ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



NGUYỄN VĂN TRUNG

BÁO CHÍ VỚI VẤN ĐỀ TÔN GIÁO TRÊN

ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH PHÚC

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC

HÀ NỘI - 2019

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



NGUYỄN VĂN TRUNG

BÁO CHÍ VỚI VẤN ĐỀ TÔN GIÁO TRÊN

ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH PHÚC

Chuyên ngành: Báo chí học

Mã số : 60 32 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC

CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG

PGS.TS. Dƣơng Xuân Sơn Phạm Văn Linh

HÀ NỘI - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Luận văn này là công trình nghiên cứu độc lập của tác giả dưới sự hướng dẫn

của PGS.TS. Dương Xuân Sơn. Đề tài luận văn không trùng lặp với bất kỳ công

trình nghiên cứu nào đã công bố trong và ngoài nước.

Các số liệu, thông tin trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, tin cậy và được

trích dẫn theo quy định về khoa học. Các kết quả nghiên cứu của luận văn

chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nghiên cứu nào.

Tác giả là người duy nhất chịu hoàn toàn trách nhiệm về nội dung của

luận văn!

Tác giả luận văn

Nguyễn Văn Trung

LỜI CẢM ƠN

Luận văn này được hoàn thành, trước hết, bằng sự nỗ lực và nghiêm túc

trong nghiên cứu của tác giả, nhưng không thể không kể đến sự giúp đỡ,

hướng dẫn nhiệt tình, trách nhiệm của rất nhiều người. Những sự giúp đỡ và

hướng dẫn đó giúp tác giả hoàn thành được luận văn đúng tiến độ và đóng

góp vào hoạt động nghiên cứu chung về báo chí với vấn đề tôn giáo. Tác giả

xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và trân trọng tới:

Các thầy, cô giáo Viện Đào tạo Báo chí và Truyền thông (Trường ĐH

Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc gia Hà Nội) đã hướng dẫn, chỉ bảo

và cung cấp kiến thức để bản thân nâng cao trình độ nghiệp vụ về báo chí,

nhất là báo in và báo phát thanh, truyền hình trong suốt thời gian qua.

Đặc biệt, xin được chân thành cảm ơn PGS,TS. Dương Xuân Sơn - người

đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tác giả hoàn thành luận văn này!

Trong khuôn khổ một luận văn, do sự giới hạn về thời gian và kinh

nghiệm nên không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tác giả rất mong nhận

được những ý kiến đóng góp quý báu của thầy, cô giáo, các nhà nghiên cứu

và các bạn!

Tác giả luận văn

Nguyễn Văn Trung

CHỮ VIẾT TẮT

BCHTW: Ban Chấp hành Trung ương

BBTTW: Ban Bí thư Trung ương

BTG: Ban Tôn giáo

CBCC: Cán bộ, công chức

CNH: Công nghiệp hóa

CTQG: Chính trị Quốc gia

CT-HC: Chính trị - Hành chính

CTTG: Công tác tôn giáo

GHPG: Giáo hội Phật giáo

GHPGVN: Giáo hội Phật giáo Việt Nam

HĐH: Hiện đại hóa

HĐND: Hội đồng nhân dân

KHXH: Khoa học xã hội

LLCT: Lý luận chính trị

MTTQ: Mặt trận Tổ quốc

MTTQVN: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

Nxb: Nhà xuất bản

PGVN: Phật giáo Việt Nam

QLNN: Quản lý nhà nước

TTCP: Thủ tướng Chính phủ

TTGM: Tòa Tổng giám mục

UBND: Ủy ban nhân dân

UBĐKCG: Ủy ban Đoàn kết Công giáo

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3

1. Lý do chọn đề tài: .......................................................................................... 3

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 5

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 12

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 13

5. Phương pháp nghiên cứu. ............................................................................ 13

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn: ....................................................................... 14

7. Kết cấu luận văn .......................................................................................... 14

CHƢƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÔN GIÁO VÀ VAI TRÒ CỦA

BÁO CHÍ ........................................................................................................ 15

1.1. Giải thích thuật ngữ có liên quan đến đề tài ....................................... 15

1.1.1. Các thuật ngữ về tôn giáo ..................................................................... 15

1.1.2. Các khái niệm về báo chí ...................................................................... 17

1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về vấn đề tự do tôn giáo ............. 21

1.3. Những đặc điểm cơ bản về tình hình tôn giáo ở Việt Nam nói chung

và tỉnh Vĩnh Phúc .......................................................................................... 27

1.3.1. Đặc điểm cơ bản về tình hình tôn giáo ở Việt Nam .............................. 27

1.3.2. Tình hình tôn giáo trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc ................................... 31

1.4. Vai trò của báo chí trong việc thông tin tuyên truyền về tôn giáo và

tự do tín ngƣỡng ............................................................................................ 35

1.4.1. Tuyên truyền về đường lối, chính sách pháp luật về tôn giáo ............. 35

1.4.2. Đấu tranh chống các quan điểm sai trái trong hoạt động tôn giáo và tự

do tín ngưỡng .................................................................................................. 39

Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 40

CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TÔN GIÁO TỈNH VĨNH PHÚC

TRÊN BÁO CHÍ ........................................................................................... 42

2.1. Giới thiệu về các tờ báo khảo sát ............................................................. 42

1

2.1.1. Giới thiệu về báo Vĩnh Phúc ................................................................. 42

2.1.2. Giới thiệu về Đài PT – TH tỉnh Vĩnh Phúc ........................................... 43

2.2. Nội dung tuyên truyền, phản ánh ......................................................... 45

2.2.1. Tuyên truyền về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật

của Nhà nước về vấn đề tôn giáo .................................................................... 45

2.2.2. Phản ánh tình hình „tốt đời đẹp đạo‟ trong hoạt động tôn giáo tại tỉnh

Vĩnh Phúc ........................................................................................................ 51

2.2.3. Những bất cập trong hoạt động tôn giáo ở tỉnh Vĩnh Phúc.................. 58

2.3. Hình thức chuyển tải thông tin ............................................................. 62

2.3.1. Ngôn ngữ thể hiện ................................................................................. 62

2.3.2. Các thể loại chính được sử dụng ......................................................... 64

Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 67

CHƢƠNG 3 NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO69

CHẤT LƢỢNG THÔNG TIN TUYÊN TRUYỀN VỀ TÔN GIÁO ........ 69

3.1. Đánh giá ƣu, nhƣợc điểm thông tin tuyên truyền về tôn giáo ........... 69

3.1.1. Ưu điểm – Nguyên nhân ........................................................................ 69

3.1.2. Nhược điểm – Nguyên nhân .................................................................. 72

3.2. Những vấn đề đặt ra đối với việc truyền thông về tôn giáo trên địa

bàn tỉnh Vĩnh Phúc ....................................................................................... 74

3.3. Giải pháp nâng cao vai trò của báo chí trong việc truyền thông về tôn

giáo trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. ................................................................ 77

3.3.1. Nâng cao nhận thức về vai trò của báo chí trong truyền thông về tôn giáo . 77

3.3.2. Chú trọng phối hợp trong quản lý Nhà nước về tin ngưỡng và tôn giáo ...... 78

3.3.3. Nâng cao chất lượng tin, bài khi truyền thông về vấn đề tôn giáo ....... 79

3.3.4. Nâng cao bản lĩnh chính trị và đạo đức nghề nghiệp của nhà báo khi

đưa tin về tôn giáo ........................................................................................... 80

Tiểu kết chƣơng 3 .......................................................................................... 83

KẾT LUẬN .................................................................................................... 86

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 88

2

PHỤ LỤC ....................................................................................................... 91

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:

Tôn giáo xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử nhân loại và đóng vai trò quan

trọng trong đời sống tinh thần của xã hội. Trước sự phát triển mạnh mẽ của

khoa học kỹ thuật, con người đã có những bước phát triển vượt bậc về nhận

thức, khả năng chinh phục tự nhiên nhưng tôn giáo vẫn tiếp tục phát triển.

Nhiều tôn giáo, giáo phái mới xuất hiện, tín đồ các tôn giáo tăng lên, hoạt

động, nghi lễ tôn giáo diễn ra với rất nhiều hình thức khác nhau. Trong đời

sống chính trị - xã hội của thế giới hiện đại, đang nảy sinh những vấn đề phức

tạp mới liên quan đến yếu tố tôn giáo như khủng bố Quốc tế, xung đột sắc tộc,

xung đột tôn giáo, v.v.., gây ra những tác động, ảnh hưởng tiêu cực tới đời

sống xã hội.

Có thể nói, chưa bao giờ bức tranh tôn giáo trên thế giới lại đa dạng, nhiều

màu sắc, pha trộn ánh sáng và bóng tối như hiện nay. Vẽ lại bức tranh tôn

giáo từ mảng màu của những năm cũ - những năm cuối thiên niên kỷ thứ II,

đầu thiên niên kỷ thứ III, có thể thấy một điều không thể phủ nhận là tôn giáo

ngày càng có ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống chính trị, văn hóa, xã hội, tâm

lý, đạo đức, lối sống, phong tục tập quán của nhiều quốc gia, dân tộc. Việt

Nam là quốc gia đa tôn giáo, có những tôn giáo ngoại nhập và tôn giáo nội

sinh. Hiện nay, số tín đồ các tôn giáo chiếm khoảng 1/4 dân số. Đồng bào tôn

giáo là bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kết dân tộc. Do vậy, Đảng ta

chủ trương thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do

tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo tôn giáo của công dân, quyền sinh

hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật; đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo

khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo; phát huy

những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo; động viên các tổ chức

3

tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực

vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Trong các thời kỳ cách mạng khác nhau, Đảng ta luôn xác định “Tôn giáo

là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận

nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã

hội mới”. Quan điểm đó đã được Nhà nước thể chế hóa bằng Pháp lệnh tín

ngưỡng, tôn giáo nhằm đảm bảo về mặt pháp luật quyền tự do tín ngưỡng, tôn

giáo của nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bào các tôn giáo thỏa mãn

nhu cầu tâm linh của mình. Tuy nhiên, tình hình tôn giáo và hoạt động tôn

giáo ở nước ta có nhiều diễn biến phức tạp và tiềm ẩn những nhân tố gây mất

ổn định và trật tự an toàn xã hội.

Sở dĩ có tình hình trên là do công tác tôn giáo và quản lý xã hội đối với

hoạt động tôn giáo còn nhiều bất cập. Một số cấp ủy và chính quyền địa

phương chưa nhận thức đúng đắn, chưa quán triệt đầy đủ quan điểm, chủ

trương và chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước. Tổ chức bộ máy làm công

tác tôn giáo của hệ thống chính trị, nhất là ở cơ sở chưa được xác định rõ mô

hình, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ chế phối hợp,... Đội ngũ cán bộ làm

công tác tôn giáo còn thiếu về số lượng, chất lượng còn hạn chế, chưa được

đào tạo kịp thời và bồi dưỡng thường xuyên để nâng cao trình độ nghiệp vụ...

nên còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng khi ứng xử với các hoạt động tín

ngưỡng, tôn giáo diễn ra trên địa bàn.

Hiện nay, nước ta có hàng nghìn trang mạng điện tử, hàng trăm Fanpage

nói về tín ngưỡng, tôn giáo và phật giáo. Trong đó có thể dễ dàng tìm thấy

nhiều chùa ở Việt Nam và ở cả nước ngoài đều có website riêng, các website

này phản ánh đời sống tâm linh, tin tức phật sự hàng ngày của chùa đến phật

tử và đông đảo công chúng quan tâm. Do đó, làm thế nào để những thông tin

về tín ngưỡng, tôn giáo và đặc biệt là Phật giáo có ích đến với nhiều người

dân, rất cần sự vào cuộc kịp thời của các cơ quan chỉ đạo để quản lý tốt các tờ

4

báo về Phật giáo cũng như những thông tin trên mạng xã hội hiện nay.

Các thế lực phản động và chống phá nhà nước luôn tìm kẽ hở để “thọc

gậy” hay xuyên tạc, nâng tầm nhân quyền hay tự do tín ngưỡng. Chính từ

những vị tu hành thiếu “tâm tu” đã tạo nên mảng tối trên bức tranh tươi đẹp

của phật giáo và tôn giáo. Việc bổ sung điều luật, quy định riêng để phù hợp

hơn trong việc quản lý báo chí phật giáo và tôn giáo nói chung sẽ thúc đẩy

đáng kể nền phật giáo phát triển lành mạnh. Từ đó thấm sâu tư tưởng đạo đức,

ý thức tự giác tốt đẹp giữa con người với nhau trong xã hội. Điều này góp

phần tạo nên một đất nước Việt Nam tốt đẹp, hưng thịnh. Đúng như lời Hồ

Chủ tịch đã viết: “Tôn chỉ mục đích của đạo Phật nhằm xây dựng cuộc đời

thuần mỹ, chí thiện, bình đẳng, yên vui và no ấm”.

Do vậy, nghiên cứu đề tài: “Báo chí với vấn đề tôn giáo trên địa bàn tỉnh

Vĩnh Phúc” là một đòi hỏi cấp bách, có ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thưc tiễn,

phục vụ trực tiếp cho việc phổ biến các chủ trương của Đảng, Pháp luật của Nhà

nước trong lĩnh vực báo chí về tôn giáo trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Từ đó đưa

ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với lĩnh vực

báo chí về tôn giáo trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

2.1. Những công trình nghiên cứu về tôn giáo nói chung.

Tác phẩm: Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam của tác giả

Đặng Nghiêm Vạn, Nxb CTQG, Hà Nội, 2003, gồm sáu phần, trong đó: "Phần thứ

tư" đã làm rõ đặc điểm tình hình tôn giáo ở Việt Nam qua hai cuộc điều tra xã hội

học năm 1995 và năm 1998 với hai đối tượng là lương (những người không theo

Kitô giáo) và giáo (những người theo Kitô giáo) tại Thành phố Hà Nội, Thành phố

Hồ Chí Minh và tỉnh Thừa Thiên - Huế, với đầy đủ các chỉ số cụ thể. Đây là những

tư liệu quan trọng để nghiên cứu về hoạt động tôn giáo ở Hà Nội hiện nay.

Đề tài khoa học cấp Thành phố: Hoạt động của Đạo Tin lành tại Thủ đô

Hà Nội: thực trạng - giải pháp do tác giả Nguyễn Quốc Triệu (Chủ nhiệm),

5

PGS.TS. Nguyễn Hồng Dương làm cố vấn khoa học, 2003 đã làm rõ thực

trạng của đạo Tin lành tại Hà Nội qua đặc điểm, giáo lý, nghi lễ (so sánh với

đạo Công giáo), quá trình phát triển và hoạt động của đạo Tin lành Hà Nội.

Đánh giá công tác QLNN đối với hoạt động của đạo Tin lành tại Hà Nội thời

gian qua, chủ yếu là từ năm 1980 đến thời điểm nghiên cứu; Qua đó, đề xuất

giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực QLNN đối với hoạt động của đạo Tin lành

tại Hà Nội trong thời gian tới.

Tác phẩm: Công giáo Việt Nam thời kỳ Triều Nguyễn (1802-1883) của tác

giả Nguyễn Quang Hưng, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2007, đã phân tích quá trình

truyền giáo ở Việt Nam từ tiền khởi tới cuối thế kỷ XVIII và đề cập tới vận

mệnh của các hoạt động truyền giáo thời kỳ Triều Nguyễn (1802-1883).

Trọng tâm của cuốn sách là những phản ứng khác nhau của nhà nước phong

kiến Việt Nam đối với việc truyền bá Kitô giáo và những vấn đề hệ lụy của

nó. Với một lối phân tích và nhìn nhận vấn đề khá thuyết phục, cuốn sách có

đóng góp trong phân tích sự phản ứng của người Việt đối với Công giáo trong

khung cảnh cuộc đấu tranh của họ chống lại những kẻ xâm lược.

Tác phẩm: “Kitô giáo ở Hà Nội” của tác giả Nguyễn Hồng Dương, Nxb

Tôn giáo, Hà Nội, 2008, đã hệ thống một cách khá toàn diện về quá trình hình

thành, phát triển các cộng đoàn cũng như đời sống tôn giáo của Kitô giáo

(Công giáo và Tin lành) từ khi du nhập cho tới trước khi Hà Nội được mở

rộng năm 2008. Tác phẩm đã làm rõ về hoạt động truyền giáo, phát triển đạo

Công giáo ở Hà Nội từ đầu cho đến nay cùng với một số đóng góp trên lĩnh

vực văn hóa của Công giáo ở Hà Nội và quá trình hình thành, phát triển cũng

như đời sống tôn giáo của đạo Tin lành ở Hà Nội. Tác phẩm: Đời sống tôn

giáo tín ngưỡng Thăng Long - Hà Nội của tác giả Đỗ Quang Hưng, Nxb Hà

Nội, 2010, là công trình đầu tiên đề cập khá đầy đủ và hệ thống về tôn giáo và

đời sống tôn giáo ở Hà Nội trong lịch sử và hiện tại. Tác phẩm đã nêu lên

được đặc điểm “không gian thiêng” của Thăng Long – Hà Nội với “kết cấu ba

6

vòng” được kết hợp hài hòa với một “không gian quyền lực” xã hội của Kinh

thành và làm rõ đặc điểm của 7 tôn giáo ở Hà Nội, gồm: Phật giáo, Nho giáo,

Đạo giáo, Công giáo, Tin lành, Cao đài và Islam giáo từ khi du nhập đến năm

2007, làm sâu sắc “đời sống tôn giáo, tín ngưỡng” của Thăng Long - Hà Nội

qua ba giai đoạn: không gian tôn giáo của xã hội cổ truyền, thời cận đại và

thời kỳ hiện nay (thời điểm nghiên cứu 2010).

Tác phẩm: Đạo lạ ở Hà Nội hiện nay và những vấn đề đặt ra của đồng tác

giả Ngô Hữu Thảo và Đào Văn Bình (đồng chủ biên), Nxb LLCT, Hà Nội,

2014, tác phẩm đã trình bày một bức tranh khá toàn diện về vấn đề đạo lạ và

công tác đối với đạo lạ ở Hà Nội hiện nay qua kết quả cuộc điều tra về đạo lạ

ở Hà Nội năm 2012. Tác phẩm đã làm rõ đối với đạo lạ ở Hà Nội có những

đặc điểm, như: Số lượng đạo lạ nhiều hơn so với các địa phương khác; Là cái

nôi của nhiều đạo lạ (có 12/19 đạo lạ ra đời ở Hà Nội), có khả năng chi phối

đạo lạ ở các địa phương khác; Tính chất chính trị biểu hiện thường ở mức độ

cao hơn các địa phương khác; Lan tỏa ra bên ngoài cũng như từ bên ngoài

tràn vào, thường nhanh chóng và rõ rệt hơn. Từ đó, đưa ra một số dự báo xu

hướng của đạo lạ ở Hà Nội.

Luận án tiến sĩ: Ảnh hưởng qua lại giữa Phật giáo và phụ nữ (qua nghiên

cứu một số tỉnh phía Bắc Việt Nam hiện nay) của tác giả Nguyễn Thị Thành

(Thích Đàm Thanh), Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2016, đã phân tích hệ

thống cơ sở lý thuyết và cơ sở thực tiễn mối quan hệ qua lại giữa Phật giáo và

Phụ nữ, làm rõ thực trạng và vấn đề đặt ra của sự ảnh hưởng qua lại giữa Phật

giáo Việt Nam và Phụ nữ Việt Nam qua khảo sát thực tế ở một số tỉnh phía Bắc

hiện nay. Từ đó, luận án dự báo xu hướng của mối quan hệ này, rút ra những vấn

đề cần quan tâm và đề xuất một số khuyến nghị nhằm phát huy mặt tích cực và

giảm thiểu mặt hạn chế của mối quan hệ giữa Phật giáo và Phụ nữ hiện nay.

Luận án tiến sĩ: Ảnh hưởng của “Tâm” trong Phật giáo đối với đời sống

đạo đức ở nước ta hiện nay của tác giả Ngô Thị Lan Anh, Học viện CT- HC

7

quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2011, đã phân tích khái quát nội dung phạm 8

trù “Tâm” trong Phật giáo nói chung và trong Phật giáo Việt Nam nói riêng,

qua đó làm rõ thực trạng ảnh hưởng của “Tâm” trong Phật giáo đối với đời

sống đạo đức ở nước ta hiện nay và những vấn đề đặt ra. Trên cơ sở đó, luận

án bước đầu nêu ra một số giải pháp mang tính định hướng nhằm phát huy

những giá trị tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của “Tâm” trong

Phật giáo đối với đời sống đạo đức ở nước ta đến thời điểm nghiên cứu.

Tác phẩm: Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam của tác

giả Đặng Nghiêm Vạn, Nxb CTQG, Hà Nội, 2003, trên cơ sở làm rõ chính

sách tôn giáo theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tác giả đã phân tích,

chỉ ra năm nguyên tắc trong chính sách tự do tôn giáo ở Việt Nam, gồm:

Nguyên tắc tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chí

Minh; Nguyên tắc tự do tôn giáo dựa trên cơ sở một nhà nước theo thể chế thế

tục; Nguyên tắc đặt vấn đề tôn giáo trong phạm trù dân tộc; Nguyên tắc giải

quyết vấn đề tôn giáo phải đặt trong vấn đề văn hóa; Nguyên tắc giải quyết

vấn đề tôn giáo phải chống lợi dụng tôn giáo vào mục đích chống lại Tổ quốc.

Tác phẩm: Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam Lý luận và thực

tiễn của tác giả Đỗ Quang Hưng, Nxb CTQG, Hà Nội, 2005, tác phẩm đã

tổng kết một cách sâu sắc những quan điểm, đường lối chính sách tôn giáo

của Đảng và Nhà nước ta từ năm 1930 đến năm 2005, tác phẩm đã phân tích,

làm sâu sắc hơn việc giải quyết vấn đề tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội ở Việt

Nam với việc “khẳng định đường hướng tôn giáo đồng hành với chủ nghĩa xã

hội ở nước ta”, chính sách tự do tôn giáo và chính sách đối với từng tôn giáo

cụ thể cũng được phân tích một cách sâu sắc. Trên cơ sở đó, cần làm sâu sắc

hơn những vấn đề, gồm: Vấn đề pháp nhân tôn giáo; Vấn đề đất đai, tài sản

liên quan đến tôn giáo và vấn đề đối ngoại tôn giáo. Trong đó, trước mắt cần

giải các vấn đề, như: Thể chế hóa hơn nữa quyền tự do tôn giáo; Xác định rõ

mô hình nhà nước thế tục; Cần có luật về pháp nhân tôn giáo để giải quyết

8

vấn đề đa dạng hóa tôn giáo ở Việt Nam hiện nay; Chính sách để các tôn giáo

tham gia xã hội hóa giáo dục, y tế, hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội và sớm

hoàn thiện, ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo.

Tác phẩm: Công tác tôn giáo từ quan điểm Mác-Lênin đến thực tiễn Việt

Nam của tác giả Ngô Hữu Thảo, Nxb CT-HC, Hà Nội, 2012, đã phân tích làm

sâu sắc những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

với tính cách là cơ sở lý luận của chính sách và CTTG của Đảng, Nhà nước

và CTTG của hệ thống chính trị do Đảng ta lãnh đạo hiện nay. Tác giả cũng

phân tích làm rõ khái niệm và nội dung của CTTG, đồng thời chỉ ra tính đặc

thù của CTTG so với các công tác khác. Từ đó, làm rõ nội dung, nhiệm vụ và

giải pháp đối với CTTG của hệ thống chính trị, trong đó việc QLNN về tôn

giáo giữ vai trò khá quan trọng.

Tác phẩm: Quan điểm đường lối của Đảng về tôn giáo và những vấn đề tôn

giáo ở Việt Nam hiện nay của tác giả Nguyễn Hồng Dương, Nxb CTQG, Hà

Nội, 2012, đã phân tích những quan điểm, đường lối của Đảng về tôn giáo; phác

họa nên bức tranh tôn giáo ở Việt Nam hiện nay; đồng thời phân tích kinh 12

nghiệm giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam từ cái nhìn đối sánh với một số

nước như so sánh kinh nghiệm giải quyết vấn đề tôn giáo của Trung Quốc, Thái

Lan và Singapore; trên cơ sở đó, tác giả phân tích những vấn đề đặt ra và đề xuất

một số khuyến nghị đối với CTTG ở Việt Nam hiện nay.

Tác phẩm: Tôn giáo với đời sống chính trị - xã hội ở một số nước trên thế

giới của tác giả Nguyễn Văn Dũng, Nxb CTQG, Hà Nội, 2012, gồm nhiều bài

viết trình bày về đời sống tôn giáo với chính trị của nhiều nước trên giới giới,

như: Vị trí của tôn giáo trong đời sống chính trị - xã hội Mỹ, một số vấn đề

của Islam giáo trong đời sống xã hội hiện đại; Vấn đề cải cách và đổi mới của

tôn giáo trong xã hội phương đông thời cận - hiện đại; Mối quan hệ quốc tế

của Tòa thánh Vatican... từ đó giúp làm rõ hơn những vấn đề phức tạp mới

liên quan đến yếu tố tôn giáo như khủng bố, xung đột tôn giáo, những tác

9

động, ảnh hưởng tới đời sống xã hội hiện đại.

Tác phẩm: Tiếp tục đổi mới chính sách về tôn giáo ở Việt Nam hiện nay -

Những vấn đề lý luận cơ bản của tác giả Nguyễn Hồng Dương (Chủ biên),

Nxb Văn hóa - Thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội, 2014. các tác giả đã phân

tích, đánh giá, tiến trình nhận thức, hình thành quan điểm của Đảng về tôn

giáo từ năm 1930 đến nay, đưa ra những vấn đề còn bất cập về CTTG và

chính sách tôn giáo hiện nay. Hơn nữa, các tác giả cũng đưa ra cụ thể được

những thành tựu và những vấn đề mới đặt ra trong thực hiện chính sách tôn

giáo, đòi hỏi Đảng và Nhà nước tiếp tục đổi mới chính sách đối với tôn giáo

trong tình hình mới.

Tác phẩm: Chính sách tôn giáo và nhà nước pháp quyền của tác giả Đỗ

Quang Hưng, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014, là một công trình tổng kết

thực tiễn đời sống tôn giáo và thực hiện chính sách tôn giáo ở nước ta trong

thời kỳ đổi mới. Ngoài những vấn đề thuộc khung lý thuyết cơ bản, tác giả đã

trình bày toàn cảnh đời sống tôn giáo Việt Nam hiện nay, làm rõ những vấn

đề đặt ra trong mối quan hệ Nhà nước với các giáo hội, khảo sát, đánh giá

những chuyển biến trong quá trình thực hiện chính sách tôn giáo, nêu lên

những vấn đề đặt ra cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách tôn giáo. Tác

giả cũng gợi mở một vấn đề quan trọng khác là nỗ lực mô hình hóa một nhà

nước pháp quyền về tôn giáo trong điều kiện Việt Nam hiện nay.

Luận án tiến sĩ: Quản lý nhà nước về tôn giáo ở Việt Nam từ năm 1975

đến nay của tác giả Bùi Hữu Dược, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2014,

đã góp phần làm rõ tính tất yếu và yêu cầu đổi mới QLNN về tôn giáo trong

quan hệ giữa nhà nước xã hội chủ nghĩa với tôn giáo ở Việt Nam, đồng thời

làm rõ thực trạng, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra trong QLNN về tôn

giáo ở Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2013, từ đó đưa ra dự báo tình hình

tôn giáo Việt Nam và khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả QLNN về tôn

10

giáo ở Việt Nam trong thời gian tới.

Luận án tiến sĩ: Tôn giáo và luật pháp về tôn giáo trong thời kỳ đổi mới ở

Việt Nam của tác giả Nguyễn Thị Vân Hà, Học viện Khoa học Xã hội, Hà

Nội, 2014, đã nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện công tác

xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực tôn giáo ở Việt

Nam, đưa ra được thành tựu và hạn chế trong ban hành các chính sách liên

quan đến tôn giáo ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, từ đó, nêu lên một số

vấn đề đặt ra và đề xuất các khuyến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả

tính khả thi trong quá trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật

của các cơ quan có thẩm quyền về lĩnh vực tôn giáo ở Việt Nam, góp phần bổ

sung, phong phú thực tiễn nâng cao hiệu quả CTTG ở Việt Nam.

Tác phẩm: Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về tôn

giáo của tác giả Nguyễn Hồng Dương, Nxb KHXH, Hà Nội, 2015, đã làm sâu

sắc quan điểm, chính sách về tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam qua

các giai đoạn cách mạng: 1930-1954; 1954-1975; 1975-1990, đặc biệt là giai

đoạn từ thời kỳ đổi mới chính sách tôn giáo năm 1990 đến nay.

Tác phẩm: Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam của tác giả Nguyễn

Thanh Xuân, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2015, tác giả đã hệ thống chính sách tôn

giáo Việt Nam qua các thời kỳ và việc thực hiện chính sách tôn giáo, nhất là từ

khi đổi mới đến nay. Tác giả khẳng định, việc thực hiện chính sách đổi mới của

Đảng và Nhà nước, công tác đối với tôn giáo đã đưa lại những kết quả rất quan

trọng, làm thay đổi đời sống tôn giáo ở Việt Nam theo hướng tích cực và tiến bộ

góp phần quan trọng vào sự ổn định và phát triển của đất nước.

Luận án tiến sĩ: Công tác tôn giáo ở Việt Nam hiện nay – Lý luận và thực tiễn

(qua khảo sát tại tỉnh Ninh Bình) của tác giả Lê Thị Minh Thảo, Trường Đại học

Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội, 2015, đã nghiên cứu các nhân tố ảnh

hưởng đến việc thực hiện CTTG ở Việt Nam hiện nay. Quá trình thực hiện, thành

tựu và hạn chế trong CTTG hiện nay tại tỉnh Ninh Bình trong thời kỳ đổi mới, đề

11

xuất một số vấn đề cần giải quyết và đưa ra các khuyến nghị, giải pháp nhằm nâng

cao hiệu quả CTTG ở tỉnh Ninh Bình, góp phần bổ sung, phong phú thực tiễn

CTTG ở Việt Nam. Luận án cũng cung cấp một số kinh nghiệm thực tiễn khi

nghiên cứu về CTTG tại một địa phương nhất định. Những công trình nghiên cứu

về chính sách cùng với hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến

lĩnh vực tôn giáo, lĩnh vực QLNN về tôn giáo ở Việt Nam sẽ cung cấp cho nghiên

cứu sinh những dữ kiện quan trọng và xác thực để phân tích và kết hợp với kết

quả phỏng vấn sâu một số nhà lãnh đạo, quản lý trong lĩnh vực tôn giáo và một số

nhà tu hành, nhằm rút ra những thành tựu và hạn chế trong CTTG ở Hà Nội.

2.2. Những công trình nghiên cứu về báo chí với vấn đề tôn giáo

Như đã liệt kê ở trên là một số công trình nghiên cứu tiêu biểu về tôn giáo

trên nhiều lĩnh vực khác nhau điển hình như:

Khóa luận tốt nghiệp ngành báo chí năm 2001 – của tác giả Trần Lưu ĐH

Khoa học Xã hội và Nhân Văn – Hà Nội, đề cập tới “Báo chí Việt Nam với

vấn đề tín ngưỡng và tôn giáo”.

Luận văn thạc sĩ: Báo chí Phật giáo tại Việt Nam thực trang và vấn đề của

tác giả Lê Thị Hồng Hạnh ĐH Quốc gia Hà Nội (2010) đã đưa ra được những

vấn đề cần quan tâm về Phật giáo và Tôn giáo ở Việt Nam trong thời điểm đó.

Tham luận: Báo chí tôn giáo ở Việt Nam trước năm 1945 của PGS,TS. Đỗ

Quang Hưng, Kỷ yếu hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ Nhất (1998),

Nxb ĐHQGHN.

Trên cơ sở kế thừa những nghiên cứu đã có, tác giả nghiên cứu đề tài “Báo

chí với vấn đề tôn giáo ở tỉnh Vĩnh Phúc” với mong muốn làm sáng tỏ một số

vấn đề báo chí liên quan đến tôn giáo nói chung và báo chí với vấn đề Phật

giáo nói riêng trong giai đoạn hiện nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở hệ thống hóa các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến đề

12

tài, luận văn làm rõ thực trạng báo Vĩnh Phúc, Đài PT&TH Vĩnh Phúc thông

tin về vấn đề tôn giáo, trọng tâm là thông tin về Phật giáo tại tỉnh Vĩnh Phúc,

đánh giá thành công, hạn chế, nguyên nhân thành công và hạn chế, từ đó, đề

xuất các phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa vai trò của báo chí

trong việc thông tin vấn đề tôn giáo trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc nói chung, và

vấn đề Phật giáo nói riêng.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu, làm rõ mối quan hệ giữa báo chí và tôn giáo nói chung.

- Nghiên cứu thực trạng thông tin về vấn đề Phật giáo ở tỉnh Vĩnh Phúc

trên báo chí.

- Qua việc phân tích thực trạng, đề tài chỉ ra ưu điểm, hạn chế, nguyên

nhân thành công và hạn chế, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao vai

trò của báo chí thông tin về vấn đề tôn giáo nhất là Phật giáo trên địa bàn tỉnh

Vĩnh Phúc.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Vấn đề lịch sử đạo Phật trên thế giới và tại Việt Nam đã được các nhà sử

học đề cập, nghiên cứu sâu sắc, cặn kẽ, khoa học, có giá trị cao về lý luận và

thực tiễn. Vì vậy, đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Báo chí với vấn đề tôn

giáo trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.

- Phạm vi nghiên cứu tập trung vào Báo Vĩnh Phúc và Đài PT&TH Vĩnh

Phúc từ tháng 6/2018 đến tháng 6/2019.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu.

Để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng 2 nhóm phương pháp nghiên cứu

chính là nghiên cứu tư liệu và nghiên cứu khảo sát. Cụ thể như sau:

5.1. Nghiên cứu tư liệu:

- Nghiên cứu tổng quan.

- Nghiên cứu tư liệu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật

13

biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để xây dựng luận văn.

- Phương pháp phân tích tài liệu: Phương pháp này được sử dụng nhằm

xem xét thông tin có sẵn trong sách báo… để thu thập các thông tin định tính

phục vụ mục tiêu đề tài.

5.2. Nghiên cứu khảo sát:

- Nghiên cứu tôn chỉ mục đích của Báo Vĩnh Phúc và Đài PT&TH Vĩnh

Phúc từ tháng 6/2018 đến tháng 6/2019.

- Nội dung chính về Phật giáo mà Báo Vĩnh Phúc và Đài PT&TH Vĩnh

Phúc đề cập.

- Phỏng vấn, gặp gỡ các chuyên gia và nhà nghiên cứu về tôn giáo, Phật

Giáo để tìm hiểu sâu sắc hơn về vấn đề này.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn:

Luận văn này là công trình nghiên cứu về báo chí với vấn đề tôn giáo (tập

trung chủ yếu vào Phật giáo) trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay. Việc phân

tích để làm sáng tỏ thực trạng, chỉ ra những đặc điểm, ưu điểm, hạn chế của

Báo Vĩnh Phúc và Đài PT&TH Vĩnh Phúc thông tin về Phật giáo giáo trên địa

bàn tỉnh Vĩnh Phúc, và nêu ra những giải pháp, khuyến nghị sẽ là những đóng

góp mới vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn của luận văn.

Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho các

công trình có liên quan cũng như định hướng cho sự phát triển của các tờ báo

có liên quan.

7. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo, luận văn chia

làm 3 chương:

Chương 1: Lý luận chung về tôn giáo và vai trò của báo chí

Chương 2: Thực trạng thông tin báo chí về vấn đề tôn giáo trên địa

bàn tỉnh Vĩnh Phúc

Chương 3: Những vấn đề đặt ra và giải pháp nâng cao vai trò của báo

14

chí với vấn đề tôn giáo

CHƢƠNG 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÔN GIÁO VÀ

VAI TRÒ CỦA BÁO CHÍ

1.1. Giải thích thuật ngữ có liên quan đến đề tài

1.1.1. Các thuật ngữ về tôn giáo

Tôn giáo hay đạo có thể được định nghĩa là một hệ thống văn hóa của các

hành vi và thực hành được chỉ định, quan niệm về thế giới, các kinh sách, địa

điểm linh thiêng, lời tiên tri, đạo đức, hoặc tổ chức, liên quan đến nhân loại

với các yếu tố siêu nhiên, siêu việt hoặc tâm linh. Tuy nhiên, hiện tại chưa có

sự đồng thuận học thuật về những gì chính xác cấu thành một tôn giáo.

Các tôn giáo khác nhau có thể có hoặc không chứa nhiều yếu tố khác

nhau, bao gồm các yếu tố thần thánh, những điều thiêng liêng, tín ngưỡng,

một thế lực hoặc nhiều thế lực siêu nhiên hoặc "một số thế lực siêu việt tạo ra

các chuẩn mực và sức mạnh cho phần còn lại của cuộc đời”. Tôn giáo được

coi như một phương tiện hay một môi trường mà nhờ đó con người có thể tìm

ra được ''một hệ thống biểu trưng'' để xử dụng như một sơ đồ hoạch định cho

việc tìm hiểu về thế giới vũ trụ. Tôn giáo, như Paul Tillich đã định nghĩa, là

''sự quan tâm chủ yếu cuối cùng theo nghĩa rộng nhất và cơ bản nhất của từ

ngữ'' [15].

Như vậy, với một cái nhìn tinh tế và bao quát nhất về tôn giáo theo quan

niệm tôn giáo là một câu trả lời cho công cuộc truy tầm ý nghĩa sống của con

người, tôn giáo được coi là một hệ thống chuyên chở ý nghĩa nhằm đáp ứng

mọi nhu cầu tri thức, tình cảm, và xã hội của con người. Như Roger Schmidt

đã vạch ra, nhiệm vụ tri thức của tôn giáo là cung cấp cho con người một lời

giải thích về ''căn nguyên và sự vận hành của vạn vật”. Dưới cái nhìn mang

tính cách vũ trụ học và thần học của tôn giáo, con người hy vọng có thể tìm ra

15

được vị thế hay chỗ đứng của mình trong vũ trụ cùng với định mệnh của mình

trong cuộc đời, mang hình thái của những tín lý, giáo lý, hay niềm tin, tôn

giáo là câu trả lời cho trí óc tìm tòi học hỏi, khao khát hiểu biết của con người

về chính mình, về người khác, và về vũ trụ[15].

Quan niệm thế nào là tín đồ của tôn giáo không giống nhau giữa các tôn

giáo ở Việt Nam. Mỗi một tôn giáo có quan niệm về tổ chức tín đồ khác nhau.

Đạo Nho quan niệm những nhà nho được coi là tín đồ. Đạo Giáo quan

niệm chỉ những chức sắc của địa phương mới được coi là tín đồ. Đạo Hòa

Hỏa bắt nguồn từ Bửu Sơn Kì Hương với hình thức tu tại gia là chủ yếu, xem

tín đồ là những người truyền bá, giáo dục, in ấn kinh sách… Còn theo quan

điểm đạo Hồi toàn bộ người dân trong cộng đồng theo đạo Hồi được gọi là tín

đồ [34, tr.14-20].

Đạo Tin Lành công nhận tín đồ chi khi cá nhân đủ tuổi cần thiết để hiểu

được lẽ đạo (thường 15 tuổi trở lên), tin nhận giáo lý của đạo; đạo này còn có

quan niệm những ai đã qua lễ Báp têm (lễ gia nhập tôn giáo) là tín đồ chính

thức, những ai chưa làm lễ Báp têm gọi là tín đồ chưa chính thức. Quan điểm

của Do Thái giáo, để trở thành một tín đồ phải qua lễ Bar Mitsva, tức lễ thụ

giới lúc con gái vừa đúng 12 tuổi và con trai thì 13 tuổi [34, tr.14-20].

Theo ý kiến của Đặng Nghiêm Vạn: “Dù hình thức tổ chức có khác nhau,

một người theo một tôn giáo đậm đạo hay nhạt đạo, thậm chí khô đạo, mức độ

đánh giá cơ bản vẫn là dựa theo niềm tin (hay tín ngưỡng), niềm tin của chính

bản thân người theo, cho dù là tín đồ hay chỉ là quần chúng…”

Về phương diện định nghĩa theo các từ điển, chúng ta có thể liệt kê thêm

một số định nghĩa về tín đồ. Theo Đại từ điển tiếng Việt (1999): “Tín đồ là

người theo một tôn giáo”[35, tr.1646]. Theo định nghĩa này tín đồ được hiểu

theo nghĩa rộng, không có sự phân biệt giữa tín đồ chính thức với những

người có cảm tính, hoặc có xu hướng tâm linh về một tôn giáo mà chưa phải

là tín đồ chính thức. Còn theo Từ điển tôn giáo (2002): “Tín đồ là những ai tin

16

ở những gì một tôn giáo dạy bảo và qua một thủ tục nhập đạo”. Định nghĩa

này coi tín đồ là người có niềm tin vào tôn giáo và đã qua thủ tục gia nhập tôn

giáo đó [8, tr.633].

Sơ lược trình bày về các định nghĩa như trên có thể thấy và hiểu đúng

nghĩa theo pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo quy định là: “Tín đồ là người tin

theo một tôn giáo và được tổ chức tôn giáo thừa nhận”… Hiến chương Giáo

hội Phật giáo Việt Nam, Chương X, Điều 60: “Tín đồ cư sĩ phật tử Giáo hội

Phật giáo Việt Nam là những người tin tưởng Phật pháp, thực hành theo giáo

lý Đức Phật và tùy khả năng, tự nguyện thọ trì giới luật Phật chế”[38].

1.1.2. Các khái niệm về báo chí

Theo quan niệm từ trước đến nay, báo chí là phương tiện truyền thông đại

chúng, truyền tải những thông tin thời sự có tính định kỳ đến với đông đảo

công chúng. Đặc điểm nổi bật của báo chí chính là tính công khai và sự lan

tỏa, nhanh chóng rộng khắp.

Báo chí phải gắn liền với thông tin thời sự. Những vấn đề, sự kiện diễn ra

hằng ngày, hằng giờ cần sự phản ánh, phân tích mổ xẻ của báo chí nhằm rộng

đường dư luận; những thông tin kinh tế, cơ hội đầu tư làm ăn, việc làm... cần

thiết cho nhiều người... Thế nhưng, cũng có những loại hình báo chí không hẳn

là thời sự, ví dụ như những tạp chí chuyên ngành, các số phụ, ấn phẩm chuyên

đề của các tờ báo in... Thậm chí, ngay các tờ báo chính trị- xã hội ra hằng ngày

cũng không phải hoàn toàn là thời sự, vì vẫn dành một dung lượng phù hợp cho

những bài viết thuần túy tư liệu, những bài viết dạng “lương khô”...

Trong cuốn “Vai trò của báo chí trong định hướng dư luận xã hội”, TS.

Đỗ Chí Nghĩa định nghĩa báo chí như sau: “Báo chí là loại hình các phương

tiện truyền thông đại chúng được cơ quan thẩm quyền cấp phép hoạt động, có

nhiệm vụ truyền tải thông tin nhanh nhất, mới mẻ nhất đến với đông đảo công

chúng, nhằm tích cực hóa đời sống thực tiễn”[21].

Xã hội càng phát triển thì nhu cầu thông tin càng lớn. Do nhu cầu thông

17

tin, giao tiếp của đời sống xã hội con người nên có sự ra đời của báo chí.

Ngày nay, nói đến báo chí người ta thường nhắc đến bốn loại hình báo chí cơ

bản đó là: báo in, báo nói (phát thanh), báo hình (truyền hình) và báo điện tử.

 Báo in

Theo Luật báo chí 2016, Báo in là loại hình báo chí sử dụng chữ viết,

tranh, ảnh, thực hiện bằng phương tiện in để phát hành đến bạn đọc, gồm báo

in, tạp chí in.

Báo in là 1 loại hình báo chí sử dụng ngôn ngữ viết, hình ảnh tĩnh (ảnh,

hình đồ họa) để chuyển tải các sự kiện vấn đề xảy ra trong đời sống xã hội,

mang tính thời sự, chân thực khách quan, thông qua kỹ thuật in ấn có phương

thức phát hành trao tay và được xuất bản định kỳ, gồm báo in, tạp chí.

Định kỳ của báo in có nhiều loại khác nhau như: hàng ngày, thưa kỳ (2,3,5

ngày một số) hàng tuần. Định kỳ báo in chính là sự xuất hiện theo chu kỳ đều

đặn và cố định của sản phẩm báo. Chu kỳ xuất hiện của báo in có ý nghĩa

quan trọng đối với báo in vì nó quy định thời điểm mà công chúng đón nhận

sản phẩm báo in.

 Báo phát thanh

Trong giáo trình “Truyền thông đại chúng”, Tạ Ngọc Tấn đã đưa ra khái

niệm: “Phát thanh (radio) là loại hình truyền thông đại chúng, trong đó nội

dung thông tin được chuyển tải qua âm thanh. Âm thanh trong phát thanh bao

gồm lời nói, âm nhạc, các loại tiếng động làm nền hoặc minh họa cho lời nói

như tiếng mưa, gió, nước chảy, sóng vỗ, chim hót, tiếng vỗ tay, tiếng ồn

đường phố. Thuật ngữ phát thanh (radio) thực ra bao gồm cả hai loại hình nhỏ

trong đó là phát thanh qua làn sóng điện từ và truyền thanh qua hệ thống dây

dẫn”[33, tr.23].

Theo quan niệm truyền thống, trong cuốn “Báo phát thanh”, khái niệm

báo phát thanh được nêu như sau: “Báo phát thanh được hiểu như một kênh

truyền thông, một loại hình báo chí điện tử hiện đại mà đặc trưng cơ bản của

18

nó là dùng thế giới âm thanh phong phú sinh động (lời nói, tiếng động, âm

nhạc) để chuyển tải thông điệp nhờ sử dụng kỹ thuật sóng điện từ và hệ thống

truyền thanh, tác động vào thính giác (vào tai) của công chúng” [11, tr. 51].

Báo phát thanh cũng có một tên gọi khác là báo nói. Luật Báo chí năm

2016 định nghĩa: “Báo nói là loại hình báo chí sử dụng tiếng nói, âm thanh,

được truyền dẫn, phát sóng trên các hạ tầng kỹ thuật ứng dụng công nghệ

khác nhau” (Luật Báo chí năm 2016, điều 3, khoản 4).

 Truyền hình

Trong cuốn “Cơ sở lý luận báo chí” cho rằng: “Truyền hình là kênh

truyền thông chuyển tải thông điệp bằng hình ảnh động với nhiều sắc màu

vốn có từ cuộc sống cùng với lời nói, âm nhạc, tiếng động”[3].

Truyền hình xuất hiện vào đầu thế kỷ thứ XX và phát triển với tốc độ như

vũ bão nhờ sự phát triển của khoa học công nghệ, tạo ra một kênh thông tin

quan trọng trong đời sống xã hội. Ngày nay, truyền hình là một phương tiện

thiết yếu cho mỗi gia đình, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Truyền hình trở thành

vũ khí, công cự sắc bén trên mặt trận tư tưởng văn hóa cũng như lĩnh vực

kinh tế xã hội. Công chúng của truyền hình ngày càng đông đảo. Với những

ưu thế của kỹ thuật và công nghệ, truyền hình đã làm cho cuộc sống gần như

cô đọng lại, làm giàu thêm ý nghĩa, sáng tỏ hơn về hình thức và phong phú

hơn về nội dung. Với truyền hình, sự kiện được phản ánh ngay lập tức khi nó

vừa mới diễn ra, thậm chí khi nó đang diễn ra, người xem có thể quan sát trực

tiếp, tường tận chi tiết qua truyền hình trực tiếp và cầu truyền hình. Nhờ các

kỹ thuật hiện đại, truyền hình có thể truyền trực tiếp cả âm thanh và hình ảnh

trong cùng một thời gian về cùng một sự kiện, sự việc khi nó đang diễn ra tạo

ra sự sống động rất lớn, thu hút đông đảo người xem. Khác với báo in, người

đọc chỉ tiếp nhận thông tin bằng con đường thị giác, phát thanh bằng con

đường thính giác, người xem truyền hình tiếp cận sự việc bằng cả thị giác và

thính giác. Do vậy truyền hình trở thành một phương tiện cung cấp thông tin

19

rất lớn, có độ tin cậy cao, có khả năng làm thay đổi nhận thức của con người

trước sự kiện. Truyền hình có khả năng truyền tải thông tin đến công chúng

24/24 giờ trong ngày, luôn mang đến cho người xem những thông tin nóng

hổi nhất về các sự kiện diễn ra, cập nhật những tin tức mới nhất.

 Báo điện tử

Báo điện tử ra đời trên thế giới vào năm 1992. Tờ báo điện tử đầu tiên trên

thế giới là tờ Chicago Tribune. Báo điện tử là loại hình báo chí có những ưu

thế vượt trội, có thể cung cấp thông tin rộng khắp, nhanh chóng, tức thời và

cập nhật thông tin liên tục. Bên cạnh đó, chi phí sản xuất cho báo điện tử thấp

nhưng lại mang lại hiệu quả thông tin rất cao nên sau khi ra đời, nó đã phát

triển rất nhanh chóng. Có thể nói, sự ra đời và phát triển của Internet đã tạo

tiền đề cho sự ra đời và phát triển của báo điện tử.

Điều 3, chương 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật báo chí

2016, 103/2016/QH13 quy định: “Báo điện tử là loại hình báo chí sử dụng

chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được truyền dẫn trên môi trường mạng, gồm

báo điện tử và tạp chí điện tử” [37, tr. 1].

Khác với loại hình báo chí truyền thống có tính định kỳ, giúp người đọc

theo dõi thông tin dễ dàng, thông tin trên báo điện tử đăng tải không theo định

kỳ. Bất kể lúc nào có thông tin đều được đăng tải vì vậy thông tin trên báo

điện tử luôn luôn mới.

Báo điện tử cho phép tiếp cận thông tin không đồng bộ và phi tuyến tính,

tức là người đọc có thể đọc theo ý thích của mình, chọn bất cứ phần nào của

bài viết để đọc mà không nhất thiết phải đi từ đầu tới cuối; họ có thể tiếp cận

tới bài báo không qua trang chủ mà đi thẳng từ trang tìm kiếm; họ đọc vào

thời điểm mà họ lựa chọn và theo cách thức họ muốn, họ chủ động tìm kiếm

và xử lý thông tin.

Bên cạnh đó, báo điện tử có khả năng tích hợp đa phương tiện, báo điện tử

có thể kết hợp ba loại hình phương tiện truyền thông đại chúng hiện nay là

20

báo viết, truyền hình và phát thanh. Cùng một lúc người đọc có thể tiếp cận

thông tin như: chữ viết, âm thanh, hình ảnh (cả hình ảnh tĩnh và hình ảnh

động). Hội tụ công nghệ đang là một xu hướng phát triển tất yếu và ngày càng

diễn ra mạnh mẽ. Đây cũng chính là điều độc đáo của báo điện tử so với các

loại hình báo chí khác.

Ngoài ra, tốc độ tìm kiếm thông tin nhanh và lưu trữ thông tin dễ dàng.

Độc giả không cần phải chờ đến giờ ra báo, thời gian phát sóng…mà vẫn có

thể sở hữu được những thông tin cần biết một cách nhanh chóng, cập nhật

nhất. Thông tin của báo điện tử được lưu giữ với thời gian khá lâu, tra cứu

thuận tiện từ nhiều nguồn, theo dõi thông tin một cách có hệ thống…đây luôn

là thế mạnh khó cạnh tranh của loại hình báo chí này.

Tính tương tác nhiều chiều, bất cứ loại hình truyền thông nào trong thế kỷ

XXI này đều phát huy cao khả năng tương tác. Báo in nhận phản hồi, ý kiến

của bạn đọc thông qua thư tín, E-mail, phát thanh, truyền hình sử dụng thêm

các hình thức như điện thoại, chat…nhưng với báo điện tử thì các hình thức

tương tác phong phú, linh hoạt hơn nhiều. Thông qua việc trao đổi E-mail,

tham gia các chương trình tương tác (thăm dò, bình chọn…), phản hồi dưới

bài viết, tham gia diễn đàn…; mối quan hệ giữa người đọc và tòa soạn,..

1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về vấn đề tự do tôn giáo

Việt Nam là quốc gia có nhiều tôn giáo và các loại hình tín ngưỡng; tín đồ

các tôn giáo đều là nhân dân lao động, có tinh thần yêu nước, chống giặc

ngoại xâm. Ở nước ta, quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo được hình

thành từ các triều đại phong kiến. Từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

ra đời, Đảng và Nhà nước ta đã xác định quản lý nhà nước đối với các hoạt

động tôn giáo là một nhiệm vụ quan trọng trong quản lý nhà nước. Đến nay,

Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh những

quan hệ xã hội liên quan đến tôn giáo và hoạt động tôn giáo. Pháp luật về hoạt

động tín ngưỡng, tôn giáo trở thành một bộ phận không thể thiếu trong hệ

21

thống pháp luật của nước Cộng hóa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Công tác

quản lý nhà nước trên lĩnh vực tôn giáo ngày càng được củng cố, hoàn thiện,

góp phần quan trọng bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân,

đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết dân dộc và đấu tranh

làm thất bại âm mưu, hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo xâm phạm an

ninh quốc gia. Chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước

đã cơ bản đáp ứng được nguyện vọng của đồng bảo nhân dân, củng cổ niềm

tin, tạo động lực, sự phấn khởi cho đồng bào các tôn giáo đồng hành cùng dân

tộc cùng toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ngay trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã xác định đồng bào các tôn

giáo là một bộ phận của lực lượng cách mạng Việt Nam. Đảng, Nhà nước ta

có nhiều chủ trương, chính sách đoàn kết các tôn giáo trong khối đại đoàn kết

dân tộc để tiến hành thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ

nghĩa xã hội ở nước ta.

Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân luôn được Nhà nước ta tôn

trọng, bảo đảm, coi đó là một trong những quyền cơ bản của công dân.

Sau hơn 30 năm tiến hành công cuộc Đổi mới, Đảng và Nhà nước ta

không ngừng đổi mới nhận thức về tôn giáo và quản lý nhà nước trong lĩnh

vực tôn giáo, tín ngưỡng. Đây là nền tảng để xây dựng chủ trương, chính

sách, tạo điều kiện thuận lợi cho sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng của đồng bào

có đạo và nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.

Nghị quyết số 24 (1990) của Bộ Chính trị “Về tăng cường công tác tôn

giáo trong tình hình mới” lần đầu tiên khẳng định các quan điểm mới về tôn

giáo, tín ngưỡng: tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài; tín ngưỡng, tôn giáo là

nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân; đạo đức tôn giáo có nhiều điều

phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới. Từ đây, công tác quản lý nhà

nước trong lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng cũng được định hướng: vừa quan

tâm giải quyết hợp lý nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng, vừa kịp thời đấu

22

tranh chống lợi dụng tôn giáo; nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công

tác vận động quần chúng và công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ

thống chính trị.

Trong các chỉ thị, nghị quyết tiếp theo, tư duy lý luận của Đảng về vấn đề

tôn giáo tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện: Chỉ thị 37 (1998) của Bộ Chính trị

chỉ rõ: "Những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo được tôn trọng và

khuyến khích phát huy". Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung

ương khóa VIII về “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc

dân tộc” (1998) khuyến khích ý tưởng công bằng, bác ái, hướng thiện... trong

tôn giáo. Đặc biệt, Nghị quyết số 25 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần

thứ 7 khóa IX của Đảng (2003) đã tổng kết và phát triển tư duy lý luận của

Đảng về vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ

nghĩa xã hội ở nước ta. Theo đó, nhận thức mới về vấn đề tôn giáo trong thời

kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tập trung ở những nội dung chủ yếu sau:

Một là, thừa nhận sự tồn tại của tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ

nghĩa xã hội. Đây là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, thể hiện một cách

rõ ràng quan điểm của Đảng về vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ

nghĩa xã hội. Từ quan điểm "tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài" đến Nghị

quyết 25, Đảng đã khẳng định rõ hơn “tôn giáo đang và sẽ tồn tại cùng dân

tộc trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội". Luận điểm này, một mặt, cụ thể

hóa quan điểm "tồn tại lâu dài" của tôn giáo, nhưng phát triển và làm rõ hơn

mối quan hệ giữa tôn giáo với dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta; mặt

khác, khắc phục được tư tưởng chủ quan, duy ý chí, rằng tôn giáo sẽ nhanh

chóng lụi tàn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Thừa nhận sự tồn tại của tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã

hội, Đảng ta cũng khẳng định những điểm tương đồng giữa lý tưởng của tôn

giáo và chủ nghĩa xã hội. Nghị quyết 25 chỉ rõ: "Mục tiêu dân giàu, nước

mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là điểm tương đồng để gắn bó

23

đồng bào các tôn giáo với mục tiêu chung". Đây là luận điểm mới, có giá trị

lý luận và thực tiễn sâu sắc, là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về

việc khai thác, phát huy những giá trị tốt đẹp trong văn hóa, đạo đức của các

tôn giáo với mục tiêu xây dựng xã hội mới ở nước ta. Quan điểm này ngăn

chặn và làm thất bại những thủ đoạn tuyên truyền xuyên tạc của các thế lực

thù địch về chủ nghĩa cộng sản vô thần chống tôn giáo, vi phạm nhân quyền,

dân chủ, đồng thời phát huy mặt tích cực của các tôn giáo, tạo cơ sở cho sự

đồng thuận xã hội.

Hai là, tôn giáo, tín ngưỡng là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân.

Quan điểm này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đổi mới tư duy lý luận của

Đảng về vấn đề tôn giáo. Nếu như trước đây, tôn giáo thường chỉ được tiếp cận

hạn chế từ góc độ tư tưởng triết học và chính trị, với định nghĩa mang tính kinh

điển "tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân"; tín ngưỡng thường được gắn liền

với hủ tục, mê tín dị đoan…, thì giờ đây, tôn giáo tín ngưỡng đã được nhìn nhận

là một phần của lịch sử dân tộc, văn hóa và đạo đức và hơn thế, là thực thể xã

hội có khả năng cố kết cộng đồng và ổn định trật tự, an toàn xã hội... Quan điểm

mới này đặt nền móng cho sự quản lý của các cấp chính quyền và đoàn thể chính

trị xã hội, thể hiện sự quan tâm và bảo đảm những lợi ích thiết thân của đồng bào

các tôn giáo trong việc thỏa mãn nhu cầu đời sống tín ngưỡng lành mạnh, chính

đáng của họ, tương tự như việc bảo đảm các quyền khác của con người như ăn,

mặc, cư trú, nhân quyền, dân chủ…

Ba là, thừa nhận và khuyến khích phát huy những giá trị đạo đức, văn hóa,

truyền thống tốt đẹp của tôn giáo trong công cuộc xây dựng xã hội mới. Luận

điểm này là sự kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng trong cách mạng

dân tộc, dân chủ, nhưng được bổ sung, phát triển làm sâu sắc hơn trong thời

kỳ Đổi mới. Tôn giáo trong quá trình tồn tại và phát triển luôn bộc lộ hai mặt

tích cực và tiêu cực. Trước đây, do yêu cầu của cách mạng cần phải tập trung

cho nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc trong điều kiện các thế lực thù

24

địch lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng nên chúng ta thường nhấn mạnh

đến mặt tiêu cực, hạn chế của tôn giáo, như tư tưởng yếm thế, ru ngủ con

người. Theo quan điểm đổi mới của Đảng, bên cạnh mặt hạn chế cần khắc

phục, phải trân trọng và phát huy những giá trị tích cực của tôn giáo, trong đó

có mặt tích cực về đạo đức, văn hóa tôn giáo. Tôn giáo có chức năng điều

chỉnh hành vi xã hội của con người, hướng con người đến chân, thiện, mỹ.

Tín đồ các tôn giáo với niềm tin vào đấng tối cao và cuộc sống vĩnh hằng sau

khi chết, lo sợ bị trừng phạt hoặc bị "quả báo" nếu phạm tội hoặc làm điều ác

nên thường có hành vi đạo đức hướng thiện. Giáo lý giáo luật và những lời

răn dạy của tôn giáo đã tạo ra những quy phạm đạo đức hướng con người làm

các việc thiện lành, tránh điều ác, tu nhân tích đức để được giải thoát (Phật

giáo), được lên thiên đàng (Kitô giáo, Hồi giáo). Các tôn giáo không chỉ

"thiêng hóa" các quy phạm đạo đức mà còn tạo ra dư luận xã hội để điều

chỉnh hành vi của tín đồ hướng đến cái thiện, bài trừ cái ác. Như vậy, đạo đức

tôn giáo góp phần điều chỉnh hành vi xã hội của con người. Thực tế cho thấy,

ở những nơi tôn giáo ổn định, có đông tín đồ thì các tệ nạn xã hội ít hơn, trật

tự ổn định và lối sống đạo đức nền nếp hơn.

Bên cạnh những hạn chế, tôn giáo tín ngưỡng chứa đựng nhiều yếu tố hợp

lý bởi tính nhân văn, hướng thiện của nó, những giá trị văn hóa, đạo đức tốt

đẹp của tôn giáo, tín ngưỡng có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng

xã hội mới. Quan điểm nêu trên của Đảng khơi dậy, động viên tín đồ, chức

sắc các tôn giáo phát huy những giá trị tốt đẹp, mặt tích cực, điểm tương đồng

của tôn giáo với chủ nghĩa xã hội, phát huy tinh thần yêu nước của đồng bào

các tôn giáo.

Bốn là, giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ

cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và nhân dân. Quan

điểm này hoàn toàn mới, có tính sáng tạo trong tư duy lý luận của Đảng ta về

vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo. Lần đầu tiên nội hàm của tín ngưỡng được đề cập

25

tới một cách chính thức trong văn kiện của Đảng. Trong tâm thức của người

Việt Nam, thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với dân, với nước

không chỉ là một loại hình tín ngưỡng mà còn là đạo lý "uống nước nhớ

nguồn" của dân tộc. Việc Đảng ta thừa nhận những giá trị tốt đẹp của truyền

thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và nhân

dân có ý nghĩa hết sức quan trọng, góp phần định hướng cho các tôn giáo, tín

ngưỡng đồng hành, gắn bó với dân tộc, và việc phát huy những giá trị tích cực

của truyền thống thờ cúng tổ tiên, đồng thời cũng là nhân tố quan trọng đáp

ứng nhu cầu đời sống tinh thần, tâm linh, tâm lý của người dân. Bên cạnh việc

phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh

những người có công với dân với nước, Đảng ta cũng chỉ rõ phải thượng tôn

pháp luật, nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng,

tôn giáo; nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái pháp

luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ dân tộc,

gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia. Những quan điểm này mang tính biện

chứng sâu sắc trong tư duy lý luận của Đảng trong việc giải quyết mối quan

hệ giữa xây và chống (xây dựng khối đoàn kết toàn dân, chống phân biệt đối

xử, chống âm mưu chia rẽ dân tộc, kích động gây rối); giữa giữ gìn, phát huy

các giá trị truyền thống tốt đẹp với đấu tranh loại trừ các tệ nạn mê tín, hủ tục

nhằm bảo đảm cho môi trường sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo lành mạnh.

Thực tiễn cho thấy, sự đổi mới tư duy của Đảng về tôn giáo, tín ngưỡng đã

tạo nền tảng cho việc tạo lập các chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà

nước, tạo điều kiện thuận lợi cho sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng của đồng bào

có đạo và tính hiệu quả của quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Các luật,

nghị định về tín ngưỡng tôn giáo mới được ban hành trong năm 2016, 2017 là

những bước tiến lớn trong việc luật hóa vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo trong tình

hình mới. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề bất cập chưa được giải quyết, đòi

hỏi việc xây dựng chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo cần tiếp tục

26

được bổ sung, hoàn thiện bởi các cấp, các ngành trong thời gian tới.

1.3. Những đặc điểm cơ bản về tình hình tôn giáo ở Việt Nam nói

chung và tỉnh Vĩnh Phúc

1.3.1. Đặc điểm cơ bản về tình hình tôn giáo ở Việt Nam

Việt Nam là một quốc gia có nhiều tín ngưỡng tôn giáo. Trong thời quân

chủ tại Việt Nam, Nho giáo được chính quyền khuyến khích, được xem là nền

tảng của chế độ khoa cử, nhiều văn miếu được xây dựng trong cả nước. Tuy

nhiên trong các Triều đại như nhà Lý, nhà Trần và các chúa Nguyễn, Phật

giáo cũng có vai trò quan trọng trong triều đình và được các chính quyền

phong kiến khuyến khích. Các tôn giáo có mặt lâu đời tại Việt Nam là Khổng

giáo, Lão giáo và Phật giáo (gọi chung là tam giáo). Về sau, còn có thêm Ấn

Độ giáo, Phật giáo Hòa Hảo và Đạo Cao Đài trong nước.

Kitô giáo tới Việt Nam từ thời kỳ Nhà Lê sơ qua các nhà truyền giáo

thuộc Công giáo Rôma, và phát triển khá mạnh. Tuy nhiên, không nơi nào lại

có nhiều ảnh hưởng Công giáo lớn như miền nam từ thời Chúa Nguyễn, do

các chúa Nguyễn thường khoan dung hơn với người Công giáo và trọng dụng

họ. Chúa Trịnh, trong khi đó, có sự nghi kỵ và thậm chí phân biệt đối xử với

người Công giáo. Vì thế, người Công giáo thường di tản vào nam và tạo nên

ảnh hưởng rất lớn trong xã hội miền nam về sau. Tuy nhiên, Công giáo bắt

đầu bị đàn áp từ Nhà Tây Sơn, khi triều Tây Sơn cáo buộc người Công giáo

cộng tác với các Chúa chống lại phong trào. Cuộc đàn áp gia tăng dưới thời

Hoàng đế Cảnh Thịnh, và tạm ngưng sau khi Gia Long lập nhà Nguyễn. Bản

thân Gia Long nặng ân với người Công giáo bởi lòng trung thành của họ, và

ông đã đóng góp trong việc bảo vệ người Công giáo. Tuy nhiên, Minh Mạng

quay trở lại với chính sách bảo thủ, đàn áp Công giáo lần nữa và nó tiếp tục

cho tới năm 1858 khi Pháp đánh Việt Nam, buộc Tự Đức phải chấm dứt chính

sách khủng bố Công giáo. Các nhóm Kháng Cách (được biết đến nhiều với

tên gọi là Tin Lành) tới Việt Nam từ năm 1911 bởi những người truyền giáo

27

Hoa Kỳ, nhưng chủ yếu mạnh ở Tây Nguyên.

Hồi giáo đến Việt Nam bởi những người truyền giáo Ả Rập và Malay từ

thế kỷ 10 hoặc 11 nhưng mạnh lên vào thế kỷ 15, mạnh mẽ ở cộng đồng

người Chăm vốn là dân Ấn Độ giáo. Người Chăm ở Việt Nam bị chính quyền

phong kiến của người Việt có thành kiến vì đã ủng hộ nhà Minh trước đây,

nên đã bị phân biệt đối xử sau khi Chăm Pa bị sát nhập. Tuy nhiên cùng thời

điểm, người Chăm cũng được các chính quyền Việt Nam sử dụng làm lính

chiến trường ở biên giới để đổi lấy quyền được sống trong những khu tự trị ở

phía nam. Cùng lúc đó, sự phân chia tôn giáo giữa người Chăm ngày càng trở

nên rõ ràng. Những người Chăm thuần Ấn giáo tiếp tục theo đuổi tôn giáo

này; trong khi Hồi giáo Chăm Bani lại được tách ra khỏi Hồi giáo Chăm

Islam. Chăm Bani có niềm tin Hồi giáo không giống như người theo Islam

gốc, khi Chăm Bani tích hợp cả Phật giáo, Ấn Độ giáo và tín ngưỡng Chăm

cổ đại, tạo nên một bản sắc riêng của người Chăm Bani.

Sau năm 1954, khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, vấn đề tâm linh như là

một đối tượng đấu tranh tư tưởng, thậm chí là đấu tranh bằng ý thức hệ.

Chính quyền cố gắng bài trừ mê tín dị đoan đến mức mọi chuyện liên quan

đến tâm linh đều bị đả phá. Đền Hùng cũng bị phá vì bị cho rằng đó là mê tín

dị đoan. Ở miền Bắc, từ năm 1954 cho đến đầu những năm 1980 hầu như

không tồn tại các hoạt động thực hành tín ngưỡng nữa thì trong khoảng thời

gian đó, trong miền Trung và miền Nam vẫn duy trì. Trong khi đó, ở miền

Nam, Ngô Đình Diệm, một người Công giáo được Hoa Kỳ ủng hộ với niềm

tin rằng ông sẽ xây dựng một nước Việt Nam hợp ý, vững mạnh và đa văn

hóa, lại làm mất lòng tất cả những kỳ vọng khi tiến hành chính sách khủng bố

Phật giáo và gia tăng ảnh hưởng Công giáo. Ngô Đình Diệm xách động xung

đột khi những quyền cơ bản của người Phật giáo đã không được tôn trọng bởi

chính phủ Công giáo cực đoan của ông. Điều đấy dẫn đến Biến cố Phật giáo

năm 1963 lật đổ chính phủ Công giáo và tạo ra hiềm khích giữa những người

28

theo Phật giáo và Công giáo ở miền Nam cho tới năm 1990.

Trong số các tôn giáo ở Việt Nam, Phật giáo có số tín đồ đông đảo nhất.

Theo thống kê dân số năm 2009 thì số tìn đồ Phật giáo là 6.802.318 người

trong đó 2.988.666 tín đồ ở thành thị và 3.813.652 tín đồ ở nông thôn, địa

phương tập trung đông đảo tin đồ Phật giáo nhất là thành phố Hồ Chí Minh

với 1.164.930 tín đồ. Còn theo số liệu thống kê của Giáo hội Phật giáo Việt

Nam, cả nước có gần 45 triệu tín đồ đã quy y Tam bảo, có 839 đơn vị gia đình

Phật tử và khoảng 44.498 tăng ni; hơn 14.775 tự, viện, tịnh xá, tịnh thất, niệm

Phật đường trong cả nước. Ngoài ra từ 80% đến 90% dân số Việt Nam mang

thiên hướng Phật giáo.

Có hai nhánh Phật giáo ở Việt Nam là Đại thừa và Tiểu thừa. Phật giáo

Đại thừa lần đầu tiên từ Trung Quốc vào tới vùng đồng bằng châu thổ sông

Hồng của Việt Nam từ khoảng năm 200 và trở thành tôn giáo phổ biến nhất

trên toàn đất nước, trong khi Phật giáo Tiểu thừa từ Ấn Độ du nhập vào phía

nam đồng bằng sông Cửu Long từ khoảng năm 300 - 600 và trở thành tôn

giáo chính ở vùng đồng bằng phía nam Việt Nam.

Có thuyết khác lại cho rằng Phật giáo bắt đầu truyền vào Việt Nam trong

khoảng thế kỉ thứ ba đến thế kỉ thứ hai trước công nguyên từ Ấn Độ theo

đường biển chứ không phải từ Trung Hoa. Lúc đầu Phật giáo tại Việt Nam

(đồng bằng châu thổ sông Hồng) mang màu sắc của Phật giáo Tiểu thừa

nhưng về sau do ảnh hưởng của Trung Hoa mời chuyển dần thành Đại thừa

Phật giáo Đại thừa được nhiều người thừa nhận là tôn giáo chính của

người Việt, người Hoa và một số dân tộc thiểu số sinh sống ở miền núi phía

Bắc như Mường, Thái, Tày... Phật giáo Đại thừa tại Việt Nam có ba tông phái

chính là Thiền tông, Tịnh Độ tông và Mật tông. Trong thực tế Phật giáo Đại

thừa ở Việt Nam tồn tại hòa hợp với Đạo giáo, Khổng giáo và các đức tin bản

địa như tục thờ cúng tổ tiên, thờ Mẫu.

Bức tranh về tôn giáo ở Việt Nam ngày nay cũng rất đa dạng và phong

29

phú, có thể chia làm 2 loại là tôn giáo nội sinh và tôn giáo ngoại nhập. Ở đây

cũng cần lưu ý rằng, các tôn giáo được gọi là nội sinh cũng không phải không

vay mượn một số yếu tố ngoại nhập và ngược lại tôn giáo ngoại nhập cũng

dần được Việt hóa, được hiểu, diễn giải theo tâm thức tín ngưỡng tâm linh

của người Việt, phát triển trên nền văn hóa Việt, thậm chí vay mượn yếu tố

tín ngưỡng Việt.

Việt Nam hiện có 40 tổ chức tôn giáo thuộc 13 tôn giáo được chính phủ

công nhận (Xem Phụ lục).

Trong 2 năm 2011 và 2012, tại Việt Nam có 600 cơ sở thờ tự được nâng

cấp, sửa chữa và hơn 500 công trình tôn giáo được xây mới. Các học viện, đại

chủng viện, các trường cao cấp, trung cấp của cá tổ chức tôn giáo được mở ra

tại nhiều nơi với sự tạo điều kiện thuận lợi của chính quyền địa phương. Chỉ

tính riêng 15 năm gần đây, các tôn giáo Việt Nam đã có 15.000 người được

phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, trong đó Tòa thành

Vatican đã phong chức 25 giám mục, giám mục phụ tá các giáo phận. Đến

nay, ở Việt Nam có 83.000 chức sắc, 250.000 chức việc.

Trong những năm qua, nhiều hoạt động của các tổ chức tôn giáo với sự tham

dự của đồng bào chức sắc, tín đồ và khách nước ngoài đã được tổ chức. Nhằm

góp phần vào các hoạt động quốc tế trong lĩnh vực tôn giáo, nhiều cơ quan liên

quan và nhiều tổ chức tôn giáo ở Việt Nam đã đón nhiều đoàn khách nước

ngoài; đồng thời cử các đoàn đi nước ngoài trao đổi kinh nghiệm về lĩnh vực tôn

giáo và tích cực tham gia các diễn đàn, hội nghị ở khu vực và thế giới. Đặc biệt,

quan hệ Việt Nam – Vatican đã có nhiều bước cải thiện đáng kể.

Những thành tựu về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam là bằng chứng hùng

hồn về tôn trọng và đảm bản quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, là nguyên tắc

hàng đầu và nhất quán của Đảng, Nhà nước ta vì cuộc sống tính thần của

người dân. Chính vì vậy, các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ yên tâm sinh

hoạt tôn giáo và cùng nhau đoàn kết, đồng lòng hướng tới mục tiêu: “Dân

30

giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Đại đa số tín đồ các tôn giáo là người lao động, chủ yếu là nông dân cư trú

trên địa bàn cả nước, một bộ phận tín đồ là đồng bào dân tộc thiểu số theo các

tôn giáo cư trú ở các địa bàn Tây Bắc (100 ngàn), Tây Nguyên (400 ngàn),

Tây Nam Bộ (1,3 triệu).

Trong công cuộc đổi mới đất nước, đa số chức sắc và tín đồ các tôn giáo

tích cực thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, hành

đạo trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật. Phát huy tinh thần yêu nước, đại

đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam

xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, tình hình hoạt động tôn giáo còn có những diễn biến phức tạp,

tiềm ẩn các yếu tố có thể gây mất ổn định ở cơ sở. Một số tôn giáo đẩy mạnh

củng cố tổ chức, phát triển tín đồ, phô trương thanh thế, lợi dụng truyền đạo trái

pháp luật, kích động tín đồ đòi đất, cơ sở thờ tự của tôn giáo. Ở một số nơi, nhất

là ở vùng dân tộc thiểu số, một số người đã lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo kích

động tín đồ tham gia hoạt động chống đối chính quyền, phá hoại khối đại đoàn

kết toàn dân tộc gây mất ổn định chính trị xã hội. Thành lập các Hội đoàn tôn

giáo mang yếu tố chính trị, kích động tín đồ, làm giảm vai trò, uy tín của đảng

viên có đạo ở cơ sở địa phương. Còn xuất hiện “tà đạo” mang yếu tố mê tín,

phản văn hoá, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc. Các thế lực thù địch

trong và ngoài nước triệt để lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo gắn với vấn

đề dân tộc, dân chủ, nhân quyền để chống phá cách mạng nước ta.

1.3.2. Tình hình tôn giáo trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc

Những năm qua, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn tỉnh luôn

được đảm bảo, duy trì, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đáp

ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân; tạo môi trường ổn định phục vụ sự

nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương.

Vĩnh Phúc là tỉnh có đa tín ngưỡng, tôn giáo với nhiều cơ sở thờ tự và

31

quần chúng tín đồ. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 3 tôn giáo được Nhà nước

công nhận cho phép hoạt động là đạo Phật, đạo Công giáo và đạo Tin lành,

ngoài ra, còn có các điểm nhóm Tin lành tự lập và một số nhóm hoạt động

mang màu sắc tôn giáo. Toàn tỉnh có 464 cơ sở thờ tự, hàng năm, có trên 430

lễ hội các loại, cơ bản đáp ứng được nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của quần

chúng tín đồ.

Về Đạo Phật: Toàn tỉnh hiện có 328 tăng, ni, người tu hành đang sinh

hoạt, hoạt động tại 102/397 cơ sở tự viện trên địa bàn tỉnh, có 84 chùa xếp

hạng di tích, trong đó 15 chùa xếp hạng Di tích Quốc gia; 69 chùa xếp hạng

Di tích cấp tỉnh, có khoảng trên 136.000 tín đồ phật tử. Ban Trị sự GHPGVN

tỉnh và Ban Trị sự GHPGVN các huyện, thành, thị, tích cực tham gia các hoạt

động từ thiện xã hội: ủng hộ cho bệnh nhân, học sinh nghèo vượt khó, trẻ em

tàn tật, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, đi cứu trợ, ủng hộ đồng bào Miền

Trung lũ lụt… vv

Về Đạo Công giáo: Hiện nay Đạo Công giáo ở tỉnh Vĩnh Phúc có 12 xứ đạo

trên 22.000 tín đồ, có 11 Linh mục phụ trách xứ tại 47 nhà thờ xứ, họ đạo. Các

giáo xứ, giáo họ duy trì sinh hoạt theo lịch mục vụ và tổ chức các lễ trọng: Lễ

Phục sinh, chúa nhật, lễ thánh Giuse, lễ Đức Bà, lễ Bảo Trợ, lễ Đức Mẹ Mân

Côi...tuân thủ theo đúng quy định pháp luật và đảm bảo an ninh trật tự. Tại các

giáo xứ, các Linh mục đã giảng dạy cho tín đồ kính nhớ tổ tiên, ông bà, cha mẹ;

cầu bình an và thánh hoá công việc làm ăn. Nhiều hoạt động mục vụ nhằm tăng

cường củng cố đức tin cho lớp trẻ; công tác phát triển giáo hội như: Họp mặt

giáo phận kỳ II, mở các lớp sư phạm giáo lý cho thiếu nhi thánh thể, huynh

trưởng, các trưởng phó ban hành giáo và các hội đoàn... Trong năm 2018, các

hoạt động tại các Giáo xứ, Giáo họ trên địa bàn tỉnh sinh hoạt bình thường, ổn

định tuân thủ các quy định của pháp luật; các giáo xứ, giáo họ duy trì sinh hoạt

tôn giáo theo lịch mục vụ, các lễ trọng được tổ chức tại Nhà thờ với hình thức

gọn nhẹ, trang trọng, tiết kiệm: Lễ tất niên; lễ cầu năm mới; cầu bình an; lễ Tro,

32

lễ phục sinh, Lễ Đức mẹ Mân Côi, lễ các Thánh Nam nữ…

Ngoài ra các Linh mục tập trung dâng lễ tại các nhà thờ xứ họ mình phụ

trách; Tháng 3/2018 Tòa Giám mục Bắc Ninh có quyết định thuyên chuyển

linh mục đi, đến trên địa bàn tỉnh tỉnh Vĩnh Phúc (4 chuyển đi, 5 chuyển đến).

Các giáo xứ, họ giáo tổ chức các lễ ngoài chương trình đăng ký đều xin phép

cấp có thẩm quyền và tổ chức các cuộc lễ theo đúng nội dung, chương trình

đăng ký: lễ khánh thành nhà thờ họ An Định (Vĩnh Yên); lễ đón tân linh mục

(giáo xứ Phúc Yên, Vĩnh Yên)…

Đạo Tin lành hiện nay ở Vĩnh Phúc có 01 Chi hội thánh Tin lành Phúc

Yên thuộc Chi hội Thánh Tin lành Miền Bắc với 40 tín đồ; có 04 thành viên

Ban chấp sự; 01 Mục sư quản nhiệm (Mục sư Nguyễn Văn Long phụ

trách từ tháng 4/2018), Chi hội Thánh tại số 5 phố Yên Ninh, phường

Trưng Trắc, thị xã Phúc Yên. Chi hội duy trì sinh hoạt vào chủ nhật hàng

tuần, hoạt động bình thường, ổn định, thuần túy tôn giáo, chấp hành pháp

luật và những quy định tại địa phương. Từ tháng 09/2013 Chi hội tổ

chức các hoạt động hướng tới Đại hội Đồng Tổng liên hội, chuẩn bị thống

nhất Hội thánh hai miền Nam Bắc; Ngày 1/10/2018 Chi hội thánh Tin lành

Phúc Yên có 5 đại biểu do Mục sư Nguyễn Văn Long làm trưởng đoàn đi

tham dự Đại hội đồng lần thứ 34 của Hội Thánh Tin lành Việt Nam ( Miền

Bắc) diễn ra từ ngày 02 – 03/10/2018 tại Hà Nội; sau Đại hội tín đồ Chi hội

thánh Tin lành Phúc Yên rất phấn khởi trước thành công của Đại hội.

Về Đạo lạ: Tính đến thời điểm hiện tại, tỉnh Vĩnh Phúc có 07 loại đạo lạ

hoạt động là Tâm linh Hồ Chí Minh ( đạo Nguyễn Điền), Long Hoa Di

Lặc, Hội Tiên Rồng, Hội Tâm linh, Giáo hội Lạc Hồng, Pháp Luân Công và

Đoàn 18 Phú Thọ. Số lượng cụ thể của các loại đạo lạ là: Tâm linh Hồ Chí

Minh (đạo Nguyễn Điền) có 233 người có ở hầu hết các huyện, thành, thị;

Long Hoa Di Lặc có 8 người ở huyện Bình Xuyên, Tam Đảo; Hội tâm linh có

31 người ở huyện Bình Xuyên, Vĩnh Tường, Yên Lạc, Giáo hội Lạc Hồng có

33

3 người ở huyện Lập Thạch, Pháp Luân Công có 7 người trong đó: ở huyện

Bình Xuyên có (01 người), Vĩnh Tường (06 người); Đoàn 18 Phú Thọ có 01

người ở huyện Tam Dương.

Phật giáo ở Vĩnh Phúc sẵn sàng đón nhận các hệ phái mới và cùng tồn tại

trong sự hòa hợp Phật giáo ở Vĩnh Phúc hiện nay cùng với các cơ sở thờ tự

vốn có của mình, ngoài những hệ phái cổ truyền ở địa phương, đã đón nhận

một số hệ phái mới như:

- Thứ nhất, ba thiền phái Tịnh độ tông, Thiền tông Trúc Lâm Đà Lạt, Mật

tông Drukpa, v.v…Sự xuất hiện của các hệ phái mới làm cho sắc thái Phật

giáo ở Vĩnh Phúc ngày càng đa dạng hơn.

- Thứ hai, các thiền viện mới được xây dựng khang trang và bề thế, như:

Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên, Thiền viện Trúc Lâm An Tâm, Thiền viện

Trúc Lâm Tuệ Đức gần đây đã nâng cao vị thế của phật giáo ở Vĩnh Phúc.

Cùng với Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt và Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử,

Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên là một trong ba thiền viện Trúc Lâm lớn nhất

ở Việt Nam.

- Thứ ba, sự có mặt của Thiền viện Trúc Lâm An Tâm làm cho Vĩnh Phúc

trở thành địa phương thứ hai ở miền Bắc có thiền viện dành cho ni giới.

- Thứ tư, dòng truyền thừa Drukpa được truyền bá vào Vĩnh Phúc làm cho

bức tranh Phật giáo ở tỉnh ta thêm độc đáo. Khi nói đến đặc điểm của Phật

giáo ở Vĩnh Phúc, không thể không nói tới sự hiện diện của dòng truyền thừa

này và ngôi Bảo tháp duy nhất tại Việt Nam được xây dựng ở Vĩnh Phúc.

Với các tôn giáo: đạo Phật, Công giáo, Tin lành, thời gian qua, tình hình

sinh hoạt, hoạt động của tổ chức, cá nhân, các cơ sở thờ tự được ổn định. Hoạt

động của các chức sắc, cơ sở thờ tự theo đúng nội dung, chương trình đã đăng

ký với chính quyền sở tại. Tuy nhiên, trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc hiện có 6

đạo lạ hoạt động trái pháp luật, đó là: Tâm linh Hồ Chí Minh hay còn gọi là

Hoàng Thiên Long - Nguyễn Điền; Long Hoa Di Lặc; Hội Tiên Rồng; Hội

34

Tâm linh; Giáo hội Lạc hồng và Đoàn 18 Phú Thọ xuất hiện rải rác tại 7/9

huyện, thành, thị với tổng số gần 380 người tham gia. Thực hiện công tác tôn

giáo năm 2016, Ban Chỉ đạo Công tác tôn giáo tỉnh chỉ đạo các sở, ngành liên

quan, Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh và các đoàn thể của tỉnh, các huyện,

thành, thị tăng cường công tác tuyên truyền tới toàn thể các chức sắc, nhà tư

hành, tín đồ các tôn giáo, cán bộ, đảng viên, hội viên, CCVC, công nhân lao

động và nhân dân trong tỉnh về các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp

luật của Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo.

1.4. Vai trò của báo chí trong việc thông tin tuyên truyền về tôn giáo

và tự do tín ngƣỡng

1.4.1. Tuyên truyền về đường lối, chính sách pháp luật về tôn giáo

Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo và có nhiều loại hình tín ngưỡng. Trong lịch

sử đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, chức sắc, tín đồ

các tôn giáo đều có những đóng góp to lớn, quan trọng. Đảng, Nhà nước Việt

Nam luôn khẳng định, đoàn kết tôn giáo là nguồn lực nội sinh có ý nghĩa đặc biệt

quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Tôn trọng quyền tự do

tín ngưỡng, tôn giáo, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo

là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng, Nhà nước ta được cụ thể bằng pháp

luật và đảm bảo trên thực tế và đây là một trong những quyền cơ bản của công

dân, được khẳng định trên nguyên tắc Hiến định (Hiến pháp năm 2013).

Ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 3-9-1945

tại phiên họp Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền tự do

tín ngưỡng, tôn giáo của một bộ phận đồng bào có đạo. Người nói: “Tôi đề

nghị Chính phủ tuyên bố tín ngưỡng tự do và lương - giáo đoàn kết”. Ngày

14-6-1955, Người đã ký Sắc lệnh số 234/SL nêu rõ: “Việc tự do tín ngưỡng,

tự do thờ cúng là quyền lợi của nhân dân. Chính phủ luôn tôn trọng và giúp

đỡ nhân dân thực hiện. Chính quyền không can thiệp vào nội bộ các tôn giáo.

Các tổ chức tôn giáo phải tuân theo pháp luật của Nhà nước như mọi tổ chức

35

khác của nhân dân. Việc bảo vệ tự do tín ngưỡng bắt buộc phải trừng trị

những kẻ đội lốt tôn giáo gây rối loạn”. Người từng kêu gọi các tôn giáo hãy

xóa bỏ hiềm khích, đoàn kết cùng toàn dân lo cho nền độc lập của nước nhà.

Kế thừa quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tôn giáo, trong

các giai đoạn cách mạng, Đảng, Nhà nước ta đều quan tâm đến nhu cầu tín

ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Bước sang thời kỳ đổi mới, Đảng, Nhà nước

ta ban hành nhiều chủ trương, chính sách về tôn giáo và cụ thể hóa quy định

của Hiến pháp năm 1992 và 2013 về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của

công dân. Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW

ngày 16-10-1990; Nghị quyết số 25- NQ/TW ngày 12-3-2003. Ủy ban

Thường vụ Quốc hội khóa 11 đã ban hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo (số

21/2004/ PL- UBTVQH 11) quy định về các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo.

Chính phủ ban hành Nghị định số 22/2005/NĐ-CP ngày 1-3- 2005 về hướng

dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo. Thủ tướng

Chính phủ ban hành Chỉ thị 1940/CT-TTg ngày 31-12-2008 “về nhà, đất liên

quan đến tôn giáo”, tạo hành lang pháp lý ổn định, nhất quán để ghi nhận, bảo

đảm thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Đây là điều rất

cần thiết nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước đối với

các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, bảo đảm tính tương thích với luật pháp

quốc tế. Hiến pháp năm 2013 có những sửa đổi rất quan trọng về chủ thể của

quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không chỉ là của “công dân” Việt Nam mà là

của “mọi người”, ghi nhận quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong

những quyền cơ bản của con người. Cụ thể hóa, Quốc hội khóa XIV thông

qua, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, có hiệu lực từ ngày 1-1-2018.

Như vậy, có thể khẳng định, các chính sách, pháp luật đã thể hiện sự quan

tâm đặc biệt, sâu sắc của Đảng, Nhà nước Việt Nam đến quyền tự do tín

ngưỡng, tôn giáo, nhu cầu tín ngưỡng của tín đồ, chức sắc các tôn giáo, làm

cho quần chúng nhân dân, tín đồ và các chức sắc tôn giáo yên tâm phấn khởi

36

tích cực thực hiện tốt cả “việc đạo, việc đời”; khuyến khích các tôn giáo tích

cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, lao động sản xuất phát triển

kinh tế - xã hội, đấu tranh ngăn chặn những hoạt động lợi dụng tôn giáo góp

phần bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Nếu như trước khi có Pháp lệnh Tín ngưỡng tôn giáo năm 2004, cả nước

có 6 tôn giáo, 13 tổ chức 20.929 cơ sở thờ tự tôn giáo, với 34.181 chức sắc,

78.913 chức việc, với 17,4 triệu tín đồ, thì đến năm 2018, cả nước có 15 tôn

giáo với 41 tổ chức, số lượng cơ sở thờ tự là 29.977, với 55.839 người,

133.662 chức việc, 24,7 triệu tín đồ.

So sánh các số liệu ở thời điểm trước và sau khi có pháp lệnh tín ngưỡng,

tôn giáo, cho thấy quyền tự do tôn giáo của người dân luôn được đảm bảo trên

thực tế, với minh chứng sinh động là sự gia tăng chức sắc, cơ sở thờ tự và tín

đồ các tôn giáo.

Trong các ngày lễ lớn của các tôn giáo như lễ Nô-en của Công giáo, Tin

lành, Lễ Phật đản của Phật giáo, chính quyền các cấp tạo điều kiện và hướng dẫn

để tôn giáo tổ chức và chỉ đạo công tác đảm bảo an ninh trật tự, để quần chúng

nhân dân và tín đồ tôn giáo yên tâm tham gia các lễ hội. Bên cạnh đó, Đảng, Nhà

nước Việt Nam còn triển khai nhiều chương trình, mục tiêu chiến lược phát triển

kinh tếxã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng tại các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng

bào các tôn giáo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào có đạo;

khẳng định sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo dưới sự

lãnh đạo của Đảng cùng phấn đấu cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tôn giáo là một vấn đề nhạy cảm. Phía sau chức sắc, chức việc tôn giáo có

hàng vạn tín đồ, quần chúng tin theo, nên thời kỳ nào các thế lực thù địch

cũng lợi dụng tìm mọi cách chống phá, tuyên truyền những luận điệu sai trái

cho rằng, Việt Nam không có tự do tôn giáo; Luật tín ngưỡng, có khái niệm

trừu tượng; Nhà nước dễ quy kết trách nhiệm và lên án các tổ chức tôn giáo,

khi chính quyền không hài lòng, tự do tôn giáo là quyền của mỗi người.

37

Chúng còn vu cáo Nhà nước ta vi phạm dân chủ, nhân quyền nhằm kích động,

chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc; chia rẻ Đảng, Nhà nước và

chính quyền các cấp với đồng bào có đạo. Mỗi khi Nhà nước ta bổ sung hoặc

thay thế những văn bản pháp luật mới để điều chỉnh hoạt động tôn giáo như

Luật tín ngưỡng, tôn giáo, Luật An ninh mạng… tương thích với luật pháp

quốc tế về quyền con người, phù hợp với quá trình hội nhập và phát triển của

đất nước, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng,tâm linh của chức sắc, tín đồ tôn giáo

thì các thế lực thù địch lại dấy lên chiến dịch viết bài đăng tải trên các trang

mạng, các blog… đòi bãi bỏ hoặc xuyên tạc, phủ nhận, tìm các chức sắc, tín

đồ thực hiện, tạo ra sự đối lập với chính quyền.

Song cần phải hiểu rõ, bản chất vấn đề tôn giáo là tổ chức mang tính xã hội. Ở

bất cứ quốc gia nào trên thế giới, dù là quốc gia phát triển hay đang phát triển, khi

thành lập tổ chức tôn giáo và hoạt động tôn giáo thì nhà nước có trách nhiệm đảm

bảo an ninh trật tự, đáp ứng nhu cầu tâm linh của mọi người và xử lý những người

cản trở hoạt động tôn giáo chính đáng. Các quốc gia đều quan tâm đến công tác

quản lý nhà nước về tôn giáo.Mỗi quốc gia có cách quản lý riêng tùy thuộc vào

điều kiện phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.Để xây dựng và hoàn thiện thể chế

nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, năm 2016, nước ta có Luật Tín ngưỡng,

tôn giáo. Quá trình xây dựng Luật, Chính phủ đều lấy ý kiến của chức sắc, tín đồ

các tôn giáo, do đó các tôn giáo đều phấn khởi đón nhận. Bên ngoài, cộng đồng

quốc tế ghi nhận và đánh giá cao nỗ lực của Việt Nam trong việc hoàn thiện pháp

luật, phù hợp với công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết, rút ngắn thời

gian công nhận tổ chức tôn giáo từ 23 năm xuống còn 5 năm, lần đầu tiên đã xác

nhận pháp nhân phi thương mại của tổ chức tôn giáo…

Như vậy, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng chính sách, pháp luật

để đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người và các tổ chức tôn

giáo xây dựng Hiến chương điều lệ hoạt động gắn bó, đồng hành cùng dân tộc

trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhờ đó, các tổ chức tôn

38

giáo ở ViệtNam đều có điều kiện giao lưu quốc tế, xây dựng tổ chức thực hành

chính đạo, mở rộng cơ sở thờ tự…. Nhiều cá nhân, tổ chức tôn giáo nước ngoài

đã thuyết pháp, giảng đạo tại một số cơ sở thờ tự tại Việt Nam công khai theo

quy định của pháp luật. Thông qua những hoạt động này, các tôn giáo đã tăng

cường trao đổi thông tin với tôn giáo đồng đạo để họ hiểu rõ hơn về chính sách,

pháp luật của Nhà nước Việt Nam. Sự đoàn kết và đóng góp của các tôn giáo ở

Việt Nam cùng chung tay, chung sức đã thể hiện trách nhiệm đối với xã hội,

đóng góp thiết thực vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Chính sách,

pháp luật về tôn giáo đã phát huy nguồn lực của tôn giáo và khuyến khích các tổ

chức tôn giáo tham gia vào các lĩnh vực của đời sống xã hội, đã xuất hiện nhiều

mô hình và tấm gương tiêu biểu của chức sắc, chức việc, tín đồ tôn giáo trong

công tác an sinh, xã hội, phòng chống biến đổi khí hậu, từ thiện.

1.4.2. Đấu tranh chống các quan điểm sai trái trong hoạt động tôn giáo

và tự do tín ngưỡng

Công tác bảo đảm an ninh trên lĩnh vực tôn giáo và đấu tranh với hoạt

động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo được các cấp, các ngành chức năng tăng

cường, góp phần đảm bảo ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Thực tế, bên cạnh hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống và được Nhà

nước công nhận cho phép hoạt động, thời gian qua, trên địa bàn tỉnh phát hiện

một số đối tượng lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để tụ tập đông người tuyên

truyền mê tín dị đoan, hoạt động mang màu sắc tôn giáo trái với thuần phong

mỹ tục của người Việt Nam. Để phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn hoạt động

lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo xâm phạm an ninh quốc gia, các cơ quan chức

năng, nhất là lực lượng công an nắm chắc tình hình, kịp thời phát hiện, đấu

tranh phản bác các luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc, vu khống, bịa đặt của

các thế lực thù địch về vấn đề tôn giáo; phối hợp với cơ quan, ban, ngành đẩy

mạnh tuyên truyền và thông báo với các chức sắc, chức việc trong các tôn

giáo về âm mưu, thủ đoạn hoạt động của các đối tượng lợi dụng tín ngưỡng,

39

tôn giáo gây phức tạp về an ninh trật tự, từ đó, hướng hoạt động của tôn giáo

theo đúng quy định, vận động các tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo. Vận động các

chức sắc, chức việc, tín đồ trong vùng tôn giáo tích cực tham gia phong trào

toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Đến nay, trên địa bàn tỉnh có 13 mô hình tự

quản về an ninh trật tự trong vùng đồng bào theo đạo Công giáo và 2 mô hình

"5 quản, 3 phòng, 3 bảo vệ" về an ninh trật tự trong Phật giáo.

Với việc triển khai đồng bộ từ công tác tuyên truyền, hướng dẫn thực hiện

các hoạt động tôn giáo, tham mưu giải quyết khiếu kiện, khiếu nại liên quan

đến tôn giáo và thực hiện hiệu quả các biện pháp đảm bảo an ninh trên lĩnh

vực tôn giáo...Vì vậy, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn tỉnh được

duy trì, giữ vững, góp phần tạo môi trường ổn định phục vụ sự nghiệp phát

triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương.

Qua công tác tuyên truyền đã nâng cao nhận thức của xã hội, đội ngũ cán

bộ trong hệ thống chính trị ở các cấp về tín ngưỡng, tôn giáo, thực hiện nhất

quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của

nhân dân. Chất lượng, hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo từng

bước được nâng cao. Các cấp, các ngành, địa phương tăng cường thăm nắm

tình hình sinh hoạt, hoạt động tôn giáo tại một số cơ sở thờ tự các tôn giáo

cũng như hướng dẫn thực hiện và giải quyết các hoạt động tôn giáo theo quy

định của pháp luật; thường xuyên, chủ động rà soát, kiểm tra, tập trung giải

quyết theo thẩm quyền các vụ việc liên quan đến tôn giáo như việc cấp, giao

giấy CNQSD đất cho cơ sở tôn giáo quản lý theo quy định; xây dựng công

trình tôn giáo; hướng dẫn một số Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo cấp huyện

giải quyết các vụ việc tôn giáo xảy ra trên địa bàn...

Tiểu kết chƣơng 1

Kế thừa quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tôn giáo, trong

các giai đoạn cách mạng, Đảng, Nhà nước ta đều quan tâm đến nhu cầu tín

40

ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Bước sang thời kỳ đổi mới, Đảng, Nhà nước ta

ban hành nhiều chủ trương, chính sách về tôn giáo và cụ thể hóa quy định của

Hiến pháp năm 1992 và 2013 về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân.

Với vai trò là một thành tố cấu thành của văn hóa, tôn giáo đã góp phần

lưu giữ, bồi đắp và làm phong phú những giá trị truyền thống văn hóa, mang

giá trị nhân văn, hướng thiện có ảnh hưởng tích cực trong đời sống xã hội,

thông qua giáo lý khuyên răn con người sống hướng thiện, vị tha, bác ái...

Những giới điều trong giáo lý các tôn giáo mang giá trị đạo đức và nhân văn

sâu sắc, góp phần điều chỉnh hành vi ứng xử của con người. Nhiều khu dân cư

có đông đồng bào theo tôn giáo trở thành điểm sáng về phòng chống tội

phạm, phòng chống ma túy và các tệ nạn xã hội khác, giữ gìn tốt an ninh trật

tự, an toàn xã hội. Tín đồ, chức sắc tích cực tham gia phát triển kinh tế xã hội,

góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong thời kỳ

đổi mới của đất nước. Dù mỗi tôn giáo đều có đường hướng và phương châm

hành đạo riêng nhưng đều chung một định hướng là sống “Tốt đời, đẹp đạo”

gắn bó đồng hành với dân tộc, với đất nước.

Các tôn giáo tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cùng chính

quyền các cấp xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, xây dựng nông thôn mới,

phát triển kinh tế xã hội; đặc biệt là cùng chung tay với nhà nước cứu trợ

thiên tai, chăm lo giúp đỡ người có hoàn cảnh khó khăn, giúp đỡ tiếp cận các

dịch vụ y tế, giáo dục, dạy nghề, văn hóa,...

Trong chương 1 của luận văn, tác giả luận văn đã đi sâu tìm hiểu các lí

thuyết cơ bản, các thuật ngữ liên quan đến tôn giáo, đưa ra khái niệm và vai

trò của báo chí trong việc truyền thông về tôn giáo tại Việt Nam. Đồng thời,

tác giả cũng đã nêu tình hình tôn giáo ở Việt Nam nói chung và tỉnh Vĩnh

Phúc nói riêng. Những kết quả đạt được trong chương 1 là cơ sở lý luận và

41

thực tiễn để khảo sát chương 2 của luận văn.

CHƢƠNG 2

THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TÔN GIÁO TỈNH VĨNH PHÚC

TRÊN BÁO CHÍ

2.1. Giới thiệu về các tờ báo khảo sát

2.1.1. Giới thiệu về báo Vĩnh Phúc

Báo Vĩnh Phúc ra số báo đầu tiên cách đây 68 năm, ngày 22/8/1951. Để

kịp thời phục vụ nhiệm vụ phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng cho

đảng viên và nhân dân, cũng như trao đổi tin tức kinh nghiệm giữa các địa

phương trong tỉnh, Ban Tuyên truyền Tỉnh ủy đã có Chỉ thị số 14 hợp nhất 2

bản tin Tia sáng và Tin tức thành một tờ báo công khai lấy tên là Vĩnh Phúc

Thông tin, lấy tôn chỉ mục đích là “Tờ báo của Đảng bộ chính quyền và nhân

dân trong tỉnh, phục vụ nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc”.

Từ ngày 1/1/1997, cùng với sự kiện tái lập tỉnh, Báo Vĩnh Phúc tách ra từ

Báo Vĩnh Phú. Đến nay, Báo Vĩnh Phúc không ngừng lớn mạnh cả về quy mô

và chất lượng, xuất bản tất cả các ngày trong tuần và các ấn phẩm: Báo Vĩnh

Phúc Cuối tuần, Báo Vĩnh Phúc Chủ nhật và Báo Vĩnh Phúc Điện tử.

Báo Vĩnh Phúc trở thành cơ quan nhật báo với khả năng cập nhật thông tin

thời sự nhanh chóng, kịp thời đem tới bạn đọc trong và ngoài tỉnh những

thông tin đầy đủ, toàn diện nhất và có tính định hướng dư luận cao; đáp ứng

yêu cầu thông tin ngày càng cao của công chúng; được cán bộ, đảng viên, các

tầng lớp nhân dân và đông đảo bạn đọc tin cậy.

Đội ngũ những người làm Báo Vĩnh Phúc ngày càng trưởng thành, luôn

giữ được phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, trách nhiệm xã hội. Cùng

với nhiệm vụ thông tin tuyên truyền, những năm gần đây, Báo Vĩnh Phúc tích

cực tham gia hoạt động từ thiện xã hội với nhiều hoạt động tích cực như: xây

dựng quỹ nhân ái, hỗ trợ nhiều gia đình chính sách, xây dựng nhà ở; tặng quà

42

Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, hỗ trợ nhiều đối tượng có hoàn cảnh khó khăn

Theo thống kê của Sở Thông tin và Truyền thông, toàn tỉnh hiện có 3 cơ

quan báo chí chuyên nghiệp là Báo Vĩnh Phúc, Đài Phát thanh – Truyền hình

tỉnh, Tạp chí Văn nghệ Vĩnh Phúc, với 4 loại hình báo chí gồm: Báo in, phát

thanh, truyền hình và báo điện tử; 5 văn phòng đại diện, 3 phóng viên thường

trú cơ quan báo chí Trung ương đóng trên địa bàn và 179 đơn vị có hoạt động

mang tính báo chí (43 bản tin, 12 trang thông tin điện tử được Bộ Thông tin

và Truyền thông cấp phép, 124 đài truyền thanh huyện, xã).

Trước sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin và nhu cầu tiếp

cận, hưởng thụ thông tin ngày càng cao của nhân dân, các cơ quan báo chí,

truyền thông trên địa bàn tỉnh luôn tự làm mới mình, khai thác sự đa dạng của

thông tin, truyền tải một thông điệp bằng sự kết hợp của các loại hình ngôn

ngữ như: viết, ảnh, video, âm thanh, thiết kế đồ họa và các phương thức tương

tác khác. Các thông tin được truyền tải đến công chúng luôn đa dạng, không

còn bó hẹp trong phạm tỉnh, quốc gia, một đất nước, một khu vực mà là khắp

nơi trên thế giới và không giới hạn trong một phương thức truyền thông cụ

thể nào.

Trong giai đoạn phát triển mới, trước yêu cầu nhiệm vụ chính trị của tỉnh

và để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu thông tin đa dạng, đa chiều của công

chúng, Báo Vĩnh Phúc đã không ngừng lớn mạnh cả về quy mô và chất

lượng, trở thành nhật báo, với khả năng cập nhật thông tin thời sự nhanh

chóng, kịp thời đem đến cho bạn đọc những thông tin chính xác, đầy đủ, toàn

diện và có tính định hướng dư luận. Đến nay, Báo Vĩnh Phúc đã xuất bản tất

cả các ngày trong tuần với 3 ấn phẩm: Báo Vĩnh Phúc cuối tuần, Báo Vĩnh

Phúc chủ nhật và Báo Vĩnh Phúc điện tử.

2.1.2. Giới thiệu về Đài PT – TH tỉnh Vĩnh Phúc

Đài PT- TH Vĩnh Phúc thành lập ngày 19/9/1956. Sau hơn 60 năm hình

thành, phát triển, nhất là sau 20 năm tái lập tỉnh, Đài PT –TH Vĩnh Phúc đã có

43

bước phát triển nhanh theo hướng hiện đại.

Vào ngày 19/09/1956, cơ sở của Đài mới chỉ là một trạm truyền thanh với

vài chiếc loa đặt tại thị xã Vĩnh Yên. Con người ít, thiết bị thô sơ, song hàng

ngày tiếng loa truyền thanh vẫn bám sát cuộc sống, tuyên truyền đầy đủ, kịp

thời đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước,

giúp cho người dân yên tâm, phấn khởi, hăng hái thi đua chiến đấu, lao động

sản xuất, xây dựng cuộc sống mới.

Ngày 01/01/1997, cùng với sự tái lập tỉnh Vĩnh Phúc, Đài PT – TH Vĩnh

Phúc được thành lập. Ngày đầu tái lập, Đài chỉ có 21 cán bộ, công nhân viên,

trang thiết bị nghèo nàn. Được Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt

Nam giúp đỡ trang thiết bị, Đài PT – TH Vĩnh Phúc đã phát sóng những chương

trình phát thanh, truyền hình đầu tiên. Chương trình phát thanh lúc đầu phát 1

buổi/ngày, sau tăng lên 2 buổi/ngày, từ tháng 5/2005 tăng lên 3 buổi/ngày.

Chương trình truyền hình lúc đầu phát 1 buổi/tuần, tăng lên 3 buổi/tuần vào

tháng 7 năm 1997, 3 buổi /tuần vào tháng 9/1999, 14 buổi/tuần vào 1/2004..

Không chỉ tăng tần suất phát thanh từ 1 buổi/ngày lên 2 buổi/ngày rồi 3

buổi/ngày với 3 giờ phát thanh; chương trình truyền hình từ 1 buổi/tuần lên 3

buổi/tuần, 14 buổi/tuần và nay là phát sóng 24h/24h, từ ngày 1/1/2013, Đài đã

chính thức đưa vào sử dụng hệ thống phát sóng kênh Truyền hình Vĩnh Phúc

trên vệ tinh Vinasat 2. Hiện nay, kênh truyền hình Vĩnh Phúc đã phát trên vệ

tinh Vinasat 2 và nhiều hệ thống, kênh truyền dẫn khác với thời lượng 24/24h,

phát thanh tăng từ 1,5h/ ngày lên 3h/ngày.

Đây là mốc quan trọng, đánh dấu bước phát triển vượt bậc của Đài trong

lộ trình hiện đại hóa kỹ thuật sản xuất và phát sóng các chương trình phát

thanh truyền hình.

Cơ sở vật chất, trang thiết bị sản xuất, phát sóng các chương trình phát

thanh, truyền hình cũng như trang thông tin điện tử được nâng cấp theo hướng

công nghệ mới, phù hợp với xu hướng phát triển của ngành. Cùng với tăng

44

cường cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật, đội ngũ những người làm phát

thanh truyền hình của tỉnh từng bước trưởng thành về mọi mặt. Hiện nay, Đài

có 13 phòng chuyên môn nghiệp vụ; đội ngũ cán bộ, CCVC 150 người, trong

đó trên 90% có trình độ đại học trở lên. Đảng bộ có trên 80 đảng viên sinh

hoạt ở 6 Chi bộ. Đài đã tập trung mọi cố gắng để đào tạo nâng cao trình độ lý

luận chính trị, năng lực chuyên môn cho đội ngũ phóng viên, biên tập, kỹ

thuật viên, xây dựng đội ngũ những người làm báo có có trí tuệ, kinh nghiệm

thực tiễn, phẩm chất chính trị tốt, chuyên môn vững vàng, yêu nghề và trách

nhiệm cao trước công việc. Đài luôn không ngừng đổi mới về nội dung

chương trình, hình thức thể hiện làm cho chương trình PT-TH ngày càng

phong phú, hấp dẫn. Cùng với việc nâng cao chất lượng các bản tin thời sự,

Đài liên tục mở thêm các chương trình, mục, chuyên mục phục vụ nhiều đối

tượng bạn nghe đài, bạn xem truyền hình, đảm bảo sự cân đối hài hoà các thể

loại, các lĩnh vực trong kết cấu chương trình, đáp ứng nhu cầu tìm hiểuvà

hưởng thụ thông tin của khán, thính giả.

Đặc biệt, để đáp ứng nhu cầu của khán giả, Đài không ngừng đổi mới về

nội dung chương trình, hình thức thể hiện làm cho chương trình ngày càng

phong phú, hấp dẫn. Đài liên tục mở thêm các mục, chuyên mục mới phục vụ

nhiều đối tượng, được đông đảo bạn nghe đài, bạn xem truyền hình đánh giá

cao như: Vĩnh Phúc với phong trào thi đua yêu nước; Văn học nghệ thuật;

Khám phá Vĩnh Phúc; Nói không với thực phẩm bẩn; Chống buôn lậu, gian

lận thương mại, hàng giả, bảo vệ người tiêu dùng; Môi trường và cuộc sống…

2.2. Nội dung tuyên truyền, phản ánh

2.2.1. Tuyên truyền về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách

pháp luật của Nhà nước về vấn đề tôn giáo

Với từ khóa „tôn giáo‟, báo điện tử Vĩnh Phúc cho ra 800 kết quả là các

tin, bài được đăng tải trên báo Vĩnh Phúc online, còn trang thông tin điện tử

của Đài PT - TH Vĩnh Phúc đã cho ra 1031 tin, bài được đăng tải trên đài PT -

45

TH Vĩnh Phúc.

Báo Vĩnh Phúc tuyên truyền đường lối chủ trương chính sách của Đảng và

Nhà nước về tôn giáo sinh động qua đa dạng các bài viết như “Việt Nam luôn

tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo” (báo Vĩnh Phúc, ngày

11/9/2018), “Chú trọng công tác phối hợp trong quản lý Nhà nước về tín

ngưỡng, tôn giáo” (báo Vĩnh Phúc, ngày 21/9/2018), “Cấp giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất cho các cơ sở tôn giáo” (báo Vĩnh Phúc điện tử ngày

14/11/2018), “Gặp mặt đại biểu các chức sắc, chức việc, tín đồ các tôn giáo

trên địa bàn tỉnh” (báo Vĩnh Phúc điện tử ngày 29/10/2018), “Gặp mặt đại

biểu chức sắc, chức việc, tín đồ tôn giáo trên địa bàn” (báo Vĩnh Phúc điện tử

ngày 20/11/2018), “UBMTTQ tỉnh: Gặp mặt đoàn đại biểu đại diện các chức

sắc, chức việc, tôn giáo, già làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng

đồng dân tộc thiểu số” (báo điện tử Vĩnh Phúc ngày 29/10/2018),…

Báo Vĩnh Phúc phản ánh đậm nét các hoạt động triển khai Luật tín

ngưỡng tôn giáo, và Nghị định số 162 ngày 30/12/2017 của Chính Phủ quy

định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng tôn giáo, điển

hình có bài “Nâng cao nghiệp vụ công tác tôn giáo” 07/06/2019 (Báo điện tử

Vĩnh Phúc) trong đó phản ánh các lớp tập huấn của UBND tỉnh Vĩnh Phúc.

Đối tượng tham gia lớp tập huấn là các đồng chí cán bộ, công chức làm công

tác tôn giáo tại các sở, ban, ngành, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể

chính trị xã hội tỉnh và huyện. Tại hội nghị, các đại biểu đã được báo cáo viên

giới thiệu một số nội dung liên quan đến Luật Tín ngưỡng, tôn giáo như: Sự

cần thiết phải ban hành Luật; mục tiêu, quan điểm chỉ đạo; quá trình xây

dựng, những điểm mới cơ bản của Luật Tín ngưỡng, tôn giáo; Nghị định số

162 ngày 30/12/2017 của Chính phủ hướng dẫn một số điều và biện pháp thi

hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo; thông tin, cập nhật tình hình tôn giáo, các

hiện tượng tôn giáo mới. Việc triển khai các nội dung của Luật Tín ngưỡng,

tôn giáo và Nghị định số 162 ngày 30/12/2017 của Chính phủ cho đội ngũ cán

46

bộ, công chức trong hệ thống chính trị các cấp của tỉnh, nhằm đưa quy định

của pháp luật về tôn giáo vào thực tiễn, đáp ứng yêu cầu công tác tôn giáo

trong tình hình mới. Qua đó nêu cao tinh thần trách nhiệm, nâng cao hiệu quả

công tác của các cán bộ, công chức làm công tác tuyên giáo (Tin “Triển khai

Luật tín ngưỡng tôn giáo”, đài PT – TH Vĩnh Phúc ngày 27/10/2018).

Bài “Tăng cường công tác quản lý nhà nước về tôn giáo” (trên báo điện

tử Vĩnh Phúc ngày 26/6/2019 cho biết: “Trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua

có một số hoạt động tôn giáo gây khó khăn trong công tác quản lý nhà nước

như: Việc xây dựng, tu bổ, tôn tạo cơ sở thờ tự; tự ý mở rộng đất, chuyển đổi

mục đích sử dụng đất, xây dựng các công trình tôn giáo chưa được cấp có

thẩm quyền cho phép...

Để thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về tôn giáo, Sở Nội vụ đề nghị

UBND các huyện, thành phố tập trung chỉ đạo các phòng chuyên môn, đơn vị

trực thuộc, các xã, phường, thị trấn phối hợp với Báo Vĩnh Phúc, Đài PT - TH

Vĩnh Phúc tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về

tín ngưỡng, tôn giáo như: Luật Tín ngưỡng tôn giáo; Nghị định số 162 năm

2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật

Tín ngưỡng, tôn giáo; Quyết định số 19 năm 2018 của UBND tỉnh về ban

hành Quy định trách nhiệm phối hợp trong công tác quản lý nhà nước về tín

ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn tỉnh và các văn bản có liên quan đến cán bộ,

công chức làm công tác tín ngưỡng, tôn giáo cấp huyện, cấp xã, các tổ chức

đoàn thể, chức sắc, chức việc, tín đồ các tôn giáo tại địa phương.

Chủ tịch UBND cấp huyện chỉ đạo các phòng chuyên môn, đơn vị trực

thuộc và UBND cấp xã chủ động nắm tình hình, kịp thời giải quyết theo thẩm

quyền các vấn đề liên quan đến hoạt động tôn giáo tại địa phương; hướng dẫn

người đứng đầu cơ sở thờ tự hoặc ban hộ tự, ban hành giáo… tại các cơ sở

thờ tự hoàn thiện các thủ tục đề nghị cấp có thẩm quyền giao đất, cấp phép

xây dựng trước khi xây dựng các công trình tôn giáo; có biện pháp ngăn chặn

47

việc tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng đất hoặc xây dựng công trình chưa

được cấp phép xây dựng. Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật, nhất là

các trường hợp liên quan đến đất đai, xây dựng cơ sở thờ tự hoặc đặt tượng

trái phép; lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để gây rối, mất trật tự; thông tin, báo

cáo kịp thời với các cấp có thẩm quyền những vụ việc tôn giáo phát sinh,

phức tạp”.

Ban Trị sự GHPGVN cấp tỉnh, cấp huyện và các cơ sở tự viện tổ chức

các cuộc lễ trọng lớn: Phật Đản, Vu Lan đúng theo nghi lễ Phật giáo, tuân

thủ quy định của pháp luật; thành phố Vĩnh Yên kiện toàn nhân sự Ban

Trị sự nhiệm kỳ 2017- 2021; có tờ trình đề nghị cấp có thẩm quyền cho

phép thành lập Trường trung cấp phật học tỉnh Vĩnh Phúc, bổ nhiệm chức

sắc trụ trì một số chùa, bổ sung và kiện toàn thành viên chuẩn y nhân sự

các Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Trong tháng 4/2018 một số chức sắc đạo

phật trên địa bàn tỉnh đã đón đoàn gồm 13 vị tăng sỹ Ấn độ đến thăm, hành

lễ tại cơ sở thờ tự. Các cuộc lễ ngoài chương trình đăng ký hàng năm như:

Lễ hô thần nhập tượng, lễ đúc tượng, trùng tu, lễ húy kỵ, lễ khánh thành, lễ

bổ nhiệm, lễ đặt đá tại các cơ sở thờ tự trên địa bàn tỉnh được các chức sắc,

tín đồ phật tử tổ chức theo đúng nội dung, chương trình đăng ký bảo đảm

an ninh trật tự, an toàn xã hội, thu hút đông đảo nhân dân, phật tử tham gia,

Ban Trị sự GHPGVN tỉnh tổ chức khóa An cư kiết hạ cho 253 Tăng, Ni

trong tỉnh tại 2 hạ trường: chùa Hà Tiên, thành phố Vĩnh Yên và Thiền viện

Trúc Lâm Tây Thiên, huyện Tam Đảo…

Thời gian qua, Báo Vĩnh Phúc đã phối hợp với các cấp, các ngành trong

tỉnh đã làm tốt công tác tuyên truyền, vận động các tín đồ thực hiện nghĩa vụ

và quyền lợi công dân, đi bầu đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND

các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 theo đúng quy định của pháp luật, góp phần vào

thành công của cuộc bầu cử. Với vai trò là cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo,

Ban Dân vận Tỉnh ủy chủ động phối hợp với Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh,

48

Sở Nội vụ kịp thời hướng dẫn các huyện, thành, thị, MTTQ, các tổ chức chính

trị - xã hội ở địa phương tổ chức thăm hỏi, động viên các tổ chức giáo hội, các

chức sắc tôn giáo nhân dịp lễ trọng. Đồng thời, vận động các chức sắc, tín đồ

có đạo thực hiện tốt chủ trương, chính sách, quy định của Trung ương, của

tỉnh và quy định của địa phương, tích cực tham gia phong trào thi đua yêu

nước, không ngừng nêu cao tinh thần cảnh giác, phá vỡ âm mưu diễn biến hòa

bình của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc nhằm chia rẽ

đoàn kết toàn dân. Chủ động phối hợp với các sở, ban, ngành tổ chức các lớp

tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ công tác tôn giáo năm 2016 cho gần 750 cán

bộ làm công tác tôn giáo ở cơ sở. Sở Nội vụ thường xuyên nắm tình hình sinh

hoạt, hoạt động tôn giáo tại các cơ sở thờ tự cũng như các hoạt động có liên

quan đến tôn giáo như: việc giao thêm đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất,

xây dựng, sửa chữa công trình tôn giáo. Đồng thời, gặp gỡ, trao đổi, hướng

dẫn, giúp đỡ tổ chức, cá nhân, các tôn giáo trong sinh hoạt, hoạt động tôn giáo

đảm bảo theo đúng quy định pháp luật. Sở cũng có văn bản đề nghị UBND

các huyện, thành, thị quan tâm chỉ đạo Phòng Nội vụ phối hợp với chính

quyền cấp cơ sở hướng dẫn, quản lý, tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức các

nghi lễ tôn giáo theo đúng chương trình đăng ký, đúng pháp luật.

Cùng với các hoạt động quản lý đất đai xây dựng cơ sở tín ngưỡng, tôn

giáo, quản lý lễ hội, quản lý và bảo vệ các di tích, di vật, cổ vật, công tác bảo

đảm an ninh tín ngưỡng, tôn giáo luôn được chú trọng. Trong thời gian qua,

ngành Công an đã nắm tình hình sinh hoạt, hoạt động của các tôn giáo và làm

tốt công tác đảm bảo an ninh tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn. Chủ động

phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn kịp thời hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn

giáo gây mất an ninh trật tự. Chính vì vậy, thời gian qua, không có việc phức

tạp hoặc điểm nóng về an ninh trật tự có liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo.

Thực hiện Thông báo số 150- TB/TW ngày 25/12/2013 của Ban Bí thư “về

xây dựng cốt cán phong trào trong tôn giáo”, MTTQ và các đoàn thể chính trị

49

- xã hội các cấp trong tỉnh tiếp tục quan tâm, chú trọng xây dựng lực lượng

cốt cán phong trào trong tôn giáo, tạo điều kiện để các cốt cán trong tôn giáo

tham gia Ban chấp hành các tổ chức thành viên của MTTQ và tham gia ủy

viên Ủy ban MTTQ các cấp. Hiện nay, toàn tỉnh có 651 cốt cán phong trào

trong tôn giáo, đã có gần 140 người là ủy viên Ủy ban MTTQ các cấp, 31

người tham gia BCH Hội LHPN các cấp; BCH Hội Nông dân có 36 người; 30

người tham gia BCH Hội CCB...

Phóng sự “Đừng lợi dụng tôn giáo làm điều trái đời, ngược đạo” đăng

trên trang thông tin của Đài PT&TH tỉnh Vĩnh Phúc ngày 19/6/2019 có đoạn:

“Hoạt động tôn giáo là hoạt động truyền bá tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo và

quản lý tổ chức của tôn giáo. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định:

“Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi

người; bảo đảm để các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật” (Điều 3), đồng

thời khẳng định các hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo bị nghiêm cấm:

“Xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn xã hội

(TTATXH), môi trường; xâm hại đạo đức xã hội; xâm phạm thân thể, sức

khỏe, tính mạng, tài sản; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác; cản

trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân” và “lợi dụng hoạt động tín

ngưỡng, hoạt động tôn giáo để trục lợi” (Điều 5). Tuy nhiên, thời gian qua,

bất chấp pháp luật, đã có một số chức sắc, tín đồ lợi dụng chính tôn giáo xâm

phạm an ninh chính trị, TTATXH, vi phạm đạo đức, vi phạm giáo lý, giáo

luật và đi ngược với truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc Việt Nam”. Bài

viết khẳng định: “Nhà nước Việt Nam tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của

người dân nhưng cũng nghiêm cấm việc lợi dụng hoạt động tôn giáo để lừa

đảo, mua chuộc, dụ dỗ, xâm hại đến quyền và lợi ích của công dân, gây ảnh

hưởng đến TTATXH. Thực hành tôn giáo đúng nghĩa luôn được xây dựng

trên cơ sở thượng tôn pháp luật, tôn trọng, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng

của người khác, của xã hội. Mỗi tín đồ tôn giáo cũng đồng thời là công dân

50

Việt Nam, khi thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cần phải thực hiện

nghĩa vụ công dân trên cơ sở pháp luật, không tôn giáo nào được phép đứng

ngoài hoặc đứng trên lợi ích quốc gia, dân tộc. Pháp luật Việt Nam nghiêm

cấm lợi dụng tôn giáo xâm phạm an ninh chính trị, TTATXH, vi phạm quyền

và lợi ích hợp pháp của nhà nước và công dân hay lợi dụng danh nghĩa tôn

giáo để trục lợi phi pháp, trái thuần phong mỹ tục, trái đạo đức, trái giáo lý.

Chắc chắn những kẻ lợi dụng tôn giáo để thực hiện hành vi phi tôn giáo, làm

ô danh tôn giáo, gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc sẽ bị nghiêm trị theo

pháp luật. Vì vậy, mỗi chức sắc, tín đồ và người dân hãy đề cao cảnh giác, kịp

thời tố giác, ngăn chặn hành vi của các đối tượng lợi dụng tôn giáo để vi

phạm pháp luật; đó cũng là phương cách để bảo vệ chính mình, bảo vệ xã hội

và chính là bảo vệ các tôn giáo chân chính đang hoạt động bình thường trên

đất nước Việt Nam”.

2.2.2. Phản ánh tình hình „tốt đời đẹp đạo‟ trong hoạt động tôn giáo tại

tỉnh Vĩnh Phúc

Những năm qua, báo Vĩnh Phúc phản ánh các tín ngưỡng, tôn giáo trên

địa bàn tỉnh hoạt động theo đúng quy định của Nhà nước và luôn đồng hành

cùng các cấp, các ngành để phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật

chất, tinh thần của quần chúng tín đồ. Các tín đồ vùng tôn giáo tích cực tham

gia phong trào "Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc", góp phần đảm bảo an ninh

trật tự ở cơ sở. Để đảm bảo tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, các cấp

ủy Đảng, chính quyền trong tỉnh đã và đang triển khai thực hiện tốt các chỉ

thị, nghị quyết của Trung ương về công tác tôn giáo: Nghị quyết số 25 của

BCH Trung ương (khóa IX) về công tác tôn giáo; Nghị định số 92 của Chính

phủ về Quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn

giáo; Thông tư liên tịch giữa Bộ VH-TT&DL - Bộ Nội vụ về Hướng dẫn việc

thực hiện nếp sống văn minh tại các cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo... Ban

Tôn giáo, Sở Nội vụ chủ động phối hợp với cơ quan, đơn vị tuyên truyền, phổ

51

biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước liên

quan về tôn giáo đến chức sắc, chức việc, tín đồ các tôn giáo trên địa bàn; vận

động họ nêu cao tinh thần cảnh giác, không tham gia tuần hành do các đối

tượng cực đoan phát động. Qua công tác tuyên truyền đã nâng cao nhận thức

của xã hội, đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị ở các cấp về tín ngưỡng,

tôn giáo, thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín

ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Chất lượng, hiệu quả công tác quản lý Nhà

nước về tôn giáo từng bước được nâng cao. Các cấp, các ngành, địa phương

tăng cường thăm nắm tình hình sinh hoạt, hoạt động tôn giáo tại một số cơ sở

thờ tự các tôn giáo cũng như hướng dẫn thực hiện và giải quyết các hoạt động

tôn giáo theo quy định của pháp luật; thường xuyên, chủ động rà soát, kiểm

tra, tập trung giải quyết theo thẩm quyền các vụ việc liên quan đến tôn giáo

như việc cấp, giao giấy CNQSD đất cho cơ sở tôn giáo quản lý theo quy định;

xây dựng công trình tôn giáo; hướng dẫn một số Ban Trị sự Giáo hội Phật

giáo cấp huyện giải quyết các vụ việc tôn giáo xảy ra trên địa bàn...

“Liên hoan Tiếng hát thanh niên dân tộc thiểu số, tín đồ tôn giáo tỉnh

Vĩnh Phúc” (báo điện tử Vĩnh Phúc ngày 13/8/2018) khẳng định: Tham gia

liên hoan, có 9 đội đến từ các đơn vị: Vĩnh Yên, Phúc Yên, Tam Dương, Bình

Xuyên, Tam Đảo... Các đội mang đến liên hoan nhiều tiết mục văn nghệ gồm

các thể loại: Song ca, hát múa minh họa, kịch múa... với nội dung ca ngợi

Đảng, Bác Hồ, ca ngợi tình yêu quê hương, đất nước, anh hùng dân tộc, các

bài hát về các dân tộc, tôn giáo... để lại trong lòng khán giả nhiều cảm xúc sâu

lắng. Chương trình Liên hoan Tiếng hát thanh niên dân tộc thiểu số, tín đồ tôn

giáo là ngày hội giao lưu giữa đoàn viên, thanh niên các dân tộc, tín đồ tôn

giáo trên địa bàn tỉnh; đồng thời, là dịp động viên, tuyên dương các bạn thanh

niên dân tộc thiểu số, tín đồ tôn giáo đã luôn nỗ lực, cống hiến và có những

đóng góp tích cực cho xã hội.

Nhiều bài viết không những khẳng định thành tựu quan trọng là chăm lo

52

quyền con người, trong đó quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng của Việt Nam

được người dân theo tôn giáo và không theo tôn giáo ở Việt Nam. Đảng và

nhà nước chú trọng xây dựng được niềm tin với nhân dân, tôn trọng, bảo đảm

quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; hướng các chức sắc, chức

việc tôn giáo vào việc vừa phụng sự đạo giáo, vừa phục vụ sự hưng thịnh của

quốc gia, dân tộc. Để làm được điều đó phải dựa chắc vào dân, tổ chức liên

kết nhân dân thành một khối đoàn kết, thống nhất, phát huy dân chủ và sức

mạnh tổng hợp của nhân dân, nhất là trong đồng bào có đạo, định hướng cho

đồng bào luôn hành động theo mục tiêu sống tốt đời, đẹp đạo. Bên cạnh đó

phát huy vai trò của cấp ủy, chính quyền các địa phương, thực hiện tốt chính

sách phát triển kinh tế-xã hội mà trực tiếp là chính sách dân tộc, tôn giáo;

không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân trên

tất cả vùng, miền của Tổ quốc.

Nhiều bài viết đã mang đến cho độc giả thấy sự quan tâm của Đảng, Nhà

nước đến đời sống tôn giáo, đồng thời phản bác lại các quan điểm sai trái của

các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam, tuyên

truyền xây dựng, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc trong việc

thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ chủ quyền quốc gia,

đóng góp của nhân dân vì lợi ích quốc gia, dân tộc; ý thức cộng đồng trong

đời sống xã hội, trong bảo vệ tài nguyên, môi trường, bảo vệ sức khỏe cộng

đồng, hoạt động từ thiện và giải quyết những vấn đề xã hội quan tâm; tuyên

truyền đấu tranh với các hình thức lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hành nghề

mê tín, trục lợi, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội

và đời sống nhân dân.

Tin bài: “Tôn giáo là nguồn lực quan trọng góp phần phát triển đất

nước” của đài PT – TH Vĩnh Phúc (ngày 28/10/2018) cho thấy các tôn giáo

luôn tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cùng chính quyền và Mặt

trận Tổ quốc các cấp xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, xây dựng nông thôn

53

mới, phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là cùng chung tay với nhà nước chăm

lo cho người có công, cứu trợ thiên tai, giúp đỡ người có hoàn cảnh khó khăn,

giúp tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục, dạy nghề, văn hóa… Báo Vĩnh Phúc

phản ánh nhiều điểm sáng địa phương như “Phú Xuân chú trọng công tác

tôn giáo” (báo điện tử Vĩnh Phúc, ngày 30/3/2018), hay “Công tác tôn

giáo ở Sông Lô” (báo Vĩnh Phúc, 11/12/2018)… Các bài báo phản ánh thời

gian qua, công tác tôn giáo luôn được Đảng bộ, chính quyền xã Phú Xuân

(Bình Xuyên) chú trọng thực hiện bằng những việc làm cụ thể, thiết thực, tạo

sự chuyển biến về tư tưởng, nhận thức của nhân dân trong xây dựng mối đoàn

kết lương - giáo. Qua đó, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,

tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân. Xã Phú Xuân có dân số khoảng 8.300

người, sinh sống tại 8 thôn. Toàn xã có hơn 1.000 hộ dân theo đạo Phật, 560

hộ dân theo đạo Thiên Chúa. Công tác tôn giáo luôn được Đảng bộ, chính

quyền xã coi trọng, quan tâm, thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo

đảm quyền tự do tín ngưỡng.

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương, sự phối

hợp đồng bộ của MTTQ và các tổ chức đoàn thể, nhận thức về tôn giáo và

công tác tôn giáo ngày càng được nâng lên trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và

các tầng lớp nhân dân. Đảng bộ xã xây dựng và triển khai chương trình hành

động phù hợp với thực tế địa phương, nhằm làm tốt công tác vận động các tín

đồ, phật tử đồng hành xây dựng quê hương, đất nước. Các hoạt động tôn giáo

đều hướng đến phương châm “sống tốt đời đẹp đạo”, “sống phúc âm giữa

lòng dân tộc”, “kính chúa, yêu nước”. Công tác tuyên truyền được thực hiện

thường xuyên, góp phần hạn chế việc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt

động mê tín dị đoan, lôi kéo, kích động các phần tử chống phá Nhà nước.

Hàng năm, thông qua những ngày lễ lớn như: Lễ Phật đản, lễ hội chùa, Lễ

Giáng sinh, Đảng ủy, chính quyền đều thăm hỏi, tặng quà động viên các tăng

ni phật tử, đồng bào giáo dân. Qua đó, tuyên truyền, nâng cao nhận thức về

54

tôn giáo; đồng thời lắng nghe, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng chính đáng của

bà con phật tử, giáo dân để có những biện pháp kịp thời giải quyết, đáp ứng

những nguyện vọng chính đáng của họ.

Cùng với phong trào xây dựng NTM, địa phương tổ chức trùng tu, tôn tạo

các khu di tích; xây dựng cơ sở thờ tự... Nhờ vậy, các chức sắc, tín đồ cùng bà

con giáo dân luôn tin tưởng và thực hiện tốt mọi chủ trương chính sách của

Đảng, Nhà nước cũng như của địa phương. Ở Phú Xuân xuất hiện nhiều tấm

gương tiêu biểu như Hộ gia đình ông Hoàng Văn Lương hiến hơn 100m2 đất

nông nghiệp và nhiều ngày công để làm đường giao thông nông thôn, giao

thông nội đồng. Gia đình ông còn luôn chăm chỉ lao động sản xuất, phát triển

kinh tế trang trại, cho thu lãi trên 200 triệu đồng. Cùng với đó, đồng bào giáo

dân xã Phú Xuân chủ động tham gia các phong trào do MTTQ và các tổ chức

đoàn thể phát động như: Cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống

văn hóa ở khu dân cư; toàn dân chung sức xây dựng NTM; ủng hộ Quỹ Vì

người nghèo.... Từ sự vào cuộc tích cực của Đảng bộ, chính quyền, MTTQ và

các tổ chức đoàn thể xã Phú Xuân, các tín đồ, chức sắc tôn giáo và nhân dân

địa phương luôn thực hiện tốt chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước

về công tác tôn giáo, góp phần xây dựng địa phương ngày càng ổn định, phát

triển. Để nâng cao hiệu quả công tác tôn giáo, thời gian tới, xã Phú Xuân tập

trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về pháp

luật, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về

công tác tôn giáo cho quần chúng nhân dân; quan tâm hơn nữa đến công tác

tôn giáo, coi đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng; tập trung đào tạo, bồi

dưỡng, quy hoạch cán bộ là người có đạo; chú trọng nâng cao đời sống vật

chất, tinh thần nhân dân...

Nội dung Báo Vĩnh Phúc phản ánh về Phật giáo, hầu hết các bài viết xuất

bản với mục tiêu đầu tiên là tuyên truyền Phật Pháp, Hoằng Pháp, Phật học…

cho công chúng. Trên báo Vĩnh Phúc và các chương trình trên Đài PT&TH

55

Vĩnh Phúc công tác này chiếm tới 70%. Đối với báo Vĩnh Phúc thì thông tin

được ưu tiên hàng đầu nên việc tuyên truyền Phật pháp, Hoằng pháp chỉ

chiếm hơn 30% (Tổng dung lượng phát hành nội dung về tôn giáo). Hiện nay

các bài viết trên Báo Vĩnh Phúc về Phật giáo không đơn thuần là thuyết giảng,

khô cứng mà được thổi vào đó hơi thở của cuộc sống. Vì thế tác phẩm đã đáp

ứng được yêu cầu thuyết pháp và cũng rất gần gũi với đời sống của độc giả.

Điều đó giúp cho việc tiếp nhận thông tin trở nên dễ dàng và tự nhiên hơn. Ví

như bài viết “Hóa giải những rắc rối trong quan hệ gia đình theo lời Phật

dạy” (Thích Giác Minh, số ngày 22/7/2018) trên đài PT – TH Vĩnh Phúc đưa

tới người dân thông điệp rằng: “Đạo Phật không chống lại đời sống hôn nhân

gia đình. Ngược lại, Đức Phật còn có những lời dạy thiết thực, giúp cho mọi

người có thể vượt qua được những khó khăn, rắc rối nhằm tạo dựng cuộc

sống gia đình hạnh phúc. Trong kinh Tăng Chi Bộ, phẩm Năm pháp, bài kinh

Người gia chủ, Đức Phật đã khuyên bảo những người con gái sắp về nhà

chồng rằng: Phải kính trọng và thương yêu chồng, kính trọng và đối xử hòa

nhã với cha mẹ chồng, kính trọng những người mà chồng mình kính trọng; lo

chu toàn công việc trong gia đình chồng, phải thông thạo các việc thuộc nữ

công gia chánh; biết quản lý và sắp đặt công việc nhà, quan tâm đến những

người làm công trong nhà, phân chia công việc phù hợp cho họ; không nên

nuôi dưỡng những ý nghĩ chống lại chồng, không nên thô lỗ, độc ác, cay

nghiệt đối với chồng, không nên tiêu xài hoang phí, bảo vệ và tiết kiệm tài sản

mà chồng đã kiếm được; luôn luôn ân cần và trong sáng cả trong tâm tưởng

lẫn trong hành động, chung thủy với chồng và không được ngoại tình trong tư

tưởng cũng như trong hành động; tế nhị trong lời nói và lễ phép trong hành

động, tử tế và siêng năng trong công việc; luôn quan tâm chăm sóc cho

chồng, biết dịu dàng, bình tĩnh và thấu hiểu chồng, chia sẻ hoặc động viên,

khuyên bảo chồng khi cần thiết. Đồng thời, Đức Phật còn khuyên các cô gái

nên tìm hiểu kỹ về chồng, biết tính cách, hành động, tính khí của chồng, sẵn

56

sàng giúp đỡ, cộng tác với chồng trong mọi công việc. Cùng với những lời

khuyên dành cho người nữ, Đức Phật còn nhấn mạnh rằng, người nữ đóng vai

trò rất quan trọng trong gia đình. Sự an vui, hạnh phúc và hòa thuận trong gia

đình là phần lớn phụ thuộc vào người phụ nữ”.

Những bài viết thuyết giảng Phật pháp về Vô Lượng nghĩa kinh vô lượng

nghĩa xứ Tam muội cũng đuợc viết lại cho dễ hiểu không xa dời cuộc sống

thường nhật hơn (Thích Trí Quản, Báo Vĩnh Phúc, 26/09/2918): “Nếu có việc

khó, nhưng ta nhận được tín hiệu của Phật, của Bồ tát hay của Long thiên, thì

cứ đi, mặc dù rất nguy hiểm, nhưng chúng ta sẽ hoàn toàn bình ổn. Tín hiệu

một mà chúng ta nhận là Phật bổ xứ chúng ta đến đó và chúng ta quyết tâm

làm việc đó, dù phải chết. Phật bổ xứ và ta quyết tâm, hai điều này gắn liền

với nhau. Người khác thấy sợ và tránh né, nhưng chúng ta không sợ. Tôi nghĩ

Phật bổ chúng ta đến làm, nếu ta chết thì xác thân này mất, nhưng chân linh ta

về với Phật; như vậy quá tốt, còn sợ làm sao tu. Hai là tín hiệu của Bồ tát, hay

lực Bồ tát gia bị. Các Bồ tát khuyến khích chúng ta rằng đây là việc tốt, nên

làm, các ngài sẽ giúp đỡ. Chúng ta nhận được tín hiệu này, tức có được lực

tác động của Bồ tát vô hình và chúng ta cũng quyết tâm làm, đồng thời có

người bạn hữu hình cũng đồng tình với mình, thì chết cũng làm. Ví dụ Hòa

thượng Quảng Đức tự thiêu vì ngài đã nhận được tín hiệu của Phật rồi, không

phải đến pháp nạn mới làm và ngài cũng nhận được sự đồng tình của Bồ tát

hiện tại là các bạn đồng tu”.

Nhìn chung, công tác hoằng pháp hiện nay không những hoạt động đúng

theo tôn chỉ và mục đích của Chánh pháp mà còn được vận dụng một cách

mềm mại, nhuần nhuyễn vào hiện thực cuộc sống. Tuy nhiên, việc phản ánh

tuyên truyền Phật pháp chỉ tập trung ở khu vực đô thị. Tác giả đã gặp gỡ và

trao đổi cùng TT.Thích Bảo Nghiêm Phó Chủ tịch HĐTS kiêm Trưởng ban

Hoằng pháp T.Ư GHPGVN (Thiện Đức, Báo Vĩnh Phúc, 04/02/2019): “Việc

Hoằng Pháp chưa triển khai, phân bổ các giảng sư đến giảng tại các tỉnh thành

57

thuộc vùng sâu, vùng xa hoặc các tỉnh thành thiếu giảng sư. Đối với tài liệu

thuyết giảng chính thức của Ban Hoằng pháp cũng chưa được biên soạn, việc

hướng dẫn giảng dạy tại các lớp giáo lý chưa được đồng bộ, thiếu hẳn lực

lượng giảng sư. Để khắc phục những nhược điểm trên, Ban Hoằng pháp sẽ có

kế hoạch hoạt động cụ thể trong chương trình hoạt động năm 2009”. Các bài

viết ghi lại những buổi thuyết giảng hay tại các giảng đường, các đạo tràng tu

Bát quan trai, các khóa tu Phật thất, một ngày an lạc, các lớp giáo lý tại các

tự, viện trong cả nước… cũng được đăng tải trên tờ báo Vĩnh Phúc và Đài

PT&TH Vĩnh Phúc.

2.2.3. Những bất cập trong hoạt động tôn giáo ở tỉnh Vĩnh Phúc

Giống như các phương tiện thông tin đại chúng khác. Báo Vĩnh Phúc, Đài

PT - TH Vĩnh Phúc luôn tìm cách đáp ứng nhu cầu thông tin của xã hội.

Trong quá trình phát triển của lịch sử, bất cứ nền báo chí nào cũng phục vụ

cho giai cấp, xã hội đã sinh ra nền báo chí đó. Báo chí Vĩnh Phúc, Đài PT -

TH cũng như vậy. Mọi hoạt động của báo Vĩnh Phúc, Đài PT - TH Vĩnh Phúc

cũng nhằm để phục vụ cho công cuộc xây dựng và bảo về đất nước trong mọi

thời kì.

Tuy nhiên, bên cạnh Báo Vĩnh Phúc, Đài PT - TH Vĩnh Phúc đưa tin về

vấn đề Tôn giáo trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đầu năm 2019, gần đây nhất, báo

vietnamnet.vn/vn/thoi-su cũng đã đăng tải thông tin về nhân vật trong Phật

giáo là vụ việc nhà sư Thích Thanh Toàn ở chùa Nga Hoàng (huyện Tam

Đảo, Vĩnh Phúc) bị tố có hành vi không chuẩn mực (gạ tình một nữ phóng

viên) đã làm dậy sóng dư luận xã hội về vấn đề tôn giáo.

Từ sự vào cuộc của báo chí, các cơ quan quản lý nhà nước, Giáo hội Phật

giáo Việt Nam, Giáo hội Phật giáo tỉnh Vĩnh Phúc đã làm sáng tỏ sự thật về

nhà sư Thích Thanh Toàn có hay không khối tài sản, đất đai với giá trị hàng

trăm tỷ đồng… Ban trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Vĩnh Phúc đã

quyết định đình chỉ chức vụ trụ trì chùa Nga Hoàng của Đại đức Thích Thanh

58

Toàn, theo đúng quy định của hiến chương, giáo luật của Giáo hội. Việc đình

chỉ chức vụ trụ trì chùa Nga Hoàng chỉ là hình thức xử lý bước đầu đối với

những sai phạm của Đại đức Thích Thanh Toàn...

Bài “Từ hội thánh Đức Chúa Trời Mẹ: Cảnh giác các hệ phái tôn giáo

mới” (báo điện tử Vĩnh Phúc ngày 29/4/2018) đã chỉ rõ: “Ứng xử với các hệ

phái tôn giáo mới có dấu hiệu biến tướng cần phải thận trọng, tìm hiểu

nguyên nhân sâu xa để giúp người dân nhận thức, phân biệt tôn giáo chính

thống với tà đạo - như “Hội thánh Đức Chúa Trời Mẹ”.

Thông tin về tổ chức tự xưng mang tên “Hội thánh Đức Chúa Trời Mẹ”

thời gian gần đây khiến dư luận lo lắng về một hệ phái tôn giáo mới với hình

thức truyền đạo có dấu hiệu lệch lạc về văn hóa, trái thuần phong mỹ tục của

Việt Nam. Câu chuyện về các hệ phái tôn giáo mới hoặc tự xưng không còn lạ

ở Việt Nam khi trước đó cơ quan chức năng từng phát hiện, làm rõ và xử lý

nhiều cá nhân liên quan đến các tà đạo như hội, nhóm “Hội Tiên Rồng”,

“Long Hoa Di Lặc”, “Hội Tâm Linh”, “Giáo Hội Lạc Hồng”, “Hà Mòn”. Tà

đạo ở đây được hiểu là những đạo lạ, không chính thống, không được pháp

luật thừa nhận.”.

Thực tế hoạt động của các hội, nhóm tà đạo thường do một số cá nhân lợi

dụng để trục lợi, gây ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống kinh tế - xã hội của

người dân. Về kinh tế, người tham gia các hội, nhóm này bị xáo trộn cuộc

sống, sinh hoạt hằng ngày. Nhiều người bỏ việc để theo các hội, nhóm với

giáo lý được truyền bá phản khoa học như “không làm vẫn giàu sang”. Trước

những diễn biến phức tạp của các hệ phái tôn giáo mới có dấu hiệu biến

tướng, Ban Tôn giáo Chính phủ kêu gọi người dân nâng cao nhận thức và

cảnh giác đối với các hoạt động dụ dỗ, lôi kéo bằng vật chất và những lời

tuyên truyền lừa đảo về ngày tận thế, về sự cứu rỗi của đấng linh thiêng bằng

việc nộp tiền, từ bỏ cuộc sống hiện thực; từ bỏ gia đình, công việc...

Dưới góc nhìn của Phật giáo, Báo Vĩnh Phúc, Đài PT&TH Vĩnh Phúc đã

59

đăng, phát lại của Đài truyền hình Việt Nam về Đại Lễ Phật Đản LHQ Vesak

2019 với Chủ đề là “Cách tiếp cận của Phật giáo về sự lãnh đạo toàn cầu và

trách nhiệm cùng chia sẻ vì xã hội bền vững” cho thấy tầm vóc và ý thức

trách nhiệm cao cả của Phật giáo trước tình hình biến động của thế giới trên

nhiều phương diện đời sống, qua đó cho thấy thái độ tích cực cũng như niềm

tin về khả năng góp phần hóa giải những vấn nạn thời đại của Phật giáo ngày

càng được khẳng định. Thông điệp của Đại lễ Vesak Liên hợp quốc 2019 tại

Việt Nam kêu gọi lãnh đạo Phật giáo thế giới hãy đoàn kết và dấn thân hành

động nhập thế, chia sẻ các giải pháp trị liệu đối với các thách thức xã hội

trong thời đại của chúng ta.

Qua đó ta có thể nhận thấy rằng Báo Vĩnh Phúc và Đài PT – TH Vĩnh

Phúc thông tin về vấn đề Phật giáo cũng góp phần khơi gợi tinh thần yêu

nước, lòng tự hào dân tộc và tuyên truyền tình yêu thương bác ái giữa con

người với con người. Vì thế, Báo Vĩnh Phúc và Đài PT – TH Vĩnh Phúc

thông tin vấn đề Phật giáo cũng không thể trái ngược với tinh thần của Hiến

pháp, Pháp luật Nhà nước, hay chống lại đường lối, chính sách của Đảng

Cộng sản hay phủ nhận truyền thống lịch sử, đạo lý của dân tộc.

Báo Vĩnh Phúc và Đài PT – TH Vĩnh Phúc cũng phải thừa nhận rằng các

bài viết của các nhà tu hành Phật giáo gửi đến đăng nói chung đã thể hiện rõ

tính năng động trong quá trình hội nhập. Tính năng động động được thể hiện

trong quá trình hội nhập đó là “Mối quan hệ giữa Phật Giáo và Nhà Nước qua

các triều đại, qua các thời kì, bao giờ cũng song hành cùng nhau tồn tại và

phát triển… Ngày nay đất nước đang trên đà phát triển và hội nhập vào nền

kinh tế thị trường thế giới. Đời sống sinh hoạt của Phật Giáo cũng theo xu

hướng toàn cầu hóa mà vận hành. Huống chi thuộc tính của Phật Giáo là

duyên khởi tính, vì thế Phật Giáo cũng năng động uyển chuyển trong quá

trình hội nhập trên mọi phương diện. Vấn đề là trong quá trình hội nhập, Phật

Giáo vẫn giữ sắc thái riêng của Phật Giáo , của dân tộc nhưng đồng thời cũng

60

mang những đặc tính chung của cộng đồng quốc tế, nhân loại” (Thích Thiện

Hạnh, Tính năng động của Phật Giáo Việt Nam trong quá trình toàn cầu hóa,

Báo Vĩnh Phúc điện tử, 12/8/2019). Bằng pháp luật và những chính sách cụ

thể, Nhà nước Việt Nam luôn cố gắng để tạo ra một môi trường thuận lợi cho

đời sống sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo, đồng thời tạo điều kiện cho cộng

đồng các tôn giáo góp sức mình vào công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển

đất nước. Ngày 19/4/1999, Chính phủ đã ra Nghị định số 26/1999/NĐ/CP

“Về các hoạt động tôn giáo”. Nghị định gồm 3 chương với 29 điều, bao gồm

các quy định chung, quy định cụ thể và các điều khoản thi hành đối với tất cả

các hoạt động, sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo trên đất nước Việt Nam. Trước

và sau Nghị định trên đã có hàng loạt các Nghị định, Thông tư, Quyết định…

của các cấp ngành liên quan về vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo hay là đối với

từng tôn giáo riêng rẽ như: Sắc lệnh về tôn giáo 239-SL (ngày 14/6/1955);

Nghị quyết 297/CP (ngày 11/11/1977); Quyết định số 83/BT (ngày

29/12/1981); Nghị định số 06/1999/NĐ/CP (ngày 10/4/1999); Thông tư số

03/1999/TT/TGCP (ngày 16/6/1999);… Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo số

02/2016/QH14. Tất cả những điều đó nhằm từng bước hoàn thiện hệ thống

pháp luật, chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo của Nhà nước Việt Nam, theo

đúng tinh thần Hiến pháp và đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt

Nam. Đại diện Phật giáo cũng khách quan bình luận những vụ việc liên quan

đến những hoạt động đúng đắn cũng như chưa đúng của mình.

Trong bài viết “Thấy gì qua vụ việc ở Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Vĩnh

Phúc” (Như Hiền, Báo Vĩnh Phúc, 6/2018) khảng khái nhận định: “Trung

ương Giáo hội có phần thiếu quan tâm, thiếu sự tìm hiểu cẩn thận về sự việc

nên đã có các văn bản ủng hộ Ban trị sự GHPG tỉnh Vĩnh Phúc (thực ra là cá

nhân Thượng Tọa Thích Minh Trí). Hòa thượng Trưởng Ban trị sự Tỉnh hội

đã tuổi cao, lại ở xa trụ sở của Ban trị sự, thiếu sự lãnh đạo tối thiếu đối với

Ban trị sự GHPG tỉnh Vĩnh Phúc, nên Hòa thương không nắm rõ nội dung các

61

văn bản trình ký, đã để cho một nhóm các nhà tu hành tự tung, tự tác miễn

nhiệm cả chức danh Phó trưởng Ban Thường trực, tự ý tổ chức Đại hội cấp

huyện và dựng lên một bộ máy Ban trị sự cấp huyện mới gây ra nhiều kiến

nghị, khiếu nại, thậm trí là cả vấn đề kiện cáo… Kết luận: Nêu lên sự việc

này, chúng tôi không có ý nhằm phê phán cá nhân mà chỉ mong sao cho Luật

nước, Luật đạo được nghiêm chỉnh thực hiện. Chúng tôi hoàn toàn không có ý

bênh vực ai, chỉ mong rằng nều thầy nào có sai phạm thì được xử lý đúng

Luật Đạo và Luật Đời. Mong sao tất cả đều giữ kỷ cương để Giáo hội được

vững mạnh, để Nhà nước không bị xuyên tạc là can thiếp quá sâu vào nội bộ

Phật Giáo, xứng đáng với niềm tin của quần chúng Phật tử”.

2.3. Hình thức chuyển tải thông tin

2.3.1. Ngôn ngữ thể hiện

Phong cách ngôn ngữ báo chí được thể hiện hàng ngày trên các báo, kênh

truyền hình. Tuy nhiên, tùy thuộc vào đặc điểm thể loại báo chí mà tác giả sử

dụng phong cách ngôn ngữ sao cho phù hợp. Để chuyển tải thông tin Phật

Giáo đến với công chúng phải đảm bảo độ chính xác, tính chất chuyên môn

cao, bài viết vừa mới mẻ, vừa sâu sắc về Phật Giáo. Không những vậy, các

bài viết cần dễ hiểu, mang tính chất đại chúng, phù hợp với khả năng tiếp

nhận đối với số đông công chúng. Báo chí luôn tận dụng triệt để các phong

cách ngôn ngữ khác nhau. Tuy nhiên phong cách ngôn ngữ văn chương vẫn

được sử dụng nhiều nhất trong các ấn phẩm Phật Giáo mà luận văn khảo sát.

Phong cách ngôn ngữ văn chương có 3 đặc điểm lớn:

- Ngôn ngữ văn chương có chức năng thẩm mỹ: cái đẹp ở đây không

phải tự sao chép, mô phỏng cái đẹp ngoài cuộc sống. Đó là cái đẹp

được tái tạo lại bằng ngôn ngữ trong hoạt động sang tạo của nghệ sỹ.

Nhiều bài viết đã sử dụng các từ thông dụng phù hợp với tâm lý, tình

huống…làm cho tính thẩm mỹ càng trở nên sinh động, đa dạng và có

62

sức cuốn hút diệu kỳ.

- Sử dụng toàn bộ các phương tiện ngôn ngữ của các phong cách khác

tạo nên sự đa dạng trong ngôn ngữ văn chương. Bởi thông qua các hình

thức nghệ thuật của ngôn ngữ mà công chúng có thể nhận thức đầy đủ

hơn, toàn diện hơn, khám phá các hiện tượng tự nhiên, xã hội một cách

sâu sắc hơn.

- Ngôn ngữ văn chương rất tôn trọng chuẩn mực. Nhưng nhiều khi chệch

chuẩn lại tạo ra bước đột phá mới mang dấu ấn riêng của tác giả.

Sử dụng ngôn ngữ Phật Giáo có tính chất đại chúng là điều không khó

nhưng đối với một số thuật ngữ mang tính chuyên ngành là một việc đòi hỏi

trình độ, kiến thức Đạo Phật phải rất vững. Các tác giả đưa những thuật ngữ

này vào bài viết một cách khéo léo, không gò ép sẽ tạo ra tính chuyên nghiệp

cho bài viết của mình. Ví dụ: Lý giải và làm rõ các vấn đề về Đạo Phật trong

đời sống xã hội cũng là một mảng nổi bật trong chuyên đề về Phật Giáo.

Nhiều người trăn trở với đức tin, với duyên Phật cũng sẽ cảm thấy vững tin

hơn với bài viết “Phật là tại tâm” đăng trên Báo Vĩnh Phúc điện tử,

24/12/2018, của tác giả Nguyễn Trung, tác giả đã sử dụng nhiều thuật ngữ

Phật Giáo trong bài và giải thích để người đọc có thể nắm bắt được ý nghĩa và

công dụng của thuật ngữ đó như: “Biết tâm là thấy Phật, tâm ấy tức Phật, Phật

ấy tức tâm. Niệm Phật tâm, Phật tâm niệm Phật, tự quản tự tâm biết Phật

trong tâm ta, không hướng bên ngoài kiếm tìm. Tâm ấy chính là Phật, Phật ấy

chính là tâm. Hiểu như thế chính tự tâm linh làm thầy giảng cho mình, là chỗ

nương tựa của mình. Hiểu như thế, đều có thể tu tại gia, tu tại chùa, tu thân

ngay trong ý nghĩ và việc làm đời sống hàng ngày của mình. Hiểu như thế

sống ở đâu mà không tu thân được?”….

Hay trên cả Báo Vĩnh Phúc và Đài PT – TH Vĩnh Phúc mà tác giả khảo

sát có vô số những thuật ngữ nhà Phật được sử dụng như “tướng nhục kế”,

“hoằng pháp”, “tịnh độ”….đây là điểm thuận lợi cho những người muốn mở

63

rộng kiến thực ngôn ngữ và Phật Giáo. Tuy nhiên, cả Báo và Đài hầu như

không có một lời giải thích nào cho những thuật ngữ mình đã nêu. Như thế rất

khó khăn cho những người mới đọc, mới xem lần đầu hay không có kiến thức

về Phật Giáo.

Khác với ngôn ngữ báo in, báo điện tử ngôn ngữ truyền hình là sự kết hợp

đa phương tiện: hình ảnh, âm thanh, ký tự, biểu bảng, biểu đồ. Như vậy, chất

liệu giao tiếp chính của truyền hình là: hình (cả hình ảnh động lẫn hình ảnh

tĩnh), âm thanh (gồm lời nói, tiếng động, âm nhạc) và chữ viết. VD: Trong tin

thời sự “Đại hội đại biểu Phật giáo tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ IV” trên Đài

Truyền hình Vĩnh Phúc, ngôn từ được dùng đúng nghĩa từ điển, không dùng

từ sai, từ tối nghĩa, từ mơ hồ về nghĩa. Từ ngữ trong tin tức biểu đạt chính xác

nội dung thông tin, diễn đạt đúng ý đồ của nhà báo, không để người nghe hiểu

sai, hiểu nhầm. Cách phát âm chuẩn tiếng phổ thông, đảm bảo lời nói trên

sóng được khán giả lĩnh hội rõ ràng nhất.

Tóm lại, mỗi chương trình có một đối tượng đích – khán giả mục tiêu.

Năng lực, sở thích, nhu cầu tiếp nhận thông tin, phong tục tập quán, tuổi tác,

trình độ văn hóa, tâm lý tiếp nhận, đặc điểm nghề nghiệp... của từng đối tượng

khán giả quyết định cách viết, cách đọc, nói của nhà báo. Trong chương trình

phát song, bài viết liên quan đến vấn đề tôn giáo, nhất là vấn đề Phật giáo, do

đối tượng tổng hợp, nhiều thành phần, lứa tuổi, trình độ, tôn giáo..., nên cách

sử dụng ngôn ngữ cần đảm bảo sự chân thành, gần gũi, đồng thời, vừa đảm

bảo sự trang trọng, lịch sự cần thiết.

2.3.2. Các thể loại chính được sử dụng

Phản ánh Phật sự trong nước và trên thế giới là loại tin bài rất phổ biến

trên báo về Phật giáo. Mục đích chính của loại bài này là thông tin nhanh,

ngắn gọn về những hoạt động, sự kiện, sự việc… của các tăng ni, Phật tử,

Phật Giáo trong tỉnh, trong nước và trên thế giới. Để người đọc có thể nắm

được tình hình Phật sự đang diễn ra khắp nơi, đồng thời thu nhận được những

64

ý kiến đánh giá sơ bộ của người viết về sự kiện đó. Nhằm giúp độc giả có cái

nhìn tổng quát về sự kiện, người viết thường sử dụng biệt pháp tường thuật và

bình luận là chủ yếu. Các bài viết thường có bố cục linh hoạt, không gò bó,

khuôn sáo, cứng nhắc, đơn giản và tương đối ổn định ở những phần là:

- Giới thiệu thời gian, địa điểm

- Kể lại nội dung diễn biến sự kiện chính

- Có thể đưa ra một vài nhận xét, đánh giá sơ bộ.

Các bài viết có nội dung như thế này thường rất gần gũi với thể loại tin,

phản ánh... Vì mục đích chính của nó là thông báo thông tin, do đó cách trình

bày diễn biến sự kiện không nhất thiết phải theo trình tự thời gian. Tác giả

tạm chia bố cục các bài viết về hoạt động Phật sự ra là 3 loại sau:

- Bố cục theo trình tự của sự kiện: tác giả trình bày các chi tiết theo diễn

biến chính của sự kiện. VD: “Đại hội đại biểu Phật Giáo tỉnh Vĩnh Phúc lần

thứ IV – Nhiệm kỳ 2017 - 2022” (Báo Vĩnh Phúc điện tử và Báo in,

13/9/2017) được trình bày theo trình tự thời gian của sự kiện. Khai mạc, diễn

biến, bế mạc rồi tới các hoạt động xung quanh đại hội.

- Bố cục theo trình tự giảm dần mức độ quan trọng của sự kiện. Đưa ra

những thông tin quan trọng nhất lên đầu, gây chú ý của độc giả. Tiếp đó là

mức độ quan trọng giảm dần.

- Bố cục xem kẽ các phần giới thiệu và bình luận. Đây là dạng bài viết có

chiều sâu, đi thẳng vào vấn đề chính là đi thẳng vào những vấn đề tăng ni, bạn

đọc quan tâm hơn là chọn giải pháp an toàn. Sau đó tác giả mới diễn giải các

vấn đề có liên quan.

Hay trong các tác phẩm thông tin về vấn đề Phật giáo của Báo Vĩnh Phúc

và Đài PT - TH Vĩnh Phúc thường xuyên sử dụng cách chuyển tải thông tin

bằng hình vẽ, ảnh, hình ảnh minh họa (gần 50% tổng dung lượng). Điển hình

để lý giải và làm rõ các vấn đề về Đạo Phật trong đời sống xã hội cũng là một

mảng nổi bật trong chuyên đề về Phật Giáo của Trần Ngọc Bảo đã có bản

65

dịch rất thành công với bài “Tìm hiều về sự sống và cái chết” đăng trên Báo

Vĩnh Phúc, 9/6/2019), đã sử dụng nhiều hình ảnh minh họa trong bài viết của

mình. Người đọc có cảm nhận gần gũi hơn với vấn đề mà bài biết truyền tải.

từ đó làm tăng thêm hiệu quả thông tin. …

Báo chí nói chung và Báo Vĩnh Phúc thông tin về vấn đề Phật giáo nói

riêng chính là tấm gương phản ánh cuộc sống xã hội, văn hóa, kinh tế… Tuy

nhiên Báo Vĩnh Phúc thông tin về vấn đề Phật giáo đã gửi thông tin về những

đề này tới khán giả dưới góc nhìn Phật Giáo. Báo Vĩnh Phúc thông tin về vấn

đề Phật giáo góp phần không nhỏ trong việc giáo dục tình yêu thương con

người, lòng tự hòa dân tộc, ý chí kiên cường bảo vệ tổ quốc hay đơn giản chỉ

là cuộc sống của mỗi người trong xã hội hiện đại này. Các bài viết về vấn đề

văn hóa, xã hội, kinh tế chiếm tới 25% trên báo chí Phật Giáo. Cũng giống

những dòng báo chí khác, Báo Vĩnh Phúc ủng hộ, ca ngợi những việc làm tốt

và chỉ ra những cái chưa được, đồng thời gợi ý những giải pháp cho vấn đề

đó, dưới góc nhìn Phật Giáo. Tuy nhiên, những bài viết này thường ở dạng

phản ánh vấn đề nào đó thuộc các lĩnh vực trên. Sau đó, liên hệ với lời Phật

dạy, kinh Phật, đạo đức Phật Giáo hay tâm thức Phật Giáo … điều đó khiến

cho người đọc có cái nhìn tích cực, bao dung hơn về mọi vấn đề trong cuộc

sống. Nét nổi bật bất của Báo Vĩnh Phúc thông tin về vấn đề Phật giáo hiện

nay là không chạy theo trào lưu “tin hot” (tin nóng, tin giật gân) nhằm câu

khách. Các bài viết thường chân phương, giảm dị mà rất thâm thúy, sâu sắc

với những triết lý Phật Giáo được vận dụng vào cuộc sống. Người viết chỉ

nhân chuyện sự kiện để nói về vấn đề tính “từ bi” trong hệ thống giáo dục

hiện đại. Khác hẳn những tờ báo khác, đôi khi họ khai thác triệt để những vụ

“hot” (nóng) để thu hút độc giả nhằm tăng số lượng phát hành.

Chuyên đề trên Báo Vĩnh Phúc thông tin về vấn đề Phật giáo, đặc biệt là

các tạp thường xuất hiện những bài viết mang tính chuyên đề dưới dạng:

phóng sự , ký sự dài kì, các bài giới thiệu kinh Phật, Tìm hiểu về lịch sử Phật

66

Giáo, giáo lý nhà Phật. Nó thường dùng để phản ánh, phân tích một vấn đề

lớn đang được xã hội quan tâm. Thông thường đây là thể loại bài thông tin

chính luận làm nội dung chính. Loại bài này có tần xuất đăng tải không cao,

chỉ chiếm khoảng 8%-10%. Để truyền tải nội dung, tác giả thường xác định

vấn đề được công chúng quan tâm. Sau đó khảo sát các tài liệu, tìm hiểu thực

tế, so sánh, liên hệ với giáo lý Phật Giáo và đưa ra những nhận xét nhất định.

Dung lượng của loại bài này không bị gò ép và giới hạn trong khuôn khổ hạn

hẹp. Bố cục của bài chuyên đề thường có 3 phần chính: Đặt vấn đề, giải quyết

vấn đề và kết luật. Tuy nhiên loại bài này có kết cấu co giãn, linh hoạt thuyết

phục công chúng không bằng lời lẽ bóng bẩy, hoa mỹ mà là bởi những thông

tin mới mẻ, sự chặt chẽ trong các luận điểm, mang tính khái quát cao với sự

phân tích sâu sắc…

Bên cạnh đó, những chi tiết thuộc về bối cảnh kèm theo những lời giải

thích khiến cho các bài viết trở nên thu hút hơn. Trong bài “Đời sống của

người tu hành nhà Phật” (Thích Đức Thiện, Chuyên mục Văn hóa, Báo Vĩnh

Phúc điện tử 15/1/2019). Bài viết dưới dạng tổng hợp có chèn thêm các đoạn

phỏng vấn theo kiểu hội thoại giữa người hỏi và người trả lời. Điều đó giúp

cho câu chuyện trở nên sinh động hơn với bối cảnh, cảm xúc và cả cuộc

phỏng vấn.

Tiểu kết chƣơng 2

Mặc dù vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng là một vấn đề nhạy cảm. Tuy nhiên,

báo chí đã tiếp cận thông tin một cách nhanh chóng, chính xác và đã lột tả

được những vấn đề gai góc nhất. Trên thực tế khảo sát các báo cho thấy tỷ lệ

lớn % các bài viết đa số là các dạng bài thông tin hoạt động của các tôn giáo;

một số rất ít các dạng bài phản ánh. Có thể thấy đây cũng là sự quan tâm chưa

đúng mức của các báo, các tòa soạn cũng như mảng đề tài này chưa được chú

trọng đúng mức.

Báo chí Phật giáo với nhiệm vụ phản ánh khách quan hiện thực, đưa ra

67

những nội dung thông tin có định hướng đúng đắn, chân thực, có tính thuyết

phục dư luận xã hội, hình thành dư luận xã hội của mình đã tích cực tham gia

cuộc đẩy mạnh chống những quan điểm sai trái, lợi dụng tôn giáo của các thế

lực thù địch, phản động. Nhưng với những hoạt động diễn biến phức tạp và

phát triển của tình hình tôn giáo thì báo chí vẫn chưa theo kịp.

Hiện nay, các bài viết về vấn đề tôn giáo của Báo Vĩnh Phúc, Đài PT - TH

Vĩnh Phúc chủ yếu vẫn theo tính thời vụ. Khi có sự kiện thì sẽ cho đăng một

loạt tin bài định hướng dư luận. Khi không có sự kiện tôn giáo nào nổi bật thì

đề tài tôn giáo lại bị bỏ trống. Việc tập trung vào một thời điểm như vậy sẽ

thu hút chú ý của dư luận vào vấn đề, nhưng sau sự kiện lại ngừng tuyên

truyền, phản ánh về vấn đề tôn giáo thì sẽ không đạt được hiệu quả truyền

thông, định hướng dư luận như mong muốn. Những thiếu sót này là cơ sở để

tác giả đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả về Tôn giáo trong thời gian

68

tới tại chương 3 của luận văn.

CHƢƠNG 3

NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO

CHẤT LƢỢNG THÔNG TIN TUYÊN TRUYỀN VỀ TÔN GIÁO

3.1. Đánh giá ƣu, nhƣợc điểm thông tin tuyên truyền về tôn giáo

3.1.1. Ưu điểm – Nguyên nhân

Xuất phát từ tình hình thực tế, vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo luôn

được Tỉnh uỷ; HĐND, UBND, UBMTTQ và các đoàn thể trong tỉnh đặc biệt

quan tâm, Ban Tôn giáo thuộc Sở Nội vụ đã chủ động tham mưu giúp Tỉnh

uỷ, UBND tỉnh quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn. Giúp Sở Nội vụ

chủ trì, phối hợp với các cấp, các ngành để giải quyết các vấn đề tôn giáo

đúng quy định của pháp luật, đồng thời xác định nhiệm vụ trọng tâm “Công

tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng”, tiếp tục đẩy mạnh công tác

tuyên truyền, quán triệt các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương và của tỉnh,

tạo sự chuyển biến về nhận thức và thống nhất hành động của hệ thống chính

trị và quần chúng nhân dân về vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo. Tổ chức

tốt các hội nghị triển khai thực hiện tổng kết đánh giá kết quả về công tác tín

ngưỡng, tôn giáo Chương trình hành động của Chính phủ về công tác tôn

giáo; các chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về vấn đề tín ngưỡng tôn giáo. Ban

Tôn giáo phối hợp với Ban Trị sự Phật giáo tỉnh kiện toàn về mặt tổ chức Ban

đại diện Phật giáo ở các cấp, phối hợp với các cơ quan liên quan giải quyết

kịp thời, đúng quy định những vấn đề có liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo.

Thực hiện tốt công tác phối hợp với các cơ quan của Trung ương và của tỉnh

mở các lớp bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho chức sắc, chức việc, tín đồ tôn

giáo, kiến thức quản lý nhà nước về tôn giáo cho các cán bộ làm công tác tôn

giáo. Tổ chức các cuộc lễ, thăm, tặng quà và chúc mừng các ngày lễ của các

tín ngưỡng, tôn giáo. Thường xuyên gặp gỡ, trao đổi, động viên, nắm bắt tư

69

tưởng, nguyện vọng của các chức sắc tôn giáo và tín đồ tôn giáo, tạo được sự

nhất trí giữa cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo với các chức sắc tôn giáo.

Hướng dẫn tổ chức, cá nhân tôn giáo đăng ký sinh hoạt, hoạt động tôn giáo

trong và ngoài chương trình theo quy định của pháp luật. Động viên các chức

sắc, tín đồ tôn giáo tích cực tham gia vào các phong trào thi đua yêu nước.

Ban Tôn giáo chủ động giải quyết các vụ việc tôn giáo theo thẩm quyền, phối

hợp với các huyện, thành, thị nắm bắt và báo cáo kịp thời diễn biến tình hình

ở cơ sở, khảo sát nắm tình hình, thống kê các tổ chức tôn giáo trên địa bàn

trong thời gian qua được đẩy mạnh. Trên cơ sở nắm chắc tình hình hoạt động

của các tổ chức tôn giáo, công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn

giáo trên địa bàn đã được tăng cường và đi vào nề nếp, các hoạt động tôn giáo

đã cơ bản tuân thủ pháp luật và có những bước chuyển biến tích cực.

Thực hiện việc quản lý nhà nước về tôn giáo Ban Tôn giáo luôn chú trọng

thực hiện tốt nguyên tắc “Công việc nội bộ của tôn giáo do tổ chức tôn giáo

chủ động giải quyết theo Hiến chương, Điều lệ của tổ chức tôn giáo và các

quy định của pháp luật” như đào tạo, phong chức, phong phẩm, thuyên

chuyển, bổ nhiệm chức sắc, nhà tu hành, việc chia tách xứ, họ đạo. Tổ chức

các hội nghị, các cuộc tĩnh tâm, an cư kiết hạ, tổ chức giới đàn và các hoạt

động khác. Các cấp

Những năm qua, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn tỉnh luôn

được đảm bảo, duy trì, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đáp

ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân; tạo môi trường ổn định phục vụ sự

nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương.

Với việc triển khai đồng bộ từ công tác tuyên truyền, hướng dẫn thực hiện

các hoạt động tôn giáo, tham mưu giải quyết khiếu kiện, khiếu nại liên quan

đến tôn giáo và thực hiện hiệu quả các biện pháp đảm bảo an ninh trên lĩnh

vực tôn giáo...Vì vậy, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn tỉnh được

duy trì, giữ vững, góp phần tạo môi trường ổn định phục vụ sự nghiệp phát

70

triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương.

Hoạt động báo chí nói chung, công tác thông tin tuyền truyền trên các báo

Phật giao nói riêng đã góp phần vào thành công trong các nhiệm vụ chính trị

của Đảng, Nhà nước ta, trong đó phải kể đến thành công to lớn trong công tác

đối nội và đối ngoại mà ở đó có sự nỗ lực đóng góp của các tổ chức, cá nhân

tôn giáo, phù hợp với diễn biến tình hình kinh tế, chính trị xã hội trong nước

và trên toàn thế giới.

Hoạt động báo chí Phật giáo là hoạt động xã hội, nói cách khác là nghĩa

vụ xã hội của nó đối với cộng đồng, báo chí Phật giáo giúp phát hiện, nêu ra

và khơi dậy các vấn đề xã hội liên quan đến cộng đồng mà còn có khả năng

khơi dậy và tập hợp các nguồn lực xã hội tham gia giải quyết các vấn đề xã

hội. Báo chí Phật giáo phát hiện các sự kiện và vấn đề xã hội mà cộng đồng

quan tâm, kể cả những thân phận con người, những hoàn cảnh cần sự giúp

đỡ, chia sẻ từ cộng đồng cũng như vấn đề môi trường, dịch bệnh. Những

hoạt động xã hội trên đã nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình của các tổ chức,

cá nhân tôn giáo ở trong và ngoài nước như Giáo hội Phật giáo Việt Nam,

Hội đồng Giám mục Việt Nam cùng với chính quyền tham gia tuyên truyền

về việc thực hiện đúng quy định về luật an toàn giao thông, công tác từ thiện

xã hội của các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam rất tích cực giúp đỡ người nghèo

có hoàn cảnh khó khăn, người già neo đơn, trẻ khuyết tật, nhờ các phương

tiện báo chí, họ đã được các tổ chức tôn giáo cưu mang và giúp đỡ, các hoạt

động tôn giáo gắn với công tác xã hội, từ thiện, nhân đạo. Đại diện chức sắc

các tôn giáo ra thăm Trường sa, Giáo hội Phật giáo Việt Nam cử sư trụ trì

các chùa ngoài biển đảo, các tôn giáo lên tiếng phản đối Trung Quốc đưa

giàn khoan Hải dương 981 vào khu vực thềm lục địa chủ quyền của Việt

Nam, qua đó góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Những tấm gương sống tốt đời, đẹp đạo trong tín đồ, chức sắc, chức việc,

nhà tu hành của các tôn giáo ở mọi miền đất nước cũng được nhân rộng. Các

71

tổ chức tôn giáo còn chú trọng đào tạo qua việc học tập giáo lý tôn giáo,

truyền bá những giá trị đạo đức văn hóa tốt đẹp của các tôn giáo đến thế hệ

trẻ thông qua những lễ hội của các tôn giáo: Lễ Vu lan, lễ Phật đản của Phật

giáo truyền đi thông điệp về đạo hiếu trong xã hội hiện đại, Đại hội giới trẻ

Công giáo thế giới được tổ chức tại Hàn Quốc vào năm 2018 có sự tham gia

của giới trẻ Công giáo Việt Nam, Hội đồng Giám mục Việt Nam với vấn đề

biến đổi khí hậu, môi trường, Caritas Việt Nam và quốc tế của Công giáo

trong các hoạt động từ thiện, các hoạt động bồi linh, thông công, khóa huấn

luyện Chấp sự, Thánh Kinh hè dành cho thanh thiếu nhi của đạo Tin lành,

lớp hạnh đường dành cho chức sắc, lớp tập huấn đạo sự cho chức việc và các

ban lễ đồng nhi của tôn giáo Cao đài đều gắn bó đạo với đời. Như vậy nét

văn hóa tôn giáo không chỉ duy trì những giá trị văn hóa truyền thống các

tôn giáo mà còn luôn tiếp thu những văn hóa tinh hoa của nhân loại vừa để

bảo tồn, phát huy vừa làm phong phú bản sắc văn hóa dân tộc, hướng con

người đến các giá trị chân – thiện – mỹ, …. Tất cả các sự kiện, hoạt động xã

hội của các tổ chức, cá nhân tôn giáo từ cấp địa phương đến trung ương đều

được cơ quan báo chí phản ánh nhanh chóng kịp thời và chính xác, khi đó

các vấn đề xã hội có sự tham gia tích cực của các tổ chức, cá nhân tôn giáo

đã góp phần tháo gỡ một phần khó khăn cho xã hội, cùng với mọi tầng lớp

nhân dân lập nên những kỳ tích trong công cuộc đổi mới đất nước.

3.1.2. Nhược điểm – Nguyên nhân

Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về tín ngưỡng, tôn

giáo chưa có sự phối hợp thống nhất, đồng bộ giữa các cơ quan, đơn vị liên

quan với cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo nên hiệu quả

tuyên truyền chưa cao. Chưa có sự kiểm tra, theo dõi, đôn đốc của cơ quan

có thẩm quyền nên nhiều nội dung liên quan đến tôn giáo chưa được các

sở, ngành, UBND cấp huyện quan tâm thực hiện, có nội dung UBND tỉnh

yêu cầu thời gian trả lời nhưng các ngành, đơn vị liên quan chưa nghiêm

72

túc thực hiện.

Có nội dung cơ quan chủ trì xin ý kiến nhưng cơ quan, đơn vị phối hợp

chưa quan tâm trả lời hoặc có trả lời nhưng chất lượng nội dung tham gia

chưa đảm bảo. Tỉnh chưa có quy định trách nhiệm của người đứng đầu các cơ

quan, đơn vị để xảy ra các vụ việc phức tạp liên quan đến tín ngưỡng, tôn

giáo. Các cấp, ngành chức năng chưa có kế hoạch phối hợp trong thanh tra

kiểm tra xử lý vi phạm lĩnh vực chuyên ngành liên quan đến tín ngưỡng, tôn

giáo nên hiệu lực, hiệu quả quản lý chưa cao...

Nhằm khắc phục những tồn tại, bất cập trong công tác phối hợp thực hiện

nhiệm vụ liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo, nâng cao hiệu lực, hiệu quả

quản lý Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo, ngày 7/9/2018, UBND tỉnh đã ban

hành Quyết định số 19 kèm theo Quy định trách nhiệm phối hợp trong công

tác quản lý Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn tỉnh. Quyết định có

hiệu lực từ ngày 15/9/2018.

Theo đó, tùy theo chức năng, nhiệm vụ được giao, các cấp, ngành chức

năng có trách nhiệm phối hợp thực hiện tốt các nội dung như: Tuyên truyền,

phổ biến, giáo dục pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo đến các cấp, ngành, cán

bộ, đảng viên, nhân dân và đồng bào có đạo; quản lý về sinh hoạt, hoạt động

tín ngưỡng, tôn giáo; quản lý cơ sở tín ngưỡng đã được xếp hạng di tích; quản

lý các hoạt động tín ngưỡng, các nguồn thu tại cơ sở tín ngưỡng đã được xếp

hạng di tích; giải quyết hồ sơ xin giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất cho cơ sở tôn giáo; giải quyết hồ sơ cấp giấy phép phòng cháy, chữa

cháy các công trình tín ngưỡng, tôn giáo; giải quyết hồ sơ cấp giấy phép xây

dựng công trình tín ngưỡng, tôn giáo; quản lý các hoạt động y tế, giáo dục,

bảo trợ xã hội, từ thiện, nhân đạo, dạy nghề của tổ chức, cá nhân tôn giáo;

quản lý hoạt động tôn giáo có yếu tố nước ngoài; giải quyết các vụ việc đơn

thư, khiếu nại, tố cáo liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo; nhà đất liên quan

đến tôn giáo và phối hợp trong thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm về sinh hoạt,

73

hoạt động, đất đai, xây dựng, phòng chống cháy nổ, y tế, giáo dục, bảo trợ xã

hội, từ thiện, nhân đạo, dạy nghề, quản lý di tích liên quan đến tín ngưỡng,

tôn giáo. Qua đó, tạo điều kiện cho các tôn giáo sinh hoạt, hoạt động theo

hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận,

quy định rõ trong các quy định của pháp luật.

Nhìn tổng thể, quy hoạch phát triển hệ thống báo chí nói chung, báo Phật

giáo nói riêng chưa thật sự khoa học, cho nên còn những bộ phận chưa hợp lý,

chồng chéo nhiệm vụ, gây lãng phí nguồn lực xã hội. Có lúc, có nơi, sự chỉ đạo

của cấp ủy đảng, sự quản lý của cơ quan nhà nước chưa theo kịp tốc độ phát

triển và tình hình thực tế của báo chí. Một số cơ quan báo chí sa đà khi thông

tin các mặt tiêu cực của đời sống tôn giáo, chưa chú ý đúng mức việc phát hiện,

cổ vũ, nhân rộng những nhân tố mới, điển hình tiên tiến, những mặt tích cực

của xã hội; hoặc có biểu hiện thương mại hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích, chưa

làm tốt chức năng định hướng tư tưởng và dư luận xã hội về tôn giáo và tín

ngưỡng. Trong thực tiễn, vẫn còn một số đối tượng bất mãn hoặc thù địch

chống phá chế độ, chống phá đất nước từ bên trong và bên ngoài lợi dụng tôn

giáo tung thông tin sai trái, xấu độc lên mạng xã hội, bóp méo sự thật, xuyên

tạc đường lối, quan điểm của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn

giáo. Những thông tin này là những tác nhân gây nhiễu về tư tưởng, văn hóa,

ảnh hưởng xấu đến sự đồng thuận trong nhân dân và đồng bào có đạo.

3.2. Những vấn đề đặt ra đối với việc truyền thông về tôn giáo trên địa

bàn tỉnh Vĩnh Phúc

Vĩnh Phúc là tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, cửa ngõ của Thủ

đô, gần sân bay Quốc tế Nội Bài, là cầu nối giữa các tỉnh phía Tây Bắc với Hà

Nội và đồng bằng châu thổ sông Hồng, do vậy tỉnh có vai trò rất quan trọng

trong chiến lược phát triển kinh tế khu vực và quốc gia.

Là tỉnh có bề dày truyền thống yêu nước và cách mạng, truyền thống đó

được phát huy cao độ trong sản xuất, chiến đấu. Từ khi có sự lãnh đạo của

74

Đảng Cộng sản Việt Nam, nhiều tên làng và cá nhân ở Vĩnh Phúc đã in đậm

những chiến công được cả nước biết đến, tiêu biểu như chiến thắng Khoan Bộ,

Xuân Trạch, Núi Đinh, anh hùng liệt sỹ Nguyễn Viết Xuân với câu nói bất hủ

“Hãy nhằm thẳng quân thù mà bắn; Vĩnh Phúc còn được các địa phương biết

tới là nơi khởi nguồn của đổi mới tư duy quản lý nông nghiệp - nông thôn, với

phương thức “khoán hộ” táo bạo vào cuối những năm 60, 70 của thế kỷ XX, đó

là bước đi mang tính đột phá, tạo cơ sở thực tiễn cho đổi mới cơ chế quản lý

kinh tế nông nghiệp, nông thôn và nông dân của Đảng ta sau này.

Đặc biệt, sau hơn 20 năm tái lập, Vĩnh Phúc đã đạt được nhiều thành tựu

quan trọng và đáng tự hào. Từ một địa phương thuần nông trở thành tỉnh có

giá trị sản xuất công nghiệp lớn, là trung tâm sản xuất ô-tô, xe máy hàng đầu

của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cả nước. Hệ thống hạ tầng kỹ thuật

được đầu tư, nâng cấp theo hướng hiện đại. Các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn

hóa, thông tin có nhiều chuyển biến; an ninh quốc phòng được tăng cường,

trật tự an toàn xã hội được giữ vững; tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt

15,37%/năm; thu ngân sách tăng nhanh, từ 100 tỷ đồng năm 1997 lên gần 33

nghìn tỷ đồng năm 2018, vượt 11% dự toán và tăng 13,75% so với năm 2017.

Vĩnh Phúc có tiềm năng lớn về tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn.

Cho đến nay, đất Vĩnh Phúc vẫn mang đậm dấu ấn của văn hóa Hùng Vương

và Kinh Bắc, Thăng Long, của nền văn hóa dân gian đặc sắc, của khoa bảng,

với lối sống xã hội và chuẩn mực đạo đức luôn được giữ gìn và phát huy. Tại

đây có một quần thể danh lam, thắng cảnh tự nhiên nổi tiếng: rừng Quốc gia

Tam Đảo, thác Bản Long, hồ Đại Lải, hồ Làng Hà... Nhiều lễ hội dân gian

đậm đà bản sắc dân tộc và rất nhiều di tích lịch sử, văn hóa mang đậm dấu ấn

lịch sử và giá trị tâm linh như danh thắng Tây Thiên, Tháp Bình Sơn, Đền thờ

Hai Bà Trưng, Đền thờ Trần Nguyên Hãn, Di chỉ Đồng Đậu...

Theo khảo sát, thống kê của các ngành chức năng, trên địa bàn tỉnh đang

diễn ra các hoạt động của nhiều loại hình tôn giáo. Đối với đạo Phật, hiện nay

75

Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh có 343 tăng, ni với trên 400 cơ sở thờ tự.

Trong đó, có 125 cơ sở có sư trụ trì và kiêm trụ trì; 14 chùa được xếp hạng di

tích cấp Quốc gia; 88 chùa xếp hạng di tích cấp tỉnh. Số lượng tín đồ của đạo

Phật trên địa bàn có gần 140.000 người. Với đạo Công giáo, toàn tỉnh hiện có

12 xứ, 47 nhà thờ xứ, họ đạo, 12 linh mục và có trên 22.000 tín đồ. Chi hội

Thánh Tin lành Phúc Yên thuộc Đạo Tin lành được tổ chức sinh hoạt hàng tuần

do Mục sư Nguyễn Văn Long phụ trách có khoảng 40 tín đồ. Các điểm nhóm

Tin lành tại các huyện: Lập Thạch, Tam Dương, Vĩnh Tường và thành phố

Vĩnh Yên chưa đủ điều kiện công nhận điểm nhóm hoạt động ổn định tại gia.

Đạo Tin lành hiện nay ở Vĩnh Phúc có 01 Chi hội thánh Tin lành Phúc

Yên thuộc Chi hội Thánh Tin lành Miền Bắc với 40 tín đồ; có 04 thành viên

Ban chấp sự; 01 Mục sư quản nhiệm (Mục sư Nguyễn Văn Long phụ

trách từ tháng 4/2018).

Về Đạo lạ: Tính đến thời điểm hiện tại, tỉnh Vĩnh Phúc có 07 loại đạo lạ

hoạt động là Tâm linh Hồ Chí Minh ( đạo Nguyễn Điền), Long Hoa Di

Lặc, Hội Tiên Rồng, Hội Tâm linh, Giáo hội Lạc Hồng, Pháp Luân Công và

Đoàn 18 Phú Thọ. Số lượng cụ thể của các loại đạo lạ là: Tâm linh Hồ Chí

Minh (đạo Nguyễn Điền) có 233 người có ở hầu hết các huyện, thành, thị;

Long Hoa Di Lặc có 8 người ở huyện Bình Xuyên, Tam Đảo; Hội tâm linh có

31 người ở huyện Bình Xuyên, Vĩnh Tường, Yên Lạc, Giáo hội Lạc Hồng có

3 người ở huyện Lập Thạch, Pháp Luân Công có 7 người trong đó: ở huyện

Bình Xuyên có (01 người), Vĩnh Tường (06 người); Đoàn 18 Phú Thọ có 01

người ở huyện Tam Dương.

Trong sinh hoạt tôn giáo của Công giáo và đạo Tin Lành ở Vĩnh Phúc có

sự tham gia của người nước ngoài

+ Các hiện tượng tôn giáo mới ở Vĩnh Phúc thường gắn liền với tín

ngưỡng thờ Phật và thờ Mẫu Đứng trên góc độ tôn giáo học, sở dĩ Vĩnh Phúc

là mảnh đất thuận lợi cho các hiện tượng tôn giáo mới, bởi vì: Vĩnh Phúc là

một tỉnh có không gian tôn giáo, tín ngưỡng khá đặc biệt. Vùng đất này thuộc

76

phạm vi “Đất Tổ Hùng Vương” của Việt Nam lại nằm sát Thăng Long - Hà

Nội nghìn năm văn hiến. Không gian lịch sử - văn hóa ấy tất yếu dẫn đến một

không gian tín ngưỡng, tôn giáo đặc biệt của tỉnh.Từ thực tế khảo sát ở Vĩnh

Phúc về Ngọc Phật Hồ Chí Minh, Long Hoa Di Lặc, Hoàng Thiên Long, cho

thấy các hiện tượng tôn giáo mới ở Vĩnh Phúc có nguồn gốc từ các tín

ngưỡng dân gian và thường gắn liền với tín ngưỡng thờ Mẫu và tín ngưỡng

thờ Phật. Cơ sở thờ tự cùng các hoạt động của tín ngưỡng, tôn giáo ở Vĩnh

Phúc gắn liền với sự phát triển du lịch tâm linh.

Trong những năm gần đây Vĩnh Phúc là một trong những tỉnh đứng đầu cả

nước về tốc độ tăng trưởng kinh tế. Trong bức tranh phát triển kinh tế xã hội

của Vĩnh Phúc có sự đóng góp không nhỏ của ngành du lịch nhờ có nhiều lợi

thế, trong đó có lợi thế về những điểm du lịch tín ngưỡng, tâm linh. Các cơ sở

thờ Thánh Mẫu Tây Thiên ở Vĩnh Phúc là một trong những địa chỉ thu hút

khách du lịch tâm linh nhiều nhất. Ngoài ra, sự đa dạng tôn giáo cũng là một

lợi thế để phát triển du lịch tâm linh ở Vĩnh Phúc. Tuy nhiên, trong thời gian

qua các tour du lịch tâm linh được tổ chức thường chỉ thiên về Phật giáo và

tín ngưỡng truyền thống. Đây là thế mạnh của Vĩnh Phúc, nhưng để đạt hiệu

quả cao hơn cả về kinh tế lẫn văn hóa - xã hội cần quan tâm tổ chức thêm các

tour du lịch chuyên biệt đối với các tôn giáo khác.

3.3. Giải pháp nâng cao vai trò của báo chí trong việc truyền thông về

tôn giáo trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.

3.3.1. Nâng cao nhận thức về vai trò của báo chí trong truyền thông về

tôn giáo

Với chức năng, nhiệm vụ làm báo của những của phóng viên, biên tập viên

công tác tại Báo Vĩnh Phúc, Đài PT&TH Vĩnh Phúc xác định hướng ưu tiên

chủ yếu là công tác tuyên truyền chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng,

Nhà nước về tôn giáo đến với mọi người, đồng thời chú trọng phản ánh tâm

tư, nguyện vọng và những vấn đề bức xúc của nhân dân, của cộng đồng, tiếng

77

nói của người dân, trong đó có chức sắc, tín đồ các tôn giáo.

Việc tuyên truyền chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước

về tín ngưỡng, tôn giáo giúp người dân, tổ chức tôn giáo cập nhật thông tin và

thực hiện các hoạt động tôn giáo trên cơ sở quy định của pháp luật, qua đó tạo

sự ổn định, an ninh trật tự xã hội, đồng thời tạo sự đồng thuận trong người

dân cả trên phạm vi vi mô và vĩ mô, giúp cộng đồng quốc tế hiểu rõ hơn về

chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam về vấn đề quyền con

người trong tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

Các phóng viên đã nỗ lực khai thác các phương tiện kỹ thuật và công nghệ

truyền thông, khả năng tích hợp đa kỹ năng, đa phương tiện, đa loại hình

trong hoạt động nghề nghiệp. Không chỉ có tin, bài phóng sự ảnh phản ánh

kịp thời các sự kiện, hoạt động tôn giáo diễn ra trên phạm vi cả nước mà còn

trên toàn thế giới, các loại hình video clip ghi hình ảnh, audio ghi âm thanh

trực tiếp sống động của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các chức sắc các tôn giáo,

tiếng nói của các tổ chức, cá nhân tôn giáo, các nhà khoa học quốc tế nghiên

cứu, bình luận về tình hình tôn giáo, phản ánh nét sinh động trong đời sống

văn hóa tôn giáo ở Việt Nam và trên toàn thế giới. Những bài viết nghiên cứu

trao đổi về tôn giáo của các giáo sư, tiến sĩ, các nhà quản lý hàng đầu có kinh

nghiệm trong lĩnh vực tôn giáo và công tác tôn giáo giúp độc giả am hiểu về

đặc điểm, đặc thù của các tôn giáo ở Việt Nam và trên thế giới.

3.3.2. Chú trọng phối hợp trong quản lý Nhà nước về tin ngưỡng và

tôn giáo

Thực hiện quan điểm chỉ đạo nhất quán của Đảng, Nhà nước về công tác

tôn giáo, căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao, Báo Vĩnh Phúc, Đài PT - TH

Vĩnh Phúc phối hợp với các cấp, ngành chức năng thực hiện tốt các nội dung

như: Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo đến

các cấp, ngành, cán bộ, đảng viên, nhân dân và đồng bào có đạo; quản lý về

sinh hoạt, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; quản lý cơ sở tín ngưỡng đã được

78

xếp hạng di tích; quản lý các hoạt động tín ngưỡng, các nguồn thu tại cơ sở

tín ngưỡng đã được xếp hạng di tích; giải quyết hồ sơ xin giao đất, cấp giấy

chứng nhận quyền sử dụng đất cho cơ sở tôn giáo; giải quyết hồ sơ cấp giấy

phép phòng cháy, chữa cháy các công trình tín ngưỡng, tôn giáo; giải quyết

hồ sơ cấp giấy phép xây dựng công trình tín ngưỡng, tôn giáo; quản lý các

hoạt động y tế, giáo dục, bảo trợ xã hội, từ thiện, nhân đạo, dạy nghề của tổ

chức, cá nhân tôn giáo; quản lý hoạt động tôn giáo có yếu tố nước ngoài; giải

quyết các vụ việc đơn thư, khiếu nại, tố cáo liên quan đến tín ngưỡng, tôn

giáo; nhà đất liên quan đến tôn giáo và phối hợp trong thanh tra, kiểm tra, xử

lý vi phạm về sinh hoạt, hoạt động, đất đai, xây dựng, phòng chống cháy nổ, y

tế, giáo dục, bảo trợ xã hội, từ thiện, nhân đạo, dạy nghề, quản lý di tích liên

quan đến tín ngưỡng, tôn giáo. Qua đó, tạo điều kiện cho các tôn giáo sinh

hoạt, hoạt động theo hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã được

Nhà nước công nhận, quy định rõ trong các quy định của pháp luật.

3.3.3. Nâng cao chất lượng tin, bài khi truyền thông về vấn đề tôn giáo

Khi Luật Tín ngưỡng, tôn giáo được ban hành, một số người lợi dụng “vỏ

bọc” tự do tôn giáo để xuyên tạc mục đích, ý nghĩa và nội dung của Luật, gây

tâm lý hoang mang trong nhân dân, nhất là đồng bào có đạo. Họ kích động,

xúi giục biểu tình, gây nhiều bất ổn, làm xáo trộn cuộc sống bình yên của

nhân dân ở một số địa phương. Nguyên nhân của tình hình trên có nhiều;

trong đó, một phần quan trọng là do hạn chế, yếu kém trong công tác tuyên

truyền, phổ biến Luật Tín ngưỡng, tôn giáo. Đội ngũ cán bộ chuyên trách, báo

cáo viên, tuyên truyền viên chưa đủ mạnh cả về số lượng, kiến thức, kỹ năng

truyền đạt và sự am hiểu về đời sống tín ngưỡng, giáo lý, giáo luật của các tôn

giáo. Do vậy, Báo Vĩnh Phúc, Đài PT - TH Vĩnh Phúc cần chủ động đẩy

mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến Luật Tín ngưỡng, tôn giáo là nhiệm vụ

vừa cấp bách, vừa cơ bản, lâu dài, cần được triển khai với sự tham gia của các

cấp, ngành và lực lượng. Trong đó, chú trọng thực hiện tốt công tác động

viên, khuyến khích các bài viết chuyên sâu về đạo đức tôn giáo, Giáo luật,

79

Giáo lý, đời sống tôn giáo, hình ảnh, clip về các hoạt động xã hội, từ thiện…

Thực hiện tốt các nội dung, Báo Vĩnh Phúc, Đài PT - TH Vĩnh Phúc sẽ

bảo đảm công tác tuyên truyền, phổ biến Luật Tín ngưỡng, tôn giáo cũng như

có những tác phẩm chất lượng, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của một

bộ phận nhân dân, góp phần tích cực xây dựng nền an ninh nhân dân vững

mạnh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

3.3.4. Nâng cao bản lĩnh chính trị và đạo đức nghề nghiệp của nhà báo

khi đưa tin về tôn giáo

Để tăng cường thực hiện nghiêm Luật Báo chí, nêu cao đạo đức nghề

nghiệp người làm báo, các cấp hội nhà báo, các cơ quan chỉ đạo và quản lý

báo chí và đội ngũ người làm báo nói chung, đội ngũ nhà báo chuyên về mảng

đề tài tôn giáo nói riêng cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp

trọng tâm dưới đây:

Một là: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự phối

hợp với các cơ quan chỉ đạo, quản lý báo chí nhằm nâng cao chất lượng, hiệu

lực của công tác phối hợp chỉ đạo, định hướng báo chí.

Hai là: Các cấp hội nhà báo, các cơ quan báo chí cần tiếp tục làm tốt việc

giáo dục học tập Luật Báo chí và 10 Điều quy định đạo đức nghề nghiệp của

người làm báo Việt Nam, Quy tắc sử dụng mạng xã hội của người làm báo

Việt Nam; tổ chức tốt Hội nghị Tổng kết 15 năm thực hiện Chỉ thị 37 của Ban

Bí thư ngày 18/3/2004 “Tiếp tục nâng cao vai trò, chất lượng hoạt động của

Hội Nhà báo Việt Nam”.

Ba là: Tiếp tục rà soát, hoàn thiện các văn bản của Nhà nước về tổ chức và

hoạt động báo chí.

Bốn là: thực hiện tốt công tác quy hoạch báo chí, rà soát các cơ quan báo

chí hoạt động không đúng tôn chỉ mục đích, có nhiều sai phạm để xử lý

nghiêm theo các quy định của Luật Báo chí.

Năm là: Đổi mới cơ chế, chính sách để các tổ chức, cơ quan nhà nước tăng

80

cường quản lý và phối hợp hoạt động báo chí.

Sáu là: Xây dựng quy định chặt chẽ, rõ ràng về trách nhiệm các cơ quan

nhà nước phải cung cấp thông tin kịp thời cho báo chí và nghiêm túc tiếp

nhận, xử lý và phản hồi cho báo chí, đồng thời tạo điều kiện, bảo vệ nhà báo

tác nghiệp đúng pháp luật.

Bảy là: Xây dựng cơ chế chính sách để báo chí khai thác, sử dụng mặt tích

cực của mạng xã hội đi đôi với việc xử lý việc lợi dụng mạng xã hội để tuyên

truyền chống Đảng, Nhà nước, chế độ; Các cấp hội nhà báo, các cơ quan báo

chí thực hiện nghiêm Quy tắc sử dụng mạng xã hội của người làm báo.

Tám là: Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị, nghiệp vụ báo

chí, ý thức trách nhiệm xã hội và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ người làm

báo, đặc biệt là nêu cao tính tiền phong gương mẫu của đội ngũ cán bộ lãnh

đạo các cấp hội, các cơ quan báo chí.

Chín là: Tăng cường hơn nữa sự phối hợp của Hội Nhà báo Việt Nam với

các cơ quan chỉ đạo, quản lý, tiếp tục đẩy mạnh các biện pháp giám sát hoạt

động nghiệp vụ, tuân thủ pháp luật, Điều lệ Hội và 10 Điều quy định đạo đức

nghề nghiệp của nhà báo-hội viên.

Báo chí đang đứng trước những cơ hội lớn cùng những thách thức nặng nề

và gay gắt, đòi hỏi chúng ta phải đổi mới và sáng tạo hơn nữa. Báo chí không

thể thắng mạng xã hội băng tốc độ đưa tin, nhưng báo chí sẽ vượt trội mạng

xã hội băng sự chính xác, chuẩn mực và trách nhiệm. Độ tin cậy và sức thuyết

phục chính là con đường sống của báo chí trong thời đại truyền thông kỹ thuật

số. Chúng ta cần thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ để xây dựng một đội ngũ

những người làm báo có bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh thông nghiệp vụ,

đạo đức nghề nghiệp trong sáng.

Việc tu dưỡng, rèn luyện theo 10 Điều quy định đạo đức nghề nghiệp của

người làm báo Việt Nam giúp nhà báo, hội viên tự tin vượt qua mọi thử thách,

cám dỗ, bảo vệ uy tín, danh dự của những người làm báo cách mạng, hoàn

thành xuất sắc trọng trách của người chiến sỹ trên mặt trận tư tưởng văn hóa

81

mà Đảng, nhân dân tin cậy, giao phó.

Báo chí có một vai trò vô cùng quan trọng trong việc định hướng dư luận.

Tuy nhiên, trong thế giới toàn cầu hóa ngày nay, sự hội nhập giữa các xã hội

từ xưa vẫn có ngăn cách đang càng lúc càng mở rộng chế độ mọi biên giới có

thể xóa nhòa, thông tin có thể đến từ nhiều nguồn mà quần chúng, nghĩa là

những người đọc luôn có thể kiểm chứng tính xác thực của chúng một cách dễ

dàng. Chính vì thế mà Tony Burman, cựu tổng biên tập của một hãng tin lớn

trên thế giới là CBC News đã phát biểu: “Mọi tổ chức báo chí đều chỉ có thể

dựa vào danh tiếng và sự được tín nhiệm của chính mình”.

Nắm rõ chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước về công tác

tôn giáo. Thường xuyên nâng cao nhận thức, trình độ lý luận chính trị, kiến

thức về tôn giáo và kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ;

Thận trọng nhưng phải nhanh nhạy trong công tác thông tin liên quan đến

ván đề tôn giáo, nếu các nhà báo chủ quan không điều tra kỹ nguồn gốc sự

việc, tìm hiểu độ tin cậy của thông tin thì có thể dẫn đến phản ánh thông tin

sai lệch, đây chính là kẽ hở để các thế lực thù địch, phản động khai thác để

chống phá nhà nước, lợi dụng tôn giáo, gây nguy hại cho bản thân, cho tòa

báo, cho xã hội. Vì vậy, tuy phải nhanh nhạy trong nắm bắt thông tin, theo kịp

dòng sự kiện nhưng các phóng viên, tòa soạn vẫn phải tỉnh táo trong công tác

xác định độ tin cậy, chính xác của thông tin. Đặc biệt là vấn đề tôn giáo lại là

vấn đề tương đối nhạy cảm đối với xã hội, nhân dân và nhà nước hiện nay.

Thận trọng trong quá trình tìm hiểu nhưng phải luôn bám sát tình hình tôn

giáo trên các trang thông tin phản động để từ đó nắm bắt được xu thế vận

động của bọn mượn danh tôn giáo trong nước. Đi trước đón đầu, nắm bắt tình

huống để có những bài viết phản ánh, tuyên truyền giúp định hướng dư luận

xã hội đi đúng hướng. Không để tình trạng khi sự việc tôn giáo đã xảy ra biến

cố mới đi sau giải thích vận động làm giảm đi hiệu quả tuyên truyền, định

hướng dư luận của báo chí.

Luôn đề cao coi trọng công tác tuyên truyền thường xuyên về vấn đề tôn

82

giáo trong nội dung thông tin báo chí.

Dưới tác động của mặt trái kinh tế thị trường, nhiều hậu quả tiêu cực đã

xảy ra. Vì chạy theo mục đích thương mại, nhiều tờ báo, nhiều nhà báo đã đi

chệch khỏi tôn chỉ, mục đích chân chính. Trong bối cảnh đó, với tư cách là cơ

quan lý luận chính trị của Đảng và Nhà nước, việc giữ vững tôn chỉ, mục đích

của các tờ báo là yêu cầu cấp thiết đặt ra cho ban biên tập cũng như tập thể

cán bộ, phóng viên, biên tập viên các báo.

Báo chí là một hoạt động văn hóa phát triển trước hết ở Phương Tây với

lịch sử vài trăm năm, đã kết tập được nhiều kinh nghiệm, đúc kết nhiều kho

sách về đạo đức báo chí; do đó chắc chắn các nền báo chí mới phát triển sau

này có thể học hỏi được nhiều từ quan điểm đạo đức báo chí của các quốc gia

Âu Mỹ. Vì vậy, trước khi bàn về đạo đức của người làm báo Việt Nam, việc

tìm hiểu đạo đức báo chí phương tây là điều cần thiết.

Người làm báo liên quan đến tôn giáo là nhà báo hoạt động trên đất nước

Việt Nam, vì thế phải là trung thành với tổ quốc và dân tộc Việt Nam ở tư

cách của một công dân, chịu sự điều chỉnh của Luật báo chí và tôn trọng

những quy định nghề nghiệp của người làm báo do Hội Nhà Báo Việt Nam đề

xuất do tính chất nghề nghiệp của mình.

Tiểu kết chƣơng 3

Báo chí Phật giáo trong sự phát triển của công nghệ thông tin đang đóng

một vai trò mới - vai trò định hướng đời sống xã hội cho mọi người. Truyền

thông hay sự chuyển tải thông tin từ người này qua người khác, từ nơi này qua

nơi khác, từ nước này sang nước khác nhằm mục đích kết nối, liên kết con

người với cuộc sống, con người với xã hội trong một bối cảnh cụ thể. Truyền

thông ngày nay được xây dựng trên nền tảng vững chắc của công cuộc công

nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công nghệ thông tin IT cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ

XXI mở ra một kỷ nguyên thông tin mới, nhanh, nét và hiệu quả. Cũng nhờ

83

công nghệ mới này mà con người chỉ cần ngồi ở một nơi có thể khám phá, có

thể trao đổi và tìm hiểu những thông tin, những tư liệu về mọi thứ mà cuộc

sống của mình cần. Trong các lĩnh vực truyền thông hôm nay đang hướng tới

thì truyền thông trong lĩnh vực tôn giáo đang là một nhu cầu bức thiết.

Thực trạng truyền thông tôn giáo và nhất là Phật giáo, thông tin về quan

điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác tôn giáo. Từ

đó, dựng một bức tranh về truyền thông, thông tin tôn giáo hiện nay, cũng

như những vấn đề đang đặt ra cho tương lai.

Phương tiện truyền thông trong các gia đình người Việt vẫn đang sử dụng

số lượng lớn là tivi, đầu đĩa, rồi mới đến điện thoại thông minh, … Như vậy,

nếu muốn truyền thông tôn giáo hiệu quả thì phải dựa chính trên các phương

tiện này.

Sử dụng Internet trong truyền thông tôn giáo: Internet hay công nghệ IT ra

đời làm cho con người gắn kết với nhau hơn, thế giới trở nên nhỏ bé hơn.

Truyền thông qua Internet là truyền thông mở hay truyền thông đại chúng bởi

ở đó con người có thể thoải mái trình bày quan điểm sống của mình mà không

sợ bị kiểm duyệt như những hình thái in ấn truyền thống. Đây chính là hạn

chế lớn nhất của truyền thông qua mạng Internet toàn cầu.

Các tôn giáo họ nắm được thế mạnh này và đã cho ra đời hàng loạt các

trang mạng góp phần truyền thông, chuyển tải lượng thông tin khổng lồ giúp

cho người đọc, người nghe hướng tâm về Phật giáo, tôn giáo, tín ngưỡng.

Nhìn chung không chỉ Phật giáo, Công giáo mà Tin Lành, Cao Đài, Hoà

Hảo… đều đã tận dụng hình thức truyền thông qua Internet để truyền thông

tôn giáo của mình.

Về phía truyền thông Nhà nước cũng đã tạo ra nhiều trang thông tin điện

tử Internet như: Cổng thông tin điện tử Chính phủ, Cổng thông tin điện tử của

các Bộ, ngành và nhiều tờ báo mạng đã trở nên quen thuộc với người truy cập

internet như: Vnexpress.net, Vietnamnet.vn, Dantri.vn, Danviet.com.vn,

84

Tuoitre online…

Qua khảo sát cho thấy hiện nay, người Việt khi xem tivi, truy cập mạng

Internet thường quan tâm hàng đầu tới sức khoẻ, y tế; sau đó là những vấn đề

xã hội, môi trường, phát triển; tiếp đó là thể thao, văn hoá; thứ tư mới là quan

tâm đến vấn đề tôn giáo.... sau cùng là quân sự an ninh.

Như vậy, tôn giáo cũng là vấn đề mà nhiều người quan tâm. Cũng cần

phải nói rõ rằng, vấn đề tôn giáo được các báo mạng của chúng ta đưa tin chủ

yếu là các sự kiện tôn giáo nổi bật có liên quan tới tôn giáo thế giới như:

Quan hệ của Nhà nước ta với Vaticant, Đại lễ Vesak..... phổ biến đường lối,

85

chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với tôn giáo.

Trong xã hội hiện đại, một trong những vấn đề mà những ai theo logic của tư

KẾT LUẬN

duy lý tính thuần túy bất ngờ là sự bùng phát mạnh mẽ của cái gọi là “những

hiện tượng phi lý” trong đó có hiện tượng tôn giáo. Trong thế kỷ 21, ngoài

những bận tâm về chiến tranh hủy diệt, về bệnh tật và nghèo đói, về thảm họa

môi trường, tôn giáo và các vấn đề liên quan đến tôn giáo cũng như hệ lụy rất đa

dạng mà hiện tượng này đưa lại là một trong những mối bận tâm nhất của nhân

loại. Mối bận tâm này bắt nguồn từ một thực tế, dường như có sự gia tăng đáng

kể từ tôn giáo, nhất là vùng ngoại vi các trung tâm, tôn giáo truyền thống, nơi mà

sự cùng khổ đang cần đến sự cứu cánh cho tinh thần để bù đắp cho sự thiếu hụt

hiện thực và nhất là sự nở rộ của trào lưu “tôn giáo mới” ở ngay trong lòng các

quốc gia có nền kinh tế phát triển cao. Liên quan đến tình hình trên là những

xung đột mà căn nguyên của nó rất phức tạp. Có thể do sự khác biệt về đức tin,

cũng có thể do đòi hỏi về kinh tế, chính trị, văn hóa của đông đảo dân chúng

không được chính quyền thế tục đáp ứng. Cũng có khi rất đơn giản, chỉ là sự

mạo phạm một đức tin nào đó một cách vô tình…

Kế thừa và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin về

tôn giáo trong điều kiện mới, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã

giải quyết khá thành công vấn đề hóc búa này. Hai vấn đề có tính nguyên tắc

là triệt để tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và thực thi chiến lược đại

đoàn kết dân tộc được thực hiện sâu sắc và nhất quán. Quan điểm của Đảng

về vấn đề tôn giáo luôn được nhanh chóng cụ thể hóa, thể chế hóa bằng pháp

luật và chính sách của Nhà nước, nhờ vậy, công tác quản lý nhà nước các hoạt

động tôn giáo ngày càng thuận lợi, nhu cầu tôn giáo chính đáng của người có

đạo ngày càng được thỏa mãn đầy đủ hơn.

Với nhiệm vụ là tiếng nói của Đảng, Nhà nước và nhân dân, thời gian qua

86

báo chí đã làm tốt trách nhiệm của mình trong công tác định hướng dư luận và

đấu tranh chống những tư tưởng sai trái trong lĩnh vực tôn cả nước nói chung

và địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng. Nhờ vậy đã góp phần xứng đáng vào sự

nghiệp củng cố và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, đấu tranh

chống các quan điểm sai trái, thù địch. Tuy nhiên, việc phản ánh thực tế và

tuyên truyền về lĩnh vực này trên báo chí còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập.

Biểu hiện ở chỗ số lượng bài ít, cơ cấu bài chưa thật toàn diện và nhìn chung

chất lượng nghiên cứu chưa cao, chưa kịp thời… Nguyên nhân của tình hình

này xuất phát từ cả phía cán bộ, phóng viên, biên tập viên, từ lãnh đạo các cơ

quan báo chí và phần nào đó cũng do vấn đề tôn giáo phức tạp và nhạy cảm.

Trong bối cảnh tình hình mới, để tiếp tục là tiếng nói của Đảng, Nhà nước

và nhân dân, thiết nghĩ những hạn chế, bất cập trên từng bước được khắc phục

và theo đó cần phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp và các giải pháp trực

tiếp cho báo chí là những giải pháp chủ yếu nhất. Vì vậy, xây dựng một đội

ngũ cán bộ, phóng viên, biên tập viên có năng lực và phẩm chất tốt với một

môi trường làm việc thuận lợi sẽ là điều kiện để các báo hoàn thành trọng

trách của mình, tham gia tích cực vào sự nghiệp đổi mới của toàn Đảng và

nhân dân.

Trong quá trình nghiên cứu, đề tài này không tránh khỏi những sai sót,

chưa đáp ứng hết sự mong mỏi của các nhà nghiên cứu khoa học cũng như

yêu cầu thực tiễn đặt ra, tác giả rất mong muốn nhận được ý kiến đóng góp bổ

sung từ Hội đồng khoa học, đồng nghiệp và các thầy, cô giáo.

87

Tác giả xin trân trọng cảm ơn!

1. Nguyễn Việt Chước (1974), Lịch sử báo chí Việt Nam, Nxb Nam Sơn,

TÀI LIỆU THAM KHẢO

TP Hồ Chí Minh

2. Hồng Chương (1987), Tìm hiểu lịch sử báo chí Việt Nam, Nxb Giáo

khoa Mác- Lênin.

3. PGS.TS Nguyễn Văn Dững (2012), “Cơ sở lý luận báo chí”, Nxb Lao động

4. Đức Dũng (1992), Các thể kí báo chí, Nxb Văn hóa- Thông tin, Hà Nội.

5. Nguyễn Đại Đồng- Nguyễn Thị Minh (2008), Phong trào chấn hưng Phật

Giáo Việt Nam từ năm 1927- 1938, Nxb Tôn Giáo.

6. Hà Minh Đức (2000), Cơ sở lý luận báo chí đặc tính chung và phong

cách, Nxb ĐHQG Hà Nội

7. Nguyễn Thị Trường Giang (2011), Đạo đức nhà báo, Nxb Chính trị

Hành chính.

8. Mai Thanh Hải (2002), Từ điển tôn giáo, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

9. Nguyễn Duy Hinh (2009), Lịch sử đạo Phật Việt Nam, Nxb Tôn giáo

10. Đỗ Quang Hưng (2001), Tôn giáo và mấy vấn đề tôn giáo Nam Bộ Nxb

Khoa học Xã hội- Hà Nội.

11. Vũ Đình Hòe (chủ biên), Tạ Ngọc Tấn, Vũ Hiền, Nguyễn Hậu (2000),

“Truyền thông đại chúng trong công tác lãnh đạo quản lý”, Nxb Chính trị

Quốc gia, HN

12. Đỗ Quang Hưng (2000), Lịch sử báo chí Việt Nam 1865- 1945, Nxb

Đại học Quốc Gia Hà Nội.

13. Đỗ Quang Hưng (2005), Lịch sử báo chí tôn giáo ở Việt Nam, Kỷ yếu

Việt Nam học quốc tế lần thứ I, II.

14. Đỗ Quang Hưng (2010), Đời sống tôn giáo tín ngưỡng Thăng Long-

Hà Nội, Nxb Hà Nội.

15. Nguyễn Mạnh Khả, Bài viết đi tìm một định nghĩa về tôn giáo ngày

88

11/10/2018 đã đưa ra một số dẫn chứng về định nghĩa tôn giáo

http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-

goc-nhin-van-hoa/di-tim-mot-dinh-nghia-ve-ton-giao

16. Nguyễn Lang (1994), Việt Nam Phật Giáo sử luận tâp I, Nxb Văn học,

Hà Nội

17. Nguyễn Lang (1994), Việt Nam Phật Giáo sử luận tập II, Nxb Văn

học, Hà Nội

18. Nguyễn Lang (1994), Việt Nam Phật Giáo sử luận tập III, Nxb Văn

học, Hà Nội

19. Trần Hồng Liên (1995), Đạo Phật trong cộng đồng người Việt ở Nam

Bộ-Việt Nam (từ TK XVII- đến 1975), Nxb Khoa học Xã học.

20. Hồ Chí Minh toàn tập (2000), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

21. TS. Đỗ Chí Nghĩa, Giáo trình “Vai trò của báo chí trong định hướng

dư luận xã hội”, Nxb Chính trị Quốc gia

22. Thích Như Nguyệt (2007), Hành trạng chư Ni Việt Nam, Nxb Tôn Giáo.

23. Nhiều tác giả (1998.), Điạ chí Văn hoá Tp Hồ Chí Minh tập I,II, III và

IV, Nxb Tp Hồ chí Minh

24. Nhiều tác giả (2006), Báo chí Việt Nam những sự kiện đầu tiên và

nhất, Nxb Trẻ.

25. Trần Quang (2005), Các thể loại báo chí Chính luận , Nxb Đại học

Quốc gia, Hà Nội

26. Tô Huy Rứa (1998), Thư tịch Báo Chí Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia

27. Dương Xuân Sơn (2000), Báo chí phương tây, Nxb ĐHQG TP HCM

28. Dương Xuân Sơn (2004), Các thể loại báo chí Chính luận nghệ thuật,

Nxb ĐHQG Hà Nội.

29. Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang (2004), Cơ sở lí luận

báo chí truyền thông, Nxb ĐHQG Hà Nội.

30. Tạ Ngọc Tấn (1999), Từ lý luận đến thực tiễn báo chí, Nxb Văn hóa-

89

Thông tin, Hà Nội

31. Trương Ngọc Tường- Nguyễn Ngọc Phan (2007), Báo chí ở Thành

phố Hồ Chí Minh, Nxb Văn Hóa Sài Gòn.

32. Huỳnh Văn Tòng (2002), Lịch sử báo Việt Nam từ khởi thủy đến

1945, Nxb Tp Hồ Chi Minh

33. Tạ Ngọc Tấn (2001), Giáo trình “Truyền thông đại chúng”, Nxb Chính

trị Quốc gia

34. Đặng Nghiêm Vạn (2003), “Bàn về tín đồ và tổ chức của một tôn

giáo”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 2, tr.14-20.

35. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa

Thông tin, Hà Nội.

36. Đặng Nghiêm Vạn, Phạm Như Cương, Vũ Khiêu, Trần Đình Hượu,

Hà Văn Tấn (1994), Những vấn đề tôn giáo hiện nay, Nxb KHXH-Hà Nội

37. Luật báo chí 2016:

https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Van-hoa-Xa-hoi/Luat-Bao-chi-2016-

280645.aspx

38. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2013), Hiến chương Giáo hội Phật giáo

Việt Nam (sửa đổi lần thứ V), được ký theo Quyết định số 016/QĐ/HĐTS,

90

ngày 30/01/2013

PHỤ LỤC

TT Tên gọi Số lƣợng Đƣờng hƣớng hành đạo

Năm công nhận tín đồ (ngƣời)

tổ chức Năm truyền vào Việt Nam, năm thành lập

1981 1 Phật giáo

Đầu Công nguyên >10.000.000 Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội

1980 2 Công giáo 1533

6.150.000 Sống phúc âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào

72.732 Tốt đời, đẹp đạo

Khoảng thế kỷ X, phát triển vào thế kỷ XV

3 Đại Islam (đạo Hồi), có ba đại diện Islam và một hội đồng sư cả Bani

3.1 Ban đại 1992

diện cộng đồng Hồi giáo Thành phố Hồ Chí Minh

5.456 Vận động bà con tín đồ chấp hành các quy định về hoạt động tôn giáo, pháp luật của nhà nước, hưởng ứng các phong trào quần chúng yêu nước, phong trào xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư và phát huy đoàn kết dân tộc.

3.2 Ban đại 2004

diện cộng đồng Hồi giáo tỉnh An Giang

91

13.000 Tôn thờ Thượng đế Ala, tôn kính Đức Nabi Mohamed và Thiên kinh Côran; hoạt động trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; đoàn kết tôn giáo

3.3 Ban đại 2008

diện cộng đồng Hồi giáo tỉnh Tây Ninh

3.700 Tôn thờ Thượng đế Ala, tôn đức Nabi kính Mohamed và Thiên kinh Côran; hoạt động trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; đoàn kết tôn giáo.

3.4 Hội đồng 2007

sư cả Chăm Bani tỉnh Ninh Thuận

23.000 Hội đồng Sư cả là thành viên của khối đoàn kết toàn dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến Pháp và pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

4 Đạo Tin 2001 Đồng hành cùng dân tộc.

lành với 10 hội thánh

4.1 Hội thánh 1911 1958

Tin lành Việt Nam (miền Bắc)

100.000 Hết lòng thờ phụng đức Chúa trời ba ngôi, yêu tổ quốc, bảo vệ hóa bình, thực hiện công bằng, bác ái, tự do, bình đẳng và lao động.

4.2 Hội thánh 1911 2001

700.000 Sống phúc âm, phụng sự Thiên Chúa, phụng sự Tổ quốc và dân tộc.

Tin lành Việt Nam (miền Nam)

4.3 Hội truyền 1956 2007

giáo Cơ đốc Việt Nam

92

21.819 Rao truyền danh chúa Jesus Christ cho mọi người để xây dựng hội thánh nhằm thợ phượng, phục sự Đức Chúa Trời và yêu thương đồng loại.

4.4 Tổng hội 1962 2008

2.000 Sống phúc âm, phục vụ Chúa, phục vụ Tổ quốc và dân tộc.

Báphíp Việt Nam (Ân Điển - Nam phương)

4.5 Tổng hội 2008

7000 Sống phúc âm, phụng sự Thiên Chúa, phục vụ Tổ quốc, gắn bó với dân tộc và tuân thủ pháp luật.

Báphíp Việt Nam (Nam phương)

4.6 Hội thánh 1968 2008

Tin lành Trưởng lão Việt Nam

7.000 Hết lòng thờ phượng Đức Chúa Trời ba ngôi, kính yêu mọi người, phụng sự Thiên Chúa, phụng sự Tổ quốc và dân tộc, tuân thủ pháp luật.

1929 2008

4.7 Giáo hội Cơ Đốc Phục lâm Việt Nam

7.000 Thờ phượng Đức Chúa Trời ba ngôi hằng sống, yêu thương đồng loại, kính Chúa, yêu người và phục vụ Tổ quốc.

1957 2009

4.8 Hội thành Mennonite Việt Nam

6.000 Sống phúc âm, phụng sự Thiên Chúa, phục vụ Tổ quốc và đồng hành cùng dân tộc.

1963

30.000 Trung thành với chân lý Kinh thánh, đồng hành cùng dân tộc.

4.9 Hội thánh Liên hữu Cơ Đốc Việt Nam 2007 (cấp đăng ký)

4.10 Hội thánh

Phúc âm Ngũ tuấn Việt Nam 22.000 Sống theo lời Chúa, phục vụ Chúa, phục vụ tha nhân, phục vụ Tổ quốc và dân tộc. 2009 (cấp đăng ký)

5 Đạo Cao 2.296.868 Nước vinh - Đạo sáng

93

Đài (có hội thánh)

5.1 Hội thánh 1926 1997

Cao Đài Tây Ninh

5.2 Hội thánh 1934 1997 826.521 1.312.000 Hoạt động tuân thủ pháp luật nhà nước, xây dựng dường hướng hành đạo gắn bó với dân tộc theo phương châm: "Nước vinh - Đạo sáng" nhằm xây dựng một xã hội đại đồng, thương yêu để giải khổ chúng sinh.

Cao Đài Ban chỉnh đạo

5.3 Hội thánh 1932 1995 41.523

Cao Đài Tiên Thiên

5.4 Hội thánh 1956 1996 45.898

Truyền giáo Cao Đài

5.5 Hội thánh 1928 1996 31.396

Cao Đài Minh Chơn đạo

5.6 Hội thánh 1928 1996 4.185

Cao Đài Chiếu Minh Long

5.7 Hội thánh 1937 2000 9.451

Cao Đài kho Tam quan

5.8 Hội thánh 1936 1998 4.237

Cao Đài Bạch Y

6 1939 1999 1.250.981 Vì đạo pháp, vì dân tộc.

94

Phật giáo Hòa Hảo

7 1934 2007

1.450.000 Tu học, hành thiện, ích nước, lợi dân.

Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam

8 Đạo Bà hai 1954 2008

7.000 Tuân thủ pháo luật Việt Nam, nêu cao tinh thần đoàn kết, hòa hợp dân tộc, tôn giáo, phấn đấu vì sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, vì nền văn minh của nhân loại.

1867 2006

9 Đạo Tứ ân Hiếu nghĩa

70.899 Hành Tứ ân - sống hiếu nghĩa - vì chủ nghĩa xã hội.

10 Đạo Bửu 1849 2009 15.184 Đi

Sơn Kỳ Hương

theo pháp chánh truyên, tôn chỉ và đường hướng hành đạo gắn bó với dân tộc, với đất nước của Đức Phật thầy Tây An, lấy học Phật tu nhân, hành theo Tứ Ân làm căn bản lẽ sống đạo - đời.

11 Giáo hội 1863 2008

1.058 Hiệp nhất tinh hoa của ba nền tôn giáo Nho - Thích - Đạo.

Phật đường Nam tông Minh Sư đạo

1924 2008 1.058 Hoằng

12 Minh - Lý đạo - Tam Tông miếu

95

chánh dương pháp, phục vụ nhân sanh trên cương lĩnh, từ bi, giác ngộ và giải thoát