intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Nhật Bản

Chia sẻ: Nguyen Lon | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:44

223
lượt xem
58
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Từ khi đất nước ta tiến hành đổi mới ,chuyển từ kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường, nhu cầu phát triển kinh tế và mở rộng các mối quan hệ kinh tế thương mại với các quốc gia khác trên thế giới ngày càng bức thiết. Xuất khẩu đã trở thành một trong ba chương trình chiến lược quốc gia nhằm nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, đảm bảo an sinh xã hội. Trong các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta hiện nay như dầu mỏ, giày dép, thủy...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Nhật Bản

  1. LUẬN VĂN: Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Nhật Bản
  2. A-Lời mở đầu Từ khi đất nước ta tiến hành đổi mới ,chuyển từ kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường, nhu cầu phát triển kinh tế và mở rộng các mối quan hệ kinh tế thương mại với các quốc gia khác trên thế giới ngày càng bức thiết. Xuất khẩu đã trở thành một trong ba chương trình chiến lược quốc gia nhằm nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, đảm bảo an sinh xã hội. Trong các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta hiện nay như dầu mỏ, giày dép, thủy sản,gạo, cà phê, sản phẩm gỗ… dệt may luôn nằm trong số 10 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu cao nhất cả nước. Ngành dệt may mỗi năm đã đóng góp hàng tỷ USD vào tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Tuy nhiên, ngành dệt may nước ta vẫn đang gặp phải những khó khăn, thử thách từ phía môi trường kinh doanh. Ví dụ như áp lực cạnh tranh từ phía các đối thủ cạnh tranh ngày càng cao, nền kinh tế thế giới gặp phải nhiều biến động, tỷ giá hối đoái có nhiều biến động khó lường, sự khác biệt về kinh tế-văn hóa-xã hội tại các thị trường xuất khẩu… Ngành dệt may nước ta đang phải vượt lên những khó khăn, thử thách ấy để có thể mở rộng hơn nữa thị trường xuất khẩu. Đặc biệt, ngành dệt may Việt Nam tại thị trường Nhật Bản đã và đang dần khẳng định được chỗ đứng của mình. Thị trường Nhật Bản hiện đang là thị trường xuất khẩu hàng dệt may lớn thứ 3 của Việt Nam. Thị trường này vốn nổi tiếng là một thị trường khó tính trên thế giới. Khi ngành dệt may nước ta có thể đứng vững trên thị trường Nhật thì chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng vào khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế. Để có thể hình dung ra được những khó khăn, thách thức cũng như tìm ra được các giải pháp tháo gỡ cho ngành dệt may nước ta, em xin trình bày đề tài: “ Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Nhật Bản” với các nội dung chủ yếu sau: Chương I: Lý luận chung về xuất khẩu dệt may Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu dệt may sang thị trường Nhật
  3. Chương III: Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Nhật Bản
  4. B- Nội dung Chương I: Lý luận chung về xuất khẩu hàng dệt may 1.Tổng quan về xuất khẩu 1.1.Khái niệm Thương mại quốc tế là quá trình trao đổi hàng hóa, dịch vụ giữa các nước thông qua hoạt động mua bán nhằm mục đích kinh tế và lợi nhuận. Hoạt động trao đổi, mua bán này thường vượt ra khỏi biên giới quốc gia. Sự trao đổi hàng hóa, dịch vụ là một hình thức của các mối quan hệ kinh tế, xã hội, nó phản ánh sự phụ thuộc lấn nhau giữa những người sản xuất hàng hóa riêng biệt ở các quốc gia khác nhau. Xuất khẩu là một trong những nội dung cơ bản của hoạt động ngoại thương hay thương mại quốc tế ở góc độ quốc gia. Xuất phát từ khái niệm chung về thương mại quốc tế, ta có thể hiểu xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ là quá trình đưa các hàng hóa, dịch vụ từ quốc gia này sang quốc gia khác nhằm mục đích thu lợi. Nếu xét ở góc độ kinh tế, mục đích của việc xuất khẩu là thu lợi ích kinh tế, cụ thể là lợi nhuận. Nếu xét ở góc độ xã hội, mục đích của xuất khẩu là nhằm thu được các lợi ích xã hội như an sinh, việc làm, nâng cao chất lượng cuộc sống … 1.2.Vai trò của xuất khẩu Đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vai trò của xuất khẩu được thể hiện rõ ở các mặt sau: Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất phát triển ổn định. Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
  5. Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế, kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Nghĩa là xuất khẩu là phương tiện quan trọng tạo ra vốn và kỹ thuật, công nghệ từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam nhằm hiện đại hóa kinh tế đất nước, tạo ra một năng lực sản xuất mới. Xuất khẩu cũng đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công việc quản trị sản xuất và kinh doanh. Xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống người dân. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta. 2. Đặc điểm ngành dệt may Việt Nam 2.1.