Luận văn: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện cách mạng công nghiệp lần thứ tư
lượt xem 24
download
Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNH, HĐH đất nước, cách mạng công nghiệp lần thứ tư; trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước trong điều kiện cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện cách mạng công nghiệp lần thứ tư
- MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 3 Phần 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ 5 1.1. Một số vấn đề lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và cách mạng công nghiệp lần thứ tư 5 1.2. Thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thời gian qua 14 Phần 2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC TRONG ĐIỀU KIỆN CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ 21 2.1. Tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng hiện đại, hợp lý và hiệu quả 21 2.2. Đẩy mạnh hoạt động liên kết vùng kinh tế 23 2.3. Phát triển khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo, nâng cao năng lực sáng tạo, chất lượng nguồn nhân lực 25 2.4. Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 26 2.5. Đổi mới quản trị nhà nước, xây dựng chính phủ điện tử, quản trị thông minh 28 KẾT LUẬN 28 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 30
- DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ 1 CNH Công nghiệp hóa 2 CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa 2 KHCN Khoa học công nghệ 3 KT XH Kinh tế xã hội 4 KTCN Kỹ thuật công nghệ 2
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết Kể từ khi Đảng ta đề ra đường lối CNH và lãnh đạo việc tiến hành công cuộc CNH trong thực tiễn đường lối đó nhằm đưa đất nước ra khỏi tình trạng một nước nông nghiệp lạc hậu và kém phát triển về công nghiệp tính đến nay đã trên nửa thế kỷ. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh vô cùng ác liệt và kéo dài không những đã làm gián đoạn công cuộc CNH, mà bom đạn Mỹ còn phá huỷ hầu hết những gì mà nhân dân ta đã làm được trong thời kỳ hoà bình ở miền Bắc trước đó. Đồng thời, sau khi chiến tranh kết thúc, do nhiều nguyên nhân khác nhau, cả chủ quan lẫn khách quan, nên đất nước đã rơi vào tình trạng khủng hoảng nặng nề về KT XH. Hơn thế nữa, quan niệm cũ về CNH đã trở nên quá lạc hậu trước sự biến đổi mạnh mẽ của khoa học và công nghệ hiện đại. Những thành tựu mà nhân dân ta thu được trong quá trình đổi mới, sự nhận thức mới về thời đại, về vai trò của khoa học, công nghệ và vai trò của con người trong phát triển KT XH đương đại, cũng như những khó khăn và cả những sai lầm khó tránh... đã được Đảng ta đúc kết thành những bài học có giá trị trong việc chỉ đạo công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Công nghiệp hoá theo hướng hiện đại được coi là nhiệm vụ trọng tâm để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Sự đánh giá khách quan kinh nghiệm của các nước xung quanh nước ta đã CNH thành công đã góp phần giúp Đảng ta, qua các kỳ đại hội, đúc kết thành lý luận CNH đầy đủ hơn ở một đất nước kém phát triển trong điều 3
- kiện toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và kinh tế tri thức ngày càng đóng vai trò quan trọng. Hiện nay, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển rất mạnh mẽ, tạo cơ hội phát triển cho mọi quốc gia, nhất là các nước đang phát triển. Đối với nước ta, nếu tận dụng được những thành tựu của cuộc cách mạng này có thể “đi tắt, đón đầu”, đẩy mạnh và rút ngắn thời gian tiến hành CNH, HĐH đất nước; đồng thời cũng có thể làm n cho chúng ta sẽ tụt hậu ngày càng xa hơn nếu không tận dụng được cơ hội này. Thực tế đó đang đặt ra vấn đề cần phải có những giải pháp phù hợp đối với quá trình CNH, HĐH đất nước hiện nay. Vì vậy, tác giả chọn vấn đề: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện cách mạng công nghiệp lần thứ tư làm đề tài nghiên cứu có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. 2. Mục tiêu, nội dung nghiên cứu * Mục tiêu nghiên cứu Luận giải làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNH, HĐH đất nước, cách mạng công nghiệp lần thứ tư; trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước trong điều kiện cách mạng công nghiệp lần thứ tư. * Nhiệm vụ nghiên cứu Phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về CNH, HĐH đất nước, cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Phân tích, đánh giá thực trạng quá trình CNH, HĐH đất nước thời gian vừa qua. Đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước trong điều kiện cách mạng công nghiệp lần thứ tư. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu 4
