1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ------------------------- NGUYỄN XUÂN HỒNG CÔNG CUỘC XOÁ NẠN MÙ CHỮ Ở THÁI NGUYÊN (1945 - 1954) Chuyên ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM Mã số: 60.22.54 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: Tiến sĩ Nguyễn Xuân Minh THÁI NGUYÊN - 2010
2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ------------------------- NGUYỄN XUÂN HỒNG CÔNG CUỘC XOÁ NẠN MÙ CHỮ Ở THÁI NGUYÊN (1945 - 1954) Chuyên ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM Mã số: 60.22.54 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: Tiến sĩ Nguyễn Xuân Minh THÁI NGUYÊN - 2010
MỤC LỤC
Mở đầu .................................................................................................................................................................................................................. 1
1- Lí do chọn đề tài ............................................................................................................................................................................... 1
2- Lịch sử nghiên cứu vấn đề ....................................................................................................................................................... 2
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài ................................................................................. 4
4. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................................................... 5
5. Đóng góp của luận văn ................................................................................................................................................................ 6
6. Bố cục ........................................................................................................................................................................................................ 6
Chƣơng 1: Tình hình giáo dục ở Thái Nguyên trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945
......................................................................................................................................................................................................................................... 7
1.1. Tỉnh Thái Nguyên dƣới ách cai trị của thực dân Pháp ................................................................................ 7
1.2. Khái quát tình hình giáo dục ở tỉnh Thái Nguyên ........................................................................................ 10
Chƣơng 2: Cuộc vận động xoá mù chữ ở Thái Nguyên trong những năm 1945 - 1950 .... 26
2.1. Chủ trƣơng của chính quyền cách mạng về “diệt giặc dốt” ................................................................. 26
2.2. Cuộc vận động xoá mù chữ ở Thái Nguyên trong những năm
1945 – 1950 .............................................................................................................................................................................................. 34
2.2.1. Từ năm 1945 đến năm 1947 ....................................................................................................................................... 34
2.2.2. Từ năm 1947 đến năm 1950 ....................................................................................................................................... 51
Chƣơng 3: Công cuộc vận động xoá mù chữ ở Thái Nguyên trong những năm 1951 -
1954 ........................................................................................................................................................................................................................ 63
3.1. Khái quát tình hình Thái Nguyên từ 1951 – 1954 ........................................................................................ 63
3.2. Cuộc vận động xoá nạn mù chữ ................................................................................................................................... 65
Kết luận ............................................................................................................................................................................................................. 76
Tài liệu tham khảo .................................................................................................................................................................................. 84
Phụ lục
3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
MỞ ĐẦU
1- Lí do chọn đề tài
Cách mạng tháng Tám thành công, nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra
đời. Vừa mới ra đời, Nhà nƣớc cách mạng non trẻ đã phải đối mặt với nhiều
khó khăn thử thách rất nghiêm trọng. Bên cạnh giặc ngoại xâm, giặc đói, là
giặc dốt do chế độ thực dân phong kiến để lại hết sức nặng nề, hơn 90% dân
số không biết chữ.
Trong tình hình ấy, Hội đồng Chính phủ họp và xác định việc xoá nạn
mù chữ, nâng cao trình độ văn hoá cho nhân dân là một trong sáu nhiệm vụ
cấp bách cần giải quyết của Nhà nƣớc cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhận xét: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy, tôi đề nghị mở một
chiến dịch chống nạn mù chữ” [12, tr.121].
Ngày 8-9-1945, Chính phủ đã ban hành sắc lệnh thành lập Nha Bình
dân học vụ để xoá nạn mù chữ cho nhân dân. Tháng 10-1945, Hồ Chí Minh ra
Lời kêu gọi toàn dân chống nạn thất học: “Những người đã biết chữ hãy dạy
cho những người chưa biết chữ…Những người chưa biết chữ hãy gắng sức
mà học cho biết chữ: Vợ chưa biết thì chồng bảo, cha mẹ không biết thì con
bảo, người ăn người làm chưa biết thì chủ nhà bảo, các người giàu có thì mở
lớp học ở tư gia dạy cho những người không biết chữ ở hàng xóm, láng
giềng…” [36, tr.12].
Thực hiện “Lời kêu gọi toàn dân chống nạn thất học” của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, tại Thái Nguyên, phong trào chống nạn mù chữ diễn ra sôi nổi, lôi
cuốn hàng vạn ngƣời tham gia, không phân biệt giai cấp, giàu nghèo và địa vị
xã hội. Khi cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ, phong
4
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trào bình dân học vụ ở Thái Nguyên vẫn tiếp tục phát triển mạnh.
Cuộc đấu tranh chống nạn thất học, xoá mù chữ trong cả nƣớc nói chung
và của tỉnh Thái Nguyên nói riêng có một vai trò rất quan trọng trong cuộc
đấu tranh củng cố, bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ (1945-1946) và
cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện chống thực dân Pháp xâm lƣợc (1946 –
1954). Vì vậy, nghiên cứu quá trình hoạt động và thành tích của phong trào
xoá nạn mù chữ ở tỉnh Thái Nguyên trong những năm 1945 – 1954 là việc
làm rất cần thiết, có ý nghĩa khoa học. Mặt khác, việc nghiên cứu này còn có
ý nghĩa thực tiễn đối với công cuộc xoá mù chữ hiện nay ở Thái Nguyên.
Với những lí do trên, chúng tôi chọn vấn đề: “Công cuộc xoá nạn mù chữ
ở Thái Nguyên trong những năm 1945 – 1954” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ
Khoa học Lịch sử.
2- Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Công cuộc xoá nạn mù chữ ở nƣớc ta nói chung và tỉnh Thái Nguyên
trong kháng chiến chống Pháp nói riêng là một đề tài thu hút nhiều nhà khoa
học nghiên cứu dƣới những góc độ khác nhau.
Trong cuốn “Về một nền giáo dục bình dân” (Bộ Quốc gia giáo dục xuất
bản, Hà Nội, 1946), tác giả Vũ Đình Hoè nêu rõ: Cách mạng tháng Tám thành
công, nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời đã đặt ra yêu cầu phải xây
dựng một nền giáo dục cho tất cả mọi ngƣời dân lao động. Tác giả đã trình
bày về cách thức tổ chức nền giáo dục bình dân, về hình thức và phƣơng pháp
tổ chức các lớp học bình dân, trong đó có Bình dân học vụ, xoá nạn mù chữ
thời kì 1945 - 1954.
Cuốn “Việt Nam chống nạn thất học” (Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1980) của
tác giả Ngô Văn Cát đã trình bày công cuộc chống nạn thất học ở Việt Nam từ
trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1980. Nội dung cuốn sách
5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đƣợc chia làm 4 phần; trong đó phần một tác giả đã làm rõ công cuộc chống
nạn thất học, đƣợc Đảng Cộng sản Việt Nam đặt thành một bộ phận trong
chính sách cách mạng, đã từng bƣớc trở thành phong trào khá mạnh mẽ trƣớc
Cách mạng tháng Tám. Trong phần hai, tác giả Ngô Văn Cát đã trình bày khá
sâu sắc về phong trào xoá nạn mù ở Việt Nam trong kháng chiến chống thực
dân Pháp (1945 - 1954).
Cuốn “Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp chống nạn thất học, nâng
cao dân trí” (Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1986) của tác giả Vƣơng Kiêm Toàn đã
trình bày quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là phản đối chính sách giáo
dục nô dịch của thực dân Pháp và sự cần thiết phải xây dựng một nền giáo
dục mới chống nạn thất học, nâng cao dân trí. Tác giả còn nêu rõ sự quan tâm
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chống nạn thất học, nhƣ ra Lời kêu gọi toàn dân
chống nạn thất học, các bài phát biểu khi tham dự các buổi khai giảng, các
buổi tập huấn giáo viên bình dân học vụ…
Trong cuốn “45 năm phát triển giáo dục Việt Nam” (Nxb Giáo dục, Hà
Nội, 1992), tác giả Phạm Minh Hạc đã làm rõ các bƣớc phát triển của nền
giáo dục nƣớc ta qua các giai đoạn chống Pháp 1945 - 1954, chống Mĩ 1954 -
1975 và thời kì cả nƣớc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội 1975 - 1990. Dƣới
sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nƣớc hệ thống giáo dục ngày càng hoàn thiện,
bên cạnh hệ thống giáo dục phổ thông còn có hệ thống giáo dục Bình dân học
vụ mà sau này là Bổ túc văn hoá. Nội dung và chƣơng trình giáo dục luôn
đƣợc đổi mới, chất lƣợng giáo dục ngày càng đƣợc nâng cao. Cuốn sách đã ít
nhiều đề cập đến công cuộc xoá nạn mù chữ của Đảng và nhân dân ta.
Luận án Phó Tiến sĩ “Công cuộc xoá nạn mù chữ và bổ túc văn hoá ở
Bắc Bộ (1945 – 1954)” của tác giả Nguyễn Mạnh Tùng (Trƣờng Đại học Sƣ
phạm, Hà Nội, 1996) không chỉ làm rõ sự quan tâm của Đảng, Nhà nƣớc đối
6
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
với công cuộc “diệt giặc dốt”, mà còn làm rõ các hình thức tuyên truyền, vận
động học viên, tổ chức, duy trì lớp học, kết quả và ý nghĩa của công tác xoá
nạn mù chữ.
Cuốn “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên tập I (1936–1965)” (Ban chấp
hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, 2003), đƣợc biên soạn công phu, nghiêm
túc, dựng lại một cách trung thực, khách quan quá trình hình thành và phát
triển của Đảng bộ tỉnh. Cuốn sách đã ghi lại những thành tựu to lớn của Đảng
bộ và nhân dân các dân tộc trong tỉnh trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có
bình dân học vụ, xoá nạn mù chữ thời kì kháng chiến chống Pháp.
Cuốn lịch sử Đảng bộ, lịch sử quân sự các huyện, thành đều đề cập ít
nhiều đến công tác xoá mù chữ trong thời kì kháng chiến chống Pháp.
Tuy nhiên, theo chúng tôi đƣợc biết, cho đến nay chƣa có một công trình
nghiên cứu nào đi sâu tìm hiểu về phong trào bình dân học vụ, xoá nạn mù
chữ ở tỉnh Thái Nguyên. Mặc dù vậy, những công trình đã đƣợc công bố nói
trên đều là những tài liệu quan trọng giúp tôi tiếp tục đi sâu nghiên cứu và
hoàn thành Luận văn.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là: Công cuộc xoá nạn mù chữ ở Thái
Nguyên.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Tỉnh Thái Nguyên.
- Thời gian: Từ năm 1945 đến năm 1954. Tuy nhiên, để làm rõ yêu
cầu của đề tài, Luận văn đề cập đến tình hình giáo dục ở Thái Nguyên trong
7
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thời gian trƣớc năm 1945.
3.3. Nhiệm vụ của đề tài
- Khái quát tình hình giáo dục ở Thái Nguyên trƣớc Cách mạng tháng
Tám năm 1945.
- Trình bày hệ thống quá trình triển khai thực hiện chủ trƣơng phát
động phong trào thanh toán nạn mù chữ ở tỉnh Thái Nguyên trong kháng
chiến chống thực dân Pháp.
- Rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc tổ chức xoá nạn mù
chữ ở Thái Nguyên.
4. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng: Các văn kiện Đảng, những
bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời kì 1945-1954; các báo cáo,
thông tri của Liên khu Việt Bắc, Tỉnh uỷ Thái Nguyên, Uỷ ban kháng chiến hành
chính tỉnh Thái Nguyên và các huyện trong tỉnh, các công trình nghiên cứu của các
nhà khoa học đã đƣợc công bố, các hồi kí, bút kí của những cán bộ tham gia phong
trào xoá nạn mù chữ từ năm 1945 đến năm 1954.
Ngoài những nguồn tài liệu thành văn nêu trên, trong quá trình thực hiện đề
tài, chúng tôi còn thu thập thêm nguồn tài liệu qua lời kể của những cán bộ, giáo
viên tham gia phong trào này.
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng phƣơng pháp lịch sử kết hợp
phƣơng pháp lôgíc là chủ yếu. Các phƣơng pháp phân tích, so sánh, đối chiếu,
tổng hợp cũng đƣợc sử dụng để làm sáng tỏ nội dung đề tài. Ngoài ra, chúng
8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tôi còn sử dụng phƣơng pháp điều tra, phỏng vấn.
5. Đóng góp của luận văn
- Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống quá trình
xoá nạn mù chữ ở Thái Nguyên trong những năm 1945 – 1954.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu, giảng dạy
và học tập lịch sử địa phƣơng tỉnh Thái Nguyên.
- Rút ra những kinh nghiệm quý báu về hình thức và biện pháp xoá nạn
mù chữ, từ đó vận dụng vào công cuộc xoá nạn mù chữ hiện nay trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên và trên cả nƣớc.
- Luận văn còn góp phần giáo dục truyền thống hiếu học cho nhân dân
các dân tộc tỉnh Thái Nguyên.
6. Bố cục
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận văn
đƣợc kết cấu thành 3 chƣơng nội dung:
Chƣơng 1: Tình hình giáo dục ở Thái Nguyên trƣớc Cách mạng
tháng Tám năm 1945.
Chƣơng 2: Cuộc vận động xoá mù chữ ở Thái Nguyên trong những
năm 1945 – 1950.
Chƣơng 3: Cuộc vận động xoá mù chữ ở Thái Nguyên trong những
9
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
năm 1951 – 1954.
CHƢƠNG 1
TÌNH HÌNH GIÁO DỤC Ở THÁI NGUYÊN
TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945
1.1. Tỉnh Thái Nguyên dƣới ách cai trị của thực dân Pháp.
Lợi dụng sự suy yếu của xã hội phong kiến Việt Nam, từ giữa thế kỉ
XIX, thực dân Pháp tiến hành chiến tranh xâm lƣợc nƣớc ta. Thái độ hèn
nhát, đầu hàng của vua quan triều Nguyễn là một trong những nguyên nhân
chủ yếu làm cho nƣớc ta rơi vào tay thực dân Pháp.
Sau khi hoàn thành việc chiếm đóng và đặt bộ máy cai trị ở các tỉnh
thuộc Nam Bộ, Trung Bộ và đồng bằng Bắc Bộ, thực dân Pháp bắt đầu đem
quân đánh chiếm các tỉnh miền núi phía Bắc.
Ngày 17-3-1884, từ Bắc Ninh, thực dân Pháp đem quân đánh chiếm Thái
Nguyên. Hai ngàn quân Thanh (Trung Quốc) bỏ chạy, nhƣng quân xâm lƣợc
đã vấp phải sức kháng cự mãnh liệt của nhân dân các dân tộc cùng với 600
quân của triều đình do Nguyễn Quang Khoáng chỉ huy. Chiều 19-3, Nguyễn
Quang Khoáng tử trận, quân Việt Nam buộc phải rút ra khỏi thành Thái
Nguyên cùng với nhân dân tổ chức đánh du kích, tiêu hao dần lực lƣợng quân
đội Pháp. Chiều ngày 19-3, quân Pháp ồ ạt tiến vào trong thành, cƣớp 39 khẩu
súng đại bác (trong đó có 25 khẩu bằng đồng), 20 súng máy, 200 súng trƣờng
cùng nhiều đạn dƣợc, thuốc súng và tiền, gạo dự trữ. Tuy chiếm đƣợc thành
Thái Nguyên, nhƣng chúng thƣờng xuyên bị quân ta đánh du kích quấy rối,
nên ngày 21-3-1884, sau khi đã phá thành, tƣớng Bơrie đờ Lislơ hạ lệnh cho
quân Pháp rút về Bắc Ninh.
Sáng ngày 15-4-1884, hai đại đội quân Pháp và một số nguỵ quân dƣới
quyền chỉ huy của thiếu tá Râygát từ Đa Phúc hành quân qua Phổ Yên lên
10
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đánh chiếm Thái Nguyên lần thứ hai. Đến Lƣu Xá bị quân ta chặn đánh quyết
liệt, nên mãi đến 13 giờ 10 phút ngày 16-4, chúng mới chiếm đƣợc thành.
Quân ta rút khỏi thành, nhƣng vẫn tiếp tục tổ chức bao vây cắt đứt các đƣờng
tiếp tế lƣơng thực, thực phẩm của quân Pháp. Bị đẩy vào tình thế khó khăn,
ngày 19-4-1884, quân Pháp lại phải bỏ thành Thái Nguyên rút qua Phú Bình
về Bắc Ninh.
Sau hai lần đánh chiếm vẫn không giữ đƣợc thành Thái Nguyên, ngày
10-5-1884, từ Bắc Ninh quân Pháp lại tổ chức một cánh quân lớn do trung
tá Đonniê chỉ huy, đánh chiếm Thái Nguyên lần thứ ba. Trƣớc sức mạnh áp
đảo của kẻ thù, tỉnh lị Thái Nguyên thất thủ, thực dân Pháp chiếm giữ đƣợc
thành Thái Nguyên lâu dài.
Nhƣ vậy, phải trải qua gần hai tháng với ba cuộc hành quân quy mô lớn,
thực dân Pháp mới đánh chiếm và giữ đƣợc thành Thái Nguyên. Sau đó, từ
thành Thái Nguyên, quân Pháp mở rộng phạm vi chiếm đóng trên địa bàn các
huyện trong tỉnh.
Sau khi chiếm đƣợc thị xã Thái Nguyên, thực dân Pháp ráo riết xây dựng
bộ máy đàn áp, cai trị. Chúng chia tỉnh Thái Nguyên thành 7 huyện: Tƣ Nông,
Phổ Yên, Đồng Hỷ, Võ Nhai, Đại Từ, Văn Lãng, Phú Lƣơng và châu Định
Hoá, với 51 tổng, 199 làng. Ngoài tỉnh lị Thái Nguyên và các huyện lị, châu
lị, chúng còn đặt thêm 3 trung tâm hành chính tại Chợ Chu (Định Hoá),
Phƣơng Độ (Phú Bình) và Hùng Sơn (Đại Từ).
Bộ máy cai trị của Pháp ở cấp tỉnh gồm có một viên Công sứ ngƣời Pháp
thuộc ngạch quan cai trị hạng ba làm chủ tỉnh; một viên Phó Công sứ thuộc
ngạch quan cai trị hạng tƣ; 2 tham tá; 3 thanh tra lính khố xanh (ngoài ra còn
có một đại diện Công sứ tại Hùng Sơn, 8 trƣởng trại lính khố xanh, 2 nhân
viên thuế đoan và độc quyền, một nhân viên ngành công chính, một nhân viên
bƣu điện, một viên chức ngạch quan cai trị hạng năm đại diện Công sứ tại
11
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Chợ Chu, một tham tá bậc nhất đại diện Công sứ tại Phƣơng Độ).
Giúp việc cho bộ máy hành chính cai trị của Pháp là quan lại ngƣời Việt
từ tỉnh xuống các châu, huyện gồm một Án sát mang hàm Tuần phủ phụ trách
chung toàn tỉnh; một Thƣơng tá phụ tá cho Án sát; 2 Tri phủ (Phú Bình và
Đại Từ); 4 Tri huyện (Phú Lƣơng, Phổ Yên, Võ Nhai, Đồng Hỷ) và Tri châu
Định Hoá. Tại trung tâm hành chính Phƣơng Độ (Phú Bình), có 1 quan lại
mang hàm Tri phủ cùng với đại diện của Công sứ Pháp phụ trách chung; 1
giáo thụ; 1 thông ngôn; 1 lại mục; 2 nhân viên bƣu điện Chợ Chu và Chợ
Mới. Ở các tổng, có các Chánh tổng, Phó tổng cai quản; ở làng có Lí trƣởng,
Phó Lí trƣởng và Hội đồng kì hào, kì mục điều hành công việc. Hầu hết các
viên quan nắm quyền cai trị từ cấp làng trở lên ở Thái Nguyên đều thuộc giai
cấp địa chủ phong kiến cấu kết làm tay sai cho thực dân Pháp.
Bên cạnh bộ máy cai trị, thực dân Pháp còn thiết lập bộ máy đàn áp
với lực lƣợng quân sự lớn đƣợc bố trí ở 37 đồn binh rải khắp các châu,
huyện trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Mỗi đồn binh lẻ có khoảng từ 30
đến 50 lính, những đồn binh lớn gồm nhiều trại lính có từ 100 đến 200
lính. Những đồn binh này gồm lính lê dƣơng (ngƣời Âu) và lính khố đỏ,
khố xanh thuộc quân đội Pháp, do ngƣời Pháp trực tiếp chỉ huy. Nếu tính
mỗi đồn binh trung bình có 50 lính thì trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên có
ít nhất 1.800 lính chính quy. Ngoài ra, còn có lính khố vàng, kh ố lục,
lính dõng do quan lại ngƣời Việt chỉ huy. Số lính này đƣợc trang bị đầy
đủ, đồn trú tại các phủ, huyện, châu. Nhƣ vậy, tổng cộng trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên số quân lính vũ trang khoảng trên 2.000 ngƣời. Toàn
bộ lính này trải ra thành một mạng lƣớ i đóng chốt ở những đầu mối quan
trọng nhất, chụp lấy lãnh thổ Thái Nguyên, trung bình từ 5 đến 6 hộ dân
12
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trong tỉnh có một họng súng chĩa vào.
Trong bộ máy cai trị của thực dân Pháp ở cấp tỉnh, Công sứ chủ tỉnh là
ngƣời đứng đầu về mọi mặt chính trị, quân sự, tƣ pháp, kinh tế, văn hoá – xã
hội.
Sau khi thiết lập đƣợc bộ máy cai trị, cùng với chính sách bóc lột kinh tế,
đàn áp chính trị, thực dân Pháp thực hiện chính sách văn hoá - giáo dục nô
dịch, nhằm kìm hãm nhân dân ta trong vòng ngu dốt, lạc hậu.
1.2. Khái quát tình hình giáo dục ở tỉnh Thái Nguyên
Từ thời phong kiến, nhân dân các dân tộc Thái Nguyên đã có truyền
thống hiếu học, nhiều ngƣời bằng ý chí và nghị lực của mình đã quyết tâm
học tập, đạt đƣợc vốn kiến thức văn hoá uyên bác. Hàng chục vị thi đỗ đại
khoa, tiến sĩ (học vị cao nhất dƣới thời phong kiến) đƣợc triều đình trọng
dụng, góp phần vào sự hƣng thịnh của quốc gia. Tiêu biểu là các danh nhân
Trình Hiển - thuộc xứ Thái Nguyên đỗ Tiến sĩ năm 1429; Nguyễn Cầu, quê ở
Phổ Yên, đỗ tiến sĩ năm 1463, đƣợc truy phong chức Khâm sai đại thần, chỉ
huy sứ thị vệ long quân Cẩn hầu, Chính đô đốc đức bác quận công; Đỗ Cận,
ngƣời xã Thống Thƣợng (nay là xã Minh Đức) huyện Phổ Yên, đỗ tiến sĩ năm
1478, đƣợc phong tới chức Thƣợng thƣ - một trong sáu vị quan đứng đầu bộ
máy hành chính dƣới triều vua Lê Thánh Tông; Phạm Nhĩ quê ở huyện Đồng
Hỷ, đỗ tiến sĩ năm 1493, đƣợc bổ nhiệm làm quan tới chức Phủ doãn phủ
Phụng thiên (viên quan đứng đầu kinh thành Thăng Long); Đàm Chí, quê Túc
Duyên huyện Đồng Hỷ (nay thuộc thành phố Thái Nguyên), đỗ tiến sĩ năm
1535, làm quan tới chức Thừa Chính sứ, tƣớc Vân Trai (Bá Tƣớc); Dƣơng
Ức, quê Hoá Trung - Đồng Hỷ, đỗ tiến sĩ năm 1541, làm quan tới chức Thừa
Chính sứ; Đồng Doãn Giai, quê ở Hùng Sơn huyện Đại Từ, đỗ tiến sĩ năm
1763, làm quan tới chức Hàn Lâm hiệu thảo, sau đó sung chức Đốc Đồng trấn
13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Lạng Sơn...
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng mở đầu quá trình xâm lƣợc nƣớc ta.
Đến năm 1886, chúng cơ bản hoàn thành công cuộc xâm lƣợc bằng quân sự
đối với Thái Nguyên và bắt đầu tính đến việc nô dịch bằng văn hoá và giáo
dục. Dƣới chiêu bài “khai hoá văn minh”, thực dân Pháp mở thêm một số
trƣờng tân học học theo chƣơng trình của chính quốc Pháp, nhằm đào tạo tay
sai và thực hiện âm mƣu đồng hoá lâu dài hết sức thâm độc. Thông qua việc
dạy cho lớp trẻ ngƣời bản xứ về nền văn minh của nƣớc Pháp, “ngôn ngữ đẹp
đẽ của nước Pháp”, chúng hi vọng thế hệ trẻ trƣớc hết là con, em các tầng lớp
trên của Thái Nguyên sẽ dần bị “Pháp hoá”, sùng bái văn chƣơng và nền văn
hoá Pháp, coi khinh nền văn hoá cổ truyền của dân tộc và sẽ trở thành ngƣời
dân thuộc địa trung thành với mẫu quốc Pháp.
Để kìm hãm nhân dân Thái Nguyên trong vòng ngu dốt, thực dân Pháp
đặt thêm nhiều quy định khắt khe về hạn chế việc học của trẻ em.
Ngày 21-12-1917, Toàn quyền Anbe Xarô ban hành bộ luật về giáo dục
mang tên “Học chính tổng quy” và thành lập Hội đồng tƣ vấn học chính Đông
Dƣơng với chức năng tổng quát là giúp cho Toàn quyền Đông Dƣơng đề ra
những quy chế cho ngành giáo dục.
Đến năm 1919, Anbe Xarô ra lệnh bãi bỏ các trƣờng học chữ Hán và các
khoa thi hƣơng, thi hội; Đồng thời cũng ra lệnh cấm các trƣờng tƣ hoạt động
(trừ các trƣờng tƣ Thiên Chúa giáo do các cố đạo ngƣời Pháp mở). Nằm trong
chƣơng trình khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp, tại Thái
Nguyên chúng tuyển mộ rất nhiều ngƣời lao động làm thuê không cần có học
thức vào làm việc ở các hầm mỏ, nhà máy và các đồn điền cao su. Chúng chỉ
cần một số ít ngƣời thừa hành nhƣ đốc công, cai, kí không cần đòi hỏi học
hành nhiều. Vì vậy, thực dân Pháp chỉ giới hạn việc học ở mức thấp nhất.
Từ năm 1924, Toàn quyền Méclanh thi hành một chƣơng trình “cải cách
14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
giáo dục” hết sức nguy hại. Tên thực dân nổi tiếng về đàn áp cách mạng này
viện lẽ rằng 9/10 học sinh nông thôn Việt Nam không đủ sức theo học hết bậc
sơ học cho nên chỉ cần mở nhiều loại trƣờng ở bậc sơ học là đủ. Theo chƣơng
trình này, trẻ em Thái Nguyên muốn tốt nghiệp trung học phải trải qua 13
năm học và 8 kì thi.
- 3 năm sơ học để thi tốt nghiệp yếu lƣợc rồi thi lên lớp nhì.
- 3 năm tiểu học rồi thi lên đệ nhất.
- 4 năm cao đẳng tiểu học để thi thành chung rồi thi lên đệ nhị trung học.
- 2 năm trung học để thi nửa trung học (bán phần tú tài).
- 1 năm chuyên khoa và thi tốt nghiệp trung học (tú tài).
Nhƣ vậy, thực dân Pháp muốn dùng việc thi cử và lên lớp để hằng năm
loại ra khỏi nhà trƣờng một số đông học sinh. Hằng năm, số học sinh từ lớp
này lên lớp khác rơi rụng đến 50%.
Ở Thái Nguyên, một thời gian dài sau khi hoàn thành việc chiếm đóng,
thực dân Pháp không mở trƣờng học. Sau này, do nhu cầu đào tạo tay sai,
chúng phải mở một vài trƣờng, lớp ở thị xã Thái Nguyên và một số thị trấn
nhƣng cũng chỉ hạn chế ở bậc sơ học (tức tiểu học). Dƣới thời Pháp thuộc, cả
huyện Phú Lƣơng chỉ có 3 trƣờng tiểu học không toàn cấp (ở Phủ Lý, Đu và
Yên Ninh), với tổng số chƣa đến 100 học sinh. Cả huyện Phú Bình có 2
trƣờng tiểu học (ở Hà Châu và Phƣơng Độ), còn ở các huyện Phổ Yên, Định
Hoá, Đồng Hỷ, mỗi huyện cũng chỉ có 1 trƣờng tiểu học với khoảng 100 học
sinh…
Hằng năm, khoản ngân sách mà thực dân Pháp dành cho giáo dục hết sức
ít ỏi. Tính riêng năm 1931, chi phí cho giáo dục chỉ chiếm 1,2% tổng chi ngân
sách của tỉnh và không bằng một phần mƣời chi phí cho xây dựng và tu bổ
15
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhà tù.
Năm học 1932-1933 đƣợc coi là đỉnh cao của nền giáo dục của thực dân
Pháp ở Đông Dƣơng thì số nhân viên làm công tác giáo dục toàn tỉnh chỉ có
37 ngƣời, trong đó có 1 giáo thụ thanh tra các trƣờng, 33 giáo viên và trợ
giáo, 3 nữ giáo viên. Một số ngƣời có đủ khả năng cần thiết lại không chấp
hành theo sự phân công của chính quyền thực dân. Số trƣờng học tăng hơn so
với năm học trƣớc, với 2 trƣờng tiểu học toàn cấp (trƣờng kiêm bị), 1 trƣờng
đặt ở thị xã, 1 trƣờng đặt ở Chợ Chu, 18 trƣờng sơ học, 1 lớp nội trú dành cho
học sinh ngƣời Thổ đặt tại Chợ Chu (Định Hoá), 22 chi nhánh của trƣờng
kiêm bị đặt ở các huyện, 2 trƣờng hàng tổng đặt tại Sơn Cốt và Thƣợng Vũ, 1
trƣờng tƣ thục ở thị xã và một số lớp tƣ gia ở các làng. Mặc dù vậy, số học
sinh toàn tỉnh chỉ có 1.435 ngƣời, chiếm tỉ lệ không đầy 2% so với dân số
trong tỉnh, riêng huyện Định Hoá tỉ lệ ấy còn chƣa đƣợc 1%. Trong năm học
1939 – 1940, Tính chung cả hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn cũng chỉ vẻn
vẹn có 91 trƣờng cấp I (trong đó hầu hết là bán cấp) với 2.920 học sinh.
Thực dân Pháp mở trƣờng học chủ yếu để đào tạo thông ngôn, tuỳ phái,
viên chức nhỏ phục vụ bộ máy cai trị thực dân, phong kiến. Đa số học sinh
vào học ở các trƣờng này là con em giai cấp thống trị, địa chủ và những nhà
giàu có; còn tuyệt đại đa số con em nhân dân lao động không đƣợc đến
trƣờng.
Ngoài những thủ đoạn trên, thực dân Pháp còn thực hiện nội dung giáo
dục phản động, phản dân tộc, phản khoa học. Tiếng Pháp đƣợc học từ lớp
Đồng ấu. Các môn khoa học tự nhiên nặng về lí thuyết, thiếu phần thực hành
và thiếu hẳn những tri thức thực tiễn về Việt Nam. Các môn khoa học xã hội
đều mô phỏng theo sách dùng ở nƣớc Pháp hoặc có biên soạn lại ít nhiều.
Lịch sử chỉ là lịch sử của các nhân vật anh hùng, của những triều đại. Những
con ngƣời tiêu biểu cho lực lƣợng nhân dân, những cuộc khởi nghĩa oanh liệt
16
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
của quần chúng chống lại chính quyền thống trị bị xem là những cuộc nổi
loạn của quân giặc cƣớp. Đúng nhƣ Nguyễn Ái Quốc nhận xét là: “đồi bại,
xảo trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát nữa” [37, tr.125].
Chính sách hạn chế phát triển giáo dục đã gây nên hậu quả hết sức nặng
nề. Số trƣờng lớp quá ít đã không đáp ứng đƣợc yêu cầu học tập của nhân dân
Thái Nguyên, nhất là của trẻ em. Các trƣờng ở thị xã Thái Nguyên có vẻ bề
thế quy mô, có hệ thống chức sắc và ngƣời phục vụ đông đảo còn các trƣờng
ở nông thôn thì hiu quạnh, tẻ nhạt với cơ sở vật chất nghèo nàn, bệ rạc. Một
nhà thơ lúc này đã miêu tả:
“Mái trường tranh lủng dột nhiều nơi,
Hễ có mưa to chẳng chỗ ngồi,
Lũ trẻ đôi khi đang buổi học,
Đứa thì đội nón, đứa mang tơi!” [30, tr.61].
Hậu quả rõ rệt hơn cả là nạn thất học, mù chữ diễn ra trầm trọng. Theo
niên giám thống kê Đông Dƣơng, các năm 1936 – 1937 và 1941 – 1942, số
ngƣời biết chữ chỉ chiếm 2% dân số. Nha học chính Đông Dƣơng phải thú
nhận: “95% dân chúng Việt Nam không biết một thứ chữ gì”. Theo tài liệu
thống kê của cơ quan Bình dân học vụ, đến trƣớc Cách mạng tháng Tám
1945, cả nƣớc có hơn 90% dân số bị mù chữ. Trong đó, ở Thái Nguyên tỉ lệ
mù chữ còn cao hơn, chiếm hơn 95% dân số. Ở nhiều vùng, nhiều dân tộc, tỉ
lệ này là 100%. Rõ ràng, chính sách hạn chế giáo dục là một bộ phận cấu
thành của chính sách cai trị độc ác nổi tiếng của thực dân Pháp ở Việt Nam
nói chung và ở Thái Nguyên nói riêng.
Tuy vậy, cũng cần thấy rằng, việc hình thành hệ thống trƣờng tân học,
ngoài mục đích đào tạo một lớp ngƣời bị “Pháp hoá”, đã tạo nên sự biến đổi
tự nhiên trong nền giáo dục cổ truyền Thái Nguyên. Một số ngôi trƣờng đƣợc
17
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
xây dựng có bàn ghế, bảng đen, học cụ…là những hiện tƣợng hoàn toàn mới
lạ. Một số kinh nghiệm sƣ phạm về mặt tổ chức và giảng dạy đƣợc tiếp thu
nhƣ quy định hạn tuổi, khai sinh, học bạ,…
Để đầu độc nhân dân Thái Nguyên về văn hoá, thực dân Pháp khuyến
khích duy trì những phong tục, tập quán lạc hậu, lỗi thời, mê tín dị đoan,
tuyên truyền phổ biến lối ăn chơi truỵ lạc, trác táng. Chúng dùng thuốc phiện
để đầu độc nhân dân ta và làm suy yếu giống nòi. Trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên, thuốc phiện đƣợc bán công khai, nhiều tiệm hút, tiệm rƣợu, sòng bạc
đƣợc mở ra để thu hút, lôi kéo thanh niên vào con đƣờng nghiện ngập, ăn chơi
sa đoạ, mòn mỏi về thể xác, tinh thần, lãng quên con đƣờng đấu tranh cách
mạng. Chỉ tính riêng năm 1920, thực dân Pháp đã bắt nhân dân Thái Nguyên
phải tiêu thụ 210.411 lít rƣợu cồn, 714 kg thuốc phiện. Trong những năm
1930 - 1931, do tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới, việc bán rƣợu và
thuốc phiện không đạt mức quy định. Để kịp thời chấn chỉnh, chính quyền
thuộc địa đã giao chỉ tiêu phân bổ số rƣợu và thuốc phiện cần bán cho các địa
phƣơng. Chính quyền cấp dƣới phải chịu trách nhiệm trực tiếp đối với việc
tiêu thụ hai mặt hàng quan trọng này. Với thủ đoạn trên, chỉ trong mấy tháng
đầu năm 1932, thực dân Pháp đã bắt 81.076 ngƣời dân của tỉnh Thái Nguyên
phải tiêu thụ 88.326 lít rƣợu cồn và 105 kg thuốc phiện.
Bên cạnh dòng giáo dục nô dịch của chính quyền thực dân phong kiến,
còn có dòng giáo dục yêu nƣớc và cách mạng.
Ngay từ những năm đầu thế kỉ XX, các nhà nho yêu nƣớc tiến bộ Việt
Nam đã nhận thấy sự cần thiết phải gắn việc canh tân giáo dục với cuộc vận
động cách mạng giải phóng dân tộc. Tháng 3-1907, một số nhà nho yêu nƣớc
tiến bộ nhƣ Lƣơng Văn Can, Nguyễn Quyền đã mở trƣờng Đông Kinh nghĩa
thục. Hoạt động chính của trƣờng nhằm mở mang việc học tập bằng chữ quốc
ngữ cho nhân dân. Mặc dù chỉ tồn tại trong vòng 8 tháng (từ tháng 3 đến
18
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tháng 11 năm 1907), nhà trƣờng đã tạo ra một phong trào học chữ quốc ngữ
có khí thế hào hứng, có nội dung, phƣơng pháp và tổ chức mới khác với lối
học chữ Hán nặng tính hƣ văn. Việc dạy các môn học ở trƣờng đƣợc kết hợp
với tổ chức nói chuyện thời sự, bình văn, giảng sách thu hút quần chúng bằng
cả nội dung và hình thức tổ chức mới mẻ.
Tiếp sau đó, Nguyễn Ái Quốc – nhà yêu nƣớc Việt Nam, trong quá trình
hoạt động cách mạng, đã tố cáo chính sách thống trị ngu dân của thực dân
Pháp ở Việt Nam và đề ra yêu sách về mở mang giáo dục. Năm 1919, trong
yêu sách 8 điểm gửi Hội nghị Véc-xai, Nguyễn Ái Quốc đề xuất đòi tự do học
tập và mở các trƣờng cho ngƣời bản xứ ở khắp các tỉnh.
Tháng 12-1920, tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng xã hội Pháp ở Tua,
Nguyễn Ái Quốc tố cáo thực dân Pháp bắt dân tộc Việt Nam sống trong ngu
dốt tối tăm và không có quyền tự do học tập.
Đến năm 1925, trong Bản án chế độ thực dân Pháp, Nguyễn Ái Quốc
dành hẳn chƣơng IX nói về chính sách thống trị ngu dân của thực dân Pháp ở
các thuộc địa, trong đó có Việt Nam.
Năm 1927, tác phẩm Đường Cách Mệnh của Nguyễn Ái Quốc đƣợc xuất
bản. Trong đó có viết:
“ 1. Lập trường học cho công nhân
2. Lập trường cho con cháu công nhân” [37, tr.241].
Năm 1929, chƣơng trình của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã
ghi rõ: “Bỏ những trường học cũ của đế quốc và thay bằng trường học cách
mạng không phải trả tiền” [24, tr.205].
Đầu 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, nắm quyền lãnh đạo cách
mạng. Từ đây, các hoạt động giáo dục trở thành một mặt trận đấu tranh của
nhân dân ta chống thực dân Pháp và gắn bó chặt chẽ với các mặt trận đấu
19
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tranh khác. Các văn kiện đầu tiên của Đảng đều xác định mục tiêu đấu tranh
trên lĩnh vực giáo dục. Chính cương vắn tắt của Đảng có ghi “Phổ thông giáo
dục theo công nông hoá” [57, tr.18] và trong Lời kêu gọi nhân dịp thành lập
Đảng có ghi 10 khẩu hiệu thì khẩu hiệu thứ 9 ghi là: “Thực hành giáo dục
toàn dân” [57, tr.28].
Trong những năm phong trào cách mạng tạm lắng (1932 – 1935), Đảng
Cộng sản Đông Dƣơng chủ trƣơng “biến nhà tù đế quốc thành trường học
cách mạng”. Đến năm 1934, Nghị quyết Hội nghị Ban lãnh đạo Đảng ở nƣớc
ngoài nhắc lại: “Các tổ chức của đảng phải mở rộng và tăng cường những lớp
học của trung niên” và đến tháng 3-1935, Nghị quyết Hội nghị cán bộ Đảng
Bắc Kì đề ra việc “tổ chức những hội học đêm” [15, tr.19].
Trong cuộc vận động dân chủ 1936 – 1939, nội dung những lá đơn thỉnh
nguyện trong phong trào Đông Dƣơng Đại hội đều có các mục về giáo dục,
văn hoá.
Năm 1936, Đảng đƣa ra bản yêu sách 12 điểm, trong đó nêu rõ phải mở
rộng nền giáo dục, sửa đổi những thể lệ vào trƣờng học, lên lớp, thi cử, cƣỡng
bách giáo dục bằng tiếng mẹ đẻ…
Cuối năm 1936, đƣợc sự phân công của chi bộ hải ngoại của Đảng Cộng
sản Đông Dƣơng, đồng chí Đặng Tùng đã gây dựng cơ sở Đảng đầu tiên của
Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên tại xã La Bằng huyện Đại Từ. Sau khi đƣợc thành
lập, cơ sở Đảng ở La Bằng đẩy mạnh công tác vận động quần chúng, tập hợp
một số ngƣời tích cực vào Hội tƣơng tế, giáo dục, tổ chức và rèn luyện họ
thành lực lƣợng nòng cốt trong đấu tranh cách mạng. Từ mùa xuân năm 1937,
chi bộ Võ Nhai đƣợc thành lập và đặc biệt quan tâm đến công tác xoá mù chữ
cho nhân dân. Nhiều lớp truyền bá quốc ngữ đƣợc mở ra ở các xã Phú
Thƣợng, La Hiên, Tràng Xá, lôi cuốn nhiều nam, nữ thanh niên thuộc đủ các
thành phần dân tộc trong huyện đến học, nhờ đó nhiều ngƣời đã thoát nạn mù
20
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chữ. Các nam nữ thanh niên đã lập ra các nhóm đọc báo tiến bộ, nhƣ báo
“Đời nay”, “Tin tức” để thông qua đó tuyên truyền đƣờng lối, chủ trƣơng cách
mạng của Đảng cho quần chúng. Tại thị xã Thái Nguyên, phong trào học chữ
quốc ngữ diễn ra khá sôi nổi, lôi cuốn các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh
niên, phụ nữ. Có lúc, tổ chức đƣợc 9 lớp học ban đêm thu hút gần 100 học
viên tham gia.
Năm 1937, nhận thấy rõ yêu cầu xoá nạn mù chữ, Đảng tổ chức “Các
lớp dạy chữ”, “Các hội sách báo”, “Các hội văn hoá”, “Các ban học tối”…
Đầu năm 1938, Ban Chấp hành Đảng bộ Bắc Kì đã quyết định vận động
thành lập một tổ chức công khai chống nạn thất học, mang tên “Hội Truyền
bá quốc ngữ” do ông Nguyễn Văn Tố làm Hội trƣởng. Từ ngày 29-7-1938,
Hội Truyền bá quốc ngữ mới chính thức đi vào hoạt động.
Mặc dù thực dân Pháp đã cho phép hoạt động, nhƣng chúng luôn tìm
mọi cách gây khó khăn và kìm hãm sự phát triển của Hội. Đến trƣớc Chiến
tranh thế giới thứ hai, ngoài 4 khu trƣờng đƣợc mở tại Hà Nội, Hội cũng chỉ
phát triển thêm đƣợc hai cơ sở ở Hải Phòng và Việt Trì. Khi Chiến tranh thế
giới thứ hai bùng nổ, Đảng Cộng sản Đông Dƣơng rút vào hoạt động bí mật,
sự lãnh đạo của Đảng đối với Hội gặp nhiều khó khăn hơn.
Tuy vậy, Đảng vẫn trực tiếp quan tâm lãnh đạo phong trào chống nạn
thất học. Tháng 11-1939, Hội nghị Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng ra nghị
quyết chỉ rõ: “cứ mở rộng những tổ chức văn hoá như Hội Truyền bá quốc
ngữ, lớp dạy tối…”. Sang tháng 11-1940, nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành
Trung ƣơng Đảng nhấn mạnh: “Cưỡng bách giáo dục tới bậc sơ học, thủ tiêu
nạn mù chữ” [15, tr.22]. Nhờ có sự quan tâm của Đảng, Từ năm 1942 đến
trƣớc Cách mạng tháng 8-1945, Chi hội Truyền bá quốc ngữ đƣợc thành lập ở
21
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhiều địa phƣơng, trong đó có Thái Nguyên.
Chi hội Truyền bá quốc ngữ Thái Nguyên hoạt động rộng rãi ở thị xã và
nhiều huyện trong tỉnh, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân. Hoạt động
tích cực của Chi hội Truyền bá quốc ngữ đã xây dựng đƣợc một phong trào
chống nạn thất học khá mạnh mẽ, nêu cao truyền thống hiếu học của nhân dân
ta. Phong trào đã để lại những kinh nghiệm quý báu về xây dựng ngành học,
cụ thể là về chƣơng trình và phƣơng pháp dạy học, về tuyên truyền cổ động
và về đội ngũ giáo viên.
Hội Truyền bá quốc ngữ xây dựng chƣơng trình học cho những ngƣời bị
mù chữ theo hai lớp học có tên gọi là lớp sơ đẳng và lớp cao đẳng. Mục đích
chƣơng trình lớp sơ đẳng là làm cho học viên đọc đƣợc, viết đƣợc chữ quốc
ngữ và làm đƣợc hai phép tính cộng, trừ đơn giản. Mục đích lớp cao đẳng là
làm cho học viên củng cố và nâng cao đƣợc kết quả học tập ở lớp sơ đẳng
bằng cách thông qua nhiều bài tập đọc và chính tả, vừa đọc, viết chữ quốc
ngữ đƣợc thông thạo, vừa nắm đƣợc một số kiến thức thông thƣờng, ngoài ra
làm đƣợc đủ bốn phép tính cộng, trừ, nhân, chia, và những bài toán đơn giản.
Thông qua việc áp dụng chƣơng trình học của Hội đề ra, Chi hội Truyền
bá quốc ngữ Thái Nguyên mong muốn những ngƣời thất học đƣợc thoát nạn
mù chữ một cách chắc chắn, đƣợc cung cấp một số kiến thức thƣờng dùng và
sử dụng có ích vốn kiến thức ấy trong sinh hoạt và hoạt động xã hội của mình.
Bên cạnh việc quan tâm xây dựng một chƣơng trình học tối thiểu cần
thiết, Chi Hội Truyền bá quốc ngữ còn chú trọng thực hiện chƣơng trình ấy
bằng một phƣơng pháp dạy học thích hợp đối với ngƣời lớn.
Trƣớc đây, để dạy vỡ lòng, tức dạy vần quốc ngữ, phƣơng pháp truyền
thống là phƣơng pháp “đánh vần từng chữ”: trƣớc hết cho học các chữ cái từ
a, b, c đến x, y rồi cho học các vần bằng, vần trắc, cuối cùng cho tập đánh
22
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
vần, tức chắp cánh bằng cách đọc từng chữ. Học theo phƣơng pháp này vừa
mất thời gian, vừa gây nên sự chán nản cho ngƣời học, đặc biệt là ngƣời lớn
tuổi, bận bịu bao nhiêu công việc hằng ngày, làm cho họ dễ bỏ dở việc học.
Để tránh tình trạng ấy, ông Hoàng Xuân Hãn, Trƣởng ban và một số
ngƣời trong Ban Tu thƣ của Hội Truyền bá quốc ngữ, đã nghiên cứu một
phƣơng pháp dạy học mới là “phương pháp đọc lên thành tiếng”, một cải tiến
quan trọng trong phƣơng pháp dạy học ngƣời mới học đọc, học viết và trở
thành phƣơng pháp chính thức của Hội Truyền bá quốc ngữ và ngành Bình
dân học vụ sau này. Theo phƣơng pháp này, học chữ cái không theo thứ tự a,
b, c mà học từ chữ ít nét đến nhiều nét, chữ dễ viết đến khó viết. Mặt khác,
học chữ cái xen với học vần, ghép chữ với chữ hoặc chữ với vần để chắp
tiếng, chắp từ và chỉ sau một số bài đã có thể tập đọc đƣợc những bài ngắn có
nội dung gần gũi với đời sống hằng ngày, làm cho học viên cảm thấy thoải
mái và thích thú học chữ.
Các giáo viên đã tìm các biện pháp liên hệ, so sánh để học sinh dễ nhận,
dễ nhớ mặt chữ và đặt thành câu ca dao vừa vui, vừa cụ thể thiết thực, vừa dễ
hiểu, dễ hấp dẫn, dễ thuộc, dễ nhớ nhƣ:
I – t (tờ) giống móc cả hai,
I ngắn có chấm – t (tờ) dài có ngang.
Hay: O tròn như quả trứng gà,
Ô thời đội mũ, ơ là thêm râu.
Hay: “O, a” hai chữ khác nhau,
Vì “ a” có cái móc câu bên mình.
Dạy hết 34 bài trong quyển “Vần quốc ngữ” là dạy xong phần chữ cái và
vần. Bài cuối cùng trong quyển vần, dạy ôn các chữ cái, dạy viết các chữ hoa
23
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
và dạy đọc các chữ in. Để cho học sinh học xong lớp sơ đẳng có thể đọc, viết
tƣơng đối thông thạo, Chi hội lại cho học sinh tiếp tục tập đọc và tập viết
chính tả theo quyển “Sách tập đọc sơ đẳng” do Hội biên soạn. Những bài
trong quyển sách tập đọc này còn nhằm phổ biến cho học sinh những kiến
thức thông thƣờng cần thiết. Để củng cố hơn nữa kết quả học tập bƣớc đầu
của học sinh, giúp cho họ vừa thoát nạn mù chữ một cách chắc chắn, vừa
nâng cao đƣợc kiến thức, Chi hội mở tiếp lớp cao đẳng. Bên cạnh đó, ở một
số trƣờng còn tổ chức thƣ viện, cho học sinh đọc ngay ở trƣờng hay mƣợn về
nhà xem, cũng nhằm mục đích củng cố kết quả xoá nạn mù chữ và nâng cao
kiến thức cho học sinh cũ hay còn đang học.
Công tác tuyên truyền cổ động đƣợc Chi hội và các trƣờng rất coi trọng
nhƣ tổ chức diễn thuyết, thành lập các tiểu ban gồm những ngƣời tiêu biểu
trong từng ngành, từng giới để vận động ngƣời trong từng ngành, giới tham
gia. Công tác tuyên truyền cổ động quan trọng nhất là vận động giáo viên và
học viên để giữ vững đƣợc các lớp học từ đầu đến cuối khoá học và mỗi khoá
học lại phát triển thêm đƣợc nhiều lớp, nhiều học viên.
Dƣới chế độ thực dân, phong kiến, đời sống của nhân dân lao động rất
khổ cực, nhiều ngƣời ăn bữa sớm đã phải lo bữa tối. Vì thế, giáo viên phải
đến từng ngõ, từng nhà vận động họ đi học, tổ chức và quản lí học viên để
duy trì lớp học. Khi thấy học viên nghỉ mấy buổi học liền, giáo viên phải hỏi
nguyên do, nếu ốm thì đến thăm và cho thuốc khi có điều kiện, nếu bận, thì
giúp đỡ dạy cho những bài vì nghỉ chƣa đƣợc học và vận động cố gắng đi học
tiếp… Thái độ vui vẻ, hoà nhã, ân cần, thân mật, tận tuỵ của giáo viên là một
yếu tố quyết định tinh thần học tập tích cực của học viên.
Một số bài ca dao do Hội biên soạn đƣợc phổ biến rộng rãi nhằm động
24
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
viên tinh thần của ngƣời dạy và ngƣời học nhƣ:
“Tiến lên anh! Tiến lên anh!
Tiễu trừ giặc dốt, cứu nhanh đồng bào
Cố lên anh! Cố lên anh
Mau mau đem chữ nước mình truyền ra
Khắp trong tầng lớp trẻ già
Để mai họ sẽ cùng ta lên đường
“Giặc dốt diệt, Việt Nam cường!”
Nêu cao khẩu hiệu trên trường đấu tranh
Hỡi các anh! Hỡi các anh!
Trông người tiến trước, ta nhanh kịp đà
Tương lai của nước non nhà
Dở, hay trách nhiệm do ta một phần!”…[22, tr.52]
Ở nhiều trƣờng, giáo viên còn tổ chức cho học viên tham gia các cuộc
vui lửa trại và diễn kịch cổ động, gây thêm tình gắn bó giữa học viên với giáo
viên, với khoá học.
Nhiều học viên nghèo phải làm công cho các chủ tƣ gia, chủ hiệu, chủ
xƣởng. Giáo viên không những phải vận động học viên mà còn phải vận động
cả các tƣ gia, chủ hiệu, chủ xƣởng để ngƣời làm đi học.
Trong những điều kiện đó, mỗi giáo viên đồng thời phải là một cổ động
viên. Chính vì thế, việc tuyên truyền vận động giáo viên rất đƣợc chú trọng.
Ngƣời giáo viên không những đƣợc Chi hội giúp đỡ giảng dạy đúng
phƣơng pháp, mà còn đƣợc tham khảo thêm các tài liệu hƣớng dẫn về sƣ
phạm, với các nội dung nhƣ: Tƣ cách ngƣời thầy giáo; kỉ luật giảng dạy;
những cử chỉ và hoạt động của thầy giáo ở trong lớp học; những phần việc
25
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
phải làm trong một buổi dạy học; cách thức thƣởng phạt, lối giảng dạy cho
học viên ham thích học; công việc ngƣời giám đốc một khu trƣờng học. Chi
hội còn nêu lên phƣơng châm rèn luyện của giáo viên là: “Hi sinh – Kiên
quyết - Kỉ luật – Thân ái”.
Chi hội Truyền bá quốc ngữ Thái Nguyên đã tổ chức cho các giáo viên
có nhiều kinh nghiệm dạy để các giáo viên khác dự và cùng rút kinh nghiêm.
Chi hội còn tổ chức các buổi trƣng bày tài liệu giảng dạy của giáo viên và học
tập của học viên để giáo viên trao đổi, tham khảo, bồi dƣỡng thêm chuyên
môn.
Từ những năm 1943 – 1944, khi Mặt trận Việt Minh bắt đầu phát triển
mạnh ở Thái Nguyên, nhiều giáo viên và học viên tiến bộ đã đƣợc tuyên
truyền và kết nạp vào các tổ chức của Đảng, của Mặt trận. Cũng trong thời
gian này, ngoài những lớp học của Chi hội Truyền bá quốc ngữ, còn có các
lớp do hội viên của tổ chức Việt Minh. Nhân dân và các chiến sĩ Cứu quốc
quân đã hăng hái tham gia học chữ quốc ngữ. Phong trào học chữ quốc ngữ
đƣợc đẩy mạnh hơn khi các Căn cứ cách mạng đƣợc thành lập.
Mặt trận Việt Minh ra đời tháng 5-1941 đã đề ra một chƣơng trình hành
động gồm 10 chính sách lớn, trong đó có việc “xây dựng nền quốc dân giáo
dục, chống nạn mù chữ, phổ thông và cưỡng bách giáo dục đến bậc sơ cấp”
[34, tr.33].
Lãnh tụ Hồ Chí Minh cũng chủ trƣơng “Phong trào Việt Minh tới đâu, tổ
chức học văn hoá ở đó. Người biết dạy người không biết, người biết nhiều
dạy người biết ít” [15, tr.33].
Theo chủ trƣơng trên, ở Căn cứ địa Việt Bắc mà trong đó có Thái
Nguyên, những ngƣời biết chữ đã tổ chức dạy học trƣớc tiên cho các đồng chí
26
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chƣa biết chữ ở ngay trong cơ quan của Đảng và Mặt trận.
Lãnh tụ Hồ Chí Minh còn giao cho ông Cao Hồng Lĩnh soạn bộ vần dạy
chữ gồm 30 bài, bộ vần này rất thích hợp cho đồng bào các dân tộc ít ngƣời ở
Thái Nguyên. Ông Cao Hồng Lĩnh còn soạn nhiều bài thơ, bài hát để động
viên đồng bào đi học. Ở nơi nào có cơ sở Việt Minh là ở đó có lớp học. Nhiều
nơi, già trẻ, gái trai đều đi học, học vào ban đêm hoặc buổi trƣa. Tháng 6-
1945, Khu giải phóng đƣợc thành lập. Thực hiện chỉ thị của Tổng bộ Việt
Minh, Uỷ ban giải phóng các cấp tỉnh Thái Nguyên có nhiệm vụ: “tổ chức
việc chống nạn mù chữ” và mở lớp dạy chữ quốc ngữ, mở trƣờng sơ cấp cứu
quốc.
Các cán bộ, chiến sĩ và đồng bào biết đọc, biết viết vẫn đƣợc học thêm
về những kiến thức phổ thông và đƣợc đọc báo “Việt Nam độc lập”. Lãnh tụ
Hồ Chí Minh chủ trƣơng viết báo này dễ hiểu, hợp với trình độ đồng bào các
dân tộc. Lãnh tụ Hồ Chí Minh còn viết nhiều bài thơ, ca cho mọi ngƣời dễ
đọc, dễ nhớ và dễ truyền bá rộng rãi nhƣ: Việt Nam lịch sử diễn ca, Mười điều
của Việt Minh, Địa dư Bắc Kì, Địa dư Cao Bằng và các bài ca động viên
thanh niên, phụ nữ, nông dân, công nhân, phụ lão, thiếu nhi, binh sĩ cứu
quốc…
Tóm lại, dƣới ách thống trị thực dân phong kiến, nhƣ mọi miền đất nƣớc,
nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên bị kìm hãm trong vòng ngu dốt, lạc
hậu. Từ khi có ánh sáng cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam rọi tới,
cùng với quá trình đƣợc tuyên truyền, giác ngộ về con đƣờng đấu tranh tự giải
phóng, ngƣời dân lao động tỉnh Thái Nguyên từng bƣớc đƣợc học hành, mở
mang dân trí.
Từ năm 1937 đến trƣớc Cách mạng tháng Tám 1945, dƣới sự lãnh đạo
của Chi bộ Đảng, công cuộc chống nạn mù chữ đã diễn ra ở nhiều địa phƣơng
trong tỉnh, hàng ngàn ngƣời đã biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ. Phong trào
27
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chống nạn mù chữ đã có đóng góp quan trọng cho tiến trình phát triển của sự
nghiệp cách mạng ở tỉnh Thái Nguyên nói riêng và cả nƣớc nói chung. Đồng
thời phong trào đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho công cuộc chống mù
28
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chữ ở thời kì sau Cách mạng tháng Tám thành công.
CHƢƠNG 2
CUỘC VẬN ĐỘNG XOÁ MÙ CHỮ Ở THÁI NGUYÊN
TRONG NHỮNG NĂM 1945-1950
2.1. Chủ trƣơng của chính quyền cách mạng về “diệt giặc dốt”.
Cách mạng tháng Tám 1945 là một sự kiện vĩ đại trong lịch sử dân tộc
Việt Nam, đã phá tan hai tầng xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp kéo dài hơn
80 năm và của phát xít Nhật gần 5 năm, lật nhào ngai vàng phong kiến ngự trị
ngót chục thế kỉ ở nƣớc ta. Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, nƣớc ta
từ một nƣớc thuộc địa đã trở thành một nƣớc độc lập dƣới chế độ dân chủ
cộng hoà, đƣa nhân dân từ thân phận nô lệ thành ngƣời dân độc lập, tự do,
làm chủ nƣớc nhà.
Cách mạng tháng Tám thắng lợi đánh dấu một bƣớc tiến nhảy vọt trong
lịch sử tiến hoá của dân tộc Việt Nam. Một kỉ nguyên mới của lịch sử dân tộc
đã mở ra, kỉ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Sau khi ra đời, nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đứng trƣớc một tình
thế hết sức hiểm nghèo. Chỉ 10 ngày sau khi cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám
năm 1945 thành công, những đội quân của các nƣớc trong phe Đồng minh đã
lũ lƣợt kéo vào nƣớc ta.
Bên cạnh giặc ngoại xâm, giặc đói, là giặc dốt do chế độ thực dân phong
kiến để lại. Hơn 90% dân số không biết chữ, các tệ nạn xã hội nhƣ rƣợu chè,
cờ bạc, nghiện hút và mê tín dị đoan còn rất phổ biến.
Tất cả tình hình trên đã đặt nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vào tình
thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, nƣớc ta
cũng có thuận lợi rất cơ bản. Nhân dân lao động đã giành đƣợc quyền làm chủ
và bƣớc đầu hƣởng những quyền lợi do chính quyền cách mạng đem lại nên
29
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
vô cùng phấn khởi và gắn bó với chế độ mới. Phong trào giải phóng dân tộc
đang dâng cao ở nhiều nƣớc thuộc địa và phụ thuộc. Hệ thống xã hội chủ
nghĩa thế giới đang hình thành. Phong trào đấu tranh vì hoà bình, dân chủ
phát triển ở nhiều nƣớc tƣ bản. Đó là những nhân tố quan trọng, có tác dụng
cổ vũ, động viên nhân dân ta rất nhiều trong cuộc đấu tranh nhằm thực hiện
nhiệm vụ trƣớc mắt là “củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược,
diệt trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân”, nhƣ bản Chỉ thị “Kháng
chiến - Kiến quốc” (25-11-1945) đã đề ra.
Để thực hiện nhiệm vụ trên, cùng với nhiệm vụ diệt giặc đói, giặc ngoại
xâm, công cuộc vận động nâng cao dân trí, trƣớc hết là xoá nạn mù chữ là
một công việc cấp bách, là một hoạt động trong toàn bộ sự nghiệp củng cố và
bảo vệ thành quả Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Sau khi giành đƣợc chính quyền, ở khắp các địa phƣơng, các cấp bộ của
Mặt trận Việt Minh đã khuyến khích mở lớp học chữ quốc ngữ, nhƣ chƣơng
trình “Mười chính sách” của Mặt trận quy định. Tại Thái Nguyên, các lớp học
của Hội Truyền bá quốc ngữ có từ trƣớc, nay tiếp tục hoạt động, đồng thời mở
thêm nhiều lớp học mới.
Diệt giặc dốt, xoá nạn mù chữ đã trở thành một trong những nhiệm vụ
quan trọng của Nhà nƣớc và nhân dân ta. Thời đại lịch sử mới của dân tộc đòi
hỏi công cuộc chống nạn mù chữ phải đƣợc phát triển lên tầm cao mới, nhằm
giáo dục cho quần chúng nhân dân, đặc biệt là quần chúng lao động đông đảo,
hiểu biết về bản chất của chế độ mới, về quyền lợi và nghĩa vụ công dân, hiểu
về tình hình đất nƣớc - nhằm động viên lòng yêu nƣớc, hun đúc ý chí xây
dựng và bảo vệ chế độ mới.
Ngày 3-9-1945, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đề ra 6 việc cấp bách trƣớc mắt cần giải quyết ngay, trong
đó vấn đề chống nạn mù chữ đƣợc xếp ở vị trí thứ hai sau việc chống nạn đói.
30
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Ngƣời nhận xét: “Nạn dốt là một trong những phương pháp thâm độc mà bọn
thực dân dùng để cai trị chúng ta. Hơn 90% đồng bào ta còn bị mù chữ.
Nhưng, chỉ cần 3 tháng là đủ để học đọc, học viết tiếng nước ta theo vần quốc
ngữ. Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy, tôi đề nghị mở một chính
dịch chống nạn mù chữ” [42, tr.121].
Một tuần lễ sau khi giành đƣợc độc lập, ngày 8-9-1945, Chính phủ lâm
thời nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã ban hành 3 sắc lệnh về vấn đề xoá
nạn mù chữ, cả 3 sắc lệnh đều do Bộ trƣởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp kí.
Sắc lệnh số 17/SL: Thành lập Nha Bình dân học vụ, quy định rõ nhiệm
vụ của Nha này là chuyên lo việc học cho nhân dân.
Sắc lệnh số 19/SL: Quy định trong 6 tháng, làng nào, thị trấn nào cũng
phải có lớp học, ít nhất có 30 ngƣời theo học.
Sắc lệnh số 20/SL: Việc học chữ quốc ngữ từ nay bắt buộc và không mất
tiền cho tất cả mọi ngƣời. Toàn thể dân chúng Việt Nam trên 8 tuổi phải biết
đọc và biết viết chữ quốc ngữ.
Các sắc lệnh của Chính phủ chứng tỏ việc chống nạn mù chữ trở thành
một chính sách lớn của Nhà nƣớc, do Nhà nƣớc tổ chức thực hiện. Tiếp theo
các sắc lệnh, để nói rõ thêm ý nghĩa, mục đích, đối tƣợng, phƣơng pháp hoạt
động chống nạn thất học, tháng 10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra “Lời
kêu gọi toàn dân chống nạn thất học”. Ngƣời đã lên án thực dân Pháp kìm
hãm dân tộc ta trong vòng ngu dốt và đồng thời đề ra nhiệm vụ cho toàn dân
chống nạn thất học: “Nay chúng ta đã giành được quyền độc lập. Một trong
những công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng cao dân trí”
[36, tr.11].
Ngƣời nêu rõ:
“Muốn giữ vững nền độc lập,
31
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Muốn làm cho dân mạnh nước giàu,
Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của
mình, phải có kiến thức mới để tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và
trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”.
Ngƣời kêu gọi ngƣời biết chữ dạy cho những ngƣời chƣa biết chữ, ngƣời
chƣa biết cố gắng học:
“Những người đã biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ, hãy
góp sức vào Bình dân học vụ, như anh chị em trong sáu, bảy năm nay đã gây
phong trào truyền bá quốc ngữ giúp đồng bào thất học.
Những người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học cho biết chữ: Vợ chưa
biết thì chồng bảo, cha mẹ không biết thì con bảo, người ăn người làm không
biết thì chủ nhà bảo, các người giàu có thì mở lớp học ở tư gia dạy cho những
người không biết chữ”. Ngƣời đặc biệt nhắc nhở phụ nữ nỗ lực học và thanh
niên sốt sắng giúp Bình dân học vụ.
“Phụ nữ lại càng cần phải học. Đã lâu chị em bị kìm hãm. Đây là lúc chị
em phải cố gắng để kịp nam giới, để xứng đáng mình là một phần tử trong
nước có quyền bầu cử và ứng cử. Công việc này, mong anh chị em thanh niên
sốt sắng giúp sức” [38, tr.28].
Lời kêu gọi toàn dân chống nạn thất học của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
vạch ra một cƣơng lĩnh hành động của Bình dân học vụ, gồm hai điểm rất cơ
bản: Ngƣời mù chữ phải hiểu nghĩa vụ học tập của mình và làm chủ việc xoá
nạn mù chữ cho mình, xoá nạn mù chữ là công việc của toàn xã hội và phong
trào xoá nạn mù chữ phải là phong trào quần chúng.
Để triển khai chiến dịch “diệt giặc dốt” xóa nạn mù chữ do Chủ tịch Hồ
Chí Minh đề ra, Nha Bình dân học vụ đƣợc thành lập do ông Nguyễn Công
32
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Mỹ đứng đầu. Ngày 17-9-1945, Nha họp cán bộ để quán triệt mọi thành viên
của ngành và thông qua bản kế hoạch triển khai chiến dịch. Nội dung cuộc
họp gồm:
Một là: Dạy cho biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ là nhiệm vụ trọng tâm,
phải tập trung lực lƣợng thực hiện trƣớc.
Hai là: Dạy cho biết đọc, biết viết là để học kiến thức mới, hiểu quyền
lợi, nhiệm vụ công dân.
Ba là: Công nhân và nông dân là những lực lƣợng nòng cốt của chế độ
mới, cho nên phải mở lớp dạy cho họ trƣớc, nhất là những ngƣời đang độ tuổi
lao động, đang sung sức, hoạt động tích cực nhất cho việc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Trên cơ sở nội dung của cuộc họp, Nha Bình dân học vụ ấn định những
việc phải làm sau đây:
1. Để sớm mở ngay các lớp dạy vần quốc ngữ (gọi là lớp sơ cấp bình
dân) chủ trƣơng dùng chƣơng trình lớp sơ đẳng, phƣơng pháp dạy vỡ lòng và
sách quốc ngữ của Hội Truyền bá quốc ngữ đã đƣợc đánh giá tốt trong thực tế
hoạt động của Hội.
Cuốn vần quốc ngữ đã đƣợc sửa chữa bổ sung theo yêu cầu giáo dục
chính trị mới. Ngay trong những bài học chữ, học vần, học viên đã đƣợc tập
đọc những bài có ý nghĩa, gắn với ý nghĩa, tình cảm mới của họ nhƣ: Bài 11
là Dân ta đã tự do; Bài 20 là Có nền dân chủ, nhân dân ta rủ nhau đi học
bình dân chống mù chữ; Bài 30 là Cách mạng đem lại tự do hạnh phúc cho
nhân dân ta; Bài 33 là Nước ta là một nước dân chủ cộng hoà. Ai cũng được
bầu cử Quốc hội, cố gắng đi học biết chữ, viết được phiếu bầu.
2. Ở mỗi địa phƣơng, Bình dân học vụ làm thống kê số ngƣời chƣa biết
chữ, chia ra 3 lớp tuổi: 8 - 15 tuổi, 16 - 45 tuổi, 46 tuổi trở lên và dành các lớp
33
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
của khoá học đầu tiên cho lứa tuổi từ 16 - 45.
3. Việc giáo dục chính trị đƣợc lồng vào các bài dạy học viết. Lớp học
có những giờ nói chuyện thời sự và tham gia hoạt động chính trị và xã hội ở
địa phƣơng. Trong phần này, bình dân học vụ phải liên hệ chặt chẽ với cơ
quan thông tin tuyên truyền.
Trong cuộc họp, toàn thể cán bộ Nha Bình dân học vụ đã khẳng định
phƣơng thức hoạt động. Đó là phải vận động quần chúng, phải xây dựng bình
dân học vụ thành phong trào quần chúng.
Nha Bình dân học vụ đã đƣa ra phƣơng thức hoạt động nhƣ là phải vận
động những ngƣời biết chữ đến dạy học, những ngƣời biết chữ đi vận động
những ngƣời giàu có, nhà ở rộng rãi, mở lớp học ở tƣ gia cho bà con hàng
xóm láng giềng; những chủ nhà, chủ ấp, đồn điền, hầm mỏ, nhà máy…mở
những lớp học cho tá điền, những ngƣời làm công. Nhƣ vậy, không chỉ bó
hẹp việc mở lớp học trong các trƣờng học công và tƣ, mà cần đƣa việc học
thành phong trào quần chúng, phù hợp với tâm lí, tình cảm của ngƣời Việt
Nam vốn có tình thƣơng yêu giúp đỡ lẫn nhau. Đối tƣợng vận động không chỉ
cá nhân và gia đình mà còn là từng giới, từng lứa tuổi. Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhấn mạnh việc vận động giới phụ nữ vì “đã lâu chị em bị kìm hãm”. Ngƣời
kêu gọi: “Công việc này, mong anh chị em thanh niên sốt sắng giúp sức” vì
thanh niên là lực lƣợng xung kích [34, tr.41].
Ngay sau buổi họp, Nha Bình dân học vụ đã tiến hành một số công tác
tuyên truyền và cổ động. Những bản trích các sắc lệnh 17, 19 và 20 ngày 8-9-
1945 và “Lời kêu gọi chống nạn thất học” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đƣợc in
và phát hành rộng rãi.
Những buổi phát thanh giới thiệu liên tiếp hoạt động chống nạn thất học
của Hội Truyền bá quốc ngữ trƣớc Cách mạng tháng Tám, nhiệm vụ của bình
dân học vụ trong giai đoạn mới của đất nƣớc. Nhiều nơi tổ chức triển lãm các
34
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tài liệu về bình dân học vụ và chƣơng trình hoạt động của bình dân học vụ.
Những hoạt động này là cần thiết, nhƣng việc quan trọng nhất trong việc
chuẩn bị triển khai chiến dịch “diệt giặc dốt” xoá mù chữ là việc xây dựng đội
ngũ cán bộ bình dân học vụ các cấp.
Bình dân học vụ là một ngành công tác mới nên phải bắt đầu từ việc xây
dựng đội ngũ cán bộ. Cán bộ bình dân học vụ trƣớc khi là một nhà giáo phải
là một cán bộ quần chúng, biết tuyên truyền cổ động tổ chức phong trào, phải
có đủ tính kiên nhẫn, chịu đựng hi sinh gian khổ, có ý thức tổ chức, kỉ luật, có
tinh thần thân ái, đoàn kết.
Nha Bình dân học vụ đã tổ chức 3 lớp huấn luyện ở Trung ƣơng để đào
tạo những ngƣời chiến sĩ bình dân học vụ: Chính trị và thƣờng thức quân sự;
sƣ phạm; tuyên truyền cổ động và tổ chức phong trào văn nghệ.
Khoá huấn luyện phụ trách các tỉnh đầu tiên khai giảng ngày 8-10-1945,
đúng một tháng sau ngày thành lập Bình dân học vụ, đƣợc mang tên Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Khoá này dành cho các uỷ viên và cán bộ bình dân học vụ các
tỉnh đồng bằng và trung du Bắc Bộ. Về dự có 79 uỷ viên và cán bộ, trong đó
có 15 nữ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến dự lễ khai giảng khoá huấn luyện. Ngƣời
hoan nghênh chƣơng trình chống nạn thất học của Bình dân học vụ, tinh thần
tự nguyện làm việc không lĩnh lƣơng của cán bộ, giáo viên bình dân học vụ,
nêu rõ 3 nhiệm vụ cách mạng trƣớc mắt có liên quan đến nhau là: “chống nạn
đói, nạn thất học, nạn ngoại xâm”, và chỉ ra: “chống nạn thất học cũng như
chống ngoại xâm”.
Trong thời gian dự huấn luyện, các uỷ viên bình dân học vụ sinh hoạt nội
trú theo hình thức trại, buổi sáng nghe giảng lí thuyết, buổi chiều thực hành,
35
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
buổi tối sinh hoạt văn nghệ.
Để có thể về địa phƣơng triển khai chiến dịch sớm, thời gian huấn luyện
chỉ dài 10 ngày. Sau khi khoá huấn luyện bế giảng, các uỷ viên bình dân học
vụ lại đƣợc gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh và nghe Ngƣời nói chuyện về kinh
nghiệm chống nạn thất học ở Khu giải phóng.
Trong buổi lễ bế giảng ngày 17-10-1945, các uỷ viên bình dân học vụ
các tỉnh đã lên lĩnh những “gói nhiệm vụ” gồm lời kêu gọi chống nạn thất học
của Hồ Chủ tịch, các bài giảng về chính trị, sƣ phạm, tổ chức, các sách vần
quốc ngữ…và tuyên thệ:
“- Sẽ hành động xứng đáng với lòng tin cậy của chính phủ do Chủ tịch
Hồ Chí Minh lãnh đạo, để mưu việc ích chung.
- Sẽ hi sinh, kiên quyết, vui vẻ, tuân theo kỉ luật và giữ vững mãi tinh
thần đấu tranh, để mưu việc ích chung.
- Sẽ tuyệt đối thi hành mệnh lệnh của Chính phủ, khi có ngoại xâm, nhất
là thi hành triệt để chính sách bất hợp tác để đánh đuổi kẻ thù chung”.
Những lời thề đó làm cho buổi lễ bế giảng càng thêm trang nghiêm và
nhắc nhở các cán bộ giáo viên bình dân học vụ rằng nhiệm vụ của họ cũng
thiêng liêng nhƣ nhiệm vụ của các chiến sĩ ở tiền tuyến.
Tháng 12-1945, Nha Bình dân học vụ mở tiếp khoá huấn luyện thứ ba
mang tên “Khoá Đông Kinh nghĩa thục” cho cán bộ các cơ quan, các ngành,
mới tình nguyện sang tăng cƣờng cho bình dân học vụ. Sau khoá huấn luyện,
nhiều cán bộ đƣợc cử đến các tỉnh phía Bắc, nơi chƣa có hoặc thiếu cán bộ
bình dân học vụ.
Sau các khoá huấn luyện của Nha, các uỷ viên bình dân học vụ trở về
tỉnh để tổ chức các khoá huấn luyện cho các cán bộ phụ trách và giáo viên
36
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
bình dân học vụ của tỉnh mình.
Tháng 6-1946, một khoá huấn luyện quan trọng đƣợc tổ chức, để đào tạo
cán bộ cốt cán các dân tộc ít ngƣời, nhằm đẩy mạnh công việc chống nạn thất
học ở các tỉnh vùng núi trong đó có Thái Nguyên. Khoá huấn luyện đƣợc đặt
tên là “Khoá Đoàn kết”, mở trong một tháng từ ngày 25/6 đến 27/7/1946, có
75 đại biểu của 14 dân tộc ít ngƣời nhƣ Mƣờng, Tày, Dao,… về dự.
Sau “Khoá Đoàn kết”, Nha Bình dân học vụ còn tổ chức “Khoá xung
phong”. Học viên là cán bộ và giáo viên bình dân học vụ quê ở Hà Nội, tình
nguyện đi các địa phƣơng miền núi cùng đồng bào xây dựng phong trào bình
dân học vụ.
Nha Bình dân học vụ còn phối hợp với Bộ Tuyên truyền huấn luyện về
công tác bình dân học vụ cho các uỷ viên tuyên truyền xung phong hoạt động
trên các vùng miền núi, vừa tuyên truyền các nhiệm vụ cách mạng, vừa giúp
xây dựng phong trào bình dân học vụ.
Thực hiện chủ trƣơng của chính quyền cách mạng và với sự chuẩn bị chu
đáo của Nha Bình dân học vụ, phong trào bình dân học vụ, chống nạn mù chữ
diễn ra sôi nổi ở tỉnh lị Thái Nguyên và khắp các bản làng.
2.2. Cuộc vận động xoá mù chữ ở Thái Nguyên trong những năm 1945 – 1950
2.2.1. Từ năm 1945 đến năm 1947
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, cùng với nhân dân cả nƣớc, Đảng
bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên bƣớc vào thời kì xây dựng chế
độ mới, đồng thời phải đối phó với nhiều khó khăn, trở ngại.
Dƣới danh nghĩa đại diện lực lƣợng Đồng minh vào làm nhiệm vụ giải
giáp quân Nhật, các thế lực đế quốc và phản động đã dồn dập kéo vào Việt
Nam. Sau khi tràn qua một số tỉnh biên giới phía Bắc, khoảng 50.000 nghìn
quân Trung Hoa Dân quốc trong Quân đoàn 93 thuộc Phƣơng diện quân thứ
37
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhất kéo vào địa phận tỉnh Thái Nguyên. Chúng chiếm đóng nhiều vị trí quan
trọng trong thị xã Thái Nguyên và dọc đƣờng số 3 từ cầu Đa Phúc đến thị xã.
Đi tới đâu, chúng cũng đều cƣớp bóc, tàn phá, chiếm nhà dân, quán chợ, bắt
chúng ta tiêu tiền Quan kim, Quốc tệ đã mất giá trị. Chúng tập hợp bọn tay
chân, thành lập “Nam Dương Hoa kiều hiệp hội” ở nhiều nơi, nhất là những
nơi có đồng bào Hoa sinh sống. Chúng xúi giục ngƣời Việt gốc Hoa lấy quốc
tịch Trung Quốc và không thực hiện nghĩa vụ công dân của nƣớc Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà… Lợi dụng danh nghĩa Đồng minh, quân Trung Hoa Dân
quốc đòi ta phải cung cấp lƣơng thực, thực phẩm, phƣơng tiện vận tải, đi lại
cho chúng.
Nhân lúc tình hình có khó khăn, phức tạp, các thế lực phản cách mạng
nổi dậy chống phá. Một số tên đặc vụ Trung Hoa Dân quốc ở thị xã Thái
Nguyên nằm vùng từ những năm 40, bắt đầu lộ diện. Một số phần tử phản
động lợi dụng đạo Thiên chúa ở xứ Nhã Lộng (Phú Bình) đứng ra tổ chức
“Liên đoàn thanh niên chống cộng”. Bọn “Đại Việt quốc gia liên minh” tích
cực hoạt động, lôi kéo quần chúng, giành ảnh hƣởng với Việt Minh.
Từ sau ngày giành đƣợc chính quyền về tay nhân dân, bên cạnh sự hoạt
động chống phá của kẻ thù, nhân dân tỉnh Thái Nguyên còn đứng trƣớc nhiều
khó khăn về kinh tế, văn hoá.
Ruộng đất phần lớn nằm trong tay giai cấp địa chủ. Tình hình này cùng
với hậu quả của những năm chiến tranh và chính sách vơ vét, bóc lột của đế
quốc, phát xít Pháp - Nhật làm cho đời sống nhân dân các dân tộc trong tỉnh
vốn đã cực khổ, lại càng cực khổ hơn. Thêm vào đó, trận lụt lớn xảy ra trong
tháng 8-1945 và tiếp theo là hạn hán kéo dài đã dẫn đến tình trạng đồng ruộng
phải bỏ hoang. Thƣơng nghiệp ngừng trệ, hàng hoá trên thị trƣờng khan hiếm.
Tài chính cạn kiệt: Ngân khố tỉnh chỉ có 20.000 đồng Đông Dƣơng. Nạn đói
khủng khiếp do Nhật – Pháp gây nên hồi cuối năm 1944 đầu năm 1945 chƣa
38
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đƣợc khắc phục thì nguy cơ một nạn đói mới lại xuất hiện.
Chế độ thực dân – phong kiến còn để lại một di sản văn hoá – giáo dục
hết sức tai hại: Hơn 90% dân số không biết chữ, hạn chế nhiều đến công việc
tham gia xây dựng chính quyền và đoàn thể; các tệ nạn xã hội cũ cùng với các
phong tục, tập quán lạc hậu tồn tại rất phổ biến.
Trong khi đó, chính quyền cách mạng mới đƣợc thành lập, chƣa có nhiều
kinh nghiệm quản lí. Lực lƣợng vũ trang cách mạng còn nhỏ bé, trang bị vũ
khí rất thô sơ và thiếu thốn.
Bên cạnh những khó khăn, trở ngại sau ngày thành lập chính quyền,
Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên cũng có nhiều thuận lợi
rất cơ bản.
Là một trong những địa phƣơng thuộc địa bàn căn cứ địa và khu giải
phóng, nhân dân các dân tộc trong tỉnh sớm đƣợc hƣởng những quyền lợi do
cách mạng đem lại nên quyết tâm bảo vệ chính quyền, bảo vệ chế độ mới.
Cùng với những thắng lợi trong công cuộc chống “giặc đói”, Đảng bộ Thái
Nguyên tập trung lãnh đạo phong trào thanh toán nạn mù chữ do Nhà nƣớc
phát động từ ngày 8-9-1945. Đảng bộ phân công một số cán bộ có năng lực
chuyên trách chỉ đạo cuộc vận động to lớn này. Nhiều cán bộ đƣợc phái
xuống các thôn xóm làm nhiệm vụ tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia
phong trào xoá nạn mù chữ.
Do làm tốt công tác tuyên truyền, đông đảo nhân dân các dân tộc tỉnh
Thái Nguyên đều nhận rõ sự cần thiết “phải có kiến thức mới để tham gia vào
công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc biết viết chữ quốc
ngữ”. Bởi vậy, ngay sau khi Chính phủ lâm thời phát động phong trào thanh
toán nạn mù chữ (8-9-1945), bà con các dân tộc trong tỉnh sôi nổi hƣởng ứng.
Phong trào chống nạn thất học phát triển mạnh mẽ cùng với khoá học bình
dân học vụ đầu tiên bắt đầu từ tháng 11-1945 đến tháng 2-1946 và tiếp tục với
39
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
các khoá học sau. Mỗi lần mãn khoá và khai giảng mới là một đợt cổ động
tuyên truyền mới, thúc đẩy phong trào và kéo dài cho đến khi Pháp mở cuộc
tấn công vào căn cứ địa Việt Bắc 10-1947.
Chiến dịch diệt dốt đầu tiên đã huy động hàng ngàn học viên và hàng
trăm cán bộ, giáo viên bình dân học vụ tham gia. Công tác tuyên truyền cổ
động với những khẩu hiệu thật ngắn gọn nhƣng đã khơi dậy mạnh mẽ lòng
yêu nƣớc của nhân dân, nhƣ:
Đi học bình dân học vụ là yêu nước!
Dạy học bình dân học vụ là yêu nước!
Giúp đỡ bình dân học vụ là yêu nước!
Giặc dốt diệt, Việt Nam cường!
Chống nạn thất học cũng như chống ngoại xâm!...
Nhiều giáo viên Hội Truyền bá quốc ngữ cũ, nhiều thanh niên, học sinh,
sinh viên, công chức đã sốt sắng ghi tên nhận dạy học và làm các việc tuyên
truyền cổ động. Khác với Hội Truyền bá quốc ngữ trƣớc Cách mạng tháng
Tám, công tác tuyên truyền vận động đƣợc thuận lợi hơn do đƣợc dựa trực
tiếp vào các Uỷ ban hành chính và các Ban chấp hành Mặt trận Việt Minh,
các đoàn thể Thanh niên, Phụ nữ, Phụ lão Cứu quốc…
Sự quan tâm của Uỷ ban hành chính và Mặt trận Việt Minh các cấp đã
động viên mạnh mẽ sự tham gia tích cực của quần chúng vào công cuộc
chống nạn thất học. Hội viên Thanh niên Cứu quốc và Phụ nữ Cứu quốc là
những ngƣời đi đầu trong phong trào diệt dốt. Nhân dân sẵn sàng cho mƣợn
nhà cửa, bàn ghế, đèn dầu…để mở lớp học bình dân. Một số nhà hảo tâm còn
giúp tiền để mua sách, vở viết, phấn, mực, giấy…
Công cuộc xoá nạn mù chữ đã thực sự trở thành một phong trào quần
chúng sâu rộng. Các lớp bình dân học vụ đƣợc tổ chức ở khắp các địa
40
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
phƣơng, trong từng thôn, xóm, thu hút hàng vạn ngƣời từ già đến trẻ đi học.
Điều đặc biệt là phụ nữ đến học rất đông, nhiều bà, nhiều chị còn mang theo
cả con nhỏ đến lớp học. Do “đã lâu bị kìm hãm” nên chị em đi học với niềm
phấn khởi vì đƣợc giải phóng và quyết tâm học tập. Những ngƣời đã trên 45
tuổi đến học khá đông, có cả các cụ ông, cụ bà đã trên 60 tuổi. Ở nhiều nơi,
còn có cả những ngƣời tàn tật, hằng ngày chống nạng đến học, làm cho các
giáo viên xúc động, càng tận tình giúp đỡ học viên.
Số học viên rất đông mà số phòng học trong các trƣờng công và tƣ
không đáp ứng đủ, nên phải mở ở các đình, chùa, đền miếu và các nhà tƣ
tƣơng đối rộng ở rải rác khắp các đƣờng phố, xóm, ngõ để học viên ở đâu thì
học ở đấy cho thuận tiện. Trong thực tế, lớp bình dân đã cố gắng tìm đến với
ngƣời học.
Ngoài những lớp học chung cho mọi học viên ở các khu phố và xóm
làng, Bình dân học vụ còn mở những lớp học riêng cho các đơn vị bộ đội, tự
vệ, cảnh vệ, công an, cho công nhân ở các xí nghiệp…
Bình dân học vụ đã tích cực giải quyết vấn đề chỗ ngồi, sách học, học
phẩm, học cụ cho các lớp học.
Các lớp học không có đủ bàn, ghế, bảng đen, thì dùng các cánh cửa, có
khi mƣợn chiếu trải xuống đất cho học viên ngồi.
Sách Vần quốc ngữ in không đủ, nhiều nơi giáo viên chỉ đƣợc cấp một
quyển làm mẫu để viết vào vở cho học viên.
Những lớp học buổi tối ở nông thôn phải dùng đèn dầu, dầu hoả khan
hiếm thì phải dùng dầu lạc, hạt bƣởi, nhựa trám…
Giấy viết hiếm, Ty Bình dân học vụ đã xin đƣợc Uỷ ban hành chính, các
cơ quan lọc trong kho hồ sơ cũ từ thời thực dân Pháp, chọn những tờ giấy mới
dùng một mặt để đóng thành những quyển vở cho học viên. Có khi còn dùng
41
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cả những tờ đã in hai mặt và cho học viên viết đè lên bằng bút lông và mực
nho. Ty Bình dân học vụ đã lập ra các tiểu ban học cụ để lo liệu mua sắm
hoặc tự làm lấy những học cụ, học phẩm nhƣ bảng đen con, phấn viết, mực…
Lớp Bình dân học vụ không chỉ là lớp xoá nạn mù chữ mà còn là câu lạc
bộ chính trị. Ở đó, học viên thƣờng xuyên nghe nói chuyện về thời sự, về tình
hình nhiệm vụ cách mạng, do cán bộ thông tin ở địa phƣơng đến nói chuyện
trực tiếp hoặc cung cấp tài liệu cho các giáo viên bình dân học vụ nói vào đầu
hoặc cuối các buổi học. Các cán bộ Mặt trận Việt Minh cũng đến nói chuyện
ở các lớp học bình dân, nơi tập hợp quần chúng sẵn sàng hƣởng ứng, lại đƣợc
các giáo viên bình dân học vụ giúp đỡ nhắc lại cho học viên và cùng học viên
bàn kế hoạch thi hành những chủ trƣơng của Mặt trận. Giáo viên và học viên
bình dân học vụ không phải chỉ dạy và học chính trị ở trong lớp, mà còn thực
hành bằng việc tham gia với tƣ cách tổ chức của lớp bình dân học vụ vào
những hoạt động chính trị và xã hội ở địa phƣơng, thƣờng xuyên tham gia
tuần tra canh gác, luyện tập tự vệ, tích cực tham gia các tổ chức cứu đói,
chống đói, tăng gia sản xuất, bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân ở địa
phƣơng…
Do những hoạt động chính trị và xã hội, giáo viên và học viên càng thấy
gắn bó với lớp học, phong trào càng sôi nổi và phát triển mạnh mẽ có chiều
sâu.
Ngoài các lớp học công cộng, các lớp học tƣ gia đƣợc chú ý hơn trƣớc và
phát triển mạnh mẽ. Thực hiện theo tinh thần chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí
Minh trong “Lời kêu gọi chống nạn thất học” là: “Vợ chưa biết thì chồng bảo,
em chưa biết thì anh bảo, cha mẹ không biết thì con bảo, người làm không
biết thì chủ nhà bảo”. Bên cạnh khẩu hiệu “Đi học bình dân học vụ là yêu
nước”, nhiều khẩu hiệu mới đƣợc nêu thêm: “Mỗi gia đình, một lớp học bình
42
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
dân học vụ!”; “Không để một người nào trong gia đình còn mù chữ”; “Mỗi
người biết chữ dạy ít nhất 4-5 người chưa biết chữ ở gia đình và làng xóm”;
“Mở thật nhiều lớp học tư gia”…
Trong những tháng đầu năm 1946, việc học ở các lớp tƣ gia phát triển
mạnh. Một bài ca dao hồi đó ca ngợi phong trào học ở các lớp tƣ gia nhƣ sau:
“Từ ngày mở lớp tư gia
Xóm tôi việc học xem ra thịnh hành
Chồng bảo vợ, em bảo anh
Con bảo cha mẹ chuyên cần chăm lo
Từ ngày mở lớp tư gia
Phố tôi việc học xem ra lên nhiều
Học trưa, học sáng, học chiều
Được tiện sinh hoạt, tiện theo thời giờ…”[15. tr,72]
Cùng với các lớp học tƣ gia, các lớp học ở trong các trại ấp, đồn điền,
nhà máy, sở (công, tƣ), đƣợc tổ chức ngay tại nơi làm việc của học viên với
loạt khẩu hiệu cổ động: “Mỗi trại ấp, một lớp bình dân học vụ!”; “Mỗi nhà
máy, một lớp bình dân học vụ!”; “Mỗi công, tư sở, một lớp học bình dân học
vụ!”.
Theo quyết định của Bộ Nội vụ, từ nay những ngƣời đƣợc tuyển vào các
công sở ít nhất phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ.
Cùng với các lớp học tƣ gia, các lớp học ngoài trời cũng rất phổ biến.
Đây là những lớp học đƣợc tổ chức ở những nơi nhân dân thƣờng qua lại
hằng ngày, tụ tập làm ăn, hay nghỉ ngơi, vui chơi nhƣ ở các cổng làng, cửa
chợ, cửa nhà ga, bến xe, bến đò, dƣới bóng cây ở giữa đồng…Lớp học đƣợc
tổ chức đơn giản, chỉ có một bảng đen lớn và một vài giáo viên. Từng đợt
một, khi thấy đông ngƣời qua lại, tụ tập, giáo viên mới đọc một số chữ, vần,
43
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tiếng hay câu trên bảng, sửa cho nếu đọc sai hoặc thiếu và giảng cho nếu chƣa
biết đọc. Lớp học này có tính chất cơ động, nhằm ôn bài cho những ngƣời đã
đi học, nhắc họ tiếp tục đi học và gây hứng thú, vận động những ngƣời chƣa
đi học đến ghi tên học ở các lớp học bình dân đặt ở nơi thuận tiện nhất đối với
họ.
Đầu tháng 1-1946, Nha Bình dân học vụ đã quy định thể lệ thi mãn khoá
để cấp giấy công nhận thoát nạn mù chữ cho những học viên đạt yêu cầu về
đọc và viết. Thể lệ quy định: Học viên phải viết đƣợc một bài chính tả gồm từ
40 đến 50 tiếng, không có câu hỏi và đọc đƣợc một bài tập đọc chữ in và chữ
số (từ 1 đến 1000), không có hỏi miệng.
Trong tháng 2-1946, Ty Bình dân học vụ Thái Nguyên đã tổ chức trọng
thể kì thi mãn khoá đầu tiên, sau đó tổ chức lễ bế giảng khoá học, tuyên bố
kết quả kì thi, phát giấy chứng nhận thoát nạn mù chữ và phần thƣởng cho
những ai đạt yêu cầu. Đến dự buổi lễ bế giảng có đại biểu Uỷ ban hành chính
địa phƣơng, Mặt trận Việt Minh, các ngành, các giới, các đoàn thể. Trong
buổi lễ còn tổ chức triển lãm những bản sơ đồ, biểu đồ và tài liệu về giảng
dạy và học tập của các lớp học, các khu trƣờng, đồng thời còn biểu diễn
những bài hát và vở kịch cổ động cho Bình dân học vụ và tuyên truyền các
nhiệm vụ cách mạng khác. Theo báo cáo của Ty Bình dân học vụ Thái
Nguyên sau khi kết thúc khoá học đầu tiên có 669 lớp học, 921 giáo viên và
hàng ngàn học viên đƣợc công nhận thoát nạn mù chữ.
Khoá học bình dân học vụ đầu tiên đã thu đƣợc thắng lợi lớn. Ty Bình
dân học vụ tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền cổ động nhằm thu hút
đông đảo hơn nữa những lớp học viên mới, giáo viên mới, đƣa phong trào
bình dân học vụ và công cuộc xoá nạn mù chữ vào một thời kì hoạt động mới.
Thắng lợi của khoá học bình dân học vụ đầu tiên hoà nhịp với những
thắng lợi lớn về chính trị, xã hội của nhân dân Thái Nguyên đầu 1946. Cuộc
44
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và xã đã thành công. Với các
biện pháp chống đói, chỉ trong một thời gian ngắn, sản lƣợng ngô, khoai sắn
và các thứ rau màu khác tăng lên gấp bội, nạn đói bị đẩy lùi. Tình thế nguy
hiểm “ngàn cân treo sợi tóc” đã bớt đi phần nào.
Sau khi kết thúc khoá học đầu tiên, các khoá học mới tiếp theo lần lƣợt
đƣợc khai giảng. Nhân dịp khai giảng các khoá học mới, công tác tuyên
truyền cổ động lại đƣợc đẩy mạnh nhằm thu hút đông đảo hơn nữa học viên
và giáo viên mới.
Các hình thức tuyên truyền nhƣ diễu hành, rƣớc đuốc, rƣớc các hình mẫu
sách, bút, lọ mực…đƣợc duy trì. Các Ban Bình dân học vụ trong tỉnh kẻ các
bài học vần Quốc ngữ ở khắp mọi nơi trên các tấm vải lớn, mặt tƣờng, thân
cây…, tạo thành những “rừng chữ” khiến các học viên đi đâu, ở đâu, làm việc
gì, bất cứ lúc nào cũng có thể học ôn những chữ, vần mình đã học, chỉ dẫn
cho những ngƣời chƣa biết chữ, vận động họ đi học. Ở những tấm vải lớn hay
mặt tƣờng dài, có thể viết đƣợc tất cả các bài của sách Vần Quốc ngữ.
Các cơ sở bình dân học vụ còn vẽ những bức tranh cổ động trên các mặt
tƣờng hay các tấm vải to đóng khung gỗ, với nhiều màu sắc và thƣờng trƣng
bày ở những nơi đông ngƣời qua lại, thành những “rừng tranh”. Dƣới những
bức tranh, có chú thích những câu thơ hóm hỉnh làm ngƣời xem thích thú, lôi
kéo thêm ngƣời khác đến xem.
“Anh về, em chẳng cho về
Em nắm vạt áo, em đề câu thơ
Vì em mới học: i, t (tờ)
Lấy chồng biết chữ là tiên
45
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Lấy chồng mù chữ là duyên nợ nần.” [15, tr.49]
Một hình thức tuyên truyền cổ động hấp dẫn, có tác dụng tốt, sâu và khi
cần lại giúp gây quỹ hoạt động của bình dân học vụ là sinh hoạt ca nhạc, tập
kịch, diễn kịch bình dân học vụ.
Để tuyên truyền phát triển phong trào, trong dịp mãn khoá học cũ, khai
giảng khoá học mới, ở thị xã và các huyện, các Ban Bình dân học vụ vẽ
những bản đồ các lớp học ở địa phƣơng, trên những tờ giấy hoặc những tấm
vải khổ to, treo ở những khu trung tâm của địa phƣơng, nơi có nhiều ngƣời
qua lại. Trên bản đồ, những nơi nào có lớp học đều đƣợc đánh dấu bằng một
ngôi sao đỏ hoặc lá cờ đỏ. Xem những bản đồ này, những nơi nào chƣa có lớp
học hoặc mới mở đƣợc ít lớp học, không thể không cố gắng mở và mở thêm
lớp học.
Ty Bình dân học vụ cũng khẩn trƣơng mở những lớp huấn luyện sƣ
phạm để đào tạo giáo viên, kịp thời cung cấp cho các địa phƣơng khi mở thêm
lớp học mới hoặc thay thế cho những giáo viên chuyển công tác khác. Các lớp
huấn luyện cho giáo viên thƣờng đƣợc mở trong khoảng thời gian 15 ngày, số
buổi học thực hành đƣợc tăng lên do các giáo viên cũ hƣớng dẫn, đảm bảo
cho giáo viên mới có đủ vốn kiến thức cần thiết khi tham gia giảng dạy.
Để cho giáo viên có thêm những kinh nghiệm thực tế cần thiết, Ty còn tổ
chức các hoạt động ngoại khoá cho các trƣờng, nhƣ cắm trại, họp bạn giáo
viên và gia đình giáo viên, trƣng bày những biểu đồ chỉ rõ sự tiến triển từ đầu
tới cuối khoá học của mỗi lớp học, khu trƣờng, những tài liệu giảng dạy, học
tập, nhƣ sổ kinh nghiệm của giáo viên, vở viết chính tả của học viên…Thông
qua các hoạt động ngoại khoá, giáo viên bình dân học vụ đƣợc gặp gỡ, trao
đổi kinh nghiệm với nhau, những kinh nghiệm hay đƣợc giáo viên áp dụng
46
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trong giảng dạy và công tác tại lớp học, trƣờng học của mình.
Giáo viên bình dân học vụ không chỉ dạy kiến thức, mà còn tích cực vận
động những ngƣời chƣa biết chữ đến lớp học, vận động họ cố gắng đi học đều
đặn từ đầu đến cuối khoá học.
Mỗi giáo viên cũng có nhiệm vụ tham gia vận động giáo viên cho những
lớp học mới mở thêm hoặc còn thiếu giáo viên, vận động các bạn giáo viên
cùng lớp, cùng trƣờng dạy đều đặn từ đầu đến cuối khoá học, và liên tiếp
nhiều khoá học, theo tinh thần:
“Còn trời, còn nước, còn non
Còn người mù chữ, ta còn gắng công!”. [15, tr.50]
Vận động những cá nhân và đoàn thể giúp đỡ Bình dân học vụ về cơ sở
vật chất (nơi mở lớp học, tiền mua sách học, học cụ, học phẩm…), về tinh
thần (đi thăm hỏi, động viên, khen thƣởng) cũng là công việc của giáo viên
Bình dân học vụ.
Trên thực tế, nếu làm tốt công tác vận động giáo viên tham gia xoá nạn
mù chữ thì càng vận động đƣợc nhiều ngƣời mù chữ đi học.
Về hình thức vận động giáo viên, ngoài việc tổ chức tốt các lớp huấn
luyện sƣ phạm, còn có những buổi dự lớp, dạy thực hành, rút kinh nghiệm và
thăm hỏi, giúp đỡ nhau khi ốm đau, bận việc. Các lớp học còn tổ chức đi tham
quan, thăm các di tích lịch sử, cắm trại, tổ chức sinh hoạt văn nghệ, vui
chơi…Những việc làm này vừa nâng cao năng lực của giáo viên, vừa tăng
tình cảm thân ái giữa các giáo viên, từ đó các giáo viên gắn bó với nhau, gắn
bó với học viên, gắn bó với sự nghiệp bình dân học vụ.
Các lớp học ngoài trời dần dần đƣợc cải tiến thành các “lớp hỏi chữ”.
Ban đầu việc hỏi có tính chất cơ động nhằm nhắc nhở, động viên những
ngƣời chƣa biết chữ đến các loại hình lớp bình dân học vụ. Về sau, với việc
47
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đẩy mạnh chiến dịch diệt dốt và triển khai hình thức này ở nông thôn, việc hỏi
chữ dần trở thành định kì vào những ngày lễ hay những ngày phiên chợ,
thống nhất cùng thời gian trong toàn xã hay toàn huyện, toàn tỉnh. Những
ngƣời nào đọc đƣợc các chữ viết ở trên các bảng dựng ở gần các bến đò, cổng
chợ, cổng làng, giếng nƣớc…thì các cán bộ bình dân học vụ mời đi qua
những cổng rộng rãi, trang trí đẹp, gọi là “cổng vinh quang” và những con
đƣờng ngắn, rộng rãi, lát gạch đá, khô ráo…để sang sông, vào chợ, về làng.
Ngƣợc lại, những ngƣời nào không đọc đƣợc chữ viết trên bảng thì bị giữ lại
để học, hoặc phải chui qua những cổng hẹp, thấp gọi là “cổng mù” và đi lại
trên những con đƣờng nhỏ, dài quanh co và lầy lội nếu trời mƣa sẽ vất vả và
mất nhiều thì giờ hơn.
Ở lớp hỏi chữ, có tranh châm biếm với những câu ca dao:
“Biết chữ, đi “Cổng Vinh quang”,
Không biết chữ, hãy đi sang “Cổng mù”
“Cô khoe cô đẹp, cô tươi,
Cô không biết chữ, cũng chui “Cổng mù”.
“Cổng mù”, thẹn lắm, cô ơi!”. [15, tr.53]
Qua nhiều lần bị hỏi chữ, nhiều ngƣời còn mù chữ cuối cùng cũng đến
lớp. Việc hỏi chữ có gây phiền phức, bực bội cho nhiều ngƣời, nhƣng ai cũng
thấy việc đi học để biết chữ là cần thiết nên công việc này cũng không bị chê
trách nhiều. Vả lại, đông đảo nhân dân, nhất là thanh, thiếu niên vốn yêu quí
Bình dân học vụ nên đã tích cực tham gia và hƣởng ứng các hình thức tổ chức
hỏi chữ.
Việc hỏi chữ này ít nhiều gây trở ngại đến sinh hoạt bình thƣờng và có
khi xúc phạm đến lòng tự trọng. Vì vậy, Nha Bình dân học vụ đã kịp thời uốn
nắn và quy định rõ trong một thông tƣ: “Chỉ yêu cầu những người qua lại đọc
48
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
được (chữ viết trên bảng) là đi ngay; nếu không đọc được, cần giữ lại để
tuyên truyền, giảng dạy thì không được giữ quá 5 phút, không được bắt quay
trở lại, cấm sang đò, vào chợ, hoặc bắt phạt tiền. Không được giữ lại Bộ đội,
tầu điện, đám rước…”. [15, tr.53]
Ty Bình dân học vụ đã tiến hành phân phát các loại sách giáo khoa và
sách phổ thông cho giáo viên và học viên. Sách giáo khoa có quyển Vần quốc
ngữ, Phương pháp và cách thức dạy vần quốc ngữ, sách tập đọc lớp sơ cấp
bình dân. Sách phổ thông có nhiều loại: Công dân giáo dục (Quốc dân đại
hội, Việt Nam độc lập, Thế nào là dân chủ cộng hoà? Quân chủ và dân chủ,
Phát xít là gì? Việt Nam độc lập diễn ca); sách sử và địa (Theo dọc sông
Hồng, Mười năm cỏ héo); khoa học (Ma trơi, Cầu đảo, Thiên lôi, Cóc phun
nước, Cầu vồng, Dọc ngang trời đất, Đầu máy xe lửa); sách vệ sinh (Quan
ôn, Ma thiêng nước độc, Ếch chữa mắt, Hung thần). Ngoài ra có một số
truyện (Ngày hội lớn, Diên Hồng, Nhựa máu,…). Một số quyển đƣợc viết
bằng văn vần, có minh hoạ nhiều hình, tranh và in chữ to để những ngƣời vừa
thoát nạn mù chữ dễ đọc, dễ hiểu, dễ thuộc và dễ nhớ, nên rất hấp dẫn ngƣời
đọc, đọc say sƣa và đọc tiếp những quyển sách khác.
Trên cơ sở những sách giáo khoa, phổ thông và giải trí do Nha Bình dân
học vụ phân phối và những quyển sách quyên thêm đƣợc, nhiều trƣờng đã
bƣớc đầu tổ chức đƣợc các thƣ viện bình dân, mở cửa cho các học viên bình
dân đến học và mƣợn sách báo, vào trƣớc hay sau các buổi học hàng ngày và
vào các ngày nghỉ, ngày lễ.
Ngày 1-5-1946, nhân dịp kỉ niệm chính thức lần đầu tiên ngày Quốc tế
lao động, những ngƣời làm công tác xoá nạn mù chữ của tỉnh đã nhận đƣợc
thƣ động viên của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bức thƣ có đoạn: “Anh chị em là
đội tiên phong trong sự nghiệp tiễu trừ giặc dốt. Anh chị em chịu cực khổ khó
nhọc, hy sinh phấn đấu, để mở mang tri thức phổ thông cho đồng bào, để xây
49
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đắp nền văn hoá sơ bộ cho dân tộc.
Anh chị em làm việc mà không hưởng lương bổng, thành công mà không
có tiếng tăm. Anh chị em là những người “vô danh anh hùng”. Tuy là vô
danh nhưng rất hữu ích. Một phần tương lai của dân tộc nước nhà nằm trong
sự cố gắng của anh chị em.
Tôi mong rằng trong một thời gian rất ngắn, lòng hăng hái và nỗ lực
của anh chị em sẽ có kết quả rất vẻ vang: đồng bào ta ai cũng biết đọc, biết
viết. Cái vinh dự đó thì tượng đồng, bia đá nào cũng không bằng…”
[36, tr.13].
Nhân dịp kỉ niệm một năm ngày thành lập ngành Bình dân học vụ 8-9-
1946, Ty Bình dân học vụ đã tổ chức nhiều hoạt động sôi nổi ở khắp các địa
phƣơng trong tỉnh, ngoài hình thức mít tinh còn tổ chức cắm trại, triển lãm,
họp bạn bình dân học vụ. Đây cũng là một dịp để tuyên truyền cổ động rất
mạnh mẽ cho Bình dân học vụ.
Trong những năm 1945-1946, phong trào xoá nạn mù chữ đã diễn ra sôi
nổi, thực sự trở thành phong trào quần chúng rộng lớn và đạt đƣợc thành tích
vẻ vang. Cùng với tổ chức đời sống mới, Bình dân học vụ đƣợc Tỉnh uỷ đánh
giá là ngành hoạt động mạnh nhất.
Đến cuối năm 1946, đã có 14.906 ngƣời từ 8 tuổi trở lên tham gia các
lớp bình dân học vụ và đƣợc công nhận thoát nạn mù chữ, chiếm 12,1% dân
số toàn tỉnh [19, tr.1]. Tiêu biểu là ở Phú Bình, Phổ Yên các làng xã đều dấy
lên phong trào thi đua “thắp đèn thâu đêm để học chữ quốc ngữ”. Chỉ sau hơn
một năm, từ 9-1945 đến cuối năm 1946, hàng nghìn ngƣời dân đã thoát khỏi
nạn mù chữ, hàng trăm cán bộ cơ sở từ chỗ chƣa biết đọc, biết viết, đã đọc
thông viết thạo, tích cực tham gia công tác kháng chiến, kiến quốc.
Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ (19-12-1946), thì công cuộc
50
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
xoá nạn mù chữ vẫn có vị trí quan trọng trong công cuộc kháng chiến, để
“vừa kháng chiến, vừa dựng lên một nền văn hoá mới”, “vừa kháng chiến,
vừa kiến quốc”.
Nha Bình dân học vụ đã cử một số cán bộ có nhiều kinh nghiệm về tỉnh
Thái Nguyên, vừa làm công tác tuyên truyền cổ động cho cuộc kháng chiến,
vừa truyền đạt cho cán bộ bình dân học vụ về chủ trƣơng mới của ngành để
tồn tại và phát triển trong hoàn cảnh có chiến tranh.
Xuất phát từ yêu cầu của cuộc kháng chiến và chăm lo đời sống cho
nhân dân, Ty Bình dân học vụ và các Ban Bình dân học vụ đƣợc củng cố và
tăng cƣờng. Hai ngành Thông tin và Bình dân học vụ đặt dƣới sự chỉ đạo
chung của Ban Tuyên huấn Đảng uỷ cùng cấp. Có nhiều công việc tuyên
truyền, hai cơ quan cùng làm chung, thậm chí có nơi một cán bộ phụ trách cả
hai mặt công tác này.
Để tuyên truyền về đƣờng lối kháng chiến, đồng thời phát triển hơn nữa
phong trào diệt dốt, Ty đã cử các ban cổ động đi dán khẩu hiệu ở những nơi
có đông ngƣời qua lại. Nhiều khẩu hiệu mới xuất hiện nhƣ:
- Mỗi lớp học là một tổ tuyên truyền kháng chiến!
- Đi học là kháng chiến!
- Vừa kháng chiến, vừa học tập!
- Mỗi giáo viên bình dân học vụ là một đội viên tuyên truyền kháng
chiến!
- Có biết chữ kháng chiến mới thắng lợi!
- Tiền tuyến diệt xâm lăng, hậu phƣơng diệt giặc dốt!
Để phong trào thực sự đạt hiệu quả, Ty chủ trƣơng đƣa lực lƣợng bình
dân học vụ về từng xã, từng huyện nhằm thanh toán triệt để nạn mù chữ trong
51
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
một thời gian ngắn.
Nhìn chung, từ tháng 1 đến tháng 10-1947, phong trào xoá mù chữ tiếp
tục phát triển mạnh, đòi hỏi phải tăng cƣờng lực lƣợng cán bộ và giáo viên
bình dân học vụ.
Thực hiện chỉ thị của Bộ Nội vụ, Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh
Thái Nguyên, các cán bộ bình dân học vụ điều động đi công tác khác nay
đƣợc chuyển về hoạt động cho ngành Bình dân học vụ, đồng thời giảm tạp
dịch cho giáo viên bình dân học vụ để phát triển phong trào.
Năm 1947, hàng ngàn ngƣời từ các tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ tản cƣ
lên Thái Nguyên, trong đó có rất nhiều ngƣời có trình độ văn hoá nhƣ học
sinh, sinh viên, thanh niên trí thức…đã tham gia vào công tác xoá nạn mù chữ
của địa phƣơng.
Thái Nguyên còn là nơi đặt các cơ quan đầu não của Đảng và Chính phủ,
các xí nghiệp quốc phòng và nhiều đơn vị quân chủ lực, nhiều công nhân, cán
bộ, bộ đội đã tự giác đăng kí làm giáo viên bình dân học vụ.
Bên cạnh đó, Ty Bình dân học vụ tiếp tục mở các lớp huấn luyện và đào
tạo giáo viên bình dân học vụ. Năm 1947, Ty mở đƣợc 15 lớp huấn luyện cho
giáo viên toàn tỉnh, lớp ít là 10 ngƣời và lớp nhiều nhất là 100 ngƣời. Ngoài
ra còn đào tạo cán bộ bình dân học vụ là ngƣời dân tộc thiểu số, để họ về tổ
chức các lớp học chữ trên những bản làng hẻo lánh vùng cao.
Năm 1947, số nam nữ giáo viên bình dân học vụ có 1.063 ngƣời, tăng
hơn so với năm 1946 là 430 ngƣời [22, tr.1].
Thực hiện khẩu hiệu “Học để kháng chiến” và “Đi học là kháng chiến”,
các học viên ngoài việc học văn hoá còn đƣợc sinh hoạt chính trị, nghe phổ
biến những bản tin chiến sự và thành tích kháng chiến ở các địa phƣơng.
Trƣớc khi vào buổi học, nhiều bài ca kháng chiến đƣợc thanh niên nam nữ vui
52
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hát lên, còn ngƣời lớn tuổi thì thiên về các bài vè, câu hò…Những lời bàn bạc
xung quanh chuyện mùa đông chiến sĩ, dân công, phá đƣờng…tạo nên sự
phấn khởi, hăng say học tập, công tác và phục vụ kháng chiến.
Không khí lớp học luôn vui vẻ và hào hứng, luôn tạo hứng thú cho ngƣời
dạy và ngƣời học. Giữa ngƣời dạy và ngƣời học, giữa những ngƣời cùng học
dần hình thành ý thức sinh hoạt tập thể, ý thức của ngƣời làm chủ đất nƣớc, từ
đó biết đoàn kết gắn bó nhau trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập tự do
của Tổ quốc.
Phát huy kết quả đạt đƣợc trong năm đầu xóa nạn mù chữ, nhân dân các
dân tộc tỉnh Thái Nguyên tích cực tham gia các lớp bình dân học vụ. Tính đến
thƣợng tuần tháng 10-1947, tức là trƣớc khi thực dân Pháp tấn công lên Việt
Bắc, toàn tỉnh đã mở đƣợc 1.120 lớp học với 23.810 học viên tham gia. Kết
quả đã thanh toán mù chữ cho 21.045 ngƣời, nâng tỉ lệ số ngƣời biết chữ
trong toàn tỉnh từ 12,1% năm 1946, lên 29,3% [22, tr.1].
Qua 2 năm đầu hoạt động (từ 9-1945 đến 9-1947), mặc dù trong hoàn
cảnh vô cùng khó khăn, phong trào xoá nạn mù chữ của tỉnh Thái Nguyên đã
thu đƣợc kết quả vô cùng to lớn. Thắng lợi bƣớc đầu trong phong trào thi đua
diệt “giặc dốt” không chỉ góp phần nâng cao trình độ hiểu biết của nhân dân,
mà còn có ý nghĩa to lớn về chính trị. Nó tạo điều kiện cho nhân dân lao động
tham gia ngày càng nhiều vào công việc quản lí Nhà nƣớc, phát huy vai trò
làm chủ của mình.
Trong thƣ gửi đồng bào cả nƣớc nhân dịp kỉ niệm ngày Quốc khánh 2-9-
1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khen ngợi thành tích của cán bộ, giáo viên và
học viên Bình dân học vụ: “Về văn hóa, ngoài việc xây dựng nền Trung học
và Đại học mới, đào tạo nhân tài, mở mang nghệ thuật, do sự khuyến khích
của Chính phủ và sự hăng hái của đồng bào, chúng ta đã phá tan các chính
53
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sách ngu dân của Pháp. Trong 2 năm, chúng ta đã dạy hơn 4 triệu đồng bào
nam nữ biết đọc biết viết và đã có nhiều làng, xã toàn dân đều biết chữ. Đó là
một thành tích vẻ vang, nhất là trong lúc cái gì cũng thiếu thốn” [35, tr.210].
Phong trào xoá nạn mù chữ đang phát triển, thu – đông 1947, giặc Pháp
mở cuộc tấn công lên căn cứ địa Việt Bắc. Trong hoàn cảnh trực tiếp phải
đƣơng đầu với thực dân Pháp xâm lƣợc, Ty Bình dân học vụ đã kịp thời
chuyển hƣớng, tiếp tục hoạt động trong hoàn cảnh cùng cả nƣớc có chiến
tranh và đã tích cực đóng góp sức ngƣời, sức của cho cuộc kháng chiến.
Phong trào xoá nạn mù chữ tạm thời lắng xuống, ở nhiều huyện các lớp học
phải đình chỉ hoạt động.
2.2.2. Từ năm 1947 đến năm 1950
Từ cuối năm 1947, tình hình có nhiều chuyển biến quan trọng. Thƣợng
tuần tháng 10 năm 1947, thực dân Pháp mở cuộc tấn công quân sự quy mô
lớn vào căn cứ địa Việt Bắc hòng tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến để
nhanh chóng kết thúc chiến tranh.
Sau khi quân Pháp nhảy dù đánh chiếm thị xã Bắc Kạn, thị trấn Chợ Mới
và huyện lị Chợ Đồn mở đầu cho cuộc hành Lêa (bƣớc I của chiến dịch tấn
công lên Việt Bắc), Tỉnh ủy, Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh Thái
Nguyên đã lãnh đạo nhân dân làm công tác “phá hoại – tiêu thổ kháng chiến”,
vận động nhân dân thực hiện “vườn không, nhà trống”, vận chuyển cơ quan,
kho tàng, gấp rút chuẩn bị kháng chiến.
Về phía địch, sau hơn một tháng mở cuộc tấn công quy mô lớn lên Việt
Bắc không đạt đƣợc kết quả mong muốn, chúng quyết định sử dụng lực lƣợng
tham gia cuộc hành quân Lêa cùng với Trung đoàn bộ binh Ma rốc số 5 và
Trung đoàn Côxtơ mở cuộc hành quân Xanh tuya để bao vây, càn quét khu tứ
54
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
giác Thái Nguyên – Tuyên Quang - Việt Trì - Phủ Lạng Thƣơng rộng hơn 8.000 km2 nhằm “Tiếp tục lùng bắt kì được cơ quan đầu não kháng chiến,
tiêu diệt chủ lực Việt Minh, phá hoại Căn cứ địa”. Hƣớng bao vây, càn quét
chính của cuộc hành quân Xanh tuya là Thái Nguyên.
Đêm 24-11-1947, từ thị trấn Chợ Mới, địch cho một trung đoàn xuống
chiếm đóng các khu vực Phố Ngữ, Quán Vuông (thuộc huyện Định Hoá).
Ngày hôm sau, từ Quán Vuông, địch hành quân càn quét lên chiếm đóng thị
trấn Chợ Chu và làm sân bay dã chiến ở cánh đồng Chợ Chu. Cùng ngày, địch
cho một tiểu đoàn tấn công qua Đồng Danh, làng Muồng càn vào các xã Tân
Dƣơng, Tân Thịnh (thuộc vùng Đông Bắc huyện Định Hoá).
Ngày 26-11-1947, tại huyện Võ Nhai, địch cho máy bay ném bom bắn
phá rồi cho quân chiếm đóng thị trấn La Hiên, xã Tràng Xá. Tại huyện Đại
Từ, địch cũng cho máy bay bắn phá rồi cho quân chiếm đóng các khu vực
làng Ngò (xã An Khánh) và Ba Gò (xã Cù Vân).
Cùng thời gian trên, từ Cầu Đuống (Hà Nội), một binh đoàn bộ binh do
Ghi rô chỉ huy chia làm hai mũi: Một mũi theo Đƣờng số 3 qua cầu Đa Phúc
lên đánh chiếm Phù Lôi (Thuận Thành), Thanh Xuyên (Trung Thành), Sơn
Cốt (Đắc Sơn)…thuộc huyện Phổ Yên; một mũi qua Phúc Yên, men theo
sƣờn núi Tam Đảo lên đánh chiếm vùng Tây Nam huyện Đại Từ. Với đợt tấn
công mới này, hàng nghìn quân Pháp đã toả ra chiếm đóng 32 điểm trên địa
bàn 7 huyện của tỉnh Thái Nguyên. Tại các địa bàn chiếm đóng, quân Pháp tổ
chức các cuộc hành quân càn quét tàn sát nhân dân, cƣớp bóc của cải, đốt phá
nhà cửa…
Trong suốt thời gian chiến sự diễn ra trên địa bàn, nhân dân các dân tộc
tỉnh Thái Nguyên phải trực tiếp làm nhiệm vụ chống quân xâm lƣợc. Nhiều
nam nữ giáo viên và học viên các lớp bình dân học vụ phải xếp bút nghiên lên
đƣờng chiến đấu hoặc tham gia phục vụ chiến đấu. Phong trào bình dân học
55
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
vụ vì vậy bị giảm sút, thậm chí ở nhiều nơi phong trào gần nhƣ tan rã.
Chỉ hai tháng sau, trƣớc sự phản công mạnh mẽ của quân ta, thực dân
Pháp đã phải rút hết quân khỏi Thái Nguyên vào ngày 21-12-1947. Quân
Pháp rút đến đâu thì các lớp học bình dân học vụ lại nhanh chóng đƣợc phục
hồi đến đó.
Từ sau thất bại trong cuộc tấn công lên căn cứ Việt Bắc, địch phải
chuyển sang đánh lâu dài với ta. Quân dân ta tiếp tục giành nhiều thắng lợi
trên mọi lĩnh vực. Trên mặt trận “diệt dốt”, nhân dân Thái Nguyên cũng đạt
đƣợc những thành tích to lớn.
Thực hiện chủ trƣơng của Đảng và lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, đầu năm 1948, Tỉnh uỷ và Uỷ ban kháng chiến hành chính
tỉnh Thái Nguyên đã phát động phong trào thi yêu nƣớc sâu rộng trong các
ngành, các giới. Chƣơng trình thi đua của các xã, các xƣởng máy…gắn liền
việc nâng mức sản xuất với việc học bình dân học vụ. Các cơ quan thi đua
làm tốt công tác và học tập chính trị, văn hoá. Các gia đình, cá nhân thi đua
tăng gia sản xuất, tham gia kháng chiến, mọi ngƣời đều biết chữ. Trong phong
trào thi đua ái quốc, xoá nạn mù chữ đƣợc coi là nhiệm vụ chung của mọi
ngành, mọi đơn vị, mọi ngƣời trong tỉnh. Tháng 7-1948, ngành Bình dân học
vụ cũng đƣa ra chƣơng trình thi đua diệt dốt, khẩu hiệu đƣợc nêu lên là
“Thanh toán nạn mù chữ từng đơn vị huyện và xã”.
Tháng 8-1948, cán bộ, giáo viên bình dân học vụ cả nƣớc nói chung và
tỉnh Thái Nguyên nói riêng vui mừng nhận đƣợc thƣ động viên của Chủ tịch
Hồ Chí Minh: “Các chiến sĩ nam nữ bình dân học vụ trước đã lập công nhiều.
Tôi mong rằng trong cuộc thi đua ái quốc, các chiến sĩ sẽ hăng hái xung
phong diệt cho hết giặc dốt. Anh chị em tiến lên, thắng lợi đang ở trước mắt
56
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chúng ta” [36, tr.18].
Đƣợc sự động viên của Ngƣời, phong trào thi đua diệt dốt đƣợc triển
khai mạnh mẽ trong toàn tỉnh. Khẩu hiệu thi đua đƣợc cụ thể hoá qua những
lời hứa hẹn, những quyết tâm thƣ:
- Quyết thực hiện chƣơng trình thanh toán nạn mù chữ trƣớc thời hạn!
- Quyết thực hiện toàn gia biết chữ!
- Quyết thi đua thanh toán nạn mù chữ toàn xã!
Những khẩu hiệu đã có từ trƣớc, nay tiếp tục đƣợc sử dụng vào mục đích
tuyên truyền, vận động:
- Một ngƣời biết chữ là một viên đạn bắn vào quân thù!
- Chống giặc đói, chống giặc dốt, chống giặc ngoại xâm!
Công tác tuyên truyền cổ động đã tạo ra khí thế diệt giặc dốt sôi nổi, hào
hùng ở khắp các địa phƣơng trong tỉnh, nhất là các vùng nông thôn.
Trong phong trào thi đua diệt dốt, Hội đồng nhân dân các cấp có vai trò
quan trọng, kịp thời khen ngợi, biểu dƣơng những huyện, xã và cá nhân có
thành tích cao, phê phán nhƣng địa phƣơng có phong trào hoạt động yếu kém.
Các nghị quyết của Hội đồng nhân dân đều có phần ghi về công tác bình dân
học vụ và trở thành chƣơng trình, kế hoạch hành động của Uỷ ban kháng
chiến hành chính địa phƣơng.
Ở nhiều nơi trong tỉnh, phong trào vận động làm trƣờng công cộng và
giúp đỡ giáo viên bình dân học vụ đã đƣợc đông đảo nhân dân và học viên
tham gia. Nhiều phòng học lợp ngói hoặc lợp tranh đẹp đẽ, rộng rãi đã đƣợc
dựng lên, nhiều tuần lễ “biết ơn giáo viên” đƣợc tổ chức. Vào vụ gặt, vụ cấy,
các học viên đến giúp đỡ giáo viên. Tình cảm giữa ngƣời dạy và ngƣời học
càng thêm gần gũi và gắn bó, tạo động lực thúc đẩy những đợt mới của chiến
57
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
dịch thanh toán nạn mù chữ.
Ty Bình dân học vụ đã mở các lớp huấn luyện và đào tạo gần 100 giáo
viên cho các huyện Đồng Hỷ, Phú Bình, Đại Từ và Định Hoá; tổ chức đƣợc
16 lớp sƣ phạm cho 808 giáo viên nam nữ. Ngoài ra, Ty còn in thơ khuyến
khích bình dân học vụ để gửi cho cán bộ bình dân học vụ các cấp trong toàn
tỉnh, phổ biến các tài liệu tuyên truyền. Đặc biệt, Ty đã thành lập xong Uỷ
ban vận động bình dân học vụ ở hầu hết các xã trong tỉnh.
Tại Võ Nhai, ngay sau khi quân Pháp rút chạy, đƣợc sự quan tâm của
các cấp bộ Đảng và chính quyền, phong trào lại nhanh chóng đƣợc khôi phục.
Tính đến tháng 2-1948, ngành Bình dân học vụ Võ Nhai đã tổ chức đƣợc 69
lớp (trong đó có 52 lớp công, 17 lớp tƣ gia), với 77 giáo viên và 676 học viên.
Ở huyện Phổ Yên, tháng 3-1948, Ban Bình dân học vụ đã tổ chức đƣợc 3
ngày diệt dốt, sau đó lại tổ chức đƣợc 3 cuộc mít tinh khuyến học. Trong các
lớp học có rất nhiều học viên trên 50 tuổi.
Cùng thời gian trên, huyện Đại Từ đã tổ chức đƣợc các chặng hỏi chữ ở
tất cả các chợ. Đến tháng 4-1948, số ngƣời mù chữ toàn huyện chỉ còn 10.830
ngƣời trên tổng số 28.400 dân số toàn huyện, bằng 38,1%; trong đó có 4.523
nam và 6.307 nữ [48, tr.1].
Phát huy thắng lợi phong trào “diệt giặc dốt”, khắp nơi trong huyện Phú
Bình dấy lên phong trào “Toàn dân quyết tâm thanh toán nạn mù chữ”. Các
lớp bình dân học vụ đƣợc mở ở khắp các xã, thôn, thu hút nhiều tầng lớp và
lứa tuổi tham gia. Đến giữa năm 1948, toàn huyện mở đƣợc 231 lớp học bình
dân học vụ, với tổng số 3.432 học viên và 231 giáo viên [48, tr.1].
Ở các huyện miền núi, đồng bào các dân tộc ít ngƣời cũng nhiệt tình
hƣởng ứng phong trào bình dân học vụ, tự động mở lớp học, nhƣ ngƣời Dao,
Cao Lan ở Định Hoá. Toàn tỉnh đã có 4 xã là Đồng Tiến, Đồng Mỗ, Hoàng
58
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Long, Yên Mô, không kể các thôn, xóm lẻ đã thoát nạn mù chữ [47, tr.1].
Tình hình lớp học bình dân học vụ ở các huyện tháng 6-1948 [48, tr.1].
Địa Lớp học Giáo Học
phƣơng Công cộng Tƣ gia Tổng cộng viên viên
Đại Từ 220 144 364 337 4.642
Đồng Hỷ 102 171 323 176 2.849
Định Hoá 103 66 189 169 1.659
Phổ Yên 122 22 146 137 2.097
Phú Bình 151 80 231 231 3.432
Phú Lƣơng 122 12 134 127 1.816
Võ Nhai 52 17 69 77 676
Tính chung trong toàn tỉnh, đến cuối năm 1948, ở bậc sơ cấp có 1.708
lớp học, với 1.781 giáo viên. Kết quả có 26.026 ngƣời từ 8 tuổi trở lên đƣợc
xoá mù chữ. So với năm 1947, tỉ lệ số ngƣời đƣợc xoá mù chữ tăng lên nhanh
chóng từ 29,3%, lên 50,5% (61.977 ngƣời) [22, tr.1].
Đầu năm 1948, Nha Bình dân học vụ đã đề ra tiêu chuẩn phân loại trình
độ học viên cần học ở các lớp bình dân học vụ nhƣ sau:
1. Xếp vào loại cần học sơ cấp
- Chƣa biết viết
- Đang học vần
- Vừa đọc, viết, vừa đánh vần
- Đọc viết ngắc ngứa, còn sai nhiều
- Đang tập chép.
2. Xếp vào loại cần học dự bị
59
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Đọc chữ và viết còn chậm, nhƣng không phải đánh vần.
- Viết đƣợc chính tả nhƣng còn chậm, không vừa viết vừa đánh vần
đƣợc.
- Biết đọc viết số, hoặc đã làm đƣợc tính cộng trừ dễ.
Các đối tƣợng khác, tuỳ theo mức độ đọc thông viết thạo mà có thể xếp
vào lớp 1 bổ túc hoặc cao hơn.
Dựa vào các tiêu chuẩn trên, Ty Bình dân học vụ đã chỉ đạo các huyện,
xã tiến hành điều tra để phân loại đối tƣợng cần học ở các lớp. Sau đó Ban
Bình dân học vụ tổ chức các lớp Dự bị bình dân cho ngƣời mới đƣợc xoá nạn
mù chữ biết đọc, biết viết chắc chắn và nâng cao trình độ văn hoá cho họ.
Lớp Dự bị bình dân có mục đích củng cố kết quả xoá mù chữ, cung cấp
thêm kiến thức cho học viên, nhƣ lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thƣ
gửi cán bộ giáo viên bình dân học vụ nhân dịp ngày Quốc khánh 2-9-1948:
“Vùng nào đã hết nạn mù chữ thì các bạn thi đua để tiến lên một bước nữa,
bằng cách dạy cho đồng bào:
1. Thường thức vệ sinh để dân bớt đau ốm.
2. Thường thức khoa học để dân bớt mê tín nhảm.
3. Bốn phép tính để làm ăn quen ngăn nắp.
4. Lịch sử và địa dư nước ta (bằng thơ ca) để nâng cao lòng yêu nước.
5. Đạo đức của công dân để thành người công dân đứng đắn” [36, tr.19]
Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh hƣớng dẫn việc xây dựng nội dung
chƣơng trình lớp Dự bị bình dân. Thời gian hoàn thành chƣơng trình là bốn
tháng, mỗi tuần học hai buổi, mỗi buổi học hai giờ. Nha Bình dân học vụ soạn
sách giáo khoa về các môn lớp Dự bị, kèm theo tài liệu huấn luyện và “Cẩm
nang giáo viên Dự bị bình dân” để giúp giáo viên tự bồi dƣỡng về nghiệp vụ.
Để chuẩn bị tổ chức bậc học Dự bị bình dân, Ty Bình dân học vụ Thái
60
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Nguyên bắt đầu huấn luyện giáo viên bậc Dự bị. Ngoài ra, Ty đã chủ động
biên soạn những sách phổ thông có nội dung về kiến thức Sử, Địa, kháng
chiến của địa phƣơng bổ sung vào chƣơng trình bậc Dự bị bình dân.
Bƣớc sang năm 1949, Ty Bình dân học vụ tiếp tục phát động phong trào
thi đua diệt dốt. Ty còn tiến hành in và bán đƣợc 2.500 quyển sách giáo khoa
các loại nhƣ: Tiểu sử ô ly, Danh từ toán học, Danh từ khoa học, Danh từ pháp
ngữ; phát đƣợc 20.000 truyền đơn, 3.000 khẩu hiệu tuyên truyền, 2.000 khẩu
hiệu đƣợc kẻ khắp các thôn xóm, tổ chức đƣợc 600 chặng hỏi chữ có 30.000
ngƣời qua lại …Ngoài ra, Ty còn mở đƣợc 200 lớp huấn luyện để đào tạo
giáo viên Sơ cấp và Dự bị [50, tr.1].
Năm 1949, ở bậc sơ cấp có 1067 lớp học với 1519 giáo viên. Ở bậc Dự
bị, so với đầu năm 1949, số lớp tăng từ 48 lên 117 lớp, giáo viên tăng từ 76
lên 221 ngƣời, số học viên tăng từ 1.121 lên 3.350 ngƣời. Kết quả có 19.703
ngƣời từ 8 tuổi trở lên đƣợc xoá mù chữ. Nhƣ vậy, đến cuối năm 1949, tổng
số ngƣời thoát nạn mù chữ trong tỉnh là 81.680 ngƣời, so với số dân trong tỉnh
(từ 8 tuổi trở lên) đạt 66,6% [22, tr.1]. Riêng huyện Phổ Yên và Phú Bình đạt
tỉ lệ 80%. Đặc biệt, nhiều ngƣời là dân tộc thiểu số sống ở vùng có hoàn cảnh
khó khăn đã thoát nạn mù chữ; xã Tân Thái (Đại Từ) có 220 ngƣời là Mán
Sơn đầu, thôn Tân Kim – xã Thƣợng Nung (Võ Nhai) có 108 ngƣời Mán Tiền
và thôn Đông Muộn – xã Phúc Thuận (Phổ Yên) có 52 ngƣời Mán Sơn đầu
[50, tr.2].
Năm 1950, ngành giáo dục tiến hành một cuộc vận động cải cách giáo
dục. Để thực hiện những nội dung của cuộc vận động cải cách giáo dục, bộ
máy làm công tác xoá nạn mù chữ đƣợc kiện toàn. Ty Bình dân học vụ đƣợc
đổi thành Ty Bổ túc văn hoá. Hệ thống tổ chức ở cơ sở đƣợc khôi phục, kiện
toàn và đôn đốc hoạt động.
Thời gian này, công tác vận động những ngƣời chƣa biết chữ đi học bắt
61
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đầu có những khó khăn mới. Những ngƣời hăng hái và có điều kiện hơn đã đi
học từ những năm trƣớc, còn lại phần rất đông là những ngƣời thiếu tinh thần,
ngƣời cao tuổi, phụ nữ có con mọn, gia đình quá khó khăn, đồng bào ngƣời
Dao, Trại…sống rải rác. Vì vậy, phong trào xoá nạn mù chữ không đƣợc sôi
nổi, rầm rộ nhƣ những ngày đầu sau Cách mạng tháng Tám.
Tuy nhiên, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, giáo viên bình dân học vụ
đƣợc Đảng bộ và chính quyền các cấp quan tâm, coi đó là một mặt công tác
quan trọng của tỉnh. Tính đến giữa năm 1950, ngành Bình dân học vụ đã mở
thêm 17 lớp huấn luyện giáo viên; trong đó có 5 lớp huấn luyện 122 giáo viên
Sơ cấp trong thời gian 44 ngày, 5 lớp huấn luyện trong 66 ngày cho 146 giáo
viên bậc Dự bị, 7 lớp huấn luyện ngắn ngày (từ 7 đến 15 ngày) cho 120 giáo
viên Sơ cấp và 192 giáo viên bậc Dự bị [52, tr.3]. Tháng 8-1950, tỉnh đã mở
đƣợc một lớp đào tạo 25 anh em thƣơng binh làm giáo viên để thay thế cho
giáo viên khoẻ mạnh đi tòng quân. Ty còn vận động các học sinh lớp 4 tiểu
học và nhân viên các cơ quan làm giáo viên dạy các lớp dự bị bình dân. Sáng
kiến này dần đƣợc áp dụng phổ biến ở các huyện. Hội nghị rèn cán chỉnh cơ
do Tỉnh tổ chức trong 5 ngày đã thu hút 300 giáo viên bình dân học vụ và
giáo viên các ngành khác đến dự. Qua hội nghị, mọi ngƣời đều nhận rõ
khuyết điểm và nhƣợc điểm của mình, thấy sự cần thiết phải học tập để cải
tạo tƣ tƣởng và con ngƣời cho hợp với trào lƣu mới.
Trong những tháng cuối năm, mặc dù ảnh hƣởng của tình hình chiến sự,
ngành bình dân học vụ đã thành lập các phái đoàn xuống xã, củng cố Ban
Bình dân xã và động viên dân chúng đi học. Thành công nhất là đã mở đƣợc
một chiến dịch thanh toán nạn mù chữ ở một số xã thuộc hai huyện là Đồng
Hỷ và Đại Từ. Huyện Đại Từ đã thành lập đƣợc 10 đoàn trợ lực xuống các xã,
đã thanh toán nạn mù chữ cho 3 xã, 2 thôn. Phong trào bình dân học vụ trong
giới phụ nữ đƣợc đẩy mạnh, nhiều phụ nữ đã xung phong dạy lớp bình dân
62
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
học vụ. Tại Đồng Hỷ, các đoàn trợ lực xuống các xã ghi tên những ngƣời còn
mù chữ và động viên họ đi học. Kết quả của chiến dịch là động viên đƣợc
hàng ngàn ngƣời đi học, trong đó có 581 phụ nữ.
Ở huyện Phổ Yên, các đoàn trợ lực xuống các xã để giúp đỡ mở các lớp
tƣ gia. Huyện Định Hoá cũng mở đƣợc một tuần lễ kiểm soát ngƣời mù chữ
tại các cổng chợ và đầu mối giao thông. Ngoài ra, Ty Bình dân học vụ còn mở
lớp huấn luyện thƣơng binh dạy học và vận động dân nuôi các giáo viên là
thƣơng binh. Một số huyện có sáng kiến cấp ruộng công của xã cho giáo viên
bình dân học vụ cày cấy, để họ đỡ khó khăn và nhiệt tình công tác.
Phong trào xoá nạn mù chữ tiếp tục có những chuyển biến mới, ngay
những tháng đầu năm 1950 đã thanh toán thêm đƣợc một số xã và thôn, nhƣ:
xã Phú Cát (Đại Từ), xã Dân Chủ (Đồng Hỷ), xã Phấn Mễ và thôn Đồng
Lƣơng thuộc xã Động Đạt (Phú Lƣơng). Đặc biệt, phong trào tự học trong
nhân dân bắt đầu lên cao, ở các xã và các cơ quan đều có nhóm học tập. Tiêu
biểu là xã Thƣợng Đình (Phú Bình), tất cả các thôn, xóm đều có nhóm học tập
sinh hoạt rất đều đặn và đầy đủ.
Năm 1950, tuy chƣa thực hiện đƣợc kế hoạch đề ra, nhƣng ngành Bổ túc
văn hoá cũng đã tổ chức đƣợc 542 lớp xoá mù chữ, kết quả là 6.315 ngƣời
thoát nạn mù chữ, nâng tỷ lệ số ngƣời biết chữ trong toàn tỉnh lên 71,7%
[22, tr.1].
Nhiều ngƣời sau khi học xong lớp Sơ cấp lại tiếp tục học lớp Dự bị bình
dân để thoát nạn mù chữ một cách chắc chắn và có kiến thức thƣờng dùng
phục vụ kháng chiến, nâng cao đời sống văn hoá. Trong những tháng đầu
1950, hàng trăm lớp Dự bị bình dân đƣợc mở ở các huyện, tiêu biểu nhƣ ở
Phú Bình mở đƣợc 75 lớp, Đại Từ 62 lớp, Phổ Yên 59 lớp, Đồng Hỷ 25
lớp,… [51, tr.2]. Đến tháng 6-1950, số lớp Dự bị đã tăng lên 265 lớp với 272
giáo viên và 5.457 học viên tham gia. [52, tr.5]. Mặc dù bậc Dự bị bình dân
63
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mới chỉ đáp ứng đƣợc 1/15 nhu cầu cho số ngƣời đã thoát nạn mù chữ từ
trƣớc tới nay (87.995 ngƣời), nhƣng đã có tác dụng quan trọng về mặt nâng
cao kiến thức cũng nhƣ về mặt phục vụ kháng chiến cho các học viên.
Đến cuối năm 1950, cao trào thi đua diệt giặc dốt đã giành thắng lợi to
lớn. Cả nƣớc đã có hơn 10 triệu ngƣời thoát nạn mù chữ, riêng tỉnh Thái
Nguyên có 87.995 ngƣời. 2 huyện Phổ Yên, Phú Bình cùng với 27 xã và 12
thôn của các huyện khác đƣợc công nhận hoàn thành thanh toán nạn mù chữ.
Kết quả xoá nạn mù chữ ở Thái Nguyên từ 1946 đến 1950 [22, tr.1].
Năm
Số lớp Giáo viên
Đã thanh toán % dân số
Chƣa thanh toán
1946
704 633 14.906 12,1 107.795
1947
1120 1063 21.045 29,3 86.750
1948
1708 1781 26.026 55,5 60.724
1949
1267 1230 19.703 66,6 41.021
1950
807 695 6.315 71,7 34.706
Nhƣ vậy, sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, thực hiện Chỉ thị
“Kháng chiến - kiến quốc” của Trung ƣơng Đảng, nhân dân tỉnh Thái Nguyên
đã từng bƣớc vƣợt qua tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” và giành đƣợc những
thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực mà tiêu biểu nhất là xoá nạn mù chữ.
Dƣới chế độ mới, nhân dân tỉnh Thái Nguyên phấn khởi nô nức tham gia
phong trào xoá nạn mù chữ do Chính phủ phát động. Sau 5 năm, số ngƣời
thoát nạn mù chữ đã tăng từ 12,1% lên 71,7% dân số toàn tỉnh. Đây là thành
tích to lớn của ngành Bình dân học vụ tỉnh Thái Nguyên.
Trên cơ sở những thành tích đã đạt đƣợc trong công tác xoá nạn mù chữ,
đầu năm 1951, Nha Bình dân học vụ đã đƣợc Chính phủ thƣởng Huân chƣơng
kháng chiến - Đây là phần thƣởng vinh dự cho ngành Bình dân học vụ, trong
64
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đó có đóng góp to lớn của Ty Bình dân học vụ Thái Nguyên. Nhân dịp này,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thƣ cho cán bộ, giáo viên bình dân học vụ, trong
đó nhấn mạnh: “Đó là một khen thưởng rất xứng đáng, cũng là một khen
thưởng chung:
- Cho tất cả nam nữ cán bộ trong nước và ngoài nước đã có công trên
mặt trận diệt giặc dốt.
- Cho tất cả các vị phụ lão và thân sĩ đã ủng hộ bình dân học vụ”
[35, tr.28].
Thành tích của ngành Bình dân học vụ đã góp phần quan trọng vào thắng
lợi trên mặt trận quân sự, đƣa cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta
sang một giai đoạn mới, đồng thời công cuộc chống nạn mù chữ cũng chuyển
vào thời kì song song tiến hành 2 mặt công tác: tiếp tục công cuộc chống nạn
mù chữ và tổ chức việc bổ túc văn hoá cho những ngƣời đã thoát nạn mù chữ.
Trong đó, công cuộc thanh toán nạn mù chữ tiếp tục gặt hái thêm những thắng
65
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
lợi mới.
CHƢƠNG 3
CÔNG CUỘC VẬN ĐỘNG XOÁ MÙ CHỮ Ở THÁI NGUYÊN
TRONG NHỮNG NĂM 1951 – 1954
3.1. Khái quát tình hình Thái Nguyên từ 1951 – 1954
Từ năm 1951, thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái
Nguyên lần thứ IV (4-1951) nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên tập trung
khôi phục, phát triển kinh tế, xã hội, ổn định đời sống, bồi dƣỡng lực lƣợng
kháng chiến, chi viện chiến trƣờng.
Về kinh tế, Đảng bộ Thái Nguyên lãnh đạo nhân dân thực hiện chính
sách giảm tô và tạm cấp ruộng đất thu đƣợc nhiều thắng lợi to lớn, đem lại
quyền lợi cho nông dân, đặc biệt là nông dân nghèo.
Tháng 11-1952, hai xã Đồng Bẩm và Dân Chủ (huyện Đồng Hỷ) đƣợc
Trung ƣơng Đảng chọn làm nơi thí điểm thực hiện chính sách ruộng đất. Tiếp
đó, Trung ƣơng chọn thêm 4 xã: Phúc Xuân (Đồng Hỷ), Hùng Sơn (Đại Từ),
Đức Liên và Nhã Lộng (Phú Bình) cùng với 2 xã Đồng Bẩm, Dân Chủ (Đồng
Hỷ) đã làm thí điểm đợt trƣớc, tiếp tục thực hiện thí điểm triệt để giảm tô. Sau
3 tháng thực hiện thí điểm triệt để giảm tô ở 6 xã, hơn 1.819 mẫu ruộng, đất
đã đƣợc giảm tô. Hơn 4.070 hộ gia đình nông dân đã đƣợc thoái tô với số thóc
gần 406 tấn; 944 hộ gia đình nông dân với 3.645 nhân khẩu đã đƣợc chia
ruộng đất. Nông dân phấn khởi gia nhập nông hội, hăng hái thi đua lao động
sản xuất và tích cực đóng góp sức ngƣời sức của cho kháng chiến.
Từ cuối năm 1953, tỉnh Thái Nguyên tiếp tục thực hiện chính sách giảm
tô và đồng thời tiến hành đợt thí điểm cải cách ruộng đất ở 6 xã thuộc huyện
Đại Từ do Trung ƣơng Đảng trực tiếp chỉ đạo. Từ tháng 4-1954, khi Chiến
dịch Điện Biên Phủ sắp kết thúc thắng lợi, tỉnh Thái Nguyên bắt đầu tiến hành
66
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cải cách ruộng đất đợt I ở 47 xã thuộc các huyện Đại Từ, Đồng Hỷ, Phú Bình,
Phổ Yên. 200 cán bộ đƣợc Tỉnh huy động đi làm công tác cải cách ruộng đất.
Kết quả, hơn 24.000 mẫu ruộng và hơn 24.000 con trâu, bò, 798 ngôi nhà và
trên 139 tấn thóc của địa chủ đã đƣợc tịch thu, trƣng thu, trƣng mua, chia cho
868 hộ nông dân nghèo. Sau cải cách ruộng đất, giai cấp địa chủ đã hoàn toàn
bị đánh đổ, nông dân đã thực sự trở thành ngƣời làm chủ nông thôn.
Nhân dân Thái Nguyên ngoài việc hƣởng ứng cuộc vận động giảm tô,
cải cách ruộng đất còn hăng hái đi dân công sửa chữa các công trình thuỷ lợi,
đƣờng giao thông, và đặc biệt là vận chuyển lƣơng thực, thực phẩm, thuốc
men, đạn dƣợc… phục vụ cho kháng chiến.
Từ cuối năm 1950 đến khi chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi,
nhân dân Thái Nguyên đã huy động hàng chục ngàn dân công sửa chữa cầu,
đƣờng và đóng góp gần 300 ngàn ngày công vận chuyển lƣơng thực, thực
phẩm và súng đạn phục vụ chiến dịch [11, tr.4].
Do phải tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm nhƣ giảm tô, cải cách
ruộng đất, đi dân công sửa chữa cầu đƣờng, phục vụ chiến đấu… nên ít nhiều
ảnh hƣởng đến phong trào xoá nạn mù chữ.
Đầu năm 1951, Đảng ban hành chính sách nông thôn, trong đó chủ
trƣơng về văn hoá là tích cực bồi dƣỡng cán bộ công nông đã đƣợc rèn luyện
trong ngọn lửa cách mạng, mạnh dạn đƣa nông dân vào các vị trí lãnh đạo
then chốt của chính quyền các cấp, nhất là ở cơ sở, phải tìm mọi cách giúp đỡ
nông dân đƣợc học văn hoá để có đủ năng lực lãnh đạo.
Nha Bình dân học vụ cùng Ban liên lạc nông dân toàn quốc đề ra chỉ thị
chung, phối hợp công tác của nông hội với việc đẩy mạnh công tác giáo dục
văn hoá cho nông dân. Ngày 15-7-1952, Ban liên lạc nông dân toàn quốc chỉ
thị cho các cấp của Hội, thực hiện chủ trƣơng xây dựng lớp bình dân học vụ
67
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trên cơ sở Nông hội. Chỉ thị ghi rõ các hội viên còn mù chữ phải nhanh chóng
đi học cho biết chữ, nông dân đã thoát mù chữ cần học tiếp các lớp dự bị bình
dân. Cũng theo chỉ thị này, Nông hội phụ trách việc vận động ngƣời đi học, tổ
chức trƣờng lớp, cử giáo viên, sắp xếp thời giờ học cho phù hợp, kết hợp học
tập với sản xuất và các công tác kháng chiến khác.
Việc phối hợp cùng công tác với Nông hội có tác dụng rất tốt với Bình
dân học vụ, nâng cao nhận thức của cán bộ, giáo viên về tính giai cấp của
Bình dân học vụ và là bƣớc chuẩn bị tốt cho Bình dân học vụ đi vào cuộc phát
động quần chúng cải cách ruộng đất sắp tới.
Đầu năm 1952, Chính phủ chủ trƣơng thực hiện cuộc Vận động sản xuất
và tiết kiệm trong cả nƣớc. Tất cả các ngành đều có trách nhiệm thúc đẩy cuộc
vận động này bằng hai công tác. Một là giáo dục tƣ tƣởng, nâng cao ý thức
chính trị trong thi đua sản xuất, tiết kiệm và hai là tích cực kết hợp công tác
của ngành, góp phần thúc đẩy kinh tế nông nghiệp, ngành quan trọng nhất
trong sản xuất lúc đó, phát triển kịp với yêu cầu của kháng chiến.
Đây chính là những điều kiện thuận lợi lợi thúc đẩy phong trào xoá nạn
mù chữ của nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên tiếp tục phát triển.
3.2. Cuộc vận động xoá nạn mù chữ
Trong hoàn cảnh thuận lợi mới, đƣợc sự quan tâm, động viên của Đảng,
Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong trào xoá nạn mù chữ từ 1951 tiếp
tục phát triển và có nhiều nét mới.
Ngoài việc xoá mù chữ cho học viên, các giáo viên bình dân học vụ còn
đƣa chính sách thuế nông nghiệp, sản xuất, tiết kiệm hay dân công vào nội
dung bài giảng. Mỗi lớp bình dân học vụ là một nơi phổ biến chủ trƣơng, mỗi
giáo viên, học viên là một ngƣời tuyên truyền và thực hiện sản xuất, tiết kiệm.
Các cơ sở Nông hội cũng tích cực xây dựng bình dân học vụ, vận động nông
68
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
dân đi học các lớp Sơ cấp và Dự bị bình dân.
Tài liệu giảng dạy cũng đƣợc biên soạn lại theo hƣớng bổ sung những
nội dung phục vụ cho nhiệm vụ trọng tâm của địa phƣơng, thiết thực phục vụ
cho sự phát triển của cuộc kháng chiến toàn dân và trên các mặt trận quân sự,
chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá…
Bài tập chép sau đây ở một lớp dự bị là một thí dụ:
Đồng bào xóm Cọc Cùng nhau thách thức
Vừa học vừa làm Vượt mức thi đua
Giờ học thì ham Cấy lúa trồng ngô
Giờ làm gắng sức Cũng là kháng chiến.
Sách Tập bài Dự bị bổ túc ấn hành năm 1952 có những bài soạn theo
chủ điểm: Vận động sản xuất và tiết kiệm.
Ví dụ: Tập làm văn: Điền một phần câu để làm câu đủ nghĩa:
1. Giặc Pháp bị thua to tìm cách phá hoại … (mùa màng – kinh tế của ta)
2. Để chống lại âm mƣu của giặc có thể gây ra nạn đói, nhân dân … (tích
cực tăng gia sản xuất và tiết kiệm).
3. Hoa màu năm nay tăng nhiều nhờ nhân dân đã triệt để thi hành
…(chính sách sản xuất và tiết kiệm của Chính phủ). [45, tr.102]
Mặc dù cán bộ phải tập trung đi làm công tác trọng tâm, Ty Bổ túc văn
hoá vẫn tiến hành biên soạn tài liệu dạy chính tả, tập đọc, tập làm văn, làm
phép tính để cấp phát kịp thời cho các giáo viên và học viên. Nội dung các
cuốn sách này nhằm tuyên truyền cho công tác sản xuất, tiết kiệm, công trái
quốc gia và đi dân công.
Trong các đoàn dân công ở các công trƣờng hay dân công vận tải, các
lớp học bình dân đƣợc mở ra. Học viên và giáo viên là đồng đội, đồng chí.
Học ở mọi nơi, mọi lúc, học trên đƣờng hành quân, khi tạm dừng chân giữa
69
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
rừng, bên suối. Tranh thủ học những lúc nghỉ ngơi, học ban ngày để đến đêm
đốt đuốc lên đƣờng. Trong hoàn cảnh đặc biệt ấy, việc học đƣợc tiến hành
một cách tự nhiên, mỗi ngày một vài chữ và rất nhiều ngƣời tới một lúc nào
đó đã đọc và viết đƣợc chữ quốc ngữ.
Thái Nguyên là một tỉnh miền núi, lại là trung tâm của Căn cứ địa kháng
chiến của cả nƣớc – nơi mà chủ yếu là bà con ngƣời dân tộc thiểu số sinh
sống, nên việc tổ chức dạy chữ quốc ngữ cho đồng bào các dân tộc là một mặt
quan trọng của công tác xây dựng và bảo vệ căn cứ địa kháng chiến.
Mặc dù nguồn ngân sách của tỉnh còn rất hạn chế, nhƣng năm 1951, Uỷ
ban kháng chiến - hành chính tỉnh đã quyết định cấp cho ngành Bình dân học
vụ 60.000 đồng bạc để trợ cấp cho giáo viên xung phong đi dạy ở các huyện
miền núi khó khăn, cấp 100.000 đồng bạc để thực hiện chƣơng trình huấn
luyện cán bộ và giáo viên bình dân học vụ [20, tr.1].
Công tác huấn luyện và đào tạo giáo viên tiếp tục đƣợc tỉnh quan tâm
nhằm duy trì và nâng cao chất lƣợng phong trào “diệt dốt”. Năm 1951, tỉnh
đã tổ chức huấn luyện đƣợc 240 giáo viên sơ cấp và 146 giáo viên dự bị, đào
tạo thêm 209 giáo viên; trong đó có 66 giáo viên nữ, 20 giáo viên là ngƣời
Dao, Trại, 51 giáo viên thƣơng binh và 29 cán bộ xã [54, tr.2].
Chủ trƣơng của tỉnh trong 6 tháng đầu năm 1951, sẽ thanh toán ở bậc Sơ
cấp cho nhân dân 4 huyện phía Bắc là Đại Từ, Đồng Hỷ, Phú Lƣơng, Võ Nhai
và 4 xã của huyện Định Hoá. Bậc Dự bị, tỉnh chủ trƣơng ở huyện Phổ Yên,
Phú Bình mỗi thôn mở một lớp, các huyện khác mỗi xã một lớp và 20% số
70
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngƣời biết chữ phải đi học lớp dự bị [20, tr.3].
Bảng thống kê kết quả xoá nạn mù chữ ở các huyện năm 1951 [54, tr.2]
Tên huyện Dân số từ 8 tuổi Dân số biết chữ Dân số mù chữ
Đồng Hỷ 24.099 18.209 5.890
Phú Bình 24.604 17.459 7.145
Phổ Yên 21.656 14.276 7.380
Phú Lƣơng 9.964 6.640 3.324
Định Hoá 14.504 8.205 6.299
Võ Nhai 7.921 5.419 2.502
Đại Từ 19.853 15.091 4.762
Số ngƣời thoát nạn mù chữ năm 1951 tăng 1.696 ngƣời so với năm 1950,
nâng tỉ lệ số ngƣời biết đọc, biết viết từ 8 tuổi trở lên đạt 73,1%. Đến cuối
năm 1952, 44 xã vùng thấp của Thái Nguyên đã hoàn thành thanh toán nạn
mù chữ [54, tr.2]. Năm 1952, Ty Bổ túc văn hoá tiếp tục mở các lớp bậc Sơ
cấp và bậc Dự bị, kết quả đã xoá nạn mù chữ cho 1.208 ngƣời, nâng tỉ lệ số
ngƣời biết chữ trong toàn tỉnh lên 74,1%.
Ở nhiều huyện miền núi, ngoài những lớp do Ty Bổ túc văn hoá trực tiếp
tổ chức theo một kế hoạch chỉ đạo chung của ngành, còn có hàng loạt lớp
bình dân học vụ không thể thống kê đƣợc, do các cơ quan, nhà máy, đơn vị bộ
đội tổ chức cho nhân dân trong công tác dân vận của mình.
Trường tôi vui giữa rừng sâu,
Chữ theo đuốc lửa, đêm thâu, tiếng người.
Trường tôi, không đợi ai mời.
71
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Theo anh Vệ quốc, lập đời chiến khu.
Lớp học bình dân bên bếp lửa nhà sàn hay trong một lán nhỏ bên sƣờn
núi, thể hiện tình nghĩa gắn bó giữa cơ quan và thôn bản, gắn với toàn bộ
cuộc sống của cán bộ và nhân dân ở chiến khu:
Nhớ sao lớp học i tờ,
Đêm khuya đuốc sáng những rừng liên hoan.
Ngoài ra còn phải kể đến những lớp do bà con ngƣời Kinh tản cƣ lên
miền núi tổ chức dạy cho đồng bào địa phƣơng để đáp lại tấm lòng nhân ái,
đùm bọc của họ. Ông Nguyễn Hồng Dƣơng, một giáo viên bình dân học vụ
của thủ đô những năm trƣớc đây, đã thuật lại việc dạy bình dân học vụ ở Thái
Nguyên trong lúc tản cƣ thời kháng chiến chống Pháp nhƣ sau:
“Kháng chiến, tôi tản cư lên huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Tôi làm
giáo viên bình dân học vụ ở đấy. Tôi dạy học ở một làng đồng bào thiểu số
hoàn toàn mù chữ. Bàn ghế, ánh sáng, giấy bút đều thiếu.
Chúng tôi dùng các ván gỗ thay giấy, bút là tre vót nhọn, mực làm bằng
nhựa vỏ cây vang nấu thành nước và cô lại.
Lớp học làm gần bờ khe, dưới lùm cây và chúng tôi giữ gìn không để
ánh sáng lọt ra ngoài.
Buổi đầu, tôi lấy một đoạn nứa ngắn, giống chữ “i” không có dấu rồi
lấy viên đá tròn đặt lên trên. Tôi nói đó là chữ “i”. Bà con cười, ai cũng cho
là dễ cả. Buổi học sau, đồng bào ham thích. Tôi hướng dẫn cách viết. Với chữ
“t” tôi cũng dạy theo cách đó. Phải bốn tháng sau mới học xong vần. Và một
năm sau, toàn lớp đều đọc thông viết thạo” [15, tr.88].
Trong đợt phát động quần chúng giảm tô, việc học tập bình dân học vụ ở
nhiều xã bị giảm sút. Tƣ tƣởng phổ biến lúc đầu là mọi công tác đều đình chỉ,
72
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
để tập trung vào việc đấu tranh chống địa chủ. Nhiều cán bộ và giáo viên bình
dân học vụ chuyển sang làm công tác phát động quần chúng. Một số là trung
nông chƣa hiểu chính sách, có thái độ chờ đợi, hoang mang.
Sau đợt phát động quần chúng đấu tranh triệt để giảm tô, theo số liệu
điều tra của Trung ƣơng, ở Thái Nguyên có 2/3 tổng số cán bộ xã còn mù chữ
hay mới biết bập bẹ. Xã Quyết Tiến (Phú Bình) có 2 uỷ viên không biết chữ,
ở Minh Lập (Đồng Hỷ) toàn thể Ban chấp hành phụ nữ (9 ngƣời) đều không
biết chữ. Đa số cán bộ khác còn đọc viết chậm, vừa đọc vừa đánh vần. Bà
Chích là cốt cán, Bí thƣ Phụ nữ xã Đồng Bẩm (Đồng Hỷ) khi đƣợc đi học đã
tâm sự: Tôi bị địa chủ đánh lừa bảo: Cứ cố làm thêm mỗi ngày vài giờ rồi
cho đi học. Khi được làm Bí thư chi bộ, tôi phải nhờ người xem công văn hộ,
có hôm công văn cần để mãi hôm sau mới nhờ được người xem thì việc đã
chậm [21, tr.2].
Trƣớc thực tế phần lớn cán bộ cốt cán, cán bộ xã còn mù chữ, Trung
ƣơng Đảng đã yêu cầu việc bổ túc văn hoá cho cán bộ xã là một nhiệm vụ cấp
bách, nhằm tăng thêm khả năng công tác cho cán bộ.
Cán bộ giáo dục đã kết hợp công tác với cán bộ Đội phát động quần
chúng để phát huy vai trò ngành giáo dục. Ngành Bình dân học vụ đã phục vụ
phát động quần chúng rất kịp thời, lấy ngay những chính sách vừa đƣợc học
tập tối hôm trƣớc biên soạn thành bài tập đọc, tập chép cho lớp bình dân học
vụ.
Ở các xã phát động quần chúng triệt để giảm tô và cải cách ruộng đất,
các lớp học bình dân tiếp tục đƣợc duy trì và phát triển. Nhiều lớp chuyển giờ
học về buổi sáng, buổi trƣa hoặc vào các giờ rảnh rỗi khác. Có nơi, Nông hội
kiểm điểm tình hình học văn hoá vào đầu mỗi buổi họp tổ, nhắc nhở, yêu cầu
73
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cán bộ đi học đều đặn.
Vào thời gian này, ngành Bình dân học vụ đã xác định đƣợc đối tƣợng
học chủ yếu là cốt cán bần, cố nông, cán bộ mới đƣợc đề bạt. Việc xoá nạn
mù chữ và mở lớp Dự bị bổ túc cho những đối tƣợng này đƣợc tổ chức tích
cực và khẩn trƣơng. Nhiều nơi cán bộ, giáo viên bình dân học vụ cần cù vận
động cốt cán đi học, mở những lớp nhỏ, thuận tiện cho nông dân lao động.
Qua việc học tập, lập trƣờng giai cấp của cán bộ đƣợc nâng lên, đa số cán bộ
đã nhận rõ tầm quan trọng của việc học tập, thấy trách nhiệm của mình phải
đi học, đồng thời đã chú ý đến việc lãnh đạo phong trào. Chị Hậu, Bí thƣ Phụ
nữ xã Thuận Thành (Phổ Yên) đã phát biểu: Tôi thấy đau khổ vô cùng khi
được cử làm cán bộ mà không biết chữ kí. Tôi hứa quyết tâm học tập
[21, tr.1].
Năm 1953, với kết quả bƣớc đầu của việc thực hiện chính sách ruộng
đất, nhân dân lao động Thái Nguyên có nhiều điều kiện thuận lợi để đi học,
công tác chỉ đạo của ngành Bình dân học vụ cũng đƣợc chấn chỉnh, cải thiện
từng bƣớc, nên phong trào xoá nạn mù chữ tiếp tục tổ chức đƣợc 117 lớp học,
thu hút 3.199 học viên mà chủ yếu là nông dân tham gia.
Hội nghị giáo dục toàn quốc tháng 2-1954 đã giao cho Bình dân học vụ
soạn những bài mẫu phục vụ phát động quần chúng, cung cấp tài liệu tham
khảo, hƣớng dẫn cách giáo dục tƣ tƣởng, giáo dục chính sách trong bài dạy
cho giáo viên, các Ty có trách nhiệm biên soạn các bài dạy sát với thực tế địa
phƣơng mình. Hội nghị đã đề cập và nhấn mạnh việc bổ túc văn hoá cho cán
bộ công nông, sau khi đã thoát khỏi nạn mù chữ.
Tại Thái Nguyên, qua điều tra trình độ của cán bộ xã trong 6 tháng đầu
năm 1954 cho thấy, số cán bộ cần đi học lớp Sơ cấp có 4.914 ngƣời, số cán bộ
cần đi học lớp Dự bị có 5.728 ngƣời [21, tr.4] .Căn cứ thực tế đó, để giúp cán
bộ xã và những phần tử tích cực ở nông thôn sau khi phát động quần chúng có
74
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trình độ tạm đủ để làm việc thì lớp Dự bị bình dân là chủ yếu, đồng thời
không thể chủ quan coi nhẹ việc chống mù chữ trở lại, trƣớc hết với các cốt
cán và cán bộ xã.
Hội nghị giáo dục toàn ngành tháng 2-1954 đã chỉ ra những phƣơng
hƣớng, nhiệm vụ rất phù hợp với thực tế của địa phƣơng:
Về địa bàn: Trọng tâm là các xã đã và đang phát động quần chúng giảm
tô, cải cách ruộng đất, cần chú trọng hơn đến các xã có nhiều khó khăn.
Về đối tượng: Chủ yếu là cốt cán trong phát động quần chúng và các cán
bộ xã, xóm đƣợc đề bạt trong phát động quần chúng.
Về trình độ học: Xóa mù chữ, chống mù chữ trở lại, dạy liền một mạch
lớp Sơ cấp và lớp Dự bị để đảm bảo xoá mù chữ chắc chắn, giải quyết đƣợc
công việc ở xã, xóm.
Về tổ chức trường, lớp: Phải linh hoạt, phù hợp với đối tƣợng ngƣời học
và thời gian học.
Làm theo phƣơng hƣớng trên, nhiều lớp học đƣợc mở riêng cho cán bộ
từng miền hoặc tổ chức lớp học chung cho cán bộ và nhân dân, có nơi tổ chức
lớp học cho cán bộ thƣờng trực ngay tại trụ sở uỷ ban nhƣ ở xã Xuân Phƣơng
(Phú Bình), Quang Vinh (Đồng Hỷ)…
Ty còn cử cán bộ xuống mở lớp học xoá mù chữ cho anh chị em dân
công đang lao động trên các công trƣờng, nhƣ công trƣờng Bình Long, Thác
Huống, Phúc Thuận, Vạn Già, Vân Lăng. Vừa thi đua đảm bảo sản xuất, anh
chị em dân công vẫn hăng hái tham gia các lớp học bình dân nhƣ ở công
trƣờng Bình Long đã có 419 ngƣời vừa cán bộ vừa nhân dân theo học, ở công
trƣờng Vạn Già tổ chức đƣợc 12 lớp cho 40 dân công.
Đƣợc các cấp chính quyền từ tỉnh đến xã quan tâm lãnh đạo, lại đƣợc bổ
sung lực lƣợng giáo viên phổ thông và học sinh cấp II, III tham gia vào công
75
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tác xoá nạn mù chữ, Trong 6 tháng đầu năm 1954, phong trào bình dân học vụ
phát triển mạnh, mạnh nhất là ở huyện Phú Bình và Phổ Yên. Yếu nhất là 12
xã giảm tô thuộc huyện Võ Nhai và Đại Từ.
Nhân dân và cán bộ sau khi đƣợc đả thông tƣ tƣởng, thấy sự cần thiết
phải biết chữ, nên kết quả học tập tiến bộ rất nhanh. Ở xã Cao Ngạn đồng chí
Bí thƣ và Chủ tịch sau khi đƣợc đả thông tƣ tƣởng thì rất tiếc buổi học, khi
giáo viên đi họp, hai đồng chí đã đề nghị với xóm cử ngƣời khác tạm dạy
thay. Ở Hƣơng Sơn (Phú Bình) 2 cán bộ mới đi học 1 tháng đã đọc viết đƣợc,
Ở Hà Châu (Phú Bình) 4 cán bộ mới đi học đƣợc 2 tháng đã viết đƣợc chính
tả. Ở Phú Lƣơng có 760 học viên mù chữ, trong đó có 163 cán bộ, sau khi học
tập đã đọc thông chữ viết và chữ in, viết đƣợc chính tả và làm đƣợc 2 phép
tính.
Năm 1954, hơn 3 nghìn cán bộ cốt cán các xã xuất thân từ nông dân lao
động, đƣợc chọn lọc qua phát động quần chúng giảm tô và cải cách ruộng đất,
đƣợc học văn hoá ở các lớp bình dân học vụ là một thành tích rất lớn của
phong trào Bình dân học vụ tỉnh Thái Nguyên. Trong bối cảnh cuộc đấu tranh
giai cấp đang diễn ra quyết liệt ở nông thôn, thành tích của Bình dân học vụ
có ý nghĩa rất to lớn, nó không chỉ nâng cao chất lƣợng công tác của cán bộ
nông thôn, mà còn nâng cao lập trƣờng giai cấp cách mạng trong cuộc đấu
tranh đánh đổ hoàn toàn giai cấp địa chủ phong kiến.
Phong trào xoá nạn mù chữ (1951 – 1954) cũng bộc lộ một số hạn chế
thiếu sót không những về chỉ đạo thực hiện mà cả về nhận thức tƣ tƣởng, nhƣ
sự phối hợp công tác với chính quyền, các ngành, các đoàn thể chƣa đƣợc
chặt chẽ. Ở nhiều nơi, Uỷ ban kháng chiến hành chính có tƣ tƣởng khoán
trắng cho Bình dân học vụ, không đi sâu vào phong trào, nhất là cấp huyện.
Công tác kiểm tra còn ít, lề lối làm việc của một số cán bộ bình dân học vụ
còn nặng hình thức, giấy tờ, ít trực tiếp xuống xã để đôn đốc, hƣớng dẫn nên
76
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
không nắm vững đƣợc phong trào. Giáo viên bậc Dự bị bình dân đa số còn
non nớt về sƣ phạm, nhiều giáo viên chƣa đƣợc huấn luyện lần nào. Một số
giáo viên dạy không hiệu quả, nên khi đƣợc phân công dạy lại xung phong đi
dân công, dẫn đến thiếu giáo viên.
Mặc dù có những hạn chế, nhƣng những bƣớc tiến mới về việc nâng cao
đời sống văn hoá tinh thần cho nhân dân trong thời gian từ cuối 1950 đến
1954 có ý nghĩa thực sự to lớn. Nhân dân các dân tộc Thái Nguyên thoát dần
khỏi tình trạng tăm tối trƣớc đây, các tập tục lạc hậu, các tệ nạn xã hội trong
đồng bào các dân tộc nhờ đó giảm xuống nhanh chóng. Cuộc sống mới có văn
hoá đang đƣợc sinh sôi, nẩy nở. Có thể lấy sự biến đổi của làng Hoẻn - một
làng ngƣời Dao ở xã Phúc Chu (Định Hoá) làm ví dụ: Sau ngày Cách mạng
tháng Tám thành công, làng Hoẻn có 7 hộ với 42 nhân khẩu, cả làng không
có ai biết chữ, không có ai tham gia công tác gì; các tổ chức đoàn thể Cứu
quốc (Thanh niên, Phụ nữ, Nông hội) đều chưa có cơ sở nào. Thực hiện chủ
trương xoá nạn mù chữ, Ty Bình dân học vụ Thái Nguyên và Ban Bình dân
học vụ huyện Định Hoá cử cán bộ xuống làng Hoẻn tổ chức một lớp bình dân
học vụ, do một thanh niên người Tày ở xóm khác cách làng Hoẻn 3km làm
giáo viên. Khi lớp học bắt đầu mở có 8 người, sau lên 12, rồi 14 và cuối cùng
là 17 người đến lớp, kết quả đã có 14 người (9 nam và 5 nữ) thoát nạn mù
chữ. Sau khi được xoá nạn mù chữ, trong nhân dân làng Hoẻn có người đã
tham gia vào chính quyền xã, có người làm giáo viên Bình dân học vụ. Nhân
dân trong làng đã làm chuồng trâu, chuồng lợn xa nhà, đường làng phát
quang, lối đi sạch sẽ… Chính công cuộc xóa nạn mù chữ đã tạo cho làng
Hoẻn những sự biến đổi cách mạng diệu kì đó. [15, tr.184]
Tóm lại, trong những năm 1951 - 1954, phong trào xoá nạn mù chữ đã
thực sự trở thành phong trào quần chúng, thu hút đông đảo cán bộ và các tầng
lớp nhân dân tham gia. Đó thật sự là một thành công lớn của bình dân học vụ
77
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trong toàn cảnh cả nƣớc có chiến tranh.
Tổng hợp kết quả công cuộc xoá nạn mù chữ (1945 - 1954) [22, tr.1].
Năm Đã thanh toán Chƣa thanh toán Tỷ lệ %
Đến 2/1946 Hàng ngàn ngƣời
Đến cuối 1946 14.906 107.795 12,1
Đến 10/1947 21.045 86.750 29,3
Đến cuối 1948 26.026 60.724 50,5
Đến cuối 1949 19.703 41.021 66,6
Đến cuối 1950 6.315 34.706 71,7
Đến cuối 1951 1.696 33.010 73,1
Đến cuối 1952 1.208 31.802 74,1
Đến cuối 1953 3.199 28.603 76,7
Đến cuối 1954 4.331 25.404 79,5
Sự phát triển mạnh mẽ, liên tục của phong trào xoá mù chữ từ năm 1945
đến 1954, đã tác động mạnh mẽ đến các mặt hoạt động khác của cuộc kháng
chiến, góp phần đƣa cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc đến thắng lợi
cuối cùng, đồng thời đã thể hiện lòng yêu nƣớc thiết tha và tinh thần hiếu học
của nhân dân Thái Nguyên, lòng tin của nhân dân Thái Nguyên với lãnh tụ
Hồ Chí Minh, khi cùng toàn dân hƣởng ứng sôi nổi và thực hiện khẩu hiệu do
Ngƣời nêu ra: “Chống giặc dốt cũng như chống giặc ngoại xâm”.
Thắng lợi của phong trào thi đua diệt dốt đã góp phần xây dựng hậu
phƣơng Thái Nguyên vững mạnh, xứng đáng là An toàn khu Trung ƣơng
trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Mặt khác, những kết quả đạt
đƣợc trong phong trào bình dân học vụ thời kì này còn tạo ra những điều kiện
thuận lợi cho công cuộc xoá nạn mù chữ của tỉnh Thái Nguyên tiếp tục phát
78
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
triển trong các thời kì cách mạng sau đó.
KẾT LUẬN
1- Công cuộc xoá nạn mù chữ ở Thái Nguyên thời kì kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược đã góp phần làm phong phú thêm hình thức và biện
pháp xoá nạn mù chữ trong toàn quốc.
Trong kháng chiến chống Pháp, Thái Nguyên tuy là tỉnh nằm trong
vùng tự do, nhƣng lại ở vị trí giáp ranh với vùng địch tạm chiếm; đồng thời
lại là tỉnh đƣợc chọn làm nơi xây dựng ATK Trung ƣơng. Vì vậy, Thái
Nguyên là địa bàn mà thực dân Pháp tập trung lực lƣợng và áp dụng mọi biện
pháp để phá hoại.
Nhân dân các dân tộc Thái Nguyên vừa phải vất vả lao động kiếm sống,
xây dựng và bảo vệ quê hƣơng nhƣ các tỉnh khác nằm trong vùng tự do; vừa
phải đóng góp sức ngƣời, sức của để xây dựng và bảo vệ An toàn khu kháng
chiến. Trong bối cảnh đó, công cuộc xoá nạn mù chữ ở Thái Nguyên đƣợc các
cấp bộ Đảng, chính quyền trong tỉnh lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức hết sức linh
hoạt, thu hút mọi đối tƣợng tham gia.
Ngoài việc tổ chức, xây dựng bộ máy Bình dân học vụ từ tỉnh đến cơ sở
làm nhiệm vụ chuyên trách giúp các cấp bộ Đảng, chính quyền lãnh đạo, chỉ
đạo xoá nạn mù chữ, các cấp bộ Đảng, chính quyền ở Thái Nguyên coi trọng
tổ chức động viên mọi thành phần trong xã hội tham gia xoá nạn mù chữ.
Ngoài đội ngũ cán bộ, giáo viên Bình dân học vụ, các cấp bộ Đảng, chính
quyền trong tỉnh còn tổ chức, động viên đƣợc nhiều cán bộ, hội viên các đoàn
thể Cứu quốc (Thanh niên, Phụ nữ, Nông hội…) đã biết chữ dạy cho những
ngƣời chƣa biết chữ. Ngoài các lớp học Bình dân học vụ tổ chức học vào các
buổi trƣa, buổi tối nhƣ các địa phƣơng khác, Thái Nguyên còn tổ chức việc
79
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
dạy chữ và học chữ ở khắp mọi lúc, mọi nơi.
Thực hiện Lời kêu gọi chống nạn thất học của Chủ tịch Hồ Chí Minh là
“Vợ chưa biết thì chồng bảo, em chưa biết thì anh bảo, cha mẹ không biết thì
con bảo, người làm không biết thì chủ nhà bảo”, ngoài các lớp học do ngành
giáo dục tổ chức, các lớp học tƣ gia (lớp học gia đình) đƣợc mở ở khắp mọi
nơi trong tỉnh. Đến giữa năm 1948, số lớp học tƣ gia chiếm tỷ lệ trên 35,16 %
so với tổng số lớp Bình dân học vụ của tỉnh. Bên cạnh các lớp học tƣ gia, các
cấp bộ Đảng, chính quyền Thái Nguyên còn lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức các lớp
học xoá nạn mù chữ ở các đồn điền, nhà máy, mỏ than, với khẩu hiệu mỗi nhà
máy, đồn điền, mỏ than là một lớp học Bình dân học vụ.
Tổ chức lớp học giữa trời cũng là một hình thức, biện pháp xoá nạn mù
chữ ở Thái Nguyên. Tại các huyện Phú Bình, Phổ Yên, ở những nơi có đông
nhân dân thƣờng qua lại hằng ngày, Ban Bình dân học vụ xã hoặc một, hai
giáo viên Bình dân học vụ đặt một cái bảng đen. Khi đông ngƣời tụ tập hoặc
đi qua lại, giáo viên mời một vài ngƣời bất kì đọc một số chữ, vần, hay câu
trên bảng; nếu sai thì sửa, thiếu thì bổ sung, nếu chƣa biết đọc thì dạy và
giảng giải. Hình thức mở các lớp học giữa trời này của Thái Nguyên chủ yếu
có tính chất cổ động, nhằm ôn lại bài cho những ngƣời đã đi học, gây hứng
thú và vận động những ngƣời chƣa biết chữ đi học.
Từ các lớp học ngoài trời ở các huyện Phổ Yên và Phú Bình, Thái
Nguyên đã phát triển thành các lớp hỏi chữ vào những ngày lễ hoặc các ngày
phiên chợ, thống nhất trong cùng một thời gian ở toàn xã, toàn huyện trong
tỉnh và dần dần trở nên chặt chẽ, thậm chí có lúc, có nơi găy gắt.
Việc mở các lớp hỏi chữ ở Thái Nguyên tuy nhiều khi cũng gây phiền
phức, bực bội, thậm chí có lúc, có nơi còn xúc phạm đến lòng tự trọng của
nhân dân, nhƣng nó cũng có nhiều tác dụng tích cực trong việc thúc đẩy
80
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
những ngƣời chƣa biết chữ đi học.
Có thể nói việc tổ chức đƣợc nhiều lớp học tƣ gia, việc tổ chức các lớp
học giữa trời và các chặng hỏi chữ ở Thái Nguyên đã góp phần làm phong
phú thêm hình thức và biện pháp xoá nạn mù chữ trong toàn quốc.
2 - Công cuộc xoá nạn mù chữ ở Thái Nguyên trong thời kì kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược một lần nữa khẳng định tính chất ưu việt của
chế độ Dân chủ Cộng hoà.
Nhân dân Thái Nguyên vốn có truyền thống hiếu học từ lâu đời, nhƣng
dƣới thời Pháp thuộc, nhân dân Thái Nguyên bị kìm hãm trong vòng ngu dốt,
lạc hậu. Năm học 1932 - 1933 đƣợc coi là đỉnh cao của nền giáo dục của thực
dân Pháp ở Đông Dƣơng, thì số học sinh ở Thái Nguyên cũng chỉ đạt tỉ lệ
1,8% so với dân số. Đa số những ngƣời đƣợc đến trƣờng học là con em giai
cấp thống trị, địa chủ và những ngƣời giàu có; còn con em nhân dân lao động
Thái Nguyên không bao giờ đƣợc cắp sách đến trƣờng. Vì trình độ hiểu biết
thấp kém, nên thực dân Pháp dễ dàng đầu độc nhân dân Thái Nguyên về văn
hoá bằng việc khuyến khích duy trì những phong tục, tập quán lạc hậu, lỗi
thời, mê tín dị đoan và tuyên truyền, phổ biến lối sống ăn chơi, truỵ lạc, trác
táng. Chúng lôi kéo nhân dân Thái Nguyên vào con đƣờng nghiện ngập, ăn
chơi sa đọa, mòn mỏi về thể xác và tinh thần, lãng quên con đƣờng đấu tranh
cách mạng. Vì mù chữ, trình độ hiểu biết thấp kém, nên ngƣời dân Thái
Nguyên không nhận thức đƣợc các truyền thống lịch sử và yêu nƣớc của quê
hƣơng, không hiểu biết đƣợc quyền sống và quyền mƣu cầu hạnh phúc của
mỗi con ngƣời.
Từ ngày Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, quán triệt và
hƣởng ứng Lời kêu gọi chống thất học của Chủ tịch Hồ Chí Minh, giữa muôn
vàn khó khăn chồng chất do "giặc đói" và giặc ngoại xâm gây ra, các cấp bộ
Đảng và chính quyền Thái Nguyên đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công cuộc
81
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
xoá nạn mù chữ, đƣa việc xoá nạn mù chữ trở thành phong trào quần chúng
sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân các dân tộc Thái Nguyên. Các lớp bình
dân học vụ, xoá nạn mù chữ đƣợc tổ chức ở khắp nơi, thu hút hàng vạn ngƣời
mù chữ thuộc đủ các lứa tuổi và thành phần các dân tộc đến học. Kết thúc
cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp xâm lƣợc, các cấp bộ Đảng,
chính quyền, đoàn thể và nhân dân các dân tộc Thái Nguyên đã thực hiện
thắng lợi công cuộc diệt dốt, hoàn thành việc xoá nạn mù chữ cho 140.540
ngƣời.
Thái Nguyên là một tỉnh miền núi và trung du, gồm nhiều thành phần
dân tộc khác nhau; trong đó có nhiều thành phần dân tộc thiểu số, đời sống
kinh tế và văn hoá nhìn chung thấp. Công cuộc xoá nạn mù chữ ở Thái
Nguyên đã tạo cho nhân dân các dân tộc Thái Nguyên một sự tiến bộ về văn
hoá - xã hội, làm cơ sở cho sự phát triển về nhiều mặt, nhất là về mặt kinh tế
và xã hội. Có thể nói, ở các cơ sở xóm, làng công cuộc xoá nạn mù chữ đã tác
động nhƣ một nhân tố quyết định đến sự biến đổi về kinh tế, văn hoá, xã hội.
Từ một ví dụ đã nêu ở làng Hoẻn (xã Phúc Chu, huyện Định Hoá), chúng ta
thấy công cuộc xoá nạn mù chữ ở Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho
nhân dân các dân tộc trong tỉnh phát huy vai trò làm chủ xã hội, làm chủ cuộc
sống của mình.
Nhƣ vậy, sống dƣới chế độ Dân chủ Cộng hoà, mọi ngƣời dân Thái
Nguyên không phân biệt giàu hay nghèo, sang hay hèn đều đƣợc đi học chữ
để lĩnh hội các kiến thức khoa học và hiểu biết chủ trƣơng của Đảng, của Nhà
nƣớc. Có thêm hiểu biết, mọi ngƣời dân Thái Nguyên càng tăng thêm niềm
tin về con đƣờng đi lên của đất nƣớc, về quyền lợi và nghĩa vụ của ngƣời
công dân và mới có thêm khả năng sản xuất, chiến đấu và làm chủ xã hội. Chỉ
có xoá đƣợc nạn mù chữ cho đông đảo quần chúng nhân dân Thái Nguyên
mới đảm bảo cho công cuộc xây dựng, củng cố và bảo vệ chính quyền cách
82
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mạng, kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lƣợc và kiến quốc trên địa bàn
tỉnh thắng lợi. Với các nội dung và ý nghĩa đó, công cuộc xoá nạn mù chữ ở
Thái Nguyên đã thể hiện rõ tính chất ƣu việt của chế độ mới - chế độ Dân chủ
Cộng hoà.
3 - Công cuộc xoá nạn mù chữ ở Thái Nguyên trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược diễn ra liên tục, thể hiện sự cố gắng của cán
bộ, giáo viên Bình dân học vụ và tinh thần hiếu học của nhân dân các dân
tộc..
Trong hoàn cảnh chồng chất khó khăn sau Cách mạng tháng Tám, Đảng,
chính quyền các cấp trong tỉnh đã coi trọng xây dựng, củng cố bộ máy lãnh
đạo, chỉ đạo phong trào bình dân học vụ và phân công nhiều cán bộ, đảng
viên có năng lực, có tinh thần trách nhiệm cao, có khả năng gần gũi với quần
chúng, hiểu biết quần chúng và đƣợc quần chúng tin yêu trực tiếp phụ trách
bộ máy lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức và duy trì phong trào xoá nạn mù chữ
thƣờng xuyên, liên tục. Sau ngày toàn quốc kháng chiến, các cấp bộ Đảng,
chính quyền Thái Nguyên tập trung lãnh đạo, chỉ đạo toàn quân, toàn dân trên
địa bàn vừa đẩy mạnh sản xuất lƣơng thực, thực phẩm để đảm bảo đời sống
cho cán bộ, nhân dân trong tỉnh và cung cấp cho căn cứ địa, vừa làm tốt công
tác chuẩn bị kháng chiến, đồng thời vẫn giữ vững và phát triển phong trào
bình dân học vụ. Kết quả, từ ngày toàn quốc kháng chiến (19/12/1946) đến
đầu tháng 10-1947, tỉ lệ số ngƣời biết chữ trong toàn tỉnh tăng từ 12% lên
28% .
Sau các cuộc hành quân, càn quét của thực dân Pháp vào địa bàn Thái
Nguyên trong Thu - Đông 1947 và Thu - Đông 1950, phong trào xoá nạn mù
chữ ở Thái Nguyên không những không bị giảm sút mà còn đƣợc các cấp bộ
Đảng, chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn. Kết
quả, tỉ lệ số ngƣời đƣợc xoá mù chữ trong tỉnh tăng lên nhanh chóng từ 28%
83
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(đầu tháng 10/1947) lên 50% (cuối năm 1948) và đến cuối năm 1951 tỉ lệ số
ngƣời thoát nạn mù từ 8 tuổi trở lên trong toàn tỉnh tăng lên 73%. Những số
liệu nêu trên không chỉ thể hiện sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của
các cấp bộ Đảng và chính quyền, sự nỗ lực của cán bộ, giáo viên bình dân học
vụ, mà còn nói lên tinh thần hiếu học của nhân dân các dân tộc tỉnh Thái
Nguyên lúc bấy giờ.
Nhờ các cấp bộ Đảng, chính quyền trong tỉnh thƣờng xuyên tập trung
lãnh đạo, chỉ đạo, nên công cuộc xoá nạn mù chữ ở Thái Nguyên trong thời kì
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lƣợc đã diễn ra liên tục và đạt đƣợc
nhiều kết quả to lớn. Chính nhờ kết quả này cùng với những thành tích đóng
góp xuất sắc trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, tỉnh Thái Nguyên đã
đƣợc Đảng và Nhà nƣớc phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang
nhân dân.
4 - Công cuộc xoá nạn mù chữ ở Thái Nguyên trong thời kì kháng chiến
chống Pháp đã tạo điều kiện cho nhân dân các dân tộc trong tỉnh phát huy
vai trò làm chủ xã hội; đồng thời cung cấp nhiều kinh nghiệm cho việc xoá
nạn mù chữ trong những năm sau ngày hoà bình lập lại.
Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), phong
trào xoá nạn mù chữ đã mang lại cho 140.540 ngƣời dân Thái Nguyên bị thất
học dƣới chế độ thực dân, phong kiến biết đọc, biết viết, thoát khỏi nạn dốt,
có điều kiện để nâng cao trình độ văn hoá, phát huy vai trò làm chủ và khả
năng đóng góp tích cực vào việc xây dựng và bảo vệ chế độ mới. Từ khi thực
hiện giảm tô và cải cách ruộng đất, trong bối cảnh cuộc đấu tranh giai cấp
diễn ra quyết liệt ở nông thôn Thái Nguyên, thì công cuộc xoá nạn mù chữ có
ý nghĩa rất to lớn, nó không chỉ nâng cao chất lƣợng công tác của cán bộ nông
thôn, mà còn nâng cao lập trƣờng giai cấp cách mạng trong cuộc đấu tranh
đánh đổ hoàn toàn giai cấp địa chủ phong kiến. Thực tiễn phong trào xoá nạn
84
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mù chữ đã giáo dục cho ngƣời dân Thái Nguyên những tình cảm mới, chan
hoà tình cảm công - nông, tha thiết với việc chung, nhận rõ sự khác biệt giữa
chế độ Dân chủ Cộng hoà do ta xây dựng với chế độ thực dân, phong kiến cũ
vừa bị xoá bỏ.
Công cuộc xoá nạn mù chữ ở Thái Nguyên trong thời kì kháng chiến
chống Pháp đã cung cấp một số kinh nghiệm cho lãnh đạo tỉnh vận dụng vào
việc xoá nạn mù chữ những năm sau ngày hoà bình lập lại.
Một là, việc xoá nạn mù chữ phải đặt dƣới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp
của các cấp bộ Đảng và chính quyền trong tỉnh. Các cấp bộ Đảng, chính
quyền từ tỉnh đến các huyện, xã phải thành lập đƣợc cơ quan chuyên trách
làm công tác diệt dốt do đại diện cấp uỷ Đảng hoặc chính quyền phụ trách, có
sự tham gia của các ngành và các đoàn thể nhân dân. Ngành Giáo dục phải là
nòng cốt trong công tác xoá nạn mù chữ.
Hai là, xoá nạn mù chữ là việc chung của toàn xã hội, phải huy động các
ngành, các đoàn thể quần chúng nhân dân và phải phối hợp các lực lƣợng xã
hội làm công tác xoá nạn mù chữ; phải động viên mạnh mẽ từng ngƣời mù
chữ xây dựng quyết tâm và hành động xoá nạn mù chữ cho bản thân mình.
Ba là, xoá nạn mù chữ phải đƣợc tiến hành thƣờng xuyên, liên tục; đồng
thời phải phát động thành các chiến dịch xoá nạn mù chữ rộng rãi trong các
tầng lớp nhân dân; phải đẩy mạnh việc thi đua xoá nạn mù chữ giữa các
huyện trong tỉnh, các xã trong huyện; phải động viên, khen thƣởng, đúng
mức, kịp thời các đơn vị có thành tích và phê bình nghiêm khắc các đơn vị
yếu, kém.
Ba bài học kinh nghiệm chính rút ra trong công cuộc xoá nạn mù chữ ở
Thái Nguyên thời kì kháng chiến chống Pháp đã khẳng định tƣ tƣởng cốt lõi,
quan trọng và xuyên suốt mọi mặt của công cuộc xoá nạn mù chữ là tính cách
85
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mạng và tính quần chúng của nó. Tính cách mạng và tính quần chúng trong
phong trào bình dân học vụ là hai nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thắng lợi
trong công cuộc xoá nạn mù chữ ở Thái Nguyên thời kì kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lƣợc. Ba bài học kinh nghiệm và hai nguyên nhân chủ yếu
dẫn đến thắng lợi trong công cuộc xoá nạn mù chữ ở Thái Nguyên thời kì
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lƣợc nêu trên đã đƣợc các cấp bộ
Đảng, chính quyền trong tỉnh nghiên cứu, vận dụng vào việc xoá nạn mù chữ
86
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trong những năm sau ngày hoà bình lập lại trên miền Bắc (21/7/1954).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Alfred Echinard (1933), Lịch sử chính trị và quân sự tỉnh Thái Nguyên.
2- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (2003), Lịch sử Đảng bộ tỉnh
Thái Nguyên, tập 1 (1936 - 1965).
3- Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (1951), Báo cáo tình hình
mọi mặt năm 1951, Thái Nguyên.
4- Ban chỉ huy quân sự huyện Đại Từ (2004), Lịch sử kháng chiến chống
TD Pháp, ĐQ Mĩ xâm lược và xây dựng bảo vệ tổ quốc 1945 - 2000.
5- Ban chỉ huy quân sự huyện Phổ Yên (2005), Lịch sử kháng chiến chống
xâm lược và xây dựng - bảo vệ tổ quốc 1945 - 2000.
6- Ban chỉ huy quân sự thành phố Thái Nguyên (2007), Lịch sử kháng
chiến chống xâm lược và xây dựng - bảo vệ tổ quốc 1945 - 2000.
7- Ban TV Tỉnh uỷ Thái Nguyên (1946), Báo cáo công tác tháng 1 đến
tháng 10 năm 1946, Thái Nguyên.
8- Ban TV Tỉnh uỷ Thái Nguyên (1949), Báo cáo tình hình 3 tháng thứ 2
năm 1949, Thái Nguyên.
9- Ban TV Tỉnh uỷ Thái Nguyên (1949), Báo cáo tình hình quý IV năm
1949, Thái Nguyên.
10- Ban TV Tỉnh uỷ Thái Nguyên (1952), Báo cáo tình hình mọi mặt năm
1951, Thái Nguyên.
11- Ban TV Tỉnh uỷ Thái Nguyên (1954), Thông tri về việc thống kê các
thành tích công tác mọi mặt của tỉnh để lấy tài liệu tuyên truyền Quốc tế.
12- Nguyễn Đức Bình (1986), Công tác giáo dục và nghiên cứu lí luận,
Nxb Sách giáo khoa Mác Lênin, Hà Nội.
13- Bộ Chỉ huy quân sự Bắc Thái (1990), Bắc Thái lịch sử kháng chiến
chống thực dân Pháp 1945 - 1954, Nxb Quân đội.
14- Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Thái Nguyên (1999), Thái Nguyên Lịch sử
87
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đấu tranh vũ trang cách mạng và kháng chiến chống Pháp (1941-1954).
15- Ngô Văn Cát (1980), Việt Nam chống nạn thất học, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
16- Cẩm nang giáo viên lớp Dự bị bình dân (1949), Tài liệu lƣu trữ tại Bảo
tàng tỉnh Thái Nguyên.
17- Câu lạc bộ chiến sĩ diệt dốt Hà Nội (1995), Hồi kí của các chiến sĩ diệt
dốt, Hà Nội.
18- Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (1948), Biên bản Hội nghị đại biểu toàn Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên họp từ ngày 15 đến 21 tháng 6 năm 1948, Thái Nguyên.
19- Hồ sơ lƣu trữ số 1077 cặp 100 – Phòng Lƣu trữ Sở Nội vụ
Thái Nguyên.
20- Hồ sơ lƣu trữ số 1081 cặp 100 – Phòng Lƣu trữ Sở Nội vụ
Thái Nguyên.
21- Hồ sơ lƣu trữ số 1086a cặp 101 – Phòng Lƣu trữ Sở Nội vụ
Thái Nguyên.
22- Hồ sơ lƣu trữ số 1110 cặp 103 – Phòng Lƣu trữ Sở Nội vụ
Thái Nguyên.
23- Hội Liên hiệp phụ nữ Thái Nguyên (2002), Lịch sử phong trào phụ nữ
tỉnh Thái Nguyên (1930 - 2000).
24- Nguyễn Văn Huyên (1946), 10 năm xây dựng nền giáo dục Việt Nam
xưa và nay, Báo cứu quốc, 1946.
25- Huyện uỷ Định Hoá (2000), Lịch sử Đảng bộ huyện Định Hoá (1930 -
2000).
26- Huyện uỷ Đồng Hỷ (1997), Lịch sử Đảng bộ huyện Đồng Hỷ (1930 -
1995).
27- Huyện uỷ Phú Bình (2003), Lịch sử Đảng bộ huyện Phú Bình (1930 -
2005).
28- Huyện uỷ Phú Lƣơng (1996), Lịch sử Đảng bộ huyện Phú Lương
88
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(1930 - 1954).
29- Huyện uỷ Võ Nhai (1993), Lịch sử Đảng bộ huyện Võ Nhai (1930 -
1954).
30- Vũ Ngọc Khánh (1991), Tìm hiểu nền giáo dục Việt Nam trước 1945,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
31- Liên khu Việt Bắc (1951), Báo cáo thành tích thanh toán nạn mù chữ
năm 1950, Thái Nguyên.
32- Liên khu Việt Bắc (1953), Báo cáo tình hình BDHV năm 1952,
Thái Nguyên.
33- Liên khu Việt Bắc (1954), Báo cáo tình hình BDHV năm 1953,
Thái Nguyên.
34- Hồ Chí Minh (1972), Bàn về công tác giáo dục, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
35- Hồ Chí Minh (1958), Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Nxb Sự thật,
Hà Nội.
36- Hồ Chí Minh (1955), Thư gửi cán bộ và giáo viên BDHV, Bộ Giáo
dục, Hà Nội.
37- Hồ Chí Minh - Toàn tập (1981), Tập II, Nxb Sự thật, Hà Nội.
38- Hồ Chí Minh - Toàn tập (1986), Tập IV, Nxb Sự thật, Hà Nội.
39- Hồ Chí Minh - Toàn tập (1986), Tập V, Nxb Sự thật, Hà Nội.
40- Nguyễn Xuân Minh (2006), Lich sử Việt Nam 1945 - 2000, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
41- Nguyễn Ái Quốc (1976), Bản án chế độ thực dân Pháp. Nxb Sự thật,
Hà Nội.
42- Trần Dân Tiên (1976), Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ
Chủ tịch, Nxb Sự thật. Hà Nội.
89
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
43- Tỉnh uỷ Thái Nguyên (1951), Báo cáo một năm chuyển mạnh sang tổng phản công, Tài liệu lƣu trữ tại Phòng Lịch sử Đảng , Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Thái Nguyên.
44- Tỉnh uỷ Thái Nguyên (1997), Lịch sử Đảng bộ Thành phố Thái
Nguyên (1930 - 1975).
45- Nguyễn Mạnh Tùng (1996), Công cuộc xoá nạn mù chữ và bổ túc văn hoá ở Bắc Bộ (1945 – 1954), Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học lịch sử, Đại học Quốc gia, Hà Nội.
46- Ty Bình dân học vụ Thái Nguyên (1952), Báo cáo một năm hoạt động
1951, Thái Nguyên.
47- UBKCHC tỉnh Thái Nguyên (1948), Báo cáo cả năm 1948, Tài liệu
lƣu trữ tại Phòng Lƣu trữ Sở Nội vụ Thái Nguyên.
48- UBKCHC tỉnh Thái Nguyên (1948), Báo cáo quý II và III, Tài liệu lƣu
trữ tại Phòng Lƣu trữ Sở Nội vụ Thái Nguyên.
49- UBKCHC tỉnh Thái Nguyên (1948), Báo cáo tình hình Thái Nguyên từ
1945 đến 5/1948.
50- UBKCHC tỉnh Thái Nguyên (1949), Báo cáo bao quát tình hình trong
tỉnh năm 1949.
51- UBKCHC tỉnh Thái Nguyên (1950), Báo cáo của các huyện năm 1950.
52- UBKCHC tỉnh Thái Nguyên (1950), Báo cáo kiểm điểm công tác cả
năm 1950.
53- Uỷ ban HC Liên khu Việt Bắc (1951), Thông tư về cách làm việc của
các Liên khu và tỉnh – Nha Bình dân học vụ, Thái Nguyên.
54- Uỷ ban KCHC tỉnh Thái Nguyên (1951), Báo cáo tình hình Thái
Nguyên năm 1951, Thái Nguyên.
55- Uỷ ban KCHC tỉnh Thái Nguyên (1952), Báo cáo tình hình tỉnh Thái
Nguyên năm 1952, Thái Nguyên.
56- Văn kiện Đảng 1929 – 1935 (1964), Nxb Sự thật, Hà Nội.
57- Văn kiện Đảng 1930 – 1945 (1977), Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng
Trung ƣơng, Hà Nội.
90
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
58- Văn kiện Đảng 1945 – 1947 (1969), Nxb Sự thật, Hà Nội.
59- Văn kiện Đảng 1945 – 1954 (1978), Ban NCLS Đảng Trung ƣơng,
Hà Nội.
60- Văn kiện Đảng bộ Liên khu Việt Bắc 1949 – 1954.
61- Vần quốc ngữ kháng chiến 1952, Tài liệu lƣu trữ tại Bảo tàng tỉnh
Thái Nguyên.
62- Việt Bắc diệt dốt - Tập san phát hành trong dịp chiến dịch diệt dốt
91
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Nguyễn Công Mỹ, Tài liệu lƣu trữ tại Bảo tàng tỉnh Thái Nguyên.
Thi mãn khoá sơ cấp bình dân ở xã Đông Diễn (Thái Nguyên) Nguồn: Bảo tàng tỉnh Thái Nguyên
Học sinh tham ra diệt dốt. Nguồn: Bảo tàng tỉnh Thái Nguyên
92
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Dân tộc Dao HTX Tiên Phong, xã Phú Thắng, huyện Võ Nhai thanh toán nạn mù chữ. Nguồn: Bảo tàng tỉnh Thái Nguyên
93
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Bìa cuốn Vần Quốc ngữ Nguồn: Bảo tàng tỉnh Thái Nguyên
94
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Bìa Tập san số 2 phát hành trong chiến dịch Diệt dốt Nguyễn Công Mỹ Nguồn: Bảo tàng tỉnh Thái Nguyên
95
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Một trang trong Tập san số 2. Nguồn: Bảo tàng tỉnh Thái Nguyên
96
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Một trang trong Tập san số 2. Nguồn: Bảo tàng tỉnh Thái Nguyên
97
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Một trang trong Tập san số 2. Nguồn: Bảo tàng tỉnh Thái Nguyên
98
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Một trang trong cuốn Vần Quốc ngữ. Nguồn: Bảo tàng tỉnh Thái Nguyên
99
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn