BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÊ VĂN CƢỜNG

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG, HỖ TRỢ ĐỐI VỚI TỔ CHỨC, HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HẢI AN - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI - 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÊ VĂN CƢỜNG

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG, HỖ TRỢ ĐỐI VỚI TỔ CHỨC, HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HẢI AN - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và luật Hành chính

Mã số : 8 38 01 02

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. NGUYỄN THỊ PHƢỢNG

HÀ NỘI – 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi.

Các thông tin trong Luận văn là trung thực, có tiếp thu và sử dụng những ý

tưởng khoa học của các tác giả có bài nghiên cứu liên quan. Những phần trích

dẫn đều có xuất xứ rõ ràng.

Tác giả

Lê Văn Cường

LỜI CẢM ƠN

Em xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo Học viện Hành chính Quốc

gia, Khoa sau đại học cùng các thầy, cô giáo giảng dạy chương trình cao học

chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính đã giúp đỡ, tạo điều kiện

cho em trong suốt quá trình học tập, có những kiến thức lý luận và thực tiễn

vô cùng quý giá trong 2 năm học làm cơ sở cho em hoàn thành luận văn

“Thực hiện pháp luật về bồi thường hỗ trợ đối với tổ chức hộ gia đình cá

nhân khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận Hải An, Thành phố Hải

Phòng”.

Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Thị Phượng –

Người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, quan tâm, tạo điều kiện cho em trong

suốt quá trình hoàn thành luận văn.

Em xin cảm ơn cảm ơn lãnh đạo Công an quận Hải An, UBND quận Hải

An đã tạo mọi điều kiện, quan tâm giúp đỡ để em hoàn thành luận văn này.

Tuy đã có nhiều cố gắng nhưng trong quá trình nghiên cứu không thể

tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được những

đánh giá, nhận xét và góp ý của các thầy, cô để luận văn của em hoàn chỉnh và

đầy đủ hơn.

Hà nội, ngày tháng năm 2018

Tác giả

Lê Văn Cƣờng

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ ĐỐI VỚI TỔ CHỨC, HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT ................................................................... 9 1.1. Khái niệm, mục đích, yêu cầu và các điều kiện bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất ......................................................................................... 9 1.2. Thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất .............. 19 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới việc thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất ................................................................................. 29 Kết luận Chương 1 .......................................................................................... 33 Chương 2: THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN QUẬN HẢI AN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG .......................................................................................... 34 2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của quận Hải An, thành phố Hải Phòng có ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất ........................................................ 34 2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ trên địa bàn quận Hải An, thành phố Hải Phòng ......................................................................... 37 Kết luận chương 2 ........................................................................................... 63 Chương 3: GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN QUẬN HẢI AN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG .............................................. 65 3.1. Nhu cầu bảo đảm thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn quận Hải An, thành phố Hải Phòng ................ 65 3.2. Một số giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất ........................................................................................ 68 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 82 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 85 PHỤ LỤC ........................................................................................................ 88

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1 Tình hình giải phóng mặt bằng Quận Hải An ................................. 42

Bảng 2.2 Tình hình giải quyết khiếu nại ......................................................... 52

Bảng 2.3 Tình hình giải quyết kiến nghị ......................................................... 52

Bảng 2.4 Tình hình giải quyết tố cáo .............................................................. 52

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Với một nước có khoảng gần 70% dân số làm nông nghiệp như Việt

Nam thì đất đai luôn là vấn đề rất nhạy cảm và nhận được sự quan tâm đặc

biệt của toàn xã hội. Đặc biệt khi đất nước chuyển đổi sang nền kinh tế thị

trường, Nhà nước thực hiện cơ chế quản lý đất đai mới bằng việc xác định hộ

gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất nông - lâm nghiệp; tiến hành

giao đất, cho thuê đất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài. Chính

sự thay đổi cơ chế quản lý này đã trả lại cho đất đai những giá trị vốn có của

nó: Đất đai ngày càng trở nên có giá và được đem trao đổi trên thị trường;

dùng làm tài sản bảo đảm trong quan hệ tín dụng thế chấp vay vốn với ngân

hàng, tổ chức tín dụng; được đem góp vốn liên doanh trong sản xuất – kinh

doanh. Người dân ngày càng nhận thức sâu sắc được giá trị to lớn của đất đai.

Số lượng các khiếu kiện, tranh chấp đất đai ngày càng gia tăng v.v...

Với việc đất đai ngày càng có giá thì vấn đề thu hồi đất, bồi thường,

giải phóng mặt bằng cũng gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp. Trong nhiều

trường hợp, người dân do không đồng tình với phương án bồi thường của Nhà

nước đã không chịu bàn giao đất dẫn đến việc làm chậm tiến độ thi công công

trình, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của chủ đầu tư và gây tác động tiêu cực

đến môi trường đầu tư. Hơn nữa do không đồng thuận với phương án bồi

thường, người bị thu hồi đất tiến hành khiếu kiện kéo dài, khiếu kiện đông

người và khiếu kiện vượt cấp gây mất ổn định về chính trị, trật tự an toàn xã

hội v.v... Để khắc phục tình trạng này, Nhà nước đã thường xuyên rà soát, sửa

đổi và bổ sung các quy định về bồi thường, hỗ trợ. Tuy nhiên, hiệu quả của

những giải pháp này chưa được như mong muốn; nhiều quy định mới được

ban hành dường như chưa phù hợp với thực tiễn. Các tranh chấp, khiếu kiện

1

liên quan đến bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất có xu hướng gia

tăng cả về số lượng và mức độ gay gắt, phức tạp về nội dung.

So với các quận, huyện trên địa bàn thành phố Hải Phòng thì quận Hải

An có vị trí chiến lược quan trọng trong nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội

của Thành phố. Đặc biệt, kể từ năm 2003 quận Hải An chính thức được thành

lập, sau gần 15 năm đến nay quận đã và đang trên đà phát triển để trở thành

khu trung tâm kinh tế lớn mạnh của thành phố Hải Phòng. Hiện nay trên địa

bàn Quận Hải An có 49 dự án lớn nhỏ đang được triển khai đồng loạt, với nhu

cầu sử dụng đất hiện tại là 120 ha. Đồng nghĩa với đó là số người dân, chủ

yếu là các hộ gia đình, cá nhân bị Nhà nước thu hồi đất cho các dự án lên đến

hơn 9000 hộ. Thực tế đó cho thấy, Quận Hải An, thành phố Hải Phòng cũng

đã và đang phải đối mặt với nhiều thách thức kể trên trong quá trình thực hiện

việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.

Việc nghiên cứu các quy định pháp luật để thấy được nhu cầu của việc

thu hồi đất cũng như những bất cập, hạn chế trong việc thực hiện pháp luật

khi thu hồi, bồi thường mà những điều đó đã và đang trở thành rào cản, trở

ngại trong thực tiễn áp dụng pháp luật nói chung, pháp luật đất đai nói riêng.

Trong bối cảnh đó, tác giả luận văn đã lựa chọn đề tài: "Thực hiện

pháp luật về bồi thường, hỗ trợ đối với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân khi

Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận Hải An - Thành phố Hải Phòng"

để nghiên cứu trong chương trình tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành Luật Hiến

pháp và luật hành chính.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là một chế định quan trọng

của pháp luật đất đai. Liên quan tới việc nghiên cứu đề tài luận văn đã có một

số công trình nghiên cứu về lĩnh vực này dưới khía cạnh lý luận và thực tiễn

và được thể hiện ở những góc độ nhất định. Tiêu biểu là các công trình khoa

học nghiên cứu đã được công bố như sau:

2

Nguyễn Vĩnh Diện, “Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu

hồi đất (qua thực tiễn thi hành tại Thành phố Hà Nội), Luận văn Thạc sĩ

(2012); Hoàng Thị Thu Trang, “Pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi

đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân và thực tiễn áp dụng tại Nghệ An”,

Luận văn Thạc sĩ (2012); Nguyễn Thị Tâm:“Pháp luật về thu hồi đất trong

việc giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước – nhà đầu tư và người có đất bị

thu hồi”, Luận văn Thạc sĩ Luật học (2013); Phạm Thu Thủy,“Pháp luật về

Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam”; Luận văn

(2013) của Trần Phương Liên với nội dung “Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ

đối với hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp -Thực

trạng và hướng hoàn thiện".

Bên cạnh đó, còn có một số bài báo khoa học liên quan đến vấn đề trên

đây, được công bố trên các Tạp chí khoa học chuyên ngành, như Tạp chí Nhà

nước và Pháp luật, Tạp chí Khoa học Tài chính, Tạp chí Nghiên cứu kinh

tế...như: Trần Quang Huy, “Chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất”, Tạp

chí Luật học, số 10/2010; Nguyễn Quang Tuyến, “Công khai minh bạch để

bảo vệ quyền lợi của người bị thu hồi đất”, Tạp chí Luật học, số 3/2012; Doãn

Hồng Nhung (Chủ biên):“Pháp luật về định giá đất trong bồi thường, giải

phóng mặt bằng ở Việt Nam”, Nhà xuất bản Tư pháp năm 2013; Ngoài ra còn

có các công trình nghiên cứu tiêu biểu như: Chuyên đề “Bình luận và góp ý đối

với các quy định bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất trong dự thảo

Luật Đất đai sửa đổi” của Nguyễn Quang Tuyến đăng trong Hội thảo khoa học

“Góp ý dự thảo Luật Đất đai sửa đổi” tổ cức tại Đại học Luật Hà Nội.

Các công trình nghiên cứu của các tác giả đi trước là nguồn tài liệu quý

giá để tác giả Luận văn kế thừa và tiếp tục nghiên cứu về vấn đề “bồi thường,

hỗ trợ khi thu hồi đất” trên các bình diện: cơ sở lý luận, các quy định của pháp

luật và trong thực tiễn thi hành. Có thể nói, các công trình nghiên cứu kể trên

3

đã tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau để phân tích, đánh giá các quy định của

pháp luật Việt Nam về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Tuy nhiên,

chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về thực hiện pháp luật về bồi

thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận Hải An, thành phố

Hải Phòng. Do đó, đề tài không trùng lặp với các công trình đã công bố.

Với mong muốn được tiếp cận vấn đề từ góc độ thực tiễn một cách chi

tiết, đồng thời bằng việc tham chiếu giữa các quy định của pháp luật về bồi

thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất với thực tiễn áp dụng qua các vụ

việc, tình huống cụ thể, một mặt học viên chỉ ra được những quy định phù

hợp, không phù hợp của pháp luật với thực tiễn cuộc sống, mặt khác cũng đưa

ra những nhận xét, đánh giá việc thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi

Nhà nước thu hồi đất của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền ở một

địa bàn cụ thể. Trên cơ sở đó, tôi đề xuất một số giải pháp góp phần bảo đảm

việc thực hiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bồi

thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất cho phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn

hiện nay và trong tương lai.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ cơ sở lý luận và quy

định của pháp luật bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất; Thực trạng

thực hiện quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

tại địa bàn quận Hải An, thành phố Hải Phòng; nghiên cứu đưa ra các giải

pháp hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện đảm bảo hài hoà lợi ích của

chủ thể thu hồi đất và người bị thu hồi đất.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:

Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ giải quyết các

vấn đề chủ yếu sau:

4

- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận thực hiện pháp luật về bồi thường,

hỗ trợ và khi nhà nước thu hồi đất của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân.

- Phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà

nước thu hồi đất tại địa bàn quận Hải An, thành phố Hải Phòng. Qua đó, chỉ

ra các quy định phù hợp, chưa phù hợp; việc áp dụng pháp luật đúng hay

không đúng của các chủ thể thực hiện pháp luật trên địa bàn quận Hải An

cũng như những tồn tại, hạn chế của việc áp dụng pháp luật và nguyên nhân

của nó trong việc bồi thường hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.

- Đề xuất giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật và nâng cao hiệu

quả thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất của tổ

chức, hộ gia đình, cá nhân.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu:

Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và các quy định của Pháp luật

Việt Nam về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và thực trạng thực hiện các

quy định này trong thực tiễn.

4.2. Phạm vi nghiên cứu:

- Tập trung nghiên cứu quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi

Nhà nước thu hồi đất theo Luật đất đai 2013 và các văn bản hướng dẫn thi

hành; so sánh với bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất theo các văn

bản pháp luật ban hành trước năm 2013.

- Tập trung nghiên cứu vào việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu

hồi đất trên địa bàn quận Hải An, thành phố Hải Phòng

- Phạm vi thời gian: từ 2013 đến năm 2018

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy

vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm

5

nghiên cứu vấn đề trong trạng thái vận động biến đổi không ngừng và trong

mối quan hệ tổng thể tác động qua lại giữa hiện tượng nghiên cứu với các

hiện tượng khác, đồng thời các hiện tượng nghiên cứu luôn được xem xét

trong quá trình từ hình thành đến phát triển qua các giai đoạn lịch sử khác

nhau. Bên cạnh đó, tôi cũng dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm,

đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước trong điều kiện

xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để làm sáng tỏ nội

dung nghiên cứu của luận văn.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Để tiến hành nghiên cứu, đề tài còn vận dụng các biện pháp nghiên cứu

cụ thể sau đây:

- Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp: Thông tin thứ cấp được thu

thập chủ yếu là các quy định của cơ quan nhà nước ở Trung ương, của Uỷ ban

nhân dân thành phố Hải Phòng, Uỷ ban nhân dân quận Hải An và các cơ quan

liên ngành về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Nguồn thông tin

này được thu thập chủ yếu qua Công báo, các trang web của các cơ quan nhà

nước có thẩm quyền. Đồng thời, tôi cũng thông qua các quyết định, báo cáo, ý

kiến chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng, các cơ quan liên

ngành, Ban chỉ đạo giải phóng mặt bằng thành phố, Uỷ ban nhân dân quận

Hải An và thông qua các công trình, bài viết, tạp chí, internet…để lấy thông

tin, số liệu liên quan đến pháp luật và thực trạng thực hiện pháp luật về bồi

thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất tại địa bàn quận Hải An, thành phố

Hải Phòng từ khi Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực đến nay.

- Phương pháp tổng hợp, phân tích: Phương pháp này được được sử

dụng để tổng hợp và phân tích các quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ

trợ khi Nhà nước thu hồi đất, cũng như các thông tin về thực tiễn áp dụng.

Phương pháp này còn được sử dụng để có được các nhận xét, đánh giá trình

bày trong luận văn.

6

- Phương pháp thống kê: Phương pháp này được sử dụng nhằm xử lý

các tài liệu, các số liệu mà tôi thu thập trong quá trình khảo sát thực tiễn thực

hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Qua đó, tôi có

được các số liệu, thông tin tin cậy trình bày trong luận văn.

- Phương pháp điều tra xã hội học: Phương pháp này chủ yếu được thực

hiện bằng cách phỏng vấn trực tiếp một số cán bộ lãnh đạo Uỷ ban nhân dân

quận Hải An, các cán bộ tham gia trực tiếp lập phương án bồi thường, hỗ trợ

của Trung tâm phát triển quỹ đất thuộc Ban chỉ đạo giải phóng mặt bằng

thành phố Hải Phòng và Ban bồi thường, hỗ trợ, tái định cư quận Hải An, một

số chuyên gia trong lĩnh vực pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu

hồi đất, người bị thu hồi đất, nhà đầu tư…

Ngoài ra, tôi còn sử dụng các phương pháp: diễn dịch, quy nạp, so

sánh, logic...để nghiên cứu và làm sáng tỏ nội dung của luận văn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

- Hệ thống hoá và góp phần phát triển, bổ sung cơ sở lý luận và thực

tiễn về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và thực hiện pháp luật về bồi

thường khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam, đặc biệt, phân tích, làm rõ cơ

chế điều chỉnh của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; phân

tích làm rõ bản chất của việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.

- Luận văn đã phân tích nội dung các quy định về bồi thường, hỗ trợ

khi Nhà nước thu hồi đất, đánh giá thực trạng thi hành lĩnh vực pháp luật này

và chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

- Trên cơ sở đó, đề cập yêu cầu, định hướng và đưa ra các giải pháp cụ thể

hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam.

- Luận văn là tài liệu tham khảo bổ ích không chỉ đối với các nhà hoạch

định chính sách, pháp luật đất đai, các nhà quản lý đất đai mà còn là tài liệu

7

chuyên khảo cho công tác giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học pháp lý

đất đai ở các cơ sở đào tạo luật của nước ta.

7. Cơ cấu luận văn

Luận văn được kết cấu gồm 3 chương ngoài phần mở đầu, kết luận và

danh mục tài liệu tham khảo

Chương 1: Một số vấn đề lý luận thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ

trợ đối với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất.

Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi

Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận Hải An, thành phố Hải Phòng.

Chương 3: Giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ

khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận Hải An, thành phố Hải Phòng.

8

Chƣơng 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT

VỀ BỒI THƢỜNG, HỖ TRỢ ĐỐI VỚI TỔ CHỨC, HỘ GIA ĐÌNH,

CÁ NHÂN KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT

1.1. Khái niệm, mục đích, yêu cầu và các điều kiện bồi thƣờng, hỗ

trợ khi Nhà nƣớc thu hồi đất

1.1.1 Khái niệm bồi thường, hỗ trợ

Để có cách hiểu toàn diện và sâu sắc thuật ngữ “bồi thường”, cụm từ

“bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất” ta cần phải xem xét, nghiên cứu

trên nhiều phương diện khác nhau. Trong đời sống thực tiễn, “bồi thường”

được sử dụng trong trường hợp một người nào đó có hành vi gây thiệt hại

cho một người khác phải có trách nhiệm bồi thường những thiệt hại do hành

vi của mình gây ra [11]. Hình thức bồi thường có thể là vô hình (xin lỗi)

hoặc hữu hình (bồi thường bằng tiền hoặc bằng hiện vật khác). Việc bồi

thường có thể do các quy định của pháp luật điều chỉnh hoặc do chính sự

thỏa thuận giữa các bên.

Riêng lĩnh vực pháp luật đất đai, thuật ngữ “bồi thường” khi nhà nước

thu hồi đất được ghi nhận từ rất sớm. Tại Nghị định 151/TTg ngày 14/01/1959

của Hội đồng Chính phủ quy định Thể lệ tạm thời về trưng dụng ruộng đất, tại

Chương II đã đề cập việc “bồi thường cho người có ruộng đất bị trưng dụng”.

Tiếp theo, Luật đất đai năm 1987 thuật ngữ “đền bù” được sử dụng thay cho

thuật ngữ “bồi thường”. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai

năm 2001, tại Điều 1, Khoản 9 (sửa đổi, bổ sung Điều 27, Luật Đất đai năm

1993), thuật ngữ “bồi thường” được sử dụng trở lại và thay thế thuật ngữ “đền

bù”. Thuật ngữ “bồi thường” tiếp tục được sử dụng tại Luật đất đai năm 2003

và 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai 2013.

9

Đề cập khái niệm này Khoản 12, Điều 3, Luật đất đai năm 2013 đưa

ra cách giải thích như sau: “Bồi thường về đất là việc Nhà nước trả lại giá

trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người sử dụng đất”.

[17]

Như vậy, bồi thường khi nhà nước thu hồi đất chỉ diễn ra khi Nhà nước

thu hồi một diện tích đất nào đó vì lợi ích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc

gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế. Thực chất, đây chính là việc giải

quyết mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với người bị thu hồi đất và nhà

đầu tư. Do đó, việc bồi thường khi khi nhà nước thu hồi đất phải thực hiện

theo quy định của Nhà nước về giá đất; về điều kiện, trình tự, thủ tục và

nguyên tắc thực hiện.

Cũng cần phải nhấn mạnh rằng, việc bồi thường khi khi nhà nước thu

hồi đất không giống với việc bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực pháp luật

dân sự, hình sự, lao động. Bởi lẽ, nó không những phải đảm bảo lợi ích

của người bị thu hồi đất, mà còn phải đảm bảo lợi ích của Nhà nước, của xã

hội và của người nhận lại quyền sử dụng đất sau khi thu hồi.

“Hỗ trợ” là việc khi Nhà nước thu hồi đất, Nhà nước có chính sách giúp

đỡ, tạo điều kiện cho người có đất bị thu hồi ổn định đời sống sản xuất, vượt

qua khó khăn khi bị thu hồi đất. Các khoản hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất

bao gồm: hỗ trợ ổn định đời sống sản xuất; hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và

tìm kiếm việc làm đối với trường hợp thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia

đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp; thu hồi đất ở kết hợp kinh doanh

dịch vụ của hộ gia đình, cá nhân mà phải di chuyển chỗ ở; hỗ trợ tái định cư

đối với trường hợp thu hồi đất ở của hộ gia đình cá nhân người Việt Nam định

cư ở nước ngoài mà phải di chuyển chỗ ở; hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề,

tìm kiếm việc làm cho hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất; hỗ trợ

khác [17, tr.49 -50]

10

1.1.2 Mục đích và yêu cầu của bồi thường, hỗ trợ

Hoạt động bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là vấn đề phức

tạp, vừa mang tính chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội, vừa mang tính thời sự

cấp bách. Công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất

những năm qua trên cả nước bước đầu đã tạo ra nhiều đổi mới cho khu vực

nông thôn, khu vực đô thị, ven đô thị như: Tạo bước chuyển dịch về cơ cấu

kinh tế, cơ cấu lao động, ngành nghề, thu hút đầu tư... góp phần đẩy nhanh

tiến trình hiện đại hóa nền kinh tế, xã hội của địa phương, của vùng và cả

nước. Tuy nhiên, việc bồi thường thời gian qua đã gặp không ít khó khăn do

nhiều yếu tố chủ quan, khách quan, vì vậy, việc bồi thường, hỗ trợ của nhà

nước những năm qua vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của sự phát triển và đã gây ra

nhiều khiếu nại, khiếu kiện, bất ổn định về xã hội và tình hình trật tự trong cả

nước. Đặc biệt khi các cơ quan nhà nước thực hiện áp dụng giá bồi thường và

chính sách hỗ trợ chưa thống nhất trong cả nước nên đã ảnh hưởng trực tiếp

đến đời sống của cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng dân cư, nhất là trong việc

bồi thường về giá đất tại địa phương.

Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất được xem xét trên cơ sở

hàng loạt các yếu tố về cơ chế, pháp luật và con người, cùng những điều kiện

kinh tế, xã hội khác nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm trong công tác

thu hồi đất của các cấp, các ngành. Đây cũng sẽ là cơ hội cho các nhà chuyên

môn, các nhà lãnh đạo địa phương nâng cao khả năng sắp xếp lại dân cư, xây

dựng kết cấu hạ tầng, tổ chức lại sản xuất, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh

tế, giải quyết việc làm, góp phần thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế - xã hội,

an ninh quốc phòng trên địa bàn địa phương.

1.1.3. Các điều kiện bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

1.1.3.1. Điều kiện để được bồi thường

Theo quy định tại Điều 75 Luật đất đai, người bị Nhà nước thu hồi đất

có một trong những điều kiện sau đây thì được bồi thường, hỗ trợ khi Nhà

nước thu hồi đất:

11

- Có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Pháp luật

đất đai.