Ưu điểm Dệt may là ngành Việt Nam được đánh giá có lợi thế so sánh: lợi thế giá nhân công rẻ, nguồn cung ứng lao động dồi dào, đầu tư nước ngoài ngày càng tăng… Theo Hiệp hội Dệt may Việt Nam, trong những năm qua đã có 534 dự án có vốn đầu tư nước ngoài từ 28 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào ngành dệt may Việt Nam với tổng vốn đăng kí là 3,215 tỷ USD. Trong giai đoạn 1998-2008, kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam ngày càng tăng, ngành dệt may xuất khẩu luôn đạt trên 1 tỷ USD và thị trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng. Ngành dệt may Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể với tốc độ trên dưới 20%/năm, kim ngạch xuất khẩu chiếm 15% kim ngạch xuất khẩu cả nước. Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam đạt 7,8 tỷ USD, tăng 33,4% so với năm 2006 và bằng khoảng 16% giá trị xuất khẩu hàng hoá năm 2007. Năm 2008, kim ngạch xuất khẩu dệt may nước ta lên tới 9,12 tỷ USD, tăng gần 17% so với năm 2007. Ngành dệt may đã luôn nằm trong top 10 sản phấm xuất khẩu nước ta đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD, năm 1998 là 1,3 tỷ USD, năm 2008 con số này là trên 9,1 tỷ USD. Đặc biệt, từ sau khi gia nhập WTO, doanh nghiệp Việt Nam đã có thể xuất khẩu vào toàn bộ các nước thành viên WTO với mức thuế ưu đãi ,thâm
  6. nhập được vào các thị trường trọng yếu trên thế giới như Hoa Kỳ ,liên minh Châu Âu (EU) , Trung Quốc ,Nhật Bản do thị trường được mở rộng và không bị phân biệt đối xử. Ngành dệt may nước ta có một số lượng lớn các doanh nghiệp với trên 50 doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước, gần 2000 doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần,công ty trách nhiệm hữu hạn và gần 500 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, sử dụng trên 2,2 triệu lao động. Các doanh nghiệp có quy mô lớn nhất trong ngành dệt may Việt nam lần lượt là Công ty Hưng Ngiệp FORMOSA, công ty sợi TAIWAN, Tổng công ty Việt Tiến, Tổng công ty Phong Phú, Tập đoàn Dệt May Vinatex, công ty may Nhà Bè… Khả năng cạnh tranh của hàng dệt may nước ta ngày càng được cải thiện. Chất lượng hàng dệt may Việt Nam ngày càng được nâng cao, nhiều thương hiệu Việt Nam đã có thể vươn ra thị trường quốc tế, chinh phục được nhiều thị trường khó tính yêu cầu cao cả về kiểu dáng, mẫu mã, chất lượng sản phẩm như Mỹ, EU, Nhật Bản. Đây là ba thị trường xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam. Ở Việt Nam, dệt may cũng là một trong những ngành được chú trọng phát triển khi Việt Nam thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Với những ưu thế về nguồn nhân công dồi dào, lượng vốn đầu tư không lớn, khả năng thu hồi vốn nhanh, Việt Nam có thể đẩy mạnh hoạt động của ngành dệt may để vừa thu về giá trị xuất khẩu lớn, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước, vừa giải quyết được việc làm cho phần lớn người lao động. Các sản phẩm của ngành may mặc nước ta khá đa dạng, phong phú. Sản phẩm của ngành may mặc không chỉ được biết đến đơn thuần là các sản phẩm quần áo, mà còn bao gồm những sản phẩm dùng trong các ngành và sinh hoạt như: lều, buồm, chăn, màn, rèm…Với ngành may mặc Việt Nam, sản phẩm của ngành cũng rất đa dạng nhằm đáp ứng yêu cầu xuất khẩu. Những sản phẩm may mặc phổ biến thường được xuất khẩu sang các thị trường chính của Việt Nam, như Mỹ, EU, Nhật Bản, là quần dài, quần short, áo jacket, áo sơ mi, áo bông, áo thun…
  7. 2.2.Nhược điểm Với mục tiêu thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, dệt may là một trong những ngành được chú trọng và ưu tiên phát triển trên cơ sở tận dụng nguồn nhân công dồi dào, giá rẻ trong nước để thực hiện các đơn hàng may xuất khẩu của nước ngoài. Đến nay, số lao động trong ngành may là trên 2 triệu lao động. Tuy ngành may đã thu hút được nhiều lao động, nhưng tính ổn định của nguồn lao động trong ngành lại không cao. Nguyên nhân chính là do mức thu nhập của công nhân ngành may khá thấp so với các ngành khác. Do đó, người lao động không mấy mặn mà với ngành may Họ sẵn sàng chuyển đổi sang những công việc khác có thu nhập cao hơn. Mặc dù, trong thời gian gần đây, nhiều doanh nghiệp may đã có những thay đổi trong chính sách lương thưởng cho người lao động nhưng số lao động thôi việc vẫn không ngừng tăng lên so với số lao động tuyển mới. Doanh nghiệp dệt may của Việt Nam hiện nay chủ yếu vẫn là thực hiện các đơn hàng gia công xuất khẩu cho phía nước ngoài. Số doanh nghiệp có khả năng thiết kế và sản xuất các sản phẩm thời trang hiện vẫn chưa nhiều. Do đó, sự khác biệt về kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm Việt Nam so với nhiều quốc gia khác vẫn chưa được thể hiện rõ nét. Điều này đã làm giảm đi giá trị gia tăng trong các sản phẩm may mặc của Việt Na, dẫn đến lợi nhuận thu về chưa tương xứng với khả năng cũng như giá trị xuất khẩu cao trong những năm qua. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp may mặc trong nước lại chưa chú trọng đến thị trường nội địa với số dân đông đảo hiện nay (trên 80 triệu người năm 2008). Chính vì thế, hàng may mặc Việt Nam dù được đánh giá khá cao tại nước ngoài thì lại được biết tới rất ít ở trong nước. Quần áo của Trung Quốc với giá rẻ và mẫu mã đa dạng có thể được tìm thấy ở khắp các cửa hàng, siêu thị, chợ của Việt Nam trong khi hàng Việt Nam thì hầu như vắng bóng. Gần đây, hàng may mặc của Việt Nam đã nổi lên với một số thương hiệu như May 10, Việt Tiến, Ninomax... dần được người tiêu dùng Việt Nam chú ý hơn. Tuy nhiên, ở phân khúc thị trường hàng may mặc giá rẻ thì hàng Việt Nam vẫn chưa thể cạnh tranh được với hàng Trung Quốc.
