intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Cảm hứng sáng tác trong thơ văn của các chiến sĩ yêu nước trong nhà tù thực dân nửa đầu thế kỉ XX

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:27

2
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn "Cảm hứng sáng tác trong thơ văn của các chiến sĩ yêu nước trong nhà tù thực dân nửa đầu thế kỉ XX" được nghiên cứu với mục tiêu: Tìm hiểu cảm hứng sáng tác của các chiến sĩ cách mạng trong nhà tù quân xâm lược và bọn tay sai, để thấy được thế giới tâm hồn phong phú, ý chí và nghị lực phi thường của những người yêu nước trong hoàn cảnh bị quân giặc bắt giam, tù đày; Phân tích và chỉ ra những biểu hiện của cảm hứng sáng tác tiêu biểu như: khát vọng tự do, lòng yêu nước, lý tưởng cách mạng, tinh thần lạc quan, lòng yêu thiên nhiên, thương đồng bào;...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Cảm hứng sáng tác trong thơ văn của các chiến sĩ yêu nước trong nhà tù thực dân nửa đầu thế kỉ XX

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI PHẠM VĂN ĐẠI CẢM HỨNG SÁNG TÁC TRONG THƠ VĂN CỦA CÁC CHIẾN SĨ YÊU NƯỚC TRONG NHÀ TÙ THỰC DÂN NỬA ĐẦU THẾ KỈ XX Chuyên ngành: LÍ LUẬN VĂN HỌC Mã số: 9.22.01.20 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Hà Nội - 2024
  2. Công trình được hoàn thành tại: TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN MẠNH TIẾN Phản biện 1: PGS.TS Nguyễn Đức Hạnh, Trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên Phản biện 2: PGS.TS Nguyễn Văn Tùng, Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam Phản biện 3: TS. Đỗ Văn Hiểu, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp trường Họp tại: Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Vào hồi …..giờ … ngày … tháng… năm 2024 Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: Thư viện Quốc Gia, Hà Nội hoặc Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
  3. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, cảm hứng sáng tác được xem là khâu trọng yếu. Bất cứ sáng tạo nào cũng có thể xuất hiện cảm hứng nhưng cảm hứng trong sáng tác văn học nghệ thuật lại có những nét riêng. Cảm hứng như là khởi nguyên hình thành của tác phẩm văn học, làm cho quá trình sáng tạo của nhà văn diễn ra một cách đầy đủ mạnh mẽ như những đợt sóng liên hồi. Cảm hứng được thể hiện xuyên suốt trong quá trình sáng tác, có ảnh hưởng đến toàn bộ kết quả sáng tạo của người nghệ sĩ, vì vậy khi nghiên cứu về nội dung và hình thức của một tác phẩm ta cần xem tác giả lấy cảm hứng từ đâu. Cảm hứng có vai trò rất quan trọng đối với người nghệ sĩ cho nên từ xưa tới nay, các nhà nghiên cứu và các nghệ sĩ đều quan tâm đến vấn đề cảm hứng sáng tác. 1.2. Lịch sử văn học Việt Nam trải qua nhiều thời kì và hoàn cảnh khác nhau, trong đó có sự góp mặt của một bộ phận văn học đầy bi tráng được ra đời trong nhà tù quân xâm lược. Có lẽ không nhiều dân tộc trên thế giới phải thường xuyên đương đầu với giặc ngoại xâm như dân tộc Việt Nam, kể từ thế kỉ thứ III TCN cho đến thế kỉ XX, trải qua 22 thế kỉ thì có tới 12 thế kỉ dân tộc ta phải đứng lên đánh giặc giữ nước và có lẽ cũng ít có dân tộc nào lại có một bộ phận văn học lớn ra đời trong hoàn cảnh hết sức đặc biệt - văn học yêu nước trong nhà tù. Văn học yêu nước trong nhà tù thực dân đã đem lại những giá trị không nhỏ về tư tưởng và nghệ thuật với văn chương yêu nước Việt Nam trong dòng chảy của văn học Việt Nam. Nó kế thừa và phát huy một cách mạnh mẽ truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất, lòng yêu nước thương nòi, lòng tự hào dân tộc của ông cha được đúc kết trải qua cả ngàn năm dựng xây và bảo vệ Tổ quốc. Mặc dù vậy, hiện nay còn ít công trình nghiên cứu chuyên sâu về những thành tựu của văn học yêu nước trong nhà tù. Đây đó chỉ có một số công trình nhắc đến văn học cách mạng hoặc chỉ giới thiệu một vài tác gia, tác phẩm chứ chưa làm nổi bật giá trị nội dung và nghệ thuật trong sáng tác của những người chiến sĩ yêu nước trong lao tù. Trong điều kiện hội nhập ngày càng sâu rộng, để giữ gìn bản sắc và những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, để lịch sử không bị lãng quên thì việc giáo dục và khắc sâu thêm lòng yêu nước trong mỗi người dân Việt Nam có ý nghĩa vô cùng quan trọng và một trong những minh chứng tiêu biểu nhất cho tinh thần dân tộc, ý chí tự lực, tự cường, cảm hứng yêu nước lớn lao chính là những xúc cảm mãnh liệt được truyền tải trong các sáng tác thơ văn yêu nước trong nhà tù. Chính từ những trang văn thơ xúc động, được viết bằng máu, nước mắt, xuất phát từ trái tim nhiệt thành, ý chí kiên cường của người chiến sĩ yêu nước sẽ tiếp thêm động lực tinh thần, trở thành tấm gương, bài học để mỗi chúng ta học tập, noi theo. 1.3. Tìm hiểu về cảm hứng sáng tác trong thơ văn của các chiến sĩ yêu nước trong nhà tù thực dân sẽ thấy được vai trò của cảm hứng trong sáng tác cũng như đời sống tinh thần phong phú của các chiến sĩ - nghệ sĩ. Để có được một tác phẩm nghệ thuật giàu sức sống không thể thiếu cảm hứng sáng tác. Việc đi sâu tìm hiểu một cách hệ thống văn học yêu nước trong nhà tù thực dân với tư cách là một bộ phận văn học đặc thù, sẽ phục vụ cho công tác giảng dạy, nghiên cứu văn học được tốt hơn, nhất là nghiên cứu các nhân tố hình thành nên cảm hứng sáng tác, các phương diện và phương thức biểu hiện cảm hứng sáng tác của người chiến sĩ
  4. 2 Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài “Cảm hứng sáng tác trong thơ văn của các chiến sĩ yêu nước trong nhà tù thực dân nửa đầu thế kỉ XX” để tìm hiểu về thế giới tâm hồn người chiến sĩ – nghệ sĩ trong hoàn cảnh bị tù đày nhưng đã làm nên những thành tựu độc đáo của văn thơ yêu nước trong lịch sử hào hùng của dân tộc. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2.1. Đối tượng nghiên cứu Chúng tôi tập trung khảo sát vấn đề: Cảm hứng sáng tác trong thơ văn của các chiến sĩ yêu nước trong nhà tù thực dân nửa đầu thế kỉ XX. Trong khuôn khổ của luận án, chúng tôi hướng trọng tâm vào nghiên cứu một số đặc điểm tiêu biểu của cảm hứng sáng tác và những biểu hiện của cảm hứng sáng tác qua các tác phẩm văn thơ tiêu biểu của các chiến sĩ yêu nước trong nhà tù thực dân trong giai đoạn nêu trên ở cả hai loại hình tiêu biểu thơ ca và văn xuôi. Cũng cần chú ý đến tính chất đặc thù của đối tượng nghiên cứu, đó là những chiến sĩ yêu nước trong nhà tù – tù nhân chính trị (phân biệt với các tù nhân khác). Chiến sĩ yêu nước trong nhà tù quân xâm lược bao gồm các chí sĩ yêu nước, những người chiến sĩ đã được giác ngộ lý tưởng cách mạng trong quá trình hoạt động bị giặc bắt giam (tù chính trị) hay được giác ngộ cách mạng trong nhà tù, sau đó tham gia đấu tranh trong tù và cả những người yêu nước đấu tranh tự phát bị giặc bắt giam, lấy yếu tố yêu nước là hạt nhân tư tưởng. Đó có thể là các nhà yêu nước, các lãnh tụ cách mạng, những chí sĩ, chiến sĩ yêu nước xuất thân từ đủ mọi thành phần, nghề nghiệp cùng chung lý tưởng, mục đích chiến đấu là đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc (chúng tôi sẽ nói rõ hơn trong phần sau). 2.2. Phạm vi nghiên cứu Công trình của chúng tôi chủ yếu tập trung vào các sáng tác tiêu biểu của người chiến sĩ yêu nước, những nhà cách mạng Việt Nam trong nhà tù thực dân giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX (có liên hệ với các sáng tác văn chương yêu nước giai đoạn khác khi cần thiết) bao gồm các tác phẩm thơ, văn xuôi, ký…được tập hợp trong các cuốn sách, các công trình khác nhau của nhiều tác giả để làm tài liệu khảo sát, nghiên cứu. Các sáng tác văn thơ yêu nước trong nhà tù của chế độ khác (không phải là nhà tù của chế độ thực dân) không nằm trong phạm vi nghiên cứu nhưng sẽ được liên hệ trong quá trình phân tích khi cần thiết, chẳng hạn với tác phẩm Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh. Cần lưu ý rằng, các sáng tác của các chiến sĩ yêu nước có thể ra đời trong nhà tù hoặc sau khi ra tù, người chiến sĩ mới ghi chép lại những gì mình đã trải qua, mới có cơ hội để công bố các tác phẩm (truyện ngắn, hồi ký…) như Ngục Kom Tum của Lê Văn Hiến, Lao tù của Thiên Giang, Đời người trong ngục của Nhượng Tống, Ngồi tù Khám Lớn của Pham Văn Hùm, Vượt ngục của Cựu Kim Sơn, Dưới hầm Sơn La của Trần Huy Liệu... Song dù viết trong tù hay sau khi ra tù thì những sáng tác ấy vẫn thuộc về bộ phận văn học trong nhà tù, bởi họ viết về những hiện thực khốc liệt mà bản thân và đồng đội đã trực tiếp nếm trải. Thêm nữa, chính những điều “mắt thấy, tai nghe”, cuộc chiến đấu kiên cường và đời sống trong lao tù đã thôi thúc người chiến sĩ, cảm hứng sáng tác có thể đã xuất hiện ngay trong thời điểm người chiến sĩ còn đang bị giam cầm. Sự nung nấu và khát khao sáng tạo, ý tưởng về tác phẩm đã được nhen nhóm và “thai nghén” ngay trong tâm trí ở thời điểm người chiến sĩ còn đang cảnh lao tù nhưng họ lại không có điều kiện để “hiện thực hóa” ngay tức thì những xúc cảm mãnh liệt và tư tưởng của mình, nhất là với các sáng tác văn xuôi. Một điểm cũng cần lưu ý,
  5. 3 trong quá trình trích dẫn tư liệu, chúng tôi sẽ tôn trọng đúng nguyên tác về cách viết chữ và hình thức trình bày từ ngữ ở thời điểm bấy giờ. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài luận án được triển khai nhằm các mục đích sau: - Tìm hiểu cảm hứng sáng tác của các chiến sĩ cách mạng trong nhà tù quân xâm lược và bọn tay sai, để thấy được thế giới tâm hồn phong phú, ý chí và nghị lực phi thường của những người yêu nước trong hoàn cảnh bị quân giặc bắt giam, tù đày. - Phân tích và chỉ ra những biểu hiện của cảm hứng sáng tác tiêu biểu như: khát vọng tự do, lòng yêu nước, lý tưởng cách mạng, tinh thần lạc quan, lòng yêu thiên nhiên, thương đồng bào... Qua đó, thấy được thế giới tâm hồn phong phú qua các hình tượng thơ văn, các trạng thái tinh thần sống động của những người “nghệ sĩ” chốn lao tù. - Làm sáng rõ các phương thức biểu hiện nghệ thuật và thành tựu cơ bản của văn thơ yêu nước trong nhà tù thực dân (giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX). Khẳng định vị trí và vai trò quan trọng của bộ phận văn học này trong dòng chảy chung của văn học Việt Nam hiện đại. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Xuất phát từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận án của chúng tôi nhằm giải quyết một số nhiệm vụ cơ bản sau: - Khái quát những nét cơ bản về bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỉ XIX đến nửa đầu thế kỉ XX với không khí đấu tranh sục sôi của nhân dân ta và các chiến sĩ cách mạng chống lại thực dân và bè lũ tay sai vì tự do độc lập, từ đó thấy được truyền thống yêu nước, không khí thời đại, cũng như những giá trị tốt đẹp của dân tộc đã trở thành một trong những mạch nguồn cảm hứng lớn của người chiến sĩ khi sáng tác trong hoàn cảnh bị giặc giam giữ, tù đày. - Làm sáng tỏ khái niệm cảm hứng sáng tác, mối quan hệ giữa cảm hứng sáng tác và tâm lý học sáng tạo làm cơ sở lí thuyết cho đề tài. Từ đó đi sâu phân tích các biểu hiện cảm hứng sáng tác của các chiến sĩ yêu nước trong nhà tù đế quốc. - Từ phương diện cảm hứng sáng tác làm nổi rõ những giá trị về nội dung và hình thức nghệ thuật của các tác phẩm văn thơ yêu nước trong nhà tù quân xâm lược như một bộ phận văn học đặc thù, qua đó góp phần khơi dậy lòng yêu nước, tự hào về truyền thống kiên trung, bất khuất của các thế hệ cha anh với thế hệ trẻ hôm nay. 4. Phương pháp nghiên cứu Chúng tôi chủ trương kết hợp đồng bộ nhiều phương pháp khác nhau để nghiên cứu, trong đó có các phương pháp chính như sau: Phương pháp hệ thống: Tập hợp các sáng tác thơ văn trong nhà tù thực dân, đế quốc thành hệ thống ở các thể loại khác nhau nhằm nhận diện những đặc điểm và biểu hiện cảm hứng sáng tác của bộ phận văn học trong nhà tù thực dân, đế quốc trong dòng chảy của văn học Việt Nam hiện đại. Phương pháp phân tích, tổng hợp: Dưới ánh sáng của lý luận về cảm hứng sáng tác, lý thuyết về tâm lý học sáng tạo văn học, chúng tôi sẽ đi sâu vào phân tích các tác phẩm trên các bình diện khác nhau như: đề tài, chủ đề, nội dung, tư tưởng, hình thức nghệ thuật nhằm làm nổi rõ cảm hứng sáng tác của các chiến sĩ yêu nước trong nhà tù thực dân.
  6. 4 Phương pháp loại hình: Các sáng tác trong nhà tù thực dân, đế quốc rất đa dạng nên cần xác định đặc điểm từng thể loại, về tác phẩm trữ tình như thơ, về tác phẩm tự sự như truyện ngắn, tiểu thuyết, kí cùng các đặc trưng về ngôn từ, giọng điệu, hình ảnh, biểu tượng…để thấy được sự đóng góp của bộ phận văn học nhà tù trong dòng chảy thơ văn yêu nước. Phương pháp phỏng vấn, trực quan: Chúng tôi cố gắng gặp mặt trực tiếp các chuyên gia, các nhà nghiên cứu về văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX, văn học cách mạng; nhà văn là chiến sĩ cách mạng và các chiến sĩ bị địch bắt tù đày tại một số tỉnh, thành (Hà Nội, Hải Phòng…). Bên cạnh đó chúng tôi cũng kết hợp đi tham quan, thăm một số di tích, nhà tù như: Hỏa Lò, Sơn La, Côn Đảo... Thăm Bảo tàng Chiến sĩ cách mạng (tại Phú Xuyên, Hà Nội); dự triển lãm “Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày” do Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam phối hợp với Ban Quản lý Di tích Côn Đảo và Bảo tàng Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày phối hợp tổ chức nhân dịp Kỷ niệm 72 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ (27/7/1947 – 27/7/2019); tham dự triển lãm “Khát vọng tự do” diễn ra tại Di tích Lịch sử Nhà tù Hỏa Lò năm 2020. Phương pháp nghiên cứu xã hội học: Đề tài luận án có mang tính chất xã hội học nên trong quá trình triển khai, chúng tôi có sử dụng phương pháp nghiên cứu xã hội học nhằm triển khai mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề ra. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu chúng tôi còn sử dụng một số phương pháp khác như: Phương pháp liên ngành; Phương pháp nghiên cứu văn học sử; Phương pháp so sánh. Việc phân tách các phương pháp nghiên cứu chỉ là tương đối, bởi trong quá trình triển khai luận án các phương pháp luôn hỗ trợ cho nhau để thực hiện các yêu cầu, mục đích đã đề ra. 5. Đóng góp mới của luận án Đây là công trình đầu tiên đi sâu tìm hiểu có hệ thống về cảm hứng sáng tác trong thơ văn của các chiến sĩ yêu nước trong nhà tù thực dân, đế quốc (giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX) một cách toàn diện. Chúng tôi sẽ cố gắng làm rõ hoàn cảnh lịch sử xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc đã tạo tiền đề hình thành nên một dòng thơ văn yêu nước và cách mạng trong nhà tù quân xâm lược; chỉ ra những cảm hứng tiêu biểu phản ánh thế giới tâm hồn phong phú của người chiến sĩ - nghệ sĩ trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc đã tạo nên những sản phẩm nghệ thuật độc đáo trong lịch sử tư tưởng Việt Nam; sự hài hòa giữa lý tưởng cách mạng và tâm hồn cao đẹp của những người yêu nước trong một thời kì “khổ nhục nhưng vĩ đại” nhất của lịch sử dân tộc; đồng thời chúng tôi cũng chỉ ra một số phương thức biểu hiện cảm hứng của người chiến sĩ – nghệ sĩ qua sáng tác thơ văn. Qua vịêc so sánh giữa văn học yêu nước trong tù và văn học yêu nước bên ngoài nhà tù sẽ giúp hiểu thêm về những nét riêng, độc đáo trong sáng tác của các chiến sĩ yêu nước. Kết quả công trình nghiên cứu sẽ góp phần phác thảo diện mạo bộ phận văn học đầy bi tráng và nhiều giá trị sử liệu trong văn học nước nhà; đồng thời góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, giáo dục lý tưởng cách mạng và đạo lý “uống nước nhớ nguồn” cho thế hệ trẻ hôm nay, vì vậy luận án không chỉ có ý nghĩa về mặt văn học sử mà còn có ý nghĩa xã hội tích cực. 6. Cấu trúc của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Công trình khoa học đã công bố và Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Nội dung của luận án được triển khai trong bốn chương:
  7. 5 - Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về cảm hứng và cảm hứng sáng tác thơ văn yêu nước trong nhà tù thực dân. - Chương 2. Những nhân tố chi phối cảm hứng sáng tác thơ văn yêu nước trong nhà tù. - Chương 3. Những hình thái cảm hứng sáng tác thơ văn yêu nước trong nhà tù. - Chương 4. Một số phương thức biểu hiện cảm hứng sáng tác của người chiến sĩ yêu nước trong nhà tù. NỘI DUNG Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CẢM HỨNG VÀ CẢM HỨNG SÁNG TÁC THƠ VĂN YÊU NƯỚC TRONG NHÀ TÙ THỰC DÂN 1.1. Khái quát về cảm hứng và cảm hứng sáng tác 1.1.1. Về khái niệm cảm hứng và cảm hứng sáng tác Cảm hứng sáng tác là một khái niệm cơ bản thuộc về quá trình sáng tác của nhà văn, vốn không còn xa lạ đối với lý luận văn học hiện đại. Trong quá trình sáng tác, người nghệ sĩ cần có cảm hứng để có thể thăng hoa tạo ra các sản phẩm nghệ thuật có giá trị. Giữa cảm hứng sáng tác và tâm lý học sáng tạo có mối liên hệ mật thiết. Cảm hứng có thể là một giây phút xuất thần, một cảm giác xao xuyến, lạ lùng bất chợt nào đó… Cảm hứng vừa là sự kết tinh của trải nghiệm, vừa là năng lực tư duy sáng tạo của nhà văn, vừa là sự thăng hoa đến tột cùng của xúc cảm, của những rung động sâu xa, nhiệt thành. Đó là trạng thái tâm lý đặc biệt của người nghệ sĩ. Sáng tạo nghệ thuật không thể không cần cảm hứng như là sự thăng hoa của những cảm xúc mãnh liệt. Nó liên quan đến cơ chế của tâm lý học sáng tạo, là một trạng thái tâm lý, là những xúc cảm mạnh chi phối và tác động lên toàn bộ quá trình sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ. Cảm hứng sáng tác mang yếu tố cá nhân, chủ quan. Vì thế nhiều nhà nghiên cứu cho rằng: cảm hứng, rung động chỉ nảy sinh khi có sự va đập và kết hợp của các yếu tố khách quan và chủ quan. Tùy vào năng lực và trình độ của mỗi người mà cảm hứng nảy sinh theo các cung bậc khác nhau. Cũng cần chú ý đến quan điểm tiếp cận cảm hứng sáng tác như là sự kết hợp giữa ý thức xã hội và ý thức nghệ thuật. Ý thức xã hội được hiểu là mặt tinh thần của đời sống xã hội, là bộ phận hợp thành của văn hóa tinh thần xã hội. Một trong những hình thái ý thức xã hội là ý thức nghệ thuật (ý thức thẩm mỹ). Một điều chắc chắn, nghệ thuật chân chính phải gắn liền với đời sống của quảng đại quần chúng nhân dân và các hình tượng nghệ thuật có giá trị thẩm mỹ cao, qua đó đáp ứng những nhu cầu thẩm mỹ của xã hội. Chúng có tác động tích cực đến sự trải nghiệm, tình cảm và lý trí, là nhân tố kích thích mạnh mẽ hoạt động sáng tạo của người nghệ sĩ. Và chính từ những kích thích mạnh mẽ ấy giúp hình thành nên cảm hứng sáng tác. Tóm lại, dù còn có nhiều quan niệm khác nhau, thậm chí duy tâm, siêu hình nhưng tất cả đều nhất trí rằng, cảm hứng là một trạng thái tâm lý đặc biệt của con người. Ở thời điểm đó người nghệ sĩ có động lực sáng tạo và làm việc cao nhất, gắn liền với những tình cảm, cảm xúc, khát khao cháy bỏng thôi thúc trí tưởng tượng, tư duy của họ.
  8. 6 Cảm hứng chịu tác động của xã hội nên nhìn vào nền văn học Việt Nam hiện đại, ta có thể thấy thực tiễn cách mạng, đời sống của quần chúng nhân dân, công cuộc dựng xây và bảo vệ Tổ quốc, truyền thống yêu nước luôn là một trong những nguồn cảm hứng lớn, xuyên suốt cho các nhà văn, nhà thơ khi sáng tác các tác phẩm văn học nghệ thuật. Bộ phận văn học được sáng tác trong nhà tù thực dân cũng xuất phát từ nguồn cảm hứng này. 1.1.2. Quan niệm của người nghệ sĩ về cảm hứng sáng tác Các nghệ sĩ cả trong và ngoài nước đều nêu ra quan niệm của mình về cảm hứng sáng tác. Về cơ bản, họ đều cho rằng, cảm hứng sáng tác có vai trò quan trọng trong quá trình sáng tác, là tiền đề hình thành nên tác phẩm nghệ thuật. Họ đều thống nhất cảm hứng có thể đến bất ngờ, gây nên những rung động mãnh liệt và những rung động ấy như những tiếng trống thúc giục người nghệ sĩ hăm hở sáng tác. 1.1.3. Cảm hứng sáng tác từ góc nhìn tâm lý học sáng tạo Trong cuốn Tâm lí học sáng tạo văn học (Nxb Văn học, 1978), tác giả Naudop đã chỉ ra các biểu hiện, cơ chế của tâm lý để hình thành cảm hứng và tác động của nó trong việc sáng tạo nên một tác phẩm văn học. Theo đó, cảm hứng là một trạng thái tâm lý đặc biệt, nó thường đến bất chợt, xét theo phương diện tâm lý học thì cảm hứng nảy sinh là do nhiều yếu tố khác nhau cấu thành như tri giác, tưởng tượng và cảm xúc. L.S. Vygotsky trong Tâm lý học nghệ thuật (Nxb Khoa học xã hội, 1981) đã nêu lên những khái niệm quan trọng của tâm lý học sáng tạo và tiếp nhận nghệ thuật nói chung, đây là một trong những cơ sở lý luận giúp chúng ta nghiên cứu, tìm hiểu về quá trình sáng tạo nghệ thuật cũng như văn chương. Cảm xúc là yếu tố không thể thiếu trong hoạt động sáng tạo của người nghệ sĩ. Bất cứ tác phẩm văn học nào cũng đều chất chứa những cảm xúc nhất định của nhà văn. Chỉ những tâm hồn giàu cảm xúc, với đầy đủ các cung bậc yêu - ghét, buồn - vui, thương nhớ - giận hờn... mới có những rung động mãnh liệt trước sự vật, hiện tượng. Và chính những xúc cảm mãnh liệt góp phần tạo thành cảm hứng sáng tác, giúp nhà văn tập trung cao độ, khai phóng bút lực và tưởng tượng, sáng tạo hiệu quả hơn. Tác giả Chu Quang Tiềm trong cuốn Tâm lý học văn nghệ (Nxb Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2013) đã chỉ ra cơ chế sáng tạo nghệ thuật dưới góc nhìn tâm lý học với các hoạt động tâm lý của chủ thể như: trực giác, liên tưởng, linh cảm, tưởng tượng… Theo ông, có hai loại tưởng tượng là tưởng tượng tái tạo và tưởng tượng sáng tạo, trong đó chỉ có tưởng tưởng sáng tạo mới giúp hình thành tác phẩm nghệ thuật. Những kinh nghiệm, hồi ức của người nghệ sĩ sẽ được cấu trúc lại theo những mô hình, cách thức mới tạo nên những hình tượng nghệ thuật độc đáo, khác lạ. Tiếp cận cảm hứng dưới cái nhìn của tâm lý học sáng tạo, giúp chúng ta hiểu thêm phần nào về những thành tố giúp hình thành cảm hứng sáng tác ở người nghệ sĩ, từ đó sẽ có hướng nghiên cứu, phân tích tác phẩm một cách phù hợp. 1.1.4. Cảm hứng sáng tác trong văn học nghệ thuật Trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, cảm hứng có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng. Chính nhờ những phút giây xao xuyến, cảm xúc trào dâng mà người nghệ sĩ có thể viết lên những tác phẩm hay và có giá trị. Một nhà văn khi sáng tác mà không có cảm hứng để viết thì đơn thuần việc viết chỉ là cách để luyện thói quen cầm bút chứ khó có thể trình làng một tác phẩm văn học có giá trị. Nhà văn có thể hình dung được phần nào về đối tượng mà mình muốn thể hiện trên trang giấy nhưng nếu không có những phút giây cảm xúc, không có cảm
  9. 7 hứng thì việc sáng tạo nghệ thuật sẽ gặp khó khăn vô cùng. Không chỉ là khâu trọng yếu trong quá trình sáng tác của nhà văn mà cảm hứng còn chi phối, tác động đến nội dung của tác phẩm văn học. Cảm hứng sáng tác không đơn thuần chỉ là tạo nên hứng thú, tăng bút lực của nhà văn mà nó còn phải chất chứa những tư tưởng, nội dung nhất định. Đối với bộ phận văn học trong nhà tù thì cảm hứng sáng tác bộc lộ trong nội dung mỗi tác phẩm càng rõ rệt. Cảm hứng tự do, cảm hứng yêu nước, cảm hứng riêng tư, không khí thời đại, cảm hứng thời cuộc… đều được phản ánh, chuyển hóa vào trong từng câu, từng chữ. 1.1.5. Cảm hứng sáng tác trong văn học Đông Á Ngay từ sớm, vấn đề cảm hứng sáng tác luôn được các nhà tư tưởng, lý luận, văn nhân, thi nhân đề cập, coi trọng thông qua nhiều cách diễn giải, tiếp cận khác nhau. Nền văn học Đông Á là nền văn học lớn trong đó nhiều đại diện có kho tàng văn chương đồ sộ như Trung Quốc, Nhật Bản... cũng dành quan tâm về nguồn gốc hình thành tác phẩm. Trong Văn tâm điêu long, Lưu Hiệp cũng nói về quá trình hình thành cảm hứng sáng tác như là sự tạo thành bởi tình cảm, cảm xúc. Hay trong văn học Nhật Bản, các thi sĩ của xứ sở Mặt Trời mọc đã có nhiều diễn giải về cảm hứng sáng tác, ngọn nguồn và sức mạnh của thi ca đối với xã hội… 1.1.6. Các công trình nghiên cứu tiêu biểu về cảm hứng sáng tác Có thể kể đến các công trình nghiên cứu về triết học, mỹ học có đề cập đến cảm hứng trong sáng tạo nghệ thuật của Kant, Hegel, Belinski, Pospelov... Trong tác phẩm Mỹ học, W.F Hegel nhấn mạnh, hứng thú nghệ thuật thực sự (cảm hứng) không phải tự nhiên mà có, người nghệ sĩ phải có quá trình tìm tòi, quan sát từ trước đó và phải tập trung cao độ. Các công trình nghiên cứu thuộc lĩnh vực lý luận văn học có bàn về cảm hứng sáng tác của Khrapchenco, A.Xaytlin, Naudop... Trong cuốn Lao động nhà văn của Xaytlin (Nxb Văn học, 1967) đã chia hoạt động sáng tác của nhà văn thành các chặng nhỏ, đồng thời chỉ ra trong quá trình lao động nghệ thuật có những lúc nhà văn hoàn thành tác phẩm của mình một cách nhanh chóng như có “thần hứng” nhưng cũng có khi phải thai nghén, nghiền ngẫm trong cả thời gian dài. Naudop với Tâm lí học sáng tạo văn học (Nxb Văn học, 1978) cũng đã đưa ra các khái niệm liên quan đến tâm lý, trong đó đã phân tích một cách khá chi tiết về cơ chế của tâm lý giúp hình thành cảm hứng và tác động của nó trong hoạt động sáng tạo văn học nghệ thuật. Các học giả, nhà nghiên cứu, phê bình trong nước cũng có nhiều công trình, bài viết về cảm hứng sáng tác trong lĩnh vực văn học nghệ thuật như: Bùi Công Hùng với Quá trình sáng tạo thơ (Nxb Văn hóa – Thông tin, 2000); trong giáo trình Lý luận văn học – tập 1: Văn học, nhà văn và bạn đọc do Phương Lựu – chủ biên (Nxb Đại học Sư phạm, 2010), ở Chương 9: Quá trình sáng tác, các tác giả đã đề cập đến nội hàm thuật ngữ “cảm hứng”; Cuốn giáo trình Lí luận văn học – tập 1: Bản chất và đặc trưng của văn học do Trần Đình Sử - chủ biên (Nxb Đại học Sư phạm, 2011), ở Chương 4: Nghệ sĩ và quá trình sáng tạo văn học, các tác giả đã bàn về sự rung động nghệ thuật tức cảm hứng sáng tạo của nhà văn, nhà thơ... Tựu trung lại, nghiên cứu văn học từ phương diện cảm hứng là một hướng đi đúng đắn, giúp xác lập một tâm thế vững vàng khi tiếp cận các sáng tác văn học nghệ thuật nói chung hay từng tác phẩm cụ thể nói riêng, nhất là với một bộ phận văn học đặc thù như văn học yêu nước trong nhà tù thực dân.
  10. 8 1.2. Văn học nhà tù và vấn đề nghiên cứu về cảm hứng sáng tác trong văn học nhà tù 1.2.1. Cảm hứng sáng tác trong văn học nhà tù thực dân – sự kết hợp giữa ý thức trách nhiệm xã hội và ý thức sáng tạo nghệ thuật 1.2.1.1. Về hiện tượng văn học trong nhà tù trên thế giới Các sáng tác văn chương trong nhà tù không còn xa lạ trong nền văn học nhân loại, nhất là đối với các dân tộc đã từng trải qua các cuộc đấu tranh chống thực dân, đế quốc, phát xít xâm lược; chống chế độ độc tài, phân biệt chủng tộc... Đa phần các tác giả đều có một điểm chung đó là dùng tác phẩm của mình như một phương tiện đấu tranh chính trị, tư tưởng chống lại những áp bức, bóc lột, lên án chiến tranh phi nghĩa, tố cáo chế độ độc tài hà khắc và sự kỳ thị, phân biệt chủng tộc; qua đó bày tỏ tinh thần và ý chí ngoan cường, không chịu khuất phục trước các thế lực tàn ác. Có thể kể đến một số tác phẩm như: The House of the Dead (Tạm dịch: Ngôi nhà của người chết) – một trong những tác phẩm được xếp vào hàng kiệt tác của tiểu thuyết gia người Nga F. Dostoevsky; hay tác phẩm Papilon – Người tù khổ sai của Henri Charriere (bản dịch tiếng Pháp của Dương Linh và Nguyễn Đức Mưu) – một tác phẩm gây tiếng vang không chỉ ở nước Pháp mà còn cả thế giới, nhân vật “tôi” (nguyên mẫu của chính tác giả) bị kết án khổ sai một cách vô lý, đã thể hiện khát vọng tự do, ý chí không chịu khuất phục trước bạo tàn (với chín lần vượt các nhà ngục nước Pháp) và niềm tin vào một tương lai tươi sáng hơn sẽ đến với mình và những người tù khổ sai. Với tư cách là một dòng văn học đặc thù, văn chương trong nhà tù trên thế giới đã ghi nhận nhiều tên tuổi lớn, với những tác phẩm có giá trị nhân văn, nhân đạo và tư tưởng sâu sắc. Có thể kể đến những sáng tác văn học nhà tù ở Ấn Độ, Trung Quốc, Nam Phi, Mỹ, văn chương trong các nhà tù, trại tập trung của phát xít Đức… Đó là các tác phẩm: Prison Notebooks (Tạm dịch: Sổ tay trong tù) của nhà lý luận Marxist người Ý Antonio Gramsci, đồng thời là một nhà triết học, nhà văn, chính trị gia, là thành viên sáng lập Đảng Cộng sản Ý; cuốn Viết dưới giá treo cổ của J. Fucik – một người chiến sĩ cộng sản vĩ đại của đất nước Tiệp Khắc, tác phẩm nổi tiếng được viết trong nhà tù này của J. Fucik tính đến nay đã được dịch ra hơn 100 thứ tiếng với số lượng in hàng triệu bản. Hay tác phẩm Có được làm người của Primo Levi - nhà văn người Ý, gốc Do Thái đã ghi lại những ký ức đau thương của chính tác giả cùng các tù nhân khác trong trại tập trung khét tiếng của phát xít Đức tại Auschwitz, Ba Lan từ tháng 02/1944 đến tháng 01/1945. Jack London - nhà văn nổi tiếng của nước Mỹ đã viết cuốn Pinched: A Prison Experience (Tạm dịch: Bị chèn ép: Trải nghiệm trong tù) kể về những bất công và phân biệt đối xử. Văn học Trung Quốc cũng ghi nhận nhiều tác phẩm nổi tiếng viết về nhà tù trong thời gian bị phát xít Nhật chiếm đóng, có thể kể đến các tác giả như: Đới Vọng Thư với bài thơ Bức tường trong nhà tù; Phương Chí Mẫn với tác phẩm Trung Quốc đáng yêu đã thể hiện được những tình cảm và sự say mê lý tưởng cách mạng của chàng thanh niên trẻ… Một trong những điểm nổi bật của dòng văn học nhà tù là sự đối lập, tương phản giữa một bên là ánh sáng với một bên là bóng tối; giữa một bên là những chiến sĩ yêu nước gan dạ, kiên cường với một bên là những kẻ xâm lược và tay sai tàn bạo, đớn hèn.
  11. 9 1.2.1.2. Văn học yêu nước trong nhà tù như là sự kết hợp giữa ý thức trách nhiệm xã hội và ý thức sáng tạo nghệ thuật Có thể khẳng định, các sáng tác văn học yêu nước trong nhà tù chính là sự kết hợp giữa ý thức trách nhiệm xã hội và ý thức sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ. Họ đã kết hợp một cách rất tự nhiên, khéo léo và nhuần nhuyễn những thông điệp của mình gắn liền với trách nhiệm của một người Việt Nam yêu nước. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh (từng hai lần bị thực dân Pháp bắt giam, rồi bị đuổi học vì các hành vi chống đối chính quyền thực dân) trong tác phẩm Văn chương và hành động đã nói lên sứ mệnh của văn chương, trọng trách của nhà văn chân chính trước thời cuộc bấy giờ. Trách nhiệm của nhà văn theo Hoài Thanh không chỉ là “lời nói” mà phải dấn thân và hành động. Bộ phận văn học yêu nước trong nhà tù chính là minh chứng rõ ràng nhất, là thành quả của tinh thần trách nhiệm cao độ với quốc gia, dân tộc kết hợp cùng ý thức sáng tạo nghệ thuật miệt mài, bền bỉ, bất chấp mọi khó khăn, thử thách. 1.2.1.3. Văn học yêu nước Việt Nam trong nhà tù thực dân từ cái nhìn lịch đại Ngoài những đặc điểm chung của văn học nhà tù thế giới, kho tàng văn học nhà tù Việt Nam vẫn có những điểm riêng cả về chất và lượng. Với một khối lượng văn thơ đồ sộ, trải dài qua các thời kì đấu tranh của dân tộc, văn học yêu nước trong nhà tù quân xâm lược mang trong mình một số đặc điểm cụ thể về lực lượng sáng tác, các thể loại văn học và nhân sinh quan, thế giới quan. Văn học yêu nước trong nhà tù là dòng văn học “ngoài mong muốn” nhưng bởi hoàn cảnh lịch sử mà nó đã ra đời và có một vị trí quan trọng trong dòng chảy của văn học Việt Nam. Giống như những dòng văn học lớn có giá trị khác, dòng văn học trong nhà tù quân xâm lược đã có nhiều đóng góp cho văn học nước nhà. Bên cạnh đó cũng cần tìm hiểu bộ phận văn học nhà tù từ cái nhìn lịch đại – nhìn theo chiều dọc mang tính lịch sử, đặt trong mối quan hệ với những đặc điểm, yếu tố của giai đoạn trước và những ảnh hưởng của nó cho giai đoạn sau tức là đóng góp cho lịch sử xã hội và diện mạo văn học Việt Nam hiện đại. Xét từ góc độ kiến thức văn học sử, các tác phẩm trong nhà tù thực dân đã cung cấp cho độc giả cái nhìn cụ thể về một bộ phận văn học phong phú, đồ sộ mà cũng rất bi hùng, thậm chí có thời kì từng là dòng chủ lưu của văn học cách mạng. Dòng văn học yêu nước trong nhà tù thực dân đã góp cho kho tàng văn học Việt Nam nhiều tác phẩm tiêu biểu - những tác phẩm văn học có giá trị cao cả về nội dung và hình thức nghệ thuật như các sáng tác của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Hồ Chí Minh, Hoàng Văn Thụ, Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Lan Khai, Phạm Thị Trinh, Đinh Chương Dương, Chu Hà, Hồ Tùng Mậu, Trần Mai Ninh, Trần Cung... Nhiều tác phẩm của họ đã được đưa vào giảng dạy ở các bậc học phổ thông hay Đại học, trở thành đối tượng nghiên cứu của các nhà phê bình, học giả trong và ngoài nước. Trong hoàn cảnh tù đày, éo le, nguy hiểm nhưng vẫn có thơ văn hay là bởi tư tưởng người chiến sĩ - nghệ sĩ không run sợ trước đòn roi kẻ thù mà tâm hồn vẫn đau đáu nỗi đau của dân tộc, vẫn hướng đến chân trời tự do, hướng về một tương lai tốt đẹp, một chiến thắng vĩ đại cuối cùng. 1.2.1.4. Tính chức năng của dòng văn học yêu nước trong nhà tù và giá trị của dòng văn học này từ cái nhìn đương đại Chức năng nhận thức của văn chương yêu nước trong nhà tù chính là sự nhận thức về quy luật vận động tất yếu của lịch sử, có áp bức ắt có đấu tranh, chính nghĩa sẽ thắng phi nghĩa…
  12. 10 Về chức năng giáo dục, các sáng tác văn thơ trong nhà tù thực dân nửa đầu thế kỉ XX đã góp phần khắc họa bức chân dung của người chiến sĩ - nghệ sĩ, nhất là bức tranh tinh thần của họ. Điều đó giúp công chúng bạn đọc hiểu đầy đủ hơn về những người tưởng chừng đã quá quen thuộc. Họ trở thành những tấm gương, những tượng đài bất tử cho thế hệ mai sau noi theo. Thành tựu lớn nhất cần nói đến của dòng văn học yêu nước trong nhà tù chính là những cảm xúc lớn. Mỗi con chữ được viết ra đều xuất phát từ những rung động thẳm sâu trong trái tim người chiến sĩ đã khiến cho độc giả thực sự xúc động. Trước cái chết cận kề, hình tượng người chiến sĩ vẫn hiện lên với vẻ đẹp cao quý, sáng ngời. Chức năng thẩm mỹ của văn học yêu nước trong nhà tù thực dân chính là việc nhận ra và khắc họa được vẻ đẹp của thiên nhiên và con người, giúp độc giả thêm yêu thiên nhiên, con người Việt Nam hơn, nhất vẻ đẹp của người chiến sĩ trong nhà tù, vẻ đẹp của nhân dân lao động… Tính thẩm mỹ trong các sáng tác thơ văn yêu nước trong nhà tù thực dân còn thể hiện qua những nét đẹp văn hóa được người chiến sĩ duy trì: các dịp lễ Tết trong nhà tù… Ra đời trong hoàn cảnh lịch sử dân tộc đang chịu ách thống trị của thực dân Pháp với bối cảnh đặc thù nhưng cho đến nay dòng văn học yêu nước trong nhà tù vẫn còn giữ nhiều giá trị trong dòng chảy phong phú, đa chiều, đa diện của văn học Việt Nam đương đại. Dù ở bất cứ giai đoạn nào, dù có cách tân, đổi mới đến đâu, phản ánh nhiều chiều và góc cạnh thế nào thì sứ mệnh văn chương chân chính vẫn cần phải gắn với đất nước, với quảng đại quần chúng nhân dân và tư tưởng yêu nước, cảm hứng yêu nước mãi mãi là sợi chỉ đỏ xuyên suốt. 1.2.1.5. Về loại hình tác giả và một số thể loại tiêu biểu của văn chương yêu nước trong nhà tù thực dân Trong dòng văn học nhà tù, loại hình tác giả cũng cần phải được chú ý và làm rõ, có các thế hệ khác nhau ngồi tù và làm thơ. Có thể nhận thấy, các sáng tác thời kì đầu của dòng văn học trong nhà tù thực dân thuộc về các chí sĩ, các nhà Nho yêu nước cuối thế kỉ XIX và những năm đầu thế kỉ XX; lúc này các sáng tác vẫn chịu ảnh hưởng bởi thơ Đường luật, lối văn biền ngẫu của văn học trung đại, sử dụng các điển tích, điển cố, gương người xưa và dù đã có sự canh tân nhất định nhưng vẫn mang những đặc điểm của ý thức hệ, tư tưởng phong kiến, Nho giáo, động cơ sáng tạo chủ yếu dùng để nói chí, tu thân, răn dạy. Từ những năm 20, nhất là từ năm 30 của thế kỉ XX trở đi, văn học Việt Nam được hiện đại hóa mạnh mẽ, chữ quốc ngữ ngày càng phát triển, các sáng tác thơ văn đã mang tính hiện đại, vừa kế tục truyền thống yêu nước, vừa kết hợp sự hiện đại của văn học Phương Tây, luồng tư tưởng mới của thời đại bấy giờ và lý tưởng cộng sản với nhiều phương diện mới mẻ về đề tài, nội dung, cách tiếp cận, khai thác vấn đề động cơ sáng tạo đã được mở rộng biên độ không chỉ để nói chí hay cảm khái trước thời cuộc mà còn thể hiện tinh thần phản kháng, vượt thoát, lạc quan, tính chất trào phúng, đặc biệt đó là biến nhà tù của quân giặc thành trường học cách mạng. Có thể nhận thấy, trong kho tàng đồ sộ của văn chương yêu nước trong nhà tù thực dân thì thơ ca và văn xuôi là hai thể loại có số lượng tác phẩm nhiều nhất và có nhiều tác phẩm giá trị nhất (chỉ tính riêng thơ đã lên đến hàng trăm, hàng nghìn bài). Ngoài các thể loại của văn học, trong nhà tù thực dân còn ghi nhận sự xuất hiện của nhiều tác phẩm báo chí của các chiến sĩ yêu nước.
  13. 11 1.2.2. “Lối viết chính trị” và ảnh hưởng của “lối viết chính trị” với văn học yêu nước trong tù Nghiên cứu, tìm hiểu về văn học yêu nước, cách mạng nói chung và văn học yêu nước trong nhà tù nói riêng, không thể không nhắc đến vai trò, sự ảnh hưởng của tư duy chính trị, lý tưởng chính trị thể hiện qua “lối viết chính trị” lên các sáng tác của người chiến sĩ- nghệ sĩ. Trong tác phẩm Độ không của lối viết, Roland Barthes đã nêu lên định nghĩa của “lối viết” nhằm khu biệt với “ngôn ngữ” và “văn phong”. Về “lối viết chính trị”, theo Roland Barthes: có nhiệm vụ nối liền một mạch thực tế của các hành vi với lý tưởng của các mục đích. Vì vậy quyền lực hay cái bóng của quyền lực kết cuộc bao giờ cũng thiết lập một lối viết mang tính giá trị đạo đức. Trong các tác phẩm thơ văn yêu nước trong nhà tù giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX ta thấy rõ những ảnh hưởng của lối viết chính trị, các sáng tác của người chiến sĩ thường gắn liền với mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, thể hiện và ngợi ca những giá trị truyền thống, phẩm chất đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Một điểm cần lưu ý, khi đề cập về “Những lối viết chính trị”, Roland Barthes đã nêu lên kiểu “nhà văn chiến sĩ”. Trong dòng văn học yêu nước trong nhà tù thực dân, ta thấy rõ hình ảnh của những “nhà văn chiến sĩ” là sự hiện thân của những con người sẵn sàng hiến dâng vì lý tưởng và sử dụng ngòi bút như một thứ vũ khí sắc bén để đấu tranh với kẻ thù. Mỗi tác phẩm của những “nhà văn chiến sĩ” như là một tuyên ngôn sống, chiến đấu đại diện cho một ý thức hệ, đứng trên lập trường giai cấp nhất định để bày tỏ những quan điểm trước các sư kiện chính trị đương thời. 1.2.3. Các công trình nghiên cứu về văn học yêu nước trong nhà tù thực dân 1.2.3.1. Các công trình nghiên cứu tiêu biểu về văn học yêu nước và cách mạng nửa đầu thế kỉ XX Nhóm tác giả Hoàng Ngọc Phách, Huỳnh Lý, Phan Cự Đệ với cuốn Sơ tuyển văn thơ yêu nước và cách mạng (1930 – 1939) (Nxb Giáo dục, 1959). Ở phần 2 của cuốn sách, các tác giả đã nhắc đến dòng văn học bí mật làm trong và ngoài nhà tù của các chiến sĩ cách mạng từ năm 1930 đến năm 1939 nhưng số lượng sáng tác được tuyển chọn chưa nhiều và nhìn chung cuốn sách chủ yếu chỉ mang tính chất giới thiệu tác gia, tác phẩm, chưa đi sâu vào phân tích bộ phận văn học trong nhà tù. Nhà phê bình Đặng Thai Mai với cuốn Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỉ XX (Nxb Văn học, Hà Nội, 1964) và cuốn Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỉ XX (1900 – 1925) (Nxb Văn nghệ Giải phóng TP. Hồ Chí Minh, 1976). Đặc biệt trong cuốn Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỉ XX (Nxb Văn học, Hà Nội, 1964) ở Phần 1: chương VII, tác giả Đặng Thai Mai cũng đã nói đến văn học nhà tù với một số nét chính. Ở Phần 2: Văn vần, tác giả Đặng Thai Mai cũng đã giới thiệu các bài thơ yêu nước tinh tuyển trong đó có cả những bài thơ được sáng tác trong lao tù. Hai tác giả Hoàng Thị Dậu, Nguyễn Đức Đàn với cuốn Thơ ca cách mạng 1925 – 1945 (Nxb Khoa học Xã hội, 1973) cũng nhắc đến dòng thơ ca nhà tù với tư cách là một bộ phận của thơ ca yêu nước và cách mạng nhưng số lượng các sáng tác sưu tầm được chưa phong phú và cũng chỉ dừng ở việc giới thiệu và chú thích chứ chưa khai thác sâu vào thế giới tinh thần của người chiến sĩ yêu nước trong nhà tù thực dân.
  14. 12 Nhóm tác giả Hoàng Dung, Huỳnh Lý, Nguyễn Đăng Mạnh với cuốn Hợp tuyển thơ văn yêu nước: Thơ văn cách mạng (1930 – 1945) (Nxb Văn học, Hà Nội, 1980). Với cuốn sách này, các tác giả mới chỉ sưu tầm và giới thiệu tiểu sử của 41 tác giả là các chiến sĩ cách mạng cùng một số tác phẩm của họ (trong đó có cả những tác phẩm được các chiến sĩ viết khi đang bị giặc bắt giam) chứ không đi vào phân tích, tìm hiểu các sáng tác thơ văn nhà tù dưới góc độ của lý luận phê bình. Nhóm các tác giả Trần Đình Hượu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung, Phan Cự Đệ, Lê Chí Dũng, Hà Văn Đức với cuốn Văn học Việt Nam (1900 – 1945) (Nxb Giáo dục Việt Nam, 2010). Trong công trình này, các tác giả đã trình bày khái quát về văn học Việt Nam giai đoạn 1900 – 1945 (từ đầu thế kỉ XX đến năm 1945) từ bối cảnh lịch sử xã hội đến những đặc điểm cơ bản cũng như khái quát về hai bộ phận văn học chính ở giai đoạn này là: văn học hợp pháp và bộ phận văn học yêu nước và cách mạng. Tuy nhiên, các tác giả mới chỉ tập trung trình bày về quan điểm sáng tác của bộ phận văn học yêu nước và cách mạng cũng như các chặng đường và tác gia tiêu biểu chứ chưa có sự quan tâm đúng mực đến dòng văn học được sáng tác trong nhà tù thực dân, đế quốc. Nhìn chung các công trình nghiên cứu, bài viết trước đây đã nhắc ít nhiều tới bộ phận văn học trong nhà tù thực dân đế quốc tuy nhiên còn ở dạng tản mát, nhỏ lẻ và cũng chỉ mang tính sưu tầm tư liệu. 1.2.3.2. Một số công trình nghiên cứu về bộ phận văn học trong nhà tù thực dân nửa đầu thế kỉ XX Tính đến hiện nay có rất ít các công trình nghiên cứu, các bài viết chuyên sâu về bộ phận văn học được sáng tác trong nhà tù thực dân đế quốc. Đã có một số công trình, tác phẩm viết về nhà tù của thực dân, đế quốc như: Phan Quang với Gương chiến đấu của những người cộng sản (Nxb Sự thật, 1965). Cuốn Lịch sử nhà đày Buôn Ma Thuột (1930-1945), (Nxb Sự thật, 1991). Trịnh Nhu với Đấu tranh của các chiến sĩ yêu nước và cách mạng tại nhà tù Hỏa Lò (1899-1954), (Nxb Chính trị quốc gia, 1994). Côn đảo - ký sự - tư liệu (Nxb Trẻ TP. Hồ Chí Minh, 1996). Nguyễn Khoa Điềm với Chí khí trong lao tù (Nxb Thuận Hóa, 2002). Hoàng Đức Cường (chủ biên) với Nhà đày Lao Bảo (1896-1945), (Nxb Chính trị Quốc gia, 2002). Nhà xuất bản Trẻ năm 2003 cho ra mắt cuốn Thoát khỏi ngục tù Sài Gòn chúng tôi tố cáo. Hai tác giả Đức Vượng, Nguyễn Đình Nhơn với Những người cộng sản trẻ tuổi (Nxb Thanh niên, 2004); Võ Mạnh Lập với Trở về từ địa ngục Chín Hầm (Nxb Thuận Hóa, 2010); hay cuốn Những câu chuyện từ nhà tù Côn Đảo (Nxb Văn hóa-Văn Nghệ TP. Hồ Chí Minh, 2016)... Tuy nhiên, các cuốn sách nêu trên chủ yếu chỉ khai thác ở khía cạnh chính trị, lịch sử, vạch mặt và tố cáo tội ác của quân thù đối với các tù nhân chính trị hoặc tập trung kể về những sự kiện, các cuộc đấu tranh diễn ra trong các nhà tù của những chiến sĩ cách mạng, qua đó nêu cao chí khí, tinh thần yêu nước của họ, chứ chưa chú trọng tiếp cận các sáng tác thơ văn trong tù (hoặc nếu có cũng chỉ mới dừng ở việc kể tên một số tác phẩm tiêu biểu). Có thể điểm tên một số công trình, bài viết về các chí sĩ, chiến sĩ yêu nước trong tù như: Tôn Quang Phiệt với cuốn Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh (Nxb Văn Sử Địa, 1956). Vương Đình Quang (1963) với bài viết Huỳnh Thúc Kháng, nhà chí sĩ, nhà thơ, nhà văn (Tạp chí Văn học, số 2/1963). Hai tác giả Lê Thước và Trương Chính với bài viết Một sĩ phu yêu
  15. 13 nước đầu thế kỉ XX, Cụ Nghè Ngô Đức Kế (Tạp chí Văn học, số 3/1969). Nguyễn Đình Chú với cuốn Văn thơ Phan Bội Châu (Nxb Giáo dục, 1976). Phạm Thiều với Nguyễn Hữu Huân nhà yêu nước kiên cường, nhà thơ bất khuất (Nxb TP. Hồ Chí Minh, 1986). Tố Hữu thơ và cách mạng của Hội Nhà văn (Nxb Hội Nhà văn, 1996). Đặng Việt Bích với “Hoàng Văn Thụ nhân cách ngọc nát còn hơn ngói lành” (Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 8, tr. 77-79). Tôn Thảo Miên với cuốn Văn thơ Hồ Chí Minh tác phẩm và lời bình (Nxb Văn học, 2009). Tác giả Trần Mạnh Tiến trong nhiều công trình, chuyên luận, bài báo viết về Lan Khai như: Lan Khai – Tác phẩm Nghiên cứu, Lí luận và phê bình văn học (Nxb Văn hóa Thông tin, 2002), Lan Khai – Lầm Than (Chuyên khảo và tác phẩm), (Nxb Văn hóa Thông tin, 2004), Lan Khai – Truyện đường rừng (chủ biên), (Nxb Văn hóa Thông tin, 2004), Lan Khai –Ký (Nxb Hội Nhà văn, 2015)… cũng đã nhắc đến việc nhà văn Lan Khai bị giặc Pháp bắt giam và có tham gia sáng tác trong nhà tù nhưng tác giả chưa đi sâu nghiên cứu mảng sáng tác này. Trong cuốn Tổng tập văn học Việt Nam (trọn bộ 42 tập) - tập 35 (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Nxb Khoa học Xã Hội, 2000) ở phần thứ hai Thơ văn trong nhà tù (1939 – 1945), các tác giả cuốn sách đã sưu tầm và tập hợp được một số gương mặt nhà văn, nhà thơ tiêu biểu cùng các sáng tác nổi bật được làm trong tù của họ, song số lượng tác giả, tác phẩm còn hạn chế. Tác giả Hà Minh Đức trong cuốn Thực tiễn cách mạng và sáng tạo thi ca - tiểu luận – phê bình (Nxb Văn học, 1977) với bài viết Người chiến sĩ cộng sản trong thơ ca cách mạng 1930 – 1945 cũng đã nhắc đến giai đoạn bị bắt bớ, tù đày của nhiều chiến sĩ cách mạng cũng như một số cảm hứng chủ đạo trong thơ ca của họ, tuy nhiên cũng mới chỉ dừng ở việc phân tích một cách có chừng mực và chưa nêu một cách đầy đủ những biểu hiện và một số phương thức biểu hiện cụ thể của cảm hứng sáng tác thơ văn yêu nước trong nhà tù thực dân, đế quốc. Tác giả Lê Văn Ba với nhiều công trình có giá trị tư liệu như: Thơ viết trong nhà tù Hỏa Lò (Nxb Văn hóa - Dân tộc, 2006), Nhà tù Hỏa Lò, trường học yêu nước và cách mạng (Nxb Hà Nội, 2009). Hai công trình này đã tập hợp các bài thơ được các chiến sĩ sáng tác khi bị giặc bắt giam ở ngục Hỏa Lò. Cuốn Chiến sĩ cách mạng – Nhà văn Việt Nam trong nhà tù thực dân, đế quốc, tập 1 (Nxb Văn hóa Thông tin, 2011) của ông cũng đã cung cấp cho độc giả những tư liệu tham khảo có giá trị về 56 chiến sĩ cách mạng và nhà văn Việt Nam cùng với các sáng tác của họ viết khi bị thực dân Pháp, phát xít Nhật và đế quốc Mĩ bắt giam. Năm 2015, ông tiếp tục cho xuất bản cuốn Nhà văn Việt Nam trong nhà tù quân xâm lược (Nxb Hội Nhà văn). Đây là cuốn sách được biên soạn kĩ lưỡng, công phu thể hiện được tâm huyết, sự dày công của tác giả Lê Văn Ba. Cuốn sách có dung lượng lên đến hơn nghìn trang, giới thiệu hàng trăm tác giả, tác phẩm. Tuy nhiên, tác giả Lê Văn Ba cũng mới chỉ dừng ở việc tập hợp và giới thiệu các nhà văn Việt Nam cùng các tác phẩm của họ sáng tác trong hoàn cảnh bị tù đày chứ chưa đi sâu vào nghiên cứu bộ phận văn học này dưới góc độ lý luận văn học mà ở đây là phương diện cảm hứng sáng tác bởi vậy, đây vẫn còn là cánh cửa bỏ ngỏ để chúng tôi tiến hành đi sâu khám phá, tìm hiểu. Bên cạnh đó còn có các bài viết như tác giả Đỗ Hương với bài báo Vinh danh nhà văn chiến sỹ đăng tải trên trang báo điện tử Thời đại (nguồn: http://thoidai.com.vn, 07/2015); phóng sự Nhà văn Việt Nam trong nhà tù quân xâm lược trên Diễn đàn Văn học nghệ thuật
  16. 14 (nguồn: http://www.haiduongtv.com.vn, 07/2015); Vũ Từ Trang với bài báo Nhà văn và vận mệnh Tổ quốc đăng tải trên trang Văn nghệ Công an online (nguồn: http://vnca.cand.com.vn, 08/2015) hay Đỗ Ngọc Yên với Nhà văn Việt Nam trong nhà tù quân xâm lược đăng trên báo Nhân dân điện tử (nguồn: http://www.nhandan.com.vn, 10/2015), Hà Anh với Nhà văn Việt Nam trong nhà tù quân xâm lược (nguồn: http://toquoc.vn, 08/2017)… Các bài báo này dù có động chạm ít nhiều đến các sáng tác thơ văn của người chiến sĩ nhưng vẫn dừng ở việc giới thiệu về cuốn sách, giới thiệu bộ phận văn học nhà tù là chính, chưa thâm nhập sâu vào đời sống nội tâm, tâm hồn của người chiến sĩ – nghệ sĩ cũng như những biểu hiện sinh động, phong phú của các cảm hứng sáng tác trong thơ văn của họ. Với tinh thần kế thừa những người đi trước, lần đầu tiên cảm hứng sáng tác trong thơ văn của các chiến sĩ yêu nước trong nhà tù thực dân, đế quốc (giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX) được chúng tôi nghiên cứu với mong muốn góp thêm một tiếng nói, một cái nhìn toàn diện hơn về bộ phận văn học này. * Tiểu kết Chương 1 Cảm hứng sáng tác có vị trí và vai trò trọng yếu trong quá trình sáng tạo của người nghệ sĩ để tạo nên được những tác phẩm dạt dào xúc cảm, vừa có giá trị về nội dung, vừa có giá trị về nghệ thuật. Cuộc sống muôn màu, muôn vẻ, cho chúng ta trải nghiệm đầy đủ mọi cung bậc của cảm xúc, vì vậy mà mỗi người nghệ sĩ sẽ tìm cho mình những nguồn cảm hứng sáng tác riêng, chất liệu nghệ thuật riêng. Trong tiến trình văn học dân tộc, mảng văn học được sáng tác trong nhà tù quân xâm lược đã xác lập được một vị trí quan trọng trong văn học Việt Nam nói chung và văn học cách mạng nói riêng. Từng câu văn, câu thơ của người chiến sĩ yêu nước chốn lao tù như tuôn trào những dòng cảm xúc mãnh liệt. Nhà tù của quân xâm lược không chỉ là lò luyện chất “thép” mà còn là lò luyện chất “thơ”, tôi luyện ý chí chiến đấu và tinh thần lạc quan cách mạng. Hình ảnh người chiến sĩ - nghệ sĩ vì vậy mà tỏa sáng rực rỡ trong bóng đêm giữa chốn tù ngục của quân thù. Chương 2. NHỮNG NHÂN TỐ CHI PHỐI CẢM HỨNG SÁNG TÁC THƠ VĂN YÊU NƯỚC TRONG NHÀ TÙ 2.1. Bối cảnh lịch sử mang tính đặc thù 2.1.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỉ XIX sang đầu thế kỉ XX Văn học nhà tù vừa là một bộ phận của văn học dân tộc, vừa là một bộ phận không tách rời của lịch sử. Có thể nhận thấy, thực thể thơ văn trong tù có sự biến đổi, chuyển đổi, khúc xạ được những biến chuyển của lịch sử Việt Nam cuối thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX nói chung và những bước chuyển mình của cách mạng Việt Nam đầu thế kỉ XX nói riêng. Sau khi thực hiện xong công cuộc bình định nước ta về mặt quân sự, thực dân Pháp đã tiến hành công cuộc khai thác thuộc địa để bù đắp tổn thất chiến tranh cho chính quốc, chúng cũng thiết lập một bộ máy đàn áp đồ sộ với hệ thống nhà tù, toà án, quân đội, cảnh sát, mật thám dày đặc, tỉnh nào cũng có Ti cảnh sát, từ huyện trở lên đều có trại giam. Các nhà tù của thực dân lúc nào cũng trong tình trạng quá tải, nhiều tù nhân là những người tham gia các phong trào yêu nước, các cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình và thực dân Pháp.
  17. 15 Sự câu kết của những quan lại triều Nguyễn cam tâm làm tay sai cho thực dân Pháp càng làm tăng thêm sự căm phẫn trong nhân dân và những người chí sĩ, chiến sĩ yêu nước, thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh và cũng chính lòng yêu nước và tinh thần tranh đấu không biết mệt mỏi ấy đã trở thành nguồn cảm hứng lớn trong thơ văn yêu nước nói chung và trong các sáng tác của các chí sĩ, chiến sĩ yêu nước trong nhà tù quân xâm lược nói riêng. 2.1.2. Các phong trào yêu nước cuối thế kỉ XIX sang đầu thế kỉ XX và những tác động đối với dòng văn học trong nhà tù Văn học là tấm gương phản ánh hiện thực và thời đại, và chính các phong trào yêu nước cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX đã đem lại những cảm hứng, là tiền đề cho những mạch nguồn cảm xúc của các chí sĩ, chiến sĩ yêu nước viết lên những áng thơ văn thấm đẫm tinh thần và ý chí kiên cường đánh đuổi giặc thù, những áng văn thơ cất lên nối tiếp nhau như những làn sóng mạnh mẽ. 2.1.3. Người chiến sĩ cách mạng với truyền thống yêu nước Chống giặc ngoại xâm để bảo vệ độc lập dân tộc là nét đặc trưng nổi bật nhất của truyền thống yêu nước Việt Nam. Nối tiếp truyền thống ấy, người chiến sĩ bất luận trong hoàn cảnh nào cũng luôn giữ vững khí tiết, không run sợ trước gian nguy, hiểm nghèo; hiên ngang đối diện với quân thù. Tinh thần, ý chí đó đã được đúc kết từ ngàn đời và chảy trong huyết quản những người con ưu tú của dân tộc. Tinh thần ấy cũng được chuyển vào trong từng câu văn, vần thơ, cảm hứng yêu nước vì vậy là một trong những cảm hứng lớn của thơ văn yêu nước trong nhà tù quân xâm lược. 2.1.4. Chính sách đàn áp người yêu nước của thực dân Pháp Thực dân Pháp luôn thi hành chính sách đàn áp cực kỳ khốc liệt, tàn bạo và khủng bố dã man nhằm dập tắt mọi sự kháng cự, song bằng ý chí và nghị lực phi thường, tinh thần yêu nước, đấu tranh ngoan cường, người chiến sĩ đã vượt qua hết thảy và thơ văn lúc này được xem như là một cách thức, một phương tiện giúp người chiến sĩ bày tỏ mọi nỗi niềm, tâm tư của mình. 2.2. Hoàn cảnh sáng tác đặc thù của các chiến sĩ yêu nước 2.2.1. Hoàn cảnh sáng tác So với hoàn cảnh sáng tác của các giai đoạn, các xu hướng, các dòng văn học khác thì hoàn cảnh sáng tác của bộ phận văn học nhà tù có nét đặc thù riêng. Bởi lẽ, hầu hết các tác phẩm đều được các chiến sĩ sáng tác trong tù, trong hoàn cảnh bị xiềng xích, gông cùm, khi mà ý chí, nghị lực, sức chịu đựng của họ được thử thách ở mức độ cao nhất. Hoàn cảnh tù đày vừa là nguồn cảm hứng, vừa là môi trường để người chiến sĩ tỏ rõ cái tâm, cái tài của mình. 2.2.2. Mối quan hệ giữa hoàn cảnh sống và sáng tác Các tác phẩm của dòng văn học yêu nước trong nhà tù quân xâm lược đa phần đều được sáng tác khi tác giả đang bị giặc giam giữ (có một số tác phẩm hồi ký) nên nội dung thường xoay quanh về hiện thực khắc nghiệt trong xà lim, những thủ đoạn tra tấn dã man của kẻ thù, sự chiến đấu, hy sinh cũng như thế giới tâm hồn của người chiến sĩ. Cũng cần lưu ý, hiện thực được phản ánh trong các sáng tác của người chiến sĩ yêu nước là một hiện thực rộng lớn, không chỉ là hiện thực trong nhà tù (chuyện nhà tù, cuộc sống của người tù, máy chém…), hiện thực trong song sắt mà còn là hiện thực đời sống ngoài song sắt.
  18. 16 2.3. Quan niệm sáng tác 2.3.1. Quan niệm nhân sinh Quan niệm nhân sinh của người chiến sĩ yêu nước trong nhà tù thực dân đế quốc được thể hiện rõ nét qua quan niệm về: sự sống và cái chết. Người chiến sĩ cho rằng sống là hành động, sống là dấn thân, sống là phải xông pha trận tuyến diệt thù, cống hiến hết mình cho lý tưởng cách mạng. Còn chết vì nghĩa lớn, xả thân vì nước thì dầu có thịt nát, xương tan nhưng tiếng thơm để lại muôn đời, lưu danh sử sách, như thế mới thực là “sống” đúng nghĩa vậy. Bên cạnh quan niệm về sự sống và cái chết, với người chiến sĩ yêu nước, chiến sĩ cách mạng còn có một quan niệm “nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa”: đó chính là tình yêu thương dành cho nhân dân, nhất là nhân dân lao động, những người nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột. Nó xuyên suốt và thấm nhuần trong ý nghĩ, hành động và tất nhiên cả trong sáng tác của người chiến sĩ, trở thành một trong những nguồn cảm hứng. 2.3.2. Quan niệm nghệ thuật Quan niệm nghệ thuật của người chiến sĩ được thể hiện qua các sáng tác, họ trả lời cho câu hỏi: Sáng tác thơ văn để làm gì? Nếu như cây súng là vũ khí trên chiến trường, thì ngòi bút lại là vũ khí để người chiến sĩ – nghệ sĩ chiến đấu trên mặt trận tinh thần, nhất là khi ở vào hoàn cảnh bị quân thù tù đày. Người chiến sĩ cũng quan niệm văn học phải gần gũi với quần chúng. Bởi lẽ thơ văn trong nhà tù chủ yếu được truyền miệng, có gần gũi, mộc mạc, chân phương thì mới dễ nhớ, dễ đi sâu vào lòng người. 2.4. Hai loại hình văn học tiêu biểu của người chiến sĩ yêu nước trong nhà tù Lịch sử lý luận thế giới và cả Việt Nam đã từng đưa ra nhiều cách phân loại khác nhau nhưng về cơ bản không khác nhau ở ba loại: trữ tình, tự sự và kịch. Bối cảnh trong tù đặt ra yêu cầu người chiến sĩ phải lựa chọn những thể loại phù hợp. Đó là lý do mà các chiến sĩ yêu nước lựa chọn hai loại hình tự sự và trữ tình để biểu hiện cảm hứng sáng tác và ký thác tâm sự của mình. Trên cơ sở đặc điểm của mỗi loại hình, có thể nhận thấy, tiêu biểu cho loại hình trữ tình chính là thơ ca và tiêu biểu cho loại hình tự sự không gì khác ngoài các sáng tác văn xuôi. 2.5. Hoạt động truyền bá và tiếp nhận văn học yêu nước trong nhà tù thực dân 2.5.1. Hoạt động truyền bá văn thơ yêu nước trong nhà tù Nội dung của thơ văn yêu nước trong nhà tù vô cùng đa dạng, phong phú. Chúng ta thấy thường xuất hiện những nội dung lớn gắn liền với cảm hứng yêu nước, cảm hứng tự do, cảm hứng từ những tình cảm gắn bó với đời sống của người chiến sĩ nhằm tuyên truyền đường lối đấu tranh cách mạng, lý tưởng chiến đấu. Do không có vật dụng ghi chép, thiếu thốn trong sinh hoạt cũng như để đảm bảo bí mật nên đa phần các tác phẩm đều được truyền miệng. Việc truyền bá thơ văn yêu nước trong nhà tù thực dân đế quốc được thực hiện bằng nhiều hình thức, thể loại khác nhau (ca dao, hò vè, hát xẩm…) góp phần làm nên một thế giới tinh thần riêng, sinh động giữa chốn lao tù u ám, ngột ngạt. 2.5.2. Hoạt động tiếp nhận thơ văn yêu nước trong nhà tù 2.5.2.1. Về người tiếp nhận Thơ văn sáng tác trong tù là thơ văn có tính chất “đặc thù” nên độc giả của nó cũng hết sức đặc biệt. Các sáng tác đó có thể được truyền bá ra bên ngoài xà lim bằng nhiều cách thức khác nhau nên người tiếp nhận không chỉ là các tù nhân. So với các loại văn học khác, tiếp
  19. 17 nhận văn học yêu nước trong nhà tù đế quốc vừa có những điểm chung, vừa có những nét khu biệt nhất là về đối tượng tiếp nhận. 2.5.2.2. Đặc điểm tiếp nhận Đi vào tìm hiểu dòng văn học yêu nước trong nhà tù thực dân, đế quốc, chúng ta có thể nhận thấy một số đặc điểm về tiếp nhận như sau: “uy quyền của người phát ngôn”, hướng tiếp nhận, không gian tiếp nhận… 2.5.2.3. Hiệu quả tiếp nhận Thơ văn yêu nước trong nhà tù thực dân đã mang lại những hiệu quả tích cực đối với người đọc. Những trang văn thơ không chỉ là lời giãi bày tâm tư mà hơn hết nó còn là bài ca chiến đấu, là tiếng nói đấu tranh của người chiến sĩ – thi sĩ muốn gửi gắm đến tất cả quốc dân, đồng bào. Cùng với các thể loại khác trong dòng văn học cách mạng nói chung và văn học trong nhà tù thực dân đế quốc nói riêng, các tác phẩm thơ ca trong nhà tù đã để lại những ấn tượng khó quên trong công chúng bạn đọc cả về nội dung và nghệ thuật. Một ví dụ điển hình cho sự tác động của văn học nhà tù đối với sự phát triển của văn học giai đoạn sau chính là văn học cách mạng Sơn La. 2.5.2.4. Tiếp nhận văn học nhà tù trong tương quan với bộ phận văn học hợp pháp Việc truyền bá và tiếp nhận các sáng tác văn học hợp pháp (là bộ phận phát triển, tồn tại trong khuôn khổ luật pháp của chính quyền thực dân phong kiến) được công khai và thuận lợi hơn nhiều so với bộ phận văn học cách mạng, nhất là thơ văn trong tù, vốn được truyền bá và tiếp nhận hết sức bí mật, bởi chính quyền thực dân luôn tìm cách cấm đoán. Song văn thơ cách mạng, yêu nước vẫn như những đợt sóng ngầm góp phần thức tỉnh đồng bào, khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần chiến đấu và tin tưởng vào ngày chiến thắng dưới sự lãnh đạo của Ðảng. * Tiểu kết Chương 2 Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cho chúng ta thấy những đặc điểm riêng có của dòng văn học yêu nước trong nhà tù thực dân với tư cách là một bộ phận văn học đặc thù và có nhiều đóng góp đối với văn học nước nhà nói chung và dòng văn học yêu nước, văn học cách mạng nói riêng. Các phong trào yêu nước liên tục diễn ra trên phạm vi cả nước đã giúp hình thành nguồn cảm hứng sáng tác cho người chiến sĩ. Bằng những lời văn, lời thơ hào hùng, thể hiện ý chí chống giặc đã khắc họa lên hình ảnh của những người chiến sĩ yêu nước của một dân tộc anh hùng, hiên ngang nhưng cũng rất mực tài hoa. Là một bộ phận văn học đặc biệt nên việc truyền bá và tiếp nhận văn học yêu nước trong nhà tù thực dân đế quốc cũng có những đặc điểm riêng so với bộ phận văn học khác, chính điều ấy đã giúp cho bộ phận văn học này có sức sống bền bỉ, mãnh liệt dù phải chịu sự đàn áp, khủng bố của quân thù.
  20. 18 Chương 3. NHỮNG HÌNH THÁI CẢM HỨNG SÁNG TÁC THƠ VĂN YÊU NƯỚC TRONG NHÀ TÙ 3.1. Khát vọng tự do, nỗi nhục nước mất, dân nô lệ Tìm hiểu các sáng tác thơ văn yêu nước trong nhà tù thực dân, ta sẽ nhận thấy khát vọng tự do luôn là nguồn cảm hứng dồi dào, thôi thúc nhà văn, nhà thơ cầm bút (“tự do” là một trong những từ khóa được nhắc đến nhiều nhất). Đó không chỉ là khát vọng tự do cho bản thân để vượt thoát khỏi cảnh giam cầm nơi ngục tối chật hẹp mà hơn cả còn là khát vọng tự do cho cả dân tộc thoát khỏi ách nô lệ, lầm than. Thực dân Pháp và phong kiến tay sai xây dựng nhà tù nhằm hai mục đích đó là: giam cầm những người yêu nước ở trong và uy hiếp tinh thần nhân dân và những người chiến sĩ khác đang chiến đấu ở bên ngoài. Tuy nhiên, chúng không thể ngờ, nhà tù – một biểu tượng của sự giam hãm, mất tự do lại là nơi bồi đắp lý tưởng, ý chí chiến đấu, thử thách tinh thần cách mạng và cũng là nơi khơi gợi và nuôi dưỡng nguồn mạch thơ văn của những người tù yêu nước. Trong thơ văn yêu nước trong nhà tù thực dân, khát vọng tự do của người chiến sĩ yêu nước được thể hiện ở việc tâm thế của họ luôn hướng “ngoại” dù bản thân đang bị giam trong ngục thất. Bên cạnh khát vọng tự do cháy bỏng, thì nỗi đau mất nước, nỗi nhục trước cảnh đất nước, quê nhà bị quân thù tàn phá luôn thường trực trong tâm trí của người chiến sĩ. Từ “nỗi nhục non sông” dưới móng vuốt dơ bẩn của kẻ thù, người chiến sĩ đã lấy đó làm quyết tâm chiến đấu, làm cảm hứng cho những vần thơ vút lên cao. 3.2. Cảm hứng hướng về cội nguồn dân tộc, về truyền thống yêu nước Bằng cảm hứng yêu nước, cội nguồn dân tộc, người chiến sĩ trong nhà tù thực dân đã dựng lên cả một thế giới nghệ thuật sinh động, đầy xúc cảm. Thông qua những sáng tác văn thơ ấy, giúp độc giả phần nào hình dung ra được thế giới nội tâm của những người tù yêu nước, những con người nặng lòng với Tổ quốc và nhân dân. Từ những kiến thức lịch sử tích lũy được lúc thơ ấu đến khi trưởng thành và những trải nghiệm trong hoàn cảnh đất nước khi đó, cũng như cảnh tù đày của bản thân đã góp phần thôi thúc người chiến sĩ cầm bút sáng tác. Lòng yêu nước đã ngấm vào máu của những người chiến sĩ chân chính đó là dòng máu được di truyền từ thời cha ông. Đọc những sáng tác của người chiến sĩ trong lao tù mới thấy được sự tự hào của họ về những trang sử vàng chói lọi của dân tộc, họ lấy gương tiền nhân để làm động lực trong tranh đấu và cảm hứng trong sáng tác, quyết tâm dấn thân vào nguy hiểm. Chính tinh thần yêu nước đã thúc giục người chiến sĩ xác định rõ con đường cách mạng và lý tưởng sống, chiến đấu cho mình. 3.3. Cảm hứng về lý tưởng cách mạng, lạc quan chiến đấu 3.3.1. Lý tưởng cách mạng là nguồn cảm hứng mãnh liệt của người chiến sĩ – nghệ sĩ Người chiến sĩ trong nhà tù quân xâm lược đã lấy lý tưởng cách mạng, lấy hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng, lá cờ búa liềm để kí thác tâm tư, ý chí của mình với cách mạng, với đất nước. Lý tưởng cách mạng của người chiến sĩ ở đây chính là lý tưởng đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc, mang lại hạnh phúc thực sự cho nhân dân. Lý tưởng ấy đã giúp người chiến sĩ bừng lên cảm xúc để sáng tác những áng thơ văn hết sức độc đáo và dạt dào xúc cảm.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2