BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÊ VĂN CƢỜNG
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG, HỖ TRỢ ĐỐI VỚI TỔ CHỨC, HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HẢI AN - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
HÀ NỘI - 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÊ VĂN CƢỜNG
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG, HỖ TRỢ ĐỐI VỚI TỔ CHỨC, HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HẢI AN - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và luật Hành chính
Mã số : 8 38 01 02
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN THỊ PHƢỢNG
HÀ NỘI – 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các thông tin trong Luận văn là trung thực, có tiếp thu và sử dụng những ý
tưởng khoa học của các tác giả có bài nghiên cứu liên quan. Những phần trích
dẫn đều có xuất xứ rõ ràng.
Tác giả
Lê Văn Cường
LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo Học viện Hành chính Quốc
gia, Khoa sau đại học cùng các thầy, cô giáo giảng dạy chương trình cao học
chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính đã giúp đỡ, tạo điều kiện
cho em trong suốt quá trình học tập, có những kiến thức lý luận và thực tiễn
vô cùng quý giá trong 2 năm học làm cơ sở cho em hoàn thành luận văn
“Thực hiện pháp luật về bồi thường hỗ trợ đối với tổ chức hộ gia đình cá
nhân khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận Hải An, Thành phố Hải
Phòng”.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Thị Phượng –
Người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, quan tâm, tạo điều kiện cho em trong
suốt quá trình hoàn thành luận văn.
Em xin cảm ơn cảm ơn lãnh đạo Công an quận Hải An, UBND quận Hải
An đã tạo mọi điều kiện, quan tâm giúp đỡ để em hoàn thành luận văn này.
Tuy đã có nhiều cố gắng nhưng trong quá trình nghiên cứu không thể
tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được những
đánh giá, nhận xét và góp ý của các thầy, cô để luận văn của em hoàn chỉnh và
đầy đủ hơn.
Hà nội, ngày tháng năm 2018
Tác giả
Lê Văn Cƣờng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ ĐỐI VỚI TỔ CHỨC, HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT ................................................................... 9 1.1. Khái niệm, mục đích, yêu cầu và các điều kiện bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất ......................................................................................... 9 1.2. Thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất .............. 19 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới việc thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất ................................................................................. 29 Kết luận Chương 1 .......................................................................................... 33 Chương 2: THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN QUẬN HẢI AN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG .......................................................................................... 34 2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của quận Hải An, thành phố Hải Phòng có ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất ........................................................ 34 2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ trên địa bàn quận Hải An, thành phố Hải Phòng ......................................................................... 37 Kết luận chương 2 ........................................................................................... 63 Chương 3: GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN QUẬN HẢI AN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG .............................................. 65 3.1. Nhu cầu bảo đảm thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn quận Hải An, thành phố Hải Phòng ................ 65 3.2. Một số giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất ........................................................................................ 68 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 82 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 85 PHỤ LỤC ........................................................................................................ 88
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1 Tình hình giải phóng mặt bằng Quận Hải An ................................. 42
Bảng 2.2 Tình hình giải quyết khiếu nại ......................................................... 52
Bảng 2.3 Tình hình giải quyết kiến nghị ......................................................... 52
Bảng 2.4 Tình hình giải quyết tố cáo .............................................................. 52
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với một nước có khoảng gần 70% dân số làm nông nghiệp như Việt
Nam thì đất đai luôn là vấn đề rất nhạy cảm và nhận được sự quan tâm đặc
biệt của toàn xã hội. Đặc biệt khi đất nước chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường, Nhà nước thực hiện cơ chế quản lý đất đai mới bằng việc xác định hộ
gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất nông - lâm nghiệp; tiến hành
giao đất, cho thuê đất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài. Chính
sự thay đổi cơ chế quản lý này đã trả lại cho đất đai những giá trị vốn có của
nó: Đất đai ngày càng trở nên có giá và được đem trao đổi trên thị trường;
dùng làm tài sản bảo đảm trong quan hệ tín dụng thế chấp vay vốn với ngân
hàng, tổ chức tín dụng; được đem góp vốn liên doanh trong sản xuất – kinh
doanh. Người dân ngày càng nhận thức sâu sắc được giá trị to lớn của đất đai.
Số lượng các khiếu kiện, tranh chấp đất đai ngày càng gia tăng v.v...
Với việc đất đai ngày càng có giá thì vấn đề thu hồi đất, bồi thường,
giải phóng mặt bằng cũng gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp. Trong nhiều
trường hợp, người dân do không đồng tình với phương án bồi thường của Nhà
nước đã không chịu bàn giao đất dẫn đến việc làm chậm tiến độ thi công công
trình, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của chủ đầu tư và gây tác động tiêu cực
đến môi trường đầu tư. Hơn nữa do không đồng thuận với phương án bồi
thường, người bị thu hồi đất tiến hành khiếu kiện kéo dài, khiếu kiện đông
người và khiếu kiện vượt cấp gây mất ổn định về chính trị, trật tự an toàn xã
hội v.v... Để khắc phục tình trạng này, Nhà nước đã thường xuyên rà soát, sửa
đổi và bổ sung các quy định về bồi thường, hỗ trợ. Tuy nhiên, hiệu quả của
những giải pháp này chưa được như mong muốn; nhiều quy định mới được
ban hành dường như chưa phù hợp với thực tiễn. Các tranh chấp, khiếu kiện
1
liên quan đến bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất có xu hướng gia
tăng cả về số lượng và mức độ gay gắt, phức tạp về nội dung.
So với các quận, huyện trên địa bàn thành phố Hải Phòng thì quận Hải
An có vị trí chiến lược quan trọng trong nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội
của Thành phố. Đặc biệt, kể từ năm 2003 quận Hải An chính thức được thành
lập, sau gần 15 năm đến nay quận đã và đang trên đà phát triển để trở thành
khu trung tâm kinh tế lớn mạnh của thành phố Hải Phòng. Hiện nay trên địa
bàn Quận Hải An có 49 dự án lớn nhỏ đang được triển khai đồng loạt, với nhu
cầu sử dụng đất hiện tại là 120 ha. Đồng nghĩa với đó là số người dân, chủ
yếu là các hộ gia đình, cá nhân bị Nhà nước thu hồi đất cho các dự án lên đến
hơn 9000 hộ. Thực tế đó cho thấy, Quận Hải An, thành phố Hải Phòng cũng
đã và đang phải đối mặt với nhiều thách thức kể trên trong quá trình thực hiện
việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.
Việc nghiên cứu các quy định pháp luật để thấy được nhu cầu của việc
thu hồi đất cũng như những bất cập, hạn chế trong việc thực hiện pháp luật
khi thu hồi, bồi thường mà những điều đó đã và đang trở thành rào cản, trở
ngại trong thực tiễn áp dụng pháp luật nói chung, pháp luật đất đai nói riêng.
Trong bối cảnh đó, tác giả luận văn đã lựa chọn đề tài: "Thực hiện
pháp luật về bồi thường, hỗ trợ đối với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân khi
Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận Hải An - Thành phố Hải Phòng"
để nghiên cứu trong chương trình tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành Luật Hiến
pháp và luật hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là một chế định quan trọng
của pháp luật đất đai. Liên quan tới việc nghiên cứu đề tài luận văn đã có một
số công trình nghiên cứu về lĩnh vực này dưới khía cạnh lý luận và thực tiễn
và được thể hiện ở những góc độ nhất định. Tiêu biểu là các công trình khoa
học nghiên cứu đã được công bố như sau:
2
Nguyễn Vĩnh Diện, “Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất (qua thực tiễn thi hành tại Thành phố Hà Nội), Luận văn Thạc sĩ
(2012); Hoàng Thị Thu Trang, “Pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân và thực tiễn áp dụng tại Nghệ An”,
Luận văn Thạc sĩ (2012); Nguyễn Thị Tâm:“Pháp luật về thu hồi đất trong
việc giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước – nhà đầu tư và người có đất bị
thu hồi”, Luận văn Thạc sĩ Luật học (2013); Phạm Thu Thủy,“Pháp luật về
Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam”; Luận văn
(2013) của Trần Phương Liên với nội dung “Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ
đối với hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp -Thực
trạng và hướng hoàn thiện".
Bên cạnh đó, còn có một số bài báo khoa học liên quan đến vấn đề trên
đây, được công bố trên các Tạp chí khoa học chuyên ngành, như Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật, Tạp chí Khoa học Tài chính, Tạp chí Nghiên cứu kinh
tế...như: Trần Quang Huy, “Chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất”, Tạp
chí Luật học, số 10/2010; Nguyễn Quang Tuyến, “Công khai minh bạch để
bảo vệ quyền lợi của người bị thu hồi đất”, Tạp chí Luật học, số 3/2012; Doãn
Hồng Nhung (Chủ biên):“Pháp luật về định giá đất trong bồi thường, giải
phóng mặt bằng ở Việt Nam”, Nhà xuất bản Tư pháp năm 2013; Ngoài ra còn
có các công trình nghiên cứu tiêu biểu như: Chuyên đề “Bình luận và góp ý đối
với các quy định bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất trong dự thảo
Luật Đất đai sửa đổi” của Nguyễn Quang Tuyến đăng trong Hội thảo khoa học
“Góp ý dự thảo Luật Đất đai sửa đổi” tổ cức tại Đại học Luật Hà Nội.
Các công trình nghiên cứu của các tác giả đi trước là nguồn tài liệu quý
giá để tác giả Luận văn kế thừa và tiếp tục nghiên cứu về vấn đề “bồi thường,
hỗ trợ khi thu hồi đất” trên các bình diện: cơ sở lý luận, các quy định của pháp
luật và trong thực tiễn thi hành. Có thể nói, các công trình nghiên cứu kể trên
3
đã tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau để phân tích, đánh giá các quy định của
pháp luật Việt Nam về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Tuy nhiên,
chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về thực hiện pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận Hải An, thành phố
Hải Phòng. Do đó, đề tài không trùng lặp với các công trình đã công bố.
Với mong muốn được tiếp cận vấn đề từ góc độ thực tiễn một cách chi
tiết, đồng thời bằng việc tham chiếu giữa các quy định của pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất với thực tiễn áp dụng qua các vụ
việc, tình huống cụ thể, một mặt học viên chỉ ra được những quy định phù
hợp, không phù hợp của pháp luật với thực tiễn cuộc sống, mặt khác cũng đưa
ra những nhận xét, đánh giá việc thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền ở một
địa bàn cụ thể. Trên cơ sở đó, tôi đề xuất một số giải pháp góp phần bảo đảm
việc thực hiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất cho phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn
hiện nay và trong tương lai.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ cơ sở lý luận và quy
định của pháp luật bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất; Thực trạng
thực hiện quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
tại địa bàn quận Hải An, thành phố Hải Phòng; nghiên cứu đưa ra các giải
pháp hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện đảm bảo hài hoà lợi ích của
chủ thể thu hồi đất và người bị thu hồi đất.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ giải quyết các
vấn đề chủ yếu sau:
4
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận thực hiện pháp luật về bồi thường,
hỗ trợ và khi nhà nước thu hồi đất của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân.
- Phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất tại địa bàn quận Hải An, thành phố Hải Phòng. Qua đó, chỉ
ra các quy định phù hợp, chưa phù hợp; việc áp dụng pháp luật đúng hay
không đúng của các chủ thể thực hiện pháp luật trên địa bàn quận Hải An
cũng như những tồn tại, hạn chế của việc áp dụng pháp luật và nguyên nhân
của nó trong việc bồi thường hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.
- Đề xuất giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất của tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và các quy định của Pháp luật
Việt Nam về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và thực trạng thực hiện các
quy định này trong thực tiễn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Tập trung nghiên cứu quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất theo Luật đất đai 2013 và các văn bản hướng dẫn thi
hành; so sánh với bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất theo các văn
bản pháp luật ban hành trước năm 2013.
- Tập trung nghiên cứu vào việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất trên địa bàn quận Hải An, thành phố Hải Phòng
- Phạm vi thời gian: từ 2013 đến năm 2018
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm
5
nghiên cứu vấn đề trong trạng thái vận động biến đổi không ngừng và trong
mối quan hệ tổng thể tác động qua lại giữa hiện tượng nghiên cứu với các
hiện tượng khác, đồng thời các hiện tượng nghiên cứu luôn được xem xét
trong quá trình từ hình thành đến phát triển qua các giai đoạn lịch sử khác
nhau. Bên cạnh đó, tôi cũng dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm,
đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước trong điều kiện
xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để làm sáng tỏ nội
dung nghiên cứu của luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành nghiên cứu, đề tài còn vận dụng các biện pháp nghiên cứu
cụ thể sau đây:
- Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp: Thông tin thứ cấp được thu
thập chủ yếu là các quy định của cơ quan nhà nước ở Trung ương, của Uỷ ban
nhân dân thành phố Hải Phòng, Uỷ ban nhân dân quận Hải An và các cơ quan
liên ngành về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Nguồn thông tin
này được thu thập chủ yếu qua Công báo, các trang web của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Đồng thời, tôi cũng thông qua các quyết định, báo cáo, ý
kiến chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng, các cơ quan liên
ngành, Ban chỉ đạo giải phóng mặt bằng thành phố, Uỷ ban nhân dân quận
Hải An và thông qua các công trình, bài viết, tạp chí, internet…để lấy thông
tin, số liệu liên quan đến pháp luật và thực trạng thực hiện pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất tại địa bàn quận Hải An, thành phố
Hải Phòng từ khi Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực đến nay.
- Phương pháp tổng hợp, phân tích: Phương pháp này được được sử
dụng để tổng hợp và phân tích các quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ khi Nhà nước thu hồi đất, cũng như các thông tin về thực tiễn áp dụng.
Phương pháp này còn được sử dụng để có được các nhận xét, đánh giá trình
bày trong luận văn.
6
- Phương pháp thống kê: Phương pháp này được sử dụng nhằm xử lý
các tài liệu, các số liệu mà tôi thu thập trong quá trình khảo sát thực tiễn thực
hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Qua đó, tôi có
được các số liệu, thông tin tin cậy trình bày trong luận văn.
- Phương pháp điều tra xã hội học: Phương pháp này chủ yếu được thực
hiện bằng cách phỏng vấn trực tiếp một số cán bộ lãnh đạo Uỷ ban nhân dân
quận Hải An, các cán bộ tham gia trực tiếp lập phương án bồi thường, hỗ trợ
của Trung tâm phát triển quỹ đất thuộc Ban chỉ đạo giải phóng mặt bằng
thành phố Hải Phòng và Ban bồi thường, hỗ trợ, tái định cư quận Hải An, một
số chuyên gia trong lĩnh vực pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất, người bị thu hồi đất, nhà đầu tư…
Ngoài ra, tôi còn sử dụng các phương pháp: diễn dịch, quy nạp, so
sánh, logic...để nghiên cứu và làm sáng tỏ nội dung của luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Hệ thống hoá và góp phần phát triển, bổ sung cơ sở lý luận và thực
tiễn về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và thực hiện pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam, đặc biệt, phân tích, làm rõ cơ
chế điều chỉnh của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; phân
tích làm rõ bản chất của việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.
- Luận văn đã phân tích nội dung các quy định về bồi thường, hỗ trợ
khi Nhà nước thu hồi đất, đánh giá thực trạng thi hành lĩnh vực pháp luật này
và chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Trên cơ sở đó, đề cập yêu cầu, định hướng và đưa ra các giải pháp cụ thể
hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam.
- Luận văn là tài liệu tham khảo bổ ích không chỉ đối với các nhà hoạch
định chính sách, pháp luật đất đai, các nhà quản lý đất đai mà còn là tài liệu
7
chuyên khảo cho công tác giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học pháp lý
đất đai ở các cơ sở đào tạo luật của nước ta.
7. Cơ cấu luận văn
Luận văn được kết cấu gồm 3 chương ngoài phần mở đầu, kết luận và
danh mục tài liệu tham khảo
Chương 1: Một số vấn đề lý luận thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ đối với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất.
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận Hải An, thành phố Hải Phòng.
Chương 3: Giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ
khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận Hải An, thành phố Hải Phòng.
8
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ BỒI THƢỜNG, HỖ TRỢ ĐỐI VỚI TỔ CHỨC, HỘ GIA ĐÌNH,
CÁ NHÂN KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT
1.1. Khái niệm, mục đích, yêu cầu và các điều kiện bồi thƣờng, hỗ
trợ khi Nhà nƣớc thu hồi đất
1.1.1 Khái niệm bồi thường, hỗ trợ
Để có cách hiểu toàn diện và sâu sắc thuật ngữ “bồi thường”, cụm từ
“bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất” ta cần phải xem xét, nghiên cứu
trên nhiều phương diện khác nhau. Trong đời sống thực tiễn, “bồi thường”
được sử dụng trong trường hợp một người nào đó có hành vi gây thiệt hại
cho một người khác phải có trách nhiệm bồi thường những thiệt hại do hành
vi của mình gây ra [11]. Hình thức bồi thường có thể là vô hình (xin lỗi)
hoặc hữu hình (bồi thường bằng tiền hoặc bằng hiện vật khác). Việc bồi
thường có thể do các quy định của pháp luật điều chỉnh hoặc do chính sự
thỏa thuận giữa các bên.
Riêng lĩnh vực pháp luật đất đai, thuật ngữ “bồi thường” khi nhà nước
thu hồi đất được ghi nhận từ rất sớm. Tại Nghị định 151/TTg ngày 14/01/1959
của Hội đồng Chính phủ quy định Thể lệ tạm thời về trưng dụng ruộng đất, tại
Chương II đã đề cập việc “bồi thường cho người có ruộng đất bị trưng dụng”.
Tiếp theo, Luật đất đai năm 1987 thuật ngữ “đền bù” được sử dụng thay cho
thuật ngữ “bồi thường”. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai
năm 2001, tại Điều 1, Khoản 9 (sửa đổi, bổ sung Điều 27, Luật Đất đai năm
1993), thuật ngữ “bồi thường” được sử dụng trở lại và thay thế thuật ngữ “đền
bù”. Thuật ngữ “bồi thường” tiếp tục được sử dụng tại Luật đất đai năm 2003
và 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai 2013.
9
Đề cập khái niệm này Khoản 12, Điều 3, Luật đất đai năm 2013 đưa
ra cách giải thích như sau: “Bồi thường về đất là việc Nhà nước trả lại giá
trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người sử dụng đất”.
[17]
Như vậy, bồi thường khi nhà nước thu hồi đất chỉ diễn ra khi Nhà nước
thu hồi một diện tích đất nào đó vì lợi ích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc
gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế. Thực chất, đây chính là việc giải
quyết mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với người bị thu hồi đất và nhà
đầu tư. Do đó, việc bồi thường khi khi nhà nước thu hồi đất phải thực hiện
theo quy định của Nhà nước về giá đất; về điều kiện, trình tự, thủ tục và
nguyên tắc thực hiện.
Cũng cần phải nhấn mạnh rằng, việc bồi thường khi khi nhà nước thu
hồi đất không giống với việc bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực pháp luật
dân sự, hình sự, lao động. Bởi lẽ, nó không những phải đảm bảo lợi ích
của người bị thu hồi đất, mà còn phải đảm bảo lợi ích của Nhà nước, của xã
hội và của người nhận lại quyền sử dụng đất sau khi thu hồi.
“Hỗ trợ” là việc khi Nhà nước thu hồi đất, Nhà nước có chính sách giúp
đỡ, tạo điều kiện cho người có đất bị thu hồi ổn định đời sống sản xuất, vượt
qua khó khăn khi bị thu hồi đất. Các khoản hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
bao gồm: hỗ trợ ổn định đời sống sản xuất; hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và
tìm kiếm việc làm đối với trường hợp thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia
đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp; thu hồi đất ở kết hợp kinh doanh
dịch vụ của hộ gia đình, cá nhân mà phải di chuyển chỗ ở; hỗ trợ tái định cư
đối với trường hợp thu hồi đất ở của hộ gia đình cá nhân người Việt Nam định
cư ở nước ngoài mà phải di chuyển chỗ ở; hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề,
tìm kiếm việc làm cho hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất; hỗ trợ
khác [17, tr.49 -50]
10
1.1.2 Mục đích và yêu cầu của bồi thường, hỗ trợ
Hoạt động bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là vấn đề phức
tạp, vừa mang tính chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội, vừa mang tính thời sự
cấp bách. Công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
những năm qua trên cả nước bước đầu đã tạo ra nhiều đổi mới cho khu vực
nông thôn, khu vực đô thị, ven đô thị như: Tạo bước chuyển dịch về cơ cấu
kinh tế, cơ cấu lao động, ngành nghề, thu hút đầu tư... góp phần đẩy nhanh
tiến trình hiện đại hóa nền kinh tế, xã hội của địa phương, của vùng và cả
nước. Tuy nhiên, việc bồi thường thời gian qua đã gặp không ít khó khăn do
nhiều yếu tố chủ quan, khách quan, vì vậy, việc bồi thường, hỗ trợ của nhà
nước những năm qua vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của sự phát triển và đã gây ra
nhiều khiếu nại, khiếu kiện, bất ổn định về xã hội và tình hình trật tự trong cả
nước. Đặc biệt khi các cơ quan nhà nước thực hiện áp dụng giá bồi thường và
chính sách hỗ trợ chưa thống nhất trong cả nước nên đã ảnh hưởng trực tiếp
đến đời sống của cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng dân cư, nhất là trong việc
bồi thường về giá đất tại địa phương.
Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất được xem xét trên cơ sở
hàng loạt các yếu tố về cơ chế, pháp luật và con người, cùng những điều kiện
kinh tế, xã hội khác nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm trong công tác
thu hồi đất của các cấp, các ngành. Đây cũng sẽ là cơ hội cho các nhà chuyên
môn, các nhà lãnh đạo địa phương nâng cao khả năng sắp xếp lại dân cư, xây
dựng kết cấu hạ tầng, tổ chức lại sản xuất, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, giải quyết việc làm, góp phần thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế - xã hội,
an ninh quốc phòng trên địa bàn địa phương.
1.1.3. Các điều kiện bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
1.1.3.1. Điều kiện để được bồi thường
Theo quy định tại Điều 75 Luật đất đai, người bị Nhà nước thu hồi đất
có một trong những điều kiện sau đây thì được bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất:
11
- Có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Pháp luật
đất đai.
- Có quyết định giao đất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy
định của pháp luật đất đai.
- Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ổn định, được Ủy ban nhân dân xã,
phường, trị trấn (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp xã) xác nhận
không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây:
Những giấy tờ về quyền sử dụng đất đai bao gồm: giấy tờ do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền cấp trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 trong quá
trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa,
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng
ký ruộng đất, sổ Địa chính; Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng, cho quyền sử
dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với
đất; Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với
đất trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác
nhận là đất sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993; Giấy tờ thanh lý, hóa
giá nhà ở, mua nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật; Giấy tờ
do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất [17]
- Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong những loại giấy
tờ quy định được kể trên mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy
tờ về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên liên quan,
nhưng đến thời điểm có quyết định thu hồi đất chưa thực hiện thủ tục chuyển
nhượng sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được Ủy ban nhân dân
cấp xã xác nhận không có tranh chấp.
12
- Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có hộ khẩu thường trú
tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy
sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn ở miền núi, hải
đảo, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã nới có đất xác nhận là người đã sử
dụng đất ổn định, không có tranh chấp.
- Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy
tờ quy định như đã kể trên nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày
15 tháng 10 năm 1993, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất đó
không có tranh chấp.
- Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất theo bản án hoặc quy
định của tòa án, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án hoặc quyết định
giải quyết tranh chấp đất đai của nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành.
- Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy
tờ kể trên nhưng đất đã được sử dụng từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến thời
điểm có quyết định thu hồi đất, mà tại thời điểm sử dụng không vi phạm quy
hoạch; không vi phạm hành lang bảo vệ các công trình, được cấp có thẩm
quyển phê duyệt đã công bố công khai, cắm mốc, không phải là đất lấn chiếm
trái phép và được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất bị thu hồi xác nhận đất
đó không có tranh chấp.
- Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà trước đây Nhà
nước đã có quyết định quản lý trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của
Nhà nước, nhưng trong thực tế Nhà nước chưa quản lý, mà hộ gia đình, cá
nhân đó vẫn sử dụng.
- Cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có các công trình là đình, chùa, đền
miếu, am, tư, hương, nhà thờ họ, được Ủy ban nhân dân cấp xã có đất đai bị thu
hồi xác nhận là đất sử dụng chung cho cộng đồng và không có tranh chấp.
Ngoài ra, Tổ chức sử dụng đất trong các trường hợp sau đây cũng được
bồi thường:
13
- Đất được Nhà nước giao cho có thu tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng
đất đã nộp không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước;
- Đất nhận chuyển nhượng của người sử dụng đất hợp pháp mà tiền trả
việc chuyển nhượng không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước;
- Đất sử dụng có nguồn gốc hợp pháp từ hộ gia đình, cá nhân.
1.1.3.2. Điều kiện để được hỗ trợ
- Đối với hộ gia đình, cá nhân, tổ chức kinh tế, doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài đang sử dụng đất thuộc đối tượng quy định tại khoản 1
Điều này đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đủ điều kiện
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất theo quy định của pháp luật về đất đai, trừ trường hợp
quy định tại khoản 2 Điều 77 của Luật đất đai.
- Đối với hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất do nhận giao khoán đất
sử dụng vào mục đích nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản (không
bao gồm đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ) quy định tại các điểm d, đ và e
khoản 1 Điều này thì phải có hợp đồng giao khoán sử dụng đất.”
- Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp quy định tại các
điểm a, b, c khoản 1 Điều 19 của Nghị định này khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp mà được bồi thường bằng tiền; hộ gia đình, cá nhân đang
sử dụng đất quy định tại các điểm d, đ và e khoản 1 Điều 19 của Nghị định
này (trừ trường hợp hộ gia đình, cá nhân là cán bộ, công nhân viên của nông,
lâm trường quốc doanh, của công ty nông, lâm nghiệp được chuyển đổi từ các
nông, lâm trường quốc doanh đã nghỉ hưu, nghỉ mất sức lao động, thôi việc
được hưởng trợ cấp) khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp thì được hỗ trợ
đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm theo quy định sau đây:
- Hỗ trợ bằng tiền không quá 05 lần giá đất nông nghiệp cùng loại trong
bảng giá đất của địa phương đối với toàn bộ diện tích đất nông nghiệp thu hồi;
14
diện tích được hỗ trợ không vượt quá hạn mức giao đất nông nghiệp tại địa
phương theo quy định tại Điều 129 của Luật đất đai.
- Mức hỗ trợ cụ thể do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định căn cứ điều
kiện thực tế của địa phương.
- Người được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất
không thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất mà ứng trước kinh
phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thì được tham gia trong quá trình tổ
chức thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất”
- Đối với dự án đầu tư đã có quyết định thu hồi đất và quyết định phê
duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền nhưng đến trước ngày 01-7- 2014 chưa thực hiện chi trả tiền bồi
thường thì việc xử lý bồi thường chậm thực hiện theo quy định của pháp luật
về đất đai trước ngày 01 -7- 2014.
- Đối với dự án đầu tư đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Khung
chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trước ngày 01-7- 2014 nhưng địa
phương chưa phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư mà chính
sách về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư sau ngày 01 tháng 7 năm 2014 có thay
đổi so với khung chính sách đã được phê duyệt thì bộ, ngành có dự án đầu tư
có trách nhiệm báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định. Bộ, ngành có dự án
đầu tư phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có dự án tổ chức thực hiện
sau khi có quyết định của Thủ tướng Chính phủ.”
1.1.4. Nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
Các chế định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trong Luật Đất
đai năm 2003 trên thực tế không thể thể chế, truyền tải hết các quy định
mang tính nguyên tắc để thực hiện thống nhất khi xử lý những vấn đề phức
tạp phát sinh trong việc bồi thường tại các địa phương, các Bộ, các ngành.
Để khắc phục những vấn đề này, Luật Đất đai 2013 đã tách nguyên tắc
15
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và nguyên tắc bồi thường về tài sản,
ngừng sản xuất, kinh doanh khi Nhà nước thu hồi đất thành hai điều luật
riêng biệt:
Thứ nhất, về nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất:
- Theo quy định của Luật Đất đai 2013, người sử dụng đất sẽ được bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng an ninh,
phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng nhưng không phải tất
cả các chủ thể sử dụng đất bị thu hồi vào các mục đích này đều được bồi
thường. Để được bồi thường họ cần phải đáp ứng một số điều kiện nhất định do
pháp luật quy định, chẳng hạn, họ phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc có
đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận,..
Còn đối với trường hợp người sử dụng đất không đủ điều kiện
được bồi thường thì họ sẽ được xem xét hỗ trợ. Đây không chỉ là nghĩa vụ
pháp lý mà còn là nghĩa vụ xã hội và trách nhiệm chính trị của Nhà nước,
bởi lẽ, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người người dân chính là bảo đảm
sự phát triển bền vững của đất nước và thực hiện tốt vấn đề an sinh xã hội.
- Việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích
sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi
thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do UBND cấp tỉnh
quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất. Theo đó, khi Nhà nước thu hồi
đất thì người sử dụng đất được bồi thường bằng đất cùng loại, nếu không có
đất cùng loại thì bồi thường bằng giá trị tương đương. Giá đất là số tiền tính
trên một đơn vị diện tích đất do UBND cấp tỉnh nơi có đất quyết định tại thời
điểm thu hồi đất. Đây là căn cứ quan trọng để tính giá bồi thường về đất cho
người bị thu hồi đất. Giá đất hợp lý đảm bảo cho việc bồi thường được chính
16
xác, thuận lợi và ngược lại. Tuy nhiên, thế nào được coi là hợp lý bởi người
dân luôn muốn đất của mình có giá cao còn giá bồi thường do Nhà nước quy
định thường thấp hơn so với giá thị trường. Mâu thuẫn về giá đất ảnh hưởng
lớn đến công tác bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, là nguyên nhân chủ
yếu làm nảy sinh khiếu nại, khiếu kiện khi thu hồi đất. Giá đất để tính bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất là căn cứ quan trọng để thực hiện việc bồi
thường cho người bị thu hồi; là nội dung chủ yếu giải quyết mối quan hệ
giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người bị thu hồi đất về lợi ích kinh tế.
Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm dân chủ,
khách quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật.
Đây không chỉ là nguyên tắc trong quá trình bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất mà cũng là mục đích hướng đến của quá trình này. Việc bồi
thường đảm bảo dân chủ, khách quan, công bằng, công khai, kịp thời và
đúng pháp luật sẽ giải quyết triệt để, hài hoà quan hệ lợi ích giữa Nhà
nước, nhà đầu tư và người có đất bị thu hồi, đảm bảo cho pháp chế xã
hội chủ nghĩa được thực thi, niềm tin và sự đồng thuận của người dân bị
thu hồi đất với Nhà nước sẽ được củng cố, đảm bảo ổn định xã hội, phát
triển kinh tế.
Thứ hai, nguyên tắc bồi thường về tài sản, ngừng sản xuất, kinh
doanh khi Nhà nước thu hồi đất:
Khi Nhà nước thu hồi đất mà chủ sở hữu tài sản hợp pháp gắn liền với
đất bị thiệt hại về tài sản thì được bồi thường.
Theo đó, để được bồi thường về tài sản khi Nhà nước thu hồi đất thì
tài sản đó phải gắn liền với đất thuộc về chủ sở hữu hợp pháp là người bị
thu hồi đất và tài sản đó phải xác định bị thiệt hại do hành vi thu hồi đất
của Nhà nước gây ra. Đây là nguyên tắc rất cần thiết, bởi lẽ khi Nhà nước
thu hồi đất, tài sản mà họ đầu tư trên đất sẽ không còn tồn tại, không được
17
bảo toàn và bị thiệt hại, do đó trách nhiệm bồi thường của Nhà nước khi
thu hồi đất là tất yếu.
Khi Nhà nước thu hồi đất mà tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, người
Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
phải ngừng sản xuất, kinh doanh mà có thiệt hại thì được bồi thường.
Theo quy định tại Điều 74 Luật đất đai 2013, Nguyên tắc bồi thường về
đất khi Nhà nước thu hồi đất được xác định như sau:
- Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện được
bồi thường quy định tại Điều 75 của Luật này thì được bồi thường.
- Việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích
sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi
thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất.
- Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm dân chủ,
khách quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật.
[17, tr.45]
Việc thực hiện bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu
không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng đất ở, hoặc được bồi
thường bằng tiền cho phù hợp với thực tế tại địa phương.
Trường hợp người sử dụng đất được bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất nhưng chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai theo quy định của
pháp luật thì phải trừ đi khoản tiền phải thực hiện nghĩa vụ tài chính vào số
tiền được bồi thường, hỗ trợ để hoàn trả ngân sách. Nghĩa vụ tài chính bao
gồm: tiền sử dụng đất phải nộp, tiền thuê đất đối với đất do nhà nước cho
thuê, thuế thu nhập từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các thửa đất
khác của người có đất bị thu hồi (nếu có), tiền thu từ việc xử phạt vi phạm
luật về đất đai, tiền bồi thường cho Nhà nước khi gây thiệt hại trong quản lý
và sử dụng đất đai, phí và lệ phí trong quản lý, sử dụng đất đai.
18
Trong trường hợp khoản nghĩa vụ tài chính về đất đai phải nộp lớn hơn
hoặc bằng tiền bồi thường về đất thì số tiền được trừ tối đa bằng số tiền bồi
thường đất.
Diện tích đất được bồi thường là diện tích đất được xác định trên thực
địa, thực tế đo đạc diện tích thu hồi của từng người sử dụng đất.
1.2. Thực hiện pháp luật về bồi thƣờng, hỗ trợ khi Nhà nƣớc thu hồi đất
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm thực hiện pháp luật và thực hiện pháp
luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
1.2.1.1. Khái niệm
Về diện lý luận về Nhà nước và pháp luật, thực hiện pháp luật là hoạt
động có mục đích nhằm hiện thực các quy định pháp luật, làm cho pháp luật
đi vào cuộc sống và trở thành những hành vi hợp pháp trên thực tế của các
chủ thể pháp luật. Vì thế, thực hiện pháp luật không thể phát huy hiệu lực
trong hoạt động áp dụng pháp luật của các chủ thể pháp luật khi thiếu sự bảo
đảm của Nhà nước, các cơ chế cũng như cơ sở pháp lý của nó.
Thực tế cho thấy, những trường hợp không có sự can thiệp của Nhà
nước thì nhiều quy định của pháp luật sẽ không được thực hiện hoặc thực hiện
không đúng. Thực hiện pháp luật còn được coi là việc Nhà nước thông qua
các cơ quan hoặc cán bộ, công chức có thẩm quyền đứng ra tổ chức cho các
chủ thể thực hiện những quy định của pháp luật hoặc tự mình căn cứ vào các
quy định của pháp luật đưa ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi hay
chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể. Thực hiện pháp luật của các cơ
quan áp dụng pháp luật về thực tiễn và lý luận được trao cho Chính phủ và Uỷ
ban nhân dân các cấp cùng các cơ quan chuyên môn của chúng trong các
trường hợp sau:
Thứ nhất, thực hiện pháp luật khi cần truy cứu trách nhiệm pháp lý đối
với những chủ thể vi phạm pháp luật hoặc cần áp dụng các biện pháp cưỡng
chế Nhà nước đối với tổ chức hay cá nhân nào đó.
19
Thứ hai, khi những quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể không mặc
nhiên phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt nếu thiếu sự can thiệp của Nhà nước;
Ví dụ, quan hệ pháp luật lao động với những quyền và nghĩa vụ lao động cụ
thể giữa một người lao động với một bên là cơ quan, tổ chức Nhà nước chỉ
phát sinh khi có quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tuyển dụng
người lao động đó vào làm việc.
Thứ ba, khi xảy ra tranh chấp quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa các
bên tham gia quan hệ pháp luật mà giữa họ không thể tự điều hòa, giải quyết với
nhau được. Trong trường hợp này quan hệ pháp luật đã phát sinh, những quyền
và nghĩa vụ của các bên không được thực hiện và có sự tranh chấp.
Từ phân tích trên ta có thể định nghĩa: Thực hiện pháp luật là hoạt động
mang tính tổ chức, tính quyền lực nhà nước, được thực hiện thông qua những
cơ quan nhà nước có thẩm quyền, hoặc các tổ chức xã hội khi được Nhà nước
trao quyền, nhằm cá biệt hóa những quy phạm pháp luật vào các trường hợp
cụ thế đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể.
Điều 1 Luật đất đai 2013 quy định: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do
Nhà nước đại diện chủ sở hữu. Do đó, với tư cách đại diện chủ sở hữu, Nhà
nước giao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất và quy định cụ thể những
quyền cũng như nghĩa vụ pháp lý đối với người sử dụng đất [17, tr.4], người
sử dụng gồm tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư và người nước
ngoài. Tuy nhiên, để sử dụng đất đai vào các mục tiêu phát triển nền kinh tế
thị trường, Nhà nước quy định việc thu hồi đất đai trên cơ sở quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt:
Luật đất đai dành một chương (chương 6) quy định về bồi thường và hỗ
trợ khi nhà nước thu hồi đất [17, tr.33-41]
Từ những quy định về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất có
thể thấy rằng, thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ là loại hoạt động
20
mang tính tổ chức - quyền lực Nhà nước, đó là việc các cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền căn cứ vào quy định của pháp luật (Hiến pháp, Luật đất đai, Luật
khiếu nại) về bồi thường, hỗ trợ về giá trị quyền sử dụng đất căn cứ vào mục
đích sử dụng khi thu hồi mà hậu quả pháp lý và giá trị hiệu lực của quyết định
đó sẽ làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một quan hệ pháp luật về đất đai.
1.2.1.2. Đặc điểm thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất
Với khái niệm thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất cho thấy, việc bồi thường, hỗ trợ không chỉ đặt ra và yêu cầu phải
thực hiện, phải tuân thủ đối với đối tượng có đất bị thu hồi, mà còn đặt ra và
yêu cầu đối với các cán bộ có thẩm quyền trực tiếp thực hiện bồi thường, hỗ
trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Vì thế, có thể hiểu bản chất của thực hiện pháp
luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất qua những đặc điểm cơ
bản sau đây:
Thứ nhất, thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất là hành vi hợp pháp của các chủ thể thực hiện pháp luật. Đây là đặc
điểm quan trọng nhất, theo đó, không phân biệt chủ thể thực hiện pháp luật
bồi thường, hỗ trợ là cơ quan nhà nước hay người dân, là tổ chức hay cá nhân,
là chủ thể trong nước hay nước ngoài... đều phải thực hiện hay tuân thủ pháp
luật bằng hành vi hợp pháp của mình. Mọi sự chống đối, không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng các quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ
đều là hành vi trái pháp luật, không được pháp luật thừa nhận, không được
Nhà nước bảo vệ và phải chịu các hình thức pháp lý cụ thể với mỗi hành vi không
hợp pháp của mình.
Thứ hai, thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất được thực hiện bởi nhiều chủ thể khác nhau. Chủ thể đó bao gồm: cơ
quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện chức năng, nhiệm vụ về bồi thường,
21
hỗ trợ. Theo quy định của pháp luật đất đai hiện hành thì cơ quan tham gia
thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ đối với người có đất bị thu hồi bao
gồm: Uỷ ban nhân dân cấp Huyện và cấp Tỉnh ; Ban bồi thường và giải phóng
mặt bằng do Uỷ ban nhân dân cấp Tỉnh hoặc cấp Huyện thành lập, Trung tâm
phát triển quỹ đất. Ngoài ra, thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ còn có
sự tham gia của các cán bộ từ các cơ quan chức năng như: cán bộ xã, phường,
thị trấn, cán bộ địa chính, đại diện của Mặt trận tổ quốc và các thành viên
khác của mặt trận... Cùng với đó, chủ thể không thể thiếu thực hiện pháp luật
về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất đó chính là người có đất thuộc
diện Nhà nước thu hồi. Đó là các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước,
các tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài có
quyền sử dụng đất hợp pháp bị Nhà nước thu hồi để sử dụng cho các mục
đích của Nhà nước. Ngoài ra, chủ thể thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ khi Nhà nước thu hồi đất cũng có thể là chủ thể có quyền và lợi ích hợp
pháp có liên quan đến đất bị thu hồi.
Thứ ba, thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi
đất được thực hiện bởi bốn hình thức: tuân thủ pháp luật, sử dụng pháp luật,
thi hành pháp luật, áp dụng pháp luật. Theo đó, hình thức đầu tiên có thể kể
đến là tuân thủ pháp luật. Hình thức thứ hai là sử dụng pháp luật, ở hình thức
này, các chủ thể thực hiện pháp luật như đã nêu ở trên, đặc biệt là chủ thể có
đất bị thu hồi bằng những hành vi mang tính chủ động nhằm sử dụng những
khả năng pháp luật cho phép trong việc đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng
của mình. Chẳng hạn, pháp luật đất đai hiện hành quy định điều kiện để tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân có đất bị thu hồi để sử dụng cho mục đích quốc
phòng, an ninh là họ phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc giấy tờ
do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp. Bằng quyền này, họ chủ động chứng
minh nguồn gốc đất trên cơ sở giấy tờ đó để được hưởng quyền được bồi
thường và hỗ trợ theo quy định của pháp luật. Sự từ chối bồi thường, hỗ trợ
22
trong trường hợp này của Nhà nước thì bằng quyền khiếu nại, tố cáo của công
dân được Hiến Pháp và Luật đất đai ghi nhận, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân
chủ động thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo hoặc khởi kiện về hành vi vi phạm
để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Tiếp đó, hình thức thứ ba
của thực hiện pháp luật là thi hành pháp luật, hình thức thứ tư là áp dụng
pháp luật. Nếu như sử dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật gắn với
quyền của chủ thể thì hình thức thi hành và chấp hành pháp luật gắn với nghĩa
vụ của chủ thể. Theo đó, các quy định của pháp luật liên quan đến quy trình,
thủ tục và nội dung về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ phải được các cơ quan
làm nhiệm vụ giải phóng mặt bằng tuyệt đối tuân thủ, chấp hành. Cùng với
đó, một khi các quyết định và quy trình đó được thực hiện đúng thì buộc các
chủ thể có đất bị thu hồi phải chấp hành. Mọi sự chống đối hay gây cản trở
đều là hành vi trái pháp luật. Và theo đó, hiệu quả của việc thực hiện pháp
luật sẽ không cao. Việc chấp hành và thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ
khi Nhà nước thu hồi đất còn bao hàm cả trách nhiệm của các cơ quan thực
hiện chức năng bồi thường, hỗ trợ cũng như các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân
không làm những gì luật đã cấm. Chẳng hạn, pháp luật đất đai hiện hành quy
định biện pháp cưỡng chế đối với người có đất bị thu hồi chỉ đặt ra và thực
hiện sau cùng sau khi đã áp dụng tất cả các biện pháp về hành chính, kinh tế,
giáo dục và thuyết phục, song các cơ quan công quyền lại làm dụng quyền
này, bằng quyền lực của mình áp dụng các biện pháp cưỡng chế ngay sau khi
ra quyết định thu hồi đất mà chưa áp dụng các biện pháp khác nêu trên.
1.2.2. Nội dung thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất
1.2.2.1. Thực hiện ban hành các văn bản pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ khi Nhà nước thu hồi đất
Để thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất, Nhà
nước đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi hành Luật đất đai 2013 như:
23
Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính Phủ hướng dẫn thi
hành Luật đất đai; Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính
Phủ về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất; Nghị định số
01/2017/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định 43/CP-
NĐ; Nghị định số 45/CP-NĐ/2014; Nghị định số 47/CP-NĐ/2014; Thông tư
30/2014/TT-BTNMT ngày 02/6/2014 của Bộ Tài nguyên Môi trường quy
định về hồ sơ giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi
đất; Thông tư 37/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014 của Bộ Tài nguyên Môi
trường quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu
hồi đất; Quyết định số 63/2015/QĐ-TTg ngày 10/12/2015 của Thủ tướng
Chính phủ về chính sách hỗ trợ đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người
lao động bị thu hồi đất.
Trên cơ sở những văn bản do chính phủ và Bộ ngành liên quan ban
hành, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm
quyền ban hành các văn bản áp dụng thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ như quy định về giá đất, áp dụng các phương pháp định giá đất, làm trung
gian cho việc thỏa thuận giá đất để bồi thường giữa nhà đầu tư với người có
đất bị thu hồi v.v…
1.2.2.2 Trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực
hiện pháp luật bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
a. Trách nhiệm của Hội đồng bồi thường, hỗ trợ
Hội đồng bồi thường, hỗ trợ trên địa bàn cấp tỉnh do Ủy ban nhân dân
huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (Ủy ban nhân dân huyện) thành lập, Chủ
tịch Ủy ban nhân dân huyện làm Chủ tịch Hội đồng và các thành viên Hội
đồng gồm đại diện lãnh đạo của các tổ chức sau:
- Trung tâm Phát triển quỹ đất huyện;
- Chủ đầu tư;
24
- Phòng Tài chính huyện;
- Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện;
- Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thực hiện dự án;
- Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã.
- Một số thành viên khác do Chủ tịch Hội đồng giải phóng mặt bằng
quyết định cho phù hợp với thực tế tại huyện.
Khi dự án có thu hồi đất trên địa bàn từ hai huyện trở lên (thuộc phạm
vi khu kinh tế, khu công nghiệp mở rộng, có một phần diện tích đất của
huyện), có diện tích thu hồi đất lớn thì Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định thành
lập Hội đồng giải phóng mặt bằng tỉnh do lãnh đạo Ủy ban nhân dân tỉnh làm
Chủ tịch, các thành viên Hội đồng gồm đại diện lãnh đạo của các tổ chức sau
cùng tham gia:
- Các Trung tâm Phát triển quỹ đất của hai huyện;
- Chủ đầu tư hoặc Ban Quản lý dự án;
- Sở Tài chính;
- Sở Tài nguyên và Môi trường;
- Sở Xây dựng;
- Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh;
- Ủy ban nhân dân hai huyện có đất bị thu hồi;
- Ủy ban nhân dân cấp xã có đất bị thu hồi.
Hội đồng bồi thường, hỗ trợ có trách nhiệm chỉ đạo công tác giải phóng
mặt bằng, triển khai công tác kiểm kê, áp giá bồi thường, lập phương án bồi
thường, hỗ trợ, di dời, tái định cư, xử lý các vướng mắc, tổng hợp đề xuất
trình Ủy ban nhân dân huyện phê duyệt, chỉ đạo giải quyết.
b. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp
Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp quận, huyện
- Ủy ban nhân dân có trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức, điều hành các cơ
quan chuyên môn trực thuộc và tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng
25
mặt bằng phối hợp thực hiện nhiệm vụ bồi thường được quy định theo thẩm
quyền.
- Chỉ đạo, tổ chức, tuyên truyền, vận động tổ chức, cá nhân về chính
sách bồi thường và thực hiện giải phóng mặt bằng theo đúng quy định thu hồi
đất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
- Chỉ đạo tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng cùng
cấp lập và tổ chức thực hiện phương án bồi thường. Ngoài ra Uỷ ban nhân
dân còn thực hiện phê duyệt phương án bồi thường đối với trường hợp thu hồi
đất theo thẩm quyền; thực hiện phối hợp với Sở Lao động, Thương binh và
Xã hội lập phương án đào tạo, chuyển đổi và tìm kiếm việc làm cho người
trong độ tuổi lao động tại địa phương; giải quyết khiếu nại, tố cáo của công
dân về bồi thường theo thẩm quyền; ra quyết định cưỡng chế và tổ chức
cưỡng chế đối với các trường hợp thuộc thẩm quyền; phối hợp với các cơ
quan chức năng tổ chức thực hiện việc cưỡng chế theo quyết định của cơ quan
có thẩm quyền;…
Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp xã:
- Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức tuyên truyền về mục
đích thu hồi đất, chính sách bồi thường của dự án.
- Phối hợp với Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng
thực hiện xác nhận đất đai, tài sản của người bị thu hồi và chịu trách nhiệm
trước pháp luật trong việc xác nhận điều kiện được bồi thường theo Điều 4
của Quy định này liên quan đến quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở của
hộ gia đình, cá nhân có đất thu hồi tại địa phương; phối hợp chặt chẽ với Tổ
chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng trong quá trình thực hiện
thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng tại địa phương.
c. Trách nhiệm của các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh
Sở Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm:
26
- Chủ trì công tác thẩm định phương án bồi thường đối với trường hợp
thu hồi đất thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân tỉnh;
- Hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện các quy định, chính sách về bồi thường;
- Hướng dẫn việc xác định và xử lý những vướng mắc về diện tích đất,
loại đất, vị trí đất và thẩm định điều kiện được bồi thường và không được bồi
thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định của pháp luật đất đai;
- Hướng dẫn việc xác định quy mô diện tích đất thuộc đối tượng được
bồi thường hoặc không được bồi thường, mức độ bồi thường hoặc hỗ trợ cho
từng người sử dụng đất bị thu hồi làm cơ sở cho việc tính toán bồi thường;
- Tổ chức thực hiện xác định giá đất trong công tác bồi thường;
- Tổng hợp và thông qua Ủy ban nhân dân tỉnh báo cáo Bộ Tài nguyên
và Môi trường về tình hình và kết quả thực hiện thu hồi đất, bồi thường tại địa
phương trước ngày 01 tháng 12 hàng năm.
Sở Tài chính có trách nhiệm:
- Thẩm định dự toán chi phí cho công tác tổ chức thực hiện bồi thường
đối với các dự án theo thẩm quyền. Kiểm tra, hướng dẫn Tổ chức làm nhiệm
vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng lập dự toán, báo cáo quyết toán về kinh
phí tổ chức thực hiện bồi thường theo quy định.
Sở Kế hoạch và Đầu tư có trách nhiệm: Chủ trì, phối hợp với Sở Tài
chính cân đối và bổ sung nguồn vốn ngân sách đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn
cho bồi thường theo kế hoạch được Uỷ ban nhân dân tỉnh giao.
Sở Xây dựng có trách nhiệm:
- Hướng dẫn việc xác định diện tích, tính hợp pháp, không hợp pháp
của các công trình xây dựng gắn liền với đất bị thu hồi làm cơ sở cho việc
tính toán bồi thường.
- Hướng dẫn phương pháp tính giá trị xây dựng mới của nhà, công
trình; đơn giá bồi thường nhà ở, công trình kiến trúc và xác định tỷ lệ còn lại
27
của các kết cấu chính của công trình, việc phân định diện tích trong nhà ở,
công trình công cộng;
- Tham mưu Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành quy định về diện tích đất ở
còn lại sau khi thu hồi không đủ điều kiện để ở; quy định đơn giá nhà ở, công
trình kiến trúc;
- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan hướng dẫn xử lý những
vướng mắc về việc xác định giá nhà, công trình xây dựng khác để bồi thường
theo phạm vi quyền hạn được giao.
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có trách nhiệm:
- Tham mưu cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ban hành quy định về đơn
giá cây trồng, vật nuôi;
- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan hướng dẫn xử lý những
vướng mắc về việc xác định giá cây trồng, vật nuôi để bồi thường, hỗ trợ theo
phạm vi quyền hạn được giao.
Sở Lao động, Thương binh và Xã hội có trách nhiệm:
Lập và tổ chức thực hiện phương án đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm
kiếm việc làm cho người trong độ tuổi lao động tại địa phương và trình Ủy
ban nhân dân tỉnh quy định mức hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm
việc làm phù hợp với từng loại hộ gia đình, cá nhân có đất thu hồi.
Trung tâm phát triển quỹ đất có trách nhiệm:
Thực hiện ứng vốn cho Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng
mặt bằng tạo quỹ đất sạch để giao đất, cho thuê đất thực hiện theo Quy chế
mẫu về quản lý, sử dụng Quỹ phát triển đất.
d. Trách nhiệm của tổ chức (chủ đầu tư) được giao nhiệm vụ bồi thường,
hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
- Phối hợp với Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng
lập phương án bồi thường theo Quy định này trình cấp có thẩm quyền phê
28
duyệt; bảo đảm kinh phí đầy đủ, kịp thời để thực hiện bồi thường đối với
trường hợp tự nguyện ứng trước triền bồi thường.
- Phối hợp với Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng
hướng dẫn, giải đáp thắc mắc của người sử dụng đất về những vấn đề liên
quan đến việc bồi thường.
1.2.2.3 Thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
Thủ tục bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đấ ứ ợc
thực hiện qua nhiều bướ ễ ững tiêu cự
ật từ việ ểm đếm đất đai đến việc chi chả chậm,
không đầy đủ cho người dân được bồi thường, hỗ trợ. Điều này không chỉ ảnh
hưởng trực tiếp đến thiệ ủa Nhà nước, của người dân có đất bị thu hồi
mà về lâu dài còn gây khiếu kiện, mâu thuẫn, bất ổn, mất lòng tin của người
dân đối với chính quyền. Vì vậy mà tron ực hiệ ồi
thường, hỗ trợ đối với người dân có đất bị thu hồi luôn cần có sự kiể
ặt chẽ. Mọi quy trình, thủ tục cần có sự
ịnh củ ật để bảo đảm sự kiểm tra, thủ
chỉ thôn ớc mà cần bảo đả ế
dân chủ, sự ủa người dân, kịp thời giải quyế ế ố
và có biệ ử lý khắc phụ ồng thời có hình
thức xử ối vớ ộ ễu trong
thực thi nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ người dân khi Nhà nước thu hồi đất.
1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng tới việc thực hiện pháp luật về bồi
thƣờng, hỗ trợ khi Nhà nƣớc thu hồi đất
1.3.1. Yếu tố chính trị
Thứ nhất, quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng, hoàn thiện
chính sách, pháp luật đất đai nói chung và chính sách, pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng.
29
Xét về phương diện lý luận, pháp luật là sự thể chế hoá, quan điểm,
đường lối, chủ trương của Đảng. Hoạt động xây dựng pháp luật đất đai nói
chung và pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng
không thể “thoát ly” các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về tiếp
tục đổi mới chính sách, pháp luật đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện
công cuộc đổi mới đất nước. Ở nước ta, trong điều kiện một Đảng cầm
quyền, một trong những phương thức lãnh đạo của Đảng là ban hành các
quan điểm, đường lối, chủ trương về phát triển đất nước. Trên cơ sở đó,
Nhà nước thể chế hoá các quan điểm, đường lối của Đảng bằng các quy
định của pháp luật để quản lý xã hội. Như vậy, quan điểm, đường lối của
Đảng có tác động trực tiếp đến quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật đất
đai nói chung và pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nói riêng.
Thứ hai, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai
Ở nước ta, do tính đặc thù đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước
đại diện chủ sở hữu. Chế độ sở hữu đó đã tác động đến nội dung các quy
định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất thể hiện trên
một số khía cạnh cơ bản sau đây: Một là, ở nước ta, trong trường hợp thật
cần thiết khi Nhà nước có nhu cầu sử dụng đất vì mục đích quốc phòng, an
ninh; lợi ích quốc gia,…thì Nhà nước thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất do Nhà nước quản lý mà không mua đất của chủ đất
như các nước có chế độ sở hữu tư nhân về đất đai; Hai là, việc bồi
thường, hỗ trợ cho người bị thu hồi căn cứ vào giá đất cụ thể do Nhà nước
xác định tại thời điểm thu hồi chứ không căn cứ vào giá đất trên thị trường;
Ba là, không phải bất cứ người bị thu hồi nào cũng được Nhà nước bồi
thường mà chỉ những người sử dụng có đủ các điều kiện theo quy định mới
được bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất; Bốn là, không phải bất cứ cơ
quan nhà nước nào cũng có thẩm quyền thu hồi đất mà chỉ những cơ quan
được pháp luật cho phép thì mới được thu hồi đất [34, tr.49].
30
1.3.2. Yếu tố kinh tế
Cơ chế quản lý kinh tế cũng có những tác động nhất định đến pháp
luật bồi thường khi nhà nước thu hồi đất. Trước đây, trong cơ chế quản lý
kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp pháp luật nghiêm cấm việc mua bán,
chuyển nhượng đất đai. Do đó, đất đai có giá trị thấp. Tuy nhiên, kể từ khi
nền kinh tế nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, Nhà nước chủ
trương xây dựng và phát triển nhiều thành phần kinh tế; các thành phần
kinh tế bình đẳng trước pháp luật… Trong điều kiện kinh tế thị trường cơ
chế quản lý đất đai có sự thay đổi: Nhà nước thừa nhận Q u y ề n s ử
d ụ n g đ ấ t là loại hàng hoá đặc biệt và được trao đổi trên thị trường.
Việc thu hồi đất gặp nhiều khó khăn do người bị thu hồi đất không đồng
thuận với phương án bồi thường khi nhà nước thu hồi đất, phát sinh các
tranh chấp, khiếu kiện vượt cấp, phức tạp, kéo dài, tiềm ẩn nguy cơ gây
mất ổn định xã hội, vì vậy, pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi
đất thường xuyên được rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện nhằm đáp
ứng yêu cầu của quản lý đất đai trong điều kiện kinh tế thị trường.
1.3.3. Yếu tố tâm lý xã hội, nhận thức xã hội
Công tác bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất cũng chịu tác động
không nhỏ của tâm lý và nhận thức xã hội của người có đất bị thu hồi, tổ
chức cá nhân sử dụng đất sau khi thu hồi bởi với truyền thống văn hóa, các
quan niệm được hình thành trong đời sống xã hội như quan niệm về phong
thủy, tâm lý số đông đã tác động trực tiếp đến công tác bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất. Nếu việc bồi thường, hỗ trợ phù hợp với quan niệm,
phong thủy hoặc nhân dân chấp hành tốt pháp luật về quyền, lợi ích của
mình sẽ tạo được động lực thúc đẩy quá trình phât triển, nhân dân đồng tình
ủng hộ, thống nhất di dời vào nơi ở mới từ đó sẽ giúp cho quá trình giải
phóng mặt bằng được nhanh hơn. Ngược lại, nếu nhận thức xã hôị chưa
31
cao, người bị thu hồi đất có tâm lý không muốn di dời giải tỏa đến nơi ở mới
sẽ tác động tiêu cực đến kết quả thực thị pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất.
1.3.4. Yếu tố hội nhập quốc tế
Quá trình hội nhập quốc tế cũng có những tác động không nhỏ tới pháp
luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất. Để gia nhập các tổ chức Thương
mại thế giới, các hiệp định song phương, đa phương…nước ta cam kết tuân
thủ và thực thi nghiêm chỉnh các quy định, luật lệ của Tổ chức này. Những
nguyên tắc cơ bản mà Tổ chức Thương mại thế giới đặt ra và yêu cầu các
quốc gia thành viên phải cam kết; đó là: Nguyên tắc bình đẳng, không phân
biệt đối xử trong kinh doanh; nguyên tắc công khai, minh bạch; cải cách thủ
tục hành chính theo cơ chế một cửa, một đầu mối và thống nhất quy trình
chung áp dụng cho cả nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài trong
việc giải phóng mặt bằng để thực hiện các dự án đầu tư, cơ chế một giá
trong quá trình áp giá bồi thường... là những nội dung liên tục được sửa đổi,
bổ sung và điều chỉnh trong pháp luật hiện hành thời gian qua, chúng đã và
đang dần hài hòa với pháp luật thế giới [31, tr.49].
32
Kết luận Chƣơng 1
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là điều kiện để tồn tại của mỗi
con người và sinh vật khác trên trái đất, là yếu tố đầu vào không thể thiếu
trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Đối với nước ta, trên cơ sở chế độ
sở hữu toàn dân về đất đai, Nhà nước đã quy định về chế độ giao đất, cho
thuê đất, thu hồi đất cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân quản lý, sử dụng để
từng bước tiến tới hiện đại hóa đất nước, từng bước chuyển đổi cơ cấu kinh tế
nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ và là yếu tố khách quan của quản lý
nhà nước. Vì vậy chương 1 đã phân tích và làm rõ những vấn đề mang tính lý
luận như : Đất đai và vai trò của đất đai, khái niệm, đặc điểm của thu hồi, bồi
thường và hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất ; các điều kiện để được bồi thường,
hỗ trợ, nguyên tắc của bồi thường và hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Luận
văn cũng đưa ra những quy định pháp luật về phương thức bồi thường, hỗ trợ
Nhà nước thu hồi đất. Đặc biệt, Luận văn cũng đã phân tích được bốn yếu tố
cơ bản ảnh hưởng tới việc thu hồi, bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi
đất. Đây là những yếu tố cơ bản làm căn cứ để đánh giá những kết quả và hạn
chế trong quá trình thu hồi đất trên thực tiễn ở quận Hải An, thành phố Hải
Phòng tại chương 2 được chính xác và cụ thể cũng như khách quan hơn.
33
Chƣơng 2
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG, HỖ TRỢ
KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN QUẬN HẢI AN,
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của quận
Hải An, thành phố Hải Phòng có ảnh hƣởng đến việc thực hiện pháp luật
về bồi thƣờng, hỗ trợ khi Nhà nƣớc thu hồi đất
2.1.1. Khái quát chung về quận Hải An, thành phố Hải Phòng
Quận Hải An được thành lập theo Nghị định số 106/NĐ-CP ngày
20/12/2002 của Chính Phủ trên cơ sở sát nhập 05 xã của huyện An Hải và 01
phường của quận Ngô Quyền (đến nay tách ra làm 08 đơn vị hành chính cấp
phường: Đằng Lâm, Đằng Hải, Tràng Cát, Nam Hải, Cát Bi, Thành Tô, Đông
Hải 1 và Đông Hải 2). Vì vậy kinh tế xã hội, cơ sở vật chất của quận mang
dáng dấp của một huyện nhiều hơn là của quận nội thành. Tổng diện tích đất
tự nhiên của quận Hải An là 10.484,29ha, với tổng số dân là 104.070 người.
Quận Hải An nằm ở phía Đông Nam thành phố Hải Phòng, có vị trí địa lý như
sau:
- Phía Tây Bắc giáp quận Ngô Quyền.
- Phía Bắc giáp huyện Thủy Nguyên dọc theo sông Cấm.
- Phía Nam giáp huyện Kiến Thụy dọc theo ranh giới sông Lạch Tray.
- Phía Đông giáp huyện đảo Cát Hải theo ranh giới là cửa biển Nam Triệu.
Với vị trí đó, quận Hải An là đầu mối giao thông quan trọng của thành
phố Hải Phòng với đầy đủ các tuyến đường bộ, đường sông, đường biển,
đường sắt và đường hàng không. Chạy qua địa bàn quận Hải An có trục
đường giao thông liên tỉnh quan trọng nhất là quốc lộ 5 nối liền Hà Nội - Hải
Phòng, có Sân bay quốc tế Cát Bi, hệ thống cảng trải dài… Bên cạnh đó quận
34
Hải An là khu vực mở rộng của Thành phố Hải Phòng về phía đông nam,
thuận lợi cho việc giao lưu với các tỉnh thành khu vực phía bắc, là cửa ngõ có
thể đón nhận các luồng hàng giao lưu với các tỉnh đồng bằng châu thổ sông
Hồng và mở rộng thị trường. Là quận phát triển năng động, tốc độ tăng
trưởng cao, chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng công nghiệp - dịch vụ; giá trị
sản xuất nông, lâm, thủy sản trên địa bàn còn không đáng kể. Tổng giá trị sản
xuất của các nhóm ngành kinh tế trên địa bàn năm 2017 đạt 52.000 tỷ đồng,
tăng 27,6% so với năm 2016. Thu ngân sách có chuyển biến vượt bậc, từ địa
phương có số thu nằm tốp cuối trở thành địa phương đứng trong tốp đầu
thành phố về thu ngân sách và đạt mốc nghìn tỷ; Thu ngân sách nhà nước
năm 2017 tăng 73,9% so với năm 2016 và là một trong 3 địa phương được
thành phố giao tự cân đối thu chi ngân sách.
Công tác đền bù giải phóng mặt bằng đạt nhiều kết quả cao và hoàn
thành khối lượng lớn. Nhiều dự án trọng điểm của quốc gia, thành phố, một
số tập đoàn kinh tế lớn trong nước, quốc tế được khởi công, hoàn thành và đi
vào hoạt động, như: đường ô tô cao tốc Hà Nội – Hải Phòng; Dự án ngã 5 –
Sân bay Cát Bi; đường World Bank ; cầu và đường Tân Vũ – Lạch Huyện, hệ
thống cảng contener Đình Vũ, Chùa Vẽ; Cảng hàng không quốc tế Cát Bi,
nhà máy sản xuất lốp ô tô của Tập đoàn Bridgestone; khu du lịch sinh thái
Đảo Vũ Yên, hệ thống cầu vượt đô thị Lê Hồng Phong, đường 356...Kết nối
hạ tầng giao thông, kinh tế, đô thị được tăng cường, tiềm năng, lợi thế phát
triển kinh tế của địa phương được phát huy, bộ mặt đô thị có nhiều đổi mới
theo hướng văn minh, hiện đại.
2.1.2. Những dự án lớn cần thu hồi đất trên địa bàn quận Hải An,
thành phố Hải Phòng (từ năm 2013 đến nay)
Từ năm 2013 đến nay, trên địa bàn quận Hải An lần lượt triển khai 33
dự án lớn; các dự án thu hồi đất đều vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát
35
triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng theo Điểm a, Khoản 1,
Điều 16 Luật đất đai 2013. Hầu hết các dự án thu hồi đất đều đúng tiến độ và
được sự đồng tình, ủng hộ cao của các tầng lớp nhân dân, tuy nhiên một số dự
án thu hồi đất còn gặp một số khó khăn, vướng mắc do nhiều nguyên nhân:
giá đất bồi thường chưa tương xứng, các chính sách hỗ trợ chưa thỏa đáng, cá
biệt có những dự án các hộ dân bị các phần tử xấu kích động, xúi giục đòi hỏi
quyền lợi, khiếu kiện các cấp gây phức tạp tình hình an ninh trật tự tại địa
phương, điển hình như: Dự án đầu tư cải tạo, nâng cấp đường 356 đoạn 2A từ
ngã 3 Nguyễn Bỉnh Khiêm đến đập Đình Vũ, Dự án đầu tư mở rộng Cảng
hàng không quốc tế Cát Bi...
Hiện tại, trên địa bàn Hải An còn vướng mắc về giải phóng mặt bằng
đối với một số hộ dân thuộc khu vực nút giao khác mức Nguyễn Bỉnh Khiêm-
Đình Vũ và dự án phát triển giao thông đô thị Hải Phòng, dự án thoát nước
mưa, nước thải và quản lý chất thải rắn (giai đoạn 1); quận đang tích cực phối
hợp các cơ quan liên quan của thành phố tổ chức rà soát, tổ chức giải phóng
mặt bằng đúng quy định.
Các dự án đã và đang triển khai trên địa bàn quận Hải An thời gian qua
có tác dụng rất lớn trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội thành phố nói
chung và quận Hải An nói riêng. Trong 15 năm xây dựng và phát triển, thành
công lớn nhất của Hải An chính là giải phóng mặt bằng để phát triển hạ tầng
giao thông-đô thị. Đây là việc làm khó, ảnh hưởng đến quyền lợi của nhân
dân, doanh nghiệp, song với sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị và sự
đồng thuận của nhân dân, từ năm 2004 đến năm 2017, quận Hải An thực hiện
kiểm kê và giải phóng mặt bằng 172 dự án với diện tích 4.167,2 ha, tương
đương 39,75% tổng diện tích đất tự nhiên, liên quan đến 9.351 tổ chức và cá
nhân. Có mặt bằng, hàng loạt dự án phát triển đô thị tại các phường Đằng Hải,
Đằng Lâm, Thành Tô, Cát Bi, Đông Hải 1, Đông Hải 2… hoàn thành, góp
36
phần mở rộng đô thị quận theo hướng văn minh, hiện đại. Nhiều công trình
giao thông trọng điểm quốc gia và thành phố qua địa bàn quận như: đường ô
tô cao tốc Hà Nội-Hải Phòng, đường Tân Vũ - Lạch Huyện, đường 356,
đường trục khu công nghiệp Đình Vũ, cầu Bạch Đằng, Cảng hàng không quốc
tế Cát Bi... nhanh chóng đi vào hoạt động, đưa Hải An trở thành đầu mối giao
thông trọng điểm của thành phố. Hiện, Hải An là địa phương cấp quận duy
nhất của cả nước hội tụ đủ 5 loại hình giao thông: đường thủy nội địa, luồng
hàng hải, đường bộ, đường sắt trong cảng và đường hàng không. Lợi thế này
đưa Hải An trở thành điểm thu hút đầu tư hấp dẫn. Bán đảo Đình Vũ từ một
vùng đất hoang hóa ven biển nhưng có nhiều tiềm năng, lợi thế, thu hút nhiều
doanh nghiệp phát triển về cảng biển, kho bãi, vận tải, dịch vụ logistics, sản
xuất công nghiệp... Đình Vũ ngày nay trở thành một đầu mối cảng biển lớn
nhất miền Bắc với hàng chục doanh nghiệp cảng, kho bãi ICD. Nhiều doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lựa chọn khu công nghiệp Đình Vũ và các
cụm công nghiệp trên địa bàn Hải An để phát triển sản xuất. Cho đến nay, quận
Hải An thu hút nguồn vốn đầu tư đạt 79.611 tỷ đồng, tăng bình quân
21,28%/năm. Riêng năm 2017, quận thu hút 13.208 tỷ đồng, tăng gấp 12,29 lần
so với năm 2004. Sản xuất phát triển, từ địa phương có số thu nằm tốp cuối,
Hải An trở thành địa phương đứng trong tốp đầu thành phố về thu ngân sách.
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về bồi thƣờng, hỗ trợ trên địa
bàn quận Hải An, thành phố Hải Phòng
2.2.1. Về ban hành các quy định hướng dẫn thi hành Luật đất đai về
bồi thường, hỗ trợ
Luật Đất đai 2013 với cơ chế thu hồi đất, công tác bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất thực sự đã có những đổi mới quan trọng, nhằm đảm bảo
cho quyền lợi của người sử dụng đất, giá đất bồi thường được điều chỉnh
sao cho sát với giá thị trường nhằm đảm bảo quyền lợi về kinh tế của người
37
dân bị thu hồi đất. Thực tế cho thấy giá đất là một trong những vấn đề lớn dễ
làm phát sinh khiếu nại trong thu hồi đất thời gian qua. Một khi pháp luật
có sự điều chỉnh theo hướng hạn chế tối đa những thiệt thòi về kinh tế của
người sử dụng đất khi xảy ra thu hồi thì khiếu nại về bồi thường có thể sẽ có
những chuyển biến tích cực. Không chỉ giải quyết bài toán về kinh tế, Luật
Đất đai 2013 thể hiện tinh thần sâu sát với các vấn đề xã hội đặt ra đối với
người dân bị thu hồi đất. Các giải pháp hỗ trợ mang tính đồng bộ cao, từ ổn
định nhà ở, sản xuất, chuyển đổi, tìm kiếm việc làm…đem tới cho người
sử dụng đất niềm tin rằng lợi ích sau thu hồi chí ít cũng bằng với lợi ích mà
họ có trước khi xảy ra thu hồi. Việc phát huy tính công khai, minh bạch, mở
rộng dân chủ thông qua đối thoại giữa chủ thể thu hồi và chủ thể bị thu hồi
là một bước đi tích cực mà nhờ đó người sử dụng đất có cơ hội được bày tỏ
tâm tư, nguyện vọng. Các vướng mắc giữa hai bên cũng có điều kiện được
tháo gỡ, giải quyết và nhờ đó có thể giảm bớt số lượng các vụ việc khiếu nại
liên quan tới thu hồi đất.
Nhằm đảm bảo các điều kiện cho việc tổ chức thi hành Luật Đất
đai năm 2013, tạo ra những chuyển biến rõ rệt về quản lý và sử dụng đất, góp
phần đưa công tác quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố Hải
Phòng đi vào nề nếp. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất
đai; đẩy mạnh cải cách hành chính, bảo đảm công khai, minh bạch trong
quản lý đất đai. Xây dựng hệ thống quản lý đất đai đảm bảo đúng quy định,
ưu tiên đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu, hạ tầng thông tin đất đai hiện
đại. Quán triệt sâu rộng những quy định mới của Luật Đất đai năm 2013 và
cụ thể hóa những nhiệm vụ về triển khai thi hành Luật Đất đai của Thủ
tướng Chính phủ tại Chỉ thị số 01 nhất là đối với cán bộ, công chức, cơ quan,
đơn vị… đang tham gia thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về đất đai, từ
đó tuyên truyền sâu rộng đến các tầng lớp nhân dân, đến người sử dụng
đất, góp phần nâng cao nhận thức về pháp luật đất đai.
38
Sau khi Luật Đất đai 2013 được ban hành, các cơ quan chức năng có
thẩm quyền đã tiến hành tổ chức nghiên cứu, rà soát sửa đổi và ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật đảm bảo đúng quy định của Luật đất đai năm
2013 và phù hợp với thực tế của địa phương.
Cụ thể, ngay sau khi Hội đồng nhân dân thành phố ban hành Nghị
quyết số 29/NQ- HĐND ngày 10/12/2014 về việc thông qua bảng giá đất
thành phố Hải Phòng 05 năm (2015 – 2019) thì Uỷ ban nhân dân thành phố
ban hành Quyết định 2970/2014QĐ-UBND ngày 25/12/2014 quy định về
bảng giá đất thành phố Hải Phòng 05 năm (2015 - 2019); Quyết định: số
2680/2014QĐ-UBND ngày 03 tháng 12 năm 2014 Quy định chi tiết một số
nội dung về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa
bàn thành phố Hải Phòng; Quyết định số 58/2015/QĐ-UBND ngày
12/01/2015 về việc ban hành tập đơn giá cây trồng, vật nuôi thủy sản, chi phí
đầu tư vào đất nuôi trồng thủy sản phục vụ công tác bồi thường, hỗ trợ giải
phóng mặt bằng khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hải Phòng;
Quyết định số 325/2015/QĐ-UBND ngày 05/2/2015 về việc ban hành bộ đơn
giá vật kiến trúc phục vụ công tác bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
trên địa bàn thành phố Hải Phòng; Quyết định số 01/2017/QĐ-UBND ngày
16/6/2017 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng về việc điều chỉnh bảng
giá các loại đất trên địa bàn 7 quận nội thành Hải Phòng 5 năm (2015- 2019);
Quyết định số 632/QĐ-UBND ngày 22/3/2017 về việc phê duyệt giá đất cụ
thể để tính tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất thực hiện dự án đầu tư,
cải tạo nâng cấp đường 356 đoạn 2A từ ngã ba Nguyễn Bỉnh Khiêm đến đập
Đình Vũ trên địa bàn quận Hải An, thành phố Hải Phòng.
Uỷ ban nhân dân thành phố còn thực hiện xây dựng khung giá đất sát
với thị trường để kịp thời bồi thường đúng với quy định và đảm bảo
quyền lợi của người dân. Sở tài nguyên và Môi trường đã phối hợp với Uỷ
39
ban nhân dân các quận, huyện tập trung xây dựng phương án giá đất các
năm 2014, 2015, 2016, 2017, 2018. Đến nay phương án giá các loại đất năm
2019 trên địa bàn thành phố đã được Ban chỉ đạo xây dựng giá đất, Uỷ ban
nhân dân thành phố thông qua, Sở Tài nguyên và Môi trường đã hoàn chỉnh
phương án và gửi Sở Tài chính, Sở Tư pháp thẩm định để Uỷ ban nhân dân
thành phố trình Hồi đồng nhân dân thành phố thông qua vào kỳ họp cuối
năm.
Phương án giá đất được xây dựng trên cơ sở tổng hợp kết quả điều tra
khảo sát giá đất và đề xuất của Uỷ ban nhân dân các quận, huyện nên cơ
bản đảm bảo hài hoà lợi ích giữa nhà nước, nhân dân và các doanh
nghiệp, phù hợp được mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của từng địa
phương. Một số điểm chưa hoàn chỉnh của bảng giá đất đã được điều
chỉnh hợp lý, trong đó đã lưu ý tính ổn định thực hiện quyền và nghĩa vụ
trong việc sử dụng đất của người dân. Đặc biệt việc xây dựng giá đất ở
nông thôn đến địa bàn từng xã (có khác so với năm trước) nhằm các mục
đích đảm bảo phù hợp giữa giá đất các xã của các địa phương có sự khác
biệt về tình hình phát triển hạ tầng giao thông, mức độ đô thị hóa và khả
năng sinh lợi (Ban kinh tế và Ngân sách Hội đồng nhân dân thành phố đã lưu
ý vấn đề này trong Báo cáo thẩm tra phương án giá đất hằng năm của thành
phố). Đồng thời, tạo thuận lợi trong công tác giải phóng mặt bằng, góp
phần đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án đầu tư, hạn chế các khiếu nại
trong công tác bồi thường. Với sự điều chỉnh nói trên, dự kiến bảng giá đất
năm 2019 sẽ có tác động tích cực trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế -
xã hội, thúc đẩy môi trường đầu tư; kích thích thị trường bất động sản phát
triển nhưng không làm tăng tỉ lệ lạm phát; thuận lợi trong công tác quản lý
nhà nước về đất đai, đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của người sử dụng đất,
quyền và nghĩa vụ của các đối tượng bị thu hồi đất; tạo thuận lợi cho việc
40
thực hiện các dự án tạo vốn từ quỹ đất, tạo nguồn thu từ đất, dự án phát
triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ; tạo môi trường thuận lợi cho việc hình
thành và phát triển thị trường bất động sản.
2.2.2. Tình hình thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ cho tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn quận khi bị thu hồi đất
2.2.2.1. Về thành lập Hội đồng bồi thường, hỗ trợ
Để tạo điều kiện cho việc tổ chức bồi thường, hỗ trợ đối với những dự
án thu hồi đất nêu tại mục 2.2.2, Uỷ ban nhân dân thành phố đã ban hành
quyết định số 2680/2014/QĐ-UBND ngày 03/12/2014 Quyết định ban hành
quy định chi tiết một số nội dung về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hải Phòng. Trong đó tại khoản 2 Điều
27 quyết định số 2680 quy định "Hội đồng bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cấp
huyện do lãnh đạo Ủy ban nhân dân cấp huyện làm Chủ tịch Hội đồng, các
thành viên gồm đại diện các cơ quan chuyên môn cùng cấp: Tài chính, Tài
nguyên và Môi trường, Công Thương (kinh tế), Ủy ban nhân dân cấp xã có
đất bị thu hồi, Chủ đầu tư, một số thành viên khác do Ủy ban nhân dân cấp
huyện quyết định cho phù hợp với thực tế ở địa phương".
Căn cứ quyết định của Uỷ ban nhân dân thành phố, Uỷ ban nhân dân
quận thành lập Hội đồng bồi thường hỗ trợ quận Hải An gồm:
- Đồng chí Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân quận làm chủ tịch Hội đồng
- Các thành viên hội đồng gồm: Đại diện lãnh đạo các phòng ban:
+ Phòng Tài chính quận,
+ Phòng Tài nguyên và Môi trường,
+ Phòng kinh tế quận,
+ Phòng Quản lý đô thị,
+ Thanh tra quận,
+ Phòng Lao động – Thương binh – Xã hội quận,
41
+ Văn phòng đăng ký đất đai,
+ Văn phòng Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân quận,
+ Trung tâm phát triển quỹ đất,
+ Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường có đất bị thu hồi,
+ Đại diện Chủ đầu tư.
Hội đồng bồi thường, hỗ trợ có trách nhiệm chỉ đạo tổ công tác tiếp
nhận, thẩm định phương án bồi thường, hỗ trợ theo chức năng, nhiệm vụ được
giao, tổng hợp kết quả thẩm định trình Hội đồng bồi thường, hỗ trợ phê duyệt
phương án bồi thường, hỗ trợ theo quy định của Pháp luật.
2.2.2.2. Về bồi thường đối với những dự án thu hồi
Kể từ khi thành lập Hội đồng bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng
của quận đã thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi giải phóng
mặt bằng với những số liệu cụ thể như sau:
Bảng 2.1. Tình hình giải phóng mặt bằng Quận Hải An
Gia đình Số dự Số đơn vị Số tiền được bố trí Năm án Số diện tích thu hồi (m2) Gia đình (tỷ đồng) nhà
2013 7 855.625,7 350 510 210
2014 6 6.778.621,41 480 850 260
2015 3 105.478,8 220 120 160
2016 6 122.419 198 240 120
2017 8 239.984,58 340 480 250
2018 3 48.565,49 125 250 95
(nguồn: Ban Bồi thường giải phóng mặt bằng quận Hải An - năm 2018)
Trong hơn 5 năm từ 2013 đến năm 2018, Ban bồi thường giải phóng
mặt bằng của quận đã thực hiện công tác giải phóng mặt bằng cho 33 dự án
lớn được triển khai trên địa bàn quận. Trong đó năm 2017 thực hiện nhiều dự
42
án nhất (08 dự án), năm 2014 là năm số dự án ít hơn nhưng lại là năm có diện
tích thu hồi lớn nhất (hơn 6 triệu mét vuông) chiếm ¾ tổng số diện tích đất
thu hồi trong 5 năm. Năm 2014 cũng là năm có số hộ gia đình và đơn vị được
bồi thường lớn nhất (480 hộ và đơn vị) cũng là năm có số tiền bồi thường lớn
nhất. Năm 2018 là năm có số dự án và diện tích thu hồi ít nhất (03 dự án, hơn
48 nghìn mét vuông đất phải thu hồi)
Theo đó việc bồi thường về đất:
- Giá đất tính bồi thường: Giá đất để tính bồi thường là giá đất theo
mục đích sử dụng tại thời điểm quyết định thu hồi đất của cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền, do Uỷ ban nhân dân thành phố Hải phòng quyết định và công
bố công khai vào ngày 01/01 hàng năm (đối với đất nông nghiệp). Hiện nay,
quận Hải An thực hiện việc bồi thường giá đất theo Quyết định số
01/2017/QĐ-UBND ngày 16/6/2017 và Quyết định số 2970/2014/QĐ-UBND
ngày 25/12/2014 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng. Ngoài ra đất ở
bồi thường theo giá đất cụ thể thành phố có quyết định theo từng dự án,
không bồi thường theo giá đất sẽ được chuyển mục đích sử dụng.
Trường hợp trong một dự án có thu hồi đất nông nghiệp ở các vị trí có
mức giá đất và mức hỗ trợ khác nhau thì áp dụng chung một mức giá bồi
thường (do Ủy ban nhân dân thành phố quyết định nhưng không thể áp dụng
đối với những tuyến đường đi qua các quận, huyện khác nhau),
- Bồi thường tài sản, cây trồng vật nuôi
Nội dung bồi thường về tài sản, cây trồng: Bao gồm nhà cửa, công trình
xây dựng, cây trồng, vật nuôi và các tài sản khác gắn liền với đất khi Nhà
nước thu hồi đất mà bị thiệt hại thì được bồi thường theo quy định.
Đối với tài sản, vật kiến trúc trên đất không đủ điều kiện bồi thường thì
tuỳ trường hợp được hỗ trợ bằng 80% giá bồi thường. (Uỷ ban nhân dân thành
phố quy định hỗ trợ khác nhưng không quá 100% giá trị)
43
- Đơn giá bồi thường về tài sản, cây trồng:
Đơn giá bồi thường về tài sản, cây trồng thực hiện theo quy định của
Uỷ ban nhân dân thành phố và Uỷ ban nhân dân quận. Cụ thể:
+ Căn cứ Quyết định số 2680/2014/QĐ-UBND ngày 03/12/2014 của
Ủy ban nhân dân thành phố về việc ban hành quy định chi tiết một số nội
dung về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn
thành phố Hải Phòng;
+ Căn cứ Điều 2; phụ lục số 01 Quyết định số 58/2015/QĐ-UBND
ngày 12/01/2015 của Uỷ ban nhân dân thành phố về việc ban hành Tập đơn
giá cây trồng, vật nuôi thủy sản, chi phí đầu tư vào đất nuôi trồng thủy sản
phục vụ công tác bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu
hồi đất trên địa bàn thành phố Hải Phòng;
+ Căn cứ Quyết định số 1333/QĐ-UBND ngày 20/6/2018 của Ủy ban
nhân dân quận Hải An về việc phê duyệt đơn giá bồi thường, hỗ trợ đối với
một số loại cây không có trong tập đơn giá cây trồng phục vụ công tác bồi
thường, hỗ trợ thực hiện công tác giải phóng mặt bằng các dự án trên địa bàn
quận Hải An, thành phố Hải Phòng;
- Bồi thường hỗ trợ về vật kiến trúc: Các căn cứ để thực hiện
+ Căn cứ Điều 89 Luật đất đai 2013 về Bồi thường thiệt hại về nhà,
công trình xây dựng trên đất khi Nhà nước thu hồi đất;
+ Căn cứ các quyết định của Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng số
2680/2014/QĐ-UBND ngày 03/12/2014 về việc ban hành Quy định chi tiết
một số nội dung về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
trên địa bàn thành phố Hải Phòng; số 324/2015/QĐ-UBND ngày 05/12/2015
quyết định về việc ban hành Bộ đơn giá vật kiến trúc phục vụ công tác bồi
thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng trên địa bàn thành phố Hải Phòng;
+ Căn cứ Công văn số 601/UBND-TH ngày 29/4/2016 của Uỷ ban
nhân dân thành phố Hải Phòng về việc hỗ trợ khác đối với diện tích đất nông
44
nghiệp bị thu hồi vượt hạn mức giao đất ở mới phải thu hồi, giải phóng mặt
bằng và hỗ trợ công trình vật kiến trúc.
2.2.2.3. Chính sách hỗ trợ của quận cụ thể được áp dụng như sau:
a. Hỗ trợ di chuyển:
Khi Nhà nước thu hồi đất ở mà hộ gia đình, cá nhân phải tháo dỡ nhà
và di chuyển đến nơi ở mới, thì được xét hỗ trợ di chuyển. Mức hỗ trợ di
chuyển căn cứ theo Quyết định số 2680/2014/QĐ-UBND ngày 03/12/2014
của Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng, cụ thể:
- Tại khoản 1, Điều 20, Quyết định số 2680/2014/QĐ-UBND ngày
03/12/2014 của Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng quy định " Hỗ trợ đối
với nhân khẩu có tên trong sổ hộ khẩu và thực tế ăn ở trong hộ gia đình có đất
ở bị thu hồi tại thời điểm có quyết định thu hồi đất được hỗ trợ ổn định đời
sống là 3.000.000 đồng/khẩu".
- Tại Điều 25, Quyết định số 2680/2014/QĐ-UBND ngày 03/12/2014
của Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng quy định:
+ Việc hỗ trợ, tái định cư đối với trường hợp thu hồi đất ở của hộ gia
đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà phải di chuyển chỗ ở
theo khoản 2 Điều 22 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP thì được thực hiện theo
quy định sau: Người có đất ở bị thu hồi đủ điều kiện bồi thường về đất ở, nhà
ở được bố trí tái định cư mà có văn bản cam kết tự lo chỗ ở được hỗ trợ một
khoản tiền bằng 30% tiền bồi thường về đất của hộ đủ điều kiện khi bị thu hồi
nhưng tối đa không quá 400.000.000đ/hộ và tối thiểu không dưới
180.000.000đ/hộ đối với khu vực quận, tối đa không quá 250.000.000đ/hộ và
tối thiểu không dưới 100.000.000đ/hộ đối với khu vực huyện.
+ Hộ gia đình, cá nhân khi thu hồi đất mà phải di chuyển chỗ ở trong
phạm vi thành phố được hỗ trợ di chuyển (đến nơi tạm lánh và từ nơi tạm
45
lánh đến khu tái định cư) là 5.000.000 đ/hộ; trường hợp di chuyển sang tỉnh
khác hỗ trợ bằng 7.000.000 đ/hộ.
+ Người bị thu hồi đất ở, nhà ở mà không còn chỗ ở nào khác thì trong
thời gian chờ tạo lập chỗ ở mới (bố trí vào khu tái định cư) được bố trí vào
nhà ở tạm lánh hoặc hỗ trợ tiền thuê nhà ở tạm lánh bằng 12.000.000,00 đ/hộ.
+ Hộ gia đình, cá nhân được giao đất tái định cư, nhà ở tái định cư
được hỗ trợ để ổn định cuộc sống tại khu tái định cư bằng 6.000.000,00đ/hộ.
b. Hỗ trợ ổn định đời sống và ổn định sản xuất
Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp trên địa bàn quận được hỗ trợ như sau:
- Chỉ hỗ trợ đối với thu hồi đất nông nghiệp giao theo quyết định số 03 của
Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng. Đất vườn, ao bồi thường theo mục đích
sử dụng không có hỗ trợ.
- Tại điểm a khoản 3 Điều 19 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 của Chính phủ quy định:
+ Thu hồi từ 30% đến 70% diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng thì
được hỗ trợ trong thời gian 6 tháng nếu không phải di chuyển chỗ ở và trong
thời gian 12 tháng nếu phải di chuyển chỗ ở; trường hợp phải di chuyển đến
các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc có điều kiện kinh tế -
xã hội đặc biệt khó khăn thì thời gian hỗ trợ tối đa là 24 tháng.
+ Đối với trường hợp thu hồi trên 70% diện tích đất nông nghiệp đang
sử dụng thì được hỗ trợ trong thời gian 12 tháng nếu không phải di chuyển
chỗ ở và trong thời gian 24 tháng nếu phải di chuyển chỗ ở; trường hợp phải
di chuyển đến các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc có điều
kiện kinh tế - xã hội đặc biệt skhó khăn thì thời gian hỗ trợ tối đa là 36 tháng;
(Đơn giá gạo theo thông báo từng quý của Ủy ban nhân dân quận).
46
- Tại khoản 1 Điều 21 Quyết định số 2680/2014/QĐ-UBND ngày
03/12/2014 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng quy định “hỗ trợ đào
tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với trường hợp Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp”. Mức hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc
làm theo khoản 1 Điều 20 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP được tính bằng 05
lần giá đất nông nghiệp cùng loại, cùng vị trí trong bảng giá đất do Ủy ban
nhân dân thành phố ban hành đối với toàn bộ diện tích đất thu hồi; diện tích
hỗ trợ không vượt quá hạn mức giao đất nông nghiệp tại địa phương. (Gía đất
nông nghiệp hàng năm Uỷ ban nhân dân thành phố xác định cụ thể).
2.2.2.3. Việc Thanh tra, kiểm tra giám sát, giải quyết khiếu nại, tố cáo
về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận Hải An
- Các trường hợp cưỡng chế, giải quyết khiếu nại
Trong số các dự án thu hồi đất trên địa bàn quận Hải An từ năm 2013
đến nay có một số dự án trong quá trình thu hồi đất gặp phải một số vướng
mắc phải thực hiện việc cưỡng chế thu hồi đất, như: Dự án đầu tư xây dựng
Khu bay, Cảng hàng không quốc tế Cát Bi, Dự án đầu tư cải tạo, nâng cấp
đường 356 đoạn 2A từ ngã 3 Nguyễn Bỉnh Khiêm đến đập Đình Vũ, Dự án
xây dựng Khu vui chơi giải trí, nhà ở và công viên sinh thái tại đảo Vũ Yên…
- Dự án đầu tư mở rộng Cảng hàng không quốc tế Cát Bi là dự án lớn
của thành phố Hải Phòng trên địa bàn quận Hải An, là dự án được thành phố
chọn là dự án trọng điểm, với diện tích đất thu hồi là gần 2 triệu mét vuông,
ảnh hưởng tới quyền lợi của hàng trăm hộ dân, tổ chức trong đó phần lớn là
đất quốc phòng được triển khai từ năm 2014. Trong quá trình triển khai công
tác thu hồi đất, giải phóng mặt bằng đa số các hộ dân đều đồng tình ủng hộ và
tự nguyện chấp hành việc bồi thường, hỗ trợ, bàn giao mặt bằng cho dự án,
tuy nhiên còn 05 hộ dân vẫn không chịu nhận tiền đền bù, hỗ trợ để bàn giao
mặt bằng cho dự án với lý do không chấp nhận phương án bồi thường hỗ trợ.
47
05 hộ dân trên đã gửi đơn khiếu nại lên các cấp từ Trung ương đến thành phố
và quận kiến nghị và đòi hỏi quyền lợi, ngoài ra một số phần tử xấu lợi dụng
việc trên để kích động gây phức tạp tình hình an ninh trật tự trên địa bàn; tuy
nhiên sau hàng trăm cuộc đối thoại, vận động tuyên truyền, chịu nhiều điều
tiếng, cuối cùng 03 hộ dân tự nguyện nhận tiền và bàn giao mặt bằng, tuy
nhiên phải thực hiện cưỡng chế đối với 02 hộ và hoàn thành giải phóng mặt
bằng bàn giao đất cho các đơn vị thi công thực hiện dự án theo đúng tiến độ
[25], [26].
- Dự án đầu tư cải tạo, nâng cấp đường 356 đoạn 2A từ ngã 3 Nguyễn
Bỉnh Khiêm đến đập Đình Vũ trên địa bàn quận Hải An là dự án trọng điểm
của thành phố, có diện tích đất phải thu hồi là 14.380,2 m2 với 267 hộ dân, 6
tổ chức, doanh nghiệp trong diện giải phóng mặt bằng thuộc 2 phường Đông
Hải 1 và Đông Hải 2. Thời gian đầu khi triển khai dự án, đa số người dân đều
đồng tình ủng hộ và tự nguyện bàn giao mặt bằng thực hiện dự án. Tuy nhiên,
trong quá trình kiểm kê, lên phương án hỗ trợ, một số hộ dân không đồng ý
với phương án hỗ trợ nên đã gửi đơn kiến nghị vượt cấp và cố tình chây ỳ,
không bàn giao mặt bằng ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án và gây phức
tạp đến tình hình an ninh trật tự địa phương, tuy nhiên sau một thời gian vận
động, thuyết phục Uỷ ban nhân dân quận tổ chức đối thoại, công khai trả lời
trực tiếp thấu tình, đạt lý tất cả các kiến nghị của người dân nên cuối cùng các
hộ dân đã tự nguyện bàn giao mặt bằng cho dự án [27].
- Dự án xây dựng Khu vui chơi giải trí, nhà ở và công viên sinh thái tại
đảo Vũ Yên là dự án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, là dự án có ý
nghĩa phát triển đô thị, cung cấp dịch vụ hiện đại, là dự án trọng điểm mang
tầm quan trọng đối với sự phát triển của thành phố. Dự án nằm trên địa bàn
quận Hải An và huyện Thủy Nguyên có tổng diện tích hơn 870 ha với tổng
mức đầu tư hơn 19.000 tỷ đồng nằm trên toàn bộ đảo, trong đó diện tích nằm
48
trên địa bàn quận Hải An phải thu hồi hơn 460 ha chủ yếu là đất ao đầm.
Trong quá trình lập phương án bồi thường, hỗ trợ một số hộ dân không đồng
ý với phương án bồi thường hỗ trợ, chính quyền các cấp đã nhiều lần đối
thoại, trả lời các khúc mắc của các hộ dân tuy nhiên một số hộ dân vẫn cố tình
chây ỳ, không hợp tác. Uỷ ban nhân dân quận Hải An đã chỉ đạo tổ chức lực
lượng cưỡng chế đối với 02 hộ dân. Qúa trình thực hiện việc cưỡng chế diễn
ra theo đúng quy định của pháp luật, tuy nhiên công tác tổ chức cưỡng chế
gặp rất nhiều khó khăn vì lần đầu tiên lực lượng cưỡng chế tiến hành cưỡng
chế giải phóng mặt bằng tại địa điểm sông nước, đi lại khó khăn, phải dùng
tàu thuyền để tổ chức cưỡng chế. [27]
- Tình hình, kết quả Thanh tra, kiểm tra giám sát, giải quyết khiếu nại,
tố cáo về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận Hải
An
Tình hình khiếu nại, tố cáo của công dân trong lĩnh vực đất đai diễn ra
gay gắt, phức tạp ở hầu hết các địa phương trong cả nước, nhiều nơi đã trở
thành điểm nóng. Số lượng đơn vượt cấp gửi đến các cơ quan ở Trung ương
nhiều, nội dung thể hiện tính bức xúc gay gắt, không chấp nhận với cách giải
quyết của chính quyền địa phương. Số lượng công dân đến khiếu nại trực tiếp
tại phòng tiếp công dân của các địa phương, các cơ quan ở Trung ương hàng
năm cao. Nhiều vụ việc công dân tụ tập thành đoàn, đi xe, căng cờ, biểu ngữ...
kéo đến các cơ quan chính quyền, Đảng,… nhằm gây áp lực đòi được giải
quyết quyền lợi theo yêu cầu. Số lượng công dân tập trung đông chủ yếu ở
các kỳ họp Hội đồng nhân dân, Quốc hội, Đại hội Đảng, có nơi công dân tập
trung huy động thương binh, phụ nữ, người già, trẻ em bao vây trụ sở chính
quyền xã, huyện, tỉnh, doanh nghiệp gây mất trật tự, an toàn xã hội.
Thời gian gần đây, có rất nhiều vụ việc khiếu nại liên quan đến đất đai.
Nhiều trường hợp khiếu nại có liên quan đến việc Nhà nước thu hồi đất để
49
thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội, như đòi được bồi thường đất ở,
nâng giá bồi thường, tăng tiền hỗ trợ, bố trí tái định cư, giải quyết việc làm;
đòi lại đất cũ, nhà ở. Ngoài ra, có một số khiếu nại liên quan đến việc thực
hiện chính sách xã hội, kỷ luật của cán bộ, công chức... Về nội dung tố cáo,
chủ yếu là tố cáo cán bộ, công chức làm sai chính sách, tiêu cực, tham nhũng
trong quản lý đất đai, tài chính, đầu tư, xây dựng cơ bản, thực hiện chính sách
xã hội, cổ phần hóa doanh nghiệp; thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết
khiếu nại, bao che người bị tố cáo, không xử lý nghiêm các trường hợp vi
phạm pháp luật. Nội dung khiếu tố tập trung vào việc bồi thường giải phóng
mặt bằng, bố trí tái định cư, đòi lại đất cũ...
Theo quy định tại Điều 204 Luật Đất đai 2013 thì:
"1. Người sử dụng đất, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến
sử dụng đất có quyền khiếu nại, khởi kiện quyết định hành chính hoặc hành
vi hành chính về quản lý đất đai.
2. Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại quyết định hành chính, hành
vi hành chính về đất đai thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu
nại. Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi
hành chính về đất đai thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng hành
chính".[17]
Như vậy, trong trường hợp quyết định thu hồi đất, quyết định bồi
thường mà người bị thu hồi có căn cứ cho rằng quyết định đó chưa đúng với
thực tế đất bị thu hồi (loại đất, diện tích, vị trí...) thì có quyền khiếu nại
hoặc khởi kiện hành chính. Thời hiệu khiếu nại là 90 ngày, kể từ ngày nhận
được quyết định hành chính hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi
hành chính (Điều 9 Luật khiếu nại 2011). Như vậy, trong trường hợp quyết
định thu hồi đất, quyết định bồi thường mà người bị thu hồi có căn cứ cho
rằng quyết định đó chưa đúng với thực tế đất bị thu hồi (loại đất, diện tích,
50
vị trí...) thì có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện hành chính. Thời hiệu khiếu
nại là 90 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được
quyết định hành chính, hành vi hành chính quy định tại điều 9 Luật khiếu nại
2011.
Trình tự khiếu nại được quy định tai Điều 7 Luật Khiếu nại như sau:
"Khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính
là trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình
thì người khiếu nại khiếu nại lần đầu đến người đã ra quyết định hành
chính hoặc cơ quan có người có hành vi hành chính hoặc khởi kiện vụ án
hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết
lần đầu hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì
có quyền khiếu nại lần hai đến Thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc khởi kiện vụ án hành chính
tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết
khiếu nại lần hai hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải
quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của
Luật tố tụng hành chính". [18]
Khi giải quyết khiếu nại của người bị thu hồi đất thì cơ quan có thẩm
quyền sẽ căn cứ vào hồ sơ, giấy tờ do người bị thu hồi đất cung cấp và hồ
sơ địa chính được lưu trữ cũng như xác minh lại hiện trạng sử dụng đất để
xác định loại đất của người bị thu hồi đất.
Từ năm 2013 đến nay Uỷ ban nhân dân quận Hải An đã nhận được hơn
2000 đơn kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân trên toàn quận, trong đó
phần lớn là đơn kiến nghị, khiếu nại, tố cáo liên quan đến đất đai, tập trung
chủ yếu là khiếu nại việc bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất.
51
Công tác giải quyết khiếu tố về bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất trên
địa bàn quận Hải An trong 05 năm qua đạt được những kết quả cụ thể như
sau:
Bảng 2.2 Tình hình giải quyết khiếu nại
Tổng số vụ Số vụ đủ điều Số vụ đã Đạt tỷ lệ
khiếu nại kiện thụ lý giải quyết Năm %
2013 04 100 04 04
2014 04 100 04 04
2015 05 80 04 04
2016 09 20 01 05
2017 37 72 16 22
Bảng 2.3. Tình hình giải quyết kiến nghị
Tổng số vụ Số vụ đủ điều Số vụ đã Đạt tỷ lệ
Năm Kiến nghị kiện thụ lý giải quyết %
2013 520 84 433 510
2014 542 93 496 530
2015 455 76 343 450
2016 429 85 366 429
2017 344 90 312 344
Bảng 2.4. Tình hình giải quyết tố cáo
Tổng số vụ Số vụ đủ điều Số vụ đã Đạt tỷ lệ
Năm Tố cáo kiện thụ lý giải quyết %
2013 08 100 08 08
2014 01 100 01 01
2015 01 100 01 01
2016 0 0 0 0
2017 05 33 01 03
(Nguồn: Báo cáo kết quả công tác Thanh tra quận Hải An 2013 đến 2017) [24], [25], [26], [27], [28].
52
Nội dung khiếu nại, kiến nghị, tố cáo tập trung vào các vấn đề sau:
- Khiếu nại, kiến nghị việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, bố
trí tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất:
Khiếu nại về bồi thường giải phóng mặt bằng thường gay gắt, công dân
tụ tập đông người, xảy ra tập trung ở những nơi thu hồi diện tích đất lớn để bố
trí phát triển các dự án. Nội dung khiếu nại việc thu hồi đất, bồi thường không
thoả đáng, chưa làm đúng các thủ tục theo quy định của pháp luật, thực hiện
không đúng quy hoạch, không đúng diện tích, vị trí, giá đền bù thấp, không
đáp ứng yêu cầu ổn định cuộc sống. Ngoài ra, còn một số khiếu nại: đòi thực
hiện chính sách bồi thường về đất đai do trước đây chưa được thực hiện trong
việc trưng dụng, thu hồi đất; giải toả hành lang an toàn giao thông…
Thanh tra quận đã tiến hành giải quyết đơn khiếu nại của công dân đối
với một số dự án điển hình trên địa bàn quận Hải An như:
+ Quyết định số 266/QĐ-UBND ngày 22/3/2013 của Uỷ ban nhân dân
quận Hải An về việc thanh tra, kiểm tra công tác kiểm kê, lập phương án bồi
thường đối với đầm nuôi trồng thủy sản của ông Ngô Đình Nhương và ông
Nguyễn Đức Nhẫn tại khu vực Đình Vũ, phường Đông Hải 2, quận Hải An.
+ Quyết định số 605/QĐ-UBND ngày 03/6/2013 của Uỷ ban nhân dân
quận Hải An về việc thanh tra, kiểm tra, xác minh làm rõ việc lập phương án
bồi thường, hỗ trợ đối với hộ gia đình bà Nguyễn Thị Lan có đất bị thu hồi tại
khu T2, phường Thành Tô, quận Hải An.
+ Quyết định số 1610/QĐ-CT ngày 03/8/2015 của Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân quận Hải An về việc thành lập Tổ công tác xác minh, rà soát, đề
xuất phương án giải quyết vướng mắc tồn tại trong công tác bồi thường, giải
phóng mặt bằng, giai đất tái định cư của hộ ông Phan Văn Thoan tại dự án
khu đô thị mới Ngã 5 – Sân bay Cát Bi, phường Đằng Lâm, quận Hải An,
thành phố Hải Phòng.
53
+ Quyết định số 2570/QĐ-CT ngày 05/8/22016 về việc xác minh nội
dung khiếu nại của các ông Trịnh Văn Hòa, Trịnh Văn Hợp, Trịnh Văn Hinh
và Trịnh Văn Mai tại Dự án khu vui chơi, giải trí đảo Vũ Yên, phường Đông
Hải 1, quận Hải An.
+ Quyết định số 2600/QĐ-UBND ngày 17/8/2016 về việc kiểm tra, rà
soát trình tự, thủ tục kiểm kê, lập, thẩm định, phê duyệt phương án bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi đất thực hiện dự án phát triển giao
thông đô thị Hải Phòng (hạng mục xây dựng tuyến đường trục Bắc Sơn –
Nam Hải) tại phường Đằng Hải, quận Hải An.
+ Quyết định số 881/QĐ-CT ngày 10/3/2017 của Uỷ ban nhân dân
quận Hải An về việc thành lập tổ công tác kiểm tra xác minh nội dung kiến
nghị về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với các hộ dân thuộc dự án khu đô
thị mới Ngã 5- Sân bay Cát Bi, phường Đằng Hải, quận Hải An.
+ Quyết định số 1503/QĐ-UBND ngày 03/5/2017 của Uỷ ban nhân dân
quận Hải An về việc xác minh nội dung khiếu nại của 14 hộ dân có đất bị thu
hồi thuộc nút giao thông ngã tư Lê Hồng Phong – Ngô Gia Tự.
- Tố cáo chủ yếu tập trung vào các nội dung:
Tố cáo việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi trong việc thu hồi
đất, giao đất để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, kinh doanh nhà ở; lợi dụng
chính sách thu hồi đất của nông dân để chia cho cán bộ. Lợi dụng chức vụ,
quyền hạn để khai tăng diện tích, sai vị trí đất để tham ô. Tố cáo chính quyền
địa phương (chủ yếu là cấp phường) giao đất trái thẩm quyền, giao đất không
đúng diện tích được phê duyệt theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, giao sai vị trí, diện tích, không đúng quy hoạch, thu tiền đất vượt nhiều
lần so với quy định của Nhà nước, sử dụng tiền thu từ đất không đúng chế độ
tài chính…
54
2.2.3. Những kết quả đạt được trong thực hiện pháp luật bồi thường,
hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất đối với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trên
địa bàn quận Hải An, thành phố Hải Phòng
Có thể khẳng định rằng, so với các quận, huyện trên địa bàn thành phố
Hải Phòng thì quận Hải An là quận có số lượng các dự án đầu tư tập trung
nhiều nhất, tốc độ đô thị hoá cũng thuộc diện mạnh nhất. Đô thị hoá, công
nghiệp hoá trên địa bàn quận đã mang đến cho quận một diện mạo mới, một
sự thay đổi cả chất và lượng về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Sự thành
công đó đóng góp vai trò không nhỏ của sự nỗ lực của chính quyền quận
trong hoạt động quy hoạch sử dụng đất hợp lý, khoa học; sự chỉ đạo kịp thời,
sát sao công tác thực thi pháp luật trong lĩnh vực thu hồi đất, bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư đối với người dân có đất bị thu hồi được quan tâm chú trọng.
Tuy nhiên, Hải An trong quá trình trình thực hiện pháp luật về thu hồi đất, bồi
thường, hỗ trợ đối với người dân bị thu hồi để thực hiện các dự án đầu tư
cũng đã và đang đối mặt với những thách thức và khó khăn rất lớn, nhiều
vướng mắc nảy sinh chưa được tháo gỡ kịp thời. Có thể nhận thấy thực tế nêu
trên của việc thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ đối với hộ gia đình, cá
nhân khi quận Hải An thu hồi đất qua những nhận định, đánh giá sau đây:
Qua 5 năm thực hiện pháp luật đất đai từ năm 2013 đến nay, thành phố
Hải Phòng đã ban hành hàng loạt các văn bản pháp quy nhằm hiện thực hoá,
chi tiết hoá vấn đề thu hồi đất, bồi thường và giải phóng mặt bằng. Theo đó,
công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất để thực
hiện các dự án đầu tư trên địa bàn quận được các cấp uỷ Đảng quan tâm, chỉ
đạo, các cấp chính quyền tổ chức thực hiện tốt, góp phần vào sự nghiệp phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương và nâng cao đời sống cho nhân dân, thể hiện trên
các mặt sau:
55
Thứ nhất, về công tác ban hành văn bản pháp quy, thành phố Hải
Phòng ban hành kịp thời ngay các văn bản hướng dẫn chi tiết để thực hiện
trên địa bàn thành phố về bồi thường, hỗ trợ kịp thời, tạo điều kiện để các cấp
quản lý áp dụng thực hiện nhiệm vụ bồi thường đúng pháp luật, phù hợp tại
địa phương. Ðây là điều kiện tiền đề và thuận lợi để định hướng và chỉ dẫn
cho các cơ quan ban ngành của thành phố, trong đó có quận Hải An có cơ sở
để triển khai trong thực tế.
Thứ hai, chính sách bồi thường, hỗ trợ đối với hộ gia đình, cá nhân và
tổ chức đã góp phần giảm bớt tác động tiêu cực đối với người dân có đất bị
thu hồi để thực hiện các dự án quan trọng của đất nước, góp phần chuyển đổi
cơ cấu nền kinh tế, ổn định đời sống sản xuất cho người có đất bị thu hồi.
Việc thu hồi đất nông nghiệp phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội đã tạo
điều kiện cho các địa phương phát triển công nghiệp, dịch vụ cũng như xây
dựng các khu đô thị mới khang trang cho người dân, bộ mặt nông thôn được
cải thiện, tạo điều kiện thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài. Một số dự án
lớn đã tạo điều kiện và là động lực thúc đẩy nhanh hơn sự nghiệp Công
nghiệp hóa – hiện đại hóa của quận nói riêng và của thành phố nói chung, đưa
diện mạo của quận lên một tầm vóc mới, diện mạo mới. Các dự án lớn và
quan trọng mang tính chất đột phá làm cho quận Hải An có sự thay đổi cả
lượng và chất có thể kể đến như: Dự án Khu trung tâm hành chính quận Hải
An; dự án Đầu tư, nâng cấp, mở rộng khu bay Cảng hàng không quốc tế Cát
Bi; dự án Hồ điều hòa Phương lưu; dự án Khu đô thị mới Ngã Năm sân bay
Cát Bi, dự án nút giao thông khác mức Đình Vũ… Những dự án này đã thực
sự tạo bộ mặt mới cho đô thị theo hướng hiện đại và văn minh.
Thứ ba, nhiều dự án lớn khi đi vào hoạt động đã giải quyết công ăn,
việc làm cho hàng ngàn lao động địa phương; giúp họ ổn định cuộc sống và
tăng thêm thu nhập, tạo điều kiện cho con em đến tuổi lao động có điều kiện
56
tìm kiếm việc làm, những lao động dôi dư của địa phương hoặc lao động nông
nghiệp vốn cuộc sống khó nhọc nhưng bấp bênh đã có cơ hội để chuyển đổi
nghề nghiệp, ổn định cuộc sống hơn so với trước đây.
Trên thực tế trong thời gian qua đã có một số dự án lớn trên địa bàn
quận phải thu hồi đất, giải phóng mặt bằng để bàn giao cho các dự án như: Dự
án đầu tư cải tạo, nâng cấp đường 356 đoạn 2A từ ngã 3 Nguyễn Bỉnh Khiêm
đến đập Đình Vũ trên địa bàn quận Hải An; Dự án giải phóng mặt bằng nút
giao Tân Vũ thuộc Dự án đường ô tô Tân Vũ – Lạch Huyện tại phường Tràng
Cát; Dự án xây dựng Khu vui chơi giải trí, nhà ở tại đảo Vũ Yên; Dự án đầu
tư mở rộng Cảng hàng không quốc tế Cát Bi …Thời gian đầu khi triển khai
dự án, đa số người dân đều đồng tình ủng hộ và tự nguyện bàn giao mặt bằng
thực hiện dự án. Tuy nhiên, trong quá trình kiểm kê, lên phương án hỗ trợ, 1
số hộ dân không đồng ý với phương án hỗ trợ nên đã gửi đơn kiến nghị vượt
cấp và cố tình chây ỳ, không bàn giao mặt bằng ảnh hưởng đến tiến độ thực
hiện dự án và gây phức tạp đến tình hình an ninh trật tự địa phương, tuy nhiên
Uỷ ban nhân dân quận tổ chức đối thoại, công khai trả lời trực tiếp thấu tình,
đạt lý tất cả các kiến nghị của người dân nên cuối cùng các hộ dân đã tự nguyện
bàn giao mặt bằng cho dự án.
Đạt được kết quả trên là do việc công khai, minh bạch và đúng quy
định trong giải phóng mặt bằng là “chìa khóa” để thành công. Với những
trường hợp cố tình chây ỳ trong giải phóng mặt bằng, phải cưỡng chế quận
công khai quyết định xử phạt vi phạm hành chính, tổ chức họp báo thông báo
cưỡng chế… Nhờ đó, Hải An nhận được sự ủng hộ cao của người dân trong
công tác giải phóng mặt bằng. Không chỉ kiên quyết trong công tác giải
phóng mặt bằng đối với nhân dân, chính quyền quận Hải An còn kiên quyết
với chính mình, sẵn sàng xử lý cán bộ, công chức, nhân viên vi phạm trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ. Đó là cơ sở tạo lòng tin đối với người dân và
57
nhà đầu tư. Quận Hải An còn có các quy định về nâng cao tinh thần trách
nhiệm, năng lực, chuyên môn của những người làm công tác giải phóng mặt
bằng từ quận đến phường. Bên cạnh đó, chủ động phối hợp các cơ quan của
thành phố kịp thời tháo gỡ vướng mắc, khó khăn phát sinh trong quá trình thu
hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng. Hiện tại, trên địa bàn Hải An còn
vướng mắc về giải phóng mặt bằng một số hộ dân thuộc khu vực nút giao
thông khác mức Nguyễn Bỉnh Khiêm - Đình Vũ và dự án phát triển giao
thông đô thị Hải Phòng, dự án thoát nước mưa, nước thải và quản lý chất thải
rắn (giai đoạn 1); quận đang tích cực phối hợp các cơ quan liên quan của
thành phố tổ chức rà soát, tổ chức giải phóng mặt bằng đúng quy định.
Những kết quả nêu trên là không nhỏ trong việc góp phần vào tiến trình
công nghiệp hoá, đô thị hoá của quận Hải An trong những năm qua. Kết quả
đó không thể phủ nhận những thành công nhất định của công tác lãnh đạo, chỉ
đạo của chính quyền thành phố, của quận trong công tác tổ chức thực hiện
pháp luật về bồi thường, hỗ trợ đối với hộ gia đình, cá nhân khi thu hồi đất.
2.2.4. Những hạn chế, vướng mắc trong thực hiện pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất đối với tổ chức, hộ gia đình, cá
nhân trên địa bàn quận Hải An, thành phố Hải Phòng
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất tại quận Hải An, thành phố Hải Phòng cũng còn gặp phải
một số khó khăn vướng mắc ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ, điều này thể hiện ở những lĩnh vực sau:
Thứ nhất, giá bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất còn thấp, chưa sát
với giá thị trường:
Thực hiện Luật Đất đai năm 2013, Bộ Tài nguyên môi trường đã
chủ trì xây dựng trình Chính phủ ban hành Nghị định số 44/2014/NĐ-CP
ngày 15/5/2014 quy định về giá đất; Nghị định số 104/2014/NĐ-CP ngày
58
14/11/2014 quy định về khung giá đất. Bộ Tài nguyên môi trường đã ban
hành Thông tư số 36/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014 quy định chi tiết
phương pháp định giá đất, xây dựng, điều chỉnh bảng giá đất, định giá đất cụ
thể và tư vấn xác định giá đất; Thông tư số 20/2015/TT-BTNMT ngày
20/4/2015 ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật để lập dự toán ngân sách
nhà nước phục vụ công tác định giá đất.
Các văn bản quy phạm pháp luật nêu trên đã tạo hành lang pháp lý
đồng bộ cho công tác định giá đất tại địa phương. Tuy nhiên, giá đất bồi
thường chủ yếu thực hiện theo bảng giá nên còn thấp so với giá đất thị
trường; còn tình trạng không thống nhất về cơ chế bồi thường giữa các dự án
đầu tư có nguồn vốn trong nước và dự án từ vốn vay của các ngân hàng
nước ngoài. Mặc dù đạt được những thành tựu cơ bản nhưng chính sách tài
chính đất đai còn nhiều mặt hạn chế như: Việc quản lý nhà nước về giá đất
còn bất cập, chưa theo sát thị trường. Bảng giá công bố tại các địa phương
chỉ bằng khoảng 30% - 60% so giá thị trường” [3].
Thể chế về việc xác định giá đất còn chưa phù hợp với quy luật của
nền kinh tế thị trường. Giá đất do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương quy định được công bố công khai vào ngày 01/01 hàng năm được
sử dụng làm căn cứ để bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; tính tiền bồi
thường đối với người có hành vi vi phạm pháp luật đất đai mà gây thiệt hại
cho Nhà nước. Việc quy định phạm vi áp dụng khung giá do Nhà nước để
xác định giá bất động sản với phạm vi rộng trong đó có các quan hệ mang
bản chất của quan hệ dân sự như quan hệ giao, cho thuê đất…đã ảnh
hưởng lớn đến quyền và lợi ích của các chủ thể khi giá do nhà nước xác
định thấp hơn giá thị trường, đặc biệt khi nhà nước thu hồi đất. Đây là
một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng khiếu kiện, tham
nhũng trong lĩnh vực đất đai trong thời gian vừa qua. Khi bồi thường thu hồi
59
đất nếu giá đất sát giá chuyển nhượng thực tế trên thị trường trong điều kiện
bình thường thì rất thuận lợi. Tuy nhiên, thị trường bất động sản của thành
phố Hải Phòng nói chung, quận Hải An nói riêng vẫn đang ở giai đoạn đầu
của sự phát triển, tình trạng “nóng - lạnh” bất thường, hiện tượng đầu cơ
khá phổ biến, giá đất chịu tác động rất lớn từ thông tin quy hoạch, công bố
dự án... trong khi đó các công cụ quản lý nhà nước về đất đai còn hạn chế
và chưa đồng bộ dẫn đến việc định giá đất theo “sát thị trường” đang còn rất
khó khăn. Trên thực tế vẫn còn tồn tại song song 2 loại giá đất: Gía đất theo
quy định của cơ quan nhà nước và giá đất theo thị trường. Hai loại giá đất
này có biên độ dao động rất lớn. Trên thực tế giá đất do Nhà nước xác
định thường thấp hơn giá đất theo thị trường và lạc hậu hơn so với giá đất
trên thị trường. Điều này gây rất nhiều khó khăn cho quản lý nhà nước về đất
đai dưới khía cạnh kinh tế, đặc biệt trong việc áp dụng giá đất để tính bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Việc định giá đất thị trường mới cơ bản thực hiện được đối với đất ở;
còn đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp thì hiện nay chưa có phương
pháp định giá phù hợp trong điều kiện của Việt Nam, nhiều địa phương căn
cứ vào giá đất do Uỷ ban nhân dân quy định cho loại đất ở để tính giá đất
sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp; theo đó giá đất phi nông nghiệp bằng
khoảng từ 40%-60% giá đất ở. Do sự phát triển của thị trường bất động sản
vận động liên tục và thiếu ổn định đã làm cho mức giá bị giới hạn trong
Khung giá quy định trở nên lạc hậu, thấp xa so với thị trường, nhất là tại các
thành phố, khu vực có tốc độ đô thị hóa nhanh. Hiện mức giá trong Bảng
giá công bố tại các địa phương chỉ bằng khoảng 40%-60% so giá thị trường
[10].
Đây cũng là một trong những vấn đề gây ra nhiều khiếu kiện về vấn
đề bồi thường hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Việc áp giá đất bồi thường
60
khi Nhà nước thu hồi theo khung giá đất mà Nhà nước công bố thấp hơn rất
nhiều so với giá thị trường tại thời điểm đó. Bảng giá đất do Ủy ban nhân
dân thành phố ban hành hằng năm là thấp hơn nhiều so với thực tế giá đất thị
trường. Và khi sử dụng giá đất theo bảng giá đất mà Ủy ban nhân dân thành
phố ban hành để áp giá bồi thường là cứng nhắc chưa hợp lý bởi giá đất trên
thị trường có sự biến động theo từng ngày. Việc bồi thường về nhà đất khi
Nhà nước thu hồi là chưa tương xứng, không thể tính hết các chi phí mà
người dân đã bỏ ra. Giá đất bồi thường hỗ trợ thời gian qua là chưa đảm bảo
để người dân phục hồi lại sản xuất, kinh doanh và tái tạo, ổn định lại cuộc
sống như trước khi bị thu hồi đất. Chính vì vậy, dẫn đến việc người dân
không đồng ý với phương án bồi thường, không tự nguyện chấp hành quyết
định thu hồi đất.
Thứ hai, liên quan đến trình tự, thủ tục bồi thường khi thu hồi đất
vẫn còn tồn tại tình trạng thiếu công khai, minh bạch và ở mức độ nào đó là
sự áp đặt, tùy tiện của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thu hồi, bồi
thường.
Từ ngày 01/07/2004 đến nay, công tác bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi
đất đã có nhiều VBQPPL khác nhau điều chỉnh, từ các cơ quan nhà nước ở
Trung ương đến các VBQPPL của Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng,
song nhiều VBPL còn cứng nhắc, không tạo cơ chế linh hoạt cho địa
phương, không phù hợp với hoàn cảnh thực tế của địa phương, thậm chí
không thể áp dụng thực hiện do đặc thù của địa phương.
Vấn đề thiếu công khai minh bạch được thể hiện ở việc: Một số dự án
chưa chấp hành đúng các quy định của Nhà nước về trình tự, thủ tục thu hồi
đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư như ra thông báo giải phóng mặt bằng mà
không có quyết định thu hồi đất, không thông báo trước về kế hoạch, phương
án thu hồi đất cho người có đất bị thu hồi; lập phương án bồi thường, hỗ trợ
61
không chính xác, tạo điều kiện cho tiêu cực nảy sinh; cưỡng chế giải phóng
mặt bằng trong khi chưa bố trí nơi tái định cư; quyết định thu hồi đất không
đúng thẩm quyền, thu hồi đất để sử dụng vào mục đích trái quy hoạch đã
được xét duyệt. Đối với một số dự án còn có tình trạng áp dụng pháp luật
thiếu công bằng giữa những trường hợp có điều kiện tương tự.
Xuất phát từ một số quy định trong công tác bồi thường hỗ trợ còn
chưa chặt chẽ, sự tắc trách của một bộ phận cán bộ làm công tác bồi thường,
hỗ trợ giải phóng mặt bằng, thiếu kiểm tra đôn đốc của các cấp chính quyền;
cá biệt một số cán bộ làm công tác bồi thường, hỗ trợ còn có biểu hiện tiêu
cực, tư lợi cá nhân, cố tình làm sai để hưởng lợi, đặc biệt tại một số dự án có
diện tích đất thu hồi lớn.
Thứ ba, vướng mắc về phía người dân bị thu hồi đất khi được bồi
thường Người dân thường có những hành vi cản trở quá trình thu hồi đất,
không chịu bàn giao mặt bằng khi đã có quyết định thu hồi đất; nhiều hộ dân
cản trở tiến độ thi công công trình, “chây ì” không chịu nhận tiền bồi thường.
Một số trường hợp người dân biểu thị sự không đồng tình và yêu cầu đòi bồi
thường giá cao hơn bằng cách gây áp lực với chính quyền và doanh nghiệp
thông qua các hành động mang tính tiêu cực, thái quá như rào cổng ra vào
gây cản trở hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư của doanh nghiệp; đập
phá chống lại người thi hành công vụ, đòi bồi thường quá đáng gây mất ổn
định xã hội đã và vẫn đang xảy ra gây căng thẳng cho các cấp chính quyền
cũng như những cán bộ trực tiếp quản lý. Tình trạng tự cơi nới, xây mới nhà
cửa, vật kiến trúc; chia tách hộ, phân chia tài sản chủ yếu là nhà ở, đất ở;
ươm cây giống, trồng cây không đúng mục đích sử dụng đất, vượt mật độ
cho phép; chuyển đổi mục đích sử dụng đất, nâng hạng đất để tăng mức
được bồi thường, hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp… trong và sau khi có quy
hoạch, xác định mốc giới kiểm kê trở thành phổ biến ngày càng tinh vi và
phức tạp hơn.
62
Kết luận chƣơng 2
Quận Hải An, thành phố Hải Phòng là địa bàn mà hàng năm số lượng
các dự án đầu tư được tập trung vào loại lớn của thành phố, cũng là quận có
tốc độ đô thị hoá diễn ra mạnh. Trên tinh thần các văn bản pháp luật của thành
phố Hải Phòng được ban hành nhằm hiện thực hoá các quy định về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất, quận Hải An đã nghiêm túc triển
khai việc thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ ngày càng linh hoạt và mềm
dẻo, phù hợp với đặc điểm, tình hình kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội ở địa
phương hơn.
Việc đánh giá về những kết quả và hạn chế trong việc thực hiện pháp
luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận Hải An
đã được luận giải một cách lô gic, có minh chứng và rõ ràng, đó là: Thực hiện
pháp luật về bồi thường, hỗ trợ trên địa bàn quận Hải An đã đạt được những
kết quả và thành tựu nhất định, nhiều dự án lớn, trọng điểm (33 dự án), trong
đó nhiều dự án đã được giải phóng mặt bằng đúng tiến độ, chủ đầu tư nhanh
chóng có đất sạch để đầu tư. Người dân bị thu hồi đất đã được quyết được cơ
bản lợi ích như bồi thường theo đơn giá thị trường cộng với những dự án do
mục đích sử dụng vào an ninh, quốc phòng vẫn được hỗ trợ theo quy định của
Nhà nước nên đã tạo sự ổn định cuộc sống của người dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả khả quan nêu trên, việc áp dụng
pháp luật trong bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất còn là vấn đề
phức tạp, nên không thể có những hạn chế nhất định làm ảnh hưởng tới công
tác bồi thường, hỗ trợ như: hệ thống pháp luật về bồi thường, hỗ trợ còn cứng
nhắc, chưa linh hoạt mềm dẻo trong việc áp dụng cho những dự án hay đối
tượng bị thu hồi đặc biệt. Mặt khác, trong bối cảnh chính sách, pháp luật lại
liên tục thay đổi, điều chỉnh là nguyên nhân cơ bản khiến công tác thực hiện
63
pháp luật về lĩnh vực này cũng còn nhiều tồn tại, vướng mắc. Bên cạnh đó, cơ
chế hỗ trợ trong việc thu hồi đất chưa thống nhất, chưa phù hợp đã làm cho
một số dự án vẫn bị chậm tiến độ, quyền lợi và lợi ích hợp pháp của các hộ
gia đình, cá nhân chưa được quan tâm đúng mức như vấn đề chuyển đổi nghề
nghiệp và ổn định cho người dân sau khi mất đất chưa được giải quyết triệt
để, thoả đáng nên tranh chấp, khiếu nại vẫn diễn ra; tính công khai, minh bạch
trong quản lý dự án chưa cao. Bên cạnh đó, một bộ phận trong đội ngũ cán
bộ, công chức còn có biểu hiện tiêu cực trong việc lợi dụng dự án để làm lợi
cho cá nhân…
Xem xét những nguyên nhân này để làm cơ sở cho việc đề xuất những
phương hướng và giải pháp hoàn thiện việc thực hiện pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất tại chương 3 sẽ mang tính khả thi cao
hơn
64
Chƣơng 3
GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG,
HỖ TRỢ KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN
QUẬN HẢI AN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
3.1. Nhu cầu bảo đảm thực hiện pháp luật về bồi thƣờng, hỗ trợ khi
Nhà nƣớc thu hồi đất từ thực tiễn quận Hải An, thành phố Hải Phòng
Thu hồi đất, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là vấn đề phức tạp
và nhạy cảm, có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của
người sử dụng đất. Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất có
vai trò quan trọng trong việc giải quyết các mâu thuẫn về lợi ích kinh tế
giữa Nhà nước, người bị thu hồi đất và chủ đầu tư. Lĩnh vực pháp luật này
thường xuyên được sửa đổi, bổ sung nhằm đáp ứng các đòi hỏi của thực
tiễn. Tuy nhiên quá trình thực hiện các quy định của pháp luật vào bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất vẫn bộc lộ những tồn tại, bất
cập. Điều này đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện các quy định về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Hơn nữa, việc hoàn thiện lĩnh
vực pháp luật này còn dựa trên những căn cứ chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất cũng bộc lộ
những tồn tại, yếu kém trong quản lý nhà nước về đất đai của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền như sự thiếu dân chủ, thiếu công bằng,
thiên vị, tham nhũng, tiêu cực v.v... trong việc áp dụng các quy định về
bồi thường, hỗ trợ. Để góp phần khắc phục những yếu kém này, pháp luật
về bồi thường, hỗ trợ phải xây dựng các quy định cụ thể, dự liệu và đưa ra
những phương án phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực, thiếu dân chủ và
không công bằng v.v... trong thực thi pháp luật của các cơ quan công
quyền. Hơn nữa, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ cần phải xây dựng các chế
65
tài pháp lý nghiêm minh, đủ sức răn đe đối với những hành vi vi phạm
pháp luật về bồi thường, hỗ trợ. Xem xét các yêu cầu này vào các quy
định hiện hành cho thấy pháp luật về bồi thường, hỗ trợ dường như chưa
xác lập được một cơ chế pháp lý hữu hiệu để ngăn ngừa và xử lý có hiệu
quả các hành vi tham nhũng, tiêu cực v.v. trong bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất. Đây cũng là một lý do lý giải cho việc tiếp tục hoàn thiện lĩnh
vực pháp luật này.
Thứ hai, Đảng ta xác định giữ vững ổn định chính trị là tiền đề để
phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân. Bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất là vấn đề nhạy cảm do "đụng chạm" trực tiếp đến
lợi ích của người bị thu hồi đất. Do vậy vấn đề này thường tiềm ẩn nguy cơ
trở thành điểm nóng, gây mất ổn định chính trị nếu không giải quyết công
bằng và ổn thỏa các xung đột về lợi ích giữa Nhà nước, người bị thu hồi
đất và chủ đầu tư. Việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất được
thực hiện dựa trên các quy định của pháp luật. Do vậy hoàn thiện pháp luật
về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là rất cần thiết góp phần vào việc
duy trì ổn định về chính trị và chống lại những luận điệu xuyên tạc, kích
động, chống phá của các thế lực thù địch.
Thứ ba, trong thời kỳ tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước; chúng ta phải thực hiện việc thu hồi một diện tích đất
không nhỏ (trong đó phần lớn là đất nông nghiệp) để triển khai các dự án
đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng; khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị
mới v.v... Điều này đặt ra việc thực hiện bồi thường, hỗ trợ cho hàng vạn
hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất. Việc giải quyết tốt vấn đề này không
chỉ có ý nghĩa về mặt chính trị góp phần duy trì sự ổn định chính trị mà
còn tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện triển khai các dự án đầu tư đúng
tiến độ, đúng thời gian và nâng cao tính hấp dẫn của môi trường đầu tư ở
66
nước ta. Với ý nghĩa đó, tiếp tục hoàn thiện các quy định về bồi thường, hỗ
trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc làm cần thiết.
Thứ tư, xét về bản chất Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là Nhà nước do nhân dân lao động thiết lập nên đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và lợi ích của nhân dân. Nhà nước ta không ngừng quan tâm
và chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người dân. Vì vậy khi
người sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích
chung thì Nhà nước phải thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ cho họ trên cơ
sở quy định của pháp luật. Việc hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ
khi Nhà nước thu hồi đất là một minh chứng sinh động và cụ thể nhằm thể
hiện bản chất nhân dân của Nhà nước ta.
Thứ năm, hiện nay, Quốc hội chủ trương rà soát, sửa đổi, bổ sung
Luật Đất đai năm 2013 nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong
quản lý và sử dụng đất đai. Việc này được Chính phủ giao cho Bộ Tài
nguyên và Môi trường thực hiện. Tổng cục Quản lý đất đai là đơn vị
chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường tiến
hành rà soát, xây dựng dự thảo sửa đổi, bổ sung một số quy định của Luật
Đất đai năm 2013. Thực tiễn thi hành Luật Đất đai năm 2013 cho thấy các
quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất thường gặp phải những
khó khăn, vướng mắc về cách thức áp dụng giá đất để xác định bồi
thường; điều kiện để được bồi thường v.v... Do vậy việc rà soát, sửa đổi, bổ
sung một số quy định của Luật Đất đai năm 2013 nhằm tháo gỡ những
vướng mắc, khó khăn trong quản lý và sử dụng đất hiện nay không thể
không xem xét đến việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện những nội dung về
bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.
67
3.2. Một số giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về bồi thƣờng, hỗ
trợ khi Nhà nƣớc thu hồi đất
3.2.1. Giải pháp chung
3.2.1.1 Hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất
Thứ nhất, vấn đề “bồi thường, hỗ trợ” khi Nhà nước thu hồi đất đã
được quy định trong Luật đất đai và quá trình thực hiện trong thực tế nhiều
năm qua. Xét về bản chất pháp lý “bồi thường, hỗ trợ” đặt ra khi một chủ thể
xâm phạm tới những lợi ích của một chủ thể khác và đảm bảo những điều
kiện pháp luật quy định như: Có thiệt hại xảy ra, có lỗi, có hành vi trái pháp
luật và có mối quan hệ nhân quả. Việc Nhà nước thu hồi đất dựa trên cơ sở
những căn cứ pháp lý và trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Vậy, pháp luật
quy định “bồi thường, hỗ trợ” có thỏa đáng hay không.
Mặt khác, nhìn nhận dưới góc độ người sử dụng đất không phải là chủ
sở hữu mà chỉ được quyền sử dụng, nên khi Nhà nước thu hồi mang tính chất
mệnh lệnh và hệ quả là người sử dụng đất được bồi thường, hỗ trợ. Nhìn nhận
dưới khía cạnh này thực sự chưa thấy giá trị của quyền sử dụng dất và tài sản
trên đất. Mặc dù, cá nhân, hộ gia đình có quyền sử dụng nhưng trong các giao
dịch dân sự thì quyền sử dụng đất xác định là tài sản, đối tượng của các giao
dịch (hợp đồng, thừa kế). Do đó theo tôi cần hiểu và quy định đúng vấn đề này.
Tôi đề xuất sửa đổi quy định “bồi thường khi thu hồi đất” thành chế
định “trưng mua quyền sử dụng đất”. Theo quy định của Hiến pháp 2013 thì
tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức không bị quốc hữu hoá. Trong trường
hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia, Nhà
nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân hoặc tổ
chức theo thời giá thị trường. Thể thức trưng mua, trưng dụng do Luật định.
Hiến pháp năm 2013 quy định: Quyền sử dụng đất là quyền tài sản
được pháp luật bảo hộ; còn theo Bộ luật Dân sự 2005, 2015 thì quyền tài sản
68
là tài sản, do đó có đầy đủ các quyền như mua, bán, tặng, cho, thế chấp. Vì
vậy, khi Nhà nước đã giao quyền sử dụng đất cho tổ chức, cá nhân thì quyền
sử dụng đất cần được bảo hộ và trường hợp cần thiết vì lý do phát triển kinh
tế Nhà nước sẽ trưng mua lại quyền sử dụng đất đã giao cho tổ chức, cá nhân
sử dụng trước đó. Mặt khác, doanh nghiệp và người dân đều là những chủ thể
trong quan hệ pháp luật đất đai. Vì vậy, các chủ thể này phải được đối xử bình
đẳng trước pháp luật, cả về quyền lợi và nghĩa vụ, nếu chúng ta chỉ quy định
thu hồi đất thì rõ ràng chúng ta đang có cách nhìn không công bằng với người
bị thu hồi đất, lợi ích chính đáng của họ trước pháp luật chưa được tôn trọng
và bảo vệ, người dân vẫn sống trong cảnh thụ động với tâm lý có thể bị tước
đoạt tài sản bất cứ lúc nào. Ngoài quyền sử dụng đất, còn có tài sản gắn liền
với đất như nhà ở, các công trình kiến trúc, đây là tài sản thuộc sở hữu hợp
pháp của người sử dụng đất. Nếu quy định trưng mua hoàn toàn không trái
với vấn đề đất đai thuộc sở hữu toàn dân bởi lẽ:
Một là, việc trưng mua là trưng mua quyền sử dụng đất và tài sản gắn
liền với quyền sử dụng đất.
Hai là, những trường hợp được trưng mua là vì mục đích an ninh, quốc
phòng, mục đích quốc gia và mục đích kinh tế.
Ba là, chủ thể trưng mua là Nhà nước và Nhà đầu tư. Đối với mục đích
an ninh quốc phòng Nhà nước quy định chặt chẽ điều kiện, còn mục đích phát
triển kinh tế thì nhà đầu tư là chủ thể phải cân nhắc thật kỹ hiệu quả đầu tư
tránh tình trạng “bồi thường với giá không hợp lý” xong không tiến hành đầu
tư gì để giữ đất.
Bốn là, cơ chế giá trưng mua tùy theo từng mục đích khác nhau. Nếu
Nhà nước trưng mua vì mục đích an ninh, quốc phòng theo cơ chế giá theo
Luật trưng mua; còn nhà đầu tư dựa trên sự thỏa thuận theo mức giá tối thiểu
do Nhà nước ấn định và mức giá tối đa sát giá thị trường.
69
Thứ hai, tiếp tục thiết lập khung pháp lý về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất trên cơ sở đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ và tính ổn định tương đối
cao.
Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp cần quy định cụ thể trách nhiệm
pháp lý đối với các trường hợp người bị thu hồi đất không thi hành quyết định
thu hồi đất nhằm phát triển kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng. Đồng thời,
đẩy mạnh các giải pháp thường xuyên rà soát, hệ thống hóa các quy định của
pháp luật về thu hồi đất nhằm kịp thời phát hiện sai sót, bất cập và chồng chéo
giữa các quy định về thu hồi đất theo Luật Đất đai 2013 với các văn bản luật
chuyên ngành khác như Luật Nhà ở, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật
Xử lý vi phạm hành chính,…
Hình thức bồi thường theo pháp luật hiện hành nên tạo sự đồng thuận
của người dân đang dẫn đến khiếu kiện về đất đai ngày càng nhiều. chia sẻ lợi
ích để tạo nguồn vốn phát triển cho địa phương, tạo quan hệ đối tác dài hạn
giữa nhà đầu tư và cộng đồng dân cư địa phương, các nước thường áp dụng
cơ chế chia sẻ lợi ích. Do sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng nên các quy định về thu hồi đất
theo Luật Đất đai 2013 vừa mới áp dụng thực tiễn trong thời gian ngắn đã có
nhiều điểm hạn chế, bất cập là chuyện đương nhiên. Song, việc sửa đổi, bổ
sung hoàn thiện các quy định pháp luật về thu hồi đất đảm bảo tính kịp thời,
đúng pháp luật, phù hợp với thực tiễn phát triển đất nước là điều hết sức quan
trọng, nó quyết định hiệu quả, hiệu lực của bộ máy quản lý Nhà nước về đất
đai cũng như điều tiết các mối quan hệ sở hữu và hơn nữa làm hạn chế các
tranh chấp, khiếu nại kéo dài, gây mất an ninh, chính trị ở địa phương.
Thứ hai, hoàn thiện các quy định về giá đất
Trên cơ sở Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định về
giá đất và Nghị định số 104/2014/NĐ-CP ngày 14/11/2014 quy định về khung
70
giá đất của Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường xây dựng và quy định
(điều chỉnh) cụ thể về giá đất, khung giá đất (Thông tư hướng dẫn), Quyết
định Số: 01/2017/QĐ-UBND ngày 16/6/2017 của Uỷ ban nhân dân thành phố
Hải Phòng về việc điều chỉnh bảng giá các loại đất trên đị bàn 7 quận nội
thành Hải Phòng 5 năm (2015- 2019).
Cần trao quyền cho người bị thu hồi đất có quyền yêu cầu cơ quan định
giá đất xác định giá đất và giá do cơ quan định giá đất đưa ra là giá để tính
đền bù. Theo quy định hiện hành, hiện đang tồn tại cơ chế 2 giá đất: Gía đất
do Nhà nước quy định áp dụng tính bồi thường trong trường hợp Nhà nước ra
quyết định thu hồi đất và giá đất do doanh nghiệp tự thỏa thuận với người sử
dụng đất thông qua hình thức nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nhận
góp vốn bằng quyền sử dụng đất để tạo quỹ đất. Việc song song tồn tại 2 loại
giá đất là một trong những nguyên nhân gây khiếu nại về giá đất trong bồi
thường, giải phóng mặt bằng, đặc biệt đối với các dự án sử dụng đất bằng
hình thức Nhà nước thu hồi đất.
Do người bị thu hồi đất không đồng thuận với phương án bồi thường
của Nhà nước đã phát sinh khiếu kiện kéo dài làm cho dự án không triển khai
đúng tiến độ và làm lỡ cơ hội đầu tư, kinh doanh của các doanh nghiệp.
Để khắc phục hạn chế này, giải pháp hoàn thiện chính sách về giá đất
được đưa ra là :
- Giá đất được xác định phải dựa trên sự thỏa thuận với người sử dụng đất;
- Trường hợp không thỏa thuận được về giá thì người bị thu hồi đất có
quyền yêu cầu cơ quan thẩm định giá xác định giá, giá bất động sản xác định
theo giá của cơ quan thẩm định giá đưa ra. Trường hợp một bên không đồng ý
với giá của cơ quan thẩm định giá đưa ra có quyền yêu cầu tổ chức khác thẩm
định lại giá, giá của cơ quan tổ chức đưa ra là giá để tính đền bù. Để đảm bảo
giá của cơ quan thẩm định giá đưa ra là khách quan, độc lập Nhà nước cần
71
nghiên cứu thành lập cơ quan định giá chuyên nghiệp, độc lập với địa vị pháp
lý rõ ràng và chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động định giá.
Như vậy, cần quy định cụ thể khung pháp luật của hoạt động dịch vụ
định giá đất và các trường hợp khi nào thì dịch vụ định giá đất là bắt buộc; cơ
quan nhà nước có thẩm quyền quyết định về giá đất phải độc lập với các cơ
quan có thẩm quyền quản lý đất đai để đảm bảo tính khách quan trong việc
xác định giá đất, tránh tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi”. Ủy ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương vừa có thẩm quyền thu hồi đất vừa
có thẩm quyền xác định bảng giá đất để tính bồi thường cho người bị thu hồi
đất; thiết nghĩ hợp lý nhất là quy định các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quyết định về giá đất được thành lập theo hệ thống ngành “dọc” trực thuộc
trung ương.
Thứ ba, hoàn thiện các quy định về đơn giá tính bồi thường, hỗ trợ về
tài sản (nhà, công trình, cây trồng, hoa màu…) và các chính sách hỗ trợ.
Cần quy định và áp dụng đúng cụ thể hơn nữa việc người sử dụng đất
khi. Nhà nước thu hồi đất ngoài việc được bồi thường còn được Nhà nước
xem xét hỗ trợ; việc hỗ trợ phải bảo đảm khách quan, công bằng, kịp thời,
công khai và đúng quy định của pháp luật. Quy định cụ thể hơn về hỗ trợ đào
tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho hộ gia đình, cá nhân trực tiếp
sản xuất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp mà không có đất
nông nghiệp để bồi thường. Trường hợp người được hỗ trợ đào tạo chuyển
đổi nghề, tìm kiếm việc làm trong độ tuổi lao động có nhu cầu được đào tạo
nghề thì được nhận vào các cơ sở đào tạo nghề; được tư vấn hỗ trợ tìm kiếm
việc làm, vay vốn tín dụng ưu đãi để phát triển sản xuất, kinh doanh mang
tính bắt buộc cao.
Thứ tư, bồi thường cho người bị thu hồi đất gắn với an sinh xã hội, bảo
đảm đời sống lâu dài
72
Định hướng tiếp tục đổi mới chính sách pháp luật về đất đai đã xác
định rõ yêu cầu trong bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là phải “bảo đảm
ổn định đời sống lâu dài cho người có đất bị thu hồi”. Khi Nhà nước thu hồi
đất để triển khai dự án, người bị thu hồi đất phải gánh chịu nhiều thiệt hại vô
hình như như thay đổi chỗ làm việc, chợ, bệnh viện, trường học xa, môi
trường sống, tâm lý bị tác động; tái định cư tại chỗ thì bị ảnh hưởng về tiếng
ồn, khói bụi, nước ngập khi chủ đầu tư thi công dự án, nhà cửa thấp hơn mặt
đường, cây cối mất năng suất, không chăn nuôi được; để tạo dựng ngôi nhà
mới, người dân không chỉ phải sử dụng số tiền bồi thường từ Nhà nước mà
đòi hỏi phải “lao tâm khổ tứ” để lo thủ tục xây dựng, tính toán vật liệu, quản
lý công trình, bỏ bê công việc…Vì vậy, đòi hỏi để được bồi thường các thiệt
hại vô hình đối với người bị thu hồi đất là xác đáng và đã được nhiều cơ quan,
nhà nghiên cứu đặt ra. Khi Nhà nước thực hiện việc bồi thường kèm theo quy
hoạch khu dân cư “điện- đường- trường- trạm- chợ”, nhưng khi người dân đến
ở thực tế chỉ là những khẩu hiệu của doanh nghiệp đưa ra. Do vậy trong việc
bồi thường pháp luật quy định rõ:
Một là, đối với bồi thường bằng quyền sử dụng đất phải xây dựng quy hoạch
khu dân cư cho người sử dụng đất đạt mức chuẩn tối thiểu so với khi họ đang sinh
sống tại nơi đất bị thu hồi (có cơ sở hạ tầng và các điều kiện sinh hoạt khác).
Hai là, xem xét những thiệt hại vô hình khi người bị thu hồi số bằng
nguồn thu nhập chính trên đất đó (kinh doanh, cho thuê, hoa lợi,..) thì xem xét
tạo nguồn cho họ học nghề, cơ hội nghề nghiệp khác để sinh sống đảm bảo an
sinh của các đối tượng bị thu hồi đất.
Ba là, những trường hợp thu hồi đất nông nghiệp đẩy người bị thu hồi
đất vào tình trạng mất công cụ sản suất và trở nên thất nghiệp, đói nghèo sau
khi đã tiêu hết tiền bồi thường thì phải bồi thường đất nông nghiệp để họ ổn
định sản suất (theo định mức tối thiểu pháp luật đất đai quy định).
73
3.2.1.2 Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức và cá nhân
thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
Về phương thức: Thực hiện theo phương thức kiểm tra chéo. Đối với
mỗi dự án có ít nhất hai tổ công tác khác nhau kiểm tra tực địa và đối chiếu
kết quả đảm bảo sự chính xác tương đối.
Đội ngũ: Trình độ, năng lực của tổ chức, đội ngũ cán bộ thực thi pháp
luật còn hạn chế, để xảy ra tình trạng sai sót, tiêu cực, nhũng nhiễu, tham
nhũng… trong thực tế là nguyên nhân gây mất lòng tin của nhân dân, phát
sinh khiếu nại, khiếu kiện phức tạp. Do vậy, đối với đội ngũ cán bộ này cần
phải tăng cường cả về chuyên môn lẫn phẩm chất đạo đức, nhất là các cán bộ
triển khai đo đạc, kiểm đếm tài sản và lập phương án bồi thường.
Đối với thành phố Hải Phòng, trung tâm Phát triển quỹ đất thuộc Sở
Tài nguyên- Môi trường. Tuy nhiên, việc thành lập Văn phòng đăng ký đất
đai và Trung tâm phát triển quỹ đất thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường theo
quy định của Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy
định chi tiết về thi hành một số điều của Luật Đất đai lại gặp một số vướng
mắc: Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ Nội vụ chưa ban hành Thông tư
liên tịch hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Trung tâm
Phát triển quỹ đất thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường nên khó khăn trong
triển khai thực hiện; theo quy định mới, Chi nhánh Trung tâm Phát triển quỹ
đất ở địa phương không thuộc Ủy ban nhân dân cấp quận, huyện sẽ dẫn đến
khó khăn trong giải quyết các vấn đề vướng mắc phát sinh trong quá trình bồi
thường không huy động được sự tham gia quyết liệt của chính quyền địa
phương, đồng thời các vấn đề về xác nhận nguồn gốc sử dụng đất, quy chủ
thửa đất…cũng khó khăn; đơn vị Chi nhánh không có tư cách pháp nhân để
ký hợp đồng bồi thường giải phóng mặt bằng với chủ đầu tư dẫn đến quá tải
cho Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố, công tác quản lý hoạt động của
74
các Chi nhánh cũng khó khăn. Nhiệm vụ đặt ra là cần có những quy định và
giải pháp cụ thể phát huy chức năng, vai trò của Trung tâm phát triển quỹ đất
thành phố và các Chi nhánh ở cấp quận, huyện trong công tác giải phóng mặt
bằng nhằm tạo nguồn quỹ đất sạch cho phát triển kinh tế- xã hội của địa
phương; đồng thời đa dạng và xác định rõ các cơ chế huy động vốn để Trung
tâm Phát triển quỹ đất các cấp phát huy hiệu quả thực thi nhiệm vụ.
3.2.1.3 Thanh tra, kiểm tra giám sát, xử lý vi phạm trong thực hiện
pháp luật về bồi thường, hỗ trợ
Tình hình khiếu nại, tố cáo của công dân trong lĩnh vực đất đai diễn ra
gay gắt, phức tạp ở hầu hết các địa phương trong cả nước, nhiều nơi đã trở
thành điểm nóng. Số lượng đơn vượt cấp gửi đến các cơ quan ở Trung ương
nhiều, nội dung thể hiện tính bức xúc gay gắt, không chấp nhận với cách giải
quyết của chính quyền địa phương. Số lượng công dân đến khiếu nại trực tiếp
tại phòng tiếp công dân của các địa phương, các cơ quan ở Trung ương hàng
năm cao. Nhiều vụ việc công dân tụ tập thành đoàn, đi xe, căng cờ, biểu ngữ...
kéo đến các cơ quan chính quyền, Đảng,… nhằm gây áp lực đòi được giải
quyết quyền lợi theo yêu cầu. Số lượng công dân tập trung đông chủ yếu ở
các kỳ họp Hội đồng nhân dân, Quốc hội, Đại hội Đảng, có nơi công dân tập
trung huy động thương binh, phụ nữ, người già, trẻ em bao vây trụ sở chính
quyền xã, huyện, tỉnh, doanh nghiệp gây mất trật tự, an toàn xã hội.
Thời gian gần đây, có rất nhiều vụ việc khiếu nại liên quan đến đất đai.
Nhiều trường hợp khiếu nại có liên quan đến việc Nhà nước thu hồi đất để
thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội, như đòi được bồi thường đất ở,
nâng giá bồi thường, tăng tiền hỗ trợ, bố trí tái định cư, giải quyết việc làm;
đòi lại đất cũ, nhà ở. Ngoài ra, có một số khiếu nại liên quan đến việc thực
hiện chính sách xã hội, kỷ luật của cán bộ, công chức... Về nội dung tố cáo,
chủ yếu là tố cáo cán bộ, công chức làm sai chính sách, tiêu cực, tham nhũng
75
trong quản lý đất đai, tài chính, đầu tư, xây dựng cơ bản, thực hiện chính sách
xã hội, cổ phần hóa doanh nghiệp; thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết
khiếu nại, bao che người bị tố cáo, không xử lý nghiêm các trường hợp vi
phạm pháp luật. Nội dung khiếu tố tập trung vào việc bồi thường giải phóng
mặt bằng, bố trí tái định cư, đòi lại đất cũ...vì vậy việc thanh tra, kiểm tra xử
lý vi phạm trong lĩnh vực đất đai cần được quan tâm thực hiện.
3.2.1.4 Giải quyết nhanh chóng, kịp thời các khiếu nại, tố cáo của
người sử dụng đất khi bị thu hồi
Khiếu nại, tố cáo của người dân khi bị thu hồi đất đang diễn ra phức tạp
và phổ biến tại các dự án có thu hồi đất, nhất là các dự án phát triển kinh tế,
thu lợi nhuận cho nhà đầu tư. Khiếu nại, tố cáo trong thu hồi đất có thể xuất
phát từ nhận thức, đòi hỏi vô lý từ người dân; cũng có thể xuất phát từ bất cập
của cơ chế, năng lực của cán bộ thực hiện hay tiêu cực, tham nhũng trong các
cơ quan chức năng…Cần thống nhất nhận thức là một mặt phải hoàn thiện
pháp luật, tuyên truyền tốt, thực hiện tốt để hạn chế đơn thư khiếu nại tố cáo;
đồng thời tránh tâm lý né tránh khiếu nại, tố cáo làm cho vấn đề ngày càng
phức tạp, khó giải quyết. Là cán bộ công tác trong lực lượng Công an nhân
dân, trực tiếp tham gia một số vụ việc khiếu nại, tố cáo của người dân liên
quan đến thu hồi đất, tác giả Luận văn thấy rằng, hiện nay đang có tâm lý né
tránh, ngại đối thoại với nhân dân trong khiếu nại, tố cáo; những vụ việc phức
tạp, tập trung đông người, chính quyền và các ban ngành thường có tâm lý e
ngại, khoán trách nhiệm cho lực lượng Công an, trong khi trách nhiệm đối
thoại, giải quyết yêu cầu, nguyện vọng của người dân thuộc về chính quyền
và các ngành, lực lượng Công an chỉ có trách nhiệm đảm bảo an ninh trật tự
trong các vụ việc, đấu tranh trấn áp và xử lý đối tượng vi phạm pháp luật. Nếu
áp đặt biện pháp dùng lực lượng Công an để đối trọng, trấn áp với người dân,
là trái chủ trương của Đảng và thất bại trong thế trận lòng dân, an ninh xã hội
sẽ bất ổn.
76
Vấn đề đặt ra là khi có đơn thư khiếu nại, tố cáo thì các cấp có thẩm
quyền phải tập trung tích cực giải quyết khẩn trương, đúng đắn, nghiêm túc,
dựa trên nền tảng trách nhiệm: công khai lợi ích (lợi ích Nhà nước, lợi ích địa
phương, lợi ích của doanh nghiệp, lợi ích của người dân bị thu hồi đất); giải
quyết hài hòa các lợi ích trước, trong và sau giải phóng mặt bằng cho người
dân. Đồng thời đề cao tính công khai, minh bạch trong giải quyết khiếu nại, tố
cáo; kiên quyết xử lý các tiêu cực, vi phạm pháp luật của cán bộ cơ quan chức
năng trong thực thi công vụ nhằm đảm bảo sự công minh của pháp luật, đem
lại lòng tin của nhân dân. Luật Đất đai 2013 đã quy định trình tự, thủ tục giải
quyết khiếu nại, khiếu kiện về đất đai thống nhất theo quy định của pháp luật
về khiếu nại và pháp luật tố tụng hành chính (Khoản 2, Điều 204 Luật Đất đai
2013). Đây là tiền đề quan trọng để triển khai thực hiện hiệu quả công tác giải
quyết khiếu nại tố cáo về Luật Đất đai nói chung và pháp luật về bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích kinh tế.
Ở quận Hải An, thành phố Hải Phòng cần tăng cường sự phối hợp các
cơ quan trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; trong đó cơ quan thanh tra là
chủ chốt thực hiện giải quyết kịp thời các khúc mắc của người bị thu hồi đất.
3.2.1.5 Nâng cao vai trò của các tổ chức chính trị xã hội trong việc
tuyên truyền, vận động đối với các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong công
tác bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
Các tổ chức chính trị xã hội như: Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân tăng cường công tác tuyên truyền, vận động nhân dân, đặc biệt trong việc
đại diện quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân, đề xuất thực hiện các cơ chế,
chính sách và tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo. Để cụ thể hoá các giải
pháp trong đề án, các cấp uỷ, chính quyền, uỷ ban MTTQ và các tổ chức CT-
XH các cấp cần chú trọng xây dựng kế hoạch, chương trình hành động để
thực hiện.
77
Ban dân vận, mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể phối hợp chặt chẽ với
Trung tâm Phát triển quỹ đất để phân loại các nhóm hộ gia đình, các đối
tượng có diện tích đất bị thu hồi được hưởng tương đồng các chế độ hỗ trợ, để
tham gia tuyên truyền, vận động thống nhất, bài bản, giải đáp mọi vướng mắc,
khó khăn của người dân, thường xuyên đến từng hộ dân trao đổi tình hình,
nắm bắt nguyện vọng của bà con để người dân đồng thuận, ủng hộ chủ trương
phát triển của thành phố, quận và mong muốn các cấp chính quyền có những
phương án hỗ trợ phù hợp để đảm bảo lợi ích, cuộc sống cho người dân.
3.2.1.6 Nâng cao ý thức, trách nhiệm của người dân trong việc bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
Tăng cường tuyên truyền Luật Đất đai 2013 và các quy định pháp luật
về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.
Tình hình khiếu nại, tố cáo liên quan vấn đề thu hồi đất trên địa bàn
thành phố Hải Phòng nói chung và quận Hải An nói riêng diễn biến hết sức đa
dạng và phức tạp. Có những khiếu nại, tố cáo có cơ sở và đúng quy định pháp
luật, cũng có những khiếu nại, tố cáo không có cơ sở, không theo trình tự
pháp luật, do thiếu nhận thức, bị kích động nhất thời của người sử dụng đất.
Đặc biệt, một số người bị thu hồi đất do hạn chế về kiến thức pháp luật đất
đai, nên đã bị các phần tử xấu dụ dỗ, xúi giục, kích động làm đơn khiếu nại
vượt cấp hoặc khiếu nại tập thể hoặc cố tình không hợp tác với cơ quan, tổ
chức và cá nhân có thẩm quyền trong quá trình thực hiện việc bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất. Thực trạng này không được giải quyết thỏa đáng, dứt
điểm và đúng pháp luật không chỉ gây mất ổn định về chính trị, trật tự an toàn
xã hội tại địa phương; làm chậm tiến độ, tăng chi phí của các dự án mà còn
ảnh hưởng đến tâm lý, lòng tin của người dân đối với chính sách và pháp luật
về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, gây ảnh hưởng không tốt đến môi
trường đầu tư của địa phương và của cả nước. Luật Đất đai 2013 quy định cụ
thể quy trình bồi thường khi thu hồi đất nhưng để pháp luật thực sự đi vào
78
cuộc sống, việc tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật đất đai cho người dân, đặc biệt là pháp luật về bồi thường, khi Nhà nước
thu hồi đất là đòi hỏi tất yếu. Trong các dự án thu hồi đất vì mục đích phát
triển kinh tế, mối quan hệ lợi ích càng yêu cầu được giải quyết thỏa đáng,
tránh tình trạng đất đai của người dân bị thu hồi chủ yếu đem lại lợi nhuận
cho nhà đầu tư. Vì vậy, việc thông tin, giải thích cho người dân hiểu được
mục đích, ý nghĩa của việc thu hồi đất là cơ sở xoá bỏ tâm lý hoài nghi của
người dân, giúp người dân tin tưởng vào sự công bằng và đúng đắn của pháp
luật từ đó đồng tình, ủng hộ quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.
Để tạo sự đồng thuận từ phía người dân đối với công tác thu hồi đất nói
chung và thu hồi đất phục vụ phát triển kinh tế nói riêng thì vấn đề quan trọng
đầu tiên chính là xóa bỏ những nghi ngại của người dân trong công tác thu hồi
đất phục vụ cho việc phát triển kinh tế nước nhà. Hay nói cách khác cần phải
thay đổi nhận thức của người dân thông qua việc đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thu hồi đất.
3.2.1. Giải pháp riêng với quận Hải An, thành phố Hải Phòng
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số giải pháp riêng
đối với quận Hải An, thành phố Hải Phòng nhằm góp phần hoàn thiện hơn
trong thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng khi thu
hồi đất của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân:
- Cần có sự đồng bộ và nhất quán trong công tác chỉ đạo thực hiện
chính sách thu hồi đất. Đảm bảo sự đồng bộ trong giải quyết giữa thu hồi đất
với việc làm, điều kiện sống của người dân có đất bị thu hồi.
- Về tổ chức thực hiện, cần huy động và có sự phối hợp đồng bộ giữa
các cơ quan chức năng trong thu hồi đất, giải quyết việc làm, ổn định thu
nhập và điều kiện sống cho người dân.
- Giải quyết hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, người sử dụng đất và chủ
đầu tư khi Nhà nước thu hồi đất; Đẩy mạnh việc công khai hóa, minh bạch
79
hóa quá trình thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi
đất; Giải quyết nhanh chóng, kịp thời các khiếu nại, khiếu kiện về đất đai của
người sử dụng đất khi bị thu hồi;
- Các cấp chính quyền quận, phường cần nắm rõ thực trạng lao động,
việc làm ở những khu vực có đất bị thu hồi, đặc biệt là đất nông nghiệp, đất
nuôi trồng thủy sản bị thu hồi, từ đó đề xuất kế hoạch đào tạo nghề cho lao
động tại địa phương mình. Kế hoạch đào tạo của quận, phường phải được xây
dựng chi tiết, trên cơ sở phân loại lao động, độ tuổi, sức khoẻ,…mức độ đáp
ứng yêu cầu của các doanh nghiệp. Từ đó đề xuất thành phố có đề án, chương
trình phát triển nguồn nhân lực dài hạn, trung hạn, ngắn hạn để tạo việc làm
cho người lao động. Giải quyết việc làm, điều kiện sống cho người dân có đất
nông nghiệp bị thu hồi để phát triển các khu công nghiệp trên địa bàn quận là
việc làm phức tạp, nhạy cảm. Do đó cần có đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo
đức, công tâm, có chuyên môn nghiệp vụ cao thực hiện.
- Nâng cao nhận thức của người dân trong việc bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất. Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị, xã hội trong
việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật trực tiếp nhằm nâng cao hiểu biết cho
người dân. Hợp tác với các cơ quan báo chí để phổ biến pháp luật (báo Hải
Phòng, báo An ninh Hải Phòng, Đài Phát thanh truyền hình Hải Phòng,
Truyền hình ANTV…) cần có các chuyên mục định kỳ về pháp luật đất đai.
Lập nên các trang thông tin điện tử phổ biến pháp luật về đất đai. Phát hành
các tài liệu hướng dẫn pháp luật phù hợp với trình độ nhận thức của người
dân ở từng vùng, địa phương khác nhau và hợp tác với các tổ chức xã hội để
phổ biến đến tận tay người dân; Tổ chức hệ thống trợ giúp pháp lý miễn phí
hoặc chi phí thấp để giúp đỡ cho người dân khi họ có nhu cầu.
Việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật đất đai trong đó có pháp luật thu
hồi đất phục vụ cho phát triển kinh tế không những nâng cao được hiệu quả
80
pháp luật, giúp cho pháp luật dễ dàng đi vào cuộc sống mà còn tạo điều kiện
cho họ nhận thức được mục đích, ý nghĩa cũng như lợi ích về nhiều mặt từ
việc thu hồi đất. Từ đó, để mọi người dân hiểu và chấp hành pháp luật, làm
tốt công tác di dân về khu tái định cư, đảm bảo các nguyên tắc, thể chế quy
định, tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước và pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Thông qua đó nhằm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ lợi ích
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, giúp cho người dân tin
tưởng vào sự công bằng và tính đúng đắn của pháp luật về thu hồi đất.
81
KẾT LUẬN
Bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất là vấn đề phức tạp và
mang tính thời sự nóng bỏng, thu hút sự quan tâm của toàn xã hội; có
ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống, tâm lý của người dân và tác động không
nhỏ đến sự ổn định chính trị. Với mục tiêu đẩy mạnh toàn diện công cuộc
đổi mới, tạo nền tảng đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp phát triển theo hướng hiện đại thì chúng ta không thể không thực
hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Để giải quyết bài toán đất đai
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước thì việc thu hồi đất
là việc làm tất yếu. Tuy nhiên, việc làm này gây ra nhiều hậu quả mà nếu
không giải quyết dứt điểm, kịp thời sẽ phát sinh tranh chấp, khiếu nại kéo dài
và tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định chính trị. Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ
khi nhà nước thu hồi đất ra đời nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện
thu hồi đất và giải quyết hài hoà lợi ích của các bên liên quan: Lợi ích của
Nhà nước, lợi ích của người bị thu hồi đất và lợi ích của người sử dụng đất
sau thu hồi. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu những vấn đề lý luận về thực
hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất ở Chương 1;
đánh giá thực trạng t h ự c h i ệ n pháp luật và thực tiễn tại quận Hải An,
thành phố Hải Phòng ở Chương 2 và đề xuất giải pháp bảo đảm thực hiện
pháp luật về Bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất tại Chương 3 của
Luận văn, tôi rút ra một số kết luận chủ yếu sau đây:
1. Việc thu hồi đất được thực hiện để sử dụng vào mục đích quốc
phòng, an ninh, để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng
là một tất yếu khách quan trong quá trình xây dựng phát triển xã hội, được
quy định tại Luật Đất đai 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành có liên
quan.
82
2. Việc nhà nước thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an
ninh, để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng của đất
nước không do lỗi của người sử dụng đất gây ra mà xuất phát từ nhu cầu
khách quan của xã hội. Do đó, Nhà nước với tư cách là tổ chức chính trị
quyền lực do xã hội thiết lập nên thay mặt xã hội có trách nhiệm bồi thường,
hỗ trợ cho người bị thu hồi đất. Đây không chỉ là trách nhiệm pháp lý mà
còn là trách nhiệm xã hội của Nhà nước.
3. Việc nhà nước thu hồi đất gây ra những hậu quả năng nề cho
người sử dụng đất. Cuộc sống của nhân dân bị đảo lộn do phải thay đổi
nơi ở, thay đổi thói quen sinh hoạt; đối với người dân bị thu hồi đất nông
nghiệp, họ còn bị mất tư liệu sản xuất, trở thành những người không có công
ăn việc làm, thu nhập bị giảm sút, cuộc sống rơi vào khó khăn. Để đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thu hồi đất, pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam không chỉ đề cập đến
việc bồi thường về đất (bồi thường diện tích đất thực tế bị thu hồi), bồi
thường thiệt hại về tài sản gắn liền với đất bị thu hồi mà còn có các quy
định về hỗ trợ cho người trực tiếp sản xuất nông nghiệp bị mất đất sản
xuất, hỗ trợ việc đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp, hỗ trợ đời sống gặp khó
khăn do việc bị mất đất sản xuất gây ra.
4. Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất được chú
tâm nhiều từ khi Luật đất đai năm 1993 và các văn bản hướng dẫn thi
hành. Lĩnh vực pháp luật này thường xuyên được rà soát, sửa đổi, bổ sung
và hoàn thiện nhằm phù hợp với thực tiễn. Hệ thống các văn bản pháp luật
đất đai hiện hành, Luật Đất đai năm 2013, Nghị định 43/2014/NĐ-CP,
44/2014/NĐ-CP, 01/2017/NĐ-CP của Chính Phủ…đã tạo cơ sở pháp lý cho
việc bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất.
5. Đánh giá thực trạng t h ự c h i ệ n pháp luật về bồi thường, h ỗ
t r ợ khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận Hải An, thành phố Hải
83
Phòng cho thấy công tác bồi thường, hỗ trợ đã đạt được nhiều kết quả
đáng khích lệ, tuy nhiên việc thực thi còn bộc lộ một số hạn chế: (i) Việc
xác định điều kiện để được xem xét bồi thường khi nhà nước thu hồi đất
chưa phù hợp; (ii) việc xác định giá đất cụ thể để bồi thường khi nhà nước
thu hồi đất còn bất cập, khó khăn (iii) chênh lệch giá trước vào sau khi thu
hồi đất còn ở mức cao; (iiii) các cơ quan, đơn vị cán bộ chưa thực hiện tốt
chức năng, nhiệm vụ được giao. Việc giải quyết hài hoà lợi ích giữa Nhà
nước với người bị thu hồi đất và doanh nghiệp, chủ đầu tư trong bồi thường
khi nhà nước thu hồi đất chưa đạt hiệu quả mong muốn, v.v..
6. Luận văn cũng đưa ra nhu cầu bảo đảm thực hiện pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn quận Hải An, thành phố
Hải Phòng, đề xuất một số giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất như: Hoàn thiện pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất; Nâng cao trách nhiệm của cơ quan,
tổ chức và cá nhân thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất; Thanh tra, kiểm tra giám sát, xử lý vi phạm; Giải quyết nhanh chóng,
kịp thời các khiếu nại, tố cáo của người sử dụng đất khi bị thu hồi; Nâng cao
vai trò của các tổ chức chính trị xã hội trong việc tuyên truyền, vận động đối
với các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong công tác bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất; Nâng cao ý thức, trách nhiệm của người dân trong việc
bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.
84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2014), Thông tư số 36/2014/TT-BTNMT
ngày 30/6/2014, quy định chi tiết phương pháp định giá đất, xây dựng,
điều chỉnh bảng giá đất, định giá đất cụ thể và tư vấn xác định giá đất.
2. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2015), Thông tư số 20/2015/TT-BTNMT
ngày 20/4/2015, ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật để lập dự toán ngân
sách nhà nước phục vụ công tác định giá đất.
3. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2012), Báo cáo tổng kết tình hình thi hành
Luật đất đai 2003 và định hướng sửa đổi Luật đất đai, Hà Nội, tr5.
4. Bộ Tư pháp (2012), Tổng hợp ý kiến của các đơn vị trong Bộ về Dự thảo
Luật Đất đai sửa đổi, tr.10.
5. Chính phủ (2014), Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014, quy định chi
tiết về thi hành một số điều của Luật Đất đai lại gặp một số vướng mắc.
6. Chính phủ (2014), Nghị định 47/2014/NĐ-CP quy định về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất.
7. Chính phủ (2014), Nghị định số 44/2014/NĐ-CP quy định về giá đất.
8. Chính phủ (2014), Nghị định số 104/2014/NĐ-CP ngày 14/11/2014,quy
định về khung giá đất.
9. Nguyễn Vĩnh Diện (2012), “Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất (qua thực tiễn thi hành tại Thành phố Hà Nội).
10. Nguyên Đào (2009), Giá đất chưa hợp lý là kẻ hở cơ chế xin – cho”,
Báo kinh tế và Đô thị.
11. Đặng Hùng (2010), “Giải phóng mặt bằng, còn nhiều khiến kiện”, Báo
Kinh tế và Đô thị.
12. Phạm Xuân Hoàng (2014), “Bàn về giá đất theo quy định của Luật Đất
đai năm 2013”, Nghiên cứu lập pháp.
13. Trần Phương Liên (2013), “Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ đối với hộ gia
đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp - Thực trạng và
hướng hoàn thiện".
85
14. Doãn Hồng Nhung (2013), “Pháp luật về định giá đất trong bồi thường,
giải phóng mặt bằng ở Việt Nam”.
15. Quốc hội (1993), Luật đất đai năm 1993.
16. Quốc hội (2003), Luật đất đai năm 2003.
17. Quốc hội (2013), Luật đất đai năm 2013.
18. Quốc hội (2011), Luật khiếu nại năm 2011.
19. Nguyễn Thị Tâm (2012), “Pháp luật về thu hồi đất trong việc giải quyết
mối quan hệ giữa nhà nước – nhà đầu tư và người có đất bị thu hồi”.
20. Hoàng Thị Thu Trang (2012), “Pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân và thực tiễn áp dụng tại
Nghệ An”.
21. Nguyễn Minh Tuấn (2013), Thu hồi đất vì mục đích kinh tế ở Việt Nam
hiện nay, Luận văn thạc sĩ.
22. Nguyễn Quang Tuyến (2012), “Công khai minh bạch để bảo vệ quyền lợi
của người bị thu hồi đất”, Tạp chí Luật học, (số 3).
23. Phạm Thu Thủy (2013), “Pháp luật về Bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp ở Việt Nam”.
24. Ủy ban nhân dân quận Hải An (2017), Báo cáo số 573, ngày 17/10/2017
kết quả công tác Thanh tra, tiếp công dân, giải quyết đơn thư, khiếu nại,
tố cáo năm 2017.
25. Ủy ban nhân dân quận Hải An (2016), Báo cáo số 356, ngày 04/11/2016
kết quả công tác Thanh tra, tiếp công dân, giải quyết đơn thư, khiếu nại,
tố cáo năm 2016.
26. Ủy ban nhân dân quận Hải An (2015), Báo cáo số 38, ngày 10/11/2015
kết quả công tác Thanh tra, tiếp công dân, giải quyết đơn thư, khiếu nại,
tố cáo năm 2015.
27. Ủy ban nhân dân quận Hải An (2014), Báo cáo số 35, ngày 15/10/2014
kết quả công tác Thanh tra, tiếp công dân, giải quyết đơn thư, khiếu nại,
tố cáo năm 2014.
86
28. Ủy ban nhân dân quận Hải An (2013), Báo cáo số 58, ngày 28/10/2013
kết quả công tác Thanh tra, tiếp công dân, giải quyết đơn thư, khiếu nại,
tố cáo năm 2013.
29. Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng (2017), Quyết định số
01/2017/QĐ-UBND ngày 16/6/2017 của UBND thành phố Hải Phòng về
việc điều chỉnh bảng giá các loại đất trên đị bàn 7 quận nội thành Hải
Phòng 5 năm (2015- 2019)
30. Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng (2017), Quyết định số
632/2017/QĐ-UBND thành phố Hải Phòng về việc phê duyệt giá đất cụ
thể để tính tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất thực hiện dự án đầu
tư, cải tạo nâng cấp đường 356 đoạn 2A từ ngã ba Nguyễn Bỉnh Khiêm
đến đập Đình Vũ trên địa bàn quận Hải An, thành phố Hải Phòng.
31. Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng (2015), Quyết định số
325/2015/QĐ-UBND thành phố Hải Phòng về việc ban hành bộ đơn giá
vật kiến trúc phục vụ công tác bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
32. Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng (2015), Quyết định số
58/2015/QĐ-UBND thành phố Hải Phòng về việc ban hành tập đơn giá
cây trồng, vật nuôi thủy sản, chi phí đầu tư vào đất nuôi trồng thủy sản
phục vụ công tác bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng khi nhà nước
thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hải Phòng
33. Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng (2014), Quyết định số
2680/2014/QĐ-UBND than phố Hải Phòng Quy định chi tiết một số nội
dung về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa
bàn thành phố Hải Phòng
34. Phạm Thu Thủy (2014), Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ luật học. Đại học
Quốc gia Hà Nội.
87
PHỤ LỤC
Những dự án lớn cần thu hồi đất trên địa bàn quận Hải An
Năm bắt Tổng diện
STT Tên dự án đầu triển tích thu hồi
khai (mét vuông)
Dự án đầu tư xây dựng Tuyến đường trục
có mặt cắt ngang 40m nối từ đường trục 2013 10207.9 1 40m đến đường 100m Lạch Tray – Hồ
Đông. (gd1)
Dự án đầu tư xây dựng trường Trung cấp 2013 13620.5 2 công nghệ Hải Phòng
Dự án đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật 448502.3 3 khu dịch vụ cuối tuyến thuộc dự án 2013 đường ô tô cao tốc Hà Nội – Hải Phòng
Dự án đường bao Tây Nam khu công 2013 315114 nghiệp Đình Vũ 4
Dự án bãi đổ thải Sân bay Cát Bi 2013 68291.5 5
Dự án đầu tư xây dựng đoạn mương An 6 2013 Kim Hải
Dự án giao đất cho Công ty Xuất nhập 2013 7 khẩu Vạn Xuân
Dự án xây dựng Khu vui chơi giải trí, 2014 4647597 8 nhà ở tại đảo Vũ Yên
Dự án Xây dựng trụ sở Ủy ban nhân dân 2014 9 phường Đông Hải 1
Dự án Đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật 2014 66729.91
88
10 khu tái định cư phục vụ Dự án đầu tư mở
rộng Sân bay quốc tế Cát Bi
11 Dự án Đầu tư xây dựng Khu bay – Cảng 2014 1814800 hàng không quốc tế Cát Bi
Dự án cầu Bạch Đằng, đường dẫn và nút 2014 97244.5 12 giao cuối tuyến tại phường Đông Hải 2
Công trình phụ trợ, phụ tạm phục vụ thi 2014 152250 13 công đường ô tô Tân Vũ – Lạch Huyện
Dự án thu hồi đất để bồi thường giải
phóng mặt bằng phục vụ việc di chuyển
trận địa pháo Phòng không của Sư đoàn 2015 45411.8 14 363 thực hiện dự án đầu tư xây dựng
Cảng hang không quốc tế Cát Bi –Sư
Đoàn 363
Dự án đầu tư xây dựng Cầu cảng, luồng
15 ra vào cho các phương tiện thủy Hải đội 2015 50519 2 của Bộ Chỉ huy bộ đội biên phòng Hải
Phòng
16 Dự án đầu tư xây dựng Trường tiểu học 2015 9548 Cát Bi
Dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật các dự
17 án đấu giá tại phường Đằng Hải, Nam 2016 67058.7
Hải (Dự án Đồng Bồ)
Dự án xây dựng Khu nhà ở xã hội cho 2016 20251.9 18 cán bộ công nhân viên nhà máy Z189
Dự án đầu tư xây dựng kho bãi dịch vụ 2016
89
19 lưu trữ hàng hóa của công ty Trách
nhiệm hữu hạng Tiến Thành
Dự án xây dựng Chợ hoa đầu mối Đằng 2016 6.365,3 20 Hải
Dự án Đầu tư xây dựng khu bến cá và
21 khu neo, đậu tàu thuyền, tránh bão phục 2016 28459.5 vụ giải phóng mặt bằng Dự án đường ô
tô Tân Vũ - Lạch Huyện.
Dự án Đầu tư xây dựng cải tạo hệ thống 2016 283.6 22 kênh An Kim Hải – JICA
Dự án Đầu tư xây dựng Tuyến đường
trục có mặt cắt ngang 40m nối từ đường 2017 20104.8 23 trục 40m đến đường 100m Lạch Tray –
Hồ Đông.(gd2)
Dự án xây dựng Trung tâm hành chính 2017 26349.8 24 quận Hải An (C1;C3;D3;D7)
Dự án Đầu tư xây dựng đấu nối đường
25 nội bộ Khu Công nghiêp Đình Vũ với 2017 7957.8 tuyến đường trục chính Tây Nam Khu
Công nghiêp Đình Vũ (02 mối nối)
Dự án đấu nối Khu công nghiệp Nam 2017 23320.1 26 Đình Vũ (Khu 2)
Dự án Đầu tư cải tạo, nâng cấp nút giao
27 thông khác mức nối đường 356 đoạn 2A 2017 14.380,2 từ ngã 3 Nguyễn Bỉnh Khiêm đến đập
Đình Vũ (gd2)
Dự án nút giao Tân Vũ thuộc Dự án 2017 117101.3
90
28 đường ô tô Tân Vũ – Lạch Huyện
Dự án xây dựng trụ sở làm việc Đảng ủy, 2017 4675.1 29 Ủy ban nhân dân phường Đằng Hải
Dự án đầu tư xây dựng khu tái định cư 2017 26095.48 30 tại phường Đông Hải 1
Dự án đầu tư xây dựng nút giao thông
31 khác mức giữa đường Lê Hồng Phong 2017 2166.9 với đường Nguyễn Bỉnh Khiêm
Dự án đầu tư xây dựng hệ thống kỹ thuật 2017 43398.29 32 khu tái định cư tại phường Nam Hải
2017 3000.3 33
8,130,060.0 Tổng
(Nguồn: Trung tâm phát triển qũy đất quận Hải An - năm 2018)
91