ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
--------------***--------------
VŨ MẠNH CƢỜNG
NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT CỦA
HỒ ANH THÁI QUA
“ ĐỨC PHẬT, NÀNG SAVITRI VÀ TÔI”
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 62.22.01.21
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học : PGS.TS.TRỊNH BÁ ĐĨNH
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Thái Nguyên - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài luận văn khoa học: Nghệ thuật tiểu thuyết của
Hồ Anh Thái qua “ Đức Phật , nàng Savitri và tôi” với các số liệu, kết quả
nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong
bất cứ công trình nào khác, hoàn toàn là công trình nghiên cứu của tôi.
Tác giả luận văn
Vũ Mạnh Cường
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
2
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này tôi xin chân thành cảm ơn :
- Ban Giám hiệu, Ban Chủ nhiệm Khoa Ngữ văn, Khoa Sau đại học
trường Đại học Sư Phạm - Đại học Thái Nguyên.
- Các thầy, cô giáo ở Viện Văn học, trường Đại học Sư phạm I Hà Nội,
trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội, trường Đại học Sư
Phạm Thái Nguyên đã trực tiếp giảng dạy tôi trong suốt khoá học.
Đặc biệt tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS. TS Trịnh Bá Đĩnh,
người đã động viên, giúp đỡ tôi rất nhiều trong suốt quá trình viết luận văn.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động
viên, khích lệ, tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và
nghiên cứu.
Tác giả luận văn
Vũ Mạnh Cường
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
3
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan ………………………………………………………….. i
Lời cảm ơn …………………………………………………………….. ii
Mục lục…………………………………………………………………. iii
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài………………………………………………… 1
2. Lịch sử vấn đề……………………………………………………… 2
3. Phạm vi, đối tượng và mục đích nghiên cứu. ……………………… 10
4.Đóng góp của luận văn……………………………………………… 10
5. Phương pháp nghiên cứu và cấu trúc luận văn……………………… 11
B. PHẦN NỘI DUNG
12 Chương 1: Quan điểm về tiểu thuyết và quá trình sáng tác của Hồ Anh Thái
1.1. Sự thay đổi trong quan điểm tiểu thuyết sau 1986………………..... 12
1.2. Quá trình sáng tác và quan điểm tiểu thuyết của Hồ Anh Thái……. 21
Chương 2: Nhân vật và tư tưởng trong tiểu thuyết “Đức Phật, nàng
28 Savitri và tôi”
2.1. Mấy vấn đề lí luận về nhân vật văn học…………………………… 28
2.2. Chất liệu lịch sử và huyền thoại trong xây dựng nhân vật………… 32
2.3. Đối thoại văn hóa………………………………………………….. 41
58 Chương 3: Kết cấu và ngôn ngữ của tiểu thuyết
3.1. Kết cấu của tiểu thuyết Hồ Anh Thái……………………………… 58
3.2. Kết cấu liên văn bản, một đặc sắc nghệ thuật của Hồ Anh Thái…… 65
3.3. Đặc sắc ngôn ngữ trong “Đức Phật, nàng Savitri và tôi”………….. 82
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
4
94 C. PHẦN KẾT LUẬN
96 TÀI LIỆU THAM KHẢO
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
5
A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn học Việt Nam sau năm 1986 có nhiều đổi mới mạnh mẽ và sâu sắc
trên cả hai phương diện nội dung cũng như hình thức biểu đạt. Những mạch
nguồn truyền thống đã được thay thế bằng những cảm hứng mới. Những trang
viết về con người cá nhân, về cuộc sống đời thường với tất cả sự phức tạp và
bộn bề đã xuất hiện và thay thế những quy phạm và cảm hứng sử thi truyền
thống trước đó. Trên văn đàn lần lượt xuất hiện những tác giả mới mà những
đóng góp của họ có thể nói đã làm thay đổi nhiều hệ thống tiêu chí thẩm mỹ
cũ, từ đó một loạt các giá trị mới đã được hình thành và xác lập. Có thể kể ra
đây nhiều tên tuổi như: Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh,
Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Bình Phương, Phan Thị Vàng Anh,vv… trong
đó, tiểu thuyết đóng góp lớn vào sự cách tân văn học, có các quan niệm và lối
viết mới.
Hồ Anh Thái là một nhà văn xuất hiện gần như đồng thời trong giai
đoạn đó. Ông cũng là một trong những gương mặt tiêu biểu của lớp nhà văn
thời hậu chiến ở Việt Nam.Với một vốn văn hóa dày dặn (là Tiến sĩ văn hóa
phương Đông, tham gia thỉnh giảng ở nhiều trường đại học nổi tiếng ở Mỹ
như: Đại học tổng hợp Washington, Đại học St Mary…) và với ý thức cách
tân nghệ thuật ráo riết, Hồ Anh Thái say mê chiếm lĩnh, miêu tả hiện thực
cuộc sống một cách sâu sắc, nhiều tầng bậc và độc đáo thông qua các tác
phẩm của mình.
Tính chuyên nghiệp và sự nghiêm túc bền bỉ trong sáng tạo nghệ thuật
đã đưa lại cho ông hơn hai mươi đầu sách, trong đó có một số tác phẩm đã
được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Tác phẩm của Hồ Anh Thái thể
hiện cái nhìn đa chiều, sự khám phá mới mẻ về con người trong cuộc sống
đương đại, thể hiện sự tìm tòi, sáng tạo không mệt mỏi về phương diện nghệ
thuật văn xuôi.
1
Việc lựa chọn đề tài: “ Nghệ thuật tiểu thuyết của Hồ Anh Thái qua
Đức Phật, nàng Savitri và tôi” của chúng tôi xuất phát từ hai lí do chính:
Thứ nhất, xét về mặt thể loại tiểu thuyết luôn được xem là thể loại ưu
việt nhất trong cách khám phá hiện thực đời sống ở nhiều mặt và nhiều tầng
bậc. Với tư cách là sản phẩm của loại tư duy nghệ thuật tổng hợp, tiểu thuyết
là nơi mà nhà văn có thể thể nghiệm và biểu đạt đến tột cùng mọi nghĩ suy,
sáng tạo của mình đến với bạn đọc. Trong văn học đương đại, tiểu thuyết có
vai trò quan trọng bậc nhất.
Thứ hai, Đức Phật, nàng Savitri và tôi là một trong những tiểu thuyết
tiêu biểu của Hồ Anh Thái, thể hiện những cố gắng cách tân nghệ thuật cao
nhất của cây bút này.
2. Lịch sử vấn đề
Hồ Anh Thái là một trong những nhà văn được dư luận quan tâm, trong
đó có giới phê bình văn học. Những đổi mới về nghệ thuật cũng như sự sâu
sắc về nội dung đã được đề cập đến ở nhiều bài viết, lời giới thiệu về tác
phẩm của ông. Nhiều ý kiến đặc biệt chú ý đến những nét độc đáo trong tác
phẩm của Hồ Anh Thái như: Tính chất ngụ ngôn, triết lý nhân sinh, chất hài
hước, chất Kafka, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, cái kì ảo, vấn đề giọng điệu,
tính đa thanh, các loại điểm nhìn trần thuật… Ngoài ra, sáng tác của Hồ Anh
Thái cũng đã trở thành đề tài nghiên cứu của các khóa luận tốt nghiệp đại học,
các luận văn thạc sĩ… Dưới đây chúng tôi sẽ lần lượt điểm qua các ý kiến
đáng chú ý nhất về sáng tác của Hồ Anh Thái. Trước hết, các nhà nghiên cứu
tập trung khẳng định tiểu thuyết Hồ Anh Thái đã vượt qua các cấm kị nghệ
thuật với những thể nghiệm mới mẻ về hình thức nghệ thuật và ngôn ngữ.
2.1. Khái lƣợc tình hình nghiên cứu tiểu thuyết Hồ Anh Thái
Trong một bài viết, một tác giả nước ngoài, Wayne Karlin nhận định:
“Hồ Anh Thái và những người đương thời Việt Nam đang tiên phong cho nền
văn học của các nước đang phát triển, nền văn học không còn bị định nghĩa
2
bằng những thông số của cuộc đấu tranh giữa hai bên tư bản và cộng sản. Đó
là nền văn học của toàn Châu Á” [58]. Với những tiểu thuyết đầu tay Người
và xe chạy dưới ánh trăng, Người đàn bà trên đảo, Trong sương hồng hiện
ra, Hồ Anh Thái đã nhận được rất nhiều ý kiến đánh giá cao về những đổi
mới nghệ thuật. Trần Thanh Giao khi nhận xét về Người và xe chạy dưới ánh
trăng trong bài viết Không theo kiểu cũ đã đề cao những đổi mới về lối viết
cũng như tư tưởng chủ đề của tác phẩm: “…cuốn sách mang được tính nhân
bản, nhân ái… phê phán cái trì trệ xấu xa để cuộc sống được mau đổi mới.
Tiểu thuyết còn nhiều chỗ có thể bàn cãi thêm, nhưng tư tưởng thì rõ ràng và
lối viết thì không theo kiểu cũ” [32]. Trần Bảo Hưng, trong bài Một cá tính
sáng tạo độc đáo đã ghi nhận những sáng tạo và nỗ lực tìm tòi của Hồ Anh
Thái. Ông viết: “Có thể nói Người và xe chạy dưới ánh trăng là một hiện thực
đa chiều, và để phản ánh được cái hiện thực phức tạp ấy Hồ Anh Thái sử
dụng nhiều thủ pháp linh hoạt, cả phục hiện và đồng hiện, rồi một cốt truyện
đầy co giãn với những mạch ngang, lối rẽ…” [32]. Hai cuốn tiểu thuyết
Người đàn bà trên đảo, Trong sương hồng hiện ra cũng nhận được sự quan
tâm với nhiều ý kiến đánh giá cao những vấn đề đặt ra trong tác phẩm. Với
Người đàn bà trên đảo, Wayne Karlin trong lời giới thiệu cho bản in cuốn
tiểu thuyết này của nhà xuất bản Washinhton khẳng định: “Tiểu thuyết Người
đàn bà trên đảo đã mở ra cánh cửa vào một nền văn hoá đang phải đấu tranh
để định nghĩa với quá khứ và tương lai của mình… Hồ Anh Thái đã trở thành
một trong những nhà văn Việt Nam đầu tiên thu hút được sự chú ý vào đề tài
cho đến lúc nó vẫn còn cấm kỵ: Cái giá khủng khiếp của những người phụ nữ
cựu binh của cuộc kháng chiến chống Mỹ phải trả” [33]. Tiểu thuyết Trong
sương hồng hiện ra được xem là một hiện tượng lạ trên văn đàn ngay khi vừa
ra đời. Trong bài viết Một góc nhỏ văn chương Hồ Anh Thái, Diệu Hường đã
viết: “Với tiểu thuyết Trong sương hồng hiện ra, Hồ Anh Thái đã làm được
một sự khác trên mặt bằng văn học đương thời. Trước hết là một cốt truyện
kỳ lạ, đầy chất huyễn tưởng, một thứ của hiếm trong văn xuôi bấy giờ(…).
3
Đưa nhân vật của mình trở lại với hai mươi năm trước, Hồ Anh Thái đã làm
một cuộc mổ xẻ quá khứ và góp lời giải cho những băn khoăn trước tương lai
của những con người thời Đổi mới” [9]. Wayne Karlin, trong Lời giới thiệu
tuyển tập tác phẩm của Hồ Anh Thái (Nxb Curbstone Press - Mỹ, 1998) đã
viết: “Ở cuốn Trong sương hồng hiện ra cũng như các tiểu thuyết và truyện
ngắn khác, trong đó chất hài hước, chất lạ cộng với chất Kafka dường như
gây bất ngờ cho phương Tây khi họ tìm hiểu văn học Việt Nam” [33].
Tiểu thuyết Cõi người rung chuông tận thế được xem là mốc đánh dấu
một bước tiến mới trong nghệ thuật viết tiểu thuyết của Hồ Anh Thái. Tác
phẩm đã gây nhiều tranh cãi và các luồng dư luận khác nhau. Nguyễn Đăng
Điệp trong bài Hồ Anh Thái người mê chơi cấu trúc nhận xét: “Là cây bút
nhạy bén và tỉnh táo, Hồ Anh Thái đã tạo được cái nhìn riêng về thế giới. Độ
sắc trong những trang viết của Hồ Anh Thái lộ ra ở chỗ anh dám nhìn thẳng
vào những mảnh vỡ, những bi kịch nhân sinh, mổ xẻ nó bằng cái nhìn trung
thực táo bạo (…). Đây là cái nhìn “suồng sã” của tư duy nghệ thuật hiện đại”
[10, tr.357]. Cũng cách nhìn ấy, Nguyễn Anh Vũ, trong bài Hơn cả sự thật,
nhận xét: “Cõi người rung chuông tận thế được viết với một giọng điệu một
văn phong rất hiện đại, rất “Tây” gọn, chính xác, lạnh lùng, thậm chí có vẻ
như dữ dằn, tàn nhẫn. Thế nhưng ẩn chứa trong đó là một tư tưởng, một thông
điệp mang đậm bản sắc của tâm linh phương Đông ác giả ác báo, gieo gió gặt
bão” [36]. Có phần cụ thể hơn, Phan Văn Tú, trong bài Cõi người rung
chuông tận thế nhìn từ vài con số thống kê cho rằng: “Cõi người rung chuông
tận thế là một tiểu thuyết minh chứng hùng hồn cho luận điểm của một nhà
văn Nga Lêônid Lêônôv: “Tác phẩm nghệ thuật đích thực, nhất là tác phẩm
ngôn từ, bao giờ cũng là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội
dung” [36, tr.320]. Vân Long, trong Cái ảo trên nền thực cũng đánh giá rất
cao tác phẩm này “Cõi người rung chuông tận thế vừa thể hiện được tầm tư
tưởng của tác giả vừa hấp dẫn bởi những chi tiết trong đời sống được tái hiện
4
qua cách nhìn hóm và sắc của nhà văn, trong 241 trang văn bố cục gọn, chặt”
[36, tr.288].
Tiểu thuyết Mười lẻ một đêm là một thử nghiệm mới trong cách viết
của Hồ Anh Thái. Đây cũng là một tiểu thuyết được đánh giá rất cao bởi chất
hài hước, nghịch dị. Nguyễn Thị Minh Thái đánh giá cao lối viết mới lạ của
tiểu thuyết: “Góc nhìn ở vị thế hắt sáng, từ phía sau, từ bản thể, giọng tiểu
thuyết giễu nhại, thâm sâu” [30]. Hoài Nam, trong bài “Chất hài hước, nghịch
dị trong Mười lẻ một đêm” cũng đã nhận định: “Có thể thấy, giọng văn ở đây
là giọng phát ngôn tưng tửng, nó được xuyên thấm bởi tính bỡn cợt, giễu
nhại(…). Không đặt mục tiêu thuyết phục độc giả, nhà văn bày ra một cuộc
chơi, bước vào cuộc chơi ấy, độc giả có thể vừa thưởng thức, vừa chứng
nghiệm, vậy thôi” [30]. Từ Nữ, trong bài Tiếng cười trên từng trang cũng đã
có những đánh giá rất cao sức hấp dẫn của Mười lẻ một đêm: “Một cuốn tiểu
thuyết hơn 300 trang với cách viết hài hước đầy chi tiết Carnaval, khiến nó trở
thành cuốn sách được yêu thích nhất trong tháng 3/2006. Không ai lạ lẫm gì
lối viết “Thị Màu” của nhà văn Hồ Anh Thái, nhưng người đọc vẫn vấp từ bất
ngờ này sang bất ngờ khác. Một cuốn tiểu thuyết chứa nhiều thông tin xã hội
làm bạn đọc ngộp thở” [30].
