ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN VĂN TRUNG
BÁO CHÍ VỚI VẤN ĐỀ TÔN GIÁO TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH PHÚC
LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC
HÀ NỘI - 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN VĂN TRUNG
BÁO CHÍ VỚI VẤN ĐỀ TÔN GIÁO TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH PHÚC
Chuyên ngành: Báo chí học
Mã số : 60 32 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG
PGS.TS. Dƣơng Xuân Sơn Phạm Văn Linh
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Luận văn này là công trình nghiên cứu độc lập của tác giả dưới sự hướng dẫn
của PGS.TS. Dương Xuân Sơn. Đề tài luận văn không trùng lặp với bất kỳ công
trình nghiên cứu nào đã công bố trong và ngoài nước.
Các số liệu, thông tin trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, tin cậy và được
trích dẫn theo quy định về khoa học. Các kết quả nghiên cứu của luận văn
chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nghiên cứu nào.
Tác giả là người duy nhất chịu hoàn toàn trách nhiệm về nội dung của
luận văn!
Tác giả luận văn
Nguyễn Văn Trung
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được hoàn thành, trước hết, bằng sự nỗ lực và nghiêm túc
trong nghiên cứu của tác giả, nhưng không thể không kể đến sự giúp đỡ,
hướng dẫn nhiệt tình, trách nhiệm của rất nhiều người. Những sự giúp đỡ và
hướng dẫn đó giúp tác giả hoàn thành được luận văn đúng tiến độ và đóng
góp vào hoạt động nghiên cứu chung về báo chí với vấn đề tôn giáo. Tác giả
xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và trân trọng tới:
Các thầy, cô giáo Viện Đào tạo Báo chí và Truyền thông (Trường ĐH
Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc gia Hà Nội) đã hướng dẫn, chỉ bảo
và cung cấp kiến thức để bản thân nâng cao trình độ nghiệp vụ về báo chí,
nhất là báo in và báo phát thanh, truyền hình trong suốt thời gian qua.
Đặc biệt, xin được chân thành cảm ơn PGS,TS. Dương Xuân Sơn - người
đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tác giả hoàn thành luận văn này!
Trong khuôn khổ một luận văn, do sự giới hạn về thời gian và kinh
nghiệm nên không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tác giả rất mong nhận
được những ý kiến đóng góp quý báu của thầy, cô giáo, các nhà nghiên cứu
và các bạn!
Tác giả luận văn
Nguyễn Văn Trung
CHỮ VIẾT TẮT
BCHTW: Ban Chấp hành Trung ương
BBTTW: Ban Bí thư Trung ương
BTG: Ban Tôn giáo
CBCC: Cán bộ, công chức
CNH: Công nghiệp hóa
CTQG: Chính trị Quốc gia
CT-HC: Chính trị - Hành chính
CTTG: Công tác tôn giáo
GHPG: Giáo hội Phật giáo
GHPGVN: Giáo hội Phật giáo Việt Nam
HĐH: Hiện đại hóa
HĐND: Hội đồng nhân dân
KHXH: Khoa học xã hội
LLCT: Lý luận chính trị
MTTQ: Mặt trận Tổ quốc
MTTQVN: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Nxb: Nhà xuất bản
PGVN: Phật giáo Việt Nam
QLNN: Quản lý nhà nước
TTCP: Thủ tướng Chính phủ
TTGM: Tòa Tổng giám mục
UBND: Ủy ban nhân dân
UBĐKCG: Ủy ban Đoàn kết Công giáo
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3
1. Lý do chọn đề tài: .......................................................................................... 3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 12
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 13
5. Phương pháp nghiên cứu. ............................................................................ 13
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn: ....................................................................... 14
7. Kết cấu luận văn .......................................................................................... 14
CHƢƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÔN GIÁO VÀ VAI TRÒ CỦA
BÁO CHÍ ........................................................................................................ 15
1.1. Giải thích thuật ngữ có liên quan đến đề tài ....................................... 15
1.1.1. Các thuật ngữ về tôn giáo ..................................................................... 15
1.1.2. Các khái niệm về báo chí ...................................................................... 17
1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về vấn đề tự do tôn giáo ............. 21
1.3. Những đặc điểm cơ bản về tình hình tôn giáo ở Việt Nam nói chung
và tỉnh Vĩnh Phúc .......................................................................................... 27
1.3.1. Đặc điểm cơ bản về tình hình tôn giáo ở Việt Nam .............................. 27
1.3.2. Tình hình tôn giáo trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc ................................... 31
1.4. Vai trò của báo chí trong việc thông tin tuyên truyền về tôn giáo và
tự do tín ngƣỡng ............................................................................................ 35
1.4.1. Tuyên truyền về đường lối, chính sách pháp luật về tôn giáo ............. 35
1.4.2. Đấu tranh chống các quan điểm sai trái trong hoạt động tôn giáo và tự
do tín ngưỡng .................................................................................................. 39
Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 40
CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TÔN GIÁO TỈNH VĨNH PHÚC
TRÊN BÁO CHÍ ........................................................................................... 42
2.1. Giới thiệu về các tờ báo khảo sát ............................................................. 42
1
2.1.1. Giới thiệu về báo Vĩnh Phúc ................................................................. 42
2.1.2. Giới thiệu về Đài PT – TH tỉnh Vĩnh Phúc ........................................... 43
2.2. Nội dung tuyên truyền, phản ánh ......................................................... 45
2.2.1. Tuyên truyền về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước về vấn đề tôn giáo .................................................................... 45
2.2.2. Phản ánh tình hình „tốt đời đẹp đạo‟ trong hoạt động tôn giáo tại tỉnh
Vĩnh Phúc ........................................................................................................ 51
2.2.3. Những bất cập trong hoạt động tôn giáo ở tỉnh Vĩnh Phúc.................. 58
2.3. Hình thức chuyển tải thông tin ............................................................. 62
2.3.1. Ngôn ngữ thể hiện ................................................................................. 62
2.3.2. Các thể loại chính được sử dụng ......................................................... 64
Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 67
CHƢƠNG 3 NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO69
CHẤT LƢỢNG THÔNG TIN TUYÊN TRUYỀN VỀ TÔN GIÁO ........ 69
3.1. Đánh giá ƣu, nhƣợc điểm thông tin tuyên truyền về tôn giáo ........... 69
3.1.1. Ưu điểm – Nguyên nhân ........................................................................ 69
3.1.2. Nhược điểm – Nguyên nhân .................................................................. 72
3.2. Những vấn đề đặt ra đối với việc truyền thông về tôn giáo trên địa
bàn tỉnh Vĩnh Phúc ....................................................................................... 74
3.3. Giải pháp nâng cao vai trò của báo chí trong việc truyền thông về tôn
giáo trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. ................................................................ 77
3.3.1. Nâng cao nhận thức về vai trò của báo chí trong truyền thông về tôn giáo . 77
3.3.2. Chú trọng phối hợp trong quản lý Nhà nước về tin ngưỡng và tôn giáo ...... 78
3.3.3. Nâng cao chất lượng tin, bài khi truyền thông về vấn đề tôn giáo ....... 79
3.3.4. Nâng cao bản lĩnh chính trị và đạo đức nghề nghiệp của nhà báo khi
đưa tin về tôn giáo ........................................................................................... 80
Tiểu kết chƣơng 3 .......................................................................................... 83
KẾT LUẬN .................................................................................................... 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 88
2
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 91
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Tôn giáo xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử nhân loại và đóng vai trò quan
trọng trong đời sống tinh thần của xã hội. Trước sự phát triển mạnh mẽ của
khoa học kỹ thuật, con người đã có những bước phát triển vượt bậc về nhận
thức, khả năng chinh phục tự nhiên nhưng tôn giáo vẫn tiếp tục phát triển.
Nhiều tôn giáo, giáo phái mới xuất hiện, tín đồ các tôn giáo tăng lên, hoạt
động, nghi lễ tôn giáo diễn ra với rất nhiều hình thức khác nhau. Trong đời
sống chính trị - xã hội của thế giới hiện đại, đang nảy sinh những vấn đề phức
tạp mới liên quan đến yếu tố tôn giáo như khủng bố Quốc tế, xung đột sắc tộc,
xung đột tôn giáo, v.v.., gây ra những tác động, ảnh hưởng tiêu cực tới đời
sống xã hội.
Có thể nói, chưa bao giờ bức tranh tôn giáo trên thế giới lại đa dạng, nhiều
màu sắc, pha trộn ánh sáng và bóng tối như hiện nay. Vẽ lại bức tranh tôn
giáo từ mảng màu của những năm cũ - những năm cuối thiên niên kỷ thứ II,
đầu thiên niên kỷ thứ III, có thể thấy một điều không thể phủ nhận là tôn giáo
ngày càng có ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống chính trị, văn hóa, xã hội, tâm
lý, đạo đức, lối sống, phong tục tập quán của nhiều quốc gia, dân tộc. Việt
Nam là quốc gia đa tôn giáo, có những tôn giáo ngoại nhập và tôn giáo nội
sinh. Hiện nay, số tín đồ các tôn giáo chiếm khoảng 1/4 dân số. Đồng bào tôn
giáo là bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kết dân tộc. Do vậy, Đảng ta
chủ trương thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo tôn giáo của công dân, quyền sinh
hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật; đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo
khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo; phát huy
những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo; động viên các tổ chức
3
tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực
vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong các thời kỳ cách mạng khác nhau, Đảng ta luôn xác định “Tôn giáo
là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận
nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã
hội mới”. Quan điểm đó đã được Nhà nước thể chế hóa bằng Pháp lệnh tín
ngưỡng, tôn giáo nhằm đảm bảo về mặt pháp luật quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bào các tôn giáo thỏa mãn
nhu cầu tâm linh của mình. Tuy nhiên, tình hình tôn giáo và hoạt động tôn
giáo ở nước ta có nhiều diễn biến phức tạp và tiềm ẩn những nhân tố gây mất
ổn định và trật tự an toàn xã hội.
Sở dĩ có tình hình trên là do công tác tôn giáo và quản lý xã hội đối với
hoạt động tôn giáo còn nhiều bất cập. Một số cấp ủy và chính quyền địa
phương chưa nhận thức đúng đắn, chưa quán triệt đầy đủ quan điểm, chủ
trương và chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước. Tổ chức bộ máy làm công
tác tôn giáo của hệ thống chính trị, nhất là ở cơ sở chưa được xác định rõ mô
hình, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ chế phối hợp,... Đội ngũ cán bộ làm
công tác tôn giáo còn thiếu về số lượng, chất lượng còn hạn chế, chưa được
đào tạo kịp thời và bồi dưỡng thường xuyên để nâng cao trình độ nghiệp vụ...
nên còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng khi ứng xử với các hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo diễn ra trên địa bàn.
Hiện nay, nước ta có hàng nghìn trang mạng điện tử, hàng trăm Fanpage
nói về tín ngưỡng, tôn giáo và phật giáo. Trong đó có thể dễ dàng tìm thấy
nhiều chùa ở Việt Nam và ở cả nước ngoài đều có website riêng, các website
này phản ánh đời sống tâm linh, tin tức phật sự hàng ngày của chùa đến phật
tử và đông đảo công chúng quan tâm. Do đó, làm thế nào để những thông tin
về tín ngưỡng, tôn giáo và đặc biệt là Phật giáo có ích đến với nhiều người
dân, rất cần sự vào cuộc kịp thời của các cơ quan chỉ đạo để quản lý tốt các tờ
4
báo về Phật giáo cũng như những thông tin trên mạng xã hội hiện nay.
Các thế lực phản động và chống phá nhà nước luôn tìm kẽ hở để “thọc
gậy” hay xuyên tạc, nâng tầm nhân quyền hay tự do tín ngưỡng. Chính từ
những vị tu hành thiếu “tâm tu” đã tạo nên mảng tối trên bức tranh tươi đẹp
của phật giáo và tôn giáo. Việc bổ sung điều luật, quy định riêng để phù hợp
hơn trong việc quản lý báo chí phật giáo và tôn giáo nói chung sẽ thúc đẩy
đáng kể nền phật giáo phát triển lành mạnh. Từ đó thấm sâu tư tưởng đạo đức,
ý thức tự giác tốt đẹp giữa con người với nhau trong xã hội. Điều này góp
phần tạo nên một đất nước Việt Nam tốt đẹp, hưng thịnh. Đúng như lời Hồ
Chủ tịch đã viết: “Tôn chỉ mục đích của đạo Phật nhằm xây dựng cuộc đời
thuần mỹ, chí thiện, bình đẳng, yên vui và no ấm”.
Do vậy, nghiên cứu đề tài: “Báo chí với vấn đề tôn giáo trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc” là một đòi hỏi cấp bách, có ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thưc tiễn,
phục vụ trực tiếp cho việc phổ biến các chủ trương của Đảng, Pháp luật của Nhà
nước trong lĩnh vực báo chí về tôn giáo trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Từ đó đưa
ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với lĩnh vực
báo chí về tôn giáo trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Những công trình nghiên cứu về tôn giáo nói chung.
Tác phẩm: Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam của tác giả
Đặng Nghiêm Vạn, Nxb CTQG, Hà Nội, 2003, gồm sáu phần, trong đó: "Phần thứ
tư" đã làm rõ đặc điểm tình hình tôn giáo ở Việt Nam qua hai cuộc điều tra xã hội
học năm 1995 và năm 1998 với hai đối tượng là lương (những người không theo
Kitô giáo) và giáo (những người theo Kitô giáo) tại Thành phố Hà Nội, Thành phố
Hồ Chí Minh và tỉnh Thừa Thiên - Huế, với đầy đủ các chỉ số cụ thể. Đây là những
tư liệu quan trọng để nghiên cứu về hoạt động tôn giáo ở Hà Nội hiện nay.
Đề tài khoa học cấp Thành phố: Hoạt động của Đạo Tin lành tại Thủ đô
Hà Nội: thực trạng - giải pháp do tác giả Nguyễn Quốc Triệu (Chủ nhiệm),
5
PGS.TS. Nguyễn Hồng Dương làm cố vấn khoa học, 2003 đã làm rõ thực
trạng của đạo Tin lành tại Hà Nội qua đặc điểm, giáo lý, nghi lễ (so sánh với
đạo Công giáo), quá trình phát triển và hoạt động của đạo Tin lành Hà Nội.
Đánh giá công tác QLNN đối với hoạt động của đạo Tin lành tại Hà Nội thời
gian qua, chủ yếu là từ năm 1980 đến thời điểm nghiên cứu; Qua đó, đề xuất
giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực QLNN đối với hoạt động của đạo Tin lành
tại Hà Nội trong thời gian tới.
Tác phẩm: Công giáo Việt Nam thời kỳ Triều Nguyễn (1802-1883) của tác
giả Nguyễn Quang Hưng, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2007, đã phân tích quá trình
truyền giáo ở Việt Nam từ tiền khởi tới cuối thế kỷ XVIII và đề cập tới vận
mệnh của các hoạt động truyền giáo thời kỳ Triều Nguyễn (1802-1883).
Trọng tâm của cuốn sách là những phản ứng khác nhau của nhà nước phong
kiến Việt Nam đối với việc truyền bá Kitô giáo và những vấn đề hệ lụy của
nó. Với một lối phân tích và nhìn nhận vấn đề khá thuyết phục, cuốn sách có
đóng góp trong phân tích sự phản ứng của người Việt đối với Công giáo trong
khung cảnh cuộc đấu tranh của họ chống lại những kẻ xâm lược.
Tác phẩm: “Kitô giáo ở Hà Nội” của tác giả Nguyễn Hồng Dương, Nxb
Tôn giáo, Hà Nội, 2008, đã hệ thống một cách khá toàn diện về quá trình hình
thành, phát triển các cộng đoàn cũng như đời sống tôn giáo của Kitô giáo
(Công giáo và Tin lành) từ khi du nhập cho tới trước khi Hà Nội được mở
rộng năm 2008. Tác phẩm đã làm rõ về hoạt động truyền giáo, phát triển đạo
Công giáo ở Hà Nội từ đầu cho đến nay cùng với một số đóng góp trên lĩnh
vực văn hóa của Công giáo ở Hà Nội và quá trình hình thành, phát triển cũng
như đời sống tôn giáo của đạo Tin lành ở Hà Nội. Tác phẩm: Đời sống tôn
giáo tín ngưỡng Thăng Long - Hà Nội của tác giả Đỗ Quang Hưng, Nxb Hà
Nội, 2010, là công trình đầu tiên đề cập khá đầy đủ và hệ thống về tôn giáo và
đời sống tôn giáo ở Hà Nội trong lịch sử và hiện tại. Tác phẩm đã nêu lên
được đặc điểm “không gian thiêng” của Thăng Long – Hà Nội với “kết cấu ba
6
vòng” được kết hợp hài hòa với một “không gian quyền lực” xã hội của Kinh
thành và làm rõ đặc điểm của 7 tôn giáo ở Hà Nội, gồm: Phật giáo, Nho giáo,
Đạo giáo, Công giáo, Tin lành, Cao đài và Islam giáo từ khi du nhập đến năm
2007, làm sâu sắc “đời sống tôn giáo, tín ngưỡng” của Thăng Long - Hà Nội
qua ba giai đoạn: không gian tôn giáo của xã hội cổ truyền, thời cận đại và
thời kỳ hiện nay (thời điểm nghiên cứu 2010).
Tác phẩm: Đạo lạ ở Hà Nội hiện nay và những vấn đề đặt ra của đồng tác
giả Ngô Hữu Thảo và Đào Văn Bình (đồng chủ biên), Nxb LLCT, Hà Nội,
2014, tác phẩm đã trình bày một bức tranh khá toàn diện về vấn đề đạo lạ và
công tác đối với đạo lạ ở Hà Nội hiện nay qua kết quả cuộc điều tra về đạo lạ
ở Hà Nội năm 2012. Tác phẩm đã làm rõ đối với đạo lạ ở Hà Nội có những
đặc điểm, như: Số lượng đạo lạ nhiều hơn so với các địa phương khác; Là cái
nôi của nhiều đạo lạ (có 12/19 đạo lạ ra đời ở Hà Nội), có khả năng chi phối
đạo lạ ở các địa phương khác; Tính chất chính trị biểu hiện thường ở mức độ
cao hơn các địa phương khác; Lan tỏa ra bên ngoài cũng như từ bên ngoài
tràn vào, thường nhanh chóng và rõ rệt hơn. Từ đó, đưa ra một số dự báo xu
hướng của đạo lạ ở Hà Nội.
Luận án tiến sĩ: Ảnh hưởng qua lại giữa Phật giáo và phụ nữ (qua nghiên
cứu một số tỉnh phía Bắc Việt Nam hiện nay) của tác giả Nguyễn Thị Thành
(Thích Đàm Thanh), Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2016, đã phân tích hệ
thống cơ sở lý thuyết và cơ sở thực tiễn mối quan hệ qua lại giữa Phật giáo và
Phụ nữ, làm rõ thực trạng và vấn đề đặt ra của sự ảnh hưởng qua lại giữa Phật
giáo Việt Nam và Phụ nữ Việt Nam qua khảo sát thực tế ở một số tỉnh phía Bắc
hiện nay. Từ đó, luận án dự báo xu hướng của mối quan hệ này, rút ra những vấn
đề cần quan tâm và đề xuất một số khuyến nghị nhằm phát huy mặt tích cực và
giảm thiểu mặt hạn chế của mối quan hệ giữa Phật giáo và Phụ nữ hiện nay.
Luận án tiến sĩ: Ảnh hưởng của “Tâm” trong Phật giáo đối với đời sống
đạo đức ở nước ta hiện nay của tác giả Ngô Thị Lan Anh, Học viện CT- HC
7
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2011, đã phân tích khái quát nội dung phạm 8
trù “Tâm” trong Phật giáo nói chung và trong Phật giáo Việt Nam nói riêng,
qua đó làm rõ thực trạng ảnh hưởng của “Tâm” trong Phật giáo đối với đời
sống đạo đức ở nước ta hiện nay và những vấn đề đặt ra. Trên cơ sở đó, luận
án bước đầu nêu ra một số giải pháp mang tính định hướng nhằm phát huy
những giá trị tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của “Tâm” trong
Phật giáo đối với đời sống đạo đức ở nước ta đến thời điểm nghiên cứu.
Tác phẩm: Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam của tác
giả Đặng Nghiêm Vạn, Nxb CTQG, Hà Nội, 2003, trên cơ sở làm rõ chính
sách tôn giáo theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tác giả đã phân tích,
chỉ ra năm nguyên tắc trong chính sách tự do tôn giáo ở Việt Nam, gồm:
Nguyên tắc tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chí
Minh; Nguyên tắc tự do tôn giáo dựa trên cơ sở một nhà nước theo thể chế thế
tục; Nguyên tắc đặt vấn đề tôn giáo trong phạm trù dân tộc; Nguyên tắc giải
quyết vấn đề tôn giáo phải đặt trong vấn đề văn hóa; Nguyên tắc giải quyết
vấn đề tôn giáo phải chống lợi dụng tôn giáo vào mục đích chống lại Tổ quốc.
Tác phẩm: Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam Lý luận và thực
tiễn của tác giả Đỗ Quang Hưng, Nxb CTQG, Hà Nội, 2005, tác phẩm đã
tổng kết một cách sâu sắc những quan điểm, đường lối chính sách tôn giáo
của Đảng và Nhà nước ta từ năm 1930 đến năm 2005, tác phẩm đã phân tích,
làm sâu sắc hơn việc giải quyết vấn đề tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam với việc “khẳng định đường hướng tôn giáo đồng hành với chủ nghĩa xã
hội ở nước ta”, chính sách tự do tôn giáo và chính sách đối với từng tôn giáo
cụ thể cũng được phân tích một cách sâu sắc. Trên cơ sở đó, cần làm sâu sắc
hơn những vấn đề, gồm: Vấn đề pháp nhân tôn giáo; Vấn đề đất đai, tài sản
liên quan đến tôn giáo và vấn đề đối ngoại tôn giáo. Trong đó, trước mắt cần
giải các vấn đề, như: Thể chế hóa hơn nữa quyền tự do tôn giáo; Xác định rõ
mô hình nhà nước thế tục; Cần có luật về pháp nhân tôn giáo để giải quyết
8
vấn đề đa dạng hóa tôn giáo ở Việt Nam hiện nay; Chính sách để các tôn giáo
tham gia xã hội hóa giáo dục, y tế, hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội và sớm
hoàn thiện, ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo.
Tác phẩm: Công tác tôn giáo từ quan điểm Mác-Lênin đến thực tiễn Việt
Nam của tác giả Ngô Hữu Thảo, Nxb CT-HC, Hà Nội, 2012, đã phân tích làm
sâu sắc những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
với tính cách là cơ sở lý luận của chính sách và CTTG của Đảng, Nhà nước
và CTTG của hệ thống chính trị do Đảng ta lãnh đạo hiện nay. Tác giả cũng
phân tích làm rõ khái niệm và nội dung của CTTG, đồng thời chỉ ra tính đặc
thù của CTTG so với các công tác khác. Từ đó, làm rõ nội dung, nhiệm vụ và
giải pháp đối với CTTG của hệ thống chính trị, trong đó việc QLNN về tôn
giáo giữ vai trò khá quan trọng.
Tác phẩm: Quan điểm đường lối của Đảng về tôn giáo và những vấn đề tôn
giáo ở Việt Nam hiện nay của tác giả Nguyễn Hồng Dương, Nxb CTQG, Hà
Nội, 2012, đã phân tích những quan điểm, đường lối của Đảng về tôn giáo; phác
họa nên bức tranh tôn giáo ở Việt Nam hiện nay; đồng thời phân tích kinh 12
nghiệm giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam từ cái nhìn đối sánh với một số
nước như so sánh kinh nghiệm giải quyết vấn đề tôn giáo của Trung Quốc, Thái
Lan và Singapore; trên cơ sở đó, tác giả phân tích những vấn đề đặt ra và đề xuất
một số khuyến nghị đối với CTTG ở Việt Nam hiện nay.
Tác phẩm: Tôn giáo với đời sống chính trị - xã hội ở một số nước trên thế
giới của tác giả Nguyễn Văn Dũng, Nxb CTQG, Hà Nội, 2012, gồm nhiều bài
viết trình bày về đời sống tôn giáo với chính trị của nhiều nước trên giới giới,
như: Vị trí của tôn giáo trong đời sống chính trị - xã hội Mỹ, một số vấn đề
của Islam giáo trong đời sống xã hội hiện đại; Vấn đề cải cách và đổi mới của
tôn giáo trong xã hội phương đông thời cận - hiện đại; Mối quan hệ quốc tế
của Tòa thánh Vatican... từ đó giúp làm rõ hơn những vấn đề phức tạp mới
liên quan đến yếu tố tôn giáo như khủng bố, xung đột tôn giáo, những tác
9
động, ảnh hưởng tới đời sống xã hội hiện đại.
Tác phẩm: Tiếp tục đổi mới chính sách về tôn giáo ở Việt Nam hiện nay -
Những vấn đề lý luận cơ bản của tác giả Nguyễn Hồng Dương (Chủ biên),
Nxb Văn hóa - Thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội, 2014. các tác giả đã phân
tích, đánh giá, tiến trình nhận thức, hình thành quan điểm của Đảng về tôn
giáo từ năm 1930 đến nay, đưa ra những vấn đề còn bất cập về CTTG và
chính sách tôn giáo hiện nay. Hơn nữa, các tác giả cũng đưa ra cụ thể được
những thành tựu và những vấn đề mới đặt ra trong thực hiện chính sách tôn
giáo, đòi hỏi Đảng và Nhà nước tiếp tục đổi mới chính sách đối với tôn giáo
trong tình hình mới.
Tác phẩm: Chính sách tôn giáo và nhà nước pháp quyền của tác giả Đỗ
Quang Hưng, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014, là một công trình tổng kết
thực tiễn đời sống tôn giáo và thực hiện chính sách tôn giáo ở nước ta trong
thời kỳ đổi mới. Ngoài những vấn đề thuộc khung lý thuyết cơ bản, tác giả đã
trình bày toàn cảnh đời sống tôn giáo Việt Nam hiện nay, làm rõ những vấn
đề đặt ra trong mối quan hệ Nhà nước với các giáo hội, khảo sát, đánh giá
những chuyển biến trong quá trình thực hiện chính sách tôn giáo, nêu lên
những vấn đề đặt ra cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách tôn giáo. Tác
giả cũng gợi mở một vấn đề quan trọng khác là nỗ lực mô hình hóa một nhà
nước pháp quyền về tôn giáo trong điều kiện Việt Nam hiện nay.
Luận án tiến sĩ: Quản lý nhà nước về tôn giáo ở Việt Nam từ năm 1975
đến nay của tác giả Bùi Hữu Dược, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2014,
đã góp phần làm rõ tính tất yếu và yêu cầu đổi mới QLNN về tôn giáo trong
quan hệ giữa nhà nước xã hội chủ nghĩa với tôn giáo ở Việt Nam, đồng thời
làm rõ thực trạng, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra trong QLNN về tôn
giáo ở Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2013, từ đó đưa ra dự báo tình hình
tôn giáo Việt Nam và khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả QLNN về tôn
10
giáo ở Việt Nam trong thời gian tới.
Luận án tiến sĩ: Tôn giáo và luật pháp về tôn giáo trong thời kỳ đổi mới ở
Việt Nam của tác giả Nguyễn Thị Vân Hà, Học viện Khoa học Xã hội, Hà
Nội, 2014, đã nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện công tác
xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực tôn giáo ở Việt
Nam, đưa ra được thành tựu và hạn chế trong ban hành các chính sách liên
quan đến tôn giáo ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, từ đó, nêu lên một số
vấn đề đặt ra và đề xuất các khuyến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
tính khả thi trong quá trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật
của các cơ quan có thẩm quyền về lĩnh vực tôn giáo ở Việt Nam, góp phần bổ
sung, phong phú thực tiễn nâng cao hiệu quả CTTG ở Việt Nam.
Tác phẩm: Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về tôn
giáo của tác giả Nguyễn Hồng Dương, Nxb KHXH, Hà Nội, 2015, đã làm sâu
sắc quan điểm, chính sách về tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam qua
các giai đoạn cách mạng: 1930-1954; 1954-1975; 1975-1990, đặc biệt là giai
đoạn từ thời kỳ đổi mới chính sách tôn giáo năm 1990 đến nay.
Tác phẩm: Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam của tác giả Nguyễn
Thanh Xuân, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2015, tác giả đã hệ thống chính sách tôn
giáo Việt Nam qua các thời kỳ và việc thực hiện chính sách tôn giáo, nhất là từ
khi đổi mới đến nay. Tác giả khẳng định, việc thực hiện chính sách đổi mới của
Đảng và Nhà nước, công tác đối với tôn giáo đã đưa lại những kết quả rất quan
trọng, làm thay đổi đời sống tôn giáo ở Việt Nam theo hướng tích cực và tiến bộ
góp phần quan trọng vào sự ổn định và phát triển của đất nước.
Luận án tiến sĩ: Công tác tôn giáo ở Việt Nam hiện nay – Lý luận và thực tiễn
(qua khảo sát tại tỉnh Ninh Bình) của tác giả Lê Thị Minh Thảo, Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội, 2015, đã nghiên cứu các nhân tố ảnh
hưởng đến việc thực hiện CTTG ở Việt Nam hiện nay. Quá trình thực hiện, thành
tựu và hạn chế trong CTTG hiện nay tại tỉnh Ninh Bình trong thời kỳ đổi mới, đề
11
xuất một số vấn đề cần giải quyết và đưa ra các khuyến nghị, giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả CTTG ở tỉnh Ninh Bình, góp phần bổ sung, phong phú thực tiễn
CTTG ở Việt Nam. Luận án cũng cung cấp một số kinh nghiệm thực tiễn khi
nghiên cứu về CTTG tại một địa phương nhất định. Những công trình nghiên cứu
về chính sách cùng với hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến
lĩnh vực tôn giáo, lĩnh vực QLNN về tôn giáo ở Việt Nam sẽ cung cấp cho nghiên
cứu sinh những dữ kiện quan trọng và xác thực để phân tích và kết hợp với kết
quả phỏng vấn sâu một số nhà lãnh đạo, quản lý trong lĩnh vực tôn giáo và một số
nhà tu hành, nhằm rút ra những thành tựu và hạn chế trong CTTG ở Hà Nội.
2.2. Những công trình nghiên cứu về báo chí với vấn đề tôn giáo
Như đã liệt kê ở trên là một số công trình nghiên cứu tiêu biểu về tôn giáo
trên nhiều lĩnh vực khác nhau điển hình như:
Khóa luận tốt nghiệp ngành báo chí năm 2001 – của tác giả Trần Lưu ĐH
Khoa học Xã hội và Nhân Văn – Hà Nội, đề cập tới “Báo chí Việt Nam với
vấn đề tín ngưỡng và tôn giáo”.
Luận văn thạc sĩ: Báo chí Phật giáo tại Việt Nam thực trang và vấn đề của
tác giả Lê Thị Hồng Hạnh ĐH Quốc gia Hà Nội (2010) đã đưa ra được những
vấn đề cần quan tâm về Phật giáo và Tôn giáo ở Việt Nam trong thời điểm đó.
Tham luận: Báo chí tôn giáo ở Việt Nam trước năm 1945 của PGS,TS. Đỗ
Quang Hưng, Kỷ yếu hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ Nhất (1998),
Nxb ĐHQGHN.
Trên cơ sở kế thừa những nghiên cứu đã có, tác giả nghiên cứu đề tài “Báo
chí với vấn đề tôn giáo ở tỉnh Vĩnh Phúc” với mong muốn làm sáng tỏ một số
vấn đề báo chí liên quan đến tôn giáo nói chung và báo chí với vấn đề Phật
giáo nói riêng trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến đề
12
tài, luận văn làm rõ thực trạng báo Vĩnh Phúc, Đài PT&TH Vĩnh Phúc thông
tin về vấn đề tôn giáo, trọng tâm là thông tin về Phật giáo tại tỉnh Vĩnh Phúc,
đánh giá thành công, hạn chế, nguyên nhân thành công và hạn chế, từ đó, đề
xuất các phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa vai trò của báo chí
trong việc thông tin vấn đề tôn giáo trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc nói chung, và
vấn đề Phật giáo nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu, làm rõ mối quan hệ giữa báo chí và tôn giáo nói chung.
- Nghiên cứu thực trạng thông tin về vấn đề Phật giáo ở tỉnh Vĩnh Phúc
trên báo chí.
- Qua việc phân tích thực trạng, đề tài chỉ ra ưu điểm, hạn chế, nguyên
nhân thành công và hạn chế, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao vai
trò của báo chí thông tin về vấn đề tôn giáo nhất là Phật giáo trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Vấn đề lịch sử đạo Phật trên thế giới và tại Việt Nam đã được các nhà sử
học đề cập, nghiên cứu sâu sắc, cặn kẽ, khoa học, có giá trị cao về lý luận và
thực tiễn. Vì vậy, đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Báo chí với vấn đề tôn
giáo trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
- Phạm vi nghiên cứu tập trung vào Báo Vĩnh Phúc và Đài PT&TH Vĩnh
Phúc từ tháng 6/2018 đến tháng 6/2019.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng 2 nhóm phương pháp nghiên cứu
chính là nghiên cứu tư liệu và nghiên cứu khảo sát. Cụ thể như sau:
5.1. Nghiên cứu tư liệu:
- Nghiên cứu tổng quan.
- Nghiên cứu tư liệu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
13
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để xây dựng luận văn.
- Phương pháp phân tích tài liệu: Phương pháp này được sử dụng nhằm
xem xét thông tin có sẵn trong sách báo… để thu thập các thông tin định tính
phục vụ mục tiêu đề tài.
5.2. Nghiên cứu khảo sát:
- Nghiên cứu tôn chỉ mục đích của Báo Vĩnh Phúc và Đài PT&TH Vĩnh
Phúc từ tháng 6/2018 đến tháng 6/2019.
- Nội dung chính về Phật giáo mà Báo Vĩnh Phúc và Đài PT&TH Vĩnh
Phúc đề cập.
- Phỏng vấn, gặp gỡ các chuyên gia và nhà nghiên cứu về tôn giáo, Phật
Giáo để tìm hiểu sâu sắc hơn về vấn đề này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn:
Luận văn này là công trình nghiên cứu về báo chí với vấn đề tôn giáo (tập
trung chủ yếu vào Phật giáo) trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay. Việc phân
tích để làm sáng tỏ thực trạng, chỉ ra những đặc điểm, ưu điểm, hạn chế của
Báo Vĩnh Phúc và Đài PT&TH Vĩnh Phúc thông tin về Phật giáo giáo trên địa
bàn tỉnh Vĩnh Phúc, và nêu ra những giải pháp, khuyến nghị sẽ là những đóng
góp mới vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn của luận văn.
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho các
công trình có liên quan cũng như định hướng cho sự phát triển của các tờ báo
có liên quan.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo, luận văn chia
làm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về tôn giáo và vai trò của báo chí
Chương 2: Thực trạng thông tin báo chí về vấn đề tôn giáo trên địa
bàn tỉnh Vĩnh Phúc
Chương 3: Những vấn đề đặt ra và giải pháp nâng cao vai trò của báo
14
chí với vấn đề tôn giáo
CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÔN GIÁO VÀ
VAI TRÒ CỦA BÁO CHÍ
1.1. Giải thích thuật ngữ có liên quan đến đề tài
1.1.1. Các thuật ngữ về tôn giáo
Tôn giáo hay đạo có thể được định nghĩa là một hệ thống văn hóa của các
hành vi và thực hành được chỉ định, quan niệm về thế giới, các kinh sách, địa
điểm linh thiêng, lời tiên tri, đạo đức, hoặc tổ chức, liên quan đến nhân loại
với các yếu tố siêu nhiên, siêu việt hoặc tâm linh. Tuy nhiên, hiện tại chưa có
sự đồng thuận học thuật về những gì chính xác cấu thành một tôn giáo.
Các tôn giáo khác nhau có thể có hoặc không chứa nhiều yếu tố khác
nhau, bao gồm các yếu tố thần thánh, những điều thiêng liêng, tín ngưỡng,
một thế lực hoặc nhiều thế lực siêu nhiên hoặc "một số thế lực siêu việt tạo ra
các chuẩn mực và sức mạnh cho phần còn lại của cuộc đời”. Tôn giáo được
coi như một phương tiện hay một môi trường mà nhờ đó con người có thể tìm
ra được ''một hệ thống biểu trưng'' để xử dụng như một sơ đồ hoạch định cho
việc tìm hiểu về thế giới vũ trụ. Tôn giáo, như Paul Tillich đã định nghĩa, là
''sự quan tâm chủ yếu cuối cùng theo nghĩa rộng nhất và cơ bản nhất của từ
ngữ'' [15].
Như vậy, với một cái nhìn tinh tế và bao quát nhất về tôn giáo theo quan
niệm tôn giáo là một câu trả lời cho công cuộc truy tầm ý nghĩa sống của con
người, tôn giáo được coi là một hệ thống chuyên chở ý nghĩa nhằm đáp ứng
mọi nhu cầu tri thức, tình cảm, và xã hội của con người. Như Roger Schmidt
đã vạch ra, nhiệm vụ tri thức của tôn giáo là cung cấp cho con người một lời
giải thích về ''căn nguyên và sự vận hành của vạn vật”. Dưới cái nhìn mang
tính cách vũ trụ học và thần học của tôn giáo, con người hy vọng có thể tìm ra
15
được vị thế hay chỗ đứng của mình trong vũ trụ cùng với định mệnh của mình
trong cuộc đời, mang hình thái của những tín lý, giáo lý, hay niềm tin, tôn
giáo là câu trả lời cho trí óc tìm tòi học hỏi, khao khát hiểu biết của con người
về chính mình, về người khác, và về vũ trụ[15].
Quan niệm thế nào là tín đồ của tôn giáo không giống nhau giữa các tôn
giáo ở Việt Nam. Mỗi một tôn giáo có quan niệm về tổ chức tín đồ khác nhau.
Đạo Nho quan niệm những nhà nho được coi là tín đồ. Đạo Giáo quan
niệm chỉ những chức sắc của địa phương mới được coi là tín đồ. Đạo Hòa
Hỏa bắt nguồn từ Bửu Sơn Kì Hương với hình thức tu tại gia là chủ yếu, xem
tín đồ là những người truyền bá, giáo dục, in ấn kinh sách… Còn theo quan
điểm đạo Hồi toàn bộ người dân trong cộng đồng theo đạo Hồi được gọi là tín
đồ [34, tr.14-20].
Đạo Tin Lành công nhận tín đồ chi khi cá nhân đủ tuổi cần thiết để hiểu
được lẽ đạo (thường 15 tuổi trở lên), tin nhận giáo lý của đạo; đạo này còn có
quan niệm những ai đã qua lễ Báp têm (lễ gia nhập tôn giáo) là tín đồ chính
thức, những ai chưa làm lễ Báp têm gọi là tín đồ chưa chính thức. Quan điểm
của Do Thái giáo, để trở thành một tín đồ phải qua lễ Bar Mitsva, tức lễ thụ
giới lúc con gái vừa đúng 12 tuổi và con trai thì 13 tuổi [34, tr.14-20].
Theo ý kiến của Đặng Nghiêm Vạn: “Dù hình thức tổ chức có khác nhau,
một người theo một tôn giáo đậm đạo hay nhạt đạo, thậm chí khô đạo, mức độ
đánh giá cơ bản vẫn là dựa theo niềm tin (hay tín ngưỡng), niềm tin của chính
bản thân người theo, cho dù là tín đồ hay chỉ là quần chúng…”
Về phương diện định nghĩa theo các từ điển, chúng ta có thể liệt kê thêm
một số định nghĩa về tín đồ. Theo Đại từ điển tiếng Việt (1999): “Tín đồ là
người theo một tôn giáo”[35, tr.1646]. Theo định nghĩa này tín đồ được hiểu
theo nghĩa rộng, không có sự phân biệt giữa tín đồ chính thức với những
người có cảm tính, hoặc có xu hướng tâm linh về một tôn giáo mà chưa phải
là tín đồ chính thức. Còn theo Từ điển tôn giáo (2002): “Tín đồ là những ai tin
16
ở những gì một tôn giáo dạy bảo và qua một thủ tục nhập đạo”. Định nghĩa
này coi tín đồ là người có niềm tin vào tôn giáo và đã qua thủ tục gia nhập tôn
giáo đó [8, tr.633].
Sơ lược trình bày về các định nghĩa như trên có thể thấy và hiểu đúng
nghĩa theo pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo quy định là: “Tín đồ là người tin
theo một tôn giáo và được tổ chức tôn giáo thừa nhận”… Hiến chương Giáo
hội Phật giáo Việt Nam, Chương X, Điều 60: “Tín đồ cư sĩ phật tử Giáo hội
Phật giáo Việt Nam là những người tin tưởng Phật pháp, thực hành theo giáo
lý Đức Phật và tùy khả năng, tự nguyện thọ trì giới luật Phật chế”[38].
1.1.2. Các khái niệm về báo chí
Theo quan niệm từ trước đến nay, báo chí là phương tiện truyền thông đại
chúng, truyền tải những thông tin thời sự có tính định kỳ đến với đông đảo
công chúng. Đặc điểm nổi bật của báo chí chính là tính công khai và sự lan
tỏa, nhanh chóng rộng khắp.
Báo chí phải gắn liền với thông tin thời sự. Những vấn đề, sự kiện diễn ra
hằng ngày, hằng giờ cần sự phản ánh, phân tích mổ xẻ của báo chí nhằm rộng
đường dư luận; những thông tin kinh tế, cơ hội đầu tư làm ăn, việc làm... cần
thiết cho nhiều người... Thế nhưng, cũng có những loại hình báo chí không hẳn
là thời sự, ví dụ như những tạp chí chuyên ngành, các số phụ, ấn phẩm chuyên
đề của các tờ báo in... Thậm chí, ngay các tờ báo chính trị- xã hội ra hằng ngày
cũng không phải hoàn toàn là thời sự, vì vẫn dành một dung lượng phù hợp cho
những bài viết thuần túy tư liệu, những bài viết dạng “lương khô”...
Trong cuốn “Vai trò của báo chí trong định hướng dư luận xã hội”, TS.
Đỗ Chí Nghĩa định nghĩa báo chí như sau: “Báo chí là loại hình các phương
tiện truyền thông đại chúng được cơ quan thẩm quyền cấp phép hoạt động, có
nhiệm vụ truyền tải thông tin nhanh nhất, mới mẻ nhất đến với đông đảo công
chúng, nhằm tích cực hóa đời sống thực tiễn”[21].
Xã hội càng phát triển thì nhu cầu thông tin càng lớn. Do nhu cầu thông
17
tin, giao tiếp của đời sống xã hội con người nên có sự ra đời của báo chí.
Ngày nay, nói đến báo chí người ta thường nhắc đến bốn loại hình báo chí cơ
bản đó là: báo in, báo nói (phát thanh), báo hình (truyền hình) và báo điện tử.
Báo in
Theo Luật báo chí 2016, Báo in là loại hình báo chí sử dụng chữ viết,
tranh, ảnh, thực hiện bằng phương tiện in để phát hành đến bạn đọc, gồm báo
in, tạp chí in.
Báo in là 1 loại hình báo chí sử dụng ngôn ngữ viết, hình ảnh tĩnh (ảnh,
hình đồ họa) để chuyển tải các sự kiện vấn đề xảy ra trong đời sống xã hội,
mang tính thời sự, chân thực khách quan, thông qua kỹ thuật in ấn có phương
thức phát hành trao tay và được xuất bản định kỳ, gồm báo in, tạp chí.
Định kỳ của báo in có nhiều loại khác nhau như: hàng ngày, thưa kỳ (2,3,5
ngày một số) hàng tuần. Định kỳ báo in chính là sự xuất hiện theo chu kỳ đều
đặn và cố định của sản phẩm báo. Chu kỳ xuất hiện của báo in có ý nghĩa
quan trọng đối với báo in vì nó quy định thời điểm mà công chúng đón nhận
sản phẩm báo in.
Báo phát thanh
Trong giáo trình “Truyền thông đại chúng”, Tạ Ngọc Tấn đã đưa ra khái
niệm: “Phát thanh (radio) là loại hình truyền thông đại chúng, trong đó nội
dung thông tin được chuyển tải qua âm thanh. Âm thanh trong phát thanh bao
gồm lời nói, âm nhạc, các loại tiếng động làm nền hoặc minh họa cho lời nói
như tiếng mưa, gió, nước chảy, sóng vỗ, chim hót, tiếng vỗ tay, tiếng ồn
đường phố. Thuật ngữ phát thanh (radio) thực ra bao gồm cả hai loại hình nhỏ
trong đó là phát thanh qua làn sóng điện từ và truyền thanh qua hệ thống dây
dẫn”[33, tr.23].
Theo quan niệm truyền thống, trong cuốn “Báo phát thanh”, khái niệm
báo phát thanh được nêu như sau: “Báo phát thanh được hiểu như một kênh
truyền thông, một loại hình báo chí điện tử hiện đại mà đặc trưng cơ bản của
18
nó là dùng thế giới âm thanh phong phú sinh động (lời nói, tiếng động, âm
nhạc) để chuyển tải thông điệp nhờ sử dụng kỹ thuật sóng điện từ và hệ thống
truyền thanh, tác động vào thính giác (vào tai) của công chúng” [11, tr. 51].
Báo phát thanh cũng có một tên gọi khác là báo nói. Luật Báo chí năm
2016 định nghĩa: “Báo nói là loại hình báo chí sử dụng tiếng nói, âm thanh,
được truyền dẫn, phát sóng trên các hạ tầng kỹ thuật ứng dụng công nghệ
khác nhau” (Luật Báo chí năm 2016, điều 3, khoản 4).
Truyền hình
Trong cuốn “Cơ sở lý luận báo chí” cho rằng: “Truyền hình là kênh
truyền thông chuyển tải thông điệp bằng hình ảnh động với nhiều sắc màu
vốn có từ cuộc sống cùng với lời nói, âm nhạc, tiếng động”[3].
Truyền hình xuất hiện vào đầu thế kỷ thứ XX và phát triển với tốc độ như
vũ bão nhờ sự phát triển của khoa học công nghệ, tạo ra một kênh thông tin
quan trọng trong đời sống xã hội. Ngày nay, truyền hình là một phương tiện
thiết yếu cho mỗi gia đình, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Truyền hình trở thành
vũ khí, công cự sắc bén trên mặt trận tư tưởng văn hóa cũng như lĩnh vực
kinh tế xã hội. Công chúng của truyền hình ngày càng đông đảo. Với những
ưu thế của kỹ thuật và công nghệ, truyền hình đã làm cho cuộc sống gần như
cô đọng lại, làm giàu thêm ý nghĩa, sáng tỏ hơn về hình thức và phong phú
hơn về nội dung. Với truyền hình, sự kiện được phản ánh ngay lập tức khi nó
vừa mới diễn ra, thậm chí khi nó đang diễn ra, người xem có thể quan sát trực
tiếp, tường tận chi tiết qua truyền hình trực tiếp và cầu truyền hình. Nhờ các
kỹ thuật hiện đại, truyền hình có thể truyền trực tiếp cả âm thanh và hình ảnh
trong cùng một thời gian về cùng một sự kiện, sự việc khi nó đang diễn ra tạo
ra sự sống động rất lớn, thu hút đông đảo người xem. Khác với báo in, người
đọc chỉ tiếp nhận thông tin bằng con đường thị giác, phát thanh bằng con
đường thính giác, người xem truyền hình tiếp cận sự việc bằng cả thị giác và
thính giác. Do vậy truyền hình trở thành một phương tiện cung cấp thông tin
19
rất lớn, có độ tin cậy cao, có khả năng làm thay đổi nhận thức của con người
trước sự kiện. Truyền hình có khả năng truyền tải thông tin đến công chúng
24/24 giờ trong ngày, luôn mang đến cho người xem những thông tin nóng
hổi nhất về các sự kiện diễn ra, cập nhật những tin tức mới nhất.
Báo điện tử
Báo điện tử ra đời trên thế giới vào năm 1992. Tờ báo điện tử đầu tiên trên
thế giới là tờ Chicago Tribune. Báo điện tử là loại hình báo chí có những ưu
thế vượt trội, có thể cung cấp thông tin rộng khắp, nhanh chóng, tức thời và
cập nhật thông tin liên tục. Bên cạnh đó, chi phí sản xuất cho báo điện tử thấp
nhưng lại mang lại hiệu quả thông tin rất cao nên sau khi ra đời, nó đã phát
triển rất nhanh chóng. Có thể nói, sự ra đời và phát triển của Internet đã tạo
tiền đề cho sự ra đời và phát triển của báo điện tử.
Điều 3, chương 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật báo chí
2016, 103/2016/QH13 quy định: “Báo điện tử là loại hình báo chí sử dụng
chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được truyền dẫn trên môi trường mạng, gồm
báo điện tử và tạp chí điện tử” [37, tr. 1].
Khác với loại hình báo chí truyền thống có tính định kỳ, giúp người đọc
theo dõi thông tin dễ dàng, thông tin trên báo điện tử đăng tải không theo định
kỳ. Bất kể lúc nào có thông tin đều được đăng tải vì vậy thông tin trên báo
điện tử luôn luôn mới.
Báo điện tử cho phép tiếp cận thông tin không đồng bộ và phi tuyến tính,
tức là người đọc có thể đọc theo ý thích của mình, chọn bất cứ phần nào của
bài viết để đọc mà không nhất thiết phải đi từ đầu tới cuối; họ có thể tiếp cận
tới bài báo không qua trang chủ mà đi thẳng từ trang tìm kiếm; họ đọc vào
thời điểm mà họ lựa chọn và theo cách thức họ muốn, họ chủ động tìm kiếm
và xử lý thông tin.
Bên cạnh đó, báo điện tử có khả năng tích hợp đa phương tiện, báo điện tử
có thể kết hợp ba loại hình phương tiện truyền thông đại chúng hiện nay là
20
báo viết, truyền hình và phát thanh. Cùng một lúc người đọc có thể tiếp cận
thông tin như: chữ viết, âm thanh, hình ảnh (cả hình ảnh tĩnh và hình ảnh
động). Hội tụ công nghệ đang là một xu hướng phát triển tất yếu và ngày càng
diễn ra mạnh mẽ. Đây cũng chính là điều độc đáo của báo điện tử so với các
loại hình báo chí khác.
Ngoài ra, tốc độ tìm kiếm thông tin nhanh và lưu trữ thông tin dễ dàng.
Độc giả không cần phải chờ đến giờ ra báo, thời gian phát sóng…mà vẫn có
thể sở hữu được những thông tin cần biết một cách nhanh chóng, cập nhật
nhất. Thông tin của báo điện tử được lưu giữ với thời gian khá lâu, tra cứu
thuận tiện từ nhiều nguồn, theo dõi thông tin một cách có hệ thống…đây luôn
là thế mạnh khó cạnh tranh của loại hình báo chí này.
Tính tương tác nhiều chiều, bất cứ loại hình truyền thông nào trong thế kỷ
XXI này đều phát huy cao khả năng tương tác. Báo in nhận phản hồi, ý kiến
của bạn đọc thông qua thư tín, E-mail, phát thanh, truyền hình sử dụng thêm
các hình thức như điện thoại, chat…nhưng với báo điện tử thì các hình thức
tương tác phong phú, linh hoạt hơn nhiều. Thông qua việc trao đổi E-mail,
tham gia các chương trình tương tác (thăm dò, bình chọn…), phản hồi dưới
bài viết, tham gia diễn đàn…; mối quan hệ giữa người đọc và tòa soạn,..
1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về vấn đề tự do tôn giáo
Việt Nam là quốc gia có nhiều tôn giáo và các loại hình tín ngưỡng; tín đồ
các tôn giáo đều là nhân dân lao động, có tinh thần yêu nước, chống giặc
ngoại xâm. Ở nước ta, quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo được hình
thành từ các triều đại phong kiến. Từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
ra đời, Đảng và Nhà nước ta đã xác định quản lý nhà nước đối với các hoạt
động tôn giáo là một nhiệm vụ quan trọng trong quản lý nhà nước. Đến nay,
Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh những
quan hệ xã hội liên quan đến tôn giáo và hoạt động tôn giáo. Pháp luật về hoạt
động tín ngưỡng, tôn giáo trở thành một bộ phận không thể thiếu trong hệ
21
thống pháp luật của nước Cộng hóa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Công tác
quản lý nhà nước trên lĩnh vực tôn giáo ngày càng được củng cố, hoàn thiện,
góp phần quan trọng bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân,
đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết dân dộc và đấu tranh
làm thất bại âm mưu, hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo xâm phạm an
ninh quốc gia. Chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước
đã cơ bản đáp ứng được nguyện vọng của đồng bảo nhân dân, củng cổ niềm
tin, tạo động lực, sự phấn khởi cho đồng bào các tôn giáo đồng hành cùng dân
tộc cùng toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ngay trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã xác định đồng bào các tôn
giáo là một bộ phận của lực lượng cách mạng Việt Nam. Đảng, Nhà nước ta
có nhiều chủ trương, chính sách đoàn kết các tôn giáo trong khối đại đoàn kết
dân tộc để tiến hành thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân luôn được Nhà nước ta tôn
trọng, bảo đảm, coi đó là một trong những quyền cơ bản của công dân.
Sau hơn 30 năm tiến hành công cuộc Đổi mới, Đảng và Nhà nước ta
không ngừng đổi mới nhận thức về tôn giáo và quản lý nhà nước trong lĩnh
vực tôn giáo, tín ngưỡng. Đây là nền tảng để xây dựng chủ trương, chính
sách, tạo điều kiện thuận lợi cho sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng của đồng bào
có đạo và nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.
Nghị quyết số 24 (1990) của Bộ Chính trị “Về tăng cường công tác tôn
giáo trong tình hình mới” lần đầu tiên khẳng định các quan điểm mới về tôn
giáo, tín ngưỡng: tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài; tín ngưỡng, tôn giáo là
nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân; đạo đức tôn giáo có nhiều điều
phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới. Từ đây, công tác quản lý nhà
nước trong lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng cũng được định hướng: vừa quan
tâm giải quyết hợp lý nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng, vừa kịp thời đấu
22
tranh chống lợi dụng tôn giáo; nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công
tác vận động quần chúng và công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ
thống chính trị.
Trong các chỉ thị, nghị quyết tiếp theo, tư duy lý luận của Đảng về vấn đề
tôn giáo tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện: Chỉ thị 37 (1998) của Bộ Chính trị
chỉ rõ: "Những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo được tôn trọng và
khuyến khích phát huy". Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung
ương khóa VIII về “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc” (1998) khuyến khích ý tưởng công bằng, bác ái, hướng thiện... trong
tôn giáo. Đặc biệt, Nghị quyết số 25 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần
thứ 7 khóa IX của Đảng (2003) đã tổng kết và phát triển tư duy lý luận của
Đảng về vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Theo đó, nhận thức mới về vấn đề tôn giáo trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tập trung ở những nội dung chủ yếu sau:
Một là, thừa nhận sự tồn tại của tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Đây là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, thể hiện một cách
rõ ràng quan điểm của Đảng về vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Từ quan điểm "tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài" đến Nghị
quyết 25, Đảng đã khẳng định rõ hơn “tôn giáo đang và sẽ tồn tại cùng dân
tộc trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội". Luận điểm này, một mặt, cụ thể
hóa quan điểm "tồn tại lâu dài" của tôn giáo, nhưng phát triển và làm rõ hơn
mối quan hệ giữa tôn giáo với dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta; mặt
khác, khắc phục được tư tưởng chủ quan, duy ý chí, rằng tôn giáo sẽ nhanh
chóng lụi tàn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thừa nhận sự tồn tại của tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, Đảng ta cũng khẳng định những điểm tương đồng giữa lý tưởng của tôn
giáo và chủ nghĩa xã hội. Nghị quyết 25 chỉ rõ: "Mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là điểm tương đồng để gắn bó
23
đồng bào các tôn giáo với mục tiêu chung". Đây là luận điểm mới, có giá trị
lý luận và thực tiễn sâu sắc, là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về
việc khai thác, phát huy những giá trị tốt đẹp trong văn hóa, đạo đức của các
tôn giáo với mục tiêu xây dựng xã hội mới ở nước ta. Quan điểm này ngăn
chặn và làm thất bại những thủ đoạn tuyên truyền xuyên tạc của các thế lực
thù địch về chủ nghĩa cộng sản vô thần chống tôn giáo, vi phạm nhân quyền,
dân chủ, đồng thời phát huy mặt tích cực của các tôn giáo, tạo cơ sở cho sự
đồng thuận xã hội.
Hai là, tôn giáo, tín ngưỡng là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân.
Quan điểm này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đổi mới tư duy lý luận của
Đảng về vấn đề tôn giáo. Nếu như trước đây, tôn giáo thường chỉ được tiếp cận
hạn chế từ góc độ tư tưởng triết học và chính trị, với định nghĩa mang tính kinh
điển "tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân"; tín ngưỡng thường được gắn liền
với hủ tục, mê tín dị đoan…, thì giờ đây, tôn giáo tín ngưỡng đã được nhìn nhận
là một phần của lịch sử dân tộc, văn hóa và đạo đức và hơn thế, là thực thể xã
hội có khả năng cố kết cộng đồng và ổn định trật tự, an toàn xã hội... Quan điểm
mới này đặt nền móng cho sự quản lý của các cấp chính quyền và đoàn thể chính
trị xã hội, thể hiện sự quan tâm và bảo đảm những lợi ích thiết thân của đồng bào
các tôn giáo trong việc thỏa mãn nhu cầu đời sống tín ngưỡng lành mạnh, chính
đáng của họ, tương tự như việc bảo đảm các quyền khác của con người như ăn,
mặc, cư trú, nhân quyền, dân chủ…
Ba là, thừa nhận và khuyến khích phát huy những giá trị đạo đức, văn hóa,
truyền thống tốt đẹp của tôn giáo trong công cuộc xây dựng xã hội mới. Luận
điểm này là sự kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng trong cách mạng
dân tộc, dân chủ, nhưng được bổ sung, phát triển làm sâu sắc hơn trong thời
kỳ Đổi mới. Tôn giáo trong quá trình tồn tại và phát triển luôn bộc lộ hai mặt
tích cực và tiêu cực. Trước đây, do yêu cầu của cách mạng cần phải tập trung
cho nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc trong điều kiện các thế lực thù
24
địch lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng nên chúng ta thường nhấn mạnh
đến mặt tiêu cực, hạn chế của tôn giáo, như tư tưởng yếm thế, ru ngủ con
người. Theo quan điểm đổi mới của Đảng, bên cạnh mặt hạn chế cần khắc
phục, phải trân trọng và phát huy những giá trị tích cực của tôn giáo, trong đó
có mặt tích cực về đạo đức, văn hóa tôn giáo. Tôn giáo có chức năng điều
chỉnh hành vi xã hội của con người, hướng con người đến chân, thiện, mỹ.
Tín đồ các tôn giáo với niềm tin vào đấng tối cao và cuộc sống vĩnh hằng sau
khi chết, lo sợ bị trừng phạt hoặc bị "quả báo" nếu phạm tội hoặc làm điều ác
nên thường có hành vi đạo đức hướng thiện. Giáo lý giáo luật và những lời
răn dạy của tôn giáo đã tạo ra những quy phạm đạo đức hướng con người làm
các việc thiện lành, tránh điều ác, tu nhân tích đức để được giải thoát (Phật
giáo), được lên thiên đàng (Kitô giáo, Hồi giáo). Các tôn giáo không chỉ
"thiêng hóa" các quy phạm đạo đức mà còn tạo ra dư luận xã hội để điều
chỉnh hành vi của tín đồ hướng đến cái thiện, bài trừ cái ác. Như vậy, đạo đức
tôn giáo góp phần điều chỉnh hành vi xã hội của con người. Thực tế cho thấy,
ở những nơi tôn giáo ổn định, có đông tín đồ thì các tệ nạn xã hội ít hơn, trật
tự ổn định và lối sống đạo đức nền nếp hơn.
Bên cạnh những hạn chế, tôn giáo tín ngưỡng chứa đựng nhiều yếu tố hợp
lý bởi tính nhân văn, hướng thiện của nó, những giá trị văn hóa, đạo đức tốt
đẹp của tôn giáo, tín ngưỡng có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng
xã hội mới. Quan điểm nêu trên của Đảng khơi dậy, động viên tín đồ, chức
sắc các tôn giáo phát huy những giá trị tốt đẹp, mặt tích cực, điểm tương đồng
của tôn giáo với chủ nghĩa xã hội, phát huy tinh thần yêu nước của đồng bào
các tôn giáo.
Bốn là, giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ
cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và nhân dân. Quan
điểm này hoàn toàn mới, có tính sáng tạo trong tư duy lý luận của Đảng ta về
vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo. Lần đầu tiên nội hàm của tín ngưỡng được đề cập
25
tới một cách chính thức trong văn kiện của Đảng. Trong tâm thức của người
Việt Nam, thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với dân, với nước
không chỉ là một loại hình tín ngưỡng mà còn là đạo lý "uống nước nhớ
nguồn" của dân tộc. Việc Đảng ta thừa nhận những giá trị tốt đẹp của truyền
thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và nhân
dân có ý nghĩa hết sức quan trọng, góp phần định hướng cho các tôn giáo, tín
ngưỡng đồng hành, gắn bó với dân tộc, và việc phát huy những giá trị tích cực
của truyền thống thờ cúng tổ tiên, đồng thời cũng là nhân tố quan trọng đáp
ứng nhu cầu đời sống tinh thần, tâm linh, tâm lý của người dân. Bên cạnh việc
phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh
những người có công với dân với nước, Đảng ta cũng chỉ rõ phải thượng tôn
pháp luật, nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng,
tôn giáo; nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái pháp
luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ dân tộc,
gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia. Những quan điểm này mang tính biện
chứng sâu sắc trong tư duy lý luận của Đảng trong việc giải quyết mối quan
hệ giữa xây và chống (xây dựng khối đoàn kết toàn dân, chống phân biệt đối
xử, chống âm mưu chia rẽ dân tộc, kích động gây rối); giữa giữ gìn, phát huy
các giá trị truyền thống tốt đẹp với đấu tranh loại trừ các tệ nạn mê tín, hủ tục
nhằm bảo đảm cho môi trường sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo lành mạnh.
Thực tiễn cho thấy, sự đổi mới tư duy của Đảng về tôn giáo, tín ngưỡng đã
tạo nền tảng cho việc tạo lập các chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, tạo điều kiện thuận lợi cho sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng của đồng bào
có đạo và tính hiệu quả của quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Các luật,
nghị định về tín ngưỡng tôn giáo mới được ban hành trong năm 2016, 2017 là
những bước tiến lớn trong việc luật hóa vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo trong tình
hình mới. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề bất cập chưa được giải quyết, đòi
hỏi việc xây dựng chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo cần tiếp tục
26
được bổ sung, hoàn thiện bởi các cấp, các ngành trong thời gian tới.
1.3. Những đặc điểm cơ bản về tình hình tôn giáo ở Việt Nam nói
chung và tỉnh Vĩnh Phúc
1.3.1. Đặc điểm cơ bản về tình hình tôn giáo ở Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia có nhiều tín ngưỡng tôn giáo. Trong thời quân
chủ tại Việt Nam, Nho giáo được chính quyền khuyến khích, được xem là nền
tảng của chế độ khoa cử, nhiều văn miếu được xây dựng trong cả nước. Tuy
nhiên trong các Triều đại như nhà Lý, nhà Trần và các chúa Nguyễn, Phật
giáo cũng có vai trò quan trọng trong triều đình và được các chính quyền
phong kiến khuyến khích. Các tôn giáo có mặt lâu đời tại Việt Nam là Khổng
giáo, Lão giáo và Phật giáo (gọi chung là tam giáo). Về sau, còn có thêm Ấn
Độ giáo, Phật giáo Hòa Hảo và Đạo Cao Đài trong nước.
Kitô giáo tới Việt Nam từ thời kỳ Nhà Lê sơ qua các nhà truyền giáo
thuộc Công giáo Rôma, và phát triển khá mạnh. Tuy nhiên, không nơi nào lại
có nhiều ảnh hưởng Công giáo lớn như miền nam từ thời Chúa Nguyễn, do
các chúa Nguyễn thường khoan dung hơn với người Công giáo và trọng dụng
họ. Chúa Trịnh, trong khi đó, có sự nghi kỵ và thậm chí phân biệt đối xử với
người Công giáo. Vì thế, người Công giáo thường di tản vào nam và tạo nên
ảnh hưởng rất lớn trong xã hội miền nam về sau. Tuy nhiên, Công giáo bắt
đầu bị đàn áp từ Nhà Tây Sơn, khi triều Tây Sơn cáo buộc người Công giáo
cộng tác với các Chúa chống lại phong trào. Cuộc đàn áp gia tăng dưới thời
Hoàng đế Cảnh Thịnh, và tạm ngưng sau khi Gia Long lập nhà Nguyễn. Bản
thân Gia Long nặng ân với người Công giáo bởi lòng trung thành của họ, và
ông đã đóng góp trong việc bảo vệ người Công giáo. Tuy nhiên, Minh Mạng
quay trở lại với chính sách bảo thủ, đàn áp Công giáo lần nữa và nó tiếp tục
cho tới năm 1858 khi Pháp đánh Việt Nam, buộc Tự Đức phải chấm dứt chính
sách khủng bố Công giáo. Các nhóm Kháng Cách (được biết đến nhiều với
tên gọi là Tin Lành) tới Việt Nam từ năm 1911 bởi những người truyền giáo
27
Hoa Kỳ, nhưng chủ yếu mạnh ở Tây Nguyên.
Hồi giáo đến Việt Nam bởi những người truyền giáo Ả Rập và Malay từ
thế kỷ 10 hoặc 11 nhưng mạnh lên vào thế kỷ 15, mạnh mẽ ở cộng đồng
người Chăm vốn là dân Ấn Độ giáo. Người Chăm ở Việt Nam bị chính quyền
phong kiến của người Việt có thành kiến vì đã ủng hộ nhà Minh trước đây,
nên đã bị phân biệt đối xử sau khi Chăm Pa bị sát nhập. Tuy nhiên cùng thời
điểm, người Chăm cũng được các chính quyền Việt Nam sử dụng làm lính
chiến trường ở biên giới để đổi lấy quyền được sống trong những khu tự trị ở
phía nam. Cùng lúc đó, sự phân chia tôn giáo giữa người Chăm ngày càng trở
nên rõ ràng. Những người Chăm thuần Ấn giáo tiếp tục theo đuổi tôn giáo
này; trong khi Hồi giáo Chăm Bani lại được tách ra khỏi Hồi giáo Chăm
Islam. Chăm Bani có niềm tin Hồi giáo không giống như người theo Islam
gốc, khi Chăm Bani tích hợp cả Phật giáo, Ấn Độ giáo và tín ngưỡng Chăm
cổ đại, tạo nên một bản sắc riêng của người Chăm Bani.
Sau năm 1954, khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, vấn đề tâm linh như là
một đối tượng đấu tranh tư tưởng, thậm chí là đấu tranh bằng ý thức hệ.
Chính quyền cố gắng bài trừ mê tín dị đoan đến mức mọi chuyện liên quan
đến tâm linh đều bị đả phá. Đền Hùng cũng bị phá vì bị cho rằng đó là mê tín
dị đoan. Ở miền Bắc, từ năm 1954 cho đến đầu những năm 1980 hầu như
không tồn tại các hoạt động thực hành tín ngưỡng nữa thì trong khoảng thời
gian đó, trong miền Trung và miền Nam vẫn duy trì. Trong khi đó, ở miền
Nam, Ngô Đình Diệm, một người Công giáo được Hoa Kỳ ủng hộ với niềm
tin rằng ông sẽ xây dựng một nước Việt Nam hợp ý, vững mạnh và đa văn
hóa, lại làm mất lòng tất cả những kỳ vọng khi tiến hành chính sách khủng bố
Phật giáo và gia tăng ảnh hưởng Công giáo. Ngô Đình Diệm xách động xung
đột khi những quyền cơ bản của người Phật giáo đã không được tôn trọng bởi
chính phủ Công giáo cực đoan của ông. Điều đấy dẫn đến Biến cố Phật giáo
năm 1963 lật đổ chính phủ Công giáo và tạo ra hiềm khích giữa những người
28
theo Phật giáo và Công giáo ở miền Nam cho tới năm 1990.
Trong số các tôn giáo ở Việt Nam, Phật giáo có số tín đồ đông đảo nhất.
Theo thống kê dân số năm 2009 thì số tìn đồ Phật giáo là 6.802.318 người
trong đó 2.988.666 tín đồ ở thành thị và 3.813.652 tín đồ ở nông thôn, địa
phương tập trung đông đảo tin đồ Phật giáo nhất là thành phố Hồ Chí Minh
với 1.164.930 tín đồ. Còn theo số liệu thống kê của Giáo hội Phật giáo Việt
Nam, cả nước có gần 45 triệu tín đồ đã quy y Tam bảo, có 839 đơn vị gia đình
Phật tử và khoảng 44.498 tăng ni; hơn 14.775 tự, viện, tịnh xá, tịnh thất, niệm
Phật đường trong cả nước. Ngoài ra từ 80% đến 90% dân số Việt Nam mang
thiên hướng Phật giáo.
Có hai nhánh Phật giáo ở Việt Nam là Đại thừa và Tiểu thừa. Phật giáo
Đại thừa lần đầu tiên từ Trung Quốc vào tới vùng đồng bằng châu thổ sông
Hồng của Việt Nam từ khoảng năm 200 và trở thành tôn giáo phổ biến nhất
trên toàn đất nước, trong khi Phật giáo Tiểu thừa từ Ấn Độ du nhập vào phía
nam đồng bằng sông Cửu Long từ khoảng năm 300 - 600 và trở thành tôn
giáo chính ở vùng đồng bằng phía nam Việt Nam.
Có thuyết khác lại cho rằng Phật giáo bắt đầu truyền vào Việt Nam trong
khoảng thế kỉ thứ ba đến thế kỉ thứ hai trước công nguyên từ Ấn Độ theo
đường biển chứ không phải từ Trung Hoa. Lúc đầu Phật giáo tại Việt Nam
(đồng bằng châu thổ sông Hồng) mang màu sắc của Phật giáo Tiểu thừa
nhưng về sau do ảnh hưởng của Trung Hoa mời chuyển dần thành Đại thừa
Phật giáo Đại thừa được nhiều người thừa nhận là tôn giáo chính của
người Việt, người Hoa và một số dân tộc thiểu số sinh sống ở miền núi phía
Bắc như Mường, Thái, Tày... Phật giáo Đại thừa tại Việt Nam có ba tông phái
chính là Thiền tông, Tịnh Độ tông và Mật tông. Trong thực tế Phật giáo Đại
thừa ở Việt Nam tồn tại hòa hợp với Đạo giáo, Khổng giáo và các đức tin bản
địa như tục thờ cúng tổ tiên, thờ Mẫu.
Bức tranh về tôn giáo ở Việt Nam ngày nay cũng rất đa dạng và phong
29
phú, có thể chia làm 2 loại là tôn giáo nội sinh và tôn giáo ngoại nhập. Ở đây
cũng cần lưu ý rằng, các tôn giáo được gọi là nội sinh cũng không phải không
vay mượn một số yếu tố ngoại nhập và ngược lại tôn giáo ngoại nhập cũng
dần được Việt hóa, được hiểu, diễn giải theo tâm thức tín ngưỡng tâm linh
của người Việt, phát triển trên nền văn hóa Việt, thậm chí vay mượn yếu tố
tín ngưỡng Việt.
Việt Nam hiện có 40 tổ chức tôn giáo thuộc 13 tôn giáo được chính phủ
công nhận (Xem Phụ lục).
Trong 2 năm 2011 và 2012, tại Việt Nam có 600 cơ sở thờ tự được nâng
cấp, sửa chữa và hơn 500 công trình tôn giáo được xây mới. Các học viện, đại
chủng viện, các trường cao cấp, trung cấp của cá tổ chức tôn giáo được mở ra
tại nhiều nơi với sự tạo điều kiện thuận lợi của chính quyền địa phương. Chỉ
tính riêng 15 năm gần đây, các tôn giáo Việt Nam đã có 15.000 người được
phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, trong đó Tòa thành
Vatican đã phong chức 25 giám mục, giám mục phụ tá các giáo phận. Đến
nay, ở Việt Nam có 83.000 chức sắc, 250.000 chức việc.
Trong những năm qua, nhiều hoạt động của các tổ chức tôn giáo với sự tham
dự của đồng bào chức sắc, tín đồ và khách nước ngoài đã được tổ chức. Nhằm
góp phần vào các hoạt động quốc tế trong lĩnh vực tôn giáo, nhiều cơ quan liên
quan và nhiều tổ chức tôn giáo ở Việt Nam đã đón nhiều đoàn khách nước
ngoài; đồng thời cử các đoàn đi nước ngoài trao đổi kinh nghiệm về lĩnh vực tôn
giáo và tích cực tham gia các diễn đàn, hội nghị ở khu vực và thế giới. Đặc biệt,
quan hệ Việt Nam – Vatican đã có nhiều bước cải thiện đáng kể.
Những thành tựu về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam là bằng chứng hùng
hồn về tôn trọng và đảm bản quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, là nguyên tắc
hàng đầu và nhất quán của Đảng, Nhà nước ta vì cuộc sống tính thần của
người dân. Chính vì vậy, các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ yên tâm sinh
hoạt tôn giáo và cùng nhau đoàn kết, đồng lòng hướng tới mục tiêu: “Dân
30
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Đại đa số tín đồ các tôn giáo là người lao động, chủ yếu là nông dân cư trú
trên địa bàn cả nước, một bộ phận tín đồ là đồng bào dân tộc thiểu số theo các
tôn giáo cư trú ở các địa bàn Tây Bắc (100 ngàn), Tây Nguyên (400 ngàn),
Tây Nam Bộ (1,3 triệu).
Trong công cuộc đổi mới đất nước, đa số chức sắc và tín đồ các tôn giáo
tích cực thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, hành
đạo trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật. Phát huy tinh thần yêu nước, đại
đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, tình hình hoạt động tôn giáo còn có những diễn biến phức tạp,
tiềm ẩn các yếu tố có thể gây mất ổn định ở cơ sở. Một số tôn giáo đẩy mạnh
củng cố tổ chức, phát triển tín đồ, phô trương thanh thế, lợi dụng truyền đạo trái
pháp luật, kích động tín đồ đòi đất, cơ sở thờ tự của tôn giáo. Ở một số nơi, nhất
là ở vùng dân tộc thiểu số, một số người đã lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo kích
động tín đồ tham gia hoạt động chống đối chính quyền, phá hoại khối đại đoàn
kết toàn dân tộc gây mất ổn định chính trị xã hội. Thành lập các Hội đoàn tôn
giáo mang yếu tố chính trị, kích động tín đồ, làm giảm vai trò, uy tín của đảng
viên có đạo ở cơ sở địa phương. Còn xuất hiện “tà đạo” mang yếu tố mê tín,
phản văn hoá, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc. Các thế lực thù địch
trong và ngoài nước triệt để lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo gắn với vấn
đề dân tộc, dân chủ, nhân quyền để chống phá cách mạng nước ta.
1.3.2. Tình hình tôn giáo trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc
Những năm qua, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn tỉnh luôn
được đảm bảo, duy trì, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đáp
ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân; tạo môi trường ổn định phục vụ sự
nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương.
Vĩnh Phúc là tỉnh có đa tín ngưỡng, tôn giáo với nhiều cơ sở thờ tự và
31
quần chúng tín đồ. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 3 tôn giáo được Nhà nước
công nhận cho phép hoạt động là đạo Phật, đạo Công giáo và đạo Tin lành,
ngoài ra, còn có các điểm nhóm Tin lành tự lập và một số nhóm hoạt động
mang màu sắc tôn giáo. Toàn tỉnh có 464 cơ sở thờ tự, hàng năm, có trên 430
lễ hội các loại, cơ bản đáp ứng được nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của quần
chúng tín đồ.
Về Đạo Phật: Toàn tỉnh hiện có 328 tăng, ni, người tu hành đang sinh
hoạt, hoạt động tại 102/397 cơ sở tự viện trên địa bàn tỉnh, có 84 chùa xếp
hạng di tích, trong đó 15 chùa xếp hạng Di tích Quốc gia; 69 chùa xếp hạng
Di tích cấp tỉnh, có khoảng trên 136.000 tín đồ phật tử. Ban Trị sự GHPGVN
tỉnh và Ban Trị sự GHPGVN các huyện, thành, thị, tích cực tham gia các hoạt
động từ thiện xã hội: ủng hộ cho bệnh nhân, học sinh nghèo vượt khó, trẻ em
tàn tật, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, đi cứu trợ, ủng hộ đồng bào Miền
Trung lũ lụt… vv
Về Đạo Công giáo: Hiện nay Đạo Công giáo ở tỉnh Vĩnh Phúc có 12 xứ đạo
trên 22.000 tín đồ, có 11 Linh mục phụ trách xứ tại 47 nhà thờ xứ, họ đạo. Các
giáo xứ, giáo họ duy trì sinh hoạt theo lịch mục vụ và tổ chức các lễ trọng: Lễ
Phục sinh, chúa nhật, lễ thánh Giuse, lễ Đức Bà, lễ Bảo Trợ, lễ Đức Mẹ Mân
Côi...tuân thủ theo đúng quy định pháp luật và đảm bảo an ninh trật tự. Tại các
giáo xứ, các Linh mục đã giảng dạy cho tín đồ kính nhớ tổ tiên, ông bà, cha mẹ;
cầu bình an và thánh hoá công việc làm ăn. Nhiều hoạt động mục vụ nhằm tăng
cường củng cố đức tin cho lớp trẻ; công tác phát triển giáo hội như: Họp mặt
giáo phận kỳ II, mở các lớp sư phạm giáo lý cho thiếu nhi thánh thể, huynh
trưởng, các trưởng phó ban hành giáo và các hội đoàn... Trong năm 2018, các
hoạt động tại các Giáo xứ, Giáo họ trên địa bàn tỉnh sinh hoạt bình thường, ổn
định tuân thủ các quy định của pháp luật; các giáo xứ, giáo họ duy trì sinh hoạt
tôn giáo theo lịch mục vụ, các lễ trọng được tổ chức tại Nhà thờ với hình thức
gọn nhẹ, trang trọng, tiết kiệm: Lễ tất niên; lễ cầu năm mới; cầu bình an; lễ Tro,
32
lễ phục sinh, Lễ Đức mẹ Mân Côi, lễ các Thánh Nam nữ…
Ngoài ra các Linh mục tập trung dâng lễ tại các nhà thờ xứ họ mình phụ
trách; Tháng 3/2018 Tòa Giám mục Bắc Ninh có quyết định thuyên chuyển
linh mục đi, đến trên địa bàn tỉnh tỉnh Vĩnh Phúc (4 chuyển đi, 5 chuyển đến).
Các giáo xứ, họ giáo tổ chức các lễ ngoài chương trình đăng ký đều xin phép
cấp có thẩm quyền và tổ chức các cuộc lễ theo đúng nội dung, chương trình
đăng ký: lễ khánh thành nhà thờ họ An Định (Vĩnh Yên); lễ đón tân linh mục
(giáo xứ Phúc Yên, Vĩnh Yên)…
Đạo Tin lành hiện nay ở Vĩnh Phúc có 01 Chi hội thánh Tin lành Phúc
Yên thuộc Chi hội Thánh Tin lành Miền Bắc với 40 tín đồ; có 04 thành viên
Ban chấp sự; 01 Mục sư quản nhiệm (Mục sư Nguyễn Văn Long phụ
trách từ tháng 4/2018), Chi hội Thánh tại số 5 phố Yên Ninh, phường
Trưng Trắc, thị xã Phúc Yên. Chi hội duy trì sinh hoạt vào chủ nhật hàng
tuần, hoạt động bình thường, ổn định, thuần túy tôn giáo, chấp hành pháp
luật và những quy định tại địa phương. Từ tháng 09/2013 Chi hội tổ
chức các hoạt động hướng tới Đại hội Đồng Tổng liên hội, chuẩn bị thống
nhất Hội thánh hai miền Nam Bắc; Ngày 1/10/2018 Chi hội thánh Tin lành
Phúc Yên có 5 đại biểu do Mục sư Nguyễn Văn Long làm trưởng đoàn đi
tham dự Đại hội đồng lần thứ 34 của Hội Thánh Tin lành Việt Nam ( Miền
Bắc) diễn ra từ ngày 02 – 03/10/2018 tại Hà Nội; sau Đại hội tín đồ Chi hội
thánh Tin lành Phúc Yên rất phấn khởi trước thành công của Đại hội.
Về Đạo lạ: Tính đến thời điểm hiện tại, tỉnh Vĩnh Phúc có 07 loại đạo lạ
hoạt động là Tâm linh Hồ Chí Minh ( đạo Nguyễn Điền), Long Hoa Di
Lặc, Hội Tiên Rồng, Hội Tâm linh, Giáo hội Lạc Hồng, Pháp Luân Công và
Đoàn 18 Phú Thọ. Số lượng cụ thể của các loại đạo lạ là: Tâm linh Hồ Chí
Minh (đạo Nguyễn Điền) có 233 người có ở hầu hết các huyện, thành, thị;
Long Hoa Di Lặc có 8 người ở huyện Bình Xuyên, Tam Đảo; Hội tâm linh có
31 người ở huyện Bình Xuyên, Vĩnh Tường, Yên Lạc, Giáo hội Lạc Hồng có
33
3 người ở huyện Lập Thạch, Pháp Luân Công có 7 người trong đó: ở huyện
Bình Xuyên có (01 người), Vĩnh Tường (06 người); Đoàn 18 Phú Thọ có 01
người ở huyện Tam Dương.
Phật giáo ở Vĩnh Phúc sẵn sàng đón nhận các hệ phái mới và cùng tồn tại
trong sự hòa hợp Phật giáo ở Vĩnh Phúc hiện nay cùng với các cơ sở thờ tự
vốn có của mình, ngoài những hệ phái cổ truyền ở địa phương, đã đón nhận
một số hệ phái mới như:
- Thứ nhất, ba thiền phái Tịnh độ tông, Thiền tông Trúc Lâm Đà Lạt, Mật
tông Drukpa, v.v…Sự xuất hiện của các hệ phái mới làm cho sắc thái Phật
giáo ở Vĩnh Phúc ngày càng đa dạng hơn.
- Thứ hai, các thiền viện mới được xây dựng khang trang và bề thế, như:
Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên, Thiền viện Trúc Lâm An Tâm, Thiền viện
Trúc Lâm Tuệ Đức gần đây đã nâng cao vị thế của phật giáo ở Vĩnh Phúc.
Cùng với Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt và Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử,
Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên là một trong ba thiền viện Trúc Lâm lớn nhất
ở Việt Nam.
- Thứ ba, sự có mặt của Thiền viện Trúc Lâm An Tâm làm cho Vĩnh Phúc
trở thành địa phương thứ hai ở miền Bắc có thiền viện dành cho ni giới.
- Thứ tư, dòng truyền thừa Drukpa được truyền bá vào Vĩnh Phúc làm cho
bức tranh Phật giáo ở tỉnh ta thêm độc đáo. Khi nói đến đặc điểm của Phật
giáo ở Vĩnh Phúc, không thể không nói tới sự hiện diện của dòng truyền thừa
này và ngôi Bảo tháp duy nhất tại Việt Nam được xây dựng ở Vĩnh Phúc.
Với các tôn giáo: đạo Phật, Công giáo, Tin lành, thời gian qua, tình hình
sinh hoạt, hoạt động của tổ chức, cá nhân, các cơ sở thờ tự được ổn định. Hoạt
động của các chức sắc, cơ sở thờ tự theo đúng nội dung, chương trình đã đăng
ký với chính quyền sở tại. Tuy nhiên, trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc hiện có 6
đạo lạ hoạt động trái pháp luật, đó là: Tâm linh Hồ Chí Minh hay còn gọi là
Hoàng Thiên Long - Nguyễn Điền; Long Hoa Di Lặc; Hội Tiên Rồng; Hội
34
Tâm linh; Giáo hội Lạc hồng và Đoàn 18 Phú Thọ xuất hiện rải rác tại 7/9
huyện, thành, thị với tổng số gần 380 người tham gia. Thực hiện công tác tôn
giáo năm 2016, Ban Chỉ đạo Công tác tôn giáo tỉnh chỉ đạo các sở, ngành liên
quan, Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh và các đoàn thể của tỉnh, các huyện,
thành, thị tăng cường công tác tuyên truyền tới toàn thể các chức sắc, nhà tư
hành, tín đồ các tôn giáo, cán bộ, đảng viên, hội viên, CCVC, công nhân lao
động và nhân dân trong tỉnh về các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo.
1.4. Vai trò của báo chí trong việc thông tin tuyên truyền về tôn giáo
và tự do tín ngƣỡng
1.4.1. Tuyên truyền về đường lối, chính sách pháp luật về tôn giáo
Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo và có nhiều loại hình tín ngưỡng. Trong lịch
sử đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, chức sắc, tín đồ
các tôn giáo đều có những đóng góp to lớn, quan trọng. Đảng, Nhà nước Việt
Nam luôn khẳng định, đoàn kết tôn giáo là nguồn lực nội sinh có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Tôn trọng quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo
là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng, Nhà nước ta được cụ thể bằng pháp
luật và đảm bảo trên thực tế và đây là một trong những quyền cơ bản của công
dân, được khẳng định trên nguyên tắc Hiến định (Hiến pháp năm 2013).
Ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 3-9-1945
tại phiên họp Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo của một bộ phận đồng bào có đạo. Người nói: “Tôi đề
nghị Chính phủ tuyên bố tín ngưỡng tự do và lương - giáo đoàn kết”. Ngày
14-6-1955, Người đã ký Sắc lệnh số 234/SL nêu rõ: “Việc tự do tín ngưỡng,
tự do thờ cúng là quyền lợi của nhân dân. Chính phủ luôn tôn trọng và giúp
đỡ nhân dân thực hiện. Chính quyền không can thiệp vào nội bộ các tôn giáo.
Các tổ chức tôn giáo phải tuân theo pháp luật của Nhà nước như mọi tổ chức
35
khác của nhân dân. Việc bảo vệ tự do tín ngưỡng bắt buộc phải trừng trị
những kẻ đội lốt tôn giáo gây rối loạn”. Người từng kêu gọi các tôn giáo hãy
xóa bỏ hiềm khích, đoàn kết cùng toàn dân lo cho nền độc lập của nước nhà.
Kế thừa quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tôn giáo, trong
các giai đoạn cách mạng, Đảng, Nhà nước ta đều quan tâm đến nhu cầu tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Bước sang thời kỳ đổi mới, Đảng, Nhà nước
ta ban hành nhiều chủ trương, chính sách về tôn giáo và cụ thể hóa quy định
của Hiến pháp năm 1992 và 2013 về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
công dân. Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW
ngày 16-10-1990; Nghị quyết số 25- NQ/TW ngày 12-3-2003. Ủy ban
Thường vụ Quốc hội khóa 11 đã ban hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo (số
21/2004/ PL- UBTVQH 11) quy định về các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo.
Chính phủ ban hành Nghị định số 22/2005/NĐ-CP ngày 1-3- 2005 về hướng
dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo. Thủ tướng
Chính phủ ban hành Chỉ thị 1940/CT-TTg ngày 31-12-2008 “về nhà, đất liên
quan đến tôn giáo”, tạo hành lang pháp lý ổn định, nhất quán để ghi nhận, bảo
đảm thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Đây là điều rất
cần thiết nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước đối với
các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, bảo đảm tính tương thích với luật pháp
quốc tế. Hiến pháp năm 2013 có những sửa đổi rất quan trọng về chủ thể của
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không chỉ là của “công dân” Việt Nam mà là
của “mọi người”, ghi nhận quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong
những quyền cơ bản của con người. Cụ thể hóa, Quốc hội khóa XIV thông
qua, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, có hiệu lực từ ngày 1-1-2018.
Như vậy, có thể khẳng định, các chính sách, pháp luật đã thể hiện sự quan
tâm đặc biệt, sâu sắc của Đảng, Nhà nước Việt Nam đến quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, nhu cầu tín ngưỡng của tín đồ, chức sắc các tôn giáo, làm
cho quần chúng nhân dân, tín đồ và các chức sắc tôn giáo yên tâm phấn khởi
36
tích cực thực hiện tốt cả “việc đạo, việc đời”; khuyến khích các tôn giáo tích
cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, lao động sản xuất phát triển
kinh tế - xã hội, đấu tranh ngăn chặn những hoạt động lợi dụng tôn giáo góp
phần bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Nếu như trước khi có Pháp lệnh Tín ngưỡng tôn giáo năm 2004, cả nước
có 6 tôn giáo, 13 tổ chức 20.929 cơ sở thờ tự tôn giáo, với 34.181 chức sắc,
78.913 chức việc, với 17,4 triệu tín đồ, thì đến năm 2018, cả nước có 15 tôn
giáo với 41 tổ chức, số lượng cơ sở thờ tự là 29.977, với 55.839 người,
133.662 chức việc, 24,7 triệu tín đồ.
So sánh các số liệu ở thời điểm trước và sau khi có pháp lệnh tín ngưỡng,
tôn giáo, cho thấy quyền tự do tôn giáo của người dân luôn được đảm bảo trên
thực tế, với minh chứng sinh động là sự gia tăng chức sắc, cơ sở thờ tự và tín
đồ các tôn giáo.
Trong các ngày lễ lớn của các tôn giáo như lễ Nô-en của Công giáo, Tin
lành, Lễ Phật đản của Phật giáo, chính quyền các cấp tạo điều kiện và hướng dẫn
để tôn giáo tổ chức và chỉ đạo công tác đảm bảo an ninh trật tự, để quần chúng
nhân dân và tín đồ tôn giáo yên tâm tham gia các lễ hội. Bên cạnh đó, Đảng, Nhà
nước Việt Nam còn triển khai nhiều chương trình, mục tiêu chiến lược phát triển
kinh tếxã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng tại các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng
bào các tôn giáo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào có đạo;
khẳng định sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo dưới sự
lãnh đạo của Đảng cùng phấn đấu cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tôn giáo là một vấn đề nhạy cảm. Phía sau chức sắc, chức việc tôn giáo có
hàng vạn tín đồ, quần chúng tin theo, nên thời kỳ nào các thế lực thù địch
cũng lợi dụng tìm mọi cách chống phá, tuyên truyền những luận điệu sai trái
cho rằng, Việt Nam không có tự do tôn giáo; Luật tín ngưỡng, có khái niệm
trừu tượng; Nhà nước dễ quy kết trách nhiệm và lên án các tổ chức tôn giáo,
khi chính quyền không hài lòng, tự do tôn giáo là quyền của mỗi người.
37
Chúng còn vu cáo Nhà nước ta vi phạm dân chủ, nhân quyền nhằm kích động,
chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc; chia rẻ Đảng, Nhà nước và
chính quyền các cấp với đồng bào có đạo. Mỗi khi Nhà nước ta bổ sung hoặc
thay thế những văn bản pháp luật mới để điều chỉnh hoạt động tôn giáo như
Luật tín ngưỡng, tôn giáo, Luật An ninh mạng… tương thích với luật pháp
quốc tế về quyền con người, phù hợp với quá trình hội nhập và phát triển của
đất nước, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng,tâm linh của chức sắc, tín đồ tôn giáo
thì các thế lực thù địch lại dấy lên chiến dịch viết bài đăng tải trên các trang
mạng, các blog… đòi bãi bỏ hoặc xuyên tạc, phủ nhận, tìm các chức sắc, tín
đồ thực hiện, tạo ra sự đối lập với chính quyền.
Song cần phải hiểu rõ, bản chất vấn đề tôn giáo là tổ chức mang tính xã hội. Ở
bất cứ quốc gia nào trên thế giới, dù là quốc gia phát triển hay đang phát triển, khi
thành lập tổ chức tôn giáo và hoạt động tôn giáo thì nhà nước có trách nhiệm đảm
bảo an ninh trật tự, đáp ứng nhu cầu tâm linh của mọi người và xử lý những người
cản trở hoạt động tôn giáo chính đáng. Các quốc gia đều quan tâm đến công tác
quản lý nhà nước về tôn giáo.Mỗi quốc gia có cách quản lý riêng tùy thuộc vào
điều kiện phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.Để xây dựng và hoàn thiện thể chế
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, năm 2016, nước ta có Luật Tín ngưỡng,
tôn giáo. Quá trình xây dựng Luật, Chính phủ đều lấy ý kiến của chức sắc, tín đồ
các tôn giáo, do đó các tôn giáo đều phấn khởi đón nhận. Bên ngoài, cộng đồng
quốc tế ghi nhận và đánh giá cao nỗ lực của Việt Nam trong việc hoàn thiện pháp
luật, phù hợp với công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết, rút ngắn thời
gian công nhận tổ chức tôn giáo từ 23 năm xuống còn 5 năm, lần đầu tiên đã xác
nhận pháp nhân phi thương mại của tổ chức tôn giáo…
Như vậy, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng chính sách, pháp luật
để đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người và các tổ chức tôn
giáo xây dựng Hiến chương điều lệ hoạt động gắn bó, đồng hành cùng dân tộc
trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhờ đó, các tổ chức tôn
38
giáo ở ViệtNam đều có điều kiện giao lưu quốc tế, xây dựng tổ chức thực hành
chính đạo, mở rộng cơ sở thờ tự…. Nhiều cá nhân, tổ chức tôn giáo nước ngoài
đã thuyết pháp, giảng đạo tại một số cơ sở thờ tự tại Việt Nam công khai theo
quy định của pháp luật. Thông qua những hoạt động này, các tôn giáo đã tăng
cường trao đổi thông tin với tôn giáo đồng đạo để họ hiểu rõ hơn về chính sách,
pháp luật của Nhà nước Việt Nam. Sự đoàn kết và đóng góp của các tôn giáo ở
Việt Nam cùng chung tay, chung sức đã thể hiện trách nhiệm đối với xã hội,
đóng góp thiết thực vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Chính sách,
pháp luật về tôn giáo đã phát huy nguồn lực của tôn giáo và khuyến khích các tổ
chức tôn giáo tham gia vào các lĩnh vực của đời sống xã hội, đã xuất hiện nhiều
mô hình và tấm gương tiêu biểu của chức sắc, chức việc, tín đồ tôn giáo trong
công tác an sinh, xã hội, phòng chống biến đổi khí hậu, từ thiện.
1.4.2. Đấu tranh chống các quan điểm sai trái trong hoạt động tôn giáo
và tự do tín ngưỡng
Công tác bảo đảm an ninh trên lĩnh vực tôn giáo và đấu tranh với hoạt
động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo được các cấp, các ngành chức năng tăng
cường, góp phần đảm bảo ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Thực tế, bên cạnh hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống và được Nhà
nước công nhận cho phép hoạt động, thời gian qua, trên địa bàn tỉnh phát hiện
một số đối tượng lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để tụ tập đông người tuyên
truyền mê tín dị đoan, hoạt động mang màu sắc tôn giáo trái với thuần phong
mỹ tục của người Việt Nam. Để phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn hoạt động
lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo xâm phạm an ninh quốc gia, các cơ quan chức
năng, nhất là lực lượng công an nắm chắc tình hình, kịp thời phát hiện, đấu
tranh phản bác các luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc, vu khống, bịa đặt của
các thế lực thù địch về vấn đề tôn giáo; phối hợp với cơ quan, ban, ngành đẩy
mạnh tuyên truyền và thông báo với các chức sắc, chức việc trong các tôn
giáo về âm mưu, thủ đoạn hoạt động của các đối tượng lợi dụng tín ngưỡng,
39
tôn giáo gây phức tạp về an ninh trật tự, từ đó, hướng hoạt động của tôn giáo
theo đúng quy định, vận động các tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo. Vận động các
chức sắc, chức việc, tín đồ trong vùng tôn giáo tích cực tham gia phong trào
toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Đến nay, trên địa bàn tỉnh có 13 mô hình tự
quản về an ninh trật tự trong vùng đồng bào theo đạo Công giáo và 2 mô hình
"5 quản, 3 phòng, 3 bảo vệ" về an ninh trật tự trong Phật giáo.
Với việc triển khai đồng bộ từ công tác tuyên truyền, hướng dẫn thực hiện
các hoạt động tôn giáo, tham mưu giải quyết khiếu kiện, khiếu nại liên quan
đến tôn giáo và thực hiện hiệu quả các biện pháp đảm bảo an ninh trên lĩnh
vực tôn giáo...Vì vậy, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn tỉnh được
duy trì, giữ vững, góp phần tạo môi trường ổn định phục vụ sự nghiệp phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương.
Qua công tác tuyên truyền đã nâng cao nhận thức của xã hội, đội ngũ cán
bộ trong hệ thống chính trị ở các cấp về tín ngưỡng, tôn giáo, thực hiện nhất
quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
nhân dân. Chất lượng, hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo từng
bước được nâng cao. Các cấp, các ngành, địa phương tăng cường thăm nắm
tình hình sinh hoạt, hoạt động tôn giáo tại một số cơ sở thờ tự các tôn giáo
cũng như hướng dẫn thực hiện và giải quyết các hoạt động tôn giáo theo quy
định của pháp luật; thường xuyên, chủ động rà soát, kiểm tra, tập trung giải
quyết theo thẩm quyền các vụ việc liên quan đến tôn giáo như việc cấp, giao
giấy CNQSD đất cho cơ sở tôn giáo quản lý theo quy định; xây dựng công
trình tôn giáo; hướng dẫn một số Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo cấp huyện
giải quyết các vụ việc tôn giáo xảy ra trên địa bàn...
Tiểu kết chƣơng 1
Kế thừa quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tôn giáo, trong
các giai đoạn cách mạng, Đảng, Nhà nước ta đều quan tâm đến nhu cầu tín
40
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Bước sang thời kỳ đổi mới, Đảng, Nhà nước ta
ban hành nhiều chủ trương, chính sách về tôn giáo và cụ thể hóa quy định của
Hiến pháp năm 1992 và 2013 về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân.
Với vai trò là một thành tố cấu thành của văn hóa, tôn giáo đã góp phần
lưu giữ, bồi đắp và làm phong phú những giá trị truyền thống văn hóa, mang
giá trị nhân văn, hướng thiện có ảnh hưởng tích cực trong đời sống xã hội,
thông qua giáo lý khuyên răn con người sống hướng thiện, vị tha, bác ái...
Những giới điều trong giáo lý các tôn giáo mang giá trị đạo đức và nhân văn
sâu sắc, góp phần điều chỉnh hành vi ứng xử của con người. Nhiều khu dân cư
có đông đồng bào theo tôn giáo trở thành điểm sáng về phòng chống tội
phạm, phòng chống ma túy và các tệ nạn xã hội khác, giữ gìn tốt an ninh trật
tự, an toàn xã hội. Tín đồ, chức sắc tích cực tham gia phát triển kinh tế xã hội,
góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong thời kỳ
đổi mới của đất nước. Dù mỗi tôn giáo đều có đường hướng và phương châm
hành đạo riêng nhưng đều chung một định hướng là sống “Tốt đời, đẹp đạo”
gắn bó đồng hành với dân tộc, với đất nước.
Các tôn giáo tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cùng chính
quyền các cấp xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, xây dựng nông thôn mới,
phát triển kinh tế xã hội; đặc biệt là cùng chung tay với nhà nước cứu trợ
thiên tai, chăm lo giúp đỡ người có hoàn cảnh khó khăn, giúp đỡ tiếp cận các
dịch vụ y tế, giáo dục, dạy nghề, văn hóa,...
Trong chương 1 của luận văn, tác giả luận văn đã đi sâu tìm hiểu các lí
thuyết cơ bản, các thuật ngữ liên quan đến tôn giáo, đưa ra khái niệm và vai
trò của báo chí trong việc truyền thông về tôn giáo tại Việt Nam. Đồng thời,
tác giả cũng đã nêu tình hình tôn giáo ở Việt Nam nói chung và tỉnh Vĩnh
Phúc nói riêng. Những kết quả đạt được trong chương 1 là cơ sở lý luận và
41
thực tiễn để khảo sát chương 2 của luận văn.
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TÔN GIÁO TỈNH VĨNH PHÚC
TRÊN BÁO CHÍ
2.1. Giới thiệu về các tờ báo khảo sát
2.1.1. Giới thiệu về báo Vĩnh Phúc
Báo Vĩnh Phúc ra số báo đầu tiên cách đây 68 năm, ngày 22/8/1951. Để
kịp thời phục vụ nhiệm vụ phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng cho
đảng viên và nhân dân, cũng như trao đổi tin tức kinh nghiệm giữa các địa
phương trong tỉnh, Ban Tuyên truyền Tỉnh ủy đã có Chỉ thị số 14 hợp nhất 2
bản tin Tia sáng và Tin tức thành một tờ báo công khai lấy tên là Vĩnh Phúc
Thông tin, lấy tôn chỉ mục đích là “Tờ báo của Đảng bộ chính quyền và nhân
dân trong tỉnh, phục vụ nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc”.
Từ ngày 1/1/1997, cùng với sự kiện tái lập tỉnh, Báo Vĩnh Phúc tách ra từ
Báo Vĩnh Phú. Đến nay, Báo Vĩnh Phúc không ngừng lớn mạnh cả về quy mô
và chất lượng, xuất bản tất cả các ngày trong tuần và các ấn phẩm: Báo Vĩnh
Phúc Cuối tuần, Báo Vĩnh Phúc Chủ nhật và Báo Vĩnh Phúc Điện tử.
Báo Vĩnh Phúc trở thành cơ quan nhật báo với khả năng cập nhật thông tin
thời sự nhanh chóng, kịp thời đem tới bạn đọc trong và ngoài tỉnh những
thông tin đầy đủ, toàn diện nhất và có tính định hướng dư luận cao; đáp ứng
yêu cầu thông tin ngày càng cao của công chúng; được cán bộ, đảng viên, các
tầng lớp nhân dân và đông đảo bạn đọc tin cậy.
Đội ngũ những người làm Báo Vĩnh Phúc ngày càng trưởng thành, luôn
giữ được phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, trách nhiệm xã hội. Cùng
với nhiệm vụ thông tin tuyên truyền, những năm gần đây, Báo Vĩnh Phúc tích
cực tham gia hoạt động từ thiện xã hội với nhiều hoạt động tích cực như: xây
dựng quỹ nhân ái, hỗ trợ nhiều gia đình chính sách, xây dựng nhà ở; tặng quà
42
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, hỗ trợ nhiều đối tượng có hoàn cảnh khó khăn
Theo thống kê của Sở Thông tin và Truyền thông, toàn tỉnh hiện có 3 cơ
quan báo chí chuyên nghiệp là Báo Vĩnh Phúc, Đài Phát thanh – Truyền hình
tỉnh, Tạp chí Văn nghệ Vĩnh Phúc, với 4 loại hình báo chí gồm: Báo in, phát
thanh, truyền hình và báo điện tử; 5 văn phòng đại diện, 3 phóng viên thường
trú cơ quan báo chí Trung ương đóng trên địa bàn và 179 đơn vị có hoạt động
mang tính báo chí (43 bản tin, 12 trang thông tin điện tử được Bộ Thông tin
và Truyền thông cấp phép, 124 đài truyền thanh huyện, xã).
Trước sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin và nhu cầu tiếp
cận, hưởng thụ thông tin ngày càng cao của nhân dân, các cơ quan báo chí,
truyền thông trên địa bàn tỉnh luôn tự làm mới mình, khai thác sự đa dạng của
thông tin, truyền tải một thông điệp bằng sự kết hợp của các loại hình ngôn
ngữ như: viết, ảnh, video, âm thanh, thiết kế đồ họa và các phương thức tương
tác khác. Các thông tin được truyền tải đến công chúng luôn đa dạng, không
còn bó hẹp trong phạm tỉnh, quốc gia, một đất nước, một khu vực mà là khắp
nơi trên thế giới và không giới hạn trong một phương thức truyền thông cụ
thể nào.
Trong giai đoạn phát triển mới, trước yêu cầu nhiệm vụ chính trị của tỉnh
và để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu thông tin đa dạng, đa chiều của công
chúng, Báo Vĩnh Phúc đã không ngừng lớn mạnh cả về quy mô và chất
lượng, trở thành nhật báo, với khả năng cập nhật thông tin thời sự nhanh
chóng, kịp thời đem đến cho bạn đọc những thông tin chính xác, đầy đủ, toàn
diện và có tính định hướng dư luận. Đến nay, Báo Vĩnh Phúc đã xuất bản tất
cả các ngày trong tuần với 3 ấn phẩm: Báo Vĩnh Phúc cuối tuần, Báo Vĩnh
Phúc chủ nhật và Báo Vĩnh Phúc điện tử.
2.1.2. Giới thiệu về Đài PT – TH tỉnh Vĩnh Phúc
Đài PT- TH Vĩnh Phúc thành lập ngày 19/9/1956. Sau hơn 60 năm hình
thành, phát triển, nhất là sau 20 năm tái lập tỉnh, Đài PT –TH Vĩnh Phúc đã có
43
bước phát triển nhanh theo hướng hiện đại.
Vào ngày 19/09/1956, cơ sở của Đài mới chỉ là một trạm truyền thanh với
vài chiếc loa đặt tại thị xã Vĩnh Yên. Con người ít, thiết bị thô sơ, song hàng
ngày tiếng loa truyền thanh vẫn bám sát cuộc sống, tuyên truyền đầy đủ, kịp
thời đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước,
giúp cho người dân yên tâm, phấn khởi, hăng hái thi đua chiến đấu, lao động
sản xuất, xây dựng cuộc sống mới.
Ngày 01/01/1997, cùng với sự tái lập tỉnh Vĩnh Phúc, Đài PT – TH Vĩnh
Phúc được thành lập. Ngày đầu tái lập, Đài chỉ có 21 cán bộ, công nhân viên,
trang thiết bị nghèo nàn. Được Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt
Nam giúp đỡ trang thiết bị, Đài PT – TH Vĩnh Phúc đã phát sóng những chương
trình phát thanh, truyền hình đầu tiên. Chương trình phát thanh lúc đầu phát 1
buổi/ngày, sau tăng lên 2 buổi/ngày, từ tháng 5/2005 tăng lên 3 buổi/ngày.
Chương trình truyền hình lúc đầu phát 1 buổi/tuần, tăng lên 3 buổi/tuần vào
tháng 7 năm 1997, 3 buổi /tuần vào tháng 9/1999, 14 buổi/tuần vào 1/2004..
Không chỉ tăng tần suất phát thanh từ 1 buổi/ngày lên 2 buổi/ngày rồi 3
buổi/ngày với 3 giờ phát thanh; chương trình truyền hình từ 1 buổi/tuần lên 3
buổi/tuần, 14 buổi/tuần và nay là phát sóng 24h/24h, từ ngày 1/1/2013, Đài đã
chính thức đưa vào sử dụng hệ thống phát sóng kênh Truyền hình Vĩnh Phúc
trên vệ tinh Vinasat 2. Hiện nay, kênh truyền hình Vĩnh Phúc đã phát trên vệ
tinh Vinasat 2 và nhiều hệ thống, kênh truyền dẫn khác với thời lượng 24/24h,
phát thanh tăng từ 1,5h/ ngày lên 3h/ngày.
Đây là mốc quan trọng, đánh dấu bước phát triển vượt bậc của Đài trong
lộ trình hiện đại hóa kỹ thuật sản xuất và phát sóng các chương trình phát
thanh truyền hình.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị sản xuất, phát sóng các chương trình phát
thanh, truyền hình cũng như trang thông tin điện tử được nâng cấp theo hướng
công nghệ mới, phù hợp với xu hướng phát triển của ngành. Cùng với tăng
44
cường cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật, đội ngũ những người làm phát
thanh truyền hình của tỉnh từng bước trưởng thành về mọi mặt. Hiện nay, Đài
có 13 phòng chuyên môn nghiệp vụ; đội ngũ cán bộ, CCVC 150 người, trong
đó trên 90% có trình độ đại học trở lên. Đảng bộ có trên 80 đảng viên sinh
hoạt ở 6 Chi bộ. Đài đã tập trung mọi cố gắng để đào tạo nâng cao trình độ lý
luận chính trị, năng lực chuyên môn cho đội ngũ phóng viên, biên tập, kỹ
thuật viên, xây dựng đội ngũ những người làm báo có có trí tuệ, kinh nghiệm
thực tiễn, phẩm chất chính trị tốt, chuyên môn vững vàng, yêu nghề và trách
nhiệm cao trước công việc. Đài luôn không ngừng đổi mới về nội dung
chương trình, hình thức thể hiện làm cho chương trình PT-TH ngày càng
phong phú, hấp dẫn. Cùng với việc nâng cao chất lượng các bản tin thời sự,
Đài liên tục mở thêm các chương trình, mục, chuyên mục phục vụ nhiều đối
tượng bạn nghe đài, bạn xem truyền hình, đảm bảo sự cân đối hài hoà các thể
loại, các lĩnh vực trong kết cấu chương trình, đáp ứng nhu cầu tìm hiểuvà
hưởng thụ thông tin của khán, thính giả.
Đặc biệt, để đáp ứng nhu cầu của khán giả, Đài không ngừng đổi mới về
nội dung chương trình, hình thức thể hiện làm cho chương trình ngày càng
phong phú, hấp dẫn. Đài liên tục mở thêm các mục, chuyên mục mới phục vụ
nhiều đối tượng, được đông đảo bạn nghe đài, bạn xem truyền hình đánh giá
cao như: Vĩnh Phúc với phong trào thi đua yêu nước; Văn học nghệ thuật;
Khám phá Vĩnh Phúc; Nói không với thực phẩm bẩn; Chống buôn lậu, gian
lận thương mại, hàng giả, bảo vệ người tiêu dùng; Môi trường và cuộc sống…
2.2. Nội dung tuyên truyền, phản ánh
2.2.1. Tuyên truyền về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước về vấn đề tôn giáo
Với từ khóa „tôn giáo‟, báo điện tử Vĩnh Phúc cho ra 800 kết quả là các
tin, bài được đăng tải trên báo Vĩnh Phúc online, còn trang thông tin điện tử
của Đài PT - TH Vĩnh Phúc đã cho ra 1031 tin, bài được đăng tải trên đài PT -
45
TH Vĩnh Phúc.
Báo Vĩnh Phúc tuyên truyền đường lối chủ trương chính sách của Đảng và
Nhà nước về tôn giáo sinh động qua đa dạng các bài viết như “Việt Nam luôn
tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo” (báo Vĩnh Phúc, ngày
11/9/2018), “Chú trọng công tác phối hợp trong quản lý Nhà nước về tín
ngưỡng, tôn giáo” (báo Vĩnh Phúc, ngày 21/9/2018), “Cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho các cơ sở tôn giáo” (báo Vĩnh Phúc điện tử ngày
14/11/2018), “Gặp mặt đại biểu các chức sắc, chức việc, tín đồ các tôn giáo
trên địa bàn tỉnh” (báo Vĩnh Phúc điện tử ngày 29/10/2018), “Gặp mặt đại
biểu chức sắc, chức việc, tín đồ tôn giáo trên địa bàn” (báo Vĩnh Phúc điện tử
ngày 20/11/2018), “UBMTTQ tỉnh: Gặp mặt đoàn đại biểu đại diện các chức
sắc, chức việc, tôn giáo, già làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng
đồng dân tộc thiểu số” (báo điện tử Vĩnh Phúc ngày 29/10/2018),…
Báo Vĩnh Phúc phản ánh đậm nét các hoạt động triển khai Luật tín
ngưỡng tôn giáo, và Nghị định số 162 ngày 30/12/2017 của Chính Phủ quy
định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng tôn giáo, điển
hình có bài “Nâng cao nghiệp vụ công tác tôn giáo” 07/06/2019 (Báo điện tử
Vĩnh Phúc) trong đó phản ánh các lớp tập huấn của UBND tỉnh Vĩnh Phúc.
Đối tượng tham gia lớp tập huấn là các đồng chí cán bộ, công chức làm công
tác tôn giáo tại các sở, ban, ngành, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể
chính trị xã hội tỉnh và huyện. Tại hội nghị, các đại biểu đã được báo cáo viên
giới thiệu một số nội dung liên quan đến Luật Tín ngưỡng, tôn giáo như: Sự
cần thiết phải ban hành Luật; mục tiêu, quan điểm chỉ đạo; quá trình xây
dựng, những điểm mới cơ bản của Luật Tín ngưỡng, tôn giáo; Nghị định số
162 ngày 30/12/2017 của Chính phủ hướng dẫn một số điều và biện pháp thi
hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo; thông tin, cập nhật tình hình tôn giáo, các
hiện tượng tôn giáo mới. Việc triển khai các nội dung của Luật Tín ngưỡng,
tôn giáo và Nghị định số 162 ngày 30/12/2017 của Chính phủ cho đội ngũ cán
46
bộ, công chức trong hệ thống chính trị các cấp của tỉnh, nhằm đưa quy định
của pháp luật về tôn giáo vào thực tiễn, đáp ứng yêu cầu công tác tôn giáo
trong tình hình mới. Qua đó nêu cao tinh thần trách nhiệm, nâng cao hiệu quả
công tác của các cán bộ, công chức làm công tác tuyên giáo (Tin “Triển khai
Luật tín ngưỡng tôn giáo”, đài PT – TH Vĩnh Phúc ngày 27/10/2018).
Bài “Tăng cường công tác quản lý nhà nước về tôn giáo” (trên báo điện
tử Vĩnh Phúc ngày 26/6/2019 cho biết: “Trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua
có một số hoạt động tôn giáo gây khó khăn trong công tác quản lý nhà nước
như: Việc xây dựng, tu bổ, tôn tạo cơ sở thờ tự; tự ý mở rộng đất, chuyển đổi
mục đích sử dụng đất, xây dựng các công trình tôn giáo chưa được cấp có
thẩm quyền cho phép...
Để thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về tôn giáo, Sở Nội vụ đề nghị
UBND các huyện, thành phố tập trung chỉ đạo các phòng chuyên môn, đơn vị
trực thuộc, các xã, phường, thị trấn phối hợp với Báo Vĩnh Phúc, Đài PT - TH
Vĩnh Phúc tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về
tín ngưỡng, tôn giáo như: Luật Tín ngưỡng tôn giáo; Nghị định số 162 năm
2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật
Tín ngưỡng, tôn giáo; Quyết định số 19 năm 2018 của UBND tỉnh về ban
hành Quy định trách nhiệm phối hợp trong công tác quản lý nhà nước về tín
ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn tỉnh và các văn bản có liên quan đến cán bộ,
công chức làm công tác tín ngưỡng, tôn giáo cấp huyện, cấp xã, các tổ chức
đoàn thể, chức sắc, chức việc, tín đồ các tôn giáo tại địa phương.
Chủ tịch UBND cấp huyện chỉ đạo các phòng chuyên môn, đơn vị trực
thuộc và UBND cấp xã chủ động nắm tình hình, kịp thời giải quyết theo thẩm
quyền các vấn đề liên quan đến hoạt động tôn giáo tại địa phương; hướng dẫn
người đứng đầu cơ sở thờ tự hoặc ban hộ tự, ban hành giáo… tại các cơ sở
thờ tự hoàn thiện các thủ tục đề nghị cấp có thẩm quyền giao đất, cấp phép
xây dựng trước khi xây dựng các công trình tôn giáo; có biện pháp ngăn chặn
47
việc tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng đất hoặc xây dựng công trình chưa
được cấp phép xây dựng. Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật, nhất là
các trường hợp liên quan đến đất đai, xây dựng cơ sở thờ tự hoặc đặt tượng
trái phép; lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để gây rối, mất trật tự; thông tin, báo
cáo kịp thời với các cấp có thẩm quyền những vụ việc tôn giáo phát sinh,
phức tạp”.
Ban Trị sự GHPGVN cấp tỉnh, cấp huyện và các cơ sở tự viện tổ chức
các cuộc lễ trọng lớn: Phật Đản, Vu Lan đúng theo nghi lễ Phật giáo, tuân
thủ quy định của pháp luật; thành phố Vĩnh Yên kiện toàn nhân sự Ban
Trị sự nhiệm kỳ 2017- 2021; có tờ trình đề nghị cấp có thẩm quyền cho
phép thành lập Trường trung cấp phật học tỉnh Vĩnh Phúc, bổ nhiệm chức
sắc trụ trì một số chùa, bổ sung và kiện toàn thành viên chuẩn y nhân sự
các Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Trong tháng 4/2018 một số chức sắc đạo
phật trên địa bàn tỉnh đã đón đoàn gồm 13 vị tăng sỹ Ấn độ đến thăm, hành
lễ tại cơ sở thờ tự. Các cuộc lễ ngoài chương trình đăng ký hàng năm như:
Lễ hô thần nhập tượng, lễ đúc tượng, trùng tu, lễ húy kỵ, lễ khánh thành, lễ
bổ nhiệm, lễ đặt đá tại các cơ sở thờ tự trên địa bàn tỉnh được các chức sắc,
tín đồ phật tử tổ chức theo đúng nội dung, chương trình đăng ký bảo đảm
an ninh trật tự, an toàn xã hội, thu hút đông đảo nhân dân, phật tử tham gia,
Ban Trị sự GHPGVN tỉnh tổ chức khóa An cư kiết hạ cho 253 Tăng, Ni
trong tỉnh tại 2 hạ trường: chùa Hà Tiên, thành phố Vĩnh Yên và Thiền viện
Trúc Lâm Tây Thiên, huyện Tam Đảo…
Thời gian qua, Báo Vĩnh Phúc đã phối hợp với các cấp, các ngành trong
tỉnh đã làm tốt công tác tuyên truyền, vận động các tín đồ thực hiện nghĩa vụ
và quyền lợi công dân, đi bầu đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND
các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 theo đúng quy định của pháp luật, góp phần vào
thành công của cuộc bầu cử. Với vai trò là cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo,
Ban Dân vận Tỉnh ủy chủ động phối hợp với Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh,
48
Sở Nội vụ kịp thời hướng dẫn các huyện, thành, thị, MTTQ, các tổ chức chính
trị - xã hội ở địa phương tổ chức thăm hỏi, động viên các tổ chức giáo hội, các
chức sắc tôn giáo nhân dịp lễ trọng. Đồng thời, vận động các chức sắc, tín đồ
có đạo thực hiện tốt chủ trương, chính sách, quy định của Trung ương, của
tỉnh và quy định của địa phương, tích cực tham gia phong trào thi đua yêu
nước, không ngừng nêu cao tinh thần cảnh giác, phá vỡ âm mưu diễn biến hòa
bình của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc nhằm chia rẽ
đoàn kết toàn dân. Chủ động phối hợp với các sở, ban, ngành tổ chức các lớp
tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ công tác tôn giáo năm 2016 cho gần 750 cán
bộ làm công tác tôn giáo ở cơ sở. Sở Nội vụ thường xuyên nắm tình hình sinh
hoạt, hoạt động tôn giáo tại các cơ sở thờ tự cũng như các hoạt động có liên
quan đến tôn giáo như: việc giao thêm đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất,
xây dựng, sửa chữa công trình tôn giáo. Đồng thời, gặp gỡ, trao đổi, hướng
dẫn, giúp đỡ tổ chức, cá nhân, các tôn giáo trong sinh hoạt, hoạt động tôn giáo
đảm bảo theo đúng quy định pháp luật. Sở cũng có văn bản đề nghị UBND
các huyện, thành, thị quan tâm chỉ đạo Phòng Nội vụ phối hợp với chính
quyền cấp cơ sở hướng dẫn, quản lý, tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức các
nghi lễ tôn giáo theo đúng chương trình đăng ký, đúng pháp luật.
Cùng với các hoạt động quản lý đất đai xây dựng cơ sở tín ngưỡng, tôn
giáo, quản lý lễ hội, quản lý và bảo vệ các di tích, di vật, cổ vật, công tác bảo
đảm an ninh tín ngưỡng, tôn giáo luôn được chú trọng. Trong thời gian qua,
ngành Công an đã nắm tình hình sinh hoạt, hoạt động của các tôn giáo và làm
tốt công tác đảm bảo an ninh tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn. Chủ động
phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn kịp thời hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn
giáo gây mất an ninh trật tự. Chính vì vậy, thời gian qua, không có việc phức
tạp hoặc điểm nóng về an ninh trật tự có liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo.
Thực hiện Thông báo số 150- TB/TW ngày 25/12/2013 của Ban Bí thư “về
xây dựng cốt cán phong trào trong tôn giáo”, MTTQ và các đoàn thể chính trị
49
- xã hội các cấp trong tỉnh tiếp tục quan tâm, chú trọng xây dựng lực lượng
cốt cán phong trào trong tôn giáo, tạo điều kiện để các cốt cán trong tôn giáo
tham gia Ban chấp hành các tổ chức thành viên của MTTQ và tham gia ủy
viên Ủy ban MTTQ các cấp. Hiện nay, toàn tỉnh có 651 cốt cán phong trào
trong tôn giáo, đã có gần 140 người là ủy viên Ủy ban MTTQ các cấp, 31
người tham gia BCH Hội LHPN các cấp; BCH Hội Nông dân có 36 người; 30
người tham gia BCH Hội CCB...
Phóng sự “Đừng lợi dụng tôn giáo làm điều trái đời, ngược đạo” đăng
trên trang thông tin của Đài PT&TH tỉnh Vĩnh Phúc ngày 19/6/2019 có đoạn:
“Hoạt động tôn giáo là hoạt động truyền bá tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo và
quản lý tổ chức của tôn giáo. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định:
“Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi
người; bảo đảm để các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật” (Điều 3), đồng
thời khẳng định các hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo bị nghiêm cấm:
“Xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn xã hội
(TTATXH), môi trường; xâm hại đạo đức xã hội; xâm phạm thân thể, sức
khỏe, tính mạng, tài sản; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác; cản
trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân” và “lợi dụng hoạt động tín
ngưỡng, hoạt động tôn giáo để trục lợi” (Điều 5). Tuy nhiên, thời gian qua,
bất chấp pháp luật, đã có một số chức sắc, tín đồ lợi dụng chính tôn giáo xâm
phạm an ninh chính trị, TTATXH, vi phạm đạo đức, vi phạm giáo lý, giáo
luật và đi ngược với truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc Việt Nam”. Bài
viết khẳng định: “Nhà nước Việt Nam tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của
người dân nhưng cũng nghiêm cấm việc lợi dụng hoạt động tôn giáo để lừa
đảo, mua chuộc, dụ dỗ, xâm hại đến quyền và lợi ích của công dân, gây ảnh
hưởng đến TTATXH. Thực hành tôn giáo đúng nghĩa luôn được xây dựng
trên cơ sở thượng tôn pháp luật, tôn trọng, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng
của người khác, của xã hội. Mỗi tín đồ tôn giáo cũng đồng thời là công dân
50
Việt Nam, khi thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cần phải thực hiện
nghĩa vụ công dân trên cơ sở pháp luật, không tôn giáo nào được phép đứng
ngoài hoặc đứng trên lợi ích quốc gia, dân tộc. Pháp luật Việt Nam nghiêm
cấm lợi dụng tôn giáo xâm phạm an ninh chính trị, TTATXH, vi phạm quyền
và lợi ích hợp pháp của nhà nước và công dân hay lợi dụng danh nghĩa tôn
giáo để trục lợi phi pháp, trái thuần phong mỹ tục, trái đạo đức, trái giáo lý.
Chắc chắn những kẻ lợi dụng tôn giáo để thực hiện hành vi phi tôn giáo, làm
ô danh tôn giáo, gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc sẽ bị nghiêm trị theo
pháp luật. Vì vậy, mỗi chức sắc, tín đồ và người dân hãy đề cao cảnh giác, kịp
thời tố giác, ngăn chặn hành vi của các đối tượng lợi dụng tôn giáo để vi
phạm pháp luật; đó cũng là phương cách để bảo vệ chính mình, bảo vệ xã hội
và chính là bảo vệ các tôn giáo chân chính đang hoạt động bình thường trên
đất nước Việt Nam”.
2.2.2. Phản ánh tình hình „tốt đời đẹp đạo‟ trong hoạt động tôn giáo tại
tỉnh Vĩnh Phúc
Những năm qua, báo Vĩnh Phúc phản ánh các tín ngưỡng, tôn giáo trên
địa bàn tỉnh hoạt động theo đúng quy định của Nhà nước và luôn đồng hành
cùng các cấp, các ngành để phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần của quần chúng tín đồ. Các tín đồ vùng tôn giáo tích cực tham
gia phong trào "Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc", góp phần đảm bảo an ninh
trật tự ở cơ sở. Để đảm bảo tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, các cấp
ủy Đảng, chính quyền trong tỉnh đã và đang triển khai thực hiện tốt các chỉ
thị, nghị quyết của Trung ương về công tác tôn giáo: Nghị quyết số 25 của
BCH Trung ương (khóa IX) về công tác tôn giáo; Nghị định số 92 của Chính
phủ về Quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn
giáo; Thông tư liên tịch giữa Bộ VH-TT&DL - Bộ Nội vụ về Hướng dẫn việc
thực hiện nếp sống văn minh tại các cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo... Ban
Tôn giáo, Sở Nội vụ chủ động phối hợp với cơ quan, đơn vị tuyên truyền, phổ
51
biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước liên
quan về tôn giáo đến chức sắc, chức việc, tín đồ các tôn giáo trên địa bàn; vận
động họ nêu cao tinh thần cảnh giác, không tham gia tuần hành do các đối
tượng cực đoan phát động. Qua công tác tuyên truyền đã nâng cao nhận thức
của xã hội, đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị ở các cấp về tín ngưỡng,
tôn giáo, thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Chất lượng, hiệu quả công tác quản lý Nhà
nước về tôn giáo từng bước được nâng cao. Các cấp, các ngành, địa phương
tăng cường thăm nắm tình hình sinh hoạt, hoạt động tôn giáo tại một số cơ sở
thờ tự các tôn giáo cũng như hướng dẫn thực hiện và giải quyết các hoạt động
tôn giáo theo quy định của pháp luật; thường xuyên, chủ động rà soát, kiểm
tra, tập trung giải quyết theo thẩm quyền các vụ việc liên quan đến tôn giáo
như việc cấp, giao giấy CNQSD đất cho cơ sở tôn giáo quản lý theo quy định;
xây dựng công trình tôn giáo; hướng dẫn một số Ban Trị sự Giáo hội Phật
giáo cấp huyện giải quyết các vụ việc tôn giáo xảy ra trên địa bàn...
“Liên hoan Tiếng hát thanh niên dân tộc thiểu số, tín đồ tôn giáo tỉnh
Vĩnh Phúc” (báo điện tử Vĩnh Phúc ngày 13/8/2018) khẳng định: Tham gia
liên hoan, có 9 đội đến từ các đơn vị: Vĩnh Yên, Phúc Yên, Tam Dương, Bình
Xuyên, Tam Đảo... Các đội mang đến liên hoan nhiều tiết mục văn nghệ gồm
các thể loại: Song ca, hát múa minh họa, kịch múa... với nội dung ca ngợi
Đảng, Bác Hồ, ca ngợi tình yêu quê hương, đất nước, anh hùng dân tộc, các
bài hát về các dân tộc, tôn giáo... để lại trong lòng khán giả nhiều cảm xúc sâu
lắng. Chương trình Liên hoan Tiếng hát thanh niên dân tộc thiểu số, tín đồ tôn
giáo là ngày hội giao lưu giữa đoàn viên, thanh niên các dân tộc, tín đồ tôn
giáo trên địa bàn tỉnh; đồng thời, là dịp động viên, tuyên dương các bạn thanh
niên dân tộc thiểu số, tín đồ tôn giáo đã luôn nỗ lực, cống hiến và có những
đóng góp tích cực cho xã hội.
Nhiều bài viết không những khẳng định thành tựu quan trọng là chăm lo
52
quyền con người, trong đó quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng của Việt Nam
được người dân theo tôn giáo và không theo tôn giáo ở Việt Nam. Đảng và
nhà nước chú trọng xây dựng được niềm tin với nhân dân, tôn trọng, bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; hướng các chức sắc, chức
việc tôn giáo vào việc vừa phụng sự đạo giáo, vừa phục vụ sự hưng thịnh của
quốc gia, dân tộc. Để làm được điều đó phải dựa chắc vào dân, tổ chức liên
kết nhân dân thành một khối đoàn kết, thống nhất, phát huy dân chủ và sức
mạnh tổng hợp của nhân dân, nhất là trong đồng bào có đạo, định hướng cho
đồng bào luôn hành động theo mục tiêu sống tốt đời, đẹp đạo. Bên cạnh đó
phát huy vai trò của cấp ủy, chính quyền các địa phương, thực hiện tốt chính
sách phát triển kinh tế-xã hội mà trực tiếp là chính sách dân tộc, tôn giáo;
không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân trên
tất cả vùng, miền của Tổ quốc.
Nhiều bài viết đã mang đến cho độc giả thấy sự quan tâm của Đảng, Nhà
nước đến đời sống tôn giáo, đồng thời phản bác lại các quan điểm sai trái của
các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam, tuyên
truyền xây dựng, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc trong việc
thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ chủ quyền quốc gia,
đóng góp của nhân dân vì lợi ích quốc gia, dân tộc; ý thức cộng đồng trong
đời sống xã hội, trong bảo vệ tài nguyên, môi trường, bảo vệ sức khỏe cộng
đồng, hoạt động từ thiện và giải quyết những vấn đề xã hội quan tâm; tuyên
truyền đấu tranh với các hình thức lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hành nghề
mê tín, trục lợi, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
và đời sống nhân dân.
Tin bài: “Tôn giáo là nguồn lực quan trọng góp phần phát triển đất
nước” của đài PT – TH Vĩnh Phúc (ngày 28/10/2018) cho thấy các tôn giáo
luôn tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cùng chính quyền và Mặt
trận Tổ quốc các cấp xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, xây dựng nông thôn
53
mới, phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là cùng chung tay với nhà nước chăm
lo cho người có công, cứu trợ thiên tai, giúp đỡ người có hoàn cảnh khó khăn,
giúp tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục, dạy nghề, văn hóa… Báo Vĩnh Phúc
phản ánh nhiều điểm sáng địa phương như “Phú Xuân chú trọng công tác
tôn giáo” (báo điện tử Vĩnh Phúc, ngày 30/3/2018), hay “Công tác tôn
giáo ở Sông Lô” (báo Vĩnh Phúc, 11/12/2018)… Các bài báo phản ánh thời
gian qua, công tác tôn giáo luôn được Đảng bộ, chính quyền xã Phú Xuân
(Bình Xuyên) chú trọng thực hiện bằng những việc làm cụ thể, thiết thực, tạo
sự chuyển biến về tư tưởng, nhận thức của nhân dân trong xây dựng mối đoàn
kết lương - giáo. Qua đó, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,
tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân. Xã Phú Xuân có dân số khoảng 8.300
người, sinh sống tại 8 thôn. Toàn xã có hơn 1.000 hộ dân theo đạo Phật, 560
hộ dân theo đạo Thiên Chúa. Công tác tôn giáo luôn được Đảng bộ, chính
quyền xã coi trọng, quan tâm, thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo
đảm quyền tự do tín ngưỡng.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương, sự phối
hợp đồng bộ của MTTQ và các tổ chức đoàn thể, nhận thức về tôn giáo và
công tác tôn giáo ngày càng được nâng lên trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và
các tầng lớp nhân dân. Đảng bộ xã xây dựng và triển khai chương trình hành
động phù hợp với thực tế địa phương, nhằm làm tốt công tác vận động các tín
đồ, phật tử đồng hành xây dựng quê hương, đất nước. Các hoạt động tôn giáo
đều hướng đến phương châm “sống tốt đời đẹp đạo”, “sống phúc âm giữa
lòng dân tộc”, “kính chúa, yêu nước”. Công tác tuyên truyền được thực hiện
thường xuyên, góp phần hạn chế việc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt
động mê tín dị đoan, lôi kéo, kích động các phần tử chống phá Nhà nước.
Hàng năm, thông qua những ngày lễ lớn như: Lễ Phật đản, lễ hội chùa, Lễ
Giáng sinh, Đảng ủy, chính quyền đều thăm hỏi, tặng quà động viên các tăng
ni phật tử, đồng bào giáo dân. Qua đó, tuyên truyền, nâng cao nhận thức về
54
tôn giáo; đồng thời lắng nghe, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng chính đáng của
bà con phật tử, giáo dân để có những biện pháp kịp thời giải quyết, đáp ứng
những nguyện vọng chính đáng của họ.
Cùng với phong trào xây dựng NTM, địa phương tổ chức trùng tu, tôn tạo
các khu di tích; xây dựng cơ sở thờ tự... Nhờ vậy, các chức sắc, tín đồ cùng bà
con giáo dân luôn tin tưởng và thực hiện tốt mọi chủ trương chính sách của
Đảng, Nhà nước cũng như của địa phương. Ở Phú Xuân xuất hiện nhiều tấm
gương tiêu biểu như Hộ gia đình ông Hoàng Văn Lương hiến hơn 100m2 đất
nông nghiệp và nhiều ngày công để làm đường giao thông nông thôn, giao
thông nội đồng. Gia đình ông còn luôn chăm chỉ lao động sản xuất, phát triển
kinh tế trang trại, cho thu lãi trên 200 triệu đồng. Cùng với đó, đồng bào giáo
dân xã Phú Xuân chủ động tham gia các phong trào do MTTQ và các tổ chức
đoàn thể phát động như: Cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa ở khu dân cư; toàn dân chung sức xây dựng NTM; ủng hộ Quỹ Vì
người nghèo.... Từ sự vào cuộc tích cực của Đảng bộ, chính quyền, MTTQ và
các tổ chức đoàn thể xã Phú Xuân, các tín đồ, chức sắc tôn giáo và nhân dân
địa phương luôn thực hiện tốt chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước
về công tác tôn giáo, góp phần xây dựng địa phương ngày càng ổn định, phát
triển. Để nâng cao hiệu quả công tác tôn giáo, thời gian tới, xã Phú Xuân tập
trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về pháp
luật, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về
công tác tôn giáo cho quần chúng nhân dân; quan tâm hơn nữa đến công tác
tôn giáo, coi đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng; tập trung đào tạo, bồi
dưỡng, quy hoạch cán bộ là người có đạo; chú trọng nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần nhân dân...
Nội dung Báo Vĩnh Phúc phản ánh về Phật giáo, hầu hết các bài viết xuất
bản với mục tiêu đầu tiên là tuyên truyền Phật Pháp, Hoằng Pháp, Phật học…
cho công chúng. Trên báo Vĩnh Phúc và các chương trình trên Đài PT&TH
55
Vĩnh Phúc công tác này chiếm tới 70%. Đối với báo Vĩnh Phúc thì thông tin
được ưu tiên hàng đầu nên việc tuyên truyền Phật pháp, Hoằng pháp chỉ
chiếm hơn 30% (Tổng dung lượng phát hành nội dung về tôn giáo). Hiện nay
các bài viết trên Báo Vĩnh Phúc về Phật giáo không đơn thuần là thuyết giảng,
khô cứng mà được thổi vào đó hơi thở của cuộc sống. Vì thế tác phẩm đã đáp
ứng được yêu cầu thuyết pháp và cũng rất gần gũi với đời sống của độc giả.
Điều đó giúp cho việc tiếp nhận thông tin trở nên dễ dàng và tự nhiên hơn. Ví
như bài viết “Hóa giải những rắc rối trong quan hệ gia đình theo lời Phật
dạy” (Thích Giác Minh, số ngày 22/7/2018) trên đài PT – TH Vĩnh Phúc đưa
tới người dân thông điệp rằng: “Đạo Phật không chống lại đời sống hôn nhân
gia đình. Ngược lại, Đức Phật còn có những lời dạy thiết thực, giúp cho mọi
người có thể vượt qua được những khó khăn, rắc rối nhằm tạo dựng cuộc
sống gia đình hạnh phúc. Trong kinh Tăng Chi Bộ, phẩm Năm pháp, bài kinh
Người gia chủ, Đức Phật đã khuyên bảo những người con gái sắp về nhà
chồng rằng: Phải kính trọng và thương yêu chồng, kính trọng và đối xử hòa
nhã với cha mẹ chồng, kính trọng những người mà chồng mình kính trọng; lo
chu toàn công việc trong gia đình chồng, phải thông thạo các việc thuộc nữ
công gia chánh; biết quản lý và sắp đặt công việc nhà, quan tâm đến những
người làm công trong nhà, phân chia công việc phù hợp cho họ; không nên
nuôi dưỡng những ý nghĩ chống lại chồng, không nên thô lỗ, độc ác, cay
nghiệt đối với chồng, không nên tiêu xài hoang phí, bảo vệ và tiết kiệm tài sản
mà chồng đã kiếm được; luôn luôn ân cần và trong sáng cả trong tâm tưởng
lẫn trong hành động, chung thủy với chồng và không được ngoại tình trong tư
tưởng cũng như trong hành động; tế nhị trong lời nói và lễ phép trong hành
động, tử tế và siêng năng trong công việc; luôn quan tâm chăm sóc cho
chồng, biết dịu dàng, bình tĩnh và thấu hiểu chồng, chia sẻ hoặc động viên,
khuyên bảo chồng khi cần thiết. Đồng thời, Đức Phật còn khuyên các cô gái
nên tìm hiểu kỹ về chồng, biết tính cách, hành động, tính khí của chồng, sẵn
56
sàng giúp đỡ, cộng tác với chồng trong mọi công việc. Cùng với những lời
khuyên dành cho người nữ, Đức Phật còn nhấn mạnh rằng, người nữ đóng vai
trò rất quan trọng trong gia đình. Sự an vui, hạnh phúc và hòa thuận trong gia
đình là phần lớn phụ thuộc vào người phụ nữ”.
Những bài viết thuyết giảng Phật pháp về Vô Lượng nghĩa kinh vô lượng
nghĩa xứ Tam muội cũng đuợc viết lại cho dễ hiểu không xa dời cuộc sống
thường nhật hơn (Thích Trí Quản, Báo Vĩnh Phúc, 26/09/2918): “Nếu có việc
khó, nhưng ta nhận được tín hiệu của Phật, của Bồ tát hay của Long thiên, thì
cứ đi, mặc dù rất nguy hiểm, nhưng chúng ta sẽ hoàn toàn bình ổn. Tín hiệu
một mà chúng ta nhận là Phật bổ xứ chúng ta đến đó và chúng ta quyết tâm
làm việc đó, dù phải chết. Phật bổ xứ và ta quyết tâm, hai điều này gắn liền
với nhau. Người khác thấy sợ và tránh né, nhưng chúng ta không sợ. Tôi nghĩ
Phật bổ chúng ta đến làm, nếu ta chết thì xác thân này mất, nhưng chân linh ta
về với Phật; như vậy quá tốt, còn sợ làm sao tu. Hai là tín hiệu của Bồ tát, hay
lực Bồ tát gia bị. Các Bồ tát khuyến khích chúng ta rằng đây là việc tốt, nên
làm, các ngài sẽ giúp đỡ. Chúng ta nhận được tín hiệu này, tức có được lực
tác động của Bồ tát vô hình và chúng ta cũng quyết tâm làm, đồng thời có
người bạn hữu hình cũng đồng tình với mình, thì chết cũng làm. Ví dụ Hòa
thượng Quảng Đức tự thiêu vì ngài đã nhận được tín hiệu của Phật rồi, không
phải đến pháp nạn mới làm và ngài cũng nhận được sự đồng tình của Bồ tát
hiện tại là các bạn đồng tu”.
Nhìn chung, công tác hoằng pháp hiện nay không những hoạt động đúng
theo tôn chỉ và mục đích của Chánh pháp mà còn được vận dụng một cách
mềm mại, nhuần nhuyễn vào hiện thực cuộc sống. Tuy nhiên, việc phản ánh
tuyên truyền Phật pháp chỉ tập trung ở khu vực đô thị. Tác giả đã gặp gỡ và
trao đổi cùng TT.Thích Bảo Nghiêm Phó Chủ tịch HĐTS kiêm Trưởng ban
Hoằng pháp T.Ư GHPGVN (Thiện Đức, Báo Vĩnh Phúc, 04/02/2019): “Việc
Hoằng Pháp chưa triển khai, phân bổ các giảng sư đến giảng tại các tỉnh thành
57
thuộc vùng sâu, vùng xa hoặc các tỉnh thành thiếu giảng sư. Đối với tài liệu
thuyết giảng chính thức của Ban Hoằng pháp cũng chưa được biên soạn, việc
hướng dẫn giảng dạy tại các lớp giáo lý chưa được đồng bộ, thiếu hẳn lực
lượng giảng sư. Để khắc phục những nhược điểm trên, Ban Hoằng pháp sẽ có
kế hoạch hoạt động cụ thể trong chương trình hoạt động năm 2009”. Các bài
viết ghi lại những buổi thuyết giảng hay tại các giảng đường, các đạo tràng tu
Bát quan trai, các khóa tu Phật thất, một ngày an lạc, các lớp giáo lý tại các
tự, viện trong cả nước… cũng được đăng tải trên tờ báo Vĩnh Phúc và Đài
PT&TH Vĩnh Phúc.
2.2.3. Những bất cập trong hoạt động tôn giáo ở tỉnh Vĩnh Phúc
Giống như các phương tiện thông tin đại chúng khác. Báo Vĩnh Phúc, Đài
PT - TH Vĩnh Phúc luôn tìm cách đáp ứng nhu cầu thông tin của xã hội.
Trong quá trình phát triển của lịch sử, bất cứ nền báo chí nào cũng phục vụ
cho giai cấp, xã hội đã sinh ra nền báo chí đó. Báo chí Vĩnh Phúc, Đài PT -
TH cũng như vậy. Mọi hoạt động của báo Vĩnh Phúc, Đài PT - TH Vĩnh Phúc
cũng nhằm để phục vụ cho công cuộc xây dựng và bảo về đất nước trong mọi
thời kì.
Tuy nhiên, bên cạnh Báo Vĩnh Phúc, Đài PT - TH Vĩnh Phúc đưa tin về
vấn đề Tôn giáo trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đầu năm 2019, gần đây nhất, báo
vietnamnet.vn/vn/thoi-su cũng đã đăng tải thông tin về nhân vật trong Phật
giáo là vụ việc nhà sư Thích Thanh Toàn ở chùa Nga Hoàng (huyện Tam
Đảo, Vĩnh Phúc) bị tố có hành vi không chuẩn mực (gạ tình một nữ phóng
viên) đã làm dậy sóng dư luận xã hội về vấn đề tôn giáo.
Từ sự vào cuộc của báo chí, các cơ quan quản lý nhà nước, Giáo hội Phật
giáo Việt Nam, Giáo hội Phật giáo tỉnh Vĩnh Phúc đã làm sáng tỏ sự thật về
nhà sư Thích Thanh Toàn có hay không khối tài sản, đất đai với giá trị hàng
trăm tỷ đồng… Ban trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Vĩnh Phúc đã
quyết định đình chỉ chức vụ trụ trì chùa Nga Hoàng của Đại đức Thích Thanh
58
Toàn, theo đúng quy định của hiến chương, giáo luật của Giáo hội. Việc đình
chỉ chức vụ trụ trì chùa Nga Hoàng chỉ là hình thức xử lý bước đầu đối với
những sai phạm của Đại đức Thích Thanh Toàn...
Bài “Từ hội thánh Đức Chúa Trời Mẹ: Cảnh giác các hệ phái tôn giáo
mới” (báo điện tử Vĩnh Phúc ngày 29/4/2018) đã chỉ rõ: “Ứng xử với các hệ
phái tôn giáo mới có dấu hiệu biến tướng cần phải thận trọng, tìm hiểu
nguyên nhân sâu xa để giúp người dân nhận thức, phân biệt tôn giáo chính
thống với tà đạo - như “Hội thánh Đức Chúa Trời Mẹ”.
Thông tin về tổ chức tự xưng mang tên “Hội thánh Đức Chúa Trời Mẹ”
thời gian gần đây khiến dư luận lo lắng về một hệ phái tôn giáo mới với hình
thức truyền đạo có dấu hiệu lệch lạc về văn hóa, trái thuần phong mỹ tục của
Việt Nam. Câu chuyện về các hệ phái tôn giáo mới hoặc tự xưng không còn lạ
ở Việt Nam khi trước đó cơ quan chức năng từng phát hiện, làm rõ và xử lý
nhiều cá nhân liên quan đến các tà đạo như hội, nhóm “Hội Tiên Rồng”,
“Long Hoa Di Lặc”, “Hội Tâm Linh”, “Giáo Hội Lạc Hồng”, “Hà Mòn”. Tà
đạo ở đây được hiểu là những đạo lạ, không chính thống, không được pháp
luật thừa nhận.”.
Thực tế hoạt động của các hội, nhóm tà đạo thường do một số cá nhân lợi
dụng để trục lợi, gây ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống kinh tế - xã hội của
người dân. Về kinh tế, người tham gia các hội, nhóm này bị xáo trộn cuộc
sống, sinh hoạt hằng ngày. Nhiều người bỏ việc để theo các hội, nhóm với
giáo lý được truyền bá phản khoa học như “không làm vẫn giàu sang”. Trước
những diễn biến phức tạp của các hệ phái tôn giáo mới có dấu hiệu biến
tướng, Ban Tôn giáo Chính phủ kêu gọi người dân nâng cao nhận thức và
cảnh giác đối với các hoạt động dụ dỗ, lôi kéo bằng vật chất và những lời
tuyên truyền lừa đảo về ngày tận thế, về sự cứu rỗi của đấng linh thiêng bằng
việc nộp tiền, từ bỏ cuộc sống hiện thực; từ bỏ gia đình, công việc...
Dưới góc nhìn của Phật giáo, Báo Vĩnh Phúc, Đài PT&TH Vĩnh Phúc đã
59
đăng, phát lại của Đài truyền hình Việt Nam về Đại Lễ Phật Đản LHQ Vesak
2019 với Chủ đề là “Cách tiếp cận của Phật giáo về sự lãnh đạo toàn cầu và
trách nhiệm cùng chia sẻ vì xã hội bền vững” cho thấy tầm vóc và ý thức
trách nhiệm cao cả của Phật giáo trước tình hình biến động của thế giới trên
nhiều phương diện đời sống, qua đó cho thấy thái độ tích cực cũng như niềm
tin về khả năng góp phần hóa giải những vấn nạn thời đại của Phật giáo ngày
càng được khẳng định. Thông điệp của Đại lễ Vesak Liên hợp quốc 2019 tại
Việt Nam kêu gọi lãnh đạo Phật giáo thế giới hãy đoàn kết và dấn thân hành
động nhập thế, chia sẻ các giải pháp trị liệu đối với các thách thức xã hội
trong thời đại của chúng ta.
Qua đó ta có thể nhận thấy rằng Báo Vĩnh Phúc và Đài PT – TH Vĩnh
Phúc thông tin về vấn đề Phật giáo cũng góp phần khơi gợi tinh thần yêu
nước, lòng tự hào dân tộc và tuyên truyền tình yêu thương bác ái giữa con
người với con người. Vì thế, Báo Vĩnh Phúc và Đài PT – TH Vĩnh Phúc
thông tin vấn đề Phật giáo cũng không thể trái ngược với tinh thần của Hiến
pháp, Pháp luật Nhà nước, hay chống lại đường lối, chính sách của Đảng
Cộng sản hay phủ nhận truyền thống lịch sử, đạo lý của dân tộc.
Báo Vĩnh Phúc và Đài PT – TH Vĩnh Phúc cũng phải thừa nhận rằng các
bài viết của các nhà tu hành Phật giáo gửi đến đăng nói chung đã thể hiện rõ
tính năng động trong quá trình hội nhập. Tính năng động động được thể hiện
trong quá trình hội nhập đó là “Mối quan hệ giữa Phật Giáo và Nhà Nước qua
các triều đại, qua các thời kì, bao giờ cũng song hành cùng nhau tồn tại và
phát triển… Ngày nay đất nước đang trên đà phát triển và hội nhập vào nền
kinh tế thị trường thế giới. Đời sống sinh hoạt của Phật Giáo cũng theo xu
hướng toàn cầu hóa mà vận hành. Huống chi thuộc tính của Phật Giáo là
duyên khởi tính, vì thế Phật Giáo cũng năng động uyển chuyển trong quá
trình hội nhập trên mọi phương diện. Vấn đề là trong quá trình hội nhập, Phật
Giáo vẫn giữ sắc thái riêng của Phật Giáo , của dân tộc nhưng đồng thời cũng
60
mang những đặc tính chung của cộng đồng quốc tế, nhân loại” (Thích Thiện
Hạnh, Tính năng động của Phật Giáo Việt Nam trong quá trình toàn cầu hóa,
Báo Vĩnh Phúc điện tử, 12/8/2019). Bằng pháp luật và những chính sách cụ
thể, Nhà nước Việt Nam luôn cố gắng để tạo ra một môi trường thuận lợi cho
đời sống sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo, đồng thời tạo điều kiện cho cộng
đồng các tôn giáo góp sức mình vào công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển
đất nước. Ngày 19/4/1999, Chính phủ đã ra Nghị định số 26/1999/NĐ/CP
“Về các hoạt động tôn giáo”. Nghị định gồm 3 chương với 29 điều, bao gồm
các quy định chung, quy định cụ thể và các điều khoản thi hành đối với tất cả
các hoạt động, sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo trên đất nước Việt Nam. Trước
và sau Nghị định trên đã có hàng loạt các Nghị định, Thông tư, Quyết định…
của các cấp ngành liên quan về vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo hay là đối với
từng tôn giáo riêng rẽ như: Sắc lệnh về tôn giáo 239-SL (ngày 14/6/1955);
Nghị quyết 297/CP (ngày 11/11/1977); Quyết định số 83/BT (ngày
29/12/1981); Nghị định số 06/1999/NĐ/CP (ngày 10/4/1999); Thông tư số
03/1999/TT/TGCP (ngày 16/6/1999);… Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo số
02/2016/QH14. Tất cả những điều đó nhằm từng bước hoàn thiện hệ thống
pháp luật, chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo của Nhà nước Việt Nam, theo
đúng tinh thần Hiến pháp và đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Đại diện Phật giáo cũng khách quan bình luận những vụ việc liên quan
đến những hoạt động đúng đắn cũng như chưa đúng của mình.
Trong bài viết “Thấy gì qua vụ việc ở Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Vĩnh
Phúc” (Như Hiền, Báo Vĩnh Phúc, 6/2018) khảng khái nhận định: “Trung
ương Giáo hội có phần thiếu quan tâm, thiếu sự tìm hiểu cẩn thận về sự việc
nên đã có các văn bản ủng hộ Ban trị sự GHPG tỉnh Vĩnh Phúc (thực ra là cá
nhân Thượng Tọa Thích Minh Trí). Hòa thượng Trưởng Ban trị sự Tỉnh hội
đã tuổi cao, lại ở xa trụ sở của Ban trị sự, thiếu sự lãnh đạo tối thiếu đối với
Ban trị sự GHPG tỉnh Vĩnh Phúc, nên Hòa thương không nắm rõ nội dung các
61
văn bản trình ký, đã để cho một nhóm các nhà tu hành tự tung, tự tác miễn
nhiệm cả chức danh Phó trưởng Ban Thường trực, tự ý tổ chức Đại hội cấp
huyện và dựng lên một bộ máy Ban trị sự cấp huyện mới gây ra nhiều kiến
nghị, khiếu nại, thậm trí là cả vấn đề kiện cáo… Kết luận: Nêu lên sự việc
này, chúng tôi không có ý nhằm phê phán cá nhân mà chỉ mong sao cho Luật
nước, Luật đạo được nghiêm chỉnh thực hiện. Chúng tôi hoàn toàn không có ý
bênh vực ai, chỉ mong rằng nều thầy nào có sai phạm thì được xử lý đúng
Luật Đạo và Luật Đời. Mong sao tất cả đều giữ kỷ cương để Giáo hội được
vững mạnh, để Nhà nước không bị xuyên tạc là can thiếp quá sâu vào nội bộ
Phật Giáo, xứng đáng với niềm tin của quần chúng Phật tử”.
2.3. Hình thức chuyển tải thông tin
2.3.1. Ngôn ngữ thể hiện
Phong cách ngôn ngữ báo chí được thể hiện hàng ngày trên các báo, kênh
truyền hình. Tuy nhiên, tùy thuộc vào đặc điểm thể loại báo chí mà tác giả sử
dụng phong cách ngôn ngữ sao cho phù hợp. Để chuyển tải thông tin Phật
Giáo đến với công chúng phải đảm bảo độ chính xác, tính chất chuyên môn
cao, bài viết vừa mới mẻ, vừa sâu sắc về Phật Giáo. Không những vậy, các
bài viết cần dễ hiểu, mang tính chất đại chúng, phù hợp với khả năng tiếp
nhận đối với số đông công chúng. Báo chí luôn tận dụng triệt để các phong
cách ngôn ngữ khác nhau. Tuy nhiên phong cách ngôn ngữ văn chương vẫn
được sử dụng nhiều nhất trong các ấn phẩm Phật Giáo mà luận văn khảo sát.
Phong cách ngôn ngữ văn chương có 3 đặc điểm lớn:
- Ngôn ngữ văn chương có chức năng thẩm mỹ: cái đẹp ở đây không
phải tự sao chép, mô phỏng cái đẹp ngoài cuộc sống. Đó là cái đẹp
được tái tạo lại bằng ngôn ngữ trong hoạt động sang tạo của nghệ sỹ.
Nhiều bài viết đã sử dụng các từ thông dụng phù hợp với tâm lý, tình
huống…làm cho tính thẩm mỹ càng trở nên sinh động, đa dạng và có
62
sức cuốn hút diệu kỳ.
- Sử dụng toàn bộ các phương tiện ngôn ngữ của các phong cách khác
tạo nên sự đa dạng trong ngôn ngữ văn chương. Bởi thông qua các hình
thức nghệ thuật của ngôn ngữ mà công chúng có thể nhận thức đầy đủ
hơn, toàn diện hơn, khám phá các hiện tượng tự nhiên, xã hội một cách
sâu sắc hơn.
- Ngôn ngữ văn chương rất tôn trọng chuẩn mực. Nhưng nhiều khi chệch
chuẩn lại tạo ra bước đột phá mới mang dấu ấn riêng của tác giả.
Sử dụng ngôn ngữ Phật Giáo có tính chất đại chúng là điều không khó
nhưng đối với một số thuật ngữ mang tính chuyên ngành là một việc đòi hỏi
trình độ, kiến thức Đạo Phật phải rất vững. Các tác giả đưa những thuật ngữ
này vào bài viết một cách khéo léo, không gò ép sẽ tạo ra tính chuyên nghiệp
cho bài viết của mình. Ví dụ: Lý giải và làm rõ các vấn đề về Đạo Phật trong
đời sống xã hội cũng là một mảng nổi bật trong chuyên đề về Phật Giáo.
Nhiều người trăn trở với đức tin, với duyên Phật cũng sẽ cảm thấy vững tin
hơn với bài viết “Phật là tại tâm” đăng trên Báo Vĩnh Phúc điện tử,
24/12/2018, của tác giả Nguyễn Trung, tác giả đã sử dụng nhiều thuật ngữ
Phật Giáo trong bài và giải thích để người đọc có thể nắm bắt được ý nghĩa và
công dụng của thuật ngữ đó như: “Biết tâm là thấy Phật, tâm ấy tức Phật, Phật
ấy tức tâm. Niệm Phật tâm, Phật tâm niệm Phật, tự quản tự tâm biết Phật
trong tâm ta, không hướng bên ngoài kiếm tìm. Tâm ấy chính là Phật, Phật ấy
chính là tâm. Hiểu như thế chính tự tâm linh làm thầy giảng cho mình, là chỗ
nương tựa của mình. Hiểu như thế, đều có thể tu tại gia, tu tại chùa, tu thân
ngay trong ý nghĩ và việc làm đời sống hàng ngày của mình. Hiểu như thế
sống ở đâu mà không tu thân được?”….
Hay trên cả Báo Vĩnh Phúc và Đài PT – TH Vĩnh Phúc mà tác giả khảo
sát có vô số những thuật ngữ nhà Phật được sử dụng như “tướng nhục kế”,
“hoằng pháp”, “tịnh độ”….đây là điểm thuận lợi cho những người muốn mở
63
rộng kiến thực ngôn ngữ và Phật Giáo. Tuy nhiên, cả Báo và Đài hầu như
không có một lời giải thích nào cho những thuật ngữ mình đã nêu. Như thế rất
khó khăn cho những người mới đọc, mới xem lần đầu hay không có kiến thức
về Phật Giáo.
Khác với ngôn ngữ báo in, báo điện tử ngôn ngữ truyền hình là sự kết hợp
đa phương tiện: hình ảnh, âm thanh, ký tự, biểu bảng, biểu đồ. Như vậy, chất
liệu giao tiếp chính của truyền hình là: hình (cả hình ảnh động lẫn hình ảnh
tĩnh), âm thanh (gồm lời nói, tiếng động, âm nhạc) và chữ viết. VD: Trong tin
thời sự “Đại hội đại biểu Phật giáo tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ IV” trên Đài
Truyền hình Vĩnh Phúc, ngôn từ được dùng đúng nghĩa từ điển, không dùng
từ sai, từ tối nghĩa, từ mơ hồ về nghĩa. Từ ngữ trong tin tức biểu đạt chính xác
nội dung thông tin, diễn đạt đúng ý đồ của nhà báo, không để người nghe hiểu
sai, hiểu nhầm. Cách phát âm chuẩn tiếng phổ thông, đảm bảo lời nói trên
sóng được khán giả lĩnh hội rõ ràng nhất.
Tóm lại, mỗi chương trình có một đối tượng đích – khán giả mục tiêu.
Năng lực, sở thích, nhu cầu tiếp nhận thông tin, phong tục tập quán, tuổi tác,
trình độ văn hóa, tâm lý tiếp nhận, đặc điểm nghề nghiệp... của từng đối tượng
khán giả quyết định cách viết, cách đọc, nói của nhà báo. Trong chương trình
phát song, bài viết liên quan đến vấn đề tôn giáo, nhất là vấn đề Phật giáo, do
đối tượng tổng hợp, nhiều thành phần, lứa tuổi, trình độ, tôn giáo..., nên cách
sử dụng ngôn ngữ cần đảm bảo sự chân thành, gần gũi, đồng thời, vừa đảm
bảo sự trang trọng, lịch sự cần thiết.
2.3.2. Các thể loại chính được sử dụng
Phản ánh Phật sự trong nước và trên thế giới là loại tin bài rất phổ biến
trên báo về Phật giáo. Mục đích chính của loại bài này là thông tin nhanh,
ngắn gọn về những hoạt động, sự kiện, sự việc… của các tăng ni, Phật tử,
Phật Giáo trong tỉnh, trong nước và trên thế giới. Để người đọc có thể nắm
được tình hình Phật sự đang diễn ra khắp nơi, đồng thời thu nhận được những
64
ý kiến đánh giá sơ bộ của người viết về sự kiện đó. Nhằm giúp độc giả có cái
nhìn tổng quát về sự kiện, người viết thường sử dụng biệt pháp tường thuật và
bình luận là chủ yếu. Các bài viết thường có bố cục linh hoạt, không gò bó,
khuôn sáo, cứng nhắc, đơn giản và tương đối ổn định ở những phần là:
- Giới thiệu thời gian, địa điểm
- Kể lại nội dung diễn biến sự kiện chính
- Có thể đưa ra một vài nhận xét, đánh giá sơ bộ.
Các bài viết có nội dung như thế này thường rất gần gũi với thể loại tin,
phản ánh... Vì mục đích chính của nó là thông báo thông tin, do đó cách trình
bày diễn biến sự kiện không nhất thiết phải theo trình tự thời gian. Tác giả
tạm chia bố cục các bài viết về hoạt động Phật sự ra là 3 loại sau:
- Bố cục theo trình tự của sự kiện: tác giả trình bày các chi tiết theo diễn
biến chính của sự kiện. VD: “Đại hội đại biểu Phật Giáo tỉnh Vĩnh Phúc lần
thứ IV – Nhiệm kỳ 2017 - 2022” (Báo Vĩnh Phúc điện tử và Báo in,
13/9/2017) được trình bày theo trình tự thời gian của sự kiện. Khai mạc, diễn
biến, bế mạc rồi tới các hoạt động xung quanh đại hội.
- Bố cục theo trình tự giảm dần mức độ quan trọng của sự kiện. Đưa ra
những thông tin quan trọng nhất lên đầu, gây chú ý của độc giả. Tiếp đó là
mức độ quan trọng giảm dần.
- Bố cục xem kẽ các phần giới thiệu và bình luận. Đây là dạng bài viết có
chiều sâu, đi thẳng vào vấn đề chính là đi thẳng vào những vấn đề tăng ni, bạn
đọc quan tâm hơn là chọn giải pháp an toàn. Sau đó tác giả mới diễn giải các
vấn đề có liên quan.
Hay trong các tác phẩm thông tin về vấn đề Phật giáo của Báo Vĩnh Phúc
và Đài PT - TH Vĩnh Phúc thường xuyên sử dụng cách chuyển tải thông tin
bằng hình vẽ, ảnh, hình ảnh minh họa (gần 50% tổng dung lượng). Điển hình
để lý giải và làm rõ các vấn đề về Đạo Phật trong đời sống xã hội cũng là một
mảng nổi bật trong chuyên đề về Phật Giáo của Trần Ngọc Bảo đã có bản
65
dịch rất thành công với bài “Tìm hiều về sự sống và cái chết” đăng trên Báo
Vĩnh Phúc, 9/6/2019), đã sử dụng nhiều hình ảnh minh họa trong bài viết của
mình. Người đọc có cảm nhận gần gũi hơn với vấn đề mà bài biết truyền tải.
từ đó làm tăng thêm hiệu quả thông tin. …
Báo chí nói chung và Báo Vĩnh Phúc thông tin về vấn đề Phật giáo nói
riêng chính là tấm gương phản ánh cuộc sống xã hội, văn hóa, kinh tế… Tuy
nhiên Báo Vĩnh Phúc thông tin về vấn đề Phật giáo đã gửi thông tin về những
đề này tới khán giả dưới góc nhìn Phật Giáo. Báo Vĩnh Phúc thông tin về vấn
đề Phật giáo góp phần không nhỏ trong việc giáo dục tình yêu thương con
người, lòng tự hòa dân tộc, ý chí kiên cường bảo vệ tổ quốc hay đơn giản chỉ
là cuộc sống của mỗi người trong xã hội hiện đại này. Các bài viết về vấn đề
văn hóa, xã hội, kinh tế chiếm tới 25% trên báo chí Phật Giáo. Cũng giống
những dòng báo chí khác, Báo Vĩnh Phúc ủng hộ, ca ngợi những việc làm tốt
và chỉ ra những cái chưa được, đồng thời gợi ý những giải pháp cho vấn đề
đó, dưới góc nhìn Phật Giáo. Tuy nhiên, những bài viết này thường ở dạng
phản ánh vấn đề nào đó thuộc các lĩnh vực trên. Sau đó, liên hệ với lời Phật
dạy, kinh Phật, đạo đức Phật Giáo hay tâm thức Phật Giáo … điều đó khiến
cho người đọc có cái nhìn tích cực, bao dung hơn về mọi vấn đề trong cuộc
sống. Nét nổi bật bất của Báo Vĩnh Phúc thông tin về vấn đề Phật giáo hiện
nay là không chạy theo trào lưu “tin hot” (tin nóng, tin giật gân) nhằm câu
khách. Các bài viết thường chân phương, giảm dị mà rất thâm thúy, sâu sắc
với những triết lý Phật Giáo được vận dụng vào cuộc sống. Người viết chỉ
nhân chuyện sự kiện để nói về vấn đề tính “từ bi” trong hệ thống giáo dục
hiện đại. Khác hẳn những tờ báo khác, đôi khi họ khai thác triệt để những vụ
“hot” (nóng) để thu hút độc giả nhằm tăng số lượng phát hành.
Chuyên đề trên Báo Vĩnh Phúc thông tin về vấn đề Phật giáo, đặc biệt là
các tạp thường xuất hiện những bài viết mang tính chuyên đề dưới dạng:
phóng sự , ký sự dài kì, các bài giới thiệu kinh Phật, Tìm hiểu về lịch sử Phật
66
Giáo, giáo lý nhà Phật. Nó thường dùng để phản ánh, phân tích một vấn đề
lớn đang được xã hội quan tâm. Thông thường đây là thể loại bài thông tin
chính luận làm nội dung chính. Loại bài này có tần xuất đăng tải không cao,
chỉ chiếm khoảng 8%-10%. Để truyền tải nội dung, tác giả thường xác định
vấn đề được công chúng quan tâm. Sau đó khảo sát các tài liệu, tìm hiểu thực
tế, so sánh, liên hệ với giáo lý Phật Giáo và đưa ra những nhận xét nhất định.
Dung lượng của loại bài này không bị gò ép và giới hạn trong khuôn khổ hạn
hẹp. Bố cục của bài chuyên đề thường có 3 phần chính: Đặt vấn đề, giải quyết
vấn đề và kết luật. Tuy nhiên loại bài này có kết cấu co giãn, linh hoạt thuyết
phục công chúng không bằng lời lẽ bóng bẩy, hoa mỹ mà là bởi những thông
tin mới mẻ, sự chặt chẽ trong các luận điểm, mang tính khái quát cao với sự
phân tích sâu sắc…
Bên cạnh đó, những chi tiết thuộc về bối cảnh kèm theo những lời giải
thích khiến cho các bài viết trở nên thu hút hơn. Trong bài “Đời sống của
người tu hành nhà Phật” (Thích Đức Thiện, Chuyên mục Văn hóa, Báo Vĩnh
Phúc điện tử 15/1/2019). Bài viết dưới dạng tổng hợp có chèn thêm các đoạn
phỏng vấn theo kiểu hội thoại giữa người hỏi và người trả lời. Điều đó giúp
cho câu chuyện trở nên sinh động hơn với bối cảnh, cảm xúc và cả cuộc
phỏng vấn.
Tiểu kết chƣơng 2
Mặc dù vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng là một vấn đề nhạy cảm. Tuy nhiên,
báo chí đã tiếp cận thông tin một cách nhanh chóng, chính xác và đã lột tả
được những vấn đề gai góc nhất. Trên thực tế khảo sát các báo cho thấy tỷ lệ
lớn % các bài viết đa số là các dạng bài thông tin hoạt động của các tôn giáo;
một số rất ít các dạng bài phản ánh. Có thể thấy đây cũng là sự quan tâm chưa
đúng mức của các báo, các tòa soạn cũng như mảng đề tài này chưa được chú
trọng đúng mức.
Báo chí Phật giáo với nhiệm vụ phản ánh khách quan hiện thực, đưa ra
67
những nội dung thông tin có định hướng đúng đắn, chân thực, có tính thuyết
phục dư luận xã hội, hình thành dư luận xã hội của mình đã tích cực tham gia
cuộc đẩy mạnh chống những quan điểm sai trái, lợi dụng tôn giáo của các thế
lực thù địch, phản động. Nhưng với những hoạt động diễn biến phức tạp và
phát triển của tình hình tôn giáo thì báo chí vẫn chưa theo kịp.
Hiện nay, các bài viết về vấn đề tôn giáo của Báo Vĩnh Phúc, Đài PT - TH
Vĩnh Phúc chủ yếu vẫn theo tính thời vụ. Khi có sự kiện thì sẽ cho đăng một
loạt tin bài định hướng dư luận. Khi không có sự kiện tôn giáo nào nổi bật thì
đề tài tôn giáo lại bị bỏ trống. Việc tập trung vào một thời điểm như vậy sẽ
thu hút chú ý của dư luận vào vấn đề, nhưng sau sự kiện lại ngừng tuyên
truyền, phản ánh về vấn đề tôn giáo thì sẽ không đạt được hiệu quả truyền
thông, định hướng dư luận như mong muốn. Những thiếu sót này là cơ sở để
tác giả đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả về Tôn giáo trong thời gian
68
tới tại chương 3 của luận văn.
CHƢƠNG 3
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
CHẤT LƢỢNG THÔNG TIN TUYÊN TRUYỀN VỀ TÔN GIÁO
3.1. Đánh giá ƣu, nhƣợc điểm thông tin tuyên truyền về tôn giáo
3.1.1. Ưu điểm – Nguyên nhân
Xuất phát từ tình hình thực tế, vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo luôn
được Tỉnh uỷ; HĐND, UBND, UBMTTQ và các đoàn thể trong tỉnh đặc biệt
quan tâm, Ban Tôn giáo thuộc Sở Nội vụ đã chủ động tham mưu giúp Tỉnh
uỷ, UBND tỉnh quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn. Giúp Sở Nội vụ
chủ trì, phối hợp với các cấp, các ngành để giải quyết các vấn đề tôn giáo
đúng quy định của pháp luật, đồng thời xác định nhiệm vụ trọng tâm “Công
tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng”, tiếp tục đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, quán triệt các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương và của tỉnh,
tạo sự chuyển biến về nhận thức và thống nhất hành động của hệ thống chính
trị và quần chúng nhân dân về vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo. Tổ chức
tốt các hội nghị triển khai thực hiện tổng kết đánh giá kết quả về công tác tín
ngưỡng, tôn giáo Chương trình hành động của Chính phủ về công tác tôn
giáo; các chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về vấn đề tín ngưỡng tôn giáo. Ban
Tôn giáo phối hợp với Ban Trị sự Phật giáo tỉnh kiện toàn về mặt tổ chức Ban
đại diện Phật giáo ở các cấp, phối hợp với các cơ quan liên quan giải quyết
kịp thời, đúng quy định những vấn đề có liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo.
Thực hiện tốt công tác phối hợp với các cơ quan của Trung ương và của tỉnh
mở các lớp bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho chức sắc, chức việc, tín đồ tôn
giáo, kiến thức quản lý nhà nước về tôn giáo cho các cán bộ làm công tác tôn
giáo. Tổ chức các cuộc lễ, thăm, tặng quà và chúc mừng các ngày lễ của các
tín ngưỡng, tôn giáo. Thường xuyên gặp gỡ, trao đổi, động viên, nắm bắt tư
69
tưởng, nguyện vọng của các chức sắc tôn giáo và tín đồ tôn giáo, tạo được sự
nhất trí giữa cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo với các chức sắc tôn giáo.
Hướng dẫn tổ chức, cá nhân tôn giáo đăng ký sinh hoạt, hoạt động tôn giáo
trong và ngoài chương trình theo quy định của pháp luật. Động viên các chức
sắc, tín đồ tôn giáo tích cực tham gia vào các phong trào thi đua yêu nước.
Ban Tôn giáo chủ động giải quyết các vụ việc tôn giáo theo thẩm quyền, phối
hợp với các huyện, thành, thị nắm bắt và báo cáo kịp thời diễn biến tình hình
ở cơ sở, khảo sát nắm tình hình, thống kê các tổ chức tôn giáo trên địa bàn
trong thời gian qua được đẩy mạnh. Trên cơ sở nắm chắc tình hình hoạt động
của các tổ chức tôn giáo, công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn
giáo trên địa bàn đã được tăng cường và đi vào nề nếp, các hoạt động tôn giáo
đã cơ bản tuân thủ pháp luật và có những bước chuyển biến tích cực.
Thực hiện việc quản lý nhà nước về tôn giáo Ban Tôn giáo luôn chú trọng
thực hiện tốt nguyên tắc “Công việc nội bộ của tôn giáo do tổ chức tôn giáo
chủ động giải quyết theo Hiến chương, Điều lệ của tổ chức tôn giáo và các
quy định của pháp luật” như đào tạo, phong chức, phong phẩm, thuyên
chuyển, bổ nhiệm chức sắc, nhà tu hành, việc chia tách xứ, họ đạo. Tổ chức
các hội nghị, các cuộc tĩnh tâm, an cư kiết hạ, tổ chức giới đàn và các hoạt
động khác. Các cấp
Những năm qua, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn tỉnh luôn
được đảm bảo, duy trì, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đáp
ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân; tạo môi trường ổn định phục vụ sự
nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương.
Với việc triển khai đồng bộ từ công tác tuyên truyền, hướng dẫn thực hiện
các hoạt động tôn giáo, tham mưu giải quyết khiếu kiện, khiếu nại liên quan
đến tôn giáo và thực hiện hiệu quả các biện pháp đảm bảo an ninh trên lĩnh
vực tôn giáo...Vì vậy, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn tỉnh được
duy trì, giữ vững, góp phần tạo môi trường ổn định phục vụ sự nghiệp phát
70
triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương.
Hoạt động báo chí nói chung, công tác thông tin tuyền truyền trên các báo
Phật giao nói riêng đã góp phần vào thành công trong các nhiệm vụ chính trị
của Đảng, Nhà nước ta, trong đó phải kể đến thành công to lớn trong công tác
đối nội và đối ngoại mà ở đó có sự nỗ lực đóng góp của các tổ chức, cá nhân
tôn giáo, phù hợp với diễn biến tình hình kinh tế, chính trị xã hội trong nước
và trên toàn thế giới.
Hoạt động báo chí Phật giáo là hoạt động xã hội, nói cách khác là nghĩa
vụ xã hội của nó đối với cộng đồng, báo chí Phật giáo giúp phát hiện, nêu ra
và khơi dậy các vấn đề xã hội liên quan đến cộng đồng mà còn có khả năng
khơi dậy và tập hợp các nguồn lực xã hội tham gia giải quyết các vấn đề xã
hội. Báo chí Phật giáo phát hiện các sự kiện và vấn đề xã hội mà cộng đồng
quan tâm, kể cả những thân phận con người, những hoàn cảnh cần sự giúp
đỡ, chia sẻ từ cộng đồng cũng như vấn đề môi trường, dịch bệnh. Những
hoạt động xã hội trên đã nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình của các tổ chức,
cá nhân tôn giáo ở trong và ngoài nước như Giáo hội Phật giáo Việt Nam,
Hội đồng Giám mục Việt Nam cùng với chính quyền tham gia tuyên truyền
về việc thực hiện đúng quy định về luật an toàn giao thông, công tác từ thiện
xã hội của các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam rất tích cực giúp đỡ người nghèo
có hoàn cảnh khó khăn, người già neo đơn, trẻ khuyết tật, nhờ các phương
tiện báo chí, họ đã được các tổ chức tôn giáo cưu mang và giúp đỡ, các hoạt
động tôn giáo gắn với công tác xã hội, từ thiện, nhân đạo. Đại diện chức sắc
các tôn giáo ra thăm Trường sa, Giáo hội Phật giáo Việt Nam cử sư trụ trì
các chùa ngoài biển đảo, các tôn giáo lên tiếng phản đối Trung Quốc đưa
giàn khoan Hải dương 981 vào khu vực thềm lục địa chủ quyền của Việt
Nam, qua đó góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Những tấm gương sống tốt đời, đẹp đạo trong tín đồ, chức sắc, chức việc,
nhà tu hành của các tôn giáo ở mọi miền đất nước cũng được nhân rộng. Các
71
tổ chức tôn giáo còn chú trọng đào tạo qua việc học tập giáo lý tôn giáo,
truyền bá những giá trị đạo đức văn hóa tốt đẹp của các tôn giáo đến thế hệ
trẻ thông qua những lễ hội của các tôn giáo: Lễ Vu lan, lễ Phật đản của Phật
giáo truyền đi thông điệp về đạo hiếu trong xã hội hiện đại, Đại hội giới trẻ
Công giáo thế giới được tổ chức tại Hàn Quốc vào năm 2018 có sự tham gia
của giới trẻ Công giáo Việt Nam, Hội đồng Giám mục Việt Nam với vấn đề
biến đổi khí hậu, môi trường, Caritas Việt Nam và quốc tế của Công giáo
trong các hoạt động từ thiện, các hoạt động bồi linh, thông công, khóa huấn
luyện Chấp sự, Thánh Kinh hè dành cho thanh thiếu nhi của đạo Tin lành,
lớp hạnh đường dành cho chức sắc, lớp tập huấn đạo sự cho chức việc và các
ban lễ đồng nhi của tôn giáo Cao đài đều gắn bó đạo với đời. Như vậy nét
văn hóa tôn giáo không chỉ duy trì những giá trị văn hóa truyền thống các
tôn giáo mà còn luôn tiếp thu những văn hóa tinh hoa của nhân loại vừa để
bảo tồn, phát huy vừa làm phong phú bản sắc văn hóa dân tộc, hướng con
người đến các giá trị chân – thiện – mỹ, …. Tất cả các sự kiện, hoạt động xã
hội của các tổ chức, cá nhân tôn giáo từ cấp địa phương đến trung ương đều
được cơ quan báo chí phản ánh nhanh chóng kịp thời và chính xác, khi đó
các vấn đề xã hội có sự tham gia tích cực của các tổ chức, cá nhân tôn giáo
đã góp phần tháo gỡ một phần khó khăn cho xã hội, cùng với mọi tầng lớp
nhân dân lập nên những kỳ tích trong công cuộc đổi mới đất nước.
3.1.2. Nhược điểm – Nguyên nhân
Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về tín ngưỡng, tôn
giáo chưa có sự phối hợp thống nhất, đồng bộ giữa các cơ quan, đơn vị liên
quan với cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo nên hiệu quả
tuyên truyền chưa cao. Chưa có sự kiểm tra, theo dõi, đôn đốc của cơ quan
có thẩm quyền nên nhiều nội dung liên quan đến tôn giáo chưa được các
sở, ngành, UBND cấp huyện quan tâm thực hiện, có nội dung UBND tỉnh
yêu cầu thời gian trả lời nhưng các ngành, đơn vị liên quan chưa nghiêm
72
túc thực hiện.
Có nội dung cơ quan chủ trì xin ý kiến nhưng cơ quan, đơn vị phối hợp
chưa quan tâm trả lời hoặc có trả lời nhưng chất lượng nội dung tham gia
chưa đảm bảo. Tỉnh chưa có quy định trách nhiệm của người đứng đầu các cơ
quan, đơn vị để xảy ra các vụ việc phức tạp liên quan đến tín ngưỡng, tôn
giáo. Các cấp, ngành chức năng chưa có kế hoạch phối hợp trong thanh tra
kiểm tra xử lý vi phạm lĩnh vực chuyên ngành liên quan đến tín ngưỡng, tôn
giáo nên hiệu lực, hiệu quả quản lý chưa cao...
Nhằm khắc phục những tồn tại, bất cập trong công tác phối hợp thực hiện
nhiệm vụ liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo, ngày 7/9/2018, UBND tỉnh đã ban
hành Quyết định số 19 kèm theo Quy định trách nhiệm phối hợp trong công
tác quản lý Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn tỉnh. Quyết định có
hiệu lực từ ngày 15/9/2018.
Theo đó, tùy theo chức năng, nhiệm vụ được giao, các cấp, ngành chức
năng có trách nhiệm phối hợp thực hiện tốt các nội dung như: Tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo đến các cấp, ngành, cán
bộ, đảng viên, nhân dân và đồng bào có đạo; quản lý về sinh hoạt, hoạt động
tín ngưỡng, tôn giáo; quản lý cơ sở tín ngưỡng đã được xếp hạng di tích; quản
lý các hoạt động tín ngưỡng, các nguồn thu tại cơ sở tín ngưỡng đã được xếp
hạng di tích; giải quyết hồ sơ xin giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho cơ sở tôn giáo; giải quyết hồ sơ cấp giấy phép phòng cháy, chữa
cháy các công trình tín ngưỡng, tôn giáo; giải quyết hồ sơ cấp giấy phép xây
dựng công trình tín ngưỡng, tôn giáo; quản lý các hoạt động y tế, giáo dục,
bảo trợ xã hội, từ thiện, nhân đạo, dạy nghề của tổ chức, cá nhân tôn giáo;
quản lý hoạt động tôn giáo có yếu tố nước ngoài; giải quyết các vụ việc đơn
thư, khiếu nại, tố cáo liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo; nhà đất liên quan
đến tôn giáo và phối hợp trong thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm về sinh hoạt,
73
hoạt động, đất đai, xây dựng, phòng chống cháy nổ, y tế, giáo dục, bảo trợ xã
hội, từ thiện, nhân đạo, dạy nghề, quản lý di tích liên quan đến tín ngưỡng,
tôn giáo. Qua đó, tạo điều kiện cho các tôn giáo sinh hoạt, hoạt động theo
hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận,
quy định rõ trong các quy định của pháp luật.
Nhìn tổng thể, quy hoạch phát triển hệ thống báo chí nói chung, báo Phật
giáo nói riêng chưa thật sự khoa học, cho nên còn những bộ phận chưa hợp lý,
chồng chéo nhiệm vụ, gây lãng phí nguồn lực xã hội. Có lúc, có nơi, sự chỉ đạo
của cấp ủy đảng, sự quản lý của cơ quan nhà nước chưa theo kịp tốc độ phát
triển và tình hình thực tế của báo chí. Một số cơ quan báo chí sa đà khi thông
tin các mặt tiêu cực của đời sống tôn giáo, chưa chú ý đúng mức việc phát hiện,
cổ vũ, nhân rộng những nhân tố mới, điển hình tiên tiến, những mặt tích cực
của xã hội; hoặc có biểu hiện thương mại hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích, chưa
làm tốt chức năng định hướng tư tưởng và dư luận xã hội về tôn giáo và tín
ngưỡng. Trong thực tiễn, vẫn còn một số đối tượng bất mãn hoặc thù địch
chống phá chế độ, chống phá đất nước từ bên trong và bên ngoài lợi dụng tôn
giáo tung thông tin sai trái, xấu độc lên mạng xã hội, bóp méo sự thật, xuyên
tạc đường lối, quan điểm của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn
giáo. Những thông tin này là những tác nhân gây nhiễu về tư tưởng, văn hóa,
ảnh hưởng xấu đến sự đồng thuận trong nhân dân và đồng bào có đạo.
3.2. Những vấn đề đặt ra đối với việc truyền thông về tôn giáo trên địa
bàn tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc là tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, cửa ngõ của Thủ
đô, gần sân bay Quốc tế Nội Bài, là cầu nối giữa các tỉnh phía Tây Bắc với Hà
Nội và đồng bằng châu thổ sông Hồng, do vậy tỉnh có vai trò rất quan trọng
trong chiến lược phát triển kinh tế khu vực và quốc gia.
Là tỉnh có bề dày truyền thống yêu nước và cách mạng, truyền thống đó
được phát huy cao độ trong sản xuất, chiến đấu. Từ khi có sự lãnh đạo của
74
Đảng Cộng sản Việt Nam, nhiều tên làng và cá nhân ở Vĩnh Phúc đã in đậm
những chiến công được cả nước biết đến, tiêu biểu như chiến thắng Khoan Bộ,
Xuân Trạch, Núi Đinh, anh hùng liệt sỹ Nguyễn Viết Xuân với câu nói bất hủ
“Hãy nhằm thẳng quân thù mà bắn; Vĩnh Phúc còn được các địa phương biết
tới là nơi khởi nguồn của đổi mới tư duy quản lý nông nghiệp - nông thôn, với
phương thức “khoán hộ” táo bạo vào cuối những năm 60, 70 của thế kỷ XX, đó
là bước đi mang tính đột phá, tạo cơ sở thực tiễn cho đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế nông nghiệp, nông thôn và nông dân của Đảng ta sau này.
Đặc biệt, sau hơn 20 năm tái lập, Vĩnh Phúc đã đạt được nhiều thành tựu
quan trọng và đáng tự hào. Từ một địa phương thuần nông trở thành tỉnh có
giá trị sản xuất công nghiệp lớn, là trung tâm sản xuất ô-tô, xe máy hàng đầu
của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cả nước. Hệ thống hạ tầng kỹ thuật
được đầu tư, nâng cấp theo hướng hiện đại. Các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn
hóa, thông tin có nhiều chuyển biến; an ninh quốc phòng được tăng cường,
trật tự an toàn xã hội được giữ vững; tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt
15,37%/năm; thu ngân sách tăng nhanh, từ 100 tỷ đồng năm 1997 lên gần 33
nghìn tỷ đồng năm 2018, vượt 11% dự toán và tăng 13,75% so với năm 2017.
Vĩnh Phúc có tiềm năng lớn về tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn.
Cho đến nay, đất Vĩnh Phúc vẫn mang đậm dấu ấn của văn hóa Hùng Vương
và Kinh Bắc, Thăng Long, của nền văn hóa dân gian đặc sắc, của khoa bảng,
với lối sống xã hội và chuẩn mực đạo đức luôn được giữ gìn và phát huy. Tại
đây có một quần thể danh lam, thắng cảnh tự nhiên nổi tiếng: rừng Quốc gia
Tam Đảo, thác Bản Long, hồ Đại Lải, hồ Làng Hà... Nhiều lễ hội dân gian
đậm đà bản sắc dân tộc và rất nhiều di tích lịch sử, văn hóa mang đậm dấu ấn
lịch sử và giá trị tâm linh như danh thắng Tây Thiên, Tháp Bình Sơn, Đền thờ
Hai Bà Trưng, Đền thờ Trần Nguyên Hãn, Di chỉ Đồng Đậu...
Theo khảo sát, thống kê của các ngành chức năng, trên địa bàn tỉnh đang
diễn ra các hoạt động của nhiều loại hình tôn giáo. Đối với đạo Phật, hiện nay
75
Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh có 343 tăng, ni với trên 400 cơ sở thờ tự.
Trong đó, có 125 cơ sở có sư trụ trì và kiêm trụ trì; 14 chùa được xếp hạng di
tích cấp Quốc gia; 88 chùa xếp hạng di tích cấp tỉnh. Số lượng tín đồ của đạo
Phật trên địa bàn có gần 140.000 người. Với đạo Công giáo, toàn tỉnh hiện có
12 xứ, 47 nhà thờ xứ, họ đạo, 12 linh mục và có trên 22.000 tín đồ. Chi hội
Thánh Tin lành Phúc Yên thuộc Đạo Tin lành được tổ chức sinh hoạt hàng tuần
do Mục sư Nguyễn Văn Long phụ trách có khoảng 40 tín đồ. Các điểm nhóm
Tin lành tại các huyện: Lập Thạch, Tam Dương, Vĩnh Tường và thành phố
Vĩnh Yên chưa đủ điều kiện công nhận điểm nhóm hoạt động ổn định tại gia.
Đạo Tin lành hiện nay ở Vĩnh Phúc có 01 Chi hội thánh Tin lành Phúc
Yên thuộc Chi hội Thánh Tin lành Miền Bắc với 40 tín đồ; có 04 thành viên
Ban chấp sự; 01 Mục sư quản nhiệm (Mục sư Nguyễn Văn Long phụ
trách từ tháng 4/2018).
Về Đạo lạ: Tính đến thời điểm hiện tại, tỉnh Vĩnh Phúc có 07 loại đạo lạ
hoạt động là Tâm linh Hồ Chí Minh ( đạo Nguyễn Điền), Long Hoa Di
Lặc, Hội Tiên Rồng, Hội Tâm linh, Giáo hội Lạc Hồng, Pháp Luân Công và
Đoàn 18 Phú Thọ. Số lượng cụ thể của các loại đạo lạ là: Tâm linh Hồ Chí
Minh (đạo Nguyễn Điền) có 233 người có ở hầu hết các huyện, thành, thị;
Long Hoa Di Lặc có 8 người ở huyện Bình Xuyên, Tam Đảo; Hội tâm linh có
31 người ở huyện Bình Xuyên, Vĩnh Tường, Yên Lạc, Giáo hội Lạc Hồng có
3 người ở huyện Lập Thạch, Pháp Luân Công có 7 người trong đó: ở huyện
Bình Xuyên có (01 người), Vĩnh Tường (06 người); Đoàn 18 Phú Thọ có 01
người ở huyện Tam Dương.
Trong sinh hoạt tôn giáo của Công giáo và đạo Tin Lành ở Vĩnh Phúc có
sự tham gia của người nước ngoài
+ Các hiện tượng tôn giáo mới ở Vĩnh Phúc thường gắn liền với tín
ngưỡng thờ Phật và thờ Mẫu Đứng trên góc độ tôn giáo học, sở dĩ Vĩnh Phúc
là mảnh đất thuận lợi cho các hiện tượng tôn giáo mới, bởi vì: Vĩnh Phúc là
một tỉnh có không gian tôn giáo, tín ngưỡng khá đặc biệt. Vùng đất này thuộc
76
phạm vi “Đất Tổ Hùng Vương” của Việt Nam lại nằm sát Thăng Long - Hà
Nội nghìn năm văn hiến. Không gian lịch sử - văn hóa ấy tất yếu dẫn đến một
không gian tín ngưỡng, tôn giáo đặc biệt của tỉnh.Từ thực tế khảo sát ở Vĩnh
Phúc về Ngọc Phật Hồ Chí Minh, Long Hoa Di Lặc, Hoàng Thiên Long, cho
thấy các hiện tượng tôn giáo mới ở Vĩnh Phúc có nguồn gốc từ các tín
ngưỡng dân gian và thường gắn liền với tín ngưỡng thờ Mẫu và tín ngưỡng
thờ Phật. Cơ sở thờ tự cùng các hoạt động của tín ngưỡng, tôn giáo ở Vĩnh
Phúc gắn liền với sự phát triển du lịch tâm linh.
Trong những năm gần đây Vĩnh Phúc là một trong những tỉnh đứng đầu cả
nước về tốc độ tăng trưởng kinh tế. Trong bức tranh phát triển kinh tế xã hội
của Vĩnh Phúc có sự đóng góp không nhỏ của ngành du lịch nhờ có nhiều lợi
thế, trong đó có lợi thế về những điểm du lịch tín ngưỡng, tâm linh. Các cơ sở
thờ Thánh Mẫu Tây Thiên ở Vĩnh Phúc là một trong những địa chỉ thu hút
khách du lịch tâm linh nhiều nhất. Ngoài ra, sự đa dạng tôn giáo cũng là một
lợi thế để phát triển du lịch tâm linh ở Vĩnh Phúc. Tuy nhiên, trong thời gian
qua các tour du lịch tâm linh được tổ chức thường chỉ thiên về Phật giáo và
tín ngưỡng truyền thống. Đây là thế mạnh của Vĩnh Phúc, nhưng để đạt hiệu
quả cao hơn cả về kinh tế lẫn văn hóa - xã hội cần quan tâm tổ chức thêm các
tour du lịch chuyên biệt đối với các tôn giáo khác.
3.3. Giải pháp nâng cao vai trò của báo chí trong việc truyền thông về
tôn giáo trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
3.3.1. Nâng cao nhận thức về vai trò của báo chí trong truyền thông về
tôn giáo
Với chức năng, nhiệm vụ làm báo của những của phóng viên, biên tập viên
công tác tại Báo Vĩnh Phúc, Đài PT&TH Vĩnh Phúc xác định hướng ưu tiên
chủ yếu là công tác tuyên truyền chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng,
Nhà nước về tôn giáo đến với mọi người, đồng thời chú trọng phản ánh tâm
tư, nguyện vọng và những vấn đề bức xúc của nhân dân, của cộng đồng, tiếng
77
nói của người dân, trong đó có chức sắc, tín đồ các tôn giáo.
Việc tuyên truyền chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước
về tín ngưỡng, tôn giáo giúp người dân, tổ chức tôn giáo cập nhật thông tin và
thực hiện các hoạt động tôn giáo trên cơ sở quy định của pháp luật, qua đó tạo
sự ổn định, an ninh trật tự xã hội, đồng thời tạo sự đồng thuận trong người
dân cả trên phạm vi vi mô và vĩ mô, giúp cộng đồng quốc tế hiểu rõ hơn về
chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam về vấn đề quyền con
người trong tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Các phóng viên đã nỗ lực khai thác các phương tiện kỹ thuật và công nghệ
truyền thông, khả năng tích hợp đa kỹ năng, đa phương tiện, đa loại hình
trong hoạt động nghề nghiệp. Không chỉ có tin, bài phóng sự ảnh phản ánh
kịp thời các sự kiện, hoạt động tôn giáo diễn ra trên phạm vi cả nước mà còn
trên toàn thế giới, các loại hình video clip ghi hình ảnh, audio ghi âm thanh
trực tiếp sống động của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các chức sắc các tôn giáo,
tiếng nói của các tổ chức, cá nhân tôn giáo, các nhà khoa học quốc tế nghiên
cứu, bình luận về tình hình tôn giáo, phản ánh nét sinh động trong đời sống
văn hóa tôn giáo ở Việt Nam và trên toàn thế giới. Những bài viết nghiên cứu
trao đổi về tôn giáo của các giáo sư, tiến sĩ, các nhà quản lý hàng đầu có kinh
nghiệm trong lĩnh vực tôn giáo và công tác tôn giáo giúp độc giả am hiểu về
đặc điểm, đặc thù của các tôn giáo ở Việt Nam và trên thế giới.
3.3.2. Chú trọng phối hợp trong quản lý Nhà nước về tin ngưỡng và
tôn giáo
Thực hiện quan điểm chỉ đạo nhất quán của Đảng, Nhà nước về công tác
tôn giáo, căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao, Báo Vĩnh Phúc, Đài PT - TH
Vĩnh Phúc phối hợp với các cấp, ngành chức năng thực hiện tốt các nội dung
như: Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo đến
các cấp, ngành, cán bộ, đảng viên, nhân dân và đồng bào có đạo; quản lý về
sinh hoạt, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; quản lý cơ sở tín ngưỡng đã được
78
xếp hạng di tích; quản lý các hoạt động tín ngưỡng, các nguồn thu tại cơ sở
tín ngưỡng đã được xếp hạng di tích; giải quyết hồ sơ xin giao đất, cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho cơ sở tôn giáo; giải quyết hồ sơ cấp giấy
phép phòng cháy, chữa cháy các công trình tín ngưỡng, tôn giáo; giải quyết
hồ sơ cấp giấy phép xây dựng công trình tín ngưỡng, tôn giáo; quản lý các
hoạt động y tế, giáo dục, bảo trợ xã hội, từ thiện, nhân đạo, dạy nghề của tổ
chức, cá nhân tôn giáo; quản lý hoạt động tôn giáo có yếu tố nước ngoài; giải
quyết các vụ việc đơn thư, khiếu nại, tố cáo liên quan đến tín ngưỡng, tôn
giáo; nhà đất liên quan đến tôn giáo và phối hợp trong thanh tra, kiểm tra, xử
lý vi phạm về sinh hoạt, hoạt động, đất đai, xây dựng, phòng chống cháy nổ, y
tế, giáo dục, bảo trợ xã hội, từ thiện, nhân đạo, dạy nghề, quản lý di tích liên
quan đến tín ngưỡng, tôn giáo. Qua đó, tạo điều kiện cho các tôn giáo sinh
hoạt, hoạt động theo hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã được
Nhà nước công nhận, quy định rõ trong các quy định của pháp luật.
3.3.3. Nâng cao chất lượng tin, bài khi truyền thông về vấn đề tôn giáo
Khi Luật Tín ngưỡng, tôn giáo được ban hành, một số người lợi dụng “vỏ
bọc” tự do tôn giáo để xuyên tạc mục đích, ý nghĩa và nội dung của Luật, gây
tâm lý hoang mang trong nhân dân, nhất là đồng bào có đạo. Họ kích động,
xúi giục biểu tình, gây nhiều bất ổn, làm xáo trộn cuộc sống bình yên của
nhân dân ở một số địa phương. Nguyên nhân của tình hình trên có nhiều;
trong đó, một phần quan trọng là do hạn chế, yếu kém trong công tác tuyên
truyền, phổ biến Luật Tín ngưỡng, tôn giáo. Đội ngũ cán bộ chuyên trách, báo
cáo viên, tuyên truyền viên chưa đủ mạnh cả về số lượng, kiến thức, kỹ năng
truyền đạt và sự am hiểu về đời sống tín ngưỡng, giáo lý, giáo luật của các tôn
giáo. Do vậy, Báo Vĩnh Phúc, Đài PT - TH Vĩnh Phúc cần chủ động đẩy
mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến Luật Tín ngưỡng, tôn giáo là nhiệm vụ
vừa cấp bách, vừa cơ bản, lâu dài, cần được triển khai với sự tham gia của các
cấp, ngành và lực lượng. Trong đó, chú trọng thực hiện tốt công tác động
viên, khuyến khích các bài viết chuyên sâu về đạo đức tôn giáo, Giáo luật,
79
Giáo lý, đời sống tôn giáo, hình ảnh, clip về các hoạt động xã hội, từ thiện…
Thực hiện tốt các nội dung, Báo Vĩnh Phúc, Đài PT - TH Vĩnh Phúc sẽ
bảo đảm công tác tuyên truyền, phổ biến Luật Tín ngưỡng, tôn giáo cũng như
có những tác phẩm chất lượng, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của một
bộ phận nhân dân, góp phần tích cực xây dựng nền an ninh nhân dân vững
mạnh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
3.3.4. Nâng cao bản lĩnh chính trị và đạo đức nghề nghiệp của nhà báo
khi đưa tin về tôn giáo
Để tăng cường thực hiện nghiêm Luật Báo chí, nêu cao đạo đức nghề
nghiệp người làm báo, các cấp hội nhà báo, các cơ quan chỉ đạo và quản lý
báo chí và đội ngũ người làm báo nói chung, đội ngũ nhà báo chuyên về mảng
đề tài tôn giáo nói riêng cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp
trọng tâm dưới đây:
Một là: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự phối
hợp với các cơ quan chỉ đạo, quản lý báo chí nhằm nâng cao chất lượng, hiệu
lực của công tác phối hợp chỉ đạo, định hướng báo chí.
Hai là: Các cấp hội nhà báo, các cơ quan báo chí cần tiếp tục làm tốt việc
giáo dục học tập Luật Báo chí và 10 Điều quy định đạo đức nghề nghiệp của
người làm báo Việt Nam, Quy tắc sử dụng mạng xã hội của người làm báo
Việt Nam; tổ chức tốt Hội nghị Tổng kết 15 năm thực hiện Chỉ thị 37 của Ban
Bí thư ngày 18/3/2004 “Tiếp tục nâng cao vai trò, chất lượng hoạt động của
Hội Nhà báo Việt Nam”.
Ba là: Tiếp tục rà soát, hoàn thiện các văn bản của Nhà nước về tổ chức và
hoạt động báo chí.
Bốn là: thực hiện tốt công tác quy hoạch báo chí, rà soát các cơ quan báo
chí hoạt động không đúng tôn chỉ mục đích, có nhiều sai phạm để xử lý
nghiêm theo các quy định của Luật Báo chí.
Năm là: Đổi mới cơ chế, chính sách để các tổ chức, cơ quan nhà nước tăng
80
cường quản lý và phối hợp hoạt động báo chí.
Sáu là: Xây dựng quy định chặt chẽ, rõ ràng về trách nhiệm các cơ quan
nhà nước phải cung cấp thông tin kịp thời cho báo chí và nghiêm túc tiếp
nhận, xử lý và phản hồi cho báo chí, đồng thời tạo điều kiện, bảo vệ nhà báo
tác nghiệp đúng pháp luật.
Bảy là: Xây dựng cơ chế chính sách để báo chí khai thác, sử dụng mặt tích
cực của mạng xã hội đi đôi với việc xử lý việc lợi dụng mạng xã hội để tuyên
truyền chống Đảng, Nhà nước, chế độ; Các cấp hội nhà báo, các cơ quan báo
chí thực hiện nghiêm Quy tắc sử dụng mạng xã hội của người làm báo.
Tám là: Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị, nghiệp vụ báo
chí, ý thức trách nhiệm xã hội và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ người làm
báo, đặc biệt là nêu cao tính tiền phong gương mẫu của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo các cấp hội, các cơ quan báo chí.
Chín là: Tăng cường hơn nữa sự phối hợp của Hội Nhà báo Việt Nam với
các cơ quan chỉ đạo, quản lý, tiếp tục đẩy mạnh các biện pháp giám sát hoạt
động nghiệp vụ, tuân thủ pháp luật, Điều lệ Hội và 10 Điều quy định đạo đức
nghề nghiệp của nhà báo-hội viên.
Báo chí đang đứng trước những cơ hội lớn cùng những thách thức nặng nề
và gay gắt, đòi hỏi chúng ta phải đổi mới và sáng tạo hơn nữa. Báo chí không
thể thắng mạng xã hội băng tốc độ đưa tin, nhưng báo chí sẽ vượt trội mạng
xã hội băng sự chính xác, chuẩn mực và trách nhiệm. Độ tin cậy và sức thuyết
phục chính là con đường sống của báo chí trong thời đại truyền thông kỹ thuật
số. Chúng ta cần thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ để xây dựng một đội ngũ
những người làm báo có bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh thông nghiệp vụ,
đạo đức nghề nghiệp trong sáng.
Việc tu dưỡng, rèn luyện theo 10 Điều quy định đạo đức nghề nghiệp của
người làm báo Việt Nam giúp nhà báo, hội viên tự tin vượt qua mọi thử thách,
cám dỗ, bảo vệ uy tín, danh dự của những người làm báo cách mạng, hoàn
thành xuất sắc trọng trách của người chiến sỹ trên mặt trận tư tưởng văn hóa
81
mà Đảng, nhân dân tin cậy, giao phó.
Báo chí có một vai trò vô cùng quan trọng trong việc định hướng dư luận.
Tuy nhiên, trong thế giới toàn cầu hóa ngày nay, sự hội nhập giữa các xã hội
từ xưa vẫn có ngăn cách đang càng lúc càng mở rộng chế độ mọi biên giới có
thể xóa nhòa, thông tin có thể đến từ nhiều nguồn mà quần chúng, nghĩa là
những người đọc luôn có thể kiểm chứng tính xác thực của chúng một cách dễ
dàng. Chính vì thế mà Tony Burman, cựu tổng biên tập của một hãng tin lớn
trên thế giới là CBC News đã phát biểu: “Mọi tổ chức báo chí đều chỉ có thể
dựa vào danh tiếng và sự được tín nhiệm của chính mình”.
Nắm rõ chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước về công tác
tôn giáo. Thường xuyên nâng cao nhận thức, trình độ lý luận chính trị, kiến
thức về tôn giáo và kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ;
Thận trọng nhưng phải nhanh nhạy trong công tác thông tin liên quan đến
ván đề tôn giáo, nếu các nhà báo chủ quan không điều tra kỹ nguồn gốc sự
việc, tìm hiểu độ tin cậy của thông tin thì có thể dẫn đến phản ánh thông tin
sai lệch, đây chính là kẽ hở để các thế lực thù địch, phản động khai thác để
chống phá nhà nước, lợi dụng tôn giáo, gây nguy hại cho bản thân, cho tòa
báo, cho xã hội. Vì vậy, tuy phải nhanh nhạy trong nắm bắt thông tin, theo kịp
dòng sự kiện nhưng các phóng viên, tòa soạn vẫn phải tỉnh táo trong công tác
xác định độ tin cậy, chính xác của thông tin. Đặc biệt là vấn đề tôn giáo lại là
vấn đề tương đối nhạy cảm đối với xã hội, nhân dân và nhà nước hiện nay.
Thận trọng trong quá trình tìm hiểu nhưng phải luôn bám sát tình hình tôn
giáo trên các trang thông tin phản động để từ đó nắm bắt được xu thế vận
động của bọn mượn danh tôn giáo trong nước. Đi trước đón đầu, nắm bắt tình
huống để có những bài viết phản ánh, tuyên truyền giúp định hướng dư luận
xã hội đi đúng hướng. Không để tình trạng khi sự việc tôn giáo đã xảy ra biến
cố mới đi sau giải thích vận động làm giảm đi hiệu quả tuyên truyền, định
hướng dư luận của báo chí.
Luôn đề cao coi trọng công tác tuyên truyền thường xuyên về vấn đề tôn
82
giáo trong nội dung thông tin báo chí.
Dưới tác động của mặt trái kinh tế thị trường, nhiều hậu quả tiêu cực đã
xảy ra. Vì chạy theo mục đích thương mại, nhiều tờ báo, nhiều nhà báo đã đi
chệch khỏi tôn chỉ, mục đích chân chính. Trong bối cảnh đó, với tư cách là cơ
quan lý luận chính trị của Đảng và Nhà nước, việc giữ vững tôn chỉ, mục đích
của các tờ báo là yêu cầu cấp thiết đặt ra cho ban biên tập cũng như tập thể
cán bộ, phóng viên, biên tập viên các báo.
Báo chí là một hoạt động văn hóa phát triển trước hết ở Phương Tây với
lịch sử vài trăm năm, đã kết tập được nhiều kinh nghiệm, đúc kết nhiều kho
sách về đạo đức báo chí; do đó chắc chắn các nền báo chí mới phát triển sau
này có thể học hỏi được nhiều từ quan điểm đạo đức báo chí của các quốc gia
Âu Mỹ. Vì vậy, trước khi bàn về đạo đức của người làm báo Việt Nam, việc
tìm hiểu đạo đức báo chí phương tây là điều cần thiết.
Người làm báo liên quan đến tôn giáo là nhà báo hoạt động trên đất nước
Việt Nam, vì thế phải là trung thành với tổ quốc và dân tộc Việt Nam ở tư
cách của một công dân, chịu sự điều chỉnh của Luật báo chí và tôn trọng
những quy định nghề nghiệp của người làm báo do Hội Nhà Báo Việt Nam đề
xuất do tính chất nghề nghiệp của mình.
Tiểu kết chƣơng 3
Báo chí Phật giáo trong sự phát triển của công nghệ thông tin đang đóng
một vai trò mới - vai trò định hướng đời sống xã hội cho mọi người. Truyền
thông hay sự chuyển tải thông tin từ người này qua người khác, từ nơi này qua
nơi khác, từ nước này sang nước khác nhằm mục đích kết nối, liên kết con
người với cuộc sống, con người với xã hội trong một bối cảnh cụ thể. Truyền
thông ngày nay được xây dựng trên nền tảng vững chắc của công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công nghệ thông tin IT cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ
XXI mở ra một kỷ nguyên thông tin mới, nhanh, nét và hiệu quả. Cũng nhờ
83
công nghệ mới này mà con người chỉ cần ngồi ở một nơi có thể khám phá, có
thể trao đổi và tìm hiểu những thông tin, những tư liệu về mọi thứ mà cuộc
sống của mình cần. Trong các lĩnh vực truyền thông hôm nay đang hướng tới
thì truyền thông trong lĩnh vực tôn giáo đang là một nhu cầu bức thiết.
Thực trạng truyền thông tôn giáo và nhất là Phật giáo, thông tin về quan
điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác tôn giáo. Từ
đó, dựng một bức tranh về truyền thông, thông tin tôn giáo hiện nay, cũng
như những vấn đề đang đặt ra cho tương lai.
Phương tiện truyền thông trong các gia đình người Việt vẫn đang sử dụng
số lượng lớn là tivi, đầu đĩa, rồi mới đến điện thoại thông minh, … Như vậy,
nếu muốn truyền thông tôn giáo hiệu quả thì phải dựa chính trên các phương
tiện này.
Sử dụng Internet trong truyền thông tôn giáo: Internet hay công nghệ IT ra
đời làm cho con người gắn kết với nhau hơn, thế giới trở nên nhỏ bé hơn.
Truyền thông qua Internet là truyền thông mở hay truyền thông đại chúng bởi
ở đó con người có thể thoải mái trình bày quan điểm sống của mình mà không
sợ bị kiểm duyệt như những hình thái in ấn truyền thống. Đây chính là hạn
chế lớn nhất của truyền thông qua mạng Internet toàn cầu.
Các tôn giáo họ nắm được thế mạnh này và đã cho ra đời hàng loạt các
trang mạng góp phần truyền thông, chuyển tải lượng thông tin khổng lồ giúp
cho người đọc, người nghe hướng tâm về Phật giáo, tôn giáo, tín ngưỡng.
Nhìn chung không chỉ Phật giáo, Công giáo mà Tin Lành, Cao Đài, Hoà
Hảo… đều đã tận dụng hình thức truyền thông qua Internet để truyền thông
tôn giáo của mình.
Về phía truyền thông Nhà nước cũng đã tạo ra nhiều trang thông tin điện
tử Internet như: Cổng thông tin điện tử Chính phủ, Cổng thông tin điện tử của
các Bộ, ngành và nhiều tờ báo mạng đã trở nên quen thuộc với người truy cập
internet như: Vnexpress.net, Vietnamnet.vn, Dantri.vn, Danviet.com.vn,
84
Tuoitre online…
Qua khảo sát cho thấy hiện nay, người Việt khi xem tivi, truy cập mạng
Internet thường quan tâm hàng đầu tới sức khoẻ, y tế; sau đó là những vấn đề
xã hội, môi trường, phát triển; tiếp đó là thể thao, văn hoá; thứ tư mới là quan
tâm đến vấn đề tôn giáo.... sau cùng là quân sự an ninh.
Như vậy, tôn giáo cũng là vấn đề mà nhiều người quan tâm. Cũng cần
phải nói rõ rằng, vấn đề tôn giáo được các báo mạng của chúng ta đưa tin chủ
yếu là các sự kiện tôn giáo nổi bật có liên quan tới tôn giáo thế giới như:
Quan hệ của Nhà nước ta với Vaticant, Đại lễ Vesak..... phổ biến đường lối,
85
chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với tôn giáo.
Trong xã hội hiện đại, một trong những vấn đề mà những ai theo logic của tư
KẾT LUẬN
duy lý tính thuần túy bất ngờ là sự bùng phát mạnh mẽ của cái gọi là “những
hiện tượng phi lý” trong đó có hiện tượng tôn giáo. Trong thế kỷ 21, ngoài
những bận tâm về chiến tranh hủy diệt, về bệnh tật và nghèo đói, về thảm họa
môi trường, tôn giáo và các vấn đề liên quan đến tôn giáo cũng như hệ lụy rất đa
dạng mà hiện tượng này đưa lại là một trong những mối bận tâm nhất của nhân
loại. Mối bận tâm này bắt nguồn từ một thực tế, dường như có sự gia tăng đáng
kể từ tôn giáo, nhất là vùng ngoại vi các trung tâm, tôn giáo truyền thống, nơi mà
sự cùng khổ đang cần đến sự cứu cánh cho tinh thần để bù đắp cho sự thiếu hụt
hiện thực và nhất là sự nở rộ của trào lưu “tôn giáo mới” ở ngay trong lòng các
quốc gia có nền kinh tế phát triển cao. Liên quan đến tình hình trên là những
xung đột mà căn nguyên của nó rất phức tạp. Có thể do sự khác biệt về đức tin,
cũng có thể do đòi hỏi về kinh tế, chính trị, văn hóa của đông đảo dân chúng
không được chính quyền thế tục đáp ứng. Cũng có khi rất đơn giản, chỉ là sự
mạo phạm một đức tin nào đó một cách vô tình…
Kế thừa và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin về
tôn giáo trong điều kiện mới, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã
giải quyết khá thành công vấn đề hóc búa này. Hai vấn đề có tính nguyên tắc
là triệt để tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và thực thi chiến lược đại
đoàn kết dân tộc được thực hiện sâu sắc và nhất quán. Quan điểm của Đảng
về vấn đề tôn giáo luôn được nhanh chóng cụ thể hóa, thể chế hóa bằng pháp
luật và chính sách của Nhà nước, nhờ vậy, công tác quản lý nhà nước các hoạt
động tôn giáo ngày càng thuận lợi, nhu cầu tôn giáo chính đáng của người có
đạo ngày càng được thỏa mãn đầy đủ hơn.
Với nhiệm vụ là tiếng nói của Đảng, Nhà nước và nhân dân, thời gian qua
86
báo chí đã làm tốt trách nhiệm của mình trong công tác định hướng dư luận và
đấu tranh chống những tư tưởng sai trái trong lĩnh vực tôn cả nước nói chung
và địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng. Nhờ vậy đã góp phần xứng đáng vào sự
nghiệp củng cố và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, đấu tranh
chống các quan điểm sai trái, thù địch. Tuy nhiên, việc phản ánh thực tế và
tuyên truyền về lĩnh vực này trên báo chí còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập.
Biểu hiện ở chỗ số lượng bài ít, cơ cấu bài chưa thật toàn diện và nhìn chung
chất lượng nghiên cứu chưa cao, chưa kịp thời… Nguyên nhân của tình hình
này xuất phát từ cả phía cán bộ, phóng viên, biên tập viên, từ lãnh đạo các cơ
quan báo chí và phần nào đó cũng do vấn đề tôn giáo phức tạp và nhạy cảm.
Trong bối cảnh tình hình mới, để tiếp tục là tiếng nói của Đảng, Nhà nước
và nhân dân, thiết nghĩ những hạn chế, bất cập trên từng bước được khắc phục
và theo đó cần phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp và các giải pháp trực
tiếp cho báo chí là những giải pháp chủ yếu nhất. Vì vậy, xây dựng một đội
ngũ cán bộ, phóng viên, biên tập viên có năng lực và phẩm chất tốt với một
môi trường làm việc thuận lợi sẽ là điều kiện để các báo hoàn thành trọng
trách của mình, tham gia tích cực vào sự nghiệp đổi mới của toàn Đảng và
nhân dân.
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài này không tránh khỏi những sai sót,
chưa đáp ứng hết sự mong mỏi của các nhà nghiên cứu khoa học cũng như
yêu cầu thực tiễn đặt ra, tác giả rất mong muốn nhận được ý kiến đóng góp bổ
sung từ Hội đồng khoa học, đồng nghiệp và các thầy, cô giáo.
87
Tác giả xin trân trọng cảm ơn!
1. Nguyễn Việt Chước (1974), Lịch sử báo chí Việt Nam, Nxb Nam Sơn,
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TP Hồ Chí Minh
2. Hồng Chương (1987), Tìm hiểu lịch sử báo chí Việt Nam, Nxb Giáo
khoa Mác- Lênin.
3. PGS.TS Nguyễn Văn Dững (2012), “Cơ sở lý luận báo chí”, Nxb Lao động
4. Đức Dũng (1992), Các thể kí báo chí, Nxb Văn hóa- Thông tin, Hà Nội.
5. Nguyễn Đại Đồng- Nguyễn Thị Minh (2008), Phong trào chấn hưng Phật
Giáo Việt Nam từ năm 1927- 1938, Nxb Tôn Giáo.
6. Hà Minh Đức (2000), Cơ sở lý luận báo chí đặc tính chung và phong
cách, Nxb ĐHQG Hà Nội
7. Nguyễn Thị Trường Giang (2011), Đạo đức nhà báo, Nxb Chính trị
Hành chính.
8. Mai Thanh Hải (2002), Từ điển tôn giáo, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
9. Nguyễn Duy Hinh (2009), Lịch sử đạo Phật Việt Nam, Nxb Tôn giáo
10. Đỗ Quang Hưng (2001), Tôn giáo và mấy vấn đề tôn giáo Nam Bộ Nxb
Khoa học Xã hội- Hà Nội.
11. Vũ Đình Hòe (chủ biên), Tạ Ngọc Tấn, Vũ Hiền, Nguyễn Hậu (2000),
“Truyền thông đại chúng trong công tác lãnh đạo quản lý”, Nxb Chính trị
Quốc gia, HN
12. Đỗ Quang Hưng (2000), Lịch sử báo chí Việt Nam 1865- 1945, Nxb
Đại học Quốc Gia Hà Nội.
13. Đỗ Quang Hưng (2005), Lịch sử báo chí tôn giáo ở Việt Nam, Kỷ yếu
Việt Nam học quốc tế lần thứ I, II.
14. Đỗ Quang Hưng (2010), Đời sống tôn giáo tín ngưỡng Thăng Long-
Hà Nội, Nxb Hà Nội.
15. Nguyễn Mạnh Khả, Bài viết đi tìm một định nghĩa về tôn giáo ngày
88
11/10/2018 đã đưa ra một số dẫn chứng về định nghĩa tôn giáo
http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-
goc-nhin-van-hoa/di-tim-mot-dinh-nghia-ve-ton-giao
16. Nguyễn Lang (1994), Việt Nam Phật Giáo sử luận tâp I, Nxb Văn học,
Hà Nội
17. Nguyễn Lang (1994), Việt Nam Phật Giáo sử luận tập II, Nxb Văn
học, Hà Nội
18. Nguyễn Lang (1994), Việt Nam Phật Giáo sử luận tập III, Nxb Văn
học, Hà Nội
19. Trần Hồng Liên (1995), Đạo Phật trong cộng đồng người Việt ở Nam
Bộ-Việt Nam (từ TK XVII- đến 1975), Nxb Khoa học Xã học.
20. Hồ Chí Minh toàn tập (2000), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
21. TS. Đỗ Chí Nghĩa, Giáo trình “Vai trò của báo chí trong định hướng
dư luận xã hội”, Nxb Chính trị Quốc gia
22. Thích Như Nguyệt (2007), Hành trạng chư Ni Việt Nam, Nxb Tôn Giáo.
23. Nhiều tác giả (1998.), Điạ chí Văn hoá Tp Hồ Chí Minh tập I,II, III và
IV, Nxb Tp Hồ chí Minh
24. Nhiều tác giả (2006), Báo chí Việt Nam những sự kiện đầu tiên và
nhất, Nxb Trẻ.
25. Trần Quang (2005), Các thể loại báo chí Chính luận , Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội
26. Tô Huy Rứa (1998), Thư tịch Báo Chí Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia
27. Dương Xuân Sơn (2000), Báo chí phương tây, Nxb ĐHQG TP HCM
28. Dương Xuân Sơn (2004), Các thể loại báo chí Chính luận nghệ thuật,
Nxb ĐHQG Hà Nội.
29. Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang (2004), Cơ sở lí luận
báo chí truyền thông, Nxb ĐHQG Hà Nội.
30. Tạ Ngọc Tấn (1999), Từ lý luận đến thực tiễn báo chí, Nxb Văn hóa-
89
Thông tin, Hà Nội
31. Trương Ngọc Tường- Nguyễn Ngọc Phan (2007), Báo chí ở Thành
phố Hồ Chí Minh, Nxb Văn Hóa Sài Gòn.
32. Huỳnh Văn Tòng (2002), Lịch sử báo Việt Nam từ khởi thủy đến
1945, Nxb Tp Hồ Chi Minh
33. Tạ Ngọc Tấn (2001), Giáo trình “Truyền thông đại chúng”, Nxb Chính
trị Quốc gia
34. Đặng Nghiêm Vạn (2003), “Bàn về tín đồ và tổ chức của một tôn
giáo”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 2, tr.14-20.
35. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
36. Đặng Nghiêm Vạn, Phạm Như Cương, Vũ Khiêu, Trần Đình Hượu,
Hà Văn Tấn (1994), Những vấn đề tôn giáo hiện nay, Nxb KHXH-Hà Nội
37. Luật báo chí 2016:
https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Van-hoa-Xa-hoi/Luat-Bao-chi-2016-
280645.aspx
38. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2013), Hiến chương Giáo hội Phật giáo
Việt Nam (sửa đổi lần thứ V), được ký theo Quyết định số 016/QĐ/HĐTS,
90
ngày 30/01/2013
PHỤ LỤC
TT Tên gọi Số lƣợng Đƣờng hƣớng hành đạo
Năm công nhận tín đồ (ngƣời)
tổ chức Năm truyền vào Việt Nam, năm thành lập
1981 1 Phật giáo
Đầu Công nguyên >10.000.000 Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội
1980 2 Công giáo 1533
6.150.000 Sống phúc âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào
72.732 Tốt đời, đẹp đạo
Khoảng thế kỷ X, phát triển vào thế kỷ XV
3 Đại Islam (đạo Hồi), có ba đại diện Islam và một hội đồng sư cả Bani
3.1 Ban đại 1992
diện cộng đồng Hồi giáo Thành phố Hồ Chí Minh
5.456 Vận động bà con tín đồ chấp hành các quy định về hoạt động tôn giáo, pháp luật của nhà nước, hưởng ứng các phong trào quần chúng yêu nước, phong trào xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư và phát huy đoàn kết dân tộc.
3.2 Ban đại 2004
diện cộng đồng Hồi giáo tỉnh An Giang
91
13.000 Tôn thờ Thượng đế Ala, tôn kính Đức Nabi Mohamed và Thiên kinh Côran; hoạt động trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; đoàn kết tôn giáo
3.3 Ban đại 2008
diện cộng đồng Hồi giáo tỉnh Tây Ninh
3.700 Tôn thờ Thượng đế Ala, tôn đức Nabi kính Mohamed và Thiên kinh Côran; hoạt động trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; đoàn kết tôn giáo.
3.4 Hội đồng 2007
sư cả Chăm Bani tỉnh Ninh Thuận
23.000 Hội đồng Sư cả là thành viên của khối đoàn kết toàn dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến Pháp và pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
4 Đạo Tin 2001 Đồng hành cùng dân tộc.
lành với 10 hội thánh
4.1 Hội thánh 1911 1958
Tin lành Việt Nam (miền Bắc)
100.000 Hết lòng thờ phụng đức Chúa trời ba ngôi, yêu tổ quốc, bảo vệ hóa bình, thực hiện công bằng, bác ái, tự do, bình đẳng và lao động.
4.2 Hội thánh 1911 2001
700.000 Sống phúc âm, phụng sự Thiên Chúa, phụng sự Tổ quốc và dân tộc.
Tin lành Việt Nam (miền Nam)
4.3 Hội truyền 1956 2007
giáo Cơ đốc Việt Nam
92
21.819 Rao truyền danh chúa Jesus Christ cho mọi người để xây dựng hội thánh nhằm thợ phượng, phục sự Đức Chúa Trời và yêu thương đồng loại.
4.4 Tổng hội 1962 2008
2.000 Sống phúc âm, phục vụ Chúa, phục vụ Tổ quốc và dân tộc.
Báphíp Việt Nam (Ân Điển - Nam phương)
4.5 Tổng hội 2008
7000 Sống phúc âm, phụng sự Thiên Chúa, phục vụ Tổ quốc, gắn bó với dân tộc và tuân thủ pháp luật.
Báphíp Việt Nam (Nam phương)
4.6 Hội thánh 1968 2008
Tin lành Trưởng lão Việt Nam
7.000 Hết lòng thờ phượng Đức Chúa Trời ba ngôi, kính yêu mọi người, phụng sự Thiên Chúa, phụng sự Tổ quốc và dân tộc, tuân thủ pháp luật.
1929 2008
4.7 Giáo hội Cơ Đốc Phục lâm Việt Nam
7.000 Thờ phượng Đức Chúa Trời ba ngôi hằng sống, yêu thương đồng loại, kính Chúa, yêu người và phục vụ Tổ quốc.
1957 2009
4.8 Hội thành Mennonite Việt Nam
6.000 Sống phúc âm, phụng sự Thiên Chúa, phục vụ Tổ quốc và đồng hành cùng dân tộc.
1963
30.000 Trung thành với chân lý Kinh thánh, đồng hành cùng dân tộc.
4.9 Hội thánh Liên hữu Cơ Đốc Việt Nam 2007 (cấp đăng ký)
4.10 Hội thánh
Phúc âm Ngũ tuấn Việt Nam 22.000 Sống theo lời Chúa, phục vụ Chúa, phục vụ tha nhân, phục vụ Tổ quốc và dân tộc. 2009 (cấp đăng ký)
5 Đạo Cao 2.296.868 Nước vinh - Đạo sáng
93
Đài (có hội thánh)
5.1 Hội thánh 1926 1997
Cao Đài Tây Ninh
5.2 Hội thánh 1934 1997 826.521 1.312.000 Hoạt động tuân thủ pháp luật nhà nước, xây dựng dường hướng hành đạo gắn bó với dân tộc theo phương châm: "Nước vinh - Đạo sáng" nhằm xây dựng một xã hội đại đồng, thương yêu để giải khổ chúng sinh.
Cao Đài Ban chỉnh đạo
5.3 Hội thánh 1932 1995 41.523
Cao Đài Tiên Thiên
5.4 Hội thánh 1956 1996 45.898
Truyền giáo Cao Đài
5.5 Hội thánh 1928 1996 31.396
Cao Đài Minh Chơn đạo
5.6 Hội thánh 1928 1996 4.185
Cao Đài Chiếu Minh Long
5.7 Hội thánh 1937 2000 9.451
Cao Đài kho Tam quan
5.8 Hội thánh 1936 1998 4.237
Cao Đài Bạch Y
6 1939 1999 1.250.981 Vì đạo pháp, vì dân tộc.
94
Phật giáo Hòa Hảo
7 1934 2007
1.450.000 Tu học, hành thiện, ích nước, lợi dân.
Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam
8 Đạo Bà hai 1954 2008
7.000 Tuân thủ pháo luật Việt Nam, nêu cao tinh thần đoàn kết, hòa hợp dân tộc, tôn giáo, phấn đấu vì sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, vì nền văn minh của nhân loại.
1867 2006
9 Đạo Tứ ân Hiếu nghĩa
70.899 Hành Tứ ân - sống hiếu nghĩa - vì chủ nghĩa xã hội.
10 Đạo Bửu 1849 2009 15.184 Đi
Sơn Kỳ Hương
theo pháp chánh truyên, tôn chỉ và đường hướng hành đạo gắn bó với dân tộc, với đất nước của Đức Phật thầy Tây An, lấy học Phật tu nhân, hành theo Tứ Ân làm căn bản lẽ sống đạo - đời.
11 Giáo hội 1863 2008
1.058 Hiệp nhất tinh hoa của ba nền tôn giáo Nho - Thích - Đạo.
Phật đường Nam tông Minh Sư đạo
1924 2008 1.058 Hoằng
12 Minh - Lý đạo - Tam Tông miếu
95
chánh dương pháp, phục vụ nhân sanh trên cương lĩnh, từ bi, giác ngộ và giải thoát