- Quá trình CNH, HĐH đất nước. * Phạm vi nghiên cứu Về thời gian: từ năm 2010 đến nay. Về không gian: trên phạm vi cả nước. 4. Kết cấu Ngoài phần mở đầu, đề tài gồm 2 phần (7 tiết), kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Phần 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ 1.1. Một số vấn đề lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và cách mạng công nghiệp lần thứ tư 1.1.1. Một số vấn đề lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước 1.1.1.1. Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa Công nghiệp hoá có lịch sử phát triển khoảng ba trăm năm nay, bắt đầu từ nước Anh vào cuối thế kỷ XVIII, sau đó lan sang các nước ở Tây Âu, Bắc Mỹ... và ngày nay ở các nước đang phát triển. Theo đó, có nhiều cách hiểu khác nhau về công nghiệp hoá như: công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa, công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hoá của các nước đang phát triển. Tổ chức Phát triển công nghiệp của Liên Hiệp Quốc (UNIDO) đã tổng kết hiện có 128 khái niệm về công nghiệp hoá. Các khái niệm này xét về mục đích, phương pháp tiến hành, về điều kiện KT XH 5
- là khác nhau; CNH có tính lịch sử gắn với những điều kiện của mỗi nước trong các thời kỳ khác nhau. Tuy nhiên, theo nghĩa chung nhất, công nghiệp hoá là quá trình chuyển một nền kinh tế lạc hậu, nông nghiệp là chủ yếu thành một nước có nền kinh tế công nghiệp. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng (1 1994) tiếp tục coi công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm có tầm quan trọng hàng đầu, là con đường khả dĩ duy nhất có thể đưa đất nước thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn nữa so với các nước xung quanh, là cách thức để ổn định chính trị, xã hội, bảo vệ độc lập, giữ vững chủ quyền quốc gia và định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa. Hội nghị một lần nữa khẳng định: “chúng ta tiến hành công nghiệp hoá không theo kiểu cũ, không lặp lại sai lầm nóng vội, chủ quan mà Đại hội VI đã phê phán. Công nghiệp hoá thực chất là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế, mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới căn bản về công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế quốc dân” [7, tr. 27]. Ngày 30 tháng 7 năm 1994, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá VII đã ra NQ số 07NQ/HNTW về phát triển công nghiệp, công nghệ đến năm 2000 theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới, trong đó chỉ rõ: “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát 6
- triển của công nghiệp và tiến bộ KHCN, tạo ra năng suất lao động xã hội cao” [8, tr. 4]. 1.1.1.2. Nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Một là, đổi mới, nâng cao trình độ kỹ thuật công nghệ của nền kinh tế theo hướng hiện đại Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước hết là cuộc cách mạng về lực lượng sản xuất nhằm chuyển nền kinh tế dựa trên trình độ KTCN thủ công, năng suất lao động thấp thành nền kinh tế công nghiệp dựa trên trình độ KTCN hiện đại, năng suất lao động cao. Để thực hiện sự cải biến này phải đổi mới và nâng cao trình độ KTCN của nền kinh tế theo hướng hiện đại; thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, tự động hoá sản xuất. Đối tượng đổi mới KTCN là tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Trong đó, cần chú trọng các ngành sản xuất tư liệu sản xuất, các ngành công nghiệp chế biến phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu, một số ngành công nghiệp mới, công nghiệp dựa trên công nghệ cao. Phải đổi mới công nghệ ở các khâu của quá trình tái sản xuất nhằm bảo đảm tính đồng bộ, cân đối của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên, cần đột phá vào những khâu có ý nghĩa quyết định đến nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, các lĩnh vực phục vụ cho phát triển nông nghiệp, nông thôn. Hai là, xây dựng cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hợp lý và hiệu quả Cơ cấu kinh tế là tổng thể các yếu tố cấu thành nền kinh tế, các yếu tố đó có vai trò, tỷ trọng khác nhau, song quan hệ chặt chẽ với nhau, phản ánh tình trạng phân công lao động xã hội và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Dưới những góc độ khác nhau có các dạng cơ cấu kinh tế 7
- như: cơ cấu kinh tế ngành (công nghiệp nông nghiệp dịch vụ); cơ cấu kinh tế vùng; cơ cấu thành phần kinh tế... trong đó cơ cấu kinh tế ngành có tầm quan trọng đặc biệt trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Xây dựng cơ cấu kinh tế là nội dung cơ bản của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Điều quan trọng là phải tạo ra được một cơ cấu kinh tế hợp lý. Đó là một cơ cấu kinh tế phản ánh đúng các quy luật khách quan mà trước hết là quy luật kinh tế; phù hợp với xu thế tiến bộ của KHCN; cho phép khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng của đất nước; thực hiện tốt sự phân công và hợp tác kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ lạc hậu, mất cân đối, ít hiệu quả sang một cơ cấu kinh tế phù hợp với nền sản xuất lớn hiện đại dưới tác động của cách mạng KHCN và xu thế mở cửa, hội nhập. Đối với nước ta, Đảng ta chủ trương phải từng bước xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp nông nghiệp dịch vụ hiện đại gắn với phân công lao động và hợp tác quốc tế sâu rộng. Khi cơ cấu kinh tế này được được hình thành, nước ta sẽ kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 1.1.2. Một số vấn đề lý luận về cách mạng công nghiệp lần thứ tư Cách mạng công nghiệp lần thứ tư bắt đầu xuất hiện từ thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI. Khác với các cuộc cách mạng trước kia, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư là sự gắn quyện giữa các nền công nghệ làm xóa đi ranh giới giữa thế giới vật thể, thế giới số hóa và thế giới sinh học. Đó là các công nghệ internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo, người máy, xe tự lái, in ba chiều, máy tính siêu thông minh, công xưởng thông minh, công nghệ nano, công nghệ sinh học... Internet vạn vật (Internet of Things IoT) là hệ thống mạng điện tử 8
- mới dựa trên công nghệ thông tin và công nghệ truyền thông, không chỉ kết nối con người với vật thể, con người với con người mà còn kết nối cả vật thể với vật thể, làm cho máy móc có thể giao tiếp với máy móc trong môi trường chung đa tầng nấc, đa chiều cạnh thông qua việc sử dụng các công cụ hiện đại: website, email, điện thoại thông minh, mạng truyền thông xã hội, thiết bị điện tử, thiết bị số hóa, thiết bị cảm biến siêu cao... Với internet vạn vật, không gian thực (real sphere) và không gian ảo (virtual sphere); hệ thống vật thể (physical system) và hệ thống số (digital system) giao hòa với nhau ngày càng hữu cơ, làm thay đổi căn bản phương thức tổ chức và vận hành đời sống xã hội cũng như nền sản xuất dịch vụ kinh doanh. Trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence AI) là công nghệ mô phỏng các quá trình tư duy, nhận thức của con người, trong đó có các quá trình học tập, phân tích, xử lý, lập luận, dịch thuật, sáng tác, dự báo, tự điều chỉnh... Hơn nữa, trí tuệ nhân tạo còn mô phỏng được cả một số hành vi của con người, trong đó chứa đựng trạng thái tinh thần, cảm xúc, khả năng ứng xử phù hợp với từng cảnh huống. Trên nền tảng của trí tuệ nhân tạo, các thiết bị tự động sẽ xuất hiện ngày càng nhiều trong quá trình sản xuất vật chất hoạt động kinh doanh, tác chiến quân sự, an ninh và nhiều loại hình lao động khác cũng như trong đời sống thường nhật của con người. Công nghệ in 3 chiều (3D Printing) hay còn được gọi là chế tạo cộng (Additive Manufacturing), là công nghệ tạo ra một sản phẩm vật chất bằng cách bồi đắp dần các lớp vật liệu từ một bản vẽ hay một mô hình 3D có trước. Khác với công nghệ chế tạo truyền thống chế tạo trừ (Reductive Manufacturing), đây là mô hình sản xuất mới, hết sức tùy biến sản xuất ra những sản phẩm theo “số đo” của từng người, theo nhu cầu của từng khách hàng; ngoài ra, quá trình sản xuất những phụ tùng thay thế sẽ rất 9
- tiện lợi: các yêu cầu và thông số kỹ thuật được chuyển cho các tổ chức mẹ, khâu chế tạo sản phẩm sẽ được các công ty con thực hiện tại chỗ nhờ hệ thống máy tính dữ liệu lớn (big data) kết nối đa chiều. Đây thật sự là điểm khởi đầu cho sự hình thành các công xưởng, nhà máy thông minh (Smart Factory) triển khai một nền sản xuất được cá tính hóa (individualized mass production) mà các nhà tư tưởng kinh tế xuất sắc của nhân loại đã dự báo cách đây gần 170 năm. Với mô hình sản xuất 3D ở các nhà máy thông minh, lợi thế cạnh tranh sẽ dịch chuyển từ chi phí, quy mô đầu tư... sang các yếu tố khác (ý tưởng, thiết kế, chức năng riêng biệt, chuỗi cung ứng, dịch vụ...). Khi nền sản xuất này trở thành phổ biến, chắc chắn các quy luật của kinh tế thị trường và sản xuất hàng hóa sẽ phải biểu hiện dưới hình thức mới, khác nhiều so với thời kỳ kinh điển từ trước tới nay. Công nghệ sinh học hiện đại (modern biotechnology) với hạt nhân là công nghệ gen hay công nghệ di truyền (genetic engineering) đã phát triển lên tầm cao của lực lượng sản xuất trực tiếp. Công nghệ gen bao gồm các kỹ thuật thực hiện trên axit nucleic nhằm nghiên cứu cấu trúc của gen; điều chỉnh và biến đổi gen; tách, tổng hợp và chuyển các gen mong muốn vào các tế bào sinh vật chủ mới tạo ra các cơ thể mới (thực vật, động vật, vi sinh vật) mang đặc tính mới. Ngoài ra, công nghệ sinh học hiện đại còn bao gồm công nghệ tế bào, công nghệ enzym và protein, công nghệ vi sinh vật, công nghệ lên men, công nghệ môi trường... 1.1.3. Tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra cơ hội phát cũng như thách thức cho mọi quốc gia, nhất là các nước đang phát triển trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việt Nam có thể tận dụng được những 10
- thành tựu khoa học công nghệ mới, có thể “đi tắt, đón đầu”; đồng thời cũng có thể làm sẽ tụt hậu ngày càng xa hơn nếu không tận dụng được cơ hội này. 1.1.3.1. Về thời cơ Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang mở ra nhiều cơ hội cho các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam. Đây có thể coi là một cơ hội vàng nhằm thúc đẩy sự phát triển của Việt Nam, tiến tới thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển. Cụ thể là: Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 có thể tạo ra lợi thế của những nước đi sau như Việt Nam so với các nước phát triển do không bị hạn chế bởi quy mô cồng kềnh; tạo điều kiện cho Việt Nam bứt phá nhanh chóng, vượt qua các quốc gia khác cho dù xuất phát sau. Việc đi sau và thừa hưởng những thành tựu từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 giúp Việt Nam tiết kiệm được thời gian nghiên cứu để phát huy tối đa các tiềm năng và lợi thế sẵn có. Việt Nam có cơ hội phát triển nhanh nền kinh tế tri thức, đi tắt, đón đầu, tiến thẳng vào lĩnh vực công nghệ mới, tranh thủ thành tựu khoa học và công nghệ, đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế. Các chủ thể trong nền kinh tế có điều kiện tiếp thu và ứng dụng những tiến bộ, thành tựu công nghệ của nhân loại, trước hết là công nghệ thông tin, công nghệ số, công nghệ điều khiển và tự động hóa để nâng cao năng suất, hiệu quả trong tất cả các khâu của nền sản xuất xã hội. Điều này đã tạo ra khả năng nâng cao mức thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người dân. Với ưu thế dân số trẻ, tỷ lệ sử dụng điện thoại thông minh và Internet cao, mức độ tiếp cận ứng dụng khoa học công nghệ tốt, cuộc cách 11
- mạng công nghiệp 4.0 đang tạo ra cho doanh nghiệp Việt Nam những cơ hội lớn trong việc xây dựng và phát triển dữ liệu lớn. Tại sự kiện ngày Internet 2017 do Hiệp hội Internet Việt Nam tổ chức ngày 22 tháng 11 năm 2017 thì Việt Nam hiện có 64 triệu người dùng Internet, xấp xỉ 67% dân số, đạt mức số lượng người dùng Internet đứng thứ 6 châu Á và thứ 12 trên thế giới. Ngoài ra, Việt Nam là nước có kết nối internet bằng điện thoại di động cao, có đến 55% người Việt sở hữu điện thoại thông minh, trong khi chỉ có 46% người sở hữu máy tính cá nhân. Đến năm 2020 cứ 10 người Việt sẽ có 8 người dùng điện thoại di động, hoạt động kinh doanh online sẽ tăng trưởng 40%. Theo bà Tammy Phan Giám đốc đối tác chiến lược và kênh bán hàng Việt Nam của Google thì sử dụng dụng điện thoại di động giúp phát triển 11 kinh tế. Cứ tăng thêm 1% số người dùng sẽ đóng góp hơn 100 triệu USD và GDP năm 2020, và tạo thêm 140.000 việc làm mới. Như vậy, có thể thấy, Việt Nam đang có cơ hội trong việc xây dựng dữ liệu lớn, làm nền tảng triển khai các trụ cột khác của nền công nghiệp 4.0. 1.1.3.1. Về thách thức Một là, thách thức trong lĩnh vực giải quyết việc làm: chuyển dịch cơ cấu lao động trong gần 30 năm qua của Việt Nam rất chậm và chậm hơn nhiều nếu so với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nền kinh tế Việt Nam hiện nay vẫn dựa nhiều vào các ngành sử dụng lao động giá rẻ và khai thác tài nguyên thiên nhiên. Trình độ lạc hậu của người lao động và của cả nền kinh tế chính là trở ngại lớn nhất để chúng ta bắt kịp với các thành tựu khoa học, công nghệ trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0. Trong tương lai, nhiều lao động trong các ngành nghề của Việt Nam có thể thất nghiệp, ví dụ như lao động ngành dệt may, giày dép. Hai là, chất lượng nguồn nhân lực của Việt nam còn rất nhiều hạn 12
- chế. Tỷ lệ lao động trong độ tuổi đã qua đào tạo còn thấp. Theo số liệu thống kê điều tra lao động việc làm quý 2 năm 2017 thì có tới 78.4% lao động không có trình độ chuyên môn kỹ thuật; 9.48% lao động có trình độ đại học trở lên; 3.17% lao động có trình độ cao đẳng; 5.42% lao động có trình độ trung cấp; 3.53% lao động có trình độ sơ cấp. Thêm vào đó, những người lao động có trình độ đại học trở lên vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động. Vì vậy tỷ lệ thất nghiệp đang có xu hướng gia tăng trong số lao động có trình độ cao. Theo Bản tin Thị trường lao động số 15, tại thời điểm quí 3 năm 2017 số người thất nghiệp có trình độ từ đại học trở lên tăng 53,9 nghìn người so với quí 2 năm 2017 ở mức 237 nghìn người, tương đương 4,51%6 . Ba là, năng suất lao động còn thấp so với khu vực. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năng suất lao động toàn nền kinh tế theo giá hiện hành năm 2017 ước tính đạt 93,2 triệu đồng/lao động (tương đương 4.166 USD/lao động). Tính theo năng suất lao động theo sức mua tương đương năm 2011, năng suất lao động của Việt Nam năm 2016 đạt 9.894 USD, chỉ bằng 7,0% mức năng suất của Xingapo; 17,6% của Malaixia; 36,5% của Thái Lan; 42,3% của Inđônêxia và bằng 56,7% năng suất lao động của Philipin. Đáng báo động là chênh lệch về năng suất lao động giữa Việt Nam với các nước vẫn tiếp tục gia tăng. Điều này cho thấy khoảng cách và thách thức nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt trong việc bắt kịp mức năng suất lao động của các nước. Bốn là, trình độ khoa học công nghệ của nước ta đang ở vị trí thấp so với mức trung bình của thế giới. Theo thống kê của Bộ Khoa học và Công nghệ năm 2015, thì hiện nay cả nước có gần 600 nghìn doanh nghiệp, với hơn 90% là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Phần lớn đều đang sử dụng công nghệ tụt hậu so với mức trung bình của thế giới từ 23 thế hệ. Trong đó, 13
- có đến 76% máy móc, dây chuyền công nghệ nhập thuộc thế hệ những năm 60 70 của thế kỷ trước, 75% số thiết bị đã hết khấu hao, 50% thiết bị là đồ tân trang..., chỉ có 20% là nhóm ngành sử dụng công nghệ cao. Một khảo sát khác từ Chương trình phát triển của Liên hợp quốc cho thấy, tỷ lệ giá trị nhập khẩu công nghệ, thiết bị mỗi năm tại Việt Nam chưa đến 10% tổng kim ngạch nhập khẩu, trong khi tỷ lệ tại các nước đang phát triển khác lên đến 40%. Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2017 2018, Việt Nam được xếp hạng chung là 55/137 quốc gia, trong khi các chỉ số cấu phần liên quan đến đổi mới sáng tạo lại thấp hơn nhiều. Năm là, quy mô doanh nghiệp Việt Nam quá nhỏ bé, số doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ chiếm gần 98% tổng số doanh nghiệp của cả nước, phần lớn doanh nghiệp chưa đạt được quy mô tối ưu (50 99 lao động) để có được mức năng suất lao động cao nhất. Số lượng doanh nghiệp lớn còn ít (chỉ chiếm 2,1%), doanh nghiệp chưa xâm nhập được vào các thị trường, trung tâm công nghệ của thế giới, do đó, chưa thực hiện được chức năng cầu nối về công nghệ tri thức của thế giới vào thị trường trong nước. Doanh nghiệp tham gia các hoạt động liên quan đến sáng tạo còn hạn chế, chưa tham gia sâu trong chuỗi cung ứng toàn cầu nên chưa tận dụng được tính lan tỏa của tri thức, công nghệ và năng suất lao động từ các công ty, tập đoàn xuyên quốc gia vào doanh nghiệp trong nước. Thêm vào đó mức độ sẵn sàng cho nền sản xuất tương lai. Sáu là, các nước công nghiệp mới nổi và nhiều nước đang phát triển đều cạnh tranh quyết liệt, tìm cách thu hút, hợp tác để có đầu tư, chuyển giao công nghệ, nhanh chóng ứng dụng những thành tựu công nghệ từ cuộc Cách mạng công nghiệp thứ tư đem lại để giành lợi thế phát triển. Đây cũng chính là áp lực lớn cho Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việt Nam cần tỉnh táo trong hội nhập, hợp tác quốc tế, phát 14
- triển nền kinh tế thị trường nhất là thị trường khoa học công nghệ, cải thiện đổi mới môi trường đầu tư kinh doanh, tích lũy đầu tư để thu hút chuyển giao, ứng dụng nhanh những thành tựu khoa học công nghệ vào phát triển nền kinh tế, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bảy là, quản trị nhà nước cũng là một trong những thách thức lớn nhất đối với nước ta. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước sẽ gặp nhiều khó khăn nếu công cuộc cải cách cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng được Nhà nước đề ra trong thời gian qua thực hiện không thành công. Bên cạnh đó, những thách thức về an ninh phi truyền thống sẽ tạo ra áp lực lớn nếu Nhà nước không đủ trình độ về công nghệ và kỹ năng quản lý để ứng phó. 1.2. Thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thời gian qua 1.2.1. Một số thành tựu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thời gian qua 1.2.1.1. Về khoa học công nghệ * Tiềm lực khoa học và công nghệ đã được tăng cường và phát triển Nhờ có sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước, trong nhiều thập kỷ qua, chúng ta đã đào tạo được trên 1,8 triệu cán bộ có trình độ đại học và cao đẳng trở lên với trên 30 nghìn người có trình độ trên đại học (trên 14 nghìn tiến sĩ và 16 nghìn thạc sĩ) và khoảng hơn 2 triệu công nhân kỹ thuật; trong đó, có khoảng 34 nghìn người đang làm việc trực tiếp trong lĩnh vực KHCN thuộc khu vực nhà nước. Đây là nguồn nhân lực quan trọng cho hoạt động KHCN của đất nước. Thực tế cho thấy, đội ngũ này có khả năng tiếp thu tương đối nhanh và làm chủ được tri thức, công nghệ hiện đại trong một số ngành và lĩnh vực. 15
- Thời gian qua, đã xây dựng được một mạng lưới các tổ chức KHCN với trên 1.100 tổ chức nghiên cứu và phát triển thuộc mọi thành phần kinh tế, trong đó có gần 500 tổ chức ngoài nhà nước; 197 trường đại học và cao đẳng, trong đó có 30 trường ngoài công lập. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật của các viện, trung tâm nghiên cứu, các phòng thí nghiệm, các trung tâm thông tin khoa học công nghệ, thư viện, cũng được tăng cường và nâng cấp. Đã xuất hiện một số loại hình gắn kết tốt giữa nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ với sản xuất kinh doanh. Mặc dù ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, nhưng với sự nỗ lực rất lớn của Nhà nước, từ năm 2000 tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho KHCN đã đạt 2%, đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình thực hiện chính sách đầu tư phát triển KHCN của Đảng và Nhà nước. * Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ từng bước được đổi mới Hệ thống quản lý nhà nước về KHCN được tổ chức từ trung ương đến địa phương đã đẩy mạnh phát triển KHCN , góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển KT XH của ngành và địa phương. Thực hiện Luật Khoa học và công nghệ, các chương trình, đề tài, dự án KHCN đã bám sát hơn nhiệm vụ phát triển KT XH. Cơ chế tuyển chọn tổ chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ KHCN đã bước đầu được thực hiện theo nguyên tắc dân chủ, công khai. Hoạt động của các tổ chức KHCN đã mở rộng từ nghiên cứu phát triển đến sản xuất và dịch vụ KHCN . Quyền tự chủ của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động KHCN bước đầu được tăng cường. Quyền tự chủ về hợp tác quốc tế của tổ chức, cá nhân hoạt động KHCN được mở rộng. Vốn huy động cho KHCN từ các nguồn hợp đồng với khu vực sản xuất kinh doanh, tín dụng ngân hàng, tài trợ quốc tế và các nguồn khác, 16
- tăng đáng kể nhờ chính sách đa dạng hoá nguồn vốn đầu tư cho KHCN. Đã cải tiến một bước việc cấp phát kinh phí đến nhà khoa học theo hướng giảm bớt các khâu trung gian. Việc phân công, phân cấp trong quản lý nhà nước về KHCN từng bước được hoàn thiện thông qua các quy định về chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. * Trình độ nhận thức và ứng dụng khoa học và công nghệ của nhân dân ngày càng được nâng cao Nhờ có sự quan tâm của tổ chức Đảng, chính quyền các cấp, hoạt động tích cực của các tổ chức KHCN, các tổ chức khuyến nông, lâm, ngư và công tác phổ biến, tuyên truyền rộng rãi về tác động của KHCN đến sản xuất và đời sống, nhận thức và khả năng tiếp thu, ứng dụng tri thức KHCN của người dân trong thời gian qua đã tăng lên rõ rệt. Hoạt động KHCN ngày càng được xã hội hoá trên phạm vi cả nước. 1.2.1.2. Về cơ cấu kinh tế * Về cơ cấu thành phần kinh tế: Cơ cấu thành phần kinh tế đã có sự chuyển dịch khá rõ. Trước hết là trong cơ cấu GDP, tỷ trọng khu vực Nhà nước đã giảm xuống còn dưới 1/3; của khu vực tập thể còn rất thấp (5,05%); của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã chiếm gần 20%; còn khu vực kinh tế tư nhân chiếm trên dưới 11%... Vốn đầu tư đã có sự chuyển dịch theo hướng khai thác các nguồn lực của các thành phần kinh tế ở trong nước và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực Nhà nước đã giảm xuống còn 39,3% (thời kỳ 20112013); của khu vực ngoài Nhà nước tăng lên 38,1%; của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 17
- lên 22,6% (thời kỳ 20112013). Về tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng, tỷ trọng kinh tế Nhà nước giảm xuống còn 10,2% năm 2013; tỷ trọng của khu vực ngoài Nhà nước tăng lên 86,7%, trong đó của kinh tế tập thể giảm còn 1%, của kinh tế tư nhân đã chiếm trên dưới 1/3; tỷ trọng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 3,1%... * Về cơ cấu vùng kinh tế: Đã xây dựng được một cơ cấu vùng hợp lý theo hướng phát huy lợi thế từng vùng. Hiện nay cả nước có sáu vùng KT XH và bốn vùng kinh tế trọng điểm. Sáu vùng KT XH bao gồm: vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ (Tây Bắc và Đông Bắc), vùng Đồng bằng sông Hồng, vùng Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, vùng Tây Nguyên, vùng Đông Nam Bộ, vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Bốn vùng kinh tế trọng điểm bao gồm: vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, gồm 7 tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh và Quảng Ninh; vùng kinh tế trọng điểm phía Nam gồm 8 tỉnh, thành phố: Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Long An, Tiền Giang; vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung gồm 5 tỉnh, thành phố: Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định; vùng Kinh tế trọng điểm Đồng bằng sông Cửu Long, gồm 4 tỉnh, thành phố: Cần Thơ, An Giang, Cà Mau và Kiên Giang. * Về cơ cấu ngành kinh tế: Cơ cấu các ngành kinh tế đã có sự dịch chuyển tích cực theo hướng CNH, HĐH. Tỷ trọng ngành nông nghiệp trong GDP giảm xuống còn 18,9% năm 2010 và ở mức 18,12% năm 2014. Tỷ trọng ngành công nghiệp và xây dựng trong GDP tăng lên 38,5% năm 2014. Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP đã tăng lên 42,88% năm 2010 và khoảng 43,38% năm 2014. Quá trình 18
- chuyển dịch cơ cấu trong từng ngành cũng đã gắn nhiều hơn với các yêu cầu về CNH, HĐH. Trong cơ cấu ngành công nghiệp, tỷ trọng giá trị sản xuất của công nghiệp khai khoáng giảm dần, trong khi tỷ trọng của ngành công nghiệp chế biến tăng. Các ngành dịch vụ phát triển đa dạng, từng bước đáp ứng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống. Trong đó, các ngành dịch vụ gắn với CNH, HĐH như dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý, bưu chính viễn thông... phát triển nhanh, chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong GDP. * Về cơ cấu lao động: Cơ cấu lao động đã có sự chuyển đổi tích cực. Gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phục vụ tốt hơn các mục tiêu CNH, HĐH. Tỷ trọng lao động ngành nông nghiệp đã giảm mạnh xuống khoảng 47% năm 2014. Tỷ trọng lao động ngành công nghiệp xây dựng và dịch vụ tăng liên tục, trong đó, ngành công nghiệp, xây dựng tăng lên 20,8% năm 2014; ngành dịch vụ tăng lên 32,2% năm 2014. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng lên khoảng 40% năm 2010 và đến năm 2014 là 49%. 1.2.2. Một số hạn chế của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thời gian qua 1.2.2.1. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu lao động diễn ra chậm Chuyển dịch cơ cấu kinh tế bao gồm cả cơ cấu ngành, cơ cấu lao động đã “chững lại” trong nhiều năm nhưng chậm có sự điều chỉnh phù hợp. Các ngành dịch vụ sử dụng tri thức, KHCN phát triển còn chậm. Nếu như trong giai đoạn đầu của quá trình CNH, HĐH, cơ cấu kinh tế có tốc độ chuyển dịch khá, cơ cấu ngành nông nghiệp trong GDP giảm mạnh xuống 19,3% năm 2005, thì từ năm 2006 đến nay, tỷ trọng ngành nông nghiệp trong GDP giảm không đáng kể. Năm 2014, ngành nông nghiệp vẫn chiếm 19
- hơn 18% GDP, năm 2018 là 14,57%, cao hơn đáng kể so với tỷ trọng ngành nông nghiệp trong GDP của các nước xung quanh (tỷ trọng ngành nông nghiệp trong GDP của Trung Quốc là 10,1%, của Indonesia là 14,4%, của Malaixia là 10,1% và của Thái Lan là 12,3%). 1.2.2.2. Cơ cấu vùng kinh tế còn nhiều bất cập Bên cạnh những kết quả tích cực mang lại từ liên kết vùng, thực tế cũng cho thấy quy hoạch tổng thể phát triển KTXH vùng và quy hoạch ngành theo vùng hiện nay của nước ta chưa thực sự là công cụ hữu hiệu để định hướng, điều phối, phân bổ ngân sách, thu hút nguồn lực, đầu tư, quản trị không gian KTXH, đặc biệt là thực hiện vai trò liên kết nội vùng. Các vùng kinh tế trọng điểm chưa thực sự phát huy vai trò đầu tàu, thiếu tác dụng lan tỏa, hiệu quả đầu tư chưa vượt trội; các vùng khó khăn phát triển thiếu bền vững, khoảng cách giữa các vùng chưa được thu hẹp; liên kết vùng còn yếu, nhất là giữa các tỉnh và thành phố. Trong khi đó, vai trò vĩ mô của Nhà nước trong việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển các vùng kinh tế; tập trung các nguồn lực quốc gia và xã hội phát triển hạ tầng để phát triển kinh tế vùng và tăng cường liên kết vùng còn hạn chế. Hiện nay, vẫn còn tồn tại tình trạng hầu hết các tỉnh, thành và các vùng đều có những dấu hiệu “thu nhỏ” của quốc gia, nên quy hoạch, kế hoạch chưa làm rõ được tính đặc thù, thế mạnh của mỗi địa phương và liên kết nội vùng. Chất lượng quy hoạch phát triển KTXH vùng còn nhiều bất cập, tình trạng quá nhiều quy hoạch ở cấp địa phương, quy hoạch dàn trải, không tính đến lợi ích kinh tế chung và lợi ích cộng đồng đã gây ra lãng phí và phức tạp trong thực hiện. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận "Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở nước ta hiện nay"
26 p | 3366 | 757
-
Tiểu luận: Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở nước ta thực trạng và giải pháp
19 p | 1704 | 525
-
Tiểu luận "Vấn đề cơ bản về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn"
25 p | 1078 | 405
-
Luận văn "Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở nước ta thực trạng và giải pháp"
23 p | 497 | 236
-
Tiểu luận "Vận dụng lí luận giá trị sức lao động để chứng minh căn cứ khoa học việc đẩy mạnh Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn của Đảng và trình bày những nội dung chính của đường lối này”
11 p | 711 | 217
-
Luận văn "Công nghiệp hoá ,hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở Việt Nam"
42 p | 528 | 192
-
Tiểu luận triết học - Một số vấn để về thực tiễn và lý luận trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hóa
18 p | 507 | 190
-
Luận văn: Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở nước ta hiện nay
26 p | 761 | 190
-
Luận văn " công nghiệp hóa - hiện đại hóa "
24 p | 385 | 138
-
Tiểu luận triết học - CÔNG NGHIỆP HOÁ-HIỆN ĐẠI HOÁ VÀ CÔNG NGHIỆP HOÁ-HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG THÔN.
27 p | 364 | 103
-
Luận văn về 'Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở nước ta thực trạng và giải pháp'
24 p | 257 | 98
-
LUẬN VĂN: Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở nước ta thực trạng và giải pháp
29 p | 218 | 92
-
Luận văn: CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN Ở THÁI NGUYÊN (GIAI ĐOẠN 1997 - 2007)
97 p | 221 | 73
-
Đề tài: “Kinh nghiệm công nghiệp hóa hiện đại hóa của Hàn Quốc”
188 p | 147 | 36
-
Tiểu luận: Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở Việt Nam hiện nay
25 p | 174 | 35
-
TIỂU LUẬN: Một số vấn để về thực tiễn và lý luận trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt Nam
16 p | 123 | 10
-
Luận án Tiến sĩ Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử: Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức nữ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay
188 p | 17 | 8
-
Tiểu luận: Vận dụng lý luận giá trị sức lao động để chứng minh căn cứ khoa học việc đẩy mạnh Công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn của Đảng và trình bày những nội dung chính của đường lối này
10 p | 125 | 6
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn