong phú, hệ  thống từ  ngữ  được xử  lí mạch lạc theo cấu trúc, ngữ  nghĩa, một số nhận xét về  văn hóa ẩm  thực lí thú, mới mẻ. Tuy nhiên, luận án này quá thiên về tiếng Hán, cả  về dung   lượng cũng như  chiều sâu nghiên cứu; các tìm tòi và kết luận về  trường nghĩa  ẩm thực cũng như  ý nghĩa văn hóa trong tiếng Việt còn ít, chủ  yếu kế  thừa từ  luận văn của Đinh Phương Thảo (2008). Nhìn chung, ăn uống/ ẩm thực chưa thực sự được Ngôn ngữ học tri nhận   ở Việt Nam nghiên cứu một cách toàn diện. 1.1.3. Đánh giá chung Ẩn dụ  vốn là một đối tượng nghiên cứu quen thuộc của Ngôn ngữ  và và  Văn học, nghiên cứu ẩn dụ ý niệm cũng là một trong những cách tiếp cận chính   của Ngôn ngữ học tri nhận, đem lại những kết quả bước đầu đáng khích lệ trên  thế giới cũng như Việt Nam. Tuy vậy, các nghiên cứu ẩn dụ ý niệm ở Việt Nam vẫn còn những tồn tại  chưa được giải quyết thấu đáo:  ­ Một số  khái niệm, thuật ngữ  vẫn còn chưa thống nhất, một số  vấn đề  còn bỏ ngỏ; các nghiên cứu về Ngôn ngữ  học tri nhận  ở Việt Nam có xu hướng   “thiên vị” ẩn dụ ý niệm và kết quả nghiên cứu về ẩn dụ ý niệm dường như “co   cụm”  ở  việc định danh và phân loại. Hiện thực này phần nào làm giảm ý nghĩa  “tri nhận” trong nghiên cứu  ẩn dụ  khi không vận dụng tối đa những quan niệm,  giả thuyết mới.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2