LUẬN VĂN: Đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Yên Bái hiện nay
lượt xem 81
download
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, việc giải quyết một cách đúng đắn các quan hệ dân tộc, hoạch định và thực hiện có hiệu quả chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong bối cảnh quốc tế và trong nước hiện nay, vấn đề dân tộc đang có những diễn biến phức tạp, vừa mang tính đặc thù riêng của từng quốc gia,...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Yên Bái hiện nay
- LUẬN VĂN: Đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Yên Bái hiện nay
- mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, việc giải quyết một cách đúng đắn các quan hệ dân tộc, hoạch định và thực hiện có hiệu quả chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong bối cảnh quốc tế và trong nước hiện nay, vấn đề dân tộc đang có những diễn biến phức tạp, vừa mang tính đặc thù riêng của từng quốc gia, vừa mang tính toàn cầu. Dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, nhân quyền... luôn là những vấn đề nhạy cảm mà các thế lực thù địch tìm mọi cách lợi dụng, để chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, bằng nhiều thủ đoạn khác nhau, nhằm gây mất ổn định cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh quốc phòng. Đảng ta từ khi thành lập đến nay luôn coi việc hoạch định và thực hiện chính sách dân tộc là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng. Quá trình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta hàng chục năm qua đã đưa lại nhiều thành tựu: kinh tế, văn hóa, xã hội... rất quan trọng, khẳng định tính ưu việt của chế độ mới trong thời đại Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng bộc lộ nhiều vấn đề mà chính sách dân tộc trong thời kỳ mới chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra và sự mong đợi của các đồng bào dân tộc trên phạm vi cả nước nói chung và tỉnh Yên Bái nói riêng. Yên Bái là một tỉnh miền núi nằm ở khu vực chuyển tiếp giữa miền Tây Bắc và trung du Bắc Bộ, có vị trí trọng yếu về quân sự và kinh tế của nước ta; là nơi quần tụ của 30 dân tộc anh em, có truyền thống yêu nước đoàn kết giúp đỡ nhau chống giặc giã và khắc phục những khó khăn của hoàn cảnh thiên nhiên. Từ khi có Đảng truyền thống vẻ vang đó càng được hun đúc và trở thành sức mạnh to lớn cùng cả nước làm nên cuộc cách mạng Tháng 8-1945 và ngày nay vững bước đi lên trong thời kỳ đổi mới.
- Những năm qua ở Yên Bái việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, đã đạt được những thành tựu to lớn và toàn diện, đời sống nhân dân cơ bản ổn định và có vùng được cải thiện rõ rệt, an ninh trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Bên cạnh đó việc thực hiện chính sách dân tộc còn nhiều bất cập. Tỷ lệ đói nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số còn cao, khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế, xã hội so với dân tộc Kinh vẫn còn rõ rệt. Do đó việc thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước nhằm góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị để đồng bào dân tộc tỉnh Yên Bái tránh tụt hậu, hội nhập với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của cả nước là nhu cầu cấp thiết. Xuất phát từ đòi hỏi cấp bách đó, tác giả chọn đề tài: "Đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Yên Bái hiện nay" làm luận văn thạc sĩ Triết học chuyên ngành CNXHKH. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Vấn đề dân tộc và việc thực hiện chính sách dân tộc ở nước ta trong những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu và được tiếp cận dưới các góc độ của các môn khoa học: Xã hội học, Dân tộc học, Sử học, CNXHKH... tiêu biểu là một số công trình đáng chú ý sau: - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Phân viện Hà Nội - Khoa Dân tộc (1995), "Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước". Trên góc độ dân tộc học cuốn sách đã làm rõ những điều cơ bản nhất của vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước trong những năm đổi mới đất nước. - PGS.PTS Trần Quang Nhiếp (1997), "Phát triển quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay", Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. Tác giả đã nêu những đặc điểm chủ yếu, thực trạng của quan hệ dân tộc, những yếu tố tác động, các hình thức biểu hiện quan hệ dân tộc ở nước ta. - PGS.TS Nguyễn Quốc Phẩm - GS.TS Trịnh Quốc Tuấn (1999), "Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam", Nxb Chính trị quốc gia, Hà
- Nội. Các tác giả đưa ra sự lý giải về một số khái niệm liên quan đến vấn đề dân tộc và trình bày thực tiễn vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc Việt Nam hiện nay. - ủy ban dân tộc và miền núi (2001), "Về vấn đề dân tộc và công tác dân tộc ở nước ta" (Tài liệu bồi dưỡng cán bộ về công tác dân tộc), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách trình bày hệ thống quan điểm lý luận về công tác dân tộc và nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc nhằm đáp ứng yêu cầu thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng. - Viện Nghiên cứu chính sách dân tộc và miền núi (2002), "Vấn đề dân tộc và định hướng xây dựng chính sách dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa". Cuốn sách đã trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn về chính sách dân tộc của Đảng ta, và những định hướng cơ bản trong việc quy hoạch dân cư, đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế hàng hóa phù hợp với đặc điểm từng vùng nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, đồng thời kiến nghị những giải pháp sớm ổn định và cải thiện đời sống đồng bào dân tộc. - "Chính sách dân tộc của các chính quyền nhà nước phong kiến Việt Nam X - XIX" (2001, đề tài KX.04-05); Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay (2001, đề tài KX.04-05); Xóa đói giảm nghèo ở vùng dân tộc nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp (2002, đề tài KX.04-05). Về luận văn, luận án có quan hệ đến đề tài luận văn này: - "Mấy suy nghĩ về đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ta" của tác giả Bùi Xuân Vinh (1995). - "Một số suy nghĩ về vấn đề dân tộc ở tỉnh Yên Bái" (1995) của tác giả Hà Văn Định. - "Đổi mới chính sách của Đảng và Nhà nước trong đào tạo sử dụng đội ngũ cán bộ các dân tộc ở miền núi phía Bắc nước ta hiện nay" của tác giả Lô Quốc Toản (1993). - "Đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc đối với đồng bào các dân tộc thiểu số tỉnh Kiên Giang hiện nay" của tác giả Ngô Kim Y (2001).
- - "Đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (từ thực tiễn các tỉnh miền núi phía Bắc)" của tác giả: Nguyễn Thị Phương Thủy (2001). Qua phân tích thực trạng, các tác giả đã đề xuất nhiều giải pháp để thực hiện chính sách dân tộc trong thời gian tới. Ngoài ra còn có các công trình, bài nghiên cứu của các nhà khoa học, nhà quản lý về chính sách dân tộc. Tuy nhiên vẫn ch ưa có một công trình nào nghiên cứu trực tiếp về "Đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc tỉnh Yên Bái hiện nay". Vấn đề này cần phải được nghiên cứu dưới góc độ chính trị - xã hội, tìm hiểu thực trạng và đưa ra những giải pháp cơ bản để nhằm đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở tỉnh Yên Bái hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về chính sách dân tộc, phân tích thực trạng của việc thực hiện chính sách dân tộc tỉnh Yên Bái, đề xuất các giải pháp chủ yếu để nhằm đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Yên Bái trong thời gian tới. - Nhiệm vụ của đề tài: + Hệ thống hóa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về chính sách dân tộc. + Phân tích thực trạng việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta ở tỉnh Yên Bái. + Nêu phương hướng cơ bản, những giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta trong thời gian tới. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu thực trạng thực hiện chính sách dân tộc từ khi có Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 22-11-1989 của Bộ Chính trị và Quyết định 72/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về một số chủ trương, chính sách cụ thể phát triển kinh tế - xã hội miền núi ở tỉnh Yên Bái.
- 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận của đề tài: Dựa trên cơ sở lý luận, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta, những chủ trương, chính sách của Đảng bộ và UBND tỉnh Yên Bái về chính sách dân tộc. - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử và lôgíc, phân tích tổng hợp, so sánh, hệ thống. 5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài - Luận văn góp phần làm rõ thực trạng và những yêu cầu khách quan của sự đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng nhằm phát triển kinh tế - xã hội miền núi ở tỉnh Yên Bái hiện nay. - Trên cơ sở đó đề ra một số giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng cho phù hợp với tình hình thực tế ở tỉnh Yên Bái hiện nay. 6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài - ý nghĩa lý luận: Kết quả đạt được trong luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu giảng dạy những vấn đề có liên quan đến dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước. - ý nghĩa thực tiễn của đề tài: Từ thực trạng và những giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Yên Bái, luận văn có thể là tài liệu cho các cấp lãnh đạo, các ngành của tỉnh Yên Bái tham khảo để thực hiện chính sách dân tộc đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng núi vùng đặc biệt khó khăn hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được kết cấu gồm 3 chương, 7 tiết.
- Chương 1 Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta 1.1. Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin Mác và Ăngghen sống trong thời đại tư bản chủ nghĩa trước độc quyền. Quan điểm của Mác, Ăngghen về vấn đề dân tộc thể hiện rõ khi hai ông nghiên cứu phong trào giải phóng dân tộc ở Ba Lan, Airơlan, các nước vùng Ban Căng và các nước khác, và cũng thể hiện rõ khi hai ông phê phán các Chính phủ Anh và Nga sa hoàng trong vấn đề Ba Lan cũng như Airơlan. Mác và Ăngghen đã kêu gọi: "Hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ. Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo" [29, tr.624]. Hai ông đã nêu ra khẩu hiệu nổi tiếng "Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!". Tư tưởng đoàn kết giai cấp công nhân toàn thế giới, đấu tranh chống áp bức bóc lột, xóa bỏ tình trạng người bóc lột người để từ đó xóa bỏ tình trạng dân tộc này nô dịch dân tộc khác là nguyên tắc lý luận, đồng thời cũng là nền tảng của chính sách dân tộc mác xít của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản. Điều đó đã thể hiện thái độ chính trị của những người cộng sản, thái độ của giai cấp công nhân nói chung trong cuộc đấu tranh giai cấp nhằm đánh đổ chủ nghĩa tư bản. Quan điểm đó cũng chỉ rõ chiến lược, giải pháp cơ bản tập hợp lực lượng giai cấp công nhân tất cả các dân tộc vùng lên đấu tranh chống ách áp bức, nô dịch đang đè lên đầu họ. Những quan điểm của Mác và Ăngghen nêu trên được coi là cương lĩnh đầu tiên, là nguyên tắc lý luận, kim chỉ nam cho hành động của các Đảng Cộng sản giải quyết vấn đề dân tộc. Quan điểm đó thể hiện hai vấn đề cơ bản sau: Thứ nhất: Chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa là cơ sở sinh ra nạn người bóc lột người; nạn áp bức giai cấp, áp bức dân tộc. Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì nạn
- bóc lột và áp bức giai cấp, áp bức dân tộc càng nặng nề. Vì vậy, muốn xóa bỏ nạn áp bức giai cấp, tình trạng dân tộc này đi nô dịch, bóc lột dân tộc khác thì phải xóa bỏ tận gốc rễ chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, cơ sở kinh tế - xã hội sinh ra nạn áp bức giai cấp, nạn nô dịch dân tộc. Thứ hai: Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản xét về bản chất là một cuộc đấu tranh quốc tế - toàn bộ giai cấp vô sản chống lại toàn bộ giai cấp tư sản, nhưng ban đầu lại diễn ra trong phạm vi dân tộc mang hình thức đấu tranh dân tộc. Vì thế, trước tiên giai cấp vô sản phải giành lấy chính quyền ở nước mình, phải tự mình trở thành dân tộc, phải biến lợi ích của mình thành lợi ích của dân tộc, biến lợi ích của dân tộc thành lợi ích của mình, để trở thành người lãnh đạo toàn thể dân tộc trong cuộc đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, thời đại mà Lênin sống và hoạt động cách mạng, vấn đề bình đẳng và tự quyết dân tộc lại càng bức thiết hơn. Trong những điều kiện ấy, Lênin đã phát triển những luận điểm của Mác và Ăngghen về vấn đề dân tộc. Lênin đã phát hiện hai xu hướng lịch sử trong sự phát triển dân tộc và trong mối quan hệ dân tộc. Người viết: Xu hướng thứ nhất là: Sự thức tỉnh của đời sống dân tộc và của các phong trào dân tộc, cuộc đấu tranh chống mọi ách áp bức dân tộc, việc thiết lập các quốc gia dân tộc. Xu hướng thứ hai là: Việc phát triển và tăng cường đủ mọi thứ quan hệ giữa các dân tộc, việc xóa bỏ những hàng rào ngăn cách của các dân tộc và việc thiết lập sự thống nhất quốc tế của tư bản, của đời sống kinh tế nói chung, của chính trị, của khoa học... [24, tr.158]. Cương lĩnh dân tộc của những người mác xít chú ý đến cả hai xu hướng đó. Từ những luận chứng khoa học về vấn đề dân tộc, Lênin đề ra Cương lĩnh dân tộc của các Đảng Cộng sản "các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc được quyền tự quyết; liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại: Đó là Cương lĩnh dân tộc mà chủ nghĩa Mác, kinh nghiệm toàn thế giới và kinh nghiệm của nước Nga dạy cho công nhân"
- [25,tr.375]. Đây là tư tưởng chỉ đạo, nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin về chính sách dân tộc. - Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng: Theo Lênin, bình đẳng dân tộc là quyền được đối xử như nhau của mọi dân tộc không phân biệt nhiều người hay ít người, trình độ phát triển kinh tế - xã hội cao hay thấp, không phân biệt chủng tộc, màu da, tôn giáo... Theo Lênin: "Nguyên tắc bình đẳng hoàn toàn gắn liền chặt chẽ với việc đảm bảo quyền lợi của các dân tộc thiểu số... bất cứ một thứ đặc quyền nào dành riêng cho một dân tộc, và bất cứ một sự vi phạm nào đến quyền lợi của một dân tộc thiểu số, đều bị bác bỏ" [24, tr.179]. Quyền bình đẳng dân tộc, theo Lênin, bao gồm tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây là cơ sở pháp lý chung giải quyết các quan hệ dân tộc trên thế giới, trong khu vực hay trong quốc gia. Bình đẳng giữa các dân tộc cũng chính là kết quả đấu tranh của nhân dân lao động các nước, là thành quả của văn hóa văn minh và tiến bộ xã hội. Lênin chỉ rõ: "ý nghĩa thật sự của việc đòi quyền bình đẳng chung quy là đòi thủ tiêu giai cấp" [28, tr.136]. Bình đẳng dân tộc, trước hết là sự bình đẳng về kinh tế. Lợi ích kinh tế gắn liền với lợi ích giai cấp, dân tộc, quốc gia, bởi vậy giải quyết các mối quan hệ liên quan đến dân tộc, đều phải tính đến quan hệ kinh tế, lợi ích kinh tế. Chỉ có trên cơ sở có sự bình đẳng về kinh tế, quyền bình đẳng trên các lĩnh vực khác mới được thực hiện đầy đủ. Nếu tách rời các quyền bình đẳng dân tộc về kinh tế thì quyền bình đẳng dân tộc trên các lĩnh vực khác chỉ là những khẩu hiệu có tính chất cải lương. Bình đẳng chính trị cũng là quyền thiêng liêng của mỗi dân tộc. Đối với các dân tộc bị áp bức, bị lệ thuộc, đấu tranh giành quyền bình đẳng về chính trị, chính là điều kiện để có bình đẳng trên các phương diện khác của đời sống xã hội. Nhận thức và giải quyết đúng vấn đề bình đẳng chính trị và quyền tự quyết trong các quốc gia cụ thể, nhất là các quốc gia đa dân tộc là vấn đề đặc biệt quan trọng đối với giai cấp vô sản và những người mác xít chân chính trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của
- mình. Để thực hiện bình đẳng về chính trị, những người mác xít phải đấu tranh không khoan nhượng chống chủ nghĩa dân tộc cực đoan, phản động dưới mọi hình thức. Lênin chỉ rõ: "Chủ nghĩa Mác không thể điều hòa được với chủ nghĩa dân tộc, dù là chủ nghĩa dân tộc "công bằng", "thuần khiết", tinh vi và văn minh đến đâu nữa" [24, tr.167]. Bình đẳng trên lĩnh vực văn hóa - xã hội: Lênin cho rằng, bình đẳng về văn hóa không tách rời bình đẳng về chính trị, kinh tế. Đó là lý do Lênin phê phán khẩu hiệu "tự trị dân tộc về văn hóa' của những người dân chủ xã hội áo và những người thuộc phái Bun. Vì khẩu hiệu đó đã thu hẹp quyền bình đẳng và tự quyết dân tộc rộng lớn chỉ vào một lĩnh vực văn hóa. Theo Lênin, khẩu hiệu "tự trị dân tộc về văn hóa" là một ảo tưởng. Trong chừng mực mà các dân tộc khác nhau còn chung sống trong một quốc gia, thì họ gắn bó với nhau bằng hàng ức hàng triệu mối liên hệ về kinh tế, pháp luật và tập quán. Vậy làm thế nào lại có thể tách việc giáo dục khỏi những mối liên hệ này? liệu có thể "tách" công việc đó "ra khỏi quản lý" của nhà nước được không; như công thức của phái Bun đã tuyên bố, một công thức điển hình về cách nhấn mạnh một điều vô nghĩa? Nếu như nền kinh tế gắn bó các dân tộc cùng sống trong một quốc gia với nhau, mà lại toan chia cắt họ một cách dứt khoát trong lĩnh vực những vấn đề "văn hóa" và nhất là vấn đề giáo dục, thì thật là ngu ngốc và phản động. Trái lại, cần phải ra sức liên hợp các dân tộc lại trong lĩnh vực giáo dục để cho cái đang được thực hiện trong cuộc sống thì đã được chuẩn bị ngay trong nhà trường [24, tr.221]. Sau Cách mạng Tháng Mười Nga, nguyên tắc bình đẳng dân tộc được nêu trong Tuyên ngôn dân quyền của nước Nga, sau đó được ghi vào Hiến pháp Liên Xô, quy định quyền bình đẳng của mọi công dân Xô viết không phụ thuộc dân tộc, trong mọi lĩnh vực, kinh tế, chính trị, văn hóa, nó là một pháp lệnh bất di bất dịch.
- Trong phạm vi quốc tế, đấu tranh cho sự bình đẳng giữa các dân tộc gắn với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa Xô vanh, chủ nghĩa phát xít mới, đồng thời cũng đấu tranh chống chủ nghĩa dân tộc cực đoan, hẹp hòi. Có như vậy mới thực hiện được sự bình đẳng thật sự giữa các dân tộc. - Các dân tộc có quyền tự quyết: Theo Lênin, quyền tự quyết là quyền tự chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnh của dân tộc mình. Quyền tự quyết bao gồm: tự quyết định về chính trị - xã hội và con đường phát triển của dân tộc mình. Quyền tự quyết cũng được thể hiện ở quyền tự do phân lập thành quốc gia độc lập hay quyền tự nguyện liên hiệp lại của các dân tộc trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi và đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân các dân tộc vì mục tiêu phát triển hòa bình, phồn vinh và hữu nghị. Trong "Đề cương cách mạng xã hội chủ nghĩa và quyền dân tộc tự quyết". Lênin viết: Chủ nghĩa xã hội thắng lợi nhất thiết phải được thực hiện chế độ dân chủ hoàn toàn, và do đó, không những làm cho các dân tộc hoàn toàn bình quyền với nhau, mà còn thực hành quyền tự quyết của các dân tộc bị áp bức, tức là quyền tự do phân lập về mặt chính trị. Cả hiện nay, lẫn trong thời kỳ cách mạng, và sau khi cách mạng thắng lợi, các Đảng xã hội chủ nghĩa nào mà không chứng minh bằng toàn bộ hoạt động của mình rằng họ sẽ giải phóng các dân tộc nô dịch và sẽ xây dựng những quan hệ của mình với các dân tộc đó trên cơ sở một liên minh tự do và liên minh tự do sẽ là một lời dối trá - nếu nó không bao hàm quyền tự do phân lập thì Đảng đó sẽ phản bội chủ nghĩa xã hội [26, tr.323-324]. Lênin luôn luôn thể hiện quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét và giải quyết vấn đề tự quyết của các dân tộc. Những năm trước cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười, Lênin ủng hộ yêu sách của các dân tộc bị áp bức đòi phân lập. Yêu sách đó góp phần làm suy yếu chế độ Nga hoàng, làm thất bại chính sách dân tộc Sô vanh Đại Nga, tạo điều kiện đưa cách mạng đi tới thắng lợi. Sau Cách mạng Tháng Mười, Lênin ủng hộ nguyện
- vọng liên hiệp lại của các dân tộc, vì điều đó là tất yếu và cần thiết để đảm bảo quyền bình đẳng giữa các dân tộc, xóa bỏ những hằn thù để liên kết các dân tộc tạo thành một quốc gia rộng lớn nhằm bảo vệ những thành quả cách mạng đã giành được và cùng nhau xây dựng xã hội mới. Phân tích ý nghĩa về quyền tự quyết và quan hệ của nó với chế độ liên bang, Lênin cho rằng: Quyền dân tộc tự quyết hoàn toàn chỉ có nghĩa là các dân tộc có quyền độc lập chính trị, có quyền tự do phân lập, về mặt chính trị, khỏi dân tộc áp bức họ. Nói một cách cụ thể, yêu sách đòi dân chủ chính trị có nghĩa là hoàn toàn tự do tuyên truyền cho việc phân lập và có nghĩa là giải quyết vấn đề phân lập bằng con đường trưng cầu dân ý trong dân tộc muốn phân lập. Như vậy là yêu sách đó hoàn toàn không đồng nghĩa với yêu sách đòi phân lập, phân tán, thành lập những quốc gia nhỏ. Nó chỉ là biểu hiện triệt để của cuộc đấu tranh chống mọi áp bức dân tộc [26, tr.327]. - Đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc: Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định rằng quyền bình đẳng và quyền tự quyết dân tộc không phải tự nhiên có được và đương nhiên thực hiện, ngược lại, chúng là kết quả của cuộc đấu tranh chống mọi thế lực xâm lược, áp bức dân tộc và gây nên sự đồng hóa cưỡng bức đối với nhiều dân tộc. Đồng thời, bình đẳng và tự quyết dân tộc cũng tùy thuộc vào sự đoàn kết, thống nhất giai cấp công nhân các dân tộc trong từng quốc gia cũng như trên toàn thế giới. Chỉ có đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân mới thực hiện được quyền bình đẳng và tự quyết đúng đắn, khắc phục được thái độ kỳ thị và thù hằn dân tộc. Cũng từ đó mới đoàn kết được nhân dân lao động các dân tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy, nội dung đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc được nêu trong cươnglĩnh không chỉ là lời kêu gọi mà còn là biện pháp hữu hiệu đảm bảo việc thực hiện quyền bình đẳng và tự quyết dân tộc. Nội dung đó đóng vai trò liên kết cả ba nội dung của Cương lĩnh thành một chỉnh thể. Lênin cho rằng: Sự giải phóng khỏi ách tư bản, sự xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là nhiệm vụ quốc tế của tất cả những người vô sản, của tất
- cả nhân dân lao động. Chủ nghĩa quốc tế vô sản thể hiện tính chất chung của những quyền lợi cơ bản và những ý nguyện tiến bộ của nhân dân lao động của tất cả các dân tộc, về nguồn gốc và bản chất của nó đối lập với chủ nghĩa dân tộc tư sản, gây sự hằn thù và chia rẽ giữa các dân tộc. Người nhấn mạnh: Chỉ có sự thống nhất và sự hợp nhất như vậy mới có thể bảo vệ được nền dân chủ, bảo vệ được lợi ích của công nhân chống lại tư bản - tư bản này đã trở thành có tính chất quốc tế, bảo vệ được những lợi ích của sự phát triển loài người tới một phương thức sinh hoạt mới, không có bất cứ đặc quyền và sự bóc lột nào [24, tr.151]. Với bản chất quốc tế và những ưu điểm vốn có, giai cấp công nhân các dân tộc vừa đại diện cho lợi ích, nguyện vọng của giai cấp công nhân vừa đại diện cho lợi ích nhân dân lao động và lợi ích dân tộc. Đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc cũng chính là sự kết hợp hài hòa giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với tinh thần quốc tế cao cả của giai cấp công nhân các nước. Những người cộng sản lấy đoàn kết công nhân tất cả các dân tộc làm mục tiêu phấn đấu và tổ chức lực lượng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc. Những quan điểm về vấn đề dân tộc và giải quyết các quan hệ dân tộc được Lênin khái quát thành Cương lĩnh chung cho các Đảng mác xít, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trên phạm vi toàn thế giới, trong từng quốc gia cũng như từng dân tộc. Thực tế, thời đại ngày nay không bác bỏ Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà ngược lại còn cung cấp thêm sự kiện, con số để xác nhận sự đúng đắn của Cương lĩnh đó và đòi hỏi chi tiết hóa Cương lĩnh đó khi vận dụng vào mỗi quốc gia, từng dân tộc cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể của quốc gia dân tộc đó. 1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về chính sách dân tộc 1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách dân tộc Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biểu tượng cao đẹp nhất của tinh thần dân tộc chân chính, chủ nghĩa yêu nước và tinh thần quốc tế cao cả của nhân dân ta. Người đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam và góp phần
- to lớn vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Tư tưởng của Người về chính sách dân tộc được thể hiện rõ ở những điểm sau: - Thứ nhất: tư tưởng về giải phóng dân tộc, và con đường giải phóng dân tộc Việt Nam. Sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc địa nửa phong kiến giàu truyền thống yêu nước, Hồ Chí Minh đã sớm nhận được nỗi đau của một dân tộc mất nước. Với lòng yêu nước, thương nòi, Người quyết định ra đi tìm đường cứu nước với khát vọng giải phóng dân tộc. Trong cuộc hành trình tìm đường cứu nước, Người đến nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều dân tộc ở châu á, châu Âu, châu Phi, châu Mỹ. ở đâu Người cũng gặp những cảnh người dân lao động có cuộc sống khổ cực bần hàn, đối lập với cuộc sống ăn chơi, xa xỉ của các giai cấp thống trị, Người chứng kiến sự áp bức bóc lột tàn bạo của bọn đế quốc, thực dân đối với đại đa số nhân dân lao động ở các nước thuộc địa. Trước khi gặp chủ nghĩa Mác - Lênin và đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười vĩ đại, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu nhiều học thuyết và các hình mẫu cách mạng điển hình như cách mạng tư sản Pháp và Mỹ. Hồ Chí Minh đã nhận rõ điều căn bản của các cuộc cách mạng đó là không triệt để giải phóng người lao động và các dân tộc bị áp bức, ngược lại các cuộc cách mạng đó nhằm duy trì tình trạng áp bức, bóc lột chỉ thay đổi về hình thức bóc lột mà thôi. Từ hiện thực trái ngược với những Tuyên ngôn của hai cuộc cách mạng ở Pháp và cách mạng ở Mỹ và khi yêu sách của nhân dân Việt Nam mà Người gửi tới Hội nghị Véc xây năm 1918 không được chú ý tới, Hồ Chí Minh đã thấy rõ những tuyên bố của giai cấp tư sản "chỉ là trò bịp lớn", Người càng khẳng định ý tưởng phải giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề con người theo học thuyết khoa học - cách mạng khác các học thuyết tư sản và bằng một con đường cách mạng triệt để. Lần đầu tiên Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin khi Người đọc luận cương của Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa đăng trên báo Nhân đạo. Người viết:
- Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta! [32, tr.127]. Như vậy, xuất phát từ yêu cầu giải phóng dân tộc, từ chủ nghĩa yêu nước. Người đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tiếp thu truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam và sớm ý thức được rằng, cách mạng thuộc địa, cách mạng giải phóng dân tộc là bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. "Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới" [30, tr.301]. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã sớm ý thức được tính chất của thời đại mới, thời đại thắng lợi của cách mạng vô sản mở đầu bằng thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, Người so sánh hình ảnh của chủ nghĩa đế quốc là con đỉa có hai cái vòi, một vòi hút máu nhân dân lao động chính quốc, một vòi kia bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Muốn đánh đổ chủ nghĩa đế quốc phải chặt cả hai vòi của nó; cách mạng vô sản ở các nước tư bản và cách mạng ở thuộc địa phải như hai cái cánh của một con chim, phải thực hiện được sự liên minh chiến đấu giữa vô sản ở "chính quốc" với vô sản và nhân dân các thuộc địa; phải xóa bỏ cách áp bức của thực dân ở thuộc địa, cách mạng thuộc địa không nhất thiết phải chờ đợi, phải phụ thuộc vào cách mạng ở "chính quốc" mà phải chủ động, "đem sức ta mà giải phóng cho ta", cách mạng thuộc địa có thể giành thắng lợi trước, từ đó giúp cho cách mạng vô sản ở "chính quốc" giành thắng lợi. Với sự xác định con đường cách mạng đúng đắn, Hồ Chí Minh đã thành lập chính đảng đó là Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930, đường lối cách mạng nước ta được xác định rõ: làm cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới do giai cấp công nhân lãnh đạo, đánh đổ đế quốc và phong kiến tay sai, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa mà mục đích cuối cùng là thực hiện chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam.
- - Thứ hai: chính sách dân tộc phải thực hiện sự bình đẳng, giúp đỡ nhau giữa các dân tộc để cùng nhau đoàn kết tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình cách mạng, sự bình đẳng giữa các dân tộc được thể hiện bằng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ nhằm giáo dục, thức tỉnh đồng bào các dân tộc về lòng yêu nước, tổ chức đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng quê hương đất nước. Theo Người, làm cách mạng là giành độc lập dân tộc. Nhưng nếu độc lập dân tộc rồi dân cứ đói, rét, chỉ một số người được hạnh phúc, đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa vẫn cứ nghèo khổ, bệnh tật, thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì. Do vậy các dân tộc miền núi, cũng như các dân tộc miền xuôi phải giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển, cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội. "Đồng bào miền núi phải đoàn kết giúp đỡ đồng bào miền xuôi. Và đồng bào miền xuôi phải đoàn kết giúp đỡ đồng bào miền núi" [33, tr.135]. Người yêu cầu Đảng và Chính phủ phải có chính sách, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội để phát triển toàn diện miền núi tiến kịp miền xuôi, để đồng bào cả nước ai cũng có cơm ăn, ai cũng được học hành, ai cũng được làm chủ đất nước. - Thứ ba: chính sách dân tộc phải chú ý đến tính đặc thù dân tộc. Các dân tộc Việt Nam đều xuất phát từ cội nguồn lịch sử như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán; Gia rai hay Êđê, Xê đăng hay Ba na và các dân tộc thiểu số khác đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau" [31, tr.217]. Là thành viên của cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam, nhưng mỗi dân tộc có một nền văn hóa bản sắc, một tâm lý, phong tục tập quán riêng, bởi thế, trong mọi công tác, nhất là công tác tuyên truyền phải chú ý tới đặc điểm riêng này. Người nói: "Một tỉnh có đồng bào Thái, đồng bào Mèo, thì tuyên truyền huấn luyện đối với đồng bào Thái khác, đồng bào Mèo khác, phải có sự thay đổi thích hợp" [33, tr.128].
- Người yêu cầu các chương trình, kế hoạch công tác phát triển miền núi không chỉ phù hợp với đồng bào miền núi, mà ngay cả cách thể hiện cũng được diễn tả "nôm na" để đồng bào dễ hiểu, dễ làm theo. Người căn dặn: Nếu cứ nói nào là làm "cách mạng xã hội chủ nghĩa", nào là "tiến lên chủ nghĩa xã hội", nào là "xây dựng chủ nghĩa xã hội", đồng bào các dân tộc thiểu số khó hiểu, ít người hiểu. Phải nói rõ xây dựng chủ nghĩa xã hội là cái gì? Nói nôm na để cho người ta dễ hiểu, hiểu để người ta làm được [33, tr.130]. Tâm lý, phong tục tập quán của đồng bào miền núi khác so với đồng bào miền xuôi. Do điều kiện địa lý - văn hóa miền núi, nên Hồ Chí Minh đòi hỏi chính sách dân tộc phải có nội dung biện pháp và bước đi thích hợp. "Miền núi đất rộng người thưa, tình hình vùng này không giống tình hình vùng khác. Vì vậy, áp dụng chủ trương và chính sách phải thật sát thực tế của mỗi nơi. Tuyệt đối chớ rập khuôn, chớ máy móc, chớ nóng vội" [32, tr.611]. - Thứ tư: chính sách dân tộc phải hướng vào sự phát triển toàn diện miền núi. Hồ Chí Minh luôn quan tâm tới yêu cầu phát triển của đồng bào miền núi, khả năng phát triển của miền núi. Theo Người đi lên chủ nghĩa xã hội phải đi bằng hai chân, công nghiệp và nông nghiệp. ở miền núi, tiềm năng, thế mạnh là đất và rừng. Người đã chỉ ra một số nhiệm vụ cụ thể: đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp; phát triển giao thông đến từng làng bản; ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất; xây dựng đời sống văn hóa - xã hội cho đồng bào các dân tộc, cải tạo dần những phong tục tập quán lạc hậu... Tuy nhiên, Người cũng lưu ý phải làm một cách dần dần, không chủ quan, nóng vội được. - Thứ năm: Chính sách dân tộc phải chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát triển và chăm sóc đội ngũ cán bộ, con em của đồng bào dân tộc. Theo Người: Cán bộ là gốc của mọi công việc... công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Người đòi hỏi công tác cán bộ: "Phải chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, cất nhắc cán bộ miền núi. Cố nhiên cán bộ người Kinh phải giúp đỡ anh em
- cán bộ địa phương, nhưng phải làm sao cho cán bộ địa phương tiến bộ, để anh em tự quản lý lấy công việc ở địa phương, chứ không phải là bao biện làm thay" [32, tr.418]. Trong cán bộ người dân tộc thiểu số, Người đặc biệt quan tâm đến cán bộ nữ. Người đánh giá cao vai trò của phụ nữ các dân tộc thiểu số đối với cách mạng. "Phụ nữ các dân tộc thiểu số không những vượt qua gian nguy mà còn gạt cả mê tín để bảo vệ cách mạng và cán bộ hoạt động cách mạng" [32, tr.87]. Chính vì vậy, đào tạo, phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số nói chung, cán bộ nữ dân tộc thiểu số nói riêng là đòi hỏi của thực tiễn miền núi của cách mạng nước ta. Những tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chính sách dân tộc đã được thực tiễn mấy chục năm qua chứng minh là đúng đắn. Việc hiện thực hóa những tư tưởng ấy đã đem lại những thành tựu to lớn trong công cuộc bảo vệ và xây dựng vùng đồng bào các dân tộc cũng như trong cả nước. 1.2.2. Quan điểm của Đảng ta về chính sách dân tộc Đảng ta từ khi ra đời (3-2-1930) cho đến nay luôn luôn coi trọng vấn đề dân tộc và đề ra đường lối, chính sách, chủ trương, nhiệm vụ đúng đắn về vấn đề này trong từng thời kỳ cách mạng của nước ta. Đặc biệt quan trọng là Đảng và Nhà nước ta đã từng bước đề ra và hoàn chỉnh các nguyên tắc cơ bản của chính sách dân tộc. Chính sách dân tộc của Đảng mang tính toàn diện, tổng hợp tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội của các dân tộc và quan hệ dân tộc trong cộng đồng quốc gia; trong đó phát triển kinh tế là nền tảng để phát triển các mặt của đời sống đồng bào các dân tộc. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta là sự vận dụng đúng đắn học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh cụ thể các dân tộc ở nước ta. Có thể nêu một số quan điểm cơ bản của Đảng ta về chính sách dân tộc như sau: - Một là: thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ cùng phát triển. Văn kiện cực kỳ quan trọng của Đảng ta là Nghị quyết về chính sách dân tộc thiểu số của Đảng (3-1952), trong đó khẳng định: Từ khi Đảng ta thành lập (1930) đến nay, tuy chưa có chính sách cụ thể đối với dân tộc thiểu số, nhưng Cương lĩnh chung của
- Đảng đã chỉ rõ: Đoàn kết các dân tộc trên nguyên tắc bình đẳng tương trợ để tranh thủ độc lập, tự do và hạnh phúc chung. Tháng 2 năm 1951, Đại hội Đảng (lần II) đã quyết nghị: "Các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều được bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, phải đoàn kết giúp đỡ nhau để kháng chiến và kiến quốc". Bước vào giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, các nguyên tắc ấy được thể hiện trong nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ III: Làm cho miền núi tiến kịp miền xuôi, các dân tộc thiểu số tiến kịp dân tộc đa số, giúp các dân tộc phát huy tinh thần cách mạng và khả năng to lớn của mình. Trong cán bộ cũng như trong nhân dân cần khắc phục tư tưởng hẹp hòi, đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc để cùng nhau tiến lên chủ nghĩa xã hội [9, tr.193]. Trong thông tri của Trung ương Đảng (1962) về vấn đề tăng cường công tác dân tộc ở các ngành các cấp có nhấn mạnh như sau: "Cần có những biện pháp cụ thể hợp với đặc điểm từng dân tộc để thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, của Chính phủ... nhằm đưa miền núi nói chung, từng dân tộc nói riêng tiến lên thực hiện nguyên tắc: Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc". Đến Đại hội IV (1976) các nguyên tắc trên lại được khẳng định, đồng thời Đảng còn nêu lên một nguyên tắc nữa là cùng làm chủ tập thể Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội IV có đoạn viết: Chính sách dân tộc của Đảng là thực hiện triệt để quyền bình đẳng vể mọi mặt giữa các dân tộc, tạo những điều kiện cần thiết để xóa bỏ tận gốc sự chênh lệch về trình độ kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc ít người và dân tộc đông người, đưa miền núi tiến kịp miền xuôi, vùng cao tiến kịp vùng thấp, làm cho tất cả các dân tộc đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đều phát triển về mọi mặt, đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, cùng làm chủ tập thể Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa [10, tr.164].
- Văn kiện Đại hội Đảng V ghi rõ: "Phải tăng cường hơn nữa khối đoàn kết các dân tộc, phát triển mối quan hệ tốt đẹp gắn bó giữa các dân tộc trên nguyên tắc bình đẳng, tương trợ và cùng làm chủ tập thể" [11, tr.97]. Như vậy, Đảng ta từ khi thành lập đến Đại hội V đã đề ra và thực hiện ba nguyên tắc cơ bản của chính sách dân tộc là: Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ. Việc đề ra và thực hiện kiên trì các nguyên tắc cơ bản của chính sách dân tộc của Đảng ta là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong các thời kỳ lịch sử đã qua. Tuy nhiên, trên tinh thần cách mạng và sáng tạo, qua từng bước tìm tòi. năm 1986, tại Đại hội lần thứ VI Đảng ta đề ra đường lối đổi mới toàn diện các lĩnh vực trong đó có đổi mới chính sách dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc. Sau hơn mười năm đổi mới, Đảng ta đã đúc kết thêm được những bài học trong việc giải quyết các vấn đề miền núi, vùng dân tộc thiểu số. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã xác định: "Vấn đề dân tộc có vị trí chiến lược lớn. Thực hiện "bình đẳng, đoàn kết, tương trợ" giữa các dân tộc trong sự nghiệp đổi mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" [12, tr.125]. Đại hội lần thứ IX của Đảng khẳng định: "Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc luôn luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng. Thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển..." [16, tr.73]. - Hai là: Thực hiện sự phát triển toàn diện miền núi. Để thực hiện mục tiêu đưa các dân tộc cùng nhau tiến lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta chủ trương tập trung phát triển lực lượng sản xuất, coi công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ. Với chiến lược phát triển toàn diện miền núi, Đảng ta coi trọng phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế là nền tảng và nâng cao trình độ dân trí, thực hiện xóa đói giảm nghèo, phát huy bản sắc dân tộc trong đó nâng cao dân trí là khâu đột phá. Báo cáo Chính trị đọc tại Đại hội lần thứ IX của Đảng đã xác định:
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn - Đổi mới công tác quản lý thu thuế trên địa bàn tỉnh Hà Giang
67 p | 411 | 169
-
LUẬN VĂN: Đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND xã đáp ứng yêu cầu thực hiện dân chủ cơ sở ở Nam Định hiện nay
102 p | 239 | 78
-
LUẬN VĂN:Đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc đối với đồng bào
88 p | 202 | 57
-
Luận văn Đổi mới công tác quản lý tiền lương tại công ty Chiến Thắng thuộc Tổng cục Kỹ Thuật - Bộ Quốc phòng
129 p | 143 | 37
-
LUẬN VĂN: Đổi mới kinh tế việt nam với phép phủ định biện chứng
30 p | 205 | 36
-
LUẬN VĂN: Đổi mới việc ra nghị quyết và tổ chức thực hiện nghị quyết của các huyện uỷ ở Tuyên Quang giai đoạn hiện nay
111 p | 205 | 32
-
LUẬN VĂN: Đổi mới việc thực hiện chính sách đối với nông dân ở tỉnh Đồng Tháp trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
122 p | 135 | 29
-
LUẬN VĂN: "Đổi mới công tác quản lý thu thuế trên địa bàn tỉnh Hà Giang"
63 p | 112 | 26
-
LUẬN VĂN: Đổi mới cơ chế, chính sách để thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay
19 p | 161 | 24
-
TIỂU LUẬN: TỰ ĐỔI MỚI, TỰ CHỈNH ĐỐN ĐẢNG ĐỂ ĐẢM BẢO CHO SỰ THÀNH CÔNG CỦA CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC
94 p | 129 | 23
-
Luận văn Đổi mới tổ chức, quản lý ở Công ty Vận tải đa phương thức theo mô hình Công ty mẹ - công ty con
115 p | 117 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Đổi mới việc ra đề Văn ở trường trung học phổ thông từ góc độ đổi mới kiểm tra đánh giá
174 p | 84 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Đổi mới công tác thi đua, khen thưởng tại Bộ Tài nguyên và Môi trường
99 p | 31 | 12
-
Luận văn Đổi mới việc thực hiện chính sách đối với nông dân ở tỉnh Đồng Tháp trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
136 p | 68 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Báo chí học: Vấn đề đổi mới phương thức tuyển sinh trên báo điện tử Việt Nam hiện nay
175 p | 24 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Vai trò giám sát của Quốc hội đối với việc thực hiện Công ước quốc tế xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (ICERD) ở Việt Nam
113 p | 30 | 5
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Đổi mới công tác thi đua khen thưởng tại Bộ Tài nguyên và Môi trường
26 p | 5 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn