intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: “Kinh nghiệm công nghiệp hóa hiện đại hóa của Hàn Quốc”

Chia sẻ: Cung Ru | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:188

148
lượt xem
36
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Khái niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá 1.1.1.1. Các quan niệm về công nghiệp hoá Ngày nay, công nghiệp hoá, hiện đại hoá mang tính tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế của các quốc gia. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường để biến một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thành một nền kinh tế hiện đại, mà công nghiệp có vai tròđặc biệt quan trọng. Với cách tiếp cận khác nhau thì quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng có...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: “Kinh nghiệm công nghiệp hóa hiện đại hóa của Hàn Quốc”

  1. Đề tài: “Kinh nghiệm công nghiệp hóa hiện đại hóa của Hàn Quốc”
  2. Chương I CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ 1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CÁC MÔ HÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN 1.1.1. Khái niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá 1.1.1.1. Các quan niệm về công nghiệp hoá Ngày nay, công nghiệp hoá, hiện đại hoá mang tính tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế của các quốc gia. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường để biến một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thành một nền kinh tế hiện đại, mà công nghiệp có vai tròđặc biệt quan trọng. Với cách tiếp cận khác nhau thì quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng có những điểm không hoàn toàn giống nhau và tất nhiên sẽ dẫn đến những chính sách và giải pháp thực thi cũng khác nhauđối với từng nước, thậm chíđối với một quốc gia trong những thời kỳ lịch sử khác nhau. Điều đóđược thể hiện khá rõở sựđa dạng trong việc lựa chọn mo hình công nghiệp hoá, hiện đại hoáở các nước trên thế giới. Từ thực tế cho thấy, công nghiệp hoá là khái niệm mang tính lịch sử. Nó gắn liền sự xuất hiện của công nghiệp với việc thay thế lao động thủ công bằng lao động cơ khí hoá. Như vậy, khái niệm công nghiệp hoá chỉ xuất hiện từ cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất, khởi đầu ở nước Anh vào thế kỷ 18. Đến thế kỷ 19, khái niệm này mới được làm rõ dần với quan niệm coi đóquá trình biến một lĩnh vực sản xuất nào đó, hoạt động với sự trợ giúp đắc lực và sựđóng góp lớn của hoạt động cơ khí. Do công nghiệp phát triển nhanh chóng từđơn giản đến phức tạp với trình độ cơ khí hoá, tựđộng hoá ngày càng cao nên ý nghĩa của khái niệm công nghiệp hoá cũng ngày càng mở rộng ra. Vì
  3. vậy, khi có một quan niệm đúng về công nghiệp hoá sẽý nghĩa đối với khoa học và hoạch định chính sách trong thực tiễn. Công nghiệp hoá là quá trình rất phức tạp, bao gồm nhiều khía cạnh khó phân biệt về thời gian, vềđịnh tính hay định lượng. Do vậy, tuỳ theo cách nhìn khác nhau mà người ta có những quan niệm khác nhau về công nghiệp hoá và bản chất của nó. Quan niệm đơn giản nhất cho rằng "Công nghiệp hoá làđưa tính đặc thù công nghiệp cho một hoạt động (của một vùng, một nước) với các nhà máy, các loại hình công nghiệp" [32]. Quan niệm này được hình thành trên cơ sở khái quát quá trình lịch sử công nghiệp hoáở các nước Tây Âu và Bắc Mỹ. Trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, các nước này chỉ chủ yếu tập trung vào phát triển các ngành công nghiệp, nên sự chuyển biến của các hoạt động kinh tế - xã hội khác chỉ là hệ quả của quá trình phát triển công nghiệp, mà không phải làđối tượng trực tiếp của công nghiệp hoá. Quan niệm giản đơn trên đây có những mặt chưa hợp lý. Trước hết, nó không cho thấy mục tiêu của quá trình công nghiệp hoá cần thực hiện. Thứ hai, nội dung quan niệm này gần nhưđồng nhất quá trình công nghiệp hoá với quá trình phát triển công nghiệp. Thứ ba, quan niệm này cũng không thể hiện được tính lịch sử của quá trình công nghiệp hoá. Do vậy, quan niệm này được vận dụng rất hạn chế trong thực tiễn. Quan niệm phổ biến ở Liên Xô trước đây cho rằng "công nghiệp hoá là quá trình xây dựng nền đại công nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả nông nghiệp". Đó là sự phát triển các ngành công nghiệp nặng mà cốt lõi là ngành chế tạo cơ khí, do đó tỷ trọng công nghiệp trong tổng sản phẩm xãhội ngày càng lớn. Quan niệm trên xuất phát từ thực tiễn của Liên Xô khi triển khai công nghiệp hoá. Liên Xôđã có một số tiền để ban đầu là công nghiệp đã phát triển triển đến trình độ nhất định dưới chủ nghĩa tư bản trước đây, dù trong thời kỳ nội chiến (1918-1920) công nghiệp có bị tàn phá nặng nề. Bên cạnh đó, trong thời kỳ tiến hành công hoá (1926-1940), Liên Xô bị chủ nghĩa đế
  4. quốc bao vây toàn diện nên sự trợ giúp từ bên ngoài hầu như không có. Trong bối cảnh ấy, để tồn tại và phát triển Liên Xô phải tiến hành công nghiệp hoá với nhịp độ nhanh, phải tập trung cao độ phát triển công nghiệp nặng, phải hướng các ngành công nghiệp vào phục vụ nông nghiệp nhằm bảo đảm các nhu cầu trong nước, đồng thời góp phần tăng nhanh tiềm lực quốc phòng. Quan niệm này, nhiều năm trước đây được coi là hợp lý vàđược áp dụng ở một số nước XHCN và các nước đang phát triển nhằm xây dựng nền kinh tếđộc lập tự chủ. Thực tế, việc sao chép một cách máy móc mô hình công nghiệp hoá của Liên Xôđã không đem lại kết quả như mong muốn ở những nước này. Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp quocó (UNIDO) đãđưa ra định nghĩa sau đây (vào năm 1963): "Công nghiệp hoá là một quá trình phát triển kinh tế, trong quá trình này một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của cải quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành ở trong nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này là có một bộ phận chế biến luôn thay đổi để sản xuất ra những tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng, có khả năng bảo đảm cho toàn bộ nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, bảo đảm đạt tới sự tiến bộ về kinh tế - xã hội" [15]. Khái niệm này nói lên rằng công nghiệp hoá là quá trình bao trùm toàn bộ quá trình phát triển kinh tế - xã hội nhằm đạt tới không chỉ sự tăng trưởng kinh tế mà còn cả sự tiến bộ xã hội. Đồng thời quá trình công nghiệp hoá trong điều kiện ngày nay cũng gắn liền với quá trình hiện đại hoá nền kinh tế, trong mọi mặt hoạt động kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, định nghĩa trên đây lại quá dài với ý tưởng dung hoà nhiều ý kiến khác nhau, nên nó mang tính chất một phương hướng thực thi hơn là một khái niệm. Một định nghĩa được dùng phổ biến ở nước ta hiện nay cóý nghĩa tương đối bao quát và phù hợp về công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời đại ngày nay do Báo cáo Hội nghị Trung ương 7 (khoá VII) đưa ra là "quá trình chuyển
  5. đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ vàquản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính, sang sử dụng phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - cong nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao" [81]. Định nghĩa này đã nói lên được phạm vi và vai tròđặc biệt quan trọng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong phát triển kinh tế - xã hội; gắn liền được hai phạm trù không thể tách rời là công nghiệp hoá và hiện đại hóa. Nó cũng xác định vai trò không thể thiếu của khoa học - công nghệ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Từ lịch sử công nghiệp hoá trên thế giới và xem xét các quan niệm trên, theo tác giả, nội dung của kháiniệm "công nghiệp hoá" có thể bao gồm những vấn đề chính sau đây: Thứ nhất, công nghiệp hoá là một sự biến đổi cơ cấu kinh tế nhiều ngành trong nước với kỹ thuật hiện đại trong đó có sự biến đổi từ kinh tế nông nghiệp và lao động thủ công sang nền kinh tếđược gọi là "công nghiệp", trước hết là công nghiệp cơ khí chế tạo. Thứ hai, quá trình chuyển từ sản xuất nhỏ thủ công có năng suất thấp và tăng trưởng chậm lên sản xuất lớn, kỹ thuật hiện đại có năng suất cao và tăng trưởng nhanh. Thứ ba, công nghiệp hoá phải được đặt trong bối cảnh phát triển kinh tế- xã hội nói chung. Đó là cách đểđạt được tăng trưởng, phát triển nhanh và bền vững. Tuy công nghiệp hoá có thể phát sinh những hậu quả tiêu cực nhất định về xã hội (thất nghiệp và các hậu quả của thất nnghiệp), về môi trường (ô nhiễm) và về văn hóa (bào mòn các giá trị truyền thống), nhưng, công nghiệp hoá với cách hiểu trên vẫn luôn luôn là cách thức phát triển mà các quốc gia từmột nền kinh tế lạc hậu, chủ yếu là nông nghiệp, muốn nhanh chóng vươn lên một trình độ phát triển cao đều nhất thiết phải trải qua. Vấn đềđặt ra
  6. không phải là có nên công nghiệp hoá hay không, mà chính là tiến hành công nghiệp hoá như thế nào? hay nói một cách khác làm thế nào để thực hiện công nghiệp hoá một cách có hiệu quả. 1.1.1.2. "Công nghiệp hoá" và "hiện đại hoá" Công nghiệp hoá là quá trình trang bị công nghệ và thiết bị cơ khí hoá cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân, trước hết là các ngành chiếm vị trí quan trọng. Công nghiệp hoáđã làm thay đổi căn bản phương thức sản xuất với kỹ thuật, công nghệ và tổ chức sản xuất truyền thống. Hiện đại hoá là quá trình thường xuyên cập nhật và nâng cấp những công nghệ hiện đại nhất, mới nhất trong quá trình công nghiệp hoá. Đa số các ý kiến của các nhà nghiên cứu cho rằng hiện đại hoá là quá trình liên tục hiện đại nền kinh tế, thay đổi công nghệ cũ bằng công nghệ mới tiên tiến hơn. Thực chất, hiện đại hoá là cái đích cần vươn tới trong quá trình công nghiệp hoá. Cái đích này không cốđịnh hay duy nhất đối với một quốc gia hay một ngành nghề mà nó luôn thay đổi theo sự phát triển của khoa học kỹ thuật và trình độ văn minh chung của nhân loại. Nó còn phụ thuộc cả và loại ngành nghề, từng khu vực khác nhau ngay trong một nước. Xu thế chung của thế giới ngày nay là thực hiện đổi mới công nghệ nhanh chóng, rút ngắn chu kỳ sống của mỗi loại công nghệ. Điều cần phấn đấu làđưa trình độ khoa học - công nghệ của đất nước theo kịp với trình độ hiện đại chung của thế giới. Tuỳđiều kiện cụ thể của mỗi ngành, mỗi lĩnh vực hoạt động mà xác định trình độ công nghệ thích ứng. Quan niệm một cách giản đơn về công nghiệp hoá, hiện đại hoá dẫn tới việc tiếp thu công nghệ không chọn lọc. Do sự thiếu hiểu biết và thiếu thông tin đã dẫn nhiều nước đang phát triển phải trả giá quá lớn và tốc độ hiện đại hoá không được đẩy nhanh. Vào cuối thế kỷ 20, với những thay đổi nhanh chóng của cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ thì việc hiện đại hoáđối với các nước rất khóđạt được. Ngay cả những nước phát triển cũng dễ dàng bị tụt hậu. Vì vậy,
  7. các nước đi sau trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá buộc phải chia quá trình này thành nhiều giai đoạn với mục tiêu của giai đoạn sau là hiện đại hoá những gì mà giai đoạn trước đãđạt được. Đối với mỗi giai đoạn phát triển, người ta thường dùng một số chỉ tiêu nhằm đánh giá kết quả công nghiệp hoá, hiện đại hoá, ví dụ như mức đóng góp của công nghiệp trong GDP, tỷ trọng lao động trong công nghiệp trong tổng lao động xã hội… Thực hiện công nghiệp hoá trong điều kiện cách mạng khoa học kỹ thuật ngày nay, quá trình trang bị công nghệ cho các ngành phải gắn liền với quá trình hiện đại hoáở cả phần cứng và phần mềm của công nghệ. Quá trình này cũng đồng thời là quá trình xây dựng xã hội văn minh công nghiệp và cải biến các ngành kinh tế, các hoạt động theo phong cách của nền công nghiệp lớn hiện đại. Quá trình ấy phải tác động làm cho nhịp độ tăng trưởng kinh tế - xã hội nhanh vàổn định, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp dân cư, thu hẹp dần chênh lệch trình độ kinh tế - xã hội của đất nước với các nước phát triển. Trong đó những nước đi sau đã có một sốít nước (trong đó có Hàn Quốc) thực hiện được hiện đại hoá tương đối cao trong thời gian ngắn. 1.1.2. Bản chất của công nghiệp hoá, hiện đại hoá Trong điều kiện ngày nay, quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá dù trên góc độ nào đó cũng có phần khác với quá trình phát triển công nghiệp. tuy quá trình công nghiệp hoá có những đặc điểm riêng đối với từng nước, nhưng đó chỉ là sự vận dụng một quá trình có tính phổ biến cho phù hợp với điều kiện cụ thể của từng nước. Công nghiệp hoá, là quá trình có tác động rộng lớn và phức tạp, bản chất của quá trình này bao hàm trên các mặt sau đây: Thứ nhất, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một phương thức có tính chất phổ biến để thực hiện mục tiêu trong phát triển của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Mỗi nước vì có hệ thống mục tiêu riêng của mình mà lựa chọn
  8. phương thức công nghiệp hoá phù hợp. Nhưng mục tiêu chung nhất của mọi quốc gia là nhằm tăng nhanh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất mọi mặt của mọi tầng lớp dân cư thông qua việc tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật ngày càng hiện đại, huy động và sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực của đất nước. Thứ hai, công nghiệp hoá phải gắn liền với hiện đại hoá. Trong lịch sử công nghiệp hoáđã diễn ra hàng trăm năm ở các nước trên thế giới, công nghiệp hoá và hiện đại hoá luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Vì hiện đại hoáđểđạt tới trình độ kỹ thuật hiện đại nhất là một yêu cầu cơ bản của quá trình công nghiệp hoá. Thực tễ kỹ thuật hiện đại nhất đối với mỗi giai đoạn lịch sử có giới hạn nhất định và luôn luôn thay đổi theo thời gian. Chính vì vậy, hiện đại hoá không phải là một quá trình độc lập mà là một hoạt động có tính liên tục của công nghiệp hoá gắn liền với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, hay là một quá trình kế tiếp đểđạt được mục tiêu của công nghiệp hoá. Vào thế kỷ 18-19 ở Anh và Tây Âu thì hiện đại hoá là việc áp dụng máy móc với hệ thống động lực máy hơi nước thay thế cho lao động cơ bắp. Đến thế kỷ 20 cóđiện năng thì hiện đại hoá chính là dựa trên điện khí hoá như khẩu hiệu V.Lênin đã vạch ra cho nước Nga. Ngày nay, với những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới thì hiện đại hoá gắn liền với tựđộng hoá, tin học hó và nền kinh tế tri thức. Nói chung, hiện đại hoá chính là chỉ phương tiện, điều kiện đểđạt tới mục tiêu của quá trình công nghiệp hoá, vì vậy nó không thể tách rời công nghiệp hoá. Thứ ba, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình tác động đến tất cả các ngành, các lĩnh vực hoạt động của một nền kinh tế. Vì trong một chỉnh thể kinh tế của một quốc gia, các ngành các lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội có quan hệ mật thiết và tác động qua lại với nhau. Sự thay đổi ở ngành, lĩnh vực này sẽ dẫn tới sự thay đổi ở các ngành, các lĩnh vực khác. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
  9. tế quốc dân và cơ cấu lao động. Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá chuyển dịch cơ cấu làm cho vị trí của ba khu vực kinh tế: công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ luôn luôn thay đổi. - Giai đoạn đầu: nông nghiệp giữ vị trí quan trọng nhất vì nó tạo ra lương thực, thực phẩm nuôi sống con người hàng ngày và những hàng hoá tiêu dùng thiết yếu nhất. Đồng thời nông nghiệp cũng tạo ra những điều kiện tiền để quan trọng ban đầu cho phát triển công nghiệp. - Đến khi nhu cầu cơ bản của người dân cưđược bảo đảm thì tỷ trọng lao động nông nghiệp và giá trị sản lượng nông nghiệp trong nền kinh tế sẽ giảm đi để nhường chỗ cho sự phát triển tăng dần của khu vực công nghiệp và dịch vụ. - Công nghiệp luôn được coi là ngành mấu chốt tạo ra sự phát triển xã hội. Vì vậy, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, công nghiệp được mọi quốc gia ưu tiên đầu tư phát triển. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá không đồng nhất với phát triển công nghiệp, nhưng không thể tiến hành quá trình này nếu không chú trọng phát triển mạnh công nghiệp. Vì vậy, vai trò, vị trí của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân ngày càng tăng lên trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. - Hoạt động dịch vụ cả phục vụ sản xuất và phục vụđời sống làđiều kiện không thể thiếu để phát triển kinh tế và nâng cao đời sống dân cư. Không thể công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhanh trên cơ sở hệ thống dịch vụ và kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội yếu kém. Để tạo tiền đề cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần chú trọng đầu tư thoảđáng phát triển dịch vụ kết cấu hạ tầng để phát triển sản xuất và thu hút nguồn lực từ bên ngoài. Trong các giai đoạn của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vị trí của khu vực dịch vụ sẽ có sự thay đổi căn bản trong cơ cấu kinh tế quốc dân. Hiện nay ở các nước phát triển như Mỹ, Nhật, Tây Âu, khu vực dịch vụ chiếm trên 60% trong GDP [103].
  10. Thứ tư, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự kết hợp chặt chẽ của các quá trình kinh tế - kỹ thuật - xã hội - môi trường. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sẽđe lại cho đất nước trình độ kỹ thuật công nghệ ngày càng hiện đại, kinh tế ngày càng vững mạnh. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng nâng cao dân trí, mức sống dân cư và phát triển xã hội ngày càng văn minh. Như vậy, trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá, quá trình kinh tế - kỹ thuật xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc thực hiện mục tiêu của quá trình kinh tế- xã hội. Trong khi đó, quá trình kinh tế - xã hội mang lại động lực quan trọng cho thực hiện mục tiêu của quá trình kinh tế - kỹ thuật. Thứnăm, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn là quá trình mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế. Ngày nay, mở rộng phân công lao động quốc tế và xu thế toàn cầu hoá kinh tếđang diễn ra như một tất yếu. Mỗi quốc gia là một bộ phận của hệ thống kinh tế thế giới, chịu ảnh hưởng của biến động kinh tế thế giới và có tác động ở mức độ khác nhau đến kinh tế của các nước khác. Vì vậy, việc xác định mục tiêu, phương thức công nghiệp hoá, hiện đại hoáở mỗi nước cần dựa trên cơ sở phân tích và dự báo những biến động kinh tế - xã hội chung của khu vực và toàn cầu. Việc xây dựng hệ thống kinh tế quốc gia mở và tăng cường hợp tác kinh tế và phân công lao động quốc tế là xu hướng không cưỡng lại được của mọi quốc gia trên thế giới hiện nay. Để thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước hết phải dựa vào các nguồn lực trong nước, nhưng tranh thủ nguồn lực bên ngoài về vốn, công nghệ và quản lý là một điều đặc biệt quan trọng. Đối với các nước đang phát triển, người ta thường lấy thuyết phát triển của Marat Tchechkov [31] để nói đến "lợi thế" của các nước đi sau so với các nước đi tiên phong trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đó là thừa kế kinh nghiệm, tranh thủ sự hỗ trợ về vốn, kỹ thuật và kỹ năng quản lý của các nước tiên tiến. Nhưng những lợi thếđó không phải dễ tận dụng được, chỉ rất ít nước thành công nhờ kế thừa
  11. những kinh nghiệm và sự trợ giúp từ bên ngoài. Bối cảnh kinh tế chính trị quốc tế và thực trạng của mỗi nước rất khác nhau, nên việc áp dụng kinh nghiệm nước khác phải sáng tạo phù hợp với cụ thể từng nước. Ngày nay, trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trong khai thác các nguồn lực tự nhiên để phát huy lợi thế so sánh trong quan hệ kinh tế quốc tế, các nước cần kết hợp giữa việc sử dụng có hiệu quả với việc tiết kiệm, bảo tồn và tái tạo chúng. Do vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng nhanh trong phát triển kinh tế, nhưng nó phải gắn với sự bền vững trong phát triển. Điều đóđược hiểu trên các giác độ kinh tế - kỹ thuật - xã hội - môi trường. Từ những phân tích trên đây có thể tóm tắt: Công nghiệp hoá và hiện đại hoá gắn kết chặt chẽ trong một quá trình lịch sử tất yếu khách quan nhằm tạo nên những chuyển biến căn bản về kinh tế - xã hội của đất nước, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực và lợi thếđất nước, xây dựng cơ cấu kinh tếđa dạng với khu vực công nghiệp là then chốt và trình độ khoa học - công nghệ ngày càng hiện đại, đồng thời không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế. Giữa công nghiệp hoáở các nước đi theo con đường TBCN vàở nước ta và các nước theo con đường XHCN có những khác nhau về nhiều mặt, quan trọng nhất là về bản chất xã hội [4, tr516]. Tuy cùng mục đích là biến một nền kinh tế nông nghiệp thành nền kinh tế công nghiệp, nhưng do chếđộ chính trị- xã hội nên mục tiêu của công nghiệp hoá của các nước khác nhau căn bản. Công nghiệp hoáở các nước TBCN nhằm thay đổi vàđưa đến thắng lợi của phương thức sản xuất TBCN mang lại lợi ích cho giai cấp tư sản, công nghiệp hoáở nước ta nhằm mục tiêu nâng cao phúc lợi xã hội, đời sống mọi mặt của nhân dân giữ bền vững môi trường. Công nghiệp hoáở các nước TBCN đem lại phương tiện ngày càng tinh vi để giai cấp tư sản bóc lột nhân dân lao động
  12. và càng gây thêm phân hoá giàu nghèo, bất bình đẳng và mâu thuẫn sâu sắc trong xã hội; còn ở nước ta nó sẽ tạo ra tiền đề cơ sở vật chất ngày càng hiện đại trong một nền kinh tế mà người chủđích thực là nhân dân lao động, nó gắn liền với công bằng xã hội và tiến bộ xã hội. Vì vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoáở nước ta có thể tham khảo và vận dụng sáng tạo các kinh nghiệm về lựa chọn chiến lược, các giải pháp huy động vốn, giải pháp khoa học công nghệ, giải pháp kinh tế xã hội… của các nước đi trước nhằm mục tiêu hiện đại hoá nhanh và giữ vững bản chất xã hội của công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hưỡng XHCN. 1.1.3. Các mô hình công nghiệp hoá, hiện đại hoáở các nước đang phát triển Trong lịch sử công nghiệp hoá, hiện đại hoá diễn ra trên thế giới hàng trăm năm qua có sựđa dạng về mô hình. Luận án chỉ tập trung nghiên cứu mô hình công nghiệp hoá, hiện đại hoáở các nước đang phát triển trong những thập kỷ gần đây. Đó là những nước trước đây vốn là thuộc địa hoặc nửa thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, thực dân, đã giành được độc lập dân tộc, nền kinh tế trong tình trạng thấp kém. Do điều kiện kinh tế - xã hội như vậy, các nước có những điểm tương đồng với nước ta về xuất phát điểm trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 1.1.3.1. Mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu (chiến lược hướng nội) Mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu được áp dụng ở các nước đang phát triển sau chiến tranh thế giới lần thứ hai. Nóđược tiến hành trong bối cảnh quốc tếđặc biệt. Hệ thống thuộc địa tan rã, các quốc gia đang phát triển lần lượt giành được độc lập về chính trị, còn về kinh tế họ vẫn bị lệ thuộc vào hệ thống kinh tế tư bản ở mức độ khác nhau. Các nước này thường phải nhập khẩu từ các nước tư bản phát triển hầu hết các mặt hàng công nghiệp, thậm chí cả lương thực, nguyên nhiên liệu. Họ cũng bị lệ thuộc cả
  13. vềtài chính do phải vay nợ. Các quốc gia nghèo lúc đó cho rằng họ phải tiến hành một cuộc đấu tranh giành độc lập về kinh tế, nghĩa là xây dựng cho mình một nền kinh tếđộc lập tự chủ, có khả năng tựđảm bảo lấy hầu hết các nhu cầu trong nước, ít lệ thuộc vào bên ngoài. Bên cạnh đó, các nước phương Tây tuy đã buộc phải trao trả quyền độc lập cho các nước đang phát triển, nhưng họ chưa từ bỏýđồ thực dân đối với các nước đó, không chịu chuyển nhượng công nghệ, không chịu mở cửa thị trường cho các nước đang phát triển và muốn kìm hãm các nước đang phát triển trong vòng lạc hậu, phụ thuộc. Trong bối cảnh quốc tếđó, mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu đã ra đời như một tất yếu lịch sử. Ở các nước đang phát triển, chiến lược thay thế nhập khẩu được thử nghiệm đầu tiên ở các nước Mỹ La tinh. Một số nước Châu Á nhưẤn Độ và Thổ Nhĩ Kỳ, các nước ASEAN cũng đã bắt đầu thực hiện chiến lược này trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá vào thập kỷ 50-60 [36]. Mục đích xây dựng một nền kinh tếđộc lập tự chủ làđộng lực khiến các nước đó bước vào con đường phát triển thay thế hàng nhập khẩu.  Mục tiêu của chiến lược thay thế nhập khẩu Các nước đang phát triển trong quá trình tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo chiến lược thay thế nhập khẩu, do điều kiện kinh tế - xã hội của mình và những tác động khách quan của điều kiện kinh tế quốc tế, nên việc xác định mục tiêu cụ thể trong chiến lược này có những điểm khác nhau. Tuy vậy, về cơ bản các mục tiêu của mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu có thểđược khái quát như sau: - Khai thác nguồn lực tại chỗđểđáp ứng nhu cầu cơ bản, cấp bách của thị trường trong nước; - Giảm thiểu ngoại tệ chi tiêu cho nhập hàng hoá từ nước ngoài; - Khai thác thị trường nội địa để phát triển các ngành nghề sẵn có; - Tạo nhiều việc làm, giảm bớt lạm phát và thất nghiệp.
  14. Thực chất mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu là mỗi nước cần phát triển mạnh mẽ việc sản xuất hàng tiêu dùng để thay thế các hàng hoá vẫn phải nhập khẩu từ các nước tư bản. Sự phát triển như vậy sẽ mang lại tác dụng nhiều mặt: khai thác các nguồn lực sẵn cóđể thoả mãn các nhu cầu cơ bản và cấp thiết trong nước, mở rộng thị trường nội địa, phát triển sản xuất hàng hoá, tạo thêm việc làm, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc và tiết kiệm ngoại tệ.  Chính sách và biện pháp triển khai mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu Xuất phát từ mục tiêu trên, nội dung cơ bản của chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu nhằm xác định được tổng cầu mỗi loại hàng hoá trong nước qua phân tích và tính toán lượng hàng hoá thực tế phải nhập khẩu trước đây, dựa vào tổng số và cơ cấu dân cư, mức sống. Nhìn chung, chiến lược hướng nội lấy trọng tâm là thị trường trong nước để phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá. Thực tế, chiến lược này về cơ bản không đồng nghĩa với việc bế quan toả cảng" hay "đóng cửa" nền kinh tế, mà các quan hệ kinh tếđối ngoại vẫn được chúý, đặc biệt là nhập khẩu các tư liệu sản xuất để sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu hay kêu gọi đầu tư nước ngoài vào các mục tiêu thay thế nhập khẩu. Chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu đãđược thực hiện thông qua hàng loạt chính sách và biện pháp sau: * Bảo hộ sản xuất và thị trường trong nước Để trợ giúp sản xuất trong nước có thể tồn tại và phát triển, kích thích đầu tư vào các ngành thuộc mục tiêu ưu tiên, nhà nước thiết lập hàng rào bảo hộ sản xuất trong nước bằng chính sách thuế quan, bằng hàng rào phi thuế quan, bằng chính sách hạn chế nhập khẩu v.v.. để bảo vệ những ngành công nghiệp trong nước non trẻ, giữ cho những ngành công nghiệp này được đặc quyền tiêu thụ hàng hoá trên thị trường nội địa. Phong trào bài trừ hàng ngoại xuất hiện rất mạnh ở các nước trong thời kỳ thực hiện chiến lược này.
  15. * Khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp thay thế hàng nhập khẩu Các nước đang phát triển đi từđiểm xuất phát thấp, nên phải nhập khẩu nhiều hàng công nghiệp từ các quốc gia đã công nghiệp hoá cao, đặc biệt là máy móc thiết bị. Các nước đang phát triển chỉ là nơi cung cấp nông phẩm, tài nguyên và là thị trường tiêu thụ hàng công nghiệp cho các nước phát triển. Đây là quan hệ phụ thuộc một chiều gây nhiều bất lợi cho các nước nghèo. Để giảm sự lệ thuộc này, các nước đang phát triển đã tìm cách xây dựng cho mình các ngành công nghiệp tựđáp ứng nhu cầu trong nước, thay thế dần nhập khẩu. Các nước phấn đấu dần dần hình thành một cơ cấu ngành công nghiệp hoàn chỉnh (Ấn Độ, Inđônêxia…) hoặc là tương đối hoàn chỉnh (Myanma, Malaysia…). Nhiều quốc gia đặt cho mình mục tiêu xây dựng những ngành công nghiệp thiết yếu, có thểđảm bảo được những nhu cầu cơ bản của đất nước như năng lượng, luyện kim, cơ khí, hoá chất… Họ xem những ngành công nghiệp trên đây là cơ sởđảm bảo nên độc lập tự chủ nhằm trang bị cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân và thoát khỏi sự lệ thuộc vò bên ngoài. Do vậy, nhà nước chủ trương khuyến khích các nhà sản xuất trong nước đầu tư và dần dần làm chủđược kỹ thuật sản xuất. Đồng thời còn khuyến khích các nhàđầu tư nước ngoài tham gia vào sản xuất hoặc cung cấp công nghệ, vốn, kỹ năng quản lý. Trong quá trình ấy, những chính sách như cốđịnh tỷ giáđồng nội tệ thường được giữở mức cao để khuyến khích thay thế nhập khẩu; mức lãi suất rất thấp và bao cấp rộng rãi cho các doanh nghiệp nhà nước; nhà nước kiểm soát giá cả và thương mại, đặc biệt là ngoại thương chặt chẽ. Nhìn chung, hầu hết các nước khi theo đuổi mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu đều chú trọng nhiều đến việc xây dựng hệ thống các doanh nghiệp nhà nước. Do vậy, trong thời kỳ công nghiệp theo hướng thay
  16. thế nhập khẩu, khu vực kinh tế quốc doanh đã phát triển mạnh mẽở nhiều nước đang phát triển [16]. Từ thực tế các nước đang phát triển vào thập kỷ 50, 60 cho thấy, chính sách bảo hộ sản xuất và thị trường trong nước tiến triển qua ba giai đoạn: thứ nhất, bảo hộ với cường độ cao để khuyến khích sản xuất và tiêu dùng trong nước; thứ hai, giảm dần mức độ bảo hộ, yêu cầu các doanh nghiệp trong nước vươn lên hạ giá thành, nâng cao chất lượng hàng hoá; thứ ba, các doanh nghiệp trong nước khống chếđược thị trường trong nước và vươn ra thâm nhập thị trường quốc tế.  Kết quả và hạn chế của mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu Việc thực hiện chiến lược thay thế nhập khẩu đãđem lại sự mở mang nhất định các cơ sở sản xuất, giải quyết công ăn việc làm, quá trình đô thị hóa bắt đầu. Chính sách khuyến khích công nghiệp trong nước có tác dụng mở rộng và tăng cường phát triển các doanh nghiệp cũng nhưđội ngũ doanh nhân dân tộc trong công thương nghiệp. Tuy vậy, thực tế cho thấy nếu dừng lại quá lâu ở giai đoạn chiến lược thay thế nhập khẩu sẽ vấp phải những trở ngại rất lớn. Trong xu hướng quốc tế hoá và khu vực hoá kinh tế ngày càng tăng lên dẫn đến sự liên hệ và tuỳ thuộc tất yếu giữa các quốc gia trong quá trình sản xuất và trao đổi hàng hoá. Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học kỹ thuật đang trở thành yếu tố quyết định đến sự tăng trưởng kinh tế và tự bản thân nóđã phá vỡ các mối quan hệđóng cửa giữa các quốc gia. Tâm lý nóng vội chủ quan của các nước đang phát triển đã dẫn đến thực tế là việc xây dựng và phát triển những ngành công nghiệp qui mô lớn nhưng chu chuyển tư bản chậm, công suất máy móc sử dụng lãng phí trong khi lợi thế so sánh để tăng xuất khẩu không được khuyến khích. Mặt khác các chính sách trợ cấp, trợ giá tràn lan trong điều kiện dự trữ ngân sách nghèo nàn làm cho cán cân thanh toán, cán cân thương mại luôn luôn mất cân bằng. Chính sách hướng nội trong điều
  17. kiện thị trường nội địa nhỏ hẹp, khả năng tiêu dùng của đại bộ phận cư dân còn thấp, làm cho tăng trưởng chậm và thất nghiệp tăng. Thực tếấy được biểu hiện cụ thểở những khía cạnh sau: Thứ nhất, hầu hết việc thay thế hàng nhập khẩu đãđược thực hiện bằng việc nhập khẩu nhiều tư liệu sản xuất và sản phẩm trung gian từ nước ngoài. Do vậy, xuất hiện hai kết cục: Một mặt, các ngành công nghiệp cần nhiều vốn được thiết lập, thường là phục vụ thói quen tiêu dùng của những người giàu, có rất ít tác động tạo công ăn việc làm. Thực hiện việc sản xuất thay thế nhập khẩu tuy có thể tiết kiệm được ngoại tệ trên phương diện thành phẩm, nhưng lại đòi hỏi nhập khẩu nhiều nguyên liệu và bán thành phẩm hơn để tăng cường cung ứng cho sản xuất trong nước. Mặt khác, tình hình cán cân thanh toán của các nước đang phát triển trong tình trạng không được cải thiện lại càng trở nên tồi tệ hơn do thay thế hàng nhập khẩu. Đồng thời, sản xuất thay thế nhập khẩu thu ngoại tệ, do đó không phải là kế sách lâu dài để bù vào chỗ thiếu hụt trong cán cân thương mại. Thứ hai, quá trình thay thế nhập khẩu giúp các công ty nước ngoài, họ có thểđứng sau bức tường thuế quan và tận dụng ưu đãi vềđầu tư và giảm thuế. Do vậy, họ thu được nguồn lợi nhuận rất lớn. Phần còn lại thuộc về những nhà công nghiệp trong nước có hợp tác với các công tynước ngoài. Thực tế cho thấy, xét về lợi ích quốc gia chiến lược này có nhiều bất lợi. Thứ ba, mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu có tác dụng không tốt đối với việc xuất khẩu các sản phẩm truyền thống. Để khuyến khích sản xuất trong nước qua việc nhập khẩu hàng tư liệu sản xuất và sản phẩm trung gian, nên tỷ giá hối đoái thường bị "nâng giá" giả tạo. Tác động của việc này là làm giáhàng xuất khẩu tăng và giá hàng nhập khẩu giảm theo giáđồng nội tệ. Như vậy vượt ra ngoài chủđịnh của chiến lược, các phương pháp sản xuất cần nhiều vốn cóđiều kiện phát triển và tác động tiêu cực đến khu vực sản xuất hàng sơ chế truyền thống do giá nông phẩm và nguyên liệu trong
  18. nước trở nên kém cạnh tranh trên thị trường thế giới. Như vậy, bảo hộ công nghiệp không có tác dụng khuyến khích xuất khẩu hàng nông phẩm. Các chính sách trong mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu thực tếđã làm trầm trọng thêm bất bình đẳng về phân phối thu nhập trong nước do ưu đãi khu vực thành thị và nhóm người có thu nhập cao, trong khi đó lại phân biệt đối xửđối với khu vực nông thôn và nhóm người có thu nhập thấp. Thứ tư, chiến lược thay thế hàng nhập khẩu có khi còn gây tiêu cực với công nghiệp trong nước. Nhiều ngành "công nghiệp non trẻ" chẳng bao giờ mạnh lên vì họ bằng lòng nấp đằng sau hàng rào thuế quan bảo hộ. Trong thực tế, chính phủ các nước đang phát triển thường vận hành các ngành công nghiệp được bảo hộ theo kiểu các doanh nghiệp nhà nước. Hơn nữa, bằng việc tăng chi phíđầu vào cho các ngành công nghiệp có liên hệ với bên ngoài trong tương lai và bằng việc mua sản phẩm đầu vào của mình từ các nguồn cung ứng nước ngài mà không thông qua mối quan hệ cóđi có lại với các nhà cung ứng trong nước. Thực tế các doanh nghiệp sản xuất hàng thay thế nhập khẩu kém hiệu quảđã làm mất đi khả năng về quá trình công nghiệp hoá hướng nội. Vì thực hiện mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu nói chung thường được bảo hộ bằng thuế quan và tăng cường các biện pháp hành chính. Điều đó làm cho các doanh nghiệp thiếu cơ hội tìm kiếm ưu thế cạnh tranh quốc tế, ít chú trọng đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm. Sản xuất kinh doanh trong điều kiện như vậy làm cho giá thành sản phẩm cao, chất lượng thấp, ảnh hưởng đến tiềm năng phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Do hạn chế về phương thức kinh doanh, về công nghệ, kỹ thuật nên hiệu quả trong đầu tư cũng thấp kém. Thực tế, các nước này vẫn phải tiếp tục nhập khẩu công nghệ, kỹ thuật, cả máy móc thiết bị từ nước ngoài. Thứ năm, mô hình công nghiệp hoá thay thế hàng nhập khẩu thực chất là nhằm vào thoả mãn nhu cầu trong nước là chính, chú trọng nhiều đến tỷ lệ tự cấp của thị trường nội địa. Với chiến lược như vậy, thương mại quốc
  19. tếkhông được coi trọng, không tận dụng được ảnh hưởng tích cực của kinh tế thế giới đối với sự phát triển kinh tế trong nước. Điều đó tất sẽ hạn chế việc khai thác tiềm năng của đất nước trong việc phát triển thương mại và các quan hệ kinh tếđối ngoại khác. Thứ sáu, kinh tế của các nước đang phát triển trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá có nhiều khó khăn, tổng cầu vượt quá tổng cung, và thường thông qua nhập khẩu để cân bằng. Xu hướng này không thể khắc phục được trong thời gian ngắn, nếu hạn chế quá mức nhập khẩu. Việc thực hiện chính sách bảo hộ không thích hợp sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế. 1.1.3.2. Mô hình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu (chiến lược hướng ngoại) Từ cuối thập kỷ 60, đầu thập kỷ 70 một số quốc gia đang phát triển do nhận thức sớm về vai trò tác động của kinh tế thị trường đã nhanh chóng chuyển đổi chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Do vậy, chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu được áp dụng phổ biến ở các nước đang phát triển trong mấy thập kỷ gần đây.  Mục tiêu của chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu - Mục tiêu cơ bản của chiến lược là dựa vào đầu tư trực tiếp cũng như sự hỗ trợ về vốn, kỹ thuật bên ngoài để tạo ra khả năng cạnh tranh vàđẩy nhanh xuất khẩu. Nhân tố then chốt trong toàn bộ quá trình này là chính phủ sở tại tạo những điều kiện tốt nhất để hấp dẫn đầu tư trực tiếp của tư bản nước ngoài, đồng thời tiến hành những cải cách kinh tế trong nước tạo môi trường thuận lợi cho vốn đầu tưđược sử dụng có hiệu quả hơn; - Thực hiện mở cửa nền kinh tế hướng ra thị trường nước ngoài nhằm khai thác lợi thế so sánh trong trật tự phân công lao động quốc tế; - Đa dạng hoá trong sản xuất, kinh doanh trên cơ sở khai thác tối đa nguồn lực để tăng nhanh xuất khẩu; Vai trò vốn nước ngoài và các công ty ngoại quốc được nhấn mạnh hơn.
  20. Như vậy, trong thời kỳ công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, ảnh hưởng của tư bản nước ngoài với thị trường địa phương làđáng kể. Các nước chủ nhà thực sự mở cửa tiếp cận với các lực lượng thị trường tự do cạnh tranh quốc tế. Chính tự do cạnh tranh là yếu tố quan tọng để thúc đẩy sự phát triển. Cho nên, với các chủđầu tư thì chiến lược này thực chất là dựa vào các quan hệ kinh tế quốc tếđể xây dựng những nền tảng kinh tế và các lực lượng xã hội ở các nước sở tại. Đây cũng làcơ hội thuận lợi cho các nước tiếp nhận đầu tư thu hút được vốn, công nghệ và kinh nghiệm tổ chức, quản lý, kinh doanh hiện đại nhằm tăng nhanh nhịp độ công nghiệp hoá, hiện đại hoáđất nước.  Chính sách và biện pháp triển khai chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu Công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu không phải chỉ thuần tuý là xây dựng các ngành công nghiệp xuất khẩu, mà nội dung quan trọng hơn của nó là xây dựng cơ cấu công nghiệp mới theo hướng hiện đại hơn, cóđủ sức chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế và thúc đẩy xuất khẩu, dựa trên cơ sở kết hợp những nhân tố thuận lợi bên ngoài với phát huy các lợi thế trong nước. Ngoại thương đã trở thành động lực quan trọng trong phát triển kinh tế tạo ra mối quan hệ chặt chẽ giữa thị trường nội địa và bên ngoài nhằm tạo ra mô hình tăng trưởng rút ngắn. * Thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư của các công ty nước ngoài vào các ngành xuất khẩu thông qua một số chính sách Khi triển khai chiến lược hướng ngoại, các nước đều có chính sách ưu đãi, khuyến khích sự tham gia của tư bản nước ngoài vào chương trình phát triển kinh tế quốc gia. Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được đặc biệt coi trọng. Do vậy, nhà nước đã tạo môi trường thuận lợi để thu hút nguồn đầu tư nước ngoài: - Áp dụng hệ thống thuế và quan thuếưu đãi với các nhàđầu tư nước ngoài, gồm: (1) Miễn hoặcgiảm thuế thu nhập, thuế công ty, thuế tài sản cho
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2