Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Vấn đề người trí thức trong tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1975
lượt xem 2
download
Luận án "Vấn đề người trí thức trong tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1975" được hoàn thành với mục tiêu nhằm phân tích sự chuyển đổi quan niệm về người trí thức trong đời sống xã hội và ảnh hưởng của nó đến những tiểu thuyết thể hiện đề tài này; Phân tích, đánh giá những đặc điểm của con người trí thức được thể hiện qua hệ thống nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1975 hướng theo mục đích nghiên cứu đã xác định.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Vấn đề người trí thức trong tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1975
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH HỒ THỊ PHƯƠNG MAI VẤN ĐỀ NGƯỜI TRÍ THỨC TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM TỪ SAU 1975 Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 9.22.01.21 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. PHAN HUY DŨNG NGHỆ AN - 2024
- Luận án được hoàn thành tại Trường Đại học Vinh Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. PHAN HUY DŨNG Phản biện 1. ........................................... Phản biện 2. ........................................... Phản biện 3. ........................................... Luận án được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án tiến sĩ cấp Trường Địa điểm: Trường Đại học Vinh Thời gian: Vào hồi ..... giờ, ngày ..... tháng .... năm 202.... Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Quốc gia - Trung tâm Thông tin - Thư viện Nguyễn Thúc Hào, Trường Đại học Vinh
- 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Người trí thức có vị trí quan trọng trong đời sống xã hội, liên quan mật thiết đến sự tồn tại và phát triển của quốc gia. Vì lẽ đó, ở nhiều giai đoạn khác nhau, người trí thức đã trở thành đối tượng thẩm mỹ lớn của nghệ thuật, nhất là văn học. Việc tìm hiểu vấn đề người trí thức không chỉ giúp người nghiên cứu nhìn nhận rõ hơn nhiều vấn đề của văn học sử và lí thuyết văn học, mà còn thấy cả những vấn đề của đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước ở những giai đoạn nhất định. 1.2. Với đặc trưng thể hiện cuộc sống, con người bằng cái nhìn giàu chất văn xuôi, giàu tính đối thoại và từ góc độ đời tư, tiểu thuyết có thế mạnh nổi bật trong việc thể hiện hình tượng, đề tài và các vấn đề của người trí thức. Mặc dù đã có nhiều tác phẩm thuộc các thể loại khác nhau viết về người trí thức, nhưng thành tựu rõ rệt nhất phải kể đến là tiểu thuyết. Đây cũng là một trong những lý do thúc đẩy tác giả luận án lựa chọn nghiên cứu về vấn đề người trí thức trong tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1975. 1.3. Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về người trí thức trong tiểu thuyết hiện đại Việt Nam, nhưng việc khảo sát có hệ thống và trên diện rộng về đối tượng này vẫn còn không ít hạn chế do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nghiên cứu về người trí thức trong tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1975 là nghiên cứu những tìm tòi, đóng góp của các nhà văn trong việc thể hiện những vấn đề của giới trí thức Việt Nam thời kì hậu chiến và thời kỳ đổi mới, nhằm nhận diện chính xác quan điểm, tầm nhìn, bản lĩnh của họ trước nhiều vấn đề của nghệ thuật, của con người và xã hội. Cũng qua khảo sát đối tượng này, người nghiên cứu có thêm căn cứ để nhận định chính xác về tầm vóc tư tưởng - thẩm mỹ của cả một nền văn học. 2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tư liệu khảo sát 2.1. Đối tượng nghiên cứu Như tên đề tài đã xác định rõ, đối tượng nghiên cứu của luận án là: Vấn đề người trí thức trong tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1975. 2.2. Phạm vi tư liệu khảo sát Tư liệu khảo sát chính của luận án là các tiểu thuyết tiêu biểu viết về người trí thức trong văn học Việt Nam từ sau 1975. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận án hướng đến làm rõ sự ý thức của các nhà văn về đối tượng mà họ lựa chọn thể hiện với toàn bộ tính phức tạp của nó, trong đó có việc khảo tả đời sống giới trí thức bằng phương tiện đặc thù của văn học và đề xuất cách nhìn nhận, ứng xử phù hợp đối với tầng lớp xã hội này. Theo định hướng đó, mặc dù việc tìm hiểu đặc điểm nhân vật trí thức hay hình tượng người trí thức trong tiểu thuyết được xác định là một nội dung quan trọng của luận án, nhưng đích hướng đến của công việc này lại là làm nổi bật những trăn trở của các nhà văn về con đường phát triển của toàn xã hội Việt Nam trong thời đại mới, xuất phát từ việc nghiền ngẫm về cuộc sống và thân phận của người trí thức. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Đánh giá những kết quả nghiên cứu đã có về các vấn đề liên quan đến đề tài và xây dựng cơ sở lý thuyết của luận án.
- 2 - Phân tích sự chuyển đổi quan niệm về người trí thức trong đời sống xã hội và ảnh hưởng của nó đến những tiểu thuyết thể hiện đề tài này. - Phân tích, đánh giá những đặc điểm của con người trí thức được thể hiện qua hệ thống nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1975 hướng theo mục đích nghiên cứu đã xác định. - Phân tích, đánh giá các phương thức thể hiện đặc thù đối với hình tượng người trí thức trong tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1975 hướng theo mục đích nghiên cứu đã xác định. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu chính sau đây: - Phương pháp cấu trúc - hệ thống: Phương pháp này được sử dụng để làm nổi bật tính chỉnh thể của vấn đề người trí thức trong tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1975 và để đảm bảo cho công trình có được một bố cục - kết cấu hợp lí, nhiều tầng bậc. - Phương pháp loại hình: Đây là phương pháp quan trọng giúp người nghiên cứu xác định rõ các phương diện cốt yếu của đối tượng nghiên cứu: người trí thức như một loại hình tượng đặc thù và tiểu thuyết như một thể loại có những ưu thế riêng trong việc trình bày, thể hiện quan điểm nhìn nhận, đánh giá của nhà văn về người trí thức. - Phương pháp so sánh - đối chiếu: Phương pháp này giúp người nghiên cứu nhận diện, phân biệt được người trí thức với các đối tượng thẩm mỹ khác, đồng thời cũng nhận ra sự tương đồng và khác biệt của các ngòi bút cùng viết về người trí thức. - Phương pháp nghiên cứu lịch sử: Phương pháp này giúp tác giả luận án thấy được sự phát triển của đề tài người trí thức trong văn học Việt Nam qua các giả đoạn khác nhau, cắt nghĩa được lý do người trí thức trở thành đề tài đặc biệt quan trọng trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975. - Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Việc sử dụng thông tin từ các lĩnh vực như xã hội học, văn hóa học, lịch sử, … sẽ giúp cho người nghiên cứu có cái nhìn tổng quát hơn, có kiến thức nền tảng để hiểu và lý giải rõ hơn các vấn đề liên quan đến đề tài. - Phương pháp phân tích - tổng hợp: Phương pháp này cho phép tác giả làm rõ được sự đa dạng của tiểu thuyết viết về người trí thức trong văn học Việt Nam từ sau 1975, khám phá được tính nghệ thuật của những sáng tác cụ thể, đặt trọng tâm vào việc tìm tòi và thể hiện các vấn đề về người trí thức, khiến họ phải không ngừng trăn trở, suy tư trong hành trình cuộc sống của mình. 5. Đóng góp của luận án Luận án khảo sát, phân tích tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1975 với cái nhìn hệ thống, đi sâu tìm hiểu những vấn đề vừa có tính muôn thuở vừa có tính thời sự của giới trí thức mà các nhà văn đặt ra trong đó - những vấn đề đòi hỏi người cầm bút phải có tài năng mới có thể phát hiện và thể hiện, phải có rất nhiều can đảm và ý thức trách nhiệm mới có thể lên tiếng. Về mặt lý luận, luận án cố gắng làm rõ vấn đề: nhận thức, tư duy của nhà văn về người trí thức đã chi phối như thế nào đến cách thể hiện đề tài người trí thức trong tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1975. Về mặt thực tiễn, luận án góp phần lí giải sự vận động theo hướng trí thức hoá của một bộ phận tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1975, trong đó người trí thức xuất hiện vừa với tư cách vừa là đối tượng thẩm mỹ vừa với tư cách là chủ thể sáng tạo.