  8. Một điểm yếu cực kỳ quan trọng là ngành may mặc của Việt Nam vẫn bị phụ thuộc khá nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu từ nước ngoài, với trị giá nguyên phụ liệu nhập khẩu thường chiếm gần 60 – 80% giá trị nguyên phụ liệu cần thiết để sản xuất. Tuy đã được chú trọng đầu tư về công nghệ, dây chuyền sản xuất hiện đại hơn nhưng nguyên liệu sản xuất trong nước hoặc không đủ cho nhu cầu sử dụng để sản xuất hàng xuất khẩu, hoặc không đáp ứng được tiêu chuẩn của khách hàng nước ngoài. Nhiều đơn đặt hàng, phía nước ngoài cũng chỉ định luôn nhà cung cấp nguyên vật liệu khiến cho các doanh nghiệp may Việt Nam không có điều kiện sử dụng những nguyên liệu sản xuất trong nước với giá thành rẻ hơn. Trình độ công nghệ và năng lực sản xuất của các doanh nghiệp may Việt Nam hiện nay vẫn còn thấp hơn 30 – 50% so với mặt bằng chung của khu vực. Với trình độ như vây, khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam bị giảm đi phần nào. Bảng 1: Hiện trạng năng lực sản xuất doanh nghiệp dệt may (2005) Sản phẩm Số doanh nghiệp Năng lực sản xuất hàng năm Các loại sợi 102 260 ngàn tấn Dệt 135 680 triệu mét vuông Sản phẩm dệt kim 56 300 ngàn tấn Vải 1050 2000 triệu đơn vị sản phẩm Nguồn: Hiệp hội Dệt May Việt Nam Tuy nhiên, trong thời gian qua, một số doanh nghiệp cũng đã chủ động đầu tư cải tiến về công nghệ nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí, từ đó tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Ngành dệt may trong nước là phụ thuộc quá nhiều vào một vài thị trường như Mỹ (chiếm 55% tổng kim ngạch xuất khẩu), EU (17%), Nhật (8%)... (theo số liệu năm
  9. 2008 của Hiệp hội dệt may Việt Nam). Do vậy, ngành dệt may nước dễ bị tác động khi các thị trường trên gặp sự cố. Đặc biệt là vừa qua tình hình khủng hoảng trên toàn thế giới, nhu cầu tiêu thụ hàng giảm mạnh do người dân các thị trường lớn thắt chặt chi tiêu. Nhiều đơn đặt hàng từ nước ngoài bị rút lại cũng đã gây ảnh hưởng khá lớn đến hoạt động xuất khẩu dệt may của nước ta. Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu dệt may sang thị trường Nhật Bản của Việt Nam 1.Tình hình nhập khẩu dệt may của Nhật Bản Nhật Bản – nền kinh tế lớn thứ hai thế giới - là một thị trường lớn với dân số khoảng 128 triệu và có sức mua lớn. Những năm gần đây, kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản ngày càng tăng: năm 2001 đạt 351 tỷ USD, năm 2004 đạt 454 tỷ USD và năm 2006 đạt 580 tỷ USD, năm 2007 đạt 621 tỷ USD (tăng 7,2% so với năm 2006), trong đó: nông thủy sản, thực phẩm là 51 tỷ USD (chiếm 8,3% tổng kim ngạch nhập khẩu), hải sản là 14,6 tỷ USD (chiếm 2,4%), may mặc là 30 tỷ USD (chiếm 4,9%)… Thị trường Nhật Bản gần như là một thách thức lớn với các doanh nghiệp Việt Nam, nhưng sự khắt khe đó lại được những tiềm lực và thế mạnh của một số mặt hàng Việt Nam khắc phục, đó là những nhóm hàng dệt may, nhóm hàng thủy sản, hàng thực phẩm, nhóm da giầy, gốm sứ và đồ đạc gia đình... Người tiêu dùng Nhật Bản ưa chuộng sự đa dạng của sản phẩm. Sản phẩm có vòng đời ngắn nhưng chất lượng tốt, kiểu dáng đẹp, hoàn hảo, tiện dụng là phù hợp với yêu cầu của người tiêu dùng Nhật Bản hiện nay. Do đó, hàng dệt may xuất khẩu sang Nhật cần đáp ứng được cả về chất lượng lẫn kiểu dáng. 1.1.Hàng rào thương mại của Nhật Bản đối với hàng dệt may 1.1.1.Hàng rào thuế quan Nhìn chung, mức thuế suất nhập khẩu hàng dệt may thông thường là 14-16,8%, mức thuế đối với áo sơ mi thì thấp hơn: từ 9-11,2%. Nước được áp dụng chế độ ưu
  10. đãi theo Hệ thống thuế quan phổ cập (GSP) thì mức thuế thấp theo điều kiện phân bổ trước hoặc miễn thuế. Trong Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP), các mức thuế ưu đãi với hàng may mặc được quản lý như sau: Các mức thuế trần ưu đãi được xác định cho mỗi năm tài chính và các mức thuế ưu đãi được phân bổ trước thông qua việc nộp đơn xin. Người nhập khẩu xin được phân bổ thuế ưu đãi trần bằng cách nộp đơn xin liên hệ phòng thuế quan, Vụ kinh tế quốc tế, Bộ công thương hoặc văn phòng Thương mại quốc tế và công nghiệp khu vực. Người nhập khẩu sẽ nộp giấy chứng nhận phân bổ cùng với giấy chứng nhận ưu đãi do cơ quan chính thức của nước xuất xứ cấp, cho hải quan tại cảng đến (thông tin chi tiết có thể liên hệ văn phòng thương mại quốc tế và công nghiệp khu vực hoặc Hiệp hội nhập khẩu hàng dệt Nhật Bản). 1.1.2.Hàng rào phi thuế quan Về hạn ngạch, một số mặt hàng có hạn ngạch tối đa cho từng nước xác định vào đầu mỗi năm tài chính và phải qua kiểm tra hàng ngày, theo đó nhập khẩu được tính toán hàng ngày và mức thuế tối huệ quốc (MFN) được áp dụng 2 ngày sau khi mức hạn ngạch tối đa nói trên bị vượt quá. Thứ hai là các quy định về luật liên quan đến nhập khẩu, nhìn chung, hàng dệt may vào thị trường Nhật Bản không phải theo một quy định nào, hay nói cách khác là được nhập tự do vào Nhật. Hàng dệt may có sử dụng một phần da hay phụ kiện da phải tuân thủ theo công ước Washington. Về nhãn hiệu hàng hoá, Luật hàng hoá đạt chất lượng tốt yêu cầu hàng dệt may phải có nhãn hiệu với các thông tin sau: - Loại sợi dệt, tỉ lệ sợi pha - Cách giặt và sử dụng - Loại da được sử dụng - Nhãn phải ghi rõ tên, địa chỉ, số điện thoại có thể liên hệ. Tuy vậy, doanh nghiệp xuất khẩu dệt may vào Nhất cần quan tâm tới một số quy định luật pháp thương mại tiêu biểu và có ảnh hưởng lớn đến việc tiêu thụ hàng hóa:
  11. Luật trách nhiệm sản phẩm:Luật trách nhiệm sản phẩm được áp dụng đối với các sản phẩm nói chung và sản phẩm nhập khẩu nói riêng. Luật này được ban hành vào tháng 7-1995 để bảo vệ người tiêu dùng. Luật này quy định nếu như một sản phẩm có khuyết tật gây ra thương tích cho người hoặc thiệt hại về của cải thì nạn nhân có thể đòi nhà sản xuất bồi thường cho các thiệt hại xảy ra liên quan đến sản phẩm có khuyết tật và các quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và khuyết tật của sản phẩm. Quy định tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản-JIS:Tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản JIS là một trong những tiêu chuẩn được sử dụng rộng rãi ở Nhật. Tiêu chuẩn này dựa trên "Luật tiêu chuẩn hóa công nghiệp" được ban hành vào tháng 6 năm 1949 và thường được biết tới dưới cái tên "dấu chứng nhận tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản" hay JIS. Hệ thống JIS đã góp phần vào việc mở rộng tiêu chuẩn hóa trên phạm vi toàn bộ nền công nghiệp Nhật Bản. Hệ thống tiêu chuẩn JIS áp dụng đối với tất cả các sản phẩm công nghiệp và khoáng sản, trừ những sản phẩm được áp dụng các tiêu chuẩn chuyên ngành như dược phẩm, phân hóa học, sợi tơ tằm, thực phẩm và các sản phẩm nông nghiệp khác được quy định trong Luật về tiêu chuẩn hóa và dán nhãn các nông lâm sản (viết tắt là JAS). Do đó khi kiểm tra các sản phẩm này chỉ cần kiểm tra dấu chất lượng tiêu chuẩn JIS là đủ xác nhận chất lượng của chúng. Nhật Bản không áp đặt quy định và luật nào về giá cả và phương thức thanh toán. Nhà xuất khẩu có thể báo giá bằng Đô la Mỹ, Yên Nhật hoặc bất cứ loại tiền nào, tuy nhiên tốt nhất nên báo giá bằng đồng Yên Nhật hoặc Đô la Mỹ . Cách thức báo giá, thanh toán tùy thuộc vào chủng loại hàng hóa, số lượng và quan hệ giữa hai bên. Thứ hai là hệ thống kênh phân phố của Nhật cũng tạo thành một rào cản với các doanh nghiệp xuất khẩu hang dệt may.Cụ thể, hàng may mặc nhập khẩu từ nước ngoài luôn đi qua hệ thống phân phối bắt đầu từ các công ty thương mại tổng hợp hoặc công ty chuyên ngành, sau đó đến các nhà bán buôn, những người bán lẻ, cuối cùng là người tiêu dùng. Hoặc, khâu nhập khẩu sẽ do chi nhánh các công ty thương mại tại nước xuất xứ tiến hành, sau đó hàng sẽ được chuyển qua công ty mẹ tại Nhật hoặc giao cho các hãng may hoặc cửa hàng bán lẻ.
  12. Ngày nay, một hình thức phân phối mới ngày càng phổ biến là các khâu nhập khẩu sẽ do chi nhánh các công ty thương mại tại nước xuất xứ tiến hành, sau đó hàng sẽ được chuyển qua công ty mẹ tại Nhật hoặc giao cho các hãng may hoặc cửa hàng bán lẻ. 1.2.Chủng loại hàng may mặc nhập khẩu vào Nhật Bản chia làm 4 nhóm: -Hàng thời trang cao cấp: loại hàng này mang tính thời trang từ màu sắc, mẫu mã, chất lượng, kiểu dáng và thường được nhập từ châu Âu và Mỹ -Hàng từ nguyên liệu thô: ít có ở Nhật, ví dụ hàng Casomia, angora, mohair -Sản phẩm dùng nhiều sức lao động: những sản phẩm làm bằng tay được sản xuất ở các nước có mức tiền lương thấp -Sản phẩm thủ công truyền thống Từ năm 1997 do thuế tiêu thụ tăng, đồng yên mất giá nên mức tiêu dùng bị giảm, rõ nhất là hàng may mặc của nam giới và trẻ em. Trước tình hình đó, các nhà kinh doanh hàng dệt may Nhật bản đã nhanh chóng thay đổi cơ cấu kinh doanh, thu hẹp qui mô sản xuất, đặc biệt tập trung nghiên cứu các sản phẩm mang tính thời trang, vòng đời ngắn. Hiện nay, hình thức kinh doanh theo kiểu người sản xuất đảm nhận luôn khâu bán hàng đã trở nên thông dụng ở Nhật. 1.3.Xu hướng nhập khẩu hàng dệt may của Nhật Bản Nhật Bản là một nước có nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới và nhập khẩu dệt may hàng đầu, Nhật Bản có sức ảnh hưởng lớn đến nhu cầu hàng hoá và dịch vụ của thế giới. Cụ thể hơn, Nhật như là một nhà tiêu thụ quần áo chủ chốt và tầm ảnh hưởng của xu hướng thời trang tại quốc gia này không thể phủ nhận. Nhật Bản chỉ đứng sau Mỹ về chi tiêu cho quần áo và nhu cầu về bông. Nhập khẩu hàng may mặc vào Nhật năm 1999 đạt 681,529 tấn (tăng 20% so với năm trước) và đạt 1.622 tỷ yên (giảm 3,7% về giá trị). Hàng may mặc nhập khẩu vào Nhật tăng rất nhanh vào những năm 80 và tiếp tục tăng với tốc độ khá vào những năm 90. Năm 1997, khi đồng yên mất giá và tiêu dùng giảm, hàng nhập khẩu chứng lại và giảm dần. Xu hướng này vẫn tiếp tục vào năm 1998. Sau đó, với những biện pháp tăng cường tiếp thị tới tận tay người tiêu dùng và các cửa hàng tăng cường giảm giá
  13. đối với những mặt hàng có nhu cầu thấp để kích thích người mua hàng, từ năm 1999 đến nay thị trường hàng nhập khẩu có xu hướng phục hồi. Hiện Nhật Bản là thị trường lớn thứ hai trên thế giới về tiêu thụ hàng dệt may, trong đó thị trường thời trang hàng ngày cho tầng lớp phụ nữ trẻ chiếm khoảng 60% trong tổng thể thị trường quần áo và có trị giá khoảng 28 tỷ USD. Một vài thập kỷ gần đây, hàng nhập khẩu luôn chiếm phần lớn trong tổng doanh số bán lẻ và tiêu dùng hàng may mặc tại Nhật. Nhập khẩu quần áo tăng trung bình 7,5% mỗi năm trong 2 thập kỷ qua. Khi quần áo nhập khẩu chiếm phần lớn trong doanh thu bán lẻ quần áo ngày càng tăng của Nhật thì thị phần của quốc gia xuất khẩu quần áo lớn nhất, Trung Quốc sẽ tăng. Vào cuối những năm 1980 thị phần của Trung Quốc tại thị trường nhập khẩu quần áo của Nhật Bản thấp hơn 40% nhưng đến năm 2007 con số này đã là 92%. Điều này là do quần áo của Trung Quốc có giá trung bình tương đương hoặc thấp hơn giá của các nước khác. Thị phần của bông tại thị trường quần áo Nhật Bản đã có sự tăng trưởng đáng kể trong một thập kỷ qua, điều này phản ánh vai trò dẫn đầu của Nhật trong xu hướng thời trang toàn cầu. Giá trị nhập khẩu tính bằng đồng Yên của quần áo làm bằng chất liệu bông tại Nhật tăng nhanh hơn là giá trị nhập khẩu quần áo nói chung. Điều này chứng tỏ rằng người tiêu dùng của Nhật ngày càng yêu thích chất liệu bông. Trong vòng 1 thập kỷ qua, thị phần của quần áo có chất liệu bông đã tăng từ 40-48%. Điều này cũng giống như xu hướng tại Mỹ. Về hàng dệt thoi, thị phần của quần áo làm từ bông tăng ổn định từ 40% của năm 1996 lên 45% năm 2007, chủ yếu là sự tăng mạnh ở các loại quần như quần jean, và trang phục dành cho phụ nữ và các em bé gái. Về hàng dệt kim, thị phần quần áo làm từ bông tăng từ 37% năm 1998 lên 50% năm 2007, chủ yếu tăng ở nhóm quần áo ngủ (tăng 234% trong 10 năm qua).Trong cuộc điều tra về xu hướng tiêu dùng người Nhật được thực hiện bởi công ty Cotton Incorporated’s Global Lifestyle Monitor™, khi được hỏi về loại xơ nào mà họ muốn dùng làm chất liệu trong trang phục hiện nay, 51% chọn bông, tăng 5,6% so với năm 1999.
  14. Từ đầu những năm 1990, người tiêu dùng Nhật Bản cũng như người Mỹ đều thích sự thoải mái, co giãn tốt của hàng dệt kim hơn là dệt thoi. Thị phần của hàng dệt kim trên thị trường quần áo chất liệu bông nhập khẩu tăng từ 48% (1990) lên 55% (2007). Tại Mỹ, thị phần của dệt kim cũng theo xu hướng trên, tăng từ 37% lên 50%. Mặc dù cả quần áo dệt kim lẫn dệt thoi nhập khẩu vào Nhật đều tăng trong giai đoạn này nhưng nhu cầu hàng dệt kim tăng rõ ràng hơn cả. Tại cả thị trường Nhật lẫn Mỹ, sự phát triển mạnh của chất liệu bông trong quần áo dệt kim được thể hiện trong doanh số bán lẻ và khối lượng nhập khẩu. 1.4.Thị phần nhập khẩu và xuất xứ hàng dệt may ở thị trường Nhật Từ năm 1987 trở lại đây, hàng nhập khẩu luôn chiếm tới 60% tính về giá trị và trên 60% tính về số lượng trên thị trường Nhật. Trung quốc đứng đầu danh sách xuất khẩu hàng dệt may sang Nhật bản, chiếm 60-80%. Hiện nay, nhập khẩu từ Hàn quốc, Đài loan, Hongkong giảm dần trong khi nhập khẩu từ Việt nam, Thái lan, Indonexia, và các nước ASEAN khác ngày một gia tăng. Thị trường nhập khẩu sản phẩm dệt may của Nhật Bản rất lớn. Trung bình mỗi năm, Nhật nhập khẩu hàng dệt may nhiều nhất là Trung Quốc với tỷ trọng 73,6%, tiếp đến là EU 8,1%, Mỹ 2,5%, Đài Loan 1,3%, ASEAN chiếm 7,5% và Việt Nam hiện là đối tác lớn nhất của Nhật Bản trong khối ASEAN với lượng hàng dệt may xuất khẩu chiếm 34,4% trong khối ASEAN, chiếm gần 3% thị phần tại Nhật. 2.Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may sang Nhật Bản của Việt Nam qua các năm (từ 1998 tới nay) Theo đánh giá của Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản, quan hệ thương mại Việt- Nhật đang phát triển với tốc độ cao. Nhật luôn duy trì vị trí là một trong 3 thị trường xuất khẩu trọng điểm của Việt Nam sau Mỹ và EU. Trong quan hệ thương mại với Nhật Bản, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong những năm gần đây luôn đạt tốc độ phát triển khá cao, tăng trung bình từ 15-20% so với năm trước. Trong cán cân thương mại, Việt Nam luôn là nước xuất siêu.
  15. Trong tổng kim ngạch xuất khẩu sang Nhật, mặt hàng dệt may là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn của Việt Nam sang Nhật Bản từ trước tới nay.Điển hình trong năm 2005,hàng dệt may đạt kim ngạch xuất khẩu cao nhất trong 10 mặt hàng xuất khẩu sang Nhật (theo số liệu được thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản tổng kết): Hàng may mặc (đạt 721,7 triệu USD, tăng 8,6% so với năm 2004) cao nhất về giá trị kim ngạch xuất khẩu; Hải sản kể cả tôm (đạt 614 triệu USD, tăng 1,9%, trong đó tôm đông lạnh đạt 452 triệu USD, tăng 0,5%); Dầu thô (đạt 585 triệu USD, tăng 58,6% do giá dầu thô trên thế giới trong năm 2005 tăng đột biến); Hàng dệt thoi (đạt 466 triệu USD, tăng 7,8%);Dây cáp điện (đạt 450 triệu USD, tăng 35,4%); Than đá (đạt 207,6 triệu USD, tăng 51,8%); Đồ gỗ (184,3 triệu USD, tăng 21,0%); Hàng dệt kim (đạt 122,5 triệu USD, tăng 16,1%); Linh kiện điện tử mạch in (đạt 119 triệu USD, tăng 7,2%). 2.1.Đánh giá tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Nhật Bản Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Nhật của nước ta tuy có tăng trong những năm gần đây song vẫn chưa thực sự khởi sắc, chưa đúng với tiềm năng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam.Dựa vào các số liệu ở bảng 2 ta thấy: từ năm 1998 tới năm 2008, kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang Nhật Bản đã tăng gấp 2,5 lần từ 321 triệu USD lên 820 triệu USD; trong khi đó thì hàng dệt may nước ta trên thị trường Mỹ từ 21 triệu USD tới 5,1 tỷ USD còn thị trường EU từ 521 triệu USD lên 1,7 tỷ USD.Đồng thời, kim ngạch xuất khẩu dệt may bình quân nước ta trong giai đoạn này sang thị trường Nhật là 570 triệu USD, sang EU là 865 triệu USD và Mỹ là 1,895 tỷ USD (gấp 3,5 lần kim ngạch xuất khẩu dệt may bình quan sang thị trường Nhật). Do đó, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Nhật của nước ta còn thấp hơn rất nhiều so với Mỹ, EU ,mặc dù thị trường Nhật là thị trường xuất khẩu dệt may lớn thứ 3 của Việt Nam. Điều này vẫn chưa tương xứng với quan hệ linh tế thương mại Việt Nam-Nhật Bản từ khi 2 nước thiết lập quan hệ song phương tới nay. Bảng 2: Bảng thể hiện tình hình xuất khẩu dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ, EU, Nhật Bản (đơn vị: triệu USD)
  16. 199 199 200 200 200 200 200 200 200 200 Năm 2008 8 9 0 1 2 3 4 5 6 7 KN XK dệt may 321 417 620 588 521 514 531 604 636 700 820 sang Nhật KNXK dệt may 197 247 260 318 440 26 34 50 45 951 5100 sang Mỹ 3 4 3 6 0 KNXK dệt may 122 150 521 555 609 599 579 580 762 882 1700 sang EU 5 0 KN XK dệt may 135 174 189 196 275 365 436 483 592 778 9130 cả nước 1 7 2 2 2 4 8 8 7 0 Nguồn : www.vietnamtextile.org Bên cạnh đó, dựa vào Biểu đồ thể hiện kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam sang Nhật Bản từ 1998 tới nay, và ước tính năm 2009, 2010, 2015 ta có thể thấy được xuất khẩu hàng dệt may của nước ta sang Nhật cũng có nhiều biến động, cụ thể là tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may tăng giảm thất thường qua các năm. Trong giai đoạn 1998-2000, kim ngạch xuất khẩu dệt may tăng mạnh từ 321 triệu USD năm 1998 tới năm 2000 kim ngạch xuất khẩu dệt may sang Nhật đạt 620 triệu USD. Nhưng sau đó lại giảm đi chỉ còn 514 triệu USD năm 2003; từ năm 2003 tới năm 2008 kim ngạch xuất khẩu mới tăng lên mức 820 triệu vào năm 2008.Như vậy, kim ngạch xuất khẩu dệt may sang Nhật mới chỉ gấp 1,6 lần trong 5 năm trở lại đây. Theo thống kê từ Tổng cục Hải quan cho thấy, 6 tháng đầu năm 2009, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may qua thị trường Nhật Bản ước đạt 440 triệu USD, tăng 22% so với cùng kỳ năm 2009. Trong đó, các mặt hàng áo thun, áo sơ mi, đồ lót... đều tăng mạnh. Biểu đồ 1: kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam sang Nhật Bản từ 1998 tới nay, và ước tính năm 2009, 2010, 2015 (đơn vị: triệu USD)
  17. Ng uồn : www.vietnamtextile.org Năm 2009, hàng dệt may của nước ta sang thị trường Nhật Bản không phải chịu thuế nhập khẩu, điều này sẽ mang lại nhiều thuận lợi cho hàng dệt may xuất khẩu của nước ta. Dự báo, năm 2009, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam sang Nhật Bản tăng 20% so với năm 2008. Và trong tương lai kim ngạch xuất khẩu dệt may của nước ta sang thị trường Nhật Bản sẽ đạt kim ngạch 1,25 tỷ USD vào năm 2010 khi Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam-Nhật Bản(EPA) bắt đầu được thực hiện. Và đến năm 2015, kim ngạch sẽ chạm mức 2,5 tỷ USD. 2.2.Đánh giá tỷ trọng hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường Nhật Nhìn chung tỷ trọng hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản của nước ta đang có xu hướng giảm dần so với các thị trường khác.Thị trường hàng dệt may truyền thống này có những dấu hiệu bất ổn định, mặc dù xét về tổng kim ngạch thì vẫn đang là thị trường tiêu thụ chủ chốt với khả năng tăng tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may khá đều qua các năm.
  18. Dựa vào bảng 3 ta thấy tỷ trọng hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường Nhật trong tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may cả nước từ 2000 tới nay có xu hướng giảm dần về tỷ trọng. Bảng 3: Bảng thể hiện tỷ trọng hàng dệt may xuất khẩu sang Nhật trong tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may cả nước (đơn vị :%) Năm 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Tỷ trọng 23,8 23,9 32,8 30,0 18,9 14,0 12,1 12,5 10,7 9,0 9,0 (%) Nguồn: tự tổng hợp Giai đoạn trước năm 2000 là giai đoạn hàng dệt may xuất khẩu sang Nhật đạt tỷ trọng lớn với tốc độ tăng kim ngạch mạnh mẽ, sang giai đoạn từ sau năm 2000 tỷ trọng hàng dệt may sang thị trường Nhật Bản trong cơ cấu thị trường hàng dệt may nước ta bắt đầu đi xuống. Năm 2000, kim ngạch hàng dệt may sang Nhật chiếm 32,8% kim ngạch xuất khẩu dệt may cả nước tới năm 2008 chỉ còn 9%, mức giảm bình quân là 2,5% một năm. Bên cạnh đó, ta cũng có thể thấy rõ sự suy giảm về tỷ trọng hàng dệt may xuất khẩu trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa nói chung sang Nhật Bản (bảng 4). Mặt hàng dệt may không thể giữ được mức tăng tỷ trọng như những năm trước năm 2000 mà đang có những biểu hiện giảm dần về tỷ trọng hàng dệt may trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Nhật Bản từ sau năm 2000. Bằng chứng là từ 2000 tới năm 2008, hàng dệt may đã giảm đi 2,5 lần từ 24,07% xuống còn 9,6% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa nước ta sang thị trường Nhật Bản Bảng 4: Bảng thể hiện tỷ trọng hàng dệt may trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa nước ta sang Nhật Bản (đơn vị: triệuUSD)
  19. Năm 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 KN XK dệt 321 417 620 588 521 514 531 604 636 700 820 may sang Nhật Tổng KN XK 1514 1786 2575 2510 2437 2909 3542 4340 5240 6090 8538 sang Nhật Tỷ trọng (%) 21.19 23.34 24.07 23.43 21.37 17.67 14.99 13.92 12.14 11.49 9.6 Nguồn: tự tổng hợp Tuy tỷ trọng hàng dệt may xuất khẩu sang Nhật có xu hướng giảm đi nhưng tỷ trọng hàng dệt may xuất khẩu sang các thị trường khác đang tăng lên không cả về giá trị lẫn sản lượng tiêu thụ. Điều này chứng tỏ hàng dệt may nước ta đã giảm bớt sự phụ thuộc vào thị trường Nhật. Đặc biệt là sự gia tăng tỷ trọng của hàng dệt may tiêu thụ ở thị trường trong nước. Nguyên nhân của sự gia tăng này là do trong thời gian gần đây,Nhà nước ta đang khuyến khích tiêu thụ hàng dệt may ở thị trường nội địa, các thương hiệu dệt may Việt Nam đang tìm được chỗ đứng của mình trong lòng người tiêu dùng. Điều này chứng tỏ công tác xúc tiến tiêu dùng hàng dệt may ở thị trường trong nước và trên thị trường xuất khẩu dệt may mới đang hoạt động có hiệu quả. 2.3.Đánh giá tốc độ tăng kim ngạch hàng dệt may Việt Nam sang Nhật Bản Nhìn chung, xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang Nhật Bản những năm gần đây luôn tăng trưởng ở mức 9-10%, song còn chậm hơn nhiều so với các thị trường Mỹ, EU. Từ năm 1998 tới năm 2008, Mỹ có tốc độ tăng kim ngạch cao nhất trên 196 lần trong vòng 10 năm trở lại đây với mức tăng kim ngạch bình quân gần 507,4 triệu USD/năm, EU có tốc độ tăng khiêm tốn hơn gần 3,3 lần với mức tăng kim ngạch bình quân 117,9 là triệu USD/năm, còn tốc độ tăng kim ngạch hàng dệt may nước ta trên thị trường Nhật chỉ đạt 2,5 lần với mức tăng kim ngạch bình quân tương ứng khoảng 49,9 triệu USD/năm. Bảng 5: Bảng thể hiện sự thay đổi trong kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Nhật Bản từ năm 1998 tới năm 2008
  20. 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 So với So với So với So với So với So với So với So với So với So với 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Chênh lệch KN 96 203 -32 -67 -7 17 73 32 64 120 (triệuUSD ) Tỷ lệ % 29,9 48,7 -5,2 -11,4 -1,3 3,3 13,7 5,3 10,1 17,1 thay đổi Nguồn: tự tổng hợp Dựa vào bảng 5, từ năm 1997 tới năm 2000 là giai đoạn kim ngạch xuất khẩu dệt may sang Nhật của nước ta đạt tốc độ tăng cao nhất trung bình 100 triệu USD mỗi năm. Tuy nhiên, hàng dệt may nước ta không thể giữ được mức tăng trưởng này, sau khi đạt đỉnh vào năm 2000 (620 triệu USD), kim ngạch xuất khẩu dệt may sang thị trường Nhật Bản quay đầu sụt giảm trong suốt 3 năm liên tiếp từ năm 2001 tới năm 2003 với mức giảm trung bình 35,3 triệu USD/năm, tương ứng với mức giảm 6% mỗi năm. Sau khi chạm đáy 514 triệu USD năm 2003, hàng dệt may sang Nhật của nước ta có dấu hiệu phục hồi. Xét cả giai đoạn 2003-2008 mỗi năm tăng gần 62,1 triệu USD, với mức tăng tương ứng là 9,9% mỗi năm. Đặc biệt, theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong năm 2008, xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang Nhật Bản đạt 820 triệu USD, tăng 17,1 % so với năm 2007, cao hơn nhiều so với mức tăng 12% của năm 2007 so với năm 2006.Dự kiến sau khi Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam-Nhật Bản(EPA) bắt đầu được thực hiện thì tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu dệt may nước ta còn cao hơn nữa. Cụ thể, giai đoạn 2010-2015 có tốc độ gia tăng kim ngạch xuất khẩu dệt may khoảng 208,3 triệu USD mỗi năm lớn gấp 4 lần con số 51 triệu USD mỗi năm của giai đoạn 2003- 2008. 2.4.Cơ cấu hàng dệt may xuất khẩu nước ta sang thị trường Nhật Bản
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2