- Có quyết định giao đất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy

định của pháp luật đất đai.

- Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ổn định, được Ủy ban nhân dân xã,

phường, trị trấn (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp xã) xác nhận

không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây:

Những giấy tờ về quyền sử dụng đất đai bao gồm: giấy tờ do cơ quan

nhà nước có thẩm quyền cấp trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 trong quá

trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa,

Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng

ký ruộng đất, sổ Địa chính; Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng, cho quyền sử

dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với

đất; Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với

đất trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác

nhận là đất sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993; Giấy tờ thanh lý, hóa

giá nhà ở, mua nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật; Giấy tờ

do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất [17]

- Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong những loại giấy

tờ quy định được kể trên mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy

tờ về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên liên quan,

nhưng đến thời điểm có quyết định thu hồi đất chưa thực hiện thủ tục chuyển

nhượng sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được Ủy ban nhân dân

cấp xã xác nhận không có tranh chấp.

12

- Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có hộ khẩu thường trú

tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy

sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn ở miền núi, hải

đảo, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã nới có đất xác nhận là người đã sử

dụng đất ổn định, không có tranh chấp.

- Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy

tờ quy định như đã kể trên nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày

15 tháng 10 năm 1993, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất đó

không có tranh chấp.

- Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất theo bản án hoặc quy

định của tòa án, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án hoặc quyết định

giải quyết tranh chấp đất đai của nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành.

- Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy

tờ kể trên nhưng đất đã được sử dụng từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến thời

điểm có quyết định thu hồi đất, mà tại thời điểm sử dụng không vi phạm quy

hoạch; không vi phạm hành lang bảo vệ các công trình, được cấp có thẩm

quyển phê duyệt đã công bố công khai, cắm mốc, không phải là đất lấn chiếm

trái phép và được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất bị thu hồi xác nhận đất

đó không có tranh chấp.

- Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà trước đây Nhà

nước đã có quyết định quản lý trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của

Nhà nước, nhưng trong thực tế Nhà nước chưa quản lý, mà hộ gia đình, cá

nhân đó vẫn sử dụng.

- Cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có các công trình là đình, chùa, đền

miếu, am, tư, hương, nhà thờ họ, được Ủy ban nhân dân cấp xã có đất đai bị thu

hồi xác nhận là đất sử dụng chung cho cộng đồng và không có tranh chấp.

Ngoài ra, Tổ chức sử dụng đất trong các trường hợp sau đây cũng được

bồi thường:

13

- Đất được Nhà nước giao cho có thu tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng

đất đã nộp không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước;

- Đất nhận chuyển nhượng của người sử dụng đất hợp pháp mà tiền trả

việc chuyển nhượng không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước;

- Đất sử dụng có nguồn gốc hợp pháp từ hộ gia đình, cá nhân.

1.1.3.2. Điều kiện để được hỗ trợ

- Đối với hộ gia đình, cá nhân, tổ chức kinh tế, doanh nghiệp có vốn

đầu tư nước ngoài đang sử dụng đất thuộc đối tượng quy định tại khoản 1

Điều này đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đủ điều kiện

được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản

khác gắn liền với đất theo quy định của pháp luật về đất đai, trừ trường hợp

quy định tại khoản 2 Điều 77 của Luật đất đai.

- Đối với hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất do nhận giao khoán đất

sử dụng vào mục đích nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản (không

bao gồm đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ) quy định tại các điểm d, đ và e

khoản 1 Điều này thì phải có hợp đồng giao khoán sử dụng đất.”

- Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp quy định tại các

điểm a, b, c khoản 1 Điều 19 của Nghị định này khi Nhà nước thu

hồi đất nông nghiệp mà được bồi thường bằng tiền; hộ gia đình, cá nhân đang

sử dụng đất quy định tại các điểm d, đ và e khoản 1 Điều 19 của Nghị định

này (trừ trường hợp hộ gia đình, cá nhân là cán bộ, công nhân viên của nông,

lâm trường quốc doanh, của công ty nông, lâm nghiệp được chuyển đổi từ các

nông, lâm trường quốc doanh đã nghỉ hưu, nghỉ mất sức lao động, thôi việc

được hưởng trợ cấp) khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp thì được hỗ trợ

đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm theo quy định sau đây:

- Hỗ trợ bằng tiền không quá 05 lần giá đất nông nghiệp cùng loại trong

bảng giá đất của địa phương đối với toàn bộ diện tích đất nông nghiệp thu hồi;

14

diện tích được hỗ trợ không vượt quá hạn mức giao đất nông nghiệp tại địa

phương theo quy định tại Điều 129 của Luật đất đai.

- Mức hỗ trợ cụ thể do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định căn cứ điều

kiện thực tế của địa phương.

- Người được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất

không thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất mà ứng trước kinh

phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thì được tham gia trong quá trình tổ

chức thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất”

- Đối với dự án đầu tư đã có quyết định thu hồi đất và quyết định phê

duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của cơ quan nhà nước có

thẩm quyền nhưng đến trước ngày 01-7- 2014 chưa thực hiện chi trả tiền bồi

thường thì việc xử lý bồi thường chậm thực hiện theo quy định của pháp luật

về đất đai trước ngày 01 -7- 2014.

- Đối với dự án đầu tư đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Khung

chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trước ngày 01-7- 2014 nhưng địa

phương chưa phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư mà chính

sách về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư sau ngày 01 tháng 7 năm 2014 có thay

đổi so với khung chính sách đã được phê duyệt thì bộ, ngành có dự án đầu tư

có trách nhiệm báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định. Bộ, ngành có dự án

đầu tư phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có dự án tổ chức thực hiện

sau khi có quyết định của Thủ tướng Chính phủ.”

1.1.4. Nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

Các chế định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trong Luật Đất

đai năm 2003 trên thực tế không thể thể chế, truyền tải hết các quy định

mang tính nguyên tắc để thực hiện thống nhất khi xử lý những vấn đề phức

tạp phát sinh trong việc bồi thường tại các địa phương, các Bộ, các ngành.

Để khắc phục những vấn đề này, Luật Đất đai 2013 đã tách nguyên tắc

15

bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và nguyên tắc bồi thường về tài sản,

ngừng sản xuất, kinh doanh khi Nhà nước thu hồi đất thành hai điều luật

riêng biệt:

Thứ nhất, về nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất:

- Theo quy định của Luật Đất đai 2013, người sử dụng đất sẽ được bồi

thường khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng an ninh,

phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng nhưng không phải tất

cả các chủ thể sử dụng đất bị thu hồi vào các mục đích này đều được bồi

thường. Để được bồi thường họ cần phải đáp ứng một số điều kiện nhất định do

pháp luật quy định, chẳng hạn, họ phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,

giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc có

đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận,..

Còn đối với trường hợp người sử dụng đất không đủ điều kiện

được bồi thường thì họ sẽ được xem xét hỗ trợ. Đây không chỉ là nghĩa vụ

pháp lý mà còn là nghĩa vụ xã hội và trách nhiệm chính trị của Nhà nước,

bởi lẽ, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người người dân chính là bảo đảm

sự phát triển bền vững của đất nước và thực hiện tốt vấn đề an sinh xã hội.

- Việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích

sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi

thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do UBND cấp tỉnh

quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất. Theo đó, khi Nhà nước thu hồi

đất thì người sử dụng đất được bồi thường bằng đất cùng loại, nếu không có

đất cùng loại thì bồi thường bằng giá trị tương đương. Giá đất là số tiền tính

trên một đơn vị diện tích đất do UBND cấp tỉnh nơi có đất quyết định tại thời

điểm thu hồi đất. Đây là căn cứ quan trọng để tính giá bồi thường về đất cho

người bị thu hồi đất. Giá đất hợp lý đảm bảo cho việc bồi thường được chính

16

xác, thuận lợi và ngược lại. Tuy nhiên, thế nào được coi là hợp lý bởi người

dân luôn muốn đất của mình có giá cao còn giá bồi thường do Nhà nước quy

định thường thấp hơn so với giá thị trường. Mâu thuẫn về giá đất ảnh hưởng

lớn đến công tác bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, là nguyên nhân chủ

yếu làm nảy sinh khiếu nại, khiếu kiện khi thu hồi đất. Giá đất để tính bồi

thường khi Nhà nước thu hồi đất là căn cứ quan trọng để thực hiện việc bồi

thường cho người bị thu hồi; là nội dung chủ yếu giải quyết mối quan hệ

giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người bị thu hồi đất về lợi ích kinh tế.

Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm dân chủ,

khách quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật.

Đây không chỉ là nguyên tắc trong quá trình bồi thường khi Nhà nước

thu hồi đất mà cũng là mục đích hướng đến của quá trình này. Việc bồi

thường đảm bảo dân chủ, khách quan, công bằng, công khai, kịp thời và

đúng pháp luật sẽ giải quyết triệt để, hài hoà quan hệ lợi ích giữa Nhà

nước, nhà đầu tư và người có đất bị thu hồi, đảm bảo cho pháp chế xã

hội chủ nghĩa được thực thi, niềm tin và sự đồng thuận của người dân bị

thu hồi đất với Nhà nước sẽ được củng cố, đảm bảo ổn định xã hội, phát

triển kinh tế.

Thứ hai, nguyên tắc bồi thường về tài sản, ngừng sản xuất, kinh

doanh khi Nhà nước thu hồi đất:

Khi Nhà nước thu hồi đất mà chủ sở hữu tài sản hợp pháp gắn liền với

đất bị thiệt hại về tài sản thì được bồi thường.

Theo đó, để được bồi thường về tài sản khi Nhà nước thu hồi đất thì

tài sản đó phải gắn liền với đất thuộc về chủ sở hữu hợp pháp là người bị

thu hồi đất và tài sản đó phải xác định bị thiệt hại do hành vi thu hồi đất

của Nhà nước gây ra. Đây là nguyên tắc rất cần thiết, bởi lẽ khi Nhà nước

thu hồi đất, tài sản mà họ đầu tư trên đất sẽ không còn tồn tại, không được

17

bảo toàn và bị thiệt hại, do đó trách nhiệm bồi thường của Nhà nước khi

thu hồi đất là tất yếu.

Khi Nhà nước thu hồi đất mà tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, người

Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

phải ngừng sản xuất, kinh doanh mà có thiệt hại thì được bồi thường.

Theo quy định tại Điều 74 Luật đất đai 2013, Nguyên tắc bồi thường về

đất khi Nhà nước thu hồi đất được xác định như sau:

- Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện được

bồi thường quy định tại Điều 75 của Luật này thì được bồi thường.

- Việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích

sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi

thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân

cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất.

- Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm dân chủ,

khách quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật.

[17, tr.45]

Việc thực hiện bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu

không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng đất ở, hoặc được bồi

thường bằng tiền cho phù hợp với thực tế tại địa phương.

Trường hợp người sử dụng đất được bồi thường khi Nhà nước thu hồi

đất nhưng chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai theo quy định của

pháp luật thì phải trừ đi khoản tiền phải thực hiện nghĩa vụ tài chính vào số

tiền được bồi thường, hỗ trợ để hoàn trả ngân sách. Nghĩa vụ tài chính bao

gồm: tiền sử dụng đất phải nộp, tiền thuê đất đối với đất do nhà nước cho

thuê, thuế thu nhập từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các thửa đất

khác của người có đất bị thu hồi (nếu có), tiền thu từ việc xử phạt vi phạm

luật về đất đai, tiền bồi thường cho Nhà nước khi gây thiệt hại trong quản lý

và sử dụng đất đai, phí và lệ phí trong quản lý, sử dụng đất đai.

18

Trong trường hợp khoản nghĩa vụ tài chính về đất đai phải nộp lớn hơn

hoặc bằng tiền bồi thường về đất thì số tiền được trừ tối đa bằng số tiền bồi

thường đất.

Diện tích đất được bồi thường là diện tích đất được xác định trên thực

địa, thực tế đo đạc diện tích thu hồi của từng người sử dụng đất.

1.2. Thực hiện pháp luật về bồi thƣờng, hỗ trợ khi Nhà nƣớc thu hồi đất

1.2.1. Khái niệm, đặc điểm thực hiện pháp luật và thực hiện pháp

luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

1.2.1.1. Khái niệm

Về diện lý luận về Nhà nước và pháp luật, thực hiện pháp luật là hoạt

động có mục đích nhằm hiện thực các quy định pháp luật, làm cho pháp luật

đi vào cuộc sống và trở thành những hành vi hợp pháp trên thực tế của các

chủ thể pháp luật. Vì thế, thực hiện pháp luật không thể phát huy hiệu lực

trong hoạt động áp dụng pháp luật của các chủ thể pháp luật khi thiếu sự bảo

đảm của Nhà nước, các cơ chế cũng như cơ sở pháp lý của nó.

Thực tế cho thấy, những trường hợp không có sự can thiệp của Nhà

nước thì nhiều quy định của pháp luật sẽ không được thực hiện hoặc thực hiện

không đúng. Thực hiện pháp luật còn được coi là việc Nhà nước thông qua

các cơ quan hoặc cán bộ, công chức có thẩm quyền đứng ra tổ chức cho các

chủ thể thực hiện những quy định của pháp luật hoặc tự mình căn cứ vào các

quy định của pháp luật đưa ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi hay

chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể. Thực hiện pháp luật của các cơ

quan áp dụng pháp luật về thực tiễn và lý luận được trao cho Chính phủ và Uỷ

ban nhân dân các cấp cùng các cơ quan chuyên môn của chúng trong các

trường hợp sau:

Thứ nhất, thực hiện pháp luật khi cần truy cứu trách nhiệm pháp lý đối

với những chủ thể vi phạm pháp luật hoặc cần áp dụng các biện pháp cưỡng

chế Nhà nước đối với tổ chức hay cá nhân nào đó.

19

Thứ hai, khi những quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể không mặc

nhiên phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt nếu thiếu sự can thiệp của Nhà nước;

Ví dụ, quan hệ pháp luật lao động với những quyền và nghĩa vụ lao động cụ

thể giữa một người lao động với một bên là cơ quan, tổ chức Nhà nước chỉ

phát sinh khi có quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tuyển dụng

người lao động đó vào làm việc.

Thứ ba, khi xảy ra tranh chấp quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa các

bên tham gia quan hệ pháp luật mà giữa họ không thể tự điều hòa, giải quyết với

nhau được. Trong trường hợp này quan hệ pháp luật đã phát sinh, những quyền

và nghĩa vụ của các bên không được thực hiện và có sự tranh chấp.

Từ phân tích trên ta có thể định nghĩa: Thực hiện pháp luật là hoạt động

mang tính tổ chức, tính quyền lực nhà nước, được thực hiện thông qua những

cơ quan nhà nước có thẩm quyền, hoặc các tổ chức xã hội khi được Nhà nước

trao quyền, nhằm cá biệt hóa những quy phạm pháp luật vào các trường hợp

cụ thế đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể.

Điều 1 Luật đất đai 2013 quy định: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do

Nhà nước đại diện chủ sở hữu. Do đó, với tư cách đại diện chủ sở hữu, Nhà

nước giao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất và quy định cụ thể những

quyền cũng như nghĩa vụ pháp lý đối với người sử dụng đất [17, tr.4], người

sử dụng gồm tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư và người nước

ngoài. Tuy nhiên, để sử dụng đất đai vào các mục tiêu phát triển nền kinh tế

thị trường, Nhà nước quy định việc thu hồi đất đai trên cơ sở quy hoạch, kế

hoạch sử dụng đất đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt:

Luật đất đai dành một chương (chương 6) quy định về bồi thường và hỗ

trợ khi nhà nước thu hồi đất [17, tr.33-41]

Từ những quy định về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất có

thể thấy rằng, thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ là loại hoạt động

20

mang tính tổ chức - quyền lực Nhà nước, đó là việc các cơ quan Nhà nước có

thẩm quyền căn cứ vào quy định của pháp luật (Hiến pháp, Luật đất đai, Luật

khiếu nại) về bồi thường, hỗ trợ về giá trị quyền sử dụng đất căn cứ vào mục

đích sử dụng khi thu hồi mà hậu quả pháp lý và giá trị hiệu lực của quyết định

đó sẽ làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một quan hệ pháp luật về đất đai.

1.2.1.2. Đặc điểm thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà

nước thu hồi đất

Với khái niệm thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước

thu hồi đất cho thấy, việc bồi thường, hỗ trợ không chỉ đặt ra và yêu cầu phải

thực hiện, phải tuân thủ đối với đối tượng có đất bị thu hồi, mà còn đặt ra và

yêu cầu đối với các cán bộ có thẩm quyền trực tiếp thực hiện bồi thường, hỗ

trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Vì thế, có thể hiểu bản chất của thực hiện pháp

luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất qua những đặc điểm cơ

bản sau đây:

Thứ nhất, thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu

hồi đất là hành vi hợp pháp của các chủ thể thực hiện pháp luật. Đây là đặc

điểm quan trọng nhất, theo đó, không phân biệt chủ thể thực hiện pháp luật

bồi thường, hỗ trợ là cơ quan nhà nước hay người dân, là tổ chức hay cá nhân,

là chủ thể trong nước hay nước ngoài... đều phải thực hiện hay tuân thủ pháp

luật bằng hành vi hợp pháp của mình. Mọi sự chống đối, không thực hiện

hoặc thực hiện không đúng các quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ

đều là hành vi trái pháp luật, không được pháp luật thừa nhận, không được

Nhà nước bảo vệ và phải chịu các hình thức pháp lý cụ thể với mỗi hành vi không

hợp pháp của mình.

Thứ hai, thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu

hồi đất được thực hiện bởi nhiều chủ thể khác nhau. Chủ thể đó bao gồm: cơ

quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện chức năng, nhiệm vụ về bồi thường,

21

hỗ trợ. Theo quy định của pháp luật đất đai hiện hành thì cơ quan tham gia

thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ đối với người có đất bị thu hồi bao

gồm: Uỷ ban nhân dân cấp Huyện và cấp Tỉnh ; Ban bồi thường và giải phóng

mặt bằng do Uỷ ban nhân dân cấp Tỉnh hoặc cấp Huyện thành lập, Trung tâm

phát triển quỹ đất. Ngoài ra, thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ còn có

sự tham gia của các cán bộ từ các cơ quan chức năng như: cán bộ xã, phường,

thị trấn, cán bộ địa chính, đại diện của Mặt trận tổ quốc và các thành viên

khác của mặt trận... Cùng với đó, chủ thể không thể thiếu thực hiện pháp luật

về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất đó chính là người có đất thuộc

diện Nhà nước thu hồi. Đó là các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước,

các tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài có

quyền sử dụng đất hợp pháp bị Nhà nước thu hồi để sử dụng cho các mục

đích của Nhà nước. Ngoài ra, chủ thể thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ

trợ khi Nhà nước thu hồi đất cũng có thể là chủ thể có quyền và lợi ích hợp

pháp có liên quan đến đất bị thu hồi.

Thứ ba, thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi

đất được thực hiện bởi bốn hình thức: tuân thủ pháp luật, sử dụng pháp luật,

thi hành pháp luật, áp dụng pháp luật. Theo đó, hình thức đầu tiên có thể kể

đến là tuân thủ pháp luật. Hình thức thứ hai là sử dụng pháp luật, ở hình thức

này, các chủ thể thực hiện pháp luật như đã nêu ở trên, đặc biệt là chủ thể có

đất bị thu hồi bằng những hành vi mang tính chủ động nhằm sử dụng những

khả năng pháp luật cho phép trong việc đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng

của mình. Chẳng hạn, pháp luật đất đai hiện hành quy định điều kiện để tổ

chức, hộ gia đình, cá nhân có đất bị thu hồi để sử dụng cho mục đích quốc

phòng, an ninh là họ phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc giấy tờ

do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp. Bằng quyền này, họ chủ động chứng

minh nguồn gốc đất trên cơ sở giấy tờ đó để được hưởng quyền được bồi

thường và hỗ trợ theo quy định của pháp luật. Sự từ chối bồi thường, hỗ trợ

22

trong trường hợp này của Nhà nước thì bằng quyền khiếu nại, tố cáo của công

dân được Hiến Pháp và Luật đất đai ghi nhận, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân

chủ động thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo hoặc khởi kiện về hành vi vi phạm

để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Tiếp đó, hình thức thứ ba

của thực hiện pháp luật là thi hành pháp luật, hình thức thứ tư là áp dụng

pháp luật. Nếu như sử dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật gắn với

quyền của chủ thể thì hình thức thi hành và chấp hành pháp luật gắn với nghĩa

vụ của chủ thể. Theo đó, các quy định của pháp luật liên quan đến quy trình,

thủ tục và nội dung về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ phải được các cơ quan

làm nhiệm vụ giải phóng mặt bằng tuyệt đối tuân thủ, chấp hành. Cùng với

đó, một khi các quyết định và quy trình đó được thực hiện đúng thì buộc các

chủ thể có đất bị thu hồi phải chấp hành. Mọi sự chống đối hay gây cản trở

đều là hành vi trái pháp luật. Và theo đó, hiệu quả của việc thực hiện pháp

luật sẽ không cao. Việc chấp hành và thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ

khi Nhà nước thu hồi đất còn bao hàm cả trách nhiệm của các cơ quan thực

hiện chức năng bồi thường, hỗ trợ cũng như các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân

không làm những gì luật đã cấm. Chẳng hạn, pháp luật đất đai hiện hành quy

định biện pháp cưỡng chế đối với người có đất bị thu hồi chỉ đặt ra và thực

hiện sau cùng sau khi đã áp dụng tất cả các biện pháp về hành chính, kinh tế,

giáo dục và thuyết phục, song các cơ quan công quyền lại làm dụng quyền

này, bằng quyền lực của mình áp dụng các biện pháp cưỡng chế ngay sau khi

ra quyết định thu hồi đất mà chưa áp dụng các biện pháp khác nêu trên.

1.2.2. Nội dung thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước

thu hồi đất

1.2.2.1. Thực hiện ban hành các văn bản pháp luật về bồi thường, hỗ

trợ khi Nhà nước thu hồi đất

Để thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất, Nhà

nước đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi hành Luật đất đai 2013 như:

23

Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính Phủ hướng dẫn thi

hành Luật đất đai; Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính

Phủ về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất; Nghị định số

01/2017/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định 43/CP-

NĐ; Nghị định số 45/CP-NĐ/2014; Nghị định số 47/CP-NĐ/2014; Thông tư

30/2014/TT-BTNMT ngày 02/6/2014 của Bộ Tài nguyên Môi trường quy

định về hồ sơ giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi

đất; Thông tư 37/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014 của Bộ Tài nguyên Môi

trường quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu

hồi đất; Quyết định số 63/2015/QĐ-TTg ngày 10/12/2015 của Thủ tướng

Chính phủ về chính sách hỗ trợ đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người

lao động bị thu hồi đất.