- 3 6. Cấu trúc của luận án Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận án được triển khai trong bốn chương: Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu và cơ sở lý thuyết của đề tài Chương 2: Quan niệm về người trí thức trong tiểu thuyết Việt Nam hiện đại Chương 3: Vấn đề người trí thức nhìn từ đặc điểm nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1975 Chương 4: Vấn đề người trí thức nhìn từ phương thức thể hiện nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1975
- 4 Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 1.1.1. Những nghiên cứu chung về trí thức 1.1.1.1. Trí thức như một mẫu hình nhân cách Hiện nay, tuy tranh luận về người trí thức chưa phải đã ngã ngũ, nhưng nói chung người trí thức luôn được xem như một mẫu hình nhân cách đặc biệt trong xã hội. Trước đây, khi nhắc đến người trí thức, người ta vẫn xem học vấn là tiêu chí đầu tiên và quan trọng nhất. Giờ đây, khi trình độ học vấn trong xã hội đã được tăng lên, người ta không quá chú ý đến tiêu chí này nữa. Nói cách khác, ngoài học vấn, người trí thức được thừa nhận hay không, có vị thế như thế nào phụ thuộc rất lớn vào việc anh có phẩm cách và thể hiện được trách nhiệm xã hội của mình ra sao. 1.1.1.2. Trí thức với đời sống xã hội Người ta có xu hướng cho rằng, trí thức là người có kiến thức sâu rộng về một hay nhiều lĩnh vực, hơn hẳn mặt bằng hiểu biết chung của xã hội ở một thời kỳ nhất định. Từ sự va chạm với thực tiễn, người trí thức ý thức được vai trò của mình đối với đời sống xã hội. Trong mối quan hệ này, người trí thức có khả năng tác động lên đời sống xã hội hoặc chịu tác động trở lại. Bằng những cách lý giải khác nhau, nhiều bài viết đã chứng minh thuyết phục vai trò của người trí thức với đời sống xã hội, trong đó sự phản biện xã hội được xem là một biểu hiện đặc thù. Dường như, thời kỳ nào, người trí thức cũng không dễ dàng thỏa mãn với những gì hiện có, họ vẫn không ngừng phản ứng và phản kháng. Như thế, người trí thức có vai trò đáng kể trong sự thúc đẩy sự vận động, thay đổi của đời sống xã hội theo chiều hướng ngày càng tiến bộ, tích cực. 1.1.1.3. Số phận của trí thức Câu chuyện về số phận của người trí thức không dễ đề cập như số phận của nhiều tầng lớp khác trong xã hội. Số phận đầy thăng trầm của người trí thức thường ít được phân tích một cách thấu đáo, bởi nếu đi đến cùng vấn đề này, người nghiên cứu dễ gặp rủi ro với những ý kiến nghịch chiều, mặc dù chúng được đề xuất dựa trên việc khảo sát thực tế. Tìm hiểu các bài viết, công trình bàn về người trí thức, chúng tôi nhận thấy có sự tương đồng trong quan niệm của các học giả khi cho rằng người trí thức thường có số phận bi kịch, gặp nhiều khó khăn khi muốn biểu đạt các quan điểm, tư tưởng riêng về các vấn đề đời sống. 1.1.2. Những nghiên cứu về người trí thức trong tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1975 1.1.2.1. Nghiên cứu sự quan tâm đặc biệt của các nhà văn đối với đề tài người trí thức Người trí thức trở thành một đề tài lớn trong văn học từ sau 1975. Dù không phải lần đầu tiên được thể hiện, nhưng trong hoàn cảnh xã hội mới, đề tài người trí thức gây sức hút mạnh mẽ không chỉ với người sáng tác mà còn với cả những người nghiên cứu văn học. Vì vậy, đã có nhiều bài viết bàn đến sự phát triển của đề tài này. Nhìn tổng thể, những bài viết, công trình đã được công bố chủ yếu chỉ chọn những yếu tố cụ thể nào đó trong tác phẩm, ít có những công trình nghiên cứu có hệ thống. Hơn nữa, một số tác phẩm được đánh giá là viết thành công về đề tài người trí thức vẫn chưa được nhiều người quan tâm tìm hiểu. Ở đây hẳn có tâm lý né tránh các vấn đề được xem là nhạy cảm trong các tác phẩm ấy...
- 5 1.1.2.2. Nghiên cứu đặc điểm nhân vật trí thức được thể hiện trong tiểu thuyết Đặc điểm nhân vật người trí thức được bàn đến trong một số công trình, bài viết nghiên cứu chung về nhân vật người trí thức trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975. Tuy nhiên, đa phần các bài viết chỉ mới dừng ở việc đề cập các đặc điểm của người trí thức trong một tác phẩm hoặc một nhóm tác phẩm của cùng một tác giả. Đây cũng là cơ hội cho người khác có chung sự quan tâm với đối tượng này tiếp tục nghiên cứu. Từ những nghiên cứu đã có, chúng tôi nhận thấy, khi nghiên cứu về người trí thức trong tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1975, ngoài việc tìm hiểu về người trí thức với mâu thuẫn vốn có, với tinh thần dấn thân, với quá trình phản tỉnh, với cả những bất cập, yếu hèn, cần quan tâm hơn nữa đến đặc điểm về lối sống và thân phận, về quan niệm và tư tưởng, về hành động và ứng xử của người trí thức. 1.1.2.3. Nghiên cứu nghệ thuật thể hiện người trí thức trong tiểu thuyết Nhìn tổng quát, đa số những công trình nghiên cứu nghệ thuật thể hiện người trí thức đều quan tâm đến các yếu tố như ngôn ngữ nghệ thuật, cách miêu tả ngoại hình nhân vật, khả năng phân tích tâm lý nhân vật, không gian và thời gian nghệ thuật. Các tác giả nghiên cứu về nhân vật người trí thức trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 đã đề cập nhiều đặc điểm cơ bản trong nghệ thuật thể hiện hình tượng thẩm mỹ đặc biệt này: việc xây dựng các nhân vật tư tưởng đảm nhiệm chức năng phát biểu các luận đề về người trí thức; triển khai các luận đề bằng các tình huống giả định; đặt nhân vật trí thức vào vị trí trung tâm của các mối quan hệ xã hội (giữa thế giới nhân vật đông đảo, giữa vòng vây của các sự kiện, và giữa các cuộc đối thoại tư tưởng);…. Khi nghiên cứu mở rộng nhiều tác giả, tác phẩm tiểu tuyết đương đại viết về người trí thức, chúng tôi nhận thấy cần chú ý phân tích sâu một số phương thức thể hiện khác như: nhấn mạnh những đối thoại tư tưởng, quan tâm thể hiện quá trình phản tỉnh của nhân vật, khái quát hai mặt của đời sống… 1.2. Cơ sở lý thuyết của đề tài 1.2.1. Quan niệm về người trí thức Trong từ điển Oxford, "Trí thức" là "intellectual" (adj - tính từ) chỉ "khả năng làm việc bằng trí óc". Khi kết hợp với danh từ thì nó sẽ là danh từ mang nghĩa "Người trí thức": intellectual people (noun- danh từ), tức là "người có khả năng làm việc trí óc". Quan niệm này cũng xuất hiện ở nhiều nước. Theo Vũ Trọng Lâm, "các nhà kinh điển của chủ nghĩa Marx - Lenin đều nhìn nhận trí thức là một tầng lớp xã hội trung gian, gắn bó mật thiết với các giai tầng khác, thường phụng sự giai cấp thống trị và có đặc trưng cơ bản là có học thức và thường xuyên lao động trí óc, là lực lượng không thể thiếu trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc". Xã hội càng phát triển, đính nghĩa về người trí thức cũng có những thay đổi nhất định. Đã đến lúc cần nhìn nhận người trí thức với những phẩm tính trí thức thực sự, trong đó “Đặc điểm phân biệt họ với các tầng lớp xã hội khác là họ có học thức nhất định, luôn tự ý thức về sứ mệnh của mình đối với toàn thể cộng đồng (...) và có thái độ dấn thân để thực hiện sứ mệnh đem lại tương lai tươi sáng cho cộng đồng“. Đó phải là những "cá nhân có tinh thần phê phán". Nghị quyết số 27-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) Về xây dụng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nêu rõ: "Trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu kiến thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội".
- 6 Tiếp thu các quan niệm tiến bộ trên đây, tác giả luận án cho rằng người trí thức không những là người có tri thức, mà còn phải có sự độc lập về tư tưởng, luôn ưu tư trăn trở về bản thân và cuộc đời, luôn khao khát, nỗ lực dấn thân can dự vào đời sống để thúc đẩy xã hội phát triển một cách tích cực, nhằm tạo ra những giá trị mới, tốt đẹp hơn… 1.2.2. Sự tương hợp giữa đề tài người trí thức với bản chất thể loại của tiểu thuyết Sự tương hợp giữa đề tài người trí thức và tiểu thuyết thể hiện trước hết ở đặc điểm của người trí thức. Người trí thức có đặc điểm xuất thân, nghề nghiệp, tư tưởng, số phận phong phú và phức tạp. Họ lại là tầng lớp có ảnh hưởng sâu rộng đến mọi mặt của đời sống, can dự vào hầu hết các lĩnh vực trong cuộc sống. Với những đặc điểm và sứ mệnh của mình, người trí thức suy tư không ngừng về cuộc đời và thời cuộc. Và không hề ngẫu nhiên đó lại cũng là một trong những đặc điểm cơ bản của thể loại tiểu thuyết. Tiểu thuyết miêu tả suy tư của nhân vật về thế giới, về đời người, phân tích cặn kẽ các diễn biến tình cảm, trình bày tường tận tiểu sử của nhân vật, mọi chi tiết về quan hệ giữa người với người... Con người trí thức vốn phức tạp, đó là con người “dao động”, luôn day dứt trăn trở không ngừng về những vấn đề sống còn cơ bản. Vì thế rất rất dễ nhận thấy giữa thể loại tiểu thuyết và hình tượng cũng như đề tài người trí thức có sự tương hợp ở tính phức hợp. Thêm nữa, tính chất đối thoại của tiểu thuyết rất phù hợp với tính độc lập về tư tưởng, tinh thần phản biện/đối thoại của người trí thức. Ngoài ra, tiểu thuyết còn mang đậm yếu tố tự truyện cũng là một đặc điểm rất phù hợp với việc thể hiện đề tài người trí thức. 1.2.3. Đề tài trí thức trong văn học Việt Nam Để nhận diện về đề tài người trí thức, người nghiên cứu, phê bình cần căn cứ vào tiêu chí nào? Tiêu chí đầu tiên là tác giả, tác phẩm cần phải thể hiện hình tượng nhân vật người trí thức. Vậy như thế nào được xem là nhân vật người trí thức? Kiểu nhân vật thứ nhất được nhà văn xây dựng theo "chuẩn", với những phẩm tính trí thức điển hình, được nhiều người cũng như đa số các nhà nghiên cứu thừa nhận. Kiểu nhân vật "được gọi là người trí thức" có thể có những đặc điểm tính cách lệch chuẩn nhưng theo quan điểm riêng của tác giả thì vẫn là trí thức. Cũng có thể, nhà văn gọi nhân vật đó là trí thức chỉ vì nó thuộc quan niệm phổ biến của xã hội, chứ chưa hẳn là do nhà văn đồng tình. Tiêu chí thứ hai: người viết, tác phẩm, nhân vật phải thể hiện được những vấn đề của/về người trí thức. Trong đó, có sự quan tâm đặc biệt đến đời sống, tư tưởng, quan niệm, những trăn trở suy tư về cuộc đời, về con người, về chính mình... của người trí thức. Điều này giúp chúng ta nhận diện, tác phẩm có xuất hiện nhân vật người trí thức chưa chắc đã thuộc đề tài người trí thức, nếu như tác phẩm đó không tập trung thể hiện những vấn đề liên quan thiết thân trong đời sống của họ. Tiêu chí thứ ba, nhà văn không phải chỉ là người mô tả mà còn phải đồng tình, đứng về phía người trí thức, cho dù anh xây dựng nhân vật trí thức "chính diện", "phản diện" hay "đa diện". Những tiêu chí trên đây đã khẳng định đề tài người trí thức đã thực sự hiện diện trong đời sống văn học hiện đại Việt Nam. Các tác phẩm văn học viết về người trí thức đã xuất hiện ngay từ trước 1945 và tiếp tục phát triển mạnh trong văn học giai đoạn từ sau 1975 đến nay. Với số lượng tác phẩm đáng kể viết về người trí thức, có thể khẳng định, người trí thức không chỉ là một đề tài mà còn là đề tài lớn của văn học Việt Nam, nhất là của thể loại tiểu thuyết từ sau 1975. Các nhà văn viết về đề tài người trí thức từ sau 1975 một mặt đã tiếp thu được những gợi ý hữu ích từ các tiền bối, mặt khác đã có những chuyến biến trong cái nhìn về người trí thức, có yêu cầu cao hơn, có khát vọng mạnh mẽ hơn về sứ mệnh của người trí thức.
