intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Truyện cười ở các làng cười Bắc Bộ: Đặc điểm thi pháp và diễn xướng

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:234

20
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án "Truyện cười ở các làng cười Bắc Bộ: Đặc điểm thi pháp và diễn xướng" được hoàn thành với mục tiêu nhằm phân tích thi pháp truyện cười ở các làng cười đã được tập hợp ở nhiệm vụ; So sánh thi pháp truyện cười ở các làng cười với thi pháp truyện cười cổ truyền phổ biến, được lưu hành sớm và rộng rãi trong phạm vi toàn quốc;

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Truyện cười ở các làng cười Bắc Bộ: Đặc điểm thi pháp và diễn xướng

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI NGUYỄN THỊ THÙY TRUYỆN CƯỜI Ở CÁC LÀNG CƯỜI BẮC BỘ: ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP VÀ DIỄN XƯỚNG LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN HÀ NỘI - 2023
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI NGUYỄN THỊ THÙY TRUYỆN CƯỜI Ở CÁC LÀNG CƯỜI BẮC BỘ: ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP VÀ DIỄN XƯỚNG Chuyên ngành: Văn học Dân gian Mã số: 9.22.01.25 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS Nguyễn Việt Hùng 2. PGS.TS Vũ Thị Tú Anh HÀ NỘI - 2023
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan mọi kết quả của đề tài “Truyện cười ở các làng cười Bắc Bộ: Đặc điểm thi pháp và diễn xướng” là công trình nghiên cứu của cá nhân, được thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS. TS Nguyễn Việt Hùng và PGS.TS Vũ Thị Tú Anh. Các kết quả nghiên cứu trình bày trong luận án này là trung thực và chưa được ai công bố dưới bất kì hình thức nào. Tôi xin chịu trách nhiệm về các kết quả nghiên cứu và tính trung thực trong luận án này. Tác giả Nguyễn Thị Thùy
  4. LỜI CẢM ƠN Em xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS. TS Nguyễn Việt Hùng và PGS.TS Vũ Thị Tú Anh, người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn, giúp đỡ em để em có thể thực hiện và hoàn thành luận án một cách đầy đủ và tốt nhất. Em xin gửi lời cảm ơn đến các thầy/cô giáo trong chuyên ngành Văn học dân gian của Trường Đại học sư phạm Hà Nội, các thầy/ cô giáo trong các hội đồng chấm luận án các cấp đã nhiệt tình giảng dạy, chỉ bảo, góp ý và giúp đỡ em trong quá trình em thực hiện luận án. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến thủ trưởng cơ quan công tác, đến các đồng nghiệp tại Khoa Giáo dục Mầm non, Trường Đại học Hải Phòng; Ban CHQS Quận Hồng Bàng, Bộ CHQS Hải Phòng đã tạo điều kiện để tôi có điều kiện thực hiện và hoàn thành luận án. Cuối cùng, con xin gửi lời cảm ơn đến gia đình nội ngoại hai bên đã luôn làm hậu phương vững chắc cho con để con yên tâm học tập. Xin chân thành cảm ơn!
  5. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1 2. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 2 3. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 2 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 2 5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 4 6. Đóng góp của luận án .................................................................................... 7 7. Cấu trúc luận án ............................................................................................ 7 CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM, TỔNG QUAN VỀ LÀNG VIỆT CỔ TRUYỀN Ở BẮC BỘ, LỊCH SỬ SƯU TẦM, NGHIÊN CỨU TRUYỆN CƯỜI .............................................................................................. 8 1.1. Khái niệm .................................................................................................. 8 1.1.1. Truyện cười dân gian .......................................................................... 8 1.1.2. Truyện cười dân gian cổ truyền, truyện cười dân gian hiện đại ......... 9 1.1.3. Truyện trạng, truyện cười kết chuỗi, truyện cười lẻ/ truyện cười độc lập ................................................................................................ 10 1.1.4. Truyện khôi hài, truyện tiếu lâm....................................................... 11 1.1.5. Truyện cười ở các làng cười ............................................................. 14 1.1.6. Thi pháp ............................................................................................ 14 1.1.7. Diễn xướng........................................................................................ 15 1.2. Tổng quan về làng xã cổ truyền người Việt ở Bắc Bộ, cái nôi sinh thành truyện cười .......................................................................................... 17 1.2.1. Bắc Bộ là một vùng văn hoá tiêu biểu .............................................. 17 1.2.2. Làng xã người Việt ở Bắc Bộ ........................................................... 19 1.2.3. Bắc Bộ, nơi tập trung của những làng cười ...................................... 27 1.3. Lịch sử sưu tầm và nghiên cứu truyện cười ........................................ 32
  6. 1.3.1. Lịch sử sưu tầm truyện cười ............................................................. 32 1.3.2. Lịch sử nghiên cứu truyện cười ........................................................ 36 1.4. Tiểu kết .................................................................................................... 43 CHƯƠNG 2: THI PHÁP TRUYỆN CƯỜI Ở CÁC LÀNG CƯỜI .......... 44 2.1. Quá trình nghiên cứu theo hướng vận dụng thi pháp học ở Việt Nam .. 44 2.2. Sự giống nhau giữa truyện cười ở các làng cười và truyện cười cổ truyền về mặt thi pháp .................................................................................. 47 2.2.1. Thủ pháp sử dụng ngôn ngữ linh hoạt và phù hợp ........................... 47 2.2.2. Thủ pháp kết thúc bất ngờ................................................................. 50 2.2.3. Thủ pháp khai thác và tạo dựng mâu thuẫn ...................................... 54 2.2.4. Thủ pháp sử dụng văn vần xen vào truyện kể văn xuôi ................... 57 2.2.5. Thủ pháp phóng đại ở các làng cười ................................................. 60 2.2.6. Thủ pháp sử dụng yếu tố tục ............................................................. 66 2.2.7. Sử dụng phối hợp các thủ pháp gây cười .......................................... 72 2.3. Sự khác nhau giữa truyện cười các làng cười và truyện cười cổ truyền về mặt thi pháp.................................................................................. 74 2.3.1. Chỉ có truyện cười ở các làng cười mới để người kể chuyện ở ngôi thứ nhất................................................................................................ 74 2.3.2. Truyện cười ở các làng cười hầu như hoặc rất ít khi sử dụng các thủ pháp gậy ông đập lưng ông và bắt chước không thành công ............... 74 2.3.3. Cả truyện ở làng cười và truyện cười cổ truyền đều sử dụng những thủ pháp giống nhau, nhưng khác nhau về tính chất và mức độ ..... 77 2.4. Nhận xét sau khi so sánh ....................................................................... 80 2.5. Tiểu kết .................................................................................................... 81 CHƯƠNG 3: TỪ TRÀO LƯU BỐI CẢNH Ở HOA KỲ ĐẾN VIỆC DIỄN XƯỚNG Ở CÁC LÀNG CƯỜI ........................................................ 83 3.1. Từ hướng tiếp cận bối cảnh trong folklore Hoa Kỳ đến việc vận dụng ở Việt Nam............................................................................................ 83
  7. 3.2. Diễn xướng truyện cười ở năm làng cười Bắc Bộ ............................. 101 3.2.1. Quá trình sưu tầm điền dã ............................................................... 101 3.2.2. Diễn xướng truyện cười ở năm làng cười ....................................... 103 3.3. Những nhận xét rút ra ......................................................................... 124 3.4. Tiểu kết chương 3 ................................................................................. 130 KẾT LUẬN .................................................................................................. 132 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ..............................................................................................135 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 136 PHỤ LỤC............................................................................................................ 1.PL
  8. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Từ viết tắt Cách viết tắt GS.TS Giáo sư, Tiến sĩ SL Số lượng TP Thủ pháp TL Tỉ lệ
  9. 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Trong các thể loại tự sự dân gian, có thể nói truyện cười là thể loại mang đậm chất quần chúng và chất bình dân nhất. Nếu như thần thoại mang tính chất thiêng liêng, gắn với những nghi lễ của tín ngưỡng nguyên thủy; truyền thuyết là lời tôn vinh, ngợi ca những người anh hùng của cộng đồng trong các lễ hội dân gian thì truyện cười lại vô cùng giản dị, gần gũi với đời thường, mang tính giải trí cao và tố cáo châm biếm sâu sắc. Dân tộc nào cũng biết cười và có truyện cười. Nhưng hiếm có dân tộc nào lại hay cười, biết cười và giỏi cười như người Việt. Truyện cười đã được sưu tập và nghiên cứu với nhiều thành tựu bởi những tác giả tên tuổi. Trong kho tàng truyện cười của người Việt, truyện ở các làng cười còn ít được sưu tầm và chưa nghiên cứu nhiều. 1.2. Người Việt sống ở làng. Mỗi một làng quê Bắc Bộ là một cảnh quan hoàn chỉnh, là một cộng đồng cư dân đủ phong phú đến mức phức tạp. Làng xã là cái nôi sinh thành ra các thể loại văn nghệ dân gian, trong đó có truyện cười dân gian. Theo quy luật, truyện cười cổ truyền được hình thành từ cộng đồng dân làng sau đó lan tỏa ra phạm vi rộng hơn: huyện, tỉnh, vùng, toàn quốc. Bên cạnh nguồn gốc nội sinh, người Việt thông qua các nhà nho còn tiếp thu truyện cười của các nước khác, chủ yếu là của Trung Quốc. 1.3. Hiện nay trong 1013 truyện cười đơn lẻ (không kể hàng chục sưu tập truyện trạng) được Nguyễn Chí Bền và các cộng sự biên soạn trong tập 8 – “Truyện cười” thuộc bộ Tổng tập văn học dân gian người Việt, đã trở thành phổ biến và quen thuộc đối với người Việt có trình độ văn hóa phổ thông. Nhưng đối với đa số người dân cả nước, truyện cười ở các làng cười vẫn còn tương đối xa lạ. Vậy truyện cười ở các làng cười có gì giống và khác với truyện cười cổ truyền phổ biến? Trong khi hình thức diễn xướng truyện cười cổ truyền đã lùi vào thời gian thì theo quan sát bước đầu của chúng tôi, tính diễn xướng, hình thức diễn xướng các truyện cười ở một số làng cười vẫn có thể ghi nhận được ít nhiều. Để phân biệt giữa truyện cười cổ truyền và truyện cười ở các làng cười, người nghiên cứu chú ý đến thi pháp thể loại và hình thức diễn xướng.
  10. 2 Chính vì những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài Truyện cười ở các làng cười Bắc Bộ: Đặc điểm thi pháp và diễn xướng để thực hiện luận án. 2. Mục đích nghiên cứu 2.1. Nêu được đặc điểm thi pháp truyện cười ở các làng cười; 2.2. Phân tích hình thức diễn xướng truyện cười ở các làng cười. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu Trong luận án chúng tôi xác định các nhiệm vụ nghiên cứu như sau: 3.1. Sưu tầm bổ sung truyện ở một làng cười mà chủ thể không làm nông nghiệp, cụ thể ở đây là làng Trân Châu, huyện đảo Cát Hải, thành phố Hải Phòng; 3.2. Tập hợp một số lượng đủ các truyện cười ở các làng cười, có tính đại diện cho truyện làng cười ở Bắc Bộ; 3.3. Phân tích thi pháp truyện cười ở các làng cười đã được tập hợp ở nhiệm vụ 3.2; 3.4. So sánh thi pháp truyện cười ở các làng cười với thi pháp truyện cười cổ truyền phổ biến, được lưu hành sớm và rộng rãi trong phạm vi toàn quốc; 3.5. Trình bày diễn biến của hướng nghiên cứu diễn xướng/ trình diễn trong bối cảnh ở nước ngoài và Việt Nam (để thấy rõ nhiều nhà khoa học Việt Nam không chịu ảnh hưởng của hướng nghiên cứu này ở nước ngoài); 3.6. Phân tích các hình thức diễn xướng của truyện cười ở các làng cười. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Trong khuôn khổ bản luận án, chúng tôi nghiên cứu truyện cười ở các làng cười trên phương diện thi pháp và diễn xướng. Thực ra nếu theo quan điểm rộng về thi pháp thì các hình thức diễn xướng cũng nằm trong thi pháp nhưng cũng có quan niệm nói đến thi pháp là nói đến nghệ thuật của phần ngôn từ. 4.2. Trong khuôn khổ thời gian thực hiện luận án, chúng tôi không thể nghiên cứu tất cả truyện cười ở các làng cười. Vả lại theo kinh nghiệm của Prôpp (nhà nghiên cứu nổi tiếng không chỉ ở Liên Xô cũ), cần chọn số tư liệu vừa đủ để tìm hiểu quy luật của đối tượng. Đối với hàng trăm truyện cổ tích thần kỳ trong sưu tập của A.N. Aphanaxiep, Prôpp khảo sát từ truyện thứ 50 đến truyện số 151, đúng 100 truyện. Từ 100 truyện này ông xây dựng lý thuyết hình thái học. Sau đó ông kiểm tra lại tính
  11. 3 thuyết phục của lý thuyết bằng những truyện còn lại [1, 38]. Trong số truyện cười ở các làng cười Bắc Bộ, đã được nhà nghiên cứu Trần Quốc Thịnh tiến hành sưu tập, chúng tôi lựa chọn truyện cười của bốn làng cười: Trúc Ổ, Hòa Làng, Dương Sơn, Văn Lang. Trúc Ổ là một làng nay thuộc huyện Quế Võ tỉnh Bắc Ninh. Tài nói khoác (đại ngôn) của dân làng đã nổi tiếng đến mức trong thơ ca cổ đất Kinh Bắc đã nói đến [2, 17-18]. Truyện cười ở đây phong phú hơn truyện cười ở làng Đồng Sài cùng huyện, bởi nhiều truyện cười ở Đồng Sài chỉ khai thác đề tài củ khoai. Truyện cười ở Trúc Ổ không chỉ được gợi cảm hứng từ củ khoai mà còn từ con cá, do dân nơi đây có nghề câu cuốn. Ngoài ra, truyện cười Trúc Ổ vừa có tính đại ngôn lại có tính chất lý sự, ngay cả trẻ em làng này cũng biết nói khoác [2, 20]. Chính vì vậy trong số các làng cười ở tỉnh Bắc Ninh chúng tôi chọn truyện ở làng cười Trúc Ổ làm đối tượng khảo sát. Đây là truyện ở một làng đậm tính chất đồng bằng. Đối với truyện cười ở vùng trung du và miền núi, ở tỉnh Bắc Giang chúng tôi chọn truyện cười ở làng Hòa Làng và Dương Sơn. Đây là hai làng cạnh nhau, sự nổi tiếng của truyện cười nơi đây đã được ca dao địa phương ghi nhận: “Hòa Làng nói phét có ca/ Dương Sơn nói phét bằng ba Hòa Làng” [2, 67]. Ngoài ra ở Dương Sơn có một đặc điểm khác với hai làng Trúc Ổ và Hòa Làng ở chỗ cuộc sống vật chất tuy chưa được dồi dào, nhưng dễ chịu hơn, là nơi có một số người theo đòi Nho học, trong làng có nhà bình văn gọi là “Dương Sơn hội quán”. Trong cái gọi là dân chúng, ngoài nông dân là đa số, còn có những thành phần khác như chúng tôi sẽ trình bày ở chương 1. Trong các thành phần đó, có nhà nho bình dân. Đặc biệt là ở Dương Sơn có cụ Nguyễn Tam, một nghệ nhân dân gian chính cống thuở xưa. Truyện cười ở làng Văn Lang là sáng tác của cư dân vùng trung du và miền núi phía Bắc, nơi cội nguồn đất Tổ. Hơn nữa, truyện cười Văn Lang từ lâu đã rất nổi tiếng. Nói tóm lại, truyện ở các làng cười Trúc Ổ, Hòa Làng, Dương Sơn, Văn Lang là sáng tạo của người Việt ở đồng bằng, trung du và miền núi của Bắc Bộ. Tuy nhiên, người Việt xưa không chỉ có nông dân, mặc dù bộ phận này chiếm đại đa số, mà còn có cả ngư dân. Cho đến nay chưa có sưu tập truyện cười của một làng ngư nghiệp nào được xuất bản. Trong thời gian thực hiện luận án, chúng tôi đã chọn làng Trân Châu của đảo Cát Bà, thuộc huyện Cát Hải, Hải Phòng để sưu tầm bổ sung. Số lượng truyện cười tại làng này do chúng tôi sưu tầm được trong quá trình điền dã là 20 truyện. Tổng số truyện cười được sưu tầm bổ sung và đã được sưu tập xuất bản là 299 truyện. Trong đó, Văn
  12. 4 Lang có 180 truyện đã xuất bản; Trúc Ổ 20 truyện trong đó 14 truyện đã xuất bản, 6 truyện do chúng tôi sưu tầm; Hòa Làng 40 truyện, trong đó 26 truyện đã xuất bản, 14 truyện do chúng tôi sưu tầm; Dương Sơn 39 truyện, trong đó 26 truyện đã xuất bản, 13 truyện do chúng tôi sưu tầm. Đối với những truyện đã xuất bản được dùng làm đối tượng nghiên cứu, chúng tôi lấy từ Truyện làng cười xứ Bắc (1988) của Trần Quốc Thịnh và Làng cười Văn Lang (2011) của Trần Văn Thục. Tất cả là 246 truyện đã xuất bản, 53 truyện do chúng tôi sưu tầm. Như vậy, sự lựa chọn bốn làng cười nói trên có tính chất đại diện về phương diện địa lý (làng trung du miền núi, làng đồng bằng, làng chài vùng biển), đồng thời bốn làng cũng đại diện cho những cách thức sáng tạo truyện cười: nói khoác, nói tức… 5. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng các phương pháp dưới đây. 5.1. Phương pháp tập hợp các tài liệu đã xuất bản. Các tài liệu này bao gồm những cuốn sách, bài báo sưu tầm, nghiên cứu truyện cười ở các làng cười, truyện cười cổ truyền, phổ biến. Ở đây không chỉ đơn giản là sưu tầm, tập hợp tài liệu mà còn cần giám định, phân tích tài liệu. Qua phân tích các tài liệu đã xuất bản, chúng tôi chọn tập cuốn “Truyện cười”, tập 8 trong bộ Tổng tập văn học dân gian người Việt, của nhóm biên soạn Nguyễn Chí Bền làm tài liệu phân tích các tài liệu truyện cười cổ truyền phổ biến, mà chẳng hạn, không chọn Truyện tiếu lâm Việt Nam của Nguyễn Hồng Phong (lý do sẽ được phân tích cụ thể ở mục Lịch sử vấn đề trong Chương 1 của luận án). 5.2. Phương pháp tổng hợp. Theo tác giả Đinh Gia Khánh, phương pháp tổng hợp “có thể giúp cho việc tìm hiểu mối quan hệ tự nhiên và hữu cơ giữa giá trị ích dụng và giá trị thẩm mỹ của các tác phẩm folklore và từ đó xác định được giá trị đích thực của tác phẩm” [3, 15]. Cũng theo tác giả, phương pháp này “còn có thể giúp cho việc tìm hiểu vai trò của môi trường, của tập tục xã hội, của sinh hoạt văn hóa dân gian trong việc tạo nên giá trị đặc thù của tác phẩm folklore” [3, 16]. 5.3. Phương pháp phân tích. Đây là “thao tác xuất phát từ tổng thể mà đi ngược lên các nguyên tố ban đầu (éléments premiers). Vì vậy nó còn được gọi là phương pháp thoái triển (méthode régressive)” [3, 17]. Các thao tác phân tích một tác phẩm, một thành tố đã tách biệt riêng ra của chỉnh thể nguyên hợp để đi sâu vào nội dung và cấu trúc của tác phẩm ấy, thành tố ấy.
  13. 5 Theo Đinh Gia Khánh, phương pháp tổng hợp là thao tác ngược chiều với phương pháp phân tích. Phương pháp tổng hợp xuất phát từ các nguyên tố ban đầu để đi tới chung cục tức là trên cơ sở các chi tiết mà lắp ráp lại cái toàn thể hoặc trên cơ sở các thành tố mà xây dựng lại chỉnh thể đã được phân tích. Vì vậy phương pháp tổng hợp còn được gọi là phương pháp tiến triển (méthode progressive). 5.4. Phương pháp thống kê. Theo tác giả Nguyễn Xuân Kính, “từ kết quả thống kê dẫn đến những nhận xét, những kết luận khoa học” [4, 127]. Thí dụ số lượng truyện cười sử dụng thủ pháp phóng đại trong truyện cười làng Dương Sơn là 23/39 (58,9%), làng Trân Châu là 8/20 (40%), Văn Lang là 62/180 (34,4%) Hòa Làng là 10/40 (25%), Trúc Ổ là 2/20 (10%). Như vậy chúng ta thấy người Trúc Ổ ít sử dụng thủ pháp phóng đại nhất, người Dương Sơn lại ưa dùng cách gây cười này. Mặt khác, “con số thống kê tăng thêm sức thuyết phục cho những dự cảm, những suy luận khoa học” [4, 134]. Trong thời gian đầu thực hiện luận án, chúng tôi thoáng nghĩ rằng có lẽ trong truyện cười ở các làng cười không hoặc có rất ít yếu tố tục trong các câu chuyện kể. Cuối chặng đường nghiên cứu, qua việc phân tích 299 truyện, chúng tôi thấy có hai làng trong đó nghệ nhân sử dụng yếu tố tục, làng cười Văn Lang có 51/180 và 1/20 truyện ở làng cười Trân Châu. Như vậy, thủ pháp sử dụng yếu tố tục của năm làng cười chiếm 52/299 truyện, bằng 17,4%, trong khi thủ pháp sử dụng yếu tố phóng đại chiếm 105/299 truyện, bằng 35,1%. Có người cho rằng thống kê chỉ đơn giản là thao tác đếm. Thực ra không phải như vậy. Trước và trong quá trình thống kê, chúng tôi phải thẩm định tư liệu. Thí dụ đối với truyện cười cổ truyền lẻ, ở tập 8 Truyện cười do Nguyễn Chí Bền chủ biên có 1029 truyện. Chúng tôi đã loại bỏ, không sử dụng 16 truyện. Đó là những truyện cười hiện đại và những truyện không gây cười. 5.5. Phương pháp so sánh. Phương pháp này được sử dụng để làm nổi bật đối tượng hoặc vấn đề đang khảo sát. Chỉ có so sánh thi pháp truyện kể ở các làng cười với thi pháp truyện cười cổ truyền, phổ biến, chúng tôi mới nêu bật được đặc điểm thi pháp truyện cười ở các làng cười. Ở đây có sự phân biệt giữa phương pháp so sánh và khoa nghiên cứu so sánh văn học. Khoa nghiên cứu so sánh văn học là một khoa học, ngoài đối tượng là các ngành văn học nghệ thuật,
  14. 6 khoa học xã hội, khoa học tự nhiên (thí dụ so sánh giữa văn học và âm nhạc, giữa văn học và điện ảnh), đối tượng chủ yếu của khoa nghiên cứu văn học so sánh là các nền văn học của các dân tộc. Điều tối kị ở đây là khi so sánh văn học giữa các dân tộc không được nêu vấn đề hơn kém; trong khi so sánh giữa âm nhạc và văn học, giữa văn học và khoa học, người ta có thể nói đối tượng này kém đối tượng kia ở những điểm a, b, c và lại hơn đối tượng kia ở những điểm khác. Phương pháp so sánh được vận dụng trong khi nghiên cứu văn học của nội bộ một dân tộc, như so sánh truyện cười cổ truyền với truyện cười ở các làng cười, chúng ta có thể nói đến câu chuyện hơn kém, nhưng quan trọng vẫn là chỉ ra sự giống nhau và khác nhau và giải thích những điều đó [5, 188]. 5.6. Phương pháp nghiên cứu ngữ văn dân gian. Đây là luận án thuộc chuyên ngành Văn học dân gian, không thuộc chuyên ngành Nhân học văn hóa. Bởi vậy khi phân tích những truyện cười, chúng tôi sẽ sử dụng các tri thức của ngành ngữ văn như kết cấu, bố cục, phóng đại, thể thơ, thi pháp,… 5.7. Phương pháp điền dã dân tộc học. Chúng tôi sử dụng phương pháp này khi đi xuống địa phương sưu tầm truyện cười ở làng Trân Châu, khi đến các làng Dương Sơn, Hòa Làng, Trúc Ổ, Văn Lang để nghiên cứu hình thức diễn xướng truyện cười. Phương pháp này yêu cầu người thực hiện phải hòa đồng với nhân dân địa phương, cùng ăn cùng ở tạo sự tin cậy của đồng bào, phải gây được niềm tin để họ có thể tâm sự và trình diễn truyện cười. Trước khi đi xuống mỗi làng, nghiên cứu sinh đọc tài liệu về lịch sử, xã hội, phong tục tập quán của từng làng đó, chuẩn bị sổ tay ghi chép, băng ghi âm, máy ảnh. Theo yêu cầu đạo đức khoa học, để tránh những phiền hà, rắc rối không đáng có cho những người cung cấp tài liệu, trong luận án chúng tôi đã đổi tên tất cả những người dẫn đường, kể truyện cười. 5.8. Phương pháp phỏng vấn chuyên gia. Ngoài việc xin ý kiến chỉ dẫn của thầy, cô hướng dẫn, chúng tôi còn xin gặp và phỏng vấn hai chuyên gia trong lĩnh vực nghiên cứu văn học dân gian là GS.TS Nguyễn Xuân Kính và GS.TS Vũ Anh Tuấn. Do yêu cầu của việc diễn đạt, chúng tôi phải nêu thứ tự các phương pháp. Điều này không có nghĩa là thực hiện xong phương pháp này, chúng tôi mới sử dụng phương pháp kia.
  15. 7 6. Đóng góp của luận án 6.1. Sưu tầm mới 20 truyện cười ở làng Trân Châu, 14 truyện cười ở làng Hòa Làng, 13 truyện cười ở làng Dương Sơn, 6 truyện cười ở làng Trúc Ổ. Đây là 53 truyện chưa được công bố và quan trọng hơn là những truyện này bổ sung vào diện mạo của các truyện cười ở làng cười Bắc Bộ. 6.2. Nhận diện đặc điểm thi pháp truyện cười ở các làng cười. 6.3.Tiếp thu và giải thích lý do ra đời khuynh hướng tiếp cận bối cảnh/ diễn xướng. 6.4. Phân tích hình thức diễn xướng truyện kể ở các làng cười. 7. Cấu trúc luận án Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận án gồm 3 chương, cụ thể như sau: Chương 1: Khái niệm, tổng quan về làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ, lịch sử sưu tầm, nghiên cứu truyện cười; Chương 2: Thi pháp truyện cười ở các làng cười; Chương 3: Từ trào lưu bối cảnh ở Hoa Kỳ đến việc diễn xướng ở các làng cười.
  16. 8 CHƯƠNG 1 KHÁI NIỆM, TỔNG QUAN VỀ LÀNG VIỆT CỔ TRUYỀN Ở BẮC BỘ, LỊCH SỬ SƯU TẦM, NGHIÊN CỨU TRUYỆN CƯỜI 1.1. Khái niệm 1.1.1. Truyện cười dân gian Truyện cười dân gian là những sáng tác do dân chúng sáng tạo và lưu truyền từ xưa đến nay. Dân chúng là một khái niệm bao gồm nhiều tập hợp người với những nghề nghiệp, sở thích, năng khiếu khác nhau. Cái gọi là dân, dân chúng cũng vận động theo thời gian. Trong thời quân chủ/ phong kiến, dân chúng là những nông dân, thợ thủ công, người buôn bán nhỏ và trí thức bình dân. Nông dân là những người sống ở nông thôn, canh tác ruộng đất và chăn nuôi. Thợ thủ công là những người chủ yếu không sản xuất nông nghiệp mà làm các công việc như đan lát, làm đồ mộc, làm gạch, xây dựng nhà cửa,… Tuy phân biệt rành mạch như vậy, nhưng thực tế, những người nông dân làm ruộng là chủ yếu, nhưng họ vẫn có thể đan lát, đóng gạch, làm mộc cho gia đình mình hoặc làm các công việc trên để có sản phẩm đem bán hoặc dựng nhà, dựng cửa cho người khác để nhận thù lao khi nông nhàn. Số lượng những người thợ thủ công chỉ chuyên làm nghề này không nhiều. Ở Bắc Bộ, thời quân chủ chỉ có hai làng không có nghề làm ruộng là làng gốm Bát Tràng (Gia Lâm, Hà Nội) và làng gốm Quế Quyển (Hà Nam). Do không có đất đai sản xuất, hai làng này không có người làm ruộng. Khi nói đến nghề thủ công, hiện nay chúng ta hay nói đến làng nghề. Nói như vậy không có nghĩa là cả làng đó làm nghề, mà chỉ có một bộ phận lớn sản xuất ra một mặt hàng nhất định như làng mây tre đan, làng làm lược, làng làm trống... Trong làng vẫn có một bộ phận chuyên làm nông nghiệp và những người thợ thủ công ở những làng vừa nêu cũng biết làm nghề nông. Những người làm nghề buôn bán trong xã hội quân chủ thường là những người buôn bán nhỏ và đại đa số là phụ nữ. Ngày xưa phụ nữ chỉ không làm các nghề buôn gia súc (trâu, bò, lợn) và buôn bè. Ở Bắc Bộ cũng đã hình thành một số làng buôn như Đan Loan, Báo Đáp, Phù Lưu nhưng xu thế của những người buôn
  17. 9 bán là không đầu tư tiền lãi vào việc phát triển nghề này mà khi có nhiều tiền lại mua thêm ruộng đất. Cái căn tính nông dân đã không làm cho Bắc Bộ có những nhà buôn lớn. Nói đến trí thức bình dân là nói đến các nhà nho đi thi không đỗ hoặc là những người đã đỗ đạt nhưng chưa phải đại khoa, họ làm một chức quan nhỏ sau một thời gian vì những lý do nhất định lại trở về làng làm dân. Những người đó ta gọi là trí thức bình dân, bao gồm nhà nho chưa đi thi, nhà nho đi thi không đỗ và những viên quan nhỏ về hưu. Bốn kiểu người vừa nêu được sách vở phong kiến xếp vào loại dân, với trật tự ngược lại là sĩ, nông, công, thương. Một trò diễn cổ truyền ở làng Tứ Xã (Phú Thọ) đã thể hiện các nhân vật này trong hội làng. Nói như trên tuy đã chi tiết nhưng chưa bao gồm hết những người được gọi là dân. Còn có các ngư dân, dân nghèo thành thị, các cô đào hát, anh kép hát, người xẩm mù, thậm chí cả các cô gái bán hoa và binh lính,… tất cả họ đều là dân. Văn học dân gian nói chung và truyện cười dân gian nói riêng là do những người trên sáng tác, lưu truyền. Theo truyền thống, chúng ta nói tắt truyện cười dân gian là truyện cười. Thực ra còn có các truyện cười bác học, có tác giả. Tuy nhiên ở nước ta loại truyện này khá hiếm, chưa kể một số ít lại được dân gian hóa trở thành của dân. Từ khi người Pháp xâm lược nước ta đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, ngoài những người dân như trên, có thêm công nhân (đương thời gọi là cu li, thợ thuyền) làm việc trong các hầm mỏ, các đồn điền, trong các nhà máy (dệt, xi măng, diêm); trong khi các nhà nho bình dân ngày một ít đi, số lượng dân nghèo thành thị lại càng ngày càng tăng lên, bên cạnh một bộ phận dân mới là trí thức tân học (kiểu anh giáo Thứ của Nam Cao). Trong thời Pháp thuộc, những người vừa nêu gọi là dân. Từ sau Cách mạng tháng Tám đến năm 1954, thành phần dân có những chuyển biến khác. Trong vài chục năm hiện nay, cái gọi là dân rõ ràng khác xa so với dân thời quân chủ. 1.1.2. Truyện cười dân gian cổ truyền, truyện cười dân gian hiện đại "Thời gian qua, nhiều nhà khoa học dùng từ cổ truyền (trong các khái niệm: văn học dân gian cổ truyền, văn nghệ dân gian cổ truyền, văn hóa dân gian cổ truyền, văn hóa cổ truyền) với ý nghĩa chỉ thời gian, trong tương quan so sánh với
  18. 10 từ hiện đại (trong các khái niệm: văn học dân gian hiện đại, văn hóa dân gian hiện đại, văn hóa hiện đại…). Trong cách dùng này, cổ truyền là tính từ chỉ những gì ra đời và lưu truyền từ Cách mạng tháng Tám (1945) trở về trước, hiện đại là tính từ chỉ những gì ra đời và lưu hành từ sau Cách mạng tháng Tám (1945)” [6, 3]. Theo Nguyễn Xuân Kính, trong hai tập Văn học dân gian (xuất bản lần đầu 1972-1973), trong tập 1 (Văn học dân gian) của bộ Tinh tuyển văn học Việt Nam (xuất bản năm 2004), trong sách Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ (xuất bản lần đầu 1984, với bút danh Trần Từ), Đinh Gia Khánh, Kiều Thu Hoạch, Nguyễn Từ Chi đã sử dụng hai từ cổ truyền và hiện đại với cách hiểu nêu trên. Từ năm 1994 đến năm 2010, trong những tiết dạy chuyên đề Tiến trình văn hóa dân gian và khoa nghiên cứu văn hóa dân gian tại các lớp cao học thuộc cơ sở đào tạo Viện Nghiên cứu văn hóa dân gian (sau đổi thành Viện Nghiên cứu văn hóa), nhà giáo Nguyễn Xuân Kính sử dụng khái niệm văn hóa dân gian cổ truyền, văn hóa dân gian hiện đại với cách hiểu văn hóa dân gian cổ truyền là văn hóa dân gian được sáng tạo và lưu truyền từ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Với văn hóa dân gian đương đại, ông coi đây là khái niệm chỉ những sáng tạo dân gian ra đời trong khoảng 15 đến 20 năm gần đây (tính từ thời điểm phát ngôn hai tiếng “gần đây”). Tóm lại, văn học dân gian nói chung và truyện cười nói riêng được sáng tác và lưu truyền từ Cách mạng tháng Tám trở về trước được gọi là văn học dân gian cổ truyền, truyện cười dân gian cổ truyền. Văn học dân gian từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay được gọi là văn học dân gian hiện đại. Văn học dân gian được sáng tác và lưu truyền trong vài chục năm gần đây được gọi là văn học dân gian đương đại. Tóm lại, có truyện cười dân gian cổ truyền, truyện cười dân gian hiện đại và truyện cười dân gian đương đại. 1.1.3. Truyện trạng, truyện cười kết chuỗi, truyện cười lẻ/ truyện cười độc lập Các truyện Trạng Quỳnh, Trạng Lợn, Xiển Ngộ,… là những hệ thống truyện xoay quanh một nhân vật chính là Trạng Quỳnh, Trạng Lợn, Xiển Ngộ. Các nhà nghiên cứu gọi đó là truyện cười kết chuỗi, trong đó mỗi một truyện như “Trời sinh ông Tú Cát”, “Dê đực chửa”… trong truyện Trạng Quỳnh có thể được kể độc lập.
  19. 11 Những truyện cười không nằm trong hệ thống truyện trạng vừa nêu được gọi là truyện cười độc lập hoặc truyện cười đơn lẻ. Tuy khác nhau về chi tiết, nhưng các tác giả Đinh Gia Khánh [7, 374-376], Lê Chí Quế [8, 138], Hoàng Tiến Tựu [9, 85-86], Nguyễn Bích Hà [10, 115-126], Nguyễn Việt Hùng [11, 154] đều xếp truyện cười kết chuỗi/ truyện trạng vào thể loại truyện cười (cùng với truyện cười không kết chuỗi/ đơn lẻ/ độc lập). Đỗ Bình Trị thì khác, từ năm 1978 đến năm 1999, ông nhất quán xác định truyện trạng/ truyện cười kết chuỗi là một bộ phận của truyện cổ tích sinh hoạt trong thể loại truyện cổ tích [12, 116]. Các tác giả Trương Sĩ Hùng, Nguyễn Chí Bền, Mai Hương, Phạm Lan Oanh, Vũ Mai Hoàng,.. [11, 154], Triều Nguyên [13] có xu hướng tách truyện trạng thành một thể loại riêng, bên cạnh thể loại truyện cười. Khi chủ trì bộ sách Tổng tập văn học dân gian người Việt, Nguyễn Xuân Kính dùng biện pháp dung hòa: thống nhất với tác giả Nguyễn Chí Bền để các truyện cười độc lập vào tập 8, đề tên Truyện cười; để các truyện trạng vào tập 9, đề Truyện cười. Phần truyện Trạng1. Chúng tôi nghĩ, tuy truyện trạng khác truyện cười đơn lẻ/ độc lập ở mỗi hệ thống truyện gồm nhiều truyện thành phần, có thể kể độc lập; nhân vật trung tâm không phải là đối tượng bị chế giễu, phê phán (Trạng Quỳnh, Xiển Ngộ,…) nhưng cả hai bộ phận truyện cười lẻ/ độc lập và truyện cười kết chuỗi/ trạng đều giống nhau ở thủ pháp gây cười. Bởi vậy, khi bàn đến truyện cười cổ truyền, chúng tôi dành sự quan tâm cho các truyện cười lẻ/ độc lập/ không kết chuỗi, khi cần thiết mới liên hệ với truyện trạng/ truyện cười kết chuỗi. 1.1.4. Truyện khôi hài, truyện tiếu lâm Truyện khôi hài cũng là truyện cười. Nhưng khi nói đến truyện khôi hài người ta thường nghĩ đến tiếng cười nhẹ nhàng, ít khi là tiếng cười đả kích, châm biếm dữ dội. Về truyện tiếu lâm, theo nghĩa của từ thì tiếu lâm có nghĩa là rừng cười. Vậy truyện tiếu lâm có nghĩa là truyện cười. Các sưu tập truyện cười ở Trung Quốc đều gọi là truyện tiếu lâm, thí dụ Tiếu lâm quảng ký của Trung Quốc bản in đời Thanh [14, 1 Tư liệu phỏng vấn GS.TS Nguyễn Xuân Kính tại nhà riêng, tháng 12 năm 2022.
  20. 12 537]. Các nhà nho của ta cũng hay dùng từ tiếu lâm trong tên sách, thí dụ Tiếu lâm tân truyện, khắc in năm Khải Định năm thứ nhất - 1916 [14, 539]. Song có một số người nghĩ và hiểu rằng những truyện tiếu lâm là những truyện có yếu tố tục, thậm chí rất tục. Những năm 1970 - 1971, khi sưu tầm văn học dân gian ở xã Ích Hậu, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, nhà nghiên cứu văn học dân gian nổi tiếng Nguyễn Đổng Chi cho rằng: “Tiếu lâm nhiều lắm cũng chỉ là một yếu tố văn học”, nhưng khác với vè là nó không thành văn. Ông xác định đặt vè vào văn học còn được, nhưng e rằng sẽ là một sự cưỡng ép thực sự nếu đặt tiếu lâm vào văn học. Sở dĩ Nguyễn Đổng Chi không chủ trương đặt truyện tiếu lâm vào văn học vì một trong những đặc điểm chủ yếu của tiếu lâm Việt Nam là yếu tố dâm tục. Ngay cả những nhà sưu tầm cũng cảm thấy ngần ngại khi đưa những tính chất dâm tục quá trắng trợn này lên giấy mực, chưa nói đến việc dám đặt nó lên giường hoa của tuyển tập văn chương. Hơn nữa, ông nhấn mạnh sự gắn bó của tiếu lâm với lối kể chuyện. Vì thế, nếu có lúc nó thành truyện trọn vẹn, thì cũng có lúc nào đó nó chưa thành truyện trọn vẹn [15, 181-182]. Như thế, theo Nguyễn Đổng Chi, truyện tiếu lâm là những truyện có các yếu tố dâm, tục. Thế nào là dâm là cả một vấn đề thu hút sự tranh luận. Theo chúng tôi, trong truyện cười nước ta, có những truyện đề cập, thậm chí ít nhiều miêu tả các hoạt động tính giao là những truyện có yếu tố tục nhưng không khiêu dâm. Bằng chứng là trừ Nguyễn Đổng Chi, tất cả các sưu tập từ năm 1957 trở về nửa cuối thế kỷ XIX và trong các sưu tập từ những năm 1970 của thế kỷ XX đến gần đây đã được tập hợp lại đầy đủ trong tập 8 Truyện cười của bộ Tổng tập, các truyện đó vẫn hiện diện. Không cứ gì truyện dân gian, thơ mộng như ca dao khi cần thiết người ta vẫn sử dụng yếu tố tục: “Thân em như đóa hoa hồng/ Lấy phải anh chồng như cứt bò khô”. Trong kho tàng tục ngữ có khá nhiều câu sử dụng yếu tố tục. Theo tác giả Nguyễn Xuân Kính, trong môi trường giáo dục học sinh phổ thông, người soạn sách và người duyệt in không giới thiệu và không đồng ý công bố những tác phẩm như các truyện “Ăn nhau về hòn đất, “C… mày là c… mày, c… tao là c… tao”, “Ông Hàn đớp b…” là đúng. “Song trong phạm vi nghiên cứu, nếu loại bỏ những tác phẩm như vậy thì làm sao có thể nhận diện chính xác, toàn diện về đời sống tinh thần của dân chúng khi xưa? Dân gian không phải bao giờ cũng thanh, cũng nhã. Ngoài
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2