Trên cơ sở những văn bản do chính phủ và Bộ ngành liên quan ban

hành, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm

quyền ban hành các văn bản áp dụng thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ

trợ như quy định về giá đất, áp dụng các phương pháp định giá đất, làm trung

gian cho việc thỏa thuận giá đất để bồi thường giữa nhà đầu tư với người có

đất bị thu hồi v.v…

1.2.2.2 Trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực

hiện pháp luật bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

a. Trách nhiệm của Hội đồng bồi thường, hỗ trợ

Hội đồng bồi thường, hỗ trợ trên địa bàn cấp tỉnh do Ủy ban nhân dân

huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (Ủy ban nhân dân huyện) thành lập, Chủ

tịch Ủy ban nhân dân huyện làm Chủ tịch Hội đồng và các thành viên Hội

đồng gồm đại diện lãnh đạo của các tổ chức sau:

- Trung tâm Phát triển quỹ đất huyện;

- Chủ đầu tư;

24

- Phòng Tài chính huyện;

- Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện;

- Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thực hiện dự án;

- Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã.

- Một số thành viên khác do Chủ tịch Hội đồng giải phóng mặt bằng

quyết định cho phù hợp với thực tế tại huyện.

Khi dự án có thu hồi đất trên địa bàn từ hai huyện trở lên (thuộc phạm

vi khu kinh tế, khu công nghiệp mở rộng, có một phần diện tích đất của

huyện), có diện tích thu hồi đất lớn thì Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định thành

lập Hội đồng giải phóng mặt bằng tỉnh do lãnh đạo Ủy ban nhân dân tỉnh làm

Chủ tịch, các thành viên Hội đồng gồm đại diện lãnh đạo của các tổ chức sau

cùng tham gia:

- Các Trung tâm Phát triển quỹ đất của hai huyện;

- Chủ đầu tư hoặc Ban Quản lý dự án;

- Sở Tài chính;

- Sở Tài nguyên và Môi trường;

- Sở Xây dựng;

- Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh;

- Ủy ban nhân dân hai huyện có đất bị thu hồi;

- Ủy ban nhân dân cấp xã có đất bị thu hồi.

Hội đồng bồi thường, hỗ trợ có trách nhiệm chỉ đạo công tác giải phóng

mặt bằng, triển khai công tác kiểm kê, áp giá bồi thường, lập phương án bồi

thường, hỗ trợ, di dời, tái định cư, xử lý các vướng mắc, tổng hợp đề xuất

trình Ủy ban nhân dân huyện phê duyệt, chỉ đạo giải quyết.

b. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp

Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp quận, huyện

- Ủy ban nhân dân có trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức, điều hành các cơ

quan chuyên môn trực thuộc và tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng

25

mặt bằng phối hợp thực hiện nhiệm vụ bồi thường được quy định theo thẩm

quyền.

- Chỉ đạo, tổ chức, tuyên truyền, vận động tổ chức, cá nhân về chính

sách bồi thường và thực hiện giải phóng mặt bằng theo đúng quy định thu hồi

đất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

- Chỉ đạo tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng cùng

cấp lập và tổ chức thực hiện phương án bồi thường. Ngoài ra Uỷ ban nhân

dân còn thực hiện phê duyệt phương án bồi thường đối với trường hợp thu hồi

đất theo thẩm quyền; thực hiện phối hợp với Sở Lao động, Thương binh và

Xã hội lập phương án đào tạo, chuyển đổi và tìm kiếm việc làm cho người

trong độ tuổi lao động tại địa phương; giải quyết khiếu nại, tố cáo của công

dân về bồi thường theo thẩm quyền; ra quyết định cưỡng chế và tổ chức

cưỡng chế đối với các trường hợp thuộc thẩm quyền; phối hợp với các cơ

quan chức năng tổ chức thực hiện việc cưỡng chế theo quyết định của cơ quan

có thẩm quyền;…

Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp xã:

- Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức tuyên truyền về mục

đích thu hồi đất, chính sách bồi thường của dự án.

- Phối hợp với Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng

thực hiện xác nhận đất đai, tài sản của người bị thu hồi và chịu trách nhiệm

trước pháp luật trong việc xác nhận điều kiện được bồi thường theo Điều 4

của Quy định này liên quan đến quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở của

hộ gia đình, cá nhân có đất thu hồi tại địa phương; phối hợp chặt chẽ với Tổ

chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng trong quá trình thực hiện

thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng tại địa phương.

c. Trách nhiệm của các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh

Sở Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm:

26

- Chủ trì công tác thẩm định phương án bồi thường đối với trường hợp

thu hồi đất thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân tỉnh;

- Hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện các quy định, chính sách về bồi thường;

- Hướng dẫn việc xác định và xử lý những vướng mắc về diện tích đất,

loại đất, vị trí đất và thẩm định điều kiện được bồi thường và không được bồi

thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định của pháp luật đất đai;

- Hướng dẫn việc xác định quy mô diện tích đất thuộc đối tượng được

bồi thường hoặc không được bồi thường, mức độ bồi thường hoặc hỗ trợ cho

từng người sử dụng đất bị thu hồi làm cơ sở cho việc tính toán bồi thường;

- Tổ chức thực hiện xác định giá đất trong công tác bồi thường;

- Tổng hợp và thông qua Ủy ban nhân dân tỉnh báo cáo Bộ Tài nguyên

và Môi trường về tình hình và kết quả thực hiện thu hồi đất, bồi thường tại địa

phương trước ngày 01 tháng 12 hàng năm.

Sở Tài chính có trách nhiệm:

- Thẩm định dự toán chi phí cho công tác tổ chức thực hiện bồi thường

đối với các dự án theo thẩm quyền. Kiểm tra, hướng dẫn Tổ chức làm nhiệm

vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng lập dự toán, báo cáo quyết toán về kinh

phí tổ chức thực hiện bồi thường theo quy định.

Sở Kế hoạch và Đầu tư có trách nhiệm: Chủ trì, phối hợp với Sở Tài

chính cân đối và bổ sung nguồn vốn ngân sách đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn

cho bồi thường theo kế hoạch được Uỷ ban nhân dân tỉnh giao.

Sở Xây dựng có trách nhiệm:

- Hướng dẫn việc xác định diện tích, tính hợp pháp, không hợp pháp

của các công trình xây dựng gắn liền với đất bị thu hồi làm cơ sở cho việc

tính toán bồi thường.

- Hướng dẫn phương pháp tính giá trị xây dựng mới của nhà, công

trình; đơn giá bồi thường nhà ở, công trình kiến trúc và xác định tỷ lệ còn lại

27

của các kết cấu chính của công trình, việc phân định diện tích trong nhà ở,

công trình công cộng;

- Tham mưu Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành quy định về diện tích đất ở

còn lại sau khi thu hồi không đủ điều kiện để ở; quy định đơn giá nhà ở, công

trình kiến trúc;

- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan hướng dẫn xử lý những

vướng mắc về việc xác định giá nhà, công trình xây dựng khác để bồi thường

theo phạm vi quyền hạn được giao.

Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có trách nhiệm:

- Tham mưu cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ban hành quy định về đơn

giá cây trồng, vật nuôi;

- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan hướng dẫn xử lý những

vướng mắc về việc xác định giá cây trồng, vật nuôi để bồi thường, hỗ trợ theo

phạm vi quyền hạn được giao.

Sở Lao động, Thương binh và Xã hội có trách nhiệm:

Lập và tổ chức thực hiện phương án đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm

kiếm việc làm cho người trong độ tuổi lao động tại địa phương và trình Ủy

ban nhân dân tỉnh quy định mức hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm

việc làm phù hợp với từng loại hộ gia đình, cá nhân có đất thu hồi.

Trung tâm phát triển quỹ đất có trách nhiệm:

Thực hiện ứng vốn cho Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng

mặt bằng tạo quỹ đất sạch để giao đất, cho thuê đất thực hiện theo Quy chế

mẫu về quản lý, sử dụng Quỹ phát triển đất.

d. Trách nhiệm của tổ chức (chủ đầu tư) được giao nhiệm vụ bồi thường,

hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

- Phối hợp với Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng

lập phương án bồi thường theo Quy định này trình cấp có thẩm quyền phê

28

duyệt; bảo đảm kinh phí đầy đủ, kịp thời để thực hiện bồi thường đối với

trường hợp tự nguyện ứng trước triền bồi thường.

- Phối hợp với Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng

hướng dẫn, giải đáp thắc mắc của người sử dụng đất về những vấn đề liên

quan đến việc bồi thường.

1.2.2.3 Thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về bồi

thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất

Thủ tục bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đấ ứ ợc

thực hiện qua nhiều bướ ễ ững tiêu cự

ật từ việ ểm đếm đất đai đến việc chi chả chậm,

không đầy đủ cho người dân được bồi thường, hỗ trợ. Điều này không chỉ ảnh

hưởng trực tiếp đến thiệ ủa Nhà nước, của người dân có đất bị thu hồi

mà về lâu dài còn gây khiếu kiện, mâu thuẫn, bất ổn, mất lòng tin của người

dân đối với chính quyền. Vì vậy mà tron ực hiệ ồi

thường, hỗ trợ đối với người dân có đất bị thu hồi luôn cần có sự kiể

ặt chẽ. Mọi quy trình, thủ tục cần có sự

ịnh củ ật để bảo đảm sự kiểm tra, thủ

chỉ thôn ớc mà cần bảo đả ế

dân chủ, sự ủa người dân, kịp thời giải quyế ế ố

và có biệ ử lý khắc phụ ồng thời có hình

thức xử ối vớ ộ ễu trong

thực thi nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ người dân khi Nhà nước thu hồi đất.

1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng tới việc thực hiện pháp luật về bồi

thƣờng, hỗ trợ khi Nhà nƣớc thu hồi đất

1.3.1. Yếu tố chính trị

Thứ nhất, quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng, hoàn thiện

chính sách, pháp luật đất đai nói chung và chính sách, pháp luật về bồi

thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng.

29

Xét về phương diện lý luận, pháp luật là sự thể chế hoá, quan điểm,

đường lối, chủ trương của Đảng. Hoạt động xây dựng pháp luật đất đai nói

chung và pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng

không thể “thoát ly” các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về tiếp

tục đổi mới chính sách, pháp luật đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện

công cuộc đổi mới đất nước. Ở nước ta, trong điều kiện một Đảng cầm

quyền, một trong những phương thức lãnh đạo của Đảng là ban hành các

quan điểm, đường lối, chủ trương về phát triển đất nước. Trên cơ sở đó,

Nhà nước thể chế hoá các quan điểm, đường lối của Đảng bằng các quy

định của pháp luật để quản lý xã hội. Như vậy, quan điểm, đường lối của

Đảng có tác động trực tiếp đến quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật đất

đai nói chung và pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nói riêng.

Thứ hai, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai

Ở nước ta, do tính đặc thù đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước

đại diện chủ sở hữu. Chế độ sở hữu đó đã tác động đến nội dung các quy

định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất thể hiện trên

một số khía cạnh cơ bản sau đây: Một là, ở nước ta, trong trường hợp thật

cần thiết khi Nhà nước có nhu cầu sử dụng đất vì mục đích quốc phòng, an

ninh; lợi ích quốc gia,…thì Nhà nước thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ khi

Nhà nước thu hồi đất do Nhà nước quản lý mà không mua đất của chủ đất

như các nước có chế độ sở hữu tư nhân về đất đai; Hai là, việc bồi

thường, hỗ trợ cho người bị thu hồi căn cứ vào giá đất cụ thể do Nhà nước

xác định tại thời điểm thu hồi chứ không căn cứ vào giá đất trên thị trường;

Ba là, không phải bất cứ người bị thu hồi nào cũng được Nhà nước bồi

thường mà chỉ những người sử dụng có đủ các điều kiện theo quy định mới

được bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất; Bốn là, không phải bất cứ cơ

quan nhà nước nào cũng có thẩm quyền thu hồi đất mà chỉ những cơ quan

được pháp luật cho phép thì mới được thu hồi đất [34, tr.49].

30

1.3.2. Yếu tố kinh tế

Cơ chế quản lý kinh tế cũng có những tác động nhất định đến pháp

luật bồi thường khi nhà nước thu hồi đất. Trước đây, trong cơ chế quản lý

kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp pháp luật nghiêm cấm việc mua bán,

chuyển nhượng đất đai. Do đó, đất đai có giá trị thấp. Tuy nhiên, kể từ khi

nền kinh tế nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, Nhà nước chủ

trương xây dựng và phát triển nhiều thành phần kinh tế; các thành phần

kinh tế bình đẳng trước pháp luật… Trong điều kiện kinh tế thị trường cơ

chế quản lý đất đai có sự thay đổi: Nhà nước thừa nhận Q u y ề n s ử

d ụ n g đ ấ t là loại hàng hoá đặc biệt và được trao đổi trên thị trường.

Việc thu hồi đất gặp nhiều khó khăn do người bị thu hồi đất không đồng

thuận với phương án bồi thường khi nhà nước thu hồi đất, phát sinh các

tranh chấp, khiếu kiện vượt cấp, phức tạp, kéo dài, tiềm ẩn nguy cơ gây

mất ổn định xã hội, vì vậy, pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi

đất thường xuyên được rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện nhằm đáp

ứng yêu cầu của quản lý đất đai trong điều kiện kinh tế thị trường.

1.3.3. Yếu tố tâm lý xã hội, nhận thức xã hội

Công tác bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất cũng chịu tác động

không nhỏ của tâm lý và nhận thức xã hội của người có đất bị thu hồi, tổ

chức cá nhân sử dụng đất sau khi thu hồi bởi với truyền thống văn hóa, các

quan niệm được hình thành trong đời sống xã hội như quan niệm về phong

thủy, tâm lý số đông đã tác động trực tiếp đến công tác bồi thường, hỗ trợ khi

Nhà nước thu hồi đất. Nếu việc bồi thường, hỗ trợ phù hợp với quan niệm,

phong thủy hoặc nhân dân chấp hành tốt pháp luật về quyền, lợi ích của

mình sẽ tạo được động lực thúc đẩy quá trình phât triển, nhân dân đồng tình

ủng hộ, thống nhất di dời vào nơi ở mới từ đó sẽ giúp cho quá trình giải

phóng mặt bằng được nhanh hơn. Ngược lại, nếu nhận thức xã hôị chưa

31

cao, người bị thu hồi đất có tâm lý không muốn di dời giải tỏa đến nơi ở mới

sẽ tác động tiêu cực đến kết quả thực thị pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà

nước thu hồi đất.

1.3.4. Yếu tố hội nhập quốc tế

Quá trình hội nhập quốc tế cũng có những tác động không nhỏ tới pháp

luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất. Để gia nhập các tổ chức Thương

mại thế giới, các hiệp định song phương, đa phương…nước ta cam kết tuân

thủ và thực thi nghiêm chỉnh các quy định, luật lệ của Tổ chức này. Những

nguyên tắc cơ bản mà Tổ chức Thương mại thế giới đặt ra và yêu cầu các

quốc gia thành viên phải cam kết; đó là: Nguyên tắc bình đẳng, không phân

biệt đối xử trong kinh doanh; nguyên tắc công khai, minh bạch; cải cách thủ

tục hành chính theo cơ chế một cửa, một đầu mối và thống nhất quy trình

chung áp dụng cho cả nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài trong

việc giải phóng mặt bằng để thực hiện các dự án đầu tư, cơ chế một giá

trong quá trình áp giá bồi thường... là những nội dung liên tục được sửa đổi,

bổ sung và điều chỉnh trong pháp luật hiện hành thời gian qua, chúng đã và

đang dần hài hòa với pháp luật thế giới [31, tr.49].

32

Kết luận Chƣơng 1

Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là điều kiện để tồn tại của mỗi

con người và sinh vật khác trên trái đất, là yếu tố đầu vào không thể thiếu

trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Đối với nước ta, trên cơ sở chế độ

sở hữu toàn dân về đất đai, Nhà nước đã quy định về chế độ giao đất, cho

thuê đất, thu hồi đất cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân quản lý, sử dụng để

từng bước tiến tới hiện đại hóa đất nước, từng bước chuyển đổi cơ cấu kinh tế

nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ và là yếu tố khách quan của quản lý

nhà nước. Vì vậy chương 1 đã phân tích và làm rõ những vấn đề mang tính lý

luận như : Đất đai và vai trò của đất đai, khái niệm, đặc điểm của thu hồi, bồi

thường và hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất ; các điều kiện để được bồi thường,

hỗ trợ, nguyên tắc của bồi thường và hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Luận

văn cũng đưa ra những quy định pháp luật về phương thức bồi thường, hỗ trợ

Nhà nước thu hồi đất. Đặc biệt, Luận văn cũng đã phân tích được bốn yếu tố

cơ bản ảnh hưởng tới việc thu hồi, bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi

đất. Đây là những yếu tố cơ bản làm căn cứ để đánh giá những kết quả và hạn

chế trong quá trình thu hồi đất trên thực tiễn ở quận Hải An, thành phố Hải

Phòng tại chương 2 được chính xác và cụ thể cũng như khách quan hơn.

33

Chƣơng 2

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG, HỖ TRỢ

KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN QUẬN HẢI AN,

THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của quận

Hải An, thành phố Hải Phòng có ảnh hƣởng đến việc thực hiện pháp luật

về bồi thƣờng, hỗ trợ khi Nhà nƣớc thu hồi đất

2.1.1. Khái quát chung về quận Hải An, thành phố Hải Phòng

Quận Hải An được thành lập theo Nghị định số 106/NĐ-CP ngày

20/12/2002 của Chính Phủ trên cơ sở sát nhập 05 xã của huyện An Hải và 01

phường của quận Ngô Quyền (đến nay tách ra làm 08 đơn vị hành chính cấp

phường: Đằng Lâm, Đằng Hải, Tràng Cát, Nam Hải, Cát Bi, Thành Tô, Đông

Hải 1 và Đông Hải 2). Vì vậy kinh tế xã hội, cơ sở vật chất của quận mang

dáng dấp của một huyện nhiều hơn là của quận nội thành. Tổng diện tích đất

tự nhiên của quận Hải An là 10.484,29ha, với tổng số dân là 104.070 người.

Quận Hải An nằm ở phía Đông Nam thành phố Hải Phòng, có vị trí địa lý như

sau:

- Phía Tây Bắc giáp quận Ngô Quyền.

- Phía Bắc giáp huyện Thủy Nguyên dọc theo sông Cấm.

- Phía Nam giáp huyện Kiến Thụy dọc theo ranh giới sông Lạch Tray.

- Phía Đông giáp huyện đảo Cát Hải theo ranh giới là cửa biển Nam Triệu.

Với vị trí đó, quận Hải An là đầu mối giao thông quan trọng của thành

phố Hải Phòng với đầy đủ các tuyến đường bộ, đường sông, đường biển,

đường sắt và đường hàng không. Chạy qua địa bàn quận Hải An có trục

đường giao thông liên tỉnh quan trọng nhất là quốc lộ 5 nối liền Hà Nội - Hải

Phòng, có Sân bay quốc tế Cát Bi, hệ thống cảng trải dài… Bên cạnh đó quận

34

Hải An là khu vực mở rộng của Thành phố Hải Phòng về phía đông nam,

thuận lợi cho việc giao lưu với các tỉnh thành khu vực phía bắc, là cửa ngõ có

thể đón nhận các luồng hàng giao lưu với các tỉnh đồng bằng châu thổ sông

Hồng và mở rộng thị trường. Là quận phát triển năng động, tốc độ tăng

trưởng cao, chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng công nghiệp - dịch vụ; giá trị

sản xuất nông, lâm, thủy sản trên địa bàn còn không đáng kể. Tổng giá trị sản

xuất của các nhóm ngành kinh tế trên địa bàn năm 2017 đạt 52.000 tỷ đồng,

tăng 27,6% so với năm 2016. Thu ngân sách có chuyển biến vượt bậc, từ địa

phương có số thu nằm tốp cuối trở thành địa phương đứng trong tốp đầu

thành phố về thu ngân sách và đạt mốc nghìn tỷ; Thu ngân sách nhà nước

năm 2017 tăng 73,9% so với năm 2016 và là một trong 3 địa phương được

thành phố giao tự cân đối thu chi ngân sách.

Công tác đền bù giải phóng mặt bằng đạt nhiều kết quả cao và hoàn

thành khối lượng lớn. Nhiều dự án trọng điểm của quốc gia, thành phố, một

số tập đoàn kinh tế lớn trong nước, quốc tế được khởi công, hoàn thành và đi

vào hoạt động, như: đường ô tô cao tốc Hà Nội – Hải Phòng; Dự án ngã 5 –

Sân bay Cát Bi; đường World Bank ; cầu và đường Tân Vũ – Lạch Huyện, hệ

thống cảng contener Đình Vũ, Chùa Vẽ; Cảng hàng không quốc tế Cát Bi,

nhà máy sản xuất lốp ô tô của Tập đoàn Bridgestone; khu du lịch sinh thái

Đảo Vũ Yên, hệ thống cầu vượt đô thị Lê Hồng Phong, đường 356...Kết nối

hạ tầng giao thông, kinh tế, đô thị được tăng cường, tiềm năng, lợi thế phát

triển kinh tế của địa phương được phát huy, bộ mặt đô thị có nhiều đổi mới

theo hướng văn minh, hiện đại.

2.1.2. Những dự án lớn cần thu hồi đất trên địa bàn quận Hải An,

thành phố Hải Phòng (từ năm 2013 đến nay)

Từ năm 2013 đến nay, trên địa bàn quận Hải An lần lượt triển khai 33

dự án lớn; các dự án thu hồi đất đều vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát

35

triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng theo Điểm a, Khoản 1,

Điều 16 Luật đất đai 2013. Hầu hết các dự án thu hồi đất đều đúng tiến độ và

được sự đồng tình, ủng hộ cao của các tầng lớp nhân dân, tuy nhiên một số dự

án thu hồi đất còn gặp một số khó khăn, vướng mắc do nhiều nguyên nhân:

giá đất bồi thường chưa tương xứng, các chính sách hỗ trợ chưa thỏa đáng, cá

biệt có những dự án các hộ dân bị các phần tử xấu kích động, xúi giục đòi hỏi

quyền lợi, khiếu kiện các cấp gây phức tạp tình hình an ninh trật tự tại địa

phương, điển hình như: Dự án đầu tư cải tạo, nâng cấp đường 356 đoạn 2A từ

ngã 3 Nguyễn Bỉnh Khiêm đến đập Đình Vũ, Dự án đầu tư mở rộng Cảng

hàng không quốc tế Cát Bi...

Hiện tại, trên địa bàn Hải An còn vướng mắc về giải phóng mặt bằng

đối với một số hộ dân thuộc khu vực nút giao khác mức Nguyễn Bỉnh Khiêm-

Đình Vũ và dự án phát triển giao thông đô thị Hải Phòng, dự án thoát nước

mưa, nước thải và quản lý chất thải rắn (giai đoạn 1); quận đang tích cực phối

hợp các cơ quan liên quan của thành phố tổ chức rà soát, tổ chức giải phóng

mặt bằng đúng quy định.

Các dự án đã và đang triển khai trên địa bàn quận Hải An thời gian qua

có tác dụng rất lớn trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội thành phố nói

chung và quận Hải An nói riêng. Trong 15 năm xây dựng và phát triển, thành

công lớn nhất của Hải An chính là giải phóng mặt bằng để phát triển hạ tầng

giao thông-đô thị. Đây là việc làm khó, ảnh hưởng đến quyền lợi của nhân

dân, doanh nghiệp, song với sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị và sự

đồng thuận của nhân dân, từ năm 2004 đến năm 2017, quận Hải An thực hiện

kiểm kê và giải phóng mặt bằng 172 dự án với diện tích 4.167,2 ha, tương

đương 39,75% tổng diện tích đất tự nhiên, liên quan đến 9.351 tổ chức và cá

nhân. Có mặt bằng, hàng loạt dự án phát triển đô thị tại các phường Đằng Hải,

Đằng Lâm, Thành Tô, Cát Bi, Đông Hải 1, Đông Hải 2… hoàn thành, góp

36

phần mở rộng đô thị quận theo hướng văn minh, hiện đại. Nhiều công trình

giao thông trọng điểm quốc gia và thành phố qua địa bàn quận như: đường ô

tô cao tốc Hà Nội-Hải Phòng, đường Tân Vũ - Lạch Huyện, đường 356,

đường trục khu công nghiệp Đình Vũ, cầu Bạch Đằng, Cảng hàng không quốc

tế Cát Bi... nhanh chóng đi vào hoạt động, đưa Hải An trở thành đầu mối giao

thông trọng điểm của thành phố. Hiện, Hải An là địa phương cấp quận duy

nhất của cả nước hội tụ đủ 5 loại hình giao thông: đường thủy nội địa, luồng

hàng hải, đường bộ, đường sắt trong cảng và đường hàng không. Lợi thế này

đưa Hải An trở thành điểm thu hút đầu tư hấp dẫn. Bán đảo Đình Vũ từ một

vùng đất hoang hóa ven biển nhưng có nhiều tiềm năng, lợi thế, thu hút nhiều

doanh nghiệp phát triển về cảng biển, kho bãi, vận tải, dịch vụ logistics, sản

xuất công nghiệp... Đình Vũ ngày nay trở thành một đầu mối cảng biển lớn

nhất miền Bắc với hàng chục doanh nghiệp cảng, kho bãi ICD. Nhiều doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lựa chọn khu công nghiệp Đình Vũ và các

cụm công nghiệp trên địa bàn Hải An để phát triển sản xuất. Cho đến nay, quận

Hải An thu hút nguồn vốn đầu tư đạt 79.611 tỷ đồng, tăng bình quân

21,28%/năm. Riêng năm 2017, quận thu hút 13.208 tỷ đồng, tăng gấp 12,29 lần

so với năm 2004. Sản xuất phát triển, từ địa phương có số thu nằm tốp cuối,

Hải An trở thành địa phương đứng trong tốp đầu thành phố về thu ngân sách.

2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về bồi thƣờng, hỗ trợ trên địa

bàn quận Hải An, thành phố Hải Phòng

2.2.1. Về ban hành các quy định hướng dẫn thi hành Luật đất đai về

bồi thường, hỗ trợ

Luật Đất đai 2013 với cơ chế thu hồi đất, công tác bồi thường khi Nhà

nước thu hồi đất thực sự đã có những đổi mới quan trọng, nhằm đảm bảo

cho quyền lợi của người sử dụng đất, giá đất bồi thường được điều chỉnh

sao cho sát với giá thị trường nhằm đảm bảo quyền lợi về kinh tế của người

37

dân bị thu hồi đất. Thực tế cho thấy giá đất là một trong những vấn đề lớn dễ

làm phát sinh khiếu nại trong thu hồi đất thời gian qua. Một khi pháp luật

có sự điều chỉnh theo hướng hạn chế tối đa những thiệt thòi về kinh tế của

người sử dụng đất khi xảy ra thu hồi thì khiếu nại về bồi thường có thể sẽ có

những chuyển biến tích cực. Không chỉ giải quyết bài toán về kinh tế, Luật

Đất đai 2013 thể hiện tinh thần sâu sát với các vấn đề xã hội đặt ra đối với

người dân bị thu hồi đất. Các giải pháp hỗ trợ mang tính đồng bộ cao, từ ổn

định nhà ở, sản xuất, chuyển đổi, tìm kiếm việc làm…đem tới cho người

sử dụng đất niềm tin rằng lợi ích sau thu hồi chí ít cũng bằng với lợi ích mà

họ có trước khi xảy ra thu hồi. Việc phát huy tính công khai, minh bạch, mở

rộng dân chủ thông qua đối thoại giữa chủ thể thu hồi và chủ thể bị thu hồi

là một bước đi tích cực mà nhờ đó người sử dụng đất có cơ hội được bày tỏ

tâm tư, nguyện vọng. Các vướng mắc giữa hai bên cũng có điều kiện được

tháo gỡ, giải quyết và nhờ đó có thể giảm bớt số lượng các vụ việc khiếu nại

liên quan tới thu hồi đất.

Nhằm đảm bảo các điều kiện cho việc tổ chức thi hành Luật Đất

đai năm 2013, tạo ra những chuyển biến rõ rệt về quản lý và sử dụng đất, góp

phần đưa công tác quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố Hải

Phòng đi vào nề nếp. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất

đai; đẩy mạnh cải cách hành chính, bảo đảm công khai, minh bạch trong

quản lý đất đai. Xây dựng hệ thống quản lý đất đai đảm bảo đúng quy định,

ưu tiên đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu, hạ tầng thông tin đất đai hiện

đại. Quán triệt sâu rộng những quy định mới của Luật Đất đai năm 2013 và

cụ thể hóa những nhiệm vụ về triển khai thi hành Luật Đất đai của Thủ

tướng Chính phủ tại Chỉ thị số 01 nhất là đối với cán bộ, công chức, cơ quan,

đơn vị… đang tham gia thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về đất đai, từ

đó tuyên truyền sâu rộng đến các tầng lớp nhân dân, đến người sử dụng

đất, góp phần nâng cao nhận thức về pháp luật đất đai.

38

Sau khi Luật Đất đai 2013 được ban hành, các cơ quan chức năng có

thẩm quyền đã tiến hành tổ chức nghiên cứu, rà soát sửa đổi và ban hành các

văn bản quy phạm pháp luật đảm bảo đúng quy định của Luật đất đai năm

2013 và phù hợp với thực tế của địa phương.

Cụ thể, ngay sau khi Hội đồng nhân dân thành phố ban hành Nghị

quyết số 29/NQ- HĐND ngày 10/12/2014 về việc thông qua bảng giá đất

thành phố Hải Phòng 05 năm (2015 – 2019) thì Uỷ ban nhân dân thành phố

ban hành Quyết định 2970/2014QĐ-UBND ngày 25/12/2014 quy định về

bảng giá đất thành phố Hải Phòng 05 năm (2015 - 2019); Quyết định: số

2680/2014QĐ-UBND ngày 03 tháng 12 năm 2014 Quy định chi tiết một số

nội dung về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa

bàn thành phố Hải Phòng; Quyết định số 58/2015/QĐ-UBND ngày

12/01/2015 về việc ban hành tập đơn giá cây trồng, vật nuôi thủy sản, chi phí

đầu tư vào đất nuôi trồng thủy sản phục vụ công tác bồi thường, hỗ trợ giải

phóng mặt bằng khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hải Phòng;

Quyết định số 325/2015/QĐ-UBND ngày 05/2/2015 về việc ban hành bộ đơn

giá vật kiến trúc phục vụ công tác bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất

trên địa bàn thành phố Hải Phòng; Quyết định số 01/2017/QĐ-UBND ngày

16/6/2017 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng về việc điều chỉnh bảng

giá các loại đất trên địa bàn 7 quận nội thành Hải Phòng 5 năm (2015- 2019);

Quyết định số 632/QĐ-UBND ngày 22/3/2017 về việc phê duyệt giá đất cụ

thể để tính tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất thực hiện dự án đầu tư,

cải tạo nâng cấp đường 356 đoạn 2A từ ngã ba Nguyễn Bỉnh Khiêm đến đập

Đình Vũ trên địa bàn quận Hải An, thành phố Hải Phòng.

Uỷ ban nhân dân thành phố còn thực hiện xây dựng khung giá đất sát

với thị trường để kịp thời bồi thường đúng với quy định và đảm bảo

quyền lợi của người dân. Sở tài nguyên và Môi trường đã phối hợp với Uỷ

39

ban nhân dân các quận, huyện tập trung xây dựng phương án giá đất các

năm 2014, 2015, 2016, 2017, 2018. Đến nay phương án giá các loại đất năm

2019 trên địa bàn thành phố đã được Ban chỉ đạo xây dựng giá đất, Uỷ ban

nhân dân thành phố thông qua, Sở Tài nguyên và Môi trường đã hoàn chỉnh

phương án và gửi Sở Tài chính, Sở Tư pháp thẩm định để Uỷ ban nhân dân

thành phố trình Hồi đồng nhân dân thành phố thông qua vào kỳ họp cuối

năm.

Phương án giá đất được xây dựng trên cơ sở tổng hợp kết quả điều tra

khảo sát giá đất và đề xuất của Uỷ ban nhân dân các quận, huyện nên cơ

bản đảm bảo hài hoà lợi ích giữa nhà nước, nhân dân và các doanh

nghiệp, phù hợp được mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của từng địa

phương. Một số điểm chưa hoàn chỉnh của bảng giá đất đã được điều

chỉnh hợp lý, trong đó đã lưu ý tính ổn định thực hiện quyền và nghĩa vụ

trong việc sử dụng đất của người dân. Đặc biệt việc xây dựng giá đất ở

nông thôn đến địa bàn từng xã (có khác so với năm trước) nhằm các mục

đích đảm bảo phù hợp giữa giá đất các xã của các địa phương có sự khác

biệt về tình hình phát triển hạ tầng giao thông, mức độ đô thị hóa và khả

năng sinh lợi (Ban kinh tế và Ngân sách Hội đồng nhân dân thành phố đã lưu

ý vấn đề này trong Báo cáo thẩm tra phương án giá đất hằng năm của thành

phố). Đồng thời, tạo thuận lợi trong công tác giải phóng mặt bằng, góp

phần đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án đầu tư, hạn chế các khiếu nại

trong công tác bồi thường. Với sự điều chỉnh nói trên, dự kiến bảng giá đất

năm 2019 sẽ có tác động tích cực trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế -

xã hội, thúc đẩy môi trường đầu tư; kích thích thị trường bất động sản phát

triển nhưng không làm tăng tỉ lệ lạm phát; thuận lợi trong công tác quản lý

nhà nước về đất đai, đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của người sử dụng đất,

quyền và nghĩa vụ của các đối tượng bị thu hồi đất; tạo thuận lợi cho việc

40

thực hiện các dự án tạo vốn từ quỹ đất, tạo nguồn thu từ đất, dự án phát

triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ; tạo môi trường thuận lợi cho việc hình

thành và phát triển thị trường bất động sản.

2.2.2. Tình hình thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ cho tổ

chức, hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn quận khi bị thu hồi đất

2.2.2.1. Về thành lập Hội đồng bồi thường, hỗ trợ

Để tạo điều kiện cho việc tổ chức bồi thường, hỗ trợ đối với những dự

án thu hồi đất nêu tại mục 2.2.2, Uỷ ban nhân dân thành phố đã ban hành

quyết định số 2680/2014/QĐ-UBND ngày 03/12/2014 Quyết định ban hành

quy định chi tiết một số nội dung về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà

nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hải Phòng. Trong đó tại khoản 2 Điều

27 quyết định số 2680 quy định "Hội đồng bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cấp

huyện do lãnh đạo Ủy ban nhân dân cấp huyện làm Chủ tịch Hội đồng, các

thành viên gồm đại diện các cơ quan chuyên môn cùng cấp: Tài chính, Tài

nguyên và Môi trường, Công Thương (kinh tế), Ủy ban nhân dân cấp xã có

đất bị thu hồi, Chủ đầu tư, một số thành viên khác do Ủy ban nhân dân cấp

huyện quyết định cho phù hợp với thực tế ở địa phương".

Căn cứ quyết định của Uỷ ban nhân dân thành phố, Uỷ ban nhân dân

quận thành lập Hội đồng bồi thường hỗ trợ quận Hải An gồm:

- Đồng chí Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân quận làm chủ tịch Hội đồng

- Các thành viên hội đồng gồm: Đại diện lãnh đạo các phòng ban:

+ Phòng Tài chính quận,

+ Phòng Tài nguyên và Môi trường,

+ Phòng kinh tế quận,

+ Phòng Quản lý đô thị,

+ Thanh tra quận,

+ Phòng Lao động – Thương binh – Xã hội quận,

41

+ Văn phòng đăng ký đất đai,

+ Văn phòng Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân quận,

+ Trung tâm phát triển quỹ đất,

+ Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường có đất bị thu hồi,

+ Đại diện Chủ đầu tư.

Hội đồng bồi thường, hỗ trợ có trách nhiệm chỉ đạo tổ công tác tiếp

nhận, thẩm định phương án bồi thường, hỗ trợ theo chức năng, nhiệm vụ được

giao, tổng hợp kết quả thẩm định trình Hội đồng bồi thường, hỗ trợ phê duyệt

phương án bồi thường, hỗ trợ theo quy định của Pháp luật.

2.2.2.2. Về bồi thường đối với những dự án thu hồi

Kể từ khi thành lập Hội đồng bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng

của quận đã thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi giải phóng

mặt bằng với những số liệu cụ thể như sau:

Bảng 2.1. Tình hình giải phóng mặt bằng Quận Hải An

Gia đình Số dự Số đơn vị Số tiền được bố trí Năm án Số diện tích thu hồi (m2) Gia đình (tỷ đồng) nhà

2013 7 855.625,7 350 510 210

2014 6 6.778.621,41 480 850 260

2015 3 105.478,8 220 120 160

2016 6 122.419 198 240 120

2017 8 239.984,58 340 480 250

2018 3 48.565,49 125 250 95

(nguồn: Ban Bồi thường giải phóng mặt bằng quận Hải An - năm 2018)

Trong hơn 5 năm từ 2013 đến năm 2018, Ban bồi thường giải phóng

mặt bằng của quận đã thực hiện công tác giải phóng mặt bằng cho 33 dự án

lớn được triển khai trên địa bàn quận. Trong đó năm 2017 thực hiện nhiều dự

42

án nhất (08 dự án), năm 2014 là năm số dự án ít hơn nhưng lại là năm có diện

tích thu hồi lớn nhất (hơn 6 triệu mét vuông) chiếm ¾ tổng số diện tích đất

thu hồi trong 5 năm. Năm 2014 cũng là năm có số hộ gia đình và đơn vị được

bồi thường lớn nhất (480 hộ và đơn vị) cũng là năm có số tiền bồi thường lớn

nhất. Năm 2018 là năm có số dự án và diện tích thu hồi ít nhất (03 dự án, hơn

48 nghìn mét vuông đất phải thu hồi)

Theo đó việc bồi thường về đất:

- Giá đất tính bồi thường: Giá đất để tính bồi thường là giá đất theo

mục đích sử dụng tại thời điểm quyết định thu hồi đất của cơ quan Nhà nước

có thẩm quyền, do Uỷ ban nhân dân thành phố Hải phòng quyết định và công

bố công khai vào ngày 01/01 hàng năm (đối với đất nông nghiệp). Hiện nay,

quận Hải An thực hiện việc bồi thường giá đất theo Quyết định số

01/2017/QĐ-UBND ngày 16/6/2017 và Quyết định số 2970/2014/QĐ-UBND

ngày 25/12/2014 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng. Ngoài ra đất ở

bồi thường theo giá đất cụ thể thành phố có quyết định theo từng dự án,

không bồi thường theo giá đất sẽ được chuyển mục đích sử dụng.

Trường hợp trong một dự án có thu hồi đất nông nghiệp ở các vị trí có

mức giá đất và mức hỗ trợ khác nhau thì áp dụng chung một mức giá bồi

thường (do Ủy ban nhân dân thành phố quyết định nhưng không thể áp dụng

đối với những tuyến đường đi qua các quận, huyện khác nhau),

- Bồi thường tài sản, cây trồng vật nuôi

Nội dung bồi thường về tài sản, cây trồng: Bao gồm nhà cửa, công trình

xây dựng, cây trồng, vật nuôi và các tài sản khác gắn liền với đất khi Nhà

nước thu hồi đất mà bị thiệt hại thì được bồi thường theo quy định.

Đối với tài sản, vật kiến trúc trên đất không đủ điều kiện bồi thường thì

tuỳ trường hợp được hỗ trợ bằng 80% giá bồi thường. (Uỷ ban nhân dân thành

phố quy định hỗ trợ khác nhưng không quá 100% giá trị)

43

- Đơn giá bồi thường về tài sản, cây trồng:

Đơn giá bồi thường về tài sản, cây trồng thực hiện theo quy định của

Uỷ ban nhân dân thành phố và Uỷ ban nhân dân quận. Cụ thể:

+ Căn cứ Quyết định số 2680/2014/QĐ-UBND ngày 03/12/2014 của

Ủy ban nhân dân thành phố về việc ban hành quy định chi tiết một số nội

dung về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn

thành phố Hải Phòng;

+ Căn cứ Điều 2; phụ lục số 01 Quyết định số 58/2015/QĐ-UBND

ngày 12/01/2015 của Uỷ ban nhân dân thành phố về việc ban hành Tập đơn

giá cây trồng, vật nuôi thủy sản, chi phí đầu tư vào đất nuôi trồng thủy sản

phục vụ công tác bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu

hồi đất trên địa bàn thành phố Hải Phòng;

+ Căn cứ Quyết định số 1333/QĐ-UBND ngày 20/6/2018 của Ủy ban

nhân dân quận Hải An về việc phê duyệt đơn giá bồi thường, hỗ trợ đối với

một số loại cây không có trong tập đơn giá cây trồng phục vụ công tác bồi

thường, hỗ trợ thực hiện công tác giải phóng mặt bằng các dự án trên địa bàn

quận Hải An, thành phố Hải Phòng;

- Bồi thường hỗ trợ về vật kiến trúc: Các căn cứ để thực hiện

+ Căn cứ Điều 89 Luật đất đai 2013 về Bồi thường thiệt hại về nhà,

công trình xây dựng trên đất khi Nhà nước thu hồi đất;

+ Căn cứ các quyết định của Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng số

2680/2014/QĐ-UBND ngày 03/12/2014 về việc ban hành Quy định chi tiết

một số nội dung về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất

trên địa bàn thành phố Hải Phòng; số 324/2015/QĐ-UBND ngày 05/12/2015

quyết định về việc ban hành Bộ đơn giá vật kiến trúc phục vụ công tác bồi

thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng trên địa bàn thành phố Hải Phòng;

+ Căn cứ Công văn số 601/UBND-TH ngày 29/4/2016 của Uỷ ban

nhân dân thành phố Hải Phòng về việc hỗ trợ khác đối với diện tích đất nông

44

nghiệp bị thu hồi vượt hạn mức giao đất ở mới phải thu hồi, giải phóng mặt

bằng và hỗ trợ công trình vật kiến trúc.

2.2.2.3. Chính sách hỗ trợ của quận cụ thể được áp dụng như sau:

a. Hỗ trợ di chuyển:

Khi Nhà nước thu hồi đất ở mà hộ gia đình, cá nhân phải tháo dỡ nhà

và di chuyển đến nơi ở mới, thì được xét hỗ trợ di chuyển. Mức hỗ trợ di

chuyển căn cứ theo Quyết định số 2680/2014/QĐ-UBND ngày 03/12/2014

của Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng, cụ thể:

- Tại khoản 1, Điều 20, Quyết định số 2680/2014/QĐ-UBND ngày

03/12/2014 của Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng quy định " Hỗ trợ đối

với nhân khẩu có tên trong sổ hộ khẩu và thực tế ăn ở trong hộ gia đình có đất

ở bị thu hồi tại thời điểm có quyết định thu hồi đất được hỗ trợ ổn định đời

sống là 3.000.000 đồng/khẩu".

- Tại Điều 25, Quyết định số 2680/2014/QĐ-UBND ngày 03/12/2014

của Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng quy định:

+ Việc hỗ trợ, tái định cư đối với trường hợp thu hồi đất ở của hộ gia

đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà phải di chuyển chỗ ở

theo khoản 2 Điều 22 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP thì được thực hiện theo

quy định sau: Người có đất ở bị thu hồi đủ điều kiện bồi thường về đất ở, nhà

ở được bố trí tái định cư mà có văn bản cam kết tự lo chỗ ở được hỗ trợ một

khoản tiền bằng 30% tiền bồi thường về đất của hộ đủ điều kiện khi bị thu hồi

nhưng tối đa không quá 400.000.000đ/hộ và tối thiểu không dưới

180.000.000đ/hộ đối với khu vực quận, tối đa không quá 250.000.000đ/hộ và

tối thiểu không dưới 100.000.000đ/hộ đối với khu vực huyện.

+ Hộ gia đình, cá nhân khi thu hồi đất mà phải di chuyển chỗ ở trong

phạm vi thành phố được hỗ trợ di chuyển (đến nơi tạm lánh và từ nơi tạm

45

lánh đến khu tái định cư) là 5.000.000 đ/hộ; trường hợp di chuyển sang tỉnh

khác hỗ trợ bằng 7.000.000 đ/hộ.

+ Người bị thu hồi đất ở, nhà ở mà không còn chỗ ở nào khác thì trong

thời gian chờ tạo lập chỗ ở mới (bố trí vào khu tái định cư) được bố trí vào

nhà ở tạm lánh hoặc hỗ trợ tiền thuê nhà ở tạm lánh bằng 12.000.000,00 đ/hộ.

+ Hộ gia đình, cá nhân được giao đất tái định cư, nhà ở tái định cư

được hỗ trợ để ổn định cuộc sống tại khu tái định cư bằng 6.000.000,00đ/hộ.

b. Hỗ trợ ổn định đời sống và ổn định sản xuất

Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi

đất nông nghiệp trên địa bàn quận được hỗ trợ như sau:

- Chỉ hỗ trợ đối với thu hồi đất nông nghiệp giao theo quyết định số 03 của

Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng. Đất vườn, ao bồi thường theo mục đích

sử dụng không có hỗ trợ.

- Tại điểm a khoản 3 Điều 19 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày

15/5/2014 của Chính phủ quy định:

+ Thu hồi từ 30% đến 70% diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng thì

được hỗ trợ trong thời gian 6 tháng nếu không phải di chuyển chỗ ở và trong

thời gian 12 tháng nếu phải di chuyển chỗ ở; trường hợp phải di chuyển đến

các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc có điều kiện kinh tế -

xã hội đặc biệt khó khăn thì thời gian hỗ trợ tối đa là 24 tháng.

+ Đối với trường hợp thu hồi trên 70% diện tích đất nông nghiệp đang

sử dụng thì được hỗ trợ trong thời gian 12 tháng nếu không phải di chuyển

chỗ ở và trong thời gian 24 tháng nếu phải di chuyển chỗ ở; trường hợp phải

di chuyển đến các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc có điều

kiện kinh tế - xã hội đặc biệt skhó khăn thì thời gian hỗ trợ tối đa là 36 tháng;

(Đơn giá gạo theo thông báo từng quý của Ủy ban nhân dân quận).

46

- Tại khoản 1 Điều 21 Quyết định số 2680/2014/QĐ-UBND ngày

03/12/2014 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng quy định “hỗ trợ đào

tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với trường hợp Nhà nước thu

hồi đất nông nghiệp”. Mức hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc

làm theo khoản 1 Điều 20 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP được tính bằng 05

lần giá đất nông nghiệp cùng loại, cùng vị trí trong bảng giá đất do Ủy ban

nhân dân thành phố ban hành đối với toàn bộ diện tích đất thu hồi; diện tích

hỗ trợ không vượt quá hạn mức giao đất nông nghiệp tại địa phương. (Gía đất

nông nghiệp hàng năm Uỷ ban nhân dân thành phố xác định cụ thể).

2.2.2.3. Việc Thanh tra, kiểm tra giám sát, giải quyết khiếu nại, tố cáo

về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận Hải An

- Các trường hợp cưỡng chế, giải quyết khiếu nại

Trong số các dự án thu hồi đất trên địa bàn quận Hải An từ năm 2013

đến nay có một số dự án trong quá trình thu hồi đất gặp phải một số vướng

mắc phải thực hiện việc cưỡng chế thu hồi đất, như: Dự án đầu tư xây dựng

Khu bay, Cảng hàng không quốc tế Cát Bi, Dự án đầu tư cải tạo, nâng cấp

đường 356 đoạn 2A từ ngã 3 Nguyễn Bỉnh Khiêm đến đập Đình Vũ, Dự án

xây dựng Khu vui chơi giải trí, nhà ở và công viên sinh thái tại đảo Vũ Yên…

- Dự án đầu tư mở rộng Cảng hàng không quốc tế Cát Bi là dự án lớn

của thành phố Hải Phòng trên địa bàn quận Hải An, là dự án được thành phố

chọn là dự án trọng điểm, với diện tích đất thu hồi là gần 2 triệu mét vuông,

ảnh hưởng tới quyền lợi của hàng trăm hộ dân, tổ chức trong đó phần lớn là

đất quốc phòng được triển khai từ năm 2014. Trong quá trình triển khai công

tác thu hồi đất, giải phóng mặt bằng đa số các hộ dân đều đồng tình ủng hộ và

tự nguyện chấp hành việc bồi thường, hỗ trợ, bàn giao mặt bằng cho dự án,

tuy nhiên còn 05 hộ dân vẫn không chịu nhận tiền đền bù, hỗ trợ để bàn giao

mặt bằng cho dự án với lý do không chấp nhận phương án bồi thường hỗ trợ.

47

05 hộ dân trên đã gửi đơn khiếu nại lên các cấp từ Trung ương đến thành phố

và quận kiến nghị và đòi hỏi quyền lợi, ngoài ra một số phần tử xấu lợi dụng

việc trên để kích động gây phức tạp tình hình an ninh trật tự trên địa bàn; tuy

nhiên sau hàng trăm cuộc đối thoại, vận động tuyên truyền, chịu nhiều điều

tiếng, cuối cùng 03 hộ dân tự nguyện nhận tiền và bàn giao mặt bằng, tuy

nhiên phải thực hiện cưỡng chế đối với 02 hộ và hoàn thành giải phóng mặt

bằng bàn giao đất cho các đơn vị thi công thực hiện dự án theo đúng tiến độ

[25], [26].

- Dự án đầu tư cải tạo, nâng cấp đường 356 đoạn 2A từ ngã 3 Nguyễn

Bỉnh Khiêm đến đập Đình Vũ trên địa bàn quận Hải An là dự án trọng điểm

của thành phố, có diện tích đất phải thu hồi là 14.380,2 m2 với 267 hộ dân, 6

tổ chức, doanh nghiệp trong diện giải phóng mặt bằng thuộc 2 phường Đông

Hải 1 và Đông Hải 2. Thời gian đầu khi triển khai dự án, đa số người dân đều

đồng tình ủng hộ và tự nguyện bàn giao mặt bằng thực hiện dự án. Tuy nhiên,

trong quá trình kiểm kê, lên phương án hỗ trợ, một số hộ dân không đồng ý

với phương án hỗ trợ nên đã gửi đơn kiến nghị vượt cấp và cố tình chây ỳ,

không bàn giao mặt bằng ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án và gây phức

tạp đến tình hình an ninh trật tự địa phương, tuy nhiên sau một thời gian vận

động, thuyết phục Uỷ ban nhân dân quận tổ chức đối thoại, công khai trả lời

trực tiếp thấu tình, đạt lý tất cả các kiến nghị của người dân nên cuối cùng các

hộ dân đã tự nguyện bàn giao mặt bằng cho dự án [27].

- Dự án xây dựng Khu vui chơi giải trí, nhà ở và công viên sinh thái tại

đảo Vũ Yên là dự án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, là dự án có ý

nghĩa phát triển đô thị, cung cấp dịch vụ hiện đại, là dự án trọng điểm mang

tầm quan trọng đối với sự phát triển của thành phố. Dự án nằm trên địa bàn

quận Hải An và huyện Thủy Nguyên có tổng diện tích hơn 870 ha với tổng

mức đầu tư hơn 19.000 tỷ đồng nằm trên toàn bộ đảo, trong đó diện tích nằm

48

trên địa bàn quận Hải An phải thu hồi hơn 460 ha chủ yếu là đất ao đầm.

Trong quá trình lập phương án bồi thường, hỗ trợ một số hộ dân không đồng

ý với phương án bồi thường hỗ trợ, chính quyền các cấp đã nhiều lần đối

thoại, trả lời các khúc mắc của các hộ dân tuy nhiên một số hộ dân vẫn cố tình

chây ỳ, không hợp tác. Uỷ ban nhân dân quận Hải An đã chỉ đạo tổ chức lực

lượng cưỡng chế đối với 02 hộ dân. Qúa trình thực hiện việc cưỡng chế diễn

ra theo đúng quy định của pháp luật, tuy nhiên công tác tổ chức cưỡng chế

gặp rất nhiều khó khăn vì lần đầu tiên lực lượng cưỡng chế tiến hành cưỡng

chế giải phóng mặt bằng tại địa điểm sông nước, đi lại khó khăn, phải dùng

tàu thuyền để tổ chức cưỡng chế. [27]

- Tình hình, kết quả Thanh tra, kiểm tra giám sát, giải quyết khiếu nại,

tố cáo về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận Hải

An

Tình hình khiếu nại, tố cáo của công dân trong lĩnh vực đất đai diễn ra

gay gắt, phức tạp ở hầu hết các địa phương trong cả nước, nhiều nơi đã trở

thành điểm nóng. Số lượng đơn vượt cấp gửi đến các cơ quan ở Trung ương

nhiều, nội dung thể hiện tính bức xúc gay gắt, không chấp nhận với cách giải

quyết của chính quyền địa phương. Số lượng công dân đến khiếu nại trực tiếp

tại phòng tiếp công dân của các địa phương, các cơ quan ở Trung ương hàng

năm cao. Nhiều vụ việc công dân tụ tập thành đoàn, đi xe, căng cờ, biểu ngữ...

kéo đến các cơ quan chính quyền, Đảng,… nhằm gây áp lực đòi được giải

quyết quyền lợi theo yêu cầu. Số lượng công dân tập trung đông chủ yếu ở

các kỳ họp Hội đồng nhân dân, Quốc hội, Đại hội Đảng, có nơi công dân tập

trung huy động thương binh, phụ nữ, người già, trẻ em bao vây trụ sở chính

quyền xã, huyện, tỉnh, doanh nghiệp gây mất trật tự, an toàn xã hội.

Thời gian gần đây, có rất nhiều vụ việc khiếu nại liên quan đến đất đai.

Nhiều trường hợp khiếu nại có liên quan đến việc Nhà nước thu hồi đất để

49

thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội, như đòi được bồi thường đất ở,

nâng giá bồi thường, tăng tiền hỗ trợ, bố trí tái định cư, giải quyết việc làm;

đòi lại đất cũ, nhà ở. Ngoài ra, có một số khiếu nại liên quan đến việc thực

hiện chính sách xã hội, kỷ luật của cán bộ, công chức... Về nội dung tố cáo,

chủ yếu là tố cáo cán bộ, công chức làm sai chính sách, tiêu cực, tham nhũng

trong quản lý đất đai, tài chính, đầu tư, xây dựng cơ bản, thực hiện chính sách

xã hội, cổ phần hóa doanh nghiệp; thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết

khiếu nại, bao che người bị tố cáo, không xử lý nghiêm các trường hợp vi

phạm pháp luật. Nội dung khiếu tố tập trung vào việc bồi thường giải phóng

mặt bằng, bố trí tái định cư, đòi lại đất cũ...

Theo quy định tại Điều 204 Luật Đất đai 2013 thì:

"1. Người sử dụng đất, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến

sử dụng đất có quyền khiếu nại, khởi kiện quyết định hành chính hoặc hành

vi hành chính về quản lý đất đai.

2. Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại quyết định hành chính, hành

vi hành chính về đất đai thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu

nại. Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi

hành chính về đất đai thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng hành

chính".[17]

Như vậy, trong trường hợp quyết định thu hồi đất, quyết định bồi

thường mà người bị thu hồi có căn cứ cho rằng quyết định đó chưa đúng với

thực tế đất bị thu hồi (loại đất, diện tích, vị trí...) thì có quyền khiếu nại

hoặc khởi kiện hành chính. Thời hiệu khiếu nại là 90 ngày, kể từ ngày nhận

được quyết định hành chính hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi

hành chính (Điều 9 Luật khiếu nại 2011). Như vậy, trong trường hợp quyết

định thu hồi đất, quyết định bồi thường mà người bị thu hồi có căn cứ cho

rằng quyết định đó chưa đúng với thực tế đất bị thu hồi (loại đất, diện tích,

50

vị trí...) thì có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện hành chính. Thời hiệu khiếu

nại là 90 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được

quyết định hành chính, hành vi hành chính quy định tại điều 9 Luật khiếu nại

2011.

Trình tự khiếu nại được quy định tai Điều 7 Luật Khiếu nại như sau:

"Khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính

là trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình

thì người khiếu nại khiếu nại lần đầu đến người đã ra quyết định hành

chính hoặc cơ quan có người có hành vi hành chính hoặc khởi kiện vụ án

hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết

lần đầu hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì

có quyền khiếu nại lần hai đến Thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người có

thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc khởi kiện vụ án hành chính

tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết

khiếu nại lần hai hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải

quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của

Luật tố tụng hành chính". [18]

Khi giải quyết khiếu nại của người bị thu hồi đất thì cơ quan có thẩm

quyền sẽ căn cứ vào hồ sơ, giấy tờ do người bị thu hồi đất cung cấp và hồ

sơ địa chính được lưu trữ cũng như xác minh lại hiện trạng sử dụng đất để

xác định loại đất của người bị thu hồi đất.

Từ năm 2013 đến nay Uỷ ban nhân dân quận Hải An đã nhận được hơn

2000 đơn kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân trên toàn quận, trong đó

phần lớn là đơn kiến nghị, khiếu nại, tố cáo liên quan đến đất đai, tập trung

chủ yếu là khiếu nại việc bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất.

51

Công tác giải quyết khiếu tố về bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất trên

địa bàn quận Hải An trong 05 năm qua đạt được những kết quả cụ thể như

sau:

Bảng 2.2 Tình hình giải quyết khiếu nại

Tổng số vụ Số vụ đủ điều Số vụ đã Đạt tỷ lệ

khiếu nại kiện thụ lý giải quyết Năm %

2013 04 100 04 04

2014 04 100 04 04

2015 05 80 04 04

2016 09 20 01 05

2017 37 72 16 22

Bảng 2.3. Tình hình giải quyết kiến nghị

Tổng số vụ Số vụ đủ điều Số vụ đã Đạt tỷ lệ

Năm Kiến nghị kiện thụ lý giải quyết %

2013 520 84 433 510

2014 542 93 496 530

2015 455 76 343 450

2016 429 85 366 429

2017 344 90 312 344

Bảng 2.4. Tình hình giải quyết tố cáo

Tổng số vụ Số vụ đủ điều Số vụ đã Đạt tỷ lệ

Năm Tố cáo kiện thụ lý giải quyết %

2013 08 100 08 08

2014 01 100 01 01

2015 01 100 01 01

2016 0 0 0 0

2017 05 33 01 03

(Nguồn: Báo cáo kết quả công tác Thanh tra quận Hải An 2013 đến 2017) [24], [25], [26], [27], [28].

52

Nội dung khiếu nại, kiến nghị, tố cáo tập trung vào các vấn đề sau:

- Khiếu nại, kiến nghị việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, bố

trí tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất:

Khiếu nại về bồi thường giải phóng mặt bằng thường gay gắt, công dân

tụ tập đông người, xảy ra tập trung ở những nơi thu hồi diện tích đất lớn để bố

trí phát triển các dự án. Nội dung khiếu nại việc thu hồi đất, bồi thường không

thoả đáng, chưa làm đúng các thủ tục theo quy định của pháp luật, thực hiện

không đúng quy hoạch, không đúng diện tích, vị trí, giá đền bù thấp, không

đáp ứng yêu cầu ổn định cuộc sống. Ngoài ra, còn một số khiếu nại: đòi thực

hiện chính sách bồi thường về đất đai do trước đây chưa được thực hiện trong

việc trưng dụng, thu hồi đất; giải toả hành lang an toàn giao thông…

Thanh tra quận đã tiến hành giải quyết đơn khiếu nại của công dân đối

với một số dự án điển hình trên địa bàn quận Hải An như:

+ Quyết định số 266/QĐ-UBND ngày 22/3/2013 của Uỷ ban nhân dân

quận Hải An về việc thanh tra, kiểm tra công tác kiểm kê, lập phương án bồi

thường đối với đầm nuôi trồng thủy sản của ông Ngô Đình Nhương và ông

Nguyễn Đức Nhẫn tại khu vực Đình Vũ, phường Đông Hải 2, quận Hải An.

+ Quyết định số 605/QĐ-UBND ngày 03/6/2013 của Uỷ ban nhân dân

quận Hải An về việc thanh tra, kiểm tra, xác minh làm rõ việc lập phương án

bồi thường, hỗ trợ đối với hộ gia đình bà Nguyễn Thị Lan có đất bị thu hồi tại

khu T2, phường Thành Tô, quận Hải An.

+ Quyết định số 1610/QĐ-CT ngày 03/8/2015 của Chủ tịch Uỷ ban

nhân dân quận Hải An về việc thành lập Tổ công tác xác minh, rà soát, đề

xuất phương án giải quyết vướng mắc tồn tại trong công tác bồi thường, giải

phóng mặt bằng, giai đất tái định cư của hộ ông Phan Văn Thoan tại dự án

khu đô thị mới Ngã 5 – Sân bay Cát Bi, phường Đằng Lâm, quận Hải An,

thành phố Hải Phòng.

53

+ Quyết định số 2570/QĐ-CT ngày 05/8/22016 về việc xác minh nội

dung khiếu nại của các ông Trịnh Văn Hòa, Trịnh Văn Hợp, Trịnh Văn Hinh

và Trịnh Văn Mai tại Dự án khu vui chơi, giải trí đảo Vũ Yên, phường Đông

Hải 1, quận Hải An.

+ Quyết định số 2600/QĐ-UBND ngày 17/8/2016 về việc kiểm tra, rà

soát trình tự, thủ tục kiểm kê, lập, thẩm định, phê duyệt phương án bồi

thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi đất thực hiện dự án phát triển giao

thông đô thị Hải Phòng (hạng mục xây dựng tuyến đường trục Bắc Sơn –

Nam Hải) tại phường Đằng Hải, quận Hải An.

+ Quyết định số 881/QĐ-CT ngày 10/3/2017 của Uỷ ban nhân dân

quận Hải An về việc thành lập tổ công tác kiểm tra xác minh nội dung kiến

nghị về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với các hộ dân thuộc dự án khu đô

thị mới Ngã 5- Sân bay Cát Bi, phường Đằng Hải, quận Hải An.

+ Quyết định số 1503/QĐ-UBND ngày 03/5/2017 của Uỷ ban nhân dân

quận Hải An về việc xác minh nội dung khiếu nại của 14 hộ dân có đất bị thu

hồi thuộc nút giao thông ngã tư Lê Hồng Phong – Ngô Gia Tự.

- Tố cáo chủ yếu tập trung vào các nội dung:

Tố cáo việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi trong việc thu hồi

đất, giao đất để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, kinh doanh nhà ở; lợi dụng

chính sách thu hồi đất của nông dân để chia cho cán bộ. Lợi dụng chức vụ,

quyền hạn để khai tăng diện tích, sai vị trí đất để tham ô. Tố cáo chính quyền

địa phương (chủ yếu là cấp phường) giao đất trái thẩm quyền, giao đất không

đúng diện tích được phê duyệt theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm

quyền, giao sai vị trí, diện tích, không đúng quy hoạch, thu tiền đất vượt nhiều

lần so với quy định của Nhà nước, sử dụng tiền thu từ đất không đúng chế độ

tài chính…

54

2.2.3. Những kết quả đạt được trong thực hiện pháp luật bồi thường,

hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất đối với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trên

địa bàn quận Hải An, thành phố Hải Phòng

Có thể khẳng định rằng, so với các quận, huyện trên địa bàn thành phố

Hải Phòng thì quận Hải An là quận có số lượng các dự án đầu tư tập trung

nhiều nhất, tốc độ đô thị hoá cũng thuộc diện mạnh nhất. Đô thị hoá, công

nghiệp hoá trên địa bàn quận đã mang đến cho quận một diện mạo mới, một

sự thay đổi cả chất và lượng về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Sự thành

công đó đóng góp vai trò không nhỏ của sự nỗ lực của chính quyền quận

trong hoạt động quy hoạch sử dụng đất hợp lý, khoa học; sự chỉ đạo kịp thời,

sát sao công tác thực thi pháp luật trong lĩnh vực thu hồi đất, bồi thường, hỗ

trợ, tái định cư đối với người dân có đất bị thu hồi được quan tâm chú trọng.

Tuy nhiên, Hải An trong quá trình trình thực hiện pháp luật về thu hồi đất, bồi

thường, hỗ trợ đối với người dân bị thu hồi để thực hiện các dự án đầu tư

cũng đã và đang đối mặt với những thách thức và khó khăn rất lớn, nhiều

vướng mắc nảy sinh chưa được tháo gỡ kịp thời. Có thể nhận thấy thực tế nêu

trên của việc thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ đối với hộ gia đình, cá

nhân khi quận Hải An thu hồi đất qua những nhận định, đánh giá sau đây:

Qua 5 năm thực hiện pháp luật đất đai từ năm 2013 đến nay, thành phố

Hải Phòng đã ban hành hàng loạt các văn bản pháp quy nhằm hiện thực hoá,

chi tiết hoá vấn đề thu hồi đất, bồi thường và giải phóng mặt bằng. Theo đó,

công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất để thực

hiện các dự án đầu tư trên địa bàn quận được các cấp uỷ Đảng quan tâm, chỉ

đạo, các cấp chính quyền tổ chức thực hiện tốt, góp phần vào sự nghiệp phát triển

kinh tế - xã hội của địa phương và nâng cao đời sống cho nhân dân, thể hiện trên

các mặt sau:

55

Thứ nhất, về công tác ban hành văn bản pháp quy, thành phố Hải

Phòng ban hành kịp thời ngay các văn bản hướng dẫn chi tiết để thực hiện

trên địa bàn thành phố về bồi thường, hỗ trợ kịp thời, tạo điều kiện để các cấp

quản lý áp dụng thực hiện nhiệm vụ bồi thường đúng pháp luật, phù hợp tại

địa phương. Ðây là điều kiện tiền đề và thuận lợi để định hướng và chỉ dẫn

cho các cơ quan ban ngành của thành phố, trong đó có quận Hải An có cơ sở

để triển khai trong thực tế.

Thứ hai, chính sách bồi thường, hỗ trợ đối với hộ gia đình, cá nhân và

tổ chức đã góp phần giảm bớt tác động tiêu cực đối với người dân có đất bị

thu hồi để thực hiện các dự án quan trọng của đất nước, góp phần chuyển đổi

cơ cấu nền kinh tế, ổn định đời sống sản xuất cho người có đất bị thu hồi.

Việc thu hồi đất nông nghiệp phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội đã tạo

điều kiện cho các địa phương phát triển công nghiệp, dịch vụ cũng như xây

dựng các khu đô thị mới khang trang cho người dân, bộ mặt nông thôn được

cải thiện, tạo điều kiện thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài. Một số dự án

lớn đã tạo điều kiện và là động lực thúc đẩy nhanh hơn sự nghiệp Công

nghiệp hóa – hiện đại hóa của quận nói riêng và của thành phố nói chung, đưa

diện mạo của quận lên một tầm vóc mới, diện mạo mới. Các dự án lớn và

quan trọng mang tính chất đột phá làm cho quận Hải An có sự thay đổi cả

lượng và chất có thể kể đến như: Dự án Khu trung tâm hành chính quận Hải

An; dự án Đầu tư, nâng cấp, mở rộng khu bay Cảng hàng không quốc tế Cát

Bi; dự án Hồ điều hòa Phương lưu; dự án Khu đô thị mới Ngã Năm sân bay

Cát Bi, dự án nút giao thông khác mức Đình Vũ… Những dự án này đã thực

sự tạo bộ mặt mới cho đô thị theo hướng hiện đại và văn minh.

Thứ ba, nhiều dự án lớn khi đi vào hoạt động đã giải quyết công ăn,

việc làm cho hàng ngàn lao động địa phương; giúp họ ổn định cuộc sống và

tăng thêm thu nhập, tạo điều kiện cho con em đến tuổi lao động có điều kiện

56

tìm kiếm việc làm, những lao động dôi dư của địa phương hoặc lao động nông

nghiệp vốn cuộc sống khó nhọc nhưng bấp bênh đã có cơ hội để chuyển đổi

nghề nghiệp, ổn định cuộc sống hơn so với trước đây.

Trên thực tế trong thời gian qua đã có một số dự án lớn trên địa bàn

quận phải thu hồi đất, giải phóng mặt bằng để bàn giao cho các dự án như: Dự

án đầu tư cải tạo, nâng cấp đường 356 đoạn 2A từ ngã 3 Nguyễn Bỉnh Khiêm

đến đập Đình Vũ trên địa bàn quận Hải An; Dự án giải phóng mặt bằng nút

giao Tân Vũ thuộc Dự án đường ô tô Tân Vũ – Lạch Huyện tại phường Tràng

Cát; Dự án xây dựng Khu vui chơi giải trí, nhà ở tại đảo Vũ Yên; Dự án đầu

tư mở rộng Cảng hàng không quốc tế Cát Bi …Thời gian đầu khi triển khai

dự án, đa số người dân đều đồng tình ủng hộ và tự nguyện bàn giao mặt bằng

thực hiện dự án. Tuy nhiên, trong quá trình kiểm kê, lên phương án hỗ trợ, 1

số hộ dân không đồng ý với phương án hỗ trợ nên đã gửi đơn kiến nghị vượt

cấp và cố tình chây ỳ, không bàn giao mặt bằng ảnh hưởng đến tiến độ thực

hiện dự án và gây phức tạp đến tình hình an ninh trật tự địa phương, tuy nhiên

Uỷ ban nhân dân quận tổ chức đối thoại, công khai trả lời trực tiếp thấu tình,

đạt lý tất cả các kiến nghị của người dân nên cuối cùng các hộ dân đã tự nguyện

bàn giao mặt bằng cho dự án.

Đạt được kết quả trên là do việc công khai, minh bạch và đúng quy

định trong giải phóng mặt bằng là “chìa khóa” để thành công. Với những

trường hợp cố tình chây ỳ trong giải phóng mặt bằng, phải cưỡng chế quận

công khai quyết định xử phạt vi phạm hành chính, tổ chức họp báo thông báo

cưỡng chế… Nhờ đó, Hải An nhận được sự ủng hộ cao của người dân trong

công tác giải phóng mặt bằng. Không chỉ kiên quyết trong công tác giải

phóng mặt bằng đối với nhân dân, chính quyền quận Hải An còn kiên quyết

với chính mình, sẵn sàng xử lý cán bộ, công chức, nhân viên vi phạm trong

quá trình thực hiện nhiệm vụ. Đó là cơ sở tạo lòng tin đối với người dân và

57

nhà đầu tư. Quận Hải An còn có các quy định về nâng cao tinh thần trách

nhiệm, năng lực, chuyên môn của những người làm công tác giải phóng mặt

bằng từ quận đến phường. Bên cạnh đó, chủ động phối hợp các cơ quan của

thành phố kịp thời tháo gỡ vướng mắc, khó khăn phát sinh trong quá trình thu

hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng. Hiện tại, trên địa bàn Hải An còn

vướng mắc về giải phóng mặt bằng một số hộ dân thuộc khu vực nút giao

thông khác mức Nguyễn Bỉnh Khiêm - Đình Vũ và dự án phát triển giao

thông đô thị Hải Phòng, dự án thoát nước mưa, nước thải và quản lý chất thải

rắn (giai đoạn 1); quận đang tích cực phối hợp các cơ quan liên quan của

thành phố tổ chức rà soát, tổ chức giải phóng mặt bằng đúng quy định.

Những kết quả nêu trên là không nhỏ trong việc góp phần vào tiến trình

công nghiệp hoá, đô thị hoá của quận Hải An trong những năm qua. Kết quả

đó không thể phủ nhận những thành công nhất định của công tác lãnh đạo, chỉ

đạo của chính quyền thành phố, của quận trong công tác tổ chức thực hiện

pháp luật về bồi thường, hỗ trợ đối với hộ gia đình, cá nhân khi thu hồi đất.

2.2.4. Những hạn chế, vướng mắc trong thực hiện pháp luật về bồi

thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất đối với tổ chức, hộ gia đình, cá

nhân trên địa bàn quận Hải An, thành phố Hải Phòng

Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, bồi thường, hỗ trợ khi Nhà

nước thu hồi đất tại quận Hải An, thành phố Hải Phòng cũng còn gặp phải

một số khó khăn vướng mắc ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về bồi

thường, hỗ trợ, điều này thể hiện ở những lĩnh vực sau:

Thứ nhất, giá bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất còn thấp, chưa sát

với giá thị trường:

Thực hiện Luật Đất đai năm 2013, Bộ Tài nguyên môi trường đã

chủ trì xây dựng trình Chính phủ ban hành Nghị định số 44/2014/NĐ-CP

ngày 15/5/2014 quy định về giá đất; Nghị định số 104/2014/NĐ-CP ngày

58

14/11/2014 quy định về khung giá đất. Bộ Tài nguyên môi trường đã ban

hành Thông tư số 36/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014 quy định chi tiết

phương pháp định giá đất, xây dựng, điều chỉnh bảng giá đất, định giá đất cụ

thể và tư vấn xác định giá đất; Thông tư số 20/2015/TT-BTNMT ngày

20/4/2015 ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật để lập dự toán ngân sách

nhà nước phục vụ công tác định giá đất.

Các văn bản quy phạm pháp luật nêu trên đã tạo hành lang pháp lý

đồng bộ cho công tác định giá đất tại địa phương. Tuy nhiên, giá đất bồi

thường chủ yếu thực hiện theo bảng giá nên còn thấp so với giá đất thị

trường; còn tình trạng không thống nhất về cơ chế bồi thường giữa các dự án

đầu tư có nguồn vốn trong nước và dự án từ vốn vay của các ngân hàng

nước ngoài. Mặc dù đạt được những thành tựu cơ bản nhưng chính sách tài

chính đất đai còn nhiều mặt hạn chế như: Việc quản lý nhà nước về giá đất

còn bất cập, chưa theo sát thị trường. Bảng giá công bố tại các địa phương

chỉ bằng khoảng 30% - 60% so giá thị trường” [3].

Thể chế về việc xác định giá đất còn chưa phù hợp với quy luật của

nền kinh tế thị trường. Giá đất do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc

trung ương quy định được công bố công khai vào ngày 01/01 hàng năm được

sử dụng làm căn cứ để bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; tính tiền bồi

thường đối với người có hành vi vi phạm pháp luật đất đai mà gây thiệt hại

cho Nhà nước. Việc quy định phạm vi áp dụng khung giá do Nhà nước để

xác định giá bất động sản với phạm vi rộng trong đó có các quan hệ mang

bản chất của quan hệ dân sự như quan hệ giao, cho thuê đất…đã ảnh

hưởng lớn đến quyền và lợi ích của các chủ thể khi giá do nhà nước xác

định thấp hơn giá thị trường, đặc biệt khi nhà nước thu hồi đất. Đây là

một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng khiếu kiện, tham

nhũng trong lĩnh vực đất đai trong thời gian vừa qua. Khi bồi thường thu hồi

59

đất nếu giá đất sát giá chuyển nhượng thực tế trên thị trường trong điều kiện

bình thường thì rất thuận lợi. Tuy nhiên, thị trường bất động sản của thành

phố Hải Phòng nói chung, quận Hải An nói riêng vẫn đang ở giai đoạn đầu

của sự phát triển, tình trạng “nóng - lạnh” bất thường, hiện tượng đầu cơ

khá phổ biến, giá đất chịu tác động rất lớn từ thông tin quy hoạch, công bố

dự án... trong khi đó các công cụ quản lý nhà nước về đất đai còn hạn chế

và chưa đồng bộ dẫn đến việc định giá đất theo “sát thị trường” đang còn rất

khó khăn. Trên thực tế vẫn còn tồn tại song song 2 loại giá đất: Gía đất theo

quy định của cơ quan nhà nước và giá đất theo thị trường. Hai loại giá đất

này có biên độ dao động rất lớn. Trên thực tế giá đất do Nhà nước xác

định thường thấp hơn giá đất theo thị trường và lạc hậu hơn so với giá đất

trên thị trường. Điều này gây rất nhiều khó khăn cho quản lý nhà nước về đất

đai dưới khía cạnh kinh tế, đặc biệt trong việc áp dụng giá đất để tính bồi

thường khi Nhà nước thu hồi đất.

Việc định giá đất thị trường mới cơ bản thực hiện được đối với đất ở;

còn đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp thì hiện nay chưa có phương

pháp định giá phù hợp trong điều kiện của Việt Nam, nhiều địa phương căn

cứ vào giá đất do Uỷ ban nhân dân quy định cho loại đất ở để tính giá đất

sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp; theo đó giá đất phi nông nghiệp bằng

khoảng từ 40%-60% giá đất ở. Do sự phát triển của thị trường bất động sản

vận động liên tục và thiếu ổn định đã làm cho mức giá bị giới hạn trong

Khung giá quy định trở nên lạc hậu, thấp xa so với thị trường, nhất là tại các

thành phố, khu vực có tốc độ đô thị hóa nhanh. Hiện mức giá trong Bảng

giá công bố tại các địa phương chỉ bằng khoảng 40%-60% so giá thị trường

[10].

Đây cũng là một trong những vấn đề gây ra nhiều khiếu kiện về vấn

đề bồi thường hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Việc áp giá đất bồi thường

60

khi Nhà nước thu hồi theo khung giá đất mà Nhà nước công bố thấp hơn rất

nhiều so với giá thị trường tại thời điểm đó. Bảng giá đất do Ủy ban nhân

dân thành phố ban hành hằng năm là thấp hơn nhiều so với thực tế giá đất thị

trường. Và khi sử dụng giá đất theo bảng giá đất mà Ủy ban nhân dân thành

phố ban hành để áp giá bồi thường là cứng nhắc chưa hợp lý bởi giá đất trên

thị trường có sự biến động theo từng ngày. Việc bồi thường về nhà đất khi

Nhà nước thu hồi là chưa tương xứng, không thể tính hết các chi phí mà

người dân đã bỏ ra. Giá đất bồi thường hỗ trợ thời gian qua là chưa đảm bảo

để người dân phục hồi lại sản xuất, kinh doanh và tái tạo, ổn định lại cuộc

sống như trước khi bị thu hồi đất. Chính vì vậy, dẫn đến việc người dân

không đồng ý với phương án bồi thường, không tự nguyện chấp hành quyết

định thu hồi đất.

Thứ hai, liên quan đến trình tự, thủ tục bồi thường khi thu hồi đất

vẫn còn tồn tại tình trạng thiếu công khai, minh bạch và ở mức độ nào đó là

sự áp đặt, tùy tiện của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thu hồi, bồi

thường.

Từ ngày 01/07/2004 đến nay, công tác bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi

đất đã có nhiều VBQPPL khác nhau điều chỉnh, từ các cơ quan nhà nước ở

Trung ương đến các VBQPPL của Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng,

song nhiều VBPL còn cứng nhắc, không tạo cơ chế linh hoạt cho địa

phương, không phù hợp với hoàn cảnh thực tế của địa phương, thậm chí

không thể áp dụng thực hiện do đặc thù của địa phương.

Vấn đề thiếu công khai minh bạch được thể hiện ở việc: Một số dự án

chưa chấp hành đúng các quy định của Nhà nước về trình tự, thủ tục thu hồi

đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư như ra thông báo giải phóng mặt bằng mà

không có quyết định thu hồi đất, không thông báo trước về kế hoạch, phương

án thu hồi đất cho người có đất bị thu hồi; lập phương án bồi thường, hỗ trợ

61

không chính xác, tạo điều kiện cho tiêu cực nảy sinh; cưỡng chế giải phóng

mặt bằng trong khi chưa bố trí nơi tái định cư; quyết định thu hồi đất không

đúng thẩm quyền, thu hồi đất để sử dụng vào mục đích trái quy hoạch đã

được xét duyệt. Đối với một số dự án còn có tình trạng áp dụng pháp luật

thiếu công bằng giữa những trường hợp có điều kiện tương tự.

Xuất phát từ một số quy định trong công tác bồi thường hỗ trợ còn

chưa chặt chẽ, sự tắc trách của một bộ phận cán bộ làm công tác bồi thường,

hỗ trợ giải phóng mặt bằng, thiếu kiểm tra đôn đốc của các cấp chính quyền;

cá biệt một số cán bộ làm công tác bồi thường, hỗ trợ còn có biểu hiện tiêu

cực, tư lợi cá nhân, cố tình làm sai để hưởng lợi, đặc biệt tại một số dự án có

diện tích đất thu hồi lớn.

Thứ ba, vướng mắc về phía người dân bị thu hồi đất khi được bồi

thường Người dân thường có những hành vi cản trở quá trình thu hồi đất,

không chịu bàn giao mặt bằng khi đã có quyết định thu hồi đất; nhiều hộ dân

cản trở tiến độ thi công công trình, “chây ì” không chịu nhận tiền bồi thường.

Một số trường hợp người dân biểu thị sự không đồng tình và yêu cầu đòi bồi

thường giá cao hơn bằng cách gây áp lực với chính quyền và doanh nghiệp

thông qua các hành động mang tính tiêu cực, thái quá như rào cổng ra vào

gây cản trở hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư của doanh nghiệp; đập

phá chống lại người thi hành công vụ, đòi bồi thường quá đáng gây mất ổn

định xã hội đã và vẫn đang xảy ra gây căng thẳng cho các cấp chính quyền

cũng như những cán bộ trực tiếp quản lý. Tình trạng tự cơi nới, xây mới nhà

cửa, vật kiến trúc; chia tách hộ, phân chia tài sản chủ yếu là nhà ở, đất ở;

ươm cây giống, trồng cây không đúng mục đích sử dụng đất, vượt mật độ

cho phép; chuyển đổi mục đích sử dụng đất, nâng hạng đất để tăng mức

được bồi thường, hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp… trong và sau khi có quy

hoạch, xác định mốc giới kiểm kê trở thành phổ biến ngày càng tinh vi và

phức tạp hơn.

62

Kết luận chƣơng 2

Quận Hải An, thành phố Hải Phòng là địa bàn mà hàng năm số lượng

các dự án đầu tư được tập trung vào loại lớn của thành phố, cũng là quận có

tốc độ đô thị hoá diễn ra mạnh. Trên tinh thần các văn bản pháp luật của thành

phố Hải Phòng được ban hành nhằm hiện thực hoá các quy định về bồi

thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất, quận Hải An đã nghiêm túc triển

khai việc thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ ngày càng linh hoạt và mềm

dẻo, phù hợp với đặc điểm, tình hình kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội ở địa

phương hơn.

Việc đánh giá về những kết quả và hạn chế trong việc thực hiện pháp

luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận Hải An

đã được luận giải một cách lô gic, có minh chứng và rõ ràng, đó là: Thực hiện

pháp luật về bồi thường, hỗ trợ trên địa bàn quận Hải An đã đạt được những

kết quả và thành tựu nhất định, nhiều dự án lớn, trọng điểm (33 dự án), trong

đó nhiều dự án đã được giải phóng mặt bằng đúng tiến độ, chủ đầu tư nhanh

chóng có đất sạch để đầu tư. Người dân bị thu hồi đất đã được quyết được cơ

bản lợi ích như bồi thường theo đơn giá thị trường cộng với những dự án do

mục đích sử dụng vào an ninh, quốc phòng vẫn được hỗ trợ theo quy định của

Nhà nước nên đã tạo sự ổn định cuộc sống của người dân.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả khả quan nêu trên, việc áp dụng

pháp luật trong bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất còn là vấn đề

phức tạp, nên không thể có những hạn chế nhất định làm ảnh hưởng tới công

tác bồi thường, hỗ trợ như: hệ thống pháp luật về bồi thường, hỗ trợ còn cứng

nhắc, chưa linh hoạt mềm dẻo trong việc áp dụng cho những dự án hay đối

tượng bị thu hồi đặc biệt. Mặt khác, trong bối cảnh chính sách, pháp luật lại

liên tục thay đổi, điều chỉnh là nguyên nhân cơ bản khiến công tác thực hiện

63

pháp luật về lĩnh vực này cũng còn nhiều tồn tại, vướng mắc. Bên cạnh đó, cơ

chế hỗ trợ trong việc thu hồi đất chưa thống nhất, chưa phù hợp đã làm cho

một số dự án vẫn bị chậm tiến độ, quyền lợi và lợi ích hợp pháp của các hộ

gia đình, cá nhân chưa được quan tâm đúng mức như vấn đề chuyển đổi nghề

nghiệp và ổn định cho người dân sau khi mất đất chưa được giải quyết triệt

để, thoả đáng nên tranh chấp, khiếu nại vẫn diễn ra; tính công khai, minh bạch

trong quản lý dự án chưa cao. Bên cạnh đó, một bộ phận trong đội ngũ cán

bộ, công chức còn có biểu hiện tiêu cực trong việc lợi dụng dự án để làm lợi

cho cá nhân…

Xem xét những nguyên nhân này để làm cơ sở cho việc đề xuất những

phương hướng và giải pháp hoàn thiện việc thực hiện pháp luật về bồi

thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất tại chương 3 sẽ mang tính khả thi cao

hơn

64

Chƣơng 3

GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG,

HỖ TRỢ KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN

QUẬN HẢI AN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

3.1. Nhu cầu bảo đảm thực hiện pháp luật về bồi thƣờng, hỗ trợ khi

Nhà nƣớc thu hồi đất từ thực tiễn quận Hải An, thành phố Hải Phòng

Thu hồi đất, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là vấn đề phức tạp

và nhạy cảm, có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của

người sử dụng đất. Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất có

vai trò quan trọng trong việc giải quyết các mâu thuẫn về lợi ích kinh tế

giữa Nhà nước, người bị thu hồi đất và chủ đầu tư. Lĩnh vực pháp luật này

thường xuyên được sửa đổi, bổ sung nhằm đáp ứng các đòi hỏi của thực

tiễn. Tuy nhiên quá trình thực hiện các quy định của pháp luật vào bồi

thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất vẫn bộc lộ những tồn tại, bất

cập. Điều này đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện các quy định về bồi

thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Hơn nữa, việc hoàn thiện lĩnh

vực pháp luật này còn dựa trên những căn cứ chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất cũng bộc lộ

những tồn tại, yếu kém trong quản lý nhà nước về đất đai của các cơ

quan nhà nước có thẩm quyền như sự thiếu dân chủ, thiếu công bằng,

thiên vị, tham nhũng, tiêu cực v.v... trong việc áp dụng các quy định về

bồi thường, hỗ trợ. Để góp phần khắc phục những yếu kém này, pháp luật

về bồi thường, hỗ trợ phải xây dựng các quy định cụ thể, dự liệu và đưa ra

những phương án phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực, thiếu dân chủ và

không công bằng v.v... trong thực thi pháp luật của các cơ quan công

quyền. Hơn nữa, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ cần phải xây dựng các chế

65

tài pháp lý nghiêm minh, đủ sức răn đe đối với những hành vi vi phạm

pháp luật về bồi thường, hỗ trợ. Xem xét các yêu cầu này vào các quy

định hiện hành cho thấy pháp luật về bồi thường, hỗ trợ dường như chưa

xác lập được một cơ chế pháp lý hữu hiệu để ngăn ngừa và xử lý có hiệu

quả các hành vi tham nhũng, tiêu cực v.v. trong bồi thường khi Nhà nước

thu hồi đất. Đây cũng là một lý do lý giải cho việc tiếp tục hoàn thiện lĩnh

vực pháp luật này.

Thứ hai, Đảng ta xác định giữ vững ổn định chính trị là tiền đề để

phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân. Bồi thường, hỗ trợ khi

Nhà nước thu hồi đất là vấn đề nhạy cảm do "đụng chạm" trực tiếp đến

lợi ích của người bị thu hồi đất. Do vậy vấn đề này thường tiềm ẩn nguy cơ

trở thành điểm nóng, gây mất ổn định chính trị nếu không giải quyết công

bằng và ổn thỏa các xung đột về lợi ích giữa Nhà nước, người bị thu hồi

đất và chủ đầu tư. Việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất được

thực hiện dựa trên các quy định của pháp luật. Do vậy hoàn thiện pháp luật

về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là rất cần thiết góp phần vào việc

duy trì ổn định về chính trị và chống lại những luận điệu xuyên tạc, kích

động, chống phá của các thế lực thù địch.

Thứ ba, trong thời kỳ tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước; chúng ta phải thực hiện việc thu hồi một diện tích đất

không nhỏ (trong đó phần lớn là đất nông nghiệp) để triển khai các dự án

đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng; khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị

mới v.v... Điều này đặt ra việc thực hiện bồi thường, hỗ trợ cho hàng vạn

hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất. Việc giải quyết tốt vấn đề này không

chỉ có ý nghĩa về mặt chính trị góp phần duy trì sự ổn định chính trị mà

còn tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện triển khai các dự án đầu tư đúng

tiến độ, đúng thời gian và nâng cao tính hấp dẫn của môi trường đầu tư ở

66

nước ta. Với ý nghĩa đó, tiếp tục hoàn thiện các quy định về bồi thường, hỗ

trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc làm cần thiết.

Thứ tư, xét về bản chất Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam là Nhà nước do nhân dân lao động thiết lập nên đại diện cho ý chí,

nguyện vọng và lợi ích của nhân dân. Nhà nước ta không ngừng quan tâm

và chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người dân. Vì vậy khi

người sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích

chung thì Nhà nước phải thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ cho họ trên cơ

sở quy định của pháp luật. Việc hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ

khi Nhà nước thu hồi đất là một minh chứng sinh động và cụ thể nhằm thể

hiện bản chất nhân dân của Nhà nước ta.

Thứ năm, hiện nay, Quốc hội chủ trương rà soát, sửa đổi, bổ sung

Luật Đất đai năm 2013 nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong

quản lý và sử dụng đất đai. Việc này được Chính phủ giao cho Bộ Tài

nguyên và Môi trường thực hiện. Tổng cục Quản lý đất đai là đơn vị

chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường tiến

hành rà soát, xây dựng dự thảo sửa đổi, bổ sung một số quy định của Luật

Đất đai năm 2013. Thực tiễn thi hành Luật Đất đai năm 2013 cho thấy các

quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất thường gặp phải những

khó khăn, vướng mắc về cách thức áp dụng giá đất để xác định bồi

thường; điều kiện để được bồi thường v.v... Do vậy việc rà soát, sửa đổi, bổ

sung một số quy định của Luật Đất đai năm 2013 nhằm tháo gỡ những

vướng mắc, khó khăn trong quản lý và sử dụng đất hiện nay không thể

không xem xét đến việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện những nội dung về

bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.

67

3.2. Một số giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về bồi thƣờng, hỗ

trợ khi Nhà nƣớc thu hồi đất

3.2.1. Giải pháp chung

3.2.1.1 Hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất

Thứ nhất, vấn đề “bồi thường, hỗ trợ” khi Nhà nước thu hồi đất đã

được quy định trong Luật đất đai và quá trình thực hiện trong thực tế nhiều

năm qua. Xét về bản chất pháp lý “bồi thường, hỗ trợ” đặt ra khi một chủ thể

xâm phạm tới những lợi ích của một chủ thể khác và đảm bảo những điều

kiện pháp luật quy định như: Có thiệt hại xảy ra, có lỗi, có hành vi trái pháp

luật và có mối quan hệ nhân quả. Việc Nhà nước thu hồi đất dựa trên cơ sở

những căn cứ pháp lý và trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Vậy, pháp luật

quy định “bồi thường, hỗ trợ” có thỏa đáng hay không.

Mặt khác, nhìn nhận dưới góc độ người sử dụng đất không phải là chủ

sở hữu mà chỉ được quyền sử dụng, nên khi Nhà nước thu hồi mang tính chất

mệnh lệnh và hệ quả là người sử dụng đất được bồi thường, hỗ trợ. Nhìn nhận

dưới khía cạnh này thực sự chưa thấy giá trị của quyền sử dụng dất và tài sản

trên đất. Mặc dù, cá nhân, hộ gia đình có quyền sử dụng nhưng trong các giao

dịch dân sự thì quyền sử dụng đất xác định là tài sản, đối tượng của các giao

dịch (hợp đồng, thừa kế). Do đó theo tôi cần hiểu và quy định đúng vấn đề này.

Tôi đề xuất sửa đổi quy định “bồi thường khi thu hồi đất” thành chế

định “trưng mua quyền sử dụng đất”. Theo quy định của Hiến pháp 2013 thì

tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức không bị quốc hữu hoá. Trong trường

hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia, Nhà

nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân hoặc tổ

chức theo thời giá thị trường. Thể thức trưng mua, trưng dụng do Luật định.

Hiến pháp năm 2013 quy định: Quyền sử dụng đất là quyền tài sản

được pháp luật bảo hộ; còn theo Bộ luật Dân sự 2005, 2015 thì quyền tài sản

68

là tài sản, do đó có đầy đủ các quyền như mua, bán, tặng, cho, thế chấp. Vì

vậy, khi Nhà nước đã giao quyền sử dụng đất cho tổ chức, cá nhân thì quyền

sử dụng đất cần được bảo hộ và trường hợp cần thiết vì lý do phát triển kinh

tế Nhà nước sẽ trưng mua lại quyền sử dụng đất đã giao cho tổ chức, cá nhân

sử dụng trước đó. Mặt khác, doanh nghiệp và người dân đều là những chủ thể

trong quan hệ pháp luật đất đai. Vì vậy, các chủ thể này phải được đối xử bình

đẳng trước pháp luật, cả về quyền lợi và nghĩa vụ, nếu chúng ta chỉ quy định

thu hồi đất thì rõ ràng chúng ta đang có cách nhìn không công bằng với người

bị thu hồi đất, lợi ích chính đáng của họ trước pháp luật chưa được tôn trọng

và bảo vệ, người dân vẫn sống trong cảnh thụ động với tâm lý có thể bị tước

đoạt tài sản bất cứ lúc nào. Ngoài quyền sử dụng đất, còn có tài sản gắn liền

với đất như nhà ở, các công trình kiến trúc, đây là tài sản thuộc sở hữu hợp

pháp của người sử dụng đất. Nếu quy định trưng mua hoàn toàn không trái

với vấn đề đất đai thuộc sở hữu toàn dân bởi lẽ:

Một là, việc trưng mua là trưng mua quyền sử dụng đất và tài sản gắn

liền với quyền sử dụng đất.

Hai là, những trường hợp được trưng mua là vì mục đích an ninh, quốc

phòng, mục đích quốc gia và mục đích kinh tế.

Ba là, chủ thể trưng mua là Nhà nước và Nhà đầu tư. Đối với mục đích

an ninh quốc phòng Nhà nước quy định chặt chẽ điều kiện, còn mục đích phát

triển kinh tế thì nhà đầu tư là chủ thể phải cân nhắc thật kỹ hiệu quả đầu tư

tránh tình trạng “bồi thường với giá không hợp lý” xong không tiến hành đầu

tư gì để giữ đất.

Bốn là, cơ chế giá trưng mua tùy theo từng mục đích khác nhau. Nếu

Nhà nước trưng mua vì mục đích an ninh, quốc phòng theo cơ chế giá theo

Luật trưng mua; còn nhà đầu tư dựa trên sự thỏa thuận theo mức giá tối thiểu

do Nhà nước ấn định và mức giá tối đa sát giá thị trường.

69

Thứ hai, tiếp tục thiết lập khung pháp lý về bồi thường khi Nhà nước thu

hồi đất trên cơ sở đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ và tính ổn định tương đối

cao.

Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp cần quy định cụ thể trách nhiệm

pháp lý đối với các trường hợp người bị thu hồi đất không thi hành quyết định

thu hồi đất nhằm phát triển kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng. Đồng thời,

đẩy mạnh các giải pháp thường xuyên rà soát, hệ thống hóa các quy định của

pháp luật về thu hồi đất nhằm kịp thời phát hiện sai sót, bất cập và chồng chéo

giữa các quy định về thu hồi đất theo Luật Đất đai 2013 với các văn bản luật

chuyên ngành khác như Luật Nhà ở, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật

Xử lý vi phạm hành chính,…

Hình thức bồi thường theo pháp luật hiện hành nên tạo sự đồng thuận

của người dân đang dẫn đến khiếu kiện về đất đai ngày càng nhiều. chia sẻ lợi

ích để tạo nguồn vốn phát triển cho địa phương, tạo quan hệ đối tác dài hạn

giữa nhà đầu tư và cộng đồng dân cư địa phương, các nước thường áp dụng

cơ chế chia sẻ lợi ích. Do sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng nên các quy định về thu hồi đất

theo Luật Đất đai 2013 vừa mới áp dụng thực tiễn trong thời gian ngắn đã có

nhiều điểm hạn chế, bất cập là chuyện đương nhiên. Song, việc sửa đổi, bổ

sung hoàn thiện các quy định pháp luật về thu hồi đất đảm bảo tính kịp thời,

đúng pháp luật, phù hợp với thực tiễn phát triển đất nước là điều hết sức quan

trọng, nó quyết định hiệu quả, hiệu lực của bộ máy quản lý Nhà nước về đất

đai cũng như điều tiết các mối quan hệ sở hữu và hơn nữa làm hạn chế các

tranh chấp, khiếu nại kéo dài, gây mất an ninh, chính trị ở địa phương.

Thứ hai, hoàn thiện các quy định về giá đất

Trên cơ sở Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định về

giá đất và Nghị định số 104/2014/NĐ-CP ngày 14/11/2014 quy định về khung

70

giá đất của Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường xây dựng và quy định

(điều chỉnh) cụ thể về giá đất, khung giá đất (Thông tư hướng dẫn), Quyết

định Số: 01/2017/QĐ-UBND ngày 16/6/2017 của Uỷ ban nhân dân thành phố

Hải Phòng về việc điều chỉnh bảng giá các loại đất trên đị bàn 7 quận nội

thành Hải Phòng 5 năm (2015- 2019).

Cần trao quyền cho người bị thu hồi đất có quyền yêu cầu cơ quan định

giá đất xác định giá đất và giá do cơ quan định giá đất đưa ra là giá để tính

đền bù. Theo quy định hiện hành, hiện đang tồn tại cơ chế 2 giá đất: Gía đất

do Nhà nước quy định áp dụng tính bồi thường trong trường hợp Nhà nước ra

quyết định thu hồi đất và giá đất do doanh nghiệp tự thỏa thuận với người sử

dụng đất thông qua hình thức nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nhận

góp vốn bằng quyền sử dụng đất để tạo quỹ đất. Việc song song tồn tại 2 loại

giá đất là một trong những nguyên nhân gây khiếu nại về giá đất trong bồi

thường, giải phóng mặt bằng, đặc biệt đối với các dự án sử dụng đất bằng

hình thức Nhà nước thu hồi đất.

Do người bị thu hồi đất không đồng thuận với phương án bồi thường

của Nhà nước đã phát sinh khiếu kiện kéo dài làm cho dự án không triển khai

đúng tiến độ và làm lỡ cơ hội đầu tư, kinh doanh của các doanh nghiệp.

Để khắc phục hạn chế này, giải pháp hoàn thiện chính sách về giá đất

được đưa ra là :

- Giá đất được xác định phải dựa trên sự thỏa thuận với người sử dụng đất;

- Trường hợp không thỏa thuận được về giá thì người bị thu hồi đất có

quyền yêu cầu cơ quan thẩm định giá xác định giá, giá bất động sản xác định

theo giá của cơ quan thẩm định giá đưa ra. Trường hợp một bên không đồng ý

với giá của cơ quan thẩm định giá đưa ra có quyền yêu cầu tổ chức khác thẩm

định lại giá, giá của cơ quan tổ chức đưa ra là giá để tính đền bù. Để đảm bảo

giá của cơ quan thẩm định giá đưa ra là khách quan, độc lập Nhà nước cần

71

nghiên cứu thành lập cơ quan định giá chuyên nghiệp, độc lập với địa vị pháp

lý rõ ràng và chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động định giá.

Như vậy, cần quy định cụ thể khung pháp luật của hoạt động dịch vụ

định giá đất và các trường hợp khi nào thì dịch vụ định giá đất là bắt buộc; cơ

quan nhà nước có thẩm quyền quyết định về giá đất phải độc lập với các cơ

quan có thẩm quyền quản lý đất đai để đảm bảo tính khách quan trong việc

xác định giá đất, tránh tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi”. Ủy ban nhân

dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương vừa có thẩm quyền thu hồi đất vừa

có thẩm quyền xác định bảng giá đất để tính bồi thường cho người bị thu hồi

đất; thiết nghĩ hợp lý nhất là quy định các cơ quan nhà nước có thẩm quyền

quyết định về giá đất được thành lập theo hệ thống ngành “dọc” trực thuộc

trung ương.

Thứ ba, hoàn thiện các quy định về đơn giá tính bồi thường, hỗ trợ về

tài sản (nhà, công trình, cây trồng, hoa màu…) và các chính sách hỗ trợ.

Cần quy định và áp dụng đúng cụ thể hơn nữa việc người sử dụng đất

khi. Nhà nước thu hồi đất ngoài việc được bồi thường còn được Nhà nước

xem xét hỗ trợ; việc hỗ trợ phải bảo đảm khách quan, công bằng, kịp thời,

công khai và đúng quy định của pháp luật. Quy định cụ thể hơn về hỗ trợ đào

tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho hộ gia đình, cá nhân trực tiếp

sản xuất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp mà không có đất

nông nghiệp để bồi thường. Trường hợp người được hỗ trợ đào tạo chuyển

đổi nghề, tìm kiếm việc làm trong độ tuổi lao động có nhu cầu được đào tạo

nghề thì được nhận vào các cơ sở đào tạo nghề; được tư vấn hỗ trợ tìm kiếm

việc làm, vay vốn tín dụng ưu đãi để phát triển sản xuất, kinh doanh mang

tính bắt buộc cao.

Thứ tư, bồi thường cho người bị thu hồi đất gắn với an sinh xã hội, bảo

đảm đời sống lâu dài

72

Định hướng tiếp tục đổi mới chính sách pháp luật về đất đai đã xác

định rõ yêu cầu trong bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là phải “bảo đảm

ổn định đời sống lâu dài cho người có đất bị thu hồi”. Khi Nhà nước thu hồi

đất để triển khai dự án, người bị thu hồi đất phải gánh chịu nhiều thiệt hại vô

hình như như thay đổi chỗ làm việc, chợ, bệnh viện, trường học xa, môi

trường sống, tâm lý bị tác động; tái định cư tại chỗ thì bị ảnh hưởng về tiếng

ồn, khói bụi, nước ngập khi chủ đầu tư thi công dự án, nhà cửa thấp hơn mặt

đường, cây cối mất năng suất, không chăn nuôi được; để tạo dựng ngôi nhà

mới, người dân không chỉ phải sử dụng số tiền bồi thường từ Nhà nước mà

đòi hỏi phải “lao tâm khổ tứ” để lo thủ tục xây dựng, tính toán vật liệu, quản

lý công trình, bỏ bê công việc…Vì vậy, đòi hỏi để được bồi thường các thiệt

hại vô hình đối với người bị thu hồi đất là xác đáng và đã được nhiều cơ quan,

nhà nghiên cứu đặt ra. Khi Nhà nước thực hiện việc bồi thường kèm theo quy

hoạch khu dân cư “điện- đường- trường- trạm- chợ”, nhưng khi người dân đến

ở thực tế chỉ là những khẩu hiệu của doanh nghiệp đưa ra. Do vậy trong việc

bồi thường pháp luật quy định rõ:

Một là, đối với bồi thường bằng quyền sử dụng đất phải xây dựng quy hoạch

khu dân cư cho người sử dụng đất đạt mức chuẩn tối thiểu so với khi họ đang sinh

sống tại nơi đất bị thu hồi (có cơ sở hạ tầng và các điều kiện sinh hoạt khác).

Hai là, xem xét những thiệt hại vô hình khi người bị thu hồi số bằng

nguồn thu nhập chính trên đất đó (kinh doanh, cho thuê, hoa lợi,..) thì xem xét

tạo nguồn cho họ học nghề, cơ hội nghề nghiệp khác để sinh sống đảm bảo an

sinh của các đối tượng bị thu hồi đất.

Ba là, những trường hợp thu hồi đất nông nghiệp đẩy người bị thu hồi

đất vào tình trạng mất công cụ sản suất và trở nên thất nghiệp, đói nghèo sau

khi đã tiêu hết tiền bồi thường thì phải bồi thường đất nông nghiệp để họ ổn

định sản suất (theo định mức tối thiểu pháp luật đất đai quy định).

73

3.2.1.2 Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức và cá nhân

thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

Về phương thức: Thực hiện theo phương thức kiểm tra chéo. Đối với

mỗi dự án có ít nhất hai tổ công tác khác nhau kiểm tra tực địa và đối chiếu

kết quả đảm bảo sự chính xác tương đối.

Đội ngũ: Trình độ, năng lực của tổ chức, đội ngũ cán bộ thực thi pháp

luật còn hạn chế, để xảy ra tình trạng sai sót, tiêu cực, nhũng nhiễu, tham

nhũng… trong thực tế là nguyên nhân gây mất lòng tin của nhân dân, phát

sinh khiếu nại, khiếu kiện phức tạp. Do vậy, đối với đội ngũ cán bộ này cần

phải tăng cường cả về chuyên môn lẫn phẩm chất đạo đức, nhất là các cán bộ

triển khai đo đạc, kiểm đếm tài sản và lập phương án bồi thường.

Đối với thành phố Hải Phòng, trung tâm Phát triển quỹ đất thuộc Sở

Tài nguyên- Môi trường. Tuy nhiên, việc thành lập Văn phòng đăng ký đất

đai và Trung tâm phát triển quỹ đất thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường theo

quy định của Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy

định chi tiết về thi hành một số điều của Luật Đất đai lại gặp một số vướng

mắc: Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ Nội vụ chưa ban hành Thông tư

liên tịch hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Trung tâm

Phát triển quỹ đất thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường nên khó khăn trong

triển khai thực hiện; theo quy định mới, Chi nhánh Trung tâm Phát triển quỹ

đất ở địa phương không thuộc Ủy ban nhân dân cấp quận, huyện sẽ dẫn đến

khó khăn trong giải quyết các vấn đề vướng mắc phát sinh trong quá trình bồi

thường không huy động được sự tham gia quyết liệt của chính quyền địa

phương, đồng thời các vấn đề về xác nhận nguồn gốc sử dụng đất, quy chủ

thửa đất…cũng khó khăn; đơn vị Chi nhánh không có tư cách pháp nhân để

ký hợp đồng bồi thường giải phóng mặt bằng với chủ đầu tư dẫn đến quá tải

cho Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố, công tác quản lý hoạt động của

74

các Chi nhánh cũng khó khăn. Nhiệm vụ đặt ra là cần có những quy định và

giải pháp cụ thể phát huy chức năng, vai trò của Trung tâm phát triển quỹ đất

thành phố và các Chi nhánh ở cấp quận, huyện trong công tác giải phóng mặt

bằng nhằm tạo nguồn quỹ đất sạch cho phát triển kinh tế- xã hội của địa

phương; đồng thời đa dạng và xác định rõ các cơ chế huy động vốn để Trung

tâm Phát triển quỹ đất các cấp phát huy hiệu quả thực thi nhiệm vụ.

3.2.1.3 Thanh tra, kiểm tra giám sát, xử lý vi phạm trong thực hiện

pháp luật về bồi thường, hỗ trợ

Tình hình khiếu nại, tố cáo của công dân trong lĩnh vực đất đai diễn ra

gay gắt, phức tạp ở hầu hết các địa phương trong cả nước, nhiều nơi đã trở

thành điểm nóng. Số lượng đơn vượt cấp gửi đến các cơ quan ở Trung ương

nhiều, nội dung thể hiện tính bức xúc gay gắt, không chấp nhận với cách giải

quyết của chính quyền địa phương. Số lượng công dân đến khiếu nại trực tiếp

tại phòng tiếp công dân của các địa phương, các cơ quan ở Trung ương hàng

năm cao. Nhiều vụ việc công dân tụ tập thành đoàn, đi xe, căng cờ, biểu ngữ...

kéo đến các cơ quan chính quyền, Đảng,… nhằm gây áp lực đòi được giải

quyết quyền lợi theo yêu cầu. Số lượng công dân tập trung đông chủ yếu ở

các kỳ họp Hội đồng nhân dân, Quốc hội, Đại hội Đảng, có nơi công dân tập

trung huy động thương binh, phụ nữ, người già, trẻ em bao vây trụ sở chính

quyền xã, huyện, tỉnh, doanh nghiệp gây mất trật tự, an toàn xã hội.

Thời gian gần đây, có rất nhiều vụ việc khiếu nại liên quan đến đất đai.

Nhiều trường hợp khiếu nại có liên quan đến việc Nhà nước thu hồi đất để

thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội, như đòi được bồi thường đất ở,

nâng giá bồi thường, tăng tiền hỗ trợ, bố trí tái định cư, giải quyết việc làm;

đòi lại đất cũ, nhà ở. Ngoài ra, có một số khiếu nại liên quan đến việc thực

hiện chính sách xã hội, kỷ luật của cán bộ, công chức... Về nội dung tố cáo,

chủ yếu là tố cáo cán bộ, công chức làm sai chính sách, tiêu cực, tham nhũng

75

trong quản lý đất đai, tài chính, đầu tư, xây dựng cơ bản, thực hiện chính sách

xã hội, cổ phần hóa doanh nghiệp; thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết

khiếu nại, bao che người bị tố cáo, không xử lý nghiêm các trường hợp vi

phạm pháp luật. Nội dung khiếu tố tập trung vào việc bồi thường giải phóng

mặt bằng, bố trí tái định cư, đòi lại đất cũ...vì vậy việc thanh tra, kiểm tra xử

lý vi phạm trong lĩnh vực đất đai cần được quan tâm thực hiện.

3.2.1.4 Giải quyết nhanh chóng, kịp thời các khiếu nại, tố cáo của

người sử dụng đất khi bị thu hồi

Khiếu nại, tố cáo của người dân khi bị thu hồi đất đang diễn ra phức tạp

và phổ biến tại các dự án có thu hồi đất, nhất là các dự án phát triển kinh tế,

thu lợi nhuận cho nhà đầu tư. Khiếu nại, tố cáo trong thu hồi đất có thể xuất

phát từ nhận thức, đòi hỏi vô lý từ người dân; cũng có thể xuất phát từ bất cập

của cơ chế, năng lực của cán bộ thực hiện hay tiêu cực, tham nhũng trong các

cơ quan chức năng…Cần thống nhất nhận thức là một mặt phải hoàn thiện

pháp luật, tuyên truyền tốt, thực hiện tốt để hạn chế đơn thư khiếu nại tố cáo;

đồng thời tránh tâm lý né tránh khiếu nại, tố cáo làm cho vấn đề ngày càng

phức tạp, khó giải quyết. Là cán bộ công tác trong lực lượng Công an nhân

dân, trực tiếp tham gia một số vụ việc khiếu nại, tố cáo của người dân liên

quan đến thu hồi đất, tác giả Luận văn thấy rằng, hiện nay đang có tâm lý né

tránh, ngại đối thoại với nhân dân trong khiếu nại, tố cáo; những vụ việc phức

tạp, tập trung đông người, chính quyền và các ban ngành thường có tâm lý e

ngại, khoán trách nhiệm cho lực lượng Công an, trong khi trách nhiệm đối

thoại, giải quyết yêu cầu, nguyện vọng của người dân thuộc về chính quyền

và các ngành, lực lượng Công an chỉ có trách nhiệm đảm bảo an ninh trật tự

trong các vụ việc, đấu tranh trấn áp và xử lý đối tượng vi phạm pháp luật. Nếu

áp đặt biện pháp dùng lực lượng Công an để đối trọng, trấn áp với người dân,

là trái chủ trương của Đảng và thất bại trong thế trận lòng dân, an ninh xã hội

sẽ bất ổn.

76

Vấn đề đặt ra là khi có đơn thư khiếu nại, tố cáo thì các cấp có thẩm

quyền phải tập trung tích cực giải quyết khẩn trương, đúng đắn, nghiêm túc,

dựa trên nền tảng trách nhiệm: công khai lợi ích (lợi ích Nhà nước, lợi ích địa

phương, lợi ích của doanh nghiệp, lợi ích của người dân bị thu hồi đất); giải

quyết hài hòa các lợi ích trước, trong và sau giải phóng mặt bằng cho người

dân. Đồng thời đề cao tính công khai, minh bạch trong giải quyết khiếu nại, tố

cáo; kiên quyết xử lý các tiêu cực, vi phạm pháp luật của cán bộ cơ quan chức

năng trong thực thi công vụ nhằm đảm bảo sự công minh của pháp luật, đem

lại lòng tin của nhân dân. Luật Đất đai 2013 đã quy định trình tự, thủ tục giải

quyết khiếu nại, khiếu kiện về đất đai thống nhất theo quy định của pháp luật

về khiếu nại và pháp luật tố tụng hành chính (Khoản 2, Điều 204 Luật Đất đai

2013). Đây là tiền đề quan trọng để triển khai thực hiện hiệu quả công tác giải

quyết khiếu nại tố cáo về Luật Đất đai nói chung và pháp luật về bồi thường

khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích kinh tế.

Ở quận Hải An, thành phố Hải Phòng cần tăng cường sự phối hợp các

cơ quan trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; trong đó cơ quan thanh tra là

chủ chốt thực hiện giải quyết kịp thời các khúc mắc của người bị thu hồi đất.

3.2.1.5 Nâng cao vai trò của các tổ chức chính trị xã hội trong việc

tuyên truyền, vận động đối với các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong công

tác bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

Các tổ chức chính trị xã hội như: Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân

dân tăng cường công tác tuyên truyền, vận động nhân dân, đặc biệt trong việc

đại diện quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân, đề xuất thực hiện các cơ chế,

chính sách và tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo. Để cụ thể hoá các giải

pháp trong đề án, các cấp uỷ, chính quyền, uỷ ban MTTQ và các tổ chức CT-

XH các cấp cần chú trọng xây dựng kế hoạch, chương trình hành động để

thực hiện.

77

Ban dân vận, mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể phối hợp chặt chẽ với

Trung tâm Phát triển quỹ đất để phân loại các nhóm hộ gia đình, các đối

tượng có diện tích đất bị thu hồi được hưởng tương đồng các chế độ hỗ trợ, để

tham gia tuyên truyền, vận động thống nhất, bài bản, giải đáp mọi vướng mắc,

khó khăn của người dân, thường xuyên đến từng hộ dân trao đổi tình hình,

nắm bắt nguyện vọng của bà con để người dân đồng thuận, ủng hộ chủ trương

phát triển của thành phố, quận và mong muốn các cấp chính quyền có những

phương án hỗ trợ phù hợp để đảm bảo lợi ích, cuộc sống cho người dân.

3.2.1.6 Nâng cao ý thức, trách nhiệm của người dân trong việc bồi

thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

Tăng cường tuyên truyền Luật Đất đai 2013 và các quy định pháp luật

về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.

Tình hình khiếu nại, tố cáo liên quan vấn đề thu hồi đất trên địa bàn

thành phố Hải Phòng nói chung và quận Hải An nói riêng diễn biến hết sức đa

dạng và phức tạp. Có những khiếu nại, tố cáo có cơ sở và đúng quy định pháp

luật, cũng có những khiếu nại, tố cáo không có cơ sở, không theo trình tự

pháp luật, do thiếu nhận thức, bị kích động nhất thời của người sử dụng đất.

Đặc biệt, một số người bị thu hồi đất do hạn chế về kiến thức pháp luật đất

đai, nên đã bị các phần tử xấu dụ dỗ, xúi giục, kích động làm đơn khiếu nại

vượt cấp hoặc khiếu nại tập thể hoặc cố tình không hợp tác với cơ quan, tổ

chức và cá nhân có thẩm quyền trong quá trình thực hiện việc bồi thường khi

Nhà nước thu hồi đất. Thực trạng này không được giải quyết thỏa đáng, dứt

điểm và đúng pháp luật không chỉ gây mất ổn định về chính trị, trật tự an toàn

xã hội tại địa phương; làm chậm tiến độ, tăng chi phí của các dự án mà còn

ảnh hưởng đến tâm lý, lòng tin của người dân đối với chính sách và pháp luật

về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, gây ảnh hưởng không tốt đến môi

trường đầu tư của địa phương và của cả nước. Luật Đất đai 2013 quy định cụ

thể quy trình bồi thường khi thu hồi đất nhưng để pháp luật thực sự đi vào

78

cuộc sống, việc tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp

luật đất đai cho người dân, đặc biệt là pháp luật về bồi thường, khi Nhà nước

thu hồi đất là đòi hỏi tất yếu. Trong các dự án thu hồi đất vì mục đích phát

triển kinh tế, mối quan hệ lợi ích càng yêu cầu được giải quyết thỏa đáng,

tránh tình trạng đất đai của người dân bị thu hồi chủ yếu đem lại lợi nhuận

cho nhà đầu tư. Vì vậy, việc thông tin, giải thích cho người dân hiểu được

mục đích, ý nghĩa của việc thu hồi đất là cơ sở xoá bỏ tâm lý hoài nghi của

người dân, giúp người dân tin tưởng vào sự công bằng và đúng đắn của pháp

luật từ đó đồng tình, ủng hộ quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có

thẩm quyền.

Để tạo sự đồng thuận từ phía người dân đối với công tác thu hồi đất nói

chung và thu hồi đất phục vụ phát triển kinh tế nói riêng thì vấn đề quan trọng

đầu tiên chính là xóa bỏ những nghi ngại của người dân trong công tác thu hồi

đất phục vụ cho việc phát triển kinh tế nước nhà. Hay nói cách khác cần phải

thay đổi nhận thức của người dân thông qua việc đẩy mạnh công tác tuyên

truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thu hồi đất.

3.2.1. Giải pháp riêng với quận Hải An, thành phố Hải Phòng

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số giải pháp riêng

đối với quận Hải An, thành phố Hải Phòng nhằm góp phần hoàn thiện hơn

trong thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng khi thu

hồi đất của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân:

- Cần có sự đồng bộ và nhất quán trong công tác chỉ đạo thực hiện

chính sách thu hồi đất. Đảm bảo sự đồng bộ trong giải quyết giữa thu hồi đất

với việc làm, điều kiện sống của người dân có đất bị thu hồi.

- Về tổ chức thực hiện, cần huy động và có sự phối hợp đồng bộ giữa

các cơ quan chức năng trong thu hồi đất, giải quyết việc làm, ổn định thu

nhập và điều kiện sống cho người dân.

- Giải quyết hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, người sử dụng đất và chủ

đầu tư khi Nhà nước thu hồi đất; Đẩy mạnh việc công khai hóa, minh bạch

79

hóa quá trình thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi

đất; Giải quyết nhanh chóng, kịp thời các khiếu nại, khiếu kiện về đất đai của

người sử dụng đất khi bị thu hồi;

- Các cấp chính quyền quận, phường cần nắm rõ thực trạng lao động,

việc làm ở những khu vực có đất bị thu hồi, đặc biệt là đất nông nghiệp, đất

nuôi trồng thủy sản bị thu hồi, từ đó đề xuất kế hoạch đào tạo nghề cho lao

động tại địa phương mình. Kế hoạch đào tạo của quận, phường phải được xây

dựng chi tiết, trên cơ sở phân loại lao động, độ tuổi, sức khoẻ,…mức độ đáp

ứng yêu cầu của các doanh nghiệp. Từ đó đề xuất thành phố có đề án, chương

trình phát triển nguồn nhân lực dài hạn, trung hạn, ngắn hạn để tạo việc làm

cho người lao động. Giải quyết việc làm, điều kiện sống cho người dân có đất

nông nghiệp bị thu hồi để phát triển các khu công nghiệp trên địa bàn quận là

việc làm phức tạp, nhạy cảm. Do đó cần có đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo

đức, công tâm, có chuyên môn nghiệp vụ cao thực hiện.

- Nâng cao nhận thức của người dân trong việc bồi thường, hỗ trợ khi

Nhà nước thu hồi đất. Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị, xã hội trong

việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật trực tiếp nhằm nâng cao hiểu biết cho

người dân. Hợp tác với các cơ quan báo chí để phổ biến pháp luật (báo Hải

Phòng, báo An ninh Hải Phòng, Đài Phát thanh truyền hình Hải Phòng,

Truyền hình ANTV…) cần có các chuyên mục định kỳ về pháp luật đất đai.

Lập nên các trang thông tin điện tử phổ biến pháp luật về đất đai. Phát hành

các tài liệu hướng dẫn pháp luật phù hợp với trình độ nhận thức của người

dân ở từng vùng, địa phương khác nhau và hợp tác với các tổ chức xã hội để

phổ biến đến tận tay người dân; Tổ chức hệ thống trợ giúp pháp lý miễn phí

hoặc chi phí thấp để giúp đỡ cho người dân khi họ có nhu cầu.

Việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật đất đai trong đó có pháp luật thu

hồi đất phục vụ cho phát triển kinh tế không những nâng cao được hiệu quả

80

pháp luật, giúp cho pháp luật dễ dàng đi vào cuộc sống mà còn tạo điều kiện

cho họ nhận thức được mục đích, ý nghĩa cũng như lợi ích về nhiều mặt từ

việc thu hồi đất. Từ đó, để mọi người dân hiểu và chấp hành pháp luật, làm

tốt công tác di dân về khu tái định cư, đảm bảo các nguyên tắc, thể chế quy

định, tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước và pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Thông qua đó nhằm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ lợi ích

Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, giúp cho người dân tin

tưởng vào sự công bằng và tính đúng đắn của pháp luật về thu hồi đất.

81

KẾT LUẬN

Bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất là vấn đề phức tạp và

mang tính thời sự nóng bỏng, thu hút sự quan tâm của toàn xã hội; có

ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống, tâm lý của người dân và tác động không

nhỏ đến sự ổn định chính trị. Với mục tiêu đẩy mạnh toàn diện công cuộc

đổi mới, tạo nền tảng đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công

nghiệp phát triển theo hướng hiện đại thì chúng ta không thể không thực

hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Để giải quyết bài toán đất đai

đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước thì việc thu hồi đất

là việc làm tất yếu. Tuy nhiên, việc làm này gây ra nhiều hậu quả mà nếu

không giải quyết dứt điểm, kịp thời sẽ phát sinh tranh chấp, khiếu nại kéo dài

và tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định chính trị. Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ

khi nhà nước thu hồi đất ra đời nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện

thu hồi đất và giải quyết hài hoà lợi ích của các bên liên quan: Lợi ích của

Nhà nước, lợi ích của người bị thu hồi đất và lợi ích của người sử dụng đất

sau thu hồi. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu những vấn đề lý luận về thực

hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất ở Chương 1;

đánh giá thực trạng t h ự c h i ệ n pháp luật và thực tiễn tại quận Hải An,

thành phố Hải Phòng ở Chương 2 và đề xuất giải pháp bảo đảm thực hiện

pháp luật về Bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất tại Chương 3 của

Luận văn, tôi rút ra một số kết luận chủ yếu sau đây:

1. Việc thu hồi đất được thực hiện để sử dụng vào mục đích quốc

phòng, an ninh, để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng

là một tất yếu khách quan trong quá trình xây dựng phát triển xã hội, được

quy định tại Luật Đất đai 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành có liên

quan.

82

2. Việc nhà nước thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an

ninh, để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng của đất

nước không do lỗi của người sử dụng đất gây ra mà xuất phát từ nhu cầu

khách quan của xã hội. Do đó, Nhà nước với tư cách là tổ chức chính trị

quyền lực do xã hội thiết lập nên thay mặt xã hội có trách nhiệm bồi thường,

hỗ trợ cho người bị thu hồi đất. Đây không chỉ là trách nhiệm pháp lý mà

còn là trách nhiệm xã hội của Nhà nước.

3. Việc nhà nước thu hồi đất gây ra những hậu quả năng nề cho

người sử dụng đất. Cuộc sống của nhân dân bị đảo lộn do phải thay đổi

nơi ở, thay đổi thói quen sinh hoạt; đối với người dân bị thu hồi đất nông

nghiệp, họ còn bị mất tư liệu sản xuất, trở thành những người không có công

ăn việc làm, thu nhập bị giảm sút, cuộc sống rơi vào khó khăn. Để đảm

bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thu hồi đất, pháp luật về bồi

thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam không chỉ đề cập đến

việc bồi thường về đất (bồi thường diện tích đất thực tế bị thu hồi), bồi

thường thiệt hại về tài sản gắn liền với đất bị thu hồi mà còn có các quy

định về hỗ trợ cho người trực tiếp sản xuất nông nghiệp bị mất đất sản

xuất, hỗ trợ việc đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp, hỗ trợ đời sống gặp khó

khăn do việc bị mất đất sản xuất gây ra.

4. Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất được chú

tâm nhiều từ khi Luật đất đai năm 1993 và các văn bản hướng dẫn thi

hành. Lĩnh vực pháp luật này thường xuyên được rà soát, sửa đổi, bổ sung

và hoàn thiện nhằm phù hợp với thực tiễn. Hệ thống các văn bản pháp luật

đất đai hiện hành, Luật Đất đai năm 2013, Nghị định 43/2014/NĐ-CP,

44/2014/NĐ-CP, 01/2017/NĐ-CP của Chính Phủ…đã tạo cơ sở pháp lý cho

việc bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất.

5. Đánh giá thực trạng t h ự c h i ệ n pháp luật về bồi thường, h ỗ

t r ợ khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận Hải An, thành phố Hải

83

Phòng cho thấy công tác bồi thường, hỗ trợ đã đạt được nhiều kết quả

đáng khích lệ, tuy nhiên việc thực thi còn bộc lộ một số hạn chế: (i) Việc

xác định điều kiện để được xem xét bồi thường khi nhà nước thu hồi đất

chưa phù hợp; (ii) việc xác định giá đất cụ thể để bồi thường khi nhà nước

thu hồi đất còn bất cập, khó khăn (iii) chênh lệch giá trước vào sau khi thu

hồi đất còn ở mức cao; (iiii) các cơ quan, đơn vị cán bộ chưa thực hiện tốt

chức năng, nhiệm vụ được giao. Việc giải quyết hài hoà lợi ích giữa Nhà

nước với người bị thu hồi đất và doanh nghiệp, chủ đầu tư trong bồi thường

khi nhà nước thu hồi đất chưa đạt hiệu quả mong muốn, v.v..

6. Luận văn cũng đưa ra nhu cầu bảo đảm thực hiện pháp luật về bồi

thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn quận Hải An, thành phố

Hải Phòng, đề xuất một số giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về bồi

thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất như: Hoàn thiện pháp luật về bồi

thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất; Nâng cao trách nhiệm của cơ quan,

tổ chức và cá nhân thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu

hồi đất; Thanh tra, kiểm tra giám sát, xử lý vi phạm; Giải quyết nhanh chóng,

kịp thời các khiếu nại, tố cáo của người sử dụng đất khi bị thu hồi; Nâng cao

vai trò của các tổ chức chính trị xã hội trong việc tuyên truyền, vận động đối

với các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong công tác bồi thường, hỗ trợ khi

Nhà nước thu hồi đất; Nâng cao ý thức, trách nhiệm của người dân trong việc

bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.

84

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2014), Thông tư số 36/2014/TT-BTNMT

ngày 30/6/2014, quy định chi tiết phương pháp định giá đất, xây dựng,

điều chỉnh bảng giá đất, định giá đất cụ thể và tư vấn xác định giá đất.

2. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2015), Thông tư số 20/2015/TT-BTNMT

ngày 20/4/2015, ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật để lập dự toán ngân

sách nhà nước phục vụ công tác định giá đất.

3. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2012), Báo cáo tổng kết tình hình thi hành

Luật đất đai 2003 và định hướng sửa đổi Luật đất đai, Hà Nội, tr5.

4. Bộ Tư pháp (2012), Tổng hợp ý kiến của các đơn vị trong Bộ về Dự thảo

Luật Đất đai sửa đổi, tr.10.

5. Chính phủ (2014), Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014, quy định chi

tiết về thi hành một số điều của Luật Đất đai lại gặp một số vướng mắc.

6. Chính phủ (2014), Nghị định 47/2014/NĐ-CP quy định về bồi thường khi

Nhà nước thu hồi đất.

7. Chính phủ (2014), Nghị định số 44/2014/NĐ-CP quy định về giá đất.

8. Chính phủ (2014), Nghị định số 104/2014/NĐ-CP ngày 14/11/2014,quy

định về khung giá đất.

9. Nguyễn Vĩnh Diện (2012), “Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước

thu hồi đất (qua thực tiễn thi hành tại Thành phố Hà Nội).

10. Nguyên Đào (2009), Giá đất chưa hợp lý là kẻ hở cơ chế xin – cho”,

Báo kinh tế và Đô thị.

11. Đặng Hùng (2010), “Giải phóng mặt bằng, còn nhiều khiến kiện”, Báo

Kinh tế và Đô thị.

12. Phạm Xuân Hoàng (2014), “Bàn về giá đất theo quy định của Luật Đất

đai năm 2013”, Nghiên cứu lập pháp.

13. Trần Phương Liên (2013), “Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ đối với hộ gia

đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp - Thực trạng và

hướng hoàn thiện".

85

14. Doãn Hồng Nhung (2013), “Pháp luật về định giá đất trong bồi thường,

giải phóng mặt bằng ở Việt Nam”.

15. Quốc hội (1993), Luật đất đai năm 1993.

16. Quốc hội (2003), Luật đất đai năm 2003.

17. Quốc hội (2013), Luật đất đai năm 2013.

18. Quốc hội (2011), Luật khiếu nại năm 2011.

19. Nguyễn Thị Tâm (2012), “Pháp luật về thu hồi đất trong việc giải quyết

mối quan hệ giữa nhà nước – nhà đầu tư và người có đất bị thu hồi”.

20. Hoàng Thị Thu Trang (2012), “Pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu

hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân và thực tiễn áp dụng tại

Nghệ An”.

21. Nguyễn Minh Tuấn (2013), Thu hồi đất vì mục đích kinh tế ở Việt Nam

hiện nay, Luận văn thạc sĩ.

22. Nguyễn Quang Tuyến (2012), “Công khai minh bạch để bảo vệ quyền lợi

của người bị thu hồi đất”, Tạp chí Luật học, (số 3).

23. Phạm Thu Thủy (2013), “Pháp luật về Bồi thường khi Nhà nước thu hồi

đất nông nghiệp ở Việt Nam”.

24. Ủy ban nhân dân quận Hải An (2017), Báo cáo số 573, ngày 17/10/2017

kết quả công tác Thanh tra, tiếp công dân, giải quyết đơn thư, khiếu nại,

tố cáo năm 2017.

25. Ủy ban nhân dân quận Hải An (2016), Báo cáo số 356, ngày 04/11/2016

kết quả công tác Thanh tra, tiếp công dân, giải quyết đơn thư, khiếu nại,

tố cáo năm 2016.

26. Ủy ban nhân dân quận Hải An (2015), Báo cáo số 38, ngày 10/11/2015

kết quả công tác Thanh tra, tiếp công dân, giải quyết đơn thư, khiếu nại,

tố cáo năm 2015.

27. Ủy ban nhân dân quận Hải An (2014), Báo cáo số 35, ngày 15/10/2014

kết quả công tác Thanh tra, tiếp công dân, giải quyết đơn thư, khiếu nại,

tố cáo năm 2014.

86

28. Ủy ban nhân dân quận Hải An (2013), Báo cáo số 58, ngày 28/10/2013

kết quả công tác Thanh tra, tiếp công dân, giải quyết đơn thư, khiếu nại,

tố cáo năm 2013.

29. Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng (2017), Quyết định số

01/2017/QĐ-UBND ngày 16/6/2017 của UBND thành phố Hải Phòng về

việc điều chỉnh bảng giá các loại đất trên đị bàn 7 quận nội thành Hải

Phòng 5 năm (2015- 2019)

30. Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng (2017), Quyết định số

632/2017/QĐ-UBND thành phố Hải Phòng về việc phê duyệt giá đất cụ

thể để tính tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất thực hiện dự án đầu

tư, cải tạo nâng cấp đường 356 đoạn 2A từ ngã ba Nguyễn Bỉnh Khiêm

đến đập Đình Vũ trên địa bàn quận Hải An, thành phố Hải Phòng.

31. Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng (2015), Quyết định số

325/2015/QĐ-UBND thành phố Hải Phòng về việc ban hành bộ đơn giá

vật kiến trúc phục vụ công tác bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất

trên địa bàn thành phố Hải Phòng.

32. Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng (2015), Quyết định số

58/2015/QĐ-UBND thành phố Hải Phòng về việc ban hành tập đơn giá

cây trồng, vật nuôi thủy sản, chi phí đầu tư vào đất nuôi trồng thủy sản

phục vụ công tác bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng khi nhà nước

thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hải Phòng

33. Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng (2014), Quyết định số

2680/2014/QĐ-UBND than phố Hải Phòng Quy định chi tiết một số nội

dung về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa

bàn thành phố Hải Phòng

34. Phạm Thu Thủy (2014), Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu

hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ luật học. Đại học

Quốc gia Hà Nội.

87

PHỤ LỤC

Những dự án lớn cần thu hồi đất trên địa bàn quận Hải An

Năm bắt Tổng diện

STT Tên dự án đầu triển tích thu hồi

khai (mét vuông)

Dự án đầu tư xây dựng Tuyến đường trục

có mặt cắt ngang 40m nối từ đường trục 2013 10207.9 1 40m đến đường 100m Lạch Tray – Hồ

Đông. (gd1)

Dự án đầu tư xây dựng trường Trung cấp 2013 13620.5 2 công nghệ Hải Phòng

Dự án đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật 448502.3 3 khu dịch vụ cuối tuyến thuộc dự án 2013 đường ô tô cao tốc Hà Nội – Hải Phòng

Dự án đường bao Tây Nam khu công 2013 315114 nghiệp Đình Vũ 4

Dự án bãi đổ thải Sân bay Cát Bi 2013 68291.5 5

Dự án đầu tư xây dựng đoạn mương An 6 2013 Kim Hải

Dự án giao đất cho Công ty Xuất nhập 2013 7 khẩu Vạn Xuân

Dự án xây dựng Khu vui chơi giải trí, 2014 4647597 8 nhà ở tại đảo Vũ Yên

Dự án Xây dựng trụ sở Ủy ban nhân dân 2014 9 phường Đông Hải 1

Dự án Đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật 2014 66729.91

88

10 khu tái định cư phục vụ Dự án đầu tư mở

rộng Sân bay quốc tế Cát Bi

11 Dự án Đầu tư xây dựng Khu bay – Cảng 2014 1814800 hàng không quốc tế Cát Bi

Dự án cầu Bạch Đằng, đường dẫn và nút 2014 97244.5 12 giao cuối tuyến tại phường Đông Hải 2

Công trình phụ trợ, phụ tạm phục vụ thi 2014 152250 13 công đường ô tô Tân Vũ – Lạch Huyện

Dự án thu hồi đất để bồi thường giải

phóng mặt bằng phục vụ việc di chuyển

trận địa pháo Phòng không của Sư đoàn 2015 45411.8 14 363 thực hiện dự án đầu tư xây dựng

Cảng hang không quốc tế Cát Bi –Sư

Đoàn 363

Dự án đầu tư xây dựng Cầu cảng, luồng

15 ra vào cho các phương tiện thủy Hải đội 2015 50519 2 của Bộ Chỉ huy bộ đội biên phòng Hải

Phòng

16 Dự án đầu tư xây dựng Trường tiểu học 2015 9548 Cát Bi

Dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật các dự

17 án đấu giá tại phường Đằng Hải, Nam 2016 67058.7

Hải (Dự án Đồng Bồ)

Dự án xây dựng Khu nhà ở xã hội cho 2016 20251.9 18 cán bộ công nhân viên nhà máy Z189

Dự án đầu tư xây dựng kho bãi dịch vụ 2016

89

19 lưu trữ hàng hóa của công ty Trách

nhiệm hữu hạng Tiến Thành

Dự án xây dựng Chợ hoa đầu mối Đằng 2016 6.365,3 20 Hải

Dự án Đầu tư xây dựng khu bến cá và

21 khu neo, đậu tàu thuyền, tránh bão phục 2016 28459.5 vụ giải phóng mặt bằng Dự án đường ô

tô Tân Vũ - Lạch Huyện.

Dự án Đầu tư xây dựng cải tạo hệ thống 2016 283.6 22 kênh An Kim Hải – JICA

Dự án Đầu tư xây dựng Tuyến đường

trục có mặt cắt ngang 40m nối từ đường 2017 20104.8 23 trục 40m đến đường 100m Lạch Tray –

Hồ Đông.(gd2)

Dự án xây dựng Trung tâm hành chính 2017 26349.8 24 quận Hải An (C1;C3;D3;D7)

Dự án Đầu tư xây dựng đấu nối đường

25 nội bộ Khu Công nghiêp Đình Vũ với 2017 7957.8 tuyến đường trục chính Tây Nam Khu

Công nghiêp Đình Vũ (02 mối nối)

Dự án đấu nối Khu công nghiệp Nam 2017 23320.1 26 Đình Vũ (Khu 2)

Dự án Đầu tư cải tạo, nâng cấp nút giao

27 thông khác mức nối đường 356 đoạn 2A 2017 14.380,2 từ ngã 3 Nguyễn Bỉnh Khiêm đến đập

Đình Vũ (gd2)

Dự án nút giao Tân Vũ thuộc Dự án 2017 117101.3

90

28 đường ô tô Tân Vũ – Lạch Huyện

Dự án xây dựng trụ sở làm việc Đảng ủy, 2017 4675.1 29 Ủy ban nhân dân phường Đằng Hải

Dự án đầu tư xây dựng khu tái định cư 2017 26095.48 30 tại phường Đông Hải 1

Dự án đầu tư xây dựng nút giao thông

31 khác mức giữa đường Lê Hồng Phong 2017 2166.9 với đường Nguyễn Bỉnh Khiêm

Dự án đầu tư xây dựng hệ thống kỹ thuật 2017 43398.29 32 khu tái định cư tại phường Nam Hải

2017 3000.3 33

8,130,060.0 Tổng

(Nguồn: Trung tâm phát triển qũy đất quận Hải An - năm 2018)

91