- 7 Chương 2 QUAN NIỆM VỀ NGƯỜI TRÍ THỨC TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM HIỆN ĐẠI 2.1. Quan niệm về người trí thức trong tiểu thuyết Việt Nam trước 1975 2.1.1. Quan niệm về người trí thức trong tiểu thuyết Việt Nam trước 1945 Để tìm hiểu quan niệm về người trí thức hiện đại trong tiểu thuyết trước Cách mạng tháng Tám 1945, trước hết phải tìm đến sáng tác của các cây bút thuộc nhóm Tự lực văn đoàn. Một số tiểu thuyết của những cây bút hàng đầu Tự lực văn đoàn như Đoạn tuyệt, Lạnh lùng của Nhất Linh, Nửa chừng xuân của Khái Hưng đã xây dựng những nhân vật trí thức có tư tưởng hiện đại. Nhân vật Dũng, Loan (Đoạn tuyệt), Nhung (Lạnh lùng), Mai và Lộc (Nửa chừng xuân)... đều muốn thay đổi những gì đã lỗi thời, ràng buộc tự do của con người. Tuy nhiên, tương lai mà các nhân vật trí thức trong tiểu thuyết của các cây bút Tự lực văn đoàn nhắc đến không được cụ thể hóa, nói cách khác là xa xôi mờ mịt. Nam Cao, đại diện tiêu biểu của văn học hiện thực trước 1945, đã sáng tạo nên hình ảnh người trí thức thực sự sắc nét. Nam Cao đã tạo ra một loạt chân dung về người trí thức buổi đầu thế kỷ XX mà rất gần gũi với hình ảnh người trí thức ngày nay. Người trí thức chân chính nào cũng có khát vọng đẹp, cũng mong muốn được cống hiến, muốn được can dự một cách hiệu quả vào đời sống xã hội. Người trí thức của Nam Cao có quá trình tự ý thức rất mạnh, họ thường nhìn vào rất sâu trong tâm trí, tâm hồn mình, tự đòi hỏi mình phải sống cho xứng đáng. Đối với họ, "sống tức là cảm giác và tư tưởng. Sống cũng là hành động nữa, nhưng hành động chỉ là phần phụ: có cảm giác, có tư tưởng mới sinh ra hành động. Bản tính cốt yếu của sự sống chính là cảm giác và tư tưởng. Cảm giác càng mạnh, càng linh diệu, tư tưởng càng dồi dào, càng sâu sắc, càng sáng suốt thì sự sống càng cao. Kẻ vô học cũng như những giống người mọi rợ, sống nông cạn, thấp kém, thô kệch hơn những kẻ có học và những giống người văn minh". Không chỉ vậy, với Nam Cao, khi ở tận cùng của sự bế tắc, người trí thức dù không tránh khỏi những lúc "nhu nhược", "hèn yếu", dù đau xót khi nhận ra đời mình có thể "mốc lên", "gỉ đi", "mục ra", dù thói quen của con người là "sợ hãi sự đổi thay" thì cũng phải sẵn sàng thay đổi. Bởi bì, "sống tức là thay đổi". Bởi vì, Người ta chỉ nên "hưởng cái gì mình đáng được hưởng thôi"... Hiểu biết, trí tuệ, tự trọng, không ngừng suy tư, day dứt, khao khát cống hiến những giá trị cao đẹp là quan niệm của Nam Cao về người trí thức. 2.1.2. Quan niệm về người trí thức trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1945 đến 1975 Từ sau 1945, nền văn học cách mạng Việt Nam chuyển mình sang thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của đất nước chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Các đề tài về Cách mạng, về Đất nước, về người lính, về đại chúng, về mối liên kết công - nông - binh được ưu tiên thể hiện. Bối cảnh đất nước lúc này chưa phù hợp với việc thể hiện những vấn đề cá nhân, riêng tư, hay chưa ưu tiên giải quyết những trăn trở trong cuộc sống đời thường. Người trí thức cũng gác lại những giấc mơ và dự định, họ hòa mình vào cuộc kháng chiến. Nói cách khác, người trí thức trong văn học 1945 - 1975 không có nhiều khác biệt so với những hình tượng nhân vật khác. Tính chất cá nhân, cá tính của người trí thức không nổi bật. Cũng cần thấy thêm rằng, quan niệm về người trí thức còn bị chi phối bởi nhận thức về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của người trí thức trong đời sống xã hội. Người trí thức từng bị xem là kẻ ủy mị, mềm yếu, tiểu tư sản, ích kỷ, lười biếng. Quan niệm này xuất phát từ chỗ,
- 8 do yêu cầu của thời đại, người ta đề cao vai trò quần chúng công nông binh. May mắn là, dù muộn, những ý kiến bày tỏ quan niệm về người trí thức càng về sau càng công bằng hơn. Và dù muốn dù không thì các thành phần khác trong xã hội cũng đang dần thừa nhận đóng góp của người trí thức trong đời sống xã hội. 2.1.3. Một số nhận định khái quát Trong tiểu thuyết Việt Nam trước 1975, quan niệm về người trí thức ít khi được phát biểu qua những phát ngôn trực tiếp, dù bằng lời của nhân vật hay bằng lời của người kể chuyện, mà được bộc lộ ngầm ẩn qua những hành động và suy tư của các nhân vật có thể được xem là trí thức: nhà văn, nghệ sĩ, nhà giáo, người hoạt động xã hội. Dù được bộc lộ theo kiểu nào, quan niệm này cũng còn khá hạn hẹp: nhấn mạnh vào đặc thù công việc của trí thức hơn là những suy tư vượt khuôn khổ, có khả năng thức tỉnh xã hội của họ. Chính vì vậy, các nhà văn vẫn chưa xác định được tiêu chí rõ ràng để phân biệt trong thế giới nhân vật đâu là trí thức đâu chưa phải là người trí thức. Quan niệm về trí thức trong tiểu thuyết thời kì 1945 - 1975 cũng chưa vượt lên được quan niệm đã có trước đó, thể hiện trong những sáng tác của Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Nam Cao,... Các nhân vật trí thức được thể hiện trong bộ tiểu thuyết sử thi Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi như hoạ sĩ Tư, chưa cho thấy sự biến chuyển nhận thức cần thiết của nhà văn trên vấn đề này. Một số nhân vật trí thức trong Sống mãi với thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng cũng thế. Thậm chí, quan niệm về người trí thức trong tiểu thuyết thời kì này mang tính thoả hiệp với quan niệm phổ biến, cho rằng trí thức là một bộ phận thường "dao động về tư tưởng", cần phải được cải tạo lại về nhận thức để tham gia có hiệu quả hơn (như công, nông, binh) vào các cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Các nhân vật trí thức được miêu tả trong Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu (như chính uỷ Kinh), trong Thung lũng Cô Tan của Lê Phương và một số nhân vật bộ đội lên đường chiến đấu khi đang học dở đại học sự thật không có những băn khoăn gì mang tính chất trí thức thật sự. Họ chỉ bộc lộ vừa đủ cái đặc trưng "có học" của mình ở một mức độ rất khiêm tốn, không làm cản trở gì nhận thức chung hay lối tham gia hành động phổ biến của mọi công dân Việt Nam thời kì ấy. Rõ ràng, so với những nhân vật trí thức của văn học thế giới, được miêu tả trong các bộ tiểu thuyết đồ sộ như Chiến tranh và hoà bình, Anna Karenina, Phục sinh của Lev Tolstoy, Jean Cristov của Romain Roland, Con đường đau khổ của Alecxi Tolstoy,... các nhân vật trí thức trong tiểu thuyết Việt Nam gần như đã tự phủ định các giá trị cơ bản làm nên khuôn mặt đặc thù của giới mình. Điều này thực sự gây áp lực cho hoạt động sáng tác tiểu thuyết sau 1975 về đề tài trí thức. 2.2. Những tiền đề dẫn đến sự thay đổi trong quan niệm về người trí thức trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 2.2.1. Tiền đề chính trị - xã hội Sau ngày đất nước thống nhất, đời sống xã hội chuyển sang một bước ngoặt lớn. Giờ đây, mọi người được trở về với cuộc sống thường nhật của mình, có thể đóng góp cho xã hội theo khả năng của bản thân. Lúc này, người trí thức có cơ hội tham gia vào các hoạt động xã hội, được tham gia góp ý kiến, tham mưu các vấn đề trong đời sống. Tiếng nói phản biện đặc trưng của người trí thức được lắng nghe nhiều hơn, dù cho có lúc đây đó vẫn có người thấy đáng nghi ngại. Lần đầu tiên Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết về trí thức. Nghị quyết này được đánh giá là "đã đề cập một cách toàn diện từ vai trò, khái niệm về trí thức đến việc đánh giá thực trạng đội ngũ trí thức và công tác xây dựng đội ngũ trí thức của Đảng và Nhà nước khi đổi mới (1975) đến nay”.
- 9 Trong bối cảnh hôm nay, khi các nền tảng kỹ thuật số phát triển mạnh mẽ, người ta trọng chất xám, trọng trí thức, trọng người có học hơn. Khái niệm quyền lực tưởng cố định đã được nhìn nhận lại. Nhà tương lai học người Mỹ Alvin Toffler trong cuốn sách Thăng trầm quyền lực nổi tiếng đã phân tích sâu sắc vấn đề quyền lực của tri thức. Khi người trí thức được quan tâm nhiều hơn trong xã hội, họ trở thành một đối tượng thẩm mỹ của các nhà văn, giúp các nhà văn nối lại mạch đề tài đã bị gián đoạn do tính đặc thù của văn học thời chiến. Những tư tưởng mới về người trí thức bắt đầu được phổ biến, được bàn luận, với sự xuất hiện của các diễn đàn, các công trình nghiên cứu (trong đó có những công trình nghiên cứu về đóng góp của các nho sĩ cho việc xây dựng nhà nước phong kiến Việt Nam). Theo các cuộc tranh luận ấy, người ta đã nói nhiều đến sự "dấn thân", "phản biện" của trí thức - những hoạt động thể hiện "phẩm tính trí thức" một cách rõ nét nhất, nổi bật nhất. Dần dần, các định kiến gắn với người trí thức như "bản chất dao động", "tạch tạch xè" (tiểu tư sản) đã được nhận thức lại. 2.2.2. Tiền đề văn hóa - văn học 2.2.2.1. Văn học dịch với những tiểu thuyết viết về người trí thức Từ giữa thế kỷ XX, đã có nhiều sáng tác văn học viết về người trí thức của một số nền văn học nước ngoài được dịch và xuất bản ở Việt Nam. Các tác phẩm này đã tác động tích cực đến các nhà văn Việt Nam quan tâm đến đề tài người trí thức, góp phần tạo ra những chuyển biến trong quan niệm và cách viết về người trí thức. Lỗ Tấn - nhà văn hiện đại Trung Quốc - viết về người trí thức từ rất sớm. Đối mặt với thời đại bão táp ở Trung Quốc lúc bấy giờ, các nhân vật trí thức của Lỗ Tấn đem đến những hình ảnh xã hội buổi giao thời. Khi tác phẩm của Chekhov được dịch một các hệ thống sang tiếng Việt, nhà văn Nga vĩ đại này đã trở thành một trong những tác giả được bạn đọc Việt Nam mến mộ nhất. Trong các sáng tác của mình, Chekhov đã tạo ra được những nhân vật trí thức đầy ám ảnh. Năm 1961, tác phẩm Ruồi trâu nổi tiếng của Ethel Lilian Voynich (1864 - 1960) được dịch ra tiếng Việt. Chàng thanh niên Arthur có bí danh “Ruồi trâu” trở thành một biểu tượng cho giới trí thức. Không phải tự nhiên mà tác giả đặt tên nhan đề tác phẩm cũng là bí danh của nhân vật chính, bởi vì dường như tác giả muốn xây dựng một nhân vật điển hình, muốn tạo một ấn tượng sâu đậm về vai trò hay ý nghĩa sự tồn tại của một người trí thức. Đó phải là "một người phê bình phiền phức và không khoan nhượng, người tố cáo những khiếm khuyết và tệ nạn - có thực lẫn tưởng tượng". Sau 1975, đặc biệt là trong thập niên 1980, nhiều tiểu thuyết viết về người trí thức của nước ngoài được dịch in ở Việt Nam đã đưa đến một góc nhìn mới về trí thức. Trước hết, cần phải nói đến tiểu thuyết của Liên Xô với các tác phẩm như: Bác sĩ Zhivago của Bois Pasternak, Nửa đời nhìn lại của Trifomov, Nguyệt thực của Tendriakov, Kì lạ thế đấy cuộc đời này, Xông vào dông bão, Bức tranh của Granin, Bến bờ, Lựa chọn của Bodarev, Và một ngày dài hơn thế kỉ, Đoạn đầu đài của Aitmatov, Đám cháy của Rasputin, Muối của đất của Markov, Quy luật của muôn đời của Dumbatze, Thao thức của Kron,... Số phận của người trí thức được nhìn dưới đôi mắt đầy gai góc của các văn nghệ sĩ Nga đã đem đến cho công chúng những hiểu biết sâu xa về thân phận con người nói chung và người trí thức nói riêng. Có thế nói, những tiểu thuyết gia bậc thầy thế giới đã khai mở một lối đi mới, đưa văn chương đến rất gần với cuộc đời. Qua các tác phẩm được dịch, hình ảnh người trí thức trong tác phẩm do họ xây dựng vừa có tính tiêu biểu, điển hình, vừa mang tính phổ quát. vì thế, có thể vượt qua biên giới quốc gia, đến rất gần với độc giả thế giới.
- 10 Nhờ sự lan tỏa mạnh mẽ ấy, các nhà văn hiện đại Việt Nam quan tâm đến người trí thức có được những gợi ý quan trọng. Ảnh hưởng của bộ phận văn học dịch với tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ 1975 trở về sau là rất tích cực. 2.2.2.2. Bài học kinh nghiệm của những tiểu thuyết ở các thời kì văn học trước đây viết về người trí thức Tiểu thuyết sau 1975 viết về người trí thức đã được kế thừa những thành tựu có sẵn của văn học viết về đề tài này ở các giai đoạn trước, phát triển thành đề tài chủ đạo của văn học. Những thành công và những "thất bại" của văn học về đề tài trí thức trước đó đều là những kinh nghiệm quý báu đối với các nhà tiểu thuyết sau 1975. Thành công đầu tiên của văn học Việt Nam trước 1975 được kể đến là có những giai đoạn đề tài trí thức trở thành đề tài nổi bật, tạo nên dấu ấn tên tuổi của nhiều nhà văn. Thứ hai: đã có nhưng tác phẩm xây dựng thành công các nhân vật trí thức trở thành mẫu hình người trí thức của thời đại. Thứ ba: một số tác giả đã quan tâm đến những vấn đề cơ bản của người trí thức, từ đó đưa ra những quan niệm mới mẻ về người trí thức. Đồng thời, chú ý khắc họa dòng chảy tâm lý, xây dựng các hình thức đối thoại đa dạng. Hạn chế của văn học Việt Nam trước 1975 thể hiện ở chỗ các nhà văn đã chịu sự chi phối của tính giai cấp, cái nhìn giai cấp, biến nhân vật thành cái loa phát ngôn cho lập trường tư tưởng giai cấp của nhà văn. Vì vậy, hình tượng người trí thức được xây dựng có phần thiên kiến. Kế thừa kinh nghiệm, khắc phục hạn chế của những người đi trước, các nhà văn sau 1975 đã không ngừng nỗ lực, tìm tòi, thể nghiệm nhằm tạo ra những cách nhìn và cách thức thể hiện mới về người trí thức. Sau 1975, với sự sáng tạo táo bạo, các nhà văn đã tạo ra sự bùng nổ của đề tài với nhiều thành tựu đáng ghi nhận. 2.2.3. Sự tự vấn của các nhà văn - trí thức Tính đến nay, nhiều thế hệ nhà văn đã nối tiếp nhau xuất hiện trong đời sống văn học: có người trưởng thành từ trước Cách mạng tháng Tám; có người đi qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ; có người mới bắt đầu cầm bút giai đoạn trước và sau 1975... Thời điểm sáng tác dù có khác nhau, nhưng điểm chung giữa họ là khi đã có độ lùi về thời gian, cái nhìn của các nhà văn về người trí thức, về sự chuyển động của đời sống xã hội trở nên rõ ràng, sáng tỏ hơn. Có những nhà văn trước đó từng viết về người trí thức, khi viết họ hẳn đã phải trăn trở rất nhiều. Vậy nhưng, sau này đọc lại, chính họ vẫn chưa dứt được băn khoăn. Nỗi trăn trở về đề tài, về con người trí thức trong mối quan hệ với đời sống vẫn khiến họ không thôi đau đáu. Khi có cơ hội, họ phải tiếp tục viết về giới của mình. Nhờ vậy, có nhiều điều vốn đã bị khuất lấp đi vì lý do nào đó, giờ đây lại hiện hình qua trang viết của họ. Họ có thể từng viết rất nhiều đề tài, nhiều kiểu nhân vật khác nhau, nhưng khi có dịp nhìn lại, nhà văn tự thấy mình mang món nợ với chính giới mình. Đây chính là nguyên cớ thôi thúc các nhà tiểu thuyết tìm đến đề tài người trí thức trong thời kỳ mới. 2.3. Những điểm mới trong cách nhìn về người trí thức ở tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 2.3.1. Không đánh đồng trí thức là người có học Nhìn tổng thể, các nhà văn ngày càng có xu hướng không còn đánh đồng trí thức là người có học, là người làm công việc bút mực thuần tuý, dù rằng các nhân vật của họ dĩ nhiên phải làm một nghề nào đó liên quan đến học vấn, sách vở. Thực tế cho thấy, trong nhiều tiểu thuyết, nhiều nhân vật vẫn được coi là trí thức dù công việc họ
- 11 đang phải làm không dính dáng gì đến những "nghề cao quý" mà xã hội tôn vinh, trọng vọng. Một trong những đại diện đầu tiên sau 1975 có thể kể đến là nhà văn Nguyễn Khải. Nguyễn Khải phân biệt rất rạch ròi khái niệm trí thức và viên chức. Tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh đã bước qua quan niệm trí thức chỉ là người có học. Ở tác phẩm Miền hoang tưởng, Nguyễn Xuân Khánh không nhấn mạnh sự "có học" của các nhân vật. Nhà văn tập trung thể hiện nhân vật Tư và các bạn của anh "lạc lõng giữa cuộc đời, bị xã hội vứt ra lề đường", nhưng thật ra "trong thẳm sâu, Tư và những người bạn của anh luôn khao khát vươn tới cái đẹp, luôn hướng thiện và mong ước có được tự do cá nhân". Quan niệm người trí thức không hẳn là người có học hay làm việc trí óc đã cho thấy những chuyển biến của văn học Việt Nam sau 1975. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là phủ nhận việc học hành, chữ nghĩa. Suy cho cùng, học vấn vẫn nên là nền tảng quan trọng để từ đó người trí thức có cơ sở để xây dựng và bộc lộ những phẩm chất đặc thù của bản thân mình. 2.3.2. Chú ý nhấn mạnh sự độc lập về tư tưởng của các nhân vật trí thức Hiện nay, các nhà tiểu thuyết Việt Nam xem sự độc lập về tư tưởng là một trong những tiêu chí quan trọng bậc nhất để nhận diện họ có phải là trí thức hay không. Theo đó, các tiểu thuyết rất chú ý dựng lên những "diễn đàn tư tưởng" để các nhân vật trí thức bộc lộ mình. Diễn đàn đó có thể là diễn đàn tưởng tượng do họ tạo ra để thể hiện những bức bối nội tâm, cũng có thể là những cuộc tranh luận thực tế giữa những người có quan điểm trái chiều. Không có gì ngạc nhiên khi các nhà tiểu thuyết rất chú ý xây dựng các nhân vật trí thức là người viết văn. Với đặc thù của người viết văn, nhân vật của họ thường đắm mình trong những suy tư không dứt về cuộc sống. Nguyễn Xuân Khánh là một trong những nhà tiểu thuyết theo đuổi quan niệm người trí thức cần có sự độc lập về tư tưởng. Từ rất sớm, Nguyễn Xuân Khánh đã trăn trở về sự hiện diện và vai trò của người trí thức trong xã hội. Nhà văn càng quan tâm hơn đến phẩm tính của người trí thức. Nhân vật chính của Miền hoang tưởng có xuất thân không phải là trí thức nhưng khi nào cũng nghĩ về trí thức, luôn có nỗi ưu tư của người trí thức. Đây phải chăng cũng là hình bóng của tác giả? Cho dù là xây dựng nhân vật vô tình hay cố ý, thì cuối cùng, vấn đề của Tư vẫn là vấn đề của người trí thức. Trong Gặp gỡ cuối năm, Nguyễn Khải đã để cho các nhân vật của mình thẳng thắn bày tỏ quan điểm, tư tưởng về các vấn đề của đất nước sau chiến tranh. Nguyễn Khải muốn thông qua những phát ngôn của nhân vật để khẳng định mong muốn được làm một người trí thức có tư tưởng tự do, để có thể cống hiến hữu ích cho xã hội. Nhà văn đã chọn thời điểm chuyển giao cũ mới để làm điểm tựa cho việc đề xuất không gian tự do cho người trí thức. Liên quan đến điểm nêu trên, người trí thức, theo quan niệm của các nhà tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 là người không chịu thoả hiệp với thực tại, luôn đề xướng và tin theo bảng giá trị mới mà họ đề xuất. Họ có thể thất bại nhưng tinh thần không thoả hiệp của họ luôn được khẳng định. 2.3.3. Đề cao tinh thần dấn thân của người trí thức Các nhà văn đương đại coi trọng tinh thần dấn thân của người trí thức. Bản thân hoạt động của họ, phát ngôn, bài viết, công trình nghiên cứu hay tác phẩm của họ đã là kết quả của một quá trình hành động có ý thức đầy đủ về sự nỗ lực can dự vào đời sống xã hội. Cho dù mục tiêu cuối cùng là gì thì tinh thần dấn thân của người trí thức được
- 12 khắp thế giới, Đông cũng như Tây, coi trọng. Một loạt nhân vật trí thức trong văn học Việt Nam không ngừng trăn trở và mang khát vọng cống hiến rất mạnh mẽ. Những Trọng, Luận, Tự, Khiêm của Ma Văn Kháng; Giang Minh Sài trong Thời xa vắng của Lê Lựu, nhân vật Tư trong Miền hoang tưởng của Nguyễn Xuân Khánh, Kiên trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Việt hay Quân trong Gặp gỡ cuối năm của Nguyễn Khải; đặc biệt là các nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh như Hồ Quý Ly, Trần Nguyên Hãn, Hồ Nguyên Trừng, Nguyễn Trãi; hay các nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Thế Quang như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát, Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp,… đều thiết tha được sống một cuộc đời có ích. Càng về sau, với sự nhận thức sâu sắc hơn về sứ mệnh người trí thức, quan niệm về trí thức ở những người cầm bút có nhiều thay đổi. Lúc này, nhiều nhà văn đã gắng thâm nhập vào những mâu thuẫn triền miên trong người trí thức để thấy rằng, ở họ, tâm thế không thỏa mãn, không hài lòng với những gì đã có là luôn thường trực. Thế nhưng, đã là trí thức chân chính, ai cũng sẽ muốn dấn thân, hướng tới xây dựng một một xã hội tốt đẹp hơn, nhân văn hơn. Thể hiện được những vấn đề này chứng tỏ phẩm tính trí thức của nhà văn cũng bộc lộ. 2.3.4. Chú ý xây dựng những nhân vật trí thức tha hoá Việc xây dựng những nhân vật trí thức tha hóa là biểu hiện rõ rệt của những mâu thuẫn trong đời sống và trong cả bản thân người trí thức, giới trí thức. Khi viết về người trí thức, tiểu thuyết Việt Nam đương đại đã từng bước thoát ra khỏi cách thể hiện đơn giản, một chiều, ngày càng thể hiện chân thực hơn, gần với hiện thực nhiều hơn. Ba mươi năm trước năm 1975, phần đông văn nghệ sĩ Việt Nam đã cầm bút trong tinh thần chiến đấu vì độc lập tự do cho dân tộc. Nhiệm vụ lịch sử này khiến văn học trong khoảng thời gian ấy tập trung cho mục tiêu chính trị. Ở góc độ lịch sử, các nhà văn đã hoàn thành nhiệm vụ, nhưng ở góc độ văn chương, thì chưa hẳn. Do quá tập trung vào mục tiêu chính trị, các cây bút trong giai đoạn này né tránh đề cập đến mặt trái của con người, của đời sống xã hội. Và văn học từ sau 1975 đã phải "làm lại" để khắc phục tình trạng minh họa một chiều có trong các tác phẩm trước đó. Những nhân vật người trí thức dị hình, méo mó là một trong những biểu hiện của nỗ lực "khắc phục" ở những người cầm bút. Thật ra, việc nhà văn vạch rõ những bất cập trong đời sống xã hội là vấn đề không mới. Thời 1930 - 1945, sáng tác của nhiều nhà văn hiện thực như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyên Hồng,... và của một số nhà văn trong nhóm Tự lực văn đoàn đã chú ý thể hiện vấn đề này. Song, ba mươi năm kế tiếp chúng ta đã để gián đoạn. Phải từ sau 1975, đặc biệt là từ 1986, điều này mới được các nhà văn "đặt lên bàn nghị sự". Ngoài những nhà văn chúng ta đã có dịp nhắc đến như Nguyễn Khải, Nguyễn Xuân Khánh, Lê Lựu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình Phương, những nhà văn như Chu Lai, Tạ Duy Anh, Nguyễn Quang Thân, Nguyễn Thế Quang... cũng có những tác phẩm mang tinh thần đấu tranh với những mặt trái, những mâu thuẫn của xã hội rất rõ. Không những thể hiện mặt trái của xã hội, các nhà văn còn nói tiếng nói bên trong bản thân mình, tiếng nói của người trong cuộc, để thể hiện những yếu hèn của chính mình, của giới mình, của những người trí thức hiện đại. Qua việc này, dường như các nhà văn muốn vạch ra lằn ranh giữa trí thức chân chính và trí thức giả hiệu và cho rằng phẩm tính trí thức là cái phải được gìn giữ cẩn trọng, vì nó có thể tiêu mòn nếu người trí thức thoả hiệp với cuộc sống đầy rẫy những điều tiêu cực.
- 13 Chương 3 VẤN ĐỀ NGƯỜI TRÍ THỨC NHÌN TỪ ĐẶC ĐIỂM NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1975 3.1. Đặc điểm quan niệm và tư tưởng của nhân vật trí thức 3.1.1. Giới thuyết về nhân vật và nhân vật tư tưởng trong tác phẩm văn học Trong tác phẩm văn học, nhân vật là hình thức cơ bản để qua đó nhà văn phản ánh thế giới một cách hình tượng. Theo những tiêu chí khác nhau người ta có thể chia nhân vật văn học thành nhiều loại khác nhau. Nếu dựa vào cấu trúc hình tượng, nhân vật được chia thành: nhân vật chức năng (hay mặt nạ), nhân vật loại hình, nhân vật tính cách và nhân vật tư tưởng. Nhân vật tư tưởng là loại nhân vật “tập trung thể hiện một tư tưởng, một ý thức tồn tại trong đời sống tinh thần của xã hội”. Việc xác định được nhân vật tư tưởng trong mỗi tác phẩm là rất quan trọng. Qua nhân vật tư tưởng, chúng ta có thể hiểu được quan niệm, tư tưởng của tác giả về con người, hiểu được ý thức, suy nghĩ cũng như những băn khoăn trăn trở của tác giả về cuộc đời và xã hội. Trong mỗi cuốn tiểu thuyết viết về người trí thức thường xuất hiện một thế giới nhân vật đông đảo, nhưng nhà văn luôn chú trọng xây dựng nhân vật trung tâm của tác phẩm. Và thông thường, nhân vật này đảm nhận vai trò là nhân vật tư tưởng. Để khắc họa nhân vật tư tưởng, nhà văn đã để cho nhân vật phát biểu các luận đề then chốt. Khi nhân vật bộc lộ trực tiếp tư tưởng của mình qua những phát biểu này thì đồng thời qua đó chúng ta có thể nhận ra những vấn đề mà nhà văn đặt ra trong mỗi tác phẩm nói riêng và trong sự nghiệp sáng tác của mình nói chung. Việc phát biểu các luận đề về người trí thức có khi do chính nhân vật tư tưởng, nhân vật trung tâm, có khi do những nhân vật phụ hoặc người dẫn truyện thực hiện. 3.1.2. Hoạt động tự nhận thức của các nhân vật trí thức trong tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1975 Hoạt động tự nhận thức của nhân vật trí thức trong tiểu thuyết sau 1975 diễn ra không đơn giản, thuận chiều. Trước hết là vì người trí thức dù có nhiều phẩm chất cao đẹp nhưng họ cũng là những con người. Mà đã là con người thì đều mong được sống ấm no, không đói nghèo, khổ cực, là mong được sống hạnh phúc - cuộc sống không khổ đau, bất hạnh. Vì thế, con người rất dễ ngã lòng, sa chân trước những cám dỗ trong cuộc đời. Trong bối cảnh vai trò, vị trí của người trí thức chưa thực sự được coi trọng, việc sống thế nào luôn là một lựa chọn khó khăn. Nhưng đã là người trí thức hoặc nếu là người trí thức thì anh phải có những nỗ lực và gắng gỏi để vượt lên hoàn cảnh. Trong người trí thức luôn diễn ra cuộc đấu tranh tư tưởng để nhận diện những giá trị trong cuộc đời. Từ đó mới có thể có được một đường hướng phù hợp cho chính mình. Trí tuệ minh mẫn của họ có thể giúp họ có được những nhận biết và hành động đúng đắn, sáng suốt. Khi người trí thức nhận ra mình đã có những “lầm lẫn không thể tha thứ được”, họ đã “hiểu mặt này mà lại không hiểu mặt khác của cuộc đời”, thì họ vẫn “mong mỏi một sự hòa đồng”. Biểu hiện của hoạt động tự nhận thức ở nhân vật người trí thức trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 khá đa dạng, phong phú. Sâu trong tư tưởng của nhân vật người trí thức luôn tồn tại những hoài nghi về mọi vấn đề. Đó cũng là đặc điểm phức tạp và thú vị ở người trí thức. Họ chưa bao giờ bằng lòng với bản thân và với thế giới xung quanh. Trước mọi biến cố, hay chỉ đơn giản là những biểu hiện nhỏ nhặt của đời thường, họ vẫn không ngừng suy nghĩ, thậm chí, không ngừng hoài nghi.
- 14 3.1.3. Sự đồng điệu giữa tác giả và nhân vật trí thức Nhân vật là đứa con tinh thần của nhà văn, là nơi gửi gắm quan điểm, tư tưởng của nhà văn về con người, cuộc đời, thời cuộc. Vì vậy, giữa nhân vật và tác giả có sự đồng điệu về tư tưởng, thậm chí, nhân vật có khi trở thành cái loa phát ngôn cho tư tưởng của nhà văn cũng là điều dễ hiểu. Từ những hoài nghi, những ưu tư không ngừng, khi cầm bút, các nhà văn đã thể hiện những điều ám ảnh trong mình. Khi muốn thể hiện những điều trăn trở, tâm huyết, nhiều tác giả lựa chọn nguyên tắc "lấy xưa nói nay", mượn các câu chuyện lịch sử để kí thác những tâm tư của mình. Hẳn nhiên là nhà văn có lý do của mình. Chí ít thì điều này giúp họ có thể bày tỏ được nhiều hơn những điều ấp ủ khó nói, đồng thời cũng giúp họ tránh bớt những phiền hà do tác động mà nhân vật có thể gây ra, cũng là một cách giữ cho ngòi bút của mình được an toàn để tiếp tục sáng tạo nghệ thuật. Bằng cánh này, nhà văn đã tạo nên những nhân vật có khả năng đồng điệu nhất với mình, cho dù theo nguyên lý văn chương, nhân vật hoàn toàn có khả năng đứng độc lập ngoài nhà văn. Sự đồng điệu giữa tác giả và nhân vật trí thức còn thể hiện trong hoạt động tự nhận thức của các nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1975. Quá trình tự nhận thức của nhân vật là biểu hiện cho hành trình trải nghiệm, chiêm nghiệm, thể nghiệm và kí gửi những điều mà tác giả trăn trở. 3.2. Đặc điểm lối sống và thân phận của nhân vật trí thức 3.2.1. Sự vật lộn với những bi kịch đời sống Có thể thấy, số phận của người trí thức trong văn học thường gắn liền với hai chữ bi kịch. Người trí thức có học vấn, có hiểu biết sâu rộng, có tư duy độc lập, có khát vọng dấn thân. Khi xã hội yên bình, thịnh vượng, nhân tài được trọng dụng, tài năng của người trí thức được phát huy, cống hiến của họ được thừa nhận. Khi xã hội có những bất ổn, giá trị của họ bị hạ thấp, họ không có cơ hội được thực hiện hoài bão, họ bị phủ nhận, bị cản trở, lâm vào những tình huống nghịch cảnh… Các nhà văn sau 1975 đã lý giải nguyên nhân bi kịch của người trí thức, từ đó đặt vấn đề về cách ứng xử của người trí thức trước các biến động của thời thế, vấn đề sử dụng, trọng dụng người trí thức. Từ bi kịch đời sống, người trí thức vật lộn để sinh tồn và cống hiến. Có nhiều khi, người ta không phân biệt ranh giới của bi kịch đời sống và cá nhân nữa, bởi vì dường như ở đây có một mối liên hệ chặt chẽ. Một trong những lý do dẫn đến bi kịch của người trí thức là do đời sống thực tế quá khó khăn. Bi kịch là nỗi đau về tinh thần nhưng khi đứng trước thách thức của miếng cơm manh áo thì người trí thức không dễ bàng quang được. Văn học Việt Nam từ sau 1975 cũng đề cập đến thực tế đầy thử thách đối với những người trí thức trong hoàn cảnh chiến tranh. Mỗi một đối tượng trong xã hội có những sở trường nhất định. Thế mạnh của người trí thức không bao giờ là việc cầm súng. Nhưng vận nước đang cần, họ vẫn hòa vào cuộc kháng chiến, chiến đấu trên nhiều mặt trận. Chiến tranh đã lấy đi cơ hội họ được đóng góp sức mình trong công cuộc hiện đại hóa đất nước ở nhiều phương diện. Chiến tranh cũng lấy đi của đất nước nhiều bậc hiền tài. Chiến tranh kết thúc, dù có lỡ nhịp, dù đã có những bi kịch, nhưng người trí thức vẫn bước đi với bao dự định tâm huyết. Ba mươi năm đủ để thế hệ trí thức đầu tiên bước qua thời tuổi trẻ, ở độ tuổi ấy người ta thường bước tiếp chứ không mấy khi bắt đầu. Tuy nhiên, một khi bước sang một không gian xã hội khác, nhiều thứ sẽ không còn như cũ. Trong khi có người vẫn còn sống với rất nhiều ký ức, có những người đã thay đổi. Trong khi nền tảng xã hội mới chưa kịp định hình, nhiều thói quen mới đã
- 15 xuất hiện. Tính thống nhất bắt đầu dịch chuyển. Trong cuộc vật lộn với thực tại, cũng có người có thể vượt qua để tiếp tục khẳng định sự tồn tại của mình, nhưng cũng có nhiều trí thức trở nên lạc lõng trước tình thế mới. 3.2.2. Lối sống lạc điệu và lối sống thích nghi Trong tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1975, một số tác phẩm bắt đầu đề cập đến người trí thức từ góc nhìn của thời đại mới. Trước sự lựa chọn giữa lối sống theo cách của mình hay lối sống thích nghi, theo xu thế, vấn đề đặt ra là người trí thức sẽ lựa chọn lối sống nào? Khi người trí thức lựa chọn đi ngược lại với số đông, sống theo cách của mình thường dễ rơi vào tình thế "lạc điệu, dễ rơi vào bi kịch. Vì thế, người trí thức cần phải có sự dũng cảm, dám dấn thân. Trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly, Nguyễn Xuân Khánh đã xây dựng nhân vật Hồ Quý Ly với khát vọng canh tân đất nước. Muốn canh tân thì phải đi con đường riêng, thậm chí là ngược chiều với số đông còn lại. Những người tiên phong chịu nhiều nhọc nhằn và thiệt thòi, phải hứng chịu búa rìu của dư luận, thậm chí bị cản phá quyết liệt. Khát vọng là chính đáng nhưng số phận Hồ Quý Ly không tránh được bi kịch của người mở đường. Cũng như trong Hội thề của Nguyễn Quang Thân, những người tinh thông mọi việc, am hiểu chữ nghĩa" luôn trăn trở con đường hòa bình bằng "giải giáp nhân nghĩa", để rồi "mấy chục năm sau bùng lên thành bão táp, tạo nên bi kịch oan khuất mà Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo phải gánh chịu". Một khía cạnh khác của lối sống lạc điệu ấy là khi người trí thức không thể thích nghi với thực tại, nhưng cũng không dám bơi ngược dòng. Điệu sống ấy được Nguyễn Khải gọi tên là lạc thời. Thời xa vắng của Lê Lựu xuất bản lần đầu tiên năm 1984 khiến nhiều người ngỡ ngàng. Thực tế, người ta rất ít khi đối mặt với một câu chuyện thật đến trần trụi, dù chuyện ấy có thể có khắp nơi. Nhân vật Giang Minh Sài mang hình hài của người trí thức thời kỳ này. Sau hai mươi năm quân ngũ, Sài trở về với cuộc sống đời thường, áp lực cơm áo bủa vây khiến Sài luôn phải sống trong tình thế phải gắng gượng, bất lực, im lặng, âm thầm đau đớn. Lối sống lạc điệu cũng được tiểu thuyết Hồ Anh Thái thể hiện qua những bức chân dung trí thức kiểu ú ớ, ngô nghê, điên khùng, ngơ ngẩn, mù quáng. Khi muốn thay đổi mà không thể được, hoặc cũng có thể là vì người ta muốn lựa chọn một cách tồn tại dễ dàng hơn, thích nghi với hoàn cảnh là cách mà nhiều người lựa chọn. Chọn lối sống thích nghi là chiều theo hoàn cảnh, sống linh hoạt như bao người xung quanh để né đi những bi kịch nặng nề. Cách sống này dễ khiến người trí thức đánh mất mình, thậm chí trở thành một bộ phận "biến thể" của giới trí thức. Trước sự lựa chọn giữa lối sống lạc điệu và lối sống thích nghi, có nhiều người chọn dung hòa hai lối sống này. Sự lựa chọn này giúp họ phần nào giữ được sự an toàn, yên ổn nhưng cũng khiến họ trở nên nhạt nhòa. 3.2.3. Trạng thái dằn vặt thường trực Đứng trước những lựa chọn khó khăn trong đời sống, người trí thức không khỏi rơi vào dằn vặt. Nỗi dằn vặt của người trí thức xuất phát từ nhiều nguyên do và cũng có nhiều biểu hiện khác nhau. Người trí thức thường có khả năng tự ý thức rất rõ. Vì thế, khi soi chiếu vào chính mình, họ có thể dằn vặt bởi khát vọng thì lớn lao mà năng lực thì hạn chế. Họ cũng bị dằn vặt vì ước mơ của mình bị cản trở, lâm vào tình cảnh bị vô hiệu hóa, vì bị đẩy vào mặc cảm lép vế. Cũng có khi, người trí thức tự dằn vặt khi bản thân có đủ nhận thức sâu sắc về sứ mệnh và cuộc đời nhưng lại không có đủ dũng khí
- 16 thực hiện khát vọng, chống lại bất công. Họ dằn vặt với cả những thôi thúc từ cuộc sống đời thường… Có thể nói, tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1975 đã quan tâm đến nội tâm của người trí thức trong cuộc vật lộn với chính bản thân mình. Những điều này văn học trước đó thể hiện chưa rõ, chưa đủ để tạo nên ấn tượng sâu đậm như sau này. Sau 1975, nhiều tác phẩm thể hiện nỗi dằn vặt của người trí thức khi phải sống chật vật, thiếu thốn của thời kì bao cấp. Càng về sau, tiểu thuyết ít bàn đến sự thiếu đói của người trí thức hơn. Với người trí thức hôm nay, nỗi dằn vặt thường xoay quanh nỗi băn khoăn về vai trò, vị thế và ý nghĩa sự tồn tại của mình trong đời sống xã hội. Khi đối mặt với thực tế, nhất là tình trạng bị vô hiệu hóa, những người trí thức coi trọng phẩm cách, trí tuệ, sự dấn thân và khao khát cống hiến đã rơi vào dằn vặt, day dứt. Sự dằn vặt của người trí thức bắt đầu từ chỗ họ nhận ra “Một tư tưởng khởi nguyên có thể nó rất đẹp”, “một ý tưởng khởi đầu có thể là đầy cảm hứng nhân văn”, nhưng “ý muốn áp đặt ý nguyện đó”, “bó buộc mọi người phải tuân phục ý nguyện đó, lại là hành vi thiếu hẳn sự tôn trọng con người”. Họ dằn vặt vì bị xúc phạm, sỉ nhục. Bản thân những người trí thức, dường như thời kỳ nào cũng vậy, luôn sống trong trạng thái đối lập với thế giới bên ngoài, đối lập cả với chính mình. Khát vọng trong họ đối lập với cuộc sống của họ. Khi không thoát ra được sự mâu thuẫn này, người trí thức rơi vào mặc cảm. Mặc cảm đã thành nỗi dằn vặt thường trực trong một bộ phận của giới trí thức. Và trước hết là vì sự bất lực của mình. Mặc cảm ấy càng tăng lên khi họ nhận ra, sau rất nhiều nỗ lực, họ vẫn cứ bị lép vế trong đời sống xã hội. Điều khiến nhiều nhà văn không khỏi băn khoăn là, thân phận lép vế của người trí thức là một tình trạng chưa được cải thiện, ngay cả khi lịch sử đã có những bước ngoặt lớn. Nỗi dằn vặt của người trí thức là biểu hiện của lòng tự trọng, tự tôn, của những niềm khao khát vẫn còn hiện hữu trong họ. Còn dằn vặt, đau đớn là vẫn còn lương tri. Nhiều nhà văn Việt Nam vẫn đầy can đảm khi nhận ra “người ta cần biết khổ, cần nhìn nhận rõ ràng cái khổ, để tìm cách mà diệt khổ”. Có thể thấy, sự hiện diện và cả số phận của người trí thức trong tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1975 tác động đến sự vận động trong nhận thức của độc giả, giúp người ta dịch đến gần hơn cái thiện, cái mỹ của văn chương và cuộc đời. 3.3. Đặc điểm hành động, ứng xử của nhân vật trí thức 3.3.1. Nhìn chung về hoạt động đặc thù của người trí thức Một trong những biểu hiện có tính đặc thù của người trí thức là tinh thần phản biện. Hiểu biết, phẩm cách, đóng góp của người trí thức thể hiện qua những phát ngôn hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp. Nguyễn Minh Châu trong tiểu luận Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ đã đặt ra vấn đề: “Chẳng lẽ mãi mãi thế hệ nhà văn chúng ta vẫn cứ yên tâm sản xuất ra toàn những sản vật không bao giờ được ngó đến trong nền văn học thế giới. Chẳng lẽ Việt Nam ngày nay chỉ hưởng của thiên hạ mà không làm ra được cái gì góp vào của chung thiên hạ”. Tâm tư của Nguyễn Minh Châu từ năm 1987 đã gọi dậy sự tự trọng của giới trí thức. Người trí thức có nhu cầu được nói, ngược lại, xã hội văn minh cũng cần tiếng nói của họ. Đây là hành động, là hoạt động đặc thù của người trí thức. Sự phản biện sắc sảo của họ có thể khiến ai đó khó chịu hay thậm chí là tức giận, nhưng điều tồi tệ hơn nhiều sẽ xảy ra nếu tiếng nói của họ bị hạn chế hay bị vô hiệu hoá. Người trí thức không được tự do ngôn luận thì không khẳng định được sự tồn tại có ý nghĩa của mình. Người trí thức không được tự do ngôn luận sẽ là một thiệt thòi cho xã hội.
- 17 Không có tự do ngôn luận thì sai lầm không bị phát hiện, công khai, thì xã hội không có sự minh bạch, thì cái xấu xa vẫn lũng loạn hủy hoại môi trường sống; cái đẹp, cái thiện không được tôn vinh, không trở thành tấm gương để người nào tốt, người nào xấu có dịp soi mình vào trong đó, để rút kinh nghiệm, để được khích lệ, để trở nên tốt đẹp hơn, tỉnh táo hơn, mạnh mẽ hơn... Nhìn tổng thể, hoạt động đặc thù nhất của người trí thức chính là sáng tạo ra các sản phẩm tinh thần, can dự thượng tầng kiến trúc của đời sống. Các sản phẩm ấy mang giá trị định hướng cho sự phát triển chung của xã hội. Và do sự phong phú trong các hoạt động nghề nghiệp, đóng góp của giới trí thức cũng đa dạng. Đó có thể là sản phẩm của các nhà khoa học, giới văn nghệ sĩ, các nhà văn hóa hay thậm chí là các chính khách… Những hoạt động đặc thù của người trí thức đã tạo nên những sản phẩm có giá trị, không chỉ cho ta nhận thức về sự việc mà còn lý giải căn nguyên của những sự việc đó. Nói cách khác, nhà văn không phải chỉ phản ánh hiện thực mà còn nghiền ngẫm về hiện thực. Bằng cách ấy, những nhà văn - trí thức có thể bày tỏ những quan niệm và tư tưởng của mình giúp độc giả có được những nhận thức sáng suốt, tỉnh táo về mình, về người, về thế giới xung quanh; cũng là tham gia kiến tạo nên nền văn hóa, văn minh của mỗi một dân tộc. Con người mà tốt đẹp hơn thì tất yếu xã hội cũng tốt đẹp hơn. 3.3.2. Việc bảo vệ những giá trị tinh thần cốt lõi khi thực hiện các lựa chọn Từ rất sớm, Nguyễn Khải đã phát hiện ra: “Một trong những điều đặc biệt mới mẻ làm nên sự hấp dẫn của nhân vật trí thức trong tiểu thuyết... là người trí thức không bao giờ ngừng vận động, ngừng lựa chọn”. Nhưng điều đáng nhấn mạnh là mọi sự lựa chọn ở họ đều được thực hiện một cách có nguyên tắc trên cơ sở đề cao phẩm tính trí thức, đề cao những giá trị tinh thần cốt lõi. Thật ra, người trí thức không dễ dàng để theo đuổi và giữ được các nguyên tắc của mình. Bởi vì như đã nói, họ luôn phải đối diện với những rào cản. Nhiều khi các tác giả đã đặt nhân vật trí thức của mình bên cạnh những nhân vật khác để làm phép đối sánh, từ đó, làm nổi bật những băn khoăn của họ. Nguyễn Xuân Khánh là một trong những tác giả kiên trì theo đuổi những nguyên tắc của mình trong sáng tạo nghệ thuật. Với nhà văn, phẩm tính không thể thiếu của người trí thức là sự tự do về tư tưởng và hành động. Người trí thức phải trăn trở, ưu tư không ngừng, phải luôn nỗ lực để thoát ra khỏi những rào cản vây bọc sự tự do. Đã là nhà văn thì phải "tìm lối", như con chim đang "tìm âm sắc cho giọng hót của mình". Người nhạc sĩ khi viết Trương Chi thì phải là ''hiện thân của cái đẹp siêu việt, cái đẹp thực xù xì đau đớn có đủ màu sắc trắng, đen, đỏ, xám... Cái đẹp tuyệt vời ấy người tục khó lòng nhận ra". Một người thầy cần phải ''thức dậy trong lòng mình sự sôi nổi", phải cố gắng thoát ra cảnh "ngồi im", "không bao giờ dám đẻ ra trên giấy một một cái gì". Muốn vậy, họ phải tự thoát ra không gian cũ kỹ của mình bằng sự nhận thức đầy đủ, sâu sắc về không gian mà mình đang sống, cho dù có đau đớn đến mấy. Theo Nguyễn Xuân Khánh, người trí thức là phải thật kiên trì và bản lĩnh, "Mặc cho ai nghĩ về mình thế nào cũng được. Điều chắc chắn là những ý nghĩ ấy cũng không thể làm thay đổi mình đi. Có người khinh mình, có người khinh mình, có người yêu mình, có người phục mình, thậm chí có người nể mình. Mình là người ở ngoài lề cuộc sống nên những đánh giá ấy hầu như là những ngộ nhận, vì thực ra có ai hiểu mình đâu". Hành trình ấy Nguyễn Khải từng gọi tên là "Đi tìm cái tôi đã mất", Nguyễn Xuân Khánh gọi là "Đi tìm nhân dạng"...
- 18 Bởi vì đối với một nhà văn - trí thức, "Điều quan trọng là phải gìn giữ sao cho mình vẫn là mình". Đây cũng là nguyên tắc, là nền tảng cho mọi hành động và ứng xử của người trí thức vậy. 3.3.3. Những nỗ lực chiến thắng bản thân Trong nhiều hoàn cảnh, người trí thức vẫn luôn có cơ hội để lựa chọn. Hoặc họ chạy theo, hùa theo số đông, tận tụy với yêu cầu của những kẻ quyền thế, rồi để mặc mọi chuyện ra sao thì ra. Hoặc là hành động theo yêu cầu của lương tâm, trách nhiệm, chịu trách nhiệm đến cùng với những gì mình đã làm, bất chấp mọi trù dập, ngăn cản. Hoặc họ lặng thinh, kệ cho mọi sự diễn ra. Có lẽ đó không chỉ là một cuộc vật lộn, đấu tranh trước cái cám dỗ, dục vọng mà còn là một sự tranh chấp quyết liệt giữa những mong muốn khác biệt, đối nghịch nhau. Nhiều người trong chúng ta mong muốn có được một cuộc sống bình yên, nhưng cái bình yên của người trí thức không đồng nghĩa với sự chấp nhận chịu nhún mình, nói và làm theo những khuôn mẫu, theo những thước đo của thời thế. Dù thế nào, người trí thức vẫn không đánh mất sự trung tín, vẫn coi thường sự tráo trở, vẫn tiếp tục yêu thương, và cầm bút. Trong tận thẳm sâu cõi lòng họ không muốn chấp nhận thay đổi nếu đó cũng là một sự phản bội. Bởi vì “sự phản bội trước hết cũng là sự tự phản bội”. Và như thế tức là chấp nhận sự đối đầu: “Nghĩa là, hỡi cuộc sống kia, ta chấp mi hết thẩy đó! Ừ thì mi cứ tráo trở, lọc lừa đi! Ừ thì mi cứ vu oan giá họa! Ừ thì mi cứ tàn bạo, đểu giả. Ừ thì mi cứ việc giở đủ các thói đê hèn, bỉ tiện đi. Ta chấp nhận cuộc đối mặt với tất cả bọn mi. Và đời sống tinh thần tư tưởng ta, nhờ sự đối mặt này mà trở nên giầu có vô cùng. Tâm hồn, đời sống bên trong của con người, nghĩ cho cùng, là thứ của cải giá trị nhất. Nó là dấn vốn cố định. Nó không mất đi, không hao hụt. Nó ngày càng được cộng thêm. Cộng thêm, kể cả những đớn đau, khổ ải của đời người; cộng thêm, gia tăng thêm để cái gia tài tinh thần quý giá của anh ngày càng một đầy đặn thêm lên”. Đây là cuộc đối đầu giữa cái cụ thể hữu hình của hiện thực đời sống với cái vô hình của tinh thần, tư tưởng, tâm hồn và nhân cách, bản lĩnh của người trí thức. Đây là một cuộc ngược dòng đầy ngoạn mục với hy vọng chiến thắng sau cùng đã thuộc về người trí thức. Thực tế, chiến thắng bản thân chưa bao giờ là việc dễ dàng, càng về sau, các tác phẩm viết về người trí thức càng thể hiện rõ hơn nỗi dằn vặt của người trí thức khi đứng trước những thách thức của cuộc đời. Thách thức ấy có thể đến từ một thế lực vô hình hoặc hữu hình nào đó, cản trở họ thực hiện những khát vọng của mình; cũng có thể là những dục vọng vốn rất đời rất người đã cám dỗ họ. Trong tiểu thuyết Cơ hội của Chúa, Nguyễn Việt Hà đã nhìn thấy người trí thức bị kẹt giữa những điều mình muốn xây dựng và hướng đến với những điều ràng buộc, kìm giữ người trí thức bộc lộ bản thân mình. Muốn chiến thắng bản thân, người trí thức cần có những nhận thức sâu sắc về giá trị bản thân và dứt khoát đeo đuổi những lựa chọn của mình. Trong Miền hoang tưởng, nhân vật Tư của Nguyễn Xuân Khánh đã vật vã trong nỗi dằn vặt, dày vò giữa tình thân, tình yêu, tình bạn. Không chịu được cảm giác phiền lụy, Tư chấp nhận ra tá túc ở nhà ga, bán máu để cầm cự sống qua ngày. Đó là cách anh giữ lấy sự tự tôn của chính mình.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: An ninh tài chính cho thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
25 p | 312 | 51
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 187 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Thúc đẩy tăng trưởng bền vững về kinh tế ở vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030
27 p | 212 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 279 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 272 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 156 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 223 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 183 | 9
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 61 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 151 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 207 | 8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 185 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 137 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
28 p | 21 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 124 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học và khả năng di chuyển của tôm càng xanh (M. rosenbergii) áp dụng cho đường di cư qua đập Phước Hòa
27 p | 9 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p | 28 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 173 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn