BOÄ GIAÙO DUÏC ÑAØO TAÏO TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC SÖ PHAÏM TP. HOÀ CHÍ MINH
HUYØNH QUAÙN CHI
THÔ NHO VIEÄT NAM TÖØ GIÖÕA THEÁ KYÛXIV ÑEÁN GIÖÕA THEÁ KYÛ XV
Chuyeân ngaønh: Vaên hoïc Vieät Nam Maõ soá: 62 22 34 01
LUAÄN AÙN TIEÁN SÓ NGÖÕ VAÊN
NGÖÔØI HÖÔÙNG DAÃN KHOA HOÏC: 1. PGS. MAI CAO CHÖÔNG 2. PGS-TS. ÑOAØN THÒ THU VAÂN
TP. HOÀ CHÍ MINH - 2010
LÔØI CAM ÑOAN
Toâi xin cam ñoan ñaây laø coâng trình nghieân cöùu khoa hoïc cuûa rieâng toâi. Caùc taøi lieäu, keát quaû nghieân
cöùu trong luaän aùn laø trung thöïc vaø chöa töøng ñöôïc ai coâng boá trong baát kyø coâng trình naøo khaùc.
Taùc giaû luaän aùn
ÑhSP:
NHÖÕNG CHÖÕ VIEÁT TAÉT
Ñaïi hoïc Sö Phaïm
ÑhTH: Ñaïi hoïc Toång Hôïp
GD: Giaùo duïc
HvCTQG: Hoïc vieän Chính Trò Quoác Gia
KHXH: Khoa Hoïc Xaõ Hoäi
KTNN: Kieán Thöùc Ngaøy Nay
NCGDVH: Nghieân cöùu giaûng daïy vaên hoïc
Q: quyeån
Nxb: Nhaø xuaát baûn
TcKHCT: Taïp chí Khoa Hoïc Chính Trò
TcVH: Taïp chí Vaên Hoïc
TcVHNN: Taïp chí Vaên Hoïc Nöôùc Ngoaøi
TtVHNN: Trung taâm Vaên hoaù Ngoân ngöõ
TcTH: Taïp chí Trieát hoïc
VHGD vaø TN: Vaên hoaù Giaùo Duïc vaø Thanh Nieân
VHTT: Vaên Hoaù Thoâng Tin
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Theo tiến trình vận động của thơ ca Việt Nam, đến giữa thế kỷ XIV ta thấy thơ có dấu
hiệu chuyển biến. Thơ Thiền phát triển mạnh và chiếm địa vị chủ đạo từ thế kỷ X đến đầu
thế kỷ XIV; nhưng đến giữa thế kỷ XIV thì lực lượng sáng tác, số lượng tác phẩm thơ Thiền
đã giảm thiểu. Thơ ca từ giữa thế kỷ XIV về sau tiếp tục phát triển, nhưng lực lượng sáng tác
chủ yếu là nhà nho. Nhìn chung số lượng tác giả, tác phẩm thơ phát triển. Quan niệm nghệ
thuật, cảm hứng thơ ca thời gian này chủ yếu là thuộc về loại hình tác giả nhà nho.
Nguyên nhân sâu xa của sự thay đổi này là sự thay đổi vị thế của tư tưởng Phật giáo đối
với xã hội. Vị thế thượng tôn của tư tưởng Phật giáo trên phương diện văn hóa xã hội được
thay thế bởi tư tưởng Nho giáo. Giờ đây, Nho giáo ảnh hưởng đến nhiều phương diện văn
hóa - xã hội Đại Việt. Về văn học, các nhà văn nhà thơ đã sáng tác bằng quan niệm nghệ
thuật và cảm hứng chịu ảnh hưởng Nho giáo. Quan niệm nghệ thuật và cảm hứng này đã
thay đổi nhiều so với trước đây.
Hiện tượng Nho giáo thay thế địa vị Phật giáo và đi dần đến độc tôn cũng đã diễn ra
tương tự ở các nước Đông Á (tuy có những chênh lệch ít nhiều về thời gian tùy theo hoàn
cảnh từng quốc gia). Hiện tượng chuyển đổi địa vị văn hóa của Thiền và Nho đã ảnh hưởng
lớn đến diện mạo văn học, thơ ca các quốc gia này. Ở nước ta, sau thế hệ Huyền Quang, thơ
Thiền không còn nhiều. Một số bài thơ ảnh hưởng Thiền như “Mai thôn phế tự”, “Đề Gia
Lâm tự”… (Trần Quang Triều và thi xã Bích Động); “Hạnh ngộ”, “Đề Cam Lộ tự”,
“Tương tịch, ký Nam Sơn thiền sư…” (Trần Minh Tông) (1300-1357) có thể xem là những
cố gắng duy trì ảnh hưởng của thơ Thiền. Cũng từ đây, lực lượng sáng tác đã có sự phân hóa,
thơ Thiền cũng không còn thịnh như trước, chất Thiền trong thơ cũng không còn đậm đà như
trước.
Từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV thơ Nho đã hoán đổi vai trò thượng tôn của thơ
Thiền. Trong khoảng một thế kỷ này, thơ Nho đã thể hiện tương đối trọn vẹn tính chất độc
đáo của nó. Nó tồn tại và phát triển như một mạch thơ, một dòng thơ, có tư tưởng – cảm
hứng chủ đạo, có quan niệm nghệ thuật và đặc điểm thể cách, ngôn ngữ khác biệt với thơ
Thiền trước đó. Sự khác biệt này gợi cho chúng ta nhiều suy nghĩ.
Trong khi đó nhiều công trình nghiên cứu về mảng văn học nhà Nho đã tiếp tục ra đời.
Những công trình nghiên cứu về văn học nhà Nho cũng tiếp tục phát triển song song với
những công trình nghiên cứu về văn học Phật giáo, văn học Thiền. Trong đó, ta có thể kể đến
những công trình tiêu biểu như “Nho giáo và văn học Việt Nam Trung cận đại” (Trần Đình
Hượu). Cũng trong mạch đó, công trình “Loại hình học tác giả văn học, nhà nho tài tử và
văn học Việt Nam” (Trần Ngọc Vương) (1995) [181] đi vào nghiên cứu loại hình tác giả nhà
nho tài tử. Ở “Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung” (1998), Trần Ngọc Vương
bàn đến “văn chương Nho giáo” [184, 114], “Văn học nhà nho thế kỷ XIV – XVII”
[184,134]. Tác phẩm “Văn học Trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa” (Trần Nho
Thìn) [153] đã có những ý kiến nhận xét lại những di sản của tác giả Trần Đình Hượu trong
nghiên cứu văn học nhà nho. Những công trình này đã làm cho việc nghiên cứu thơ văn nhà
nho thêm nhiều sinh khí. Các nhà nghiên cứu đã thật sự chú ý đến thơ văn nhà nho, thơ Nho.
Nhiều công trình nghiên cứu về thơ văn nhà nho đã tập trung chú ý đến thời gian từ giữa thế
kỷ XV về sau.
Tuy nhiên vấn đề không chỉ đơn giản như vậy. Thơ Thiền tuy mất dần ưu thế nhưng vẫn
còn tồn tại. Một số tác giả đã nghiên cứu về thơ Thiền trong thời gian này. Thơ Thiền trong
sự nghiệp thơ ca của Nguyễn Trãi đã được nghiên cứu bởi nhiều công trình như quyển
“Nguyễn Trãi” của Nguyễn Thiên Thụ [155], “Từ tâm sự qua mọi giai đoạn của cuộc đời
đến Thiền trong thơ Nguyễn Trãi” của Thạch Trung Giả [39], “Về cảm quan Phật giáo trong
thơ văn Nguyễn Trãi” của Nguyễn Hữu Sơn [143], “Nguyễn Trãi: Huyễn – Thực và Sắc –
Không” (Trần Ngọc Ninh) [162]… (Nếu xét riêng thì mạch thơ Thiền Lê - Nguyễn vẫn tiếp
tục lưu chuyển thầm lặng qua Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Minh Hành, Nguyên
Thiều, Ngô Thời Nhậm, Nguyễn Du… Nó tồn tại khiêm tốn bên cạnh thơ Nho). Tính chất
Thiền trong thơ đầu thế kỷ XV (tiêu biểu là trong thơ Nguyễn Trãi) được nhiều nhà nghiên
cứu chú ý. Hiện tượng này đã nói lên tính phức tạp của vấn đề nếu tìm hiểu thơ Nho thời
điểm giữa thế kỷ XIV. Trong cùng một thời gian có sự xuất hiện hai loại hình văn học chịu
ảnh hưởng bởi hai tư tưởng triết học khác nhau.
Như vậy, từ sự thay đổi địa vị của Nho và Thiền về mặt văn hóa – xã hội cũng như sự
khác biệt về nội dung và nghệ thuật của thơ Nho và thơ Thiền đã góp phần xác định sự khác
biệt của hai mạch thơ Nho và thơ Thiền. Sự phức tạp vì có cả thơ Thiền trong sáng tác của
các nhà nho (như trường hợp Nguyễn Trãi…) là lý do dẫn đến đề tài “Thơ Nho Việt Nam từ
giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV”. Việc nghiên cứu đề tài sẽ góp phần làm sáng tỏ những
phức tạp của thơ Nho Việt Nam trong khoảng một thế kỷ. Đó là một thế kỷ thơ Nho biểu
hiện như một dòng thơ với những đặc điểm độc đáo trong lịch sử thơ ca dân tộc.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Mục đích nghiên cứu của Luận án là nhằm tìm hiểu rõ hơn về khoảng một thế kỷ thơ
Nho với tư cách một dòng thơ. Nội dung đề tài là tìm hiểu, nghiên cứu về nguồn gốc phát
sinh, cơ sở hình thành, diện mạo, đặc điểm của dòng thơ này nhằm đóng góp thành quả vào
lĩnh vực nghiên cứu thơ văn của các nhà nho Việt Nam.
Từ việc xác định lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu, chúng ta cần tìm hiểu lịch
sử vấn đề thông qua những công trình nghiên cứu của những người đi trước, những khuynh
hướng nghiên cứu có liên quan.
3. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Từ lâu “thơ Nho” đã được giới nho sĩ quý trọng, sưu tập và lưu giữ. Qua nhiều thế hệ,
mỗi thế hệ có cách nhìn nhận, đánh giá, nghiên cứu thơ Nho với những định hướng và những
mức độ khác nhau. Trong quá khứ và gần đây đã có những ý kiến ít nhiều liên quan vấn đề
thơ Nho.
Xác định được những giá trị vô giá của thơ ca nhà nho có thể kể đến trước tiên là những
công trình sưu tập – biên tập thơ Nho cổ. Các công trình này cho ta nhiều thông tin có giá trị
nghiên cứu thơ Nho. Trước hết qua các tác phẩm thi lục, thi tuyển... các tác phẩm thơ ca của
các nhà nho chính thức được lưu giữ, trân trọng cùng với những ý kiến đề cao. Đó là những
tác phẩm như: “Việt âm thi tập” (1433) (Phan Phu Tiên soạn, Lý Tử Tấn phê điểm, tuyển
thơ thời Trần - Lê), “Tân tuyển Việt âm thi tập” (1459) (Chu Xa, Lý Tử Tấn, tuyển thơ thời
Trần - Lê), “Cổ kim thi gia tinh tuyển” (Dương Đức Nhan, tuyển thơ thời Trần, Hồ, Lê) (?),
“Trích diễm thi tập” (1497) (Hoàng Đức Lương, tuyển thơ thời Trần đến đầu thời Lê),
“Toàn Việt thi lục” (1768) (Lê Quý Đôn, tuyển thơ thời Lý đến đời Hồng Đức), “Hoàng
Việt thi tuyển” (1788) (Bùi Huy Bích, tuyển thơ thời Lý, Trần đến cuối thời Lê)... Các công
trình này có tác dụng lưu giữ những thi phẩm cổ trong đó có thơ Nho, đồng thời còn ít nhiều
cho thấy những quan niệm sáng tác, phê bình của những nhà nho xưa. Các công trình này đã
lưu giữ những thi phẩm và những ý kiến, nhận định quí báu của người xưa truyền lại cho đến
ngày nay.
Trong những công trình thuộc loại này, các nhà nho vừa sưu tập, biên tập vừa phản ánh
suy nghĩ của mình về văn học dân tộc, với niềm tự hào về văn hóa dân tộc. Lý Tử Tấn đã có
những đóng góp quan trọng trong buổi đầu sưu tập thơ văn cổ. Qua đó, ông bày tỏ niềm tự
hào về nền thơ của Đại Việt: “Nước Việt ta từ thời lập quốc đến nay, có nhiều nhà thơ nổi
tiếng với đời” (“Tân tuyển Việt âm thi tập”) [94, 51]. Trong số những nhà thơ đó ta thấy có
rất nhiều nhà thơ Nho. Càng ngày, phong trào sáng tác của các nhà nho càng lên cao. Phan
Phu Tiên nhận định về một thời đại rất xem trọng thơ văn. Ông nhận xét là: “mấy đời gần
đây, các bậc vua chúa, các quan công khanh và sĩ đại phu chẳng ai mà không để tâm tới
việc học thuật, sớm tối ngâm vịnh” (“Đề tựa tập thơ Việt âm mới san định”- Phan Phu Tiên)
[117, 74]. Thơ Nho đã trở thành sinh hoạt tinh thần của kẻ sĩ. Thơ Nho trở thành nơi để gởi
gắm ý chí, khát vọng, tâm sự của nhà nho. Cho đến thời gian này, Hoàng Đức Lương vẫn
còn xem trọng thơ Thiền bên cạnh thơ Nho khi phân trần: “đâu phải nhà nho không bằng
nhà Phật học” (Tựa Trích diễm thi tập) [118, 431-432]. Qua đó cho thấy vị thế của đội ngũ
trí thức trẻ càng lớn mạnh nhưng thái độ tôn trọng thơ Thiền vẫn còn. Nói chung nhờ vào
đây, ta có được những nguồn tư liệu tham khảo khi nghiên cứu về thơ Nho đồng thời những
tài liệu này cũng góp phần tái hiện không khí thời đại.
Bên cạnh những tài liệu về nguyên tác thơ Nho là các ý kiến nhận xét, phê bình bổ sung
vào kho tàng lý luận về thơ Nho. Nguyễn Dữ, Lê Quý Đôn, Bùi Huy Bích... đều có một số ý
kiến liên quan đến thơ Nho. Trong “Truyền kỳ mạn lục”, Nguyễn Dữ đã có nhận định đề cao
thơ Nho giữa thế kỷ XV trở về trước và phê bình mạnh mẽ thơ Nho cuối thế kỷ XV: “Thơ
ông Chuyết Am (Lý Tử Tấn) kỳ lạ mà tiêu tao,... thơ ông Cúc Pha (Nguyễn Mộng Tuân)... có
vẻ mềm mại, nhưng có thể khiến cho làng phong nhã thì chỉ duy những bài thơ đầy lòng
trung ái của Nguyễn Ức Trai...” [24, 251-252]. Đây là một trong những nhận định đánh giá
nhiều nhà thơ mà chủ yếu là những nhà thơ trong giai đoạn chúng ta khảo sát.
Qua “Vân đài loại ngữ”, Lê Quý Đôn (1726 - 1784) đã thu thập những kinh nghiệm lý
luận, phê bình từ văn học cổ của Trung Quốc có liên quan đến phương pháp phê bình và
sáng tác thơ Nho (Quyển V: Văn nghệ) [34, 89 -120]. Tiếp theo, học trò ông là Bùi Huy Bích
(1741-1818) đã có ý thức về sự vận động dựa trên tiêu chuẩn nghệ thuật khá chính xác. Bùi
Huy Bích viết trong “Lịch triều thi sao” (Tiểu dẫn) là: “Nước Việt ta từ đời Trần đến buổi
đầu Lê (giữa thế kỷ XV) khí thơ có hơi hồn hậu, đến thời Hồng Đức thì lời thanh tao bóng
bẩy, về sau dần dần yếu ớt, đến thời Trung hưng thì vụng về...” (“Lịch triều hiến chương loại
chí”– Văn tịch chí) [19, 181]. Từng giai đoạn thơ Nho đã được ý thức với những nét cơ bản
nhất của nó. Các tác giả cũng không quên bình luận những điểm chung nhất của mỗi giai
đoạn. Qua đó, chúng ta thấy cách đánh giá, thẩm định của chính các nhà nho về thơ Nho.
Trong các thế hệ nhà nho, các bậc cao sĩ được nhiều người kính trọng đồng thời cũng là
những tác giả thơ Nho. Lê Quý Đôn đã dựa theo phong độ, phẩm chất của họ để chọn ra
những nhân vật tiêu biểu (Kiến văn tiểu lục) [32, 298-300]. Theo tiêu chí đó, ông chọn được
ở triều Trần chỉ năm người: Chu An, Đặng Tảo, Trương Đỗ, Bùi Mộng Hoa, Trần Đình
Thâm. Thời Lê sơ theo Lê Quý Đôn thì có thể chọn Nguyễn Thiên Tích, Bùi Cầm Hổ,
Nguyễn Thì Trung... Điều này lại trùng hợp ngẫu nhiên vì đó là những nhà nho nổi tiếng
trong khoảng giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV!
Từ giữa thế kỷ XV về sau, phong độ kẻ sĩ như thời trước dần dần giảm đi. Đến giữa niên
hiệu Hồng Đức (Lê Thánh Tông) và từ những năm Đoan Khánh (Lê Uy Mục) những người
khí tiết khảng khái thật “thưa thớt”, đồng thời “tập tục sĩ phu thối nát” [32, 301]. Như vậy,
những nhà nho giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV có vị trí đặc biệt trong các thế hệ nho sĩ
nước ta qua các thời đại. Thơ ca của họ vì thế cũng được các thế hệ quan tâm, tìm hiểu. Các
nhà nho xưa đánh giá rất cao các tác giả thơ Nho thời gian này. Nhìn chung những nhà nho
xưa vẫn lấy triều đại làm tiêu chí để phân kỳ thơ Nho và đánh giá cao thơ thời Lý – đầu thời
Lê. Tuy tiêu chí lấy triều đại làm cơ sở cũng như lấy “đức nghiệp” để đánh giá có thể chưa
thật sự đi vào bản chất văn chương nhưng nó cũng có những bổ ích nhất định cho nghiên cứu
và đánh giá thơ văn nhà nho.
Đến đầu thế kỷ XX, các học giả vẫn còn quan điểm tôn trọng thơ Nho. Các nhà nghiên
cứu đã có những ý kiến khác nhau, bổ sung cho những ý kiến trước đó. Tác phẩm “Việt Hán
văn khảo” của Phan Kế Bính tiếp tục những quan niệm, những nguyên lý thơ văn cổ của các
nhà nho. Tác giả này viết về cái hay trong thơ, đó là “cái hay kỳ cổ, cái hay hào kiệt, cái hay
hồn hậu, cái hay thanh sảng...” [101, 342]. Những ý kiến đó không khác gì ý kiến các nhà
nho xưa. Đến Phan Kế Bính, ta vẫn chưa thấy gì khác nhiều so với những quan niệm tương
đối ổn định từ truyền thống.
Trong buổi giao thời, ở nhóm “Nam phong tạp chí” và một số nhà nghiên cứu như
Nguyễn Hữu Tiến (Nam âm thi văn khảo luận), Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc (Nam thi hợp
tuyển)... vẫn quan tâm thơ văn nhà nho. Phạm Quỳnh viết “Quan niệm về thơ của người ta
người Tàu” (Nam Phong tạp chí, số 05). Tùng Vân viết “Phái nhà nho khoảng 30 năm nay
với sự học cũ” (số 195). “Các bậc danh nho nước ta” (Nam Phong tạp chí, các số 53, 54, 55
(10/1921-01/1922). (Ở đây, nội dung trích lại từ “Lịch triều hiến chương loại chí”). Quan
niệm của Chương Dân về thơ đăng trong Nam Phong tạp chí vẫn là quan niệm của thơ Nho
nói chung: “Thơ làm ra cốt để tả cái tâm tình của mình mà cũng có ích cho người xem” [22,
354]. Bên cạnh đó mục Văn uyển của Nam Phong tạp chí thường tuyển cả thơ của những nhà
nho xưa và những thi nhân đương thời. Phạm Quỳnh chú ý đến cái khó trong thơ Đường luật
và bắt đầu phê bình thơ Đường luật – thể thơ quan trọng của nhà nho. Tác giả thấy thơ
Đường “hay quá, khéo quá, phần nhân công nhiều mà vẻ tự nhiên ít” (Quan niệm về thơ của
người ta người Tàu) [47, 261]. Đây cũng là một đặc điểm của thể loại thơ Nho. Ngoài sự
quan tâm, các nhà nghiên cứu đầu thế kỷ XX cũng đã tìm hiểu một số khía cạnh khác nhau
của thơ nhà nho. Đến đầu thế kỷ XX thơ văn của các nhà nho nói chung vẫn tiếp tục được
chú ý nhưng đã bắt đầu có những nhận xét đánh giá lại vấn đề một cách thích hợp hơn.
Ngoài ra, những công trình nghiên cứu, tuyển tập, lịch sử văn học như “Những áng văn
hay” do Tr. N. K, Thiếu Sơn biên tập (Nam ký thư quán, H,1933) và đặc biệt Dương Quảng
Hàm với “Việt Nam văn học sử yếu” (1943), “Việt Nam thi văn hợp tuyển” (1941), “Quốc
văn trích diễm” (1953)... đều chú ý đến tác giả, tác phẩm thơ Nho. Cả Việt Nam văn học sử
yếu lẫn Quốc văn trích diễm (Dương Quảng Hàm) đều có biểu liệt kê tác giả tác phẩm theo
thứ tự thời gian. Dương Quảng Hàm đã đánh giá cao thơ văn nho thời Lý - Trần. Theo ông,
các nhà nho phần nhiều đều có công nghiệp, phẩm cách thanh cao. Hơn nữa, “người cầm
quyền trong nước là người trong phái nhà nho” [48, 78]. Nho sĩ đã được xem như một
“phái”, “phái nhà nho”. Trong phái đó, các tác giả nổi bật cũng đồng thời là “các bậc cao sĩ
nước Nam”. Thơ của các tác giả nhà nho có một vị trí đặc biệt trong quan niệm của các nhà
nghiên cứu. Tuy đến thời điểm này, thơ văn nhà nho đã được tìm hiểu với cái nhìn mới của
người trí thức Tây học nhưng họ vẫn chưa tách thơ Thiền, thơ Nho ra thành những mạch
riêng. Quan niệm thơ của các nhà nho vẫn được nói chung, gồm cả thơ Thiền, thơ chịu ảnh
hưởng tư tưởng Lão –Trang.
Đối với các nhà nghiên cứu lịch sử văn học tiếp theo, họ có nhiều thời gian hơn, công
trình của họ có những nhận định liên hệ đến thơ Nho với những mức độ khác nhau. Các nhà
nghiên cứu lịch sử văn học có thể được xếp theo các nhóm khác nhau. Nhóm các tác giả
phân chia lịch sử văn học theo giai đoạn lịch sử - xã hội - văn học có thể kể đến các công
trình như “Lịch sử văn học Việt Nam” (T2) (Đại học Sư Phạm Hà Nội), “Văn học Việt Nam
thế kỷ X – nửa đầu thế kỷ XVIII” (Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương), “Lịch
sử văn học Việt Nam” (T1) (Ủy Ban KHXH, 1980)… Các nhà nghiên cứu lịch sử văn học
theo lịch sử triều đại có thể kể đến Dương Quảng Hàm, Nguyễn Đổng Chi (Việt Nam cổ văn
học sử), Phạm Thế Ngũ (Việt Nam văn học sử giản ước tân biên)… Cả hai nhóm tác giả các
công trình lịch sử văn học nói trên đều đánh giá cao thơ ca nhà nho thế kỷ XIV- XV. Ngay
cả những nhà nghiên cứu lịch sử văn học dựa theo thế hệ tác giả như trường hợp Thanh Lãng
cũng đánh giá cao thơ ca nhà nho thế kỷ XIV- XV.
Một số công trình đã có những ý kiến cần tham khảo. Tài liệu văn học sử của Phạm Thế
Ngũ cho rằng thời Trần là thời “thịnh đạt nhất”, “thi gia nẩy lên khắp làng nho” [121, 120].
Ngô Tất Tố đã viết “Trong rừng văn chương hồi ấy (Lý – Trần), phái Nho giáo đã tiến bộ
hơn phái Phật giáo” [163, 116]. Các tác giả đã có ý thức rõ về văn chương của “phái” Nho.
Đồng thời các tác giả cũng ý thức được sự phát triển của dòng văn chương này. Tuy vậy, thể
loại thơ và văn của nhà nho vẫn thường được khảo sát chung với nhau.
Mặt khác, khuynh hướng nghiên cứu lịch sử văn học dựa trên cơ sở các dòng phái đã có
xuất hiện. Cơ sở của những quan điểm này thường chịu ảnh hưởng những hệ hình và quan
điểm của người phương Tây. Một số nhà nghiên cứu đã thử đi theo hướng này. Theo khuynh
hướng này, ta có thể kể đến một số trường hợp như ở “Văn học phân tích toàn thư” (Thạch
Trung Giả) [40, 35]. Tác giả chia văn học Việt Nam gồm cả văn học cổ ra thành bốn dòng:
Tả thực, ấn tượng, tương trưng, thần bí (tương ứng với văn học thế giới) [40, 473-483]. Công
trình “Lịch sử văn học Việt Nam” (Lê Hữu Mục) [111] có cách phân chia trường phái rõ nét.
Tác giả này phân chia văn học cổ Việt Nam thành ba trường phái: Trường phái văn học
“Thiền tông” (Thế kỷ XI – XIII), trường phái văn học “Cổ điển” (thế kỷ XIV – XVI), trường
phái văn học “Nôm na” (thế kỷ XVII – XIX). Ở tập I, tác giả chủ yếu kiến giải và định hình
hai trường phái văn học Thiền tông và văn học Cổ điển. Cơ sở của trường phái ở đây được
xác định dựa trên loại hình tác giả. Hơn nữa nó còn là quá trình đi dần đến “đoạn tuyệt” với
phái văn học Phật giáo.
Theo tác giả này, trường phái văn học Cổ điển năm 1304 -1385 là sự thay đổi giảm dần
của văn học ảnh hưởng Phật giáo và tăng dần của văn học ảnh hưởng Nho giáo. Đây là một
cách tiếp cận sử dụng trường phái văn học làm cơ sở. Có thể nói, các công trình viết về lịch
sử văn học Việt Nam thời trung đại thường quan tâm đến vấn đề văn học ảnh hưởng Nho
giáo với những mức độ khác nhau.
Bên cạnh những công trình lịch sử văn học, ta có thể kể đến một số công trình xoay
quanh vấn đề “ảnh hưởng của Nho giáo đối với văn học Việt Nam”, “văn học nhà nho”.
Trong đó, những bước đi đầu có thể kể đến tác phẩm “Tâm lý và tư tưởng của Nguyễn Công
Trứ” (Nguyễn Bách Khoa) (1944) [154, 121-227]. Có lẽ ông là người đầu tiên dùng khái
niệm “nhà nho tài tử”. Theo ông, nhà nho tài tử chỉ “thiên trọng về văn học” [154, 167].
Công trình này chỉ giới hạn trong phạm vi một tác giả văn học.
Tiếp đến, đó là bài “Ảnh hưởng của Hán học đối với văn học Việt Nam” (Đặng Thai
Mai phát biểu tại Viện Đông phương, Liên Xô cũ (1974) [18, 2]. Bài phát biểu chủ yếu quan
tâm vào Hán học đối với văn học Việt Nam, đặc biệt lưu ý văn học Lý – Trần.
Đến những năm cuối thế kỷ XX, các công trình nghiên cứu, các bài viết công bố trên
các tạp chí bàn về những vấn đề có liên quan đến thơ Nho khá phong phú. Các nhà nghiên
cứu đã bắt đầu đi sâu vào nghiên cứu thơ văn nhà nho nói chung. Trong đó ta có thể kể đến
những công trình tiêu biểu như “Nho giáo và văn học Việt Nam Trung cận đại” (Trần Đình
Hượu). Tác giả đã hướng vào trọng tâm là “văn học do nhà nho viết” [61, 09], “văn học nhà
nho viết theo quan niệm Nho giáo” [63, 10], “ảnh hưởng của Nho và nhà nho đối với văn
học” [61, 16]. Từ đây tác giả cũng xác định loại hình tác giả nhà nho hành đạo, ẩn dật, tài tử
như là cơ sở ban đầu để đi xa hơn trong nghiên cứu.
Cũng trong mạch nghiên cứu đó, công trình “Loại hình học tác giả văn học, nhà nho tài
tử và văn học Việt Nam” (Trần Ngọc Vương) (1995) [181] đi vào nghiên cứu loại hình tác
giả nhà nho, đặc biệt là nhà nho tài tử với những đặc điểm riêng. Từ đó, tác phẩm tìm hiểu
những thế hệ nhà nho mang phẩm chất tài tử, nhất là trong thơ ca Việt Nam từ thế kỷ XVIII
về sau.
Ở tác phẩm “Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung” (1998), Trần Ngọc
Vương bàn đến “văn chương Nho giáo” [184, 114], “Văn học nhà nho thế kỷ XIV – XVII”
[184, 134]. Các nhà nghiên cứu nhìn chung đã đạt nhiều thành tựu trong nghiên cứu loại hình
văn học nhà nho. Ở các công trình này, diện mạo văn học nhà nho được kiến giải ngày càng
phong phú. Người đọc có thể có cái nhìn bao quát về thơ văn nhà nho ở nước ta. Tuy nhiên
các công trình này vẫn chưa nghiên cứu thơ Nho như là một dòng thơ có những đặc điểm
khác với thơ Thiền. Nó đã ít nhiều tiếp nối những thành tựu của thơ Thiền Lý – Trần.
Ở một công trình khác, tác phẩm “Những vấn đề thi pháp văn học Trung đại Việt Nam”
(1999) đã xác định có sự phân biệt của hai loại hình tác giả. Trong công trình này, tác giả
Trần Đình Sử đã nhìn nhận: “Có thể phân biệt nhà thơ Thiền và nhà thơ Nho” [139, 12].
Tuy công trình này nghiên cứu rất nhiều mặt của văn học Trung đại Việt Nam nhưng tác giả
đã lưu ý đến thơ Thiền và thơ Nho. Trường hợp này công trình chú ý đến loại hình tác giả
văn học. Từ cơ sở này, nhà nghiên cứu nói chung đã đi khá sâu vào nghiên cứu văn chương
Nho giáo.
Bên cạnh đó, những công trình về lý luận văn học và thơ ca cổ đã tiếp tục tìm hiểu
những quan niệm lý luận, phê bình của người xưa và nêu ra nhiều nhận định thú vị. Những
công trình như “Từ trong di sản” (1981) [167], “Về quan niệm văn chương cổ Việt Nam”
(Phương Lựu) (1985) [94], “Quan niệm văn học của Nho gia” (Phương Lựu) [99, 24-37],
“Người xưa bàn về văn chương” (tập I) (Đỗ Văn Hỷ) [66], “Thơ trong con mắt người xưa”
(Phạm Quang Trung) [165]... đã có nhiều đóng góp, tiếp tục tìm hiểu, bổ sung những cơ sở
lý luận, cảm thụ, tiếp nhận thơ ca nhà nho. Ngoài ra, ở các bài viết trên Tạp chí Văn học, các
nhà nghiên cứu đều đưa ra những ý kiến có liên quan về phương thức tiếp cận, đánh giá văn
chương Nho giáo hoặc một số phương diện cụ thể của thơ Nho. Các bài nghiên cứu có thể kể
đến như: “Bàn về một số khía cạnh trong thơ tình đời Trần” (Bùi Văn Nguyên) [115], “Các
yếu tố Phật Nho Lão được tiếp thu và chuyển hóa như thế nào trong đời sống và văn hóa
thời đại Lý Trần” (Nguyễn Huệ Chi) [14], “Về diễn biến của thơ trữ tình thời Trần” Nguyễn
Phạm Hùng) [55], “Về ảnh hưởng nhiều mặt của Nho giáo trong văn học Việt Nam Cổ, Cận
đại” (Trần Đình Hượu) [62], “Mối quan hệ giữa cái tôi nhà nho và thực tại trong văn
chương cổ” (Trần Nho Thìn) [150], “Giới hạn của nội dung nhân đạo chủ nghĩa văn chương
Nho giáo” (Trần Ngọc Vương) [182],... Đây là những ý kiến thú vị đóng góp vào lĩnh vực
nghiên cứu thơ văn nhà Nho nhất là về mặt phương pháp luận.
Thời gian gần đây, trong tư thế đối sánh “khác chủng loại”, công trình “Khảo sát một số
đặc trưng nghệ thuật thơ Thiền Việt Nam thế kỷ XI – XIV” (Đoàn Thị Thu Vân) (1996) đã có
đề cập đến thơ Nho. Trong quá trình nghiên cứu về thơ Thiền, tác giả đã xác định “Thơ Nho
được hiểu là thơ của các tác giả theo hệ tư tưởng Nho gia và đề cập đến những vấn đề thuộc
phạm trù triết học, đạo đức Nho giáo” [169, 143]. Đây là những cơ sở ban đầu để xác định
thơ Nho. Tác giả đã dùng quan niệm này để so sánh thơ Nho với thơ Thiền và tìm thấy
những dấu hiệu khác biệt của thơ Thiền và thơ Nho.
Nhìn chung ở nước ta, việc nghiên cứu trào lưu, trường phái nhất là trong văn học cổ
chưa được chú ý nhiều. Một số công trình nghiên cứu gần gũi với nghiên cứu trường phái đã
xuất hiện. Những công trình như “Nguồn suối Nho học và thơ ca Bạch Vân cư sĩ” (Lê
Nguyễn Lưu) (1999) [92], “Đoạn trường tân thanh dưới cái nhìn của Nho gia – Thiền gia”
(Nguyễn Thạch Giang) (2005) [43],… đã ra đời. Qua đó ta thấy có một số ý kiến thú vị khi
nhìn tác giả, tác phẩm văn học dưới cái nhìn có cơ sở từ một hoặc hai trường phái tư tưởng
triết học. Thông thường ở đây thì dòng mạch văn học Nho dường như được người ta chú ý
hơn thơ Nho.
Cơ sở đặc điểm thơ Nho Việt Nam giữa thế kỷ XIV – giữa thế kỷ XV do sự tác động
của Nho giáo. Tuy nhiên Nho giáo đã tác động không đồng đều đến từng tác giả. Thái độ và
cách thức tiếp thu của các tác giả trong từng hoàn cảnh và giai đoạn lịch sử cũng khác nhau.
Trong khi nghiên cứu văn chương nhà nho, yếu tố “Việt” trong tiếp thu Nho giáo cũng
được nghiên cứu, ví dụ “Một số đặc điểm của Nho Việt” (Nguyễn Hùng Hậu) [51], “Việt
Nho qua một số tác phẩm văn học trung đại Việt Nam” (Bùi Duy Tân) [144]… Tuy chưa
phải là những kết luận sau cùng nhưng đó là những gợi mở về đặc điểm Nho giáo ở Việt
Nam. Từ đó, việc nghiên cứu về bản sắc thơ Nho có định hướng thích hợp. Tuy nhiên, luận
án không đi vào phân biệt Việt Nho với Hán Nho, Tống Nho mà chỉ tập trung vào vấn đề thơ
Nho Việt Nam.
Đã có một số công trình nghiên cứu có liên quan đến thơ Nho cùng với tính chất dòng
phái. Các công trình có liên quan đến phái thơ Nho có thể kể đến tác phẩm “Trong dòng chủ
lưu của văn học Việt Nam chủ nghĩa yêu nước” của Trần Văn Giàu (1984) [45]. Tác phẩm
đã có gợi ý khá lý thú về thơ Nho Việt Nam với đỉnh cao Nguyễn Trãi. Trần Văn Giàu xem
Nguyễn Trãi là “người đứng đầu một văn phái yêu nước, thân dân” [45, 164]. Và theo ông,
““văn phái” có nghĩa hạn chế là một số nhà văn cùng một thời kỳ lịch sử, theo cùng một
khuynh hướng nhất định, gồm một hệ thống nét đặc sắc không thấy ở những người khác, ở
các thời khác” [45, 165]. Đây là môt cơ sở có tính qui ước để tác giả đi sâu hơn nghiên cứu
về chủ nghĩa yêu nước trong văn học.
Các công trình nghiên cứu về văn học Nho giáo như “Nho giáo và văn học Việt Nam
trung cận đại” (Trần Đình Hượu) (1964,...) [61], “Mối quan hệ giữa cái tôi nhà nho và thực
tại trong văn chương cổ” (Trần Nho Thìn) (1994) [150], “Loại hình học tác giả văn học,
nhà nho tài tử và văn học Việt Nam” (Trần Ngọc Vương) (1995) [181], “Bi kịch tinh thần
của nhà nho Việt Nam với tính cách là một nhân vật văn hóa (khảo sát qua trường hợp
Nguyễn Trãi” (Trần Nho Thìn) (2001) [152], “Ý thức văn học cổ trung đại Việt Nam” (Đoàn
Lê Giang) (2001) [41]… cũng đã có tác dụng gợi mở về vấn đề thơ các nhà nho. Các tác giả
đã tìm ra những kinh nghiệm tiếp cận vấn đề khá lý thú, đặc biệt là phương pháp loại hình
trong nghiên cứu văn chương các nhà nho.
Tác phẩm “Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại” (Trần Đình Hượu) [61] có
một ý nghĩa quan trọng trong lịch sử nghiên cứu văn chương nhà nho. Đặc biệt, bài “Về ảnh
hưởng nhiều mặt của Nho giáo trong văn học Việt Nam cổ cận đại” [61, 48-56] đã tập hợp
những bài giảng từ năm 1964 về sau, trong đó tác giả dành nhiều tâm huyết cho việc “khảo
sát văn học do nhà nho viết, viết theo quan niệm Nho giáo...” [61, 10]. Trên nhiều phương
diện, tác giả đã đạt được những thành tựu quan trọng trong nghiên cứu văn chương nhà nho
nói chung.
Bên cạnh đó, Trần Ngọc Vương đã có một số công trình có ý nghĩa bổ sung, hiện thực
hóa có hệ thống những tư tưởng khoa học của Trần Đình Hượu như “Loại hình học tác giả
văn học, nhà nho tài tử và văn học Việt Nam” (1995) [181], “Văn học Việt Nam dòng riêng
giữa nguồn chung” (1998) [184]. Ở “Loại hình học tác giả văn học, nhà nho tài tử và văn
học Việt Nam” [181], tác giả đã đi vào tìm hiểu và phát hiện sự thay đổi của hệ thống chủ đề,
đề tài, hệ thống hình tượng [181, 114-170], sự thay đổi hệ thống thể loại, ngôn ngữ [173-
182] ở văn chương nhà nho tài tử. Tác giả tiếp tục nghiên cứu về thơ văn nhà nho ở công
trình tiếp theo - “Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung”. Công trình này khai thác
khá toàn diện về văn chương nhà nho Việt Nam. Đặc biệt quan trọng là các bài: “Một số vấn
đề lý luận khi nghiên cứu văn chương Nho giáo ở Việt Nam” (Trần Ngọc Vương) [184, 114-
120], “Văn học nhà nho Việt Nam từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVII” (Trần Ngọc Vương) [184,
134-146]. Một số vấn đề có tính chất phương pháp luận trong nghiên cứu văn chương nhà
nho đã được đặt ra trong tác phẩm.
Theo đó, Văn học Việt Nam từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX có thể cho thấy “nội hàm
khái niệm “văn học dân tộc” gần như trùng khớp với nội hàm khái niệm “văn học nhà nho ở
Việt Nam” [184, 118]. Vì thế, vấn đề đặt ra là người nghiên cứu cần giải quyết những vấn đề
“về mặt lý luận mối quan hệ giữa cái nội sinh bản địa và cái ngoại nhập, giữa những đặc
trưng mang tính thuần túy phản ánh bản sắc dân tộc với những thuộc tính mang tính khu
vực” (Trần Ngọc Vương) [184, 118]. Tác phẩm đã tiếp tục khuynh hướng nghiên cứu đã
được đặt ra từ nhà nghiên cứu đi trước - Trần Đình Hượu. Tác giả đã đạt được nhiều thành
công quan trọng, từ đó việc nghiên cứu thơ văn nhà nho Việt Nam có được khá nhiều kinh
nghiệm nghiên cứu.
Tuy nhiên gần đây, công trình “Văn học Trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa”
(Trần Nho Thìn) (2003) [153] đã có những ý kiến nhận xét lại những di sản của Trần Đình
Hượu. Theo đó, tác giả đã nêu những vấn đề cần quan tâm khi“nghiên cứu hiện tượng văn
học sử trong khuôn khổ hệ thống văn học của nhà nho” [153, 20-21]...
Bên cạnh đó, “Ý thức văn học cổ trung đại Việt Nam” (Đoàn Lê Giang) (2001) đã bàn
đến những quan niệm có liên quan đến thơ Nho: quan niệm về mối quan hệ của “văn học và
vận mệnh đất nước” [41, 60 - 68], quan niệm về “thơ và Chí, Tâm của kẻ sĩ quân tử” (Đoàn
Lê Giang) [41, 68 - 76]... Nói chung, những ý kiến này đã góp phần làm giàu thêm những cơ
sở phương pháp luận, những kinh nghiệm nghiên cứu văn học nhà nho và một số có thể vận
dụng trong nghiên cứu thơ Nho.
Ở nước ta, việc nghiên cứu thơ Nho Việt Nam đã có những tiền đề quan trọng về nội
dung, phương pháp. Nó đã có những gợi mở, thử nghiệm, thành tựu, nhưng nhìn chung vẫn
cần tiếp tục khai thác.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là thơ Nho Việt Nam trong khoảng một thế kỷ
(từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV).
Thơ Nho ở đây là thơ của các tác giả nhà nho, chịu ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo, cảm
hứng Nho giáo, quan niệm thẩm mỹ Nho giáo. Thơ Nho Việt Nam là những bài thơ của các
nhà nho Việt Nam, chịu ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo, cảm hứng Nho giáo, quan niệm thẩm
mỹ Nho giáo.
Ở luận án, thơ Nho được nghiên cứu như một dòng văn học trong khoảng thời gian từ
giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV nhằm làm sáng tỏ diện mạo và đặc điểm của nó trong
khoảng thời gian một thế kỷ này.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình làm luận án, nhiều phương pháp khoa học khác nhau đã được vận dụng.
Tùy theo từng công đoạn, tùy theo từng trường hợp cụ thể mà người viết vận dụng các
phương pháp khoa học phù hợp để thực hiện luận án.
Về phương pháp luận nghiên cứu thơ Nho: Từ Nho giáo đến thơ văn nhà nho nói chung
đã có nhiều công trình, nhiều nhà nghiên cứu đã đạt nhiều thành tựu đáng khâm phục. Thông
thường ta có thể chọn hướng tiếp cận từ Nho giáo tác động đến thơ văn nhà Nho. Tuy nhiên
người viết vẫn phải căn cứ, đối chiếu với văn hóa dân tộc, tâm lý dân tộc, yếu tố Việt trong
tiếp thu Nho giáo, sự tác động qua lại của Nho giáo và tư tưởng Thiền - Lão trong văn học
Nho giáo Việt Nam, tính chất dân tộc trong văn học.
Đối với thơ Nho, bên cạnh việc tìm thấy mối quan hệ của Nho đến thơ, ta cần tìm thấy
những tác động phức tạp của Nho đến thể loại, ngôn ngữ, giọng điệu, không gian – thời gian
trong thơ Nho. Mặt khác ta cũng cần đi vào tìm hiểu sự tác động của Nho đến việc lựa chọn
và triển khai các chủ đề, cái tôi trữ tình trong thơ Nho cho đến những quan niệm nghệ thuật
trong thơ Nho. Trong đó những quan niệm nghệ thuật thơ Nho phản ánh tư tưởng nghệ thuật
Nho giáo thế nào trong môi trường văn hóa xã hội Việt Nam giữa thế kỷ XIV đến giữa thế
kỷ XV.
Để giải quyết nhiều vấn đề đặt ra, luận án cần phải sự dụng một số phương pháp nghiên
cứu nhất định như: Phương pháp lịch sử – xã hội, phương pháp nghiên cứu theo thi pháp
học, phương pháp liên ngành (kết hợp những ưu thế từ nhiều ngành khoa học (Văn, Sử,
Triết). Ngoài ra luận án còn sử dụng thường xuyên các thao tác khoa học cơ bản: tổng hợp,
phân tích, so sánh...
Các phương pháp được vận dụng theo trình tự của luận án: Phương pháp lịch sử – xã hội
và phương pháp liên ngành dùng cho Chương 1. Phương pháp lịch sử – xã hội được vận
dụng bên cạnh phương pháp liên ngành nhằm trình bày những vấn đề chung nhằm làm cơ sở
cho những chương sau.
Phương pháp phân tích - tổng hợp được sử dụng cho chương 2. Chương này cũng vận
dụng kết hợp với phương pháp liên ngành nhằm làm sáng tỏ những đặc điểm nội dung của
thơ Nho từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV (căn cứ vào việc khảo sát những văn bản
thơ Nho được sáng tác trong thời gian này).
Người viết cũng vận dụng Thi pháp học để nghiên cứu đặc điểm nghệ thuật thơ Nho ở
chương 3. Ở chương này phương pháp phân tích – tổng hợp cũng được vậnsử dụng nhằm
làm sáng tỏ những đặc điểm nghệ thuật của thơ Nho từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV
(căn cứ vào việc khảo sát những văn bản thơ Nho được sáng tác trong thời gian này).
Phương pháp liên ngành được vận dụng trong nghiên cứu từng chương và liên hệ giữa
các chương.
6. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
Thành quả nghiên cứu của Luận án “Thơ Nho Việt Nam từ giữa thế kỷ XIV đến giữa
thế kỷ XV” có một số đóng góp nhất định trong lĩnh vực khoa học và thực tiễn.
- Ý nghĩa khoa học:
Qua những cố gắng nghiên cứu thơ Nho, luận án đi vào tìm hiểu đặc điểm khoảng một
thế kỷ thơ Nho từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Việc nghiên cứu thơ Nho giữa thế kỷ XIV – giữa thế kỷ XV thông qua đặc điểm nội dung
và nghệ thuật của thơ Nho đóng góp một phần nhỏ vào việc nghiên cứu và giảng dạy Lịch sử
văn học thế kỷ XIV- XV cũng như thơ ca thế kỷ XIV- XV.
7. CẤU TRÚC LUẬN ÁN
Luận án gồm phần mở đầu, phần nội dung (có ba chương), phần kết luận, tài liệu tham
khảo và phụ lục.
MỞ ĐẦU
Giới thiệu sơ lược về lý do chọn đề tài, lịch sử vấn đề, đối tượng và phạm vi nghiên cứu,
phương pháp nghiên cứu (Từ trang 01 đến trang 18).
CHƯƠNG 1. Những vấn đề chung của thơ Nho Việt Nam từ giữa thế kỷ XIV đến
giữa thế kỷ XV (Từ trang 20 đến trang 86)
Đây là chương xác định khái niệm thơ Nho Việt Nam; bối cảnh lịch sử, diện mạo thơ
Nho giữa thế kỷ XIV – giữa thế kỷ XV. Trên cơ sở đó chúng tôi phác họa con đường vận
động của dòng thơ này.
CHƯƠNG 2. Những cảm hứng trong thơ Nho Việt Nam từ giữa thế kỷ XIV đến
giữa thế kỷ XV (Từ trang 87 đến trang 123).
Chương này trình bày cảm hứng chủ đạo của thơ Nho Việt Nam từ giữa thế kỷ XIV -
giữa thế kỷ XV.
CHƯƠNG 3. Một số phương diện thi pháp của thơ Nho Việt Nam từ giữa thế kỷ
XIV đến giữa thế kỷ XV (Từ trang 124 đến trang 174).
Chương này nghiên cứu về thể loại, ngôn ngữ, giọng điệu, hình tượng con người, không
gian – thời gian nghệ thuật của thơ Nho thời gian này.
KẾT LUẬN
(Từ trang 175 đến trang 179).
Nhận định khái quát về thơ Nho Việt Nam từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV,
phương hướng nghiên cứu kế tiếp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(Tài liệu tham khảo gồm có tất cả 192 tài liệu, trong đó có 185 tài liệu tiếng Việt và 10
tài liệu nước ngoài) (trang 180 - 196).
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1. Những từ ngữ trong thơ Nho Việt Nam từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV có liên quan đến “Nho” (Từ trang 197 đến trang 201)
PHỤ LỤC 2. Nguyên tác bài “Thích An Nam sự thi” (Ý Tông triều cử tử) (“Toàn Đường thi”, quyển 784) (Từ trang 202 đến trang 204).
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA THƠ NHO VIỆT
NAM GIỮA THẾ KỶ XIV ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XV
1. 1. VỀ KHÁI NIỆM “THƠ NHO”
Đối tượng nghiên cứu của Luận án là thơ Nho Việt Nam trong giới hạn thời gian từ giữa
thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV. Việc xác định đối tượng và phạm vi nghiên cứu này có liên
quan đến một số khái niệm khác như Nho hoc, Nho gia, nho sĩ, thơ Nho, thơ nhà nho, thi
luận Nho gia...
Nho học: một học phái quan trọng thời cổ đại ở Trung Quốc. Về sau Nho học trở thành
tư tưởng chính trị chính thống của chế độ phong kiến Trung Quốc và một số nước lân cận.
Nho học lấy tư tưởng Nhân nghĩa (Trung thứ) làm hạt nhân.
Nho gia: chỉ phương diện học phái của Nho học. Ở Việt Nam, nó còn bao hàm nghĩa
Nho sĩ (nhà nho).
Nho sĩ: người thời xưa theo Nho học hay có khi chỉ chung trí thức ở các nước chịu ảnh
hưởng Nho học.
Thơ Nho: xuất hiện trong tương quan so sánh với thơ Thiền, trước hết được xác định là
những tác phẩm thơ sáng tác trong thời gian từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV ở Việt
Nam. Thơ Nho là thơ của các tác giả nhà nho chịu ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo, quan niệm
văn học Nho giáo, cảm hứng Nho giáo. Thơ Nho, do đó, không hoàn toàn đồng nhất với thơ
nhà nho vì ở thơ nhà nho có khi có xen lẫn cả cảm hứng Thiền hoặc Lão – Trang.
Ở Trung Quốc người ta còn dùng đến khái niệm Thi luận (ví dụ “Trung quốc thi luận
sử”, “Khổng Tử luận thi và Khổng Tử thi luận”...). Đó là kho tàng những lý luận thơ ca,
những quan niệm về thơ nói chung vô cùng phong phú và phát triển theo thời gian.
Thi luận chính thống của Nho gia Trung Quốc thường được nhắc đến qua những quan
niệm và lý luận thơ ca của Khổng Tử, Tuân Tử, Mạnh Tử, Lưu Hướng, Mao Hanh - Mao
Trành, Trịnh Huyền, Lưu Hiệp, Đỗ Phủ, Nghiêm Vũ... Trong đó, phần lớn là những ý kiến
mang tính chất kinh điển.
Qua đó, có thể thấy không ít những khác nhau về quan niệm nghệ thuật thơ ca của nhà
nho, những kiến giải khác nhau về mối quan hệ thơ với đạo, chí, dụng, tình... Càng về sau
những lý giải này càng thêm phong phú (Ví dụ có những chú giải khác nhau về “Kinh thi”,
có sự ra đời của rất nhiều “thi thoại”, “thi phẩm”). Mạch thi luận này cũng là những vấn đề
quan trọng của Kinh học – môn học tìm hiểu và giải thích kinh điển Nho gia. “Văn dĩ tải
đạo” là mệnh đề được quan tâm của Kinh học, nó phản ánh sự ảnh hưởng Nho giáo đến thơ
văn của các nhà nho .
Ở Việt Nam, “thi luận” của Nho gia được nhiều nho sĩ. Gần đây, một số công trình về
bàn về Nho giáo - văn học có thể thấy như “Quan niệm văn học (và mỹ học) của phái Nho
gia” trích trong “Tinh hoa lý luận văn học cổ điển Trung Quốc” (Phương Lựu) [99, 23-30],
phần “Sự tiến triển của quan niệm Nho gia chính thống” trong “Cấu trúc và lịch sử của lý
luận văn học cổ điển Trung Hoa” (Phương Lựu) [100, 541-544]...
Thực trạng thơ Nho ở nước ta như một bức tranh có những nét riêng biệt, độc đáo và
sáng tạo. Thơ Nho Đại Viêt được hình thành với một lực lượng sáng tác phong phú nhưng
không đồng nhất. Đôi khi những tác giả nhà nho lại có cả thơ Thiền như Trần Minh Tông,
Phạm Mại, Nguyễn Trãi… nên cũng cần phải chú ý những bài thơ mang cảm hứng Thiền
tông của các tác giả nhà nho khi nghiên cứu.
Chọn lọc những tác phẩm thơ ca trong thời gian khoảng một trăm năm này, trước hết
cần chọn những tác phẩm chủ yếu chịu ảnh hưởng tư tưởng Nho. Những tác phẩm chịu ảnh
hưởng tư tưởng Thiền sâu đậm hay Lão – Trang quá nhiều cũng cần nên cân nhắc cụ thể.
Những tác phẩm như “Đình Thủy vương công” (Chu An) [178, 54], “Tạp hứng, 2” (Lý Tử
Tấn) [09, 364-365], “Thuật chí” (Lý Tử Cấu) [09, 386-387]... chịu ảnh hưởng khá nhiều bởi
tư tưởng Lão Trang nên khó có thể xếp vào thơ Nho.
Những tác phẩm khác như “Lễ Để sơn” (Lê Thiếu Dĩnh) [09, 408]) và gần một số bài
thơ của Nguyễn Trãi (“Du Nam Hoa tự” [123, 383-384), Thu dạ khách cảm” [123, 306,
307], ,“Tiên Du tự” [123, 37-373], “Mộc cận” [123, 471])... lại là những bài thơ mang
phong cách Thiền nên cũng không thể xếp vào thơ Nho
Tính sơ lược trong “Thơ văn Lý Trần” (tập 3) [178], thấy có khoảng 11 tác phẩm chịu
ảnh hưởng tư tưởng Thiền - Lão như: “Đề Dương Công Thủy Qua đình” (Chu An) [178, 54-
55], “Đề Huyền Thiên Cực cung” (Chu An) [178, 157], “Đề Nguyệt Giản Đạo Lục...” (Trần
Nguyên Đán) [178, 169], “Ngẫu đề” (Trần Nguyên Đán) [178, 192], “Tống Lãm Sơ Quốc sư
hoàn sơn” (Phạm Nhân Khanh) [178, 315], “Du Côn Sơn” (Nguyễn Phi Khanh) [178, 423],
“Đề Huyền Thiên tự” (Nguyễn Phi Khanh) [178, 466], “Thiên Khánh Hựu Quốc khởi Tảo”
(Nguyễn Phi Khanh) [178, 474], “Cầu siêu” (Sư chùa Yên Quốc) [178, 515], “Phong Thủy
đình quan ngư” (Phạm Nhữ Dực) [178, 569]... Những tác phẩm này cũng không thể xếp vào
thơ Nho để nghiên cứu. Tuy vậy trong thực tế có khá nhiều trường hợp các yếu tố Nho – Lão
– Phật hòa trộn vào nhau, hòa tan vào nhau trong bản thân người nho sĩ và trong thơ văn mà
họ sáng tác. Sự thâm nhập và hòa tan vào nhau này khá phức tạp tùy thuộc vào từng tác giả
và ở mỗi tác phẩm khác nhau.
Ở đây, cũng thấy có sự đan xen, sự tiếp thu văn học dân gian vào trong thơ Nho, nổi bật
nhất là trường hợp thơ Nôm của Nguyễn Trãi (“Quốc âm thi tập”). Vấn đề yếu tố Việt trong
thơ Nho cũng là một vấn đề rất phức tạp. Yếu tố Việt vừa xâm nhập chính vào sự tiếp thu
Nho giáo vừa trực tiếp đi vào thơ Nho. Yếu tố Việt là yếu tố bản địa vừa là tố chất cơ bản
của người sáng tác thơ Nho. Các tác giả thơ Nho chủ yếu là những nhà nho Việt. Họ đã sáng
tác bằng tâm sự, nỗi lòng riêng tư của những trí thức Đại Việt. Thơ Nho cũng mang hơi thở
cuộc sống dân tộc, đi cùng với những thăng trầm của dân tộc. Bản thân các tác giả thơ Nho
chủ yếu là những quan lại và thậm chí là những nhà vua. Họ là những người trực tiếp hoặc
gián tiếp có những trọng trách trong nhà nước phong kiến Đại Việt. Cũng vì thế yếu tố Việt
trong thơ Nho là một yếu tố quan trọng cùng tồn tại trong mỗi tác giả, trong mỗi bài thơ
Nho.
Vấn đề thơ Nho từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV cần tìm hiểu về
quá trình hình thành, xác định mốc thời gian, những giai đoạn chuyến biến của thơ Nho có ý
nghĩa quan trọng. Ban đầu, thơ Nho chỉ tồn tại khiêm tốn bên cạnh thơ Thiền và nó bị phản
ứng mạnh bởi tinh thần "bài Ngô". Chỉ khi đất nước độc lập, các vua Lý – Trần chủ động
vận dụng Nho giáo thì Nho học mới có địa vị và từng bước hình thành dòng thơ Nho.
Cho đến đời Trần, thơ Nho từng bước phát triển và hoàn thiện song song với quá trình
phát triển của thơ Thiền. Số lượng tác giả – tác phẩm thơ Nho ngày càng nhiều, có thể thấy
cuối đời Trần các thế hệ nho sĩ Chu An – Phạm Sư Mạnh – Lê Quát… đã ảnh hưởng đến văn
hóa đương thời. Hàn Thuyên được đánh giá như là người mở đầu một phong trào cải cách
văn hóa, nhiều văn tập – thi tập đã ra đời trong thời gian này. Nội dung các thi tập cho thấy
dấu vết Tống Nho nhưng bên cạnh đó tính dân tộc, tính khoan hoà, tính riêng tư, tính “Việt”
cũng rất đậm nét.
Dòng thơ Nho từng bước có diện mạo, định hình. Điều này đặc biệt có dấu hiệu khá rõ
vào nửa sau thế kỷ XIV. "Vào nửa sau thế kỷ XIV, khuynh hướng Nho giáo trong văn học đã
gia tăng” [125, 172]. Trong thời gian đó, ngay cả Nguyễn Trung Ngạn cũng đã nói lên cảm
hứng Nho giáo trong bối cảnh và không khí Phật giáo: “Giang sơn tín mỹ phi ngô thổ” (Du
Nhạc Lộc tự) [09, 135]. Càng ngày, các nho sĩ càng ý thức làm sáng tỏ những bản sắc cao
đẹp của thơ Nho, xác lập ưu thế của thơ Nho. Điều này đã diễn ra trong một thời gian dài.
