VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ THU HẰNG

BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG

GIA CÔNG MAY MẶC THEO PHÁP LUẬT

VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ THU HẰNG

BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG

GIA CÔNG MAY MẶC THEO PHÁP LUẬT

VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Luật kinh tế

Mã số: 8 38 01 07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG

HÀ NỘI, 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các

kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào

khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,

tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán

tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học Viện Khoa học xã hội.

Vậy tôi xin viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật - Học Viện Khoa

học xã hội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Phạm Thị Thu Hằng

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................................. i

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT .......................................................................................... iii

MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG GIA CÔNG MAY MẶC .................................................................. 7

1.1. Hợp đồng gia công may mặc ..................................................................................... 7

1.2. Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng gia công may mặc. ............................... 15

Tiểu kết chương 1 ........................................................................................................... 33

Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG GIA CÔNG MAY MẶC VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................................................................................... 34

2.1. Thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng gia công may

mặc ở Việt Nam hiện nay ................................................................................................ 34

2.2. Thực tiễn về BTTH do vi phạm HĐGCMM ở Việt Nam hiện nay ......................... 46

2.3. Đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng

gia công may mặc ở Việt Nam hiện nay ......................................................................... 53

Tiểu kết chương 2 ........................................................................................................... 60

Chương 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG THỰC HIỆN BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG GIA CÔNG MAY MẶC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .............................................................. 62

3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng gia

công may mặc ở Việt Nam hiện nay ............................................................................... 62

3.2. Các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm

hợp đồng gia công may mặc ở Việt Nam hiện nay ......................................................... 67

3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi

phạm hợp đồng gia công may mặc ở Việt Nam hiện nay ............................................... 69

Tiểu kết chương 3 ........................................................................................................... 73

KẾT LUẬN .......................................................................................................................... 74

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................... 76

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BLDS Bộ luật Dân sự

BLTTDS Bộ luật Tố tụng Dân sự

LTM Luật Thương Mại

HĐGC Hợp đồng gia công

HĐGCMM Hợp đồng gia công may mặc

BTTH Bồi thường thiệt hại

United Nations Convention on Contracts for the

International Sale of Goods ( Vienna Convention 1980) CISG Công ước của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán

hàng hóa quốc tế (Công ước Viên 1980)

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong những năm gần đây, số lượng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh

vực gia công ở nước ta không ngừng tăng lên. Các doanh nghiệp này hoạt

động sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực chính như dệt may, da giày, điện

tử, đồ gỗ…, tập trung chủ yếu ở các tỉnh, thành phố như Hà Nam, Hưng Yên,

Hải Dương, Bắc Ninh, … ở phía Bắc và Bình Dương, Đồng Nai, Tây Ninh,

Long An, TP.HCM… ở phía Nam.

Thực tế cho thấy rằng, các doanh nghiệp gia công đóng vai trò quan

trọng trong nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là ở lĩnh vực gia công hàng may

mặc, đã giải quyết được nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Nhằm đề

cao vai trò của các doanh nghiệp gia công đối với nền kinh tế, trong bối cảnh

của việc tiến hành cải cách thủ tục hành chính để tạo thuận lợi cho hoạt động

của giới doanh nghiệp, trong đó có lĩnh vực gia công may mặc, chính phủ

Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách ưu đãi để thu hút đầu tư, tạo điều

kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này.

HĐGC nói chung là công cụ để phản ánh ý chí, yêu cầu của bên đặt gia công

và bên nhận gia công trong việc thiết lập mối quan hệ pháp lý giữa hai bên.

Mối quan hệ kiểu này hết sức phổ biến trong đời sống xã hội và thuật ngữ

“gia công” cũng được sử dụng nhiều trong thực tế. Vì thế, khái niệm “gia

công” trong quan hệ dân sự có thể được hiểu thông qua khái niệm gia công

trong hoạt động thương mại khi xác định các yếu tố đặc trưng và bản chất của

hoạt động này.

Gia công may mặc là hành vi thương mại, theo đó bên nhận gia công thực

hiện việc gia công hàng hoá theo yêu cầu, bằng nguyên liệu, vật liệu của bên đặt

gia công để hưởng tiền gia công; bên đặt gia công nhận hàng hoá đã gia công để

1

kinh doanh thương mại và phải trả tiền gia công cho bên nhận gia công.

BTTH do vi phạm HĐGCMM là biện pháp pháp lý quan trọng có vai trò bù

đắp cho bên bị thiệt hại (bên có quyền) những tổn thất là hậu quả của hành vi

vi phạm HĐGC. Trong các hệ thống pháp luật, về nguyên tắc BTTH là biện

pháp khắc phục những thiệt hại xảy ra để đưa bên bị thiệt hại vào vị trí mà

đáng lẽ bên này sẽ có được nếu HĐGC được hoàn thành đúng trình tự. Tuy

vậy, các hệ thống pháp luật khác nhau cũng có những điểm khác biệt trong

biện pháp này như: thiệt hại được bồi thường, căn cứ áp dụng biện pháp

BTTH, cách thức xác định mức BTTH, các trường hợp được miễn trách

nhiệm BTTH, …

Việc BTTH do vi phạm HĐGCMM vốn không phải là vấn đề pháp lý

mới trong các hệ thống pháp luật hiện đại, tuy nhiên nó lại chưa có được sự

chú trọng cần thiết và cụ thể trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Ví dụ như

những thiệt hại nào có thể được bồi thường? Các căn cứ nào để áp dụng biện

pháp BTTH? Trong trường hợp nào bên vi phạm HĐGC được miễn trách

nhiệm BTTH? Đây chỉ là một vài trong vô số vấn đề vẫn chưa thực sự được

giải quyết triệt để trong pháp luật HĐGC tại Việt Nam. Trên thực tế, BTTH

do vi phạm HĐGCMM diễn ra nhiều và có các tình huống phức tạp. Số lượng

doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực gia công may mặc ngày càng nhiều,

đòi hỏi sự cần thiết để nghiên cứu về đề tài liên quan đến lĩnh vực này. Bên

cạnh đó, nhằm trình bày rõ hơn các thiếu sót và đề xuất một số ý kiến của cá

nhân về BTTH trong vi phạm HĐGCMM, tác giả đã chọn chủ đề “BTTH do

vi phạm HĐGCMM theo pháp luật Việt Nam hiện nay” làm đề tài cho

luận văn thạc sĩ ngành luật kinh tế của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

BTTH do vi phạm hợp đồng đã được một số học giả nghiên cứu. Ở khía

cạnh BTTH do vi phạm hợp đồng thì ở Việt Nam đã có một số công trình

nghiên cứu như: Nguyễn Thị Hoàng Anh (2019), BTTH do vi phạm hợp đồng

2

dịch vụ vận tải bằng đường không theo pháp luật Việt Nam hiện nay, Luận

văn Thạc sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội [1]; Hoàng Thị Thu Thủy

(2017), Chế tài phạt vi phạm và BTTH trong hợp đồng mua bán hàng hóa

theo pháp luật thương mại Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện

Khoa học xã hội [13]; Trần Đăng Thành (2017), Trách nhiệm BTTH do vi

phạm hợp đồng viễn thông ở Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện

Khoa học xã hội [12]; Bùi Thị Thanh Hằng (2018), BTTH do vi phạm hợp

đồng, Luận án Tiến sĩ, Đại học Luật Hà Nội [7].

Trong các công trình nghiên cứu nêu trên, có công trình đã đề cập khái

quát về BTTH do vi phạm hợp đồng thương mại, một số công trình nghiên

cứu sâu về BTTH trong một số lĩnh vực việc làm cụ thể, nhưng chưa có công

trình nào nghiên cứu sâu về BTTH do vi phạm HĐGCMM. Đây là luận văn

thạc sỹ đầu tiên nghiên cứu về BTTH do vi phạm HĐGCMM ở Học viện

khoa học xã hội.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận văn là thông qua việc nghiên cứu các vấn

đề lý luận và thực tiễn về việc BTTH do vi phạm HĐGCMM theo pháp luật

Việt Nam hiện nay để làm rõ và làm phong phú thêm cơ sở lý luận, thực tiễn

và pháp lý của vấn đề BTTH do vi phạm HĐGC. Từ đó, luận văn đưa ra một

số kiến nghị cụ thể để sửa đổi, bổ sung các quy định còn bất cập, thiếu sót

trong pháp luật hiện hành, hoàn thiện cơ chế pháp lý để điều chỉnh BTTH do

vi phạm HĐGCMM trong pháp luật Việt Nam hiện nay theo xu hướng hiện

đại và hội nhập, qua đó nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật hợp đồng

Việt Nam.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện những mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ cụ thể sau:

- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về BTTH do vi phạm HĐGCMM

3

theo pháp luật Việt Nam hiện nay: làm rõ khái niệm và đặc điểm của

HĐGCMM, BTTH do vi phạm HĐGCMM; làm rõ những vấn đề lý

luận về các căn cứ để áp dụng biện pháp BTTH do vi phạm HĐGC,

các trường hợp miễn trách nhiệm BTTH, xác định mức BTTH, v.v...

- Đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định và chi tiết

cụ thể của Bộ luật dân sự 2015 (BLDS 2015), Luật Thương mại 2005

(LTM 2005) và một số luật liên quan về biện pháp BTTH do vi phạm

HĐGCMM.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là BLDS năm 2015, BLDS năm

2005 và các văn bản pháp luật liên quan đến biện pháp BTTH do vi phạm hợp

đồng như LTM 2005, Luật Đầu tư năm 2016 (LĐT 2016).

Phạm vi nghiên cứu

Trên cơ sở các quy định trong các văn bản pháp lý trên đây, luận văn tập

trung nghiên cứu và làm rõ những vấn đề sau:

Thứ nhất, dựa trên các quy định của pháp luật về BTTH do vi phạm hợp

đồng nói chung, luận văn tập trung làm rõ cơ sở lý luận về HĐGCMM, BTTH

do vi phạm HĐGCMM theo pháp luật Việt Nam hiện nay.

Thứ hai, dựa trên việc so sánh các quy định về BTTH do vi phạm hợp

đồng của BLDS năm 2005, BLDS năm 2015, LTM năm 2005 và một số văn

bản pháp luật có liên quan, luận văn tập trung nghiên cứu để làm rõ những

thay đổi của BLDS năm 2015 so với BLDS năm 2005.

Thứ ba, dựa trên so sánh cơ sở lý luận, thực trạng pháp luật và thực tiễn

áp dụng pháp luật về BTTH do vi phạm HĐGCMM theo pháp luật Việt Nam

hiện nay, luận văn sẽ đưa ra những ý kiến đánh giá và những kiến nghị nhằm

hoàn thiện các quy định pháp luật về vấn đề này.

Trong thực tế, BTTH do vi phạm HĐGCMM theo pháp luật Việt Nam

4

hiện nay là một vấn đề chưa thống nhất, có mối liên hệ biện chứng với nhiều

vấn đề pháp lý quan trọng khác của luật hợp đồng, các biện pháp pháp lý để

bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của các bên. Do đó, luận văn không đặt vấn đề

giải quyết mọi vấn đề liên quan tới BTTH do vi phạm HĐGC nói chung và

HĐGCMM nói riêng mà chủ yếu tập trung vào việc nghiên cứu thực trạng và

các giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả trong thực hiện BTTH do vi

phạm HĐGCMM.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận

Việc nghiên cứu của luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật

biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Đây là kim chỉ

nam định hướng cho các phương pháp nghiên cứu cụ thể của học viên trong

quá trình thực hiện luận văn này.

Phương pháp nghiên cứu của luận văn

Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, học viên sẽ sử

dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:

- Phương pháp phân tích và bình luận để làm rõ hơn những vấn đề lý

luận và quy định của pháp luật hiện hành về BTTH do vi phạm

HĐGCMM trong pháp luật Việt Nam hiện nay;

- Phương pháp tổng hợp nhằm trình bày và khái quát hóa thực trạng

pháp luật về BTTH do vi phạm HĐGCMM theo pháp luật Việt Nam

hiện nay nhằm đưa ra những kiến nghị chỉnh sửa và bổ sung phù hợp;

Trên cơ sở áp dụng các phương pháp nghiên cứu kể trên, tác giả đưa ra

những đánh giá về cơ chế BTTH do vi phạm HĐGCMM theo pháp luật Việt Nam

hiện nay, rút ra các nhận xét và đề xuất các kiến nghị nhằm đưa pháp luật hợp

đồng kinh doanh Việt Nam nói chung và quy chế BTTH do vi phạm HĐGCMM

theo pháp luật Việt Nam hiện nay nói riêng ngày càng hoàn thiện hơn.

5

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Về phương diện lý luận, thông qua việc làm rõ một số vấn đề lý luận về

BTTH do vi phạm HĐGCMM theo pháp luật Việt Nam hiện nay, luận văn

góp phần vào việc củng cố và hoàn thiện những vấn đề còn chưa hoàn chỉnh

về hợp đồng nói chung trong khoa học pháp lý Việt Nam.

Về phương diện thực tiễn, những quan điểm và kiến nghị nhằm hoàn

thiện pháp luật Việt Nam về BTTH do vi phạm HĐGCMM được đề xuất

trong luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan thực thi

pháp luật, trọng tài kinh tế trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến

BTTH do vi phạm HĐGCMM theo pháp luật Việt Nam hiện nay. Đồng thời,

luận văn cũng là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho các cá nhân và doanh

nghiệp Việt Nam trong quá trình giải quyết tranh chấp biện pháp BTTH do vi

phạm HĐGCMM theo pháp luật Việt Nam hiện nay.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, tổng quan về tình hình nghiên cứu đề tài luận văn,

kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của luận

văn gồm 3 chương:

Chương 1. Những vấn đề lý luận về BTTH do vi phạm HĐGCMM

Chương 2. Thực trạng pháp luật về BTTH do vi phạm HĐGC và thực

tiễn áp dụng ở Việt Nam hiện nay

Chương 3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả trong

6

thực hiện BTTH do vi phạm HĐGCMM ở Việt Nam hiện nay.

Chương 1.

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI

PHẠM HỢP ĐỒNG GIA CÔNG MAY MẶC

1.1. Hợp đồng gia công may mặc

Hoạt động gia công mang lại hiệu quả kinh tế không cao song đem lại

hiệu quả về mặt xã hội, đó là giải quyết việc làm cho người lao động, góp

phần giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập cho người dân. Bên cạnh đó, hoạt

động gia công còn có vai trò rất lớn đối với các doanh nghiệp trong việc học

hỏi kinh nghiệm quản lý, sản xuất tiên tiến của các nước phát triển, tăng

cường khả năng quản lý doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp hoạt động có hiệu

quả hơn [17].

Những nước có nguồn lực về tài chính và trình độ khoa học công nghệ cao

thường dễ dàng thu hút đầu tư cho việc phát triển các ngành sản xuất công nghệ

cao, trong khi đó các nước đang phát triển với nguồn lao động dồi dào và rẻ có

lợi thế trong việc thu hút đầu tư cho các hoạt động gia công, lắp ráp. Việt Nam,

với nguồn lao động dồi dào và rẻ, đã thu hút được khá nhiều nhà đầu tư tham gia

vào lĩnh vực này trong thời gian gần đây [17]. Vì thế, hoạt động gia công, lắp ráp

hàng hóa của Việt Nam cũng diễn ra khá sôi động và ngày càng phát triển, đặc

biệt là trong lĩnh vực gia công may mặc.

1.1.1. Khái niệm hợp đồng gia công may mặc

HĐGC có thể hiểu là công cụ để phản ánh mong muốn của bên đặt gia

công và bên nhận gia công trong việc thiết lập mối quan hệ pháp lý giữa hai

bên. Mối quan hệ này hết sức phổ biến trong đời sống xã hội hiện nay, đồng

thời thuật ngữ “gia công” cũng được sử dụng nhiều trong thực tế. Tuy nhiên,

trong các văn bản pháp luật điều chỉnh đối với HĐGC trong đời sống dân sự

là BLDS các năm 1995, 2005, 2015 và cũng như các văn bản hướng dẫn thực

7

hiện BLDS đều không đề cập đến khái niệm “gia công”. Vì thế, khái niệm

“gia công” trong quan hệ dân sự phải hiểu thông qua khái niệm gia công trong

hoạt động thương mại, từ đó xác định được các đặc trưng và bản chất của hoạt

động này.

Theo LTM năm 1997, gia công là hành vi thương mại, theo đó bên nhận

gia công thực hiện việc gia công hàng hóa theo yêu cầu, bằng nguyên liệu, vật

liệu của bên đặt gia công để hưởng tiền gia công; bên đặt gia công nhận hàng

hoá đã gia công để kinh doanh thương mại và phải trả tiền phí gia công cho

bên nhận gia công. Đến LTM năm 2005, khái niệm này đã được đưa ra ngắn

gọn hơn cụ thể: Gia công trong thương mại là hoạt động thương mại, theo đó

bên nhận gia công sử dụng một phần hoặc toàn bộ nguyên liệu, vật liệu của

bên đặt gia công để thực hiện một hoặc nhiều công đoạn trong quá trình sản

xuất theo yêu cầu của bên đặt gia công để hưởng thù lao gọi là phí gia công.

Từ các quy định trên đây có thể hiểu rằng gia công là việc mà một bên (gọi là

bên nhận gia công) nhận nguyên vật liệu của một bên khác (gọi là bên đặt gia

công) để thực hiện những hành vi cụ thể theo yêu cầu và chỉ dẫn của bên đặt

gia công đồng thời được nhận thù lao tương ứng gọi là phí gia công.

Tuy nhiên, BLDS Việt Nam các năm 1995, 2005 hay 2015 đều không

đưa ra khái niệm “gia công” mà chỉ đưa ra khái niệm “HĐGC”. HĐGC là sự

thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên nhận gia công thực hiện công việc để tạo

ra sản phẩm theo yêu cầu của bên đặt gia công, bên đặt gia công nhận sản

phẩm và trả tiền công. Bên cạnh yếu tố thỏa thuận thống nhất ý chí giữa các

bên, khái niệm này nhấn mạnh đến yếu tố chủ thể, đến quyền và nghĩa vụ cơ

bản của các chủ thể. Chủ thể bao gồm bên đặt gia công và bên nhận gia công.

Bên đặt gia công là bên mong muốn thu được các sản phẩm theo những yêu

cầu riêng của mình, họ có thể cung cấp một phần hoặc toàn bộ nguyên vật

liệu và sẵn sàng trả tiền để nhận được sản phẩm đó. Bên nhận gia công là bên

có trình độ, kỹ năng để tạo ra những sản phẩm theo yêu cầu của bên gia công

8

để từ đó được nhận tiền công. Kết quả của quá trình gia công là sản phẩm vật

chất hữu hình, vật được xác định theo mẫu. Trong dân sự, sản phẩm này

thường có hình thái tồn tại hoàn chỉnh nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng nào đó

của người tiêu dùng. Tuy nhiên, trong kinh doanh thương mại, có nhiều khi

hoạt động gia công có thể được tách thành nhiều khâu liên tiếp, hình thành hệ

thống gia công phân đoạn; do đó sản phẩm gia công của một phân đoạn có thể

chưa hoàn chỉnh mà mới chỉ đáp ứng được những yêu cầu nhất định cũng

được coi là hoàn thành.

Mặc dù không có một khái niệm cụ thể nào cho “HĐGCMM” nhưng có

thể hiểu rằng: HĐGCMM là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên nhận gia

công thực hiện công việc để tạo ra sản phẩm là quần, áo, mũ, găng tay các

loại theo yêu cầu của bên đặt gia công, bên đặt gia công nhận sản phẩm và trả

tiền công. Bên đặt gia công sẽ giao cho bên nhận gia công các nguyên liệu

may mặc như vải, da, lông thú các loại; phụ liệu như chỉ, cúc, khuy kéo, dây

chun, trang trí…; công cụ dụng cụ để thực hiện như máy may, bàn là, máy

dập, ép… và các tài liệu, sơ đồ, giác mẫu để giúp bên nhận gia công thực hiện

được sản phẩm theo đúng yêu cầu về kiểu dáng, chất lượng, quy cách do bên

đặt gia công đề ra. Khi hoàn thành và giao sản phẩm gia công thì bên nhận gia

công sẽ nhận được tiền phí gia công từ phía bên đặt gia công theo thỏa thuận

của hợp đồng.

1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng gia công may mặc

HĐGCMM có những đặc điểm tương tự như các hợp đồng dân sự. Bởi

vậy, HĐGC cũng có những đặc điểm chính sau:

- Là hợp đồng song vụ: Cả hai chủ thể - bên đặt gia công và bên nhận gia

công đều có những quyền và nghĩa vụ được xác định theo hợp đồng,

trong đó quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại.

- Là hợp đồng ưng thuận: HĐGCMM có hiệu lực ngay từ thời điểm các

bên đã thỏa thuận xong các điều khoản cơ bản của hợp đồng. HĐGC

9

không bao giờ có thể được thực hiện và chấm dứt ngay tại thời điểm giao

kết, mà luôn đòi hỏi một khoảng thời gian đủ để bên nhận gia công có

thể thực hiện được việc gia công của mình. Nếu các bên không có thỏa

thuận cụ thể hơn thì thời hạn được tính là khoảng thời gian hợp lý để

thực hiện việc gia công đó.

- Là hợp đồng có đền bù: Bên đặt gia công có nghĩa vụ thanh toán tiền

công cho bên nhận gia công theo thỏa thuận trong hợp đồng. Việc không

có thỏa thuận không được hiểu là không có đền bù.

Bên cạnh việc mang đầy đủ những đặc điểm chung của hợp đồng thông

thường, với ý nghĩa là một loại hợp đồng dân sự và thương mại thông dụng,

HĐGCMM cũng có những đặc điểm riêng:

 Về mặt bản chất của HĐGCMM

Về mặt bản chất, HĐGCMM không phải là hợp đồng mua bán hàng hóa.

Mặc dù trong quá trình thực hiện hợp đồng cũng có thể xảy ra trao đổi sản

phẩm, nguyên vật liệu cấu thành nhưng đó không phải là giao dịch cốt lõi của

HĐGCMM. Việc bên đặt gia công nhận sản phẩm sau quá trình gia công cũng

không được coi là giao dịch mua bán khi sản phẩm chuyển giao không phải

hoàn toàn là sở hữu của bên nhận gia công. Quyền sở hữu sản phẩm gia công

của mỗi bên được quyết định tùy vào mức độ đóng góp nguyên vật liệu cấu

thành và giá trị gia tăng trong sản phẩm được làm ra, từ đó quyết định được

chi phí gia công là cao hay là thấp. Nếu như bên nhận gia công đóng góp càng

nhiều nguyên vật liệu và thực hiện nhiều hoạt động hơn để tạo ra nhiều giá trị

gia tăng của sản phẩm thì phí gia công sẽ càng cao và ngược lại. Thông

thường, phí gia công được chi trả chủ yếu cho việc bên nhận gia công thực

hiện những hoạt động cụ thể theo chỉ dẫn, yêu cầu của bên đặt gia công từ đó

làm gia tăng giá trị của sản phẩm; do đó về mặt bản chất, hoạt động gia công

gần với hoạt động cung ứng dịch vụ.

 Về tính chất của HĐGCMM

HĐGCMM có bản chất là hợp đồng song vụ và có đền bù. Tính song vụ

10

được thể hiện rõ ràng trong việc phân chia quyền và nghĩa vụ giữa bên đặt gia

công và bên nhận gia công. Mỗi bên chủ thể đều vừa có quyền lại vừa có

nghĩa vụ dân sự đối ứng. Tuy nhiên, quyền và nghĩa vụ đối ứng của các chủ

thể trong HĐGCMM cũng có những điểm khác biệt so với các loại hợp đồng

khác. Cụ thể, bên nhận gia công vừa có thể có quyền yêu cầu bên đặt gia công

phải chuyển cho mình các nguyên vật liệu đạt tiêu chuẩn về số lượng, chất

lượng, chủng loại, tính đồng bộ, vừa có thể có nghĩa vụ cung cấp nguyên vật

liệu phù hợp. Ngược lại, bên đặt gia công vừa có thể có nghĩa vụ cung cấp

nguyên vật liệu, vừa có thể có quyền yêu cầu bên nhận gia công cung cấp

nguyên vật liệu cần thiết cho quá trình gia công. Cả quyền và nghĩa vụ của

các bên đối với việc cung cấp nguyên vật liệu phụ thuộc vào mức độ đóng

góp của các bên theo hợp đồng quy định.

Bên nhận gia công có nghĩa vụ bàn giao sản phẩm đã hoàn thành cho

bên đặt gia công, bên đặt gia công có nghĩa vụ thanh toán chi phí cần thiết cho

bên nhận gia công nhưng không phải là thanh toán cho toàn bộ giá trị sản

phẩm hoàn chỉnh mà chỉ thanh toán chi phí cho phần nguyên vật liệu mà bên

nhận gia công cung cấp và chi phí cho chuỗi hành vi tạo ra giá trị gia tăng kết

tinh trong sản phẩm cuối cùng. Vì vậy, phí gia công không phải là giá thành

sản phẩm mà chỉ là một phần trong trong đó.

Về tính đền bù, bên đặt gia công phải trả một khoản tiền công cho bên

nhận gia công khi họ làm ra một sản phẩm đạt yêu cầu. Cần lưu ý rằng, khoản

đền bù này có thể bao gồm hoặc không bao gồm chi phí nguyên vật liệu trong

đó, tùy thuộc vào việc bên đặt gia công cung cấp một phần hay toàn bộ

nguyên vật liệu gia công. Như vậy, có thể bóc tách tiền công thành hai phần:

một phần là tiền nguyên vật liệu mà chính bên nhận gia công bỏ ra và một

phần khác là tiền gia công sản phẩm theo yêu cầu của bên đặt gia công.

 Về đối tượng của HĐGCMM

Đối tượng của HĐGCMM là vật được xác định theo yêu cầu, xác định

11

theo mẫu, theo tiêu chuẩn do các bên thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp

luật. Vật mẫu hay tiêu chuẩn của vật gia công chỉ được hiện thực hóa (vật chất

hóa) sau khi bên nhận gia công đã hoàn thành công việc gia công. Sản phẩm

được gia công có thể là hoàn chỉnh hay chưa hoàn chỉnh phụ thuộc vào hình

thức gia công là gia công chi tiết hay gia công sản phẩm hoàn chỉnh. Thông

thường, sản phẩm được gia công theo mẫu sản phẩm cho trước. Nhiều trường

hợp, sản phẩm được tạo ra theo sự mô tả, chỉ dẫn của bên đặt gia công. Khi đó,

sản phẩm gia công thường được định hình thông qua các tiêu chí về số lượng,

chất lượng, kích thước, màu sắc, quy cách đóng gói… và vì thế đòi hỏi bên

nhận gia công phải có những kỹ năng chuyên môn chuyên biệt đối với từng loại

sản phẩm. Tóm lại, đối tượng của HĐGCMM là vật hoàn thành theo yêu cầu,

chỉ dẫn của bên đặt gia công. Đối tượng này có thể là sản phẩm hoàn chỉnh

hoặc sản phẩm chưa hoàn chỉnh.

1.1.3. Đặc trưng của hợp đồng gia công may mặc

Nói chung, HĐGCMM có đầy đủ những đặc điểm của một HĐGC nói

chung, ngoài ra nó còn có các đặc trưng riêng:

- Chủ thể: Chủ thể của HĐGCMM là các cá nhân hoặc pháp nhân có trụ

sở kinh doanh trong nước hoặc ở các nước khác nhau vì vậy mà các bên tham

gia hợp đồng phải chịu sự điều chỉnh của các pháp luật khác nhau căn cứ vào

nơi đăng ký kinh doanh.

- Đối tượng: Đối tượng của HĐGCMM là việc thực hiện một hoặc nhiều

công đoạn trong quá trình sản xuất ra sản phẩm mới là quần áo. Sản phẩm

mới được sản xuất ra theo HĐGC được gọi là hàng hóa gia công. Hàng hóa có

thể được gia công cho thương nhân nước ngoài hoặc các thương nhân trong

nước. Hàng hóa gia công mang tính chất thời trang, theo mùa do vậy gắn với

từng giai đoạn nhất định trong các thời điểm tiêu thụ trên thị trường. Nguyên

liệu, vật tư sử dụng cho gia công là vải, da thuộc, lông thú và các phụ liệu như

12

cúc, chỉ, khóa …

- Nội dung: HĐGCMM có thể bao gồm những điều khoản quy định về:

Hàng hóa gia công; Nguyên liệu, vật tư; Quyền và nghĩa vụ của các bên; Thời

gian sản xuất, thời gian giao hàng; Số lượng và phí gia công; Phương thức

thanh toán; Trách nhiệm vi phạm hợp đồng; Thủ tục giải quyết tranh chấp;

Hiệu lực. Trong đó: Điều khoản về hàng hóa gia công đề cập đến sản phẩm là

quần áo, quy cách chủng loại quần áo; Điều khoản về nguyên liệu, vật tư cụ

thể hóa số lượng, chất lượng cũng như thời điểm chuyển giao các nguyên liệu

như vải, da thuộc, lông thú. Ở một số trường hợp, các bên có thể thỏa thuận

nhờ bên nhận gia công mua hộ một số nguyên liệu, phụ liệu cần thiết. Bên đặt

gia công và bên nhận gia công cũng có những thỏa thuận về việc hỗ trợ kỹ

thuật, máy móc, công cụ dụng cụ để bên nhận gia công có thể hoàn thành sản

phẩm theo những yêu cầu của bên đặt gia công. Điều khoản về thời gian sản

xuất, thời gian giao hàng và số lượng, phí gia công là một trong những điều

khoản quan trọng trong hợp đồng. Đối với hàng hóa gia công may mặc là

quần áo thì thời điểm sản phẩm được tung ra thị trường là rất quan trọng,

quyết định sự thành công trong kinh doanh của đối tác thuê gia công trong

mùa vụ/năm đó. Điều khoản về trách nhiệm vi phạm hợp đồng sẽ là sự thỏa

thuận giữa các bên nhằm để đảm bảo mỗi bên phải có trách nhiệm thực hiện

tốt những nội dung đã nêu trong hợp đồng. Điều khoản này cũng có các quy

định cụ thể để trong trường hợp các bên vi phạm hợp đồng thì sẽ có hình thức

xử phạt, bồi thường tương ứng. Trong trường hợp không thỏa thuận được hình

thức xử phạt, bồi thường thì cần đến cơ quan nào để giải quyết tranh chấp.

- HĐGCMM cũng như các loại hợp đồng khác, quy định về quyền và

nghĩa vụ của các bên là rất quan trọng. Bên đặt gia công có nghĩa vụ đưa ra

những mong muốn cụ thể về sản phẩm gia công cả về chất lượng và số lượng

để bên nhận gia công có căn cứ mà thực hiện. Dĩ nhiên nghĩa vụ trả tiền công

đầy đủ và theo đúng thời gian là một điều bắt buộc đối với hợp đồng này.

13

Ngay từ khi nhận nguyên liệu, vật tư ban đầu, bên nhận gia công đã có nghĩa

vụ phải kiểm tra chất lượng, nếu chất lượng của những nguyên vật liệu này

không thể giúp cho bên nhận gia công có thể hoàn thành được nghĩa vụ của

mình thì bên nhận gia công có quyền yêu cầu bổ sung hoặc đổi nguyên vật

liệu khác. Bên nhận gia công có nghĩa vụ phải hoàn thành đúng tiến độ mà hai

bên đã thỏa thuận trong hợp đồng, chất lượng và số lượng sản phẩm cũng phải

đảm bảo theo như đã thỏa thuận ban đầu của các bên. Trong quá trình gia

công thì sẽ có một số trường hợp những quy trình gia công là do bên đặt gia

công cung cấp, trong trường hợp đó, bên nhận gia công phải đảm bảo giữ bí

mật về quy trình này. Bên nhận gia công còn phải có trách nhiệm với xã hội

khi mà nếu như những nguyên liệu gia công đó có thể làm nguy hại cho xã

hội. Ví dụ: Sử dụng chất nhuộm, nước thải giặt là,… rất nguy hại cho môi

trường và sức khỏe người dân, người lao động. Bên nhận đặt gia công cũng có

quyền yêu cầu bên đặt gia công cung cấp nguyên liệu và số lượng như đã thỏa

thuận với thời hạn và địa điểm cụ thể. Trong trường hợp khi các chỉ dẫn của

bên đặt gia công đối với bên nhận gia công gây ra các khó khăn trong quá

trình thực hiện gia công thì bên nhận gia công thì có quyền thỏa thuận lại về

các chỉ dẫn. Đây là một yêu cầu rất cơ bản để quá trình gia công có thể hoàn

thành được. Trong một số trường hợp, có thể yêu cầu bên đặt gia công thỏa

thuận về việc bên nhận gia công sẽ nhận được một khoản đặt cọc để có tiền

trả cho nhân viên.

Như vậy, khi các bên tham gia giao kết hợp đồng thì cần xem những

quy định của BLDS 2015 trước khi giao kết hợp đồng. Bên đặt gia công cần

phải cung cấp đầy đủ các nguyên liệu để bên nhận gia công có thể tiến hành

gia công, phải thanh toán đầy đủ và đúng hạn cho bên nhận gia công. Bên

cạnh đó, bên đặt gia công có thể hủy hợp đồng hay yêu cầu đòi BTTH nếu

bên nhận gia công gây ra thiệt hại. Đối với bên nhận gia công, phải hoàn

14

thành đầy đủ các nghĩa vụ của mình đối với việc gia công sản phẩm, được

hưởng tiền công như đã thỏa thuận và phải chịu BTTH nếu gây thiệt hại hoặc

vi phạm hợp đồng.

1.2. Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng gia công may mặc

1.2.1. Khái niệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng gia công

may mặc

Trong mọi hệ thống pháp luật, khi có hành vi vi phạm hợp đồng (khi một

bên chậm thực hiện, không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã

cam kết) thì một trong những biện pháp có thể được áp dụng nhằm khắc phục

hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng là BTTH. Theo đó, bên có hành vi vi

phạm hợp đồng phải BTTH cho bên bị vi phạm.

HĐGCMM là một phần của hợp đồng thương mại và BTTH do vi phạm

HĐGCMM cũng tương tự như trên. Trong các biện pháp khắc phục hậu quả

của hành vi vi phạm HĐGCMM, BTTH là biện pháp khắc phục mà việc áp

dụng biện pháp này đòi hỏi phải đáp ứng các căn cứ chặt chẽ hơn cả. Điều

này xuất phát từ nhận thức rằng hành vi vi phạm hợp đồng của một bên gây ra

thiệt hại cho bên kia trong quan hệ hợp đồng sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến

lợi ích vật chất của bên bị vi phạm. Do đó, bên có hành vi vi phạm hợp đồng

gây thiệt hại cho bên kia có trách nhiệm phải bù đắp những lợi ích vật chất

phù hợp nhằm khôi phục lại tình trạng của bên bị vi phạm trở về như trước

khi hành vi vi phạm xảy ra, nhằm thỏa mãn những lợi ích chính đáng mà bên

bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu HĐGCMM được thực hiện đúng.

Định nghĩa BTTH do vi phạm HĐGCMM không được đưa ra trong

BLDS, LTM. Thay vào đó, BLDS chỉ quy định các trường hợp vi phạm hợp

đồng cụ thể như chậm thực hiện nghĩa vụ, không thực hiện nghĩa vụ giao vật,

không thực hiện một công việc hay thực hiện một công việc không được phép

thực hiện hoặc chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ và buộc bên vi phạm

15

hợp đồng phải bồi thường cho bên bị vi phạm khi thiệt hại xảy ra.

BLDS năm 2015 cũng như BLDS năm 2005 không đưa ra định nghĩa

cụ thể cho BTTH do vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên, khác với BLDS năm

2005, ngoài việc ghi nhận các trường hợp có thể dẫn tới trách nhiệm BTTH

tương tự BLDS năm 2005, BLDS năm 2015 đã bổ sung quy định rằng trường

hợp có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có nghĩa vụ phải bồi

thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy

định khác, BLDS năm 2015 đã ghi nhận khái quát trách nhiệm BTTH do vi

phạm nghĩa vụ bao gồm trách nhiệm BTTH do vi phạm hợp đồng và trách

nhiệm BTTH ngoài hợp đồng. Điều này hoàn toàn hợp lý bởi hợp đồng là căn

cứ chủ yếu làm phát sinh nghĩa vụ. Bên cạnh đó, BLDS năm 2015 còn chỉ rõ

nguyên tắc của BTTH và căn cứ làm phát sinh trách nhiệm BTTH. Theo đó,

để làm phát sinh trách nhiệm BTTH đòi hỏi phải có 3 căn cứ: có hành vi vi

phạm nghĩa vụ; có thiệt hại; có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm

nghĩa vụ và thiệt hại xảy ra [7,tr.30].

Khác với BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015, LTM năm 2005 đưa ra

cách hiểu về BTTH là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi

vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm. Như vậy, có thể nhận thấy LTM

năm 2005 đã tiếp cận BTTH do vi phạm hợp đồng dưới góc độ là quyền yêu

cầu của bên có quyền lợi bị vi phạm đối với bên vi phạm, theo đó bên vi

phạm phải trả tiền BTTH do vi phạm hợp đồng gây ra.

Trên cơ sở những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm BTTH do vi

phạm HĐGCMM như sau:

BTTH do vi phạm HĐGCMM là biện pháp khắc phục hậu quả của hành

vi vi phạm HĐGCMM, nhằm bảo đảm cho trách nhiệm dân sự theo

HĐGCMM được thực hiện bằng cách bù đắp những tổn thất là hậu quả của

hành vi vi phạm HĐGCMM do bên vi phạm HĐGCMM gây ra cho bên bị vi

16

phạm.

1.2.2. Đặc điểm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng gia công

may mặc

- Các đặc điểm chính của BTTH

Về cơ sở pháp lý: Trách nhiệm BTTH là một loại trách nhiệm dân sự và

chịu sự điều chỉnh của pháp luật dân sự. Khi một người gây ra tổn thất cho

người khác thì họ phải thực hiện BTTH. Ở đây, BTTH chính là một loại quan

hệ về mặt tài sản, do luật dân sự điều chỉnh và được quy định trong BLDS

năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành BLDS.

Về điều kiện phát sinh: Trách nhiệm BTTH chỉ được đặt ra khi thỏa mãn

các điều kiện nhất định, đó là: Có thiệt hại xảy ra, có hành vi vi phạm nghĩa

vụ dân sự (nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng), có mối quan hệ

nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại với thiệt hại xảy ra, có lỗi của người gây

thiệt hại (không phải là điều kiện bắt buộc).

Về hậu quả: Trách nhiệm BTTH luôn mang đến một hậu quả bất lợi về

tài sản cho người gây thiệt hại. Bởi lẽ, khi một người gây ra tổn thất cho

người khác thì tổn thất đó phải tính toán được bằng tiền hoặc phải được pháp

luật quy định là một lượng vật chất nhất định nếu không sẽ không thể thực

hiện được việc bồi thường. Do đó, những thiệt hại về tinh thần mặc dù không

thể tính toán được nhưng cũng cần được xác định theo quy định của pháp luật

để bù đắp lại tổn thất cho người bị thiệt hại. Chính vì vậy, việc thực hiện trách

nhiệm bồi thường sẽ giúp khôi phục lại thiệt hại cho người bị thiệt hại.

Về chủ thể bị áp dụng trách nhiệm: Ngoài người trực tiếp có hành vi gây

ra thiệt hại thì trách nhiệm BTTH còn được áp dụng cho cả những chủ thể

khác; đó là cha, mẹ của người chưa thành niên, người giám hộ của người chưa

thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, …

Từ những đặc điểm chung của BTTH, có thể đưa ra một số đặc điểm của

17

BTTH do vi phạm HĐGCMM như sau:

Về cơ sở pháp lý: BTTH do vi phạm HĐGCMM chịu sự điều chỉnh của

pháp luật dân sự và được quy định trong các văn bản pháp luật như BLDS

2015, LTM 2005 và các văn bản pháp luật có liên quan đến việc BTTH do vi

phạm HĐGC. Nếu là HĐGC cho các thương nhân nước ngoài thì còn phải

chịu sự điều chỉnh của các văn bản luật của quốc gia khác.

Về điều kiện phát sinh: Có thiệt hại xảy ra; có hành vi vi phạm các nghĩa

vụ, quy định trong HĐGC, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt

hại với thiệt hại xảy ra, có lỗi của người gây thiệt hại.

Về hậu quả: Mang đến những bất lợi về tài sản (nguyên liệu, vật tư, máy

móc, thiết bị, sản phẩm, các khoản phí thanh toán,…) cho người gây ra thiệt

hại. Việc BTTH được thực hiện theo thỏa thuận trong HĐGCMM hoặc theo

quy định của pháp luật trong và ngoài nước.

Về chủ thể: Người trực tiếp gây ra thiệt hại (chủ thể trong nước, chủ thể

ngoài nước, …).

- Căn cứ áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại

+ Có hành vi vi phạm hợp đồng

Hành vi vi phạm hợp đồng là điều kiện cơ bản và là tiền đề làm phát sinh

trách nhiệm BTTH do vi phạm hợp đồng. Theo đó, khi một hợp đồng được

xác lập hợp pháp thì hợp đồng đó sẽ có hiệu lực bắt buộc đối với các bên đã

tự nguyện xác lập hợp đồng, hay nói cách khác là khi hợp đồng được xác lập

hợp pháp, hợp đồng đó sẽ áp đặt nghĩa vụ lên một hoặc các bên. Do vậy, khi

có hành vi không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng hay có hành vi không tôn

trọng cam kết (hành vi vi phạm hợp đồng) của một bên trong quan hệ hợp

đồng thì mọi hệ thống pháp luật đều buộc bên có hành vi vi phạm hợp đồng

phải chịu trách nhiệm dân sự.

Khái niệm vi phạm hợp đồng để chỉ đến mọi hành vi không thực hiện

đúng hợp đồng, cho dù là không thực hiện một phần, không thực hiện toàn

18

bộ, chậm thực hiện hay có khiếm khuyết trong việc thực hiện hợp đồng. Dựa

trên nguyên tắc nền tảng được ghi nhận tại khoản 5 Điều 3, BLDS năm 2015

xem việc bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng những điều mà họ đã cam kết

hợp pháp (bao gồm thỏa thuận giữa các bên, các quy định của pháp luật về

hợp đồng) là hành vi vi phạm quy tắc xử sự trong lĩnh vực hợp đồng do các

bên tự nguyện tạo ra - hành vi vi phạm hợp đồng và do đó buộc bên có hành

vi vi phạm hợp đồng phải chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực

hiện không đúng nghĩa vụ của mình.

Như vậy, có thể nhận thấy BLDS năm 2015 xem xét hành vi vi phạm

hợp đồng dưới góc độ các hành xử không đúng với nội dung của hợp đồng

như không đúng về đối tượng, không đúng về thời hạn, không đúng về địa

điểm…

Một nội dung của hợp đồng cũng thường bị vi phạm và dẫn đến tranh

chấp là thời hạn thực hiện hợp đồng. Thời hạn thực hiện hợp đồng là khoảng

thời gian có hiệu lực của hợp đồng. Khoảng thời gian này được xác định dựa

trên sự thỏa thuận của các bên tham gia xác lập hợp đồng, hoặc được xác định

theo quy định của pháp luật hoặc được xác định theo quyết định của cơ quan

có thẩm quyền. Trong trường hợp không xác định được thời hạn thực hiện

nghĩa vụ theo sự thỏa thuận của các bên, theo quy định của pháp luật hoặc

theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền thì thời hạn thực hiện nghĩa vụ

của mỗi bên được xác định là bất cứ lúc nào nhưng phải thông báo cho bên

kia biết trước một thời gian hợp lý. Nếu bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ

của mình trong khoảng thời gian đó thì hành vi thực hiện nghĩa vụ hợp đồng

của bên có nghĩa vụ được xem là thực hiện đúng, nếu bên có nghĩa vụ thực

hiện nghĩa vụ của mình ngoài khoảng thời gian đó thì hành vi của bên có

nghĩa vụ bị xem là hành vi vi phạm hợp đồng (bao gồm hành vi thực hiện

nghĩa vụ hợp đồng sớm hơn hoặc muộn hơn thời hạn thực hiện hợp đồng).

Địa điểm thực hiện hợp đồng hay địa điểm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng

19

là nơi nghĩa vụ hợp đồng được thực hiện hay là nơi các quyền hợp pháp của

bên có quyền được đáp ứng. Về nguyên tắc, địa điểm thực hiện nghĩa vụ hợp

đồng được pháp luật hợp đồng Việt Nam xác định dựa trên cơ sở sự thỏa

thuận hợp pháp của các bên trong quan hệ hợp đồng. Trong trường hợp các

bên không có thỏa thuận về địa điểm thực hiện hợp đồng thì địa điểm này sẽ

được xác định tùy thuộc tính chất của đối tượng nghĩa vụ hợp đồng. Theo pháp

luật hiện hành trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện hợp đồng theo

địa điểm đã được xác định theo Điều 277 BLDS năm 2015, Điều 35 LTM năm

2005 thì điều đó có nghĩa là bên có nghĩa vụ đã không thực hiện hợp đồng đúng

địa điểm hay có hành vi vi phạm về địa điểm thực hiện hợp đồng.

Phương thức thực hiện hợp đồng cũng là một nội dung của hợp đồng.

Nội dung này cho phép xác định bên có nghĩa vụ trong quan hệ hợp đồng phải

thực hiện nghĩa vụ của mình theo thể thức nào để đáp ứng quyền và lợi ích

hợp pháp của bên có quyền. Như đã nêu trên, đối tượng của nghĩa vụ hợp

đồng có thể là quyền đối với một vật có giá trị tài sản (chuyển giao quyền)

hoặc cũng có thể là thực hiện một công việc hoặc không được thực hiện một

công việc, do đó, phương thức thực hiện nghĩa vụ hợp đồng phải phù hợp với

đối tượng của nghĩa vụ hợp đồng. Bởi vậy, vi phạm về phương thức thực hiện

hợp đồng là vi phạm về cách thức thực hiện hợp đồng mà các bên đã thỏa

thuận hoặc pháp luật đã quy định hoặc theo quyết định của cơ quan Nhà nước

có thẩm quyền đã chỉ rõ nhưng bên có nghĩa vụ đã không tuân thủ cách thức

thực hiện hợp đồng này. Với cách hiểu này, có thể nói mọi hành vi thực hiện

hợp đồng không đúng với các thể thức mà các bên đã thỏa thuận hoặc không

đúng quy định của pháp luật hoặc không đúng với quyết định của cơ quan

Nhà nước có thẩm quyền đều bị xem là hành vi vi phạm về phương thức thực

hiện hợp đồng.

+ Có thiệt hại xảy ra

Khái niệm thiệt hại có thể được hiểu như sau: Thiệt hại là bất kỳ tổn thất

20

nào mà một người phải gánh chịu do các quyền, tài sản và lợi ích hợp pháp

của họ bị xâm phạm hay nói cách khác thiệt hại là bất kỳ sự thay đổi tiêu cực

nào đối với các quyền, tài sản và lợi ích hợp pháp của bên có quyền.

Thứ nhất là dựa trên mối liên hệ gần gũi giữa thiệt hại xảy ra và hành vi

vi phạm hợp đồng, người ta chia thiệt hại thành thiệt hại trực tiếp và thiệt hại

gián tiếp. Thứ hai là dựa trên lợi ích bị xâm phạm và tổn thất xảy ra, người ta

chia thiệt hại thành thiệt hại vật chất và thiệt hại tinh thần. Mặc dù có sự

tương đồng trong việc phân loại thiệt hại nhưng lại có sự khác biệt trong việc

xác định loại thiệt hại được bồi thường.

Thiệt hại trực tiếp là những tổn thất phát sinh một cách tự nhiên theo quy

luật phát triển thông thường khi xuất hiện hành vi vi phạm hợp đồng. Thiệt

hại về tài sản là những tổn thất được nhắc đến đầu tiên trong các tổn thất về

vật chất được bồi thường do vi phạm nghĩa vụ nói chung và vi phạm hợp

đồng nói riêng.

Thiệt hại gián tiếp hay còn được gọi là thiệt hại không phát sinh theo quy

luật phát triển thông thường khi xuất hiện hành vi vi phạm hợp đồng mà phát

sinh từ thiệt hại là hệ quả của hành vi vi phạm hợp đồng. Thu nhập thực tế bị

mất hoặc bị giảm sút là những khoản thu hợp pháp hàng tháng mà bên có

quyền (bên bị thiệt hại) đã, đang nhận được và sẽ nhận được nếu như không

có hành vi không thực đúng hợp đồng.

Thiệt hại vật chất được hiểu là những tổn thất của bên có quyền, thể hiện

thông qua việc khối tài sản bị giảm sút, vật bị hư hỏng, quyền đối với một giá

trị tiền tệ bị mất, lợi nhuận và cơ hội có lợi nhuận bị mất, những chi phí đã bỏ

ra để hạn chế thiệt hại của chính mình. Thiệt hại tinh thần có thể đi cùng với

thiệt hại vật chất hoặc có thể là thiệt hại tinh thần thuần túy.

+ Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại

xảy ra

Mặc dù hành vi không thực hiện đúng hợp đồng và thiệt hại xảy ra là hai

21

điều kiện quan trọng làm phát sinh trách nhiệm BTTH nhưng nếu chỉ có hai

điều kiện này thôi thì chưa đủ mà pháp luật còn đòi hỏi một điều kiện cần và

đủ nữa, đó là phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi không thực hiện

đúng hợp đồng và thiệt hại xảy ra. Điều đó có nghĩa là mặc dù có hành vi

không thực hiện đúng hợp đồng và có thiệt hại xảy ra nhưng nếu giữa hai yếu

tố này không có bất cứ mối liên hệ nào thì trách nhiệm BTTH cũng sẽ không

được xác lập.

Pháp luật hợp đồng Việt Nam không áp đặt trách nhiệm BTTH lên bên

có hành vi không thực hiện đúng hợp đồng nếu bên vi phạm hợp đồng nêu ra

sự kiện bất khả kháng khiến cho bên này không thể thực hiện đúng nghĩa vụ

hợp đồng. Dưới góc độ quan hệ nhân quả, đây là trường hợp mà sự kiện bất

khả kháng được xem là sự kiện phá vỡ mối quan hệ nhân quả giữa hành vi

không thực hiện đúng hợp đồng và thiệt hại xảy ra. Có thể nhận thấy khi đòi

hỏi để thiệt hại được bồi thường phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi

phạm hợp đồng và thiệt hại xảy ra và đã có sự nhìn nhận thiệt hại có thể được

bồi thường trong trường hợp thiệt hại đó không phát sinh trực tiếp từ hành vi

vi phạm hợp đồng mà có thể phát sinh từ hệ quả tiếp sau của hành vi không

thực hiện đúng hợp đồng.

+ Có lỗi của bên gây thiệt hại

Nhìn chung, bên có nghĩa vụ không thực hiện cam kết và do đó gây thiệt

hại cho bên có quyền thì bên có nghĩa vụ sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường

cho những thiệt hại mà họ đã gây ra cho bên có quyền (trách nhiệm nghiêm

ngặt). Tuy nhiên, trách nhiệm BTTH còn có thể là trách nhiệm dựa trên lỗi,

nghĩa là trách nhiệm BTTH chỉ phát sinh nếu bên có nghĩa vụ thực hiện hợp

đồng không cẩn trọng, cần mẫn, hay nói cách khác là bên có nghĩa vụ có lỗi

trong việc thực hiện hợp đồng.

Việc BLDS năm 2015 và LTM năm 2005 không quy định lỗi là căn cứ

làm phát sinh trách nhiệm BTTH cho thấy pháp luật hợp đồng Việt Nam đã

22

xác định các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm BTTH. Bên cạnh đó, sự thay

đổi này của LTM năm 2005 và BLDS năm 2015 cho phép xác định trách

nhiệm BTTH của bên vi phạm hợp đồng khi có hành vi thực hiện nghĩa vụ

hợp đồng không đúng mà không đòi hỏi phải tìm hiểu trạng thái tâm lý của

bên gây thiệt hại hay tìm kiếm nguyên nhân dẫn đến việc không thực hiện

đúng hợp đồng.

- Nguyên tắc BTTH do vi phạm HĐGCMM

Dựa trên nguyên tắc đã ký kết, bên có quyền có quyền yêu cầu bên có

nghĩa vụ phải thực hiện đúng cam kết trong HĐGCMM. Trong trường hợp

bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng HĐGC gây thiệt hại cho bên có quyền

thì bên có quyền có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ BTTH cho những tổn thất

mà bên này phải gánh chịu.

Nghiên cứu chế định BTTH do vi phạm HĐGCMM có thể thấy, những

tổn thất mà bên bị vi phạm phải gánh chịu có thể được đền bù dựa trên hai

nguyên tắc: nguyên tắc bồi thường theo thỏa thuận của các bên khi ký kết hợp

đồng (bồi thường theo thoả thuận) hoặc nguyên tắc bồi thường toàn bộ được

xây dựng trên cơ sở tính thiệt hại và thời điểm tính thiệt hại chứ không dựa

trên thỏa thuận của các bên khi ký kết hợp đồng (bồi thường không dựa trên

thoả thuận).

Bồi thường theo thoả thuận và bồi thường toàn bộ là những nguyên tắc

trung tâm và là kim chỉ nam cho việc áp dụng biện pháp BTTH. Trong đó bồi

thường theo thoả thuận là nguyên tắc luôn được xem là có vị trí số một phản

ánh nguyên tắc tự do ý chí.

Việc áp dụng nguyên tắc bồi thường toàn bộ chỉ được đặt ra khi hành vi

vi phạm HĐGCMM của một bên là nguyên nhân dẫn đến thiệt hại của bên kia

mà trước đó các bên không có thỏa thuận về mức BTTH khi ký kết

HĐGCMM. Nguyên tắc bồi thường toàn bộ được xây dựng dựa trên bản chất

của BTTH là buộc bên vi phạm HĐGC phải trả một khoản tiền nhất định cho

23

bên bị thiệt hại nhằm đưa bên bị thiệt hại vào vị trí mà bên này đáng lẽ đạt

được nếu hợp đồng được thực hiện đúng. Như vậy, BTTH có ý nghĩa thay thế

nghĩa vụ phải thực hiện đúng hợp đồng bằng nghĩa vụ phải trả một khoản tiền

tương ứng với thiệt hại mà bên bị thiệt hại phải gánh chịu trong trường hợp

bên có nghĩa vụ đã không thực hiện đúng nghĩa vụ mà đáng lẽ bên này phải

thực hiện - bồi thường toàn bộ thiệt hại.

Nói cách khác, nguyên tắc bồi thường toàn bộ là nguyên tắc đặt bên có

quyền (bên bị thiệt hại) vào vị trí tương tự như vị trí khi bên có nghĩa vụ (bên

vi phạm) tuân thủ đúng các điều khoản của HĐGCMM mà các bên đã tự

nguyện xác lập.

- Thời điểm phát sinh trách nhiệm BTTH do vi phạm HĐGCMM

Thời điểm phát sinh trách nhiệm BTTH là vấn đề quan trọng của BTTH

do vi phạm HĐGCMM bởi đây được xác định là thời điểm ràng buộc trách

nhiệm phải bồi thường của bên vi phạm hợp đồng đối với bên bị vi phạm hợp

đồng khi thiệt hại là hệ quả của hành vi vi phạm HĐGCMM xảy ra. Sự khác

biệt giữa “trách nhiệm dân sự” và “biện pháp khắc phục hậu quả của hành vi

vi phạm hợp đồng” là trong khi “trách nhiệm dân sự” chỉ đến tình trạng pháp

lý bắt buộc mà bên có hành vi vi phạm nghĩa vụ phải gánh chịu thì “biện pháp

khắc phục hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng” lại chỉ đến biện pháp pháp

lý được đưa ra nhằm đảm bảo thực thi trách nhiệm dân sự của bên có hành vi

vi phạm nghĩa vụ, qua đó bảo đảm cho các quyền và lợi ích hợp pháp của bên

có quyền được thực hiện.

Việc cho phép các bên đã xác lập hợp đồng hợp pháp có thể thỏa thuận

lựa chọn một hoặc một số biện pháp khắc phục hậu quả của hành vi vi phạm

HĐGC phù hợp với quy định của pháp luật nhằm bảo đảm cho trách nhiệm

dân sự được thực hiện dẫn đến hệ quả là việc xác định thời điểm phát sinh

việc áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả của hành vi vi phạm HĐGC sẽ

khác nhau. Chẳng hạn việc áp dụng biện pháp buộc tiếp tục thực hiện HĐGC

24

sẽ phát sinh ngay từ thời điểm có hành vi vi phạm HĐGC hoặc việc áp dụng

biện pháp hủy bỏ hợp đồng nói chung sẽ phát sinh từ thời điểm hành vi vi

phạm HĐGC được xác định là hành vi vi phạm cơ bản hoặc hành vi vi phạm

nghĩa vụ hợp đồng của bên có nghĩa vụ khiến bên bị vi phạm HĐGC không

đạt được mục đích đặt ra khi giao kết HĐGC hoặc vi phạm hợp đồng trong

các trường hợp luật định. Khi nói đến thời điểm phát sinh trách nhiệm dân sự

của bên vi phạm HĐGC gây ra thiệt hại cho bên bị vi phạm thì có thể nói

trách nhiệm này sẽ phát sinh từ thời điểm bên có nghĩa vụ có hành vi vi phạm

hợp đồng.

- Xác định mức bồi thường thiệt hại

Xuất phát từ nguyên tắc tự do ý chí, mọi hệ thống pháp luật đều thừa

nhận việc khi ký kết hợp đồng các bên đưa vào hợp đồng một điều khoản cho

phép xác định trước khoản tiền mà bên có nghĩa vụ phải trả cho bên có quyền

trong trường hợp bên có nghĩa vụ vi phạm hợp đồng. Việc đưa vào hợp đồng

điều khoản cho phép bên có quyền nhận được một khoản tiền được xác định

trước trong trường hợp bên có nghĩa vụ vi phạm hợp đồng đặt ra một số vấn

đề quan trọng như hiệu lực của điều khoản này trong trường hợp thiệt hại mà

bên bị vi phạm phải chịu lớn hơn hoặc nhỏ hơn khoản tiền các bên đã thỏa

thuận trước, hiệu lực của điều khoản này trong trường hợp không có thiệt hại

xảy ra trên thực tế và hiệu lực của điều khoản này liên quan đến việc chứng

minh thiệt hại. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận trước về mức

BTTH, mức thiệt hại được bồi thường trước hết được xác định dựa trên

nguyên tắc bồi thường toàn bộ.

- Miễn trách nhiệm BTTH do vi phạm HĐGCMM

Các căn cứ miễn trách nhiệm BTTH do vi phạm HĐGCMM được chia

làm hai nhóm: miễn trách nhiệm BTTH do vi phạm HĐGC theo thỏa thuận;

miễn trách nhiệm BTTH do vi phạm HĐGC không dựa trên thỏa thuận (do lỗi

của bên bị thiệt hại, do xuất hiện sự kiện pháp lý nằm ngoài dự kiến của các

25

bên vào thời điểm xác lập hợp đồng):

+Miễn trách nhiệm BTTH theo thỏa thuận của các bên

Việc thừa nhận miễn trách nhiệm BTTH theo thỏa thuận là xuất phát từ

nguyên tắc tôn trọng tự do ý chí, tự nguyện cam kết, thỏa thuận của các bên. Vai

trò bảo vệ công lý của miễn trách nhiệm BTTH trong trường hợp xuất hiện tình

huống bất thường dẫn đến HĐGCMM không thể thực hiện được hoặc trở nên vô

nghĩa hoặc phá hủy nghiêm trọng sự cân bằng về kinh tế giữa các bên thể hiện ở

chỗ không buộc bên không thực hiện đúng hợp đồng phải BTTH.

Hệ quả của miễn trách nhiệm BTTH là bên có hành vi không thực hiện

đúng HĐGCMM không phải BTTH hoặc chỉ phải bồi thường một phần thiệt

hại xảy ra, nói cách khác hệ quả của việc miễn trách nhiệm BTTH là bên bị vi

phạm không được nhận khoản bồi thường tương ứng với thiệt hại mà họ phải

gánh chịu, cho dù có thể chứng minh có thiệt hại xảy ra.

Xuất phát từ nguyên tắc tự do ý chí, các hệ thống pháp luật đều cho phép

các bên thỏa thuận về điều khoản miễn trách nhiệm BTTH. Điều đó có nghĩa là

khi thỏa thuận về miễn trách nhiệm BTTH được đưa vào HĐGCMM thì thỏa

thuận đó sẽ có hiệu lực đối với các bên. Về nguyên tắc, thỏa thuận miễn trách

nhiệm BTTH được thực hiện vào thời điểm xác lập HĐGCMM nhưng các bên

cũng có thể đạt được thỏa thuận về miễn trách nhiệm BTTH sau thời điểm đó.

Theo thỏa thuận miễn trách nhiệm BTTH được ngầm hiểu “trừ trường

hợp có thỏa thuận khác” và được thể hiện rõ hơn tại năm 2015. Thỏa thuận

miễn trách nhiệm BTTH cũng được ghi nhận tại LTM năm 2005. Điều này

cho thấy pháp luật hợp đồng Việt Nam rất coi trọng nguyên tắc tự do ý chí.

Tuy nhiên, quy định về thỏa thuận miễn trách nhiệm BTTH trong pháp luật

hợp đồng Việt Nam còn thiếu chặt chẽ - những quy định được áp dụng chung

cho trách nhiệm BTTH chưa đặt ra giới hạn đối với thỏa thuận miễn trách

nhiệm BTTH của các bên. Tuy đã đặt ra giới hạn đối với thỏa thuận miễn trách

nhiệm BTTH của các bên trong hợp đồng theo mẫu và điều kiện giao dịch

26

chung bằng quy định: “Trường hợp hợp đồng theo mẫu có điều khoản miễn

trách nhiệm của bên đưa ra hợp đồng theo mẫu, tăng trách nhiệm hoặc loại bỏ

quyền lợi chính đáng của bên kia thì điều khoản này không có hiệu lực” và

“Trường hợp điều kiện giao dịch chung có quy định về miễn trách nhiệm của

bên đưa ra điều kiện giao dịch chung, tăng trách nhiệm hoặc loại bỏ quyền lợi

chính đáng của bên kia thì quy định này không có hiệu lực” nhưng ngay sau

đó lại đưa ra quy định: “trừ trường hợp có thỏa thuận khác”[7,tr.53].

Những quy định nêu trên của BLDS năm 2015 và LTM năm 2005 có thể

dẫn đến sự bất công cho bên bị thiệt hại trong trường hợp bên có nghĩa vụ lợi

dụng điều khoản miễn trách nhiệm mà bên có quyền đã cam kết khi ở vị trí

bất lợi để cố ý vi phạm HĐGCMM. Kinh nghiệm cho thấy, các hệ thống pháp

luật đều đặt ra giới hạn đối với miễn trách nhiệm dựa trên thỏa thuận, theo đó

bên vi phạm HĐGC sẽ không được miễn trách nhiệm nếu cố ý vi phạm hoặc

vô ý nghiêm trọng trong việc không thực hiện đúng HĐGC hoặc nếu áp dụng

điều khoản miễn trách nhiệm BTTH do các bên thỏa thuận sẽ gây nên sự bất

bình đẳng… Như vậy, sẽ là hoàn thiện hơn nếu pháp luật Việt Nam một mặt

thừa nhận quyền thỏa thuận về miễn trách nhiệm của các bên trong hợp đồng,

mặt khác đặt ra giới hạn đối với trường hợp này.

+Miễn trách nhiệm BTTH không dựa trên sự thỏa thuận của các bên

Bên cạnh căn cứ miễn trách nhiệm BTTH là sự thỏa thuận của các bên,

trách nhiệm BTTH còn có thể được miễn dựa trên các căn cứ không phải là sự

thỏa thuận của các bên gồm: trở ngại khách quan, lỗi của bên bị vi phạm hoặc

do lỗi của người thứ ba.

Là một phần của pháp luật hợp đồng Việt Nam, trong BTTH do vi phạm

HĐGC bên cạnh việc ghi nhận căn cứ miễn trách nhiệm BTTH dựa trên thỏa

thuận của các bên cũng ghi nhận các căn cứ miễn trách nhiệm BTTH không

dựa trên thỏa thuận. Trong đó, miễn trách nhiệm do sự kiện bất khả kháng;

miễn trách nhiệm do việc không thực hiện đúng hợp đồng do lỗi của bên vi

27

phạm là những căn cứ được cả BLDS năm 2015 và LTM năm 2005 ghi nhận.

LTM năm 2005 ngoài việc ghi nhận các căn cứ này còn ghi nhận căn cứ miễn

trách nhiệm khi hành vi vi phạm hợp đồng của một bên là hệ quả của việc

thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền.

Căn cứ miễn trách nhiệm BTTH do vi phạm hợp đồng do những trở ngại

khách quan

Tiêu chí đánh giá một trở ngại có phải là sự kiện bất khả kháng hay

không là xem xét những trở ngại dẫn đến việc không thực hiện đúng

HĐGCMM có vượt quá khả năng kiểm soát của bên không thực hiện đúng

hợp đồng hay không, bên không thực hiện đúng hợp đồng có thể dự liệu được

sự xuất hiện của trở ngại này vào thời điểm xác lập HĐGC hay không và bên

này có thể tránh được hoặc khắc phục được trở ngại cũng như hậu quả do trở

ngại đó gây ra hay không. Nếu bên không thực hiện đúng HĐGC có khả năng

kiểm soát trở ngại hoặc dự liệu được trở ngại vào thời điểm xác lập HĐGC

hoặc có khả năng tránh được/ khắc phục được trở ngại cũng như hậu quả do

trở ngại gây ra thì trở ngại đó không được xem là sự kiện bất khả kháng. Có

nghĩa là nếu bên vi phạm HĐGC trước đó cam kết sẽ thực hiện đúng hợp

đồng ngay cả khi có trở ngại hoặc dự liệu được trở ngại đó có thể xảy ra thì

bên này sẽ vẫn phải chịu trách nhiệm BTTH kể cả khi đã nỗ lực hết mức để

đạt được kết quả đã cam kết. Sự kiện bất khả kháng có thể là những trở ngại

thuộc hiện tượng thiên nhiên như lũ lụt, hỏa hoạn, động đất, sóng thần, bệnh

dịch… hoặc cũng có thể là những biến động trong xã hội như chiến tranh, đảo

chính, đình công, cấm vận,…

Căn cứ miễn trách nhiệm BTTH do vi phạm hợp đồng do lỗi của bên bị

thiệt hại hoặc lỗi của người thứ ba

Trong hệ thống pháp luật hợp đồng Việt Nam, miễn trách nhiệm BTTH

do vi phạm hợp đồng do lỗi của bên bị thiệt hại được quy định tại năm 2015,

LTM năm 2005. Theo đó, có thể hiểu nếu bên vi phạm HĐGCMM gây thiệt

hại cho bên bị vi phạm nhưng hành vi vi phạm này là hệ quả của việc bên bị

28

vi phạm có lỗi thì bên vi phạm HĐGC sẽ được miễn trách nhiệm BTTH đối

với vi phạm đó. Như vậy, căn cứ để miễn trách nhiệm trong trường hợp này là

do lỗi của bên bị vi phạm. Lỗi này có thể được thể hiện dưới dạng hành động

hoặc không hành động của bên bị vi phạm.

Sẽ là đầy đủ hơn nếu BLDS năm 2015 và LTM năm 2005 ngoài việc ghi

nhận lỗi là căn cứ miễn trách nhiệm BTTH do vi phạm hợp đồng còn bổ sung

thêm căn cứ miễn trách nhiệm BTTH do lỗi của người thứ ba.

- Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại do vi phạm HĐGCMM

Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại được xây dựng dựa trên ý tưởng loại bỏ việc bên

có quyền thụ động chờ đợi được BTTH đối với những thiệt hại mà bên này đáng

lẽ có thể tránh được hoặc có thể hạn chế được. Nói cách khác, là ngay cả khi bên

có quyền không có lỗi trong việc để thiệt hại xảy ra thì bên có quyền cũng không

được bồi thường cho những thiệt hại mà đáng lẽ bên này tránh được nếu áp dụng

các biện pháp ngăn chặn, giảm thiểu thiệt hại thích hợp.

Các biện pháp hạn chế thiệt hại được đánh giá dựa trên nguyên tắc thiện

chí khi xem xét việc áp dụng biện pháp đó dựa trên bản chất, mục đích của

hợp đồng, hoàn cảnh, tập quán, nghề nghiệp... Điều đó có nghĩa là bên có

quyền phải cố gắng thực hiện tất cả những gì để có thể giảm thiểu thiệt hại

hoặc ít nhất là ngăn chặn sự gia tăng của thiệt hại nhưng điều này không có

nghĩa là buộc bên có quyền phải ngay lập tức áp dụng biện pháp hạn chế thiệt

hại khi có hành vi không thực hiện đúng HĐGC hay phải áp dụng những biện

pháp tốn kém, đòi hỏi mất nhiều thời gian để giảm thiểu thiệt hại. Đây chính

là lý do mà nguyên tắc hạn chế thiệt hại được xem là nguyên tắc mang lại sự

công bằng giữa các bên.

Bên có quyền không thực hiện nghĩa vụ giảm thiểu thiệt hại sẽ dẫn đến

việc bên vi phạm HĐGC không phải BTTH hay nói cách khác là bên có

quyền (bên bị thiệt hại) không thể yêu cầu BTTH đối với toàn bộ thiệt hại mà

bên này phải gánh chịu. Do đó, nếu bên có quyền không thực hiện nghĩa vụ

29

hạn chế thiệt hại thì bên vi phạm HĐGC sẽ có quyền yêu cầu giảm bớt mức

BTTH tương ứng với những thiệt hại mà bên có quyền lẽ ra có thể hạn chế

được nếu áp dụng các biện pháp hạn chế thiệt hại hợp lý.

Trong BLDS năm 2015 được thông qua, nghĩa vụ hạn chế thiệt hại chỉ

được ghi nhận rải rác trong một vài quy phạm tại BLDS năm 2005 và LTM

năm 2005. Điều này cho thấy nhà làm luật Việt Nam ở thời điểm đó dường

như chỉ ghi nhận nghĩa vụ hạn chế thiệt hại của bên có quyền đối với ba loại

hợp đồng là hợp đồng mua bán, hợp đồng bảo hiểm và hợp đồng thương mại.

Nhận thức được nghĩa vụ hạn chế thiệt hại không chỉ là nghĩa vụ của bên có

quyền trong ba loại hợp đồng nói trên mà thực chất đây là nghĩa vụ có phạm

vi áp dụng chung cho mọi loại hợp đồng cho dù nghĩa vụ hợp đồng là nghĩa

vụ chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện

công việc hoặc không được thực hiện công việc nhất định theo quy định tại

BLDS năm 2015. BLDS năm 2015 đã chính thức ghi nhận nghĩa vụ hạn chế

thiệt hại với tính cách là nguyên tắc chung áp dụng cho mọi nghĩa vụ nói chung

và hợp đồng nói riêng. Với tiêu đề “Nghĩa vụ ngăn chặn, hạn chế thiệt hại”,

BLDS năm 2015 đã chỉ rõ rằng bên có quyền phải áp dụng các biện pháp cần

thiết, hợp lý để thiệt hại không xảy ra hoặc hạn chế thiệt hại cho mình. Điều này

cho thấy pháp luật hợp đồng Việt Nam đã rất tiến bộ khi không chỉ đưa ra

nguyên tắc về nghĩa vụ hạn chế thiệt hại mà còn xác định phạm vi áp dụng

nguyên tắc này.

HĐGCMM chịu sự chi phối của LTM, cũng là một sản phẩm của hợp

đồng có yếu tố thương mại quốc tế khi đối tác thuê gia công là một doanh

nghiệp hay cá nhân có yếu tố nước ngoài. Năm 2015, Việt Nam đã tham gia

Công ước Viên về “Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của Liên hợp quốc”

(CISG). CISG áp dụng cho các bên tham gia hoạt động thương mại là người

có địa điểm tại các nước thuộc thành viên của công ước. Có một số điểm khác

nhau giữa luật Việt Nam và Công ước Viên 1980 về hợp đồng thương mại

30

như sau:

- Về yêu cầu phải thực hiện đúng hợp đồng, theo CISG và luật Việt

Nam thì có thể lựa chọn một trong hai cách thức: sửa chữa hoặc thay thế hàng

hóa. Tuy vậy, vấn đề cần nêu ra là sửa chữa hay thay thế như thế nào. LTM

2005 không nhắc gì đến về vấn đề này. Ngược lại, CISG lại nêu rõ, được áp

dụng cách thức thay thế khi hành vi cấu thành vi phạm cơ bản, còn trong các

trường hợp khác được áp dụng biện pháp sửa chữa.

- Về bồi thường thiệt hại, luật Việt Nam và CISG đều đưa ra các thiệt

hại được bồi thường là những tổn thất, khoản lợi đáng lẽ được hưởng mà một

bên phải chịu do kết quả của vi phạm hợp đồng. Trong khi CISG đề cập đến

tính có thể dự đoán trước của thiệt hại thì luật Việt Nam lại đề cập đến tính

trực tiếp và thực tế (LTM 2005).

- Về miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại, CISG và pháp luật Việt

Nam có đã đề cập đến các trường hợp bất khả kháng và trường hợp lỗi của

bên bị vi phạm. Bên cạnh đó, CISG còn đưa ra cụ thể về việc miễn trách do

lỗi của bên thứ ba còn luật Việt Nam chưa có quy định cụ thể về vấn đề này.

- Thêm vào đó, CISG còn đưa ra chế tài khi hợp đồng giao hàng từng

phần; hủy bỏ, không thực hiện hợp đồng; cách tính tiền bồi thường thiệt hại

một cách cụ thể khi hợp đồng bị hủy bỏ; bảo quản hàng hóa đang tranh chấp.

Như vậy có thể thấy, CISG có các quy định đầy đủ và cụ thể hơn so với

luật Việt Nam qua một số nhận định nêu trên.

1.2.3. Đặc trưng bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng gia công

may mặc

BTTH do vi phạm HĐGCMM cũng có những đặc điểm của BTTH do vi

phạm HĐGC nói chung như những phân tích ở trên:

 Về cơ sở pháp lý: Trách nhiệm BTTH do vi phạm HĐGCMM là một loại

trách nhiệm Dân sự và chịu sự điều chỉnh của pháp luật Dân sự. Khi một

31

bên gây ra tổn thất cho bên khác thì họ phải BTTH và BTTH chính là một

quan hệ tài sản do Luật Dân sự điều chỉnh và được quy định trong BLDS ở

Điều 307 và Chương XXI và các văn bản hướng dẫn thi hành BLDS.

 Về điều kiện phát sinh: Trách nhiệm BTTH do vi phạm HĐGCMM chỉ đặt

ra khi thoả mãn các điều kiện nhất định đó là: Có thiệt hại xảy ra, có hành

vi vi phạm nghĩa vụ dân sự (nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc ngoài hợp

đồng), có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại với thiệt hại xảy

ra, có lỗi của người gây thiệt hại (không phải là điều kiện bắt buộc). Đây là

những điều kiện chung nhất để xác định trách nhiệm của một người phải

bồi thường những thiệt hại do mình gây ra. Tuy nhiên, trong một số trường

hợp đặc biệt trách nhiệm BTTH có thể phát sinh khi không có đủ các điều

kiện trên điển hình là các trường hợp BTTH do tài sản gây ra.

 Về hậu quả: Trách nhiệm BTTH do vi phạm HĐGCMM luôn mang đến

một hậu quả bất lợi về tài sản cho người gây thiệt hại. Bởi lẽ, khi một bên

gây ra tổn thất cho bên khác thì tổn thất đó phải tính toán được bằng tiền

hoặc phải được pháp luật quy định là một đại lượng vật chất nhất định nếu

không sẽ không thể thực hiện được việc bồi thường. Do đó, những thiệt

hại về tinh thần mặc dù không thể tính toán được nhưng cũng sẽ được xác

định theo quy định của pháp luật để bù đắp lại tổn thất cho người bị thiệt

hại. Và cũng chính vì vậy, thực hiện trách nhiệm bồi thường sẽ giúp khôi

32

phục lại thiệt hại cho người bị thiệt hại.

Tiểu kết chương 1

Chương 1 tập trung tìm hiểu và trình bày các vấn đề lý luận cơ bản nhất

về HĐGCMM, BTTH do vi phạm HĐGCMM. Trên cơ sở những vấn đề lý

luận về trách nhiệm BTTH do vi phạm HĐGCMM, luận văn đi vào phân tích

sâu sắc hơn bản chất của việc BTTH do vi phạm HĐGCMM; các đặc điểm

trong BTTH do vi phạm HĐGCMM; nguyên tắc BTTH; thời điểm phát sinh

trách nhiệm BTTH do vi phạm hợp đồng; hệ thống các căn cứ miễn, giảm

trách nhiệm BTTH do vi phạm hợp đồng; đồng thời trình bày nghĩa vụ hạn

chế thiệt hại của bên bị thiệt hại khi hợp đồng có dấu hiệu bị vi phạm. Trong

chương 1, luận văn cũng đưa ra những đánh giá, nhận xét về các yếu tố tác

động đến BTTH do vi phạm HĐGCMM ở Việt Nam hiện nay.

Trên cơ sở phân tích thời điểm phát sinh trách nhiệm BTTH do vi phạm

hợp đồng, luận văn đã chỉ ra các nguyên tắc chính của BTTH do vi phạm

HĐGC: nguyên tắc bồi thường theo thỏa thuận và nguyên tắc bồi thường toàn

bộ (trong trường hợp không có thỏa thuận). Luận văn cũng trình bày các

trường hợp ngoại lệ của việc áp dụng nguyên tắc bồi thường toàn bộ thông

qua việc phân tích hệ thống các căn cứ miễn, giảm trách nhiệm BTTH do vi

phạm hợp đồng và việc phân tích nghĩa vụ hạn chế thiệt hại của bên bị thiệt

hại. Luận văn cũng đã trình bày và làm rõ hơn các đặc trưng cơ bản của

BTTH do vi phạm HĐGCMM.

Các nội dung trên đây chính là những lý luận cơ sở được sử dụng để

nghiên cứu thực trạng, thực tế của việc BTTH do vi phạm HĐGCMM trong

chương 2 cũng như làm nền tảng cho quá trình nghiên cứu các giải pháp hoàn

33

thiện, hiệu quả cao hơn trong BTTH do vi phạm HĐGCMM tại chương 3.

Chương 2.

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI

PHẠM HỢP ĐỒNG GIA CÔNG MAY MẶC VÀ THỰC TIỄN ÁP

DỤNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp

đồng gia công may mặc ở Việt Nam hiện nay

2.1.1. Căn cứ áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại

Theo Điều 303 của LTM 2005, việc áp dụng BTTH do vi phạm hợp

đồng thương mại phát sinh khi chỉ cần có đủ các yếu tố sau:

- Có hành vi vi phạm hợp đồng

Nội dung quan trọng hàng đầu của hợp đồng là đối tượng của hợp đồng

bởi nếu thiếu đi nội dung này thì hợp đồng không thể được xác lập. Đối tượng

của hợp đồng hay nói cách khác là đối tượng của nghĩa vụ phát sinh từ hợp

đồng có thể là tài sản, công việc phải thực hiện hoặc công việc không được

thực hiện. Trong trường hợp đối tượng của hợp đồng là tài sản hay nói chính

xác hơn là quyền đối với một vật có giá trị tài sản, đối tượng của hợp đồng

được xác định là một quyền được chuyển giao. Ngoài tài sản, đối tượng của

hợp đồng còn có thể là những công việc phải thực hiện hoặc không được thực

hiện. Theo Điều 281 BLDS năm 2015, đối tượng của hợp đồng là công việc

mà bên có nghĩa vụ phải làm trong thời hạn hợp đồng, hay nói cách khác là

trong trường hợp đối tượng của hợp đồng là công việc phải thực hiện, nó đòi

hỏi bên có nghĩa vụ phải thực hiện những hành vi mang tính tích cực, chủ

động để đáp ứng các quyền và lợi ích hợp pháp của bên có quyền.

Việc liệt kê các trường hợp các bên trong quan hệ hợp đồng có những

hành xử không đúng cam kết hay vi phạm HĐGCMM gồm: chậm thực hiện

nghĩa vụ trong hợp đồng; không thực hiện nghĩa vụ giao hàng; không thực

34

hiện một công việc hoặc thực hiện một công việc không được phép thực hiện;

chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền; chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ;

chậm thực hiện giao hàng; giao hàng hóa, sản phẩm, nguyên liệu không đúng

số lượng, không đồng bộ, không đúng chủng loại, mẫu mã như trong tài liệu

kỹ thuật; không cung cấp tài liệu kỹ thuật, bản vẽ và sách hướng dẫn sản xuất;

không bảo đảm chất lượng sản phẩm; không tiếp nhận sản phẩm, thành phẩm

sau khi sản xuất; vi phạm về thương hiệu trong sản xuất may mặc; …

Vi phạm điều khoản đối tượng của HĐGCMM gồm các hành vi: không

giao đúng quy cách sản phẩm hoặc giao sản phẩm hoàn thành không đúng

mẫu mã, thiết kế như trong tài liệu kỹ thuật, không giao đúng số lượng sản

phẩm và chất lượng như đã thỏa thuận hoặc không giao đồng bộ sản phẩm

trong trường hợp đối tượng của hợp đồng là các bộ, các mẫu có thiết kế liên

quan với nhau.

Vi phạm điều khoản về nguyên liệu chính và phụ của HĐGC may gồm các

hành vi: không giao nguyên liệu, phụ liệu, vật tư; giao nguyên phụ liệu không

đúng chất lượng, số lượng, quy cách để sản xuất đúng sản phẩm mẫu; giao

nguyên phụ liệu không đúng thời gian, địa điểm làm ảnh hưởng đến kế hoạch

sản xuất và thời hạn giao hàng của bên nhận gia công; nguyên phụ liệu tự cung

ứng không đạt yêu cầu về chất lượng của bên đặt gia công.

Vi phạm điều khoản về quyền và nghĩa vụ của các bên gồm các hành vi:

Đối với bên đặt gia công: không giao nguyên phụ liệu đúng chất lượng, số

lượng, quy cách thời gian và địa điểm; để sản xuất đúng sản phẩm mẫu; giao

nguyên phụ liệu không đúng thời gian, địa điểm làm ảnh hưởng đến kế hoạch

sản xuất và thời hạn giao hàng của bên nhận gia công; tính không hợp pháp

về quyền sở hữu trí tuệ của hàng hóa gia công nguyên liệu, vật tư, máy móc,

thiết bị dùng để gia công sản phẩm; trả tiền phí gia công không đúng trong

thỏa thuận. Đối với bên nhận gia công: sử dụng không đúng mục đích hoặc

làm mất mát nguyên phụ liệu do bên giao gia công chuyển; cung ứng nguyên

35

phụ liệu sai chủng loại, quy cách; giao sản phẩm không đúng số lượng, không

đảm bảo chất lượng, mẫu mã, quy cách; không giữ bí mật về các thông tin

quy trình sản xuất sản phẩm, mẫu mã thiết kế; không hoàn trả hoặc sử dụng

không đúng với thỏa thuận đối với nguyên phụ liệu còn lại sau khi kết thúc

hợp đồng.

Vi phạm điều khoản về thời gian sản xuất, thời điểm và địa điểm giao

sản phẩm: Thông thường các HĐGCMM được ký kết trong thời gian dài. Các

đợt sản xuất và giao hàng kéo dài trong năm hoặc trong nhiều năm. Thực hiện

giao hàng không đúng thời gian từng đợt dẫn tới hàng hóa không kịp có mặt

trên thị trường theo đúng dịp hoặc đúng mùa. Thực hiện giao hàng không

đúng địa điểm dẫn tới các phát sinh chi phí kho bãi, chi phí vận chuyển cho

bên giao gia công.

Vi phạm điều khoản về thanh toán phí gia công: Bên giao gia công phải

có nghĩa vụ thanh toán đầy đủ phí gia công cho bên nhận gia công theo đúng

điều khoản trên hợp đồng. Việc thanh toán khoản tiền này có thể được thực

hiện một lần hoặc nhiều lần theo thỏa thuận của các bên. Bên cạnh đó, việc

thực hiện nghĩa vụ hợp đồng cũng có thể được thực hiện theo định kỳ (theo

năm, quý, tháng...) theo thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp

luật hoặc theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

- Có thiệt hại xảy ra

* Cách phân loại thứ nhất: Thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp

Thiệt hại trực tiếp được hiểu là những tổn thất thể hiện thông qua việc

sản phẩm hoàn thành, nguyên liệu, vật tư, máy móc, thiết bị gia công bị giảm

sút, hư hỏng, mất đi sự nguyên vẹn hoặc đối với một giá trị tiền tệ bị mất, lợi

nhuận và cơ hội có lợi nhuận bị mất, những chi phí đã bỏ ra để hạn chế thiệt

hại của chính mình. Theo Điều 589 BLDS năm 2015, tổn thất về tài sản là hệ

quả của hành vi không thực hiện đúng hợp đồng của bên có nghĩa vụ có thể

được xác định trên cơ sở: tài sản bị mất, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng; lợi ích

36

gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản bị mất, bị giảm sút; chi phí hợp lý

để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại; và những tổn thất khác do luật

quy định. Có thể nhận thấy, hoạt động gia công trong lĩnh vực dệt may, may

mặc thì thiệt hại do sản phẩm hoàn thành, nguyên liệu, vật tư, máy móc thiết

bị bị mất, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng hoặc sản phẩm kém chất lượng, không

đúng quy cách, mẫu mã không thể tiêu thụ trên thị trường hoặc việc thanh

toán phí gia công không đủ, không đúng thời hạn là những thiệt hại trực tiếp

và lợi ích gắn liền với việc sử dụng, kinh doanh bị mất, bị giảm sút.

Thiệt hại gián tiếp là những chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc

phục thiệt hại hoặc để khắc phục ảnh hưởng do để ngăn giảm giá trị hình ảnh,

thương hiệu của các nhãn hàng thời trang mà bên bị hại phải gánh chịu hoặc

các giá trị tinh thần khác bị xâm hại. Những thiệt hại này bao gồm: tiền công

sửa chữa, chi phí cho việc thay thế vật liệu, chí phí ngăn chặn thiệt hại xảy ra

hoặc giảm thiểu thiệt hại xảy ra, hoặc chi phí bỏ ra để khắc phục thiệt hại đã

xảy ra... Thiệt hại này phải được xác định trên cơ sở chắc chắn.

* Cách phân loại thứ hai: thiệt hại vật chất và thiệt hại tinh thần

Theo khoản 2 Điều 361 BLDS năm 2015, “thiệt hại về vật chất” là

những “tổn thất vật chất thực tế xác định được bao gồm tổn thất về tài sản,

chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị

mất hoặc bị giảm sút”. Đây là những thiệt hại có thể tính được thành một số

tiền nhất định.

Thiệt hại về tinh thần là những thiệt hại đối lập với thiệt hại về vật chất.

Đó là nếu như thiệt hại về vật chất có thể là thiệt hại về tài sản như khối tài

sản của bên có quyền bị mất mát hoặc giảm sút thì thiệt hại về tinh thần lại là

những tổn hại do có những tác động xấu đến tình cảm hoặc sự thoải mái của

bên có quyền như tổn hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín, nỗi đau về tinh thần,

sự sỉ nhục, xa lánh của xã hội và các thương tổn tương tự.

- Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt

37

hại xảy ra

Căn cứ “có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi không thực hiện đúng

hợp đồng và thiệt hại xảy ra” cũng được ghi nhận dưới các hình thức khác

nhau. Đó là nếu như Điều 303 LTM năm 2005 chỉ rõ mối quan hệ nhân quả

này tại khoản 3 với quy định “hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực

tiếp gây ra thiệt hại” thì điều kiện này lại được thể hiện ngầm định tại Điều

360 BLDS năm 2015. Thông qua việc sử dụng quan hệ từ “do” - quan hệ từ

mang ý nghĩa nguyên nhân đích thực và căn nguyên, nguồn gốc để kết nối

giữa “có thiệt hại” và “vi phạm nghĩa vụ”, Điều 360 BLDS năm 2015 đã gián

tiếp chỉ ra mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại

xảy ra. Mối quan hệ nhân quả này còn được Điều 360 BLDS năm 2015 nhấn

mạnh qua việc sử dụng kết hợp giữa quan hệ từ “do” và trạng từ “gây ra” bổ

nghĩa cho điều kiện “vi phạm nghĩa vụ”.

Như vậy, pháp luật Việt Nam không áp đặt trách nhiệm BTTH lên bên

có hành vi không thực hiện đúng hợp đồng nếu bên vi phạm hợp đồng nêu ra

được sự kiện bất khả kháng khiến cho bên này không thể thực hiện đúng

nghĩa vụ hợp đồng. Có thể hiểu sự kiện bất khả kháng như là thiên tai, hỏa

hoạn, bạo động, dịch bệnh… Tuy nhiên, trong thực tế ở lĩnh vực gia công

may mặc, nhiều vi phạm hợp đồng do sự kiện bất khả kháng gây ra đã ảnh

hưởng lớn đến tình hình hoạt động của bên bị thiệt hại, thậm chí có trường

hợp dẫn đến phá sản. Khi sản phẩm may mặc là quần áo đã hoàn thiện nhưng

bên giao gia công không thể nhận do sự kiện bất khả kháng thì bên nhận gia

công không thể có doanh thu dẫn đến thua lỗ, đồng thời chưa thể tìm được

khách hàng để có thể nhận gia công vì vậy, sản xuất bị gián đoạn không thể

giữ chân được nhân công dẫn đến những khó khăn lớn.

- Có lỗi của bên gây thiệt hại

Dựa trên các nguyên tắc được ghi nhận tại khoản 2 và khoản 5 Điều 3

BLDS năm 2015 cũng như các quy định về trách nhiệm dân sự do không thực

38

hiện đúng nghĩa vụ, có thể nhận thấy BLDS năm 2015 đã ghi nhận nguyên tắc

suy đoán lỗi trong trách nhiệm BTTH, có nghĩa là bên có nghĩa vụ không thực

hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết thì bị suy đoán là có lỗi và phải chịu trách

nhiệm BTTH. BLDS năm 2015 cũng ghi nhận ngoại lệ của nguyên tắc này

thông qua quy định “trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định

khác”. Nói cách khác, về nguyên tắc trách nhiệm BTTH do vi phạm hợp đồng

theo BLDS năm 2015 là trách nhiệm nghiêm ngặt và việc chứng minh bên vi

phạm nghĩa vụ hợp đồng có lỗi là không cần thiết bởi yếu tố lỗi đã được hợp

nhất trong hành vi vi phạm hợp đồng.

Phát sinh do lỗi cố ý hoặc vô ý của người không thực hiện hoặc thực

hiện không đúng HĐGCMM cũng tương tự trên; trừ trường hợp có thỏa thuận

khác hoặc pháp luật có quy định khác. Việc phân biệt lỗi vô ý và cố ý cũng có

ý nghĩa nhưng bên cạnh đó thì người có hành vi vi phạm có thể chịu trách

nhiệm ngay cả khi không có lỗi trong trường hợp pháp luật có quy định.

2.1.2. Nguyên tắc BTTH do vi phạm HĐGCMM

Xuất phát từ mục đích của BTTH là khắc phục những hậu quả do hành

vi không thực hiện đúng HĐGCMM gây ra, hệ thống pháp luật Việt Nam

cũng ghi nhận nguyên tắc BTTH do vi phạm nghĩa vụ nói chung và BTTH do

vi phạm hợp đồng nói riêng là bồi thường toàn bộ thiệt hại mà bên bị thiệt hại

phải gánh chịu. Nguyên tắc này được ghi nhận tại Điều 360 BLDS năm 2015:

“Trường hợp có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có nghĩa vụ

phải bồi thường toàn bộ thiệt hại,...”. Bên cạnh việc chỉ ra nguyên tắc BTTH

trong hệ thống pháp luật Việt Nam là bồi thường toàn bộ, BLDS năm 2015

còn chỉ rõ thiệt hại được bồi thường không chỉ có thiệt hại về vật chất mà còn

có thiệt hại về tinh thần. Khác với BLDS năm 2015, LTM năm 2005 không

đưa ra nguyên tắc BTTH là bồi thường toàn bộ thiệt hại nhưng có các quy

định cụ thể về BTTH tại khoản 2 Điều 302: “Giá trị BTTH bao gồm giá trị

39

tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra

và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có

hành vi vi phạm”.

Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên ký

kết HĐGCMM có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường

bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi

thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Cần phải tôn trọng thỏa thuận của các bên về mức bồi thường, hình thức bồi

thường và phương thức bồi thường, nếu thỏa thuận đó không trái pháp luật,

đạo đức xã hội. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được thì khi giải

quyết tranh chấp về BTTH ngoài hợp đồng cần chú ý: Một là, thiệt hại thực tế

phải được bồi thường toàn bộ, phải căn cứ vào các điều luật tương ứng của

BLDS 2015 quy định trong trường hợp cụ thể đó, thiệt hại bao gồm những

khoản nào và thiệt hại đã xảy ra là bao nhiêu, mức độ lỗi của các bên để buộc

người gây thiệt hại phải bồi thường các khoản thiệt hại tương xứng. Hai là, để

thiệt hại có thể được bồi thường kịp thời, tòa án phải giải quyết nhanh chóng

yêu cầu đòi BTTH trong thời hạn luật định. Trong trường hợp cần thiết có thể

áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của pháp

luật tố tụng để giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự.

2.1.3. Thời điểm phát sinh trách nhiệm BTTH do vi phạm HĐGCMM

Vấn đề xác định thời điểm phát sinh trách nhiệm BTTH mà chỉ xem xét

thời điểm phát sinh trách nhiệm dân sự nói chung bởi trách nhiệm dân sự

được thực hiện dựa trên việc áp dụng một hoặc một số biện pháp khắc phục

hậu quả của hành vi vi phạm HĐGCMM. Do việc áp dụng các biện pháp khắc

phục hậu quả của hành vi vi phạm HĐGCMM có thể được thực hiện theo sự

thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật nên mặc dù thời

điểm phát sinh trách nhiệm dân sự được xác định là thời điểm bên có nghĩa vụ

có hành vi vi phạm HĐGC nhưng thời điểm áp dụng các biện pháp khắc phục

40

hậu quả của hành vi vi phạm HĐGC còn phụ thuộc vào một số yếu tố khác.

Tuy nhiên, ta không thể khẳng định một cách máy móc đây chính là thời

điểm làm phát sinh trách nhiệm BTTH của bên có hành vi vi phạm HĐGC

với tư cách là một biện pháp khắc phục nhằm đảm bảo cho trách nhiệm dân

sự được thực hiện bởi việc áp dụng hay không áp dụng biện pháp BTTH trong

trường hợp có thiệt hại xảy ra còn phụ thuộc vào việc các bên có thỏa thuận

về việc miễn trách nhiệm BTTH hay không cũng như bên không thực hiện

đúng nghĩa vụ hợp đồng đã cam kết do sự kiện bất khả kháng hoặc do lỗi của

bên có quyền hoặc do lỗi của người thứ ba.

2.1.4. Xác định mức bồi thường thiệt hại

- Xác định mức BTTH trong trường hợp các bên có thỏa thuận trước

Xuất phát từ nguyên tắc tự do ý chí, pháp luật Việt Nam cũng thừa

nhận việc các bên khi ký kết đưa vào hợp đồng điều khoản cho phép xác định

trước khoản tiền mà bên có nghĩa vụ phải trả cho bên có quyền trong trường

hợp bên có nghĩa vụ vi phạm hợp đồng. Đó là, nếu như LTM năm 2005 xem

áp dụng BTTH là đương nhiên trong trường hợp các bên có thỏa thuận về

phạt vi phạm thì theo BLDS năm 2005 trong trường hợp các bên có thỏa

thuận về việc áp dụng BTTH chỉ được đặt ra khi các bên có thỏa thuận về

điều đó.

Khác với BLDS năm 2005 và LTM năm 2005, BLDS năm 2015 đã có

sự thay đổi trong việc ghi nhận “điều khoản về mức BTTH được xác định

trước”. Đó là, BLDS năm 2015 thừa nhận việc cho phép các bên thỏa thuận

trước về khoản tiền mà bên có nghĩa vụ phải trả cho bên có quyền trong

trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng hợp đồng, không phụ thuộc

vào thiệt hại thực tế theo quy định tại Điều 360 BLDS năm 2015.

Trong thực tế giao kết HĐGCMM hiện nay, hầu hết đều có điều khoản

về BTTH do vi phạm hợp đồng khi có tổn thất lớn về mặt kinh tế cho bên bị

hại. Đây là hình thức trách nhiệm mà các bên thỏa thuận ghi trong hợp đồng,

41

nhằm buộc bên có hành vi gây ra thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách

đền bù tổn thất về vật chất và tổn thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại. Như

vậy, BTTH là chế tài quan trọng và cơ bản nhất nhằm bảo đảm lợi ích của các

bên khi hợp đồng bị vi phạm, tạo ra khả năng đảm bảo lợi ích một cách tối đa

cho mọi bên có liên quan trong quan hệ HĐGCMM.

- Xác định mức bồi thường trong trường hợp không có thỏa thuận trước

Khác với trường hợp BTTH thỏa thuận trước trong hợp đồng, mức BTTH

trong trường hợp các bên không có thỏa thuận trước được xác định dựa trên các

yếu tố: Thiệt hại được bồi thường; Các trường hợp miễn, giảm trách nhiệm

BTTH; Việc thực hiện nghĩa vụ hạn chế thiệt hại của bên có quyền.

Nguyên tắc này được mọi hệ thống pháp luật thừa nhận bởi nó cho

phép bên bị thiệt hại do vi phạm hợp đồng có thể nhận được một khoản tiền

tương ứng với toàn bộ thiệt hại mà họ phải gánh chịu là hậu quả của hành vi

không thực hiện đúng hợp đồng - những thiệt hại được bù đắp để có thể đưa

bên bị thiệt hại vào vị trí mà bên này đáng lẽ có được nếu hợp đồng được thực

hiện đúng. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là mọi yêu cầu BTTH của bên

có quyền đều được đáp ứng, mà ngược lại để được bồi thường, đòi hỏi thiệt

hại mà bên có quyền phải gánh chịu cần thỏa mãn những điều kiện nhất định

như có mối quan hệ nhân quả với hành vi gây thiệt hại, thiệt hại phải mang

tính chắc chắn, thiệt hại có thể dự đoán được.

Điều kiện về tính chắc chắn (hợp lý) của thiệt hại đã từng được đề cập

đến, theo đó một thiệt hại được coi là có tính chắc chắn nếu thiệt hại này nhất

định sẽ xảy ra và có thể dự đoán trước được, do vậy, những thiệt hại không

chắc chắn sẽ xảy ra hoặc chỉ mang tính giả định thì không thể được bồi

thường. Cần lưu ý rằng tính chắc chắn của thiệt hại không đồng nghĩa với

việc thiệt hại đó đã xảy ra mà một thiệt hại xảy ra trong tương lai cũng có thể

mang tính chắc chắn. Tuy nhiên, nếu việc chứng minh tính chắc chắn hợp lý

của thiệt hại hiện tại thường không gây khó khăn thì việc chứng minh tính

42

chắc chắn hợp lý của thiệt hại trong tương lai lại rất khó khăn. Chẳng hạn rất

khó để chứng minh việc bị mất đi cơ hội thu lợi do hành vi vi phạm hợp đồng

bởi trong trường hợp này việc đánh giá thiệt hại sẽ được thực hiện thông qua

một tính toán xác suất.

Để thiệt hại do vi phạm hợp đồng được bồi thường, một điều kiện quan

trọng không kém điều kiện về tính chắc chắn được xem xét là thiệt hại phải

dự đoán trước được hay phải nằm trong dự đoán của các bên vào thời điểm

hợp đồng được xác lập. BLDS năm 2015 cùng với việc đòi hỏi về tính chắc

chắn của thiệt hại được bồi thường và đòi hỏi về mối quan hệ nhân quả giữa

hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại xảy ra cũng ngầm đòi hỏi thiệt hại để

được bồi thường phải có tính dự đoán trước.

2.1.5. Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng

Pháp luật quy định những trường hợp bên vi phạm được miễn trách

nhiệm BTTH như rơi vào sự kiện bất khả kháng, hành vi vi phạm của một bên

hoàn toàn do lỗi của bên kia, hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết

định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết

được vào thời điểm giao kết hợp đồng, miễn trách nhiệm do thỏa thuận của

các bên chủ thể trong hợp đồng (điều 294 LTM 2005). Bên vi phạm nếu

muốn được miễn trách nhiệm hợp đồng thì phải có đầy đủ chứng cứ để chứng

minh các trường hợp miễn trách nhiệm hợp đồng theo quy định của pháp luật.

Ngoài ra, khi xảy ra trường hợp được miễn trách nhiệm hợp đồng còn phải

thông báo ngay bằng văn bản cho bên kia về trường hợp được miễn trách

nhiệm và những hậu quả có thể xảy ra. Nhiều trường hợp trong thực tế một

bên vi phạm hợp đồng do gặp sự kiện bất khả kháng nên gây thiệt hại cho bên

kia nhưng bên vi phạm không thông báo ngay cho bên bị vi phạm biết dẫn tới

khi đưa vụ việc ra tranh chấp tại tòa, bên vi phạm mặc dù gặp sự kiện bất khả

kháng nhưng vẫn phải BTTH.

Trên thực tế có rất nhiều sự cố nằm ngoài khả năng kiểm soát của các

43

bên trong HĐGCMM dẫn đến một hoặc cả hai bên trong hợp đồng không thể

thực hiện được hợp đồng đã ký kết. Pháp luật có quy định các trường hợp

miễn trách nhiệm trong hợp đồng để dự liệu các trường hợp trên. Do đó,

doanh nghiệp khi giao kết hợp đồng cũng cần nắm rõ quy định về các trường

hợp miễn trách nhiệm trong hợp đồng để thỏa thuận điều khoản miễn trách

nhiệm một cách chặt chẽ và phù hợp với quy định của pháp luật.

Các khả năng cụ thể cho việc miễn trách nhiệm BTTH:

Một là, trường hợp miễn trách nhiệm do thỏa thuận của các bên: Hợp

đồng về bản chất là thỏa thuận của hai bên, do đó pháp luật hợp đồng rất tôn

trọng quyền thỏa thuận của hai bên trong hợp đồng. Hai bên trong HĐGCMM

có thể tự do thỏa thuận điều khoản miễn trách nhiệm. Thỏa thuận miễn trách

nhiệm có thể được ghi trong hợp đồng hoặc phụ lục hợp đồng. Thỏa thuận

miễn trách nhiệm cũng có thể được ghi nhận bằng lời nói, hành vi. Thỏa

thuận miễn trách nhiệm phải được lập ra trước thời điểm có vi phạm xảy ra.

Hai là, trường hợp miễn trách nhiệm do sự kiện bất khả kháng. Hiểu

một cách đơn giản, sự kiện bất khả kháng là các sự kiện xảy ra ngoài tầm

kiểm soát của bên vi phạm, không thể lường trước được và không thể khắc

phục được cho dù bên bị vi phạm đã áp dụng mọi biện pháp khắc phục như

bão lụt, hạn hán, đình công, bạo loạn…

Khi xảy ra các sự việc bất khả kháng, bên vi phạm có trách nhiệm

thông báo cho bên kia trong một thời hạn hợp lý. Các bên có thể kéo dài thêm

thời gian thực hiện hợp đồng, tuy nhiên nếu quá thời hạn nêu trên mà vẫn

không thể thực hiện hợp đồng thì các bên có quyền từ chối thực hiện hợp

đồng và không phải BTTH.

Ba là, trường hợp miễn trách nhiệm do hành vi vi phạm của bên vi phạm

hoàn toàn do lỗi của bên bị vi phạm. Đây là trường hợp một bên vi phạm hợp

đồng nhưng nguyên nhân dẫn đến sự vi phạm đó là do lỗi của bên bị vi phạm.

Ví dụ: Công ty A (khu công nghiệp Bắc Ninh) ký hợp đồng thuê Công ty

44

B (khu công nghiệp Bình Dương) gia công quần áo thể thao các loại. Thời

hạn giao hàng cho Công ty A là 31/8/2018. Mưa lụt xẩy ra làm sạt lở và tắc

nghẽn tuyến đường bộ Bắc Nam trong nhiều ngày do vậy vận chuyển hàng

hóa gia công từ tỉnh Bình Dương ra tỉnh Bắc Ninh không thể thực hiện được

do tuyến đường bị phong tỏa để sửa chữa và việc giao hàng chậm so với hạn

trên hợp đồng là 2 tuần. Công ty B đã ngay lập tức thông báo cho Công ty A

biết về sự kiện này, nếu không thông báo thì việc sạt lở đường do lũ lụt xảy ra

không được coi là sự kiện bất khả kháng. Trong trường hợp đường đã thông

sau khi sửa chữa nhưng Công ty B vẫn không thực hiện được hợp đồng mà

sau đó Công ty A chứng minh được rằng đường đã thông trước thời hạn thông

báo thì đó cũng không được xem là sự kiện bất khả kháng và Công ty B cũng

không được miễn trách nhiệm.

2.1.6. Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại

Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại được xây dựng dựa trên ý tưởng loại bỏ việc

bên có quyền thụ động chờ đợi được BTTH đối với những thiệt hại mà bên này

đáng lẽ có thể tránh được hoặc có thể hạn chế được. Nói cách khác, là ngay cả

khi bên có quyền không có lỗi trong việc để thiệt hại xảy ra thì bên có quyền

cũng không được bồi thường cho những thiệt hại mà đáng lẽ bên này tránh

được nếu áp dụng các biện pháp ngăn chặn, giảm thiểu thiệt hại thích hợp.

Trước khi BLDS năm 2015 được thông qua, nghĩa vụ hạn chế thiệt hại

chỉ được ghi nhận rải rác trong Điều 448, Điều 575 của BLDS năm 2005 và

Điều 305 LTM năm 2005. Nhận thức được nghĩa vụ hạn chế thiệt hại theo

quy định của Điều 274 BLDS năm 2015, BLDS năm 2015 đã chính thức ghi

nhận nghĩa vụ hạn chế thiệt hại với tính cách là nguyên tắc chung áp dụng cho

mọi nghĩa vụ nói chung và hợp đồng nói riêng. Với tiêu đề “Nghĩa vụ ngăn

chặn, hạn chế thiệt hại”, Điều 362 BLDS năm 2015 đã chỉ rõ: “Bên có quyền

phải áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để thiệt hại không xảy ra hoặc

hạn chế thiệt hại cho mình”. Điều này cho thấy pháp luật hợp đồng Việt Nam

45

đã rất tiến bộ và tương thích với luật hợp đồng thế giới khi không chỉ đưa ra

nguyên tắc về nghĩa vụ hạn chế thiệt hại mà còn xác định phạm vi áp dụng

nguyên tắc này.

2.2. Thực tiễn về BTTH do vi phạm HĐGCMM ở Việt Nam hiện nay

2.2.1. Thực tiễn về vi phạm HĐGCMM

Trong quá trình thực hiện HĐGCMM thì rất dễ xảy ra các tranh chấp,

khiếu nại do một bên không thực hiện đúng với các điều khoản ký kết trong

hợp đồng hay nói cách khác là một bên vi phạm HĐGC. Thông qua thực tế

các khiếu nại cho thấy các vi phạm trong HĐGCMM ở Việt Nam hiện nay

gồm những trường hợp sau:

Bên nhận gia công có quyền khiếu nại bên đặt gia công khi bên đặt gia

công vi phạm bất cứ điều khoản nào quy định về nghĩa vụ của bên đặt gia

công như: thanh toán chậm, không thanh toán, thanh toán không đúng lịch

trình, đơn phương huỷ hợp đồng, giao chậm nguyên phụ liệu, giao nguyên

phụ liệu không đủ số lượng. Bên đặt gia công khiếu nại bên nhận gia công khi

bên nhận gia công vi phạm các điều khoản quy định trong hợp đồng như: giao

hàng không đúng phẩm chất quy cách, chất lượng, số lượng, trọng lượng, bao

bì, ký mã hiệu sai quy cách không phù hợp với điều kiện vận chuyển, không

giao hàng mà không phải do trường hợp bất khả kháng gây ra, giao hàng

không đúng thời gian, địa điểm, sử dụng nguyên liệu không đúng mục đích.

Khi một trong hai bên ký kết HĐGCMM vi phạm các điều khoản hợp

đồng đã ký kết gây ra thiệt hại cho bên còn lại, thì bên còn lại có thể yêu cầu

bên vi phạm phải BTTH. Có thể hai bên tự thương lượng với nhau trên tinh

thần hợp tác cùng có lợi, nếu không tự giải quyết được sẽ cùng nhau đưa ra

trọng tài kinh tế nơi mà hai bên đã đề cập trong hợp đồng.

Việc ký kết HĐGC trong may mặc là bắt buộc đối với các bên bởi đó là

hình thức tốt nhất trong việc đảm bảo quyền lợi giữa các bên. Việc thực hiện

hợp đồng dưới hình thức văn bản sẽ tránh được những hiểu lầm không thống

46

nhất giữa các bên, ngoài ra còn giúp cho việc theo dõi kiểm tra và thực hiện

hợp đồng một cách dễ dàng hơn. Tuy nhiên, việc ký kết cần để ý đến các điều

khoản để tránh sau này cần phải chỉnh sửa vì như thế sẽ rất khó khăn và khó

thực hiện gây bất lợi. Trước khi ký kết người có thẩm quyền phải đọc kỹ hợp

đồng để xem hợp đồng có đúng như những gì đã đàm phán hay không, ngôn

ngữ có phù hợp không, các điều khoản nêu ra như vậy đã đúng chưa để tránh

trường hợp nhầm lẫn hoặc có sự thay đổi mà không được báo trước. Trong

hợp đồng ký kết việc xác định đúng nhu cầu và năng lực của bên nhận gia

công là quan trọng để tránh trường hợp là bên nhận gia công chấp nhận gia

công một số lượng hàng lớn trong một khoảng thời gian ngắn nhưng trong khi

vốn và nguồn lực lại không đủ đáp ứng được những yêu cầu đó. Đối với bên

nhận gia công cũng cần phải lưu ý và phải tính đến chi phí khấu hao máy, điện

nước, nhân công và cả nguyên phụ liệu nếu trong HĐGC không tính đến tỷ lệ

hao hụt nguyên liệu thì coi như HĐGC đó tỷ lệ hao hụt nguyên liệu bằng 0.

Những năm gần đây, ngành Dệt may Việt Nam liên tục có bước phát

triển tích cực, đạt mức tăng trưởng xuất khẩu năm sau cao hơn năm trước.

Sáu tháng đầu năm 2019, kim ngạch xuất khẩu dệt may đạt 18 tỷ USD, tăng

8,61% so với cùng kỳ năm 2018. Năm 2018, ngành Dệt may Việt Nam đánh

dấu mốc quan trọng khi kim ngạch xuất khẩu đạt trên 36 tỷ USD, tăng trưởng

hơn 16% so với năm 2017. May mặc Việt Nam nằm trong tốp 3 nước xuất

khẩu cao nhất thế giới, chỉ sau Trung Quốc và Ấn Độ. Các doanh nghiệp hoạt

động ở lĩnh vực dệt may, chủ yếu là gia công xuất khẩu và gia công trong

nước. Trong thực tế, tình trạng vi phạm hợp đồng trong lĩnh vực may mặc

Việt Nam hiện nay xẩy ra nhiều và tỷ lệ thuận với việc tăng trưởng trong

ngành dệt may. Tuy nhiên, do đã có sự ký kết và ràng buộc ở HĐGC mà việc

BTTH do vi phạm HĐGCMM diễn ra thuận lợi hơn. Mặc dù vậy, đã có

những vụ việc diễn ra phức tạp, các bên đã không thỏa thuận được phương án

BTTH do vi phạm hợp đồng dẫn đến kiện tụng kéo dài, thiệt hại kinh tế cho

47

cả đôi bên. Trong 03 năm từ 2017 dến 2019 đã ghi nhận 07 vụ án giải quyết

tranh chấp do vi phạm HĐGCMM phức tạp kéo dài. Bởi vậy, các doanh

nghiệp hoạt động trong lĩnh vực may mặc ở Việt Nam hiện nay ngày càng chú

trọng trong việc nâng cao hiểu biết pháp luật nói chung và trong ký kết

HĐGC nói riêng, đặc biệt là gia công cho các thương nhân nước ngoài. Với

tinh thần cầu thị, cởi mở và hướng đến sự phát triển trong tương lai, hy vọng

trong những năm tiếp theo, các vụ việc vi phạm HĐGC trong lĩnh vực may

mặc sẽ giảm đi đáng kể.

2.2.2. Thực tiễn bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng gia công

may mặc

BTTH do vi phạm HĐGCMM là việc bù đắp những tổn thất mà bên vi

phạm nghĩa vụ phải thực hiện. Như vậy, về nguyên tắc, phải có thiệt hại mới

phát sinh nghĩa vụ BTTH. Trách nhiệm BTTH trong hợp đồng phát sinh khi

hội tụ đủ các yếu tố sau: có hành vi vi phạm hợp đồng, có thiệt hại thực tế xảy

ra, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại xảy

ra. Tất nhiên là vẫn có ngoại lệ nếu các bên thỏa thuận khác [13,tr.70]. Đồng

thời, bên yêu cầu BTTH phải áp dụng các biện pháp hợp lý để hạn chế tổn

thất. Ngoài ra, chủ thể vi phạm không rơi vào các trường hợp miễn trách

nhiệm được quy định của pháp luật thương mại. Còn với trách nhiệm BTTH

thì dù trong hợp đồng, 2 bên không thoả thuận về điều này thì khi hội tụ đủ

các căn cứ như đã nói trên thì trách nhiệm BTTH vẫn xảy ra. Tất nhiên là

pháp luật vẫn dành cho các bên được quyền thoả thuận khác hoặc pháp luật có

quy định khác. Còn chế tài BTTH nhằm vào việc khắc phục thiệt hại do hậu

quả của hành vi vi phạm xảy ra. Trong khi đó, chế tài BTTH nhằm bù đắp tổn

thất nên sẽ chỉ bằng thiệt hại đã xảy ra hoặc nhỏ hơn thiệt hại đã xảy ra

[13,tr.70]. Các bên khi tham gia vào quan hệ hợp đồng, tùy thuộc vào vị trí

pháp lý của mình để có thể thỏa thuận những điều khoản hợp lý nhất. Trong

quan hệ HĐGCMM, các bên phải dựa theo luật chuyên ngành là Luật Thương

48

mại để không làm trái các quy định của pháp luật. Nghĩa là xét trong

HĐGCMM, nếu các bên không có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm

chỉ được quyền yêu cầu BTTH.

Bản số: 12/2014/KDTM-ST; ngày 15/01/2014; V/v: “Tranh chấp về

hợp đồng kinh doanh thương mại gia công”.

Công ty Minh Quân và Công ty Thời trang Nga Sơn có ký kết với nhau

hai Hợp đồng ủy thác gia công xuất khẩu số 02/2012/GC/FQ-FM và số

03/2012/GC/FQ-FM. Theo các hợp đồng thì Công ty Minh Quân có trách

nhiệm gia công hàng may mặc cho Công ty Thời trang Nga Sơn theo số lượng

và đơn giá được ghi nhận trong từng hợp đồng.

Thực hiện hai hợp đồng nêu trên, Công ty Minh Quân đã hoàn tất, giao

cho Công ty Thời trang Nga Sơn 04 (bốn) đợt hàng, với tổng giá tiền gia công

là 788.591.803 đồng và đã xuất hóa đơn giá trị gia tăng. Công ty Thời trang

Nga Sơn đã nhận và chỉ thanh toán cho Công ty Minh Quân hai lần với tổng

số tiền là 419.315.420 đồng, còn nợ lại số tiền gia công là 369.276.383 đồng.

Công ty Minh Quân khởi kiện yêu cầu Công ty Thời trang Nga Sơn phải

thanh toán ngay toàn bộ số tiền chi phí gia công còn nợ là 369.276.383 đồng.

Ngoài ra, Công ty Thời trang Nga Sơn còn phải thanh toán thêm số tiền lãi do

chậm thanh toán theo thỏa thuận là 0,1%/ngày tính từ ngày phát sinh nghĩa vụ

thanh toán 30/7/2012 cho đến khi Tòa án xét xử vụ án.

Công ty Minh Quân không thừa nhận việc đã giao thiếu hàng, không

thừa nhận việc đã giao hàng không đúng chất lượng như nội dung Công ty

Thời trang Nga Sơn đã trình bày trong đơn khởi kiện phản tố. Công ty Minh

Quân không đồng ý chịu toàn bộ cước phí bằng đường hàng không theo yêu

cầu của Công ty Thời trang Nga Sơn.

Xét thấy: Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được

thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng

49

xét xử nhận định:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Buộc Công ty Thời

trang Nga Sơn phải giao trả cho Công ty Minh Quân số tiền chi phí gia công

còn nợ và số tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán, tính từ ngày

30/7/2012 đến ngày 10/01/2014 ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

2. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn:

- Buộc Công ty Minh Quân phải bồi thường cho Công ty Thời trang

Nga Sơn chi phí gửi hàng gia công bằng đường hàng không ngay sau khi án

có hiệu lực pháp luật.

- Không chấp nhận các yêu cầu của Công ty Thời trang Nga Sơn về

việc buộc Công ty Minh Quân phải BTTH do giao thiếu hàng gia công, giao

hàng gia công không đúng chất lượng.

Bài học rút ra thông qua vụ án trên đó là trong quá trình hoạt động kinh

doanh thương mại gia công, các đối tác của nhau cũng nên thấu hiểu trước

những khó khăn của nhau, có gắng giải quyết theo phương thức phù hợp với

hoàn cảnh, khả năng của nhau khi mà có vi phạm hợp đồng đã ký kết. Như

Công ty Thời trang Nga Sơn trong tình huống trên, nếu Công ty Minh Quân

giao thiếu hàng và không đúng chất lượng thì ngay thời điểm giao hàng Công

ty Thời trang Nga Sơn phải kiểm tra hàng hóa, lập biên bản ghi nhận hàng

thiếu và hàng không đúng chất lượng để làm căn cứ yêu cầu bên Công ty

Minh Quân BTTH. Công ty Thời trang Nga Sơn cũng phải nêu rõ các thỏa

thuận giao hàng với đối tác nước ngoài khi thỏa thuận ký kết hợp đồng với

Công ty Minh Quân. Đối với Công ty Minh Quân cũng cần rút kinh nghiệm

tránh trường hợp giao hàng không đúng thời hạn gây ra tổn thất cho bên tham

gia ký kết hợp đồng là Công ty Thời trang Nga Sơn. Thay vì để xẩy ra kiện

tụng kéo dài, phức tạp, hai bên tham gia ký kết hợp đồng nên tháo gỡ khó

khăn cho nhau, tự thỏa thuận, dàn xếp mức BTTH hợp lý.

Bản số: 65/2015/KDTM-ST; Ngày: 24/7/2015; V/v: “Tranh chấp

50

HĐGC”.

Tóm tắt nội dung vụ việc như sau:

Ngày 11/04/2013, Công ty Âu Phục và Công ty Shen Long kí kết

HĐGC số 01/QP-SL, về việc nhận gia công chần gòn. Cụ thể:

Công ty Âu Phục nhận gia công vải chần gòn các loại cho Công ty

Shen Long. Số lượng Chần gòn: 60.000 yard; Đơn giá: 0,3 USD; Thành tiền:

18.000 USD. Qui cách phẩm chất và kiểm tra chất lượng: Tất cả các chi tiết

kỹ thuật và qui cách theo đúng sự chỉ dẫn do Công ty Shen Long cung cấp.

Công ty Âu Phục đảm bảo chất lượng sản phẩm may đúng theo quy định. Nếu

Công ty Âu Phục làm rách hay hư hỏng sản phẩm thì phải bồi thường cho

Công ty Shen Long. Nếu do sản phẩm bị hư hỏng trước khi gia công, Công ty

Âu Phục không chịu trách nhiệm.

Tổng số lượng tiền mà Công ty Shen Long phải thanh toán cho Công ty

Âu Phục là 398.772.495đ (ba trăm chín mươi tám triệu bảy trăm bảy mươi hai

ngàn bốn trăm chín mươi lăm đồng).

Khi nhận hàng, Công ty Shen Long không có ý kiến gì. Ngày

12/8/2013 Công ty Shen Long đã thanh toán cho Công ty Âu Phục

105.097.930 đ (một trăm lẻ năm triệu không trăm chín mươi bảy ngàn chín

trăm ba mươi đồng).

Nay, Công ty Âu Phục yêu cầu Công ty Shen Long phải thanh toán số

tiền còn thiếu là 293.674.529 đ (hai trăm chín mươi ba triệu sáu trăm bảy

mươi bốn ngàn năm trăm hai mươi chín ngàn) và lãi suất chậm trả theo mức

lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định từ ngày 18/8/2013 đến ngày

xét xử là: 51.099.345 đ (năm mươi mốt triệu không trăm chín mươi chín

nghìn ba trăm bốn lăm đồng), ngay một lần sau khi án có hiệu lực pháp luật.

Tại bản tự khai, biên bản hòa giải, và tại phiên tòa hôm nay, đại diện bị

đơn trình bày:

Thực hiện hợp đồng, Công ty Âu Phục đã làm hỏng hàng gia công vải

51

chần gòn xuất khẩu. Do vậy khi Công ty Shen Long giao hàng thành phẩm

cho đối tác thứ 3, đã bị đối tác trừ tiền của Công ty Shen Long là: 22.178.8

USD tương đương 465.754.800 đ (bốn trăm sáu mươi lăm triệu bảy trăm năm

mươi bốn nghìn tám trăm đồng). Điều này thể hiện tại Biên bản ghi nhận có

ký xác nhận số lượng hàng gia công bị lỗi trên. Do vậy, Công ty Âu Phục phải

chịu trách nhiệm hoàn trả Công ty Shen Long số tiền 22.178,8 USD tương

đương 465.754.800 đ (bốn trăm sáu mươi lăm triệu bảy trăm năm mươi bốn

nghìn tám trăm đồng). Công ty Shen Long sẽ tính toán lại số tiền gia công sau

khi khấu trừ đi số tiền nêu trên.

Tòa tuyên xử:

1. Buộc Công ty Shen Long có trách nhiệm thanh toán cho Công ty Âu

Phục số tiền gia công là 293.674.529đ (hai trăm chín mươi ba triệu sáu trăm

bảy mươi bốn nghìn năm trăm hai mươi chín nghìn) và lãi suất 51.099.345 đ

(năm mươi mốt triệu không trăm chín mươi chín nghìn ba trăm bốn mươi năm

đồng). Việc thanh toán được thực hiện một lần ngay sau khi án có hiệu lực

pháp luật.

2. Bác yêu cầu Công ty Shen Long về việc buộc Công ty Âu Phục có

trách nhiệm thanh toán cho Công ty Shen Long số tiền 465.754.800 đ (bốn

trăm sáu mươi lăm triệu bảy trăm năm mươi bốn nghìn tám trăm đồng).

Như vậy có thể thấy, trong thực tiễn áp dụng khi tòa án căn cứ theo quy

định của Bộ luật Tố tụng dân sự, BLDS, LTM yêu cầu bên vi phạm hợp đồng

phải BTTH cho bên bị thiệt hại bao gồm số tiền còn thanh toán thiếu và lãi

suất của số tiền thiếu. Đồng thời, tòa án cũng bác yêu cầu của bên vi phạm

cho rằng sản phẩm hoàn thành mà bên bị thiệt hại cung cấp là không đủ chất

lượng vì tại thời điểm giao nhận sản phẩm, bên giao gia công đã nhận hàng

mà không có bất cứ phản hồi về chất lượng thì có thể được coi là hàng hóa đã

hoàn thành theo hợp đồng. Do vậy, trong quá trình thực hiện hợp đồng giao

52

công, các cần phải lưu ý thực hiện đúng những điều khoản đã được ký kết.

Phương thức thực hiện hợp đồng cũng là một nội dung của hợp đồng.

Nội dung này cho phép xác định bên có nghĩa vụ trong quan hệ hợp đồng phải

thực hiện nghĩa vụ của mình theo thể thức nào để đáp ứng quyền và lợi ích

hợp pháp của bên có quyền. Như đã nêu trên, đối tượng của nghĩa vụ hợp

đồng là thực hiện một công việc gia công quần áo xuất khẩu mà Công ty Shen

Long đã thuê Công ty Âu Phục thực hiện. Điều đó có nghĩa là hàng hóa là

quần áo gia công các loại, là vật đặc định thì bên có nghĩa vụ phải giao đúng

vật và đúng tình trạng đã cam kết. Cụ thể ở đây, Công ty Âu Phục có nghĩa vụ

phải giao đúng số lượng, chất lượng đã thỏa thuận. Công ty Shen Long có

nghĩa vụ phải thanh toán đầy đủ khoản tiền đó. Việc thanh toán khoản tiền

này có thể được thực hiện một lần hoặc nhiều lần theo thỏa thuận của các bên.

Do vậy, vi phạm về phương thức thực hiện hợp đồng là vi phạm về cách thức

thực hiện hợp đồng mà các bên đã thỏa thuận hoặc pháp luật đã quy định hoặc

theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã chỉ rõ nhưng bên có

nghĩa vụ đã không tuân thủ cách thức thực hiện hợp đồng này. Với cách hiểu này,

có thể nói mọi hành vi thực hiện hợp đồng không đúng với các thể thức mà các

bên đã thỏa thuận hoặc không đúng quy định của pháp luật hoặc không đúng với

quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền như Công ty Shen Long đều bị

xem là hành vi vi phạm về phương thức thực hiện hợp đồng.

Như vậy, xác định thiệt hại vật chất gồm thiệt hại thực tế và khoản lợi

bị mất. Trong thiệt hại do tòa án chỉ ra, có thể nhận thấy: Thiệt hại trực tiếp là

khoản tiền phí gia công mà Công ty Âu Phục bị Công ty Shen Long từ chối

thanh toán. Đây là khoản tiền mà Công ty Âu Phục phải được trả vì đã hoàn

thành công việc gia công của minh. Thiệt hại gián tiếp Công ty Âu Phục phải

chịu thiệt do hành vi không thanh toán tiền phí gia công theo đúng thỏa thuận

là lãi suất ngân hàng. Đây chính là khoản lợi bị mất.

2.3. Đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về bồi thường thiệt hại

53

do vi phạm hợp đồng gia công may mặc ở Việt Nam hiện nay

2.3.1. Đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi

phạm hợp đồng gia công may mặc

BTTH do vi phạm HĐGC là biện pháp pháp lý quan trọng có vai trò bù

đắp cho bên bị thiệt hại những tổn thất là hậu quả của hành vi vi phạm hợp

đồng. HĐGC cũng là một dạng của hợp đồng thương mại và thực tiễn tại Việt

Nam việc quy định, áp dụng pháp luật liên quan vấn đề BTTH đang còn bộc

lộ những hạn chế nhất định; nhiều tranh chấp xảy ra khó giải quyết kịp thời và

triệt để.

Thứ nhất, các quy định về BTTH do vi phạm hợp đồng còn có sự khác

biệt, chưa thống nhất giữa BLDS 2015 và LTM 2005. Với vai trò là hai đạo

luật quan trọng nhất điều chỉnh về hợp đồng nói chung và chế tài BTTH do vi

phạm hợp đồng, nhưng ngay trong BLDS 2015 và LTM 2005 đã có các quy

định chưa thống nhất với nhau: nếu BLDS 2015 ghi nhận yếu tố lỗi là một

trong các căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH, thì trong LTM 2005 không ghi

nhận yếu tố lỗi; LTM 2005 quy định có bốn trường hợp miễn trách nhiệm cho

bên vi phạm hợp đồng, bao gồm: bao gồm: (1) xảy ra trường hợp miễn trách

nhiệm mà các bên đã thỏa thuận; (ii) xảy ra sự kiện bất khả kháng: (iii) hành

vi vi phạm cùa một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia; (iv) hành vi vi phạm của

một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền

mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng. BLDS 2015

không đưa “hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan

quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời

điểm giao kết hợp đồng” làm căn cứ miễn trách nhiệm bồi thường; BLDS

2015 yêu cầu bên vi phạm phải bồi thường toàn bộ thiệt hại về vật chất và

tinh thần cho bên bị thiệt hại trong khi đó, LTM 2005 lại xác định phạm vi

BTTH là giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên

vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên vi phạm đáng lẽ được hưởng

54

nếu không có hành vi vi phạm.

Thứ hai, về xác định giá trị BTTH. Tại khoản 2, Điều 302 LTM 2005

xác định giá trị BTTH bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi

phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi

phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm thì BLDS 2015 lại

cho phép thoả thuận.

Thứ ba, pháp luật Việt Nam về BTTH do vi phạm hợp đồng còn nhiều

điểm chưa phù hợp, không tương thích với pháp luật quốc tế. Cụ thể: về phạm

vi thiệt hại được BTTH do vi phạm hợp đồng, pháp luật Việt Nam chưa quy

định rõ vi phạm bồi thường có bao gồm những thiệt hại phi tiền tệ hay không

(như thiệt hại do mất uy tín, …) và thiệt hại có tính đến mọi khoản lợi cho bên

có quyền từ một khoản chi phí hay tổn thất tránh được hay không.

Thứ tư, các quy định về miễn trách nhiệm BTTH do vi phạm hợp đồng

còn một số điểm chưa được quy định rõ ràng và còn thiếu, như:

Điều 294 LTM 2005 quy định về việc miễn trách nhiệm do sự kiện bất

khả kháng nhưng không quy định rõ sự kiện bất khả kháng xảy ra với chính

chủ thể trong quan hệ hợp đồng hay sự kiện bất khả kháng xảy ra với bên thứ

ba. Quy định về thoả thuận về miễn trách nhiệm giữa các chủ thể trong hợp

đồng cũng chưa được đầy đủ và triệt để. Ngoài ra, theo kinh nghiệm phải có

những điều kiện nhất định để vừa bảo đảm tôn trọng sự tự do thoả thuận giữa

các bên, vừa hạn chế việc một bên lợi dụng căn cứ này để trốn tránh trách

nhiệm hợp đồng.

Quy định miễn trách nhiệm BTTH trong trường hợp hành vi vi phạm

của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm

quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng cũng

chưa hoàn toàn triệt để vì chưa dự liệu trách nhiệm của Nhà nước đối với

người bị thiệt hại trong trường hợp này.

2.3.2. Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại do

55

vi phạm hợp đồng gia công may mặc ở Việt Nam hiện nay

- Ưu điểm:

Qua tình hình thực hiện pháp luật HĐGCMM, có thể rút ra được một số

ưu điểm lớn trong công tác thực tiễn sau đây:

Một là, các bên tuân thủ chặt chẽ quy định về hình thức và nội dung của

HĐGCMM trong quá trình giao kết. Về hình thức, các HĐGCMM đều được

lập thành văn bản, được ký bởi người đại diện có thẩm quyền. Về nội dung,

tùy thuộc vào hàng hóa yêu cầu gia công mà mỗi điều khoản trong hợp đồng

có thể khác nhau, nhưng đều thể hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ mà các bên

cam kết.

Hai là, tranh chấp phát sinh trong HĐGCMM không quá gay gắt, các

bên ý thức được quyền tự do định đoạt, thỏa thuận trên cơ sở thiện chí nên

vẫn đạt được kết quả cao. Nguyên nhân đều do các bên tự thỏa thuận với nhau

về việc giải quyết vụ tranh chấp nên nguyên đơn đã rút đơn khởi kiện; bị đơn

cũng không có yêu cầu phản tố.

Ba là, các đối tác thuê gia công thường là đối tác làm lâu năm. Các phát

sinh vi phạm hợp đồng đều thường xuất phát từ các nguyên nhân bất khả

kháng. Hai bên thường tìm cách giải quyết hài hòa giữa các bên, cùng nhau

chia sẻ những khó khăn.

- Hạn chế:

BTTH do vi phạm HĐGCMM ở Việt Nam hiện nay chịu sự tác động,

chi phối của các yếu tố khách quan và chủ quan, giữa chúng có mối quan hệ

chặt chẽ, tác động qua lại với nhau.

Một là yếu tố pháp lý, là yếu tố căn bản để xác định việc BTTH do vi

phạm HĐGCMM. Quy định của pháp luật càng cụ thể, rõ ràng thì việc BTTH

càng được thực hiện đúng, thống nhất đảm bảo lợi ích cho cả bên bị thiệt hại

và bên vi phạm. Tuy nhiên, quy định của pháp luật hiện nay về vấn đề này

còn chưa chặt chẽ, thống nhất. Chẳng hạn, quy định về thỏa thuận miễn trách

56

nhiệm BTTH trong pháp luật hợp đồng Việt Nam còn thiếu chặt chẽ bởi Điều

13 và Điều 360 Bộ luật dân sự năm 2015 - những quy định được áp dụng

chung cho trách nhiệm BTTH chưa đặt ra giới hạn đối với thỏa thuận miễn

trách nhiệm BTTH của các bên. Hoặc trong LTM coi “khoản lợi đáng lẽ được

hưởng” là một thiệt hại nhưng BLDS không quy định rõ vấn đề này, hay

BLDS có quy định về bồi thường tổn thất về tinh thần” nhưng LTM chỉ nêu “

thiệt hại thực tế”… Do đó, khi tiến hành áp dụng pháp luật về vấn đề này

chúng ta thường gặp khó khăn, lúng túng. Mặt khác, các cơ quan tố tụng cũng

chưa có hướng dẫn cụ thể về việc BTTH do vi phạm HĐGCMM. Đây là vấn

đề khó khăn bởi vì BTTH rất đa dạng, không thể liệt kê hết trong các văn bản

quy phạm pháp luật và nếu có liệt kê thì không thể đầy đủ.

Hai là yếu tố con người. Yếu tố con người là những tác động chủ quan

đến việc BTTH do vi phạm HĐGCMM. Sự tác động, ảnh hưởng của yếu tố

này được thể hiện: Sự thỏa thuận của các chủ thể về giá trị BTTH, nhất là

những thỏa thuận về trường hợp được miễn, giảm giá trị bồi thưởng thiệt hại,

thỏa thuận thời điểm bồi thường, cách thức bồi thường …; Khả năng chứng

minh thiệt hại của bên bị vi phạm; Sự thiện chí, trung thực của các chủ thể

tham gia hợp đồng; Khả năng đánh giá thiệt hại và sử dụng pháp luật của con

người thuộc cơ quan, tổ chức áp dụng pháp luật.

Ba là yếu tố thị trường. Đối tượng của HĐGCMM là hàng hóa gồm quần

áo các loại. Khi xác định giá trị hàng hóa thường bị chi phối bởi nhu cầu của

thị trường (xu hướng thời trang theo mùa, theo lễ hội, theo trào lưu…), sự

biến động về giá cả, tỷ giá, lãi suất…Chẳng hạn, Công ty H là công ty có trụ

sở tại Mỹ ký HĐGCMM quần áo mùa đông các loại với Công ty X của Việt

Nam trong đó Công ty H là công ty đặt gia công có trách nhiệm giao nguyên

liệu, tài liệu kỹ thuật, hàng mẫu và hướng dẫn cho bên Công ty X. Công ty X

là công ty nhận gia công có nhiệm vụ may các lô hàng theo đúng kiểu dáng

thông số kỹ thuật, giao hàng đủ số lượng, chất lượng và đúng thời hạn cho

57

Công ty H. Tuy nhiên, do có khó khăn về việc tuyển dụng nhân công nên

Công ty X đã không thể hoàn thành đơn hàng kịp tiến độ. Việc giao hàng đủ

số lượng chậm mất 02 tuần so với ký kết trong hợp đồng. Lô hàng đã không

kịp để Công ty H tung ra thị trường vào đúng dịp lễ Noel gây ra thiệt hại về

tài chính cho Công ty H, làm Công ty bỏ lỡ cơ hội tiêu thụ hàng hóa vào thời

điểm mua sắm lớn nhất trên thị trường Mỹ và giá trị của lô hàng giảm sâu sau

dịp lễ Noel. Do vậy, việc xác định mức thiệt hại trong BTTH do vi phạm

HĐGCMM bị chi phối nhất định bởi yếu tố thị trường, nhất là đối với việc

BTTH liên quan nhiều quốc gia, khu vực.

Bốn là yếu tố thay đổi theo thời gian của thiệt hại. Thiệt hại mà bên vi

phạm gây ra có một giá trị nhất định tại thời điểm có hành vi vi phạm nhưng

giá trị này thường thay đổi do sự biến động của các yếu tố trong thị trường tạo

ra (như: yếu tố giá cả, cung - cầu) hoặc do tác động của tự nhiên, môi trường.

Sự biến đổi nhanh hay chậm của thiệt hại phụ thuộc vào từng loại thiệt hại

khác nhau (thiệt hại vật chất, thiệt hại phi vật chất). Mặt khác, từ thiệt hại này

có thể gây ra thiệt hại khác, có tính dây chuyền cho bên bị vi phạm. Vấn đề

này mang tính tất yếu giống như mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện

tượng trong thế giới khách quan. Theo đó, việc BTTH sẽ gặp khó khăn trong

trường hợp thiệt hại xẩy ra có phạm vi rộng, có nhiều loại thiệt hại, hay liên

quan đến nhiều chủ thể.

Từ những yếu tố tác động nêu trên dẫn tới vẫn còn tồn tại một số bất cập

như sau:

Một là, đa phần những tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện

HĐGCMM do một bên không tuân thủ đúng nghĩa vụ hợp đồng, vi phạm

những cam kết đã thỏa thuận như: vi phạm thời gian giao hàng, vi phạm về số

lượng giao hàng, vi phạm về chất lượng, mẫu mã hàng không đúng như mẫu

và tài liệu kỹ thuật bên đối tác đã yêu cầu, vi phạm khi để lộ các thông tin về

58

mẫu mã, xu hướng thiết kế thời trang,… Các vi phạm thường do pháp luật

còn có những điều khoản quy định chưa rõ ràng hoặc do các bên chưa hiểu rõ

các điều khoản dẫn tới những vi phạm hợp đồng không mong muốn.

Hai là, thực tiễn BTTH do vi phạm HĐGCMM thời gian gần đây, các vụ

việc không có dấu hiệu giảm, vẫn thường xuyên xẩy ra, có những vụ việc giá trị

bồi thường tương đối cao, gây những khó khăn nhất định cho doanh nghiệp.

Thực tế cho thấy, có thể có những trường hợp về mặt pháp lý đã rõ ràng, các bên

đã có những kiến thức nhất định trong hiểu biết về pháp luật và hiểu rõ những

điều khoản ký kết trong hợp động. Tuy nhiên, các yếu tố về thị trường kinh

doanh, các yếu tố thay đổi theo thời gian của thiệt hại khiến các bên gặp khó

khăn trong việc thực hiện đúng các giao kết đã ký trong HĐGCMM dẫn tới mâu

thuẫn, bất đồng khó thực hiện theo cách thức hòa giải.

Ba là, chất lượng giải quyết tranh chấp HĐGCMM bằng Tòa án chưa đạt

hiệu quả như mong muốn. Khi vụ việc phát sinh vi phạm HĐGCMM, các bên

59

khi ký hợp đồng không thể đạt được thỏa thuận dẫn đến tranh chấp lâu dài.

Tiểu kết chương 2

Những phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về BTTH do vi phạm

hợp đồng thương mại nói chung và HĐGCMM ở nước ta hiện nay cho thấy

bên cạnh những quy định, điều khoản hợp lý thì pháp luật Việt Nam vẫn còn

tồn tại một số bất cập cần được sửa đổi, bổ sung.

Về mặt dân sự, dù BLDS 2015 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung về pháp luật

của HĐGC so với BLDS 2005 cũ, tuy nhiên vẫn còn có điểm hạn chế. Trong

khi đó, LTM 2005 đã kế thừa và phát huy được những ưu điểm của Pháp lệnh

Hợp đồng kinh tế 1989 và LTM 1997, tuy nhiên cũng còn nhiều điểm chưa

hợp lý với thực trạng hiện nay. Trong thực tế đời sống, nhiều trường hợp do

không hiểu hoặc hiểu chưa thấu đáo các quy định trong luật nên dẫn đến việc

áp dụng sai vào trong các hợp đồng. Việc một hoặc nhiều bên tham gia kí kết

hợp đồng không hiểu hết các điều khoản dẫn đến việc sai sót hoặc nhầm lẫn

trong việc thực hiện hợp đồng. Đồng thời, cũng do sự thiếu hiểu biết rõ ràng

về mặt pháp luật nên có những thỏa thuận trong hợp đồng không hoàn toàn

chặt chẽ, do đó khi xảy ra tranh chấp thì các bên không tự giải quyết được và

phải đưa ra tòa án, gây ra nhiều khó khăn cho cả hai bên.

Các điều khoản về BTTH do vi phạm hợp đồng đã được quy định theo

LTM 2005. Theo quy định của LTM 2005, thực chất là chế tài BTTH đã tự

phát sinh ngay khi có đủ các căn cứ pháp lý mà không cần phải được thỏa

thuận trong hợp đồng. Tuy nhiên trong thực tế, việc xác định được mức

BTTH cụ thể cho từng trường hợp là điều không đơn giản. Trong khi đó,

BLDS 2015 mới ban hành có nhiều thay đổi so với bộ luật 2005 cũng như so

với LTM 2005 về chế tài BTTH.

Chương 2 cũng trình bày một số bản án điển hình về vi phạm

HĐGCMM trong thực tế để phân tích, so sánh nhằm đưa ra những kết luận

60

phù hợp về tình hình vận dụng các quy định về BTTH do vi phạm HĐGCMM

ở Việt Nam hiện nay. Những kết quả nghiên cứu, phân tích, đánh giá trong

chương 2 cho phép chỉ ra những ưu điểm và những bất cập trong việc thực

hiện BTTH do vi phạm HĐGCMM ở nước ta hiện nay. Các kết quả này là cơ

sở để đưa ra những định hướng để hoàn thiện và giải pháp sửa đổi, bổ sung

61

cho cơ chế BTTH do vi phạm HĐGCMM ở Việt Nam hiện nay.

Chương 3.

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ

TRONG THỰC HIỆN BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP

ĐỒNG GIA CÔNG MAY MẶC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi

phạm hợp đồng gia công may mặc ở Việt Nam hiện nay

3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp

đồng gia công phải tôn trọng những nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp

luật hợp đồng Việt Nam

Nguyên tắc tự do ý chí trong pháp luật hợp đồng được hiểu là các bên

được tự do giao kết hợp đồng hay thỏa thuận về việc xác lập quyền và nghĩa

vụ dân sự theo ý chí của mình miễn là nó không trái với trật tự công cộng.

Nguyên tắc này khi chiếu vào việc thực hiện nghĩa vụ dân sự phát sinh từ hợp

đồng lại mang một sắc thái khác, làm phát sinh một tiểu nguyên tắc là nguyên

tắc hiệu lực ràng buộc của hợp đồng. Lý thuyết này ủng hộ tự do ý chí vô giới

hạn, tự do thương lượng giữa các cá nhân với nhau để ràng buộc chính mình

sẽ mang lại công bằng và sự tự do cạnh tranh sẽ mang lại sự thịnh vượng về

kinh tế, đã dẫn tới hệ quả là coi hợp đồng và hành vi pháp lý đơn phương là

một nguồn gốc quan trọng của nghĩa vụ (đề cao nghĩa vụ dân sự thay vì nghĩa

vụ pháp định) vì nó đến từ chính ý chí của chủ thể bị ràng buộc. Điều 3 BLDS

Việt Nam năm 2015 quy định về nguyên tắc tự do ý chí như sau: “Cá nhân,

pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên

cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi

phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối

với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng”.

Nguyên tắc thiện chí không được định nghĩa bởi luật, mang nghĩa về mặt

62

luân lý nhiều hơn với liên hệ gần gũi về sự trung thực, không có sự ác ý hay

tư lợi bất chính. Điều 3 BLDS năm 2015 đã có nguyên tắc thiện chí: “Cá

nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của

mình một cách thiện chí, trung thực”. Trong lĩnh vực luật hợp đồng, đặc biệt

là ở giai đoạn giao kết, nguyên tắc thiện chí được giải thích gần gũi với

nguyên tắc tự do ý chí, có nghĩa là việc xác lập hợp đồng và các điều kiện của

nó phụ thuộc vào ý chí của các bên. Trong giai đoạn thực hiện hợp đồng,

nguyên tắc này có thể không gắn với ý chí của các bên lúc đầu mà lại gắn với

sự công bằng về lợi ích giữa các bên. Hoặc với việc chấp nhận sự thực hiện

chủ yếu chứ không phải thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ của hợp đồng,

thiện chí là sự thông cảm cho những thiếu sót khi thực hiện nghĩa vụ của đối

phương. Đặc biệt sự vận dụng nguyên tắc này trong một số hoàn cảnh đặc thù

có thể coi là tạo ra ngoại lệ cho nguyên tắc hiệu lực ràng buộc của hợp đồng,

đó là trong trường hợp thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi. Nguyên

tắc thực hiện đúng và đủ nghĩa vụ hợp đồng là quan trọng nhất và được ưu

tiên hàng đầu: “Thực hiện đúng hợp đồng, đúng đối tượng, chất lượng, số

lượng, chủng loại, thời hạn, phương thức và các thoả thuận khác”.

Nguyên tắc tập quán được đề cập như là một trong những nguyên tắc cơ

bản của pháp luật hợp đồng nói riêng và pháp luật dân sự nói chung. Một nền

pháp luật theo hệ thống dân luật thường có hai nguồn cơ bản là luật thành văn

và tập quán pháp. BLDS Việt Nam đặt thứ tự ưu tiên áp dụng của tập quán

chỉ sau thỏa thuận của các bên và luật thành văn. Đặc điểm chính yếu của tập

quán là có nội dung rõ ràng đủ để xác định quyền và nghĩa vụ của chủ thể,

được hình thành và lặp đi lặp lại nhiều lần trong thời gian dài và được mọi

người cùng thừa nhận như là những quy tắc ràng buộc.

Khi xây dựng chế định hợp đồng của BLDS các nhà làm luật đều tôn

trọng quyền những nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật hợp đồng Việt

63

Nam. Vì vậy, trong quá trình hoàn thiện pháp luật về HĐGC, cần phải đảm

bảo nguyên tắc tự do ý chí, nguyên tắc thiện chí và tập quán, là những nguyên

tắc cơ bản của pháp luật dân sự.

3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp

đồng gia công phải đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ giữa BLDS và LTM

Để tạo điều kiện xây dựng hệ thống các quy định của pháp luật dân sự

thống nhất, đồng bộ, không chồng chéo và mâu thuẫn, cần giải quyết đúng

đắn và dứt điểm mối quan hệ giữa BLDS với các đạo luật chuyên ngành, cụ

thể là LTM. Phương hướng xử lý mối quan hệ này là phải xoá bỏ tình trạng

lấy cái chung thay cho cái riêng, cái cụ thể, trộn lẫn cái chung với cái riêng

hay trộn cái riêng vào cái chung như đã làm khi xây dựng BLDS; cần thiết kế

ngay mô hình hệ thống các quy định, các văn bản pháp luật dân sự.

Các vấn đề dân sự vừa được quy định trong BLDS, vừa được quy định

tại các đạo luật chuyên ngành, nhưng có sự phân công hợp lý theo hướng,

BLDS chỉ quy định nội dung chung của tất cả các lĩnh vực, còn đạo luật

chuyên ngành cụ thể hoá các quy định chung để tránh chồng chéo, mâu thuẫn

nhau. Thực tiễn trong lĩnh vực liên quan đến hoạt động gia công cho thấy

rằng, sẽ thuận lợi hơn cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân khi áp dụng pháp

luật, nếu BLDS chỉ quy định các vấn đề chung cho tất cả các lĩnh vực dân sự,

còn LTM cụ thể hoá các quy định chung của BLDS vào điều kiện cụ thể. Mặt

khác, BLDS là đạo luật chung nên đòi hỏi phải có sự ổn định cao, trong khi

đó, LTM luôn biến đổi cùng với sự phát triển không ngừng của đời sống kinh

tế, xã hội trong lĩnh vực thương mại. Do đó, khi sửa đổi, bổ sung các văn bản

thì phải đồng thời sửa đổi, bổ sung cả Bộ luật và các đạo luật chuyên ngành

liên quan.

Về mặt lý luận cũng như thực tiễn, các quy định pháp luật dân sự sẽ là

một hệ thống thống nhất trong đa dạng, tạo điều kiện để xoá tình trạng chồng

chéo, mâu thuẫn đã tồn tại trong suốt thời gian qua, đáp ứng yêu cầu nâng cao

64

hiệu quả pháp lý điều chỉnh các mối quan hệ dân sự hết sức phong phú, đa

dạng trong các lĩnh vực kinh tế – xã hội. Để bảo đảm hiệu lực và hiệu quả

pháp lý điều chỉnh các quan hệ xã hội, bất kỳ hệ thống quy phạm pháp luật

chuyên ngành nào cũng phải bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ.

Để xác định phạm vi, nội dung cụ thể của BLDS và LTM trong việc điều

chỉnh các mối quan hệ dân sự, cần nghiên cứu và xử lý một cách chính xác,

khoa học mối quan hệ giữa BLDS với LTM; mặt khác, cần xác định cụ thể và

khoa học mô hình hệ thống các quy phạm pháp luật dân sự. Việc sửa đổi, bổ

sung BLDS cũng như việc soạn thảo một loạt các văn bản mới liên quan hiện

nay là dịp tốt để chúng ta xử lý dứt điểm vấn đề này, bảo đảm cho hệ thống

pháp luật dân sự thống nhất, đồng bộ, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã

hội và hội nhập kinh tế quốc tế.

BLDS là đạo luật cơ bản nhất của mỗi quốc gia; tại Việt Nam, BLDS có

vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống pháp luật, là nền tảng của

hệ thống luật tư mà các ngành luật khác phải tuân theo. Do đó, quá trình hoàn

thiện các quy định về HĐGC phải đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ giữa

BLDS và LTM là tất yếu.

3.1.3. Hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp

đồng gia công phải đảm bảo hài hòa giữa các nhóm lợi ích

Hợp tác là sự thỏa thuận giữa các cá nhân, pháp nhân về việc cùng đóng

góp tài sản hoặc công sức để thực hiện công việc nhất định, cùng hưởng lợi và

cùng chịu trách nhiệm; Các cá nhân, pháp nhân cùng hợp tác, liên kết với

nhau bằng một hợp đồng để cùng sản xuất, kinh doanh đạt hiệu quả cao hơn.

HĐGC là một dạng của hợp đồng thương mại, vì vậy, có những điểm đáng

chú ý như: (1) HĐGC ra đời trên cơ sở thỏa thuận của các bên, có sự thỏa

thuận, thống nhất ý chí của các bên tham gia. Các bên thỏa thuận nội dung cơ

bản trong hợp đồng, quy định đối tượng, nội dung cũng như quyền và nghĩa

vụ khác. (2) Chủ thể tham gia HĐGC là các cá nhân, pháp nhân. Pháp luật

65

cho phép mọi cá nhân, pháp nhân thỏa mãn các điều kiện luật định đều được

tham gia vào ký kết hợp đồng. Các chủ thể nhằm thực hiện một công việc,

cùng hưởng lợi ích từ kết quả công việc đem lại. (3) Mục đích của HĐGC là

cùng thực hiện công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm.

Các chủ thể phải thỏa thuận cụ thể công việc cùng hợp tác, cách thức chia sẻ

lợi ích cũng như cơ chế chịu trách nhiệm đối với các chủ thể tham gia hợp

đồng. Quá trình thực hiện công việc, chia sẻ lợi ích, chịu trách nhiệm đối với

các thiệt hại phát sinh trong quá trình thực hiện công việc tuân thủ theo các

nguyên tắc mà các bên thỏa thuận. Cả BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015

đều thừa nhận mục đích của hợp đồng hợp tác là nhằm thỏa thuận về việc

cùng nhau tiến hành các hoạt động sản xuất, gia công, lắp ráp và thu lợi

nhuận. Trong trường hợp, một quan hệ xã hội chỉ phát sinh tranh chấp khi lợi

ích giữa các chủ thể bị xâm phạm, không được đảm bảo thì pháp luật xuất

hiện nhằm điều hòa các xung đột về lợi ích bảo vệ trật tự công cộng.

3.1.4. Hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp

đồng gia công trên cơ sở hội nhập, phù hợp với thông lệ quốc tế

Trong một thế giới hiện đại, sự phát triển của kinh tế thị trường đòi hỏi

các quốc gia phải mở rộng thị trường, hình thành thị trường khu vực và quốc

tế. Đây chính là động lực chủ yếu thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế.

Từ những thập niên cuối của thế kỷ XX cho đến nay, cùng với sự phát triển

mạnh mẽ của khoa học - kỹ thuật đã thúc đẩy sự phát triển vượt bậc các lĩnh

vực của đời sống xã hội và xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất. Quá trình

xã hội hóa và phân công lao động ở mức độ cao đã vượt ra khỏi phạm vi biên

giới quốc gia và được quốc tế hoá ngày một sâu sắc. Sự quốc tế hoá như vậy

thông qua việc hợp tác ngày càng sâu giữa các quốc gia ở tầm song phương,

tiểu khu vực, khu vực và toàn cầu. Về bản chất, hội nhập quốc tế chính là một

hình thức phát triển cao của hợp tác quốc tế. Hội nhập quốc tế cũng như các

66

hình thức hợp tác quốc tế khác đều vì lợi ích quốc gia, dân tộc.

Hiện nay hội nhập quốc tế không chỉ dừng lại ở một vài lĩnh vực mà hội

nhập một cách toàn diện, trên mọi mặt; để không đứng ngoài xu hướng đó,

Việt Nam cần phải điều chỉnh pháp luật của mình xích gần hơn với pháp luật

thế giới. Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất,

khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới căn

bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của

pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển

kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực

hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, góp phần đưa nước

ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

3.2. Các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt

hại do vi phạm hợp đồng gia công may mặc ở Việt Nam hiện nay

Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật hợp đồng Việt Nam để

hiểu rõ các nguyên nhân hạn chế, bất cập để tìm các giải pháp, việc đề xuất

hoàn thiện pháp luật hợp đồng Việt Nam, cụ thể trong việc áp dụng biện pháp

BTTH do vi phạm hợp đồng nói chung và do vi phạm HĐGCMM nói riêng là

việc cần thiết cả về lý luận và thực tiễn. Trong đó, cần đảm bảo sự thống nhất

của các văn bản pháp luật. Việc hoàn thiện các quy định pháp luật về BTTH

do vi phạm HĐTM không thể tiến hành một cách độc lập mà phải tính đến sự

thống nhất, tính đồng bộ trong toàn hệ thống pháp luật, tránh sự chồng chéo,

mâu thuẫn, đặc biệt phải xét đến mối quan hệ giữa BLDS với LTM. Cụ thể:

Thứ nhất, cần sửa đổi LTM 2005 để có sự thống nhất với BLDS 2015

trong việc ghi nhận yếu tố lỗi là một trong các căn cứ phát sinh trách nhiệm

BTTH, trong việc xác định vi phạm phải bồi thường toàn bộ thiệt hại về vật

chất và tinh thần cho bên bị thiệt hại.

Thứ hai, cần sửa đổi LTM 2005 để việc xác định giá trị BTTH cho phép

67

thoả thuận. Việc các bên được thoả thuận trước mức BTTH bằng cách xác

định trước một khoản tiền BTTH cụ thể trong hợp đồng sẽ tạo điều kiện thuận

lợi và linh hoạt hơn cho các bên khi tham gia hợp đồng, tiết kiệm được thời

gian giải quyết tranh chấp khi các bên không thống nhất được với nhau về giá

trị thiệt hại cần phải bồi thường.

Thứ ba, cần sửa đổi LTM 2005 các quy định về miễn trách nhiệm BTTH

do vi phạm hợp đồng ở một số điểm chưa rõ ràng và còn thiếu, như: phải quy

định rõ sự kiện bất khả kháng xảy ra với chính chủ thể trong quan hệ hợp

đồng hay sự kiện bất khả kháng xảy ra với bên thứ ba, phải quy định về thoả

thuận về miễn trách nhiệm giữa các chủ thể trong hợp đồng.

Yêu cầu sửa đổi và hoàn thiện LTM đang là nhu cầu cần thiết hiện nay

để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nói chung và các doang nghiệp trong

lĩnh vực gia công may mặc nói riêng được phát triển thuận lợi trong nền kinh

tế thị trường thì cần thực hiện nhiều giải pháp:

Thứ nhất, nghiên cứu cơ chế điều chỉnh phù hợp với đường lối phát triển

kinh tế thị trường ở Việt Nam với thị trường kinh tế các nước. Pháp luật về

BTTH do vi phạm hợp đồng cần đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các chủ

thể trong nền kinh tế, trong đó có quyền tự do hợp đồng và đảm bảo điều

chỉnh có hiệu quả các quan hệ kinh tế, tạo ra những đảm bảo cần thiết về mặt

pháp lý để cho các chủ thể có thể thực hiện được quyền tự do kinh doanh của

mình. Để đáp ứng yêu cầu này, việc hoàn thiện các quy định phải theo hướng

chi tiết hoá các quy định hiện còn nhiều cách hiểu khác nhau, lược bỏ những

quy định cứng nhắc nhằm hạn chế sự can thiệp không cần thiết của Nhà nước

vào sự thoả thuận của các bên.

Thứ hai, hoàn thiện các quy định của pháp LTM theo hướng tạo điều

kiện cho các hoạt động thương mại được phát triển thuận lợi trong nền kinh tế

thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa tại

Việt Nam hiện nay [6].

Thứ ba, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Xu thế

68

hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới đang đặt ra yêu cầu cần phải xoá

bỏ sự khác biệt không cần thiết trong pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế

cũng như các tập quán thương mại quốc tế, nhất là trong lĩnh vực pháp luật về

hợp đồng. Các chuẩn mực chung của thương mại quốc tế đang được Việt

Nam từng bước áp dụng. Tuy nhiên, để học hỏi kinh nghiệm của pháp luật các

nước và pháp luật quốc tế một cách có chọn lọc và có hiệu quả, đòi hỏi chúng ta

phải có những nghiên cứu sâu sắc và toàn diện về từng hệ thống pháp luật pháp

luật, về bản chất, cấu trúc cũng như phương thức vận hành của nó, bên cạnh đó

là những điều kiện kinh tế, xã hội mà nó được sinh ra và tồn tại.

Thứ tư, các quy định của pháp LTM phải có tính khả thi cao, có tính dự

báo tốt, minh bạch, cụ thể, dễ áp dụng và phù hợp với thực tiễn hoạt động

thương mại trong nước cũng như quốc tế.

Thứ năm, bảo đảm hoạt động quản lý Nhà nước về thương mại phát huy

được hiệu quả nhưng không gây cản trở cho các hoạt động thương mại hợp

pháp trên thị trường [6].

3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bồi thường

thiệt hại do vi phạm hợp đồng gia công may mặc ở Việt Nam hiện nay

Một là, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo môi trường thuận lợi để

pháp luật đi vào cuộc sống

Một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, minh bạch, ít lỗ hổng, không chồng

chéo, mâu thuẫn sẽ tự có sức mạnh để đi vào cuộc sống, được xã hội chấp

nhận, thừa nhận và tuân thủ. Đó là một hệ thống pháp luật bảo đảm các yếu tố

đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch [5]. Một hệ thống pháp

luật tốt sẽ giúp các Doanh nghiệp nắm rõ, hiểu rõ quy định pháp luật, vận

dụng một cách hiệu quả vào việc soạn thảo HĐGCMM một cách chặt chẽ, rõ

ràng. Từ đó hạn chế được các bất đồng trong BTTH khi vi phạm xẩy ra.

Cùng với đó, tăng cường hơn nữa quyền tham gia đóng góp ý kiến của

Doanh nghiệp vào các dự án luật. Việc tham gia đóng góp ý kiến của Doanh

nghiệp vào dự án luật có tác dụng tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật

69

rất lớn và giúp cho luật ban hành sát với thực tế.

Hai là, kết hợp phổ biến, giáo dục pháp luật với hướng dẫn áp dụng

pháp luật, trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật

Phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật và hoà

giải ở cơ sở có mối quan hệ mật thiết trong việc xây dựng ý thức pháp luật,

tăng cường sự hiểu biết pháp luật, khuyến khích thói quen ứng xử xã hội bằng

pháp luật trong Doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng, hiệu quả và mở rộng đối

tượng, phạm vi hoạt động trợ giúp pháp lý lưu động để bảo đảm mọi người

dân đều có khả năng được hưởng dịch vụ này khi cần thiết [5].

Khi đất nước càng ngày càng phát triển, sự giao lưu thương mại giữa

Việt Nam và các nước trên thế giới diễn ra sôi động. Thực tế cho thấy, kim

ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa Dệt may những năm gần đây tăng mạnh, việc

ký kết HĐGCMM xuất khẩu ngày càng nhiều. Đòi hỏi Doanh nghiệp cần phải

tìm hiểu pháp luật thương mại quốc tế để soạn thảo, ký kết HĐGC một cách

chặt chẽ, logic và tránh được những thiệt hại kinh tế không đáng có. Do vậy,

cần tích cực hỗ trợ tư vấn pháp luật cho các thương nhân trong nước khi giao

kết HĐGC với thương nhân nước ngoài. Khai thác và phát huy tác dụng, hiệu

quả của hình thức trợ giúp pháp lý, luật sư, tư vấn pháp luật, hoà giải cơ sở

khi thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật.

Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp có trách nhiệm, giàu kiến

thức, kỹ năng, trong sạch hướng đến nâng cao chất lượng giải quyết tranh

chấp HĐGCMM

Đối với giải quyết tranh chấp hoạt động gia công thương mại nói chung

và giải quyết tranh chấp HĐGCMM nói riêng thì hoạt động phổ biến pháp

luật phụ thuộc rất lớn vào đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước bởi họ vừa là

chủ thể chấp hành pháp luật, vừa là chủ thể tổ chức, triển khai đưa pháp luật

vào hoạt động thực tiễn của nhân dân. Nâng cao trình độ lãnh đạo quản lý,

phẩm chất đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ, công chức là nâng cao hiệu quả

trong việc hòa giải, xét xử các vụ tranh chấp, tránh việc khiếu kiện lên nhiều

70

cấp khác nhau, thời gian vụ án kéo dài và tốn kém.

Bốn là, doanh nghiệp cần nâng cao những kiến thức, kỹ năng trong

đàm phán, ký kết HĐGCMM

Về phía các doanh nghiệp, cần trú trọng ngay cả khâu soạn thảo dự thảo

HĐGCMM, đặc biệt là với thương vụ lớn hoặc có yếu tố quốc tế. Trong

HĐGCMM cần có thỏa thuận cụ thể về chế tài BTTH. Cần cẩn trọng điều

khoản thỏa thuận vi phạm có liên hệ trực tiếp đến nghĩa vụ, trách nhiệm của

mỗi bên. Biện pháp chế tài này càng chi tiết, rõ ràng thì càng tốt. Những điều

khoản chưa rõ hoặc chưa hiểu một cách thấu đáo cần tham khảo tư vấn pháp

lý để có những quyết định đúng đắn. Những chế tài cần phải khả thi, đúng

quy định pháp luật để không bị vô hiệu và thực hiện được. Không nên coi chế

tài để làm khó nhau, mà là biện pháp đảm bảo thực hiện đúng HĐGCMM và

hướng giải quyết khi xảy ra vi phạm, nhằm đảm bảo quyền lợi cho các bên.

Trong quá trình thực hiện HĐGCMM phải theo dõi, ghi nhận, khi có dấu hiệu

vi phạm phải nhanh chóng thu thập chứng cứ để chứng minh. Thông báo kịp

thời bằng văn bản khi bị vi phạm, nêu yêu cầu, biện pháp, khắc phục hoặc

ngăn chặn. Đối với các hợp đồng có giá trị lớn, tình tiết phức tạp thì nên mời

luật sư hỗ trợ pháp lý, tham gia giải quyết ngay từ đầu.

Năm là, doanh nghiệp cần dự tính cho những rủi ro trong việc ký kết,

thực hiện HĐGCMM

Ngoài những rủi ro xuất phát từ lý do chủ quan, có thể kiểm soát của các

bên thì trên thực tế còn có những rủi ro đến bất ngờ, mang tính chất khách

quan làm cho các bên không thể thực hiện đúng với giao kết HĐGCMM. Đó

là những trở ngại khách quan như các tác động của các yếu tố thị trường sản

phẩm và các sự kiện bất khả kháng như đình công, hỏa hoạn, dịch bệnh.

Trong quá trình thực hiện, một trong các bên có thể rơi vào tình thế bất khả

kháng, trở ngại khách quan dẫn đến việc không hoàn thành nghĩa vụ quy định

trong hợp đồng gây nên thiệt hại không mong muốn. Sự kiện bất khả kháng là

sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể

71

khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho

phép. Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác

động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền,

lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền

hoặc nghĩa vụ dân sự của mình. Những rủi ro nêu trên sẽ dẫn đến hậu quả hợp

đồng thương mại bị vô hiệu toàn bộ hoặc một phần; khi xảy ra tranh chấp,

quyền và lợi ích của nhà đầu tư kinh doanh không được đảm bảo gây ra

những thiệt hại lớn về tài sản, uy tín, hoạt động, ... của doanh nghiệp. Do vậy,

doanh nghiệp cần dự tính đặc biệt là với các trở ngại khách quan để tránh

những tổn hại khó phục hồi cho các vấn đề tài chính, kinh doanh và sản xuất

72

của mình.

Tiểu kết chương 3

Như vậy, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, các quy định của pháp

luật Việt Nam, cụ thể là BLDS và LTM, về BTTH còn có những hạn chế nhất

định trong áp dụng vào thực tế, điều này khiến các doanh nghiệp và cả các cơ

quan thực thi pháp luật gặp nhiều khó khăn trong quá trình vận dụng để giải

quyết các tranh chấp thương mại về vi phạm ĐHGC nói chung và HĐGCMM

nói riêng.

Chương này đã chỉ ra những hạn chế của pháp luật hiện tại về BTTH cho

việc vi phạm HĐGC và HĐGCMM chưa phù hợp với thực tiễn đời sống hiện

nay. Nhìn chung, các bộ luật có liên quan đến HĐGC và HĐGCMM cũng

như BTTH khi có vi phạm, cụ thể là BLDS và LTM chưa quy định đầy đủ,

chi tiết về hợp đồng và các chi tiết liên quan. Sự thiếu sót này dẫn đến những

khó khăn trong thực thi pháp luật của các cơ quan liên quan như tòa án, trọng

tài kinh tế. Điều này dẫn đến một nhu cầu cần thiết về việc tuyển chọn những

người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ pháp lý chuyên ngành cao để

phân tích các điều khoản của hợp đồng và quy định của pháp luật, từ đó làm

giảm thiểu án oan và bảo vệ được lợi ích chính đáng của các bên liên quan.

Trong chương 3, luận văn này cũng đề xuất một số giải pháp cho doanh

nghiệp, đưa ra các vấn đề doanh nghiệp cần lưu ý khi đàm phán, soạn thảo và

kí kết hợp đồng. Đặc biệt là các chú ý khi các bên thỏa thuận với nhau về điều

khoản BTTH, cần lưu ý những vấn đề gì để khi có tranh chấp xảy ra không vì

73

điều khoản mình kí kết mà bị mất đi quyền lợi chính đáng.

KẾT LUẬN

Nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta đã có

lịch sử hơn 30 năm. Trong quá trình vận hành nền kinh tế thị trường, vai trò

của luật pháp và các tổ chức trọng tài kinh tế đóng vai trò quan trọng, đặc biệt

là trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại, trong đó có việc BTTH do

vi phạm ĐHGCMM. Một thực tế đáng chú ý là pháp luật Việt Nam hiện nay

chưa thực sự theo kịp sự vận hành và phát triển nhanh chóng của nền kinh tế.

Cho đến gần đây, đã có rất nhiều tài liệu, công trình khoa học nghiên cứu về

hợp đồng và BTTH do vi phạm hợp đồng trong thương mại nói chung và

HĐGC nói riêng tại Việt Nam. Xuất phát từ các quy định của pháp luật Việt

Nam hiện hành, các tài liệu liên quan như BLDS và LTM, thông qua xem xét

thực tiễn áp dụng việc BTTH do vi phạm HĐGC mà cụ thể là HĐGCMM ở

nước ta, luận văn đã đi sâu nghiên cứu và phân tích để có được một cái nhìn

toàn diện hơn, sâu sắc hơn, đánh giá đúng về thực trạng pháp luật về BTTH do

vi phạm HĐGCMM hiện nay. Đồng thời, luận văn cũng phân tích, đánh giá các

thay đổi trong văn bản luật, so sánh với một số bản án thực tế nhằm đưa ra một

số kiến nghị đối với việc hoàn thiện, chỉnh sửa, bổ sung và để áp dụng vào thực

tế các quy định pháp luật về BTTH do vi phạm HĐGCMM ở Việt Nam hiện

nay có hiệu quả cao hơn.

Trên cơ sở kế thừa những nghiên cứu trước đây, luận văn đã cập nhật, bổ

sung thêm các phân tích và đánh giá những vấn đề cơ bản nhất về BTTH do vi

phạm HĐGCMM cũng như so sánh với các quy định mới nhất của pháp luật

liên quan, luận văn đưa ra các kết luận sau:

 Thứ nhất, chế tài BTTH được áp dụng rất phổ biến. Đặc biệt là khi có vi

phạm trong HĐGCMM, nó được các bên áp dụng để răn đe và bồi hoàn

74

những tổn thất do hành vi vi phạm gây ra.

 Thứ hai, một số quy định về chế tài BTTH trong LTM còn chưa hợp lí,

cần xem xét và sửa đổi lại các quy định này để LTM phù hợp hơn với

thực tiễn phát triển của Việt Nam.

 Thứ ba, BLDS 2015 mới được ban hành tuy có nhiều cải tiến mới hơn so

với BLDS cũ nhưng có nhiều quy định còn gây tranh cãi, đặc biệt là

quy định nếu có thỏa thuận về phạt vi phạm mà không có thỏa thuận về

BTTH trong hợp đồng thì không được áp dụng chế tài BTTH.

 Thứ tư, để hạn chế tình trạng mất đi quyền lợi chính đáng khi có vi phạm

xảy ra, các doanh nghiệp Việt Nam cần lưu ý cẩn trọng và chuẩn bị kỹ

hơn trong suốt quá trình trước, trong cũng như sau khi đàm phán, ký

kết hợp đồng.

Các nội dung trên tác giả đưa ra đều xuất phát từ góc độ lý luận kết hợp

với phân tích thực tiễn và cũng chỉ ra những khiếm khuyết của pháp luật trong

việc quy định về chế tài phạt vi phạm và BTTH. Trong quá trình hoàn thành

luận văn, do nhiều nguyên nhân khác nhau nên luận văn không tránh khỏi các

hạn chế và thiếu sót nhất định, do vậy trong thời gian tới tác giả sẽ cần tiếp

75

tục nghiên cứu và hoàn thiện hơn nữa đề tài này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Thị Hoàng Anh (2019), BTTH do vi phạm hợp đồng dịch vụ vận

tải bằng đường không theo pháp luật Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc

sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội

2. Phan Thông Anh (2008), So sánh những điều mới - Luật thương mại

1997 và luật thương mại 2005, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.

3. Chính phủ (2013), Nghị định số 187/2013/NĐ-CP hướng dẫn Luật

Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế và hoạt động đại lý

mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài.

4. Chính phủ (2018), Nghị định số 69/2018/NĐ-CP quy định chi tiết một số

điều của Luật quản lý ngoại thương.

5. Lương Văn Đăng, Nâng cao hiệu quả hoạt động tuyên truyền, phổ biến

và thực thi pháp luật, https://www.quanlynhanuoc.vn/2019/09/21/nang-

cao-hieu-qua-hoat-dong-tuyen-truyen-pho-bien-va-thuc-thi-phap-luat/.

6. Nguyễn Thị Hồng Điệp, Pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại

do vi phạm hợp đồng thương mại và thực tiễn áp

dụng,https://tapchitoaan.vn/bai-viet/kinh-doanh/phap-luat-ve-trach-

nhiem-boi-thuong-thiet-hai-do-vi-pham-hop-dong-thuong-mai-va-thuc-

tien-ap-dung/.

7. Bùi Thị Thanh Hằng (2018), BTTH do vi phạm hợp đồng, Luận án Tiến

sĩ, Đại học Luật Hà Nội.

8. Nguyễn Ngọc Khánh (2007), Chế định hợp đồng trong bộ luật dân sự

Việt Nam, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.

9. Hoàng Văn Ninh (2006), Các quy định của pháp luật về hợp đồng và

mẫu hợp đồng, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.

10. Lê Thị Kiều Oanh, Phát triển ngành Dệt may Việt Nam trong tình hình

hiện nay, http://www.vinatexvsc.com/tin-tuc/tin-trong-nganh/phat-trien-

76

nganh-det-may-viet-nam-trong-tinh-hinh-hien-nay-836.html/.

11. Nguyễn Như Phát (2002), Luật kinh tế Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

12. Trần Đăng Thành (2017), Trách nhiệm BTTH do vi phạm hợp đồng viễn

thông ở Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội

13. Hoàng Thị Thu Thủy (2017), Chế tài phạt vi phạm và BTTH trong hợp

đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật thương mại Việt Nam, Luận văn

Thạc sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội

14. Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (2015), Bản án số:

65/2015/KDTM-ST;Về việc tranh chấp hợp đồng gia công, tp Hồ Chí Minh.

15. Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (2014), Bản án số:

12/2014/KDTM-ST, về việc tranh chấp về hợp đồng kinh doanh thương

mại gia công, tp Hồ Chí Minh.

16. Tòa án nhân dân tối cao, Thống kê

,https://www.congbobanan.toaan.gov.vn/6tatcvn/Thong-ke/.

17. Tổng cục Thống kê (2017), Tổng quan về hoạt động gia công với thương

nhân nước ngoài, https://www.gso.gov.vn › Modules › Doc_Download.

18. Trường đại học Luật Hà Nội (2000), Giáo trình luật kinh tế, Nhà xuất

bản Công an nhân dân, Hà Nội.

19. Trường đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình luật dân sự Việt Nam,

Tập I, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.

20. Trường đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình luật dân sự Việt Nam,

Tập II, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.

21. Trường đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình luật thương mại, Tập I,

Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.

22. Trường đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình luật thương mại, Tập II,

77

Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.