VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM THỊ THU HẰNG
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG
GIA CÔNG MAY MẶC THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
HÀ NỘI, 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM THỊ THU HẰNG
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG
GIA CÔNG MAY MẶC THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8 38 01 07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG
HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học Viện Khoa học xã hội.
Vậy tôi xin viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật - Học Viện Khoa
học xã hội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Phạm Thị Thu Hằng
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................................. i
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT .......................................................................................... iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG GIA CÔNG MAY MẶC .................................................................. 7
1.1. Hợp đồng gia công may mặc ..................................................................................... 7
1.2. Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng gia công may mặc. ............................... 15
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................................... 33
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG GIA CÔNG MAY MẶC VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................................................................................... 34
2.1. Thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng gia công may
mặc ở Việt Nam hiện nay ................................................................................................ 34
2.2. Thực tiễn về BTTH do vi phạm HĐGCMM ở Việt Nam hiện nay ......................... 46
2.3. Đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng
gia công may mặc ở Việt Nam hiện nay ......................................................................... 53
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................................... 60
Chương 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG THỰC HIỆN BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG GIA CÔNG MAY MẶC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .............................................................. 62
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng gia
công may mặc ở Việt Nam hiện nay ............................................................................... 62
3.2. Các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm
hợp đồng gia công may mặc ở Việt Nam hiện nay ......................................................... 67
3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi
phạm hợp đồng gia công may mặc ở Việt Nam hiện nay ............................................... 69
Tiểu kết chương 3 ........................................................................................................... 73
KẾT LUẬN .......................................................................................................................... 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................... 76
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS Bộ luật Dân sự
BLTTDS Bộ luật Tố tụng Dân sự
LTM Luật Thương Mại
HĐGC Hợp đồng gia công
HĐGCMM Hợp đồng gia công may mặc
BTTH Bồi thường thiệt hại
United Nations Convention on Contracts for the
International Sale of Goods ( Vienna Convention 1980) CISG Công ước của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế (Công ước Viên 1980)
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, số lượng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực gia công ở nước ta không ngừng tăng lên. Các doanh nghiệp này hoạt
động sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực chính như dệt may, da giày, điện
tử, đồ gỗ…, tập trung chủ yếu ở các tỉnh, thành phố như Hà Nam, Hưng Yên,
Hải Dương, Bắc Ninh, … ở phía Bắc và Bình Dương, Đồng Nai, Tây Ninh,
Long An, TP.HCM… ở phía Nam.
Thực tế cho thấy rằng, các doanh nghiệp gia công đóng vai trò quan
trọng trong nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là ở lĩnh vực gia công hàng may
mặc, đã giải quyết được nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Nhằm đề
cao vai trò của các doanh nghiệp gia công đối với nền kinh tế, trong bối cảnh
của việc tiến hành cải cách thủ tục hành chính để tạo thuận lợi cho hoạt động
của giới doanh nghiệp, trong đó có lĩnh vực gia công may mặc, chính phủ
Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách ưu đãi để thu hút đầu tư, tạo điều
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này.
HĐGC nói chung là công cụ để phản ánh ý chí, yêu cầu của bên đặt gia công
và bên nhận gia công trong việc thiết lập mối quan hệ pháp lý giữa hai bên.
Mối quan hệ kiểu này hết sức phổ biến trong đời sống xã hội và thuật ngữ
“gia công” cũng được sử dụng nhiều trong thực tế. Vì thế, khái niệm “gia
công” trong quan hệ dân sự có thể được hiểu thông qua khái niệm gia công
trong hoạt động thương mại khi xác định các yếu tố đặc trưng và bản chất của
hoạt động này.
Gia công may mặc là hành vi thương mại, theo đó bên nhận gia công thực
hiện việc gia công hàng hoá theo yêu cầu, bằng nguyên liệu, vật liệu của bên đặt
gia công để hưởng tiền gia công; bên đặt gia công nhận hàng hoá đã gia công để
1
kinh doanh thương mại và phải trả tiền gia công cho bên nhận gia công.
BTTH do vi phạm HĐGCMM là biện pháp pháp lý quan trọng có vai trò bù
đắp cho bên bị thiệt hại (bên có quyền) những tổn thất là hậu quả của hành vi
vi phạm HĐGC. Trong các hệ thống pháp luật, về nguyên tắc BTTH là biện
pháp khắc phục những thiệt hại xảy ra để đưa bên bị thiệt hại vào vị trí mà
đáng lẽ bên này sẽ có được nếu HĐGC được hoàn thành đúng trình tự. Tuy
vậy, các hệ thống pháp luật khác nhau cũng có những điểm khác biệt trong
biện pháp này như: thiệt hại được bồi thường, căn cứ áp dụng biện pháp
BTTH, cách thức xác định mức BTTH, các trường hợp được miễn trách
nhiệm BTTH, …
Việc BTTH do vi phạm HĐGCMM vốn không phải là vấn đề pháp lý
mới trong các hệ thống pháp luật hiện đại, tuy nhiên nó lại chưa có được sự
chú trọng cần thiết và cụ thể trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Ví dụ như
những thiệt hại nào có thể được bồi thường? Các căn cứ nào để áp dụng biện
pháp BTTH? Trong trường hợp nào bên vi phạm HĐGC được miễn trách
nhiệm BTTH? Đây chỉ là một vài trong vô số vấn đề vẫn chưa thực sự được
giải quyết triệt để trong pháp luật HĐGC tại Việt Nam. Trên thực tế, BTTH
do vi phạm HĐGCMM diễn ra nhiều và có các tình huống phức tạp. Số lượng
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực gia công may mặc ngày càng nhiều,
đòi hỏi sự cần thiết để nghiên cứu về đề tài liên quan đến lĩnh vực này. Bên
cạnh đó, nhằm trình bày rõ hơn các thiếu sót và đề xuất một số ý kiến của cá
nhân về BTTH trong vi phạm HĐGCMM, tác giả đã chọn chủ đề “BTTH do
vi phạm HĐGCMM theo pháp luật Việt Nam hiện nay” làm đề tài cho
luận văn thạc sĩ ngành luật kinh tế của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
BTTH do vi phạm hợp đồng đã được một số học giả nghiên cứu. Ở khía
cạnh BTTH do vi phạm hợp đồng thì ở Việt Nam đã có một số công trình
nghiên cứu như: Nguyễn Thị Hoàng Anh (2019), BTTH do vi phạm hợp đồng
2
dịch vụ vận tải bằng đường không theo pháp luật Việt Nam hiện nay, Luận
văn Thạc sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội [1]; Hoàng Thị Thu Thủy
(2017), Chế tài phạt vi phạm và BTTH trong hợp đồng mua bán hàng hóa
theo pháp luật thương mại Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện
Khoa học xã hội [13]; Trần Đăng Thành (2017), Trách nhiệm BTTH do vi
phạm hợp đồng viễn thông ở Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện
Khoa học xã hội [12]; Bùi Thị Thanh Hằng (2018), BTTH do vi phạm hợp
đồng, Luận án Tiến sĩ, Đại học Luật Hà Nội [7].
Trong các công trình nghiên cứu nêu trên, có công trình đã đề cập khái
quát về BTTH do vi phạm hợp đồng thương mại, một số công trình nghiên
cứu sâu về BTTH trong một số lĩnh vực việc làm cụ thể, nhưng chưa có công
trình nào nghiên cứu sâu về BTTH do vi phạm HĐGCMM. Đây là luận văn
thạc sỹ đầu tiên nghiên cứu về BTTH do vi phạm HĐGCMM ở Học viện
khoa học xã hội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là thông qua việc nghiên cứu các vấn
đề lý luận và thực tiễn về việc BTTH do vi phạm HĐGCMM theo pháp luật
Việt Nam hiện nay để làm rõ và làm phong phú thêm cơ sở lý luận, thực tiễn
và pháp lý của vấn đề BTTH do vi phạm HĐGC. Từ đó, luận văn đưa ra một
số kiến nghị cụ thể để sửa đổi, bổ sung các quy định còn bất cập, thiếu sót
trong pháp luật hiện hành, hoàn thiện cơ chế pháp lý để điều chỉnh BTTH do
vi phạm HĐGCMM trong pháp luật Việt Nam hiện nay theo xu hướng hiện
đại và hội nhập, qua đó nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật hợp đồng
Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện những mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về BTTH do vi phạm HĐGCMM
3
theo pháp luật Việt Nam hiện nay: làm rõ khái niệm và đặc điểm của
HĐGCMM, BTTH do vi phạm HĐGCMM; làm rõ những vấn đề lý
luận về các căn cứ để áp dụng biện pháp BTTH do vi phạm HĐGC,
các trường hợp miễn trách nhiệm BTTH, xác định mức BTTH, v.v...
- Đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định và chi tiết
cụ thể của Bộ luật dân sự 2015 (BLDS 2015), Luật Thương mại 2005
(LTM 2005) và một số luật liên quan về biện pháp BTTH do vi phạm
HĐGCMM.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là BLDS năm 2015, BLDS năm
2005 và các văn bản pháp luật liên quan đến biện pháp BTTH do vi phạm hợp
đồng như LTM 2005, Luật Đầu tư năm 2016 (LĐT 2016).
Phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở các quy định trong các văn bản pháp lý trên đây, luận văn tập
trung nghiên cứu và làm rõ những vấn đề sau:
Thứ nhất, dựa trên các quy định của pháp luật về BTTH do vi phạm hợp
đồng nói chung, luận văn tập trung làm rõ cơ sở lý luận về HĐGCMM, BTTH
do vi phạm HĐGCMM theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, dựa trên việc so sánh các quy định về BTTH do vi phạm hợp
đồng của BLDS năm 2005, BLDS năm 2015, LTM năm 2005 và một số văn
bản pháp luật có liên quan, luận văn tập trung nghiên cứu để làm rõ những
thay đổi của BLDS năm 2015 so với BLDS năm 2005.
Thứ ba, dựa trên so sánh cơ sở lý luận, thực trạng pháp luật và thực tiễn
áp dụng pháp luật về BTTH do vi phạm HĐGCMM theo pháp luật Việt Nam
hiện nay, luận văn sẽ đưa ra những ý kiến đánh giá và những kiến nghị nhằm
hoàn thiện các quy định pháp luật về vấn đề này.
Trong thực tế, BTTH do vi phạm HĐGCMM theo pháp luật Việt Nam
4
hiện nay là một vấn đề chưa thống nhất, có mối liên hệ biện chứng với nhiều
vấn đề pháp lý quan trọng khác của luật hợp đồng, các biện pháp pháp lý để
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của các bên. Do đó, luận văn không đặt vấn đề
giải quyết mọi vấn đề liên quan tới BTTH do vi phạm HĐGC nói chung và
HĐGCMM nói riêng mà chủ yếu tập trung vào việc nghiên cứu thực trạng và
các giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả trong thực hiện BTTH do vi
phạm HĐGCMM.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Việc nghiên cứu của luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Đây là kim chỉ
nam định hướng cho các phương pháp nghiên cứu cụ thể của học viên trong
quá trình thực hiện luận văn này.
Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, học viên sẽ sử
dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp phân tích và bình luận để làm rõ hơn những vấn đề lý
luận và quy định của pháp luật hiện hành về BTTH do vi phạm
HĐGCMM trong pháp luật Việt Nam hiện nay;
- Phương pháp tổng hợp nhằm trình bày và khái quát hóa thực trạng
pháp luật về BTTH do vi phạm HĐGCMM theo pháp luật Việt Nam
hiện nay nhằm đưa ra những kiến nghị chỉnh sửa và bổ sung phù hợp;
Trên cơ sở áp dụng các phương pháp nghiên cứu kể trên, tác giả đưa ra
những đánh giá về cơ chế BTTH do vi phạm HĐGCMM theo pháp luật Việt Nam
hiện nay, rút ra các nhận xét và đề xuất các kiến nghị nhằm đưa pháp luật hợp
đồng kinh doanh Việt Nam nói chung và quy chế BTTH do vi phạm HĐGCMM
theo pháp luật Việt Nam hiện nay nói riêng ngày càng hoàn thiện hơn.
5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về phương diện lý luận, thông qua việc làm rõ một số vấn đề lý luận về
BTTH do vi phạm HĐGCMM theo pháp luật Việt Nam hiện nay, luận văn
góp phần vào việc củng cố và hoàn thiện những vấn đề còn chưa hoàn chỉnh
về hợp đồng nói chung trong khoa học pháp lý Việt Nam.
Về phương diện thực tiễn, những quan điểm và kiến nghị nhằm hoàn
thiện pháp luật Việt Nam về BTTH do vi phạm HĐGCMM được đề xuất
trong luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan thực thi
pháp luật, trọng tài kinh tế trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến
BTTH do vi phạm HĐGCMM theo pháp luật Việt Nam hiện nay. Đồng thời,
luận văn cũng là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho các cá nhân và doanh
nghiệp Việt Nam trong quá trình giải quyết tranh chấp biện pháp BTTH do vi
phạm HĐGCMM theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, tổng quan về tình hình nghiên cứu đề tài luận văn,
kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về BTTH do vi phạm HĐGCMM
Chương 2. Thực trạng pháp luật về BTTH do vi phạm HĐGC và thực
tiễn áp dụng ở Việt Nam hiện nay
Chương 3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả trong
6
thực hiện BTTH do vi phạm HĐGCMM ở Việt Nam hiện nay.
Chương 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI
PHẠM HỢP ĐỒNG GIA CÔNG MAY MẶC
1.1. Hợp đồng gia công may mặc
Hoạt động gia công mang lại hiệu quả kinh tế không cao song đem lại
hiệu quả về mặt xã hội, đó là giải quyết việc làm cho người lao động, góp
phần giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập cho người dân. Bên cạnh đó, hoạt
động gia công còn có vai trò rất lớn đối với các doanh nghiệp trong việc học
hỏi kinh nghiệm quản lý, sản xuất tiên tiến của các nước phát triển, tăng
cường khả năng quản lý doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp hoạt động có hiệu
quả hơn [17].
Những nước có nguồn lực về tài chính và trình độ khoa học công nghệ cao
thường dễ dàng thu hút đầu tư cho việc phát triển các ngành sản xuất công nghệ
cao, trong khi đó các nước đang phát triển với nguồn lao động dồi dào và rẻ có
lợi thế trong việc thu hút đầu tư cho các hoạt động gia công, lắp ráp. Việt Nam,
với nguồn lao động dồi dào và rẻ, đã thu hút được khá nhiều nhà đầu tư tham gia
vào lĩnh vực này trong thời gian gần đây [17]. Vì thế, hoạt động gia công, lắp ráp
hàng hóa của Việt Nam cũng diễn ra khá sôi động và ngày càng phát triển, đặc
biệt là trong lĩnh vực gia công may mặc.
1.1.1. Khái niệm hợp đồng gia công may mặc
HĐGC có thể hiểu là công cụ để phản ánh mong muốn của bên đặt gia
công và bên nhận gia công trong việc thiết lập mối quan hệ pháp lý giữa hai
bên. Mối quan hệ này hết sức phổ biến trong đời sống xã hội hiện nay, đồng
thời thuật ngữ “gia công” cũng được sử dụng nhiều trong thực tế. Tuy nhiên,
trong các văn bản pháp luật điều chỉnh đối với HĐGC trong đời sống dân sự
là BLDS các năm 1995, 2005, 2015 và cũng như các văn bản hướng dẫn thực
7
hiện BLDS đều không đề cập đến khái niệm “gia công”. Vì thế, khái niệm
“gia công” trong quan hệ dân sự phải hiểu thông qua khái niệm gia công trong
hoạt động thương mại, từ đó xác định được các đặc trưng và bản chất của hoạt
động này.
Theo LTM năm 1997, gia công là hành vi thương mại, theo đó bên nhận
gia công thực hiện việc gia công hàng hóa theo yêu cầu, bằng nguyên liệu, vật
liệu của bên đặt gia công để hưởng tiền gia công; bên đặt gia công nhận hàng
hoá đã gia công để kinh doanh thương mại và phải trả tiền phí gia công cho
bên nhận gia công. Đến LTM năm 2005, khái niệm này đã được đưa ra ngắn
gọn hơn cụ thể: Gia công trong thương mại là hoạt động thương mại, theo đó
bên nhận gia công sử dụng một phần hoặc toàn bộ nguyên liệu, vật liệu của
bên đặt gia công để thực hiện một hoặc nhiều công đoạn trong quá trình sản
xuất theo yêu cầu của bên đặt gia công để hưởng thù lao gọi là phí gia công.
Từ các quy định trên đây có thể hiểu rằng gia công là việc mà một bên (gọi là
bên nhận gia công) nhận nguyên vật liệu của một bên khác (gọi là bên đặt gia
công) để thực hiện những hành vi cụ thể theo yêu cầu và chỉ dẫn của bên đặt
gia công đồng thời được nhận thù lao tương ứng gọi là phí gia công.
Tuy nhiên, BLDS Việt Nam các năm 1995, 2005 hay 2015 đều không
đưa ra khái niệm “gia công” mà chỉ đưa ra khái niệm “HĐGC”. HĐGC là sự
thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên nhận gia công thực hiện công việc để tạo
ra sản phẩm theo yêu cầu của bên đặt gia công, bên đặt gia công nhận sản
phẩm và trả tiền công. Bên cạnh yếu tố thỏa thuận thống nhất ý chí giữa các
bên, khái niệm này nhấn mạnh đến yếu tố chủ thể, đến quyền và nghĩa vụ cơ
bản của các chủ thể. Chủ thể bao gồm bên đặt gia công và bên nhận gia công.
Bên đặt gia công là bên mong muốn thu được các sản phẩm theo những yêu
cầu riêng của mình, họ có thể cung cấp một phần hoặc toàn bộ nguyên vật
liệu và sẵn sàng trả tiền để nhận được sản phẩm đó. Bên nhận gia công là bên
có trình độ, kỹ năng để tạo ra những sản phẩm theo yêu cầu của bên gia công
8
để từ đó được nhận tiền công. Kết quả của quá trình gia công là sản phẩm vật
chất hữu hình, vật được xác định theo mẫu. Trong dân sự, sản phẩm này
thường có hình thái tồn tại hoàn chỉnh nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng nào đó
của người tiêu dùng. Tuy nhiên, trong kinh doanh thương mại, có nhiều khi
hoạt động gia công có thể được tách thành nhiều khâu liên tiếp, hình thành hệ
thống gia công phân đoạn; do đó sản phẩm gia công của một phân đoạn có thể
chưa hoàn chỉnh mà mới chỉ đáp ứng được những yêu cầu nhất định cũng
được coi là hoàn thành.
Mặc dù không có một khái niệm cụ thể nào cho “HĐGCMM” nhưng có
thể hiểu rằng: HĐGCMM là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên nhận gia
công thực hiện công việc để tạo ra sản phẩm là quần, áo, mũ, găng tay các
loại theo yêu cầu của bên đặt gia công, bên đặt gia công nhận sản phẩm và trả
tiền công. Bên đặt gia công sẽ giao cho bên nhận gia công các nguyên liệu
may mặc như vải, da, lông thú các loại; phụ liệu như chỉ, cúc, khuy kéo, dây
chun, trang trí…; công cụ dụng cụ để thực hiện như máy may, bàn là, máy
dập, ép… và các tài liệu, sơ đồ, giác mẫu để giúp bên nhận gia công thực hiện
được sản phẩm theo đúng yêu cầu về kiểu dáng, chất lượng, quy cách do bên
đặt gia công đề ra. Khi hoàn thành và giao sản phẩm gia công thì bên nhận gia
công sẽ nhận được tiền phí gia công từ phía bên đặt gia công theo thỏa thuận
của hợp đồng.
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng gia công may mặc
HĐGCMM có những đặc điểm tương tự như các hợp đồng dân sự. Bởi
vậy, HĐGC cũng có những đặc điểm chính sau:
- Là hợp đồng song vụ: Cả hai chủ thể - bên đặt gia công và bên nhận gia
công đều có những quyền và nghĩa vụ được xác định theo hợp đồng,
trong đó quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại.
- Là hợp đồng ưng thuận: HĐGCMM có hiệu lực ngay từ thời điểm các
bên đã thỏa thuận xong các điều khoản cơ bản của hợp đồng. HĐGC
9
không bao giờ có thể được thực hiện và chấm dứt ngay tại thời điểm giao
kết, mà luôn đòi hỏi một khoảng thời gian đủ để bên nhận gia công có
thể thực hiện được việc gia công của mình. Nếu các bên không có thỏa
thuận cụ thể hơn thì thời hạn được tính là khoảng thời gian hợp lý để
thực hiện việc gia công đó.
- Là hợp đồng có đền bù: Bên đặt gia công có nghĩa vụ thanh toán tiền
công cho bên nhận gia công theo thỏa thuận trong hợp đồng. Việc không
có thỏa thuận không được hiểu là không có đền bù.
Bên cạnh việc mang đầy đủ những đặc điểm chung của hợp đồng thông
thường, với ý nghĩa là một loại hợp đồng dân sự và thương mại thông dụng,
HĐGCMM cũng có những đặc điểm riêng:
Về mặt bản chất của HĐGCMM
Về mặt bản chất, HĐGCMM không phải là hợp đồng mua bán hàng hóa.
Mặc dù trong quá trình thực hiện hợp đồng cũng có thể xảy ra trao đổi sản
phẩm, nguyên vật liệu cấu thành nhưng đó không phải là giao dịch cốt lõi của
HĐGCMM. Việc bên đặt gia công nhận sản phẩm sau quá trình gia công cũng
không được coi là giao dịch mua bán khi sản phẩm chuyển giao không phải
hoàn toàn là sở hữu của bên nhận gia công. Quyền sở hữu sản phẩm gia công
của mỗi bên được quyết định tùy vào mức độ đóng góp nguyên vật liệu cấu
thành và giá trị gia tăng trong sản phẩm được làm ra, từ đó quyết định được
chi phí gia công là cao hay là thấp. Nếu như bên nhận gia công đóng góp càng
nhiều nguyên vật liệu và thực hiện nhiều hoạt động hơn để tạo ra nhiều giá trị
gia tăng của sản phẩm thì phí gia công sẽ càng cao và ngược lại. Thông
thường, phí gia công được chi trả chủ yếu cho việc bên nhận gia công thực
hiện những hoạt động cụ thể theo chỉ dẫn, yêu cầu của bên đặt gia công từ đó
làm gia tăng giá trị của sản phẩm; do đó về mặt bản chất, hoạt động gia công
gần với hoạt động cung ứng dịch vụ.
Về tính chất của HĐGCMM
HĐGCMM có bản chất là hợp đồng song vụ và có đền bù. Tính song vụ
10
được thể hiện rõ ràng trong việc phân chia quyền và nghĩa vụ giữa bên đặt gia
công và bên nhận gia công. Mỗi bên chủ thể đều vừa có quyền lại vừa có
nghĩa vụ dân sự đối ứng. Tuy nhiên, quyền và nghĩa vụ đối ứng của các chủ
thể trong HĐGCMM cũng có những điểm khác biệt so với các loại hợp đồng
khác. Cụ thể, bên nhận gia công vừa có thể có quyền yêu cầu bên đặt gia công
phải chuyển cho mình các nguyên vật liệu đạt tiêu chuẩn về số lượng, chất
lượng, chủng loại, tính đồng bộ, vừa có thể có nghĩa vụ cung cấp nguyên vật
liệu phù hợp. Ngược lại, bên đặt gia công vừa có thể có nghĩa vụ cung cấp
nguyên vật liệu, vừa có thể có quyền yêu cầu bên nhận gia công cung cấp
nguyên vật liệu cần thiết cho quá trình gia công. Cả quyền và nghĩa vụ của
các bên đối với việc cung cấp nguyên vật liệu phụ thuộc vào mức độ đóng
góp của các bên theo hợp đồng quy định.
Bên nhận gia công có nghĩa vụ bàn giao sản phẩm đã hoàn thành cho
bên đặt gia công, bên đặt gia công có nghĩa vụ thanh toán chi phí cần thiết cho
bên nhận gia công nhưng không phải là thanh toán cho toàn bộ giá trị sản
phẩm hoàn chỉnh mà chỉ thanh toán chi phí cho phần nguyên vật liệu mà bên
nhận gia công cung cấp và chi phí cho chuỗi hành vi tạo ra giá trị gia tăng kết
tinh trong sản phẩm cuối cùng. Vì vậy, phí gia công không phải là giá thành
sản phẩm mà chỉ là một phần trong trong đó.
Về tính đền bù, bên đặt gia công phải trả một khoản tiền công cho bên
nhận gia công khi họ làm ra một sản phẩm đạt yêu cầu. Cần lưu ý rằng, khoản
đền bù này có thể bao gồm hoặc không bao gồm chi phí nguyên vật liệu trong
đó, tùy thuộc vào việc bên đặt gia công cung cấp một phần hay toàn bộ
nguyên vật liệu gia công. Như vậy, có thể bóc tách tiền công thành hai phần:
một phần là tiền nguyên vật liệu mà chính bên nhận gia công bỏ ra và một
phần khác là tiền gia công sản phẩm theo yêu cầu của bên đặt gia công.
Về đối tượng của HĐGCMM
Đối tượng của HĐGCMM là vật được xác định theo yêu cầu, xác định
11
theo mẫu, theo tiêu chuẩn do các bên thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp
luật. Vật mẫu hay tiêu chuẩn của vật gia công chỉ được hiện thực hóa (vật chất
hóa) sau khi bên nhận gia công đã hoàn thành công việc gia công. Sản phẩm
được gia công có thể là hoàn chỉnh hay chưa hoàn chỉnh phụ thuộc vào hình
thức gia công là gia công chi tiết hay gia công sản phẩm hoàn chỉnh. Thông
thường, sản phẩm được gia công theo mẫu sản phẩm cho trước. Nhiều trường
hợp, sản phẩm được tạo ra theo sự mô tả, chỉ dẫn của bên đặt gia công. Khi đó,
sản phẩm gia công thường được định hình thông qua các tiêu chí về số lượng,
chất lượng, kích thước, màu sắc, quy cách đóng gói… và vì thế đòi hỏi bên
nhận gia công phải có những kỹ năng chuyên môn chuyên biệt đối với từng loại
sản phẩm. Tóm lại, đối tượng của HĐGCMM là vật hoàn thành theo yêu cầu,
chỉ dẫn của bên đặt gia công. Đối tượng này có thể là sản phẩm hoàn chỉnh
hoặc sản phẩm chưa hoàn chỉnh.
1.1.3. Đặc trưng của hợp đồng gia công may mặc
Nói chung, HĐGCMM có đầy đủ những đặc điểm của một HĐGC nói
chung, ngoài ra nó còn có các đặc trưng riêng:
- Chủ thể: Chủ thể của HĐGCMM là các cá nhân hoặc pháp nhân có trụ
sở kinh doanh trong nước hoặc ở các nước khác nhau vì vậy mà các bên tham
gia hợp đồng phải chịu sự điều chỉnh của các pháp luật khác nhau căn cứ vào
nơi đăng ký kinh doanh.
- Đối tượng: Đối tượng của HĐGCMM là việc thực hiện một hoặc nhiều
công đoạn trong quá trình sản xuất ra sản phẩm mới là quần áo. Sản phẩm
mới được sản xuất ra theo HĐGC được gọi là hàng hóa gia công. Hàng hóa có
thể được gia công cho thương nhân nước ngoài hoặc các thương nhân trong
nước. Hàng hóa gia công mang tính chất thời trang, theo mùa do vậy gắn với
từng giai đoạn nhất định trong các thời điểm tiêu thụ trên thị trường. Nguyên
liệu, vật tư sử dụng cho gia công là vải, da thuộc, lông thú và các phụ liệu như
12
cúc, chỉ, khóa …
- Nội dung: HĐGCMM có thể bao gồm những điều khoản quy định về:
Hàng hóa gia công; Nguyên liệu, vật tư; Quyền và nghĩa vụ của các bên; Thời
gian sản xuất, thời gian giao hàng; Số lượng và phí gia công; Phương thức
thanh toán; Trách nhiệm vi phạm hợp đồng; Thủ tục giải quyết tranh chấp;
Hiệu lực. Trong đó: Điều khoản về hàng hóa gia công đề cập đến sản phẩm là
quần áo, quy cách chủng loại quần áo; Điều khoản về nguyên liệu, vật tư cụ
thể hóa số lượng, chất lượng cũng như thời điểm chuyển giao các nguyên liệu
như vải, da thuộc, lông thú. Ở một số trường hợp, các bên có thể thỏa thuận
nhờ bên nhận gia công mua hộ một số nguyên liệu, phụ liệu cần thiết. Bên đặt
gia công và bên nhận gia công cũng có những thỏa thuận về việc hỗ trợ kỹ
thuật, máy móc, công cụ dụng cụ để bên nhận gia công có thể hoàn thành sản
phẩm theo những yêu cầu của bên đặt gia công. Điều khoản về thời gian sản
xuất, thời gian giao hàng và số lượng, phí gia công là một trong những điều
khoản quan trọng trong hợp đồng. Đối với hàng hóa gia công may mặc là
quần áo thì thời điểm sản phẩm được tung ra thị trường là rất quan trọng,
quyết định sự thành công trong kinh doanh của đối tác thuê gia công trong
mùa vụ/năm đó. Điều khoản về trách nhiệm vi phạm hợp đồng sẽ là sự thỏa
thuận giữa các bên nhằm để đảm bảo mỗi bên phải có trách nhiệm thực hiện
tốt những nội dung đã nêu trong hợp đồng. Điều khoản này cũng có các quy
định cụ thể để trong trường hợp các bên vi phạm hợp đồng thì sẽ có hình thức
xử phạt, bồi thường tương ứng. Trong trường hợp không thỏa thuận được hình
thức xử phạt, bồi thường thì cần đến cơ quan nào để giải quyết tranh chấp.
- HĐGCMM cũng như các loại hợp đồng khác, quy định về quyền và
nghĩa vụ của các bên là rất quan trọng. Bên đặt gia công có nghĩa vụ đưa ra
những mong muốn cụ thể về sản phẩm gia công cả về chất lượng và số lượng
để bên nhận gia công có căn cứ mà thực hiện. Dĩ nhiên nghĩa vụ trả tiền công
đầy đủ và theo đúng thời gian là một điều bắt buộc đối với hợp đồng này.
13
Ngay từ khi nhận nguyên liệu, vật tư ban đầu, bên nhận gia công đã có nghĩa
vụ phải kiểm tra chất lượng, nếu chất lượng của những nguyên vật liệu này
không thể giúp cho bên nhận gia công có thể hoàn thành được nghĩa vụ của
mình thì bên nhận gia công có quyền yêu cầu bổ sung hoặc đổi nguyên vật
liệu khác. Bên nhận gia công có nghĩa vụ phải hoàn thành đúng tiến độ mà hai
bên đã thỏa thuận trong hợp đồng, chất lượng và số lượng sản phẩm cũng phải
đảm bảo theo như đã thỏa thuận ban đầu của các bên. Trong quá trình gia
công thì sẽ có một số trường hợp những quy trình gia công là do bên đặt gia
công cung cấp, trong trường hợp đó, bên nhận gia công phải đảm bảo giữ bí
mật về quy trình này. Bên nhận gia công còn phải có trách nhiệm với xã hội
khi mà nếu như những nguyên liệu gia công đó có thể làm nguy hại cho xã
hội. Ví dụ: Sử dụng chất nhuộm, nước thải giặt là,… rất nguy hại cho môi
trường và sức khỏe người dân, người lao động. Bên nhận đặt gia công cũng có
quyền yêu cầu bên đặt gia công cung cấp nguyên liệu và số lượng như đã thỏa
thuận với thời hạn và địa điểm cụ thể. Trong trường hợp khi các chỉ dẫn của
bên đặt gia công đối với bên nhận gia công gây ra các khó khăn trong quá
trình thực hiện gia công thì bên nhận gia công thì có quyền thỏa thuận lại về
các chỉ dẫn. Đây là một yêu cầu rất cơ bản để quá trình gia công có thể hoàn
thành được. Trong một số trường hợp, có thể yêu cầu bên đặt gia công thỏa
thuận về việc bên nhận gia công sẽ nhận được một khoản đặt cọc để có tiền
trả cho nhân viên.
Như vậy, khi các bên tham gia giao kết hợp đồng thì cần xem những
quy định của BLDS 2015 trước khi giao kết hợp đồng. Bên đặt gia công cần
phải cung cấp đầy đủ các nguyên liệu để bên nhận gia công có thể tiến hành
gia công, phải thanh toán đầy đủ và đúng hạn cho bên nhận gia công. Bên
cạnh đó, bên đặt gia công có thể hủy hợp đồng hay yêu cầu đòi BTTH nếu
bên nhận gia công gây ra thiệt hại. Đối với bên nhận gia công, phải hoàn
14
thành đầy đủ các nghĩa vụ của mình đối với việc gia công sản phẩm, được
hưởng tiền công như đã thỏa thuận và phải chịu BTTH nếu gây thiệt hại hoặc
vi phạm hợp đồng.
1.2. Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng gia công may mặc
1.2.1. Khái niệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng gia công
may mặc
Trong mọi hệ thống pháp luật, khi có hành vi vi phạm hợp đồng (khi một
bên chậm thực hiện, không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã
cam kết) thì một trong những biện pháp có thể được áp dụng nhằm khắc phục
hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng là BTTH. Theo đó, bên có hành vi vi
phạm hợp đồng phải BTTH cho bên bị vi phạm.
HĐGCMM là một phần của hợp đồng thương mại và BTTH do vi phạm
HĐGCMM cũng tương tự như trên. Trong các biện pháp khắc phục hậu quả
của hành vi vi phạm HĐGCMM, BTTH là biện pháp khắc phục mà việc áp
dụng biện pháp này đòi hỏi phải đáp ứng các căn cứ chặt chẽ hơn cả. Điều
này xuất phát từ nhận thức rằng hành vi vi phạm hợp đồng của một bên gây ra
thiệt hại cho bên kia trong quan hệ hợp đồng sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến
lợi ích vật chất của bên bị vi phạm. Do đó, bên có hành vi vi phạm hợp đồng
gây thiệt hại cho bên kia có trách nhiệm phải bù đắp những lợi ích vật chất
phù hợp nhằm khôi phục lại tình trạng của bên bị vi phạm trở về như trước
khi hành vi vi phạm xảy ra, nhằm thỏa mãn những lợi ích chính đáng mà bên
bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu HĐGCMM được thực hiện đúng.
Định nghĩa BTTH do vi phạm HĐGCMM không được đưa ra trong
BLDS, LTM. Thay vào đó, BLDS chỉ quy định các trường hợp vi phạm hợp
đồng cụ thể như chậm thực hiện nghĩa vụ, không thực hiện nghĩa vụ giao vật,
không thực hiện một công việc hay thực hiện một công việc không được phép
thực hiện hoặc chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ và buộc bên vi phạm
15
hợp đồng phải bồi thường cho bên bị vi phạm khi thiệt hại xảy ra.
BLDS năm 2015 cũng như BLDS năm 2005 không đưa ra định nghĩa
cụ thể cho BTTH do vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên, khác với BLDS năm
2005, ngoài việc ghi nhận các trường hợp có thể dẫn tới trách nhiệm BTTH
tương tự BLDS năm 2005, BLDS năm 2015 đã bổ sung quy định rằng trường
hợp có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có nghĩa vụ phải bồi
thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy
định khác, BLDS năm 2015 đã ghi nhận khái quát trách nhiệm BTTH do vi
phạm nghĩa vụ bao gồm trách nhiệm BTTH do vi phạm hợp đồng và trách
nhiệm BTTH ngoài hợp đồng. Điều này hoàn toàn hợp lý bởi hợp đồng là căn
cứ chủ yếu làm phát sinh nghĩa vụ. Bên cạnh đó, BLDS năm 2015 còn chỉ rõ
nguyên tắc của BTTH và căn cứ làm phát sinh trách nhiệm BTTH. Theo đó,
để làm phát sinh trách nhiệm BTTH đòi hỏi phải có 3 căn cứ: có hành vi vi
phạm nghĩa vụ; có thiệt hại; có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm
nghĩa vụ và thiệt hại xảy ra [7,tr.30].
Khác với BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015, LTM năm 2005 đưa ra
cách hiểu về BTTH là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi
vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm. Như vậy, có thể nhận thấy LTM
năm 2005 đã tiếp cận BTTH do vi phạm hợp đồng dưới góc độ là quyền yêu
cầu của bên có quyền lợi bị vi phạm đối với bên vi phạm, theo đó bên vi
phạm phải trả tiền BTTH do vi phạm hợp đồng gây ra.
Trên cơ sở những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm BTTH do vi
phạm HĐGCMM như sau:
BTTH do vi phạm HĐGCMM là biện pháp khắc phục hậu quả của hành
vi vi phạm HĐGCMM, nhằm bảo đảm cho trách nhiệm dân sự theo
HĐGCMM được thực hiện bằng cách bù đắp những tổn thất là hậu quả của
hành vi vi phạm HĐGCMM do bên vi phạm HĐGCMM gây ra cho bên bị vi
16
phạm.
1.2.2. Đặc điểm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng gia công
may mặc
- Các đặc điểm chính của BTTH
Về cơ sở pháp lý: Trách nhiệm BTTH là một loại trách nhiệm dân sự và
chịu sự điều chỉnh của pháp luật dân sự. Khi một người gây ra tổn thất cho
người khác thì họ phải thực hiện BTTH. Ở đây, BTTH chính là một loại quan
hệ về mặt tài sản, do luật dân sự điều chỉnh và được quy định trong BLDS
năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành BLDS.
Về điều kiện phát sinh: Trách nhiệm BTTH chỉ được đặt ra khi thỏa mãn
các điều kiện nhất định, đó là: Có thiệt hại xảy ra, có hành vi vi phạm nghĩa
vụ dân sự (nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng), có mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại với thiệt hại xảy ra, có lỗi của người gây
thiệt hại (không phải là điều kiện bắt buộc).
Về hậu quả: Trách nhiệm BTTH luôn mang đến một hậu quả bất lợi về
tài sản cho người gây thiệt hại. Bởi lẽ, khi một người gây ra tổn thất cho
người khác thì tổn thất đó phải tính toán được bằng tiền hoặc phải được pháp
luật quy định là một lượng vật chất nhất định nếu không sẽ không thể thực
hiện được việc bồi thường. Do đó, những thiệt hại về tinh thần mặc dù không
thể tính toán được nhưng cũng cần được xác định theo quy định của pháp luật
để bù đắp lại tổn thất cho người bị thiệt hại. Chính vì vậy, việc thực hiện trách
nhiệm bồi thường sẽ giúp khôi phục lại thiệt hại cho người bị thiệt hại.
Về chủ thể bị áp dụng trách nhiệm: Ngoài người trực tiếp có hành vi gây
ra thiệt hại thì trách nhiệm BTTH còn được áp dụng cho cả những chủ thể
khác; đó là cha, mẹ của người chưa thành niên, người giám hộ của người chưa
thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, …
Từ những đặc điểm chung của BTTH, có thể đưa ra một số đặc điểm của
17
BTTH do vi phạm HĐGCMM như sau:
Về cơ sở pháp lý: BTTH do vi phạm HĐGCMM chịu sự điều chỉnh của
pháp luật dân sự và được quy định trong các văn bản pháp luật như BLDS
2015, LTM 2005 và các văn bản pháp luật có liên quan đến việc BTTH do vi
phạm HĐGC. Nếu là HĐGC cho các thương nhân nước ngoài thì còn phải
chịu sự điều chỉnh của các văn bản luật của quốc gia khác.
Về điều kiện phát sinh: Có thiệt hại xảy ra; có hành vi vi phạm các nghĩa
vụ, quy định trong HĐGC, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt
hại với thiệt hại xảy ra, có lỗi của người gây thiệt hại.
Về hậu quả: Mang đến những bất lợi về tài sản (nguyên liệu, vật tư, máy
móc, thiết bị, sản phẩm, các khoản phí thanh toán,…) cho người gây ra thiệt
hại. Việc BTTH được thực hiện theo thỏa thuận trong HĐGCMM hoặc theo
quy định của pháp luật trong và ngoài nước.
Về chủ thể: Người trực tiếp gây ra thiệt hại (chủ thể trong nước, chủ thể
ngoài nước, …).
- Căn cứ áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại
+ Có hành vi vi phạm hợp đồng
Hành vi vi phạm hợp đồng là điều kiện cơ bản và là tiền đề làm phát sinh
trách nhiệm BTTH do vi phạm hợp đồng. Theo đó, khi một hợp đồng được
xác lập hợp pháp thì hợp đồng đó sẽ có hiệu lực bắt buộc đối với các bên đã
tự nguyện xác lập hợp đồng, hay nói cách khác là khi hợp đồng được xác lập
hợp pháp, hợp đồng đó sẽ áp đặt nghĩa vụ lên một hoặc các bên. Do vậy, khi
có hành vi không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng hay có hành vi không tôn
trọng cam kết (hành vi vi phạm hợp đồng) của một bên trong quan hệ hợp
đồng thì mọi hệ thống pháp luật đều buộc bên có hành vi vi phạm hợp đồng
phải chịu trách nhiệm dân sự.
Khái niệm vi phạm hợp đồng để chỉ đến mọi hành vi không thực hiện
đúng hợp đồng, cho dù là không thực hiện một phần, không thực hiện toàn
18
bộ, chậm thực hiện hay có khiếm khuyết trong việc thực hiện hợp đồng. Dựa
trên nguyên tắc nền tảng được ghi nhận tại khoản 5 Điều 3, BLDS năm 2015
xem việc bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng những điều mà họ đã cam kết
hợp pháp (bao gồm thỏa thuận giữa các bên, các quy định của pháp luật về
hợp đồng) là hành vi vi phạm quy tắc xử sự trong lĩnh vực hợp đồng do các
bên tự nguyện tạo ra - hành vi vi phạm hợp đồng và do đó buộc bên có hành
vi vi phạm hợp đồng phải chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng nghĩa vụ của mình.
Như vậy, có thể nhận thấy BLDS năm 2015 xem xét hành vi vi phạm
hợp đồng dưới góc độ các hành xử không đúng với nội dung của hợp đồng
như không đúng về đối tượng, không đúng về thời hạn, không đúng về địa
điểm…
Một nội dung của hợp đồng cũng thường bị vi phạm và dẫn đến tranh
chấp là thời hạn thực hiện hợp đồng. Thời hạn thực hiện hợp đồng là khoảng
thời gian có hiệu lực của hợp đồng. Khoảng thời gian này được xác định dựa
trên sự thỏa thuận của các bên tham gia xác lập hợp đồng, hoặc được xác định
theo quy định của pháp luật hoặc được xác định theo quyết định của cơ quan
có thẩm quyền. Trong trường hợp không xác định được thời hạn thực hiện
nghĩa vụ theo sự thỏa thuận của các bên, theo quy định của pháp luật hoặc
theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền thì thời hạn thực hiện nghĩa vụ
của mỗi bên được xác định là bất cứ lúc nào nhưng phải thông báo cho bên
kia biết trước một thời gian hợp lý. Nếu bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ
của mình trong khoảng thời gian đó thì hành vi thực hiện nghĩa vụ hợp đồng
của bên có nghĩa vụ được xem là thực hiện đúng, nếu bên có nghĩa vụ thực
hiện nghĩa vụ của mình ngoài khoảng thời gian đó thì hành vi của bên có
nghĩa vụ bị xem là hành vi vi phạm hợp đồng (bao gồm hành vi thực hiện
nghĩa vụ hợp đồng sớm hơn hoặc muộn hơn thời hạn thực hiện hợp đồng).
Địa điểm thực hiện hợp đồng hay địa điểm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng
19
là nơi nghĩa vụ hợp đồng được thực hiện hay là nơi các quyền hợp pháp của
bên có quyền được đáp ứng. Về nguyên tắc, địa điểm thực hiện nghĩa vụ hợp
đồng được pháp luật hợp đồng Việt Nam xác định dựa trên cơ sở sự thỏa
thuận hợp pháp của các bên trong quan hệ hợp đồng. Trong trường hợp các
bên không có thỏa thuận về địa điểm thực hiện hợp đồng thì địa điểm này sẽ
được xác định tùy thuộc tính chất của đối tượng nghĩa vụ hợp đồng. Theo pháp
luật hiện hành trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện hợp đồng theo
địa điểm đã được xác định theo Điều 277 BLDS năm 2015, Điều 35 LTM năm
2005 thì điều đó có nghĩa là bên có nghĩa vụ đã không thực hiện hợp đồng đúng
địa điểm hay có hành vi vi phạm về địa điểm thực hiện hợp đồng.
Phương thức thực hiện hợp đồng cũng là một nội dung của hợp đồng.
Nội dung này cho phép xác định bên có nghĩa vụ trong quan hệ hợp đồng phải
thực hiện nghĩa vụ của mình theo thể thức nào để đáp ứng quyền và lợi ích
hợp pháp của bên có quyền. Như đã nêu trên, đối tượng của nghĩa vụ hợp
đồng có thể là quyền đối với một vật có giá trị tài sản (chuyển giao quyền)
hoặc cũng có thể là thực hiện một công việc hoặc không được thực hiện một
công việc, do đó, phương thức thực hiện nghĩa vụ hợp đồng phải phù hợp với
đối tượng của nghĩa vụ hợp đồng. Bởi vậy, vi phạm về phương thức thực hiện
hợp đồng là vi phạm về cách thức thực hiện hợp đồng mà các bên đã thỏa
thuận hoặc pháp luật đã quy định hoặc theo quyết định của cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền đã chỉ rõ nhưng bên có nghĩa vụ đã không tuân thủ cách thức
thực hiện hợp đồng này. Với cách hiểu này, có thể nói mọi hành vi thực hiện
hợp đồng không đúng với các thể thức mà các bên đã thỏa thuận hoặc không
đúng quy định của pháp luật hoặc không đúng với quyết định của cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền đều bị xem là hành vi vi phạm về phương thức thực
hiện hợp đồng.
+ Có thiệt hại xảy ra
Khái niệm thiệt hại có thể được hiểu như sau: Thiệt hại là bất kỳ tổn thất
20
nào mà một người phải gánh chịu do các quyền, tài sản và lợi ích hợp pháp
của họ bị xâm phạm hay nói cách khác thiệt hại là bất kỳ sự thay đổi tiêu cực
nào đối với các quyền, tài sản và lợi ích hợp pháp của bên có quyền.
Thứ nhất là dựa trên mối liên hệ gần gũi giữa thiệt hại xảy ra và hành vi
vi phạm hợp đồng, người ta chia thiệt hại thành thiệt hại trực tiếp và thiệt hại
gián tiếp. Thứ hai là dựa trên lợi ích bị xâm phạm và tổn thất xảy ra, người ta
chia thiệt hại thành thiệt hại vật chất và thiệt hại tinh thần. Mặc dù có sự
tương đồng trong việc phân loại thiệt hại nhưng lại có sự khác biệt trong việc
xác định loại thiệt hại được bồi thường.
Thiệt hại trực tiếp là những tổn thất phát sinh một cách tự nhiên theo quy
luật phát triển thông thường khi xuất hiện hành vi vi phạm hợp đồng. Thiệt
hại về tài sản là những tổn thất được nhắc đến đầu tiên trong các tổn thất về
vật chất được bồi thường do vi phạm nghĩa vụ nói chung và vi phạm hợp
đồng nói riêng.
Thiệt hại gián tiếp hay còn được gọi là thiệt hại không phát sinh theo quy
luật phát triển thông thường khi xuất hiện hành vi vi phạm hợp đồng mà phát
sinh từ thiệt hại là hệ quả của hành vi vi phạm hợp đồng. Thu nhập thực tế bị
mất hoặc bị giảm sút là những khoản thu hợp pháp hàng tháng mà bên có
quyền (bên bị thiệt hại) đã, đang nhận được và sẽ nhận được nếu như không
có hành vi không thực đúng hợp đồng.
Thiệt hại vật chất được hiểu là những tổn thất của bên có quyền, thể hiện
thông qua việc khối tài sản bị giảm sút, vật bị hư hỏng, quyền đối với một giá
trị tiền tệ bị mất, lợi nhuận và cơ hội có lợi nhuận bị mất, những chi phí đã bỏ
ra để hạn chế thiệt hại của chính mình. Thiệt hại tinh thần có thể đi cùng với
thiệt hại vật chất hoặc có thể là thiệt hại tinh thần thuần túy.
+ Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại
xảy ra
Mặc dù hành vi không thực hiện đúng hợp đồng và thiệt hại xảy ra là hai
21
điều kiện quan trọng làm phát sinh trách nhiệm BTTH nhưng nếu chỉ có hai
điều kiện này thôi thì chưa đủ mà pháp luật còn đòi hỏi một điều kiện cần và
đủ nữa, đó là phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi không thực hiện
đúng hợp đồng và thiệt hại xảy ra. Điều đó có nghĩa là mặc dù có hành vi
không thực hiện đúng hợp đồng và có thiệt hại xảy ra nhưng nếu giữa hai yếu
tố này không có bất cứ mối liên hệ nào thì trách nhiệm BTTH cũng sẽ không
được xác lập.
Pháp luật hợp đồng Việt Nam không áp đặt trách nhiệm BTTH lên bên
có hành vi không thực hiện đúng hợp đồng nếu bên vi phạm hợp đồng nêu ra
sự kiện bất khả kháng khiến cho bên này không thể thực hiện đúng nghĩa vụ
hợp đồng. Dưới góc độ quan hệ nhân quả, đây là trường hợp mà sự kiện bất
khả kháng được xem là sự kiện phá vỡ mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
không thực hiện đúng hợp đồng và thiệt hại xảy ra. Có thể nhận thấy khi đòi
hỏi để thiệt hại được bồi thường phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi
phạm hợp đồng và thiệt hại xảy ra và đã có sự nhìn nhận thiệt hại có thể được
bồi thường trong trường hợp thiệt hại đó không phát sinh trực tiếp từ hành vi
vi phạm hợp đồng mà có thể phát sinh từ hệ quả tiếp sau của hành vi không
thực hiện đúng hợp đồng.
+ Có lỗi của bên gây thiệt hại
Nhìn chung, bên có nghĩa vụ không thực hiện cam kết và do đó gây thiệt
hại cho bên có quyền thì bên có nghĩa vụ sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường
cho những thiệt hại mà họ đã gây ra cho bên có quyền (trách nhiệm nghiêm
ngặt). Tuy nhiên, trách nhiệm BTTH còn có thể là trách nhiệm dựa trên lỗi,
nghĩa là trách nhiệm BTTH chỉ phát sinh nếu bên có nghĩa vụ thực hiện hợp
đồng không cẩn trọng, cần mẫn, hay nói cách khác là bên có nghĩa vụ có lỗi
trong việc thực hiện hợp đồng.
Việc BLDS năm 2015 và LTM năm 2005 không quy định lỗi là căn cứ
làm phát sinh trách nhiệm BTTH cho thấy pháp luật hợp đồng Việt Nam đã
22
xác định các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm BTTH. Bên cạnh đó, sự thay
đổi này của LTM năm 2005 và BLDS năm 2015 cho phép xác định trách
nhiệm BTTH của bên vi phạm hợp đồng khi có hành vi thực hiện nghĩa vụ
hợp đồng không đúng mà không đòi hỏi phải tìm hiểu trạng thái tâm lý của
bên gây thiệt hại hay tìm kiếm nguyên nhân dẫn đến việc không thực hiện
đúng hợp đồng.
- Nguyên tắc BTTH do vi phạm HĐGCMM
Dựa trên nguyên tắc đã ký kết, bên có quyền có quyền yêu cầu bên có
nghĩa vụ phải thực hiện đúng cam kết trong HĐGCMM. Trong trường hợp
bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng HĐGC gây thiệt hại cho bên có quyền
thì bên có quyền có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ BTTH cho những tổn thất
mà bên này phải gánh chịu.
Nghiên cứu chế định BTTH do vi phạm HĐGCMM có thể thấy, những
tổn thất mà bên bị vi phạm phải gánh chịu có thể được đền bù dựa trên hai
nguyên tắc: nguyên tắc bồi thường theo thỏa thuận của các bên khi ký kết hợp
đồng (bồi thường theo thoả thuận) hoặc nguyên tắc bồi thường toàn bộ được
xây dựng trên cơ sở tính thiệt hại và thời điểm tính thiệt hại chứ không dựa
trên thỏa thuận của các bên khi ký kết hợp đồng (bồi thường không dựa trên
thoả thuận).
Bồi thường theo thoả thuận và bồi thường toàn bộ là những nguyên tắc
trung tâm và là kim chỉ nam cho việc áp dụng biện pháp BTTH. Trong đó bồi
thường theo thoả thuận là nguyên tắc luôn được xem là có vị trí số một phản
ánh nguyên tắc tự do ý chí.
Việc áp dụng nguyên tắc bồi thường toàn bộ chỉ được đặt ra khi hành vi
vi phạm HĐGCMM của một bên là nguyên nhân dẫn đến thiệt hại của bên kia
mà trước đó các bên không có thỏa thuận về mức BTTH khi ký kết
HĐGCMM. Nguyên tắc bồi thường toàn bộ được xây dựng dựa trên bản chất
của BTTH là buộc bên vi phạm HĐGC phải trả một khoản tiền nhất định cho
23
bên bị thiệt hại nhằm đưa bên bị thiệt hại vào vị trí mà bên này đáng lẽ đạt
được nếu hợp đồng được thực hiện đúng. Như vậy, BTTH có ý nghĩa thay thế
nghĩa vụ phải thực hiện đúng hợp đồng bằng nghĩa vụ phải trả một khoản tiền
tương ứng với thiệt hại mà bên bị thiệt hại phải gánh chịu trong trường hợp
bên có nghĩa vụ đã không thực hiện đúng nghĩa vụ mà đáng lẽ bên này phải
thực hiện - bồi thường toàn bộ thiệt hại.
Nói cách khác, nguyên tắc bồi thường toàn bộ là nguyên tắc đặt bên có
quyền (bên bị thiệt hại) vào vị trí tương tự như vị trí khi bên có nghĩa vụ (bên
vi phạm) tuân thủ đúng các điều khoản của HĐGCMM mà các bên đã tự
nguyện xác lập.
- Thời điểm phát sinh trách nhiệm BTTH do vi phạm HĐGCMM
Thời điểm phát sinh trách nhiệm BTTH là vấn đề quan trọng của BTTH
do vi phạm HĐGCMM bởi đây được xác định là thời điểm ràng buộc trách
nhiệm phải bồi thường của bên vi phạm hợp đồng đối với bên bị vi phạm hợp
đồng khi thiệt hại là hệ quả của hành vi vi phạm HĐGCMM xảy ra. Sự khác
biệt giữa “trách nhiệm dân sự” và “biện pháp khắc phục hậu quả của hành vi
vi phạm hợp đồng” là trong khi “trách nhiệm dân sự” chỉ đến tình trạng pháp
lý bắt buộc mà bên có hành vi vi phạm nghĩa vụ phải gánh chịu thì “biện pháp
khắc phục hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng” lại chỉ đến biện pháp pháp
lý được đưa ra nhằm đảm bảo thực thi trách nhiệm dân sự của bên có hành vi
vi phạm nghĩa vụ, qua đó bảo đảm cho các quyền và lợi ích hợp pháp của bên
có quyền được thực hiện.
Việc cho phép các bên đã xác lập hợp đồng hợp pháp có thể thỏa thuận
lựa chọn một hoặc một số biện pháp khắc phục hậu quả của hành vi vi phạm
HĐGC phù hợp với quy định của pháp luật nhằm bảo đảm cho trách nhiệm
dân sự được thực hiện dẫn đến hệ quả là việc xác định thời điểm phát sinh
việc áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả của hành vi vi phạm HĐGC sẽ
khác nhau. Chẳng hạn việc áp dụng biện pháp buộc tiếp tục thực hiện HĐGC
24
sẽ phát sinh ngay từ thời điểm có hành vi vi phạm HĐGC hoặc việc áp dụng
biện pháp hủy bỏ hợp đồng nói chung sẽ phát sinh từ thời điểm hành vi vi
phạm HĐGC được xác định là hành vi vi phạm cơ bản hoặc hành vi vi phạm
nghĩa vụ hợp đồng của bên có nghĩa vụ khiến bên bị vi phạm HĐGC không
đạt được mục đích đặt ra khi giao kết HĐGC hoặc vi phạm hợp đồng trong
các trường hợp luật định. Khi nói đến thời điểm phát sinh trách nhiệm dân sự
của bên vi phạm HĐGC gây ra thiệt hại cho bên bị vi phạm thì có thể nói
trách nhiệm này sẽ phát sinh từ thời điểm bên có nghĩa vụ có hành vi vi phạm
hợp đồng.
- Xác định mức bồi thường thiệt hại
Xuất phát từ nguyên tắc tự do ý chí, mọi hệ thống pháp luật đều thừa
nhận việc khi ký kết hợp đồng các bên đưa vào hợp đồng một điều khoản cho
phép xác định trước khoản tiền mà bên có nghĩa vụ phải trả cho bên có quyền
trong trường hợp bên có nghĩa vụ vi phạm hợp đồng. Việc đưa vào hợp đồng
điều khoản cho phép bên có quyền nhận được một khoản tiền được xác định
trước trong trường hợp bên có nghĩa vụ vi phạm hợp đồng đặt ra một số vấn
đề quan trọng như hiệu lực của điều khoản này trong trường hợp thiệt hại mà
bên bị vi phạm phải chịu lớn hơn hoặc nhỏ hơn khoản tiền các bên đã thỏa
thuận trước, hiệu lực của điều khoản này trong trường hợp không có thiệt hại
xảy ra trên thực tế và hiệu lực của điều khoản này liên quan đến việc chứng
minh thiệt hại. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận trước về mức
BTTH, mức thiệt hại được bồi thường trước hết được xác định dựa trên
nguyên tắc bồi thường toàn bộ.
- Miễn trách nhiệm BTTH do vi phạm HĐGCMM
Các căn cứ miễn trách nhiệm BTTH do vi phạm HĐGCMM được chia
làm hai nhóm: miễn trách nhiệm BTTH do vi phạm HĐGC theo thỏa thuận;
miễn trách nhiệm BTTH do vi phạm HĐGC không dựa trên thỏa thuận (do lỗi
của bên bị thiệt hại, do xuất hiện sự kiện pháp lý nằm ngoài dự kiến của các
25
bên vào thời điểm xác lập hợp đồng):
+Miễn trách nhiệm BTTH theo thỏa thuận của các bên
Việc thừa nhận miễn trách nhiệm BTTH theo thỏa thuận là xuất phát từ
nguyên tắc tôn trọng tự do ý chí, tự nguyện cam kết, thỏa thuận của các bên. Vai
trò bảo vệ công lý của miễn trách nhiệm BTTH trong trường hợp xuất hiện tình
huống bất thường dẫn đến HĐGCMM không thể thực hiện được hoặc trở nên vô
nghĩa hoặc phá hủy nghiêm trọng sự cân bằng về kinh tế giữa các bên thể hiện ở
chỗ không buộc bên không thực hiện đúng hợp đồng phải BTTH.
Hệ quả của miễn trách nhiệm BTTH là bên có hành vi không thực hiện
đúng HĐGCMM không phải BTTH hoặc chỉ phải bồi thường một phần thiệt
hại xảy ra, nói cách khác hệ quả của việc miễn trách nhiệm BTTH là bên bị vi
phạm không được nhận khoản bồi thường tương ứng với thiệt hại mà họ phải
gánh chịu, cho dù có thể chứng minh có thiệt hại xảy ra.
Xuất phát từ nguyên tắc tự do ý chí, các hệ thống pháp luật đều cho phép
các bên thỏa thuận về điều khoản miễn trách nhiệm BTTH. Điều đó có nghĩa là
khi thỏa thuận về miễn trách nhiệm BTTH được đưa vào HĐGCMM thì thỏa
thuận đó sẽ có hiệu lực đối với các bên. Về nguyên tắc, thỏa thuận miễn trách
nhiệm BTTH được thực hiện vào thời điểm xác lập HĐGCMM nhưng các bên
cũng có thể đạt được thỏa thuận về miễn trách nhiệm BTTH sau thời điểm đó.
Theo thỏa thuận miễn trách nhiệm BTTH được ngầm hiểu “trừ trường
hợp có thỏa thuận khác” và được thể hiện rõ hơn tại năm 2015. Thỏa thuận
miễn trách nhiệm BTTH cũng được ghi nhận tại LTM năm 2005. Điều này
cho thấy pháp luật hợp đồng Việt Nam rất coi trọng nguyên tắc tự do ý chí.
Tuy nhiên, quy định về thỏa thuận miễn trách nhiệm BTTH trong pháp luật
hợp đồng Việt Nam còn thiếu chặt chẽ - những quy định được áp dụng chung
cho trách nhiệm BTTH chưa đặt ra giới hạn đối với thỏa thuận miễn trách
nhiệm BTTH của các bên. Tuy đã đặt ra giới hạn đối với thỏa thuận miễn trách
nhiệm BTTH của các bên trong hợp đồng theo mẫu và điều kiện giao dịch
26
chung bằng quy định: “Trường hợp hợp đồng theo mẫu có điều khoản miễn
trách nhiệm của bên đưa ra hợp đồng theo mẫu, tăng trách nhiệm hoặc loại bỏ
quyền lợi chính đáng của bên kia thì điều khoản này không có hiệu lực” và
“Trường hợp điều kiện giao dịch chung có quy định về miễn trách nhiệm của
bên đưa ra điều kiện giao dịch chung, tăng trách nhiệm hoặc loại bỏ quyền lợi
chính đáng của bên kia thì quy định này không có hiệu lực” nhưng ngay sau
đó lại đưa ra quy định: “trừ trường hợp có thỏa thuận khác”[7,tr.53].
Những quy định nêu trên của BLDS năm 2015 và LTM năm 2005 có thể
dẫn đến sự bất công cho bên bị thiệt hại trong trường hợp bên có nghĩa vụ lợi
dụng điều khoản miễn trách nhiệm mà bên có quyền đã cam kết khi ở vị trí
bất lợi để cố ý vi phạm HĐGCMM. Kinh nghiệm cho thấy, các hệ thống pháp
luật đều đặt ra giới hạn đối với miễn trách nhiệm dựa trên thỏa thuận, theo đó
bên vi phạm HĐGC sẽ không được miễn trách nhiệm nếu cố ý vi phạm hoặc
vô ý nghiêm trọng trong việc không thực hiện đúng HĐGC hoặc nếu áp dụng
điều khoản miễn trách nhiệm BTTH do các bên thỏa thuận sẽ gây nên sự bất
bình đẳng… Như vậy, sẽ là hoàn thiện hơn nếu pháp luật Việt Nam một mặt
thừa nhận quyền thỏa thuận về miễn trách nhiệm của các bên trong hợp đồng,
mặt khác đặt ra giới hạn đối với trường hợp này.
+Miễn trách nhiệm BTTH không dựa trên sự thỏa thuận của các bên
Bên cạnh căn cứ miễn trách nhiệm BTTH là sự thỏa thuận của các bên,
trách nhiệm BTTH còn có thể được miễn dựa trên các căn cứ không phải là sự
thỏa thuận của các bên gồm: trở ngại khách quan, lỗi của bên bị vi phạm hoặc
do lỗi của người thứ ba.
Là một phần của pháp luật hợp đồng Việt Nam, trong BTTH do vi phạm
HĐGC bên cạnh việc ghi nhận căn cứ miễn trách nhiệm BTTH dựa trên thỏa
thuận của các bên cũng ghi nhận các căn cứ miễn trách nhiệm BTTH không
dựa trên thỏa thuận. Trong đó, miễn trách nhiệm do sự kiện bất khả kháng;
miễn trách nhiệm do việc không thực hiện đúng hợp đồng do lỗi của bên vi
27
phạm là những căn cứ được cả BLDS năm 2015 và LTM năm 2005 ghi nhận.
LTM năm 2005 ngoài việc ghi nhận các căn cứ này còn ghi nhận căn cứ miễn
trách nhiệm khi hành vi vi phạm hợp đồng của một bên là hệ quả của việc
thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền.
Căn cứ miễn trách nhiệm BTTH do vi phạm hợp đồng do những trở ngại
khách quan
Tiêu chí đánh giá một trở ngại có phải là sự kiện bất khả kháng hay
không là xem xét những trở ngại dẫn đến việc không thực hiện đúng
HĐGCMM có vượt quá khả năng kiểm soát của bên không thực hiện đúng
hợp đồng hay không, bên không thực hiện đúng hợp đồng có thể dự liệu được
sự xuất hiện của trở ngại này vào thời điểm xác lập HĐGC hay không và bên
này có thể tránh được hoặc khắc phục được trở ngại cũng như hậu quả do trở
ngại đó gây ra hay không. Nếu bên không thực hiện đúng HĐGC có khả năng
kiểm soát trở ngại hoặc dự liệu được trở ngại vào thời điểm xác lập HĐGC
hoặc có khả năng tránh được/ khắc phục được trở ngại cũng như hậu quả do
trở ngại gây ra thì trở ngại đó không được xem là sự kiện bất khả kháng. Có
nghĩa là nếu bên vi phạm HĐGC trước đó cam kết sẽ thực hiện đúng hợp
đồng ngay cả khi có trở ngại hoặc dự liệu được trở ngại đó có thể xảy ra thì
bên này sẽ vẫn phải chịu trách nhiệm BTTH kể cả khi đã nỗ lực hết mức để
đạt được kết quả đã cam kết. Sự kiện bất khả kháng có thể là những trở ngại
thuộc hiện tượng thiên nhiên như lũ lụt, hỏa hoạn, động đất, sóng thần, bệnh
dịch… hoặc cũng có thể là những biến động trong xã hội như chiến tranh, đảo
chính, đình công, cấm vận,…
Căn cứ miễn trách nhiệm BTTH do vi phạm hợp đồng do lỗi của bên bị
thiệt hại hoặc lỗi của người thứ ba
Trong hệ thống pháp luật hợp đồng Việt Nam, miễn trách nhiệm BTTH
do vi phạm hợp đồng do lỗi của bên bị thiệt hại được quy định tại năm 2015,
LTM năm 2005. Theo đó, có thể hiểu nếu bên vi phạm HĐGCMM gây thiệt
hại cho bên bị vi phạm nhưng hành vi vi phạm này là hệ quả của việc bên bị
28
vi phạm có lỗi thì bên vi phạm HĐGC sẽ được miễn trách nhiệm BTTH đối
với vi phạm đó. Như vậy, căn cứ để miễn trách nhiệm trong trường hợp này là
do lỗi của bên bị vi phạm. Lỗi này có thể được thể hiện dưới dạng hành động
hoặc không hành động của bên bị vi phạm.
Sẽ là đầy đủ hơn nếu BLDS năm 2015 và LTM năm 2005 ngoài việc ghi
nhận lỗi là căn cứ miễn trách nhiệm BTTH do vi phạm hợp đồng còn bổ sung
thêm căn cứ miễn trách nhiệm BTTH do lỗi của người thứ ba.
- Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại do vi phạm HĐGCMM
Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại được xây dựng dựa trên ý tưởng loại bỏ việc bên
có quyền thụ động chờ đợi được BTTH đối với những thiệt hại mà bên này đáng
lẽ có thể tránh được hoặc có thể hạn chế được. Nói cách khác, là ngay cả khi bên
có quyền không có lỗi trong việc để thiệt hại xảy ra thì bên có quyền cũng không
được bồi thường cho những thiệt hại mà đáng lẽ bên này tránh được nếu áp dụng
các biện pháp ngăn chặn, giảm thiểu thiệt hại thích hợp.
Các biện pháp hạn chế thiệt hại được đánh giá dựa trên nguyên tắc thiện
chí khi xem xét việc áp dụng biện pháp đó dựa trên bản chất, mục đích của
hợp đồng, hoàn cảnh, tập quán, nghề nghiệp... Điều đó có nghĩa là bên có
quyền phải cố gắng thực hiện tất cả những gì để có thể giảm thiểu thiệt hại
hoặc ít nhất là ngăn chặn sự gia tăng của thiệt hại nhưng điều này không có
nghĩa là buộc bên có quyền phải ngay lập tức áp dụng biện pháp hạn chế thiệt
hại khi có hành vi không thực hiện đúng HĐGC hay phải áp dụng những biện
pháp tốn kém, đòi hỏi mất nhiều thời gian để giảm thiểu thiệt hại. Đây chính
là lý do mà nguyên tắc hạn chế thiệt hại được xem là nguyên tắc mang lại sự
công bằng giữa các bên.
Bên có quyền không thực hiện nghĩa vụ giảm thiểu thiệt hại sẽ dẫn đến
việc bên vi phạm HĐGC không phải BTTH hay nói cách khác là bên có
quyền (bên bị thiệt hại) không thể yêu cầu BTTH đối với toàn bộ thiệt hại mà
bên này phải gánh chịu. Do đó, nếu bên có quyền không thực hiện nghĩa vụ
29
hạn chế thiệt hại thì bên vi phạm HĐGC sẽ có quyền yêu cầu giảm bớt mức
BTTH tương ứng với những thiệt hại mà bên có quyền lẽ ra có thể hạn chế
được nếu áp dụng các biện pháp hạn chế thiệt hại hợp lý.
Trong BLDS năm 2015 được thông qua, nghĩa vụ hạn chế thiệt hại chỉ
được ghi nhận rải rác trong một vài quy phạm tại BLDS năm 2005 và LTM
năm 2005. Điều này cho thấy nhà làm luật Việt Nam ở thời điểm đó dường
như chỉ ghi nhận nghĩa vụ hạn chế thiệt hại của bên có quyền đối với ba loại
hợp đồng là hợp đồng mua bán, hợp đồng bảo hiểm và hợp đồng thương mại.
Nhận thức được nghĩa vụ hạn chế thiệt hại không chỉ là nghĩa vụ của bên có
quyền trong ba loại hợp đồng nói trên mà thực chất đây là nghĩa vụ có phạm
vi áp dụng chung cho mọi loại hợp đồng cho dù nghĩa vụ hợp đồng là nghĩa
vụ chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện
công việc hoặc không được thực hiện công việc nhất định theo quy định tại
BLDS năm 2015. BLDS năm 2015 đã chính thức ghi nhận nghĩa vụ hạn chế
thiệt hại với tính cách là nguyên tắc chung áp dụng cho mọi nghĩa vụ nói chung
và hợp đồng nói riêng. Với tiêu đề “Nghĩa vụ ngăn chặn, hạn chế thiệt hại”,
BLDS năm 2015 đã chỉ rõ rằng bên có quyền phải áp dụng các biện pháp cần
thiết, hợp lý để thiệt hại không xảy ra hoặc hạn chế thiệt hại cho mình. Điều này
cho thấy pháp luật hợp đồng Việt Nam đã rất tiến bộ khi không chỉ đưa ra
nguyên tắc về nghĩa vụ hạn chế thiệt hại mà còn xác định phạm vi áp dụng
nguyên tắc này.
HĐGCMM chịu sự chi phối của LTM, cũng là một sản phẩm của hợp
đồng có yếu tố thương mại quốc tế khi đối tác thuê gia công là một doanh
nghiệp hay cá nhân có yếu tố nước ngoài. Năm 2015, Việt Nam đã tham gia
Công ước Viên về “Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của Liên hợp quốc”
(CISG). CISG áp dụng cho các bên tham gia hoạt động thương mại là người
có địa điểm tại các nước thuộc thành viên của công ước. Có một số điểm khác
nhau giữa luật Việt Nam và Công ước Viên 1980 về hợp đồng thương mại
30
như sau:
- Về yêu cầu phải thực hiện đúng hợp đồng, theo CISG và luật Việt
Nam thì có thể lựa chọn một trong hai cách thức: sửa chữa hoặc thay thế hàng
hóa. Tuy vậy, vấn đề cần nêu ra là sửa chữa hay thay thế như thế nào. LTM
2005 không nhắc gì đến về vấn đề này. Ngược lại, CISG lại nêu rõ, được áp
dụng cách thức thay thế khi hành vi cấu thành vi phạm cơ bản, còn trong các
trường hợp khác được áp dụng biện pháp sửa chữa.
- Về bồi thường thiệt hại, luật Việt Nam và CISG đều đưa ra các thiệt
hại được bồi thường là những tổn thất, khoản lợi đáng lẽ được hưởng mà một
bên phải chịu do kết quả của vi phạm hợp đồng. Trong khi CISG đề cập đến
tính có thể dự đoán trước của thiệt hại thì luật Việt Nam lại đề cập đến tính
trực tiếp và thực tế (LTM 2005).
- Về miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại, CISG và pháp luật Việt
Nam có đã đề cập đến các trường hợp bất khả kháng và trường hợp lỗi của
bên bị vi phạm. Bên cạnh đó, CISG còn đưa ra cụ thể về việc miễn trách do
lỗi của bên thứ ba còn luật Việt Nam chưa có quy định cụ thể về vấn đề này.
- Thêm vào đó, CISG còn đưa ra chế tài khi hợp đồng giao hàng từng
phần; hủy bỏ, không thực hiện hợp đồng; cách tính tiền bồi thường thiệt hại
một cách cụ thể khi hợp đồng bị hủy bỏ; bảo quản hàng hóa đang tranh chấp.
Như vậy có thể thấy, CISG có các quy định đầy đủ và cụ thể hơn so với
luật Việt Nam qua một số nhận định nêu trên.
1.2.3. Đặc trưng bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng gia công
may mặc
BTTH do vi phạm HĐGCMM cũng có những đặc điểm của BTTH do vi
phạm HĐGC nói chung như những phân tích ở trên:
Về cơ sở pháp lý: Trách nhiệm BTTH do vi phạm HĐGCMM là một loại
trách nhiệm Dân sự và chịu sự điều chỉnh của pháp luật Dân sự. Khi một
31
bên gây ra tổn thất cho bên khác thì họ phải BTTH và BTTH chính là một
quan hệ tài sản do Luật Dân sự điều chỉnh và được quy định trong BLDS ở
Điều 307 và Chương XXI và các văn bản hướng dẫn thi hành BLDS.
Về điều kiện phát sinh: Trách nhiệm BTTH do vi phạm HĐGCMM chỉ đặt
ra khi thoả mãn các điều kiện nhất định đó là: Có thiệt hại xảy ra, có hành
vi vi phạm nghĩa vụ dân sự (nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc ngoài hợp
đồng), có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại với thiệt hại xảy
ra, có lỗi của người gây thiệt hại (không phải là điều kiện bắt buộc). Đây là
những điều kiện chung nhất để xác định trách nhiệm của một người phải
bồi thường những thiệt hại do mình gây ra. Tuy nhiên, trong một số trường
hợp đặc biệt trách nhiệm BTTH có thể phát sinh khi không có đủ các điều
kiện trên điển hình là các trường hợp BTTH do tài sản gây ra.
Về hậu quả: Trách nhiệm BTTH do vi phạm HĐGCMM luôn mang đến
một hậu quả bất lợi về tài sản cho người gây thiệt hại. Bởi lẽ, khi một bên
gây ra tổn thất cho bên khác thì tổn thất đó phải tính toán được bằng tiền
hoặc phải được pháp luật quy định là một đại lượng vật chất nhất định nếu
không sẽ không thể thực hiện được việc bồi thường. Do đó, những thiệt
hại về tinh thần mặc dù không thể tính toán được nhưng cũng sẽ được xác
định theo quy định của pháp luật để bù đắp lại tổn thất cho người bị thiệt
hại. Và cũng chính vì vậy, thực hiện trách nhiệm bồi thường sẽ giúp khôi
32
phục lại thiệt hại cho người bị thiệt hại.
Tiểu kết chương 1
Chương 1 tập trung tìm hiểu và trình bày các vấn đề lý luận cơ bản nhất
về HĐGCMM, BTTH do vi phạm HĐGCMM. Trên cơ sở những vấn đề lý
luận về trách nhiệm BTTH do vi phạm HĐGCMM, luận văn đi vào phân tích
sâu sắc hơn bản chất của việc BTTH do vi phạm HĐGCMM; các đặc điểm
trong BTTH do vi phạm HĐGCMM; nguyên tắc BTTH; thời điểm phát sinh
trách nhiệm BTTH do vi phạm hợp đồng; hệ thống các căn cứ miễn, giảm
trách nhiệm BTTH do vi phạm hợp đồng; đồng thời trình bày nghĩa vụ hạn
chế thiệt hại của bên bị thiệt hại khi hợp đồng có dấu hiệu bị vi phạm. Trong
chương 1, luận văn cũng đưa ra những đánh giá, nhận xét về các yếu tố tác
động đến BTTH do vi phạm HĐGCMM ở Việt Nam hiện nay.
Trên cơ sở phân tích thời điểm phát sinh trách nhiệm BTTH do vi phạm
hợp đồng, luận văn đã chỉ ra các nguyên tắc chính của BTTH do vi phạm
HĐGC: nguyên tắc bồi thường theo thỏa thuận và nguyên tắc bồi thường toàn
bộ (trong trường hợp không có thỏa thuận). Luận văn cũng trình bày các
trường hợp ngoại lệ của việc áp dụng nguyên tắc bồi thường toàn bộ thông
qua việc phân tích hệ thống các căn cứ miễn, giảm trách nhiệm BTTH do vi
phạm hợp đồng và việc phân tích nghĩa vụ hạn chế thiệt hại của bên bị thiệt
hại. Luận văn cũng đã trình bày và làm rõ hơn các đặc trưng cơ bản của
BTTH do vi phạm HĐGCMM.
Các nội dung trên đây chính là những lý luận cơ sở được sử dụng để
nghiên cứu thực trạng, thực tế của việc BTTH do vi phạm HĐGCMM trong
chương 2 cũng như làm nền tảng cho quá trình nghiên cứu các giải pháp hoàn
33
thiện, hiệu quả cao hơn trong BTTH do vi phạm HĐGCMM tại chương 3.
Chương 2.
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI
PHẠM HỢP ĐỒNG GIA CÔNG MAY MẶC VÀ THỰC TIỄN ÁP
DỤNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng gia công may mặc ở Việt Nam hiện nay
2.1.1. Căn cứ áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại
Theo Điều 303 của LTM 2005, việc áp dụng BTTH do vi phạm hợp
đồng thương mại phát sinh khi chỉ cần có đủ các yếu tố sau:
- Có hành vi vi phạm hợp đồng
Nội dung quan trọng hàng đầu của hợp đồng là đối tượng của hợp đồng
bởi nếu thiếu đi nội dung này thì hợp đồng không thể được xác lập. Đối tượng
của hợp đồng hay nói cách khác là đối tượng của nghĩa vụ phát sinh từ hợp
đồng có thể là tài sản, công việc phải thực hiện hoặc công việc không được
thực hiện. Trong trường hợp đối tượng của hợp đồng là tài sản hay nói chính
xác hơn là quyền đối với một vật có giá trị tài sản, đối tượng của hợp đồng
được xác định là một quyền được chuyển giao. Ngoài tài sản, đối tượng của
hợp đồng còn có thể là những công việc phải thực hiện hoặc không được thực
hiện. Theo Điều 281 BLDS năm 2015, đối tượng của hợp đồng là công việc
mà bên có nghĩa vụ phải làm trong thời hạn hợp đồng, hay nói cách khác là
trong trường hợp đối tượng của hợp đồng là công việc phải thực hiện, nó đòi
hỏi bên có nghĩa vụ phải thực hiện những hành vi mang tính tích cực, chủ
động để đáp ứng các quyền và lợi ích hợp pháp của bên có quyền.
Việc liệt kê các trường hợp các bên trong quan hệ hợp đồng có những
hành xử không đúng cam kết hay vi phạm HĐGCMM gồm: chậm thực hiện
nghĩa vụ trong hợp đồng; không thực hiện nghĩa vụ giao hàng; không thực
34
hiện một công việc hoặc thực hiện một công việc không được phép thực hiện;
chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền; chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ;
chậm thực hiện giao hàng; giao hàng hóa, sản phẩm, nguyên liệu không đúng
số lượng, không đồng bộ, không đúng chủng loại, mẫu mã như trong tài liệu
kỹ thuật; không cung cấp tài liệu kỹ thuật, bản vẽ và sách hướng dẫn sản xuất;
không bảo đảm chất lượng sản phẩm; không tiếp nhận sản phẩm, thành phẩm
sau khi sản xuất; vi phạm về thương hiệu trong sản xuất may mặc; …
Vi phạm điều khoản đối tượng của HĐGCMM gồm các hành vi: không
giao đúng quy cách sản phẩm hoặc giao sản phẩm hoàn thành không đúng
mẫu mã, thiết kế như trong tài liệu kỹ thuật, không giao đúng số lượng sản
phẩm và chất lượng như đã thỏa thuận hoặc không giao đồng bộ sản phẩm
trong trường hợp đối tượng của hợp đồng là các bộ, các mẫu có thiết kế liên
quan với nhau.
Vi phạm điều khoản về nguyên liệu chính và phụ của HĐGC may gồm các
hành vi: không giao nguyên liệu, phụ liệu, vật tư; giao nguyên phụ liệu không
đúng chất lượng, số lượng, quy cách để sản xuất đúng sản phẩm mẫu; giao
nguyên phụ liệu không đúng thời gian, địa điểm làm ảnh hưởng đến kế hoạch
sản xuất và thời hạn giao hàng của bên nhận gia công; nguyên phụ liệu tự cung
ứng không đạt yêu cầu về chất lượng của bên đặt gia công.
Vi phạm điều khoản về quyền và nghĩa vụ của các bên gồm các hành vi:
Đối với bên đặt gia công: không giao nguyên phụ liệu đúng chất lượng, số
lượng, quy cách thời gian và địa điểm; để sản xuất đúng sản phẩm mẫu; giao
nguyên phụ liệu không đúng thời gian, địa điểm làm ảnh hưởng đến kế hoạch
sản xuất và thời hạn giao hàng của bên nhận gia công; tính không hợp pháp
về quyền sở hữu trí tuệ của hàng hóa gia công nguyên liệu, vật tư, máy móc,
thiết bị dùng để gia công sản phẩm; trả tiền phí gia công không đúng trong
thỏa thuận. Đối với bên nhận gia công: sử dụng không đúng mục đích hoặc
làm mất mát nguyên phụ liệu do bên giao gia công chuyển; cung ứng nguyên
35
phụ liệu sai chủng loại, quy cách; giao sản phẩm không đúng số lượng, không
đảm bảo chất lượng, mẫu mã, quy cách; không giữ bí mật về các thông tin
quy trình sản xuất sản phẩm, mẫu mã thiết kế; không hoàn trả hoặc sử dụng
không đúng với thỏa thuận đối với nguyên phụ liệu còn lại sau khi kết thúc
hợp đồng.
Vi phạm điều khoản về thời gian sản xuất, thời điểm và địa điểm giao
sản phẩm: Thông thường các HĐGCMM được ký kết trong thời gian dài. Các
đợt sản xuất và giao hàng kéo dài trong năm hoặc trong nhiều năm. Thực hiện
giao hàng không đúng thời gian từng đợt dẫn tới hàng hóa không kịp có mặt
trên thị trường theo đúng dịp hoặc đúng mùa. Thực hiện giao hàng không
đúng địa điểm dẫn tới các phát sinh chi phí kho bãi, chi phí vận chuyển cho
bên giao gia công.
Vi phạm điều khoản về thanh toán phí gia công: Bên giao gia công phải
có nghĩa vụ thanh toán đầy đủ phí gia công cho bên nhận gia công theo đúng
điều khoản trên hợp đồng. Việc thanh toán khoản tiền này có thể được thực
hiện một lần hoặc nhiều lần theo thỏa thuận của các bên. Bên cạnh đó, việc
thực hiện nghĩa vụ hợp đồng cũng có thể được thực hiện theo định kỳ (theo
năm, quý, tháng...) theo thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp
luật hoặc theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
- Có thiệt hại xảy ra
* Cách phân loại thứ nhất: Thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp
Thiệt hại trực tiếp được hiểu là những tổn thất thể hiện thông qua việc
sản phẩm hoàn thành, nguyên liệu, vật tư, máy móc, thiết bị gia công bị giảm
sút, hư hỏng, mất đi sự nguyên vẹn hoặc đối với một giá trị tiền tệ bị mất, lợi
nhuận và cơ hội có lợi nhuận bị mất, những chi phí đã bỏ ra để hạn chế thiệt
hại của chính mình. Theo Điều 589 BLDS năm 2015, tổn thất về tài sản là hệ
quả của hành vi không thực hiện đúng hợp đồng của bên có nghĩa vụ có thể
được xác định trên cơ sở: tài sản bị mất, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng; lợi ích
36
gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản bị mất, bị giảm sút; chi phí hợp lý
để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại; và những tổn thất khác do luật
quy định. Có thể nhận thấy, hoạt động gia công trong lĩnh vực dệt may, may
mặc thì thiệt hại do sản phẩm hoàn thành, nguyên liệu, vật tư, máy móc thiết
bị bị mất, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng hoặc sản phẩm kém chất lượng, không
đúng quy cách, mẫu mã không thể tiêu thụ trên thị trường hoặc việc thanh
toán phí gia công không đủ, không đúng thời hạn là những thiệt hại trực tiếp
và lợi ích gắn liền với việc sử dụng, kinh doanh bị mất, bị giảm sút.
Thiệt hại gián tiếp là những chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc
phục thiệt hại hoặc để khắc phục ảnh hưởng do để ngăn giảm giá trị hình ảnh,
thương hiệu của các nhãn hàng thời trang mà bên bị hại phải gánh chịu hoặc
các giá trị tinh thần khác bị xâm hại. Những thiệt hại này bao gồm: tiền công
sửa chữa, chi phí cho việc thay thế vật liệu, chí phí ngăn chặn thiệt hại xảy ra
hoặc giảm thiểu thiệt hại xảy ra, hoặc chi phí bỏ ra để khắc phục thiệt hại đã
xảy ra... Thiệt hại này phải được xác định trên cơ sở chắc chắn.
* Cách phân loại thứ hai: thiệt hại vật chất và thiệt hại tinh thần
Theo khoản 2 Điều 361 BLDS năm 2015, “thiệt hại về vật chất” là
những “tổn thất vật chất thực tế xác định được bao gồm tổn thất về tài sản,
chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị
mất hoặc bị giảm sút”. Đây là những thiệt hại có thể tính được thành một số
tiền nhất định.
Thiệt hại về tinh thần là những thiệt hại đối lập với thiệt hại về vật chất.
Đó là nếu như thiệt hại về vật chất có thể là thiệt hại về tài sản như khối tài
sản của bên có quyền bị mất mát hoặc giảm sút thì thiệt hại về tinh thần lại là
những tổn hại do có những tác động xấu đến tình cảm hoặc sự thoải mái của
bên có quyền như tổn hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín, nỗi đau về tinh thần,
sự sỉ nhục, xa lánh của xã hội và các thương tổn tương tự.
- Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt
37
hại xảy ra
Căn cứ “có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi không thực hiện đúng
hợp đồng và thiệt hại xảy ra” cũng được ghi nhận dưới các hình thức khác
nhau. Đó là nếu như Điều 303 LTM năm 2005 chỉ rõ mối quan hệ nhân quả
này tại khoản 3 với quy định “hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực
tiếp gây ra thiệt hại” thì điều kiện này lại được thể hiện ngầm định tại Điều
360 BLDS năm 2015. Thông qua việc sử dụng quan hệ từ “do” - quan hệ từ
mang ý nghĩa nguyên nhân đích thực và căn nguyên, nguồn gốc để kết nối
giữa “có thiệt hại” và “vi phạm nghĩa vụ”, Điều 360 BLDS năm 2015 đã gián
tiếp chỉ ra mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại
xảy ra. Mối quan hệ nhân quả này còn được Điều 360 BLDS năm 2015 nhấn
mạnh qua việc sử dụng kết hợp giữa quan hệ từ “do” và trạng từ “gây ra” bổ
nghĩa cho điều kiện “vi phạm nghĩa vụ”.
Như vậy, pháp luật Việt Nam không áp đặt trách nhiệm BTTH lên bên
có hành vi không thực hiện đúng hợp đồng nếu bên vi phạm hợp đồng nêu ra
được sự kiện bất khả kháng khiến cho bên này không thể thực hiện đúng
nghĩa vụ hợp đồng. Có thể hiểu sự kiện bất khả kháng như là thiên tai, hỏa
hoạn, bạo động, dịch bệnh… Tuy nhiên, trong thực tế ở lĩnh vực gia công
may mặc, nhiều vi phạm hợp đồng do sự kiện bất khả kháng gây ra đã ảnh
hưởng lớn đến tình hình hoạt động của bên bị thiệt hại, thậm chí có trường
hợp dẫn đến phá sản. Khi sản phẩm may mặc là quần áo đã hoàn thiện nhưng
bên giao gia công không thể nhận do sự kiện bất khả kháng thì bên nhận gia
công không thể có doanh thu dẫn đến thua lỗ, đồng thời chưa thể tìm được
khách hàng để có thể nhận gia công vì vậy, sản xuất bị gián đoạn không thể
giữ chân được nhân công dẫn đến những khó khăn lớn.
- Có lỗi của bên gây thiệt hại
Dựa trên các nguyên tắc được ghi nhận tại khoản 2 và khoản 5 Điều 3
BLDS năm 2015 cũng như các quy định về trách nhiệm dân sự do không thực
38
hiện đúng nghĩa vụ, có thể nhận thấy BLDS năm 2015 đã ghi nhận nguyên tắc
suy đoán lỗi trong trách nhiệm BTTH, có nghĩa là bên có nghĩa vụ không thực
hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết thì bị suy đoán là có lỗi và phải chịu trách
nhiệm BTTH. BLDS năm 2015 cũng ghi nhận ngoại lệ của nguyên tắc này
thông qua quy định “trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định
khác”. Nói cách khác, về nguyên tắc trách nhiệm BTTH do vi phạm hợp đồng
theo BLDS năm 2015 là trách nhiệm nghiêm ngặt và việc chứng minh bên vi
phạm nghĩa vụ hợp đồng có lỗi là không cần thiết bởi yếu tố lỗi đã được hợp
nhất trong hành vi vi phạm hợp đồng.
Phát sinh do lỗi cố ý hoặc vô ý của người không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng HĐGCMM cũng tương tự trên; trừ trường hợp có thỏa thuận
khác hoặc pháp luật có quy định khác. Việc phân biệt lỗi vô ý và cố ý cũng có
ý nghĩa nhưng bên cạnh đó thì người có hành vi vi phạm có thể chịu trách
nhiệm ngay cả khi không có lỗi trong trường hợp pháp luật có quy định.
2.1.2. Nguyên tắc BTTH do vi phạm HĐGCMM
Xuất phát từ mục đích của BTTH là khắc phục những hậu quả do hành
vi không thực hiện đúng HĐGCMM gây ra, hệ thống pháp luật Việt Nam
cũng ghi nhận nguyên tắc BTTH do vi phạm nghĩa vụ nói chung và BTTH do
vi phạm hợp đồng nói riêng là bồi thường toàn bộ thiệt hại mà bên bị thiệt hại
phải gánh chịu. Nguyên tắc này được ghi nhận tại Điều 360 BLDS năm 2015:
“Trường hợp có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có nghĩa vụ
phải bồi thường toàn bộ thiệt hại,...”. Bên cạnh việc chỉ ra nguyên tắc BTTH
trong hệ thống pháp luật Việt Nam là bồi thường toàn bộ, BLDS năm 2015
còn chỉ rõ thiệt hại được bồi thường không chỉ có thiệt hại về vật chất mà còn
có thiệt hại về tinh thần. Khác với BLDS năm 2015, LTM năm 2005 không
đưa ra nguyên tắc BTTH là bồi thường toàn bộ thiệt hại nhưng có các quy
định cụ thể về BTTH tại khoản 2 Điều 302: “Giá trị BTTH bao gồm giá trị
39
tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra
và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có
hành vi vi phạm”.
Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên ký
kết HĐGCMM có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường
bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi
thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Cần phải tôn trọng thỏa thuận của các bên về mức bồi thường, hình thức bồi
thường và phương thức bồi thường, nếu thỏa thuận đó không trái pháp luật,
đạo đức xã hội. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được thì khi giải
quyết tranh chấp về BTTH ngoài hợp đồng cần chú ý: Một là, thiệt hại thực tế
phải được bồi thường toàn bộ, phải căn cứ vào các điều luật tương ứng của
BLDS 2015 quy định trong trường hợp cụ thể đó, thiệt hại bao gồm những
khoản nào và thiệt hại đã xảy ra là bao nhiêu, mức độ lỗi của các bên để buộc
người gây thiệt hại phải bồi thường các khoản thiệt hại tương xứng. Hai là, để
thiệt hại có thể được bồi thường kịp thời, tòa án phải giải quyết nhanh chóng
yêu cầu đòi BTTH trong thời hạn luật định. Trong trường hợp cần thiết có thể
áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của pháp
luật tố tụng để giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự.
2.1.3. Thời điểm phát sinh trách nhiệm BTTH do vi phạm HĐGCMM
Vấn đề xác định thời điểm phát sinh trách nhiệm BTTH mà chỉ xem xét
thời điểm phát sinh trách nhiệm dân sự nói chung bởi trách nhiệm dân sự
được thực hiện dựa trên việc áp dụng một hoặc một số biện pháp khắc phục
hậu quả của hành vi vi phạm HĐGCMM. Do việc áp dụng các biện pháp khắc
phục hậu quả của hành vi vi phạm HĐGCMM có thể được thực hiện theo sự
thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật nên mặc dù thời
điểm phát sinh trách nhiệm dân sự được xác định là thời điểm bên có nghĩa vụ
có hành vi vi phạm HĐGC nhưng thời điểm áp dụng các biện pháp khắc phục
40
hậu quả của hành vi vi phạm HĐGC còn phụ thuộc vào một số yếu tố khác.
Tuy nhiên, ta không thể khẳng định một cách máy móc đây chính là thời
điểm làm phát sinh trách nhiệm BTTH của bên có hành vi vi phạm HĐGC
với tư cách là một biện pháp khắc phục nhằm đảm bảo cho trách nhiệm dân
sự được thực hiện bởi việc áp dụng hay không áp dụng biện pháp BTTH trong
trường hợp có thiệt hại xảy ra còn phụ thuộc vào việc các bên có thỏa thuận
về việc miễn trách nhiệm BTTH hay không cũng như bên không thực hiện
đúng nghĩa vụ hợp đồng đã cam kết do sự kiện bất khả kháng hoặc do lỗi của
bên có quyền hoặc do lỗi của người thứ ba.
2.1.4. Xác định mức bồi thường thiệt hại
- Xác định mức BTTH trong trường hợp các bên có thỏa thuận trước
Xuất phát từ nguyên tắc tự do ý chí, pháp luật Việt Nam cũng thừa
nhận việc các bên khi ký kết đưa vào hợp đồng điều khoản cho phép xác định
trước khoản tiền mà bên có nghĩa vụ phải trả cho bên có quyền trong trường
hợp bên có nghĩa vụ vi phạm hợp đồng. Đó là, nếu như LTM năm 2005 xem
áp dụng BTTH là đương nhiên trong trường hợp các bên có thỏa thuận về
phạt vi phạm thì theo BLDS năm 2005 trong trường hợp các bên có thỏa
thuận về việc áp dụng BTTH chỉ được đặt ra khi các bên có thỏa thuận về
điều đó.
Khác với BLDS năm 2005 và LTM năm 2005, BLDS năm 2015 đã có
sự thay đổi trong việc ghi nhận “điều khoản về mức BTTH được xác định
trước”. Đó là, BLDS năm 2015 thừa nhận việc cho phép các bên thỏa thuận
trước về khoản tiền mà bên có nghĩa vụ phải trả cho bên có quyền trong
trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng hợp đồng, không phụ thuộc
vào thiệt hại thực tế theo quy định tại Điều 360 BLDS năm 2015.
Trong thực tế giao kết HĐGCMM hiện nay, hầu hết đều có điều khoản
về BTTH do vi phạm hợp đồng khi có tổn thất lớn về mặt kinh tế cho bên bị
hại. Đây là hình thức trách nhiệm mà các bên thỏa thuận ghi trong hợp đồng,
41
nhằm buộc bên có hành vi gây ra thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách
đền bù tổn thất về vật chất và tổn thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại. Như
vậy, BTTH là chế tài quan trọng và cơ bản nhất nhằm bảo đảm lợi ích của các
bên khi hợp đồng bị vi phạm, tạo ra khả năng đảm bảo lợi ích một cách tối đa
cho mọi bên có liên quan trong quan hệ HĐGCMM.
- Xác định mức bồi thường trong trường hợp không có thỏa thuận trước
Khác với trường hợp BTTH thỏa thuận trước trong hợp đồng, mức BTTH
trong trường hợp các bên không có thỏa thuận trước được xác định dựa trên các
yếu tố: Thiệt hại được bồi thường; Các trường hợp miễn, giảm trách nhiệm
BTTH; Việc thực hiện nghĩa vụ hạn chế thiệt hại của bên có quyền.
Nguyên tắc này được mọi hệ thống pháp luật thừa nhận bởi nó cho
phép bên bị thiệt hại do vi phạm hợp đồng có thể nhận được một khoản tiền
tương ứng với toàn bộ thiệt hại mà họ phải gánh chịu là hậu quả của hành vi
không thực hiện đúng hợp đồng - những thiệt hại được bù đắp để có thể đưa
bên bị thiệt hại vào vị trí mà bên này đáng lẽ có được nếu hợp đồng được thực
hiện đúng. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là mọi yêu cầu BTTH của bên
có quyền đều được đáp ứng, mà ngược lại để được bồi thường, đòi hỏi thiệt
hại mà bên có quyền phải gánh chịu cần thỏa mãn những điều kiện nhất định
như có mối quan hệ nhân quả với hành vi gây thiệt hại, thiệt hại phải mang
tính chắc chắn, thiệt hại có thể dự đoán được.
Điều kiện về tính chắc chắn (hợp lý) của thiệt hại đã từng được đề cập
đến, theo đó một thiệt hại được coi là có tính chắc chắn nếu thiệt hại này nhất
định sẽ xảy ra và có thể dự đoán trước được, do vậy, những thiệt hại không
chắc chắn sẽ xảy ra hoặc chỉ mang tính giả định thì không thể được bồi
thường. Cần lưu ý rằng tính chắc chắn của thiệt hại không đồng nghĩa với
việc thiệt hại đó đã xảy ra mà một thiệt hại xảy ra trong tương lai cũng có thể
mang tính chắc chắn. Tuy nhiên, nếu việc chứng minh tính chắc chắn hợp lý
của thiệt hại hiện tại thường không gây khó khăn thì việc chứng minh tính
42
chắc chắn hợp lý của thiệt hại trong tương lai lại rất khó khăn. Chẳng hạn rất
khó để chứng minh việc bị mất đi cơ hội thu lợi do hành vi vi phạm hợp đồng
bởi trong trường hợp này việc đánh giá thiệt hại sẽ được thực hiện thông qua
một tính toán xác suất.
Để thiệt hại do vi phạm hợp đồng được bồi thường, một điều kiện quan
trọng không kém điều kiện về tính chắc chắn được xem xét là thiệt hại phải
dự đoán trước được hay phải nằm trong dự đoán của các bên vào thời điểm
hợp đồng được xác lập. BLDS năm 2015 cùng với việc đòi hỏi về tính chắc
chắn của thiệt hại được bồi thường và đòi hỏi về mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại xảy ra cũng ngầm đòi hỏi thiệt hại để
được bồi thường phải có tính dự đoán trước.
2.1.5. Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
Pháp luật quy định những trường hợp bên vi phạm được miễn trách
nhiệm BTTH như rơi vào sự kiện bất khả kháng, hành vi vi phạm của một bên
hoàn toàn do lỗi của bên kia, hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết
định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết
được vào thời điểm giao kết hợp đồng, miễn trách nhiệm do thỏa thuận của
các bên chủ thể trong hợp đồng (điều 294 LTM 2005). Bên vi phạm nếu
muốn được miễn trách nhiệm hợp đồng thì phải có đầy đủ chứng cứ để chứng
minh các trường hợp miễn trách nhiệm hợp đồng theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, khi xảy ra trường hợp được miễn trách nhiệm hợp đồng còn phải
thông báo ngay bằng văn bản cho bên kia về trường hợp được miễn trách
nhiệm và những hậu quả có thể xảy ra. Nhiều trường hợp trong thực tế một
bên vi phạm hợp đồng do gặp sự kiện bất khả kháng nên gây thiệt hại cho bên
kia nhưng bên vi phạm không thông báo ngay cho bên bị vi phạm biết dẫn tới
khi đưa vụ việc ra tranh chấp tại tòa, bên vi phạm mặc dù gặp sự kiện bất khả
kháng nhưng vẫn phải BTTH.
Trên thực tế có rất nhiều sự cố nằm ngoài khả năng kiểm soát của các
43
bên trong HĐGCMM dẫn đến một hoặc cả hai bên trong hợp đồng không thể
thực hiện được hợp đồng đã ký kết. Pháp luật có quy định các trường hợp
miễn trách nhiệm trong hợp đồng để dự liệu các trường hợp trên. Do đó,
doanh nghiệp khi giao kết hợp đồng cũng cần nắm rõ quy định về các trường
hợp miễn trách nhiệm trong hợp đồng để thỏa thuận điều khoản miễn trách
nhiệm một cách chặt chẽ và phù hợp với quy định của pháp luật.
Các khả năng cụ thể cho việc miễn trách nhiệm BTTH:
Một là, trường hợp miễn trách nhiệm do thỏa thuận của các bên: Hợp
đồng về bản chất là thỏa thuận của hai bên, do đó pháp luật hợp đồng rất tôn
trọng quyền thỏa thuận của hai bên trong hợp đồng. Hai bên trong HĐGCMM
có thể tự do thỏa thuận điều khoản miễn trách nhiệm. Thỏa thuận miễn trách
nhiệm có thể được ghi trong hợp đồng hoặc phụ lục hợp đồng. Thỏa thuận
miễn trách nhiệm cũng có thể được ghi nhận bằng lời nói, hành vi. Thỏa
thuận miễn trách nhiệm phải được lập ra trước thời điểm có vi phạm xảy ra.
Hai là, trường hợp miễn trách nhiệm do sự kiện bất khả kháng. Hiểu
một cách đơn giản, sự kiện bất khả kháng là các sự kiện xảy ra ngoài tầm
kiểm soát của bên vi phạm, không thể lường trước được và không thể khắc
phục được cho dù bên bị vi phạm đã áp dụng mọi biện pháp khắc phục như
bão lụt, hạn hán, đình công, bạo loạn…
Khi xảy ra các sự việc bất khả kháng, bên vi phạm có trách nhiệm
thông báo cho bên kia trong một thời hạn hợp lý. Các bên có thể kéo dài thêm
thời gian thực hiện hợp đồng, tuy nhiên nếu quá thời hạn nêu trên mà vẫn
không thể thực hiện hợp đồng thì các bên có quyền từ chối thực hiện hợp
đồng và không phải BTTH.
Ba là, trường hợp miễn trách nhiệm do hành vi vi phạm của bên vi phạm
hoàn toàn do lỗi của bên bị vi phạm. Đây là trường hợp một bên vi phạm hợp
đồng nhưng nguyên nhân dẫn đến sự vi phạm đó là do lỗi của bên bị vi phạm.
Ví dụ: Công ty A (khu công nghiệp Bắc Ninh) ký hợp đồng thuê Công ty
44
B (khu công nghiệp Bình Dương) gia công quần áo thể thao các loại. Thời
hạn giao hàng cho Công ty A là 31/8/2018. Mưa lụt xẩy ra làm sạt lở và tắc
nghẽn tuyến đường bộ Bắc Nam trong nhiều ngày do vậy vận chuyển hàng
hóa gia công từ tỉnh Bình Dương ra tỉnh Bắc Ninh không thể thực hiện được
do tuyến đường bị phong tỏa để sửa chữa và việc giao hàng chậm so với hạn
trên hợp đồng là 2 tuần. Công ty B đã ngay lập tức thông báo cho Công ty A
biết về sự kiện này, nếu không thông báo thì việc sạt lở đường do lũ lụt xảy ra
không được coi là sự kiện bất khả kháng. Trong trường hợp đường đã thông
sau khi sửa chữa nhưng Công ty B vẫn không thực hiện được hợp đồng mà
sau đó Công ty A chứng minh được rằng đường đã thông trước thời hạn thông
báo thì đó cũng không được xem là sự kiện bất khả kháng và Công ty B cũng
không được miễn trách nhiệm.
2.1.6. Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại
Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại được xây dựng dựa trên ý tưởng loại bỏ việc
bên có quyền thụ động chờ đợi được BTTH đối với những thiệt hại mà bên này
đáng lẽ có thể tránh được hoặc có thể hạn chế được. Nói cách khác, là ngay cả
khi bên có quyền không có lỗi trong việc để thiệt hại xảy ra thì bên có quyền
cũng không được bồi thường cho những thiệt hại mà đáng lẽ bên này tránh
được nếu áp dụng các biện pháp ngăn chặn, giảm thiểu thiệt hại thích hợp.
Trước khi BLDS năm 2015 được thông qua, nghĩa vụ hạn chế thiệt hại
chỉ được ghi nhận rải rác trong Điều 448, Điều 575 của BLDS năm 2005 và
Điều 305 LTM năm 2005. Nhận thức được nghĩa vụ hạn chế thiệt hại theo
quy định của Điều 274 BLDS năm 2015, BLDS năm 2015 đã chính thức ghi
nhận nghĩa vụ hạn chế thiệt hại với tính cách là nguyên tắc chung áp dụng cho
mọi nghĩa vụ nói chung và hợp đồng nói riêng. Với tiêu đề “Nghĩa vụ ngăn
chặn, hạn chế thiệt hại”, Điều 362 BLDS năm 2015 đã chỉ rõ: “Bên có quyền
phải áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để thiệt hại không xảy ra hoặc
hạn chế thiệt hại cho mình”. Điều này cho thấy pháp luật hợp đồng Việt Nam
45
đã rất tiến bộ và tương thích với luật hợp đồng thế giới khi không chỉ đưa ra
nguyên tắc về nghĩa vụ hạn chế thiệt hại mà còn xác định phạm vi áp dụng
nguyên tắc này.
2.2. Thực tiễn về BTTH do vi phạm HĐGCMM ở Việt Nam hiện nay
2.2.1. Thực tiễn về vi phạm HĐGCMM
Trong quá trình thực hiện HĐGCMM thì rất dễ xảy ra các tranh chấp,
khiếu nại do một bên không thực hiện đúng với các điều khoản ký kết trong
hợp đồng hay nói cách khác là một bên vi phạm HĐGC. Thông qua thực tế
các khiếu nại cho thấy các vi phạm trong HĐGCMM ở Việt Nam hiện nay
gồm những trường hợp sau:
Bên nhận gia công có quyền khiếu nại bên đặt gia công khi bên đặt gia
công vi phạm bất cứ điều khoản nào quy định về nghĩa vụ của bên đặt gia
công như: thanh toán chậm, không thanh toán, thanh toán không đúng lịch
trình, đơn phương huỷ hợp đồng, giao chậm nguyên phụ liệu, giao nguyên
phụ liệu không đủ số lượng. Bên đặt gia công khiếu nại bên nhận gia công khi
bên nhận gia công vi phạm các điều khoản quy định trong hợp đồng như: giao
hàng không đúng phẩm chất quy cách, chất lượng, số lượng, trọng lượng, bao
bì, ký mã hiệu sai quy cách không phù hợp với điều kiện vận chuyển, không
giao hàng mà không phải do trường hợp bất khả kháng gây ra, giao hàng
không đúng thời gian, địa điểm, sử dụng nguyên liệu không đúng mục đích.
Khi một trong hai bên ký kết HĐGCMM vi phạm các điều khoản hợp
đồng đã ký kết gây ra thiệt hại cho bên còn lại, thì bên còn lại có thể yêu cầu
bên vi phạm phải BTTH. Có thể hai bên tự thương lượng với nhau trên tinh
thần hợp tác cùng có lợi, nếu không tự giải quyết được sẽ cùng nhau đưa ra
trọng tài kinh tế nơi mà hai bên đã đề cập trong hợp đồng.
Việc ký kết HĐGC trong may mặc là bắt buộc đối với các bên bởi đó là
hình thức tốt nhất trong việc đảm bảo quyền lợi giữa các bên. Việc thực hiện
hợp đồng dưới hình thức văn bản sẽ tránh được những hiểu lầm không thống
46
nhất giữa các bên, ngoài ra còn giúp cho việc theo dõi kiểm tra và thực hiện
hợp đồng một cách dễ dàng hơn. Tuy nhiên, việc ký kết cần để ý đến các điều
khoản để tránh sau này cần phải chỉnh sửa vì như thế sẽ rất khó khăn và khó
thực hiện gây bất lợi. Trước khi ký kết người có thẩm quyền phải đọc kỹ hợp
đồng để xem hợp đồng có đúng như những gì đã đàm phán hay không, ngôn
ngữ có phù hợp không, các điều khoản nêu ra như vậy đã đúng chưa để tránh
trường hợp nhầm lẫn hoặc có sự thay đổi mà không được báo trước. Trong
hợp đồng ký kết việc xác định đúng nhu cầu và năng lực của bên nhận gia
công là quan trọng để tránh trường hợp là bên nhận gia công chấp nhận gia
công một số lượng hàng lớn trong một khoảng thời gian ngắn nhưng trong khi
vốn và nguồn lực lại không đủ đáp ứng được những yêu cầu đó. Đối với bên
nhận gia công cũng cần phải lưu ý và phải tính đến chi phí khấu hao máy, điện
nước, nhân công và cả nguyên phụ liệu nếu trong HĐGC không tính đến tỷ lệ
hao hụt nguyên liệu thì coi như HĐGC đó tỷ lệ hao hụt nguyên liệu bằng 0.
Những năm gần đây, ngành Dệt may Việt Nam liên tục có bước phát
triển tích cực, đạt mức tăng trưởng xuất khẩu năm sau cao hơn năm trước.
Sáu tháng đầu năm 2019, kim ngạch xuất khẩu dệt may đạt 18 tỷ USD, tăng
8,61% so với cùng kỳ năm 2018. Năm 2018, ngành Dệt may Việt Nam đánh
dấu mốc quan trọng khi kim ngạch xuất khẩu đạt trên 36 tỷ USD, tăng trưởng
hơn 16% so với năm 2017. May mặc Việt Nam nằm trong tốp 3 nước xuất
khẩu cao nhất thế giới, chỉ sau Trung Quốc và Ấn Độ. Các doanh nghiệp hoạt
động ở lĩnh vực dệt may, chủ yếu là gia công xuất khẩu và gia công trong
nước. Trong thực tế, tình trạng vi phạm hợp đồng trong lĩnh vực may mặc
Việt Nam hiện nay xẩy ra nhiều và tỷ lệ thuận với việc tăng trưởng trong
ngành dệt may. Tuy nhiên, do đã có sự ký kết và ràng buộc ở HĐGC mà việc
BTTH do vi phạm HĐGCMM diễn ra thuận lợi hơn. Mặc dù vậy, đã có
những vụ việc diễn ra phức tạp, các bên đã không thỏa thuận được phương án
BTTH do vi phạm hợp đồng dẫn đến kiện tụng kéo dài, thiệt hại kinh tế cho
47
cả đôi bên. Trong 03 năm từ 2017 dến 2019 đã ghi nhận 07 vụ án giải quyết
tranh chấp do vi phạm HĐGCMM phức tạp kéo dài. Bởi vậy, các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực may mặc ở Việt Nam hiện nay ngày càng chú
trọng trong việc nâng cao hiểu biết pháp luật nói chung và trong ký kết
HĐGC nói riêng, đặc biệt là gia công cho các thương nhân nước ngoài. Với
tinh thần cầu thị, cởi mở và hướng đến sự phát triển trong tương lai, hy vọng
trong những năm tiếp theo, các vụ việc vi phạm HĐGC trong lĩnh vực may
mặc sẽ giảm đi đáng kể.
2.2.2. Thực tiễn bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng gia công
may mặc
BTTH do vi phạm HĐGCMM là việc bù đắp những tổn thất mà bên vi
phạm nghĩa vụ phải thực hiện. Như vậy, về nguyên tắc, phải có thiệt hại mới
phát sinh nghĩa vụ BTTH. Trách nhiệm BTTH trong hợp đồng phát sinh khi
hội tụ đủ các yếu tố sau: có hành vi vi phạm hợp đồng, có thiệt hại thực tế xảy
ra, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại xảy
ra. Tất nhiên là vẫn có ngoại lệ nếu các bên thỏa thuận khác [13,tr.70]. Đồng
thời, bên yêu cầu BTTH phải áp dụng các biện pháp hợp lý để hạn chế tổn
thất. Ngoài ra, chủ thể vi phạm không rơi vào các trường hợp miễn trách
nhiệm được quy định của pháp luật thương mại. Còn với trách nhiệm BTTH
thì dù trong hợp đồng, 2 bên không thoả thuận về điều này thì khi hội tụ đủ
các căn cứ như đã nói trên thì trách nhiệm BTTH vẫn xảy ra. Tất nhiên là
pháp luật vẫn dành cho các bên được quyền thoả thuận khác hoặc pháp luật có
quy định khác. Còn chế tài BTTH nhằm vào việc khắc phục thiệt hại do hậu
quả của hành vi vi phạm xảy ra. Trong khi đó, chế tài BTTH nhằm bù đắp tổn
thất nên sẽ chỉ bằng thiệt hại đã xảy ra hoặc nhỏ hơn thiệt hại đã xảy ra
[13,tr.70]. Các bên khi tham gia vào quan hệ hợp đồng, tùy thuộc vào vị trí
pháp lý của mình để có thể thỏa thuận những điều khoản hợp lý nhất. Trong
quan hệ HĐGCMM, các bên phải dựa theo luật chuyên ngành là Luật Thương
48
mại để không làm trái các quy định của pháp luật. Nghĩa là xét trong
HĐGCMM, nếu các bên không có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm
chỉ được quyền yêu cầu BTTH.
Bản số: 12/2014/KDTM-ST; ngày 15/01/2014; V/v: “Tranh chấp về
hợp đồng kinh doanh thương mại gia công”.
Công ty Minh Quân và Công ty Thời trang Nga Sơn có ký kết với nhau
hai Hợp đồng ủy thác gia công xuất khẩu số 02/2012/GC/FQ-FM và số
03/2012/GC/FQ-FM. Theo các hợp đồng thì Công ty Minh Quân có trách
nhiệm gia công hàng may mặc cho Công ty Thời trang Nga Sơn theo số lượng
và đơn giá được ghi nhận trong từng hợp đồng.
Thực hiện hai hợp đồng nêu trên, Công ty Minh Quân đã hoàn tất, giao
cho Công ty Thời trang Nga Sơn 04 (bốn) đợt hàng, với tổng giá tiền gia công
là 788.591.803 đồng và đã xuất hóa đơn giá trị gia tăng. Công ty Thời trang
Nga Sơn đã nhận và chỉ thanh toán cho Công ty Minh Quân hai lần với tổng
số tiền là 419.315.420 đồng, còn nợ lại số tiền gia công là 369.276.383 đồng.
Công ty Minh Quân khởi kiện yêu cầu Công ty Thời trang Nga Sơn phải
thanh toán ngay toàn bộ số tiền chi phí gia công còn nợ là 369.276.383 đồng.
Ngoài ra, Công ty Thời trang Nga Sơn còn phải thanh toán thêm số tiền lãi do
chậm thanh toán theo thỏa thuận là 0,1%/ngày tính từ ngày phát sinh nghĩa vụ
thanh toán 30/7/2012 cho đến khi Tòa án xét xử vụ án.
Công ty Minh Quân không thừa nhận việc đã giao thiếu hàng, không
thừa nhận việc đã giao hàng không đúng chất lượng như nội dung Công ty
Thời trang Nga Sơn đã trình bày trong đơn khởi kiện phản tố. Công ty Minh
Quân không đồng ý chịu toàn bộ cước phí bằng đường hàng không theo yêu
cầu của Công ty Thời trang Nga Sơn.
Xét thấy: Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được
thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng
49
xét xử nhận định:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Buộc Công ty Thời
trang Nga Sơn phải giao trả cho Công ty Minh Quân số tiền chi phí gia công
còn nợ và số tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán, tính từ ngày
30/7/2012 đến ngày 10/01/2014 ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn:
- Buộc Công ty Minh Quân phải bồi thường cho Công ty Thời trang
Nga Sơn chi phí gửi hàng gia công bằng đường hàng không ngay sau khi án
có hiệu lực pháp luật.
- Không chấp nhận các yêu cầu của Công ty Thời trang Nga Sơn về
việc buộc Công ty Minh Quân phải BTTH do giao thiếu hàng gia công, giao
hàng gia công không đúng chất lượng.
Bài học rút ra thông qua vụ án trên đó là trong quá trình hoạt động kinh
doanh thương mại gia công, các đối tác của nhau cũng nên thấu hiểu trước
những khó khăn của nhau, có gắng giải quyết theo phương thức phù hợp với
hoàn cảnh, khả năng của nhau khi mà có vi phạm hợp đồng đã ký kết. Như
Công ty Thời trang Nga Sơn trong tình huống trên, nếu Công ty Minh Quân
giao thiếu hàng và không đúng chất lượng thì ngay thời điểm giao hàng Công
ty Thời trang Nga Sơn phải kiểm tra hàng hóa, lập biên bản ghi nhận hàng
thiếu và hàng không đúng chất lượng để làm căn cứ yêu cầu bên Công ty
Minh Quân BTTH. Công ty Thời trang Nga Sơn cũng phải nêu rõ các thỏa
thuận giao hàng với đối tác nước ngoài khi thỏa thuận ký kết hợp đồng với
Công ty Minh Quân. Đối với Công ty Minh Quân cũng cần rút kinh nghiệm
tránh trường hợp giao hàng không đúng thời hạn gây ra tổn thất cho bên tham
gia ký kết hợp đồng là Công ty Thời trang Nga Sơn. Thay vì để xẩy ra kiện
tụng kéo dài, phức tạp, hai bên tham gia ký kết hợp đồng nên tháo gỡ khó
khăn cho nhau, tự thỏa thuận, dàn xếp mức BTTH hợp lý.
Bản số: 65/2015/KDTM-ST; Ngày: 24/7/2015; V/v: “Tranh chấp
50
HĐGC”.
Tóm tắt nội dung vụ việc như sau:
Ngày 11/04/2013, Công ty Âu Phục và Công ty Shen Long kí kết
HĐGC số 01/QP-SL, về việc nhận gia công chần gòn. Cụ thể:
Công ty Âu Phục nhận gia công vải chần gòn các loại cho Công ty
Shen Long. Số lượng Chần gòn: 60.000 yard; Đơn giá: 0,3 USD; Thành tiền:
18.000 USD. Qui cách phẩm chất và kiểm tra chất lượng: Tất cả các chi tiết
kỹ thuật và qui cách theo đúng sự chỉ dẫn do Công ty Shen Long cung cấp.
Công ty Âu Phục đảm bảo chất lượng sản phẩm may đúng theo quy định. Nếu
Công ty Âu Phục làm rách hay hư hỏng sản phẩm thì phải bồi thường cho
Công ty Shen Long. Nếu do sản phẩm bị hư hỏng trước khi gia công, Công ty
Âu Phục không chịu trách nhiệm.
Tổng số lượng tiền mà Công ty Shen Long phải thanh toán cho Công ty
Âu Phục là 398.772.495đ (ba trăm chín mươi tám triệu bảy trăm bảy mươi hai
ngàn bốn trăm chín mươi lăm đồng).
Khi nhận hàng, Công ty Shen Long không có ý kiến gì. Ngày
12/8/2013 Công ty Shen Long đã thanh toán cho Công ty Âu Phục
105.097.930 đ (một trăm lẻ năm triệu không trăm chín mươi bảy ngàn chín
trăm ba mươi đồng).
Nay, Công ty Âu Phục yêu cầu Công ty Shen Long phải thanh toán số
tiền còn thiếu là 293.674.529 đ (hai trăm chín mươi ba triệu sáu trăm bảy
mươi bốn ngàn năm trăm hai mươi chín ngàn) và lãi suất chậm trả theo mức
lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định từ ngày 18/8/2013 đến ngày
xét xử là: 51.099.345 đ (năm mươi mốt triệu không trăm chín mươi chín
nghìn ba trăm bốn lăm đồng), ngay một lần sau khi án có hiệu lực pháp luật.
Tại bản tự khai, biên bản hòa giải, và tại phiên tòa hôm nay, đại diện bị
đơn trình bày:
Thực hiện hợp đồng, Công ty Âu Phục đã làm hỏng hàng gia công vải
51
chần gòn xuất khẩu. Do vậy khi Công ty Shen Long giao hàng thành phẩm
cho đối tác thứ 3, đã bị đối tác trừ tiền của Công ty Shen Long là: 22.178.8
USD tương đương 465.754.800 đ (bốn trăm sáu mươi lăm triệu bảy trăm năm
mươi bốn nghìn tám trăm đồng). Điều này thể hiện tại Biên bản ghi nhận có
ký xác nhận số lượng hàng gia công bị lỗi trên. Do vậy, Công ty Âu Phục phải
chịu trách nhiệm hoàn trả Công ty Shen Long số tiền 22.178,8 USD tương
đương 465.754.800 đ (bốn trăm sáu mươi lăm triệu bảy trăm năm mươi bốn
nghìn tám trăm đồng). Công ty Shen Long sẽ tính toán lại số tiền gia công sau
khi khấu trừ đi số tiền nêu trên.
Tòa tuyên xử:
1. Buộc Công ty Shen Long có trách nhiệm thanh toán cho Công ty Âu
Phục số tiền gia công là 293.674.529đ (hai trăm chín mươi ba triệu sáu trăm
bảy mươi bốn nghìn năm trăm hai mươi chín nghìn) và lãi suất 51.099.345 đ
(năm mươi mốt triệu không trăm chín mươi chín nghìn ba trăm bốn mươi năm
đồng). Việc thanh toán được thực hiện một lần ngay sau khi án có hiệu lực
pháp luật.
2. Bác yêu cầu Công ty Shen Long về việc buộc Công ty Âu Phục có
trách nhiệm thanh toán cho Công ty Shen Long số tiền 465.754.800 đ (bốn
trăm sáu mươi lăm triệu bảy trăm năm mươi bốn nghìn tám trăm đồng).
Như vậy có thể thấy, trong thực tiễn áp dụng khi tòa án căn cứ theo quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự, BLDS, LTM yêu cầu bên vi phạm hợp đồng
phải BTTH cho bên bị thiệt hại bao gồm số tiền còn thanh toán thiếu và lãi
suất của số tiền thiếu. Đồng thời, tòa án cũng bác yêu cầu của bên vi phạm
cho rằng sản phẩm hoàn thành mà bên bị thiệt hại cung cấp là không đủ chất
lượng vì tại thời điểm giao nhận sản phẩm, bên giao gia công đã nhận hàng
mà không có bất cứ phản hồi về chất lượng thì có thể được coi là hàng hóa đã
hoàn thành theo hợp đồng. Do vậy, trong quá trình thực hiện hợp đồng giao
52
công, các cần phải lưu ý thực hiện đúng những điều khoản đã được ký kết.
Phương thức thực hiện hợp đồng cũng là một nội dung của hợp đồng.
Nội dung này cho phép xác định bên có nghĩa vụ trong quan hệ hợp đồng phải
thực hiện nghĩa vụ của mình theo thể thức nào để đáp ứng quyền và lợi ích
hợp pháp của bên có quyền. Như đã nêu trên, đối tượng của nghĩa vụ hợp
đồng là thực hiện một công việc gia công quần áo xuất khẩu mà Công ty Shen
Long đã thuê Công ty Âu Phục thực hiện. Điều đó có nghĩa là hàng hóa là
quần áo gia công các loại, là vật đặc định thì bên có nghĩa vụ phải giao đúng
vật và đúng tình trạng đã cam kết. Cụ thể ở đây, Công ty Âu Phục có nghĩa vụ
phải giao đúng số lượng, chất lượng đã thỏa thuận. Công ty Shen Long có
nghĩa vụ phải thanh toán đầy đủ khoản tiền đó. Việc thanh toán khoản tiền
này có thể được thực hiện một lần hoặc nhiều lần theo thỏa thuận của các bên.
Do vậy, vi phạm về phương thức thực hiện hợp đồng là vi phạm về cách thức
thực hiện hợp đồng mà các bên đã thỏa thuận hoặc pháp luật đã quy định hoặc
theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã chỉ rõ nhưng bên có
nghĩa vụ đã không tuân thủ cách thức thực hiện hợp đồng này. Với cách hiểu này,
có thể nói mọi hành vi thực hiện hợp đồng không đúng với các thể thức mà các
bên đã thỏa thuận hoặc không đúng quy định của pháp luật hoặc không đúng với
quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền như Công ty Shen Long đều bị
xem là hành vi vi phạm về phương thức thực hiện hợp đồng.
Như vậy, xác định thiệt hại vật chất gồm thiệt hại thực tế và khoản lợi
bị mất. Trong thiệt hại do tòa án chỉ ra, có thể nhận thấy: Thiệt hại trực tiếp là
khoản tiền phí gia công mà Công ty Âu Phục bị Công ty Shen Long từ chối
thanh toán. Đây là khoản tiền mà Công ty Âu Phục phải được trả vì đã hoàn
thành công việc gia công của minh. Thiệt hại gián tiếp Công ty Âu Phục phải
chịu thiệt do hành vi không thanh toán tiền phí gia công theo đúng thỏa thuận
là lãi suất ngân hàng. Đây chính là khoản lợi bị mất.
2.3. Đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về bồi thường thiệt hại
53
do vi phạm hợp đồng gia công may mặc ở Việt Nam hiện nay
2.3.1. Đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi
phạm hợp đồng gia công may mặc
BTTH do vi phạm HĐGC là biện pháp pháp lý quan trọng có vai trò bù
đắp cho bên bị thiệt hại những tổn thất là hậu quả của hành vi vi phạm hợp
đồng. HĐGC cũng là một dạng của hợp đồng thương mại và thực tiễn tại Việt
Nam việc quy định, áp dụng pháp luật liên quan vấn đề BTTH đang còn bộc
lộ những hạn chế nhất định; nhiều tranh chấp xảy ra khó giải quyết kịp thời và
triệt để.
Thứ nhất, các quy định về BTTH do vi phạm hợp đồng còn có sự khác
biệt, chưa thống nhất giữa BLDS 2015 và LTM 2005. Với vai trò là hai đạo
luật quan trọng nhất điều chỉnh về hợp đồng nói chung và chế tài BTTH do vi
phạm hợp đồng, nhưng ngay trong BLDS 2015 và LTM 2005 đã có các quy
định chưa thống nhất với nhau: nếu BLDS 2015 ghi nhận yếu tố lỗi là một
trong các căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH, thì trong LTM 2005 không ghi
nhận yếu tố lỗi; LTM 2005 quy định có bốn trường hợp miễn trách nhiệm cho
bên vi phạm hợp đồng, bao gồm: bao gồm: (1) xảy ra trường hợp miễn trách
nhiệm mà các bên đã thỏa thuận; (ii) xảy ra sự kiện bất khả kháng: (iii) hành
vi vi phạm cùa một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia; (iv) hành vi vi phạm của
một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền
mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng. BLDS 2015
không đưa “hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan
quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời
điểm giao kết hợp đồng” làm căn cứ miễn trách nhiệm bồi thường; BLDS
2015 yêu cầu bên vi phạm phải bồi thường toàn bộ thiệt hại về vật chất và
tinh thần cho bên bị thiệt hại trong khi đó, LTM 2005 lại xác định phạm vi
BTTH là giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên
vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên vi phạm đáng lẽ được hưởng
54
nếu không có hành vi vi phạm.
Thứ hai, về xác định giá trị BTTH. Tại khoản 2, Điều 302 LTM 2005
xác định giá trị BTTH bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi
phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi
phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm thì BLDS 2015 lại
cho phép thoả thuận.
Thứ ba, pháp luật Việt Nam về BTTH do vi phạm hợp đồng còn nhiều
điểm chưa phù hợp, không tương thích với pháp luật quốc tế. Cụ thể: về phạm
vi thiệt hại được BTTH do vi phạm hợp đồng, pháp luật Việt Nam chưa quy
định rõ vi phạm bồi thường có bao gồm những thiệt hại phi tiền tệ hay không
(như thiệt hại do mất uy tín, …) và thiệt hại có tính đến mọi khoản lợi cho bên
có quyền từ một khoản chi phí hay tổn thất tránh được hay không.
Thứ tư, các quy định về miễn trách nhiệm BTTH do vi phạm hợp đồng
còn một số điểm chưa được quy định rõ ràng và còn thiếu, như:
Điều 294 LTM 2005 quy định về việc miễn trách nhiệm do sự kiện bất
khả kháng nhưng không quy định rõ sự kiện bất khả kháng xảy ra với chính
chủ thể trong quan hệ hợp đồng hay sự kiện bất khả kháng xảy ra với bên thứ
ba. Quy định về thoả thuận về miễn trách nhiệm giữa các chủ thể trong hợp
đồng cũng chưa được đầy đủ và triệt để. Ngoài ra, theo kinh nghiệm phải có
những điều kiện nhất định để vừa bảo đảm tôn trọng sự tự do thoả thuận giữa
các bên, vừa hạn chế việc một bên lợi dụng căn cứ này để trốn tránh trách
nhiệm hợp đồng.
Quy định miễn trách nhiệm BTTH trong trường hợp hành vi vi phạm
của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm
quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng cũng
chưa hoàn toàn triệt để vì chưa dự liệu trách nhiệm của Nhà nước đối với
người bị thiệt hại trong trường hợp này.
2.3.2. Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại do
55
vi phạm hợp đồng gia công may mặc ở Việt Nam hiện nay
- Ưu điểm:
Qua tình hình thực hiện pháp luật HĐGCMM, có thể rút ra được một số
ưu điểm lớn trong công tác thực tiễn sau đây:
Một là, các bên tuân thủ chặt chẽ quy định về hình thức và nội dung của
HĐGCMM trong quá trình giao kết. Về hình thức, các HĐGCMM đều được
lập thành văn bản, được ký bởi người đại diện có thẩm quyền. Về nội dung,
tùy thuộc vào hàng hóa yêu cầu gia công mà mỗi điều khoản trong hợp đồng
có thể khác nhau, nhưng đều thể hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ mà các bên
cam kết.
Hai là, tranh chấp phát sinh trong HĐGCMM không quá gay gắt, các
bên ý thức được quyền tự do định đoạt, thỏa thuận trên cơ sở thiện chí nên
vẫn đạt được kết quả cao. Nguyên nhân đều do các bên tự thỏa thuận với nhau
về việc giải quyết vụ tranh chấp nên nguyên đơn đã rút đơn khởi kiện; bị đơn
cũng không có yêu cầu phản tố.
Ba là, các đối tác thuê gia công thường là đối tác làm lâu năm. Các phát
sinh vi phạm hợp đồng đều thường xuất phát từ các nguyên nhân bất khả
kháng. Hai bên thường tìm cách giải quyết hài hòa giữa các bên, cùng nhau
chia sẻ những khó khăn.
- Hạn chế:
BTTH do vi phạm HĐGCMM ở Việt Nam hiện nay chịu sự tác động,
chi phối của các yếu tố khách quan và chủ quan, giữa chúng có mối quan hệ
chặt chẽ, tác động qua lại với nhau.
Một là yếu tố pháp lý, là yếu tố căn bản để xác định việc BTTH do vi
phạm HĐGCMM. Quy định của pháp luật càng cụ thể, rõ ràng thì việc BTTH
càng được thực hiện đúng, thống nhất đảm bảo lợi ích cho cả bên bị thiệt hại
và bên vi phạm. Tuy nhiên, quy định của pháp luật hiện nay về vấn đề này
còn chưa chặt chẽ, thống nhất. Chẳng hạn, quy định về thỏa thuận miễn trách
56
nhiệm BTTH trong pháp luật hợp đồng Việt Nam còn thiếu chặt chẽ bởi Điều
13 và Điều 360 Bộ luật dân sự năm 2015 - những quy định được áp dụng
chung cho trách nhiệm BTTH chưa đặt ra giới hạn đối với thỏa thuận miễn
trách nhiệm BTTH của các bên. Hoặc trong LTM coi “khoản lợi đáng lẽ được
hưởng” là một thiệt hại nhưng BLDS không quy định rõ vấn đề này, hay
BLDS có quy định về bồi thường tổn thất về tinh thần” nhưng LTM chỉ nêu “
thiệt hại thực tế”… Do đó, khi tiến hành áp dụng pháp luật về vấn đề này
chúng ta thường gặp khó khăn, lúng túng. Mặt khác, các cơ quan tố tụng cũng
chưa có hướng dẫn cụ thể về việc BTTH do vi phạm HĐGCMM. Đây là vấn
đề khó khăn bởi vì BTTH rất đa dạng, không thể liệt kê hết trong các văn bản
quy phạm pháp luật và nếu có liệt kê thì không thể đầy đủ.
Hai là yếu tố con người. Yếu tố con người là những tác động chủ quan
đến việc BTTH do vi phạm HĐGCMM. Sự tác động, ảnh hưởng của yếu tố
này được thể hiện: Sự thỏa thuận của các chủ thể về giá trị BTTH, nhất là
những thỏa thuận về trường hợp được miễn, giảm giá trị bồi thưởng thiệt hại,
thỏa thuận thời điểm bồi thường, cách thức bồi thường …; Khả năng chứng
minh thiệt hại của bên bị vi phạm; Sự thiện chí, trung thực của các chủ thể
tham gia hợp đồng; Khả năng đánh giá thiệt hại và sử dụng pháp luật của con
người thuộc cơ quan, tổ chức áp dụng pháp luật.
Ba là yếu tố thị trường. Đối tượng của HĐGCMM là hàng hóa gồm quần
áo các loại. Khi xác định giá trị hàng hóa thường bị chi phối bởi nhu cầu của
thị trường (xu hướng thời trang theo mùa, theo lễ hội, theo trào lưu…), sự
biến động về giá cả, tỷ giá, lãi suất…Chẳng hạn, Công ty H là công ty có trụ
sở tại Mỹ ký HĐGCMM quần áo mùa đông các loại với Công ty X của Việt
Nam trong đó Công ty H là công ty đặt gia công có trách nhiệm giao nguyên
liệu, tài liệu kỹ thuật, hàng mẫu và hướng dẫn cho bên Công ty X. Công ty X
là công ty nhận gia công có nhiệm vụ may các lô hàng theo đúng kiểu dáng
thông số kỹ thuật, giao hàng đủ số lượng, chất lượng và đúng thời hạn cho
57
Công ty H. Tuy nhiên, do có khó khăn về việc tuyển dụng nhân công nên
Công ty X đã không thể hoàn thành đơn hàng kịp tiến độ. Việc giao hàng đủ
số lượng chậm mất 02 tuần so với ký kết trong hợp đồng. Lô hàng đã không
kịp để Công ty H tung ra thị trường vào đúng dịp lễ Noel gây ra thiệt hại về
tài chính cho Công ty H, làm Công ty bỏ lỡ cơ hội tiêu thụ hàng hóa vào thời
điểm mua sắm lớn nhất trên thị trường Mỹ và giá trị của lô hàng giảm sâu sau
dịp lễ Noel. Do vậy, việc xác định mức thiệt hại trong BTTH do vi phạm
HĐGCMM bị chi phối nhất định bởi yếu tố thị trường, nhất là đối với việc
BTTH liên quan nhiều quốc gia, khu vực.
Bốn là yếu tố thay đổi theo thời gian của thiệt hại. Thiệt hại mà bên vi
phạm gây ra có một giá trị nhất định tại thời điểm có hành vi vi phạm nhưng
giá trị này thường thay đổi do sự biến động của các yếu tố trong thị trường tạo
ra (như: yếu tố giá cả, cung - cầu) hoặc do tác động của tự nhiên, môi trường.
Sự biến đổi nhanh hay chậm của thiệt hại phụ thuộc vào từng loại thiệt hại
khác nhau (thiệt hại vật chất, thiệt hại phi vật chất). Mặt khác, từ thiệt hại này
có thể gây ra thiệt hại khác, có tính dây chuyền cho bên bị vi phạm. Vấn đề
này mang tính tất yếu giống như mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện
tượng trong thế giới khách quan. Theo đó, việc BTTH sẽ gặp khó khăn trong
trường hợp thiệt hại xẩy ra có phạm vi rộng, có nhiều loại thiệt hại, hay liên
quan đến nhiều chủ thể.
Từ những yếu tố tác động nêu trên dẫn tới vẫn còn tồn tại một số bất cập
như sau:
Một là, đa phần những tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện
HĐGCMM do một bên không tuân thủ đúng nghĩa vụ hợp đồng, vi phạm
những cam kết đã thỏa thuận như: vi phạm thời gian giao hàng, vi phạm về số
lượng giao hàng, vi phạm về chất lượng, mẫu mã hàng không đúng như mẫu
và tài liệu kỹ thuật bên đối tác đã yêu cầu, vi phạm khi để lộ các thông tin về
58
mẫu mã, xu hướng thiết kế thời trang,… Các vi phạm thường do pháp luật
còn có những điều khoản quy định chưa rõ ràng hoặc do các bên chưa hiểu rõ
các điều khoản dẫn tới những vi phạm hợp đồng không mong muốn.
Hai là, thực tiễn BTTH do vi phạm HĐGCMM thời gian gần đây, các vụ
việc không có dấu hiệu giảm, vẫn thường xuyên xẩy ra, có những vụ việc giá trị
bồi thường tương đối cao, gây những khó khăn nhất định cho doanh nghiệp.
Thực tế cho thấy, có thể có những trường hợp về mặt pháp lý đã rõ ràng, các bên
đã có những kiến thức nhất định trong hiểu biết về pháp luật và hiểu rõ những
điều khoản ký kết trong hợp động. Tuy nhiên, các yếu tố về thị trường kinh
doanh, các yếu tố thay đổi theo thời gian của thiệt hại khiến các bên gặp khó
khăn trong việc thực hiện đúng các giao kết đã ký trong HĐGCMM dẫn tới mâu
thuẫn, bất đồng khó thực hiện theo cách thức hòa giải.
Ba là, chất lượng giải quyết tranh chấp HĐGCMM bằng Tòa án chưa đạt
hiệu quả như mong muốn. Khi vụ việc phát sinh vi phạm HĐGCMM, các bên
59
khi ký hợp đồng không thể đạt được thỏa thuận dẫn đến tranh chấp lâu dài.
Tiểu kết chương 2
Những phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về BTTH do vi phạm
hợp đồng thương mại nói chung và HĐGCMM ở nước ta hiện nay cho thấy
bên cạnh những quy định, điều khoản hợp lý thì pháp luật Việt Nam vẫn còn
tồn tại một số bất cập cần được sửa đổi, bổ sung.
Về mặt dân sự, dù BLDS 2015 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung về pháp luật
của HĐGC so với BLDS 2005 cũ, tuy nhiên vẫn còn có điểm hạn chế. Trong
khi đó, LTM 2005 đã kế thừa và phát huy được những ưu điểm của Pháp lệnh
Hợp đồng kinh tế 1989 và LTM 1997, tuy nhiên cũng còn nhiều điểm chưa
hợp lý với thực trạng hiện nay. Trong thực tế đời sống, nhiều trường hợp do
không hiểu hoặc hiểu chưa thấu đáo các quy định trong luật nên dẫn đến việc
áp dụng sai vào trong các hợp đồng. Việc một hoặc nhiều bên tham gia kí kết
hợp đồng không hiểu hết các điều khoản dẫn đến việc sai sót hoặc nhầm lẫn
trong việc thực hiện hợp đồng. Đồng thời, cũng do sự thiếu hiểu biết rõ ràng
về mặt pháp luật nên có những thỏa thuận trong hợp đồng không hoàn toàn
chặt chẽ, do đó khi xảy ra tranh chấp thì các bên không tự giải quyết được và
phải đưa ra tòa án, gây ra nhiều khó khăn cho cả hai bên.
Các điều khoản về BTTH do vi phạm hợp đồng đã được quy định theo
LTM 2005. Theo quy định của LTM 2005, thực chất là chế tài BTTH đã tự
phát sinh ngay khi có đủ các căn cứ pháp lý mà không cần phải được thỏa
thuận trong hợp đồng. Tuy nhiên trong thực tế, việc xác định được mức
BTTH cụ thể cho từng trường hợp là điều không đơn giản. Trong khi đó,
BLDS 2015 mới ban hành có nhiều thay đổi so với bộ luật 2005 cũng như so
với LTM 2005 về chế tài BTTH.
Chương 2 cũng trình bày một số bản án điển hình về vi phạm
HĐGCMM trong thực tế để phân tích, so sánh nhằm đưa ra những kết luận
60
phù hợp về tình hình vận dụng các quy định về BTTH do vi phạm HĐGCMM
ở Việt Nam hiện nay. Những kết quả nghiên cứu, phân tích, đánh giá trong
chương 2 cho phép chỉ ra những ưu điểm và những bất cập trong việc thực
hiện BTTH do vi phạm HĐGCMM ở nước ta hiện nay. Các kết quả này là cơ
sở để đưa ra những định hướng để hoàn thiện và giải pháp sửa đổi, bổ sung
61
cho cơ chế BTTH do vi phạm HĐGCMM ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3.
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
TRONG THỰC HIỆN BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP
ĐỒNG GIA CÔNG MAY MẶC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi
phạm hợp đồng gia công may mặc ở Việt Nam hiện nay
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng gia công phải tôn trọng những nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp
luật hợp đồng Việt Nam
Nguyên tắc tự do ý chí trong pháp luật hợp đồng được hiểu là các bên
được tự do giao kết hợp đồng hay thỏa thuận về việc xác lập quyền và nghĩa
vụ dân sự theo ý chí của mình miễn là nó không trái với trật tự công cộng.
Nguyên tắc này khi chiếu vào việc thực hiện nghĩa vụ dân sự phát sinh từ hợp
đồng lại mang một sắc thái khác, làm phát sinh một tiểu nguyên tắc là nguyên
tắc hiệu lực ràng buộc của hợp đồng. Lý thuyết này ủng hộ tự do ý chí vô giới
hạn, tự do thương lượng giữa các cá nhân với nhau để ràng buộc chính mình
sẽ mang lại công bằng và sự tự do cạnh tranh sẽ mang lại sự thịnh vượng về
kinh tế, đã dẫn tới hệ quả là coi hợp đồng và hành vi pháp lý đơn phương là
một nguồn gốc quan trọng của nghĩa vụ (đề cao nghĩa vụ dân sự thay vì nghĩa
vụ pháp định) vì nó đến từ chính ý chí của chủ thể bị ràng buộc. Điều 3 BLDS
Việt Nam năm 2015 quy định về nguyên tắc tự do ý chí như sau: “Cá nhân,
pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên
cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi
phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối
với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng”.
Nguyên tắc thiện chí không được định nghĩa bởi luật, mang nghĩa về mặt
62
luân lý nhiều hơn với liên hệ gần gũi về sự trung thực, không có sự ác ý hay
tư lợi bất chính. Điều 3 BLDS năm 2015 đã có nguyên tắc thiện chí: “Cá
nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của
mình một cách thiện chí, trung thực”. Trong lĩnh vực luật hợp đồng, đặc biệt
là ở giai đoạn giao kết, nguyên tắc thiện chí được giải thích gần gũi với
nguyên tắc tự do ý chí, có nghĩa là việc xác lập hợp đồng và các điều kiện của
nó phụ thuộc vào ý chí của các bên. Trong giai đoạn thực hiện hợp đồng,
nguyên tắc này có thể không gắn với ý chí của các bên lúc đầu mà lại gắn với
sự công bằng về lợi ích giữa các bên. Hoặc với việc chấp nhận sự thực hiện
chủ yếu chứ không phải thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ của hợp đồng,
thiện chí là sự thông cảm cho những thiếu sót khi thực hiện nghĩa vụ của đối
phương. Đặc biệt sự vận dụng nguyên tắc này trong một số hoàn cảnh đặc thù
có thể coi là tạo ra ngoại lệ cho nguyên tắc hiệu lực ràng buộc của hợp đồng,
đó là trong trường hợp thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi. Nguyên
tắc thực hiện đúng và đủ nghĩa vụ hợp đồng là quan trọng nhất và được ưu
tiên hàng đầu: “Thực hiện đúng hợp đồng, đúng đối tượng, chất lượng, số
lượng, chủng loại, thời hạn, phương thức và các thoả thuận khác”.
Nguyên tắc tập quán được đề cập như là một trong những nguyên tắc cơ
bản của pháp luật hợp đồng nói riêng và pháp luật dân sự nói chung. Một nền
pháp luật theo hệ thống dân luật thường có hai nguồn cơ bản là luật thành văn
và tập quán pháp. BLDS Việt Nam đặt thứ tự ưu tiên áp dụng của tập quán
chỉ sau thỏa thuận của các bên và luật thành văn. Đặc điểm chính yếu của tập
quán là có nội dung rõ ràng đủ để xác định quyền và nghĩa vụ của chủ thể,
được hình thành và lặp đi lặp lại nhiều lần trong thời gian dài và được mọi
người cùng thừa nhận như là những quy tắc ràng buộc.
Khi xây dựng chế định hợp đồng của BLDS các nhà làm luật đều tôn
trọng quyền những nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật hợp đồng Việt
63
Nam. Vì vậy, trong quá trình hoàn thiện pháp luật về HĐGC, cần phải đảm
bảo nguyên tắc tự do ý chí, nguyên tắc thiện chí và tập quán, là những nguyên
tắc cơ bản của pháp luật dân sự.
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng gia công phải đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ giữa BLDS và LTM
Để tạo điều kiện xây dựng hệ thống các quy định của pháp luật dân sự
thống nhất, đồng bộ, không chồng chéo và mâu thuẫn, cần giải quyết đúng
đắn và dứt điểm mối quan hệ giữa BLDS với các đạo luật chuyên ngành, cụ
thể là LTM. Phương hướng xử lý mối quan hệ này là phải xoá bỏ tình trạng
lấy cái chung thay cho cái riêng, cái cụ thể, trộn lẫn cái chung với cái riêng
hay trộn cái riêng vào cái chung như đã làm khi xây dựng BLDS; cần thiết kế
ngay mô hình hệ thống các quy định, các văn bản pháp luật dân sự.
Các vấn đề dân sự vừa được quy định trong BLDS, vừa được quy định
tại các đạo luật chuyên ngành, nhưng có sự phân công hợp lý theo hướng,
BLDS chỉ quy định nội dung chung của tất cả các lĩnh vực, còn đạo luật
chuyên ngành cụ thể hoá các quy định chung để tránh chồng chéo, mâu thuẫn
nhau. Thực tiễn trong lĩnh vực liên quan đến hoạt động gia công cho thấy
rằng, sẽ thuận lợi hơn cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân khi áp dụng pháp
luật, nếu BLDS chỉ quy định các vấn đề chung cho tất cả các lĩnh vực dân sự,
còn LTM cụ thể hoá các quy định chung của BLDS vào điều kiện cụ thể. Mặt
khác, BLDS là đạo luật chung nên đòi hỏi phải có sự ổn định cao, trong khi
đó, LTM luôn biến đổi cùng với sự phát triển không ngừng của đời sống kinh
tế, xã hội trong lĩnh vực thương mại. Do đó, khi sửa đổi, bổ sung các văn bản
thì phải đồng thời sửa đổi, bổ sung cả Bộ luật và các đạo luật chuyên ngành
liên quan.
Về mặt lý luận cũng như thực tiễn, các quy định pháp luật dân sự sẽ là
một hệ thống thống nhất trong đa dạng, tạo điều kiện để xoá tình trạng chồng
chéo, mâu thuẫn đã tồn tại trong suốt thời gian qua, đáp ứng yêu cầu nâng cao
64
hiệu quả pháp lý điều chỉnh các mối quan hệ dân sự hết sức phong phú, đa
dạng trong các lĩnh vực kinh tế – xã hội. Để bảo đảm hiệu lực và hiệu quả
pháp lý điều chỉnh các quan hệ xã hội, bất kỳ hệ thống quy phạm pháp luật
chuyên ngành nào cũng phải bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ.
Để xác định phạm vi, nội dung cụ thể của BLDS và LTM trong việc điều
chỉnh các mối quan hệ dân sự, cần nghiên cứu và xử lý một cách chính xác,
khoa học mối quan hệ giữa BLDS với LTM; mặt khác, cần xác định cụ thể và
khoa học mô hình hệ thống các quy phạm pháp luật dân sự. Việc sửa đổi, bổ
sung BLDS cũng như việc soạn thảo một loạt các văn bản mới liên quan hiện
nay là dịp tốt để chúng ta xử lý dứt điểm vấn đề này, bảo đảm cho hệ thống
pháp luật dân sự thống nhất, đồng bộ, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã
hội và hội nhập kinh tế quốc tế.
BLDS là đạo luật cơ bản nhất của mỗi quốc gia; tại Việt Nam, BLDS có
vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống pháp luật, là nền tảng của
hệ thống luật tư mà các ngành luật khác phải tuân theo. Do đó, quá trình hoàn
thiện các quy định về HĐGC phải đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ giữa
BLDS và LTM là tất yếu.
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng gia công phải đảm bảo hài hòa giữa các nhóm lợi ích
Hợp tác là sự thỏa thuận giữa các cá nhân, pháp nhân về việc cùng đóng
góp tài sản hoặc công sức để thực hiện công việc nhất định, cùng hưởng lợi và
cùng chịu trách nhiệm; Các cá nhân, pháp nhân cùng hợp tác, liên kết với
nhau bằng một hợp đồng để cùng sản xuất, kinh doanh đạt hiệu quả cao hơn.
HĐGC là một dạng của hợp đồng thương mại, vì vậy, có những điểm đáng
chú ý như: (1) HĐGC ra đời trên cơ sở thỏa thuận của các bên, có sự thỏa
thuận, thống nhất ý chí của các bên tham gia. Các bên thỏa thuận nội dung cơ
bản trong hợp đồng, quy định đối tượng, nội dung cũng như quyền và nghĩa
vụ khác. (2) Chủ thể tham gia HĐGC là các cá nhân, pháp nhân. Pháp luật
65
cho phép mọi cá nhân, pháp nhân thỏa mãn các điều kiện luật định đều được
tham gia vào ký kết hợp đồng. Các chủ thể nhằm thực hiện một công việc,
cùng hưởng lợi ích từ kết quả công việc đem lại. (3) Mục đích của HĐGC là
cùng thực hiện công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm.
Các chủ thể phải thỏa thuận cụ thể công việc cùng hợp tác, cách thức chia sẻ
lợi ích cũng như cơ chế chịu trách nhiệm đối với các chủ thể tham gia hợp
đồng. Quá trình thực hiện công việc, chia sẻ lợi ích, chịu trách nhiệm đối với
các thiệt hại phát sinh trong quá trình thực hiện công việc tuân thủ theo các
nguyên tắc mà các bên thỏa thuận. Cả BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015
đều thừa nhận mục đích của hợp đồng hợp tác là nhằm thỏa thuận về việc
cùng nhau tiến hành các hoạt động sản xuất, gia công, lắp ráp và thu lợi
nhuận. Trong trường hợp, một quan hệ xã hội chỉ phát sinh tranh chấp khi lợi
ích giữa các chủ thể bị xâm phạm, không được đảm bảo thì pháp luật xuất
hiện nhằm điều hòa các xung đột về lợi ích bảo vệ trật tự công cộng.
3.1.4. Hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng gia công trên cơ sở hội nhập, phù hợp với thông lệ quốc tế
Trong một thế giới hiện đại, sự phát triển của kinh tế thị trường đòi hỏi
các quốc gia phải mở rộng thị trường, hình thành thị trường khu vực và quốc
tế. Đây chính là động lực chủ yếu thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế.
Từ những thập niên cuối của thế kỷ XX cho đến nay, cùng với sự phát triển
mạnh mẽ của khoa học - kỹ thuật đã thúc đẩy sự phát triển vượt bậc các lĩnh
vực của đời sống xã hội và xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất. Quá trình
xã hội hóa và phân công lao động ở mức độ cao đã vượt ra khỏi phạm vi biên
giới quốc gia và được quốc tế hoá ngày một sâu sắc. Sự quốc tế hoá như vậy
thông qua việc hợp tác ngày càng sâu giữa các quốc gia ở tầm song phương,
tiểu khu vực, khu vực và toàn cầu. Về bản chất, hội nhập quốc tế chính là một
hình thức phát triển cao của hợp tác quốc tế. Hội nhập quốc tế cũng như các
66
hình thức hợp tác quốc tế khác đều vì lợi ích quốc gia, dân tộc.
Hiện nay hội nhập quốc tế không chỉ dừng lại ở một vài lĩnh vực mà hội
nhập một cách toàn diện, trên mọi mặt; để không đứng ngoài xu hướng đó,
Việt Nam cần phải điều chỉnh pháp luật của mình xích gần hơn với pháp luật
thế giới. Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất,
khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới căn
bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của
pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển
kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực
hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, góp phần đưa nước
ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
3.2. Các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt
hại do vi phạm hợp đồng gia công may mặc ở Việt Nam hiện nay
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật hợp đồng Việt Nam để
hiểu rõ các nguyên nhân hạn chế, bất cập để tìm các giải pháp, việc đề xuất
hoàn thiện pháp luật hợp đồng Việt Nam, cụ thể trong việc áp dụng biện pháp
BTTH do vi phạm hợp đồng nói chung và do vi phạm HĐGCMM nói riêng là
việc cần thiết cả về lý luận và thực tiễn. Trong đó, cần đảm bảo sự thống nhất
của các văn bản pháp luật. Việc hoàn thiện các quy định pháp luật về BTTH
do vi phạm HĐTM không thể tiến hành một cách độc lập mà phải tính đến sự
thống nhất, tính đồng bộ trong toàn hệ thống pháp luật, tránh sự chồng chéo,
mâu thuẫn, đặc biệt phải xét đến mối quan hệ giữa BLDS với LTM. Cụ thể:
Thứ nhất, cần sửa đổi LTM 2005 để có sự thống nhất với BLDS 2015
trong việc ghi nhận yếu tố lỗi là một trong các căn cứ phát sinh trách nhiệm
BTTH, trong việc xác định vi phạm phải bồi thường toàn bộ thiệt hại về vật
chất và tinh thần cho bên bị thiệt hại.
Thứ hai, cần sửa đổi LTM 2005 để việc xác định giá trị BTTH cho phép
67
thoả thuận. Việc các bên được thoả thuận trước mức BTTH bằng cách xác
định trước một khoản tiền BTTH cụ thể trong hợp đồng sẽ tạo điều kiện thuận
lợi và linh hoạt hơn cho các bên khi tham gia hợp đồng, tiết kiệm được thời
gian giải quyết tranh chấp khi các bên không thống nhất được với nhau về giá
trị thiệt hại cần phải bồi thường.
Thứ ba, cần sửa đổi LTM 2005 các quy định về miễn trách nhiệm BTTH
do vi phạm hợp đồng ở một số điểm chưa rõ ràng và còn thiếu, như: phải quy
định rõ sự kiện bất khả kháng xảy ra với chính chủ thể trong quan hệ hợp
đồng hay sự kiện bất khả kháng xảy ra với bên thứ ba, phải quy định về thoả
thuận về miễn trách nhiệm giữa các chủ thể trong hợp đồng.
Yêu cầu sửa đổi và hoàn thiện LTM đang là nhu cầu cần thiết hiện nay
để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nói chung và các doang nghiệp trong
lĩnh vực gia công may mặc nói riêng được phát triển thuận lợi trong nền kinh
tế thị trường thì cần thực hiện nhiều giải pháp:
Thứ nhất, nghiên cứu cơ chế điều chỉnh phù hợp với đường lối phát triển
kinh tế thị trường ở Việt Nam với thị trường kinh tế các nước. Pháp luật về
BTTH do vi phạm hợp đồng cần đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các chủ
thể trong nền kinh tế, trong đó có quyền tự do hợp đồng và đảm bảo điều
chỉnh có hiệu quả các quan hệ kinh tế, tạo ra những đảm bảo cần thiết về mặt
pháp lý để cho các chủ thể có thể thực hiện được quyền tự do kinh doanh của
mình. Để đáp ứng yêu cầu này, việc hoàn thiện các quy định phải theo hướng
chi tiết hoá các quy định hiện còn nhiều cách hiểu khác nhau, lược bỏ những
quy định cứng nhắc nhằm hạn chế sự can thiệp không cần thiết của Nhà nước
vào sự thoả thuận của các bên.
Thứ hai, hoàn thiện các quy định của pháp LTM theo hướng tạo điều
kiện cho các hoạt động thương mại được phát triển thuận lợi trong nền kinh tế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa tại
Việt Nam hiện nay [6].
Thứ ba, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Xu thế
68
hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới đang đặt ra yêu cầu cần phải xoá
bỏ sự khác biệt không cần thiết trong pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế
cũng như các tập quán thương mại quốc tế, nhất là trong lĩnh vực pháp luật về
hợp đồng. Các chuẩn mực chung của thương mại quốc tế đang được Việt
Nam từng bước áp dụng. Tuy nhiên, để học hỏi kinh nghiệm của pháp luật các
nước và pháp luật quốc tế một cách có chọn lọc và có hiệu quả, đòi hỏi chúng ta
phải có những nghiên cứu sâu sắc và toàn diện về từng hệ thống pháp luật pháp
luật, về bản chất, cấu trúc cũng như phương thức vận hành của nó, bên cạnh đó
là những điều kiện kinh tế, xã hội mà nó được sinh ra và tồn tại.
Thứ tư, các quy định của pháp LTM phải có tính khả thi cao, có tính dự
báo tốt, minh bạch, cụ thể, dễ áp dụng và phù hợp với thực tiễn hoạt động
thương mại trong nước cũng như quốc tế.
Thứ năm, bảo đảm hoạt động quản lý Nhà nước về thương mại phát huy
được hiệu quả nhưng không gây cản trở cho các hoạt động thương mại hợp
pháp trên thị trường [6].
3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bồi thường
thiệt hại do vi phạm hợp đồng gia công may mặc ở Việt Nam hiện nay
Một là, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo môi trường thuận lợi để
pháp luật đi vào cuộc sống
Một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, minh bạch, ít lỗ hổng, không chồng
chéo, mâu thuẫn sẽ tự có sức mạnh để đi vào cuộc sống, được xã hội chấp
nhận, thừa nhận và tuân thủ. Đó là một hệ thống pháp luật bảo đảm các yếu tố
đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch [5]. Một hệ thống pháp
luật tốt sẽ giúp các Doanh nghiệp nắm rõ, hiểu rõ quy định pháp luật, vận
dụng một cách hiệu quả vào việc soạn thảo HĐGCMM một cách chặt chẽ, rõ
ràng. Từ đó hạn chế được các bất đồng trong BTTH khi vi phạm xẩy ra.
Cùng với đó, tăng cường hơn nữa quyền tham gia đóng góp ý kiến của
Doanh nghiệp vào các dự án luật. Việc tham gia đóng góp ý kiến của Doanh
nghiệp vào dự án luật có tác dụng tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
69
rất lớn và giúp cho luật ban hành sát với thực tế.
Hai là, kết hợp phổ biến, giáo dục pháp luật với hướng dẫn áp dụng
pháp luật, trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật
Phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật và hoà
giải ở cơ sở có mối quan hệ mật thiết trong việc xây dựng ý thức pháp luật,
tăng cường sự hiểu biết pháp luật, khuyến khích thói quen ứng xử xã hội bằng
pháp luật trong Doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng, hiệu quả và mở rộng đối
tượng, phạm vi hoạt động trợ giúp pháp lý lưu động để bảo đảm mọi người
dân đều có khả năng được hưởng dịch vụ này khi cần thiết [5].
Khi đất nước càng ngày càng phát triển, sự giao lưu thương mại giữa
Việt Nam và các nước trên thế giới diễn ra sôi động. Thực tế cho thấy, kim
ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa Dệt may những năm gần đây tăng mạnh, việc
ký kết HĐGCMM xuất khẩu ngày càng nhiều. Đòi hỏi Doanh nghiệp cần phải
tìm hiểu pháp luật thương mại quốc tế để soạn thảo, ký kết HĐGC một cách
chặt chẽ, logic và tránh được những thiệt hại kinh tế không đáng có. Do vậy,
cần tích cực hỗ trợ tư vấn pháp luật cho các thương nhân trong nước khi giao
kết HĐGC với thương nhân nước ngoài. Khai thác và phát huy tác dụng, hiệu
quả của hình thức trợ giúp pháp lý, luật sư, tư vấn pháp luật, hoà giải cơ sở
khi thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật.
Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp có trách nhiệm, giàu kiến
thức, kỹ năng, trong sạch hướng đến nâng cao chất lượng giải quyết tranh
chấp HĐGCMM
Đối với giải quyết tranh chấp hoạt động gia công thương mại nói chung
và giải quyết tranh chấp HĐGCMM nói riêng thì hoạt động phổ biến pháp
luật phụ thuộc rất lớn vào đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước bởi họ vừa là
chủ thể chấp hành pháp luật, vừa là chủ thể tổ chức, triển khai đưa pháp luật
vào hoạt động thực tiễn của nhân dân. Nâng cao trình độ lãnh đạo quản lý,
phẩm chất đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ, công chức là nâng cao hiệu quả
trong việc hòa giải, xét xử các vụ tranh chấp, tránh việc khiếu kiện lên nhiều
70
cấp khác nhau, thời gian vụ án kéo dài và tốn kém.
Bốn là, doanh nghiệp cần nâng cao những kiến thức, kỹ năng trong
đàm phán, ký kết HĐGCMM
Về phía các doanh nghiệp, cần trú trọng ngay cả khâu soạn thảo dự thảo
HĐGCMM, đặc biệt là với thương vụ lớn hoặc có yếu tố quốc tế. Trong
HĐGCMM cần có thỏa thuận cụ thể về chế tài BTTH. Cần cẩn trọng điều
khoản thỏa thuận vi phạm có liên hệ trực tiếp đến nghĩa vụ, trách nhiệm của
mỗi bên. Biện pháp chế tài này càng chi tiết, rõ ràng thì càng tốt. Những điều
khoản chưa rõ hoặc chưa hiểu một cách thấu đáo cần tham khảo tư vấn pháp
lý để có những quyết định đúng đắn. Những chế tài cần phải khả thi, đúng
quy định pháp luật để không bị vô hiệu và thực hiện được. Không nên coi chế
tài để làm khó nhau, mà là biện pháp đảm bảo thực hiện đúng HĐGCMM và
hướng giải quyết khi xảy ra vi phạm, nhằm đảm bảo quyền lợi cho các bên.
Trong quá trình thực hiện HĐGCMM phải theo dõi, ghi nhận, khi có dấu hiệu
vi phạm phải nhanh chóng thu thập chứng cứ để chứng minh. Thông báo kịp
thời bằng văn bản khi bị vi phạm, nêu yêu cầu, biện pháp, khắc phục hoặc
ngăn chặn. Đối với các hợp đồng có giá trị lớn, tình tiết phức tạp thì nên mời
luật sư hỗ trợ pháp lý, tham gia giải quyết ngay từ đầu.
Năm là, doanh nghiệp cần dự tính cho những rủi ro trong việc ký kết,
thực hiện HĐGCMM
Ngoài những rủi ro xuất phát từ lý do chủ quan, có thể kiểm soát của các
bên thì trên thực tế còn có những rủi ro đến bất ngờ, mang tính chất khách
quan làm cho các bên không thể thực hiện đúng với giao kết HĐGCMM. Đó
là những trở ngại khách quan như các tác động của các yếu tố thị trường sản
phẩm và các sự kiện bất khả kháng như đình công, hỏa hoạn, dịch bệnh.
Trong quá trình thực hiện, một trong các bên có thể rơi vào tình thế bất khả
kháng, trở ngại khách quan dẫn đến việc không hoàn thành nghĩa vụ quy định
trong hợp đồng gây nên thiệt hại không mong muốn. Sự kiện bất khả kháng là
sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể
71
khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho
phép. Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác
động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền,
lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền
hoặc nghĩa vụ dân sự của mình. Những rủi ro nêu trên sẽ dẫn đến hậu quả hợp
đồng thương mại bị vô hiệu toàn bộ hoặc một phần; khi xảy ra tranh chấp,
quyền và lợi ích của nhà đầu tư kinh doanh không được đảm bảo gây ra
những thiệt hại lớn về tài sản, uy tín, hoạt động, ... của doanh nghiệp. Do vậy,
doanh nghiệp cần dự tính đặc biệt là với các trở ngại khách quan để tránh
những tổn hại khó phục hồi cho các vấn đề tài chính, kinh doanh và sản xuất
72
của mình.
Tiểu kết chương 3
Như vậy, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, các quy định của pháp
luật Việt Nam, cụ thể là BLDS và LTM, về BTTH còn có những hạn chế nhất
định trong áp dụng vào thực tế, điều này khiến các doanh nghiệp và cả các cơ
quan thực thi pháp luật gặp nhiều khó khăn trong quá trình vận dụng để giải
quyết các tranh chấp thương mại về vi phạm ĐHGC nói chung và HĐGCMM
nói riêng.
Chương này đã chỉ ra những hạn chế của pháp luật hiện tại về BTTH cho
việc vi phạm HĐGC và HĐGCMM chưa phù hợp với thực tiễn đời sống hiện
nay. Nhìn chung, các bộ luật có liên quan đến HĐGC và HĐGCMM cũng
như BTTH khi có vi phạm, cụ thể là BLDS và LTM chưa quy định đầy đủ,
chi tiết về hợp đồng và các chi tiết liên quan. Sự thiếu sót này dẫn đến những
khó khăn trong thực thi pháp luật của các cơ quan liên quan như tòa án, trọng
tài kinh tế. Điều này dẫn đến một nhu cầu cần thiết về việc tuyển chọn những
người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ pháp lý chuyên ngành cao để
phân tích các điều khoản của hợp đồng và quy định của pháp luật, từ đó làm
giảm thiểu án oan và bảo vệ được lợi ích chính đáng của các bên liên quan.
Trong chương 3, luận văn này cũng đề xuất một số giải pháp cho doanh
nghiệp, đưa ra các vấn đề doanh nghiệp cần lưu ý khi đàm phán, soạn thảo và
kí kết hợp đồng. Đặc biệt là các chú ý khi các bên thỏa thuận với nhau về điều
khoản BTTH, cần lưu ý những vấn đề gì để khi có tranh chấp xảy ra không vì
73
điều khoản mình kí kết mà bị mất đi quyền lợi chính đáng.
KẾT LUẬN
Nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta đã có
lịch sử hơn 30 năm. Trong quá trình vận hành nền kinh tế thị trường, vai trò
của luật pháp và các tổ chức trọng tài kinh tế đóng vai trò quan trọng, đặc biệt
là trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại, trong đó có việc BTTH do
vi phạm ĐHGCMM. Một thực tế đáng chú ý là pháp luật Việt Nam hiện nay
chưa thực sự theo kịp sự vận hành và phát triển nhanh chóng của nền kinh tế.
Cho đến gần đây, đã có rất nhiều tài liệu, công trình khoa học nghiên cứu về
hợp đồng và BTTH do vi phạm hợp đồng trong thương mại nói chung và
HĐGC nói riêng tại Việt Nam. Xuất phát từ các quy định của pháp luật Việt
Nam hiện hành, các tài liệu liên quan như BLDS và LTM, thông qua xem xét
thực tiễn áp dụng việc BTTH do vi phạm HĐGC mà cụ thể là HĐGCMM ở
nước ta, luận văn đã đi sâu nghiên cứu và phân tích để có được một cái nhìn
toàn diện hơn, sâu sắc hơn, đánh giá đúng về thực trạng pháp luật về BTTH do
vi phạm HĐGCMM hiện nay. Đồng thời, luận văn cũng phân tích, đánh giá các
thay đổi trong văn bản luật, so sánh với một số bản án thực tế nhằm đưa ra một
số kiến nghị đối với việc hoàn thiện, chỉnh sửa, bổ sung và để áp dụng vào thực
tế các quy định pháp luật về BTTH do vi phạm HĐGCMM ở Việt Nam hiện
nay có hiệu quả cao hơn.
Trên cơ sở kế thừa những nghiên cứu trước đây, luận văn đã cập nhật, bổ
sung thêm các phân tích và đánh giá những vấn đề cơ bản nhất về BTTH do vi
phạm HĐGCMM cũng như so sánh với các quy định mới nhất của pháp luật
liên quan, luận văn đưa ra các kết luận sau:
Thứ nhất, chế tài BTTH được áp dụng rất phổ biến. Đặc biệt là khi có vi
phạm trong HĐGCMM, nó được các bên áp dụng để răn đe và bồi hoàn
74
những tổn thất do hành vi vi phạm gây ra.
Thứ hai, một số quy định về chế tài BTTH trong LTM còn chưa hợp lí,
cần xem xét và sửa đổi lại các quy định này để LTM phù hợp hơn với
thực tiễn phát triển của Việt Nam.
Thứ ba, BLDS 2015 mới được ban hành tuy có nhiều cải tiến mới hơn so
với BLDS cũ nhưng có nhiều quy định còn gây tranh cãi, đặc biệt là
quy định nếu có thỏa thuận về phạt vi phạm mà không có thỏa thuận về
BTTH trong hợp đồng thì không được áp dụng chế tài BTTH.
Thứ tư, để hạn chế tình trạng mất đi quyền lợi chính đáng khi có vi phạm
xảy ra, các doanh nghiệp Việt Nam cần lưu ý cẩn trọng và chuẩn bị kỹ
hơn trong suốt quá trình trước, trong cũng như sau khi đàm phán, ký
kết hợp đồng.
Các nội dung trên tác giả đưa ra đều xuất phát từ góc độ lý luận kết hợp
với phân tích thực tiễn và cũng chỉ ra những khiếm khuyết của pháp luật trong
việc quy định về chế tài phạt vi phạm và BTTH. Trong quá trình hoàn thành
luận văn, do nhiều nguyên nhân khác nhau nên luận văn không tránh khỏi các
hạn chế và thiếu sót nhất định, do vậy trong thời gian tới tác giả sẽ cần tiếp
75
tục nghiên cứu và hoàn thiện hơn nữa đề tài này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Hoàng Anh (2019), BTTH do vi phạm hợp đồng dịch vụ vận
tải bằng đường không theo pháp luật Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc
sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội
2. Phan Thông Anh (2008), So sánh những điều mới - Luật thương mại
1997 và luật thương mại 2005, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
3. Chính phủ (2013), Nghị định số 187/2013/NĐ-CP hướng dẫn Luật
Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế và hoạt động đại lý
mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài.
4. Chính phủ (2018), Nghị định số 69/2018/NĐ-CP quy định chi tiết một số
điều của Luật quản lý ngoại thương.
5. Lương Văn Đăng, Nâng cao hiệu quả hoạt động tuyên truyền, phổ biến
và thực thi pháp luật, https://www.quanlynhanuoc.vn/2019/09/21/nang-
cao-hieu-qua-hoat-dong-tuyen-truyen-pho-bien-va-thuc-thi-phap-luat/.
6. Nguyễn Thị Hồng Điệp, Pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do vi phạm hợp đồng thương mại và thực tiễn áp
dụng,https://tapchitoaan.vn/bai-viet/kinh-doanh/phap-luat-ve-trach-
nhiem-boi-thuong-thiet-hai-do-vi-pham-hop-dong-thuong-mai-va-thuc-
tien-ap-dung/.
7. Bùi Thị Thanh Hằng (2018), BTTH do vi phạm hợp đồng, Luận án Tiến
sĩ, Đại học Luật Hà Nội.
8. Nguyễn Ngọc Khánh (2007), Chế định hợp đồng trong bộ luật dân sự
Việt Nam, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.
9. Hoàng Văn Ninh (2006), Các quy định của pháp luật về hợp đồng và
mẫu hợp đồng, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
10. Lê Thị Kiều Oanh, Phát triển ngành Dệt may Việt Nam trong tình hình
hiện nay, http://www.vinatexvsc.com/tin-tuc/tin-trong-nganh/phat-trien-
76
nganh-det-may-viet-nam-trong-tinh-hinh-hien-nay-836.html/.
11. Nguyễn Như Phát (2002), Luật kinh tế Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
12. Trần Đăng Thành (2017), Trách nhiệm BTTH do vi phạm hợp đồng viễn
thông ở Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội
13. Hoàng Thị Thu Thủy (2017), Chế tài phạt vi phạm và BTTH trong hợp
đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật thương mại Việt Nam, Luận văn
Thạc sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội
14. Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (2015), Bản án số:
65/2015/KDTM-ST;Về việc tranh chấp hợp đồng gia công, tp Hồ Chí Minh.
15. Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (2014), Bản án số:
12/2014/KDTM-ST, về việc tranh chấp về hợp đồng kinh doanh thương
mại gia công, tp Hồ Chí Minh.
16. Tòa án nhân dân tối cao, Thống kê
,https://www.congbobanan.toaan.gov.vn/6tatcvn/Thong-ke/.
17. Tổng cục Thống kê (2017), Tổng quan về hoạt động gia công với thương
nhân nước ngoài, https://www.gso.gov.vn › Modules › Doc_Download.
18. Trường đại học Luật Hà Nội (2000), Giáo trình luật kinh tế, Nhà xuất
bản Công an nhân dân, Hà Nội.
19. Trường đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình luật dân sự Việt Nam,
Tập I, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.
20. Trường đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình luật dân sự Việt Nam,
Tập II, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.
21. Trường đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình luật thương mại, Tập I,
Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.
22. Trường đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình luật thương mại, Tập II,
77
Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.