Đó là quá trình dài mà người Nho sĩ tự ý thức, tự hào với kỹ năng sống, kỹ năng sáng
tạo nghệ thuật mới. Các nhà nho thời này đã tự ý thức trách nhiệm của mình. Ý thức mới của
họ là “đại công xuất nhậm thuộc ngô nho” (Ra công gánh vác việc lớn, thuộc về nhà nho ta)
(Tống Kinh Doãn Nguyễn công... - Nguyễn Phi Khanh) [178, 420]. Ý thức mới này cũng góp
phần hình thành một quan niệm thơ riêng. Mặt nào đó ta có thể nhận thấy thơ Nho đã lấy hệ
tư tưởng Nho giáo và tư tưởng dân tộc làm “vốn văn hóa” trong khi văn hóa Nho giáo đã
phát huy ảnh hưởng từ thượng tầng đến hạ tầng xã hội. Các tác giả thơ Nho cũng không
ngừng phát huy vai trò của mình trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực văn hóa - văn học.
Tuy xác định hơi muộn hơn thực tế đôi chút, nhưng trong “Tựa Quần hiền phú tập” đã
có những nhận định về phái (thơ văn) nhà nho trong bước đầu xây dựng. Từ thời Trần đến
đầu Lê, kẻ sĩ rất nhiều, thế mà văn chương để lại chỉ có vài người thôi: “Nguyễn Nhữ Bật
(thời Vãn Trần, tác giả “Quan Chu nhạc phú”) khơi nguồn, Đào Sư Tích (người phản đối
Hồ Quý Ly), Lý Chuyết Am (Tử Tấn), Nguyễn Cúc Pha (Mộng Tuân), Trình Mật Liên (Thuấn
Du) (Thông Phán châu Vũ Ninh nhà Hồ?), Nguyễn Ức Trai (Nguyễn Trãi) làm cho gợn
sóng” (Tựa Quần hiền phú tập) [179, 242-243]. Lời tựa “Quần hiền phú tập” đã ví văn học
Nho như một dòng sông linh động. Dù chưa đề cập đến những thành tựu trước đó nhưng nó
đã phản ánh quy luật vận động và phát triển của thơ Nho từ khoảng giữa thế kỷ XIV đến
khoảng giữa thế kỷ XV. Người xưa đã xem Nguyễn Nhữ Bật thuộc thế hệ tiên phong vào
cuối đời Trần, Đào Sư Tích tiếp nối (dẫn nước) và hàng loạt các nhà thơ danh tiếng Lý Tử
Tấn, Nguyễn Mộng Tuân, Trình Thuấn Du, Nguyễn Trãi tiếp tục truyền thống…
Thơ Nho như một chuyến xe khởi hành trên một con đường, xuất phát từ Đinh - Lý
nhưng mở rộng và tự giác xác định từ nửa thế kỷ cuối đời Trần. Từ Huyền Quang (1254-
1334) đến Trương Hán Siêu (?-1354), Chu An (1292 – 1370) – những người được thờ ở Văn
miếu - là một bước chuyển từ thơ Thiền đến thơ Nho. (Lúc đó có sự chứng kiến của Trần
Anh Tông – nhà vua, nhà văn hoá). Đầu đời Lê, thơ Nho đã hoàn toàn trở thành một dòng
thơ chính thống, chiếm lĩnh toàn diện. Quá trình đó đã có nguồn gốc từ việc xây dựng Văn
miếu thời Lý, cho đến Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông cố vận động phục hồi tinh thần
dung hòa Tam giáo. Nhưng càng về sau, phần lớn triều đình và giới trí thức mới càng đề cao
Nho giáo rất mạnh mẽ.
Ở nước ta, quá trình sinh thành thơ Nho được xem như hệ quả của quá trình phát triển
của giới nho sĩ xét về mặt chức năng kéo dài đến năm thế kỷ (Thế kỷ X – XIV). Đó là quá
trình đóng góp của nhiều thi nhân, nhiều thế hệ, kể cả các nhà vua và quan lại triều đình.
Giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV là một thế kỷ thơ với những thành tựu đáng kể. Tuy là
những thành tựu ban đầu nhưng nó phản ánh gần như trọn vẹn những đặc điểm cơ bản của
thơ Nho về nội dung – nghệ thuật. Thơ Nho khoảng 100 năm này trong sáng, tích cực và
phản ánh đúng lý tưởng của người nho sĩ chân chính. Nó cũng phản ánh trọn vẹn lý tưởng
thẩm mỹ Nho học trong thi ca. Trong thời gian đó, Nguyễn Trãi là dấu son, là đỉnh cao của
đường biểu diễn dòng thơ Nho. Đến thế hệ Nguyễn Trãi, thơ Nho đã bước qua giai đoạn hình
thành và đi vào ổn định, phát triển.
Tính từ khi Trung Hoa xâm lăng đất Việt cho đến khi dòng thơ Nho chính thức hình
thành đã hơn mười lăm thế kỷ. Bằng những phương thức, những điều kiện, những mối tương
tác khác nhau, văn hóa phương Bắc đã tác động nhiều đến thi ca Đại Việt với mục đích
riêng. Nhưng lợi dụng điều đó, các thế hệ thi nhân nước ta đã truyền vào thơ một dòng máu
khác – dòng máu của văn hóa Việt để xây dựng cho đất nước mình một dòng thơ ngang tầm
thời đại, có bản sắc riêng, có thể sánh vai các truyền thống thi ca khu vực. Các học giả Trung
Quốc thường chủ quan và chưa đánh giá đúng mức khi nhận xét về nền văn học chữ Hán của
nước ta nhưng họ cũng không thể phủ nhận những sáng tạo và bản sắc dân tộc [189]. Đó là
sức sống và nội lực của sự sáng tạo trong văn học dân tộc.
Nhìn chung, thơ Nho từ giữa thế kỷ XIV – giữa thế kỷ XV có thể được xem là một
chặng đường, một mạch thơ riêng, tiếp nối và kế thừa thành tựu thơ trước đó. Thơ Nho càng
ngày càng hưng thịnh và có khuynh hướng chuyển dần thành độc tôn. Bước đường thơ Nho
giữa thế kỷ XIV – giữa thế kỷ XV nằm trong hành trình liên tục của thơ Nho Việt Nam thời
Trung đại và có thể chia thành hai giai đoạn:
-Từ bắt đầu thời Vãn Trần (năm 1341) (Trần Dụ Tông lên ngôi) đến năm 1400; với
những tác giả tiêu biểu như Chu An (? -1370), Phạm Sư Mạnh (1297 -1370), Lê Quát (1300
-1375), Trần Nguyên Đán (1325 -1390)... Thơ ca họ phản ánh khí thế đang lên của Nho học,
hào khí dân tộc, âm hưởng chiến thắng. Lý tưởng Nho giáo được sùng thượng vì nó đang tạo
ra một thiết chế phù hợp, khuyến khích đạo đức, khuyến khích sự trong sáng, minh bạch.
Thơ ca mang lý tưởng Nho giáo với giọng điệu trong trẻo, hồn hậu (thơ Chu An, Trần
Nguyên Đán,…). Phạm Đình Hổ cho là "có cái sở trường tột bậc của của thơ đời Hán, đời
Đường" [53, 181]. Ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo đã gia tăng mạnh mẽ lên thơ ca giai
đoạn này nhưng mạch chính là khuynh hướng tư tưởng “hướng nội”, phê phán Phật.
- Từ năm 1400 đến hết đời vua Lê Nhân Tông (năm 1459):
Nho giáo trong giai đoạn này là Nho giáo mang bản sắc dân tộc, nó trở thành một bản
chất quan trọng của văn hóa Đại Việt. Đây là một kiểu Nho giáo tích cực, dung dị trên nền
tinh thần nhân văn Đại Việt. Chặng đường này tương ứng với phần lớn hai thế hệ nho sĩ Hồ
Quý Ly và Nguyễn Trãi.
Thế hệ nho sĩ Hồ Quý Ly (1376 -1407) gồm Nguyễn Phi Khanh (1380 -1482), Phạm
Nhữ Dực (Giáo thụ đời Hồ), Đặng Dung (? – 1413)… Tuy có khi bị xem là Ngụy triều
nhưng họ đã chính thức đưa Nho giáo lên địa vị độc tôn. Điều cần lưu ý là cuộc khởi nghĩa
của nhà sư Thiệu Nhiên (Phạm Sư Ôn) (?-1390) làm vua Trần Thuận Tông phải rời Thăng
Long đã để lại nhiều ảnh hưởng cũng như sự hạn chế Phật giáo. Thơ giai đoạn này mang tâm
trạng tha hương, ly tán, ẩn dật của những nho sĩ yêu nước trong cảnh vong quốc điêu tàn;
giọng điệu thơ bi phẫn, thống thiết…
Kế đó là thế hệ Nguyễn Trãi (1380 -1442) gồm cả Nguyễn Mộng Tuân (?- ?), Vũ Mộng
Nguyên (1380 -?), Lý Tử Tấn (1378-?), Nguyễn Thiên Tích (? -?)… Thi ca của họ phản ánh
khá nhiều mặt của cuộc chiến chống ngoại xâm và tâm trạng phức tạp sau chiến thắng. Thơ
Nguyễn Trãi với bút pháp mới, không công thức mà bình dị, đề cao đời sống dân dã. Thơ của
ông gần gũi với những người dân đã đi theo Lê Lợi gian khổ giành độc lập. Nhìn chung, nội
dung thơ ca đã có biểu hiện vượt ngoài những giới hạn của kinh điển Nho giáo.
Ngoài ra, cũng có thể chia thơ Nho từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV ra làm 3
chặng đường, dựa vào hoàn cảnh lịch sử và sự thăng trầm của các triều đại. Ba chặng đường
đó có thể xác định như sau: 1. Thời Vãn Trần, 2. Thời Hồ và Hậu Trần, 3. Thời khởi nghĩa
Lam Sơn – Đầu nhà Lê.
Hơn một thế kỷ thơ ca đã thực sự vận động qua những bước đi riêng. Dù sao, từ giữa thế
kỷ XIV – giữa thế kỷ XV thơ vẫn được khẳng định là thể loại thu hút sự chú ý nhất với nhiều
thành tựu đáng kể bên cạnh các thể loại khác như văn bia, văn chính luận, sử ký, truyện
truyền kỳ… Tuy bị đánh giá là ít phong cách rõ nét nhưng thật ra mỗi nhà thơ vẫn có những
thành tựu nên không thể nhầm lẫn với những nhà thơ khác. Thơ Nguyễn Trung Ngạn phóng
khoáng theo hành trình xa rộng, thơ Phạm Sư Mạnh có khí thế hào hùng nơi biên tái, thơ
Đặng Dung có nỗi bi phẫn thời thế, thơ Nguyễn Phi Khanh là tình cảm sâu lắng với cuộc đời
– với nỗi đau đời, Nguyễn Trãi với lời thơ trung hậu tài hoa… Thơ của họ cũng khác với
Thái Thuận – nhà thơ có những vần thơ trẻ trung, táo bạo, dáng dấp những nhà nho tài tử đầu
tiên ở nửa cuối thế kỷ XV.
Hành trình thơ Nho cũng có những thăng trầm như cuộc đời. Thơ Nho giữa thế kỷ XIV
– giữa thế kỷ XV là chặng đường đi dần đến vinh quang của thi ca Nho giáo.
Việc chọn hai mốc thời gian giữa thế kỷ XIV và giữa thế kỷ XV để xác định giới hạn
nghiên cứu có những ý nghĩa nhất định. Thời gian này về bối cảnh văn hóa tư tưởng của Đại
Việt thì Phật giáo đã tạm rút lui về am thanh chùa vắng và thầm lặng lan tỏa vào mạch sống
dân tộc. Trong khi đó, Nho giáo thắng thế dần dần chiếm vị trí độc tôn. Vào nửa sau thế kỷ
XIV khuynh hướng Nho giáo trong văn học đã gia tăng… Từ sau kháng chiến chống Minh
thắng lợi (năm 1428), Nho giáo càng hưng thịnh. Lực lượng sáng tác thi ca chủ yếu là giới
nho sĩ.
Văn học nửa đầu thế kỷ XV so với nửa cuối thế kỷ XV về mặt nội dung, cảm hứng có
đôi chút khác biệt. Văn học nửa đầu thế kỷ XV cảm hứng chính là cảm hứng lịch sử, ca ngợi
chiến công oanh liệt, hào khí của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, ca ngợi thiên nhiên đất nước.
Trong thơ thời đó “quan niệm hiện thực và nhân dân đậm nét” (125, 173]. Đây là điểm khác
biệt của thơ Nho từ giữa thế kỷ XIV- giữa thế kỷ XV với thơ Nho sau đó.
Văn học nửa cuối thế kỷ XV cũng thể hiện nội dung yêu nước, bộc lộ niềm tự hào dân
tộc, cảm hứng ca ngợi thiên nhiên đất nước thái bình, nhưng nặng về thù phụng xướng họa.
Lê Quý Đôn nhận xét về thời Lê Thánh Tông: “sĩ tử tập lối văn bóng bẩy, đẽo gọt từng câu”
(Kiến văn tiểu lục) [32, 300]. Thơ ca nhiều khi đi vào a dua, tán tụng. Dần dần lối học khoa
cử đã làm cho học phong kém đi, phẩm chất thơ ca chữ Hán cũng giảm đi.
Từ giữa thế kỷ XIV, cụ thể là từ năm 1341 (bắt đầu thời Vãn Trần) thơ ca có khuynh
hướng “hướng nội”. Ở đây, lời hùng ca thời Thịnh Trần được thay thế bởi lời ca bi tráng.
Đời sống xã hội cuối thời Trần, sự xâm lăng của giặc Minh đã để lại nhiều bài thơ có khuynh
hướng này. Tuy nhiêu, sau chiến thắng giặc Minh thì hào khí dân tộc lại dâng cao. Không
khí đó cũng đi vào trong thơ.
Giữa thế kỷ XV, ta có thể lấy thời điểm năm 1459 (chấm dứt thời vua Lê Nhân Tông) để
phân chia hai giai đoạn văn học (nửa đầu và nửa sau thế kỷ XV). Nửa đầu thế kỷ XV là giai
đoạn tiến bộ của xã hội phong kiến, văn học có nhiều biểu hiện vượt ra ngoài ý thức hệ Nho
giáo.
Luận án chọn giới hạn nghiên cứu một thế kỷ thơ Nho từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế
kỷ XV là chọn lấy giai đoạn thơ Nho đậm chất dân tộc, tích cực, chưa bị phân hóa. Giai đoạn
này được Thanh Lãng gọi là văn học đối kháng Trung Hoa. Việc xác định giới hạn thời gian
nghiên cứu tạo điều kiện tập trung vào đối tượng nghiên cứu.
Tóm lại, thông qua việc giải quyết các vấn đề về khái niệm, giới hạn nghiên cứu, thơ
Nho Việt Nam từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV đã có những cơ sở lý thuyết xác định.
Đây là một dòng thơ có những nét đặc biệt về quá trình hình thành, phát triển, đặc điểm, bản
chất. Nó chịu ảnh hưởng Nho giáo tích cực buổi đầu, kể cả mặt tích cực của tư tưởng Tống
Nho. Đồng thời tư tưởng Nho giáo trong thơ ca được các nhà thơ Nho Việt Nam tiếp thu,
1.2. DIỆN MẠO THƠ NHO VIỆT NAM TỪ GIỮA THẾ KỶ XIV ĐẾN
GIỮA THẾ KỶ XV
1.2.1. Sự hình thành dòng thơ Nho từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV
1.2.1.1. Sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo
sáng tạo nên mang đậm tính hiện thực, tính dân tộc.
Nho giáo truyền đến Việt Nam làm ảnh hưởng đến nhiều mặt văn hóa Việt Nam. Nho
giáo ảnh hưởng đến các thể loại văn học Việt Nam thời trung đại, trong đó có thơ ca. Nho
giáo tác động đến thi ca là nhân tố quan trọng đi đến hình thành thơ Nho.
Nho giáo được truyền vào Việt Nam từ đầu triều Bắc Thuộc (cuối đời Tây Hán). Nội
dung Nho giáo thời gian này bị cắt xén và lợi dụng phục vụ cho công cuộc cai trị. Những
nhân vật tiêu biểu trong thời gian này là Tích Quang (đời Hán), Nhâm Diên (đời Hán), Sĩ
Nhiếp (đời Hán), Lý Cầm, Lý Tiến (đời Hán), Trương Trọng (đời Hán), Ngu Phiên (đời
Hán), Đỗ Tuệ Độ (đời Tấn), Tông Xác (đời Nam Bắc triều), Tinh Thiều (đời Nam Bắc
Triều)...
Cuối triều Bắc thuộc, từ thời thuộc Đường (618-907) về sau, một số ít nho sĩ thi đỗ Mậu
Tài (Tú tài), Hiếu Liêm (Cử nhân), làm quan ở địa phương hoặc ở Trung Quốc. Những nhân
vật tiêu biểu thời gian này là Khương Công Phụ, Khương Công Phục... (thời Đường).
Trong thời Bắc thuộc, văn hóa Trung Hoa đã có mặt, nguy cơ “Hán hóa” Đại Việt lên
cao. Tuy Nho học bước đầu ở Đại Việt còn ít người học, nhà trường không nhiều nhưng Nho
học ngày càng tăng ảnh hưởng trên vùng đất mới.
Mảnh đất phương Nam đã tiếp nhận, Nam phương hoá, Đại Việt hoá Nho giáo trên nền
văn hoá dân tộc. Nó gây nên không ít xung đột văn hoá, gây nên sự mất cân bằng nhưng để
rồi lập lại sự cân bằng mới. Nho giáo thời Lý – Trần cũng là Nho giáo trong sự dung hợp
Tam giáo. Cho đến giữa thế kỷ XIV, tuy Nho giáo cũng được chú trọng nhưng về cơ bản
Phật vẫn giữ vị trí cao hơn. Từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV, vai trò của Nho giáo
trong đời sống xã hội và văn hóa Việt Nam đã có sự thay đổi. Nho giáo giữ vai trò thượng
tôn.
Sau khi chiến thắng giặc Nguyên (1288), nhà Trần có khuynh hướng xa rời quần chúng.
Mô hình điền trang thái ấp nhà Trần đã không phát huy được sức lao động và ruộng đất canh
tác. Nhiều hiện tượng tiêu cực xã hội đã xảy ra, đất công bị chiếm dụng... Cũng vì thế, Nho
giáo dần dần thay thế vị trí của Phật giáo và đi đến độc tôn. Từ giữa thế kỷ XIV, trong lòng
xã hội Đại Việt một thế lực xã hội đã ra đời. Thế lực đó âm thầm phát triển, phát huy ảnh
hưởng trong môi trường một xã hội mở, một xã hội giàu tinh thần dân chủ, bình đẳng truyền
thống – đó là tầng lớp Nho sĩ, là tầng lớp trí thức mới thay thế cho tầng lớp trí thức cũ là các
nhà sư. Các nhà sư trước đây đã có một vai trò hết sức to lớn trong đoàn kết dân tộc, chống
quân phiệt hóa nhà nước, đề cao tinh thần tự chủ và đối kháng Trung Hoa. Nhưng từ giữa thế
kỷ XIV, họ đã từng bước nhường vị thế quốc giáo cho Nho giáo một cách thầm lặng.
Thời Vãn Trần (nửa cuối thế kỷ XIV) tương ứng các triều vua Trần Dụ Tông (1341-
1369), Nghệ Tông (1370-1372), Duệ Tông, Phế Đế, Thuận Tông)... Nho giáo vươn lên mạnh
mẽ và khẳng định vai trò lịch sử của mình. Giới nho sĩ ngày càng đông, đổ đạt cao. Những
nhân vật tiêu biểu có thể kể là Chu An, Trần Nguyên Đán, Lê Quát, Phạm Sư Mạnh, Chu
Đường Anh... đã xây dựng được niềm tin ở xã hội.
Nho giáo lúc này về cơ bản có dấu hiệu Tống nho (sự kiện ra đời của Quốc Học viên và
Tứ thư, Ngũ kinh được giảng giải ở đây từ năm 1253). Về học thuật thì “theo Huấn hỗ học
của Hán nho và Đường nho” [78, 385]. Nhưng triều đình đại diện là vua Trần Nghệ Tông -
đã tiếp tục tư tưởng của Trần Minh Tông – và làm chậm lại sự đề cao đạo Nho cũng như ảnh
hưởng sâu rộng của Tống nho. Có thể nói trong thời gian này có ảnh hưởng đến văn hóa Việt
là Hán Nho, Đường Nho, Tống Nho. Tống Nho có vẻ nổi bật hơn trong khối hỗn hợp đó
nhưng vẫn chưa ảnh hưởng bằng Phật giáo và nó có nhiều dấu hiệu bị Việt hóa.
Đến đời Hồ và Hậu Trần, Nho giáo đã hoàn toàn thay thế vị trí Phật giáo. Nho giáo tiếp
tục đi đến độc tôn và ảnh hưởng mạnh mẽ đến chính trị xã hội nước ta. Hồ Quý Ly phê phán
Tống nho, đề cao Chu Công, chuộng thực tế. Ông viết sách “Minh đạo” như một hướng đi
riêng, Việt hóa Nho. Nhưng về bản chất các nhân vật thời gian này như Lý Tử Tấn, Nguyễn
Phi Khanh... lại có thiện cảm với Tống nho. (Câu “Nghi thủy xuân phong dữ vật tâm” trong
bài “Du Phật Tích sơn đối giang ngẫu tác” của Nguyễn Phi Khanh “lấy ý từ câu “Bàng hoa
tùy liễu quá tiền xuyên” của Trình Minh Đạo” [178, 395]. Có thể nói Nho giáo thời gian này
Tống Nho có ảnh hưởng nhưng gặp nhiều đối kháng. Yếu tố Việt trong Nho giáo có biểu
hiện khá nhiều. Những nhân vật tiêu biểu thời gian này là Hồ Quý Ly, Đặng Dung, Nguyễn
Phi Khanh... Không bao lâu, vào thời Minh thuộc (1407- 1428), nhà Minh tiếp tục đem sách
vở Tống Nho vào nước ta.
Đến Khởi nghĩa Lam Sơn và Lê sơ, Nho giáo tiếp tục giữ vị trí quan trọng nhưng ban
đầu Nho học được vận dụng phục vụ kháng chiến (không giống khuynh hướng triết học của
Tống Nho). Sau kháng chiến, các nhà nho thời gian này (như Nguyễn Trãi) vẫn còn ảnh
hưởng văn hóa thời Lý – Trần. Nho giáo trog thời gian hòa bình lập lại từ năm 1428 cho đến
năm mở khoa thi Tiến sĩ 1442 về cơ bản vẫn là Tống nho, nhưng chưa rõ nét. Nhưng bên
cạnh đó, vai trò Nguyễn Trãi trong khuynh hướng Việt hóa và phục hưng văn hóa thời Lý
Trần rất đáng kể. (Thực tế vai trò của Nguyễn Trãi vẫn ảnh hưởng cho đến khi ông mất –
năm 1442). Những nhân vật nho sĩ tiêu biểu ở thời gian này là Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng
Tuân, Lý Tử Tấn...
Nhìn chung, để xác định ảnh hưởng của Nho học vào văn học nước ta cũng tùy vào từng
thời kỳ. Nếu nói thời gian này Nho giáo ở nước ta là Tống nho thì đó chỉ là khái quát. Không
thể không chú ý đến yếu tố Việt đã ảnh hưởng đáng kể bởi bốn nguyên nhân:
Thứ nhất: ảnh hưởng tư tưởng dung hòa tam giáo thời Trần.
Thứ hai: tư tưởng bài Tống nho triều Trần – Hồ.
Thứ ba: tư tưởng khôi phục văn hóa khoan hòa tam giáo thời Lê sơ.
Thứ tư: những quan niệm thi luận về “ngôn chí” của thời gian này (Phan Phu Tiên, Lý
Tử tấn, Hoàng Đức Lương, Nguyễn Trãi...) phản ánh một phần tính chất ảnh hưởng của Nho
giáo đến thơ Nho. Những quan niệm này được xác định là “tương đương với lý luận thơ ca
cổ Trung Hoa từ đời Đường về trước” (Phương Lựu) [100, 613].
Triều nhà Hồ, nhà Lê, Nho giáo trở thành lý thuyết chính trị, đạo đức xã hội, nội dung
giáo dục, thi cử… Quan niệm văn học, nghệ thuật thi ca cũng không ngoài trường ảnh hưởng
của Nho học. Sự sùng thượng học thuyết Nho giáo, sự lớn mạnh của tầng lớp Nho sĩ, sự ảnh
hưởng sâu rộng của văn hóa mới dẫn đến thơ Nho là sự hiển nhiên.
Đại bộ phận quần chúng trong xã hội qua các triều đại dần dần đều thích nghi với chính
sách tiên phong của nghệ thuật trị nước từ Nho giáo. Chính sách “thân dân”, tư tưởng “dân
vi quý”,... đã có tác dụng tích cực. Đại bộ phận Nho sĩ có gốc bình dân xâm nhập vào bộ
phận quan liêu, mang ý thức Nho giáo vào giới quý tộc trước đó chịu ảnh hưởng Phật giáo.
Nhiều yếu tố mới đã hình thành trong xã hội nước ta thời đó.
Nho giáo càng xác lập ưu thế trên phạm vi toàn xã hội. Giới nho sĩ càng ý thức được
quyền lợi và vị trí của mình, họ lên tiếng bài bác Phật giáo. Việc bài bác chủ yếu nhằm vào
các hiện tượng xã hội hơn là mặt tôn giáo, triết học. Các nhà sử học cũng có những lời phê
bình mạnh mẽ Phật giáo song song với việc đề cao học thuyết đạo đức “Nhân nghĩa”, tôn
trọng vương quyền, củng cố các “giềng mối” đạo đức xã hội. Họ đã xây dựng mẫu người lý
tưởng – người quân tử, đồng thời đề cao mẫu người “thiên tử” – trong tinh thần “thiên - nhân
hợp nhất” và chính sách thân dân. Nho giáo từng bước ảnh hưởng sâu đậm lên văn hóa Đại
Việt, trong đó có thơ văn của các tác giả nhà nho. Riêng thơ ca của các nhà nho sự ảnh
1.2.1.2. Quá trình hình thành dòng thơ Nho
hưởng này khá sâu đậm, nó làm nên một số nét riêng của cả một dòng thơ.
Để tìm hiểu những bước khởi đầu của hành trình thơ Nho cần quay về nguồn gốc, lịch
sử thơ Nho. Tài liệu về vấn đề này không còn nhiều.
Trong những nhà nho ở nước Việt (Tinh Thiều - thời Nam Bắc Triều), có người Việt
làm quan ở Trung Hoa (Trương Trọng, Lô Hồi, Khương Thần Dực, Khương Công Phụ,
Khương Công Phục, Liêu Hữu Phương...) đó là những nhà nho có tên tuổi đầu tiên. Nhìn
chung thời Bắc thuộc, dòng thơ Nho chưa hình thành, thành tựu Nho học của người Việt đã
ít gây được tiếng vang (ngoại lệ có Liêu Hữu Phương được Liễu Tử Hậu (Đời Đường) đánh
giá là "thơ văn có điệu Đại nhã" [145, 121]). Những nhà nho gốc Phật giáo trong hoàn cảnh
song hành văn hóa Nho – Phật lại là những tác giả thơ Nho đầu tiên dùng thơ Nho để xướng
họa với người Trung Hoa. Vị tăng ở Nhật Nam, Vô Ngại Thượng Nhơn, Duy Giám pháp sư
đã từng xướng họa với thi hào Trương Tịch, Thẩm Thuyên Kỳ, Giả Đảo… hoặc giảng kinh
cho vua Đường.
Theo tiến trình văn học, từ xa xưa thơ Nho đã có dấu hiệu ban đầu của sự tồn tại. Những
tài liệu cổ còn sót lại không nhiều nhưng có thể cho ta một số thông tin. Trong “Toàn Đường
thi” (quyển 784) [194] còn ghi lại một bài thơ của một Cử nhân An Nam vào năm 860 (thế
hệ sau Đỗ Phủ), diễn tả nỗi nhục mất nước và quan lại Phương Bắc để cho quân Nam Chiếu
đánh phá, tràn ngập. Mở đầu bài thơ là: “Người ta đã làm cho xứ Giao Chỉ tôi thật nhục
nhã” (Trí ngã Giao Chỉ nhục) [131, 326-327]. Đây đó cảnh vơ vét, cướp bóc, bắt lính, chiến
trường vắng bên bờ sông đầy thây người dân Việt. Âm điệu của bài thơ đau xót không kém
“Bi Trần Đào” của Đỗ Phủ. Cuối bài thơ là “Tiếng than vang động cả làng mạc – Oán khí
chất thành non cao…”. Bài thơ này cùng với hai thiên “Bạch vân chiếu xuân hải” và “Đối
trực ngôn cực gián sách” của Khương Công Phụ (trong “Toàn Đường văn”) tồn tại với tư
cách là tín hiệu biểu hiện hơn là một dòng phái rõ rệt. Từ những gì còn lại có thể nhận thấy
thơ Nho chỉ là “dòng thơ chưa được xưng tụng” bên cạnh thơ Thiền và nó còn bị phản ứng
mạnh bởi tinh thần "Bài Ngô". Chỉ khi đất nước độc lập, các vua Lý – Trần chủ động vận
dụng Nho giáo thì Nho giáo mới có địa vị và khi ấy mới hình thành dòng thơ Nho. Tuy
nhiên, những tác phẩm trên đây chỉ là dấu hiệu ban đầu, góp một phần nhỏ vào truyền thống
thơ Nho Việt Nam.
Tiếp xúc với kinh điển Nho học chính thống, đương nhiên các nhà nho sơ kỳ Trung đại
đã chiếm lĩnh những tuyên ngôn nghệ thuật thơ ca cần thiết. Những quan niệm về thơ đã
được biết đến như “Thi khả dĩ hưng…” (Luận ngữ- Dương Hoá) [72, 274]; “Tư vô tà”
(Luận ngữ- Vi chính) [72, 14]; “Ôn nhu đôn hậu” (Lễ ký- Kinh giải) [73, 211]; “Văn chất
bân bân” (Luận ngữ- Ung dã) [72, 92]... Các nhà nho Việt đã tiến hành Việt hóa Nho giáo,
nhưng ban đầu, thơ Nho thời Lý chỉ khiêm tốn tồn tại bên cạnh dòng chính thống – thơ
Thiền. Lịch sử đã xuất hiện một số tiếp xúc văn hóa Nho – Thiền. Bài minh ghi trên bia chùa
Linh Xứng viết: “Phật Tổ… chỉ thẳng lòng, thánh nhân…thông suốt muôn biến” (Thiền sư
Pháp Bảo). Sự tiếp xúc, phân công lại tiếp tục được phản ánh trong “Thiền Tông chỉ nam
tự”. Hiện tượng này cũng cho thấy tình trạng dung hòa thơ Nho và thơ Thiền, nhưng rồi từng
bước thơ Nho đã vượt lên thế dung hòa đó.
Đời Trần, thơ Nho từng bước phát triển và hoàn thiện song song với quá trình phát triển
của thơ Thiền (khoảng 50 tác giả vào cuối đời Trần). Số lượng tác giả – tác phẩm thơ Nho
ngày càng nhiều, có thể thấy cuối đời Trần thế hệ nho sĩ Chu An – Phạm Sư Mạnh – Lê
Quát… đã ảnh hưởng đến văn hóa đương thời. Hàn Thuyên được đánh giá như là người mở
đầu một phong trào cải cách văn hóa, nhiều văn tập – thi tập đã ra đời trong thời gian này.
Nội dung các thi tập mang dấu vết Nho giáo và tính “Việt” đậm nét.
Lúc này, dòng thơ Nho từng bước có diện mạo, định hình. Nhất là vào nửa sau thế kỷ
XIV, diện mạo thơ Nho có điều kiện bộc lộ. Đó là quá trình người Nho sĩ tự hào với kỹ năng
sống, kỹ năng sáng tạo nghệ thuật. Các nhà nho tự ý thức về trách nhiệm của họ. Đó là trách
nhiệm của tầng lớp. Có thể xem dòng thơ đó lấy hệ tư tưởng Nho giáo và tư tưởng dân tộc
làm “vốn văn hóa” khi văn hóa Nho giáo đã phát huy ảnh hưởng từ thượng tầng đến hạ tầng
xã hội. “Vào nửa sau thế kỷ XIV, khuynh hướng Nho giáo trong văn học đã gia tăng” [125,
172]. Các tác giả thơ Nho cũng không ngừng phát huy vai trò của mình trên nhiều lĩnh vực,
đặc biệt là lĩnh vực văn hóa - văn học.
Dễ nhận thức được con người trách nhiệm là một nét đặc trưng trong thơ những nhà
nho đất Việt và Trung Hoa. Có sự gần gũi giữa thơ Nho Trung Quốc và thơ Nho nước ta
nhưng các thi nhân đất Việt xem mình là sao Ngưu sao Đẩu, hơn hẳn Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tiền
Hán, Thịnh Đường,… (Tô Thế Huy, Tao đàn, Lê Thánh Tông…). Điều đó cho thấy dòng thơ
Nho Việt đã thực sự tồn tại, có vị trí rõ rệt trong các nền thơ ca cổ phương Đông.
Ở nước ta quá trình sinh thành dòng thơ Nho được xem như hệ quả của quá trình phát
triển của giới nho sĩ xét về mặt chức năng kéo dài đến năm thế kỷ (thế kỷ X – XIV). Đó là
quá trình đóng góp của nhiều thi nhân, nhiều thế hệ, kể cả các nhà vua và quan lại triều đình.
Giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV là một thế kỷ thơ với những thành tựu đáng kể. Tuy
mới là thành tựu ban đầu nhưng nó phản ánh gần như trọn vẹn những đặc điểm cơ bản của
thơ Nho về nội dung – nghệ thuật. Thơ Nho thế kỷ này trong sáng, tích cực và phản ánh
đúng lý tưởng của người nho sĩ chân chính, phản ánh đúng lý tưởng thẩm mỹ Nho học trong
1.2.2. Lực lượng sáng tác
thi ca, mà ở đó, Nguyễn Trãi được xem là một trong những tác gia tiêu biểu nhất.
Loại hình tác giả thơ Nho chủ yếu là các nhà nho, những người được học tập, đào tạo
bằng chương trình Nho học, lấy những tri thức của Nho giáo làm cơ sở nhận thức tự nhiên,
xã hội và bản thân. Các tác giả thơ Nho đã sáng tác thơ ca dựa trên những quan niệm văn
học, mỹ học mang màu sắc Nho giáo.
Trong khoảng thời gian từ giữa thế kỷ XIV đến gữa thế kỷ XV, dựa theo các công trình
như “Thơ văn Lý Trần” (tập 3) (Viện Văn học)[178], “Hoàng Việt thi tuyển” (Bùi Huy
Bích) [09], “Tổng tập văn học Việt Nam” (tập 4) (Bùi Văn Nguyên) [117], “Tổng tập văn
học Việt Nam” (tập 5) (Bùi Văn Nguyên) [118], có thể thấy lực lượng sáng tác rất đông đảo.
Thời gian này số lượng tác giả thơ Nho có khoảng 65 tác giả.
Những tác phẩm như “Đình Thủy vương công” (Chu An) [178, 54], “Tạp hứng 2” (Lý
Tử Tấn) [09, 364-365], “Thuật chí” (Lý Tử Cấu) [09, 386-387]... ảnh hưởng bởi tư tưởng
Lão Trang nên khó xếp vào thơ Nho.
Những tác phẩm như “Lễ Để sơn” (Lê Thiếu Dĩnh) [09, 408]) và gần 10 bài thơ của
Nguyễn Trãi (“Du Nam Hoa tự”, Thu dạ khách cảm”, “Thuật hứng, 17”, “Mộc cận”, “Ức
Trai thi tập, bài 65”, “Du Tiên Sơn tự”... [123]) lại là những bài thơ mang phong cách
Thiền, vì thế cũng không thể xếp vào thơ Nho
Số lượng tác phẩm thơ Nho thời gian này cũng cũng rất cao: “Thơ văn Lý Trần” (tập 3)
[178] có 301 bài/ 39 tác giả thật sự là thơ nhà nho.
Trong “Nguyễn Trãi toàn tập” [123], “Ức Trai thi tập” có 99 bài, “Quốc âm thi tập”
có 254 bài (đã trừ những bài thơ Thiền).
Tác phẩm “Hoàng Việt thi tuyển” [09] (chọn thời Lê đến giữa thế kỷ XV) có 61 bài
được sáng tác bởi một lực lượng khá đông đảo đến 25 tác giả.
Nhìn chung, thời gian khoảng một trăm năm này số lượng tác giả, tác phẩm đã lên rất
cao. Hiện tượng này phản ánh một thời hưng thịnh của thơ văn nhà nho. Đồng thời nhiều tác
giả thơ Nho được xem là những danh nho tiêu biểu, mẫu mực cho mọi thế hệ nho sĩ Đại
Việt.
Tác giả thơ Nho thời này chủ yếu là những nhà nho đỗ đạt, những quan chức triều đình,
kể cả những nhà vua nhưng có tâm hồn thi sĩ. Họ sáng tác trong lúc tự thuật, xúc cảm, xướng
1.2.3. Những đề tài chủ yếu của thơ Nho Việt Nam từ giữa thế kỷ XIV đến
giữa thế kỷ XV
họa...
Người xưa làm thơ thì ý tưởng đã được nói lên một phần ở tên bài thơ như thuật hoài,
vịnh sử, thù đáp, tống biệt, đề vịnh… hoặc không gian sáng tác như giang hồ, vũ tuyết, sơn
nhạc, lâu các, mộng,... Nội dung thi ca cổ thường được trình bày tương ứng với những tư
tưởng về hiện thực, nhân sinh, xã hội, tấm lòng cứu quốc, cứu thời, cảm xúc trước thiên
nhiên, tình cảm gia đình, bạn bè, tâm tình bản thân đối với cảnh ngộ riêng. Ở thơ Việt Nho
từ giữa thế kỷ XIV – giữa thế kỷ XV, những ý tưởng tình cảm được gửi vào thơ xuất phát từ
đặc điểm thơ Nho và hiện thực nước Đại Việt trong khoảng một thế kỷ này.
Có thể thấy thơ Nho giữa thế kỷ XIV – giữa thế kỷ XV bao hàm cả vào hai mảng chủ
đề, thứ nhất gồm: thơ phản ánh chí của người nho sĩ và thứ hai là những tình cảm trắc ẩn, cô
1.2.3.1.Thơ nói“chí” của nhà nho
đơn của người nho sĩ, người trí thức nước Việt.
Văn học nhà nho nói chung rất xem trọng mệnh đề “ngôn chí”. Theo tình hình chuyển
biến của Nho học ở các nước thì những quan niệm Nho học được cấu trúc lại và phần lớn
được cải biến và vận dụng với ý thức dân tộc và khát vọng độc lập về chính trị – văn hoá -
văn học. “Chí” trong thơ Nho Việt nam cũng vì thế mà khá phức tạp.
“Thơ nói chí” là chủ đề cơ bản của thơ Nho. Nhưng xác định “chí” là thế nào và “chí”
trong thơ Nho ra sao, vẫn có nhiều phương thức xác định khác nhau. Quan niêm thơ nói chí
theo nghĩa kinh điển Nho gia là hướng về đạo, đức, nhân… Chí vốn có nguồn ở tâm nhưng
là cái phù hợp với đạo lý. Chí không chỉ là chí hướng mà còn là năng lượng bền vững của
hành động hợp đạo lý. Chí có thể là tình nhưng là dạng thức tình cảm tích cực thực hiện lý
tưởng cao đẹp. Tình cảm đó chất chứa trong tâm và gặp điều kiện “tức cảnh” sẽ hòa vào thi
hứng trong thơ. Phan Phu Tiên đã viết: "tâm hữu sở chi tất hình ư ngôn, cố thi dĩ ngôn chí"
[117, 374]. “Chí” ở trường hợp này được các Việt Nho thể hiện như là các dạng chí hướng
của người thi sĩ: có chí hướng sửa sang chính sự, ngăn đạo đức xuống cấp, có chí ở chốn sơn
lâm…
“Thi ngôn chí” là một tông chỉ của thơ Nho nhưng ở đây, nội dung của “chí” được mở
rộng sang những lĩnh vực thế sự và bản địa hóa. Nó không còn cao xa, cao quí mà gắn liền
với những biến động của đất nước, sự tồn vong của dân tộc và tâm sự của người thi sĩ. Vì
vậy, nội dung “chí” ở đây đã được mở rộng.
Thơ nói chí – hành đạo – liên hệ chính sự là chủ đề bao hàm rất nhiều tác phẩm thơ
Nho. Thơ “nói chí” không xa lạ đối với thơ ca cổ. Là những sáng tác riêng tư của các thi sĩ
Việt Nho, ở Đại Việt thơ Nho có những sáng tạo thật sự mới mẻ. Nếu có sử dụng thi liệu
Trung Quốc thì đã biến đổi theo các cách: “đề cũ mà ý dị, đề đồng mà điệu dị, đề đồng mà
sự dị, lấy ý mà đổi đề danh, bắt chước đề cũ mà phản lại ý…” [120, 68 – 69]. Nhờ tinh thần
nho sĩ đất Việt mà thơ nói chí không đến đỗi bị thu hẹp. Nhiều khi đề tài, chủ đề được lựa
chọn khá đơn điệu nhưng mỗi nho sĩ vẫn có những nét riêng. Tâm – chí của mỗi người trong
thơ là một thế giới riêng.
Chí là năng lượng hướng dẫn hành động, là sự tập trung chuyên chú mọi năng lực cho
một định hướng, tự ám thị của tâm cho một lý tưởng. Chí của nhà nho xuất phát từ “cách
vật” (hiểu sự vật hiện tượng, những quy luật khách quan) đến những việc “tu- tề- trị - bình".
Từ học vấn đến công việc gia đình, quốc gia, xã hội (theo chiều hướng mở rộng từng bước
phạm vi ảnh hưởng của tư tưởng nhân nghĩa).
Thơ Nho trước hết vẫn được xem là quan tâm nhiều đến đề tài nói chí (ý tưởng xuất
phát), hành đạo (thực hiện chí).
Những bước đường vận động của ý chí của các nhà nho nước Việt được tập trung vào
thực thi tư tưởng nhân nghĩa về “yên dân” (Bình Ngô đại cáo) tùy ở chính mỗi cá nhân. Tư
tưởng đó là chủ đề cơ bản, thực thi nó là chí của Việt Nho. Chí ở đây là sự nung cháy bền
vững của tình cảm yêu nước, tình cảm đó chảy suốt từ những huyền thoại, truyền thuyết về
cội nguồn dân tộc, các anh hùng dân tộc. Chí đã được hoá thân vào “Nam quốc sơn hà”,
“Hịch tướng sĩ”, “Bình Ngô đại cáo”. Như một năng lượng tình cảm, "chí" đeo đẳng suốt
đời người nho sĩ như một duyên nợ, thâm nhập thành máu thịt, tâm hồn. Cảm thụ thơ ca nhà
nho, người đọc sẽ bắt gặp nguồn năng lượng ấy.
Ở mỗi nhà thơ, cách thức thể hiện ý chí đã được cá thể hóa. Dường như ở đây, cái đẹp
tâm hồn và cái đẹp thơ ca thống nhất nhau. Chu An là một nho sĩ được xếp vào hàng thanh
cao nhất làng Việt Nho. Thế hệ của ông và trường học của ông đã ảnh hưởng lớn đến việc
hình thành bản sắc của thơ Nho. Ông đã thể hiện ý chí của người trí thức nước Việt qua một
số phương diện. Phương diện thứ nhất là làm trong sáng chốn miếu đường, khảng khái, can
đảm dâng “Thất trảm sớ” chống tham nhũng. Đề nghị không được chấp thuận, ông không
vui, quay về Chí Linh nhưng chí khí vẫn còn gởi lại những học trò trẻ trung đầy nhiệt huyết
mà ông đã rèn luyện. Cuối cùng cả ba thầy trò ông tuy không cứu vãn được thời thế nhưng
hoài bão của thế hệ ông đã biểu lộ trọn vẹn và trở thành truyền thống.
Chí của người thi sĩ có khi trải dài theo con đường sứ trình xa xôi. Thi nhân là những
nhà nho mang trọng trách bang giao với một cường quốc hùng mạnh, đầy mưu lược và từng
nhiều lần xâm chiếm nước nhà. Thơ họ phản ánh tinh thần hiên ngang bất khuất và ý chí
tuyệt vời, đòi lại những quyền lợi cho đất nước… Thơ đi sứ của Nguyễn Trung Ngạn, Mạc
Đĩnh Chi, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trãi… đã làm nên những điểm son trong lịch sử văn học.
Mỗi bước đường của người nho sĩ đều in dấu những xúc cảm. Thơ thể hiện ý chí cũng từ
đó mà xuất phát. Mỗi nhà thơ có cách thể hiện khác nhau. Chí của Phạm Sư Mạnh được
Phan huy Chú khái quát: “Ông có tài khí hùng hồn hơn người, nguồn thơ lai láng, đi khắp
muôn dặm non sông, đến đâu cũng ngâm đề” (Lịch triều hiến chương loại chí). Điều kiện
mở rộng không gian cũng là ưu thế của ông. Thơ của ông thể hiện được khí phách hào hùng
của nhà nho hành đạo trong thời gian đầu xác lập ưu thế trước thơ Thiền.
Nhưng mỗi nhà nho có quan niệm và cách thức thể hiện “chí” cũng khác nhau. Đối với
những nhà nho như Trần Quốc Toại thì khác, chí của ông là ẩn dật:
“Sa lạp Ngũ Hồ vinh bội ấn,
Tang ma sổ mẫu thắng phong hầu”
(Tơi nón ngũ hồ hơn giữ ấn
Dâu gai đầy nội vượt phong hầu)
(Thắng phong hầu) (Cao Huy Giu dịch) [178, 728]
Tuy nhiên, thơ ẩn dật thời gian này thì ý thức về nhàn chưa nhiều và đậm như ở thời
gian đầu thế kỷ XVI về sau. Đến thế kỷ XVI, ta bắt gặp Nguyễn Hàng (Thảo Mao ẩn sĩ)
ngao du vườn ruộng, đọc sách bàn luận đạo nghĩa, Lê Bá Hy hẹn ước lên hội Kỳ Anh với các
nhân sĩ cao tuổi… Những nhà nho ẩn dật thế giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV không
nhiều bằng cuối thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVI.
Nếu so sánh, có thể nhận thấy thơ ca sau thế kỷ XV đã phản ánh những ý thức mới về
chí nhàn dật. Nhiều bài thơ trong thời gian này nói về nhàn –lạc như: “Khi thanh nhàn ta
cũng vui với tính tự nhiên của ta” (Nhàn lai ngô diệc lạc ngô thiên) (Ngụ hứng, 4 – Nguyễn
Bỉnh Khiêm), “Lạc thiên đàm đạo” (Thư đường bát cảnh - Phùng Khắc Khoan), “Cảnh sơn
thủy đều theo vào niềm vui nhân trí” (Sơn thủy đô tòng nhân trí lạc) (Ngụ hứng,5– Nguyễn
Bỉnh Khiêm)… Hoàn cảnh xã hội sau thế kỷ XVI đầy biến động cũng ảnh hưởng đến sự lựa
chọn thái độ sống của các nhà nho. Mảng thơ ẩn dật thời gian này cũng có phong cách và
những đặc sắc nghệ thuật riêng.
Không gian ẩn dật trong thơ Nho thường xa cách những trung tâm văn hóa, chính trị.
Nhưng ngay nơi xa xôi, nơi thôn dã – giang hồ thi sĩ vẫn không nguôi để tâm chí vào chính
sự. Thái độ đó xuất hiện trong bài thơ “Hoành Châu”của Nguyễn Đình Mỹ: “Vạn lý giang
hồ tâm ngụy khuyết” (Ở nơi giang hồ muôn dặm mà lòng vẫn để nơi cửa khuyết) [117, 401].
Ý thơ này vốn đã có từ trước, tiếp nối truyền thống thơ Nho nhưng nó phản ánh mối quan
tâm thường trực của người nho sĩ và cái tình thắm thiết của người nho sĩ với cuộc đời.
“Chí” của kẻ sĩ có khi rất thanh bạch nhưng cũng có khi thật vĩ đại. “Lập chí” là một
mục tiêu quan trọng của giới sĩ phu. Chí lớn cũng là tình cảm lớn. Từ bản thân, gia đình đến
đất nước, đến xã hội là phát triển và mở rộng của hoạt động con người. Ở đây thơ Nho không
có từ ngữ như quá cao quý như "bình thiên hạ" mà chỉ là mơ ước:
“Thiện nhất quang hàm nhị bát trung
Thiên môn tiện cấp trạch vô cùng
Hà như dương khởi vi lâm vũ
Ba cập khô điền tác tuế phong”.
(Đáy nước long lanh ánh sáng ngời
Muôn nhà múc nước mãi không vơi
Muốn tung nước ấy thành mưa móc
Tưới nước đồng khô tốt khắp nơi”
(Tỉnh – Nguyễn Thiên Túng) [09, 441]
Các nhà thơ đã tiếp thu những cảm hứng vô tận về chí giúp nước ở suối nguồn truyền
thống. Đó là những ý tưởng tốt đẹp được khuyến khích trong nền văn hóa Nho gia. Cũng từ
đó, cảm hứng thân dân có điều kiện thể hiện trong thơ. Mỗi nhà thơ hình như luôn canh cánh
bên lòng một trách nhiệm lớn và rất khó phai nhạt, dù trong hoàn cảnh nào.
Có những trường hợp tác giả phải đối diện với thử thách và hiểm nguy trong cuộc đời.
Cho dù hiểm nguy, thi nhân vẫn làm thơ tỏ rõ chí hướng, khẳng định chí hướng và bộc lộ
tâm sự. Những điều đó còn là những lý tưởng mang nặng cả đời người, thậm chí vươn xa
hơn giới hạn thời gian đời người:
“Thư nhạn lạc lài khi gió,
Tiếng quyên khắc khoải thuở trăng…
Khó ngặt qua ngày xin sống
Xin làm đời trị mấy đời bằng”
(Tự thán,28 - Nguyễn Trãi) [123, 428]
Đó là những suy tư sâu sắc, mạnh mẽ về chính sự được cô đúc lại, nó phản ánh khát
vọng của cộng đồng người Việt. Nó đi vào vô thức tập thể, thành hồn thiêng sông núi. Dù
đang lưu lạc, nguy hiểm, mỗi nhà nho chân chính đều có chung một quan điểm về một sự
nghiệp thống nhất, một đất nước thanh bình, một nền văn hoá độc lập – riêng biệt của Đại
Việt.
Mỗi lúc nghĩ đến “chí”, người nho sĩ xem đó như là trách nhiệm của người trí thức đối
với gia đình, núi sông, xã hội rộng lớn. Nhà thơ xem “chí” gắn liền với nợ quân thân, đó là
động lực và là năng lượng cho họ hành động:
“Nợ quân thân chưa báo được,
Hài hoa còn bợn dặm thanh vân”
(Ngôn chí, 11- Nguyễn Trãi) [123, 399]
Từ nội dung có liên quan đến “chí”, nhà thơ quan tâm đến thực trạng xã hội như một đối
tượng để hoàn thiện “chí”. Thực hiện “chí”, “đạo” là để giúp dân sống tốt hơn, bớt đau khổ
và hạnh phúc nhiều hơn. Chí ở đây nặng tính chất Việt của Nho giáo, nó khác với chí hương
phát triển và làm sáng tỏ các kinh điển các học phái phương Bắc như nhiều nhà nho sau này
hay làm. Lý tưởng, phương hướng đi đến hành động phản ánh trong thơ Nho thủy chung vẫn
là vì dân, vì một xã hội tốt đẹp.
Các nhà nho những thế kỷ sau này có một số lại đi vào khai thác, chú giải, tóm lược
kinh điển Nho gia. Những công trình về Nho học như thế đã được biên soạn trong thời gian
sau này có thể kể đến “Ngũ luân tự” (Nguyễn Tông Quai), “Tính lý toản yếu”, “Ngũ kinh
toản yếu”…(Nguyễn Huy Oánh), “Luận ngữ ngu án” (Phạm Nguyễn Du), “Ngũ kinh tiết
yếu”, “Luận ngữ tiết yếu”… - Bùi Huy Bích, “Dịch Kinh đại toàn tiết yếu diễn nghĩa”
(Phạm Quý Thích)... Một mặt, đây là những tác phẩm mang tính chất rút gọn, tóm lược kiến
thức Nho giáo. Mặt khác, các nhà nho này cũng có điều kiện đi sâu vào học thuật Nho giáo
và sử dụng nhuần nhuyễn những kiến thức này vào thơ văn. Tuy niềm tin vào Nho giáo thời
gian sau này đã không còn như trước nhưng về học thuật Nho giáo vẫn được duy trì.
Từ giữa thế kỷ XV, “chí” đi vào thơ ca theo mô hình “thi dĩ ngôn chí”. Chí ở đây gắn
liền với trách nhiệm, với tình yêu đất nước và tinh thần dân tộc chứ chưa nói nhiều đến công
danh, chưa quá xem trọng công danh. Chí chịu ảnh hưởng tinh thần vì nghĩa.
Thơ ngôn chí đã được tiếp nối hoặc phát triển ở các thời điểm sau này. Nhà thơ thế kỷ
XVI có ý thức mới về “chí”, nói rõ hơn về “chí” so với nhà thơ Nho giữa thế kỷ XIV – giữa
thế kỷ XV. Họ đã xác định: “Có kẻ chí ở đạo đức, có kẻ chí ở công danh, có kẻ chí ở sự
nhàn dật” (Bạch Vân Am tập tự – Nguyễn Bỉnh Khiêm) [09, 793]. Chí và đạo của họ được
tiếp nối ở Nguyễn Bỉnh Khiêm (thế kỷ XVI), Phùng Khắc Khoan (thế kỷ XVII)… Dĩ nhiên
từ thế kỷ XVI về sau đặc điểm thơ nói chí có một số điểm khác hơn, nó không chỉ thúc giục
cá nhân nho sĩ thực thi lý tưởng mà còn phê phán mặt tiêu cực trong xã hội. Thời gian này,
những tác phẩm thơ của nho sĩ ngoài cung đình chiếm ưu thế.
“Nói chí” là nội dung chiếm tỷ lệ lớn trong sự nghiệp thơ Nho giữa thế kỷ XIV – giữa
thế kỷ XV. Thơ ít bị thu hút về cảm hứng bởi tình yêu đôi lứa, cũng như ít vận dụng phong
cách của Từ khúc nên thơ cứng cỏi, hào hùng, ít khi khai thác khía cạnh tình tứ. Đó cũng là
1.2.3.2. Thơ bộc lộ tình cảm trắc ẩn của nhà nho
đặc điểm quan trọng của thơ Nho thời gian này.
Thơ Nho vừa bày tỏ chí (ngôn chí) những cũng là tỏ tình (ngôn tình). Đôi khi người ta
vẫn xem hai nội dung này phần lớn là trùng nhau. Chí và tình cùng thuộc về chữ tâm theo
quan niệm cổ nhưng tình thì phong phú hơn. Thơ của các nhà nho Việt Nam giữa thế kỷ XIV
đến giữa thế kỷ XV vừa nói đến đạo lý – chính sự nhưng cũng nói nhiều đến những vấn đề
mang đậm bản sắc tình cảm riêng tư. Thơ Nho đi vào nhiều vấn đề khác nhau trong thế giới
tình cảm.
Thơ Nho không chỉ toàn nói chí mà phần nhiều còn trữ tình. Thơ Nho diễn tả những tình
cảm của thi sĩ Việt Nho. Trong đó những tình cảm trắc ẩn, cô đơn là khá tiêu biểu. Tình cảm
trong thơ ca được diễn đạt tuỳ vào cảm hứng, có tính chất tự do, tự lựa chọn và rất riêng tư.
Và cũng vì thế, biểu hiện của nhóm chủ đề này trong thơ hết sức phong phú, tinh tế. Giá trị
nghệ thuật của chủ đề tình cảm con người trong thơ Nho đạt đến nhiều thành tựu và có vẻ
đẹp riêng, sức sống riêng. Thơ giữa thế kỷ XIV – giữa thế kỷ XV có những đỉnh cao và đã
thể hiện bản sắc riêng.
Đường lối trị quốc theo các thang giá trị như “thánh đạo”, “vương đạo”, “bá đạo”... cùng
với tư tưởng “thân dân”, “dân như nước”, “lấy dân làm gốc” là đường lối chính trị của Nho
gia. Từ đó, người nho sĩ có thái độ ca ngợi vương đạo, có ý thức phê phán bá đạo, ưu tư về
các bài học lịch sử thành bại do đạo đức xã hội. Thông thường những ý kiến, những phát
biểu mang tính chất thời sự ít được công khai. Do vậy, những uẩn khúc đó được dồn nén
trong thơ Nho. Tuy là những tâm sự thầm lặng, ta vẫn bắt gặp những điều này khi tìm hiểu
những mạch ngầm của thơ Nho.
Lý tưởng và hiện thực, chí hướng và hành động, chuẩn mực và lệch chuẩn, tài và dụng,
tài và phận, lực và tâm... là những mâu thuẫn vốn rất khó giải quyết. Những năm tháng bất
ổn cuối nhà Trần, mười năm bị đô hộ, những tai họa oan ức của các công thần đầu đời Lê...
làm cho lý tưởng của đông đảo nho sĩ không thể hoàn toàn thỏa mãn. Tuy phản ứng trước
thời cuộc ở mỗi người có khác nhau nhưng tâm sự ưu hoài trước thời cuộc, trước thế thái
nhân tình thường đọng lại trong thơ Nho nhiều nỗi lòng trắc ẩn, nỗi xót xa.
Càng về cuối đời Trần, giọng thơ hùng tráng càng giảm đi và để lại cho thơ những tâm
sự lo đời sâu kín, thậm chí đó là của những thi sĩ đã bước vào ẩn dật như Chu An, hay có
khuynh hướng ẩn dật lúc cuối đời như Trần Nguyên Đán... Cả hai tác giả này đều là hai đại
biểu thơ Nho quan trọng trong thời Vãn Trần. Cả hai đều phải sống và chứng kiến tình trạng
xuống dốc của nhà Trần với những hiện tượng tiêu cực. Cả hai đều hết lòng lo lắng nhưng
cuối cùng đã không thể làm gì để cứu vãn triều Trần.
Chứng kiến cảnh đói kém, giặc giã, bức tranh hiện thực được tái hiện lại. Nỗi đau của
nhà thơ trước nỗi đau của người dân: “Muôn nước dân sinh cá vạc sôi”, để lúc trở về giấc
ngủ chẳng yên: "Thuyền về trằn trọc khôn yên giấc”(Dạ qui chu trung tác – Trần Nguyên
Đán) (Bản dịch Hoàng Việt thi văn tuyển) [178, 210]. Tâm sự của Trần Nguyên Đán trước
cảnh suy thoái của triều Trần thật không đơn giản. Trong hoàn cảnh đó, ông đã cố gắng rất
nhiều, ông đã thao thức với những nỗi bất bình, bất lực. Ông vốn là người có công lật đổ
ngụy triều Dương Nhật Lễ, rước Chu An trở lại và cất nhắc nhiều hiền tài như Nguyễn Phi
Khanh, Nguyễn Hán Anh… Hơn nữa, ông đã từng đứng về phía những trí thức trẻ có tư
tưởng mới nhưng cuối cùng đành bất lực trước thời cuộc. Tâm sự này đã để lại trong thơ ông
nhiều câu hỏi tự phản tỉnh, tự ý thức.
Trong nước chiến tranh đã ám ảnh cuộc sống bình yên, người dân lo lắng, thất vọng.
Nguyễn Phi Khanh là một trí thức trẻ, đã tiếp tục cái nhìn của Trần Nguyên Đán về xã hội:
“Can qua lại sắp điêu tàn nữa – Xa ngóng trời thu những chạnh sầu” (Thu thành vãn vọng -
Nguyễn Phi Khanh) [178, 390]. Nhưng càng cảm động hơn là khi tác giả đang bệnh nặng,
vẫn nhờ chuyển hộ bài thơ cứu nạn cho dân về triều thay cho bản tấu. Tâm sự này có lẽ tiếp
tục truyền thống từ Trần Nguyên Đán:
“Hảo bả tân thi đương tấu độc,
Chỉ kim ngọa bệnh vị năng triều”
(Thơ mới này dâng thay bản tấu
Vì đang nằm bệnh chửa về hầu)
(Thôn cư cảm sự – Nguyễn Phi Khanh)
(Đào Phương Bình dịch) [178, 436]
Ý thức xã hội của những nhà nho mới này thật mạnh mẽ, dứt khoát. Thế hệ của họ đã
đáp ứng yêu cầu lịch sử và đã góp phần giải quyết những vấn đề đặt ra vào cuối thời Trần.
Cũng vì thế, nỗi đau của nhà thơ không riêng cho bản thân mà còn là nỗi đau lớn của thời
thế. Nỗi đau này tiêu biểu cho tâm sự của người nho sĩ khi sống những năm tháng cuối thời
Trần.
Trong những ngày tháng đó, bài "Thu dạ" có lẽ là bài thơ buồn nhất trong các bài thơ
của tác giả họ Phạm. Tiếng thơ là tiếng nhịp thời gian rất chậm, tiếng dế nỉ non trong cảnh
vật, cỏ cây xơ xác:
“Biệt phố vân dao mê đoạn nhạn,
Không giai vụ hạ khấp hàn tương.
Nhân gian thử cảnh kham trù trướng,
Thùy thị bình sinh thiết thạch trường”
(Bến nhớ mây che đàn nhạn khuất
Thềm sầu sương xuống lũ trùng ai.
Người đây cảnh đấy thêm rầu rĩ
Sắt đá lòng đâu giữ được dài)
(Thu dạ – Phạm Nhân Khanh)
(Trần Lê Sáng dịch) [178, 304]
Trong hoàn cảnh như thế, cho dù Phạm Nhân Khanh có đứng giữa đất trời tươi đẹp,
giữa muôn hoa mùa xuân khoe sắc cũng không thể nào vui trọn vẹn vì mang trong lòng một
mối thương đời. Đó là nỗi đau thời thế, nỗi lòng thổn thức của người nho sĩ.
“Thân tại oanh hoa đình viện lý,
Nhãn mê cẩm tú họa đồ trung.
Tiêm nùng xảo duyệt du nhân ý,
Điểm nhiễm thâm khoa tạo hóa công.
Biệt hữu nhất ban trường đoạn xứ
Sổ thanh kiều yến ngữ thâu đông”
(… Người giữa sân hoa đầy cảnh đẹp,
Mắt say gấm vóc thắm tranh quê.
Du nhân đẹp ý muôn mầu thắm,
Tạo hóa dầy công, lắm vẻ mê.
Đứt ruột lòng đau riêng một nỗi,
Là khi én hót nhộn lầu kia)
(Xuân du – Phạm Nhân Khanh)
(Hoàng Lê dịch) [178, 303]
Nỗi đau đứt ruột đã được thể hiện trong thơ Nho khá sớm (“Biệt hữu nhất ban trường
đoạn xứ”. Nó phản ánh tâm tư của những nho sĩ trước cảnh đất nước khó khăn, suy vong.
Thiên nhiên đầy sắc màu và âm thanh không làm phai nhạt tâm sự ưu hoài.
Những nỗi lòng này thể hiện khá phong phú trong thơ Nho. Những tâm sự này mang
màu sắc ý thức xã hội, trách nhiệm tự giác, không vì những toan tính cá nhân. Nó xuất phát
từ truyền thống suy nghĩ chân chính của người trí thức ngày xưa trước thời cuộc. Từ đây, thơ
1.2.3.3. Thơ bôc lộ tình cảm cô đơn của nhà nho
cũng bộc lộ những tình cảm cô đơn của nhà nho.
Nhà thơ Nho thường ca ngợi “vương đạo”, nhấn mạnh nguyên lý thân dân, suy nghĩ về
sự thành bại của của sự giáo hóa, phong tục và chính trị xã hội nói chung. Từ tâm thế này,
những nỗi buồn vui của nhà nho được phản ánh trong thơ ca. Hiện thực cuộc sống đầy biến
động ngày đó đã đem đến cho nhà nho nhiều tâm sự. Ngoài không khí mừng vui chiến thắng
giặc Minh, thơ Nho thường chứa đựng những trầm tư, những nỗi cô đơn kín đáo.
Một đêm nghe tiếng mưa rơi, lòng người thi sĩ bồi hồi xúc động. Hơn nữa thi nhân
Nguyễn Phi Khanh thi đỗ nhưng không được tuyển làm quan, trong tâm hồn càng thêm nỗi u
uất khó tả. Tiếng mưa càng buồn hơn:
“Liễu phố tam thu vũ
Quân bồng bán dạ thanh
Cô đăng minh hựu diệt
Hồ hải thập niên tình”
(Bên bãi sông mưa thu rã rích
Nửa đêm nghe tiếng mưa rơi trên mạn thuyền
Ngọn đèn cô độc sáng lên rồi lại tắt.
Bồi hồi vì tấm lòng hồ hải trong chục năm trời)
(Hoàng Giang dạ vũ - Nguyễn Phi Khanh) [178,472]
Ngọn đèn đêm trong mưa cũng là tâm sự cô đơn của tác giả trước bãi rộng sông dài.
Cuộc đời nhiều thử thách hàng chục năm làm cho tác giả không khỏi chạnh lòng. Trong thơ
Nguyễn Trãi cũng có những cảnh tiêu sơ, trầm lặng chứa nỗi lo lắng ưu phiền. Hào khí sôi
nổi thời kháng chiến nhường lại cho những khúc trữ tình nhưng ưu uất:
“Phồn hoa một đoạn tỉnh mơ
Mẻ chuông tàn, cảnh suất sơ…
Ta ắt muốn nhàn, quan muốn lạnh
Lo thay! Vì lụy phải thờ ơ”
(Tự thán, 38 - Nguyễn Trãi) [123, 432]
Người nho sĩ cao thượng đã dự cảm trước những tai họa công thần sẽ đến, niềm đau xót
làm cho cảnh vật thê lương. Thơ Nho có khi rất hào hùng nhưng cũng có khi chất chứa nhiều
tâm sự, có cả sự lo âu, buồn bã...
Đôi khi nỗi biệt ly len vào không gian rộng rãi bao la làm tình thơ càng bát ngát. Nỗi
buồn cứ vời vợi, kéo dài, lan tỏa...
“Giang thụ tình cảnh nùng,
Giang ba lục vị dĩ
Ly tứ hạo nan thu,
Thao thao ký giang thủy”
(Trời tạnh trên sông cây đậm nồng,
Dưới sông nước biếc vẫn xuôi dòng.
Tứ sầu ly biệt thêm man mác,
Cho cuốn xuôi cùng với nước sông)
(Đề thu giang tống biệt đồ – Trần Đình Thâm)
(Đào Phương Bình - Trần Lê Sáng dịch) [178, 232]
Bài thơ của Trần Đình Thâm phản ánh nỗi sầu ly biệt. Không gian sông nước lan tỏa bất
tận như nỗi sầu man mác. Thế giới nội tâm được phản ánh trong thơ khá phong phú. Thơ
Nho cũng nói đến những tâm trạng xa quê.
Thơ có khi chạm đến cái riêng tư bởi một duyên cớ nào đó của sự vật, cảnh vật, của
những điều nghe thấy. Khi ấy ý thơ xuất phát từ đồng cảm – tri âm về những nỗi đau nhân
thế. Trong những ngày lưu lạc xa quê, nghĩ đến cha mẹ già trong khó khăn cách trở, nhân đề
bài thơ vào bức tranh "Trông mây trắng nhớ mẹ", lòng Nguyễn Trãi cảm xúc vô hạn. Mỗi lúc
ngắm mây bay hay giở từng trang sách đều thấy đau lòng. Thơ đậm đà tình cảm, tác giả đau
lòng nghĩ đến “hiếu” và “trung”: “Gia sơn
thục bất hoài tang tử,
Trung hiếu hà tằng hữu cổ câm (kim)
Trì thử tặng quân hoàn tự cảm
Thi thành ngã diệc lệ triêm khâm”
(Tử phần thương nhớ khôn khuây được,
Trung hiếu xưa nay há khác nhau.
Đưa tặng ngươi ta thêm tự cảm
Thơ xong ta cũng lệ chan bào”)
(Đề Hà Hiệu Uý “Bạch vân tư thân” –
Nguyễn Trãi) (Đào Duy Anh dịch) [123, 341].
Cảm xúc của nhà thơ thường trở về với cảm xúc riêng của những vui buồn riêng. Trong
thơ đã thấm những nỗi thương nhớ và những giọt nước mắt. Cảm hứng chủ đạo không chỉ có
ở đạo lý, yêu nước, yêu thiên nhiên mà còn ở gia đình, những biến động tình cảm riêng tư.
Phạm trù trung – hòa có ý nghĩa nhất định trong văn hóa Nho gia, nhưng không vì thế mà hạn
chế sáng tác thơ ca. Cảm xúc có khi lại rất mạnh mẽ.
Nỗi xa cách, nỗi nhớ quê hương là những tâm sự không nguôi của thi nhân. Nỗi nhớ
tăng lên, đi vào giấc mơ của người hai lần đi sứ và nhiều lần bị vu oan – khiển trách…
“Cô chu thiên lý khách
Thập mộng cửu hoàn gia”
(Thuyền cô khách nghìn dặm
Mười lần chiêm bao chín lần thấy về nhà )
(Quy Côn Sơn chu trung tác - Nguyễn Trãi) [123, 278]
Nhiều bài thơ xuất phát từ những giấc mơ, nói đến sự dồn nén tâm lý, nói đến nỗi nhớ
quê hương thường trực. Quê cũ trong tâm tưởng nhà thơ rất bình dị, đơn sơ. Thường là cảnh
làng quê mộc mạc với những người thân thuộc, bạn bè cũ...
Thơ Nho thời gian này còn có cảm hứng về thân thế. Những cảm xúc trong sâu thẳm của
nhà thơ đã thành năng lượng xúc cảm cần chia sẻ, tri âm:
“Liêu bả tân thi tả ngã sầu”
(Tạm đem thơ mới giãi tỏ mối sầu của ta)
(Thù hữu nhân kiến ký – Nguyễn Trãi) [123, 350]
Nỗi nhớ càng thêm với năm tháng thật dài. Bệnh tật, mưa thu làm tác giả nhớ tưởng sâu
hơn, nhiều hơn:
“Kính trung bạch phát giai nhân lão;
Thân ngoại phù sinh mạn nhĩ lao.
Miên tưởng cố viên tam kính cúc;
Mộng hồn dạ dạ thượng quy đao.”
(Soi gương tóc bạc già rồi đấy
Theo tục danh hư nhọc lắm nào!
Tưởng nhớ vườn nhà ba dặng cúc
Hồn về đêm vẫn gửi chiêm bao)
(Thu nhật ngẫu thành – Nguyễn Trãi)
(Đào Duy Anh dịch) [123, 342]
Đêm đêm hồn gởi vào giấc chiêm bao về quê cũ. Với Nguyễn Phi Khanh đó là xóm Nhị
Khê thân yêu:
“Đông phong tống noãn kính tình hiên
Đôi lục nung hồng giáp ất phiền
Sơn điểu sổ thanh đề xúc xứ
Mộng hồi nghi thị Nhị thôn viên”
(Ngọn gió xuân gieo ấm mái hè
Lục, hồng chen chúc khắp đây, kia
Chốn vang chim núi kêu vài tiếng
Mộng tỉnh nghi là xóm Nhị Khê)
(Thao Giang quận xá – Nguyễn Phi Khanh)
(Đào Phương Bình dịch) [178, 480]
Các nhà nho vẫn làm thơ về nỗi nhớ quê hương. Nỗi nhớ đó man mác, chan hòa bên
cạnh cảm nhận về ý thức trách nhiệm. Trong thơ Nho giữa thế kỷ XIV – giữa thế kỷ XV còn
nói đến những nỗi đau sâu lắng, riêng tư của bản thân. Đó là những nỗi đau cho cuộc sống
trôi dạt, chiến tranh, những khổ lụy chốn quan trường, những mất mát chia lìa.
Tiếng thơ buồn thương, day dứt đã xuất hiện trong nhiều nhà thơ. Thơ Nguyễn Tử
Thành, Nguyễn Ức, Lê Quát... đều có tâm sự này. Bài thơ "Miết trì" của Chu An hoài niệm
về một thời xa xưa đã chìm trong quá khứ. Trong thơ Trần Nguyên Đán cũng có những cảnh
đói kém, hạn lụt, mất mùa, lầm than làm cho nhà thơ cảm khái:
"Mục tiền tận thị quan tâm sự,
Bệnh dũ bất như do bệnh thi”
(Trước mắt trăm điều trong dạ rối
Đau lành sao tựa lúc còn đau)
(Bất mị) (Đinh Văn Chấp dịch) [178, 212]
Tiếp theo mạch thơ đó, Nguyễn Phi Khanh nghĩ về đời mình. Những biến cố, những
điều không may thường đến với tác giả. Tác giả đã phải nhỏ lệ: "Thiên biên sái lệ sổ chinh
hồng" ("Nhỏ lệ ngắm chim hồng bay trên trời" ) ("Thu nhật hiểu khởi hữu cảm") [178, 395].
Tâm sự bất tận được gởi vào bầu trời cao rộng với cánh chim vạn dặm. Không gian vũ trụ
chỉ riêng chứa nỗi buồn thương của tác giả.
Là một nhà nho có công lớn với đất nước nhưng rồi có dịp chứng kiến mặt khuất của
chốn quan trường, Nguyễn Trãi mang tâm sự khó có thể tỏ cùng ai. Đau lòng và cô độc, tác
giả viết trong đêm không ngủ:
“Lão ngã thế đồ nan hiểm thục
Trung tiêu bất mỵ độc thương tình”
(Đường đời khó hiểm ta già thuộc
Thao thức thâu đêm tự xót đau)
(Tầm Châu – Nguyễn Trãi)
(Đào Duy Anh dịch) [123, 380]
Bài thơ được tác giả làm khi đến Quảng Tây, càng xa nhà thơ càng cô độc, càng hướng
nội - “Độc thương tình” (Tự xót thương). Tác giả đã sớm nói được những cảm xúc đau xót
thầm lặng rất riêng của cái tâm hiểu thấu lòng người.
Ngay trong chốn lao tù, thi nhân vẫn không sờn lòng mà vẫn làm thơ nuôi dưỡng chí khí
đến ngày cuối cùng. Trong cảnh lao tù, các Việt Nho như Nguyễn Phi Khanh, Đặng Dung,
Lê Cảnh Tuân, Hồ Quý Ly, Nguyễn Trãi… có nhiều bài thơ viết về những cảm xúc dành cho
mình, cho đất nước trong cảnh lưu đày:
“Mãn tiền phong tuyết nan cam đắc
Hà xứ thân bằng cánh khả cầu
Thanh mộng tam canh tàn đoạn tục
Hư sinh bán thế túc trầm phù”
(Phía trước đầy gió tuyết, khôn nỗi cầm lòng!
Nơi nào còn bà con bạn hữu, để cố tìm kiếm?
Giấc mộng đẹp đêm khuya luôn đứt nối,
Cuộc sống hão nửa đời, đầy sự nồi chìm”
(Chí nhật thư hoài– Lê Cảnh Tuân) [178, 530]
Lê Cảnh Tuân đã từng khẳng định với vua nhà Minh: “người nước Nam luôn mong
nước Nam còn” (Vạn ngôn thư). Điều đó đối với nhà thơ là một chân lý, một tình cảm thiêng
liêng. Bài thơ xúc cảm về con đường phía trước đầy gió tuyết. Đó là hiện thực và cũng tượng
trưng cho cuộc đời đầy thử thách của tác giả. Cuối cùng nhà thơ đã mất đi trong ngục nhưng
tình cảm cao đẹp còn lưu truyền mãi cho đời sau.
Những khổ nhục chốn lao tù càng làm cho hồn thơ đau đớn, khốn quẫn. Nguyễn Trãi đã
sống qua tâm trạng đó. Ông đã tự mình xót thương mình trước cảnh phụ bạc. Bài thơ là lời
thở than của một trung thần bị ghen ghét và cũng là bi kịch cho nhiều nhà thơ :
“Ngục trung độc bối không tao nhục,
Kim khuyết hà do đạt thốn tiên”
(Trong lao lưng giấy cam mang nhục
Cửa khuyết nhờ đâu đạt một lời)
(Oán thán – Nguyễn Trãi)
(Đào Duy Anh dịch) [123, 325]
Bài thơ còn là sự thất vọng, đổ vỡ không thể điều hòa được. Nó cũng dự báo tai họa sẽ
đến và ông không thể tự bảo vệ. Bi kịch đời ông đã in dấu vào thơ văn của ông.
Đối với trường hợp Lê Cảnh Tuân cũng thế. Trên đường bị giải về Kim Lăng, đến Giang
Tây gặp ngày giỗ mẹ, Lê Cảnh Tuân xúc cảm vô hạn. Nhà thơ nghĩ đến tương lai mờ mịt nơi
đất khách. Nỗi đau xé ruột đã vượt quá tiêu chuẩn “trung –hòa” của Mỹ học Nho:
“Nhất tòng tị địa giao tiên lũng,
Yêm hốt kim tiêu hựu kỵ thần.
Sương lộ hiếu tư không tại niệm,
Tần phồn bạch điện cánh thùy nhân.
Bát thiên lý lộ tha hương khách,
Tứ thập ngũ niên vô mẫu thân.
Tâm tích thử thời câm bất đắc,
Lâm phong sái lệ bội thương thần”
(Đất lạ long đong, mộ mẹ xa,
Lại thêm tiết giỗ bỏ trôi qua.
Thảo thơm chốn cũ ai hương khói,
Hiếu để quê người dạ xót xa.
Bốn chục năm dư đời thiếu mẹ,
Tám ngàn dặm chẵn khách không nhà.
Nỗi đau xé ruột khôn cầm được,
Trước gió tuôn rơi lệ nhạt nhoà!”
(Cống Châu giang trung phùng tiên tỷ kị nhật –
Lê Cảnh Tuân) (Tiên Sơn Nguyễn Đức Vĩ dịch)
[178, 531]
Ở đây có sự cộng hưởng của kẻ sĩ thất thế, kẻ tù đày, người xa quê, tình cảm gia đình,
đạo hiếu của nhà nho. Nỗi đau xót được cộng lại, lòng người càng tái tê. Trước đó là câu:
“Sương lộ hiếu tư không tai niệm”. Câu này có ý nghĩa là thấy sương rơi nhiều lo cho thân
thể bị tổn hại, làm phạm đạo hiếu. Ý thơ đúng với tâm trạng tác giả lúc này, cũng vì thế nỗi
đau càng nhiều hơn… Tâm sự này cũng giống với tâm sự của Nguyễn Thiên Tích.
Nguyễn Thiên Tích (đời Lê Thái Tông), nhiều lần bị vu cáo, bị khiển trách, bị cách
chức. Ông đã sớm nhận thấy mặt bên kia của chốn quan trường:
“Tùng cúc tam niên sương mấn cải
Hải môn vạn lý khách trình xa.
Hoạn tình dĩ tự triêm nê nhứ,
Thân sự hồn như lạc phấn hoa.
Tảo tuế ngộ vi danh sở lụy,
Đông môn tu sát Thiệu Bình qua.”
(Ba năm gai góc đầu pha bạc,
Muôn dặm đường trường khổ vượt khơi.
Tình hoạn đã như bông lấm bẩn
Nỗi mình giống hệt cánh hoa rơi!
Tuổi xanh trót để công danh lụy,
Nhớ kẻ trồng dưa luống hổ ngươi)
(Mộ xuân Diễn Châu tác – Nguyễn Thiên Tích)
(bản dịch Hoàng Việt thi văn tuyển ) [09, 484]
Nỗi khổ sở, vất vả, bị vùi dập của tác giả đã in dấu trong thơ như là tiếng lòng của giới
nho sĩ trên đường nhập thế hành đạo, có vinh quang cũng có tủi nhục. Hình ảnh cánh hoa rơi
xuống con đường lầy lội là đúng với nhận thức của tác giả về chính mình. Nhà thơ tự thấy
xót xa cho bản thân.
Giữa thế kỷ XIV – giữa thế kỷ XV, thơ Nho ít có những phong cách trữ tình như kiểu
thơ của Đỗ Mục, Lý Thường Ẩn hay Bạch Cư Dị đởi Đường, tình yêu không phải là đề tài
lớn với thơ thời gian này. Tuy vậy vẫn thấy một ít bài thơ viết về tình yêu. Tình cảm nhà thơ
kín đáo ẩn ngụ trong bài thơ tiếc cảnh, gửi vào bức thư tình kín đáo nhờ thiên nhiên nói hộ:
"Tình thư một bức phong còn kín
Gió nơi đâu gượng mở xem”
(Cây chuối – Nguyễn Trãi) [123, 471]
Đây là bài thơ khá phức tạp. Dù sao thì thơ đã đi xa hơn phạm vi đạo lý, nói đến những
chi tiết đơn sơ nhưng đậm đà chất liệu của cuộc sống sinh động bằng ngôn ngữ đời thường.
Bài thơ “Tích cảnh thi,10” (Nguyễn Trãi) cũng thuộc dạng thức này, nhưng còn đi xa hơn.
“Loàn đơn ướm hỏi khách lầu hồng
Đầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng
Ngoài ấy dầu còn áo lẻ,
Cả lòng mượn đắp lấy hơi cùng”
[123, 464]
Cảm xúc của nhà thơ còn lại là sự tiếc nuối, tiếc thời gian, tiếc cho tuổi trẻ đã đi qua
trong chiến tranh. (Bài thơ cũng có thể hiểu theo cách khác, có thể hiểu như một sự oán thán
kẻ bề trên). Cảm xúc nhà thơ có khi không nằm trong giới hạn lễ giáo mà nói đến hoa nguyệt
với ý nghĩa ẩn dụ:
“Tiếc thiếu niên qua lật hẹn lành
Hoa hoa nguyệt nguyệt luống vô tình”
(Tích cảnh thi, 4 - Nguyễn Trãi) [123, 463]
Liên hệ bài này với bài trên ta có thể hiểu được ít nhiều tâm sự của tác giả. Một chút dấu
hiệu nghệ sĩ xuất hiện khá sớm trong thơ Nho.
Dòng thơ Nho của các thi sĩ Việt đã một thời vang bóng, bao nhà thơ đã viết nên những
vần thơ sâu nặng tình đời. Không huyền hoặc, không giả tạo, thơ Nho giữa thế kỷ XIV –
giữa thế kỷ XV là đời sống tinh thần, tình cảm của giới nhà nho đất Việt. Nguyễn Trãi và các
nhà thơ khác của thơ Nho giữa thế kỷ XIV - giữa thế kỷ XV đã có khá đủ những nét tiêu
biểu cho Việt Nho với cả thơ nói chí, hành đạo, ẩn dật, đi sứ. Trong đó có cả thơ quốc âm,
phản ánh niềm ái quốc và nhiều quan niệm Nho giáo đã được Việt hóa.
Một thế kỷ thơ Nho này có thể nói là xứng đáng tiêu biểu cho dòng thơ Nho thời trung
đại, các giai đoạn sau chỉ phát triển trên nền có sẵn đó. Nguyễn Bỉnh Khiêm tiếp theo
Nguyễn Trãi, dòng thơ trữ tình phản ánh hiện thực sinh động của người nho sĩ. Nguyễn Bỉnh
Khiêm cũng có dạng thức cảm xúc của nhà nho tiếp xúc với triết lý dân gian. Thơ đi sứ được
phát triển mạnh vào thời Lê Trung hưng.
Tình cảm trong thơ thường gắn với thời cuộc nói chung, nặng tính khái quát hơn là cụ
thể. Xuất phát từ cái tôi thời thế, cái tôi trắc ẩn của cá nhân hơn là tiếng nói cảm thương cho
số phận.
Các tác giả thương cảm cho số phận người dân như số đông, như là một phần của vận
mệnh dân tộc, gắn liền với đất nước, thời thế, chứ chưa đi vào đời sống cá biệt của từng cá
nhân, từng hiện tượng. Thơ cũng ít nói đến những hạnh phúc lứa đôi và những khát khao trần
thế vốn phản ánh khá phong phú trong truyện Nôm sau này.
Tinh thần yêu thương nhân dân, nhiệt tình yêu nước, khẳng định sinh khí của tầng lớp
nho sĩ. Những điều đó xoay quanh một trung tâm là nhà thơ Việt Nho với những riêng tư.
Dấu vết của Hán Nho, Tống nho mờ đi rất nhiều. Tuy có những hạn chế thời đại nhưng thơ
Nho vẫn có nét đẹp đặc trưng, riêng biệt gắn với những phạm trù mỹ học Nho gia.
1.2.4. Cái tôi trữ tình trong thơ Nho
Quan niệm về cái tôi xuất phát từ triết học, tâm lý học, đó là sự tự ý thức về cá nhân, cá
tính,về chủ thể, mỗi người làm riêng một thế giới. Hoàn toàn khác với cái tôi cá nhân trong
thơ lãng mạn thế kỷ XX, vấn đề ở đây thuộc về cái tôi cổ điển trong thơ Nho.
Cái tôi trữ tình trong thơ Nho là trung tâm qui chiếu ảnh hưởng đến tất cả mọi yếu tố thơ
Nho như thể thơ, vần đối, giọng điệu…
Nói đến cái tôi, cái chủ quan, chủ thể trong thơ Nho là sử dụng khái niệm xuất phát từ
cái tôi triết học, tâm lý học để nói tình (tình cảm, xúc cảm), chí (động cơ, ý định chủ quan,
sự chuyên chú của tâm) ở từng nho sĩ. Thi ca Trung đại phong phú về tác giả, tác phẩm, tác
giả này không thể lẫn với tác giả khác (nhất là các tác giả có thành tựu nghệ thuật cao). Đó là
sự khác biệt của những cái tôi trữ tình. Tuy quá sớm để bàn đến cái tôi cá nhân trong thơ
Nho – nhất là ở những thế kỷ đầu nhưng trong thơ Nguyễn Trãi đã có cá tính nghệ thuật. Cái
tôi cá nhân trong thơ Nho giai đoạn Lý, Trần “đã trực hiện nhưng nói chung vẫn đang là sản
phẩm tự phát” [17, 41]. Tuy vậy, đó vẫn là một tiền đề cần thiết cho những thơ Nho giai
đoạn sau.
Một phần biểu hiện cụ thể của cái tôi trữ tình trong thơ Nho là nhân vật trữ tình trong
thơ Nho. Nhân vật trữ tình trong thơ Nho không có diện mạo, hành động, lời nói, quan hệ cụ
thể, nhưng lại cụ thể trong giọng điệu, cảm xúc. Ta bắt gặp diện mạo nhân vật trữ tình này
trong ngôn hoài, cảm hoài, thuật hoài… Đó là biểu hiện của con người trong sự giao tiếp nội
tại của cá nhân, tâm sự với chính mình, với khách tri âm, với người khác, với vũ trụ, với cổ
nhân.
Để khảo sát cái tôi trữ tình, có thể phân loại dựa vào các tiêu chí khác nhau. Cái tôi trữ
tình được phân loại khá đa dạng: “Theo phương pháp sáng tác ta có cái tôi cổ điển, lãng
mạn hiện thực, cách mạng. Theo cấu trúc nhân cách ta có cái tôi cá nhân, cái tôi xã hội, cái
tôi tâm lý, hành động, bản năng, nhu cầu… Theo thể thơ người ta gọi cái tôi Đường luật, cái
tôi ca dao…” (Lê Lưu Oanh) [127, 57]. Cái tôi nhà nho có khi gọi là cái tôi cổ điển trong
văn học Việt Nam. Cơ chế hoạt động của cái tôi trữ tình nhà nho nói chung vẫn là “dòng tư
duy nghệ thuật trữ tình” nhưng yếu tố thể loại đã khống chế không ít dòng tư duy nghệ thuật
trữ tình đó. Đối với nhà nho đó là dòng của các trạng thái tâm lý, tình cảm, tư duy (có bộ
tâm): tâm, tình, cảm,.. Nhưng để hiểu chữ tâm ở phương Đông ta phải hiểu bằng triết học
phương Đông, tâm lý, đời sống tình cảm phương Đông. Chữ tâm nếu được tìm hiểu từ văn
hóa phương Tây sẽ khó thông cảm và thấu đáo.
Trong nhiều phương thức, dòng ý thức trữ tình của nhà nho có đặc điểm riêng biệt, nó
không đặt nặng vấn đề tình yêu (như theo phương Tây trung tâm luận) mà đó là sự xuất phát
từ tình – nghĩa – lý đan xen. "Tình" trở thành trục đồng qui, là điểm hội tụ của mọi hồn thơ
quanh chủ thể sáng tạo. Ngô Thì Chí giải thích dòng ý thức trữ tình: “nói chung văn chương
là dòng của nghĩa lý, nghĩa lý là nguồn của văn chương” [66, 01]. Ở đây văn chương –
nghĩa lý- tâm tình đan xen, hòa quyện nhau trong một mạch thơ.
Có sự phân thân, hóa thân của cái tôi trữ tình vào nhân vật trữ tình và dòng tư duy nghệ
thuật trữ tình cũng qui định những khuôn mẫu mang tính quan niệm của người nho sĩ. Tư
tưởng nho gia qui định các khuôn mẫu con người một cách khép kín có định hướng. Cái tôi
nhà nho trong thi ca bao giờ cũng xuất phát từ đặc điểm “giao cảm”. Giao cảm với tư cách là
một phạm trù mỹ học cơ bản, có “giao – cảm” mới có cảm hứng sáng tác. Vì vậy mà cái tôi
nhà nho không quay lưng với cuộc đời, kể cả những ẩn sĩ.
Truyền thống thơ Nho gắn chặt cuộc đời với tấm lòng “ưu ái”, với mối tình đời. Đỗ Phủ
đã đưa thơ Nho đến mức độ “Thi thánh” một phần cũng xuất phát từ những vần thơ rất gần
gũi như mưa to nước ngập, chuyện giao du khi nghèo, đề lên tường công sở, khổ nóng vì
giấy tờ chồng chất, cuộc biệt ly của đôi vợ chồng mới cưới, gặt lúa xong bày tỏ nỗi lòng, gặp
lão nông ép uống rượu… Đó là sự việc rất thực, đồng thời là đầu đề những bài thơ.
Nhà nho nhập thế là những trí thức xã hội dấn thân vào cuộc đời (nhân hòa), tích cực vì
xã hội, đóng góp cho một xã hội yên vui (bình thiên hạ), tới lui hợp lễ nghĩa, tấm lòng luôn
chứa trung thứ… Thơ ca của họ đi đến mọi nẻo đường, mọi tâm hồn, cảnh ngộ: những ngã rẽ
khói bụi trên đường đời (Hạ Tống, Lê, Đỗ tam Ngự sử- Nguyễn Phi Khanh), chiếc cầu ngập
nước trong bãi thôn xế bóng (Vãn hứng, Nguyễn Trãi), nỗi buồn chiến tranh (Thu thành vãn
vọng, Ty sơn hữu cảm- Nguyễn Phi Khanh), đời sống khó khăn – đường vắng người (“Cửu
nhật thôn cư độc chước”- Nguyễn Phi Khanh), cảnh đói khổ bị vơ vét (Thôn cư cảm sự… –
Nguyễn Phi Khanh), khóc ngày giỗ mẹ (Cam Châu giang trung… – Lê Cảnh Tuân)… Thơ
của họ thật gần gũi với đời sống của dân tộc. Cũng vì thế nhiều bài thơ hết sức quen thuộc
với người sau. (Một mặt, thơ đạo lý - lập ngôn cũng là bộ phận quan trọng trong thơ Nho).
Các mối quan hệ xã hội, biến cố xã hội, từng cảnh ngộ cá biệt của con người … đều
được phản ánh trong thơ Nho thế kỷ XIV – XV. Thi xã Bích Động (Trần Quang Triều,
Nguyễn Sưởng, Nguyễn Trung Ngạn…) đã nói đến niềm tâm sự cá nhân và ít nhiều nói về
thân phận con người. Điều đó hoàn toàn phù hợp với quan niệm “thi khả dĩ oán” (phê phán
những thối nát trong lĩnh vực chính trị của bề trên). Đặc biệt, thi ca của Nguyễn Ức, Nguyễn
Trung Ngạn gần gũi với đời sống, đậm hơi thở hiện thực. Nhưng quan niệm nghệ thuật với
cái nhìn cao nhã vẫn tạo ra ở thơ Nho một tính chất riêng, khác với thơ hiện đại. Ý thức về
bản thân, tiếng nói “thân tâm” đối với thơ Nho khá phong phú. Trần Nguyên Đán để nhiều
khoảng trắng im lặng kéo dài trong đêm thu lòng ngổn ngang: “Gió thu trong đêm vắng thổi
vi vu - Buồn bã ngồi trước ngọn đèn tàn” (Dạ thâm ngẫu tác) [178, 211]. Tâm sự như kéo
dài vô tận, nỗi sầu lo của thi nhân càng dâng đến cực điểm. Nguyễn Trãi với con thuyền nhỏ:
"Trời ban tối ước về đâu" (Ngôn chí, 13) [123, 400] là nỗi buồn vô cùng. Những nỗi buồn
thấm sâu vào trang thơ. Những thế hệ tiếp nối trong khoảng một thế kỷ này rất giàu cảm xúc.
Dấu vết cái tôi cô đơn đã có trong thơ Nho thế kỷ XIV – XV, chữ “thân” không đợi đến
Nguyễn Du sử dụng, các nhà nho những thế kỷ trước đã dùng cho ý thức bản thân. Trần
Khản trước thăng trầm mờ mịt đã đặt thành câu hỏi nghẹn ngào không lời đáp, “Hà sự đồ
lao bách tuế thân” (Đày đọa làm chi mãi tấm thân) (Bất như ý) [117, 389]. Nguyễn Trung
Ngạn ý thức được sự chìm nổi vô định của con người trách vụ khi đã chọn lý tưởng kẻ
sĩ:“Phiêu đãng bồng bình khách, Yên lưu khuyến mã tình”(Lênh đênh như bọt như bèo,
Thân còn nấn ná bởi đeo nặng tình) (Dạ tọa) [11, 267]. Nguyễn Trãi đã nếm vị đắng sau bao
năm tận tụy, hiểm họa “công thần bị hại” treo lơ lửng, "Ta dư cửu bị nho quan ngộ" (Thân ta
bị cái mũ nhà nho làm lầm lỡ) (Đề Từ Trọng Phủ Canh Ẩn Đường) [123, 339]. Quan niệm
về "thân" ở đây cũng khác với quan niệm về thân trong thơ Vạn Hạnh thiền sư hay Khóa hư
lục (Trần Thái Tông). Cái nhìn rạch ròi, phân biệt thiện ác trong thơ Nho càng tô đậm tâm sự
cô độc, bất bình trong thơ.
Cái tôi nhà nho vừa bình dân gắn liền với nhân dân, vừa phong lưu gắn với quan chức
và tiếp xúc với cung đình. Chỉ có một số trường hợp biểu hiện thái quá của cái tôi kiêu bạc
mà các nhà nho xưa cho là thiếu hàm dưỡng. Về sau, xã hội phát triển mới xuất hiện khuynh
hướng tình cảm mang yếu tố thị dân trong văn học.
Cái tôi nhà nho luôn mang trong lòng sự tự tin “tính bản thiện” ở con người, nhưng cũng
tin ở hoàn cảnh khách quan tác động đến nhân cách. Thiên lương vốn có trong cái tôi nhà
nho nhưng cuộc đời với những mâu thuẫn phức tạp có thể làm biến dạng. Vẻ đẹp những con
người huyền thoại trong văn hoá Nho bị những tiểu nhân nho làm tha hóa. Có khi nhà thơ bất
lực nhưng đã không để huyền thoại ám ảnh hiện thực: “Ban ngày lên trời là việc dễ - Làm
cho vua trở nên Nghiêu Thuấn là việc khó” (Đề Huyền Thiên quán, Trần Nguyên Đán) [178,
207]. Thơ ca đã lấy cái thực làm cốt. Nó rất mộc mạc nhưng chân thành và dễ tạo sự đồng
cảm. Đó là những vần thơ hết sức sâu sắc, mạnh mẽ, chân thực về đời sống xã hội. Cái tôi
nhà nho vẫn chan chứa hy vọng nhưng không tự tin quá đáng. Nhìn chung con người trong
thơ dễ nhận ra là những khuôn mẫu, những mô hình, tương đối ổn định nhưng biểu hiện
trong thơ là thế giới nghệ thuật phong phú.
Qua những cảm hứng chủ đạo, những đề tài cho đến cái tôi trữ tình trong thơ Nho từ
giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV thấy được những nét riêng biệt của dòng thơ này về mặt
nội dung. Có thể so sánh những khác biệt của nó với thơ Nho trước và sau đó. Khi so sánh có
1.2.5. Một số khác biệt giữa thơ Nho và thơ Thiền
1.2.5.1. Sự khác biệt của thơ Nho và thơ Thiền ở một số quan niệm
thể nhận thấy sự khác biệt không chỉ biểu hiện ở nội dung mà còn ở phương diện nghệ thuật.
Thơ Nho và thơ Thiền có khá nhiều khác biệt. Nhà nho bàn đến “vô ý, vô tất, vô cố, vô
ngã” (Luận ngữ), các nhà Lý học cố gắng phát triển luận điểm đó, nhưng Trần Thái Tông đã
nhận thức:
“Mạc vị vô tâm vân thị đạo, Vô tâm do cách nhất trùng quan” (Ngữ lục vấn đáp môn hạ)
[177,103] . Tinh thần Thiền chẳng bị “có” – “không” chi phối . Hai quan điểm “vô ngã” của
hai bên hoàn toàn không giống nhau. Khoảng cách của họ tuy gần nhưng còn rất khác nhau.
Quan niệm giải thoát luận Thiền học trong thơ Thiền là quá trình từ bỏ tối tăm, mê lầm,
vươn tới giác ngộ, đạt đến chỗ tự tại, chân như… Bằng phương pháp trực tiếp (đốn ngộ),
thiền sư nhìn cuộc sống với cặp mắt giác ngộ bản thể. “Lúc mê sinh ra “không” và “sắc”-
Khi ngộ không còn “sắc” với “không” vì cuối cùng theo Tuệ Trung thượng Sĩ “Những điều
gọi là sắc, không, mê ngộ - Xưa nay vẫn chung một lối” (Mê ngộ bất dị) [177, 288]. Bằng sự
giác ngộ bản thể, nhà thơ Thiền cảm thấy tự do, hạnh phúc, vui (hỷ xả), lạc (cực lạc).
Đối với nhà nho quan niệm về cái vui có cái vui đạt đạo, có cái vui trong cuộc đời.
Nguyễn Thiên Túng vui nhìn núi (Xuân nhật tức sự), Lý tử Tấn vui cùng “đạo” và “mệnh”
(Mạn hứng). Quan niệm “lạc” đó được các nhà Lý học phát huy và đi vào thơ ca một cách
mạnh mẽ nhưng diễn đạt và biểu hiện còn mơ hồ.
Bên cạnh đó quan niệm và cảm hứng về thiên nhiên của cả hai đều thống nhất, “vạn vật
nhất thể”. Nhà thơ Nho phản ánh quan niệm đó bằng mối quan hệ nội tâm – ngoại cảnh.
Những nhà nho ẩn dật lấy thiên nhiên làm bầu bạn, cái con với cảm hứng trữ tình. Nhà thơ
hành đạo lấy thiên nhiên để gởi tâm sự, chí khí nhưng cũng có không gian lưu lạc, không
gian ly biệt thấp thoáng trong thơ đi sứ của Nguyễn Trung Ngạn, thơ Nguyễn Trãi... Thời
gian trong thơ Nho giới hạn bởi đời người - “Ngậm ngùi thay cuộc trăm năm” (Bạc Nguyễn
gia lăng - Nguyễn Phi Khanh) [178, 443]. Sự giới hạn đó được nhấn mạnh - “Vô tình tuế
nguyệt nhãn tương hoa” (Ngày tháng vô tình làm mắt sắp mờ) (Họa Tân Trai vận - Nguyễn
Trãi) [123, 277]. Không gian trong thơ Nho có độ rộng của vũ trụ nhưng thường chỉ mang
tính tượng trưng và có dấu hiệu của sự giới hạn. Ở đây ý thơ chủ yếu tập trung vào chiều
cao, chiều cao còn giới hạn bởi số lượng.
Thiên nhiên trong thơ Thiền chính là biểu hiện bình đẳng của bản thể qua qua trí tuệ Bát
nhã. Thiên nhiên vừa hòa với lòng người vừa mang tính con người. Thiên nhiên trong thơ
Thiền vì thế mà tỏa sáng, thông suốt, lạc quan: “Gió lộng không chia cao với thấp - Trăng
soi chẳng ngại chiếu trăm bề” và tiếp xúc với sự sống “Mầu thu đậm nhạt tùy duyên sắc -
Bùn sao vương được đóa sen hè” (Thị chúng - Tuệ Trung thượng sĩ) [84, 276]. Tư tưởng tùy
nhân duyên làm cho không gian thênh thang.
Quan niệm về “trung” của thơ Nho là thành thật hết lòng (“niềm cũ sinh linh đeo ắt
nặng” – Tự giới, Nguyễn Trãi). Nó thường biểu hiện qua mối quan hệ vua – tôi. Trong ứng
xử, hành động nho sĩ còn vận dụng một chữ trung khác - Trung dung (“Làm người thì giữ
đạo trung dung” – Tự giới, Nguyễn Trãi) [123, 438]. Với Thiền, Trung (Trung đạo) có nghĩa
là “viên thông”, là tự tại tâm. “Vô thị vô phi tự tại tâm” (Phải trái đều không chính là tâm tự
tại) (Tự tại – Tuệ Trung Thượng sĩ) [177, 241]. Đó là một trong những quan niệm trung tâm
của Thiền, của thơ Thiền.
Quan niệm tri âm cũng được cả hai vận dụng, người tri âm trong thơ Nho là rất ít, thông
thường nhà thơ chỉ còn lại chính mình - “Quay lưng bóng xế ngâm thơ một mình” (Bạc
Nguyễn gia lăng – Nguyễn Phi Khanh) [178, 443], “Sau loạn không ai người quen cũ” (Thu
dạ khách cảm -Ức Trai thi tập”) [123, 275]. Các thi sĩ Thiền càng ít người tri âm hơn vì
không phải ai cũng cảm nhận được ngôn ngữ thâm sâu bên trong thơ Thiền.
Về sự so sánh đánh giá của dòng thơ này đối với dòng thơ kia, có thể thấy quan niệm kỳ
thị của nho sĩ đối với Thiền học có tiền lệ từ Đường Vũ Tông, Hàn Dũ, sau đó ở nước ta như
Trương Hán Siêu, Phạm Sư Mạnh, Lê Quát, Lê Thánh Tông, Vũ Quỳnh và sau này như
Nguyễn Dữ… (Đó cũng là một đặc điểm quan trọng của văn học Nho giáo nước ta thế kỷ
XIV – XV). Ngược lại Mâu Tử đánh giá thấp Nho so với Thiền “đó là hoa chưa là trái” (Lý
hoặc luận). Thiền sư Cứu Chỉ cho rằng Nho chìm đắm trong cái “hữu”. Về sau Ngô Thì
Nhậm, Hải Âu đã đánh giá tương tự.
Về quan niệm giao lưu, vay mượn ngôn ngữ, hai dòng thơ bên cạnh nhau, trong tư thế
độc lập và có thể mượn ngôn ngữ của nhau để diễn đạt ý tưởng của mình. “Trường khiếu
nhất thanh hàn thái hư” (Không Lộ) (Thiền uyển tập anh) [112, 320] vừa mang âm hưởng
của “Trường khiếu nhất thanh thiên địa thu” (Lâm Tế ngữ lục) vừa sử dụng thuật ngữ “thái
hư” của Nho. Thiền sư cũng đã sử dụng khái niệm “hành tàng” của Nho - “Sâu thời dấn áo
chừ, cạn thời xắn gọn - Dùng hay bỏ chừ theo lẽ hành tàng” (Phóng cuồng ngâm - Tuệ
Trung Thượng Sĩ) [177, 278].
Những quan niệm khá phong phú của hai dòng thơ vẫn phân định khá rõ hai loại hình
1.2.5.2. Sự khác biệt giữa thơ Thiền và thơ Nho về phương thức tư duy
thi ca.
Nói đến tư duy là nói đến hoạt động nhận thức của chủ thể, nói đến cái tâm. Nói đến sự
khác biệt của hai dòng thơ về phương thức tư duy cần phải xuất phát từ phạm trù “Tâm”.
Nguyễn Đình Chú phát hiện ra “Muốn hiểu văn học Trung đại cần hiểu chữ tâm” [17, 167].
Từ điểm xuất phát này nhiều đặc điểm của hai dòng thơ được phát hiện.
Ở thơ Nho là dòng ý thức trữ tình xoay quanh phạm trù Nhân, Nghĩa, Trung Hiếu, Tiết
liệt… “Nhân, nghĩa, trung cần giữ tích ninh” (Bảo kính cảnh giới, 4- Quốc âm thi tập). Ở
thơ Thiền là dòng ý thức không biên giới, không cố chấp, không định hướng, không phân
biệt… “Nhược nhân yếu thức tu phân biệt - Lĩnh thượng phù sơ tỏa mộ yên” (Ví người hiểu
lẽ không phân biệt - Núi phủ mây chiều cây cỏ tươi) (Thiền sư Bảo Giám) (Thiền uyển tập
anh...) [112, 319]. Tư duy Thiền là thường xuyên liên tục ý thức, ý thức về tự ý thức (quán),
ý thức về ý thức của người khác, tự ý thức về bản thể từng phút giây, từng sát – na (khoảnh
khắc). Hơn nữa đó là sự ý thức về thiên nhiên vũ trụ và vô chấp những sự vật, cảnh vật ấy.
Các thiền sư Vạn Hạnh, Viên Chiếu, Chân Không, Tuệ Trung thượng sĩ… đã phản ánh bản
thể trong từng tín hiệu, từng hiện tượng tự nhiên trong quá trình tự ý thức…
Tư duy Nho là sự thường xuyên ý thức về đức, lý, thiện – ác, công – danh, tu – tề – trị –
bình, xuất – xử… Đặc biệt, nó xem trọng con người, xem trọng những chuẩn mực xã hội,
chuẩn mực của khuôn mẫu xã hội ổn định.
Tư duy Nho học còn phản ánh ở sự sùng bái những thần tượng cổ nhân, tiền nhân,
thánh nhân. Tư duy Thiền học thể hiện ở dòng ý thức vận hành tự nhiên, lưu thông, không
chướng ngại. Tư duy Nho học thể hiện ở dòng ý thức cố chấp trật tự, cố chấp sự lựa chọn
qua giá trị như đúng – sai, quân tử – tiểu nhân, sáng – tối… Tư duy Thiền là chánh tư duy
về vô thường, vô ngã, niết bàn, sau đó vượt qua ngôn ngữ.
Tư duy Thiền không chỉ chú trọng đến “chữ tâm”, tư duy trong thơ Thiền phát triển đến
cấp độ ngừng tư duy, đó là sự im lặng vĩ đại ("mặc như lôi ").
Thiền sư Tỳ - ni - đa - lưu - chi (Vinitaruci) nói với Pháp Hiền: “Tâm ấy tràn đầy thái
hư” (Thiền uyển tập anh) [112, 346] ở đây thiền sư đã sử dụng thuật ngữ “thái hư” của Nho
để diễn tả Thiền lý. Phạm trù “tâm” trong Phật giáo được cả Duy thức tông và Thiền tông
khai thác ở tất cả các mặt vật chất, tinh thần – tư duy, xã hội. Chữ “Tâm” trong thơ Nho tiềm
tàng hoặc xuất hiện trong tất cả các bài thơ Nho, đó là: ưu, bi, phẫn, cảm, lạc…, đặc biệt là
“tiên ưu” – cái lo đậm màu Nho giáo, lo việc nước và xã hội trước cái lo cá nhân. Các bài thơ
“Hoành châu” (Nguyễn Đình Mỹ), “Lão dung” (Cây đa già – Quốc âm thi tập), “Thuật
hứng, 22” (Quốc âm thi tập)… phản ánh những mối lo cho đời hằn sâu trong suy nghĩ. Tư
duy thơ Nho thường ám ảnh bởi cái “bi” thời thế, tuy vậy thơ Nho cũng có những khoảng
lặng, những cái không lời của nhàn nhã, vô sự, đa nghĩa hoặc bất lực. So sánh tư duy thơ
Thiền với thơ Nho, Nguyễn Huệ Chi nhận xét: “Nếu văn chương nghệ thuật có nhiều tầng
bậc, tầng bậc thứ nhất là cái phô bày ra thành lời và tầng bậc thứ hai là cái vô ngôn, không
lời, siêu việt thì tư duy Nho giáo chỉ mới vượt qua tầng bậc thứ nhất một ít, còn tư duy Phật
giáo kể cả tư duy Lão Trang đả vươn lên tầng bậc thứ hai” [109, 318].
Tư duy thơ Thiền có một số đặc điểm. Đặc điểm thứ nhất là Trực cảm. Đặc điểm thứ hai
siêu nghiệm, vì “nó (tự tánh, chân như)… là thể tuyệt đối nên chẳng phải là đối tượng của
tư duy. Nó giống như không gian không giới hạn” [06, 20]. Điểm tối quan trọng của tư duy
thơ Thiền là các kiểu tư duy về vấn đề đạt đạo. Việc xác định và trực tiếp xác nhận phương
thức tư duy Thiền gặp rất nhiều khó khăn vì mối quan hệ không tương đồng giữa Thiền –
ngôn ngữ Thiền và ngôn ngữ triết học, ngôn ngữ nói chung.
Tư duy thơ Nho thường chăm chú vào trách nhiệm nên đọc lên ta cảm nhận được những
suy tư, những buồn đau của tầng lớp trí thức, những ước mơ của họ. Cũng vì vậy thơ Nho
phản ánh cảm hứng dân tộc, chí hướng cao đẹp và những trắc ẩn thời thế. Đặc điểm đó của
tư duy thơ Nho đã tạo ưu thế cho thơ Nho giữa thế kỷ XIV – giữa thế kỷ XV. Đồng thời, từ
phương thức tư duy nghệ thuật như thế đã hình thành nên những đặc điểm cơ bản của thơ
Nho. Mặt khác, những đặc điểm đó cũng hình thành diện mạo cơ bản nhất của thơ ca Việt
Nam thời Trung đại.
Nguyên nhân cơ bản của sự khác biệt giữa quan niệm, phương thức tư duy của thơ
Thiền và thơ Nho là sự khác biệt về cái nhìn của nho gia và thiền gia.
Những quan niệm và tư duy chịu ảnh hưởng bởi những chủ trương mang tính định
hướng của các triều đại. Nó tác động đến mọi mặt tâm lý xã hội từ cái nhìn, nếp nghĩ, cách
đánh giá và cả tư duy sáng tạo – tiếp nhận nghệ thuật. Những tác động của Nho giáo đến thơ
Nho như một động lực nhưng cũng vừa đem lại một số điểm hạn chế nhất định cho nền thơ
1.3. MỐI QUAN HỆ GIỮA NHO GIÁO VÀ THƠ NHO VIỆT NAM TỪ
GIỮA THẾ KỶ XIV ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XV
ca này.
Cơ sở văn hóa của thơ Nho trước tiên cần quan tâm đó là mối quan hệ Nho giáo và thơ
Nho Việt Nam. Mối quan hệ Nho giáo và thơ Nho Việt Nam là cơ sở quan trọng khi khảo sát
thơ Nho Việt Nam giữa thế kỷ XIV-giữa thế kỷ XV. Mối quan hệ này rất phức tạp, tế nhị
trong nhiều phương diện thơ Nho.
Tư tưởng Nho giáo là cơ sở phát sinh quan niệm nghệ thuật Nho giáo. Trước tiên thi ca
các Nho sĩ là biểu hiện của tư tưởng, tình cảm, tâm tư của nho sĩ. Nhưng điều đó còn lệ
thuộc vào thái độ lựa chọn của nho sĩ, về thế đứng của tác giả đối với Nho học. Nó tùy thuộc
vào quan niệm văn học của từng nho sĩ đối với văn học nghệ thuật, đối với cái đẹp. Điều đó
cũng hoàn toàn phụ thuộc vào phương thức tư duy nghệ thuật của từng tác giả, tùy thuộc vào
bối cảnh văn hoá Nho giáo mà tác giả đang sống. Nó không loại trừ những tư tưởng đi trước
thời đại và cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ.
Ý nghĩa phương pháp luận của Nho giáo đối với văn học thể hiện cả ở người sáng tác
lẫn người tiếp nhận và dư luận xã hội. Nhiều khái niệm về thế giới, cái thiện, cái chân, cái
mỹ đã tồn tại trong nền văn hóa Nho gia. Nhiều mệnh đề liên kết các khái niệm này, diễn
giải phân tích các khái niệm này của Nho giáo hình thành các quan niệm Nho giáo. Những
quan niệm này bao hàm những quan niệm về sự sống, về các hiện tượng xã hội, về nghệ
thuật. Những quan niệm đó đã tồn tại lâu đời và có tác dụng góp phần định hướng sáng tác
1.3.1. Mối quan hệ Nho giáo và thơ Nho xét từ góc độ triết học Nho giáo
nghệ thuật.
Tư tưởng Nho giáo rất quan tâm đến văn học đặc biệt là thi ca. Văn hóa Nho gia đã tác
động khá nhiều mặt đến thơ ca. Từ góc độ Nho giáo nhìn về mối quan hệ Nho giáo - thơ Nho
ta nhận thấy có một số vấn đề cần lưu ý.
Trước hết, Nho giáo thông qua “đạo” để tác động đến thi ca. Bên cạnh đó còn phải kể
đến mối tương tác của chính trị Nho giáo đối với văn học và phương thức tư duy nghệ thuật
Nho giáo. Phương thức tư duy đó đặt cơ sở trên một số quan niệm về “đạo”, “văn”, “mỹ”,
phương pháp sáng tác, các kinh nghiệm mỹ cảm. Các quan niệm quan trọng đã liên kết nhau
làm cơ sở cho phương thức sáng tạo nghệ thuật: “Chí ư đạo, cứ ư đức, y ư nhân, du ư nghệ”
(Để chí vào đạo, giữ lấy đức, tựa vào nhân, ưu du ở nghệ thuật) (Luận ngữ- Thuật nhi, 7).
Quan niệm này đã có ảnh hưởng đến các thế hệ nhà nho quân tử, nhất là quan niệm về mối
quan hệ văn – đạo – tâm.
Nếu M. Gorki quan niệm: “Văn học là nhân học”, thì quan niệm các nhà nho cũng thế.
Như vậy “đạo” có thể xem như bao hàm mọi sự vật hiện tượng từ thế giới tự nhiên đến xã
hội đến thế giới cảm xúc của con người.
Từ “đạo” đến “văn” là mối quan hệ có tính lâu bền trong nếp nghĩ của nhà nho. Chu
Dịch có nói đến “Thiên văn”, “Nhân văn”, “nhân văn bắt chước thiên văn”. Văn hiểu theo
nghĩa rộng là đồng nghĩa với văn hoá trong con người. Lưu Hiệp khẳng định mối quan hệ
của “nhân văn” và “văn chương”. “con người là tinh tuý của ngũ hành, là tâm của trời đất.
Có tâm rồi có ngôn ngữ, có ngôn ngữ thì có văn minh” (Văn tâm điêu long - Nguyên Đạo).
“Văn” của văn học bắt nguồn và học tập “văn” của tự nhiên.
Cũng có những nhà nho cố gắng đưa quan niệm “văn” sang một vị trí mới, tạo khoảng
cách đáng kể so với đạo, những quan niệm mới đó đậm màu sắc nghệ thuật. Các nhà nho
không ngừng củng cố về mặt lý luận của quan điểm văn chương thiên về cái đẹp hay nói
cách khác văn chương và đạo lý chỉ là quan hệ theo nghĩa rộng. Mặt khác, phương thức sáng
tác của các nhà nho đều xuất phát từ lòng nhiệt thành ưu ái của họ đối với dân, với nước, với
đời,
Giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV ở Việt Nam, Nho giáo vừa mới chiếm địa vị tư
tưởng chủ đạo toàn xã hội nên chỉ thể hiện một số phương diện của mối quan hệ tất yếu Nho
giáo - văn học. Nho giáo đem lại cho văn học một số đặc điểm nhất định trong nội dung sáng
tác. Văn học có thể được sáng tạo bằng kiểu tư duy nghệ thuật Nho giáo nhưng chủ yếu văn
học phản ánh cái tâm của người nho sĩ trước thời thế, ngoại cảnh. Nhà thơ có khi vận dụng
vỏ ngôn ngữ Nho giáo để diễn đạt mọi tình cảm khác nhau của thi nhân Đại Việt. Thực sự,
nội dung và cảm hứng chủ đạo trong thơ Nho lại là những tình cảm riêng tư, không công
thức. Thơ văn thường được thẩm định - đánh giá theo thang giá trị mới. Trong đó, nhiều nội
dung phản ánh tuy mang vỏ ngôn ngữ Nho giáo nhưng về bản chất đã đề cập đến những vấn
đề mang tính vĩnh cửu: tình yêu quê hương, chống cái ác, chống ngoại xâm, ca ngợi sự yên
vui, sự toàn thịnh. Ước mơ "dân giàu đủ, khắp đòi phương” (Bảo kính cảnh giới, 43) [123,
453] của Nguyễn Trãi cũng tương tự khát vọng của Lý Thường Kiệt trong “Phạt Tống lộ bố
văn” - “Phải quét sạch nhơ bẩn tanh hôi để đến thuở ca ngày Nghiêu, hưởng tháng Thuấn
thanh bình" 112, 34]. Cả hai là sự thể hiện tinh thần tích cực với dân tộc nhưng sử dụng ngôn
ngữ Nho. Nho ở đây thống nhất với tinh thần yêu nước và là công cụ hữu hiệu để giữ nước.
Nguyễn Trãi luôn trăn trở với vận mệnh của đất nước, vận mệnh của nhân dân. Nhưng
cuộc đời của ông có không ít những biến cố. Trước những biến cố của cuộc đời ông vẫn
không lay chuyển quan niệm đạo lý: “Nhà ngặt ta bền đạo Khổng Nhan” (Bảo kính cảnh
giới, 33) [123, 449]. Tư tưởng chủ đạo đó đã chi phối sâu sắc quan niệm sống, quan niệm
sáng tác của tác giả. Ta dễ bắt gặp ảnh hưởng Nho giáo trong thơ Nho: “Hằng lấy đạo trung
làm nghĩa cả" (Bảo kính cảnh giới, 6) [123, 440], “Bền đạo trung dung chẳng thuở tàng”
(Bảo kính cảnh giới, 2) [123, 439]. Các từ ngữ như: đạo trung, đạo trung dung, đạo Khổng
Nhan được lập lại ở nhiều trường hợp. Tuy nhiên, cảm thức văn học riêng của người Việt
thiên về tình cảm, tính bất quy phạm mới là cái chủ yếu trong các bài thơ này… Trong đoạn
thơ:
“Văn chương chép lấy đòi câu thánh
Sự nghiệp tua gìn phải đạo trung
Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược
Có nhân, có trí có anh hùng”
(Bảo kính cảnh giới, 5) [123, 379]
Tuy có sử dụng ngôn ngữ Nho nhưng bản chất Nho trong bài thơ đã được “Việt hoá”
một cách tài tình.
Thi ca của các nhà nho phản ánh sự gặp gỡ giữa tư duy trực giác với tự nhiên, tư duy
đạo lý, tư duy thơ gặp nhau trước một phong cảnh:
“Quan can nghĩ dục tầm nhai sĩ
Huấn tứ, ưu du thánh vực trung”.
(Quan sát sóng gợn để suy ra giới hạn bờ sông xa
Cứ ung dung tìm hiểu thật kỹ đáy vực của
đạo thánh nhân).
(Học hải - Trình Thanh) [117, 379]
Trời đất, thiên nhiên là cơ sở để thấu triệt mối quan hệ “thiên - nhân - văn”. Con người
có khả năng thấu triệt cái đẹp của đất trời. Từ đó, mỹ cảm cũng có điều kiện nảy sinh. Cùng
một đối tượng, cùng một ngoại cảnh, nhà thơ Nho có hai lựa chọn: lựa chọn thuộc về tư duy
đạo lý và lựa chọn thuộc về tư duy nghệ thuật.
Nghệ thuật và đạo lý luôn tương tác sinh động và luôn được duy trì trong hoạt động
sáng tác của nho sĩ. Nhưng vấn đề là quan niệm văn chương như thế nào và biểu hiện đạo lý
theo phương thức nào. Phạm trù “Đạo” càng rộng thì khả năng đem lại giá trị của văn
chương nho sĩ càng cao. Ngược lại càng thu hẹp khái niệm Đạo thì càng trở nên bó hẹp nghệ
thuật trong những tín điều đạo đức đầy thiên kiến. Điều quan trọng nhất vẫn là yếu tố thẩm
mỹ của thi ca, của văn chương sau những thử thách của thời gian, qua sự "gạn đục khơi
trong” của nhiều thế hệ độc giả.
“Văn” theo ngôn ngữ xưa bao gồm cả văn hoá lẫn văn chương, “thi” bao gồm cả “văn”
và “thơ” theo nghĩa ngày nay. Khảo sát thơ cổ ta thấy mối quan hệ của Nho học và thể loại
trữ tình thật sự đã có một truyền thống lâu dài (Văn - Sử - Triết bất phân) .
Thi ca cổ có nhiều bài thuộc về tuyên ngôn “ngôn chí”. Quan niệm nghệ thuật đó phát
sinh do sự tương tác qua lại của tư tưởng đạo đức, chính trị… dưới sự quy định có tính
phương pháp luận của tư tưởng triết học Nho giáo.
Chí của kẻ sĩ bao giờ cũng phản ánh lý tưởng sống của người quân tử, trượng phu. Nói
chung nó thể hiện ở quan niệm của kẻ sĩ về chính mình, về lý tưởng, về phương hướng hành
động, dấn thân. Điều đó tạo nên không khí thiêng liêng hoá đạo đức. Người nho sĩ đạt được
phẩm chất cao đẹp và có thể cảm thông với thiên mệnh.
Siêu việt hoá đạo đức là con đường mà mỗi nho sĩ chân chính đều được truyền thụ ở
trường học Nho giáo… Ôn nhu, đôn hậu, luôn giữ mực trung là những tiêu chuẩn mẫu mực.
(Những nhà nho tài tử thường phá vỡ tiêu chuẩn trung dung, phá vỡ quan niệm siêu việt hoá
nhân cách). Quá trình lập chí theo đạo của kẻ sĩ được xem là hoàn thiện nhân cách và đem lại
niềm vui sống. Vì thế thi ca của họ thường phản ánh tâm thái lạc quan kỳ lạ.
Ở đây Nho giáo tạo nên niềm lạc quan trong tâm hồn nho sĩ bởi “tinh thần anh minh” và
“chí khí thanh cao”. Hệ quả của tinh thần lạc quan này tiếp tục tinh thần vui đạo (lạc đạo).
Nếu tái hiện lại không khí sôi sục bởi lý tưởng Nho giáo, những bài thơ Nho sẽ có sức mạnh
trong lòng những trí thức chân chính. Người nho sĩ sẽ không ngần ngại diễn đạt chi tiết các
bậc thang văn hoá tinh thần của họ:
“Cố lấy lễ nghĩa để sửa mình tận gốc
Mong gọt sạch hết dục vọng như thần tiên…
Tuy không cột, không rường, nhưng trời đất kia khó sánh
với tầm vĩ đại
Tuy không cửa, không lối nhưng nhật nguyệt kia khó so với
vẻ quang minh…”
(Quảng cư phú- Lý Tử Tấn ) [117, 290]
Vẻ đẹp nhân cách dưới cái nhìn của nhà nho mang tầm vóc kỳ vĩ, huyền thoại với tầm
bao quát vũ trụ. Tuy nhiên dạng thức này thể hiện không nhiều trong thơ Nho. Thơ Nho
không chỉ có nội dung đạo lý mà chủ yếu là phản ánh tâm trạng buồn vui, niềm trắc ẩn của
1.3.2. Mối quan hệ Nho giáo và thơ Nho xét từ góc độ văn học
thi sĩ - nho sĩ. Vì vậy, thơ Nho có thể đi vào lòng người và được quý trọng.
Thơ Nho từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV chủ yếu thuộc phong cách thiên về
“tình”, hướng nội, có cái đẹp âm nhu. Mối quan hệ của Nho giáo và thể loại trữ tình là mối
quan hệ đặc biệt và theo một phương thức riêng.
Niềm vui lạc đạo, vui với cuộc sống đời thường đem thơ ca Nho giáo đến một cảm giác
bình thản, sâu lắng, đạm bạc, thi tứ mạnh mẽ - hùng tráng dương cương chuyển sang cái đẹp
âm - nhu, mềm mại, rộng rãi. Lý Tử Tấn tiếp tục cảm hứng “vui mệnh” trong “Mạn hứng”.
Nguyễn Trãi có nhiều bài thơ đi theo mạch tư duy theo chiều từ Đạo đến Văn: “Bảo kính
cảnh giới” (1, 51, 58), “Ngôn chí” (7), “Mạn thuật” (3, 5), “Thuật hứng, 24”, “Tự thán,
12”… Nhưng ở đây, tác giả cũng chú ý cả “nội tâm”, “ngoại vật”…
Vẻ đẹp âm nhu bao hàm sự khoan dung, đôn hậu. Phạm trù “nhân” cũng thuộc vẻ đẹp
âm tính trên cơ sở của phạm trù “nhân” thơ ca Nho giáo đặt ra vấn đề thoát ly tiểu ngã cá
nhân. Quan điểm về nét đẹp âm tính gắn liền với niềm vui, nỗi buồn của người khác tạo ra
một khả năng tác động đến tâm tư người đọc, quan điểm đó gần với quan điểm hiện tại.
Những biểu hiện phức tạp của phạm trù “nhân” (yêu thương con người) là năng lượng cho
dạng thức thơ nho này bên cạnh quan niệm “Thi duyên tình” (Lục Cơ) (Thơ diễn đạt tình
cảm).
Quan niệm “nhân nghĩa” trong văn học ở những nho sĩ nước ta lại được giải thích theo
những cách khác nhau. Khó có thể giải thích chính xác quan niệm về nhân nghĩa của từng
nhà thơ nho là gì. Tùy theo phương thức nhận thức và đặc điểm lịch sử thời đại mà mỗi nhà
thơ nho có cách hiểu riêng về những phạm trù trung tâm của Nho giáo. Ví dụ, phạm trù nhân
nghĩa trong thơ văn Nguyễn Trãi đã được các nhà nghiên cứu giải thích khác nhau.
Giáo sư Đinh Gia Khánh giải thích trong “Văn học Việt Nam thế kỷ X – nửa đầu thế kỷ
XVIII”: “Khái niệm nhân và nghĩa lại được những nhà văn hóa dân tộc Việt Nam từ Trương
Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn cho đến Chu An, Phạm Sư Mạnh hiểu theo ý nghĩa rộng rãi
và tích cực, vượt ra khỏi nhận thức và nhãn quan của Nho giáo. Nhân và nghĩa bao hàm
những quan hệ tốt giữa người với người, nhân và nghĩa không phải là những tiêu chuẩn đạo
đức chỉ dành cho một thiểu số ưu việt và cao quý nào. Từ nghĩa rộng rãi và tích cực như vậy,
Nguyễn Trãi lại đi xa hơn nữa là gắn nhân nghĩa với lòng yêu nước thương nhân dân” [68,
241]. Điều đáng quan tâm ở đây là “vượt ra khỏi nhận thức và nhãn quan của Nho giáo”.
Cũng theo định hướng này, tác giả nhận xét Nguyễn Trãi “vừa sáng tác vừa phát biểu những
quan điểm cơ bản có ý nghĩa thực tiễn và có ý nghĩa lý luận về các vấn đề văn nghệ”
(“Quan điểm văn nghệ của Nguyễn Trãi”) [69, 687]. Đây là hướng nghiên cứu có tính chất
ly tâm Nho giáo.
Không hoàn toàn nhất trí với quan niệm trên, Giáo sư Trần Đình Hượu có cách giải
thích vừa có phần giống nhưng cũng những phần khác với quan niệm vừa đề cập. Tác giả
này giải thích: “về căn bản Nguyễn Trãi vẫn là nho” [61, 112]; “chỗ dựa của ông là lời lẽ
thánh hiền rút ra từ kinh truyện, là các luận đề Nho giáo” [61, 79]; “tư tưởng nhân sinh của
Nguyễn Trãi vẫn thuộc Nho giáo nhưng là một Nho giáo khoáng đạt, rộng rãi không câu
nệ…”. Vấn đề chính yếu của sự khác biệt là quan niệm của Nguyễn Trãi về nhân nghĩa có
vượt thoát Nho giáo hay không và nó được định lượng như thế nào? Đó là những suy tư trăn
trở của nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu. Một mặt, nó có sự thôi thúc của tinh thần tự hào dân
tộc, độc lập văn hóa; mặt khác, những nhà nghiên cứu cần giải quyết nhiều vấn đề nảy sinh
trong quá trình nghiên cứu.
Chúng tôi cho rằng tư tưởng nhân nghĩa trong thơ văn Nguyễn Trãi là một vấn đề cần
giải quyết một cách linh hoạt. Trước hết, Nguyễn Trãi vẫn là nho, vẫn sử dụng kinh điển
thánh hiền nhưng là kiểu Nho có sự giao thoa, đan xen giữa Nho nguyên thủy - Tống nho -
Thiền - Lão được vận dụng theo kiểu của người Việt giàu tinh thần tự hào dân tộc.
Phạm trù “Trung thứ” ở Nho giáo (trung: thành thật hết lòng, thứ: đức tính xem mình
như người khác) đã trỗi dậy trong lòng nhà thơ Nho, mở rộng phạm vi từ bản thân đến với
người khác, từ trái tim đến với trái tim. Đi đến Quảng Tây, Nguyễn Trung Ngạn đã thông
cảm với nỗi buồn chiến tranh:
“Tòng quân lão thú tằng kinh chiến
Thuyết đáo Nam chinh các tự sầu”
(Lính già đồn thú từng tham chiến
Hễ nhắc Nam chinh lặng lẽ buồn)
(Ung Châu) [11, 220]
Bài thơ vừa đậm tình người nhưng vẫn mang niềm tự hào kín đáo. Những nỗi buồn của
dân chúng trong chiến tranh, lụt lội, nạn tham nhũng thường đi vào trái tim của người thi sĩ.
Người nho sĩ nhìn cuộc sống bằng tư tưởng nhân nghĩa và cái nhìn thế sự. Ở bài Hồng Châu
Kiểm Chính dĩ dư vận…,2 [178, 443], Nguyễn Phi Khanh phản ánh tình trạng bất công mà
ông cùng Nguyễn Hán Anh đều muốn chia sẻ với nỗi đau trần thế. Quan lại tham tàn, đồng
ruộng vang tiếng thở than (Thôn cư cảm sự - Nguyễn Phi Khanh) [178, 436]. Những nỗi đau
của nhân dân cũng đem lại những xót xa cho người nho sĩ thông qua sự liên thông của nho sĩ
đến với cái chung, đến với cộng đồng.
Đề bài thơ Nho thường bắt đầu bằng: hữu cảm (có cảm xúc), khởi cảm (nổi lên cảm
xúc), hữu hoài (có tâm sự), cảm hứng (xúc động mà có hứng), Biệt (từ biệt), tống (tiễn), hoài
(nhớ)… Điều đó phản ánh sự biểu hiện của đề bài là xuất phát của dòng tư duy trữ tình, “chí
hợp với tình”. Cơ sở của Nho giáo tập trung vào phạm trù “Nhân”. Đặc điểm “nhân” theo
quan niệm Nho giáo thì gắn với “trí”, “lễ” nhưng về cơ bản “nhân” vẫn thuộc nền tảng của
“tình”. “Chí của người quân tử bao giờ cũng là thực hiện lý tưởng “nhân”, hiện thực hoá
phạm trù “nhân” ở mức độ cao nhất. Nên “tình” và “chí” của người quân tử liên thông, tương
ứng. Các khái niệm quan trọng này tự liên kết lại và thống nhất với nhau.
Các nhà nghiên cứu đã chú ý mối quan hệ này. Mối liên hệ “chí” và “tình” từ liên thông
sang đồng nhất: “Thơ phú vốn lấy việc bộc lộ tình cảm làm chính, cho nên nó đứng vị trí
trung tâm của văn học Trung đại. Nói chí cũng chính là nói tình. Một chữ tình cũng nói được
đặc trưng nội dung văn học theo quan niệm người xưa” [139, 93]. Nói đến thể loại trữ tình
đương nhiên phải nói đến “tình”. Lê Quý Đôn đã từng đặt “tình” trước “cảnh” và “sự”. Triết
lý sống của nhà nho thường thể hiện ra bề nổi ở “hành” (thực hiện) ở “tri” (nhận thức) nhưng
mặt khác cũng phải thể hiện ở “tình”. Tuy không bộc lộ trực tiếp và mạnh mẽ như thơ ở thế
hệ Nguyễn Du nhưng thơ Nho ở đây vẫn chan chứa tình người.
Nhìn chung cơ sở phương pháp luận của Thơ Nho là những quan niệm thơ văn suy cho
cùng có nguồn từ Nho giáo. Nhưng mối quan hệ Nho giáo đến thi ca rất tế nhị, có thể đậm
nhạt khác nhau tuỳ vào quan niệm của từng thi nhân, cá tính, thời đại. Thông thường trong
thơ có đạo lý Việt Nho và tình cảm phong phú của người nho sĩ Đại Việt. Hơn nữa, đặc
trưng ngôn ngữ thơ bao hàm những cấp độ của cảm xúc, ấn tượng, những giao thoa phức tạp
của tình - cảnh - sự trong chủ thể trữ tình… Dù sao, người ta vẫn có thể nhận ra bản sắc thơ
Nho so với các hình thức, các dòng thi ca khác bởi những đặc điểm rất riêng, tuỳ thuộc vào
hệ thức văn hoá riêng - văn hoá Nho gia.
1.4. QUAN NIỆM VĂN HỌC CỦA NHÀ THƠ NHO
Điều quan trọng là tìm hiểu những quan niệm văn học của nhà thơ Nho. Quan niệm là
ý thức bao quát về một đối tượng, là cách hiểu một vấn đề. Quan niệm vừa là kết quả lại vừa
là điểm xuất phát của tư duy. Quan niệm về thi ca bao gồm những cách giải thích, những
nguyên tắc, phương pháp sáng tạo thi ca... Tùy theo hoàn cảnh đất nước, tùy trình độ, học
vấn, cá tính, tài năng mà các tác giả tiếp nhận tư tưởng nghệ thuật thơ Nho có những quan
1.4.1. Thơ phản ánh Chí, Khí, Tâm, Đạo kẻ sĩ
niệm về thơ ca khác nhau.
Những quan niệm định giá phẩm chất thơ ca rất phong phú theo thời gian, theo từng lưu
phái, theo năng lực chiếm lĩnh nghệ thuật của các tác giả – độc giả… Trước hết phải kể đến
quan niệm Thơ phản ánh Chí, Khí, Tâm, Đạo kẻ sĩ.
Thơ Nho nhìn chung chịu ảnh hưởng quan niệm "ngôn chí" (Thượng thư- Nghiêu điển).
Chí là nơi để tâm vào, tâm có chủ trương, không theo thói thường. Thơ phải biểu đạt cái chí
thông qua hình thức ngôn ngữ thơ. Nguyễn Trãi viết:
"Cao trai độc tọa hồn vô mỵ
Hảo bả tân thi hướng chí luân"
(Buồn cao ngồi một mình vẫn không ngủ;
Hãy làm bài thơ mới mà nói đến chí của mình)
(Thu dạ dữ Hoàng Giang Nguyễn Nhược Thủy)
[123, 302-303]
Bài thơ cũng là một trong những bài thơ Nho trực tiếp chứa quan niệm "ngôn chí".
Không những thế, thơ còn liên hệ đến sự khảng khái, không chịu khuất phục trước sức mạnh
và trở ngại. Ở bài thơ khác như bài "Cảm hoài" (Đặng Dung), đó là bài thơ đầy chí khí của
một kẻ sĩ hào hùng. Thơ nói chí là một quan niệm quan trọng của thơ Nho. Đầu thế kỷ XV,
Phan Phu Tiên đã viết: "tâm hữu sở chi, tất hình ư ngôn, cố thi dĩ ngôn chí" (Việt âm thi tập
tự). Quan niệm "Ngôn chí" được nhắc đến nhưng về bản chất thì "chí" cũng chính là "tâm".
Vì thế, thơ chính là phương tiện phản ánh "tâm" của kẻ sĩ quân tử. Chữ tâm thông
thường có nội dung phong phú, gồm cả thiện và ác. Chữ "tâm" trong thơ Nho thể hiện khá
phong phú các phương diện tình cảm của người nho sĩ trong thời đại Nho học đang hưng
thịnh và tích cực. Tâm ở đây có nguồn gốc là lòng tốt, là thiên lương của con người sống
theo đạo nghĩa. Thơ là tiếng nói của tâm hồn những tác giả nhà nho trước hiện thực. Các tác
giả Chu An, Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi... đã phản ánh khá rõ nét
những tâm trạng tiêu biểu của kẻ sĩ trước thời cuộc. Trước khi thành công, Nguyễn Trãi
phiêu bạt nhưng vẫn nuôi ý chí và giữ lời trăn trối của cha ở Đông Quan, thơ ông không
thiếu những khoảng lặng, đầy suy tư. Những suy tư đó vừa cho mình, cho gia đình và cho đất
nước. Niềm “lo trước” trở thành nỗi ưu tư:
“Bình sinh độc bão tiên ưu chí
Toạ ủng hàn khâm dạ bất miên"
(“Suốt đời ôm mãi niềm "lo trước"
Chăn lạnh đêm ngồi ta với ta")
(Hải khẩu dạ bạc hữu cảm, 2 –
Nguyễn Trãi) (Nguyễn Khuê dịch) [148, 103]
Tuy không náo nhiệt nhưng đây là những khoảnh khắc sâu lắng của tâm hồn và nỗi lòng
kẻ sĩ trước thời thế. “Lo trước cái lo thiên hạ” (tiên ưu) – Các nho sĩ nước Việt đã vận dụng
thuật ngữ này như là cái vỏ hình thức để diễn tả thế giới nội tâm thi nhân.
Tâm có nội dung bao gồm cả Tình. Thơ Nho Việt Nam thường có quan niệm trọng tình.
Phạm Nhân Khanh nhận ra “Lễ văn hữu tận tình vô tận” (Văn lễ có giới hạn – tình vô hạn)
(Phụng Bắc sứ) [178, 300]… Quan niệm trật tự của Lễ lùi lại sau Tình. Nhưng dù thế nào đi
nữa, những quan niệm thơ Nho vẫn còn chịu sự can thiệp của các phạm trù mỹ học cơ bản
xuất phát từ “Thi ngôn chí” – thiên về dương cương; “Thi ngôn tình” – thiên về âm nhu. Hai
điều này có khi được nối kết với nhau một cách sáng tạo. Điều đó đúng với bản chất trữ tình
của thơ Nho. Thơ Nho ngày càng đạt đến thuần thục nên ngôn từ có khi không cần dùng đến
ngôn ngữ Nho học hay kinh điển Nho giáo nhưng không khí ấy vẫn là không khí, tình cảm,
cái nhìn của nhà nho. Tình cảm vẫn là yếu tố hàng đầu của thơ. Tình ở đây là tình cảm của
người Việt, tình cảm gắn bó với cộng đồng, đất nước.
Thơ Nho ở đây đã có một bước tiến vượt bậc là đi vào bản sắc dân tộc, đi vào cái
thường ngày. Đề cập đến bữa cơm đạm bạc, rau muống, ao làng, hoa xoan nở rụng... Dù nhà
nho vốn quí trọng truyền thống, "thuật nhi bất tác" nhưng nhà nho Đại Việt đã cùng với
những người dân manh lệ đuổi ngoại xâm nên họ gần với những sinh hoạt đời thường của
nhân dân.
Cũng cần quan tâm đến quan niệm Đạo thể hiện trong thơ. Đạo đức kẻ sĩ ở đây là lẽ
phải hợp lý được suy nghĩ và xác định một cách độc lập. Ở đây quan niệm về "đạo đức"
trong thơ Nho rất quan trọng, nó là sự thể hiện trọn vẹn cách nghĩ, lối sống và sáng tác của
1.4.2. Thơ phải giúp nước và làm vẻ vang cho nước
nhà nho.
Chủ nghĩa yêu nước vốn là truyền thống của văn học Việt Nam. Nho giáo chú trọng,
điều hòa và cân bằng các mối quan hệ con người - gia đình - xã hội nhưng thơ văn thì tùy
theo hoàn cảnh mà mối quan hệ nào được chú trọng. Từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV
do hoàn cảnh phải đối đầu với ngoại xâm và xây dựng một nền văn hóa vững mạnh nên phần
nhiều thơ cũng chú trọng đến quan niệm Thơ phải giúp nước và làm vẻ vang cho nước.
Mối quan hệ giữa Văn học dân tộc và yếu tố Nho giáo vốn là một vấn đề lớn. Tuy
nhiên đối với nước ta, bản sắc văn hóa dân tộc đã làm cho các yếu tố ngoại nhập chuyển hóa
và trở thành tài sản riêng của dân tộc. Các nhà nghiên cứu đã nhìn nhận: "trong văn học
truyền thống Việt Nam, cái Việt Nam và cái Nho giáo kết hợp nhau chứ không bài xích
nhau” [61, 54]. Nhiều nhà thơ đã trực tiếp hoặc gián tiếp thể hiện quan niệm Thơ phải giúp
nước và làm vẻ vang cho nước. Nguyễn Mộng Tuân đã trực tiếp phát biểu quan niệm ấy khi
viết cho Nguyễn Trãi:
"Hoàng các thanh phong ngọc thự tiên
Kinh bang hoa quốc cổ vô tiền"
(Tặng Gián nghị đại phu Nguyễn công) [68, 335]
Mặt khác nếu nhà thơ bị những quan niệm đạo đức Nho giáo ám ảnh, thơ Nho vẫn có
thể có những giá trị thẩm mỹ riêng khi phản ánh những vẻ đẹp cao thượng, trong sáng, tận
tụy vì cộng đồng, vì dân tộc.
Bàn luận về nội dung văn chương, về tư tưởng chủ đạo của thi ca các nhà nho đã có
những phát biểu cụ thể. Các nhà nho đã thông qua thi ca để khái quát lên những nội dung tư
tưởng sâu sắc của thơ Nho:
“Đao bút phải dùng tài đã vẹn,
Chỉ thư nấy chép việc càng chuyên.
Vệ Nam mãi mãi ra tay thước,
Điện Bắc đà đà yên phận tiên.
(Bảo kính cảnh giới, 56 - Nguyễn Trãi) [123, 457]
Bài thơ được viết sau khi Nguyễn Trãi được trao chức vụ Hàn Lâm viện thừa chỉ - Lại
bộ thượng thư. Ý tưởng của bài thơ là dùng văn chương để xây dựng nền độc lập lâu bền.
Bài thơ này rất xứng đáng được xem là quan niệm văn học nhà Nho.
Từ giúp nước, trong thơ còn có quan niệm về dân. Quan niệm về "dân", "nước" rất quan
trọng đối với nho sĩ . "Dân" được đề cao trong lý thuyết kinh điển của Mạnh Tử nhưng ở đó
nó được nhìn từ kẻ bề trên. Quan niệm "dân" trong thơ Nho giữa thế kỷ XIV- giữa thế kỷ
XV là trung tâm của tư tưởng thân dân, gần dân. Thơ Nguyễn Trãi gần gũi, hòa đồng và ân
nghĩa với những người áo vải.
Nguyễn Trãi đã vượt qua nhiều sóng gió nhưng vẫn một lòng trung ái. Ông đã viết:
"Nhất tâm báo quốc thượng hoàn hoàn" (Một lòng báo quốc vẫn còn hăng hái) (Thứ vận
Trần Thượng thư đề...., Ức Trai thi tập) [123, 302]. Tấm lòng vì nước vẫn luôn cháy bỏng
trong tâm hồn ông. Nhìn chung những quan niệm về đạo lý, trọng tình, trọng dân... là những
quan niệm nổi bật. Đó là sự biến đổi quan niệm nghệ thuật so với thơ Thiền trước đó...
Những quan niệm nghệ thuật thơ của thơ Nho nói trên còn mang chức năng định hướng cho
tư duy sáng tạo của thi nhân.
Có một mô hình phổ biến trong thơ Nho đó là văn chương tao nhã sâu xa nhưng cuối
cùng là giúp nước. Quan niệm này trở quan niệm thành chính thống và thu hút nhiều thế hệ
cùng một ý chí: “Văn chương tao nhã, ý tứ rộng rãi sâu xa, suy rộng ra thấu hết lẽ tinh vi
của trời đất, tóm hết sự vật xưa nay, đem ra để sửa sang việc đời, giúp rập nhà nước thì sự
nghiệp xa rộng to lớn khó có thể lường được” (Trần Danh Lãm) [167, 99]. Mô hình này
càng rõ ràng khác biệt với các mô hình của các dòng thơ khác. Quan niệm này có khuynh
hướng chú trọng chức năng giáo dục, lập ngôn.
Những quan niệm văn chương của Nho gia đã góp phần lý giải cái hay cái đẹp trong thơ
Nho. Các phạm trù về văn, mỹ, giao - cảm, trung – hòa, dương cương-âm nhu... suy cho
cùng vẫn chịu sự chi phối của quan niệm văn chương thơ Nho, những quan niệm văn chương
Nho học. Đó là cơ sở lý luận quan trọng của thơ Nho.
Tiểu kết: Những vấn đề chung của thơ Nho Việt Nam từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế
kỷ XV góp phần xác lập những cơ sở lý thuyết về thơ Nho. Nó bao gồm việc tìm hiểu các
vấn đề về khái niệm, diện mạo (quá trình hình thành, lực lượng sáng tác, cái tôi trữ tình...),
mối quan hệ giữa Nho giáo - thơ Nho, quan niệm văn học của nhà thơ Nho. Từ những vấn đề
chung, thơ Nho có thể phân biệt với thơ Thiền thông qua những cơ sở lý thuyết này.
CHƯƠNG 2. NHỮNG CẢM HỨNG TRONG THƠ NHO VIỆT
NAM TỪ THẾ KỶ XIV ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XV
Cảm hứng thi ca của các nhà thơ tuỳ theo những hoàn cảnh xã hội và cá nhân ở mỗi thời
mà trội nổi lên những cảm hứng chủ đạo. Những cảm hứng chủ đạo của thơ Nho giữa thế kỷ
XIV – giữa thế kỷ XV quyết định diện mạo dòng thơ này. Cảm hứng là phương diện chủ
quan của nội dung, là độ rung cảm sâu xa. Nó chứa đựng những năng lượng sáng tạo và cộng
hưởng, ảnh hưởng đến người thưởng thức. Cảm hứng như những cánh buồm đưa những
chiếc thuyền ra khơi và đi xa, “là trạng thái tình cảm mãnh liệt, say đắm xuyên suốt tác
phẩm nghệ thuật, gắn liền với một tư tưởng nhất định” [49, 44]. Không nhất thiết đồng nhất
với thi hứng, cảm hứng chủ đạo trong thơ Nho còn phản ánh phong cách Nho trong thơ. Cảm
hứng chủ đạo trong thơ Nho gắn liền với tình cảm của thi sĩ nhà nho. Đó là tình cảm cao
thượng, trong sáng đi cùng với thăng trầm của đời người và những thăng trầm của đất nước.
Nhìn chung cảm hứng của các nhà thơ Nho được khái quát qua một số loại cảm hứng khác
nhau. Luận án chủ yếu đi vào cảm hứng yêu nước, cảm hứng thân dân, cảm hứng nhân văn,
2.1. CẢM HỨNG YÊU NƯỚC
cảm hứng đạo lý, cảm hứng thế sự trách nhiệm.
Cảm hứng chủ đạo của thơ Nho có những nét rất riêng. Có lẽ tư tưởng “trị quốc” là mối
quan tâm thường trực của của người nho sĩ. Tư tưởng này mang tính định hướng cuộc đời
của người nho sĩ nhất là trong thời kỳ niềm tin vào Nho giáo đang lên cao. Thơ Nho giữa thế
kỷ XIV – giữa thế kỷ XV nổi bật với những cảm hứng yêu nước, tự hào dân tộc bên cạnh
những xúc cảm mạnh mẽ của thi nhân. Yêu nước là cảm hứng khá mãnh liệt và chiếm vị trí
trung tâm. Cảm hứng đó gắn liền với lịch sử hào hùng.
Các cuộc chiến chống Nguyên, Minh và cuộc đổi thay triều đại của nhà Hồ làm ảnh
hưởng lớn đến đời sống xã hội. Vấn đề đất nước được đặt lên hàng đầu. Thơ ca của các tác
giả nhà nho trong thời gian này xem đất nước là đạo lý trọng yếu nhất và cảm hứng yêu nước
thể hiện ở rất nhiều tác phẩm.
Trở về với quá khứ, niềm vui đại thắng giặc Nguyên chưa lâu thì đất nước phải gánh
những hậu quả chiến tranh và những mầm mống suy thoái từ bên trong. Tầng lớp trí thức
nho sĩ mới vừa vươn lên khẳng định vai trò chính trị của mình, lại phải đối mặt với thực tại
đầy suy nghĩ. Cuối đời Trần, nhà Hồ, rồi đến cuộc chiến tranh giành độc lập, giới nho sĩ luôn
đối mặt với nhu cầu nhập thế của thời cuộc. Tư tưởng Trung - Thứ và lý tưởng trị quốc đã
làm cho các nho sĩ luôn nghĩ về đất nước. Cảm xúc của họ vì thế gắn liền với vận mệnh,
những thăng trầm, hưng vong của đất nước. Đó là những sứ mệnh mà người trí thức phải
gánh vác.
Từ thi xã Bích Động, Chu An, Phạm Sư Mạnh, Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh
cho đến Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân... đều có những thái độ tích cực đối với những
vấn đề quốc gia, dân tộc. Đất nước hay nói đúng hơn là tình yêu đất nước là cảm hứng chủ
đạo của thơ Nho giai đoạn này.
Cảm hứng yêu nước ở đây bao hàm cảm hứng về cộng đồng, dân tộc, vận mệnh đất
nước. Nguồn gốc cảm hứng đó bắt nguồn từ sự khẳng định nền độc lập và trải qua những
chiến thắng giặc phương Bắc: Tống, Nguyên, Minh... Cũng có những giai đoạn đất nước lâm
nguy vào cuối triều Trần hay bị đô hộ vào cuối đời Hồ nhưng không vì thế mà nguồn cảm
hứng về đất nước yếu đi. Ngược lại, nó càng mạnh mẽ và sâu đậm, trong văn học (từ thể
phú, cáo... cho đến thơ trữ tình).
Thể phú trong thời gian này mang đậm cảm hứng dân tộc, hào khí dân tộc. Phú có
những ưu thế nhất định trong việc thể hiện điều này. Bên cạnh “Bạch Đằng giang phú”
(Trương Hán Siêu), “Chí Linh sơn phú” (Nguyễn Trãi), “Lam Sơn phú” (Nguyễn Mộng
Tuân)..., cảm hứng dân tộc cũng đã bùng lên mạnh mẽ qua thể loại thơ. Thơ của Trần Nhân
Tông, Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu... đã âm vang tinh thần dân tộc. Những thế hệ của
Nguyễn Trung Ngạn, Chu An, Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi... đã tiếp
bước truyền thống này.
Tình yêu quê hương đất nước gắn liền với mọi miền đất nước. Những địa danh gắn liền
với chiến công vệ quốc thường được các nhà nho nhắc lại. Nó vừa là cảm hứng, vừa khai mở
dòng thơ vịnh sử của nhà Nho: “Quá Hàm Tử quan” (Trần Lâu), “Hàm Tử quan” (Nguyễn
Mộng Tuân, Nguyễn Trãi...). Đó là những bài thơ ghi nhận cảm xúc đối với tiền nhân và dân
tộc.
Không căn cứ vào kinh điển Nho gia, những lời nói bất hủ của Trần Thủ Độ, Trần Quốc
Tuấn, Trần Bình Trọng, Nguyễn Biểu... rất hùng hồn, đầy niềm tin và đầy dân tộc tính.
Trước vận mệnh đất nước, những lời nói đó cũng là cái hùng của nhà nho. Các nhà nho đã
sống và chết xứng đáng với đạo lý ấy.
Từ giữa thế kỷ XIV – giữa thế kỷ XV, thơ ưu tiên về những cảm hứng thời đại, không
khí thời đại và những cảm xúc phổ biến ở các thế hệ Nho giáo cuối Trần – đầu Lê. Cảm
hứng chủ đạo của thơ một thế kỷ này nổi bật trên những diễn biến phong phú, phức tạp của
thời đại, có khi hai hay nhiều cảm hứng cùng tụ hội, gặp gỡ trong cùng một trường hợp.
Những cảm hứng chủ đạo có thể kể đến đối với thi ca các nhà nho thế kỷ này là cảm
hứng tự hào dân tộc. Điều đó cũng phản ánh tư tưởng Trung của người nho sĩ nước ta. Ba lần
thắng Nguyên và những võ công hiển hách của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã đem lại uy danh
cho Đại Việt. Các nhà nho viết sử và sử dụng chữ Nôm đều có cảm hứng cao về dân tộc.
Trong các nhà nho đó, Phạm Sư Mạnh có nhiều bài thơ sáng tác trong những chuyến
hành quân. Ông viết khi hành quân ở biên giới phía Bắc:
“Bình sinh nhị thập an biên sách
Nhất thốn đan tâm chiếu bạch đầu”
(Kế sách an biên ta sẵn có
Lòng son soi tóc bạc phơ phơ)
(Quan Bắc) (Tiên Lữ dịch) [178, 107]
Phong thái của tác giả tự tin, ung dung, hiên ngang. Phản ánh tấm lòng sắt son vì nước.
Cảm hứng đó còn là thiên nhiên, phong cảnh Đại Việt hào hùng tươi đẹp: “Yên Tử giang
trung” (Nguyễn Trung Ngạn ), “Kiệt Đặc sơn” (Nguyễn Trung Ngạn), “Chí Linh đạo
trung” (Phạm Ngộ)... Thơ Nho thường xuất phát từ cảnh để ngụ tình nhưng cảnh đẹp gắn
liền với chiến thắng hào hùng từ quá khứ thì càng tuyệt diệu. Thiên nhiên sông núi tươi đẹp,
hùng vĩ, gắn liền với lịch sử là cảm hứng hào hùng trong thơ Nho.
Giọng thơ có khi cao vút thể hiện sức mạnh của dân tộc. Đất nước hiện lên trong độc lập
và xứng đáng ngang tầm thời đại. Ở bài “Bạch Đằng giang”, Trần Minh Tông cũng viết về
đất nước ở tư thế đầy tự hào:
“Sơn hà kim cổ song khai nhãn
Hồ Việt doanh thâu nhất ỷ lan”
(Non sông kim cổ hai lần dậy
Hồ Việt hơn thua một thoáng thôi)
(Đào Phương Bình – Nam Trân dịch) [177, 797]
Người nho sĩ đất Việt cảm thấy tự hào, hiên ngang trước vị thế của đất nước sau những
chiến công chống ngoại xâm. Từ hào khí thời Lý, hào khí thời Trần, tâm thế thời đại truyền
cảm xúc vào thơ Phạm Sư Mạnh. Hào khí trấn giữ phương Bắc và chiến thắng lừng lẫy hoá
thân vào ngọn “Tháp Báo Thiên”: “Trấn áp Đông Tây vững đế kinh” và khí thơ vút cao:
“Đến nơi ta muốn dầm ngòi bút
Chấm nước sông xuân để viết thơ”
(Đề Báo Thiên tháp – Phạm Sư Mạnh) [41, 34]
Khi đất nước bị ngoại xâm, các thế hệ nho sĩ đã xả thân vì nước. Thơ văn của họ đi cùng
cuộc chiến chống ngoại xâm với những nét bi hùng. Nguyễn Biểu không ngại khó khăn:
"Dịch lộ ba ngàn dám ngại xa" (Họa thơ Trùng Quang đế) [178, 510]. Trên đường làm
nhiệm vụ, ông đã bị giặc đưa vào một tình thế thật cảm động khi sáng tác bài "Ăn cổ đầu
người" [178, 510]. Nguyễn Biểu đã can đảm vạch trần mưu kế ngoài thì phô trương nhân
nghĩa trong chiếm nước, chiếm đoạt của cải, tàn sát lương dân của giặc trước khi hy sinh
oanh liệt dưới chân cầu Lam. Thái độ đó rất tự nhiên, mạnh mẽ và không nhất thiết phải
được "Gác Lân danh tiếng mãi muôn đời" [178, 513] như lời Trần Quí Khoáng khi tiễn
người liệt sĩ.
Những cảm xúc sâu xa, niềm tự hào dân tộc về lịch sử hào hùng của một đất nước vừa
giành được độc lập sau những năm tháng lệ thuộc đã nổi bật lên trong giai đoạn này (thơ
Nho Việt Nam giai đoạn sau ít có được). Sự xúc cảm sinh ra thi hứng, xúc cảm của ngày
chiến thắng in dấu vào văn thơ – khẳng định vị thế của dân tộc đối với thế lực phương Bắc:
“Duy ngã Đại Việt chi quốc.
Thực vi văn hiến chi bang”
(Bình Ngô đại cáo - Nguyễn Trãi) [148, 146]
Khí thế hào hùng sau chiến thắng đã làm nức lòng toàn dân, làm cho giới trí thức nho sĩ
vô cùng phấn khởi tin tưởng vào sự nghiệp nhà nho, tin vào sự lên ngôi của Nho giáo thay
thế cho nền văn hoá dung hòa tam giáo thời Lý – Trần. Cảm hứng “Bình Ngô đại cáo” được
tiếp nối từ “Nam quốc sơn hà” – một tác phẩm từng được xem là “Kiệt tác khai sáng tư
tưởng Việt Nho” [144, 20]. Từ đỉnh cao đó, cảm hứng hào hùng truyền sang bài thơ “Bạch
Đằng hải khẩu”(Ức Trai thi tập) và nhiều bài thơ khác. Đọc thơ Nho, người ta có cảm giác
được truyền lại niềm tự hào dân tộc từ quá khứ.
Lịch sử hào hùng, núi sông càng kỳ vĩ, mỗi con sông mỗi cửa biển như có thần uy trấn
áp ngoại xâm. Đất nước thanh bình, núi sông đó có đủ tư cách để ngang tầm với phương
Bắc: “Dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các đế nhất phương” (Bình ngô đại cáo). Bài
“Trảm xà kiếm phú” (Sử Hy Nhan) cũng tương tự như thế. Những chiến công phá Tống,
bình Nguyên, thắng Minh đã truyền sinh khí vào tâm hồn các thế hệ nho sĩ trong thời Nho
giáo đang lên và đất nước càng cường thịnh.
Hào khí anh hùng của kẻ sĩ đời Trần trong thơ rất phong phú. Hào khí của Đặng Dung
sáng lên trong bi kịch và uất hận. Đến bài “Đề kiếm” (Nguyễn Trãi) thì hào khí đó toát lên
cùng không khí chiến thắng năm 1426:
“Quốc thù tẩy tận thiên niên sỉ
Kim quỹ chung tàng vạn thế công”
(Nước hờn rửa nhục nghìn năm sạch
Hòm quí vùi công vạn thuở này).
(Đề kiếm - Nguyễn Trãi)
(Đào Duy Anh dịch) [123, 293]
Rửa sạch những mối thù mà Đặng Dung đã thao thức và bất lực, chiến công của khởi
nghĩa Lam Sơn mãi còn vang vọng. Bài thơ mang một khí thế hào hùng, mạnh mẽ. Sức
mạnh đó vừa là uy thế của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn vừa là tiếp nối những cảm hứng yêu
nước, tự hào dân tộc của quá khứ:
“Nhất nhung đại định hà thần tốc
Giáp tẩy cung nang lạc thái bình”
(Một quân cả dẹp, bao thần tốc
Rửa giáp treo cung hội thái bình).
(Hạ quy Lam Sơn – Nguyễn Trãi)
(Đào Duy Anh dịch) [123, 292]
Cũng trong bài thơ này, Trung nguyên không phải là đất Trung Hoa – Niềm tự hào của
dân tộc Trung Hoa - mà chính là mảnh đất độc lập (“đại định”) của dân tộc Việt vừa mới
giành được từ “quân cuồng Minh” (“Nghĩa kỳ nhất hướng Trung nguyên chí”) (Trung
nguyên khi đã trao cờ nghĩa). Hiện tượng vay mượn ngôn ngữ và Việt hóa nó đã liên tục
diễn ra trong thơ ca. Các nhà nho nước ta đã vận dụng văn hóa Nho để xây dựng văn hóa dân
tộc.
Niềm vui thái bình là cảm hứng rất cao sau những tháng năm bị tàn phá khủng khiếp
“hơn cả ngàn năm Bắc thuộc” của giặc Minh. Cảm hứng đó là không khí chung của thời đại
bấy giờ. Nó làm nên giọng hùng trong thơ ca:
“Quái Bắc đã tiêu kình ngạc lặng
Nam châu muôn thuở vẹn giang san”.
(Hạ quy Lam Sơn – Nguyễn Trãi)
(Đào Duy Anh dịch) [123, 291]
Các Việt Nho đã trân trọng giang sơn của mình, đặt nặng tư tưởng quốc gia, khác với
quan niệm của các nhà nho Trung Hoa thời Tiên Tần về tổ quốc. Quan niệm đó cũng không
phải “đạo” của nước nhỏ buộc phải thần phục nước lớn như ta thấy dấu vết ở “Kinh xuân
thu”. Các bài “Chí Linh sơn phú”của Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn, Trình Thuấn Du,
Nguyễn Trãi đều đề cao Lê Lợi, so sánh Nghiêu Thuấn, Câu Tiển, Lưu Bang với Lê Lợi.
Những bài thơ như thế này đã chứa đựng khí phách của cả dân tộc.
Về thơ ca, các nhà thơ nhà văn nước ta đã đánh giá văn chương nước mình dựa trên tinh
thần dân tộc. Những trường hợp so sánh với thi ca đời Đường, thơ Nho của ta được nhiều
người nhìn nhận là có phong cách Đỗ Phủ (người được xem là “thi thánh”, “tình thánh”).
Chúng ta có thể thấy mười bài “Bạch Đằng giang" của Trần Minh Tông được Phan Huy Chú
xem “không kém gì thơ Thịnh Đường" [19, 62], “Giới hiên tập" (Nguyễn Trung Ngạn) được
Phan Huy chú nhận xét: “những câu thơ hay nhiều không kể xiết, thơ tứ tuyệt càng hay
không kém gì thơ Thịnh Đường" [19, 75]. Phan Huy Chú, trong “Lịch Triều hiến chương
loại chí", đã đánh giá bài bài “Yên Tử giang" của Nguyễn Trung Ngạn có phong cách như
Vương Xương Linh, Lý Bật (Đường) [19, 78]. Ông cũng xem Phạm Sư Mạnh là danh gia
cuối đới Trần và bài "Đăng Hoàng Hạc lâu" thì "có thể áp đảo người Nguyên", [19, 85]...
Nói chung các nhà thơ xưa đã đánh giá rất cao thơ ca dân tộc khi so sánh với thơ Trung
Quốc. Tinh thần tự hào dân tộc cũng được thể hiện qua những cách nhận định này. Đánh giá
về thơ thời gian này, nhiều ý kiến được đặt ra khiến ta phải suy nghĩ. Về bản sắc và những
thành tựu thơ ca từng triều đại, Bùi Huy Bích cũng nhận xét “thơ đời Trần đến đầu triều Lê
có hơi hồn hậu" [19, 181]. Nguyễn Dữ (Truyền kỳ mạn lục) xem Nguyễn Trãi như Đỗ Phủ
[24, 252]. Phạm Đình Hổ (Vũ trung tùy bút) xem thơ đời Trần “như thơ đời Hán đời Đường
bên Trung Hoa" [53, 180]. Đây là những cách đánh giá thơ Nho qua cái nhìn Việt Nho và đề
cao nghệ thuật trong trẻo, hồn nhiên. Song song với văn học viết, văn học dân gian Việt Nam
cũng có bài chẳng thua kém "Kinh Thi". Văn học dân gian cũng là nguồn mạch nuôi dưỡng
thơ Nho. Thơ chữ Nôm của Nguyễn Trãi đã chịu ảnh hưởng của văn học dân gian. Như vậy
thơ Nho Đại Việt so với Trung Hoa đã có một vị thế đặc biệt, chiếm lĩnh, rực sáng một cõi
trời riêng. Giọng điệu hào hùng khí khái, đôn hậu rất riêng, không lệ thuộc quá nhiều vào thơ
ca Trung Quốc. Khẳng định bản sắc văn hóa cũng là một biểu hiện của lòng yêu nước.
Theo người xưa, thơ Lý - Trần đến đầu Lê được xem là ngang với thơ Thịnh Đường,
còn sau đó chỉ có thể sánh với Vãn Đường, thơ Tống... Do đâu mà có những quan niệm đó?
Có thể nói những nhận xét và đánh giá đó theo tinh thần nhà nho và căn cứ vào những thành
tựu của thơ Nho. Nó xuất phát từ cảm hứng yêu nước và tinh thần dân tộc.
Nhìn chung, cảm hứng yêu nước đã trở thành cảm hứng chủ đạo nổi bật trong thơ Nho.
Trong thơ có chiến tranh, có hòa bình nhưng cảm hứng yêu nước lúc nào cũng mạnh mẽ. Nó
trở thành truyền thống của thơ Nho. Nhưng ở đây tinh thần yêu nước mang tính thống nhất,
không phe phái cục bộ, cát cứ. Trong hoàn cảnh đặc biệt của lịch sử, yêu nước trở thành vấn
đề được đưa lên hàng đầu như một cảm hứng mạnh mẽ nhất của tư tưởng đạo lý ở các nhà
2.2. CẢM HỨNG THÂN DÂN
nho.
Thơ Nho Việt Nam không chỉ thể hiện cảm hứng yêu nước mà còn thể hiện cảm hứng
trọng dân, thân dân. Đây là một đặc điểm độc đáo của thơ Nho Việt Nam từ giữ thế kỷ XIV
đến giữa thế kỷ XV.
Thơ Nho tiếp tục truyền thống xem trọng vai trò của người dân vốn đã trở thành phổ
biến từ Lý – Trần. Thời Lý - Trần là thời đại nhiều chính sách khoan hòa, trọng dân được áp
dụng. Triều đình đã có cái nhìn cởi mở và quan tâm người dân. Nội dung vì dân, trọng dân ở
"Văn lộ bố”, "Văn bia chùa Linh Xứng” và cả sách lược "khoan thư sức dân để làm kế sâu
rễ bền gốc" (Trần Quốc Tuấn) [26, 549] đã trở nên một truyền thống hết sức cao đẹp và tiến
bộ. Đến giữa thế kỷ XIV, đất nước Đại Việt có xu hướng độc tôn Nho giáo nhưng ít nhiều đã
thừa kế được những tinh hoa của thời đại trước về tư tưởng thân dân..
Cảm hứng thân dân ở đây xuất phát từ tình yêu đất nước thuần túy của dân tộc nhưng có
khi cảm hứng ấy trong thơ lại sử dụng đến một số khái niệm có liên quan đến Nho học. Điều
này cũng do đặc trưng nền văn hóa đương thời qui định. Cảm hứng đó vừa tự hào về dân tộc
sau các chiến thắng vĩ đại vừa xúc cảm sâu xa trước những suy thoái về chính trị, xã hội. Ở
đây cảm hứng dân tộc được mở rộng và nhấn mạnh đến yếu tố thân dân. Các thiền sư Việt
Nam đã tích cực trong xây dựng đất nước và giữ nước nhưng trong thơ Thiền, cảm hứng dân
tộc, cảm hứng thân dân không phong phú bằng thơ Nho...
Hiểu sâu sắc về sự tồn vong của dân tộc, chính sách thân dân đã từng được áp dụng từ
thời Lý- Trần. Tư tưởng thân dân, vì dân đã cộng hưởng với tư tưởng nhân nghĩa – tư tưởng
hạt nhân của văn hóa Nho gia.
Đến đầu thế kỷ XV, nhiều nhà văn nhà thơ đã nói đến người dân như một thế lực mạnh
mẽ và có thể làm thay đổi chế độ. Nguyễn Mộng Tuân đã viết bài "Dân thủy" để xác nhận
sức mạnh ấy.
"Tựu Hán bái nhiên qui mạc ngự
Vong tần hoán nhược đãn nan thu"
(Về Hán ùn ùn ai cản nổi,
Bỏ Tần tan tác, dễ đâu kìm")
(Vân Trình dịch) [117, 238]
Nguyễn Trãi cũng có suy nghĩ tương tự, không chỉ "dân" có vai trò lịch sử "làm lật
thuyền" mà hơn nữa, ông còn cảm thấy mọi người và cả quan lại phải nhớ ơn người dân: "Ăn
lộc đền ơn kẻ cấy cày" (Bảo kính cảnh giới -19, Quốc âm thi tập) [123, 445]. Có thể nói đây
là quan niệm rất tiến bộ của những trí thức nho sĩ nước Việt. Tác giả không nhìn người dân
từ kẻ bề trên mà đối xử từ lòng biết ơn.
Ở trường hợp khác, Nguyễn Trãi cón nói đến quan hệ "đồng bào” khi nhìn về người dân
nói chung, gồm cả những người áo vải và không phân biệt quân tử - tiểu nhân: "Đồng bào
cốt nhục nghĩa càng bền” (Bảo kính cảnh giới - 15, Quốc âm thi tập [123, 443]. Có thể nói
các nhà thơ đã có cái nhìn về người dân khá gần gũi, chân tình. Đây là cái nhìn tiến bộ của
giới nho sĩ quân tử đối với người dân.
Tác phẩm "Quốc âm thi tập" là thành tựu của ngôn ngữ thơ dân tộc, trong đó nhiều lời
ăn tiếng nói của người dân, phong cách bình dị đã đi vào nghệ thuật thơ Nho vốn trang nhã
cao quý. Nửa đầu thế kỷ XV ngôn ngữ thơ không chỉ có chất liệu “nho” mà còn có nhiều
ngôn ngữ dân gian, tục ngữ, thành ngữ dân tộc (Quốc âm thi tập - Nguyễn Trãi). Trong thơ
có khá nhiều hình ảnh thân quen của đời sống dân tộc như ao rau muống, giậu mồng tơi và
những hình ảnh bình dị khác (Thuật hứng, 23, Thuật hứng, 24, Cây chuối, Mía…). Thậm chí
chất dân tộc còn đi vào thể loại thơ ca để hình thành thể thơ riêng của dân tộc (thể thất ngôn
pha lục ngôn). Thể thơ này đã đạt được những thành công nhất định.
Tư tưởng thương dân, vì dân là nội dung xuyên suốt thơ văn Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi
đã vận dụng những quan điểm tích cực và tiến bộ từ Nho giáo để đến với người dân bằng cái
nhìn mới. "Có thể nói trong lịch sử xã hội phong kiến Việt Nam không có nhân vật nào trong
hành động và trong tư tưởng lại có thái độ đối với dân, tư tưởng nhân dân nhất quán như
Nguyễn Trãi, kể cả những bậc túc nho như Chu An, Nguyễn Bỉnh Khiêm..." [184, 195]. Cảm
hứng dân tộc trong thơ còn dành cho các anh hùng dân tộc, kẻ sĩ Việt Nho. Ở đây cảm hứng
yêu nước đặc biệt hướng về phía nhân dân, dân tộc. Nó gần gũi, tự nhiên, không kinh điển,
công thức...
Từ những năm cuối thế kỷ XV, đặc điểm thơ của các nhà nho có sự thay đổi. Thơ ca
kém đi những hồn nhiên trong trẻo buổi đầu. Tuy có những bước tiến đáng kể về nghệ thuật,
nhưng một số bài thơ trong “Hồng Đức quốc âm thi tập” có sự ca tụng thiếu tự nhiên. Thơ
ca có khi mang tính chất gượng ép: “Hết lòng uống máu vì nhà chúa” (Bạch sắt- Con rận)
[52, 201]; “Hôm mai ninh nước vì nhà chúa” (Thổ vu- Cái ấm đất) [52, 204]; “Ơn chúa vun
trồng những thuở nao” (Tân lang- Cây cau) [52, 205]… Đó là sự chuyển biến lớn lao của
dòng thơ đi dần đến chính thống. Cảm hứng thân dân phản ánh quan niệm tiến bộ của thơ
Nho giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV. Đây cũng là một đặc điểm quan trọng của thơ
2.3. CẢM HỨNG NHÂN VĂN
Nho.
Nước ta vốn có nền văn hiến từ lâu đời. Từ một nước “văn hiến đứng đầu Trung châu,
điển chương rạng cả triều đại” (Lịch triều hiến chương loại chí) [19, 07], văn học Việt Nam
vốn giàu tinh thần nhân văn. Cảm hứng nhân văn là một trong trong những cảm hứng chủ
đạo của thơ Nho Việt Nam từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV.
Cảm hứng chủ đạo là trạng thái tình cảm mãnh liệt, say đắm xuyên suốt các tác phẩm
thơ ca của dòng thơ. Nó gắn liền với tư tưởng Nho vốn đã được tiếp biến ít nhiều. Nó gây tác
động đến cảm xúc của người tiếp nhận bằng một phong cách riêng. Cảm hứng chủ đạo “biến
sự chiếm lĩnh thuần túy trí óc đối với tư tưởng thành tình yêu đối với tư tưởng, một tình yêu
mạnh mẽ, một khát vọng nhiệt thành” [49, 39]. Cảm hứng chủ đạo có mặt và thâm nhập vào
hầu hết các “ngõ ngách” những tác phẩm của thơ Nho.
Khái niệm “Nhân văn” trước hết có thể hiểu như những giá trị đẹp đẽ của con người.
Tính nhân văn được sử dụng nhằm chỉ đến giá trị tinh thần bền vững của mọi sự sáng tạo
nghệ thuật đạt đến trình độ cái đẹp. “Một tác phẩm văn học có tính nhân văn là tác phẩm thể
hiện con người với những nét đẹp của nó, đặc biệt là những giá trị tinh thần như trí tuệ, tâm
hồn, tình cảm… Tác phẩm đó hướng đến khẳng định, đề cao vẻ đẹp của con người” [170,
05]. Cảm hứng nhân văn thể hiện trước hết ở cảm hứng yêu thương con người, lấy con người
tiến đến tự do hạnh phúc làm trung tâm. Yêu con người, trân trọng những giá trị chân chính
của con người bản thân nó đã là nhân văn.
Tùy theo từng thời điểm lịch sử mà những giá trị nhân văn tiêu biểu nào đó được đề cao,
bổ sung cho giai đoạn trước. Cảm hứng nhân văn trong thi ca cũng biến đổi theo từng giai
đoạn văn học. Những giá trị nhân văn được công nhận là: hòa bình, tôn trọng, trách nhiệm,
hợp tác, tự do, hạnh phúc, trung thực, khiêm tốn, tình yêu, khoan dung, đoàn kết…
Cảm hứng nhân văn trong thơ Nho từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV có nguồn gốc
từ truyền thống nhân văn Lý –Trần, truyền thống Văn học dân gian và nổi bật là chịu ảnh
hưởng của không khí văn hóa thời đại – chịu ảnh hưởng Nho giáo. Cảm hứng nhân văn trong
thơ Nho là thích thú thẩm mỹ đối với những giá trị nhân văn cổ điển mang màu sắc Nho
giáo. Nó gắn liền những phạm trù mang tính mỹ học Nho giáo: văn, mỹ, trung hòa, cổ,
hùng… Thơ Nho không chịu ảnh hưởng bởi chủ nghĩa Nhân văn thời Phục Hưng ở phương
Tây mà chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi tư tưởng Nhân văn cổ điển Nho giáo.
Nho giáo về cơ bản là một học thuyết nhân văn thế tục, nhân văn chính trị. Xây dựng
một chính quyền nhân đạo là nền tảng chính trị Nho giáo. “Ai cũng có một trái tim biết
thương xót sự đau khổ của kẻ khác. Các đấng tiên vương sở hữu một trái tim biết thương xót
như thế thể hiện ra trong một chính quyền nhân đạo. Với một trái tim biết thương xót, thi
hành chính quyền nhân đạo thì việc cai trị một nước dễ như trở bàn tay” (Nhân giai hữu bất
nhẫn chi tâm. Tiên vương hữu bất nhẫn chi tâm, tư hữu bất nhẫn nhân nhi chính hĩ. Dĩ bất
nhẫn nhân chi tâm, hành bất nhẫn nhân chi chính, trị thiên hạ khả vận chi chưởng thượng)
(Mạnh Tử - Lương Huệ Vương, 6) [166]. Quan niệm này là niềm cổ vũ quan trọng đối với
các nhà nho quân tử từ giữa thế kỷ XIV- giữa thề kỷ XV.
Xã hội lý tưởng mà Nho giáo hướng tới là tôn trọng lẫn nhau, không thực hiện những
điều mình không muốn với người khác trong xã hội. Những văn bản kinh điển của Nho giáo
đã nói: “Người có chí và người có nhân chẳng vì lẽ bảo tồn sanh mạng mà làm hại đức
nhân; hạng người ấy có khi phải tự mình quyên sinh để giữ tròn đức nhân vậy” (chí sĩ chân
nhân vô cầu sanh dĩ hại nhân hữu sát thân dĩ thành nhân) (Luận ngữ- Vệ linh công, 8) [72,
242-243]. Con người ở đây được xây dựng nâng cao và hòa nhập với chuẩn cái đẹp nhân
văn: “Người đáng yêu gọi là thiện. Có được cái thiện nơi bản thân gọi là tín. Có được cái
thiện nơi bản thân một cách sung mãn là mỹ” (Khả dục chi vị thiện. Hữu chư kỷ chi vị tín.
Sung thực chi vị mỹ) (Mạnh Tử - Luy Lâu Thượng, 25) [166]. Nền văn hóa – xã hội Nho giáo
và người nho sĩ giữa thế kỷ XIV- giữa thế kỷ XV có thể cảm thông được với những lý tưởng
cao đẹp này.
Hơn nữa, xã hội trong nền văn hóa Nho giáo cổ truyền là cố gắng hướng đến một xã hội
nhân văn; nó được lễ, nhạc, thơ ca làm cho cân bằng hài hòa. Người nho sĩ vừa là trí thức
vừa là “văn nhân” theo nghĩa tốt đẹp. Người nho sĩ ứng xử thích hợp, nếu hợp đạo lý tức là
phản ánh tinh thần nhân văn trong mọi tình huống. Trong lĩnh vực thơ ca, ngôn ngữ thơ cũng
là ngôn ngữ của lòng trắc ẩn, ngôn ngữ của trái tim.
Tuy được tiếp biến, khúc xạ trong lòng văn hóa dân tộc nhưng về cơ bản thơ Nho giữa
thế kỷ XIV – giữa thế kỷ XV vẫn mang đậm ảnh hưởng Nho giáo thời kỳ tích cực ban đầu,
đậm chất nhân văn cổ truyền. Nhiều tác phẩm như thế được Phan Huy Chú xếp vào “Lịch
triều hiến chương loại chí” như là tiêu biểu cho cái đẹp của chất nhân văn trong văn học qua
các triều đại.
Khi Chu Công – Khổng Tử ở Trung Quốc nói đến “tư văn” thì tổ tiên người Việt với cái
“chất” mộc mạc bắt đầu đón phái đoàn truyền giáo từ Ấn Độ sang. Nói chung sự kết hợp đó
tạo nên diện mạo ban đầu của văn hóa Việt, cái “văn” của văn hóa Việt. cái văn đó tiếp tục
phát triển với trung tâm văn hóa Phật giáo Luy Lâu.
Thời Bắc thuộc có thể nói là giai đoạn “tiền tư văn”, cái văn cái chất của dân tộc đã có
một trình độ nhất định và bản sắc riêng. Do nhiều nguyên nhân, cho đến nay tài liệu về giai
đoạn này không còn nhiều nhưng rất cần thiết.
Những nhà nho ở nước ta như Tinh Thiều (thời Nam Bắc triều) và những người Việt
làm quan ở Trung Quốc như Trương Trọng, Lô Hồi, Khương Thần Dực, Khương Công Phụ,
Khương Công Phục, Liêu Hữu Phương… là những nhà nho nổi tiếng đầu tiên. Thời Bắc
thuộc thành tựu của Nho học chưa nhiều, dòng thơ Nho chưa hình thành. Tuy nhiên vẫn có
Liêu Hữu Phương, Liễu Tử Hậu (Đời Đường) được đánh giá là “thơ văn có điệu Đại Nhã”
(An Nam Chí Lược) [145, 121]. Những lớp nho sĩ tiên phong đã góp phần tạo nên truyền
thống thơ Nho.
Trong khi đó, những nhà nho không chuyên gốc Phật giáo trong hoàn cảnh song hành
Nho - Phật lại là những tác giả đầu tiên dùng thơ Nho để xướng họa với người Trung Quốc.
Nhật Nam Tăng, Vô Ngại Thượng nhân, Phụng Đình Pháp sư, Duy Giám Pháp sư…đã từng
xướng họa với thi hào Trương Tịch, Thẩm Thuyên Kỳ, Giả Đảo… hoặc giảng kinh cho vua
Đường.
Như vậy cái “văn” (gồm văn nói, viết, giao lưu, ứng xử…) của Đại Việt ban đầu đã khác
với tư văn của Trung Quốc. Càng về sau, ở Trung Quốc có hiện tượng thâm nhập mạnh mẽ
của Pháp gia, Mưu lược gia vào tư tưởng Nho gia làm thay đổi bản sắc tư văn thời Tiên Tần.
Còn ở Đại Việt, cái “văn” có đặc điểm nguồn gốc riêng, có bản sắc riêng, ít bị sự xâm nhập
có khi đến cực đoan bởi Pháp gia và Mưu lược gia như ở Trung Quốc.
Từ đó, cảm hứng về những giá trị nhân văn của người Việt cũng có bản sắc riêng, nó đã
góp phần tạo nên tiềm thức văn hóa của dân tộc. Lê Mạnh Thát đã có nhiều phát hiện về văn
minh dân tộc trước khi Việt Nho xây dựng nền tư văn ở nước ta.
Từ thời Lý về sau, các thế hệ nhà nho nước Việt liên tục xây dựng những giá trị nhân
văn Đại Việt trên nền Việt Nho, trong đó nhiều yếu tố Nho giáo được tiếp biến. Khái niệm
“tư văn” (斯文) là một khái niệm khá quan trọng. “Hán Việt từ điển” (Đào Duy Anh) giải
thích: “Tư văn là lễ nhạc, chế độ- đạo thống của thánh nhân ngày xưa” [02,333]. “Tổng tập
Văn học Việt Nam” có giải thích: “tư văn: rút ý câu nói của Khổng Tử, trong sách Luận Ngữ
nguyên chỉ lễ, nhạc, pháp độ, giáo hóa - người đời sau dùng từ này để chỉ người theo đạo
Nho” [117, 378]. Quan niệm này được tác giả Phạm Đức Dương giải thích: “Khổng Tử gọi
Ngô đạo (đạo của mình) là văn hay tư văn (văn nay). Vì vậy có thể hiểu tư văn là cái đạo
của Nho giáo được chuyển đổi dưới hình thức Văn (văn dĩ tải đạo)” [28, 5]. Từ đạo đến văn
là mục đích mà nhiều nhà nho đã quan tâm, suy nghĩ.
Nguyễn Trãi quan tâm nhiều đến vấn đề này. Ông đã lưu ý đến tư văn và xem đó là sứ
mệnh cao cả, linh thiêng: “Thiên hoặc táng tư tri hữu mệnh” (Trời có bỏ mất tư văn thì biết
đó là mệnh) (Mạn thành - Ức Trai thi tập) [123, 347]. Nguyễn Trãi cũng nói đến tư văn của
dân tộc: “Thiên địa tư văn tòng cổ thượng” (Tư văn của trời đất từ xưa vẫn trọng) (Thu nhật
ngẫu thành - Ức Trai thi tập) [123, 342]. Bên cạnh Nguyễn Trãi, các nhà nho khác cũng xem
tư văn như là mục đích cao đẹp cho hành động. Trình Thanh xem “tư văn” như là phương
châm, cảm hứng và động lực phát triển cùa xã hội: “Thánh đạo tư văn thác giám hành” (Có
nhiệm vụ trọng đại làm gương sáng, làm cán cân cho nền tư văn) (“Nguyên nhật thọ Úy Trai
tiên sinh”) [117, 378]. Những điều đó có thể nói chính là biểu hiện của cảm hứng nhân văn
đơn sơ mộc mạc của lý tưởng nhân văn Nho giáo cổ điển. Cảm hứng nhân văn ấy thấm
nhuần trong luận đề, chi tiết, hình tượng thi ca thông qua việc đề cao các giá trị nhân văn:
hòa bình, trân trọng con người, trung thực, khoan dung…
Trước hết cảm hứng nhân văn biểu hiện ở những sáng tác trân trọng con người. Với
quan điểm trọng dân, qua mệnh đề dân - nước, các nhà nho đã đề cao vai trò của người dân.
Đó là những người dân thiếu thốn, đói rét trong thơ Nguyễn Phi Khanh, những người áo vải
đã hy sinh để đánh đuổi giặc Minh, họ xứng đáng được trân trọng như ở các bài “Quân
chu”, “Dân thủy” (Nguyễn Mộng Tuân). Truyền thống “khoan sức dân” từ Trần Quốc Tuấn
đến Nguyễn Trãi là một mạch liên tục.
Cá tác giả Lê Thiếu Dĩnh, Nguyễn Phu Tiên đều ca ngợi hình tượng cây tùng cao với vẻ
đẹp và bản chất hữu ích nhưng bị rơi xuống vũng, xuống hồ để cho thần nước cuốn đi, hình
thể xơ xác (Họa Lê Trạch Thôn “trường tùng vi phong vũ sở chiết vận”) [117, 343-344].
Tùng tiêu biểu cho vẻ đẹp cao quý theo chuẩn thẩm mỹ Nho gia, tượng trưng cho vẻ đẹp tính
con người, vẻ đẹp của một nền văn hóa. Cây tùng ngã đổ cũng là bối cảnh đất nước bị tàn
phá sau chiến tranh giành độc lập đầu thế kỷ XV.
Trong trường hợp khác như ở bài “Mộ xuân Diễn Châu tác”, Nguyễn Thiên Tích đã nói
lên tâm sự một Gián Nghị đại phu thẳng thắn, bất mãn vì bọn cường thần chống lại chính
sách thân dân. Có thể bài này viết lúc ông từ quan:
“Tùng cúc tam niên sương mấn cải,
Hải môn vạn lý khách tình xa”
(Ba năm gai gốc đầu pha bạc
Muôn dặm đường trường bến vượt khơi)
(Bản dịch Hoàng Việt thi văn tuyển) [117, 365-366]
Cũng giống như Nguyễn Thiên Tích, Nguyễn Trãi đề cao con người với quan điểm nhân
văn sâu sắc. Quan điểm đó phản ánh trong chiến lược xây dựng văn hóa, trong đời sống và
cả trong thơ văn ông. Thơ Nguyễn Trãi kết tinh lòng yêu nước với tình yêu thương người
dân “trên lửa hung tàn”, mở rộng lòng thương yêu sự sống (“đức hiếu sinh”) (Bình Ngô đại
cáo). Nguyễn Trãi muốn để người dân được nghỉ ngơi: “Văn trị nên xây dựng thái bình”
(Quan duyệt thủy trận) [123, 289]. Tinh thần nhân văn đã ảnh hưởng lớn đến chiến lược xây
dựng đất nước sau chiến tranh của Nguyễn Trãi.
Tác giả còn trân trọng cái đẹp thiên nhiên, cái đẹp hài hòa đơn sơ. Với tình yêu thiên
nhiên, hòa nhập cùng tạo vật, nhà thơ đã trân trọng đến từng cành mai, cành trúc:
“Mai chăng bẻ, thương cành ngọc
Trúc nhặt vun, tiếc cháu rồng”
(Thuật hứng, 5 – Nguyễn Trãi) [123, 412]
Tình yêu con người, yêu thiên nhiên đã làm cho tác giả trở nên chan hòa với cỏ cây, vạn
vật.
Các tác giả thơ Nho cũng rất trân trọng đến những hạnh phúc của con người khi viết về
người cung nữ. Ở đây thơ Nho đặt cơ sở đầu tiên cho thành tựu về sau ở “Cung oán ngâm
khúc” (Nguyễn Gia Thiều), “Long thành cầm giả ca” (Nguyễn Du). Nguyễn Ức viết về tâm
sự của hoa trà mi nở vào cuối xuân - đầu hạ, nghĩa là sau các loài hoa khác nở vào đầu xuân.
Hoàn cảnh như thế giống với những người cung nữ tủi phận, chẳng biết xuân là gì:
“Nhất sinh bất thức mai hoa diện
Độc điến thiều quang tác hậu kỳ”
(Suốt đời chẳng biết mặt hoa mai là gì cả
Riêng mình đến muộn, lẽo đẽo theo sau bóng thiều quang)
(Đồ mi) [178, 26]
Nỗi đau khổ, bế tắc của người cung nữ đã được tác giả thơ Nho đề cập. Các tác giả vừa
cảm thông vừa đồng thời gởi vào đó chút tâm sự riêng của mình. Lê Thiếu Dĩnh trong bài
“Cung từ” (Lời người cung nhân) cũng thế: “Tàn hoa hoàn hướng lạc hoa khai” (Hoa mới
được nở ra, vì hoa cũ đã rơi rụng) [148, 226]. Tác giả cảm thông, vừa thương vừa tội cho
người cung nữ “đem phấn son gượng điểm tô” (thử tương chi phấn cưỡng an bài). Tâm sự
của người cung nữ có khi cũng tương tự như nỗi lòng người trí thức cô độc, bất lực. Hay có
khi đó là tâm trạng của một quan chức bị triều đình phụ bạc, ghen ghét.
Từ thương yêu con người, các nho sĩ nhìn cuộc sống nhân hậu hơn. Những nhà nho
thế hệ này đã khao khát hòa bình và mơ ước được hưởng “một nền thái bình muôn thuở”
(Bình Ngô đại cáo). Bài “Tẩy binh vũ phú”(Nguyễn Mộng Tuân) ca ngợi niềm vui sảng
khoái của đất nước bình yên: “Giang Ôn dịch” (Nguyễn Trung Ngạn), “Hạ qui Lam Sơn”
(Nguyễn Trãi) cũng thế. Nguyễn Trãi đã viết: “Giáp tẩy cung nang lạc thái bình” (Rửa áo
giáp bỏ cung vào túi vui cuộc thái bình) (Hạ qui Lam Sơn, 2 – Nguyễn Trãi) [123, 291].
Niềm vui thái bình này là cảm hứng lớn của thơ văn thời đại.
Thơ Nho cũng đề cao khát vọng tự do của con người. Đó là khát vọng vượt lên cái đời
thường: “Viễn đệ phong vân động tráng hoài” (Trông ra cuộc gió mây, khiêu gợi sự nung
nấu chí lớn) (Đăng Hồng Ân tự- Nguyễn Thiên Tích) [148, 279]. Cũng vì thế, vô tình nhà
nho đôi khi tự đặt mình vào một ví trí cao hơn thói thường.
Bên cạnh đó tư tưởng Lão Trang thường kết hợp với tư tưởng Nho giáo một cách rất tự
nhiên, mật thiết trong đời sống, trong quan niệm mỹ học cũng như trong thơ văn. Sự kết hợp
đó làm cho thơ Nho phong phú hơn nhưng không mất đi bản chất. Có khi nhà nho mượn
hình ảnh cá Côn vốn có nguồn từ “Nam Hoa kinh” (Tiêu diêu du) để nói lên khát vọng cao
xa của con người: “Đồ Nam chí dục phấn Trang Côn” (Nuôi chí cao xa như cá Côn của họ
Trang vượt biển Nam) (Tỵ loạn hoài hương- Lê Thiếu Dĩnh) [117, 298]. Bên cạnh cá Côn,
tác giả còn sử dụng hình ảnh chim Bằng: “Đoàn phong vạn lý khoái phi Bằng” (Cưỡi gió
vạn dặm như chim Bằng bay vút) (Tuần thị Chân Đăng châu – Phạm Sư Mạnh) [178, 101].
Từ tầm cao đó, cảm hứng đưa con người đến tự do: “Tự khí tự lai hồn bất quả” (Đi lại một
mình, chẳng gì trói buộc) (Giang đình tác – Chu An) [178, 63]. Cảm hứng tự do còn được
tìm thấy ở “Đề nhạn thực đồ”: “Bích thủy đan sơn lạc tự do” (Doãn Hành) [117, 386]. Đó
là những cảm hứng thú vị phản ánh một khía cạnh tâm hồn của nhà thơ nho đậm đà chất
nhân văn.
Với niềm tin vào đạo lý cao đẹp, vào những giá trị nhân văn, những chuẩn mực của cái
thiện, cái đẹp, các tác giả đã đã tập trung xây dựng những mẫu người nho sĩ tích cực trong
thơ. Nhân vật trữ tình trong thơ là hình bóng của con người nhân văn cổ điển. Con người
hiện lên dưới hình thức cái tôi trữ tình dạt dào tinh thần nhân văn với niềm tuyệt đối vào cái
thiện, vào vẻ đẹp lương tri, thiên lương…
Chủ thể trữ tình trước hết là con người có tâm hồn trong sáng, luôn đối diện trực tiếp với
những vẻ đẹp trong sáng của tự nhiên: nhật, nguyệt, trúc, cúc, sen… “Trinh tâm khước ái
Đông ly cúc” (Lòng trong trắng chỉ yêu hoa cúc ở giậu phía Đông” (Trùng dương tiền nhất
nhật… – Nguyễn Ức) [178, 30]. Vẻ đẹp tâm hồn nhiều lần được thể hiện, đề cao trong thơ
Nho. Qua những biến cố, tác giả cảm thấy niềm an ủi còn lại là tấm lòng son. Đó là bản sắc
của chủ thể trữ tình trong thơ Nho:
“Mạc tiếu sinh nhai đô tảo tận
Nhất đan tâm ngoại cánh vô dư”
(Ngoài tấm lòng son đang giữ được
Sinh nhai buồn thấy chẳng còn chi)
(Trạch thôn cố viên – Lê Thiếu Dĩnh)
(Bản dịch Hoàng Việt thi văn tuyển) [09, 413]
Những nhà nho giữ trọng trách, địa vị cao nhưng đời sống rất giản dị, trong sạch. Ngôi
nhà của họ cũng phản ánh nếp sống thanh bạch: “bốn vách xác xơ” (tứ bích gia bần) (Hạ
Thừa Chỉ Ức Trai tân cư – Mừng nhà mới của Thừa Chỉ Ức Trai) (Nguyễn Mộng Tuân)
[117, 239] càng làm nổi bật một nhân cách cao thượng.
Thơ của của nhà nho cũng chứa đựng một tâm sự lớn. Đọc thơ Trần Nguyên Đán (Nhâm
Dần lục nguyệt tác, Đề Huyền Thiên quán, Bất mị, Ngẫu đề), thơ Phạm Nhữ Dực (Tạ
Nguyễn Vận Đồng huệ đái, 4), thơ Nguyễn Thiên Tích (Mộ xuân Diễn Châu tác)… ta đều
thấy trong đó ý thức hổ thẹn. Tự ý thức, tự hổ thẹn là giá trị cao quí của con người trước sự
xung đột giữa hai mặt đối lập của thiện - ác. Ý thức trách nhiệm và tự ý thức là tiếng nói
lương tri của con người trước thời cuộc.
Từ việc tự hổ thẹn, tự phản tỉnh đến “uất hận”- tự hành động là một mạch tiếp nối.
Những điều đó vẫn còn mãi âm vang trong sáng tác của Nguyễn Biểu, Trần Quí Khoáng, Sư
chùa Yên Quốc, Đặng Dung, Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh…
Tác giả Trần Ngọc Vương có đề cập vấn đề “Giới hạn của nội dung nhân đạo chủ nghĩa
trong văn chương Nho giáo” [184, 121-133]. Ta không thể phủ nhận một số giới hạn nhưng
cảm hứng nhân văn trong thơ Nho đã góp phần không nhỏ trong việc xây dựng một nền thơ
2.4. CẢM HỨNG ĐẠO LÝ
dân tộc giàu tinh thần nhân đạo, nhân văn…
Ở mỗi nước, Nho giáo được vận dụng, tái cấu trúc cho phù hợp với từng quốc gia. Nho
giáo ở mỗi nước đều có một số nét riêng biệt. Quan niệm về đạo lý, nghi lễ ở Trung Hoa,
Nhật Bản, Việt Nam có những nét khác nhau. Ở nước ta, điều đó là những nổ lực không
ngừng xây dựng một nền văn hóa Nho giáo có tính cách Việt, một nền văn hóa có tính cách
dân tộc. Vì thế cảm hứng đạo lý trong thơ của các nhà nho nước Việt cũng có những nét
riêng.
Do phong thổ, địa lý, nền sản xuất nông nghiệp lúa nước và tinh thần dân tộc, Đại Việt
đã tiếp thu Nho giáo và sử dụng theo ý tưởng thiết thực của mình. Tính chất du mục phương
Bắc như trọng sức mạnh (dũng), tính quốc tế (bình thiên hạ), tính nguyên tắc, lễ tắc ít được
xem là quan trọng ở đây. Đạo lý Nho học nguyên thủy đã được tiếp thu, cấu trúc lại, vận
dụng vào đời sống dân tộc. Tư tưởng dân tộc, cảm hứng dân tộc làm phát sinh cảm hứng độc
lập văn hóa. Cảm hứng độc lập văn hóa làm phong phú cho cảm hứng Việt hóa tư tưởng
nhân nghĩa Nho giáo và cổ vũ tư tưởng nhân nghĩa nhân dân. Tư tưởng này có cội rễ sâu xa
từ văn hóa Lý – Trần. Cảm hứng dân tộc là động lực mạnh mẽ nhất, nó áp đảo mọi thứ khác
và là sức mạnh quyết định biến Nho phương Bắc thành tư tưởng triết học phù hợp với nhu
cầu dân tộc... Trên căn bản Nho giáo, Hồ Quý Ly, Trần Thế Pháp, Nguyễn Trãi... đã hết sức
làm điều đó.
Đạo lý trở thành một tiêu chuẩn quan trọng, chi phối nhiều mặt văn hóa xã hội. Chỉ
riêng thơ văn Nguyễn Trãi, tác giả đã đề cập đến khá đầy đủ các phương diện cơ bản nhất
của đạo lý Nho giáo được người Việt tiếp biến... "Tuy dựa vào ảo tưởng "bình trị" của Nho
giáo và chịu đựng hạn chế của nó, Nguyễn Trãi không nhấn mạnh, cường điệu các trật tự
nghiêm ngặt trên dưới trong học thuyết Khổng – Mạnh” [184, 187]. Ông đã sử dụng những
kinh nghiệm phong phú của văn hóa Nho giáo để đánh ngoại xâm, xây dựng đất nước, sáng
tác thơ ca nhưng hoàn toàn không công thức. “Ông là người đã sử dụng hệ thống lý luận và
tư tưởng nhân dân của Nho giáo (đã có một nội dung tự nó) để khái quát truyền thống dân
tộc (có nhiều nội dung khác Nho giáo)" [184, 187]. Ở ông, cái tinh hoa Nho giáo và bản
chất cao đẹp của dân tộc đã có sự tiếp xúc nhau.
Cảm hứng đạo lý có nền tảng là văn hóa Đại Việt. Trong cuộc đời cũng như trong thơ
văn các vua Trần, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trãi... đều có phong thái kiên cường, hiên ngang
đối với phương Bắc... Nguyễn Trãi ảnh hưởng bởi các nhà nho đời Trần như Chu An, Trần
Nguyên Đán, Hồ Quý Ly... và học phong Đông A. Học phong Đông A vốn đã là tinh thần
Nho kết hợp với tư tưởng dân tộc, độc lập, dân chủ, bình dân, đa phương, phóng khoáng...
Có thể nói đây là thế kỷ tiêu biểu và thành công của tư tưởng Nho và tư tưởng dân tộc. Thời
gian này nước ta cũng thành công trong việc vận dụng Nho giáo chống phương Bắc ở nhiều
phương diện.
Tư tưởng Nho giáo được Việt hóa ở đây nhờ quán tính của văn hóa Tam giáo đời Lý –
Trần, tinh thần Đại Việt. Từ đó, văn hóa dân tộc đã khắc phục được những cực đoan và sinh
ra một nền thi ca nhìn chung lành mạnh, trong sáng, tích cực...
Nhiều yếu tố đã giúp cho đạo lý Nho mang bản sắc Việt tồn tại. Trước hết đó là tư tưởng
dân chủ từ hội nghị Diên Hồng, tư tưởng phóng khoáng của Trần Minh Tông trong quản lý
đất nước. Kế đến đó là chính sách nhẹ thuế khóa, tư tưởng bảo tồn văn hóa, chống thay đổi
theo phương Bắc của Trần Nghệ Tông. Ngoài ra, mô hình trường học có tính độc lập giáo
dục của Chu An cũng có ý nghĩa không nhỏ....
Về chính trị, những quan niệm Nho học rất thuận lợi cho triều đình và các trí thức Đại
Việt trong quá trình đổi mới văn hoá và hoàn thiện tổ chức hệ thống chính trị quốc gia. Vì
thế, Nho học đương nhiên đã trở thành cảm hứng, niềm tin, là tư tưởng quan trọng cho người
trí thức mới:
“Đạo dương đức khái dưỡng văn chương”
(Noi đạo, tưới đức, nuôi dưỡng văn chương)
(Vũ Mộng Nguyên) [99, 91]
Có thể xem đây cũng là một tuyên ngôn nghệ thuật của các nhà nho hành đạo Việt
Nam. Đạo – đức – văn chương hài hòa và thống nhất với nhau, cả ba yếu tố đều đều góp
phần hình thành những chuẩn mực, những quy phạm trong thơ Nho.
Tư tưởng Tam giáo thời Lý Trần đã tạo điều kiện làm sáng tỏ tư tưởng dân tộc. Truyền
thống đó tiếp tục ở đời Hồ, Lê. Trong lĩnh vực thi ca, nó đã cho ra đời dòng thơ Nho mang
đậm tình cảm, nghệ thuật và tính chất đạo lý Nho của người Việt với tinh thần yêu nước,
thân dân. Trong các tác giả của dòng thơ Nho, Mạc Đĩnh Chi, Chu An, Nguyễn Trãi... đã
chịu ảnh hưởng không ít bởi tư tưởng Thiền học – tư tưởng đã từng rực rỡ trước đó không
xa. Điều này có tác dụng cởi mở, đa diện hóa về tư tưởng, tạo điều kiện cho cảm hứng đạo lý
của thơ Nho mở rộng, vượt qua những giới hạn thông thường.
Ở thơ Nho, khái niệm “quốc” và “dân” được kiến giải từ hai nguồn tư tưởng khác nhau.
Đó là tư tưởng dân tộc và tư tưởng "dân bản" cực kỳ tiến bộ, trong trẻo. Tuy có sử dụng
ngôn ngữ từ văn hóa Nho giáo nguyên thủy nhưng nó đã có bản sắc riêng: "nhân nghĩa cốt ở
yên dân", "dân như nước"... Do đó, ta sẽ tránh khỏi cực đoan xem thơ Nho là "Nho học".
Việt hóa Nho còn là mặt hình thức của động lực phát triển văn hóa tất yếu của dân tộc.
Văn hóa càng nâng cao, nó càng không hoàn toàn bị lệ thuộc vào cội nguồn mà nó tiếp thu.
Nho giáo được cấu trúc lại bởi một tinh thần thần độc lập văn hóa và độc lập chủ quyền dân
tộc. Nho giáo ở nước ta cũng được chọn lọc, tiếp thu với tinh thần dân tộc.
Cảm hứng đạo lý Nho giáo của người Việt đã nẩy sinh từ cảm hứng dân tộc. Dân tộc ta
tiếp nhận văn hoá nhưng đã cố gắng vươn tới độc lập văn hóa. Việc tiếp nhận vốn đã xảy ra
từ lâu cùng với sự ra đời của những thế hệ nho sĩ đầu tiên. Từ đó, nhiều thế hệ đã kế thừa
truyền thống này. Truyền thống này vẫn lấy đạo lý làm chuẩn mực.
Có thể nói nền đạo lý đó rất thiêng liêng, mẫu mực và là kim chỉ nam cho một thế hệ trí
thức. Nó đã góp phần không nhỏ vào ba cuộc kháng chiến chống Nguyên. Nó được xem như
là những kinh nghiệm để các thế hệ của thơ Nho xem là “phương thuốc" để cứu vãn xã hội
khi triều Trần bước vào suy vong, nhà Hồ xây dựng đất nước và nhà Lê tiếp tục triển khai
kinh nghiệm này sau khi giành độc lập.
Chiến thắng Nguyên, Minh là cơ hội xác định tính chất Việt của Nho giáo. Những quan
niệm Nho giáo này không ngừng được củng cố bởi Trần Nghệ Tông (về phong tục, pháp độ,
văn hóa), Chu An (phân biệt với Tống Nho), Hồ Quý Ly (phê phán Tống Nho ), Nguyễn
Trãi (dùng Nho để đánh giặc phương Bắc, phê phán giặc Minh). Nguyễn Trãi đã từng dựa
trên cơ sở Nhân nghĩa Nho giáo phê bình vua nhà Minh: “ Mượn cái danh Minh nho, cái
nghĩa thương dân đánh tội" để thõa mãn cái thực "cướp của giết người", "lấn chiếm bờ
cõi"... “nhân nghĩa mà như thế ư" (Quân trung từ mệnh tập - Lại trả lời Phương Chính). Lý
Tử Tấn cũng vượt qua giai đoạn tiếp nhận để tiến đến một cái nhìn cao hơn: “Hà tất khu khu
cứu lục kinh" (Việc vì phải bo bo miệt mài trong sáu kinh) [70, 99]. Các danh nho đã cố gắng
biến Nho thành phương tiện xây dựng và bảo vệ đất nước, xây dựng nền độc lập.
Chữ “trung” với vua bị bản địa hóa, Nam phương hóa chuyển sang “trọng dân”. Hơn
nữa những cuộc chiến chống xâm lăng thắng lợi vang dội đã xác định rõ hơn tư tưởng yêu
nước, tư tưởng nhân nghĩa để yên dân trong cấu trúc tư tưởng Việt.
Tư tưởng Nho của người Việt là một phần cơ bản trong tư tưởng dân tộc thời trung đại.
Thơ Nho là một bộ phận quan trọng của văn học dân tộc thời Trung đại. Các nhà nho đã luôn
thể hiện trong thơ lòng sắt son trong sáng. Dòng thơ Nho cũng đặt vấn đề nhiều mặt về đạo
lý theo cái nhìn Nho giáo và tư tưởng nhân nghĩa nhân dân. Cảm hứng trong thơ là những
cảm xúc thiêng liêng, sâu xa cho nền văn hóa dân tộc tự lập, tự chủ..
Việc đặt lại vấn đề văn hóa Tống Nho ở đời Hồ cũng là sự hoài nghi có ý nghĩa phương
pháp luận trong việc xây dựng nền văn hóa độc lập. Việc duy trì văn hóa Tam giáo, sự cởi
mở tư tưởng, đa diện tư tưởng đối với Nguyễn Trãi còn là sự tích hợp văn hóa – một hiện
tượng tích cực để phát triển tư duy và giải quyết những vấn đề thực tế của đất nước đặt ra.
Hiện tượng đó không hề thoái bộ, nó rất lành mạnh, tránh được sự cực đoan, quan liêu hóa
và rập khuôn.
Đạo lý Nho của người Việt nhìn chung là những chuẩn mực về cái chân, cái thiện, cái
tốt đẹp, cái phải làm mà ông cha ta đã nhận thức được. Từ đó, nó chi phối các nguyên tắc
ứng xử và tư tưởng nghệ thuật văn chương. "Kiến văn tiểu lục" (Tài phẩm) đã liệt các nho sĩ
đời Trần vào bậc thanh cao. Như vậy, theo cổ nhân về khí tiết, phong độ nho sĩ, nghệ thuật
thơ ca thì giữa thế kỷ XIV – giữa thế kỷ XV đã được xem là mẫu mực.
Đạo lý, đạo đức Nho của người Việt phản ánh khá rõ qua Mạc Đĩnh Chi, Chu An, Phạm
Sư Mạnh, Lê Quát, Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi...
Nguyễn Trãi là sự tiếp nối liên tục từ Tuệ Trung Thượng Sĩ, Huyền Quang đến thi xã
Bích Động, Chu An, Nguyễn Phi Khanh... Sau Nguyễn Trãi, tư tưởng Nho hình như bị ảnh
hưởng mạnh bởi tư tưởng quan phương và chịu ảnh hưởng văn hóa phương Bắc nhiều hơn.
Và cũng từ sau thời đại ông, tinh thần mô phỏng phương Bắc diễn ra càng nhiều trên nhiều
phương diện.
Nguyễn Trãi không hoàn toàn theo khuôn thước Nho giáo. Ông có quan niệm cởi mở,
dân chủ, giản dị, vượt qua những định kiến, những kiêng kỵ của Nho giáo để nói đến cái đời
thường và khẳng định chất tài tử trong ít nhiều bài thơ: “Tích cảnh", “Cây chuối"... Các thế
hệ trí thức Việt qua thơ Nho cũng đã tạo bước ngoặc lớn trong Việt hóa tư tưởng Nho gia.
Về nội dung đạo lý dân tộc thì tùy vào những đặc điểm tính cách mỗi dân tộc đều có
nhửng bản sắc riêng. Tư tưởng Nho ở một số nước, tùy theo đặc điểm văn hóa dân tộc mà ưu
tiên một số phạm trù khác nhau. Sự ưu tiên đó, “ở Trung Quốc là nhân, ở Nhật Bản là
Trung, còn ở Việt Nam là Nghĩa” [51, 40]. Những khái niệm của Nho thường được các nhà
nho Việt Nam khai thác và sử dụng theo cách riêng của mình. Những quan niệm hạt nhân
của Nho giáo vào Việt Nam đã "được uốn nắn về khuôn khổ, nới rộng về kích thước để bao
hàm những nội dung ít nhiều phù hợp với việc lý giải những vấn đề thực tiễn dân tộc" [68,
600]. Đây là cách giải thích mang màu sắc của tinh thần dân tộc nhưng đã nói lên được cốt
lõi của vấn đề. Nó giải thích sự kết hợp tinh hoa Nho học và truyền thống dân tộc.
Từ đó nó giúp ta nhận thức được bản chất quan niệm nhân nghĩa đã thâm nhập vào
truyền thống dân tộc như thế nào. Quan niệm nhân nghĩa vào nước ta đã được vận dụng
trong hoàn cảnh mới. “Nhận thức việc nhân nghĩa cốt ở yên dân"... đã mở rộng, sửa đổi và
do đó đã nâng cao khái niệm về chữ “nhân” của Khổng và chữ nghĩa của Mạnh, để phục vụ
đắc lực cho phong trào dân tộc có tính nhân dân hồi đầu thế kỷ XV” [68, 660-601]. Nguyễn
Trãi xem tư tưởng nhân nghĩa là cơ sở, từ đại nghĩa sẽ dẫn đến chí nhân. Nghĩa ở đây được
nhà Việt Nho Nguyễn Trãi khái quát thành mệnh đề lớn: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”
(“Bình Ngô đại cáo”). Quan niệm đó không nhằm mở rộng phạm vi bành trướng đối với các
nước khác mà nó kết tinh những phẩm chất cao quý của dân tộc. Nội dung quan điểm này lần
đầu tiên trở thành một tiêu chuẩn thẩm mỹ, tiêu chuẩn thẩm định giá trị nhân cách của nhà
nho nước Việt. Nó còn là cảm hứng nổi bật cho rất nhiều sáng tác thi ca giữa thế kỷ XIV –
giữa thế kỷ XV.
Bên cạnh thơ, cảm hứng về đạo lý đặc biệt rõ nét trong văn phú thời gian này. Những
tác phẩm phú trong thời gian này như "Thiên thu giám phú" (Phạm Mại), "Cảnh tinh phú"
(Đào Sư Tích), "Diệp mã nhi phú" (Nguyễn Phi Khanh), "Cần Chính lâu phú" (Nguyễn
Pháp), "Xuân đài phú" (Lý Tử Tấn), "Tam ích hiên phú" (Nguyễn Thiên Túng), "Kê minh
phú" (Lý Tử Cấu)... đều quan tâm đến đạo lý. Các bài phú này thường được viết trên cơ sở
cảm hứng đạo lý, cảm hứng về những nội dung Nho giáo với những biến chuyển linh hoạt
của nó, qua đó có thể hiểu thêm về cảm hứng đạo lý của các nhà nho. Qua các bài phú ta
thấy rõ hơn không khí Nho học đã tràn vào văn học rất mạnh mẽ. Các tác giả những bài phú
này đồng thời cũng là tác giả của nhiều bài thơ Nho. (Nếu so sánh với thơ, phú có nhiều ưu
thế để chuyển tải đạo lý hơn).
Trong mạch cảm hứng đó, Nguyễn Trãi ảnh hưởng tư tưởng Nho khá đậm nét. Nhiều từ
ngữ, điển tích có nguồn gốc Nho đã được sử dụng. Nhưng có thể nói, đó là dạng Nho học có
ý thức độc lập dân tộc, yêu nước, dẹp yên giặc Bắc bảo vệ nước Nam:
“Vệ Nam mãi mãi ra tay thước
Điện Bắc đà đà yên phận tiên”
(Bảo kính cảnh giới, 56 - Nguyễn Trãi) [123, 457]
Tư tưởng này được nhiều thế hệ xem là phương châm. Bùi Duy Tân cho bài thơ trên
xứng đáng là “quan niệm văn chương Việt Nho” [144, 20]. Tư tưởng đó được nhiều nhà nho
mang theo cả đời cùng với lòng yêu nước sâu đậm trong thi ca. Chỉ có thơ ca mới chia sẻ hết
những tâm sự, cảm xúc đó. Có thể xem lòng ưu ái với nước với dân, với cuộc đời là cảm
hứng đặc trưng – chủ đạo của thơ Nho. Lòng ưu ái với nước với dân đặc biệt nổi bật, mạnh
mẽ và đầy niềm hy vọng ở thế kỷ XIV – XV.
Thơ Nho là nhạc của tình cảm đồng thời là phương thức để nuôi dưỡng hoài bão.
Cũng vì thế, thơ Nho cũng là con đường, là phương tiện để gợi lên chí khí, nuôi dưỡng chí
khí:
“Chữ học ngày xưa quên hết dạng,
Chẳng quên có một chữ cương thường”
(Tự thán, 12 - Nguyễn Trãi) [123, 423]
Hai câu thơ đã nói được cái cốt lõi, tinh hoa của Nho giáo đọng lại trong tâm hồn kẻ sĩ
quân tử. Cảm hứng đó rất sâu sắc, nó đã bắt rễ vào tâm hồn dân tộc. Cảm hứng đạo lý Nho
học được Việt hoá thành cách nói mang đậm màu sắc Việt hơn là kinh điển Trung Quốc:
“Khó bền, mới phải người quân tử
Mạnh gắng, thì nên kẻ trượng phu”
(Trần tình – Nguyễn Trãi) [123, 410]
Người quân tử (trượng phu) ở đây trang trọng, nghiêm túc với lý tưởng cao đẹp. Bền chí
để giữ vững cốt cách vẫn là suy nghĩ của muôn đời của họ. Ở thơ Nho giữa thế XIV – giữa
thế kỷ XV, niềm tin vào đạo lý vô cùng mạnh mẽ. Đó là thái độ của Chu An, Đặng Dung,
Nguyễn Trãi... Nho sĩ đến với “đạo” bằng tâm hồn trong trẻo không phân vân. Nó là nền
tảng của “tư văn” của đất Việt mà các thế hệ nho sĩ muốn lưu truyền mãi mãi.
Sau này, hoàn cảnh xã hội làm cho thơ Nho không còn niềm tin đó hoặc niềm tin bị
giảm sút. Có khi niềm tin vẫn còn nhưng lại hướng về một cấu trúc Nho học đã có nhiều thay
đổi. Niềm tin của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan tuy mạnh mẽ nhưng không mãnh
liệt, tinh khôi như thời gian này.
Trước thế kỷ XIV, tư tưởng Nho tuy đã được sử dụng nhưng giới trí thức vẫn chưa phải
là nhất trí. Thiền sư Cứu Chỉ lúc trẻ đã nhận xét “Khổng Mặc chấp có (hữu)" [112, 307] và
vì thế đã chìm đắm trong “cái có” (Hữu). “Hữu” ở đây được dùng như một phạm trù triết
học. Sau thế kỷ XV, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nhận xét: “Đời nay nhân nghĩa tựa vàng mười"
(Thơ Nôm, bài 74). Cả trước thế kỷ XIV và sau thế kỷ XV niềm tin của người nho sĩ vào
Nho giáo tuỳ vào từng tác giả, từng hoàn cảnh mà có sự thay đổi khác nhau. Trong thời gian
từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV, niềm tin của người nho sĩ vào Nho giáo đang rất
mạnh.
Giữa thế kỷ XV về sau, lần đầu tiên, từ chương đã phát triển mạnh và trở thành một
quốc nạn. Đến giữa niên hiệu Hồng Đức, xuất hiện quan niệm chuộng “văn chương bóng
bẩy” (“Kiến văn tiểu lục” - Tài phẩm) [32, 300]. Phan Huy Chú đã phải chua xót nhận xét về
đặc điểm nhận thức của giới trí thức Nho học: “Kém phần thiết thực, chuộng phù hoa, bỏ
gốc theo ngọn… so với tăng sĩ và đạo sĩ cũng còn kém, huống gì phát huy được đạo thánh”
(Lịch triều hiến chương loại chí – Khoa mục chí). Tác giả đã cho thấy ý thức về sự khác biệt
của những dòng thơ cũng như cho thấy đặc điểm thơ văn từ giữa thế kỷ XV về sau. Đây
cũng là một tài liệu để so sánh thơ Nho nửa đầu và nửa cuối thế kỷ XV.
Nửa sau thế kỷ XV, Lê Thánh Tông là một vị vua quan tâm nhiều đến đời sống của
nhân dân nhưng bị chi phối bởi quan điểm văn nghệ cung đình, nhiều khi đi quá đà đến nên
đi đến hiện tượng khuôn sáo. Từ đây xuất hiện một bộ phận sử dụng thơ như công cụ ca ngợi
nhà vua. Thơ ca thời này cũng có những thành tựu đáng kể nhưng cũng có một bộ phận thơ
ca mang tính khuôn sáo, giá trị nghệ thuật chưa cao.
Thời Lê Thánh Tông, thơ của nhà vua và Hội Tao Đàn có khuynh hướng khẳng định
nhà nước, chính quyền phong kiến. Tuy Lê Thánh Tông có lưu ý đến thơ quốc âm nhưng các
bài thơ xướng họa của ông và thành viên trong hội Tao Đàn đã có sự ảnh hưởng của Lý học
khá sâu đậm. Lý học ảnh hưởng đến thơ ca ở đây tạo nên một cốt cách riêng, không phải
hoàn toàn tiêu cực.
Thế kỷ XVI về sau thể chế tập quyền sụp đổ, giai cấp thống trị có hiện tượng sa đọa
nhân cách, Nho giáo không còn được tôn sùng và không có hiệu lực mạnh mẽ nữa. Cũng vì
thế, cảm hứng và thái độ của thơ nhà nho với đạo lý, đối với tư tưởng nhân nghĩa đã có màu
sắc khác hơn. Sự rạn nứt từng bước về mặt ý thức hệ là nguyên nhân mở đầu cho những tư
tưởng phi Nho đi dần vào văn học. Điều đó thể hiện ở những sáng tác của các nho sĩ ẩn dật
và truyện Nôm.
Ngay những thời gian buổi đầu khi Nho giáo độc tôn, niềm tin vào đạo lý Nho giáo vô
cùng mạnh mẽ. So sánh Nguyễn Trãi với Nguyễn Bỉnh Khiêm thì thấy "số lượng những câu
thơ khẳng định chân lý, sức mạnh trường tồn của "đạo" ở Nguyễn Bỉnh Khiêm thấp hơn hẳn
so với Nguyễn Trãi" [135, 221]. Điều đó ít nhiều đã hé mở cho ta thấy những suy nghĩ, đánh
giá và thái độ của người trí thức đương thời đối với Nho học qua hai thời điểm khác nhau.
Nếu xét ở mặt tư tưởng thì thơ Nho thế kỷ XVI tiếp tục mở rộng và làm phong phú
thêm, đào sâu thêm các cách thức suy nghĩ, các quan niệm quan trọng trong hệ thống tư
tưởng Nho giáo, dù phương diện này không còn chiếm thế độc tôn như trước. Niềm tin Nho
giáo tuy có giảm đi nhưng về mặt lý thuyết thì Nho giáo vẫn phổ biến. Về văn hóa, nó đã in
đậm và đi sâu vào diện mạo văn hóa dân tộc.
Thơ Nho thế kỷ XVI -XVII phản ánh ý thức mới so với các thế kỷ trước về lĩnh vực
“Lý” và Lý học nói chung, trình độ nhận thức về Lý đã nhuần nhuyễn hơn - “Át lòng dục
hiện lẽ trời” (Ham muốn người trần lặng đi thì lý trời hiện ra) (Miễn học giả – Phùng Khắc
Khoan”), “Biết phân biệt rõ lý với dục thì bước lên cõi minh triết, hưởng thọ cao niên” (Tự
cảnh - Vũ Thanh) [148, 1135]. Tuy vậy, sự giảm sút niềm tin, sự khủng hoảng xã hội đã làm
cho vai trò của của Nho học bắt đầu có dấu hiệu chuyển biến. Để rồi những thế kỷ sau đó,
trào lưu nhân đạo chủ nghĩa dần dần hình thành và những tác phẩm của những nhà nho tài tử
trở nên thịnh hành.
Cảm hứng đạo lý được quan tâm nhiều trong thơ Nho. Các tác giả nhà nho quân tử đã
thể hiện cảm hứng này khá phong phú trong sáng tác. Đạo lý ở đây có gốc là Nho nhưng là
một kiểu Nho có phong cách Việt.
Ở thơ Nho giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV, tình yêu nước thống nhất với đạo lý.
Cảm hứng và niềm tin vào đạo lý rất cao, tiêu biểu nhất là thơ Nho hành đạo. Thơ Nho đã tỏ
ra xứng đáng với những thế hệ nhà nho hành đạo tiêu biểu nhất của làng nho Việt Nam. Thơ
Nho Việt Nam giữa hế kỷ XIV – giữa thế kỷ XV còn là tinh hoa của mẫu nhà Nho hành đạo.
Tinh thần dân tộc, cảm hứng dân tộc mạnh mẽ đã biến tư tưởng Nho thành thành đạo lý
Nho học qua sự tiếp biến của người Việt. “Đạo" trong văn học từ giữa thế kỷ XIV - giữa thế
kỷ XV rõ ràng không có sự rập khuôn máy móc mà là đạo lý Nho nhưng thích ứng với tinh
2.5. CẢM HỨNG THẾ SỰ VÀ TRÁCH NHIỆM
thần dân tộc.
Không chỉ có cảm hứng yêu nước, cảm hứng đạo lý mà cảm hứng thế sự và trách nhiệm
cũng là điểm nổi bật của thơ Nho giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV. Từ tình yêu cuộc
sống, yêu cái đẹp các tác giả thơ Nho thấm nhuần tư tưởng Nho giáo một cách nhiệt tình.
Cảm hứng thế sự và trách nhiệm đi vào nhiều phương diện nội dung tác phẩm thơ Nho và
góp phần làm nên bản sắc thơ Nho.
Nhà thơ Nho về cơ bản chủ trương nhập thế, nhận thức thời cuộc, xây dựng xã hội. Đời
sống bất ổn của quần chúng đánh thức tinh thần trách nhiệm của nhà nho, họ lao vào, dấn
thân hành động. Họ là động lực xã hội, đóng góp nhiều cho định hướng xã hội nhưng không
ít trường hợp họ phải chứng kiến nghịch lý, những hiện tượng tiêu cực hay bi kịch. Dù sao,
đây cũng là động lực cho cảm hứng hiện thực, nguồn gốc cho chất hiện thực trữ tình trong
thơ Nho.
Cảm hứng thế sự phản ánh mối quan hệ giữa thẩm mỹ và hiện thực. Cảm hứng hiện
thực trong thơ Nho đi từ cái “chân”, cái “thiện” đến cái “bi”, cái “hùng” trong thơ. Tác giả
Trần Đình Hượu trong “Nho giáo và văn học Trung cận đại” đã dành nhiều tâm huyết
nghiên cứu vấn đề: “Thực tại, cái thực và vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt
Nam Trung cận đại” [61, 414 – 499]. Ông đã xác định thơ ảnh hưởng Nho giáo thì “ngổn
ngang những yếu tố, những khuynh hướng hiện thực” [61, 415]. Trần Nho Thìn tiếp tục
hướng nghiên cứu trên với vấn đề “Phản ánh cuộc sống xã hội trong văn chương nhà nho:
công thức và sáng tạo” (Văn học Trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa) [153, 110 –
124].
Từ rất xa xưa, trong “Toàn Đường thi” (bài 10, quyển 784) [194] còn ghi lại một bài
thơ của một Cử nhân An Nam vào năm 860 (trên một thế kỷ đối với thời Lý). Bài thơ diễn tả
nỗi nhục mất nước và việc quan lại phương Bắc đô hộ vô trách nhiệm để cho quân Nam
Chiếu đánh phá, tràn ngập. Những câu đầu của bài thơ là “Người ta đã làm cho xứ Giao Chỉ
tôi thật là nhục nhã” (Trí ngã Giao Chỉ nhục) [131, 326-327]. Trong ba, bốn năm liền:
“Quan duy mãn thiên hạ
Chiến tướng đa kim ngọc
Quát đắc tề dân sang…”
(Quân đóng khắp nơi
Tướng thu nhiều vàng ngọc
Bóc lột khiến dân đau khổ…)
Đây có thể là bài thơ mở đầu truyền thống cho cảm hứng thế sự và trách nhiệm trong
thơ Nho. Rất tiếc là những bài như thế này không còn nhiều!
Thơ ca Việt Nam từ nửa sau thế kỷ XIV không thoát ly hiện thực mà quan tâm đến
thực trạng xã hội. Đã xuất hiện “việc miêu tả những cảnh tượng phản xã hội” [125, 172]. Sự
thay đổi về đề tài, thi pháp, cái nhìn… giữa thơ Thiền và thơ Nho phản ánh ở cảm hứng thế
sự trong thơ Nho. Nhiều nhà nho đã thao thức với tình cảnh người dân và vận mệnh đất
nước. Nhà Nho Chu An nhìn hiện thực bằng thái độ quyết liệt để đi đến “Thất trảm sớ” và
hành động từ quan. Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh… đã tiếp tục tinh thần này trong
cuộc đời và thơ văn.
Nguyễn Phi Khanh đã tái hiện khung cảnh chân thực:
“Vạn tính ngao ngao đãi bộ cầu
Thùy gia kim ngọc á cao khâu!”
(Hàng nghìn người đang chờ cơm ăn áo mặc
Còn ở đó vàng bạc của cải chất cao như núi)
(Hồng Chu Kiểm Chính dĩ du vận…)
(Nguyễn Phi Khanh) [178, 173]
Tương tự Trần Nguyên Đán, Chu Đường Anh cũng dùng mối quan hệ thi – họa (thi
trung hữu họa) để hướng sự chú ý đến những cảnh trái ngược trong xã hội. Vì thế đó cũng là
bức tranh rất chân thực: “Đề Đường Minh Hoàng dục mã đồ”. Bài thơ cũng phản ánh thái độ
bất bình trước cảnh tượng một xã hội đang đi dần vào khủng hoảng. Bài thơ này cũng cho
thấy biểu hiện của sự xa rời nhân dân, và cũng vì thế kéo theo sự thay đổi triều đại.
Với tinh thần nhân văn cổ điển, thơ Nho tập trung vào thế sự, thế sự là cảm hứng, là
điểm xuất phát của thơ Nho. Lê Quát trong bài “Thư hoài” đã thốt lên: “Niên lai thế sự dĩ
tâm vi” (Bấy lâu thế sự trái lòng ta) [123,138]. Thế sự hỗn loạn, kèm theo những cảnh hạn
hán, lụt lội… “Niên lai hạ hạn hựu thu lâm” (Mấy năm liền mùa hè bị hạn, mùa thu thì lụt)
(Nhâm Dần lục nguyệt tác) (Trần Nguyên Đán) [123, 208]. Thiên tai có liên hệ đến chính sự
trong mối quan hệ thiên thời - nhân hòa theo quan niệm nhà nho. Qua đó, ông nghiêm túc
phê phán xã hội. Lúc này, Chu An, Lê Quát, Phạm Sư Mạnh… đã có nhiều cố gắng trong sự
nghiệp cải cách. Bên cạnh thơ ca, các tác giả nhà nho còn trực tiếp hành động hết mình vì
dân và nước.
Trần Nguyên Đán đặc biệt quan tâm đến thời cuộc cũng như quan tâm đến thế hệ nho sĩ
trẻ. Ông có vai trò quan trọng trong việc tổ chức kỳ thi Tiến sĩ đầu tiên ở nước ta năm 1374
và nhiều công việc quan trọng khác. Ông đã tìm mọi cách để cứu vãn tình trạng sụp đổ của
nhà Trần nhưng không thành công. Mọi hoạt động của ông dường như nhằm cứu vãn tình
trạng đất nước vốn vô cùng khó khăn: “Vạn quốc dân sinh phí đỉnh ngư” (Muôn dân trong
vạc nước sôi) (Dạ quy chu trung tác - Trần Nguyên Đán) [178, 210]. Đến Nguyễn Phi
Khanh, tình trạng đó mỗi ngày một kém hơn. Cái nóng trong vạc sôi lại chuyển sang cái rét
buốt: “Tị ốc thùy gia diện diện hàn” (Nhà ai đó chen chúc khuôn mặt nào cũng rét buốt (Thù
Đạo Khê Thái học Xuân hàn vận) [178, 465]. Hình ảnh người dân khá rõ nét trong thơ với
những đói khổ, rét mướt. Những biểu hiện đó đã không dễ mờ đi đối với mối quan tâm
thường trực của lòng yêu nước ái dân.
Hiện thực như một thuộc tính tất yếu của văn học. Nhưng phản ánh hiện thực không
phải là ưu thế của thơ Nho. Thơ nho vẫn chỉ là những mối xót thương hay xúc cảm theo kiểu
nhà nho. Tuy vậy, đôi khi những lời ao ước tuy xa xôi trong thơ lại có ý nghĩa phản ánh hiện
thực:
“Nguyện bằng thiên thượng thanh quang dạ
Biến chiếu nhân gian tật khổ sầu”
(Xin nhờ Thượng giới đêm trong sáng
Soi thấu nhân gian nỗi khổ sầu)
(Đào Phương Bình dịch) [178, 714]
Nỗi sầu ở đây chủ yếu là thái độ xã hội hơn là nỗi phiền não trần thế mà Phật gia hay
nhắc đến. Thái độ đó gắn liền với ý chí mạnh mẽ và hành động mạnh mẽ, cương kiện. Có
khi, chí hướng và hành động cao đẹp gặp nhiều trở lực và không thực hiện được nhưng vẫn
đủ để nhà nho quân tử bày tỏ tấm lòng và thể hiện khí tiết cao thượng, hào hùng.
Đầu thế kỷ XV là thời kỳ ổn định và phát triển của thơ Nho. Nguyễn Trãi và các nho sĩ
cùng thế hệ đối diện một hiện thực mới với tâm sự ngổn ngang. Trước tình trạng phe đảng,
phụ bạc, Nguyễn Trãi không thể thực hiện thành công những ước mơ nhân văn trong việc
xây dựng đất nước. Ngược lại ông bị đẩy dần vào bi kịch. Trong hoàn cảnh như vậy, “thế sự”
là tâm sự lớn của Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi viết: “Thế sự bất tri hà nhật liễu” (Việc đời
không biết ngày nào xong) (Mạn thành, 1). Tâm sự đó in đậm dấu ấn lên những trang viết
sau thời điểm sáng tác “Bình Ngô đại cáo”. Nhiều nhà thơ khác cùng thời vẫn sáng tác bằng
cảm hứng hiện thực. Họ sáng tác thi ca với những tâm sự ưu tư, sầu muộn.
Tuy nhiên cảm hứng thế sự trong thơ Nho cũng giới hạn ở một chừng mực. Vì thế, nó
không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Thơ Nho không có được những thế mạnh như thơ
hiện đại. Các nhà thơ Nho “nhìn cuộc sống xã hội như một “thực tại chính sự” đã trở thành
một thứ công thức, khuôn mẫu của văn chương nhà nho” [153, 111]. Vì vậy, vấn đề phản
ánh thực tại trong thơ Nho có khi mang màu sắc công thức, chủ quan, không giống với chủ
nghĩa hiện thực trong văn học như ngày nay.
So với thơ Thiền, cảm hứng thế sự và trách nhiệm trong thơ Nho khác với cảm hứng bản
thể, cảm hứng giải thoát. Thơ Nho được thể hiện với cảm hứng thế sự và trách nhiệm qua cái
nhìn nho sĩ. Cảm hứng yêu nước, đạo lý, thế sự - trách nhiệm là đặc điểm cảm hứng chủ đạo
thơ Nho giữa thế kỷ XIV – giữa thế kỷ XV. Đặc điểm đó có thể giúp ta phân biệt với thơ
Nho sau này. Cảm hứng chủ đạo của một thế kỷ thơ này đi từ cảm hứng yêu nước, tự hào
dân tộc, cảm hứng đạo lý, cảm hứng thiên nhiên đến cảm hứng thời thế, cảm hứng thân thế.
Tiểu kết: Đặc điểm thơ Nho về mặt nội dung thể hiện qua những vấn đề về cảm hứng
chủ đạo, đề tài cho đến cái tôi trữ tình trong thơ Nho từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV.
Những cảm hứng chủ đạo trong thơ Nho thời gian này có thể kể đến cảm hứng yêu nước,
cảm hứng thân dân, cảm hứng nhân văn, cảm hứng đạo lý với những sắc thái riêng của thơ
Nho. Có thể so sánh những khác biệt của thơ Nho thời gian này với thơ Nho trước cũng như
sau đó. Khi so sánh có thể nhận thấy sự khác biệt không chỉ biểu hiện ở nội dung mà còn ở
phương diện nghệ thuật.
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN THI PHÁP CỦA THƠ
NHO VIỆT NAM GIỮA THẾ KỶ XIV ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XV
Để tìm hiểu về đặc điểm nghệ thuật thơ Nho giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV, ta có
thể xét thơ Nho ở một số phương diện như thể thơ, giọng điệu, hình tượng nhà nho trong thơ,
3.1. THỂ THƠ
không gian - thời gian...
Trước hết đó là sự tổ chức ngôn ngữ. Thể được người xưa xem như là là cơ thể, thể xác,
sự thể hiện, là khuynh hướng phong cách. Trong kết cấu đó, người ta thường chú trọng đến
kết cấu âm thanh của câu thơ, khổ thơ, bài thơ. Thơ thường được ngâm vịnh như là phương
thức xây dựng, tổ chức thanh điệu nhằm mục đích bày tỏ tâm tình, chí hướng. Đối với thơ
Nho, thể cách vần luật làm cho thanh điệu thống nhất. Thể thơ được sử dụng trong thơ Nho
giai đoạn này có cơ sở và đặc điểm riêng.
Thể thơ chịu ảnh hưởng của tư tưởng và tinh thần thời đại. Tình cảm, tâm lý xã hội đã
tác động đến cảm nhận tác phẩm nghệ thuật. Các thể thơ nước ta hơn một thế kỷ này cũng
chịu sự tác động của văn hóa – xã hội Nho giáo và không khí thời đại.
Thơ Nho ở Việt Nam sử dụng nhiều thể khác nhau như những thể thơ có nguồn gốc
Trung Quốc, những thể thơ của dân tộc. Tất cả những thể đều có cơ sở lịch sử văn hóa riêng
và tạo thành hệ thống thơ ca. Mỗi thể có một số đặc điểm, chức năng riêng, trong sự vận
động của dòng thơ. Trước hết, mỗi thể thơ được giới nho sĩ sử dụng đều có một cơ sở văn
hóa riêng.
Thể thơ quan trọng nhất vẫn là Đường luật (Luật thi) có nguồn gốc từ Trung Quốc (gồm
thất ngôn - ngũ ngôn bát cú, tứ tuyệt). Nhưng Đường luật trong thơ các nhà nho nước ta là
kiểu Đường luật khá phóng khoáng, “trong thơ Đường, người làm thơ phải theo thanh âm và
văn bộ của vần, trong thơ ta (dù theo Đường luật) cũng chỉ cần theo thanh âm của vần là
được, do đó có rộng rãi hơn” [114, 154]. Hơn nữa theo điệu ngâm và ngữ âm tiếng việt nên
hiện tượng “bất luận” ở các vị trí 1, 3, 5 trong câu 7 chữ được khai thác triệt để. Nhịp thơ ta
(thường là nhịp 3 - 4) cũng có những cách ngắt không hoàn toàn theo thơ Trung Quốc. Các
thể thơ được các nho sĩ thế kỷ XIV – XV sử dụng có sự can thiệp sâu sắc của Nho giáo.
Với ý thức dân tộc, các nhà nho đã tạo ra Hàn luật, Việt hóa Đường luật để dùng cho thơ
Nôm. Càng ngày, Hàn luật được sử dụng phong phú, nhất là vào cuối thế kỷ XV về sau. Từ
thế kỷ XIV – XV Nguyễn Trãi đã có ý thức cách tân thể loại. So với thơ Đường ở Trung
Quốc, thơ Đường ở ta tương đối đầy đủ về ngữ âm... So với thơ Đường ở Nhật thì thơ
Đường ở có ưu thế hơn. Thơ Nho giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV ở nước ta ít sử dụng
các dạng biến thể của thơ Đường luật.
Ý thức nghi lễ và sự phát triển ý thức hoa mỹ khiến cho các nhà thơ đời Trần – Lê thích
thơ Bát cú. Thơ Bát cú tuân thủ niêm luật chặt chẽ, chuẩn mực và hơn nữa thi nhân thích nó
vì phù hợp với tính cách nhà nho. Lê Quý Đôn nhận định: “Cận thể chuộng ở thanh cao tươi
đẹp” (Nói về thể lệ biên soạn “Toàn Việt thi lục”). Ở thể thơ này, các nho sĩ đã để lại nhiều
thành công. Khác với trước đó, thơ Tứ tuyệt được dùng nhiều. Đời Lý thường dùng thơ tứ
tuyệt có thể vì nó ngắn gọn, ảnh hưởng phương thức tư duy và phương pháp sáng tác của thơ
Thiền (độ nghiêm nhặt về thanh luật ở Tứ tuyệt trong “Kệ” chưa đến mức cao độ như thơ
Bát cú).
Tuy nhiên, thơ Thất ngôn bát cú ở đây một phần đã có thay đổi cho phù hợp với ngữ âm
của người Việt. Nếu khảo sát một số bài thơ Nho có thể thấy bên cạnh những bài giữ nguyên
các bộ vần Trung Quốc ta còn có những bài đã phá vỡ khuôn mẫu ấy:
Những qui định về vần của thơ Trung Quốc được qui định khá khắc khe, thống nhất. Nó
được ghi lại trong các sách như "Quảng vận", "Đường vận", " Bình thủy vận", “Bội văn vận
phủ”…. Ở đây chúng tôi căn cứ vào sách "Quảng vận" trực tuyến (có tham khảo " Bình thủy
vận" trực tuyến) tại:
http://tool.httpcn.com/Html/Zi/23/PWPWUYXVAZUYXVKOIL.shtml
Căn cứ theo "Quảng vận", một số bài thơ Nho Việt Nam từ giữa thế kỷ XIV – giữa thế
kỷ XV có một số cách gieo vần khác nhau.
Một số bài như “Miết trì” (Chu An) [09, 164-165] có các vần được xếp theo một bộ vần
: 上平 8 微 (Thượng bình bát vi). Bài “Ký hữu” (Nguyễn Trãi) [09, 343-344] có các vần
được xếp theo một bộ vần: 上平 1東 (Thượng bình nhất đông)...
Nhưng những trường hợp khác, bài “Giang đình tác” (Chu An) [09, 162-163] có các
vần được xếp theo các bộ vần như sau:
“Giang đình độc lập sổ qui châu,
Phong cấp than tiền nhất địch thu
Tà nhật ngâm tàn hồng đạm đạm,
Mộ thiên vọng đoạn bích du du
Công danh dĩ lạc hoang đường mộng,
Hồ hải liêu vi hãn mạn du
Tự khứ tự lai hồn bất quản,
Thương ba vạn khoảnh tiện phi âu"
舟 Châu: (平 Hạ bình 18 尤 vưu)
秋 thu: (平Hạ bình 18 尤 vưu)
悠 du: (Hạ bình 18 尤 vưu)
遊 du: (Hạ bình 18 尤 vưu)
鷗 âu: (Hạ bình 19 侯 hầu).
Bài thơ này có 4 vần thuộc một bộ vần, 1 vần thuộc bộ vần khác.
Bài “Sơ hạ” (Chu An) [09, 165-166] có các vần được xếp theo các bộ vần như sau:
"Sơn vũ liêu liêu trú mộng hồi,
Nộn lương nhất tuyến khởi đình hòe
Yến tầm cố lũ y tương khứ,
Thiền yết tân thanh lục tục lai,
Điểm thủy khê liên vô tục thái,
Xuất ly dã duẩn bất phàm tài.
Cứ ngô tỉnh cực hoàn thành lãn,
Án thượng tàn thư phong tự khai"
回 hồi: (上平Thượng bình 15 灰 khôi)
槐 hòe: (上平Thượng bình 14皆 giai)
來 lai: (上平Thượng bình 16 咍 hải)
才tài: (上平 Thượng bình 16 咍 hải)
開 khai: (上平 Thượng bình 16 咍 hải).
Bài thơ này có 3 vần thuộc một bộ vần, 2 vần thuộc bộ vần khác.
Bài “Xuân đán” (Chu An) [09, 166-167] có các vần được xếp theo các bộ vần như sau:
“Tịch mịch sơn gia trấn nhật hàn,
Trúc phi tà ủng hộ khinh hàn.
Bích mê thảo sắc thiên như túy
Hồng thấp hoa sao lộ vị can.
Thân dữ cô vân trường luyến tụ,
Tâm đồng cổ tỉnh nhất sinh lan.
Bách huân bán lãnh trà yên yết
Khê điểu nhất thanh xuân mộng tàn”
閒 nhàn: (上平 Thượng bình 28 山 sơn)
寒 hàn: (上平 Thượng bình 25 寒 hàn)
乾 can: (上平 Thượng bình 25 寒 hàn)
瀾 lan: (上平 Thượng bình 25 寒 hàn)
殘 tàn: (上平 Thượng bình 25 寒 hàn).
Bài thơ này có 4 vần thuộc một bộ vần, 1 vần thuộc bộ vần khác.
Bài “Cảm hoài” (Đặng Dung) [09, 245-246] có các vần được xếp theo các bộ vần như
sau:
“Thế sự du du nại lão hà,
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
Thời lai đồ điếu thành công dị
Sự khứ anh hùng ẩm hận đa.
Trí chủ hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỷ độ long tuyền đái nguyệt ma "
何 hà: (下 平 Hạ bình, 7 歌 thất ca)
歌 ca: (下 平 Hạ bình, 7 歌 thất ca)
多 đa: (下 平 Hạ bình, 7歌 thất ca)
河 hà: (下 平 Hạ bình, 7 歌 thất ca)
磨 ma: (下 平 Hạ bình, 8 戈 bát qua).
Bài thơ này có 4 vần thuộc một bộ vần, 1 vần thuộc bộ vần khác.
Bài “Hàm Tử quan” (Nguyễn Mộng Tuân) [(09, 401-402] có các vần được xếp theo các
bộ vần như sau:
“Thành bại nguyên lai bản nhất quan,
Thời nhân mạc bả lưỡng ban khan.
Trần gia Thượng tướng chân long chủng,
Hồ thị Thiêm văn thị thử can.
Thung mộc mai hà xuân thảo lục,
Độc khâu khiếu nguyệt dạ triều hàn.
Ngư chu na quản hưng vong sự
Túy ngọa bồng song quải điếu can.”
關 quan: 上平 27刪 (Thượng bình, nhị thập thất san)
看 khan: 上平 25寒 (Thượng bình, nhị thập ngũ hàn)
肝 can: 上平 25 寒 (Thượng bình, nhị thập ngũ hàn)
寒 hàn: 上平 25 寒 (Thượng bình, nhị thập ngũ hàn)
竿 can: 上平 25 寒 (Thượng bình, nhị thập ngũ hàn).
Bài thơ có 4 vần thuộc một bộ vần, 1 vần thuộc bộ vần khác.
Đến những bài thơ của các tác giả khác thì tình hình sử dụng vần trong thơ cũng tương
tự. Các tác giả khác trong thời gian giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV vẫn thường sử dụng
vần trong thơ khá linh hoạt, không nhất thiệt sao chép hệt các bộ vần như ở Trung Quốc.
Qua các ví dụ trên ta có thể thấy thơ Nho Việt Nam có cách gieo vần không hoàn toàn
theo cách của người Trung Quốc. Yếu tố Việt đã thể hiện khá đậm trong thể loại thơ Nho.
Điều đó cũng tùy thuộc vào đặc điểm ngôn ngữ dân tộc, đặc điểm ngữ âm , cá tính của người
Việt.
Đến thế kỷ XV tỷ lệ thơ tứ tuyệt giảm xuống và thơ thất ngôn bát cú tăng lên. Thống kê
tỷ lệ thể loại được sử dụng thì: “Tỷ lệ thơ tứ tuyệt chỉ còn 12/105 bài thơ chữ Hán ở “Ức
Trai thi tập”, 45/254 bài thơ chữ Nôm ở “Quốc âm thi tập” [12, 41]. Tỷ lệ này cho thấy sự
thay đổi tư tưởng nghệ thuật kéo theo sự thay đổi trong việc lựa chọn thể loại. Nó cũng phù
hợp với sự lên ngôi của thơ Nho.
Hiện tượng đối nhau trong thơ Nho làm “Thanh âm có phù có trầm” (“Văn tâm điêu
long”). Theo “Chu Tử ngữ loại” (Chu Hy) thì “hai vật đối nhau nên có văn, nếu xa rời nhau
thì không thành văn” [83, 326]. Phép đối vì thế tiêu biểu cho qui luật nhất trí của đạo Lưỡng
nghi…
Số câu 8, 4 (bát, tứ), số chữ 7, 5 (thất, ngũ) thuộc phạm trù mỹ học cơ bản là “Phạm trù
Số”. Theo “Chu Dịch bản nghĩa” (Chu Hy): số 7 thuộc “dương” – “trẻ” gặp gỡ số 8 thuộc
“âm” – “trẻ” cho nên thất ngôn bát cú có tính ổn định cao, tần số xuất hiện cao.
Thể thơ Thất ngôn pha lục ngôn được Nguyễn Trãi sử dụng có nhiều thành tựu. "Dưới
công danh nhiều thác cả; Trong ẩn dật có cơ mầu" ("Bảo kính cảnh giới, 32") (Nguyễn
Trãi). Có thể nói đây là một thử nghiệm, Việt hóa thể cách, từng bước tiến tới xây dựng thể
thơ dân tộc (cùng với Lục bát, Truyện thơ…).
Thơ sáu chữ ít được sử dụng nhưng thời gian này vẫn thấy một số trường hợp. Nó đã thể
hiện sự sáng tạo của một số nhà nho. Phạm Mại đã có sáng tạo khi sử dụng thơ sáu chữ:
"Nhàn cư lục ngôn đề thủy mặc trướng tử tiểu canh":
"Hồng thụ nhất khê lưu thủy
Thanh sơn thiên lý tà dương
Dục hoán biển chu quy khứ
Thử sinh vị bốc hành tàng"
(Lá thắm một dòng suối chảy.
Non xanh nghìn dặm bóng tà
Muốn gọi con thuyền về ẩn,
"Hành tàng" ta bói chưa ra")
(Tuấn Nghi dịch) [178, 837]
Trần Ngạc cũng dùng thơ ngũ ngôn xen lẫn lục ngôn khá đặc biệt trong thơ Nho. Dạng
thức này đã xuất hiện bài "Tặng Tư đồ Nguyên Đán". Bài thơ này có bốn câu:
"Ngã thị niên khí vật,
Công phi đại kỳ tài,
Hội thủ nhất ban lão bệnh,
Điền viên tảo biện qui lai"
(Tôi nay vào hạng vất đi rồi,
Ông chẳng thế gian bậc kỳ tài.
Cùng bọn già nua suy yếu cả,
Điền viên sớm liệu thoát về thôi)
(Bản dịch "Đại Việt sử ký toàn thư") [178, 296]
Lục Thời Ung đời Tống có bàn đến Lục ngôn trong "Thi kinh tổng luận": "Lục ngôn
cam nhi mị" (Thể lục ngôn nghe thích và đẹp); nhưng Lục ngôn của thơ Việt có phong cách
riêng.
Bàn luận về hệ thống thể loại đến giữa thế kỷ XV còn phải kể đến một số tập truyện thơ
như truyện thơ Vương Tường (gồm những bài thơ Đường nối nhau như một thử nghiệm mở
đầu thể Truyện thơ, “Hương miết hành” (chữ Hán) (Ca hành trường thiên cổ phong). Thể Từ
khúc được sử dụng khiêm tốn trong thời gian giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV- thời kỳ
đi đến toàn thịnh của Nho giáo. Riêng bài “Thủ vĩ ngâm” (“Quốc âm thi tập”) ảnh hưởng Từ
khúc khá rõ. Thời kỳ kế tiếp Từ khúc được một số nhà nho ẩn dật, tài tử sau này như Ngô
Chi Lan, Phạm Thái…. sử dụng.
Việc qui định số câu, số chữ trong thơ Nho cũng mang đậm dấu vết văn hóa Nho giáo -
nhất là thể Thất ngôn bát cú Đường luật. Hiện tượng phá cách trong thơ Việt Nho khá quan
trọng, Bao giờ việc phá cách cũng mang một ý nghĩa nhất định. Nó tồn tại khi thể loại đã
phát triển và có những biến đổi ở quan niệm sáng tác.
Thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVII, văn học chữ Hán mất dần địa vị hàng đầu, văn học
chữ Nôm, thể thơ dân tộc: Lục bát hoặc Lục bát gián cách hình thành và phát triển...
Thể cách thơ đóng vai trò quan trọng trong quá trình nghiên cứu một dòng thơ - đặc biệt
là thơ Nho. Tuy vậy, các nhà nho tỏ ra chủ yếu tập trung vào tâm tư mà xem nhẹ âm luật.
Nhà nho truyền thống thường xem nặng nội dung hơn hình thức. Họ xem “thơ là một môn
tâm học, âm luật hay dở há đáng kể ư” (Thanh tâm tồn dị tập – Trịnh Thịnh Vương) [19,
162]. Việc ưu tiên thể loại, sử dụng các thể loại khác nhau là một trong những đặc điểm của
thơ Nho qua từng giai đoạn.
Về nghệ thuật, thơ Nho giữa thế kỷ XV – XVII so với thơ Nho giữa thế kỷ XIV – giữa
thế kỷ XV vẫn cùng một phương pháp sáng tác, cùng cái nhìn, nhưng có một số chuyển biến
về thi pháp do điều kiện lịch sử và thời đại.
Thơ Nho giữa thế kỷ XIV – giữa thế kỷ XV (kể cả thơ chữ Nôm và thơ chữ Hán) đã đạt
đến mức độ khá nhuần nhuyễn, điêu luyện, đánh dấu bước phát triển của thơ ca dân tộc. Thơ
của nhiều tác giả đã có những biểu hiện thành công, có những nét sáng tạo. Về nghệ thuật,
thơ Nho đã đạt đến mức độ độc đáo, phản ánh qua phương diện con người, giọng điệu... Trên
cơ sở đó, thơ Nho sau này có thể tiếp thu và đem lại những thành tựu mới.
Nghệ thuật trong sáng tác của thơ Nho thời này có thể xem là mẫu mực. Cái đẹp của thơ
Nho theo người xưa là ở niềm tin vào cái thiện, cái đẹp trong thơ là sự trong sáng không dấu
vết đẽo gọt, cái đẹp của sự hồn nhiên. Thơ Nho về sau ít có được sự hồn nhiên đó. Những
đặc điểm nghệ thuật của thơ Nho thời gian này đã trở thành mẫu mực và tiêu biểu cho thơ
Nho Việt Nam qua các thời đại. Cơ bản, thơ Nho vẫn sử dụng thể cách ngoại nhập theo kiểu
sáng tạo, chỉ bước đầu sử dụng thể thơ pha lục ngôn như là biểu hiện của thể thơ dân tộc
nhưng chưa sử dụng rộng rãi. Thể thơ lục bát và song thất lục bát vốn mang đậm tính dân tộc
3.2. NGÔN NGỮ
và có đời sống lâu bền trong lòng thơ dân tộc thì chưa xuất hiện.
Ngôn ngữ thơ Nho là một vấn đề khá phức tạp, khá phong phú. Ở đây chúng ta chỉ chú ý
đến một số đặc điểm của ngôn ngữ thơ Nho từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV. Ngôn
ngữ thơ có vai trò to lớn đối với bản sắc thơ Nho.
Ngôn ngữ thơ Nho trước hết cần xét trong mối quan hệ giữa thơ với Nho giáo. Từ tư
tưởng triết học, Nho giáo ảnh hưởng đến các mặt văn hóa dân tộc trong đó có văn học. Thơ
Nho có ảnh hưởng Nho giáo theo quan niệm chính thống là "Văn dĩ tải đạo" nhưng đây chỉ
là một phương diện. Ngôn ngữ thơ Nho đương nhiên có một số từ ngữ nho học nhưng thơ có
đặc trưng riêng. Thơ phản ánh tâm hồn nhà nho, tình cảnh phong phú và phức tạp của con
người. Hơn nữa ngôn ngữ thơ không chỉ là minh họa đạo lý mà còn biểu đạt những tình cảm
phong phú của người Việt.
Ý thức dân tộc hóa Nho giáo ở Đại Việt đã tác động lên Nho giáo phương Bắc để làm
nên quan niệm Nho giáo có những nét phương Nam.
Các đặc điểm Nho giáo ở Đại Việt vốn có như:
1) Thiên về mô phỏng chứ không sao chép máy móc.
2) Tiếp thu, nhưng chú ý về tính thiết thực.
3) Đi vào cụ thể, sự ảnh hưởng Nho giáo đậm nhạt tùy chủ thể, tùy thời điểm.
4) Thiêng liêng hóa mối quan hệ tình cảm, mối quan hệ làng xã.
5) Ảnh hưởng Nho giáo chính thống khá nhiều ở mặt tổ chức đất nước nhưng về tình
cảm, tâm lý và ứng xử xã hội vẫn giàu bản sắc riêng và đậm tinh thần dân tộc.
6) Chú trọng quan hệ tình cảm, yêu thương con người theo chiều ngang hơn là trật tự
thứ bậc theo chiều dọc,..
Các đặc điểm này ít nhiều đều có tác động đến phương diện ngôn ngữ thơ Nho. Kết quả
là ngôn ngữ thơ Nho có bản sắc riêng. Có thể thấy ở đó sự giản dị, gần gũi với đời sống tinh
thần, tình cảm của dân tộc phương Nam. Những cực đoan và quan niệm cái đẹp của nền văn
hóa có nguồn gốc phương Bắc đã được tuyển chọn lại hoặc loại bỏ. Từ đó, ngôn ngữ trong
thơ Nho cũng giản dị, thân thuộc, không cực đoan. Người sau cũng dễ cảm nhận, thông cảm
như mạch trữ tình xuyên suốt lịch sử thơ ca dân tộc.
Thơ Nho tuy có sử dụng một số từ ngữ có nguồn gốc Nho giáo nhưng phần lớn là ngôn
ngữ dân tộc. Thơ Nho không phải để minh họa cho Nho giáo mà nó phản ánh tâm hồn Việt.
Cái độc đáo ở đây là ngôn ngữ Nho kết hợp và hòa tan trong ngôn ngữ dân tộc. Có sự kết
hợp giữa ngôn ngữ trí thức và ngôn ngữ bình dân.
Ngôn ngữ trong thơ Nguyễn Trãi có nói đến các khái niệm Nho giáo như "Nhân nghĩa
trung cần giữ tích ninh" (Bảo kính cảnh giới, 4) [123, 440], "Bền đạo trung dung chẳng thuở
tàng" (Bảo kính cảnh giới, 2) [123, 439]... Các từ nhân, nghĩa, trung, trung dung... có gốc từ
Nho giáo. Nhưng ở nhiều chỗ khác ngôn ngữ thơ ông lại rất bình dị, dân dã như :
"Áo quan thả gửi hai bè muống;
Đất bụt ương nhờ một lảnh mồng"
(Thuật hứng, 23) [123, 418]
Vì thế, tính chất nghiêm trang trong ngôn ngữ thơ lại được thể hiện một cách hồn nhiên.
Ngôn ngữ trong thơ Nho phản ánh mối quan hệ văn - chất trong thơ Nho. Chất ở đây là
cốt cách tư tưởng, là nội dung. “Văn” hàm nghĩa rất rộng, gồm cả thiên văn” (bản chất – cái
đẹp tự nhiên), nhân văn (văn hóa tinh thần của người quân tử). Văn ở đây là hình thức bên
ngoài, hình thức thơ. Hình thức bên ngoài thể hiện qua nghệ thuật ngôn từ. Nhưng phần lớn
ở đây Văn, được giải thích là cái đẹp tự nhiên và nghệ thuật, cái đẹp nội dung - hình thức.
Từ ngữ chỉ mức độ lấy thiên nhiên làm trung tâm có mây bay nước chảy, đá vàng, trời
biển, sông núi, vàng ngọc… Từ ngữ mức độ lấy phẩm chất con người làm trung tâm có bình
hòa, bình tĩnh, hòa dịu, cứng cỏi, siêu thoát, có đức, rắn rỏi, thanh (thanh nhã, thanh tân,
thanh đạm, thanh cao, thanh tú…).
Đối với nhà nho mọi sinh hoạt trong vũ trụ đều có cái đẹp từ tinh tú là cái văn của trời,
núi cao sông lớn là cái "văn của đất". Ao rau muống, bữa cơm quê, tảng đá rêu phơi trong
thơ Nguyễn Trãi... đã trở thành nét đẹp trong thơ Nho.
Ngôn ngữ ở đây không quá lệ thuộc vào tính quy phạm mà hồn nhiên, trong sáng. Một
phần do quan niệm chú trọng chất hơn trọng văn nên ngôn ngữ thơ ở đây ít đẽo gọt. Ngược
lại nó đi vào phản ánh những tâm hồn chân thật, hồn hậu. Nhiều bài thơ trong "Quốc âm thi
tập" đã biểu hiện như thế.
Ngôn ngữ thơ chịu tác động bởi quan niệm "Trung – hòa" nên hình thức không quá trau
chuốt, cầu kỳ. Việc bộc lộ cảm xúc trong thơ cũng ở mức độ vừa phải. Có khi thơ diễn tả nỗi
đau nỗi buồn nhưng ngôn ngữ thơ không quá nhấn mạnh cái bi, cái đoạn trường. Nó chú
trọng sự trung hòa hơn là sự thái quá. Nỗi buồn trong thơ Nho thường không ủy mị, không
đưa đến độ tàn khốc. Các thi sĩ có gắng giữ mực cân đối này như một qui luật quan trọng
trong triển khai các kỹ thuật, triển khai cái đẹp qua các ý thơ.
Trong thơ Nho có nét đẹp dương cương và âm nhu nhưng thông thường đây là ngôn ngữ
tâm hồn của người quân tử chính nhân nên chú trọng đến cái trong sáng, minh bạch, cao cả.
Nét đẹp âm nhu gần với đặc trưng ngôn ngữ thơ hơn nên dĩ nhiên là được sử dụng rộng rãi.
“Phạm trù “Âm nhu” với thơ Nho là những cảnh đẹp dịu nhẹ, tiết điệu trầm lắng của cái
đạm, cái nhã. Âm nhu cũng liên hệ Thơ Nho qua các quan niệm ẩn dật, vô sự, thanh nhàn,
thái hòa… Tuy nhiên đối với thơ Nho, ngôn ngữ chứa đựng bản sắc cái đẹp mang tính
dương cương cũng được chú trọng. Phạm trù “dương cương” trong thơ Nho có thể đối chiếu
với cái đẹp hàm chứa quan niệm về “cao”, về “hùng”.
Viết về cái buồn nhưng các nhà thơ Nho lại chọn khía cạnh bi khái. Thơ vẫn chứa đựng
sự cao cả, mãnh liệt chứ không bi lụy. Viết về nỗi bi cảm thời thế cuối triều Trần thì bài thơ
“Thuật hoài” (Đặng Dung) trở thành bất hủ: “Quốc thù vị báo đầu tiên bạch - Kỷ độ Long
tuyền đới nguyệt ma” [178, 517]. Lý Tử Tấn bình bài thơ này: “Không phải là kẻ sĩ hào kiệt
không thể làm nổi” (Phi hào kiệt chi sĩ bất năng). Đó là ngôn ngữ phản ánh tâm huyết và tình
cảm cháy bỏng vì dân vì nước, là sức mạnh của tâm hồn dân tộc.
Ngôn ngữ thơ Nho thường chứa những ý nghĩa sâu sắc. Ngôn ngữ tuy đơn giản nhưng
có sức chứa đựng nội dung khá lớn. Nó “có cái thần động đến ngàn xưa, ngụ ý sâu xa ngoài
cảnh vật” [167, 110]. Bài “Tảo mai” (Trần Khản): “Người cũ hàng năm trông thấy mặt -
Tinh thần băng tuyết nhận không sai” [09, 454]. Những câu thơ này thể hiện mối quan hệ
“tượng và ý”. Hình tượng hoa mai có thể hiểu nhiều ý như: người xưa, người đẹp, người
quân tử hay chỉ đơn thuần là hoa mai.
Ngôn ngữ thơ ở đây cũng là một kiểu giao cảm của người xưa. Đây không phải là sự
tương giao mà chủ yếu là ngôn ngữ của nội tâm – ngoại cảnh. “giao”, “cảm”. Nó có tác dụng
giao lưu, dung hợp, hài hòa của các cặp đối lập, các sự vật hiện tượng khác nhau của vạn vật
trong vũ trụ. Đối với văn học “giao”, “cảm” giải thích “nguồn gốc, chức năng của nghệ
thuật và vấn đề quan hệ chủ, khách trong nghệ thuật” [83, 88]: cảm ngoại vật – tính tình xao
động, tình cảm phát sinh từ mối quan hệ chủ thể – khách thể, cảm hứng nghệ thuật. Hơn nữa
ở Tâm – Tình – Thân – vô thức – bản năng – cảnh... cũng có quan hệ giao cảm với nhau.
“Tâm là phương diện “hình nhi thượng”, là đời sống tinh thần, là lương tâm, nghĩa vụ,
trách nhiệm, đạo lý. “Thân” là “hình nhi hạ” là cái vật chất duy nhất của con người, là
phần hữu hạn, bé nhỏ dễ hư nát và đau đớn nhất của bất cứ ai. “Thân” cũng là phần của vô
thức, của bản năng, [141, 112]. Nỗi đau của “thân” biểu hiện ở “Tâm chi thanh” cũng như
Hình nhi hạ là biểu hiện của Hình nhi thượng theo Nho học. “Giao – cảm” phản ánh trục
giao thoa cảnh vật – thời gian – tình người: “Một đóa đào hoa khéo tốt tươi - Cách xuân
mơn mởn thấy xuân cười” (Đào hoa thi –I, Quốc âm thi tập) [123, 469]. Người ta khó phân
biệt đâu là hoa đào – mùa xuân – trời xuân – tuổi xuân vì chúng giao cảm nhau. Sự giao cảm
đó xuất phát từ cảm hứng sáng tạo, quá trình sáng tạo và cả trong thưởng thức. Sự giao cảm
trong thi ca thường tạo những tứ thơ hấp dẫn, kỳ lạ như những ảo ảnh.
Trong 280 trường hợp sử dụng điển tích chọn lọc được chú thích trong thơ Nho một thế
kỷ này, có 56 trường hợp sử dụng điển tích liên quan đến kinh điển và sách vở Nho học phổ
biến, có 45 trường hợp sử dụng điển tích liên quan đến quan niệm Nho giáo, có 101 trường
hợp sử dụng điển tích liên hệ đến các danh nho, 22 trường hợp sử dụng điển tích liên quan
đến văn chương, 40 trường hợp sử dụng điển tích liên quan đến thế sự, 16 trường hợp sử
dụng điển tích liên quan đến các truyền thuyết (xem phần Phụ lục 1).
Ngoài ra cần kể đến khoảng 305 từ ngữ có liên hệ đến tiếng Việt cổ, chữ Nôm trong
“Quốc âm thi tập”. Qua đó ta nhận thấy yếu tố Việt đã chiếm một vị trí quan trọng trong thơ
Nho. Ở “Quốc âm thi tập”, ta thường gặp một số từ ngữ của người Việt thời xưa như : tua
(nên) [123, 742], loàn đan [123, 824], tịn [123, 704], bui (duy chỉ) [123, 704], liễn (miễn)
[123, 705], lảnh [123, 706], hiềm [711], ngặt [123, 711], bơn [123, 712], mựa hiềm (chớ
ngại) [123, 712], vạy vọ [123, 718], khuây (quên) [722], âu (lo) [123, 723], lãng thãng (lững
thững) [123, 724], chỉn (vẫn), chốc mòng (nhớ không khuây) [123, 737], toan đan (tính
toán) [123, 736]...
Ngôn ngữ thơ Nho đã thể hiện bản sắc ngôn ngữ của một nền thơ. Tuy chịu ảnh hưởng
tư tưởng Nho nhưng nhìn chung ngôn ngữ thơ Nho trong sáng, hồn nhiên, phù hợp với tinh
thần dân tộc. Nhưng cũng vì thế ngôn ngữ thơ Nho cũng có những giới hạn nhất định. Nó chỉ
phù hợp với môi trường văn hóa trí thức thanh cao. Đôi chỗ mang nặng điển cố điển tích,
3.3. GIỌNG ĐIỆU
quá chú trọng đến những ngôn ngữ ước lệ hoặc quá chú trọng đến phương diện tải đạo.
Nói đến giọng điệu là nói đến phương diện siêu ngôn ngữ nhưng người xưa đã bàn đến
qua khái niệm khá trừu tượng “đạo âm thanh” .“Phàm âm là cái sinh ra từ lòng người, tình
động ở trong mới hình thành ở thanh, thanh thành văn thì gọi là âm… Đạo thanh âm quan
hệ với chính trị…” (Nhạc ký, Công Tôn Ni Tử) [147, 14]. Giọng điệu trong thơ có nguồn gốc
từ lòng người, chịu ảnh hưởng của môi trường chính trị – văn hóa – xã hội, triết - mỹ…).
Cảm xúc của ngôn ngữ trữ tình trước hết thể hiện ở giọng điệu. Giọng điệu trong thi ca
vô cùng quan trọng, không chỉ quyết định hiệu suất cảm xúc, không chỉ được xem là một đặc
trưng tác phẩm văn học mà còn là môi trường chủ yếu của đề tài, tư tưởng, hình tượng. Theo
quan niệm văn học ngày nay thì “giọng điệu không nằm trong một thành tố nào, đọng lại
trong một khu vực cục bộ nào mà toát lên từ toàn bộ tác phẩm. Các yếu tố ngữ điệu, nhịp
điệu… chỉ là những yếu tố đóng vai trò cấu thành tổ hợp giọng điệu” [29, 342]. Với nhà
nho, giọng điệu trước hết được nhận biết qua phạm trù “Nhạc”, nó thường đặt bên cạnh
phạm trù “Lễ” và có quan hệ gần về âm và nghĩa với phạm trù “Lạc”. “Văn của thanh âm”
gồm: cung, thương, giốc, chuỷ, vũ. Người xưa thường so sánh “văn âm thanh” với tiếng
chuông, tiếng khánh, tiếng tơ đàn, tiếng sáo, tiếng huyền với những âm điệu nghệ thuật khác.
Bàn về thơ, Lưu Hiệp chia tám thể, Mạnh Hạo Nhiên bàn 19 chữ “thi thức”, Tư Không
Đồ bàn về 24 phẩm, Nghiêm Vũ bàn đến chín phẩm chất… phần lớn bàn đến giọng điệu.
Thái Thuận bàn về mười phong cách nghệ thuật thơ Nho thế kỷ XIV – XV (Cuộc nói chuyện
thơ ở Kim Hoa – “Truyền kỳ mạn lục) chủ yếu dựa trên cơ sở giọng điệu chủ âm. Nguyễn
Đổng Chi khi bàn về thơ và thi xã đời Trần [13, 292 - 330] đã bàn đến sáu lối thơ mà chủ
yếu được phân định trên cơ sở giọng điệu.
Đối với phong cách thì “giọng điệu” chỉ là một yếu tố của một hệ thống phức tạp nhưng
đó là yếu tố trước tiên. Đối với các nhà nho phương Đông, điều đó cũng đã được công nhận
từ lâu qua “nhạc”, “thanh”, “khí”, “điệu”, “phong”… Nhạc, thanh, điệu mang tính hình thức
biểu hiện, phong – khí mang tính nội dung, mang màu sắc chủ thể sáng tạo. Giọng điệu thể
hiện ở nhiều cấp độ khác nhau: từ ngữ, kết cấu, cách thức tạo nhịp, gieo vần, hình tượng.
Giọng điệu thể hiện trong thơ khá phức tạp và ảnh hưởng đến rất nhiều phương diện.
Mối quan hệ quan trọng đầu tiên của giọng điệu là quan hệ chủ thể – giọng điệu. Hình
thức chủ thể phản ánh ở người trần thuật, nhân vật trữ tình, cái nhìn, giọng điệu. Giọng điệu
là một hình thức quan trọng của chủ thể, chủ thể quyết định giọng điệu thơ ca thông qua
nhân vật trữ tình làm trung gian. Giọng điệu thơ là “tâm chi thanh”. Mỗi nhà thơ do cá tính,
3.3.1. Giọng hùng hồn – cương kiện
hoàn cảnh mà có cơ chế tạo giọng riêng.
Giọng hùng hồn – cương kiện là giọng điệu quan trọng và tiêu biểu cho thơ Nho.
“Truyền kỳ mạn lục” bàn đến mười giọng điệu thơ Nho giữa thế kỷ XIV – giữa thế kỷ XV
của mười tác giả thì phần lớn thuộc giọng hùng (Tác phẩm này sử dụng các từ như "mạnh
mẽ mà kích thích", "như chàng trai xung trận", "ngang dọc tung hoành"… để diễn tả). Giọng
hùng còn tiêu biểu cho nền văn hóa nho gia mang tính “cương kiện”, “sùng đức”, “thượng
lễ”, “chính khí”. Giọng trung hậu cũng là hệ quả của những tư tưởng cương kiện này…
Giọng điệu hùng hồn – cương kiện tương ứng với những tâm hồn hết lòng trung ái,
trung hậu. Tiêu biểu cho giọng điệu trung hậu là Nguyễn Trãi. Nguyễn Dữ đã đánh giá cao
thơ văn Nguyễn Trãi: “… cầu lấy lời chín lẽ tới, có thể khiến cho làng phong nhã phải phục
thì duy chỉ những lời đầy trung ái của ông Nguyễn Ức Trai, lòng lúc nào cũng chẳng quên
ơn vua, có thể chen vào môn hộ của Đỗ Thiếu Lăng được” [24, 251 - 252]. Trong trường
hợp khác, ở bài thơ “Chu trung ngẫu thành” (Ức Trai thi tập), ý thơ phản ánh giọng điệu
hăng hái, nhiệt thành - “Cắp sách đeo gươm vạn dặm xa - Buồm cô hồ biển khí xông pha”.
Thơ Nho thường chứa đựng một khí thế quyết liệt, hào hùng vì dân, vì chính nghĩa, bất chấp
hiểm nguy của thiên nhiên, hiểm nguy của chiến trận. Trong thơ Phạm Sư Mạnh, khí thế của
thơ Nho toát lên từ bức tranh hoành tráng: “Trước gió ghì cương ngựa, lên cao ngoảnh đầu
nhìn… - Cửa khuyết cao chót vót ở tầng mây phía Tây” (Chi Lăng động – Phạm Sư Mạnh)
[178, 114]. Xuất phát từ nếp nghĩ hào hùng, trung nghĩa, người chiến tướng giữ yên biên giới
trên đỉnh cao gió lộng. Giọng điệu này phản ánh mức độ niềm tin vào đạo lý, vào chính
nghĩa đang lên cao.
Niềm tin đã kết hợp với ý thức trách nhiệm tạo nên thái độ dứt khoát, hào hùng. Nó góp
phần in đậm bản sắc của con người trách nhiệm trong thơ. Đó là con người mạnh mẽ, cương
kiện. Con người nhận trách nhiệm chẳng bận lòng rủi may, tính toán được phản ánh qua bài
“Canh Đồng Tri phủ Hữu ty…” (Trần Nguyên Đán) [178, 165]. Giọng hùng còn ở khí tiết,
nơi chiến trường, lúc hành quân hoặc cảm nhận về lịch sử hào hùng. Khí tiết của con người
nghĩa vụ vượt thời gian đời người được phản ánh trong thơ như: “Một tấc lòng son sắc ánh
lên mái đầu bạc” (Quan Bắc – Phạm Sư Mạnh) [178, 167]. Các thi nhân hào hùng tiếp nối
nhau, nghĩa khí của Đặng Dung, Lưu Thường... đã phản ánh khí thế hào hùng bất khuất của
người liệt sĩ thất thế. Bất chấp tính mệnh, họ đã tự nhận thấy “Trung nghĩa, sa cơ chết cũng
đành” (Tuyệt mệnh thi – Lưu Thường) [178, 294]. Nhà nho đề cao khí hạo nhiên, chính khí;
họ đã lưu giữ, phát huy bằng hàm dưỡng, lập chí. Thơ Nho giữa thế kỷ XIV – giữa thế kỷ
XV cũng có những cuộc hành quân hùng tráng như “Tống Bình Tây Đô Đốc...” (Trần
Nguyên Đán) [178, 179]. Giọng hùng trong thơ Nho thời gian này được thể hiện ở nhiều
mức độ, phong phú.
Viết về quá khứ, thơ Nho mang sắc thái những bản hùng ca. Hào khí của vị anh hùng
cứu dân không nhận sự đền đáp làm cho con người và đất nước thêm cao đẹp. Mảnh đất Lam
Sơn đã cưu mang nghĩa quân suốt hơn mười năm gian khổ, chiến thắng mãi mãi là một kỳ
công: “Lam Sơn tự tích ngọa thần long” (Đề kiếm – Nguyễn Trãi) [123, 293]. Cái hùng,
giọng hùng có lúc nổi lên câu chữ, nhưng có khi tiềm tàng trong nỗi đau khổ, bi hận. Qua đó
người đọc cảm nhận cái hùng trong cái bi. Chí khí tiềm tàng của kẻ sĩ trước bao thử thách,
chìm nổi, càng làm nổi bật sức kiên nhẫn của lòng yêu thương con người. Thi nhân trong
“lẩn quất đường khoa mục” vẫn “mơ màng việc quốc gia” (Ngôn chí,7 - Nguyễn Trãi) [123,
397]. Thi nhân cũng bất chấp những chướng ngại của hoàn cảnh, tuổi tác: “Qua mất tuổi già
nhà lọ hẹp - Lo cho dân trước, chí không dời” (Mạn hứng, 3 – Nguyễn Trãi) [123, 335].
Giấc mơ đó vẫn mãi còn ám ảnh mọi thế hệ nho sĩ chân chính. Nỗi niềm ấy vừa chan chứa
tình riêng nhưng vẫn hướng đến cái chung. Cũng vì thế, nó phản ánh những nét đẹp thầm
lặng nhưng rất đỗi bao dung, thâm trầm.
Giọng điệu hùng đã đi sâu vào câu chữ, tư tưởng nghệ thuật của rất nhiều bài thơ Nho
kể cả những nhịp điệu sôi nổi hoặc trầm lắng, trăn trở… Vì về bản chất, nó đã nằm trong
thành tố cấu trúc của những tác phẩm này. Nó làm nên vẻ đẹp “dương cương” trong nhiều
tác phẩm. So với nền thơ Trung đại Nhật Bản, ta thấy giọng điệu “âm nhu”, vẻ đẹp “âm tính”
3.3.2. Giọng điệu điển nhã
được ưa chuộng hơn thơ cổ Việt Nam rất nhiều.
Xuất phát từ cảm thức phong nhã, thơ Nho với giọng điệu điển nhã (sang trọng – đúng
đắn – nhã nhặn) chiếm một tỷ lệ đáng kể, tiêu biểu cho những khái niệm “nhã” nói chung
như sơ nhã, thanh nhã, phong nhã, nho nhã thường thấy trong thơ Nho.
Điển nhã (nghĩa rộng chỉ tính chất thanh cao, tao nhã) có quan hệ gần gũi với những
quan niệm như tẩy luyện, ỷ lệ, toàn thịnh, thanh tú, hình văn, phụ hội, thanh kỳ, phong lưu…
Nếu đạt đến cấp độ cao, giọng điệu điển nhã được thẩm định gần gũi với quan niệm “thần
vận”. (Vương Sĩ Trinh: “Tình thi ý họa trong một bài tiểu thi tinh tế, thanh tân, trong sáng,
vững chãi, âm điệu tự nhiên lưu loát đó là thần vận"). Dĩ nhiên, thơ được đánh giá là có thần
thì thể hiện ở nhiều giọng điệu khác nhau, không chỉ riêng điển nhã đạt đến đỉnh cao này. Đó
là quan điểm mỹ học về tiêu chuẩn trang trọng trong thơ. Nó góp phần đưa đến giọng trang
trọng, quí phái trong thơ Nho.
Du ngoạn thắng cảnh núi Phật Tích, tác giả ngẫu nhiên đề thơ trên đỉnh non cao khi cảm
nhận âm nhạc thanh cao: "Muôn hốc núi, tiếng sênh, tiếng chuông tấu chín khúc nhạc thiều”
(Du Phật Tích sơn ngẫu đề - Phạm Sư Mạnh) [178, 93]. Giọng thơ phóng khoáng, mơ màng,
chen lẫn âm thanh, nhạc điệu trang nhã. Hai câu thơ phản ánh tương đối rõ một số chuẩn
mực quan trọng mang tính quan niệm.
Trong đêm thất tịch, trong không gian mát dịu dưới ánh trăng, nhà thơ nhìn lên cao:
“Ngân chử cao hoành vân tự tán
Tinh kiều tà quải nguyệt như câu”
(“Mây giăng sông bạc dường cây tán,
Trăng đứng cầu sao tựa lưỡi câu”)
(Thất tịch – Phạm Nhân Khanh)
(Đinh Văn Chấp dịch) [112, 697]
Ánh trăng, sông Ngân, cầu sao… đều là những chất liệu ngôn ngữ mang vẻ đẹp trong
sáng phù hợp với khí chất thanh cao. Những quan điểm thường được lựa chọn đối với thang
giá trị Nho học là trong sáng, cao quý. Ý thơ thường lung linh như không gian trời nước nên
thơ. (Bài "Phong Kiều dạ bạc" - Trương Kế là một ví dụ). Thiên nhiên trong cảm nhận và
sáng tác được tác giả ưu tiên chọn những chất liệu trong sáng, ngôn ngữ, giọng điệu tương
ứng, âm thanh tương ứng: sen, liễu, suối, đàn… Ngay cả cảnh vắng vẻ, hiu quạnh, chớm
buồn cũng được tả bằng giọng trang nhã. Cái chết, giọng điệu bi ai cũng bị áp đảo bởi gam
chủ âm mang tính chất điển nhã.
Vẻ đẹp tâm hồn cũng được miêu tả bằng điệu trang trọng ấy. Các nho sĩ thích nói đến vẻ
đẹp của thiên lương. Vẻ đẹp đó lấp lánh trong thơ Nguyễn Trãi:
"Nhất phiến đơn tâm chân cống hỏa,
Thập niên thanh chức ngọc hồ băng”
(Thanh chức mười năm băng nậm ngọc
Đan tâm một mảnh lửa lô tiên)
(Mạn hứng, 3– Nguyễn Trãi) [123, 345]
Vẻ đẹp thiên nhiên như băng, tuyết, ngọc, lan... thường được vận dụng, trang sức cho
con người. Sự trong sáng dễ đưa đến sự “lóe sáng mạnh mẽ, sự giao hòa hiện thực cao cả
hay sự suy ngẫm về những gì ở thế giới cao siêu” [61, 168]. Từ vẻ đẹp tự nhiên, thơ phản
ánh những vẻ đẹp tâm hồn. Vẻ đẹp tự nhiên được nhà thơ lựa chọn thường là những những
hình tượng có sức lay động lòng người.
Tư thế hết lòng vì nghĩa cũng được thể hiện như một nét đẹp trong thơ. Đây là vẻ đẹp
của người hùng thất thế dưới trăng:“Quốc thù vị báo đầu tiên bạch - Kỷ độ Long tuyền đới
nguyệt ma” (Cảm hoài – Đặng Dung) [178, 517]. Ý thơ độc đáo bởi được viết bằng vẻ đẹp
của tâm hồn hào hùng. Những vần thơ như thế về sau không nhiều.
Bên cạnh ý thức về cái hùng là ý thức trang nhã. Ý thức trang nhã đối với thơ Nho như
là một đặc điểm nghệ thuật tiêu biểu. Các nhà thơ thường tuân thủ quan niệm này trong sáng
tác. Ngay cả khóm rau cần, vết chân chim cũng được trang nhã hóa (dù hình ảnh này được
dùng chỉ mang tính tượng trưng cho con người):
“Chi đầu hoa trọng phong tu phấn,
Liêm ngạch cần hương yến tử nê”
(“Phấn hoa ở đầu cành làm nặng râu ong
Bùn ở khóm rau cần trước mành cửa làm thơm
dấu chân chim én”)
(Xuân nhật thôn cư - Nguyễn Ức) [178, 46]
Cảm thức cao nhã của người nho sĩ còn phản ánh ở tâm lý chung của nhà nho. Các nhà
nho quân tử thường tránh những khung cảnh, con người hay ý nghĩ thô tục. Thi nhân tránh
khách tục thô lỗ và phố phường huyên náo, “suốt ngày nhân nhã khép phòng văn” (Mộ xuân
tức sự – Nguyễn Trãi). Tác giả luôn muốn lưu giữ một không gian thanh cao, một tâm hồn
thanh thản, đôn hậu, hài hòa.
Về sau, Lê Phiên tự hào về nền thơ đó khi nhìn nhận về nền thơ Nho nói chung - “Nội
tâm bao hàm lý thú, nhã tình chan chứa thiên chương” trong bài khải “Đề Kiền nguyên thi
tập” của Trịnh Ân Vương (Trịnh Doanh) [19, 155]. Nhưng sau này, sự phát triển và bảo tồn
giọng điệu trang nhã bị các nhà cải cách văn hóa, Tây phương hóa phản đối vì những sáo
ngữ xa rời sự thực. Dĩ nhiên, nó cũng làm nên vẻ đẹp riêng, giọng điệu riêng của một nền
thơ. Đây là một giọng điệu quan trọng trong thơ Nho từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ
3.3.3. Giọng điệu thanh cao
XV.
Giọng điệu thanh cao là một biểu hiện khá đặc biệt trong thơ Nho. Nó tạo nên độ sâu
lắng và phong thái làm cho người đọc ngưỡng mộ.
Giọng điệu thanh cao có nhiều cách nhận định. Tư Không Đồ gọi giọng điệu, phong
cách thanh cao là “Cao cổ” (cao siêu khác tục) [35, 116]. Nguyễn Đổng Chi xếp lối thơ cao
siêu gồm cả thơ Thiền và thơ Nho. Trong đó, ông dẫn “Kiến văn tiểu lục” bàn đến dạng thức
thơ có “khí tượng cao siêu” [13, 302] và “Lịch triều hiến chương” bàn về “lời thơ phiêu dật
đẹp đẽ”, “lời thơ trong sáng u dật…, thú cao ở ẩn…”, “khoáng vật thanh nhã” [13, 303 -
304]. Thông thường đây là sự đối thoại, tương thông của thi nhân với cổ nhân, thánh nhân.
Đồng thời ở đây có sự tiếp xúc ảnh hưởng của nhiều nguồn tư tưởng triết học phương Đông.
Người xưa chân thành, nhiệt tâm, xem thánh nhân vượt lên trên các thang giá trị đời
thường nhưng nằm trong sự phấn đấu hàng ngày của bản thân. "Thi kinh tổng luận" bàn đến
thơ "tư vô tục, vô tục vận, vô tục tình, vô tục sự" (Thi kinh tổng luận). Giọng điệu cao siêu
xuất phát từ các nhà nho ít nhiều chịu ảnh hưởng của tư tưởng ẩn nho, cũng vì lẽ đó mà trong
“Ẩn sĩ truyện”, tác giả Hoàng Phủ Bật xếp vào nhóm “Cao sĩ truyện”. Các ẩn sĩ đã mạnh
mẽ phê phán mặt tiêu cực của xã hội. Một phần các nhà nho tài tử cũng ưa chuộng giọng
điệu này vì nó góp phần làm tăng thêm chất “tài tử”, mở những ràng buộc. Ngược lại những
ý kiến đề cao giọng “cao cổ” cũng có ý kiến khác phản đối, phê bình. Dù sao đây cũng là
một đặc điểm không thể thiếu.
Tiếp cận thơ Thiền, ta có thể xem “điệu cao siêu” trong thơ Nho là nơi gặp gỡ, giao thoa
của Nho - Thiền. Nó cũng liên quan đến quan niệm ". “Dật” theo Mạnh Hạo Nhiên là “thể
cách khoát phóng” (Khảo luận về thơ cũ Trung Hoa) [120, 50]. Phiêu dật (siêu thoát ngoài
cõi tục) trong thơ Nho thường chịu ảnh hưởng của Thiền, Lão - Trang hoặc Tống Nho…
Nhưng ảnh hưởng đó chỉ là chất xúc tác cho tâm hồn, lãng mạn và tìm lối thoát không khí
giáo điều hay những phiền lụy chốn quan trường.
Thơ của bậc đại nho Chu An thường viết bằng giọng nhẹ nhàng, thanh thoát, từ một tâm
hồn trải qua thời thế và những qui luật cuộc đời:
“Bích đào hoa hạ hồn vô sự
Thời thiến đông phong tảo thạch đàn"
(Dưới hoa đào dạo hồn thanh thản
Quét thạch đàn, ta mượn gió đông)
(Cung họa ngự chế động chương)
(Trần Lê Sáng dịch) [178, 58]
Trong cái nhẹ nhàng, người đọc phát hiện ra nét đẹp nho nhã. Tâm hồn bình đạm trong
sáng như mây trên non cao hay giếng nước cổ: "Thân dữ cô vân trường luyến tụ, Tâm đồng
cổ tỉnh bất sinh lan" (Mình theo mây lẻ non thường quẩn - Lòng dọi giếng xưa sóng chẳng
dờn) (Xuân đán– Chu An) [178, 61]. Giọng thơ như lắng đọng những hỗn tạp đời thường xa
lánh những tính cách và suy nghĩ trần tục với “trà”,“hương” nên khi đọc lên ta thấy tâm hồn
trong trẻo nhẹ nhàng. Tác giả dùng đến “nước tuyết” làm tăng thêm độ tinh sạch:. “Cởi tục
chè thường pha nước tuyết” (Ngôn chí, 1- Nguyễn Trãi) [123, 395]. Bên chén trà tứ thơ càng
thâm trầm, sâu sắc. Đó là phong thái nhà nho và cũng là biểu hiện của phong cách thơ Nho.
Đồng thời, trong thơ Nho thường đề cập đến những hình tượng thanh cao mà giới nho sĩ
hay sử dụng trong cuộc sống hoặc dùng để so sánh như trầm, hương, ngọc, trúc, mai… để
không gian thêm cao quý. Trúc – mai thường được vận dụng để diễn tả sự thanh cao của giới
nho sĩ: “Quét trúc bước qua lòng suối - Thưởng mai về đạp bóng trăng” (Ngôn chí, 15,
Nguyễn Trãi) [123, 400]. Tính biểu trưng của trúc - mai trong thơ đã vượt qua “cảnh giới”
thông thường để đạt đến một sự thay đổi về chất của một không gian mới, con người mới.
Cũng như mai - trúc, lan là biểu tượng thanh cao, là mẫu mực quân tử, không lệ thuộc vào
những nhu cầu đời thường (Những bài “Lan” - Tạ Thiên Huân) [178, 367-370]. Tương tự,
trong thơ còn có cánh nhạn, cánh hạc tung trời - "Tâm như dã hạc phi thiên tế, Tích tự chinh
hồng đạp tuyết sa" (Lòng như cánh hạc tung trời vút - Dấu tựa chim hồng biển tuyết qua)
(Họa hữu nhân “Yên hà ngụ hứng, 1 –Nguyễn Trãi) [123, 352]. Cánh nhạn chở những ý
tưởng bay cao, đồng thời còn phản ánh tinh thần cao thượng, không bị khống chế bởi những
việc nhỏ nhặt. Đó cũng là nét đặc sắc của thế giới nội tâm người thi sĩ thời đó.
Tuy cuộc sống đầy những nghiệt ngã, nhà thơ vẫn có những phút giây tuyệt diệu hoà
nhập vào vũ trụ. Quan niệm về Thái cực, Thái hư của các nhà Lý học đã mở rộng hơn tầm
bản thể vũ trụ: "Ngọ song tiêu sái vô trần lụy; Nhất phiến nhàn tâm nhiếp thái hư" (Song
trưa thanh thản không trần lụy - Một tấm lòng nhàn vút thái hư) (Tức sự - Nguyễn Trãi)
[123, 309]. Dường như nhà thơ đã mở ra một chân trời mới, một thế giới mới – chủ thể trữ
tình chiếm lĩnh một không gian riêng, “ngăn cách” với những phiền lụy đời thường hay
những tranh đoạt ích kỷ.
Nhà thơ Trung đại thường quí trọng quá khứ, quí trọng những gì thuộc cổ xưa, những
giọng điệu cao cổ, phiêu dật thường xem cái cổ xưa là mẫu mực, toàn bích. "Phong vận liên
cừ cận cổ nhân" (Mến phong độ gần như người xưa) (Quách Châu Phán quan hồi kinh…)
(Phạm Nhữ Dực). Ngưỡng mộ cổ nhân, tiền nhân cũng là chữ "lễ" của Nho gia và cũng là
một quan niệm văn chương thơ Nho.
Với giọng thanh cao, các nhà thơ Nho hết lòng ca ngợi những nét cao quí thể hiện trong
tâm hồn con người, giúp con người vượt qua thử thách và giữ vững thiên lương. Đây là
những cố gắng ít có thể tìm thấy ở những dòng thơ khác. Đây là giọng điệu khá riêng biệt và
đặc trưng của thơ Nho. Nét cao quí thể hiện trong những tình huống phức tạp của đời người
trước những thử thách cám dỗ, thù nghịch. Thơ Nho còn tiềm tàng một sức sống mãnh liệt,
không dời đổi ý chí và phẩm chất. Sức sống ấy còn góp phần tạo nên giọng bi khái trong thơ
3.3.4. Giọng điệu bi khái
Nho.
Cũng với giọng điệu buồn, nhưng thơ Nho không hoàn toàn mất đi sinh khí. Nó là sự
phản ứng của ý chí, sự phản ứng của tố chất cứng rắn, tự khẳng định trước không gian
nghịch cảnh. Giọng điệu bi khái là giọng thơ phản ánh sự xung đột của nhân cách kẻ sĩ với
nghiệt ngã của cuộc đời.
Từ giữa đời Trần về trước giọng điệu thơ lạc quan rất rõ nét. Cuối thời Trần giọng thơ
có sự thay đổi, thơ lạc quan không nhiều. Nhiều nhà thơ đã sáng tác trong xúc cảm buồn
thương. Trần Quang Triều ngồi một mình trên thuyền trong không gian mây nước với bao
nỗi bất bình:
"Nhân tình sơ mật xao bồng vũ
Thế thái cao đê phách ngạn triều...
Kỷ đa lỗi khối hung trung sự
Thả hướng tôn tiền thí nhất kiêu"
(Tình người lúc thân lúc sơ như hạt mưa gõ trên mui thuyền, thói đời khi cao
khi thấp như ngọn sóng vỗ bên bờ sông... Bao nhiêu khối bất bình bề bề trong
dạ, hãy mượn chén tưới cho tiêu tan)
(Chu trung độc chước) [177, 262]
Nhịp thơ như chậm lại, kéo dài. Tâm sự các nhà nho thời Vãn Trần bắt đầu thể hiện một
giọng điệu mới, khác với cảm hứng lạc quan trong thơ Thiền. Giọng điệu đó cũng được tìm
thấy trong thơ Nguyễn Tử Thành khi viết về Trần Nguyên Đán. Tâm sự thời thế của người
trí thức là vì dân bất chấp thân mạng: “Y quốc cam tâm bệnh, Phi dân liệu tự cồ” (Chạy
chữa cho cả nước, riêng cam tâm bệnh - Làm cho dân béo tốt, biết mình sẽ gầy) (Tư Đồ cố
cư, Nguyễn Tử Thành) [178, 15]. Bệnh tật, héo gầy vẫn không sờn chí khí cao cả. Đó là mẫu
người quân tử luôn bận tâm tìm ra những ý tưởng tốt đẹp cho đời. Ý niệm đó phản ánh tinh
thần nhân đạo cao cả, phi thường. Người quân tử luôn tiến tới, bất chấp khó khăn nhưng thời
thế đã tạo nên những bi cảm bất tận. Thơ phản ánh tâm trạng bất lực của nhân cách cao cả
trước nguy vong của đất nước. Đó là bi kịch giữa cái tâm, văn hóa và thời cuộc.
Giọng điệu bi khái còn toát lên trước lịch sử, chứng tích quá khứ. Đỗ Tử Vi - một nhà
thơ có cuộc đời còn nhiều nghi vấn đã qua giếng Việt (Hà Bắc) – nơi có câu chuyện thần
tiên, có lá thuốc chữa bệnh. Bài thơ về đề tài này ám chỉ thực trạng xã hội thời Trần Dụ Tông
và phương thuốc “Nho học” cần thiết cho đời trong suy nghĩ của giới trí thức:
“Việt tỉnh thê lương, thảo sắc thu,
Tích lưu sự khứ sử nhân sầu
Bằng thuỳ mịch đắc tam niên ngải,
Ý ngã kiền khôn nhất nhuế vưu”
(Thê lương giếng Việt cỏ cây thu
Dấu cũ, việc qua, giục khách sầu!
Lá ngải ba năm ai kiếm được?
Bướu thừa trời đất chữa giùm nhau”)
(Quá Việt tỉnh cương – Đỗ Tử Vi)
(Lê Hữu Mục dịch) [111, 276]
Lá ngải như một phương thuốc quý có thể chữa được tình trạng suy yếu của xã hội. Bài
thơ cũng nói lên mơ ước về một xã hội ổn định, hưng thịnh. Người đọc cảm nhận được vẻ
thê lương của giếng Việt bên cạnh nỗi ưu sầu của tác giả.
Trường hợp khác, người du khách không khỏi bồi hồi trước phế tích và sự thăng trầm
của triều đại cũ. Nguyễn Ức ngậm ngùi trước dấu vết của di tích lịch sử xa xưa. Dừng thuyền
bên đình Ứng Phong, nhà thơ nghĩ về một triều đại oai hùng xưa đã phai dấu bởi thời gian:
“Tiền triều hành điện dĩ hoang khưu” (Triều xưa hành điện mất đâu rồi) (Bạc chu Ứng
Phong đình ngẫu đề – Nguyễn Ức) [178, 28]. Nỗi buồn man mác trong không gian hoài cổ
pha lẫn nhiều ưu tư. Bài thơ đưa người du khách về quá khứ hào hùng trong cảnh tương phản
với thực tại điêu tàn. Nỗi buồn, nỗi hoài cổ trong thơ dẫu có pha lẫn chút tự hào nhưng vẫn là
niềm bi khái trước lịch sử.
Nỗi buồn cao cả là nỗi buồn nơi triều chính, người trung thần cô độc trong cảnh đất
nước ngả nghiêng. Đó tâm trạng “vắng vua” của người trung thần “mồ côi” qua bài Mạn
Thành, 1 (Nguyễn Trãi) [123, 365]. Giọng bi cảm trở thành nỗi xót xa vô hạn, cho nhân thế,
cho nhân cách bị vùi dập. Người nghệ sĩ ý thức được sự mất tự do trong đời “làm quan",
"thân thể mình giống như cánh hoa rơi chỗ bẩn” (Hoạn tình dĩ tự triêm nê nhứ - Thân sự
hồn như lạc phấn hoa) (Mộ xuân Diễn Châu cảm tác – Nguyễn Thiên Tích) [09, 463]. Giọng
bi khái là sự thao thức, trăn trở của cái tôi Nho sĩ trước cuộc đời, cho đời và cho mình. Đó là
bi cảm nho phong, là lời “bi phẫn thi” của Việt Nho. Niềm tin vào văn hóa Nho gia càng gia
tăng thêm lòng bi khái.
Về sau nỗi lòng cảm thương còn gởi vào tiếng cuốc kêu buồn. Tiếng cuốc ở My sơn như
xoáy vào lòng người: "My sơn thính tử quy" (Nghe tiếng cuốc ở My sơn) (Vương Sư Bá)
[148, 496]. Thi nhân đã khóc cho cuộc đời, giọng bi khái đã trở thành sức bật cho phương
thức phản ánh hiện thực hiện diện. Giọng cảm khái đưa người đọc cảm nhận vẻ cao đẹp của
kẻ sĩ trong phản ứng của họ trước thời cuộc trước chiến tranh, li loạn…
Thơ Nho từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV có tính chất “Việt” đậm đặc và giọng
điệu lạc quan. Thời gian sau đó các phương diện như phong cách, giọng điệu, thể thơ… ít
nhiều có thay đổi. Giọng điệu sùng Nho, suối nguồn Nho học vẫn còn chảy trong Nguyễn
Bỉnh Khiêm, Bùi Vịnh, Vũ Cán, Phùng Khắc Khoan… Giọng điệu cao siêu ít nhiều vẫn còn
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)… nhưng giọng thơ bi khái có giảm đi. Giọng “nói tình” bắt đầu chen
vào ở một số tác phẩm như “Hương miệt hành”, “Truyền kỳ mạn lục”… Đó là những giọng
điệu chưa thật sự có trong thơ Nho giữa thế kỷ XIV - giữa thế kỷ XV.
Nhìn chung, đặc điểm giọng điệu của thơ Nho giữa thế kỷ XIV – giữa thế kỷ XV là
giọng sảng khoái, phóng khoáng, tự hào, tự tin. Giọng thơ trang nhã vẫn là chính, ít có giọng
châm biếm, đùa cợt, hài hước... Nó khác với giọng tán tụng lẫn nhau, ngợi ca cảnh thái bình
một cách quá đáng, ca tụng kinh đô, cung điện, nhà vua, triều đình... thái quá như thơ nửa thế
kỷ sau đó. Giọng hùng của thơ Nho giữa thế kỷ XIV - giữa thế kỷ XV rất nổi bật, trong sáng.
Giọng thơ này cũng có khi buồn thương nhưng kín đáo, có bất bình nhưng không phản
kháng gay gắt.
Về mặt tích cực của thơ Nho, đó là cái đẹp hợp lý về nhiều mặt. Lý tưởng Nho giáo
khuyến khích ức chế cái ác và giúp đỡ người hoạn nạn: “Ta giúp triều đình thăm kẻ khốn -
Tiêu trừ sâu mọt, diệt gian tham” (Án Thao Giang lộ – Phạm Sư Mạnh) [178, 98]. Nhưng về
mặt tiêu cực, cái nhìn Nho giáo về lẽ phải đôi khi bị thang giá trị chủ quan ràng buộc. Vì vậy
trong thơ Nho có nhiều trắc ẩn, cô độc, trăn trở… Thơ Thiền thường phản ánh sự giải tỏa
những trắc ẩn ấy nên có cảm giác nhẹ nhàng hơn, giọng điệu tự do hơn.
Giọng hùng hồn - cương kiện, điển nhã, cao siêu... đã ghi dấu trong thơ Nho từ giữa thế
kỷ XIV đến gữa thế kỷ XV. Ở đây, do ảnh hưởng của các quan niệm như trung- hòa, ôn –
nhu... nên hùng mà không thô bạo, có sinh khí nhưng không ồn ào. Cũng tương tự, trong thơ
có giọng điệu cao nhã nhưng vẫn gần gũi, mộc mạc, chân tình. Bên cạnh đó, đặc điểm nghệ
3.4. HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI - NHÀ NHO
thuật thơ Nho còn được phản ánh thông qua hình tượng nhà nho trong thơ.
Tác phẩm nghệ thuật là một cấu trúc nghệ thuật phức tạp có sự chi phối bởi các nguyên
tắc nghệ thuật, các mô hình (các quan niệm trong nghệ thuật). Mối quan hệ nội dung – hình
thức trong tác phẩm nghệ thuật phản ánh một phần bản chất sự tồn tại đó.
Con người là chủ thể của mọi hoạt động xã hội. Đối với nhà nho – con người là chủ thể
của “cách vật – trí tri…”, chủ thể của nhân – nghĩa, của đạo cương thường. Điều quan trọng
là con người nghệ thuật trong thơ Nho thường phản ánh qua con người phiêu dật, con người
hùng tráng, con người nho nhã, con người đạm bạc… Có nhiều trường hợp trong thơ Nho,
cái đẹp đồng nhất với cái cao cả, cái thiện cũng là cái mỹ như một sự định hướng.
Con người và định hướng của con người trong thế giới thường xuyên nằm trong tầm chú
ý của các thi sĩ.
Tác phẩm nghệ thuật là một cấu trúc phức tạp có sự chi phối bởi các nguyên tắc nghệ
thuật, các mô hình (các quan niệm trong nghệ thuật), mối quan hệ nội dung – hình thức – con
người. Con người trong tác phẩm nghệ thuật phản ánh một phần sự tồn tại của mối quan hệ
trên.
Nhìn chung, con người trong thơ Nho dễ được cảm nhận như là những khuôn mẫu.
Những mô hình, loại hình xã hội như minh quân, lương tướng, ẩn sĩ... là những mô hình
tương đối ổn định, nhưng biểu hiện trong thơ là thế giới nghệ thuật độc đáo.
Thơ Nho không hoàn toàn là những mô hình vì thơ ca tự do diễn tả mọi tâm trạng, mọi
cảm xúc con người với mọi khoảnh khắc tâm lý trong mọi hoàn cảnh riêng. Không chỉ có
chức năng tải đạo, nói chí, nhiều bài thơ Nho đã mang đậm hơi thở cuộc sống.
Thi ca nhà nho đã tạo ra những huyền thoại mới quanh con người nhân nghĩa. Đó là con
người “ít tư dục”, hòa nhập với thiên nhiên, suy nghĩ và hành động vì nước, vì dân. Cho đến
gần đây, những con người đó vẫn còn le lói trong nhiều tác phẩm. Mẫu người trong “Bút
nghiên” (Chu Thiên), “Vang bóng một thời” (Nguyễn Tuân), “Ông đồ” (Vũ Đình Liên),
“Lều chõng” (Ngô Tất Tố), “Nho phong” (Nhất Linh)… là âm vang từ quá khứ. “Nho
phong” của Nhất Linh phản ánh tình yêu của nhà nho, thanh cao, mẫu mực. Đó là một
phương diện của “nho phong” truyền thống. “Phong” ở truyền thống có nguồn gốc từ gió vũ
trụ (khí), “không thể tách rời tâm, ý, tình, thần, khí, sự chuyển động của khí (phong), từ ngữ
và tác phẩm văn học” [99, 132]. Nho phong phản ánh ở đặc điểm tư tưởng, đặc điểm phong
cách, đặc điểm tư tưởng nghệ thuật.
Nho phong trong văn học Việt Nam không hoàn toàn đồng nhất với “Việt phong” nhưng
trong quá khứ cái đẹp của cả hai lại gần nhau. Con người Nho phong tiêu biểu cho văn hoá
Nho gia. Hình tượng con người trong thơ Nho phản ánh cái tôi trữ tình trong thơ Nho. Từ
ngữ và tác phẩm văn học Nho gia có sự phối hợp tâm, ý, thần, khí và nho phong tạo nên bản
sắc văn học nhà nho.
Từ con người cổ kính, thơ Nho giữa thế kỷ XIV – giữa thế kỷ XV có nhiều hình bóng
những người quân tử cao nhã, con người tương thông vũ trụ được phản ánh bằng phương
thức trữ tình. Có thể xem đây là con người trung tâm của thơ Nho.
Có thể xác định con người trong thơ Nho theo tiêu chuẩn kiểu người phẩm chất và kiểu
người cảnh ngộ. Cả hai tiêu chuẩn này cho phép việc phân loại gặp thuận lợi hơn và tránh
3.4.1. Hình tượng nhà nho - phẩm chất
trường hợp trùng lặp.
Ở kiểu người phẩm chất, hình tượng con người trong thơ lấy tiêu chuẩn phẩm chất làm
cơ sở phân định. Trong thơ Nho, kiểu người phẩm chất bao gồm các dạng thức con người
quân tử, con người nhân nghĩa, con người vũ trụ, con người tri âm với thánh hiền, một số
trường hợp trong thơ còn nói đến người đẹp một cách kín đáo.
Nhiều bài thơ xuất phát từ con tim, từ cái tâm kẻ sĩ cao quí, tích cực, rất tự nhiên trong
con người nhà nho. Người nho sĩ dầu ở đâu, lòng vẫn đầy nỗi lo: “Vạn lý giang hồ tâm ngụy
khuyết - Bất tài không tự bão tiên ưu” (Ở nơi giang hồ muôn dặm mà lòng vẫn để nơi cửa
khuyết - không tài cán gì, nhưng vẫn ôm cái chí lo trước mọi người) (Hoành Châu - Nguyễn
Đình Mỹ) [148, 298]. Những hiện tượng, vật thể trong vũ trụ đối với thơ Nho có
một ý nghĩa tượng trưng riêng, một hệ thống ký hiệu thẩm mỹ riêng về con người. Hoa
tượng trưng cho mỹ nhân, hạnh phúc; nguyệt là biểu tượng của bạn quí hoặc cái đẹp dịu
dàng. Hoa vừa nở là thánh nhân khởi hứng; cây tạp được ví với tiểu nhân; mưa bên sông tiêu
biểu cho người đeo đuổi danh lợi; tùng, trúc, mai, cúc… là kẻ sĩ quân tử.
Những con người mẫu mực là con người thống nhất, thích nghi với dịch biến (đạo), con
người giao hoà vũ trụ, con người phiêu dật. Một mẫu người rất quan trọng trong thơ Nho là
con người giao hoà vũ trụ. Chủ nghĩa Hậu hiện đại cho rằng quan niệm “con người trung tâm
vũ trụ” đầy mâu thuẫn và phi lý, thì ngược lại con người trong thơ Nho chính là sự tương
thông vũ trụ, là tâm vũ trụ. Vũ trụ là thế giới nhìn trong tổng thể, con người có tính chất giao
hòa, tham gia cấu thành tổng thể đó. Con người giao hoà vũ trụ ở thơ Nho biểu hiện qua các
phương diện khác nhau như tả tình bằng những hiện tượng mang hình thức vĩ mô của vũ trụ.
Con người giao hòa vũ trụ cũng biểu hiện qua tư duy về nhịp vận động của hệ thức thời gian
cuộc đời - thăng trầm, dịch biến. Con người giao hòa còn biểu hiện ở không gian giao hòa
với cái tôi phóng khoáng. Tình cảm của thi nhân ký thác và được diễn tả bằng vẻ đẹp thiên
nhiên đất trời. Thơ Nho có tình yêu máu thịt với cuộc sống đất trời, sự giao hoà tương thông
của tình yêu cuộc sống, của lòng nhân và hơn thế nữa: “Rùa nằm hạc lẩn nên bầy bạn - Ấp ủ
cùng ta làm cái con” (Ngôn chí, 20 – Quốc âm thi tập) [123, 402]. Đó là những tâm hồn
nhiều xúc cảm và hết sức sâu sắc khoan dung. Ở đây thơ có sự tác động không nhỏ của tư
tưởng Lão – Trang và tư tưởng Thiền.
Nhà thơ thường sáng tác trong tâm thái trong sáng của lòng mình, đối diện với cổ nhân,
thánh nhân. Con người trung thần – liệt nữ – ẩn sĩ… là những con người tri âm với cổ nhân,
thánh hiền theo nghĩa lý tưởng nhất. Đây cũng là một tinh hoa về nguyên lý thăng hoa nhân
cách trải qua bao thế kỷ. Nhưng thơ Nho còn có con người tri âm với cuộc đời theo ý nghĩa
trần thế, cận nhân tình với biết bao nhạy cảm. Từ đó trong thơ phản ánh những con người thế
sự, con người phong trần, tha hương, con người ưu tư, con người ký ức, con người mơ mộng,
con người tự trào, con người trong tâm trạng và các cảnh ngộ yêu thương. Trong đó, tri âm là
nguyên tắc quán xuyến toàn thể thơ Nho.
Những vần thơ lay động lòng người thường là nỗi đau thế sự, những con người thế sự,
cái tôi thế sự. Thơ Nho thế kỷ XIV – XV không phải chủ yếu theo hướng này nhưng biểu
hiện của tính thế sự, con người thế sự trong thơ cũng không ít.
Con người Nhân nghĩa trong tiến trình thực hiện lý tưởng Nho gia thường phải chứng
kiến một hiện thực trần thế. Vì vậy, thơ Nho không chỉ thuần túy nói về lý tưởng, cái tâm
của thánh nhân mà còn phản ánh những tình huống khác nhau, những xúc cảm phức tạp của
con nguời trong xã hội, những éo le của con người trong mối quan hệ sĩ – dân, nho sĩ – thiên
hạ, nho sĩ với nhau và với chính mình. Những bài thơ viết trong quán khách đêm thu phản
ánh cái tôi buồn tủi, tương tư khó phai mờ trong suốt mạch thơ. Cả phương thức tư duy và
ngôn ngữ của những bài thơ trên vẫn còn được sử dụng trong thơ đầu thế kỷ XX. Mạch thơ
tương tư, sầu tủi nơi đất khách là chủ đề của thơ cũ và cả thơ mới.
Thơ Nho thế kỷ XIV - XV còn có một lĩnh vực khác, một dạng con người khác, tuy
không chủ yếu, đó là người đẹp, con người trong tâm trạng yêu thương. Theo quan niệm cổ
thơ có vịnh sử, du tiên, diễm tình, vịnh vật, hay chia nhỏ hơn có các loại thơ luyến ái, thương
vong, khuê vãn… Loại diễm tình chiếm tỷ trọng quá khiêm tốn trong thơ Nho giữa thế kỷ
XIV – giữa thế kỷ XV. Tuy vậy, một số bài thơ như bài "Dục Thúy sơn" (Ức Trai thi tập) đã
có bóng dáng con người xinh đẹp thấp thoáng trong thơ:
"Tháp ảnh trâm thanh ngọc
Ba quang kính thúy hoàn"
(Bóng tháp ngời trâm ngọc
Tóc mây gợn ánh huyền)
(Khương Hữu Dụng dịch) [148, 82]
Cảnh thiên nhiên như bóng dáng người con gái yêu kiều trong cảm xúc và mơ mộng của
tác giả. Ngọn tháp trên núi soi bóng xuống dòng sông như trâm ngọc cài lên mái tóc huyền.
Tác giả sử dụng hình ảnh mang tính ước lệ nhưng vẫn sinh động.
Một ít trường hợp khác miêu tả người đẹp qua lăng kính tình yêu của những bài thơ tình
cổ kính. Hoa đào trong thơ Nguyễn Bảo không mỉa mai như trong thơ họ Thôi mà chan
chứa, nồng nàn (“Hoa đào cười gió đông”). Bài “Cổ ý” của Lê Thiếu Dĩnh là mượn người
xưa để diễn tả tình cảm hôm nay, nhân vật trong thơ chỉ thấp thoáng nhưng rất đỗi tha thiết,
vì “Về mùa đông rét mướt - Ngày cứ ngắn dần” và “đêm lại dài” nên “Ta mong đêm thế
mãi - Để mơ màng bên ai…” [148, 225]. Nỗi thương nhớ nhẹ nhàng dễ mến, ý thơ vừa mềm
dịu vừa lãng mạn vì người xưa đâu hẳn vô tình.
Thông thường thơ Nho mang tính quy phạm, thanh nhã, mang cảm thức con người
tương thông vũ trụ, mang cái đẹp thiên nhiên. Dạng thức cái tôi khách quan hóa chuyển sang
dạng thức khách thể đã chi phối hầu hết các dạng con người trong thơ Nho. Quán xuyến
trong thơ là con người tri âm – tiếng nói tri âm. Nhà thơ viết cho mình, cho người đồng cảm.
Người đồng cảm ở đây có thể là thánh nhân, minh quân, lương tướng, ẩn sĩ, mỹ nhân. “Thi
khả dĩ quan”, từ thơ mà nhận thức được con người, nhân tình, phong tục, phương thức tư
3.4.2. Hình tượng nhà nho - cảnh ngộ
duy, ý thức thẩm mỹ của người xưa.
Bên cạnh những "kiểu người phẩm chất" kể trên còn có những "kiểu người cảnh ngộ".
Dựa vào cảnh ngộ, tình huống mà hình tượng con người trong thơ thể hiện bản sắc và xác
định. Kiểu người ảnh ngộ thường gặp ở đây là kiểu người ẩn dật, phiêu dật, lưu lạc, phong
trần thậm chí cô độc.
Để tỏ bày những ẩn khúc trong lòng và biện hộ cho thái độ của mình trước thời cuộc,
nhà thơ đã dùng tiếng thở than của chim quyên để gởi tấm lòng. Nhà thơ đã viết trong niềm
đau xót: “Tam xuân đề huyết quyên thanh đoạn, Vạn lý qui tâm quế ảnh cô” (Ba xuân rõ
máu quyên đòi đoạn – Muôn dặm lòng về nguyệt lửng lơ) (Quân trung tác – Trần Nguyên
Đán) (Hoàng Khuê dịch) [178, 184]. Người quân tử mãi lo sự nghiệp chung quên mất đêm
dài đã hết. Tình trạng đó, nỗi lòng đó cứ lặp lại thành một chuỗi đêm dài thao thức:“Đêm
đêm thức nhẫn nẻo sơ chung” (Thuật hứng, 23- Nguyễn Trãi) [123, 418]. Người quân tử
phương Đông chịu sự tương tác của cổ nhân, thánh nhân khác với hiệp sĩ phương Tây – chịu
sự tương tác của mỹ nhân và mỹ cảm tình yêu.
Con người ẩn dật là hệ quả của con người giao hoà. Trong thơ Nho, con người ẩn dật
thường khao khát tự do - một biểu hiện của tư tưởng tự do trong văn học cổ. Nó không hoàn
toàn giống với ý thức vũ trụ. Tư tưởng tự do trong thơ Nho thường được nhắc đến khi so
sánh với điển tích “thú vui sông Nghi” và tư tưởng ẩn dật của các thế hệ ẩn nho. Người nho
sĩ có quyền quyết định xuất xử, tự quyết định cuộc đời ẩn dật và thái độ ẩn dật. Tự do mà họ
có được mang tính chất một sự cảm nhận hơn là một phản ứng. Ẩn dật là một triết lý, một lẽ
sống, một lý tưởng hơn là thái độ phản đối hay nổi loạn. Sự tương tác với tư tưởng Lão
Trang, Thiền, phạm trù Tính của Lý học… đã thúc đẩy đáng kể tư tưởng ẩn dật.
Trong thi ca, con người ẩn dật có cơ hội tìm lại cái tôi chân thật của chính mình. Có hiện
tượng ba cái tôi tồn tại trong một con người (cái tôi đạo lý, cái tôi trách vụ, cái tôi chân thật).
Có hiện tượng một cái tôi bao hàm nhiều con người (con người giao hoà vũ trụ, con người xã
hội, con người đạo lý). Người ẩn dật sống với cái tôi chân thật, cởi bỏ những kinh nghiệm,
trách nhiệm, quan niệm về lý tưởng.
Con người ẩn dật đôi khi trở nên bi quan, tiêu cực nhưng nhìn chung từ đó dễ hiện thực
hóa những lý tưởng Nho học trong thái độ sống, trong ngôn ngữ và trong sáng tác. Còn ở nhà
nho hành đạo, có khi ta rất khó phân biệt đâu là con người hành đạo đích thực, đâu là con
người danh lợi trong khi con người hình thức thường lấn át con người thực chất.
Từ những ẩn sĩ, con người tự do, phiêu dật trong thơ Nho càng tư duy sâu sắc về quan
niệm “nhàn”. Người quân tử ẩn sĩ thưởng thức nhàn một cách biệt lập, cô độc, hoặc vừa dạo
chơi sơn thủy vừa sáng tác. Các sắc thái trong thơ ẩn sĩ diễn đạt bằng các ký hiệu thẩm mỹ
riêng như đá (núi) tượng trưng cho người trầm tĩnh, kiên cố, thoát tục, trường thọ, đẹp hoành
tráng. Tuyết là tinh thần cao sĩ, trong sạch; cánh nhạn lẻ là khách cô đơn hay quân tử lánh
đời; chim âu tương trưng cho người ẩn sĩ rong chơi, người không có mưu đồ (cơ tâm).
Người ẩn sĩ nghĩ về nhàn, tư duy về nhàn từ góc độ xã hội; tiếc cảnh nhàn – mơ về nhàn
– ước mơ thanh cao hay vui nhàn (một biểu hiện của giọng ưu du, thung dung, một biểu hiện
của tự do, lạc đạo). Cơ sở phát sinh tư tưởng ẩn dật, một phần là do lý tưởng thanh cao,
những tấm gương danh nho ẩn dật (cao sĩ) làm tiền lệ nhưng một phần quan trọng là do sự
mâu thuẫn của lý tưởng và hiện thực. Sự đối thoại và xung đột giữa con người lý tưởng và
con người xã hội diễn ra ngay trong bản thân từng nho sĩ. Hiện thực cuộc sống đôi khi làm
cho người nho sĩ chân chính, hồn nhiên vỡ mộng và từ đó việc ẩn – nhàn, lẽ xuất xử được
đặt ra.
Những nghịch lý trong hiện thực đã đem nhiều nỗi đau vào lòng người nho sĩ. Từ đó
tâm sự sâu kín của nhà thơ chỉ còn gởi vào đám mây cô độc: "Tràng đoạn cô vân lạc chiếu
biên" (Ruột đứt thấy áng mây lẻ loi bay trong bóng chiều) (Nam Giao thu sắc – Trình Sư
Mạnh) [09, 36]. Tác giả dùng cảnh để ngụ tình, vì ngoại cảnh tương ứng với nội tâm. Dường
như nỗi đau xé lòng (đoạn trường) chỉ thể hiện thoáng qua nhưng có sức nặng. Thực trạng
đau buồn đã đưa người thi sĩ đến một lựa chọnt. Từ đó, người ẩn dật, thái độ nhàn nhã là
cách thức được lựa chọn. Cảnh “sơn lâm”, “đồi cao khe mát” đã che chở một tâm hồn thảnh
thơi, bình thản. Từ cảm giác này, con người có thể thư thái, bước khắp mọi nơi.
Trong thiên nhiên, tuy là cảnh sinh hoạt nhưng “cày cuốc” không còn là sinh hoạt đời
thường mà được biểu trưng hoá, nghệ thuật hoá công việc nông thôn phản ánh niềm vui và
cảm hứng thanh cao: “Cày chống tuyết ngâm đòi cảnh - Cuốc chơi xuân khắp mọi đồi”
(Ngôn chí, 12 – Nguyễn Trãi) [123, 349]. Thi nhân khao khát được sống tùy thích. Nhưng
thực tế vì không được như thế, thi nhân đã để cơ hội đi qua từng ngày trong luyến tiếc. Hai
câu thơ như một dòng ý thức của cảm nghĩ tản mạn (mạn cảm), ý thức về một ngôi nhà nhỏ
bên liếp rau dưa ở cuối chân trời vẫy gọi, khát khao.
Ước mơ đó gởi vào đôi chim trắng bên hoa, gởi vào bãi ẩn dật bên dòng nước. Người
nho sĩ để tâm hồn như cánh chim tự do. Không gian ẩn dật là ước mơ và là chỗ dừng chân
của người nho sĩ hành đạo: "Nhân gian lụy bất đáo Thương châu" (Lụy nhân gian không đến
được bãi ẩn dật) (Vãn lập – Nguyễn Trãi) [123, 330]. Ý thơ thật thanh khiết, bình an. Nó có
cội nguồn từ cảm hứng thanh nhàn và cảm hứng thiên nhiên của tác giả.
Con người nhàn ẩn, tiêu dao, tự do trong thơ Nho có sự tương tác của các tư tưởng khác,
làm cho phương thức tư duy về “nhàn” càng phong phú. Một chút tư tưởng Liệt Tử trong thơ
Lý Tử Cấu, vô sự trước dư luận và mâu thuẫn qua điển tích chiếc thuyền không (Thuật chí)
[117, 335]. Một chút Thiền trong thơ Nguyễn Trãi, người vô sự trong cảnh vô sự thì mái nhà
tranh là cả một thế giới: “Chụm tự nhiên một thảo am - Dẫu lòng đi Bắc lẫn về Nam” (Thuật
hứng, 19 – Nguyễn Trãi) [123, 417]. Thơ Nho cuối thế kỷ XV về sau càng nói nhiều đến lẽ
ẩn dật
Hệ quả của con người giao hoà vũ trụ, con người ẩn dật, con người khao khát tự do là
con người phiêu dật. Con người đó được xem là “cao” trong thang giá trị Nho gia. Chính con
người phiêu dật góp phần tạo nên giọng điệu phiêu dật trong tư duy thơ Nho - “Thua được
toan chi cơ Hán Sở - Nên chăng đành lẽ chuyện Thương Chu” (Thuật hứng, 13 – Nguyễn
Trãi) [123, 415]. Không bận hơn thua, được mất, người nghệ sĩ làm bạn với Đạo, với trà, với
thơ, với thú biển hồ là một quan niệm đặc biệt, một phong cách nghệ thuật. Mạch thơ phiêu
dật vẫn tiếp tục trôi trong dòng thơ Nho, lắng đọng, tĩnh mịch dưới những náo nhiệt, những
bước đường hành đạo đầy hào khí của người nho sĩ.
Nhưng ngược lại, có trường hợp người nho sĩ nhập thế gác bên ngoài những siêu thoát
để quay về thực tế. Hào khí Nho phong thể hiện thái độ dứt khoát: “Hảo tương quốc luận tư
thâm ý; Hà tất Bồng, Doanh nhập mộng tư” (Vui đem việc nước bàn thêm ý - Hà tất tìm tiên
giấc mộng say) (Du hồ – Nguyễn Mộng Tuân) (Bản dịch Hoàng Việt thi tuyển) [09, 395]. Đó
là phong cách khác biệt của thơ Nho về tư tưởng nghệ thuật so với dòng thơ ảnh hưởng
Trang Chu. Phong cách thơ Nho hướng đến cộng đồng, hướng đến đất nước một cách mạnh
mẽ
Thơ Nho còn phản ánh tâm hồn mòn mỏi của người ly loạn với cái tôi trữ tình rối bời
bởi bao nhiêu biến cố, bao nhiêu tâm trạng “loạn lạc”. Không gian trong thơ đã trở thành
cảnh “đất trời gió bụi”. Con người lưu lạc ấy luôn lo lắng về người mẹ hiền nơi xa xăm “Mẹ
già tuổi sáu mươi cách xa ngàn dặm” và nhìn lại mình thì cảnh “Lam chướng núi rừng, chỉ
những mòn mỏi tâm hồn!” (Tị khấu sơn trung- Nguyễn Phi Khanh) [178, 381]. Nỗi khổ đau,
một thân cô độc trong núi rừng, gió bụi cuộc đời, khói lửa chiến tranh làm cho cái tôi trong
thơ hiện lên trong nỗi bất lực. Ở bài thơ “Thu nhật khiển hứng” [178, 395], nhà thơ tỏ thái
độ phê phán những thói thường đen bạc của cuộc đời. Tâm sự đó trong thơ của các nho sĩ
như Nguyễn Phi Khanh là khá nhiều. Tác giả dùng ẩn dụ ví tình đời như chiếc quạt lụa mỏng
mà con người thế sự đã từ bỏ. Đến thế kỷ XVI- XVII, khuynh hương ẩn dật càng phát triển
hơn (Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Hàng, Nguyễn Dữ...).
Đến thế hệ Nguyễn Trãi, thi nhân tiếp tục nhận thức những nỗi đắng cay thế sự. Nỗi xót
thương biểu hiện khá khá rõ cái tôi thế sự. Trong thơ ta như hình dung ra cảnh người nho sĩ
cô độc “Giữa đêm không ngủ xót thân mình” (Tầm Châu – Nguyễn Trãi) [123, 385]. Cảm
nhận thế sự được diễn đạt khá đầy đủ qua sự hòa lẫn cả các vị: đắng – cay – mặn – chát trong
bài Thuật hứng, 1 (Nguyễn Trãi) [123, 411]. Con người cô độc cũng là con người phong trần
khi quan niệm về thịnh trị mâu thuẫn với quan niệm cuộc đời đầy biến cố, đầy thử thách, đầy
bất hạnh. Từ đó khái niệm về cái tôi vốn mờ nhạt có khuynh hướng đi đến định hình. Từ
dòng đời chìm nổi “Phiêu đãng bồng bình khách” (lênh đênh như bọt như bèo), tác giả
không khỏi “Hữu hoài thành độc tọa” (ưu tư ngồi rũ một mình) (Dạ tọa - Nguyễn Trung
Ngạn) [11, 266]. Thơ ca đồng hành, chia sẻ và là tiếng đàn tri âm của những những tâm hồn
không có tri âm.
Khi quân Minh kéo sang, huỷ hoại văn hoá dân tộc, đưa sách vở Tống Nho sang đồng
thời làm xáo trộn, đổi thay hiện thực cuộc sống người dân Việt, làm xuất hiện con người tha
hương trong thơ Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi,… con người lưu đày trong thơ Lê Cảnh
Tuân… Từ hiện thực xã hội, từ thái độ con người xã hội, người nho sĩ ưu tư về cuộc đời, về
chính mình dưới trăng thu. Với “sầu mới hờn xưa” của “người Nam kẻ Bắc”, cái lạnh tràn
vào chiếm cả "Ánh trăng trơ trọi". Người thi sĩ nho sĩ có nhiều tâm sự suốt đêm dài nên
"Mùa thu đến, đêm đêm vẫn vướng vất trong lòng” (Thu dạ - Nguyễn Phi Khanh) [178,
475]. Tâm sự như thao thức và trĩu nặng lên những trang thơ.
Với dạng “thơ ngôn tình”, mộng thực đan xen với tâm sự vướng vất mối sầu, cái tôi
càng phức tạp. Ở đây tác giả không nhân danh ai, mà viết cho chính mình. Qua hai bài
“Phụng tặng Vi tả Thừa tướng thập nhị vận” và “Tặng biệt Nghiêm Sĩ Nguyên", Đỗ Phủ,
Lưu Trường Khanh và cả Nguyễn Trãi (Đề Từ Trọng Phủ Canh Ẩn đường) [178, 475] đều tự
nhận ra quan chức làm lầm lỡ đời kẻ nho sĩ. Có thể nhà thơ đứng từ một góc nhìn khác để
nhìn nhận lại con người nho sĩ. Con người ưu tư phản ánh những số phận với niềm đau, nỗi
buồn riêng trong cuộc đời quan chức. Con người trong thơ không còn lạc quan, không tư duy
bằng ánh sáng lý tưởng mà cảm nhận bằng cảm thức cuộc đời. Con người lý tưởng dịch
chuyển về phía con người phổ quát đã giúp cái tôi thế sự của nhà nho có điều kiện nhận diện
lại chính mình.
Con người trong thơ Nho giai đoạn này thường có sự ràng buộc bởi đạo lý rất mạnh
mẽ. Tâm trạng thi sĩ luôn suy tư không rời đạo lý một cách trân trọng, thành kính như một sự
tín ngưỡng. Tuy nhiên ở đây đạo lý không rập khuôn, thi ca ít minh họa cho những tác phẩm
kinh điển nào đó ở Trung Hoa hay ca tụng những tác phẩm kinh điển nào đó.
Thơ Nho lúc này chưa chú ý đến từng thân phận con người như người chinh phụ ở
khúc ngâm của Đặng Trần Côn, người cung nữ trong sáng tác của Nguyễn Gia Thiều hay
người lính bị thương trong thơ Tùng Thiện Vương.
Con người ở đây hùng dũng, phóng khoáng, giàu tinh thần tự chủ chứ không giữ lễ,
khiêm cung thái quá. Con người ở đây là nhà nho hành đạo hay nhà nho cô độc, bất lực trước
thời thế chứ không là tiếng nói phản kháng của thân phận con người. Ở đây chỉ có những con
người trách nhiệm, mẫu mực.
Đặc điểm hình tượng con người trong thơ Nho giữa thế kỷ XIV- giữa thế kỷ XV có bản
sắc riêng so với thơ Thiền trước đó và thơ Nho sau đó. Nhìn chung nó tích cực nhưng cũng
3.5. KHÔNG GIAN - THỜI GIAN NGHỆ THUẬT
có một số mặt không có ưu thế như thơ Thiền hay còn nghèo nàn so với thơ Nho về sau...
Dưới cái nhìn tổng thể, thế giới là thực tại đa tầng gồm nhiều yếu tố phức tạp. Không
gian, thời gian, con người là những yếu tố quan trọng của thực tại. Trong văn bản, cấu trúc
không gian, cấu trúc thời gian hoặc những yếu tố có thuộc tính tương tự như không - thời
gian là chất liệu không thể thiếu để chuyển hóa văn bản thành thế giới nghệ thuật.
Con người với tư cách chủ thể trữ tình, đã nội cảm hóa thế giới thành hình tượng thế
giới trữ tình. Thế giới nghệ thuật trữ tình thường được diễn tả bằng ngôn ngữ, ý tượng, ý
cảnh, cảnh giới… Với thơ Nho, vai trò của yếu tố không gian thường nổi bật hơn vai trò của
yếu tố thời gian. Không gian tham gia và tổ chức tác phẩm nghệ thuật cũng vì thơ xưa là thi
họa (thi trung hữu họa), là những bức tranh (cảnh).
Người xưa thường nhấn mạnh khái niệm cảnh giới trong thơ. Nhiều nhà nghiên cứu đã
dựa vào khái niệm này để phê bình và đánh giá thơ ca cổ. Trong đó “cảnh giới tức ý cảnh,
tâm cảnh, thi vị, thi ý (ý thơ)” [147, 226]. Thế giới nghệ thuật trong thi ca đồng thời là cảnh
giới tinh thần kiểu mỹ học được cấu thành từ tình, cảnh, sự. Đối với nhà nho, “Nhân” (trong
hệ thống Nhân - Nghĩa) là phạm trù tập trung, nhất quán của Nho học. Phạm trù Nhân đã ảnh
hưởng sâu sắc từ những nho sĩ bình thường cho đến các danh nho. Cảnh giới Nhân là cảnh
giới lý tưởng mà mọi tác phẩm nghệ thuật chính thống đều chịu ảnh hưởng trực tiếp hoặc
gián tiếp. “Chỉ có biết được tâm thể (bản thể của tâm) tức nhân, mới là cảnh giới trọn vẹn”
[108, 946]. Cảnh giới "Nhân" trong văn học Việt Nam được phản ánh ở “cõi Thọ nền
Nhân…” (Xuân đài phú - Nguyễn Mộng Tuân) [117, 287-290], Bát giáp thưởng đào văn –
Lê Đức Mao… Nguyễn Bỉnh Khiêm nhận định “Cứu cho dân điêu đứng bệnh hoạn này -
Thì bước lên cõi Nhân cõi Thọ…” (Thương loạn) [148, 868]. Xây dựng một xã hội tốt đẹp về
nhiều mặt cũng là thống nhất với quan niệm này. Đó là những ước mơ, những suy nghĩ hết
sức trong sáng. Những ước mơ đó làm đẹp cho suy nghĩ của các nhà nho và những bài thơ
Nho.
Ta có thể thấy cảnh giới “Nhân” mà Nguyễn Trãi đề cập đến đó là sự kết hợp của đất
trời và ý thức thẩm mỹ của bản thân người nghệ sĩ. Đó là một không gian mà ở đó thiên
nhiên và con người rất gần gũi, cùng làm bầu bạn:“cò nằm hạc lẩn nên bầy bạn”, “núi láng
giềng chim bậu bạn” (Thuật hứng, 19) [123, 417]… Cảnh giới “Nhân” và cảnh giới thi ca là
hai cảnh giới không đồng chất, một bên là đạo đức học, một bên là mỹ học. Từ phạm trù
“nhân” đến những hành động tích cực (trong đó có Tu, Tề, Trị, Bình), đến sáng tác thi ca và
đến phạm trù “lạc” (hạnh phúc) là một chuỗi quan hệ nhân quả. Thế giới nghệ thuật của
người nho sĩ là cảnh trong tình – tình trong cảnh.
Trong thơ Nho, từ trục hài hòa – không hài hòa sẽ xác định lại các tính chất tâm lý theo
các dạng thức hài hòa – tích cực như hỷ, hân, hoan, lạc, hứng, tuệ…; không hài hòa – tiêu
cực như ưu, tư, lự, ái, ố, bi, sần, oán, hậu, thán, thương, lân, mẫn, hoài, ức, vong, tưởng, tích,
tư, tăng, bi, khủng…
Đó là những trạng thái biểu hiện của quá trình thi nhân nội cảm hóa thế giới khách quan,
nội cảm hóa thực tại cuộc sống thông qua cảm hứng nghệ thuật thi ca. Trục gần – xa trong
thơ Nho thường được biểu hiện ở mô hình xa gần. Gần là thân thuộc, ấm áp, yên ổn, quê
hương, rau thuần, cá vược, không gian cung đình, miếu đường, kinh kỳ… Xa là lạnh lẽo, xa
lạ, thù nghịch, quán khách, chốn giang hồ, sông chằm lau lách, lưu đày, chiến tranh, loạn lạc,
biên tái, đường đi sứ…
Với nhà nho ẩn dật, cái nhìn ẩn dật tạo cho trục xa – gần có những thay đổi mang tính
quan niệm. Nhà nho hành đạo lấy chốn kinh kỳ, miếu đường làm gần còn nhà nho ẩn dật
xem đó là không gian cần xa lánh. Thời gian trong thơ Nho có khi trôi chảy, có khi lắng
đọng “ức”, “tư”, “hoài” về một thời thịnh trị vàng son.
Trạng thái lý tưởng ở thơ Nho là ý - cảnh chan hòa. Nó đảm bảo sự hài hòa nhưng thông
thường là “ý thắng cảnh” (chú trọng về ý). Từ việc tổ chức không gian – thời gian, hình ảnh,
âm thanh trong thơ, các yếu tố này được lý giải: “Dòng tư duy trữ tình đã liên kết các yếu tố
không gian – thời gian, nội cảm – ngoại cảnh, cảm xúc – ý thức, hình ảnh - âm thanh… tạo
nên một thế giới tinh thần thống nhất của một hồn thơ… ” [127, 525]. Phương thức trữ tình
đã chắp cánh cho thơ vượt qua những khó khăn, vượt qua những giới hạn khắt khe về thể
cách để đến với mọi người.
Không gian – thời gian trong thơ Nho đồng thời tồn tại thống nhất nhau, đồng thời thống
nhất với những dạng thức quan niệm về con người trong thơ Nho. Không gian – thời gian đó
3.5.1. Không gian và thời gian tâm trạng của kẻ sĩ
mang tính chủ quan, đầy ước lệ, biểu tượng và được xây dựng bằng ngôn ngữ trữ tình.
Thời gian ở thơ Nho thường trôi chảy, dịch biến nhưng trật tự, tuần hoàn. Người nho sĩ
thuận theo tự nhiên, thuận theo dịch biến, hòa nhập vào dòng thời gian “tùy ngộ nhi an” nên
thời gian được cảm nhận từ một thời điểm tĩnh tại. Thời gian đó tương thích với không gian
hoành tráng để con người chiêm ngưỡng, tả cảnh, ngụ tình. Vũ trụ ở đây tương đối ổn định,
con người là trung tâm.
Cảm thức của thi nhân xuất phát từ những thời gian khác nhau. Cảm hứng thơ thường
bắt đầu trong những lúc “lên cao”, “thuyền quay về”, “thuyền nhỏ phiêu diêu”, “gió mạnh
buồm giương”, “thuyền dọc bờ”, “trời xế dựa chèo”… Thi nhân hòa nhập tâm hồn vào
không gian đất trời. Các tác giả hoàn toàn rung cảm với cảnh vật, con người trách vụ tiếp
nhận không gian cao rộng. Tác giả vừa chiêm ngưỡng vừa tắm tâm hồn trong vô tận. Đây
cũng là biểu hiện con người giao hoà vũ trụ thống nhất trong không gian, thời gian hoành
tráng, vĩnh viễn của tự nhiên. Về với thiên nhiên là nếp phong nhã của nho gia.
Thời gian tĩnh lặng, thời gian chỉ còn dấu hiệu khi mặt trời mọc, ngày tàn thuyền về
bến… Không gian trong thơ Nho có độ rộng đến mênh mông, từ cảnh điền viên đến cảnh
sơn thủy. Độ tĩnh mặc của thế giới thường nằm trọn vẹn trong những tập tranh liên hoàn,
những bài thơ vịnh cảnh - Tiêu Tương bát cảnh (Lương Như Hộc) [118, 243-246], truyền
thống này được tiếp nối bởi Đào Nguyên bát cảnh (Hồng Đức quốc âm thi tập), Hà Tiên
thập vịnh (Tao đàn Chiêu anh các), (Bát cảnh giang sơn Ngô Châu (Phan Hy Lượng). Trong
những tập tranh, thơ và họa liên thông nhau vì Họa là “vô thanh thi” (thơ không lời) và thơ là
“thi trung hữu họa”. Bước vào thế giới các bộ tranh là một thế giới nhạc họa đa sắc, với cảm
hứng sáng tác và thưởng ngoạn riêng. “Cung viên thập cảnh” (Nguyễn Hiến Tổ) viết nên
cảnh đẹp ở kinh đô nước Việt đứng trên tầm cao nhìn xa, ngồi trầm tư hay thưởng cảnh trong
vẻ xanh của núi, cánh cò bay, bóng trăng in, tiếng chuông sớm, tiếng trống canh…
Những vẻ đẹp khác nhau trong thơ xếp cạnh nhau thành những bộ tranh cảnh và có thể
so sánh với nhau. Vẻ đẹp của Tiêu Tương bát cảnh (Lương Như Hộc) có thể đối sánh với
Đào Nguyên bát cảnh ở Hồng Đức quốc âm thi tập; có điều không gian ở cảnh Đào Nguyên
mang tính cụ thể hơn (thôn Tiến Trung, bãi cát Trà Thượng, Nang Sa, Động Lâm, Liên
Khê…). Nhà thơ Nho đã chọn được những góc nhìn khác nhau để tái hiện, có thể từ viễn
cảnh, trung, cận cảnh, theo tâm trạng, theo mùa, theo mặt trời, theo ánh trăng… Trong tập
tranh cảnh Ngô Châu (Quí Châu), Phan Hy Lượng dùng hàng loạt các chất liệu tự nhiên làm
nền như sông, mây, ráng chiều, giếng nước, cánh đồng, trăng mờ, ao sâu… (không gian) và
các chất liệu thời gian (trời chiều, trời đêm)… trong đó không gian chiếm ưu thế.
Đây là những bức tranh sơn thủy, phản ánh sự cộng hưởng qua lại của cấu trúc đa tầng.
Vũ trụ bao la trong đó có nhiều bức tranh thiên nhiên rất đẹp. Nơi đó “có cảnh sơn thủy trên
đất, có cảnh sơn thủy trên tranh, có cảnh sơn thủy trong mộng và có cảnh sơn thủy trong
lòng” [38, 239]. Những bức ảnh được phối trí theo những mô hình độc đáo. Thiên nhiên thơ
Nho không chỉ thanh nhã, u hoài, trang nghiêm, kỳ dị, cổ kính… mà còn đẹp ở cảm thức
phong nhã trong kiến tạo cảnh vật.
Không gian thơ Nho còn có những cách diễn tả khác như vẻ đẹp trùng điệp của núi, của
sông và sự giao hoà cộng hưởng của chúng. Bài thơ “Hý đề” (Ức Trai thi tập) [123, 361] đã
phản ánh mối giao hòa đó.. Thơ còn miêu tả vẻ đẹp hoành tráng thiêng về chiều cao rộng,
trăng sao - đất trời và không gian bồng bềnh chuyển động trong cấu trúc vũ trụ - "Trăng sao
nổi giữa bồng bềnh không gian” (Động Đình hồ – Nguyễn Trung Ngạn) [11, 194]. Có vẻ
đẹp xa rộng thiêng về chiều ngang, với góc nhìn xa, không gian có độ sâu: “Trời muôn
trượng thẳm" tương giao với "Nguyệt một vầng in” (Thơ vịnh 12 tháng - Hồng Đức quốc âm
thi tập). Người xưa quan niệm “Văn chương là sơn thủy trên án thơ, sơn thủy là văn chương
trên đất”. Những sơn thủy đó khi cao rộng, xa gần nhưng phạm trù “giao hòa”, “giao cảm”
đã đưa mây núi, biển, trăng giao hòa với tình người thành vẻ đẹp sơn thủy trên án thư và tái
hiện sơn thủy trên mặt đất, trong lòng người.
Phương thức tả cảnh xưa còn cho thấy phương thức thưởng ngoạn thiên nhiên, những
ảnh hưởng, những niềm vui thanh nhã của một nền mỹ học cổ xưa. Người xưa phát hiện cái
đẹp ở tự nhiên, xem thiên nhiên là tận mỹ, hơn là khám phá để chiếm lĩnh. Đồng thời qua đó,
hứng thú, mỹ cảm của người xưa được khôi phục. Những mô thức mang tính quan niệm hiện
ra như “kề hoa ngắm sông", "lên lầu vọng cảnh", "khai môn kiến sơn", "sơn thủy hữu tình”...
là phương thức tư duy nghệ thuật về thiên nhiên vốn đã trở thành truyền thống của thơ
Đường (Vương Duy "mở cửa tuyết đầy non" hay Thôi Hiệu nhìn "khói sóng sông đầy khách
ngẩn ngơ"). Dĩ nhiên, thơ của nhà nhoViệt thế kỷ XIV – XV có phương thức thể hiện cụ thể
riêng.
Phương thức phối trí thiên nhiên trong thơ Nho thông qua những biểu tượng thời gian vũ
trụ và sự tổ chức phối trí không gian mang tính bền vững. Đó là cách tiếp cận thực tại qua cái
nhìn thi vị và thanh cao. Mùa xuân có én, oanh, lan, bướm… Hạ có sen, lựu, cuốc, ve, hòe…
Thu có lan, đóm, nhạn lẻ, cúc, ngô đồng… Đông có tuyết, hạc, tiếng tuyết… Biểu tượng
không gian được phối trí nét họa trong thơ như núi có thác, nước, cỏ, tiếng tụng kinh, tiều
phu, người ẩn dật… bổ sung và có cây cỏ, khói mây làm thần thái. Sông có cầu cao, cây to,
núi, đình tạ, người đánh cá, cổ thụ, nhà cỏ, bia đá… Biển có khói, sóng, sương, thuyền…; đá
có tùng, mây, mai, trúc, tiếng đàn, tiếng dế…
Sự phối trí thiên nhiên tuy bị hạn chế trong những quan niệm mang tính công thức
nhưng với cấu trúc của một bài thơ gồm 8 hoặc 4 câu dĩ nhiên gồm cả sự tác động, cộng
hưởng của ngôn ngữ trong các câu đó (phần cơ chất) để thành một bức họa. Không gian danh
thắng trong thơ được xây dựng bằng chất liệu trăng – nước – khói – mây… Trăng có mỹ
nhân, khói, sương, ngân hà, tiếng sáo… Mây có trăng, rượu, khách tao nhã… Xích Bích,
Trường An, Yên Tử, Đông Triều, Hoàng Giang… với tư cách “ý cảnh” được biểu hiện qua
nét đẹp toàn thể. Nét đẹp đó lấy chất liệu thiên nhiên làm cái chung và giới hạn bằng đặc
điểm địa phương.
Không – thời gian đất trời rộng mở luôn giữ vị trí quan trọng và chiếm ưu thế trong hầu
3.5.2. Thời gian tự nhiên (vô tình) và không gian dịch biến (hữu tình)
hết các bài thơ của các nhà nho.
Thời gian tự nhiên (vô tình) và không gian dịch biến (hữu tình) thường xuất hiện trong
thơ Nho.
Thời gian tự nhiên dễ được cảm nhận qua không gian tự nhiên. Thời gian tự nhiên đó là
lúc chờ nguyệt mọc, thấy nguyệt tròn, nguyệt đầu non treo chênh chếch, bóng ác rạng
đông…. Nhưng trong thơ Nho thời gian tự nhiên và không gian dịch biến thường xuyên gặp
nhau.
Cảnh vật ở đây cũng có phong thái riêng. Cảnh vật trong thơ Nho không giống cảnh vật
qua cái nhìn bản thể của thơ Thiền. Trước cảnh đổi thay người thi sĩ –Thiền sư đã bình thản
vì nắm được bản chất của sự vật hiện tượng “hoa nở hoa tàn vẫn thực xuân” (Thiền sư Chân
Không). Vì thế mà mà nó phân biệt với cách miêu tả cảnh vật trong thơ Nho. Thơ Nho ở đây
cũng không hoàn toàn đồng nhất với quan niệm “thiên địa tuần hoàn” trong thế giới quan
Nho giáo. Hoàn cảnh biến đổi đi liền với xúc cảm đa dạng và phong phú của thi nhân trước
hoàn cảnh thi ca. Những bài thơ như "Trung thu cảm sự", "Cửu nguyệt thôn cư độc chước"...
của Nguyễn Phi Khanh là những cảm xúc trước những đổi thay.
Thời gian trôi đi nhưng đó là thời gian của tâm trạng. Tâm trạng trong thơ Nho có
những điểm rất mới so với thơ Thiền. Về điểm này thơ Nho được nhìn nhận là “dường như
lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam, thời gian tâm trạng đã được thể hiện một cách
tập trung và sâu sắc đến thế, trong việc thể hiện cái tâm trạng buồn chán, thất vọng của lòng
người” [57, 85]. Điều này cũng là một trong nhiều điểm khác nhau giữa thơ Nho và thơ
Thiền.
Thi nhân trong thơ Nho thường chịu đựng những tác động khốc liệt của hoàn cảnh trong
suốt thời gian cá nhân đời người. Thời gian tự nhiên vốn vô tình nhưng thời gian đời người
thì đầy biến cố. Thi nhân thường cho rằng "mây vốn vô tâm nước hữu tình", thời gian nhẹ
nhàng trôi nhưng tàn phá tất cả, để lại cho tâm hồn nhạy cảm biết bao nỗi ưu hoài. Cảnh
cũng là tình, là sự nuối tiếc, đồng cảm. Bên cạnh đó “thế sự” cũng tương tác đến mối quan
hệ tình cảnh là mối xúc động, là cảm hứng sáng tác. Cảnh vật, sức sống trước sức tàn phá
của thời gian là mối bận tâm của thi nhân. Tuổi trẻ cũng vậy - “Má đào phai hết bởi xuân
qua” (Đào hoa thi, 5 – Nguyễn Trãi) [123, 470]. Tạo vật biến thiên vốn là qui luật nhưng
trước những bất thường đã khiến lòng người bâng khuâng.
Mùa thu được tâm thức cộng đồng gán cho là nhạy cảm. Mùa thu trong thơ là nỗi xao
xuyến trước những đổi thay, trước tuổi già. Ở đây ta thấy có sự gặp gỡ giữa thời gian tuổi già
và thời gian sau chiến tranh (Thu thành vãn vọng – Nguyễn Phi Khanh). Không – thời gian
mùa thu, tuổi già, chiến tranh… là thi liệu chính của bài thơ. Thời gian qua khung cảnh điêu
tàn và thời gian vẫn tiếp tục đi qua trong lòng người hoài cổ - “Lối xưa xe ngựa hồn thu
thảo” (Thăng Long Thành hoài cổ – Bà Huyện Thanh Quan). Thời gian như vô tình nhưng
tương phản đời người biết bao biến cố: “Vũ trụ thiên niên biến cố đa” (Vũ trụ ngàn năm xảy
ra nhiều biến cố) (Họa Tân Trai vận – Nguyễn Trãi) [123, 276]. Mỗi biến cố là biết bao thay
đổi, biết bao nỗi lòng, biết bao xúc cảm. Người thi sĩ nho sĩ rất nhạy cảm trước những
chuyển biến của thời gian.
Chính những biến cố trong dòng thời gian, trong hệ thức thời gian đời người đã đem đến
cho thơ nhiều cảm xúc. Nhà thơ cảm nhận được những tàn phá của thời gian lên đời người
“phù thế niên hoa thôi bạch phát” (năm tháng phù sinh dồn tóc bạc) (Phụng canh ngự chế
Hoàng Mai tức sự - Trần Nguyên Đán) [178, 208]. Âm hưởng chính của thơ vẫn là nỗi trăn
trở, tiếc thương gởi vào thời gian.
Cắm thuyền trên sông Thiên Đức, bên khu lăng nhà Lý, Nguyễn Phi Khanh không tránh
khỏi xúc động. Tác giả viết thay cho nỗi buồn của một thời đại đã qua: “Ngậm ngùi thay
cuộc trăm năm - Quay lưng bóng xế thơ ngâm một mình” (Bạc Nguyễn gia lăng) [178, 443].
Trong nỗi đau buồn, ngậm ngùi nhà thơ bắt gặp cổ nhân, gặp cái tôi chính mình trong bóng
chiều tàn. Người ngâm thơ và người thưởng thức chính là một tác giả. Cảnh điêu tàn càng
đưa thi nhân vào dòng hồi tưởng về những câu chuyện từ quá khứ.
Lê Cảnh Tuân cảm động trước Đằng Vương Các một thời nguy nga, đi vào truyền
thuyết. Tác giả từ hiện tại nhưng đã tìm về quá khứ với nỗi thắc mắc “Đương nhật phồn hoa
hà xứ tại” (Cảnh phồn hoa ngày ấy nay còn đâu) (Quá Nam Xương…) [178, 327]. Cảm thức
thời gian và nỗi buồn đau của nhà thơ họ Lê đã dẫm lên những nỗi đau trong thơ xưa.
Nguyễn Trãi nhận thức sự đổi thay bằng cái nhìn triết lý, Dịch lý. Các nhà nho thường
lý giải sự việc và thời cuộc từ những kinh nghiệm này: “Hoa càng khoe tốt, tốt thời rữa…”
(Bài 35 – Quốc âm thi tập). Nhận thức đó tương tự Dịch truyện – Quẻ Phong lời Thoán:
“Mặt trăng tròn rồi sẽ khuyết, trời đất đầy vơi cùng với thời gian sẽ lần lượt tiêu vong và
sinh trưởng, huống chi là người”. Đó là một quan niệm khá ổn định trong văn hóa Nho gia
đồng thời cũng là một ý thơ còn mãi về sau.
Thời gian vận hành để một triều đại hưng rồi vong, để bãi biển thành nương dâu. Đó là
tiếng vọng của phạm trù “Thiên” trong văn hóa Nho gia. Nó vừa chi phối vừa là chứng nhân
vừa là lịch sử… Nhà nho ưu buồn, đau xót nhưng ít khi tuyệt vọng vì vẫn tin vào lẽ tuần
hoàn: “vật cực tắc phản”. Hệ thức thời gian theo Chu Dịch trước sau vẫn là cơ sở, là quan
niệm mang tính văn hóa đặc thù nâng đỡ và tạo khí phách nhà nho trong mọi thăng trầm.
Đặc điểm không gian trong thơ Nho là tập trung vào không gian chính trị xã hội và
không gian tâm trạng. Không gian chính trị xã hội là môi trường cho con người hành đạo
hoạt động. Không gian tâm trạng là không gian môi trường cho con người hành đạo thao
thức, suy tư.
Không gian – thời gian chính trị xã hội gắn với hành động tích cực trong kháng chiến và
xây dựng đất nước Đại Việt. Không gian tâm trạng gắn với thời gian sâu lắng tĩnh mịch để
ưu tư về đất nước, thế sự. Trong thơ có nói lên nỗi nhục của kẻ sĩ nhưng chưa đề cập đến
không gian giam hãm số phận như những ý thơ sau này ở “Đàm ni thân thế khẩu thuật”
(Ngô Ngọc Du), “Cựu ca cơ” (Phạm Đình Hổ”) hay “Long Thành cầm giả ca” (Nguyễn
Du). Trào lưu nhân đạo chủ nghĩa cho phép thơ ca sau này có bút pháp thể hiện mạnh mẽ
hơn.
Không gian trong thơ Nho thường trong trẻo, tỏa sáng bởi chí khí và tấm lòng nhân
nghĩa Việt Nho. Những lúc trầm tư cô độc thường tạo nên bởi không gian nhạt nhòa. Dù
không gian của hoạt động hăng say tích cực hay không gian tâm trạng thơ vẫn gián tiếp
khẳng định cái đẹp theo tiêu chuẩn Nho của người Việt. Không gian thời gian thường thực
tế, chân thành, không tô hồng hay ca ngợi thái quá. Không gian danh thắng gắn liền với
chiến công, với lịch sử, với tổ tiên để đi đến suy ngẫm đạo lý chứ ít có những bức tranh vịnh
cảnh thuần túy, những bộ tranh liên hoàn theo chủ đề phong cảnh thuần túy. Không gian
thắng cảnh thường gắn với những lo lắng và trách nhiệm hơn là tả cảnh trong niềm vui say
thưởng ngoạn.
Tiểu kết: Qua những phương diện như thể thơ, ngôn ngữ, giọng điệu, hình tượng con
người - nhà nho, không gian - thời gian... ta có thể làm sáng tỏ những đặc điểm nghệ thuật
của thơ Nho Việt Nam từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV. Ở đây, thể thơ gồm cả thể
thơ có xuất xứ từ Trung Quốc và thể thơ dân tộc. Thể Thất ngôn bát cú khá thông dụng
nhưng không hoàn toàn sử dụng các bộ vần như ở Trung Quốc. Ngôn ngữ thơ có sử dụng
những từ ngữ - điển cố thuộc về văn hóa Nho gia nhưng cũng nhiều từ có nguồn gốc dân tộc
được sử dụng để diễn tả tâm hồn Việt. Giọng điệu thơ Nho khá phong phú như hùng hồn –
cương kiện, điển nhã, thanh cao, bi khái… Con người – nhà nho trong thơ thể hiện ở con
người phẩm chất và con người cảnh ngộ. Không gian – thời gian trong thơ Nho gồm không -
thời gian tâm trạng, thời gian tự nhiên (vô tình) và không gian dịch biến (hữu tình). Đó là
một số phương diện thi pháp thơ Nho Việt Nam từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV.
KẾT LUẬN
Ngày nay, khi tư tưởng Nho học đang trở thành phong trào nghiên cứu –các nhà nghiên
cứu ngoài nước đánh giá cao. Trong lịch sử, loại hình tác giả nhà nho đã đóng góp nhiều cho
văn học dân tộc, cho xã hội và cho xây dựng con người. Các nhà nho đã đóng góp lớn đối
với truyền thống văn hoá cổ truyền Việt Nam. Riêng thơ Nho đã chiếm một địa vị đáng kể
trong lịch sử văn học dân tộc thời Trung đại, đóng góp vào văn hoá dân tộc và khẳng định
nền văn minh cổ xưa. Nó góp phần tạo bản sắc thi ca nước Việt trong bối cảnh văn hoá khu
vực.
So với thi ca Trung Quốc, thơ ca giữa thế kỷ XIV – giữa XV ở nước ta tuy không phong
phú bằng nhưng vẫn có thế đứng nhất định. Như Phạm Đình Hổ nhận xét, nửa cuối thế kỷ
XIV thơ “tinh vi, trong trẻo, đều có sở trường tột bậc, cũng như thơ đời Hán, đời Đường
bên Trung Hoa” (Thể thơ –“Vũ trung tùy bút”) [53, 180]... Từ đời họ Hồ đến đời Đại Bảo
(niên hiệu Lê Thái Tông, 1440 – 1442) là “còn giữ được truyền thống đời Trần nhưng thể tài
khí phách ngày càng kém” [53, 180]. Ta vẫn thấy ý hướng tiếp nối và khôi phục văn hóa Lý
Trần ở Nguyễn Trãi. Như vậy người xưa đánh giá cao thi ca nửa cuối thế kỷ XIV hơn nửa
đầu thế kỷ XV và một thế kỷ thơ này mang dáng dấp thơ ca đời Hán, đời Đường. Kế đó từ
đời Quang Thuận (niên hiệu Lê Thánh Tông, 1460 – 1469) cho đến đời Diên Thành (niên
hiệu Mạc Hậu Hợp, 1566 – 1577) thì “học theo thơ đời Tống” [53, 180], như vậy sự hưng
thịnh mang dấu ấn Lý – Trần đã thay đổi. Còn thơ đời Lê Trung hưng vì quá chú trọng đến
“Cận thể” nên “câu nệ về khuôn phép, xu thế thấp kém” [53, 108]… Nhận định như thế cũng
khá bao quát nhưng chưa đánh giá đúng mức nghệ thuật thơ Nguyễn Trãi – linh hồn của thơ
Nho giai đoạn này.
Nhìn chung thơ Nho đậm cảm xúc cuộc đời, mang nặng tư tưởng Nhân nghĩa, lấy sự
quan tâm đến đời sống xã hội làm chủ đạo. Đó là cõi thơ của các nhà nho.
Các nhà nho đã đóng góp nhiều cho văn hoá dân tộc, luận án chỉ đóng góp một số khía
cạnh như bước đầu xác định một cách tiếp cận – nghiên cứu văn học Việt Nam hơn một thế
kỷ. Tiếp cận từ góc độ loại hình cho phép tìm ra sự đột biến, tiếp nối và làm rõ hai loại đặc
trưng của thơ Nho và thơ Thiền (nhìn từ phía thơ Nho). Phân tách sự hỗn hợp đó là cần thiết
và như thế sẽ phản ánh đúng bản chất của tình hình văn học Việt Nam giữa thế kỷ XIV –
giữa thế kỷ XV. Trong một thế kỷ đó có nhiều hiện tượng, sự kiện chứa đựng tiềm ẩn những
vấn đề tư tưởng triết học có liên quan đến thơ Nho. Nghiên cứu về thơ Nho không thể không
tìm hiểu mối quan hệ Nho giáo với văn hoá, với thể loại trữ tình Việt Nam. Nho giáo ảnh
hưởng đến thi ca là một hiện tượng hiển nhiên nhưng tế nhị, phản ánh ở sự tiếp xúc của thơ
ca với những phạm trù mỹ học Nho giáo và sự hoà tan của tư tưởng vào giọng điệu, ngôn
ngữ… Trong trường hợp này mỹ học Nho giáo giữ một vai trò trung gian giữa Nho giáo và
thi ca.
Thơ Nho Việt Nam trải qua nhiều thăng trầm, trải qua nhiều thế hệ với những đặc điểm
Nho học – nho phong riêng của từng thế hệ. Để nghiên cứu thơ Nho Việt Nam giữa thế kỷ
XIV – giữa thế kỷ XV, ta không chỉ dừng lại ở cơ sở lịch sử – xã hội, triết học, mỹ học và
quá trình hình thành hay những chặng đường phát triển mà cần tập trung vào những đặc
điểm thi ca của dòng thơ này. Đặc điểm thơ Nho có thể xác định trên cơ sở nghiên cứu đặc
điểm nội dung và đặc điểm nghệ thuật. Về đặc điểm nội dung, luận án cố gắng đi vào tìm
hiểu cảm hứng chủ đạo, những chủ đề cơ bản của dòng thơ. Từ những cảm hứng yêu nước,
tự hào dân tộc, hoà nhập - chiêm ngưỡng thiên nhiên và cả cảm hứng đạo lý đã đem lại cho
thơ Nho một màu sắc riêng, một phong cách riêng. Thơ Nho khoảng một thế kỷ này đề cập
đến những nội dung khá phong phú. Đó là những suy nghĩ về đất nước, về nhân dân, về đạo
lý nhân nghĩa của dân tộc và những tình cảm phong phú của các thi sĩ Việt Nho đối với
chính sự, với quê hương, với gia đình và dành cho riêng mình. Thơ Nho Việt nam đã nói lên
những tiếng nói vừa hào hùng, chân thành vừa rất đỗi quen thuộc của tâm hồn người Việt.
Về đặc điểm nghệ thuật, luận án đi vào vấn đề con người, không gian, thời gian, thể
thơ, giọng điệu của thơ Nho từ giữa thế kỷ XIV- giữa thế kỷ XV. Tiếp thu những kinh
nghiệm và phương pháp sáng tác Trung Hoa nhưng thơ Nho Việt Nam đã đón nhận có sự
tiếp biến trên cơ sở ngôn ngữ dân tộc, tái hiện những khung cảnh Việt Nam, con người – nho
sĩ Đại Việt. Thơ Nho Việt Nam thời gian này được viết bằng những thể thơ nguồn gốc từ
Trung Quốc nhưng sử dụng một cách phóng khoáng và thậm chí đã Việt hoá và biến đổi. Về
giọng điệu, thơ Nho thời gian này hào hùng, trong trẻo và lạc quan. Giọng điệu đó rất khác
với thơ Nho giai đoạn sau.
Vấn đề đặc điểm thơ Nho một thế kỷ này có thể được làm rõ thêm khi đặt trong tư thế
đối sánh với thơ Thiền xuất hiện trước đó và so sánh với chính thơ Nho thời gian sau. So
sánh với thơ Thiền ta thấy rõ hơn đặc điểm thơ Nho, đồng thời cảm nhận được tính chất
phong phú của thơ ca dân tộc từ những loại hình mỹ học, hình thức biểu hiện và mục đích
sáng tác khác nhau.
Cho đến nay nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu đã có ý thức kế thừa, chọn lọc những tinh
tuý của văn hóa Nho gia trong đại công trình xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc. Vì thế vấn đề văn học Nho gia, thơ Nho càng không thể bỏ qua. Thơ Nho
đã góp phần chuyển truyền thống về hiện tại. Tuy nhiên vẫn còn nhiều khó khăn phải vượt
qua, nhiều điều cần phải quan tâm, cần bổ sung trong nghiên cứu chẳng hạn cần tái tạo tâm
thế thời đại, nắm vững văn hoá cổ… Người nghiên cứu cần vận dụng phương pháp sưu khảo,
khai thác những tài liệu cổ trong các thư viện Hán Nôm trong và ngoài nước. Điều đó liên
quan đến vấn đề dịch thuật trong việc nghiên cứu và thưởng thức thơ Đường luật, thơ cổ nói
chung. Hướng sắp tới nếu công trình có thêm sự kết hợp và nâng cao công tác sưu khảo, dịch
thuật kết hợp với ngôn ngữ học, văn bản học... sẽ nâng cao hơn kết quả nghiên cứu. Ngoài ra
giá trị của thơ Nho, cái hay cái đẹp của thơ Nho cần nhiều văn bản dịch hay – mới, không
làm trở ngại tâm thế tiếp nhận đương đại. Tìm hiểu hệ thống Mỹ học thơ nho cũng là vấn đề
cần thiết. Các phạm trù: “Văn”, “Mỹ”, “Giao – Cảm”, “Dương cương”, “Âm nhu”… có phải
là những phạm trù Mỹ học thơ Nho Việt Nam? Cần đối chiếu thi luận kinh học Nho gia
Trung Quốc và thi luận của các nhà nho Việt để khai thác thêm những thành quả nghiên cứu
mới hay không? Đó là những vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu.
Từ việc nghiên cứu thơ Nho, người viết hy vọng sẽ đóng góp thêm một ý kiến vào lĩnh
vực nghiên cứu thơ thế kỷ XIV- XV của nền thơ ca Việt Nam.
Cuối cùng, điều lắng đọng lại trong thơ Nho phải chăng là những suy nghĩ của nho sĩ về
chính trị xã hội. Đó là những thông điệp kín đáo mà họ muốn gởi đến cho vua chúa và quan
lại. Thông điệp đó không ngoài nội dung là đường lối nhân nghĩa, chính sách thân dân, sự
cần thiết xây dựng đạo đức bản thân, đạo đức xã hội. Chỉ có đạo đức mới đem lại thành công
cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Với bấy nhiêu điều, thơ Nho vẫn luôn mang đến cho
cho tương lai những nỗi ưu ái đáng ngạc nhiên và gây xúc động cho người sau.
Những suy nghĩ về thể chế chính trị, nền vương đạo và cách ứng xử của bản thân là cơ
sở cho rất nhiều nội dung trong thơ Nho. Từ những điều này, tác giả thơ Nho thể hiện lòng
yêu nước, thương dân, đề cao đạo lý, xúc động trước thời cuộc hay để lại cảm giác cô đơn
trong tâm hồn. Đó cũng là cơ sở cho cái “tình” trong sáng thanh cao, gần với trạng thái tâm
lý và phẩm chất đạo đức của thánh nhân. Nó là bản sắc của những nhà nho chân chính và
cũng là một phần quan trọng trong bản sắc thơ Nho.
Có thể vì thế, thơ Nho thường đề cao đạo lý, chuyển tải đạo lý. Tuy không bay bổng như
thơ lãng mạn, không thúc giục kêu gọi như thơ ca phục vụ chính trị, thơ Nho có một sắc màu
riêng, thanh nhã, bình dị nhưng vẫn làm cho người sau yêu mến.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. TIẾNG VIỆT
1) Dư Quan Anh (Chủ biên) (1993), Lịch sử văn học Trung Quốc (T2), (Lê Huy
Tiêu, Lương Duy Thứ… dịch), Nxb GD, Hà Nội.
2) Đào Duy Anh (1957), Hán - Việt từ điển, Nxb Trường Thi, Sài Gòn.
3) Vũ Tuấn Anh (1995), Sự vận động của cái tôi trữ tình trong thơ Việt nam từ
1945 đến nay (Luận án Phó Tiến sĩ), Viện Văn học, Hà Nội.
4) Aristote, Lưu Hiệp (1999), Nghệ thuật thơ ca, Văn tâm điêu long, Nxb Văn
học, Hà Nội.
5) Bùi Văn Ba (1991), Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học Trung đại
Việt Nam, (Luận án Tiến sĩ), ĐHSP Hà Nội I, Hà Nội.
6) Đỗ Tùng Bách (2000), Thơ thiền Đường Tống, (Phước Đức dịch), Nxb Đồng
Nai.
7) Bùi Huy Bích (1957), Hoàng Việt thi văn tuyển, (T1), Nhóm Lê Quí Đôn dịch,
Nxb Văn hóa, Hà Nội.
8) Bùi Huy Bích (1957), Hoàng Việt thi văn tuyển, (T2), Nhóm Lê Quí Đôn dịch,
Nxb Văn hóa, Hà Nội.
9) Bùi Huy Bích (2007), Hoàng Việt thi tuyển, Nhóm Lê Quí Đôn dịch, TTNC
Quốc học - Nxb Văn học, Hà Nội.
10) Nguyễn Văn Bình (1998), “Nhân cách nhà nho trong con người Nguyễn Trãi”
– TC TH, số 4, tr. 28-31.
11) Nguyễn Tài Cẩn (1998), Ảnh hưởng Hán văn Lý Trần qua thơ và ngôn ngữ
thơ Nguyễn Trung Ngạn, Nxb GD, Hà Nội.
12) Nguyễn Kim Châu (2000), Thơ tứ tuyệt trong văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến
thế kỷ XIX, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường ĐHSP Tp. HMC.
13) Nguyễn Đổng Chi (1970), Việt Nam cổ văn học sử, Phủ Quốc Vụ Khanh đặc
trách văn hóa xuất bản, Sài Gòn.
14) Nguyễn Huệ Chi (1978),“Các yếu tố Phật Nho Lão được tiếp thu và chuyển
hóa như thế nào trong đời sống và văn hóa thời đại Lý Trần”, TC VH, số 6, tr.
76-94.
15) Nguyễn Huệ Chi (1992), “Hiện tượng hội nhập văn hóa dưới thời Lý – Trần
nhìn từ một trung tâm Phật giáo tiêu biểu: Quỳnh Lâm”, TCVH, số 4, trang 13-
21.
16) Nguyễn Huệ Chi (2003), “Mấy đặc trưng loại biệt của của văn học Việt Nam từ
thế kỷ XV đến hết thế kỷ XIX” , TCVH, số 5, trang 7-14.
17) Nguyễn Đình Chú (1999), “Vấn đề "ngã”và "phi ngã" trong văn học Việt Nam
Trung cận đại ”, TCVH, số 5, tr. 38-54.
18) Nguyễn Đình Chú (2004), “Trở lại vấn đề ảnh hưởng của Nho giáo đối với nền
văn học Việt Nam thời trung cận đại”, tham luận Hội thảo khoa học về Nho
giáo, viện Hán nôm (Việt Nam) và viện Harvard (Hoa Kỳ).
19) Phan Huy Chú (1974), Lịch Triều hiến chương loại chí, (T. IX) – Văn tịch chí
– Tố Nguyên Nguyễn Thọ Dực dịch, Uỷ ban Dịch thuật – Bộ VHGD và TN
xuất bản, Sài Gòn.
20) Lê Củng (1998), Việt phong (Một nền văn hoá cổ truyền thuần tuý Việt…), Nxb
Văn nghệ Tp. HCM.
Chương Dân (1918), “Nam âm thi thoại”, TC Nam Phong, số 11, tr. 300-309. 21)
Chương Dân (1918), “Nam âm thi thoại”, TC Nam Phong, số 12, tr. 353-355. 22)
Lê Anh Dũng (1994) – Con đường Tam giáo ở Việt Nam: từ khởi nguồn đến 23)
thế kỷ XIX, Nxb TP.HCM
24) Nguyễn Dữ (1952), Truyền kỳ mạn lục, (Ngô Văn Triện dịch), Nxb Tân Việt,
Sài Gòn.
25) Nguyễn Đăng Duy (1998), Văn hóa tâm linh, Nxb Hà Nội.
26) Đại Việt sử ký toàn thư (T1) (2004), (Cao Huy Giu dịch – Đào Duy Anh hiệu
đính), Nxb VHTT, Hà Nội.
27) Đại Việt sử ký toàn thư (T2) (2004), (Cao Huy Giu dịch – Đào Duy Anh hiệu
đính), Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
28) Quang Đạm (2006), Tư văn qua các triều đại, Nxb Lao động – Trung tâm Văn
hóa ngôn ngữ Đông Tây.
29) Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học, Hà
Nội.
30) Kim Định (1973), Cơ cấu Việt Nho, Nxb Nguồn Sáng, Sài Gòn.
31) Kim Định (1961), Cửa Khổng – Nxb Ra Khơi , Sài Gòn.
32) Lê Quý Đôn (1962), Kiến văn tiểu lục, (Phạm Trọng Điềm dịch), Nxb Sử học,
Hà Nội.
33) Lê Quý Đôn (1972), Vân đài loại ngữ, (T1) (Tạ quang Phát dịch), Uỷ ban Dịch
Thuật xuất bản, Sài Gòn.
34) Lê Quý Đôn (1972), Vân đài loại ngữ, (T2) (Tạ quang Phát dịch), Uỷ Ban Dịch
thuật xuất bản, Sài Gòn.
35) Lê Quý Đôn (1973), Vân đài loại ngữ, (T3) (Tạ quang Phát dịch) –Uỷ ban Dịch
thuật xuất bản, Sài Gòn.
36) Lê Quý Đôn (1995), Quần thư khảo biện, (Nguyễn Như Diện dịch), Nxb
KHXH, Hà Nội.
37) Hà Minh Đức (chủ biên) (2003), Lý luận văn học, Nxb GD, Hà Nội.
38) Lâm Ngữ Đường (1965), Thưởng thức tự nhiên, Trong: Nghệ thuật về sống
đẹp, (Nguyễn Hiến Lê dịch), Nxb Tao Đàn, Sài Gòn.
39) Thạch Trung Giả (1975), “Từ tâm sự qua mọi giai đoạn của cuộc đời đến thiền
trong thơ của Nguyễn Trãi”, TC Hải Triều Âm, số 9, 10, tháng 4, tr. 163-193.
40) Thạch Trung Giả (1999), Văn học phân tích toàn thư, Nxb. Văn học, Hà Nội.
41) Đoàn Lê Giang (2001), Ý thức văn học Cổ Trung đại Việt Nam, (Luận án Tiến
sĩ Ngữ văn), ĐHQG TP.HCM, Trường ĐH KHXH và NV TP.HCM.
42) Đoàn Lê Giang (2001), Văn học cổ điển Việt Nam trong thế giới Đông Á, trong
Bình luận văn học niên giám 2006,Nxb Văn hóa Sài Gòn 2006, trg 07-61.
43) Nguyễn Thạch Giang (2005), Đoạn trường tân thanh dưới cái nhìn của Nho
gia – Thiền gia, Nxb Văn hóa Sài Gòn, Tp. HCM.
44) Trần Văn Giàu (1955), “Vai trò của quần chúng trong sự thay đổi các triều đại
Lê, Lý, Trần, Hồ”, TC Văn Sử Địa, số 1, tr. 27-40.
45) Trần Văn Giàu (1984), Trong dòng chủ lưu của Văn học Việt Nam tư tưởng
yêu nước, Nxb TPHCM.
46) Nguyễn Thị Bích Hải (1996), Thi pháp thơ Đường một số phương diện chủ
yếu, (Luận án Phó Tiến sĩ Ngữ văn), Trường ĐHSP Hà Nội.
47) Dương Quảng Hàm, Quốc văn trích diễm, Nxb Bốn Phương, Sài Gòn. 1953.
48) Dương Quảng Hàm (1968), Việt Nam văn học sử yếu, Trung tâm Học liệu xuất
bản, Sài Gòn.
49) Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2004), Từ điển thuật ngữ văn
học, Nxb GD, Hà Nội.
50) Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1999), Lý luận văn học vấn -đề và
suy nghĩ, Nxb GD, Hà Nội.
51) Nguyễn Hùng Hậu (2005), “Một số đặc điểm của Nho Việt”, TC Nghiên cứu
tôn giáo”, số 01, tr. 36-40.
52) Hồng Đức quốc âm thi tập (1962) (Phạm Trọng Điềm, Bùi Văn Nguyên chú
giải), Nxb Văn hóa, Hà Nội.
53) Phạm Đình Hổ (1998), Vũ trung tuỳ bút, Nxb Văn nghệ, Tp. HCM.
54) Hội thảo quốc tế lần III “Nho giáo tại Việt Nam” (kỷ yếu), (19 - 21/7/2001).
55) Nguyễn Phạm Hùng (1980), “Về diễn biến của thơ trữ tình thời Trần” – TCVH,
4, tr. 76 -80.
56) Nguyễn Phạm Hùng (1989), “Sự xuất hiện khuynh hướng trong văn học Việt
Nam cổ”, TCVH, số 1, tr. 58 -71.
57) Nguyễn Phạm Hùng (1996), Thơ văn Lý Trần nhìn từ thể loại, Nxb GD, Hà
Nội.
58) Nguyễn Phạm Hùng (1998), Thơ Thiền Việt Nam những vấn đề lịch sử và tư
tưởng nghệ thuật, Nxb ĐHQG HN, Hà Nội.
59) Phạm Ngọc Hùng, Đặng Viết Ngoạn (biên tập) (1982), Kỷ niệm 600 năm sinh
Nguyễn Trãi, Nxb KHXH, Hà Nội.
60) Cao Xuân Huy (1995), Tư tưởng Phương Đông gợi những điểm nhìn tham
chiếu, Nxb Văn học, Hà Nội.
61) Trần Đình Hượu (1964), Nho giáo và văn học Trung cận đại, Nxb VHTT, Hà
Nội.
62) Trần Đình Hượu (1991), “Về ảnh hưởng nhiều mặt của Nho giáo trong văn
học Việt Nam Cổ, Cận đại”, TCVH, số 3, tr. 18-20 và t 75.
63) Trần Đình Hượu (1993), “Con người Việt Nam với truyền thống văn hóa Nho
giáo hóa”, TC KHXH, số 17, tr. 69-72.
64) Chu Hy (1968), Chu dịch bản nghĩa (Nguyễn Duy Tinh dịch), Trung tâm Học
Liệu, Sài Gòn.
65) Đỗ Văn Hỷ (1983), “Cái hay trong thơ xưa dưới con mắt nhà thơ xưa”, TCVH,
số 4.
66) Đỗ Văn Hỷ (1993), Người xưa bàn về văn chương (T1), Nxb KHXH, Hà Nội.
67) Đinh Gia Khánh (chủ biên) (1976), Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (Thế kỷ X –
thế kỷ XVII), Nxb Văn học, Hà Nội.
68) Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương (1997), Văn học Việt Nam
thế kỷ X – Nửa đầu thế kỷ XVIII, Nxb GD, Hà Nội.
69) Đinh Gia Khánh (2007), Đinh Gia Khánh tuyển tập (tập 2), Nxb GD, Hà
Nội.
70) Vũ Ngọc Khánh (2006), Văn thần Việt Nam, Nxb VHTT, Hà Nội
71) Khổng Cấp (1972), Trung Dung, (Nguyễn Xuân Giáo dịch), Trung Tâm Học
Liệu xuất bản, Sài Gòn.
72) Khổng Tử (1950), Luận ngữ (Đoàn Trung Còn dịch), Nxb Trí Đức tòng thư,
Sài Gòn.
73) Khổng Tử (1999), Kinh Lễ, (Nguyễn Tôn Nhan dịch), Nxb Văn học, Hà Nội.
74) Khổng Tử (2001), Thượng Thư, (Nhượng Tống dịch), Nxb Văn học, Hà Nội.
75) Khổng Tử (2002), Xuân Thu tam truyện (t1), (Hoàng Khôi dịch), Nxb TPHCM.
76) M.B. Khrapchenko (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên
cứu văn học, (Trần Đình Sử tuyển, giới thiệu), Nxb ĐHQG Hà Nội.
77) Trần Trọng Kim (1953), Việt Nam sử lược, Nxb Tân Việt, Sài Gòn.
78) Trần Trọng Kim (1965), Nho giáo, Nxb Tân Việt, Sài Gòn.
79) Kinh Lễ (1999), (Nguyễn Tôn Nhan dịch) – Nxb Văn Học, Hà Nội.
80) Kinh Thi (1992), (Tản Đà, Nghiêm Thượng Văn, Đặng Đức Tô dịch, chú giải),
Nxb TP.HCM.
81) Konrat. N (1997)– Phương Đông và Phương Tây – những vấn đề triết học, triết
học lịch sử, văn học Đông và Tây (Trịnh Bá Đĩnh dịch) – Nxb GD, Hà Nội.
82) Hàn Triệu Kỳ (2001), Ẩn sĩ Trung Hoa, (Cao Tự Thanh dịch), Nxb TP.HCM.
83) Lưu Cương Kỷ – Phạm Minh Hoa (2002), Chu Dịch và mỹ học, (Hoàng Văn
Lâu dịch), Nxb VHTT, Hà Nội.
84) Nguyễn Lang (2000), Việt Nam Phật giáo sử luận (tập 1, 2, 3), Nxb Văn học,
Hà Nội.
85) Thanh Lãng (1967), Bảng lược đồ văn học Việt Nam, (Q.Thượng) –Nxb Trình
bày, Sài Gòn.
86) Thanh Lãng (1971), Văn học Việt Nam (I) – Đối kháng Trung Hoa, Phong trào
Văn hóa xuất bản, Sài Gòn.
87) I. X. Lixêvich (1994), Tư tưởng văn học cổ Trung Quốc, (Trần Đình Sử dịch),
Nxb GD, Hà Nội.
88) Mai Quốc Liên (chủ biên) (1999), Nguyễn Trãi (toàn tập tân biên), (T1) –
TTNCQH, Nxb Văn học, Hà Nội.
89) Mai Quốc Liên (chủ biên) (1999), Nguyễn Trãi (toàn tập tân biên), (T2) –
TTNCQH, Nxb Văn học, Hà Nội.
90) Mai Quốc Liên (chủ biên) (2000), Nguyễn Trãi (toàn tập tân biên), (T3) –
TTNCQH – Nxb Văn học Hà Nội.
91) Nguyễn Thế Long (1995), Nho học ở Việt Nam, Nxb GD, Hà Nội.
92) Lê Nguyễn Lưu (1999), Nguồn suối Nho học và thơ ca Bạch Vân Cư sĩ, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
93) Trần Chí Lương (1999), Đối thoại với tiên triết về văn hoá phương Đông thế
kỷ XXI, Nxb ĐHQG, Hà Nội.
94) Phương Lựu (1985), Về quan niệm văn chương cổ Việt Nam, Nxb Giáo Dục,
Hà Nội.
95) Phương Lựu (1996), Văn hóa văn học Trung Quốc cùng một số liên hệ ở Việt
Nam, Nxb GD, Hà Nội.
96) Phương Lựu (1997), Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học Trung đại
Việt Nam, NXB GD, Hà Nội.
97) Phương Lựu (chủ biên) (1997), Lý luận văn học, Nxb GD, Hà Nội.
98) Phương Lựu (1997), Khơi dòng lý thuyết, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
99) Phương Lựu (1989), Tinh hoa lý luận văn học cổ Trung Quốc, Nxb GD, Hà
Nội.
100) Phương Lựu (2004), Lý luận phê bình văn học, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
101) Huỳnh Lý, Vũ Đình Liên, Nguyễn Đình Chú... (1985), Hợp tuyển thơ văn
Việt Nam (quyển 2), Nxb Văn học, Hà Nội.
102) Nguyễn Công Lý (2001), “Mấy đặc điểm văn học Lý Trần”, TC HN, số 2, t8-
15.
103) Nguyễn Công Lý (2002), Văn học Phật giáo thời Lý Trần diện mạo và đặc
điểm – Nxb ĐHQG TP.HCM.
104) Mạnh Tử (Thượng, Hạ) (1996) (Đoàn Trung Còn dịch) – Nxb Thuận Hóa –
Huế.
105) Hà Thúc Minh, Trịnh Gia Đống (2001), “Tính tôn giáo và sự giải thích hiện
đại về tư tưởng Nho gia”, TCKHCT, (HV CTQG, TPHCM), số 01.
106) Hà Thúc Minh (2001), “Đạo Nho phải chăng là tôn giáo”, TC KHCT (HV
CTQG TP.HCM) Số 01, tr. 37-39.
107) Trần Văn Hải Minh (1991), Bách gia chư tử, Hội NCGDVH TP.HCM xb.
108) Từ Tôn Minh, Trương Lập Văn (1998), Lý - triết học phương Đông, Nxb
KHXH, Hà Nội.
109) Mộng Bồi Nguyên (1998), Hệ thống phạm trù Lý học, Nxb. KHXH, Hà Nội.
110) Trần Ngọc Minh (1975), “Tư tưởng Việt Nam”, TC Hải Triều Âm, số 9, 10
(Tháng 4), tr. 50-88.
111) Lê Hữu Mục (1974), Lịch sử văn học Việt Nam (Ronéo), ĐHSP Sài Gòn.
112) Nguyễn Đăng Na (Chủ biên) (2004), “Tinh tuyển văn học Việt Nam” (T3), Nxb
KHXH, Hà Nội.
113) Lê Hoài Nam (1994), Thơ cổ điển Việt Nam một số vấn đề hình thức và thể
loại, Bộ GDĐT – Vụ Giáo viên, Hà Nội.
114) Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (1968), Các thể thơ ca và sự phát triển của
hình thức thơ ca trong văn học Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội.
115) Bùi Văn Nguyên (1975), “Bàn về một số khía cạnh trong thơ tình đời Trần”,
TCVH, số 1, tr. 109-112.
116) Bùi Văn Nguyên (1984), Văn chương Nguyễn Trãi, Nxb ĐH và THCN, Hà
Nội.
117) Bùi Văn Nguyên (Chủ biên) (1995) – Tổng tập văn học Việt Nam (T4) – Nxb
KHXH, Hà Nội.
118) Bùi Văn Nguyên (Chủ biên) (1995), Tổng tập văn học Việt Nam (T5), Nxb
KHXH, Hà Nội.
119) Trần Nguyên Nguyệt (2001), “Mối quan hệ Tam giáo trong lịch sử tư tưởng
Việt Nam thời kỳ Trung thế kỷ qua cách nhìn nhận hệ thống”, TC KHXH, số 4,
tr. 71-73.
120) Phạm Thế Ngũ (1968), Khảo luận về thơ cũ Trung Hoa, (Phỏng dịch từ – Cựu
thi lược luận, Lương Xuân Phương), Phạm Thế xuất bản, Sài Gòn.
121) Phạm Thế Ngũ (1996), Việt Nam văn học giản ước tân biên (T1), Nxb Đồng
Tháp.
122) Phạm Thế Ngũ (1997), Việt Nam văn học giản ước tân biên (T2), Nxb Đồng
Tháp.
123) Nguyễn Trãi (toàn tập) (1976)– Nxb KHXH – Hà Nội.
124) Nhiều tác giả (1999), Lịch sử văn hóa Trung Quốc, (T2), Nxb VHTT, Hà Nội.
125) N. I. Niculin (2006), Dòng chảy văn hóa Việt Nam, Nxb VHTT, Hà Nội.
126) Trần Ngọc Ninh (2009), “Nguyễn Trãi Huyễn – Thực và Sắc – Không”, TC
Hồn Việt, số 25, tr. 11-12, 62-63.
127) Lê Lưu Oanh (1998), Thơ trữ tình Việt Nam 1975 - 1990, Nxb ĐHQG Hà Nội.
128) Lê Văn Quán (2002), “Nguyễn Trãi với Chu Dịch”, TC HN, số 4, tr. 24-30.
129) Trần Lê Sáng (1981), Cuộc đời và thơ văn Chu Văn An, Nxb Hà Nội. Hà Nội.
130) Ngô Thì Sĩ (1997), Đại Việt sử ký tiền biên (Thượng), Nxb KHXH, Hà Nội.
131) Lê Văn Siêu (2003), Việt Nam văn minh sử – (Thượng), Nxb Lao Động, Hà
Nội.
132) Mộng Bình Sơn (1966), Ảnh hưởng Kinh Dịch trong văn học và cuộc sống,
Nxb Văn học, Hà Nội.
133) Nguyễn Hữu Sơn (1993), “Về con người cá nhân trong văn học cổ nhìn từ góc
độ lý thuyết”, TCVH, số 3, tr. 7-11.
134) Nguyễn Hữu Sơn (2000), “Về cảm quang Phật giáo trong thơ văn Nguyễn
Trãi”, TCVH, số 6, tr. 75-80.
135) Nguyễn Hữu Sơn (2005), Văn học Trung Đại Việt Nam – Quan niệm con người
và tiến trình phát triển, Nxb KHXH, Hà Nội.
136) Stephen Aldiss (2001), Nghệ thuật Zen, Tư Tam Định - Minh Châu dịch, Nxb
VHTT, Hà Nội.
137) Trần Đình Sử (1996), Lý luận và phê bình, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
138) Trần Đình Sử (1997), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
139) Trần Đình Sử (1999), Những vấn đề thi pháp văn học Trung đại Việt Nam,
Nxb GD, Hà Nội.
140) Trần Đình Sử (2001), “Tư tưởng tự do trong truyền thống văn học cổ Việt
Nam” – TCVH, số 01, tr. 17-22.
141) Trần Đình Sử (2003), Thi pháp Truyện Kiều, Nxb GD, Hà Nội.
142) Thái Bá Tân (2001), Thơ cổ Phương Đông, Nxb Lao động, Hà Nội .
143) Bùi Duy Tân (1999), Khảo và luận một số tác gia – tác phẩm văn học Trung
đại Việt Nam (Tập 1), Nxb GD. Hà Nội.
144) Bùi Duy Tân (2005), “Việt Nho qua một số tác phẩm văn học Trung đại Việt
Nam”, TCVH, số 01, tr. 18-26.
145) Lê Tắc (2002), An Nam chí lược, (Trần Kinh Hòa dịch), Nxb Thuận Hóa – TT
Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
146) Quách Tấn (1998), Thi pháp thơ Đường, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
147) Khâu Chấn Thanh (2001), Lý luận văn học nghệ thuật cổ điển Trung Quốc,
(Mai Xuân Hải dịch), Nxb Văn học, Hà Nội.
148) Trần Thị Băng Thanh (Chủ biên) (2004), Tinh tuyển văn học Việt Nam (T4),
Nxb KHXH, Hà Nội.
149) Lê Sĩ Thắng (1977), “Nho giáo trong lịch sử Việt Nam”, TCTH số 2, tr.109-
112.
150) Trần Nho Thìn (1994), “Mối quan hệ giữa cái tôi nhà nho và thực tại trong văn
chương cổ”, TCVH, Số 2, tr. 32-37.
151) Trần Nho Thìn (2000), “Thơ Mới nhìn từ thơ cũ: vấn đề loại hình học của thơ
Hiện đại và thơ Trung đại”, TCVH số 01, tr. 37-46.
152) Trần Nho Thìn (2001),“Bi kịch tinh thần của nhà nho việt nam với tính cách là
một nhân vật văn hóa (khảo sát qua trường hợp Nguyễn Trãi)”, TCVH, số 7, tr.
49-60.
153) Trần Nho Thìn (2003), Văn học Trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa,
Nxb GD, Hà Nội.
154) Trần Nho Thìn (2007), Nguyễn Công Trứ về tác gia và tác phẩm, Nxb GD, Hà
Nội.
155) Nguyễn Thiên Thụ (1973), Nguyễn Trãi, Nxb Lửa Thiêng, Sài Gòn.
156) Nguyễn Khắc Thuần (1997), Đại cương lịch sử văn hóa Việt Nam (T3) (Nho
giáo với quá trình tham gia vào đời sống và tư tưởng Việt Nam – Nho giáo thời
Bắc thuộc, thời độc lập, thời nội chiến), Nxb GD, Hà Nội.
157) Thái Thuận (2002), Lữ Đường thi (tuyển dịch), (dịch giả Quách Tấn), Nxb Văn
học, Hà Nội.
158) Đỗ Minh Thúy (1997), Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học, Nxb VHTT, Hà
Nội.
159) Trần Thị Hồng Thúy (1966), Ảnh hưởng của Nho giáo đối với chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam truyền thống, (Luận án Phó Tiến sĩ Triết học), Viện Triết học,
Hà Nội.
160) Nguyễn Tài Thư (1996), Vấn đề con người trong Nho học sơ kỳ, (Luận án Phó
Tiến Sĩ), Viện Triết học, Hà Nội.
161) Nguyễn Tài Thư (1997), Nho học và Nho học ở Việt Nam – một số vấn đề lý
luận và thực tiễn, Viện Triết học xuất bản, Hà Nội.
162) Chu Quang Tiềm (1999), Tâm lý văn nghệ, Nxb TP. Hồ Chí Minh.
163) Ngô Tất Tố (1960), Văn học thời Lý, Nxb Khai Trí, Sài Gòn.
164) Phạm Quang Trung (1996), Tìm hiểu quan niệm thơ cổ Việt Nam, (Luận án
Phó Tiến sĩ), ĐH Sư Phạm TP.HCM.
165) Phạm Quang Trung (1999), Thơ trong con mắt người xưa, Nxb Hội Nhà văn,
Hà Nội.
166) Tu Weiming (Harvard), Đạo, học và chính trị trong học thuyết nhân văn Nho
giáo cổ điển,
www.hcmussh.edu.vn/USSH/ImportFile/Magazine/Journal13090625058
167) Từ trong di sản (1981), Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội
168) Ủy ban Khoa Học Xã Hội, Lịch sử văn học Việt Nam, (T1), Nxb KHXH, Hà
Nội.
169) Đoàn Thị Thu Vân (1981), Khảo sát một số đặc trưng nghệ thuật của thơ
Thiền Việt Nam Thế kỷ XI - XIV, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học - Nxb Văn
học, Hà Nội. 1981.
170) Đoàn Thị Thu Vân (2007), Con người nhân văn trong thơ ca Việt Nam sơ kỳ
trung đại, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
171) Lê Trí Viễn (2001), Đặc trưng văn học Trung đại Việt Nam, Nxb Văn nghệ Tp
HCM.
172) Nguyễn Khắc Viện (1998), Bàn về đạo Nho, Nxb Trẻ TP.HCM.
173) Viện KHXH (2004), Ngữ văn Hán Nôm (Tập 2), Ngũ Kinh – Nxb KHXH, Hà
Nội.
174) Viện Sử học (1980), Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý Trần, Nxb KHXH, Hà
Nội.
175) Viện Văn học (1963), Mấy vấn đề về sự nghiệp và thơ văn Nguyễn Trãi nhân
dịp kỷ niệm 520 năm ngày Nguyễn Trãi mất, Viện Văn học xb, Hà Nội.
176) Viện Văn học (1977), Thơ văn Lý, Trần (T1), Nxb KHXH, Hà Nội.
177) Viện Văn học (1988), Thơ văn Lý, Trần – (T2, Q Thượng), Nxb KHXH, Hà
Nội.
178) Viện Văn học (1978), Thơ văn Lý Trần (T.3), Nxb, KHXH, Hà Nội.
179) Viện Văn học (1999), Tuyển tập 40 năm tạp chí Văn học 1960 -1999 (tập 2)
Văn học Cổ – Cận đại Việt Nam, Nxb. Tp. HCM.
180) Vũ Văn Vinh (1996), “Những nhu cầu xã hội thúc đẩy sự phát triển của Nho
giáo Việt Nam thời Trần”, TC TH, số 6, tr. 25-27.
181) Trần Ngọc Vương (1995), Loại hình học tác giả văn học, nhà nho tài tử và
văn học Việt Nam , Nxb GD, Hà Nội.
182) Trần Ngọc Vương (1996), “Giới hạn của nội dung nhân đạo chủ nghĩa văn
chương Nho giáo”, TCVH, số 7, tr. 21-27.
183) Trần Ngọc Vương (1996), “Một số vấn đề lý luận khi nghiên cứu văn chương
Nho giáo Việt Nam”, TCVH, số 10, tr. 59-61.
184) Trần Ngọc Vương (1998), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung,
Nxb Văn học, Hà Nội.
185) Nguyễn Khắc Xuyên (2000), Thư mục tạp chí Nam Phong, Nxb Thuận Hoá –
TIẾNG NƯỚC NGOÀI
TT VH NN Đông Tây, Hà Nội.
1. Tiếng Anh
186) Book of poetry (http://www.chinaculture.org)(Chinadaily
30/8/2005).
187) George K. C. Yeh (1943), The Confucion conception of Jên, The China Socety,
London.
188) Poetic Genius, Sage of poetry, Buddhist poet and poet Ghost
(http://www.chinaculture.org) (Chinadaily 30/8/2005).
2. Tiếng Hoa
189) 论汉语文学在越南文学中的地位 (Luận Hán ngữ Văn học tại Việt Nam Văn
học trung đích địa vị)
http://web.cenet.org.cn/web/wdr1960/index.php3?file=detail.php3&nowdir=&id=10
7404&detail=1
190) 李 甦 平 (Lý Tô Bình),韩国儒学的特性及其历史作用 (Hàn quốc Nho học đích
đặc tính cập kỳ lịch sử tác dụng),
www.phil-postdoctor-cass.cn/asp-bin/news_images/138_1.doc
191) 梅运生 (Mai Vận Sinh), (1996)士族、古文经学与中古诗论 (Sĩ tộc, cổ văn kinh
học dữ trung cổ thi luận) (http://www.lw23.com/paper_138129931/ )
192) 儒学词典 (Nho học từ điển)
http://www.hxfx.net/ci/mulu.htm
193) 广 韵 (Quảng vận),
(http://tool.httpcn.com/Html/Zi/23/PWPWUYXVAZUYXVKOIL.shtml )
194) 懿宗朝举子 (Ý Tông triều cử tử), 刺安南事诗 (Thích An Nam sự thi), (全唐诗库)
(Toàn Đường thi khố):
http://www3.zzu.edu.cn/qtss/zzjpoem1.dll/viewoneshi?js=784&ns=010
孔子论《诗》与《孔子诗论》之比较(Khổng Tử luận “thi” dữ “Khổng Tử thi
luận” chi tỉ giảo),
195) 曹建国 张玖青 (Tào Kiến Quốc, Trương Cửu Thanh (2002),
(http://www.confuchina.com/06%20wenxue%20yishu/kongzi%20lunshi.ht
m)
196) 陈昭瑛 (Trần Chiêu Anh) (1995),
儒 家美学与经典诠释》内容介绍(Nho gia mĩ học dữ kinh điển thuyên thích),
http://www.mendui.com/h_book/193904.shtml)
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1. NHỮNG TỪ NGỮ TRONG THƠ NHO VIỆT NAM
TỪ GIỮA THẾ KỶ XIV ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XV CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN "NHO"
Trong 280 từ ngữ - điển tích chọn lọc được sử dụng trong thơ Nho từ giữa thế kỷ XIV
đến giữa thế kỷ XV, có 56 trường hợp sử dụng từ ngữ - điển tích liên quan đến kinh điển và
sách vở Nho học, có 45 trường hợp sử dụng điển tích liên quan đến quan niệm Nho giáo, có
101 trường hợp sử dụng điển tích liên hệ đến các danh nho...
Những tác phẩm kinh điển của Nho giáo được đề cập trong thơ Nho thời gian từ giữa
thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV:
"Kinh thư": [178, 42], [178, 107], [178, 404], [178, 554], [123, 827],... (5 trường hợp).
"Kinh thi" : [178, 162[, [178, 190], [178, 385], [123, 689], [123, 702], [123, 836], [09,
266]... (7 trường hợp).
"Kinh Dịch": [178, 68], [178, 397], [178, 508], [178, 554], [178, 568], [123, 754], [123,
771], [123, 782], [09, 407],... (9 trường hợp).
"Kinh Xuân Thu" : [178, 351],.. (1 trường hợp).
"Kinh Lễ" : [178, 392], [178, 354], [178, 560], [123, 693], [123, 819], [09, 376], [178,
452]... (7 trường hợp).
"Luận ngữ" : [178, 16], [178, 159], [178, 202], [178, 215], [178, 395], [178, 548], [178,
577], [178, 588], [09, 453],... (9 trường hợp).
"Trung dung": [178, 454], [123, 787], [123, 799],... (3 trường hợp).
"Cửu kinh": [09, 377],... (01 trường hợp).
"Thái Huyền": [123, 694]... (01 trường hợp).
"Lã thị Xuân Thu" : [178, 42]...(01 trường hợp).
"Tả truyện" : [178, 69], [178, 404],... (2 trường hợp).
"Sử ký" : [178, 474], [178, 545],... (2 trường hợp).
"Quốc ngữ" : [178, 584].. (01 trường hợp).
"Hán thư" : [178, 552].... (01 trường hợp).
"Hậu Hán Thư": [178, 151], [178, 374].. (2 trường hợp).
"Đường thư" : [178, 42], [178, 506],... (3 trường hợp).
Những trường hợp sử dụng từ ngữ, điển tích có nội dung là những quan niệm Nho giáo
hay những quan niệm ảnh hưởng Nho giáo trong thơ Nho:
Xa thư [178, 100], kinh luân [178, 114], nhạc Thiều [178, 155], bồ luân [178, 162], sông
Nghi [178, 162], tư văn [178, 215], xã tắc [09, 256], đại ẩn [178, 506], Minh luân (nhà thờ
chính thờ Khổng Tử) [178, 557], cương thường [178, 583], tiên ưu [123, 669], bĩ thái [123,
792], tiêu trưởng [123, 769], thương y ý quốc [178, 16], qui khứ lai (Đào Tiềm) [178, 41],
thương lương (tùy thời) : [178, 41]. Nhạc Thiều [178, 455], bạch y (ẩn dật) [178, 159], đan
quế (đổ đạt) [178, 215], nhạn tháp (thi đổ Tiến sĩ) [178, 215], long môn [178, 215], lan (quân
tử) [178, 372], rau cần (trường Quốc Tử Giám) [3, 397], lí tố ti (đi trên tơ trắng) [178, 397],
hạc viên tâm (lòng viên hạc, ngao du) 123, 839], sài môn (cửa sài) [178, 419], lam thanh
(quan niệm trò giỏi hơn thầy) : [178, 431], hoàng hoa (ủy lạo người đi sứ) [178, 506], sương
lộ hiếu tư (kinh Lễ) [178, 523], đàn Hạnh (nơi Khổng Tử dạy học) [178, 537], treo cung (Lễ
ký) [178, 545], hành tàng (Luận ngữ) [178, 548], nho quan đa ngộ thân [123, 680], ỷ lấy
Nho [123, 713], tiểu nhân chi đức thảo (không thích cỏ) [123, 821], hiền [123, 823]...
Những trường hợp sử dụng từ ngữ, điển cố có liên quan đến những danh nho nói chung :
Nghiêu : [178, 120]... (01 trường hợp).
Thuấn : [178, 126], ... (01 trường hợp).
Nghiêu Thuấn : [478, 136], [178, 207], [123, 714], [123, 732],... (04 trường hợp).
Thương Hiệt : [178, 309] (01 trường hợp).
Vũ (Hạ) : [09, 424] (01 trường hợp).
Phó Duyệt : [178, 42] (01 trường hợp), Y – Phó : [178, 42] (01 trường hợp).
Tắc – Tiết : [178, 576] (01 trường hợp).
Sào, Do : [178, 165], [123, 714] (2 trường hợp).
Khương Thượng : [178, 24] (01 trường hợp).
Chu Công : [178, 571] (01 trường hợp).
Bá Di – Thúc Tề : [123, 697], [123, 735] (2 trường hợp).
Khổng Tử : [178, 120], [178, 537], [178, 557], [123, 714], [123, 802] (5 trường hợp).
Tăng tử : [178, 215], [178, 552] (2 trường hợp).
Tăng Điểm : [178, 584] (1 trường hợp).
Nhan Hồi : [178, 41], [123, 712], [123, 780], [09, 398] (04 trường hợp),...
Mạnh Tử : [178, 41], [178, 557], [178, 559], [178, 588], [178, 583], [123, 748] (06
trường hợp).
Tuân Tử : [178, 431] (01 trường hợp).
Hàn Phi Tử : [09, 429] (01 trường hợp).
Hạng Vương : [178, 130] (01 trường hợp).
Phạm Lãi : [123, 804] (01 trường hợp).
Tư Mã Tương: [178, 409], [123, 726] (02 trường hợp).
Hán Cao Tổ : [178, 220] (01 trường hợp).
Phàn Khoái, Hàn Tín : [178, 519] (01 trường hợp).
Vương Bột : [178, 528] (01 trường hợp).
Trương Hủ : [123, 756] (01 trường hợp).
Nghiêm Tử Lăng : [178, 28] (01 trường hợp).
Gia Cát : [178, 120], 178, 179], [123, 782] (03 trường hợp).
Đổng Trọng Thư : [178, 175] (01 trường hợp).
Tào Tháo : [178, 120] (01 trường hợp).
Tào Thực : [123, 796] (01 trường hợp).
Thục Đế : [123, 841] (1 trường hợp).
Khuất Nguyên : [178, 159], [178, 327], [178, 356], [178, 565], [123, 781] (05 trường
hợp).
Đào Tiềm : [178, 41], [178, 159], [178, 441], [123, 771], [09, 424] (5 trường hợp).
Liễu Hạ Huệ : [178, 397] (01 trường hợp).
Huyền Huy: [123, 826] (01 trường hợp).
Bá Nha – Tử Kỳ: [178, 42] (01 trường hợp).
Đỗ Phủ : [178, 429], [178, 458], [178, 519], [178.571], [123, 664], [123, 682], [123,
736] (7 trường hợp).
Lý Bạch : [178, 387], [123, 701], [123. 701] (03 trường hợp).
Tô Đông Pha : [178, 130], [123, 682] (02 trường hợp).
Tạ Linh Vận: [178, 404] (01 trường hợp).
Bạch Cư Dị : [178, 49], 178, 434] (02 trường hợp).
Trương Cửu Linh : [178, 409], [123, 700], [123, 701] (03 trường hợp).
Bùi Độ : [178, 180], [178, 188] (02 trường hợp).
Trình Minh Đạo : [178, 395] (01 trường hợp),...
Trình Y Xuyên : [178, 400] (01 trường hợp),...
Vương Hy Chi : [178, 405] (01 trường hợp),...
Chu Đôn Di : [178, 555], [123, 682], [123, 766], [09, 376] (04 trường hợp)...
Ngụy Trưng : [178, 42] (01 trường hợp).
Phạm Trọng Yêm : [123, 716] (01 trường hợp).
Lâm Bô : [123, 756] (01 trường hợp).
Sự xuất hiện của các từ ngữ, điển tích có liên quan đến quan niệm Nho giáo, kinh điển
Nho giáo và các danh nho cho thấy văn hóa và học thuật Nho giáo đã ảnh hưởng đến nhận
thức, tư duy của các tác giả thơ Nho.
PHỤ LỤC 2. Bài thơ “Thích An Nam sự thi” (Ý Tông triều cử tử)
(“Toàn Đường thi”, quyển 784)
刺安南事诗
懿宗朝举子
南荒不择吏,致我交趾覆。联绵三四年,致我交趾辱。
懦者斗则退,武者兵益黩。军容满天下,战将多金玉。
刮得齐民疮,分为猛士禄。雄雄许昌师,忠武冠其族。
去为万骑风,住为一川肉。时有残卒回,千门万户哭。
哀声动闾里,怨气成山谷。谁能听鼓声,不忍看金镞。
念此堪泪流,悠悠颍川绿。
Thích An Nam sự thi
Nguồn: “Toàn Đường thư khố”: http://www3.zzu.edu.cn/qtss/zzjpoem1.dll/viewoneshi?js=784&ns=010 Phiên âm: Nam hoang bất trạch lại Trí ngã Giao Chỉ phúc. Liên miêng tam tứ niên Trí ngã Giao Chỉ nhục. Nhu giả đấu tắc thoái Vũ giả binh ích độc Quân dong mãn thiên hạ Chiến tướng đa kim ngọc, Loát đắc tể dân sang… Khứ mã vạn kỵ phong
Trụ vi nhất xuyên nhục Thời hữu tàn tốt hồi Thiên môn vạn hộ khốc Bất nhẫn khán kim thốc Niệm thủ khan lệ lưu Du du Vĩnh Xuyên lục...
(Ý Tông triều Cử tử)
“Những người cai trị một dãi đất An Nam nhỏ bé (Người ta) đã làm cho xứ Giao Chỉ cúng tôi nghiêng đổ (Người ta đã) làm cho xứ Giao Chỉ chúng tôi (thật là)
(Người ta đã) tập thói quen hễ ra trận đánh nhau là lùi. (Mà) lúc đánh nhau thì đồ binh khí (lại) là cái thẻ viết
Binh lính thì vơ vét hết mọi người trong thiên hạ. Chiến tướng (thì lại súng sính) nhiều vàng ngọc quá. (Đó là những của) bóc lột được bằng cách chích máu dân…
(Thì) trơ ra chỉ còn một con sông đầy thây người chết Khi tàn cuộc trở về Nghìn cửa vạn nhà khóc. Tiếng than vang động cả làng mạc, Oán khí chồng chất thành non cao…
Dịch nghĩa: nhục nhã (sớ tấu trình) (Thì) lòng bất nhẫn (mà) cố giữ nước mắt (khỏi) trào ra (Để) sao lục (câu chuyện) (gởi về) đất Dĩnh Xuyên
dằng dặc ở xa”. [131, 326-327].
Oán trách việc An Nam
Tạm dịch: Một dãi đất quê tôi Ai làm cho nghiêng đổ
Ai làm Giao Chỉ tôi
Đánh trận phải lùi bước? Vũ khí là sớ tấu!
Vét hết người đi lính, Chiến tướng tham vàng ngọc.
-Bóc lột chích máu dân!
Dòng sông đầy người chết Khi tàn cuộc trở về Nghìn cửa vạn nhà khóc. Tiếng tan động làng mạc, Oán khí chất non cao…
Lòng đau nước mắt trào, Khắc ghi câu chuyện ấy Hướng về quê hương xa…”
(Một Cử nhân An Nam triều vua Đường Ý Tông)