2.2. Những cách nhìn về tiểu thuyết Đức Phật, nàng Savitri và tôi
Tiểu thuyết Đức Phật, nàng Savitri và tôi là một thành công mới của
Hồ Anh Thái. Ngay từ khi mới ra đời, tác phẩm đã nhận được sự quan tâm
của đông đảo bạn đọc với đủ thành phần xã hội, trong đó có cả giới tăng ni
Phật tử. Dư luận xung quanh cuốn tiểu thuyết này là rất nhiều. Tuy không
thống nhất, có khen có chê, nhưng một sự thật không thể phủ nhận, đây là một
trong những tác phẩm của văn học Việt Nam đương đại được nói đến nhiều
nhất trong thời gian qua. Có rất nhiều bài nghiên cứu và phê bình về tác phẩm
này. Đáng chú ý là những công trình như: Hồ Anh Thái có sợ giải thiêng của
Phạm Xuân Thạch; Cảm theo cách của Đức Phật, nàng Savitri và tôi của
Nguyễn Tham Thiện Kế; Phật sử và hư cấu văn chương của Hoài Nam; Xin
5
đừng ảo tưởng và định kiến… Trong những năm gần đây đã xuất hiện một số
luận văn thạc sĩ bàn về tiểu thuyết Hồ Anh Thái, ví như Những đặc sắc nghệ
thuật trong Đức Phật, nàng Savitri và tôi của Nguyễn Thị Huệ; Cõi người
trong thế giới nghệ thuật tiểu thuyết Hồ Anh Thái của Trần Thị Hải Vân;
Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái
của Lê Bảo Trung; Ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ trong tư duy nghệ thuật Hồ
Anh Thái của Nguyễn Thị Thuý Hoà; Những cách tân trong văn xuôi Hồ Anh
Thái của Hoàng Thị Thuý Hằng; Nghệ thuật kết cấu của tiểu thuyết Hồ Anh
Thái của Nguyễn Thanh Thuỷ; … Với những mục đích nghiên cứu riêng, các
công trình đó mới đề cập đến một số phương diện chung nhất trong thế giới
nghệ thuật của tiểu thuyết Hồ Anh Thái.
Tiểu thuyết Đức Phật, nàng Savitri và tôi là một tác phẩm thành công
của Hồ Anh Thái viết về đề tài Ấn Độ. Đây là cuốn thiểu thuyết, theo như
nhận xét trong bài “Cảm theo cách của Đức Phật, nàng Savitri và tôi” của
Nguyễn Tham Thiện Kế: “Không tạo sự khác thường hay căng thẳng gây
hứng thú tâm lý vốn có ở các tác phẩm trước đó của Hồ Anh Thái, Đức Phật,
nàng Savitri và tôi với cách kể chuyện thoải mái, đầy cảm giác tạo nên sự
giao tiếp nhu thuận tự nhiên với người đọc. Đức Phật, nàng Savitri và tôi,
không thể là cuốn sách khó đọc. Nhưng đọc nó theo tinh thần và vị thế nào lại
là chuyện khác. Nó là cuốn sách không dễ gì để viết. Sự phối trộn nguồn sử
liệu và truyền thuyết và hiện tại trên nền cảm hứng dài hơi của tiểu thuyết là
một cách thức không dễ gì vượt qua của các tiểu thuyết gia. Hồ Anh Thái
hoàn toàn tự chủ và thoải mái nhuần nhuyễn ở trạng thái dung hoà giữa hư và
thực” [20]. Khi cuốn tiểu thuyết ra mắt bạn đọc, Hồ Anh Thái phải đối mặt
với rất nhiều ý kiến dư luận trái chiều. Nhiều bạn đọc ủng hộ, yêu thích và
đánh giá rất cao những thành công trong tác phẩm của ông. Hoàng Công
Danh trong bài viết “Tái hiện phật sử, đồng hiện nghệ thuật, tương hợp đạo và
đời” đã có những nhìn nhận rất sâu sắc và đánh giá cao những thành công của
cuốn tiểu thuyết trên mọi phương diện. Ông viết: “Có rất nhiều điều đáng nói
6
về cuốn sách, ở đây tôi chỉ xin góp một vài lời tâm sự với khán giả và bạn
đọc. Những ai đã đọc qua cuốn sách thì hãy cùng ngẫm lại đôi chút, những ai
chưa đọc thì hãy tìm đọc để thấy cái hay cái đẹp khi đạo pháp đi vào đời sống.
Đó không chỉ là Đức Phật, nàng Savitri và tôi mà là tất cả mọi người”[11].
Nguyễn Tham Thiện Kế khẳng định: “Tôi tin và khẳng định, Đức Phật, nàng
Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng
thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy
cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng(…) Nó là cuốn sách không
dễ gì để viết. Sự phối trộn nguồn sử liệu và truyền thuyết và hiện tại trên nền
cảm hứng dài hơi của tiểu thuyết là một thách thức không dễ gì vượt qua của
các tiểu thuyết gia” [20]. Bên cạnh những ý kiến ủng hộ thì Đức Phật, nàng
Savitri và tôi cũng gặp không ít những ý kiến phản bác và cho rằng nó chưa
phải là một cuốn tiểu thuyết hay. Trong bài viết “Hồ Anh Thái có „sợ‟ giải
thiêng” nhà nghiên cứu Phạm Xuân Thạch đã phủ định những gì mà dư luận
cho rằng đó là thành công của tiểu thuyết. Ông cho rằng Hồ Anh Thái chưa
đủ sâu sắc và tầm hiểu biết để có thể đưa người đọc khám phá được những bí
ẩn sâu xa của nền văn hoá Ấn Độ: “Ông không đủ sự sâu sắc để chạm đến
tính phức tạp bên trong của nền văn hoá Ấn Độ và tư tưởng Phật giáo. Ông lại
không đủ quyết liệt để đi đến tận cùng cái ý tưởng sáng tạo của mình(…) Đức
Phật trở thành một cái gì lơ lửng giữa một nhân vật tâm lý và một nhân vật tư
tưởng, vừa thiếu phần tâm lý người, cảm xúc người, lại vừa giản đơn về tư
tưởng. Và tất nhiên, Đức Phật của ông lại càng không thể trở thành một nhân
vật có tính biểu hiện, kiểu như nhân vật trong tiểu thuyết từ Kafka trở về sau”
[43]. Trong khi đó, Phạm Xuân Thạch lại cho rằng, Đức Phật, nàng Savitri và
tôi chỉ đơn giản là “loại truyện anh hùng chiến sĩ thi đua rất phổ biến thời
chiến tranh, những cuốn sách được viết ra kiểu người thực việc thực, đơn
giản, phục vụ trực tiếp, kịp thời, loại sách mà dạng thức tiêu cực nhất của nó
đã bị Nguyễn Minh Châu đọc lời “ai điếu” trong những năm đầu thời Đổi
mới” [43]. Và theo ông, Hồ Anh Thái đã giải thiêng hình tượng Đức Phật tuy
7
không chịu công nhận: “Ông Thái không công nhận mình “giải thiêng” cuộc
đời Phật (…) Hình như ông Thái sợ cái từ “giải thiêng” nọ. Điều này thể hiện
một nhược điểm cốt tử trong cuốn sách của ông Thái” [43]. Phản biện lại thái
độ thiếu khách quan và những chỉ trích nặng nề của Phạm Xuân Thạch, tác
giả bài viết “Xin đừng ảo tưởng và định kiến” đã viết “đặt tác phẩm Đức
Phật, nàng Savitri và tôi trong diện mạo văn chương Việt Nam đương đại, thử
hỏi có ai đã viết về văn hoá Ấn Độ và một vĩ nhân của nền văn hoá ấy (Đức
Phật) bằng một lối viết vừa dung dị, vừa sinh động và giàu chất trữ tình như
vậy? Dung dị mà không làm mất đi sự thiêng liêng, giàu chất trữ tình mà
không hề bỏ qua tính chất của một cuốn biên niên sử (…) Giải thiêng hay
không giải thiêng đó là cách tiếp cận của từng độc giả. Một tác phẩm hay sẽ
sống nhiều đời công chúng, nhiều đời nhà văn và tất nhiên nó sẽ sống nhiều
đời phê bình. Ta đang đứng trên cái điểm hữu hạn không thời gian, ta biết sao
được mà vội vàng” [29]. Ở một góc nhìn khác, nhà phê bình Nguyễn Thị
Minh Thái đặt vấn đề, “cớ sao lại nâng đỡ tác phẩm của Hồ Anh Thái đến thế
trong tình cảnh xuất bản thê thảm hiện nay” [29]. Nhà báo Yên Ba trong lần
ra mắt tiểu thuyết của Hồ Anh Thái với bạn đọc cả nước đã đặt ra câu hỏi cho
nhà văn “Phải chăng có lúc nhà nghiên cứu Hồ Anh Thái đã át nhà văn Hồ
Anh Thái”. Trả lời câu hỏi này, tác giả đã khẳng định: “Tôi viết với cảm hứng
tiểu thuyết, bút pháp tiểu thuyết, tư liệu đã được chuyển hoá thành hình
tượng”. Cũng trong lần ra mắt này đã có rất nhiều câu hỏi được đặt ra cho nhà
văn, bày tỏ những trăn trở của bạn đọc xung quanh cuốn tiểu thuyết về một đề
tài mới lạ và một phong cách viết khá táo bạo của ông. Không chút ngần ngại,
Hồ Anh Thái đã trả lời một cách thẳng thắn không né tránh, giúp bạn đọc thấu
hiểu và thông suốt những thắc mắc về Đức Phật và hành trạng của ngài trên
đất Ấn Độ cách đây hai lăm thế kỷ. Ông cũng nói rõ quan niệm của mình khi
bắt đầu cầm bút viết cuốn tiểu thuyết này. Theo ông, “Văn hoá Ấn như một
đại dương mênh mông, và ai can đảm nhảy xuống phải chấp nhận thách thức,
với nhà văn, dường như càng bơi trên đại dương ấy, càng thấy xa bờ” [37].
8
Nhận xét về Hồ Anh Thái và tác phẩm của ông, nhà văn Tô Hoài cho
rằng “trong số ít cây bút đọc được hiện nay thì Hồ Anh Thái là một nhân tố
điển hình. Một người viết văn như Hồ Anh Thái được coi là hiếm có ở thời
này khi tác phẩm phát hành đều không dưới 5000 cuốn” [2]. Có thể nói, Hồ
Anh Thái cùng với một số cây bút thành công và được coi là những hiện
tượng văn học như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu
Huệ, Thuận… đã góp phần tạo ra một diện mạo mới cho văn học mang đậm
dấu ấn của chủ nghĩa hậu hiện đại, có nhiều khác biệt so với văn xuôi 1945 -
1975. “Thông điệp của Hồ Anh Thái mang đến không hiện ra lộ liễu mà toát
lên từ tình thế, qua các biểu tượng thấm đầy chất ảo. Với một vốn văn hoá dày
dặn, anh đã lao động cật lực trên từng con chữ và luôn tìm cách bứt phá trên
cơ sở kiến tạo những kiến trúc mới mẻ, táo bạo” [17].
Tất cả những nhận định trên đây về nghệ thuật viết văn của Hồ Anh
Thái đã phần nào giúp chúng tôi hình dung được về quá trình vận động tư
tưởng nghệ thuật của nhà văn trong mạch nguồn và quỹ đạo đổi mới của
văn xuôi Việt Nam những năm gần đây. Mặc dù có sự khác biệt giữa đặc
điểm thể loại nhưng chúng tôi vẫn thấy cả tiểu thuyết lẫn truyện ngắn đều
có sự thống nhất trong tư tưởng nghệ thuật và trong cảm hứng sáng tạo của
tác giả Hồ Anh Thái.
Những nhận xét cơ bản của các nhà nghiên cứu, các nhà văn, các nhà
phê bình văn học trong và ngoài nước về các sáng tác của Hồ Anh Thái đều là
những phát kiến mới mẻ về đóng góp của tác giả ở cả hai phương diện nội
dung và hình thức.
Tuy nhiên, Đức Phật, nàng Savitri và tôi là một tác phẩm mới ra đời
cách nay không lâu, chưa có nhiều công trình nghiên cứu thật sự chuyên sâu
về tác phẩm này, và với tư cách là một tác phẩm tiêu biểu cho nghệ thuật tiểu
thuyết của Hồ Anh Thái thì lại càng hiếm hoi hơn.
9
Với luận văn này chúng tôi mong muốn góp thêm một cái nhìn của
mình vào việc nghiên cứu nghệ thuật tiểu thuyết của tác giả Hồ Anh Thái, cả
trên bình diện nội dung lẫn hình thức, qua đó hi vọng sẽ kiến giải được tổng
quát, tầng bậc hơn về tác giả này.
3. Phạm vi, đối tƣợng nghiên cứu:
Hồ Anh Thái sáng tác ở cả hai lĩnh vực truyện ngắn và tiểu thuyết và dù
ở thể loại nào thì sự trải nghiệm cùng những hiểu biết thấu đáo về con người
và cuộc đời kết hợp với một phong cách nghệ thuật đa dạng, linh hoạt trong
tìm tòi, khám phá và thể nghiệm đã đưa lại cho ông những thành công nhất
định.
Trong khuôn khổ yêu cầu của một đề tài luận văn thạc sĩ, không thể
nghiên cứu trên bình diện rộng tất cả các sáng tác ở các thể loại của ông nên
chúng tôi chỉ giới hạn phạm vi tập trung nghiên cứu và khảo sát ở lĩnh vực
tiểu thuyết và qua một tiểu thuyết tiêu biểu là Đức Phật, nàng Savitri và tôi.
Về văn bản, tôi chọn bản in của nhà xuất bản Đà Nẵng và công ty Văn hóa
Phương Nam, 2007. Đây là tác phẩm đạt giá trị cao về nội dung và hình thức
biểu đạt của tiểu thuyết Hồ Anh Thái, được dư luận trong và ngoài nước đánh
giá tốt. Qua tác phẩm, ta có thể có thêm được cái nhìn mới về nghệ thuật tiểu
thuyết của tác giả.
4. Đóng góp của luận văn
“ Nghệ thuật tiểu thuyết của Hồ Anh Thái qua “Đức Phật, nàng Savitri
và tôi”” đi sâu tìm hiểu một tác phẩm tiểu thuyết để thấy được những đóng
góp của tác giả Hồ Anh Thái cho nghệ thuật tiểu thuyết đương đại. Chọn
nghiên cứu đề tài này, chúng tôi đặt ra mục đích và cũng cố gắng có sự đối
sánh với các tác phẩm khác của Hồ Anh Thái và với các tác giả đương đại với
mong muốn có thể nhận diện và chỉ ra những biểu hiện, những nét cơ bản
nhất của nghệ thuật tiểu thuyết của Hồ Anh Thái. Đồng thời phần nào nêu lên
10
những đóng góp mới trong tư duy nghệ thuật của tác giả với lĩnh vực tiểu
thuyết trong văn xuôi đương đại Việt Nam
Chúng tôi không có tham vọng giải quyết thấu đáo tất cả mọi vấn đề về
nghệ thuật tiểu thuyết của các tác giả Việt Nam đương đại mà chỉ mong muốn
góp một tiếng nói khiêm nhường trong việc nghiên cứu về một tác giả có
nhiều đóng góp, cách tân nghệ thuật tiểu thuyết mà thôi.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu và cấu trúc luận văn
- Về phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi cố gắng vận dụng một cách
hợp lý một số lý thuyết mới vào việc nghiên cứu đề tài này như: Thi pháp
học, Tự sự học… Trên cơ sở đối tượng nghiên cứu là một tác phẩm văn xuôi
(tiểu thuyết) nên chúng tôi sử dụng kết hợp các thao tác nghiên cứu của tư
duy khoa học như: Phương pháp hệ thống, phương pháp so sánh – đối chiếu,
Phương pháp thống kê – phân loại, Phương pháp phân tích – tổng hợp…như
những công cụ căn bản để nắm bắt tất cả những biểu hiện đa dạng, phong phú
trong sáng tạo nghệ thuật cảu tác giả Hồ Anh Thái.
- Về cấu trúc luận văn:
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, phần nội dung của luận văn gồm
3 chương:
Chương 1: Quan niệm về tiểu thuyết và quá trình sáng tác của Hồ Anh
Thái
Chương 2: Nhân vật và tư tưởng trong tiểu thuyết “Đức Phật, nàng
Savitri và tôi”
Chương 3: Kết cấu và ngôn ngữ của tiểu thuyết
11
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1:
QUAN NIỆM VỀ TIỂU THUYẾT
VÀ QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC CỦA HỒ ANH THÁI
1.1. Sự thay đổi trong quan niệm tiểu thuyết sau 1986
1.1.1. Về quan niệm và đặc trƣng của tiểu thuyết
1.1.1.1 Ý kiến của các nhà lý luận, các nhà nghiên cứu và các tiểu
thuyết gia trên thế giới.
Tiểu thuyết là thể loại chủ công và quan trọng bậc nhất trong văn xuôi
nghệ thuật, vì thế nó là thể loại thu hút được sự quan tâm đặc biệt của các nhà
văn và bạn đọc. Nói khác đi tiểu thuyết là loại hình nghệ thuật có năng lực
đặc biệt trong việc khám phá chiều sâu và bề rộng của cuộc sống, một nghệ
thuật có sức mạnh lưu giữ bóng hình cuộc sống mà các thể loại khác khó có
thể có được. Mặt khác, trong tiểu thuyết chứa đựng những câu chuyện thế tục
hàng ngày được mọi người thích nghe, dễ đọc, nó là chuyện viết về con
người, về cuộc đời, mang dấu ấn rõ rệt nhất bản sắc của cá nhân người viết và
hiện thực rõ nét của cuộc sống đương thời. Đó là tiếng gọi của tư duy nghệ
thuật tổng hợp, của một trí năng sâu sắc, là nơi nhà văn thể hiện những khát
vọng cao đẹp về cuộc sống và con người.
Vì thể loại tiểu thuyết là một thể loại tự sự cỡ lớn, tổng hợp nhiều thể
loại văn học, sử dụng nhiều thủ pháp văn học. Bởi thế, đến nay, có hàng trăm
định nghĩa về tiểu thuyết. Thế nào là tiểu thuyết? Tiểu thuyết được hình thành
ra sao? Đâu là những đặc trưng chủ yếu của nó? Trả lời những câu hỏi đó là
vô vàn quan niệm, vô số công trình nghiên cứu.
Các nhà Mỹ học nổi tiếng đều khẳng định tiểu thuyết là thể loại quy
mô, có khả năng phản ánh hiện thực lớn lao. He-ghel - nhà Mỹ học cổ điển
Đức đã cho rằng:
12
"Tiểu thuyết là sử thi kiểu mới của tầng lớp thị dân, nhằm miêu tả toàn
bộ dạng hình con người và vẽ lên bức tranh đầy đủ về hiện thực". Còn
Biêlinxki - nhà Mỹ học dân chủ Nga quan niệm tiểu thuyết "như là sử thi của
đời tư do chỗ nó miêu tả những tình cảm, dục vọng và những biến cố thuộc
đời sống riêng tư và đời sống nội tâm của con người”. Nếu ý kiến của He-
ghel coi tiểu thuyết là sản phẩm của tầng lớp thị dân thì Biêlinxki chú ý đến
một đặc trưng quan trọng của tiểu thuyết: Sử thi đời tư ở đây, “sử thi” là quy
mô thể loại còn “đời tư” được hiểu là cách thức của tiểu thuyết tiếp cận hiện
thực.
Khả năng phản ánh cuộc sống trong tính rộng lớn của tiểu thuyết đã
được Bách khoa toàn thư Compton's - Mỹ khẳng định: "Tiểu thuyết chính là
mảnh đất lưu giữ bóng hình cuộc đời". Theo đó thể loại này có những biểu
hiện và đặc điểm “truyền thống” sau đây:
Nhà tiểu thuyết luôn đặt câu chuyện của mình trên nền tảng đời sống
hiện thực, tức là đã được trực tiếp trải nghiệm hoặc thông qua các sự kiện
quan sát được hoặc sự hiểu biết về cuộc đời của người khác. Tiểu thuyết gia
tuyển chọn và sắp xếp chất liệu lấy từ đời sống thực những biến cố có ý nghĩa
nhất, đồng thời có thể miêu tả những nghịch lý không có thực trong đời sống.
Nghĩa là ở tiểu thuyết, dữ kiện có thể bị bóp méo, nhằm gia tăng, đề cao cốt
truyện, hấp dẫn người đọc. Tuy vậy phải nhớ rằng, tất cả đều phải mang tính
chân lý. Và tất nhiên, chân lý mà tiểu thuyết đạt đến chủ yếu là chân lý về đời
sống là thái độ hướng đến Chân – Thiện – Mỹ của nhà văn. Nói một cách
khác, một tiểu thuyết hay phải chứa đựng những dữ kiện của đời sống thực,
nhưng mang giá trị phổ quát nhất định: Nó phải thu hút được sự chú ý, nuôi
dưỡng được mối hồ nghi của độc giả trong một diễn tiến được trôi dạt thoả
sức vào huyền ảo của trí tưởng tượng.
Quan niệm về tiểu thuyết đáng chú ý nhất là của nhà lí luận văn học
người Nga M. Bakhtin, trong cuốn sách “Lý luận và thi pháp tiểu thuyết" ông
đã nhận định như sau:
13
“ Việc nghiên cứu tiểu thuyết với tư cách một thể loại vấp phải những
khó khăn đặc biệt. Đó là do tính đặc thù của bản thân khách thể này: Tiểu
thuyết là thể loại văn chương duy nhất đang biến chuyển và còn chưa định
hình. Những lực cấu thành thể loại còn đang hoạt động trước mắt chúng ta:
Thể loại tiểu thuyết ra đời và trưởng thành dưới ánh sáng thanh thiên bạch
nhật của lịch sử. Nòng cốt thể loại của tiểu thuyết chưa hề rắn lại và chúng ta
chưa thể dự đoán được hết những khả năng uyển chuyển của nó...” [52].
Từ đó M. Bakhtin cho rằng việc xây dựng lý thuyết tiểu thuyết là việc
cực kỳ khó khăn. Bởi vì, thực ra lý thuyết ấy có một khách thể hoàn toàn khác
với lý thuyết các thể loại kia. Tiểu thuyết không đơn thuần chỉ là một thể loại
trong nhiều thể loại. Đó là thể loại duy nhất nảy sinh và được nuôi dưỡng bởi
thời đại mới của lịch sử thế giới và vì thế mà thân thuộc sâu sắc với thời đại
ấy, trong khi đó thì các thể loại lớn khác chỉ được thời đại mới kế thừa ở dạng
đã hoàn tất và chúng chỉ thích nghi – khá hơn hoặc kém hơn với những điều
kiện sinh tồn mới. So với chúng thì tiểu thuyết là một sinh linh thuộc giống
nòi khác. Nó khó sống chung với các thể loại kia. Nó đấu tranh dành lấy vị trí
thống trị trong văn chương, và nơi nào nó ưu thắng, ở đấy những thể loại
khác, thể loại cũ sẽ bị phân hoá. Tiểu thuyết luôn giễu nhại các thể loại khác
(đích thị với tư cách thể loại), lột trần tính ước lệ về hình thức và ngôn ngữ
của chúng, nó lấn át thể loại này, thu hút thể loại kia vào trong cấu trúc của
mình, biện giải lại và sắp xếp lại trọng tâm cho chúng.
Vượt lên trên mọi khó khăn trong việc xác định và nghiên cứu đó M.
Bakhtin đã cố gắng thử tiếp cận tiểu thuyết đích thị như một thể loại luôn luôn
biến chuyển, thể loại đi đầu trong tiến trình phát triển của toàn bộ văn học
thời đại mới.
Trên cơ sở đó tác giả đã tìm ra ba đặc điểm cơ bản, ba đặc trưng tiêu
biểu nhất làm cho tiểu thuyết khác biệt về nguyên tắc với tất cả các thể loại
khác:
14
- Tính đa chiều có ý nghĩa phong cách học tiểu thuyết, gắn liền với ý
thức đa ngữ được thể hiện trong tiểu thuyết.
- Sự thay đổi cơ bản các toạ độ thời gian của hình tượng văn học trong
tiểu thuyết.
- Khu vực mới, nơi xây dựng hình tượng văn chương tiểu thuyết chính
là khu vực tiếp xúc tối đa với cái hiện tại (đương đại) ở thì không hoàn thành
của nó.
M. Bakhtin cho rằng cả ba đặc điểm trên của tiểu thuyết đều liên quan
hữu cơ và mật thiết với nhau.
Milan Kundera - Tiểu thuyết gia người Cộng hoà Czech, tác giả của
Nghệ thuật tiểu thuyết và cuốn tiểu thuyết Sự bất tử có những quan điểm mới
về tiểu thuyết hiện đại:
“ Tiểu thuyết được coi như là một tuyệt đỉnh siêu ngôn ngữ, một thiết bị
có khả năng sáp nhập tối đa tất cả mọi diễn từ khác, kể cả triết học”.
Ông cho rằng, tiểu thuyết không phải là một thể loại, mà là một nghệ
thuật có thể tạo ra hiệu quả chân lý, một hiệu quả chân lý không thể đạt được
bằng con đường khác. Tiểu thuyết hiện đại xáo trộn danh giới giữa hư cấu và
tự truyện. Trong tiểu thuyết hiện đại, bố cục truyền thống, trình tự đơn tuyến,
được thay thế bằng tính tự trị tương đối của các chương đoạn và một cấu trúc
phức hợp: Ở đây quan hệ nhân quả là tiếng đồng vọng và các chủ đề được đan
chéo lặp đi, lặp lại qua các chương mục.
1.1.1.2. Ý kiến của các nhà lý luận, các nhà nghiên cứu và các tiểu
thuyết gia trong nước.
Việc kế thừa và lĩnh hội những tinh hoa tri thức của thế giới về nghiên
cứu trong văn học nói chung và văn xuôi mà cụ thể là tiểu thuyết nói riêng đã
có ảnh hưởng sâu sắc đến quan điểm của giới nhà văn và nhà nghiên cứu văn
học ở Việt Nam.
15
Nhà văn Nguyễn Đình Thi trong bài Tiểu thuyết là gì (Công việc của
người viết tiểu thuyết – Nhà xuất bản văn học Hà Nội 1969) thể hiện nhiều
trăn trở về thể loại này:
“Tiểu thuyết là gì? Thật khó trả lời quá! Tôi nhớ trong kháng chiến, có
lần Nam Cao vừa cười vừa nói: Tiểu thuyết là truyện bịa y như thật! Câu nói
nghe khôi hài mà cũng đã đúng! Nhưng đó là một cách nói vui mà thôi. Câu
nói ấy mới nêu lên một đặc điểm của tiểu thuyết, chứ vẫn không định nghĩa
được nó là gì. Bởi vì tiểu thuyết tức là truyện (ta cũng thường gọi tiểu thuyết
là truyện dài) ... Nếu định nghĩa tiểu thuyết là truyện (bịa như thật ... ) thì
khác nào nói: Truyện là truyện ... nghĩa là không cắt nghĩa gì cả. Vậy truyện
(hay tiểu thuyết) là gì? Ai cũng biết truyện là gì, nhưng định nghĩa nó thì rất
khó”. Ông khẳng định: “Tiểu thuyết, đó là một trong những sáng tạo kỳ diệu
của con người, đó là một đồ dùng, một vũ khí của con người để tìm hiểu,
chinh phục dần thế giới và để tìm hiểu nhau và sống với nhau”.
Giáo sư Phan Cự Đệ trong Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại cũng đưa ra
quan niệm của mình:“Tiểu thuyết là gì? thật khó mà trả lời ngay trong một
định nghĩa ngắn gọn chính xác so với các thể loại khác như sử thi cổ đại, bi
kịch ... thì tiểu thuyết là một thể loại hãy còn rất trẻ và đang phát triển”.
Tiếp thu tư tưởng của M.Bakhtin, tác giả viết: “Tự bản chất nó vốn
không có tính quy phạm. Đó chính là hiện thân của sự uyển chuyển. Đó là
một thể loại luôn luôn đi tìm, luôn luôn nghiên cứu bản thân và luôn luôn xét
lại tất cả những hình thức đã thành hình của mình. Một thể loại như vậy chỉ
có thể là một thể loại được xây dựng trong khu vực tiếp xúc trực tiếp với hiện
thực đang tiến triển”.
Và trong quá trình nghiên cứu về thể loại tiểu thuyết tác giả đã đưa ra
những đặc trưng thẩm mỹ của nó như sau:
- Tiểu thuyết là một thể loại văn học gần gũi nhất với cuộc sống (đây là
đặc trưng thẩm mỹ chủ yếu của thể loại này).
16
- Cuộc sống trong tiểu thuyết bao giờ cũng là một cuộc sống toàn diện,
phong phú và nhiều mặt.
- Trong tiểu thuyết, các tính cách nhân vật có một sự phát triển “ tự
thân” như là trong cuộc sống đời thật.
- Tiểu thuyết gắn liền chặt chẽ với cuộc sống của quần chúng nên nó là
một trong những thể loại dân chủ nhất của văn học.
- Trong tiểu thuyết các màu sắc thẩm mỹ pha trộn, đan chéo nhau và
chuyển hoá lẫn nhau.
- Tiểu thuyết có một dung lượng lớn bảo đảm cho nhà văn một khoảng
không gian mênh mông hơn nhiều thể loại khác.
Tiểu thuyết trình bày đời sống cá nhân và đời sống xã hội như những tố
chất có tính độc lập tương đối, không làm cạn kiệt được nhau, không ngốn
nuốt được nhau, đây là đặc điểm quyết định nội dung thể loại của tiểu thuyết.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học (Nhà xuất bản Giáo dục - tái bản năm
2004) tiểu thuyết được định nghĩa như sau:
“Tiểu thuyết là hình thức tự sự cỡ lớn, nó đặc biệt phổ biển trong thời
kỳ cận đại và hiện đại có khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới
hạn không gian và thời gian. Với những giới hạn rộng rãi trong hình thức trần
thuật nên tiểu thuyết có thể phản ánh số phận của nhiều cuộc đời, những bức
tranh phong tục, đạo đức xã hội, miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái
hiện nhiều tính cách đa dạng”. Theo chúng tôi, cách hiểu trên đây của các tác
giả khá toàn diện, nêu lên được những nét đặc trưng cơ bản nhất của thể loại.
Từ thực tiễn văn học ta thấy: Tiểu thuyết thường được mùa sau những
chấn động lớn của xã hội, sự bức bối của ngòi bút đòi giải toả và sự xuất hiện
những yếu tố mới lạ trong văn hoá, tình cảm. Vấn đề cốt yếu và căn bản của
tiểu thuyết không phải chỉ là chất liệu mới lạ, mà còn là cách nhìn, cách xem
xét hiện thực. Nhà tiểu thuyết cần có tầm nhìn, tư thế nhân loại mới có thể có
tác phẩm hay. Chúng ta hiểu rằng tiểu thuyết bao giờ cũng là một câu chuyện
17
lớn bao gồm trong nó nhiều câu chuyện nhỏ là bức tranh hoành tráng, thiếu
nó, dân tộc thiếu sử thi, do vậy hiện thực đời sống đương đại luôn là đối
tượng của tiểu thuyết nhà văn không thể trốn khỏi nó được và phải phản ánh
thật sinh động về diện mạo và hơi thở của chính nó.
Trên đây là những quan niệm và những suy ngẫm tìm tòi về thể loại
tiểu thuyết của các nhà lý luận, nhà nghiên cứu, các tiểu thuyết gia nổi
tiếng mà thông qua nghiên cứu và xem xét chúng tôi thấy họ đã đưa ra
những cái nhìn đa diện – nhiều chiều về một thể loại tương đối khó trong
việc nghiên cứu – thể loại tiểu thuyết. Thông qua những quan niệm đó hi
vọng chúng tôi sẽ có được những cách tiếp cận, những kiến giải sâu hơn về
bản chất của thể loại này.
1.1.2. Tiểu thuyết sau 1986 – một giai đoạn mới, một diện mạo mới
Sau 1975, nhất là từ Đổi mới (1986), tiểu thuyết Việt Nam đã có nhiều
bước chuyển đáng kể. Một đội ngũ nhà văn đông đảo thuộc nhiều thế hệ đã
nối tiếp vượt qua những rào cản trói buộc, hướng tới tìm tòi, thể nghiệm mới
mẻ, làm phong phú, đa dạng thể loại tiểu thuyết. Cũng từ sau Đổi mới (1986),
số lượng tiểu thuyết được xuất bản khá lớn. Mỗi tác phẩm tiếp cận hiện thực ở
những góc độ khác nhau, phân tích, kiến giải nó dưới nhãn quan riêng của
người nghệ sĩ, tạo ra đời sống tiểu thuyết sôi động, phong phú. Với xu hướng
dân chủ hoá, nhìn thẳng vào sự thật, các nhà tiểu thuyết đã chạm vào mọi
ngóc ngách, tầng vỉa của đời sống xã hội với tất cả sự ngổn ngang, bề bộn của
cuộc đời.
Về phương diện nghệ thuật, tiểu thuyết đương đại có sự cách tân mạnh
mẽ. Nhiều cây bút tiểu thuyết, đặc biệt là những cây bút trẻ với bản lĩnh, tài
năng, chấp nhận sự mạo hiểm luôn sáng tạo, thể nghiệm, cách tân trên nhiều
phương diện, từ cốt truyện, giọng điệu, ngôn ngữ, bút pháp… khai thác tối đa
hiệu quả biểu đạt của các yếu tố này. Thoát khỏi mô hình kết cấu tiểu thuyết
truyền thống, các cây bút tiểu thuyết đương đại lựa chọn kiểu cấu trúc lỏng
lẻo, lắp ghép, với cốt truyện giàu tâm trạng, nhiều kết thúc để ngỏ. Tiểu
18
thuyết đương đại dung nạp mọi sắc thái ngôn ngữ, kể cả ngôn ngữ đời thường
trần trụi, góc cạnh. Nhiều tác phẩm, ngôn ngữ nhân vật được cá tính hoá cao
độ, giọng điệu tiểu thuyết đa thanh với nhiều sắc thái khác nhau, có hài hước,
trữ tình, có cật vấn, hoài nghi, triết lí. Cũng không phải ngẫu nhiên mà
Nguyễn Huy Thiệp gọi đây là “thời của tiểu thuyết”.
Cho đến nay, quá trình đổi mới văn học đã đi được một chặng đường
dài hơn 20 năm và vẫn đang tiếp diễn. Văn xuôi nói chung và tiểu thuyết nói
riêng đã có nhiều chuyển biến tích cực với nhiều thành tựu. Thành tựu nổi bật
làm thay đổi diện mạo tiểu thuyết đương đại chính là sự đổi mới tư duy văn
học. Văn học Việt Nam 1945 - 1975, do sự quy định của điều kiện lịch sử - xã
hội là nền văn học phát triển theo khuynh hướng sử thi, đối tượng nhận thức
và phản ánh của văn học tương đối hạn hẹp. Từ đầu thập kỉ 80, nhiều nhà văn
mẫn cảm đã nhận thấy sư lệch pha giữa đời sống và văn học và họ bắt đầu
thấy cần cảm nhận hiện thực theo cách mới. Văn học chuyển sang kiểu tư duy
mới: suy ngẫm về hiện thực, suy ngẫm về cái đương đại đang diễn ra; từ mục
tiêu hướng về cuộc chiến đấu cho quyền sống dân tộc, văn học tham gia vào
cuộc chiến đấu cho quyền sống của từng cá nhân. Không có lãnh địa nào là
“vùng cấm” đối với nhà văn thời Đổi mới. Tiểu thuyết thời kì này không ngần
ngại miêu tả tính dục, tình yêu, nhục thể - là lĩnh vực rất riêng của mỗi cá
nhân, khai thác các yếu tố tích cực của con người tự nhiên là khía cạnh nhân
bản của văn học. Thế giới tâm linh, vô thức, tiềm thức, vùng mờ của ý thức
cũng là phạm vi chiếm lĩnh của tiểu thuyết.
Ở thời đại nào, đối tượng trung tâm của sự nhận thức, phản ánh văn học
cũng là con người. Giai đoạn văn học trước, trung tâm của sự phản ánh là con
người công dân, con người cộng đồng. Trong thời kì Đổi mới, con người
được nhận thức đầy đủ, toàn diện và sâu sắc hơn. Các cây bút viết tiểu thuyết
đã không ngần ngại đi vào số phận, những “mảnh vỡ”, những bi kịch nhân
sinh, bi kịch giữa khát vọng và hiện thực, thanh lọc và tha hóa, nhân bản và
phi nhân bản. Số phận cá nhân được nhìn nhận trong mối quan hệ mật thiết
19
với cộng đồng. Đằng sau mỗi số phận, mỗi cá thể là những vấn đề mang ý
nghĩa nhân sinh của thời đại, có sự giao nhịp phức điệu giữa con người cá thể
và con người nhân loại. Chính những tiểu thuyết của Nguyễn Minh Châu, Bảo
Ninh, Ma Văn Kháng, Lê Lựu… rồi các nhà văn trẻ thế hệ sau: Nguyễn Bình
Phương, Hồ Anh Thái, Nguyễn Việt Hà… đã mang lại cho tiểu thuyết một
gương mặt mới.
Cốt truyện đóng vai trò quan trọng trong tổ chức, cấu trúc tiểu thuyết.
Từ sau 1975, do sự đổi mới tư duy văn học, đề tài thế sự, đời tư phát triển
mạnh mẽ đã xuất hiện những cốt truyện về cái bình thường, nhỏ nhặt của cuộc
sống hằng ngày. Sự xuất hiện của các dòng ý thức, những hồi ức, giấc mơ…
là những yếu tố làm nên cốt truyện tâm trạng. Kĩ thuật đồng hiện, kĩ thuật độc
thoại nội tâm, dòng ý thức, sử dụng các yếu tố kì ảo khiến cốt truyện trở nên
lỏng lẻo, mơ hồ, co dãn, biến hóa, khó tóm tắt và có thể nói đến một hiện
tượng: sự tan rã của cốt truyện trong các tự sự truyền thống. Về đoạn kết của
tiểu thuyết, có mô hình kết thúc có hậu, các vấn đề được giải quyết trọn vẹn,
có tác phẩm với kết thúc lỏng lẻo, không hoàn tất. Sự đổi mới về nghệ thuật
tổ chức, cấu trúc tiểu thuyết cho thấy một cách nhìn, cách tiếp cận mới về
cuộc sống và con người.
Tiểu thuyết đương đại có sự phối hợp, đa thanh trong giọng điệu, khó
có thể có sự phân chia rạch ròi giọng tác giả, giọng nhân vật. Giọng kể cũng
không mang tính chất răn dạy mà chỉ đơn giản là kể lại, thuật lại, có khi
“không nghiêm túc”, “nửa đùa nửa thật”. Giọng suy tư, triết lí là một nét độc
đáo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Trong một tác phẩm có nhiều cuộc
đối thoại, tranh biện, những lời nói đầy triết lí về con người, cuộc đời, nhân
sinh thế sự. Mỗi nhà văn góp vào dòng chảy văn học một tiếng nói mới, một
giọng điệu mới, một tư tưởng mới, góp phần làm phong phú, đa dạng, sinh
động cho cả nền văn học giai đoạn này. Hơn 30 năm tồn tại, vận động và phát
triển, tiểu thuyết Việt Nam đương đại đã có nhiều biến chuyển. Tiểu thuyết
phong phú về đề tài, có nhiều tìm tòi về thủ pháp nghệ thuật, đa dạng về
20
phong cách và khuynh hướng thẩm mĩ. Song những hạn chế của tiểu thuyết
giai đoạn này cũng là điều dễ thấy. Đây cũng là động lực thúc đẩy sự sáng tạo
của các cây bút tiểu thuyết đương đại.
Quá trình sáng tạo văn học trọn vẹn gồm ba thành tố: nhà văn, tác
phẩm và công chúng. Độc giả cũng là bộ phận hợp thành của quá trình văn
học và có ảnh hưởng không nhỏ tới tiến trình đổi mới văn học. Các tiểu thuyết
gia đương đại không ngừng miệt mài cách tân, đổi mới tiểu thuyết song vẫn
chưa tìm được sự đồng cảm của số đông người người đọc. Việc tiếp nhận tiểu
thuyết đương đại đòi hỏi phải thay đổi “khẩu vị” thẩm mĩ vốn có, thay đổi
hoạt động tiếp nhận truyền thống - tiếp nhận trên cơ sở trải nghiệm văn
chương, so sánh chi tiết văn chương với chi tiết đời sống, đánh giá tác phẩm
theo tiêu chí đúng - sai để từ đó tích cực và sáng tạo hơn trong hoạt động tiếp
nhận.
Tiểu thuyết Việt Nam đương đại vẫn đang đứng trước những thách thức
của đời sống, của bạn đọc và cả người sáng tạo. Để đạt được hiệu quả thẩm
mĩ, khẳng định vị thế “xương sống” trong nền văn học đòi hỏi cao hơn nữa ý
thức cách tân và năng lực sáng tạo của đội ngũ tiểu thuyết gia đương đại.
1.2. Quá trình sáng tác và quan điểm tiểu thuyết của Hồ Anh Thái
1.2.1. Quá trình sáng tác của Hồ Anh Thái
Sinh năm 1960 ở Quỳnh Lưu - Nghệ An, nhà
văn Hồ Anh Thái hiện là tiến sĩ văn hoá phương
Đông, đã thỉnh giảng tại các đại học Washington và
St.Mary (Mỹ), làm việc tại Bộ Ngoại giao, Hà Nội,
đồng thời là tổng thư ký Hội nhà văn Hà Nội. Sở
trường về tiểu thuyết và truyện ngắn, ở mỗi thể loại
nhà văn Hồ Anh Thái đều đạt được những thành
tựu riêng. Ông đã có rất nhiều đóng góp cho thi
pháp tiểu thuyết Việt Nam hiện đại với nhiều tác phẩm đặc sắc.
Hồ Anh Thái góp mặt với làng văn từ rất sớm. Với giọng điệu độc đáo
21
của mình, nhà văn đã sớm khẳng định tên tuổi của mình trên văn đàn. Nhà
văn Hồ Anh Thái có một vốn hiểu biết sâu rộng nhiều nền văn hoá. Bởi vậy
trong các sáng tác của ông chúng ta gặp nhiều chủ đề, nhiều cách tiếp cận.
Một thời gian thấy nhà văn chỉ viết về thanh niên sinh viên, một thời gian viết
về Ấn Độ, về Mỹ, sau đó lại thấy ông viết về trí thức công chức... và ở mảng
đề tài nào độc giả cũng được thưởng thức những sáng tác độc đáo mới lạ,
những cách tiếp cận tinh tế. Nhiều cuốn đã được dịch in ở Pháp, Mỹ, Nga,
Nhật, Thái Lan, Ấn Độ... Các tác phẩm chính đã được xuất bản của ông như:
- Chàng trai ở bến đợi xe ( tập truyện -1985)
- Phía sau vòm trời ( tiểu thuyết -1986)
- Vẫn chưa tới mùa đông ( tiểu thuyết -1986)
- Người và xe chạy dưới ánh trăng ( tiểu thuyết -1987)
- Người đàn bà trên đảo ( tiểu thuyết -1988)
- Những cuộc kiếm tìm (1988)
- Mai phục trong đêm hè (1989)
- Trong sương hồng hiện ra ( tiểu thuyết -1990)
- Mảnh vỡ của người đàn ông ( tập truyện -1993)
- Người đứng một chân ( tập truyện - 1995)
- Lũ con hoang ( tập truyện -1995)
- Tiếng thở dài qua rừng kim tước ( tập truyện -1998)
- Họ đã trở thành nhân vật của tôi ( tiểu thuyết -2000)
- Tự sự 265 ngày ( tập truyện - 2001)
- Cõi người rung chuông tận thế ( tiểu thuyết - 2002)
- Bốn lối vào nhà cười ( tập truyện -(2005)
- Mười lẻ một đêm ( tiểu thuyết - 2006)
- Đức Phật, nàng Sivitri và tôi ( tiểu thuyết - 2007)
- Namaskar! Xin chào Ấn Độ ( tự truyện - 2008)
- Hướng nào Hà Nội cũng sông ( tiểu luận - 2009)
- SBC là săn bắt chuột ( tiểu thuyết - 2011)
- Dấu về gió xóa ( tiểu thuyết - 2012)
22
- Người bên này trời bên ấy ( tập truyện -2013)
- Salam! Chào xứ Ba Tư ( tập truyện -2013)
Hầu như năm nào, nhà văn Hồ Anh Thái cũng cho ra mắt một tác phẩm
mới. Chỉ tính đầu sách đã xuất bản ta thấy sự cần mẫn trong sáng tác của nhà
văn như ông từng phát biểu: “Việc công sở bận rộn, nhưng mỗi ngày tôi phải
đều đặn viết ít nhất hai giờ. Người viết chuyên nghiệp phải thế, ngồi vào bàn
và anh phải có đủ kỹ năng để huy động cảm hứng. Chờ cảm hứng tự dẫn thân
tới là một thái độ lao động nghiệp dư và có chút thần bí hoá nghề văn.” Có thể
nói hiếm có nhà văn nào lại có thể đảm nhận nhiều công việc, nhiều vị trí mà
có thể đều đặn sáng tác như Hồ Anh Thái. Thành công trên nhiều lĩnh vực
chính là kết quả sự nỗ lực không ngừng của nhà văn. Và khi được hỏi về cảm
giác thành công trước con mắt người khác nhà văn đã không ngần ngại bộc
bạch: “Tôi đã học được cách sống bình thản trước mọi sự ở đời. Cách sống ấy
quan tâm đến cách nhìn của mình với thế giới bên ngoài, chứ không bận tâm
lắm xem bên ngoài nhìn mình ra sao”. Nhờ sự cần mẫn, tâm huyết với nghề
văn, tác giả Hồ Anh Thái đã đạt được nhiều giải thưởng về truyện ngắn và
tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam, Tổng LĐLĐ Việt Nam, Báo Văn
Nghệ, Liên Hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam.
Hồ Anh Thái sáng tác trên nhiều lĩnh vực: truyện ngắn, tiểu thuyết,
chân dung văn học, du kí, tiểu luận và biên khảo. Ông trình làng đầu tiên
truyện ngắn Bụi phấn và thành công đầu tay bằng tập truyện Chàng trai ở bến
đợi xe nhưng thể loại đưa Hồ Anh Thái trở thành nhà văn tên tuổi trong làng
văn xuôi Việt Nam đương đại lại là tiểu thuyết. Tiểu thuyết chiếm vị trí ưu thế
trong sự nghiệp sáng tác Hồ Anh Thái cả về số lượng lẫn chất lượng.
Trong cao trào đổi mới tiểu thuyết nói riêng và văn học nói chung, Hồ
Anh Thái là cây bút gây ấn tượng mạnh. Với mỗi tiểu thuyết, Hồ Anh Thái
gửi gắm thông điệp thẩm mĩ sâu sắc về nhân sinh, cuộc đời, với những bước
tiến về quan niệm nghệ thuật, tư duy nghệ thuật, cách tiếp cận và xử lí đề tài.
23
Tiểu thuyết của Hồ Anh Thái đã theo sát những bước chuyển của đời sống xã
hội, chạm tới cả những chấn động bề sâu của cuộc sống: từ chiến tranh biên
giới, bi kịch của con người thời hậu chiến, lật lại để chiêm nghiệm những vấn
đề của quá khứ và cả những vấn đề mới nảy sinh đặt ra cho con người trong
cuộc sống đương đại. Hồ Anh Thái đã đi sâu và khai thác triệt để những mảng
khuất lấp của hiện thực đời sống, của bản thể.
Viết về cuộc sống thời hậu chiến, ba cuốn tiểu thuyết Người đàn bà
trên đảo, Trong sương hồng hiện ra, Người và xe chạy dưới ánh trăng là
những tiếng nói mới đầy ưu tư và trăn trở của Hồ Anh Thái. Người và xe chạy
dưới ánh trăng là sự cảm nhận tinh tế cuộc sống của người lao động trong
thời kì Đổi mới. Ở đó có sự hiện hữu của các giá trị đối nghịch: tốt - xấu,
thiện - ác, vị kỉ - thứ tha, rồng phượng - rắn rết, thiên thần - ác quỷ… và để
tồn tại con người buộc phải đối mặt với những mặt trái của cuộc sống. Khai
thác đề tài chiến tranh, với tiểu thuyết Người đàn bà trên đảo, Hồ Anh Thái
có sự nhìn nhận khách quan về sức tàn phá ghê gớm của nó đến số phận cá
nhân. Sức tàn phá ấy chính là những mất mát, hi sinh của những người đàn bà
đội Năm trong và sau chiến tranh. Với Trong sương hồng hiện ra, Hồ Anh
Thái lại đứng từ góc nhìn hiện tại để mổ xẻ, kiến giải, nhận thức lại quá khứ,
thẩm định giá trị hiện tại, bày tỏ khao khát của thế hệ hậu chiến được nhìn
xuyên qua màn sương huyền thoại để xem xét nguồn cội.
Ba cuốn tiểu thuyết là ba cách tiếp cận hiện thực, tất cả làm nổi bật đời
sống Việt Nam thời kì hậu chiến: có đổ nát, có bi thương, có mất mát nhưng
trên hết là sự khẳng định giá trị đích thực của con người, khẳng định sức sống
mãnh liệt của con người.
Từ tiểu thuyết Cõi người rung chuông tận thế trở về sau, ngòi bút Hồ
Anh Thái có nhiều đổi mới cả trên bình diện nội dung và hình thức. Lật lại
những vấn đề muôn thuở của cuộc sống con người, Cõi người rung chuông
tận thế là cuộc đấu tranh thiện - ác với chân lí: chỉ có tình yêu thương, sự bao
dung mới hoá giải nổi vòng luẩn quẩn của sự hận thù.
24
Đến Mười lẻ một đêm, Hồ Anh Thái chiếu cái nhìn nghịch dị, châm
biếm sâu sắc vào muôn mặt trái của đời sống đương đại trên mọi lĩnh vực.
Mở rộng không gian chiếm lĩnh, Hồ Anh Thái đã vươn tới tiếp cận
những không gian văn hoá mới - đất nước, văn hoá và con người Ấn Độ bằng
tiểu thuyết Đức Phật, nàng Savitri và tôi. Với cuốn tiểu thuyết này, Hồ Anh
Thái đã tái dựng lại cuộc đời Đức Phật bằng tư duy tiểu thuyết, đưa ông trở
thành một trong những cây bút có nhiều tác phẩm hay về đất nước và con
người Ấn Độ trong văn học đương đại.
Với sáu cuốn tiểu thuyết, mỗi tác phẩm là một hương vị riêng. Đi qua
từng tác phẩm, Hồ Anh Thái dường như đã làm được những cuộc “lột xác”
mạnh mẽ hơn, ghi dấu từng bước tiến trên nấc thang nghệ thuật. Tiểu thuyết
Hồ Anh Thái đã chạm tới những vấn đề nhạy cảm của xã hội, thể hiện ý thức
luôn tìm tòi và tự làm mới mình của nhà văn. Trên phương diện nghệ thuật,
Hồ Anh Thái không ngừng cách tân, biểu hiện rõ ở sự linh hoạt trong phương
thức thể hiện và sự đa dạng trong từng giai đoạn. Sự cách tân thể loại trên
phương diện nghệ thuật của Hồ Anh Thái biểu hiện ở nhiều bình diện, từ
dung lượng, kết cấu, cốt truyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật, tạo dựng
không gian, thời gian nghệ thuật và rõ nhất là ở sự biến đổi của giọng điệu
nghệ thuật, xác lập những kết cấu nghệ thuật mới mẻ qua từng tiểu thuyết.
Trên mặt bằng sáng tác tiểu thuyết đương đại, Hồ Anh Thái là nhà văn
để lại nhiều dấu ấn. Với mỗi cuốn tiểu thuyết, Hồ Anh Thái đã khẳng định
những bước tiến của mình trên con đường sáng tạo và cây bút ấy còn đầy hứa
hẹn cho văn học Việt Nam đương đại.
1.2.2. Hồ Anh Thái - từ quan niệm về tiểu thuyết đến thực tiễn sáng tác
Trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Hồ Anh Thái, nhà văn ghi dấu ấn
cá nhân của mình nhiều nhất ở thể loại tiểu thuyết. Thành công ấy bắt nguồn
trước hết từ những quan niệm đúng đắn về tiểu thuyết của ông. Quan niệm
tiểu thuyết của Hồ Anh Thái vừa được thể hiện trực tiếp qua các ý kiến bàn
luận về tiểu thuyết, vừa được thể hiện qua sáng tác của nhà văn.
25
Cảm quan hiện thực của từng nhà văn là nhân tố cốt lõi chi phối toàn
bộ thế giới nghệ thuật của tác phẩm do nhà văn sáng tạo ra. Với Hồ Anh Thái,
quan niệm về hiện thực như là đối tượng phản ánh, khám phá, nhận thức của
văn học được mở rộng, khơi sâu và mang tính toàn diện. Ông cho rằng: “Hiện
thực là những gì ta nhìn thấy, ta nghe là chưa đủ, hiện thực là cái ta cảm nữa.
Những gì tồn tại ở thế giới bên ngoài đều có thể tìm thấy ở thế giới bên trong
mỗi người, trong tâm và trí của họ. Cả một đời sống tâm linh cũng là hiện
thực, không ai dám nói là đã đào sâu, hiểu thấu cái thế giới tâm linh ấy” [36,
tr.252]. Với cảm quan hiện thực như vậy, Hồ Anh Thái sáng tác tiểu thuyết
không hề bị lệ thuộc đề tài hay cách nhìn đã được định trước, mở ra khả năng
phong phú, vô tận trong sự khám phá và thể hiện hiện thực đời sống; dung
lượng phản ánh hiện thực cũng được nới rộng, xác lập quan niệm mới về mối
quan hệ giữa văn học và hiện thực. Thế giới nghệ thuật tiểu thuyết của Hồ
Anh Thái không chỉ phản ánh thực tại ngoài đời mà còn là thế giới do nhà văn
hư cấu, có thể bao gồm cái có thực với cái không thể có, cái kì ảo được tạo ra
bằng trí tưởng tượng có thể tồn tại bên cạnh những hình ảnh của hiện thực.
Hồ Anh Thái khẳng định: “Tôi quan niệm tiểu thuyết như giấc mơ dài, gấp
sách lại nguời ta vừa mừng rơn như thoát khỏi một cơn ác mộng, lại vừa tiếc
nuối vì phải chia tay với những điều mà đời thực không có” [36, tr.245].
Hồ Anh Thái là nhà văn có ý thức sâu sắc về nghề viết, về bản chất của
lao động nghệ thuật. Theo ông: “Tôi quan niệm người viết văn phải là người
vật vã lao động trên từng chữ, mà là chữ sáng tạo (…). Tôi là người luôn thay
đổi. Tôi cũng không dừng ở lối viết này lâu đâu, khi chuyển sang đề tài khác
tôi sẽ chọn một lối viết khác cho hợp đề tài mới. Không dừng lâu ở một chỗ,
cho nên người ta vừa kịp buông ra lời nhận xét thì tôi đã đi qua chính tôi rồi”
[34, tr.226]. Với Hồ Anh Thái, văn chương nghệ thuật là địa hạt tinh thần, nó
đào thải tất cả cái gì nhợt nhạt, thiếu bản sắc. Tạo ra những sản phẩm mới mẻ
là đòi hỏi tự bên trong của hoạt động sáng tạo nghệ thuật chân chính. Mỗi sản
phẩm nghệ thuật là sự hiện diện của nhà văn giữa cuộc đời. Vì thế cũng
26
không phải ngẫu nhiên Hồ Anh Thái gọi tên một tác phẩm của mình là Hãy
nói bằng lời của mình. Đây có thể xem như một tuyên ngôn nghệ thuật của
ông. Nói bằng lời của mình, lao động nghệ thuật bằng tài năng, tâm huyết,
bằng bản lĩnh, bằng khả năng sáng tạo, Hồ Anh Thái đã cho ra đời hàng loạt
tiểu thuyết mà mỗi tác phẩm một dáng vẻ, một phát minh, ghi nhận sự trưởng
thành nghệ thuật của ông trên từng chặng đường sáng tác.
Những ý kiến có tính chất tuyên ngôn về sáng tác tiểu thuyết và lao
động nghệ thuật là sự đúc rút, khái quát những gì Hồ Anh Thái đã làm được
trong giai đoạn sáng tác vừa qua. Thực tiễn sáng tác cho thấy Hồ Anh Thái là
cây bút đa phong cách, không ngừng tìm tòi, khám phá và sáng tạo.
M. Proust từng khẳng định: “Phong cách không phải là vấn đề kĩ thuật
mà là vấn đề cách nhìn” [45, tr.51]. Theo quan niệm này hoàn toàn có cơ sở
để khẳng định phong cách tiểu thuyết Hồ Anh Thái được xây dựng xuất phát
từ cái nhìn nghệ thuật độc đáo. Là nhà văn thuộc thế hệ “không bị vướng mắc
bởi cái nhìn sử thi” (chữ dùng của Hoàng Ngọc Hiến), Hồ Anh Thái đã vượt
qua cái nhìn nguyên phiến, một chiều, để chiếm lĩnh cuộc sống đa chiều. Cái
nhìn nghệ thuật đa chiều, đầy góc cạnh của Hồ Anh Thái hướng đến chiếm
lĩnh là thế giới đa dạng, phức tạp với nhiều loại người trong những miền
không gian và trong những bình diện thời gian khác nhau.
Cái nhìn nghệ thuật đa chiều trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái được khởi
phát từ sự đa dạng trong tư tưởng sáng tạo của ông. Trên hành trình sáng tác
tiểu thuyết của mình, với mỗi tác phẩm, Hồ Anh Thái luôn bộc lộ một quan
điểm, đề xuất một tư tưởng nghệ thuật riêng, cho thấy sự đa dạng và chiều
hướng vận động tư tưởng nghệ thuật của ông. Sự đa dạng này vẫn có được sự
thống nhất trên nền tảng ổn định.
Sự thống nhất giữa cái nhìn, tư tưởng nghệ thuật và hình thức biểu hiện
tương ứng trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái tạo ra thế giới nghệ thuật phong
phú, sinh động, mang đậm dấu ấn, cá tính sáng tạo của nhà văn.
27
Chƣơng 2:
NHÂN VẬT VÀ TƢ TƢỞNG
TRONG TIỂU THUYẾT ĐỨC PHẬT, NÀNG SAVITRI VÀ TÔI
2.1. Mấy vấn đề lí luận về nhân vật văn học.
2.1.1 Nhân vật văn học và chức năng của nó trong tác phẩm
2.1.1.1. Khái niệm
Nhân vật văn học là con người được nhà văn miêu tả trong tác phẩm
bằng phương tiện văn học. Những con người này có thể được miêu tả kỹ hay
sơ lược, xuất hiện một hay nhiều lần, thường xuyên hay từng lúc, giữ vai trò
quan trọng nhiều, ít hoặc không ảnh hưởng nhiều lắm đối với tác phẩm.
Nhân vật văn học có thể là con người có tên (như Tấm Cám, Thúy Vân,
Thúy Kiều, Từ Hải, Kim Trọng...), có thể là những người không có tên (như
thằng bán tơ, viên quan, mụ quản gia...) hay có thể là một đại từ nhân xưng
nào đó (như một số nhân vật xưng tôi trong các truyện ngắn, tiểu thuyết hiện
đại, như mình- ta trong ca dao...). Khái niệm con người này cũng cần được
hiểu một cách rộng rãi trên 2 phương diện: số lượng: hầu hết các tác phẩm từ
văn học dân gian đến văn học hiện đại đều tập trung miêu tả số phận của con
người. Về chất lượng: dù nhà văn miêu tả thần linh, ma quỉ, đồ vật...nhưng lại
gán cho nó những phẩm chất của con người.
Trong nhiều trường hợp, khái niệm nhân vật được sử dụng một cách ẩn
dụ nhằm chỉ một hiện tượng nổi bật nào đó trong tác phẩm. Chẳng hạn, người
ta thường nói đến “nhân dân” như là một nhân vật trung tâm trong Chiến
tranh và hòa bình của L. Tônxtôi, “ca cao” là nhân vật chính trong Ðất dữ của
G. Amađô, “chiếc quan tài” là nhân vật trong tác phẩm Chiếc quan tài của
Nguyễn Công Hoan... Tô Hoài nhận xét về “chiếc quan tài”: "Trong truyện
ngắn Chiếc quan tài của Nguyễn Công Hoan, nhân vật không phải là người
mà là một chiếc quan tài. Nhưng chiếc quan tài ấy chẳng phải là vô tri mà là
một sự thê thảm, một bản án tố cáo chế độ thảm khốc thời Pháp thuộc. Như
28
vậy, chiếc quan tài cũng là một thứ nhân vật". Tuy vậy, nhìn chung, nhân vật
vẫn là hình tượng của con người trong tác phẩm văn học.
Nhân vật văn học là một hiện tượng nghệ thuật có tính ước lệ, có những
dấu hiệu để nhận biết: tên gọi, những dấu hiệu về tiểu sử, nghề nghiệp, những
đặc điểm riêng...Những dấu hiệu đó thường được giới thiệu ngay từ đầu và
thông thường, sự phát triển về sau của nhân vật gắn bó mật thiết với những
giới thiệu ban đầu đó. Việc giới thiệu Thúy Vân, Thúy Kiều khác nhau dường
như cũng báo trước về số phận của mỗi người sau này:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước toc, tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
Hay việc giới thiệu Hoạn Thư:
“Ở ăn thì nết cũng hay,
Nói điều ràng buộc thì tay cũng già”
gắn liền với những suy nghĩ, nói năng, hành động trong quá trình phát
triển về sau của nhân vật.
Nhân vật văn học không giống với các nhân vật thuộc các loại hình
nghệ thuật khác. Ở đây, nhân vật văn học được thể hiện bằng chất liệu riêng
là ngôn từ. Vì vậy, nhân vật văn học đòi hỏi người đọc phải vận dụng trí
tưởng tượng, liên tưởng để dựng lại một con người hoàn chỉnh trong tất cả các
mối quan hệ của nó.
29
2.1.1.2. Chức năng của nhân vật văn học.
Nhân vật văn học có chức năng khái quát những tính cách, hiện thực
cuộc sống và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời. Khi xây dựng nhân
vật, nhà văn có mục đích gán liền nó với những vấn đề mà nhà văn muốn đề
cập đến trong tác phẩm. Vì vậy, tìm hiểu nhân vật trong tác phẩm, bên cạnh
việc xác định những nét tính cách của nó, cần nhận ra những vấn đề của hiện
thực và quan niệm của nhà văn mà nhân vật muốn thể hiện. Chẳng hạn, khi
nhắc đến một nhân vật, nhất là các nhân vật chính, người ta thường nghĩ đến
các vấn đề gắn liền với nhân vật đó. Gắn liền với Kiều là thân phận của người
phụ nữ có tài sắc trong xã hội cũ. Gắn liền với Kim Trọng là vấn đề tình yêu
và ước mơ vươn tới hạnh phúc. Gắn liền với Từ Hải là vấn đề đấu tranh để
thực hiện khát vọng tự do, công lí...Trong Chí Phèo của Nam Cao, nhân vật
Chí Phèo thể hiện quá trình lưu manh hóa của một bộ phận nông dân trong xã
hội thực dân nửa phong kiên. Ðằng sau nhiều nhân vật trong truyện cổ tích là
vấn đề đấu tranh giữa thiện và ác, tốt và xấu, giàu và nghèo, những ước mơ
tốt đẹp của con người...
Do nhân vật có chức năng khái quát những tính cách, hiện thực cuộc
sống và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời cho nên trong quá trình
mô tả nhân vật, nhà văn có quyền lựa chọn những chi tiết, yếu tố mà họ cho là
cần thiết bộc lộ được quan niệm của mình về con người và cuộc sống. Chính
vì vậy, không nên đồng nhất nhân vật văn học với con người trong cuộc đời.
Khi phân tích, nghiên cứu nhân vật, việc đối chiếu, so sánh có thể cần thiết để
hiểu rõ thêm về nhân vật, nhất là những nhân vật có nguyên mẫu ngoài cuộc
đời (anh hùng Núp trong Ðất nước đứng lên; Chị Sứ trong Hòn Ðất...) nhưng
cũng cần luôn luôn nhớ rằng nhân vật văn học là một sáng tạo nghệ thuật độc
đáo gắn liền với ý đồ tư tưởng của nhà văn trong việc nêu lên những vấn đề
của hiện thực cuộc sống. Betông Brecht cho rằng: “Các nhân vật của tác
phẩm nghệ thuật không phải giản đơn là những bản dập của những con người
30
sống mà là những hình tượng được khắc họa phù hợp với ý đồ tư tưởng của
tác giả”.
2.1.2. Các bình diện mô tả nhân vật
Mô tả ngoại hình nhân vật: Ngoại hình là dáng vẻ bên ngoài của nhân
vật bao gồm y phục, cử chỉ, tác phong, diện mạo...Ðây là yếu tố quan trọng
góp phần cá tính hóa nhân vật.
Nếu như văn học cổ thường xây dựng ngoại hình nhân vật với những
chi tiết ước lệ, tượng trưng thì văn học hiện đại thường đòi hỏi những chi tiết
chân thực và cụ thể sinh động. M. Gorki khuyên các nhà văn phải xây dựng
nhân vật của mình đúng như những con người sống và phải tìm thấy, nêu lên,
nhấn mạnh những nét riêng độc đáo, tiêu biểu trong dáng điệu, nét mặt, nụ
cười, khóe mắt...của nhân vật.
Ngoại hình nhân vật cần góp phần biểu hiện nội tâm. Ðây cũng chính là
sự thống nhất giữa cái bên ngoài và cái bên trong của nhân vật. Vì vậy, khi
tính cách, đời sống bên trong của nhân vật thay đổi, nhiều nét bên ngoài của
nhân vật cũng thay đổi theo.
Khi xây dựng ngoại hình nhân vật, nhà văn cần thể hiện những nét
riêng biệt, cụ thể của nhân vật nhưng qua đó, người đọc có thể nắm bắt được
những đặc điểm chung của những người cùng nghề nghiệp, tầng lớp, thời
đại...Những nhân vật thành công trong văn học từ xưa đến nay cho thấy nhà
văn bao giờ cũng chọn lựa công phu những nét tiêu biểu nhất để khắc họa
nhân vật .
Mô tả nội tâm nhân vật: Khái niệm nội tâm nhằm chỉ toàn bộ những
biểu hiện thuộc cuộc sống bên trong của nhân vật. Ðó là những tâm trạng,
những suy nghĩ, những phản ứng tâm lí... của nhân vật trước những cảnh ngộ,
những tình huống mà nó gặp phải trong cuộc đời.
Trong quá trình phát triển của lịch sử văn học, việc thể hiện nhân vật
qua nội tâm ngày càng có vai trò quan trọng. Trong văn học Việt Nam, so với
các giai đoạn trước, Truyện Kiều của Nguyễn Du đã đạt được những thành
31
tựu rực rỡ. Tác phẩm chứng tỏ Nguyễn Du có khả năng nắm bắt một cách tài
tình những ý nghĩ, tình cảm sâu kín của nhân vật và diễn tả nó một cách sinh
động.
Sự biểu hiện hợp lí và sâu sắc nội tâm góp phần rất lớn tạo nên sức
sống của nhân vật. Nói như L. Tônxtôi: "Mục đích chính của nghệ thuật...là
nói lên sự thật về tâm hồn con người, nói lên những điều bí ẩn không thể diễn
tả bằng ngôn ngữ thông thường được". Ðể làm được điều đó, nhà văn phải
hiểu sâu sắc cuộc sống và con người, nắm bắt được những biểu hiện và diễn
biến dù nhỏ nhặt nhất đời sống bên trong của nhân vật.
2.2. Chất liệu lịch sử và huyền thoại trong xây dựng nhân vật.
Thế giới nhân vật trong Đức Phật, nàng Savitri và tôi hầu hết được xây
dựng từ những nhân vật trong Phật tích, huyền tích của tôn giáo, văn học Ấn
Độ. Có những nhân vật đã trở thành huyền thoại của cả một tôn giáo như Đức
Phật. Bằng cách mượn cốt truyện trong tôn giáo, với cách tiếp cận riêng của
mình, Hồ Anh Thái đã tạo dựng những nhân vật trong truyền thuyết với một
cách thể hiện mới mẻ và độc đáo. Ông đã sử dụng phương thức huyền thoại
hoá để tạo nên những nhân vật mang đậm dấu ấn của riêng mình. Người đọc,
nhờ đó có điều kiện hiểu sâu hơn về nhân vật, cũng như con người và đất
nước Ấn Độ đầy màu sắc bí ẩn và huyền hoặc. Thế nhưng, ẩn sau lớp sương
huyền thoại mờ ảo ấy, ta vẫn bắt gặp bóng dáng của những con người trần
tục, đời thường với đầy đủ những cung bậc tình cảm, cảm xúc; những nhu cầu
tâm, sinh lý rất đỗi “ thật ” của con người trần thế.
2.2.1. Nhân vật Đức Phật
Đức Phật là một nhân vật có thật trong lịch sử tôn giáo. Ngài là một
Buddha - Đấng Giác Ngộ, một nhân vật tồn tại như một huyền thoại trong
Phật giáo và trong đời sống tâm linh của hàng triệu người trên thế giới. Xung
quanh cuộc đời Đức Phật là nhưng câu chuyện huyền ảo, thần thánh hoá. Đức
Phật từ bao đời nay vẫn tồn tại trong lòng tôn kính của biết bao con người,
nhưng Ngài hiển hiện ở đó như một đấng tối cao được bao bọc trong ánh hào
32
quang màu nhiệm. Vốn là người có “cơ duyên” với văn hoá Ấn Độ, thấm
nhuần những tư tưởng cao siêu của đạo Phật, Hồ Anh Thái thấu hiểu Ấn Độ,
thấu hiểu những ý nghĩa sâu xa trong triết thuyết nhà Phật. Bằng những sáng
tạo nghệ thuật của mình, ông luôn cố gắng thể hiện một cách nhìn mới trước
những vấn đề truyền thống. Tái hiện lại cuộc đời Đức Phật trong huyền thoại
dưới một cách nhìn hiện thực là điểm đặc biệt trong những sáng tác về Đức
Phật của Hồ Anh Thái. Không phải chỉ ở tiểu thuyết Đức Phật, nàng savitri
và tôi Hồ Anh Thái mới viết về cuộc đời Đức Phật. Trước đó trong những
sáng tác của mình ông cũng đã viết về đề tài này như Cuộc đời Đức Phật;
Kiếp người đi qua. Nhưng để đạt được thành công thật sự thì phải đến khi ông
hoàn thành tiểu thuyết Đức Phật, nàng Savitri và tôi. Cuốn tiểu thuyết ra đời
thật sự đã mang lại một làn gió mới cho văn chương đương đại Việt Nam và
tạo nên tiếng vang lớn trên diễn đàn văn học.
Đức Phật, nàng Savitri và tôi, là một trải nghiệm mới mẻ của Hồ Anh
Thái. Nhân vật Đức Phật được xây dựng từ những chất liệu trong huyền thoại
tôn giáo, nhưng Hồ Anh Thái đã có một cách cảm nhận và thể hiện riêng.
Mạch chuyện của tác phẩm được khai triển theo cuộc đời Đức Phật, từ lúc
mới sinh ra đến lúc đốn ngộ chân lý. Cũng như mọi chúng sinh, Đức Phật
được sinh ra bởi một người phụ nữ. Có khác chăng là ở dung nhan, tướng
mạo khác thường:“Hoàng tử mới chào đời thì hoàn toàn tỉnh táo. Trắng hồng
bụ bẫm. Xứ Ấn da trắng như vậy thì cũng coi như toả hào quang” [35, tr.32].
Đó là hoàng tử Siddhattha của vương quốc Kapilavatthu (một nước nhỏ vùng
đông bắc Ấn Độ cổ đại). Ngài ưu tư, phiền muộn vì phải nhìn thấy kiếp nhân
sinh chìm trong vòng quay bất tận của sinh - lão - bệnh - tử: “Mọi chúng sinh
dều kiếm tìm hạnh phúc. Nhưng hầu hết đều mù quáng vì thiếu hiểu biết, vì
những tham vọng của mình, đến mức họ không tìm thấy gì ngoại trừ nỗi khổ.
Sợ hãi, thất vọng, đói rách, tuổi già và cái chết - đó là tất cả những gì họ nhận
được trong cuộc kiếm tìm tuyệt vọng này. Mà đời người chỉ trong chốc lát.
Hoàng tử không còn thiết tha gì những lạc thú nhỏ nhoi và chóng tàn của cuộc
33
đời trần thế. Chàng muốn đi tìm một con đường đến với hạnh phúc lâu bền,
đến với sự bình yên lâu bền” [35, tr.87]. Với ước mong mọi người được bình
đẳng và sớm được giải thoát khỏi bể khổ của cuộc đời, hoàng tử đã từ bỏ mọi
vinh hoa phú quý, từ bỏ cuộc sống hoàng tộc ra đi tìm chân lý và đạt đến giác
ngộ dưới gốc bồ đề: “Kể từ nay không còn hoàng tử Siddhattha nữa, ta với
bạn đều bình đẳng, bởi chúng ta đều là con người. Nhưng làm người khổ lắm.
ta muốn tầm sư học đạo, tìm con đường chấm dứt mọi đau khổ cho chúng
sinh”[35, tr.90]. Và cuối cùng hoàng tử đã tìm ra được chân lý và sự khai
minh, chàng đã thực sự trở thành Buddha - Người Giác Ngộ: “Khi chàng nhìn
thấy tất cả những điều này, bóng tối bị xua tan trong trí não chàng. Cả cơ thể
chàng dường như đều toả sáng, vầng ánh sáng trí tuệ. Chàng không còn là
một con người bình thường nữa. Chàng đã được khai minh. Giờ đây chàng là
Buddha – Người Giác Ngộ. Đấng Giác Ngộ thôi toạ thiền. Người bình thản
đứng dậy, cười rạng rỡ. Đã sang buổi sáng. Mặt trời mọc ở đằng Đông” [35,
tr.179]. Trong tiểu thuyết, Hồ Anh Thái xây dựng hình tượng Đức Phật như
một con người trần thế, gần gũi, có sinh - lão - bệnh - tử như bao con người
khác. Xung quanh hình ảnh Đức Phật dường như không có chút gì bí ẩn và
huyền ảo. Đây là một nét mới trong tiểu thuyết của Hồ Anh Thái. Ông đã xây
dựng một huyền thoại theo cách nhìn của riêng mình. Đó là vén bức màn khói
sưong thần bí, để hiện lên một con người vĩ đại trong sự gần gũi, giản dị. Ở
con người vĩ đại ấy, dường như không có phép lạ và hào quang như cách nghĩ
xưa nay. Đức Phật hiện lên như một nhà hiền triết đã tìm ra con đường giải
thoát cho chúng sinh. Nhưng không vì thế mà Đức Phật của ông mất đi sự
linh thiêng huyền bí. Với tài năng của mình nhà văn đã tạo cho nhân vật một
ánh sáng huyền bí kì lạ ở một góc độ khác. Sự huyền ảo trong Đức Phật của
Hồ Anh Thái được tạo nên bởi sức mạnh lòng thương yêu, bác ái chiến thắng
mọi cái xấu, cái ác; sự cảm hoá cái ác bằng chân lý yêu thương con người.
Chỉ có yêu thương và bằng yêu thương con người mới cởi bỏ được thù hận để
tự giải thoát cho mình: “Một khi không còn hận thù, trái tim con người chỉ
34
còn tràn đầy lòng yêu thương. Và chính lòng từ bi này sẽ đem đến bình yên và
hạnh phúc” [35, tr.178]. Sức mạnh của Đức Phật thể hiện trong các triết
thuyết của Ngài. Giáo đoàn của ngài ngày càng đông, Phật đi đến đâu cũng
thu nạp được rất nhiều thành viên, số lượng thành viên tăng lên nhanh và
mạnh. Người đã làm tan cơn giận dữ của một kẻ lỗ mãng, bị cơn giận làm mù
quáng chửi bới Phật ngay giữa đường. Phật nói “Cơn tức giận của ngươi cũng
vậy. Ngươi tức giận với ta mà ta không hề bị tác động, thì cơn tức giận ấy sẽ
ở lại với ngươi. Thế rồi ngươi là kẻ duy nhất cảm thấy tức tối, chứ không phải
ta. Ngươi đã tự làm tổn thương mình rồi đó” [35, tr.292]. Đức Phật đã chứng
tỏ được sức mạnh cải hoá cái ác, thu phục nhân tâm của con người. Bằng giáo
hóa, Người đã giác ngộ được một cách sâu sắc con đường đến với an lạc. Với
sức mạnh của tình yêu thương và lòng bác ái Đức Phật đã làm cảm động đến
ngay cả những con vật. Người chỉ dùng ánh mắt ấm áp chứa chan tình thương
mà đã làm dịu đi cơn điên cuồng của con voi dữ: “Con voi bừng bừng lao
đến. Nhưng bỗng nhiên nó dừng lại. Chỉ cách Phật chừng chục bước. Khoảng
cách vẫn đủ cho Phật và Ananda nhảy tránh. Nhưng người không tránh mà
voi cũng không tiến đến nữa. Voi bất chợt phục hồi tri giác. Người trong cơn
say cũng có lúc bất chợt phục hồi tri giác. Hình như nó nhận ra người đứng
trước nó là vô hại.
- Lại đây nào, đừng sợ.
Phật còn nhẹ nhàng bảo nó. Đừng sợ. Như đã bảo chàng vệ binh leo lên
đỉnh núi hôm trước.
Con voi dừng lại một hồi. Nó nhìn hai con người đứng trước mặt. Nó
thả vòi xuống như chào. Rồi nó quay mình đi trở lại chuồng” [35, tr.382].
Người nói “Chỉ có tình thương mới diệt trừ mọi hờn oán. Lấy oán trả oán thì
còn oán. Đấy là một bài học lớn”. Người cảm hoá những người đang còn
chìm trong u mê, tăm tối thiếu hiểu biết, những người còn đang quẩn quanh
với những sinh - lão - bệnh - tử của cuộc sống và tự đày mình trong bể khổ.
Như người đàn bà mong làm cho đứa con nhỏ đã chết sống lại: “Ta có thể
35
giúp nàng, nhưng ta cần một hạt muối lấy trong một gia đình chưa có người
chết bao giờ. Nàng hãy đi xin hạt muối ấy về đây cho ta.
Người đàn bà mụ mẫm vì đau khổ vội vàng đi tìm. Tìm mãi mà chẳng
thấy gia đình nào chưa có người chết. Nàng bất chợt tỉnh ra. Cuối chiều, nàng
quay trở lại.
- Hôm nay con đã hiểu ra rằng con không phải là kẻ duy nhất mất
người mình yêu quý. Chiều nay con đã đem đứa con đi hoả táng. Giờ thì con
quay trở lại đây, để nghe người dạy.
Phật bảo:
- Thế là nàng đã học được rất nhiều. Sớm hay muộn cái chết cũng sẽ
đến với tất cả mọi người. nhưng nếu như nàng hiểu được chân lý, thì nàng sẽ
được sống trong an lạc và sẽ được chết trong an lạc” [35, tr.291].
Sức mạnh của đạo lý nhà Phật giúp Phật cảm hoá được những con
người đang ngập chìm trong thù hận, âm mưu tranh đoạt quyền lực và những
tranh giành vật chất tầm thường nhỏ nhen. Người đã có lần đem chân lý của
mình giải tỏa được mối bất hoà, và âm mưu ngăn đập nước gây chiến tranh
giữa nước cộng hoà Sakya và bộ tộc Koliya. Phật giảng: “Không có máu chảy
qua tim, con người sẽ chết. Không có nước con người cũng chết. Nếu chỉ giữ
được nước mà người đã chết thì nước không làm nên nhân mạng. Nếu còn có
máu chảy trong người, con người còn sống thì còn làm ra nước, tìm ra nước.
Nước sông quý thì quý thật, nhưng nước chẳng quý bằng máu
Sau bài giảng, đập nước được mở trong tiếng reo hò của dân chúng hai
bên”. [35, tr.294].
Đức Phật trong Đức Phật, nàng Savitri và tôi là một biểu tượng về sức
mạnh niềm tin và chân lý tối cao của tình yêu thương. Qua ngòi bút của Hồ
Anh Thái, Đức Phật hiện lên với vẻ đẹp vừa dung dị, gần gũi và chân thực,
vừa mang màu sắc huyền ảo với sức mạnh kỳ diệu của một con người dã thấu
đạt chân lý tối thượng. Ông không làm giảm đi tính huyền thoại của Đức Phật
mà vẫn mang đến cho người đọc những khám phá, những cảm nhận mởi mẻ
36
về Đức Phật ở phương diện một con người, một triết gia, một nhà tư tưởng
lớn của một tôn giáo lớn. Một nhân vật lịch sử đích thực nhưng đồng thời
cũng có bóng dáng của một con người đương đại. Đây chính là thành công tạo
nên sức hấp dẫn lôi cuốn bạn đọc của Đức Phật, nàng Savitri và tôi.
2.2.2. Nhân vật nàng Savitri - Nữ Thần Đồng Trinh
Bên cạnh chân dung Đức Phật, Đấng Giác Ngộ của đức tin và chân lý,
Hồ Anh Thái còn thành công trong việc khắc hoạ nhân vật Savitri - Nữ Thần
Đồng Trinh. Đây cũng là nhân vật được xây dựng từ chất liệu huyền thoại
trong văn hoá Ấn Độ. Savitri là một vị nữ thần được nhân dân Ấn Độ hết sức
tôn thờ và đặt niềm tin như một vị thần bảo hộ cho cuộc sống của họ.
Huyền thoại về Nữ Thần Đồng Trinh bắt nguồn từ những truyền thuyết
khác nhau, được nhân dân thường kể cho nhau nghe.
“Truyền thuyết thứ nhất: Dưới triều một ông vua của bộ tộc Malla,
ngày nọ có một cô bé tự xưng mình là Nữ Thần Đồng Trinh. Nhà vua nổi giận
đày cô bé đi thật xa, vào sâu trong dãy Himalaya. Chỉ đến khi hoàng hậu đổ
bệnh, ốm lăn ốm lóc, nhà vua mới hoảng sợ cho đón cô bé về, chính thức đưa
lên ngôi nữ thần, canh giữ cho cả nước khỏi bệnh tật.
Truyền thuyết thứ hai: Vẫn là thuộc triều đại malla. Một ông vua khác
giao cấu với đứa bé vị thành niên. Cô bé chết. Nhà vua tự hành xác bằng
những cách khổ nhục nhất rồi tôn một cô bé lên làm Nữ Thần Đồng Trinh để
ngày ngày thờ phụng sám hối.
Truyền thuyết thứ ba: Một ông vua Malla thường chơi trò xúc xắc với
nữ thần Taleju, một hiện thân của Parvati. Từ chơi xúc xắc dẫn đến việc nhà
vua định cưỡng bức nàng. Nữ thần tức giận đe doạ sẽ không tiếp tục bảo hộ
cho xứ sở này nữa. Nhà vua sám hối, cả thần dân cầu xin, cuối cùng nữ thần
bớt giận làm lành, hứa sẽ trở lại trong hình hài một cô bé đồng trinh” [35,
tr.194-195].
Nhân vật Savitri trong Đức Phật, nàng savitri và tôi được xây dựng với
hai kiếp tồn tại. Trong quá khứ Savitri là một nàng công chúa, với tính cách
37
mạnh mẽ và phóng khoáng. Nàng là người phụ nữ tài sắc, có cuộc đời phức
tạp, truân chuyên. Nét nổi bật ở nàng là sự mạnh mẽ đến quyết liệt. Suốt đời
theo đuổi một tình yêu vô vọng, một mối tình đơn phương nàng dành cho Đức
Phật. Cả cuộc đời nàng là một cuộc rượt đuổi suốt hơn bốn mươi năm theo
dấu Đức Phật để mong dành lại được chàng hoàng tử mà năm nào đã chiếm
trọn trái tim nàng. Trong quá trình rượt đuổi theo dấu chân Đức Phật, Savitri
đã lấp những khoảng trống và khát vọng có được Đức Phật cho riêng mình
bằng những thú vui dục lạc. Nhưng rồi cuối cùng nàng cũng nhận ra rằng
trong nàng chỉ duy nhất một tình yêu. Đó là tình yêu nàng giành cho Đức
Phật: “Mỗi lần thu hẹp khoảng cách là mỗi lần xác nhận thêm. Ta đến thật
gần thì càng khẳng định. Không nghi ngờ gì nữa. Gương mặt ấy, cặp mắt ấy,
giọng nói ấy. Người mà ta đi tìm kiếm bao năm trời nay. Chàng Yasa ngồi
ngay sau diễn giả thành một phép so sánh trực diện. Ta bất chợt nhận ra một
điều lâu nay đắm chìm không nhận ra. Công tử Yasa là dục vọng nhất thời
của ta trên con đường đi tìm kiếm hoàng tử Siddhattha. Một là miếng tạm cho
đỡ đói lòng. Một là khao khát bền bỉ hằng mong đạt tới. Siddhattha. Chính là
chàng. Người đã bỏ kinh thành đi làm du sĩ và mất tích nhiều năm nay. Bây
giờ chàng trở thành Hiền Triết ở Kasi, được truyền tụng. Bây giờ người ta gọi
chàng là Phật, Người Giác Ngộ, Người được khai sáng” [35, tr.234-235]. Ở
con người Savitri luôn luôn tràn đầy sức sống bản năng, đam mê nhục cảm,
khao khát dục lạc. Đã có người xem sự xuất hiện của Saviitri trong một cuốn
sách viết về Đức Phật là một sự nổi loạn. Nếu đúng vậy, thì đó là sự “nổi
loạn” đáng trân trọng của một tư duy nghệ thuật mới mẻ. Có thể nói, Savitri là
hình ảnh đẹp nhất, sinh động nhất trong tác phẩm.
Savitri trong hiện tại là một Nữ Thần Đồng Trinh đã giải nghệ. Được
gọi là cựu Kumari. Cô làm nghề hướng dẫn viên du lịch, là người chuyên kể
chuyện đời Phật. “Savitri là một Kumari Hoàng gia. Người ta tìm thấy cô lúc
mới lên sáu. Đủ các tiêu chuẩn. Thuộc đẳng cấp chuyên hành nghề làm vàng
bạc. Theo đạo Phật. Tử vi lập ra toàn những điều tốt đẹp. Trên người có đầy
38
đủ ba mươi hai qúy tướng. Màu da, màu mắt, hàm răng, mái tóc, nốt ruồi, các
huyệt. Đủ cả” [35, tr.195]. Để trở thành một Kumari, Savitri phải trải qua
những cuộc sát hạch thử thách rất khắt khe. Nữ Thần Đồng Trinh phải là
người hội tụ đủ các tiêu chuẩn và là người có mối liên hệ với kiếp trước của
mình. “Chiếc khăn xếp là một vật sở hữu của một kiếp trước, được để lẫn vào
giữa rất nhiều đồ vật, người ta muốn thử thách xem Nữ Thần Đồng Trinh có
nhận ra kiếp trước của mình hay không” [35, tr.198]. Chiếc khăn xếp là món
quà mà hoàng tử Siddhattha trong lễ kén vợ đã tặng cho công chúa Savitri khi
nàng mới lên bốn tuổi và cũng có mặt ở buổi lễ ấy. Savitri đã nhận ra ngay
khi nhìn thấy chiếc khăn bám đầy bụi trong đống đồ vật, và cô đã chiến thắng,
trở thành một Nữ Thần Đồng Trinh. Ở Ấn Độ, người ta có tập tục thờ cúng
Nữ Thần Đồng Trinh là một vị thần sống, bằng xương bằng thịt. Họ coi đó
chính là hiện thân của Parvati, còn gọi là Durga “dân chúng ngóng về lâu đài
của Nữ Thần Đồng Trinh mà yên tâm nàng đang ở đó canh cho họ làm ăn
phát đạt, canh cho đời sống yên bình không giặc giã” [35, tr.193]. Xây dựng
nhân vật Savitri với sự phân thân ở hai kiếp, vừa mang dáng dấp huyền thoại,
lại vừa là một con người giữa đời thực, đây là một đặc sắc nghệ thuật trong
Đức Phật, nàng Savitri và tôi của nhà văn Hồ Anh Thái. Tư tưởng luân hồi
trong giáo lý nhà Phật được nghệ thuật hoá qua cuộc đời, số phận Savitri.
2.2.3. Nhân vật tƣớng cƣớp Anguli Mala
Anguli Mala là huyền thoại về tên tướng cướp khét tiếng hung ác trong
lịch sử Ấn Độ. Từng là một trang tuấn kiệt học rộng tài cao, luôn ấp ủ khát
vọng được học hành và hiểu biết sâu rộng hơn người để đạt tới tri thức vô tận.
Ahimsaka được theo học Chandra, và là một đệ tử giỏi nhất của thầy Chandra
lừng danh. Nhưng cũng chính vì điều này mà bị bạn đồng môn ghen ghét và
tìm mọi cách hãm hại. Sự bảo thủ và thiếu khoan dung của người thầy, sự kỳ
thị của người đời, sự hắt hủi của người cha và sự xa lánh của người con gái
chàng yêu đã đẩy Ahimsaka vào con đường phạm tội. Uất ức vì bị hãm hại,
nhưng nỗi đau đớn lớn hơn là bị ruồng rẫy, hiểu lầm. Con đường đến với chân
39
lý của Ahimsaka đã trở nên xa vời. Đau khổ, uất hận và lòng thù hận đã đưa
Ahimsaka trở thành tên cướp lừng danh Anguli Mala khét tiếng hung ác. Đầu
tiên chỉ chặn người cướp của, nhưng càng ngày lòng thù hận càng lên cao hắn
đã giết người không nương tay. Đối với Anguli Mala giờ đây tình cảm của
con người không bằng lũ kền kền. Càng ngày Anguli Mala càng dấn sâu thêm
vào tội ác để thoả lòng thù hận. Gặp Đức Phật, y đã được giác ngộ chân lý, bỏ
điều ác trở về với cái thiện. Người đã chỉ cho y thấy “làm việc thiện bỏ điều
ác thì không bao giờ là quá muộn. Biển khổ thật mênh mông, song hễ quay
đầu lại là tự khắc sẽ thấy được bờ biển”. Chân lý tốt đẹp về con người và lòng
nhân ái của Đức Phật đã thuyết phục được Anguli Mala từ bỏ con đường tội
lỗi và quy y cửa Phật để ăn năn sám hối. Ở đây tính chất huyền thoại của nhân
vật là ở khả năng chiến thắng mình để đạt được sự giải thoát. Đó không phải
là điều huyền hoặc cao siêu đến mức không thể nào với tới, song cũng không
phải là điều dễ dàng đạt được với mọi chúng sinh. Con đường giải thoát luôn
mở ngỏ cho mọi người, nhưng để đạt được lại phụ thuộc và sự nỗ lực cá nhân.
Ta như gặp ở đây lời giảng giải cao siêu của Đức Phật “trong mọi chúng sinh
đều có Phật tính”. Đó là niềm tin vào bản chất tốt đẹp của con người, là tư
tưởng bình đẳng chúng sinh - một đóng góp lớn lao của Phật giáo cho lịch sử
tư tưởng nhân loại. Và đó cũng là ý nghĩa tư tưởng của huyền thoại tướng
cướp Anguli Mala trong Đức Phật, nàng Savitri của Hồ Anh Thái.
Có thể nói, trong Đức Phật, nàng Savitri và tôi, Hồ Anh Tháí đã rất
thành công trong việc sử dụng phương thức huyền thoại hoá thế giới nhân vật
của mình. Các nhân vật như Đức Phật, Nữ Thần Đồng Trinh, tướng cướp
Anguli Mala đều được xây dựng theo phương thức huyền thoại. Bằng những
câu chuyện nhuốm màu sắc huyền bí, kỳ ảo nhưng không hoang đường được
vay mượn từ huyền tích, Phật tích, Phật sử và từ cả vốn sống, vốn hiểu của
Hồ Anh Thái về con người trong đời sống hiện thực. Hồ Anh Thái đã sáng tạo
nên những nhân vật gần gũi vừa hư vừa thực, nhân vật lịch sử và nhân vật
đương đại. Ẩn chứa sau đó là những tư tưởng nhân văn về con người cuộc
40
sống mà tác giả muốn gửi gắm “mọi tội lỗi và cái ác có thể hoàn lương nếu có
được tình yêu thương và sự tha thứ, làm việc thiện, bỏ điều ác không bao giờ
là quá muộn” [35].
2.3. Đối thoại văn hóa.
2.3.1. Văn hóa và đối thoại văn hóa
Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác
nhau, liên quan đến đời sống vật chất và tinh thần của con người.
Cựu Tổng giám đốc Unessco Federico Mayor có đưa ra định nghĩa về
văn hoá: “Văn hoá phản ánh và thể hiện một cách tổng quát mọi mặt của cuộc
sống (của mỗi cá nhân và cả cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ cũng như
đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỉ, nó đã cấu thành một hệ thống
các giá trị, truyền thống thẩm mĩ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc tự
khẳng định bản sắc riêng của mình” [25].
Nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm trong lời ngỏ của trang Wed về văn
hoá vanhoahoc.com cũng định nghĩa tương tự: “Con người tồn tại trong môi
trường văn hoá. Môi trường ấy thể hiện trong không gian và qua thời gian.
Cuộc sống trong ta và quanh ta thấm đẫm chất men của không gian văn hoá.
Cha ông ta, bản thân ta, rồi con cháu ta, sinh ra trong văn hoá, sống trong văn
hoá và chết đi trong thời gian văn hoá. Tất cả những cái ta đã biết liên quan
đến con người thuộc về văn hoá, tất cả những gì chúng ta còn chưa biết liên
quan đến con người cũng thuộc về văn hoá. Chính là theo nghĩa đó. Edouard
Herriot (1872 - 1957) - nhà khoa học và chính khách, Viện sĩ Viện hàn lâm
Pháp - đã nói câu bất hủ: “Văn hoá là cái còn lại khi ta đã quên tất cả, là cái
còn thiếu khi ta đã học tất cả”. [38, tr.1]
Từ định nghĩa trên, ta có thể thấy: Văn hoá là một hiện tượng khách
quan, là tổng hoà của tất cả các khía cạnh của đời sống bao quanh con người,
tồn tại hữu thức và cả vô thức trong mỗi chúng ta. Ngay cả những khía cạnh
nhỏ nhất của cuộc sống cũng mang dấu hiệu văn hoá. Chính vì tính chất đó
mà tính đối thoại văn hóa cũng vô cùng đa dạng. Ở bất kì khía cạnh nào
41
chúng ta cũng có thể thấy được sự đối thoại đó. Đặc biệt là mối quan hệ giữa
văn hóa và văn học. Bất kì văn hóa quốc gia nào cũng có sự phản ánh trong
văn học. Văn học là nghệ thuật dùng ngôn từ và hình tượng để thể hiện đời
sống và xã hội con người. “Văn học ở thời nào cũng phải đặt trong cấu trúc
tổng thể của văn hoá, nhưng ở ta xem xét văn học và tiếp cận văn học từ góc
độ văn hoá hiện nay vẫn là vấn đề hết sức mới mẻ. Trước đây, văn học và văn
hoá bị xem xét một cách biệt lập do người ta quan niệm văn học có đặc trưng
loại biệt. Bây giờ đặc trưng loại biệt không phải là không còn, nhưng trong
nhiều cách tiếp cận thì cách tiếp cận văn học từ góc độ văn hoá đang cho thấy
là một hướng tiếp cận có hiệu quả. Cách tiếp cận này xem văn học như một
thành tố trong cấu trúc của tổng thể văn hoá nó truyền tải, lưu giữ được những
giá trị văn hoá.” [41] Trong lịch sử văn học của bất cứ quốc gia nào cũng tồn
tại mối quan hệ giữa văn hoá và văn học. Đó là một mối quan hệ hai chiều
khăng khít không thể tách rời. Ở đây, chúng tôi muốn khẳng định thêm một
lần nữa mối quan hệ đó để có thể thấy hướng tiếp cận tác phẩm văn học từ
góc nhìn văn hoá là vô cùng cần thiết.
Trước kia, văn hoá và văn học được đặt ở vị trí ngang bằng,“được coi
là quan hệ tương hỗ”, tức là nghiên cứu văn hoá thì dùng văn học làm tư liệu,
còn nghiên cứu văn học lại dùng văn hoá để soi chiếu. Gần đây, sau khi
Unesco phát động những thập kỷ phát triển văn hoá cùng sự thay đổi nhận
thức văn hoá và các công trình của M.Bakhtin được giới thiệu, các nhà nghiên
cứu đã thống nhất văn hoá là nhân tố chi phối văn học. Văn hoá trở thành một
hướng nghiên cứu hiệu quả. Đã có một số tác giả đi theo hướng nghiên cứu
này: Trần Đình Hượu, Trần Ngọc Vương, Đỗ Lai Thuý, Trần Nho Thìn…
Tác giả Đỗ Lai Thuý khẳng định: “…Văn hoá là một tổng thể, một hệ thống
bao gồm nhiều yếu tố, trong đó có văn học. Như vậy, văn hoá chi phối văn
học với tư cách là hệ thống chi phối yếu tố, toàn thể chi phối bộ phận. Đây là
quan hệ bất khả kháng. Tuy nhiên, văn học so với các yếu tố khác là một yếu
tố mạnh và năng động. Bởi thế, nó luôn có xu hướng đi trượt ra ngoài hệ
42
thống. Trong khi đó thì hệ thống, nhất là hệ thống văn hoá, luôn có xu hướng
duy trì sự ổn định. Như vậy, sự xung đột, sự chống lại của văn học đối với
văn hoá là không thể tránh khỏi. Nhưng nhờ thế mà văn học có sáng tạo. Sáng
tạo những giá trị mới cho bản thân nó và cho hệ thống. Sáng tạo lớn thì có thể
dẫn tới sự thay đổi của hệ thống” [41, tr.3]. Trong mỗi nền văn hóa, chúng ta
đều có thể thấy nhiều đối thoại ở nhiều cấp độ. Tuy nhiên ở bất kì nền văn
hóa nào cũng đều có sự đối thoại giữa truyền thống và hiện đại, bản sắc văn
hóa dân tộc này và bản sắc văn hóa dân tộc khác được du nhập, đối thoại giữa
dân tộc và nhân loại. Mỗi nền văn hóa dân tộc (cổ đại, trung đại, hiện đại) đều
coi như một văn bản. Nhà văn trong quan hệ với các văn bản đó đã tự mình
đối thoại, hay giễu nhại. Ở trường hợp này là sự đối thoại.
Đặc biệt trong tiểu thuyết Đức Phật, nàng Savitri và tôi của Hồ Anh
Thái, tính đối thoại văn hóa càng nổi bật trong chiều văn hóa Ấn Độ và Việt
Nam; chiều cổ đại và hiện đại.
2.3.2. Các đối thoại văn hóa trong Đức Phật, nàng Savitri và tôi
2.3.2.1. Đối thoại với văn hóa cổ đại từ điểm nhìn văn hóa hiện đại
Trong tiểu thuyết Đức Phật, nàng Savitri và tôi của nhà văn Hồ Anh
Thái, chúng ta bắt gặp những đối thoại thú vị. Tác phẩm như một chuỗi đan
xen, móc nối những văn bản văn hóa tưởng chừng rất xa nhau. Những âm
hưởng cổ đại, hiện đại, những cuộc sống khác biệt được hội tụ ở đậy để tạo
nên một tiểu thuyết độc đáo của văn học đương đại. Với tác phẩm này, tính
đối thoại theo quan điểm về tiểu thuyết đa thanh của Bakhtin mà sau đó được
J.Kristeva phát triển thành quan niệm về liên văn bản có lẽ là “chiếc chìa
khóa” phù hợp để khám phá giá trị của nó.
Tiểu thuyết Đức Phật, nàng Savitri và tôi kết cấu gồm 19 chương: 3
chương Tôi, 7 chương Savitri và 9 chương Đức Phật không tách lìa nhau mà
được đan xen hòa trộn vào nhau: “Như những âm thanh của một dàn hợp tấu -
ta có thể nghe rõ âm sắc từng nốt nhạc nhưng tất cả quyện chặt với nhau tạo
thành một tổng thể không thể tách rời” [25]. Với kết cấu này, nhà văn Hồ Anh
43
Thái đã đồng hiện quá khứ và hiện tại qua lời kể của Savitri hậu kiếp về tiền
kiếp của mình. Khoảng cách hơn 2000 năm từ cổ đại tới hiện đại được kéo lại
trong 431 trang sách bằng “cây cầu huyền ảo” là nữ thần Savitri. Sự chuyển
dịch không gian và thời gian ấy tạo nên một cuộc đối thoại thú vị giữa xưa và
nay. Để tạo nên sự chuyển dịch không gian và thời gian này, tác giả Hồ Anh
Thái đã sử dụng một cách sáng tạo nghệ thuật trần thuật. Trong tiểu thuyết
hiện đại, ngôi kể không tồn tại độc lập, đơn nhất mà được phối hợp với nhau
hoặc với các điểm nhìn trần thuật khác rất linh hoạt, đặc biệt là điểm nhìn bên
trong. Ở tiểu thuyết Đức Phật, nàng Savitri và tôi, tác giả Hồ Anh Thái đã sử
dụng người kể truyện trực tiếp là nhân vật “Tôi” để dẫn dắt câu chuyện, cựu
Thánh Nữ Đồng Trinh Savitri để đưa câu chuyện trở về thời Đức Phật, và cả
người kể chuyện hàm ẩn trong các chương viết về Đức Phật. Như vậy chúng
ta có đến ba người kể chuyện, chưa kể việc dịch chuyển điểm nhìn giữa nàng
Savitri tiền kiếp và Savitri hậu kiếp, đã tạo nên rất nhiều giọng điệu trong tác
phẩm. Việc sử dụng nhiều người kể chuyện và dịch chuyển điểm nhìn đã đưa
người đọc đến các góc nhìn, khoảng cách nhìn để có thể thấy được nhiều
chiều của tác phẩm hơn. Nhiều người kể chuyện cũng đồng nghĩa với có
nhiều giọng điệu trong tác phẩm. Đó chính là nền tảng cho tính đối thoại
trong tác phẩm. Cùng với nó là việc các chương được lồng ghép kể trên, quá
khứ và hiện tại lần lượt được xuất hiện theo diễn biến của câu chuyện. Một
quá khứ, một lịch sử, một nền văn hóa khổng lồ được dẫn dắt bởi con người ở
thế giới hiện tại. Một tiền kiếp đầy huyền thoại song hành với một hiện kiếp
trong xã hội văn minh. Cái nhìn về lịch sử, về văn hóa cổ đại bằng cách đó tạo
nên sức hấp dẫn riêng cho tác phẩm. Hai thế giới khác nhau: một bên với
những khách sạn, bể bơi, điện thoại... một bên với thành quách, cung điện,
ngai vàng... tạo nên một kết hợp văn hóa độc đáo. Sự tranh luận giữa Đạo
Phật và quan niệm ái tình của Savitri, sự tranh luận giữa Savitri tiền kiếp và
hiện kiếp, giữa quá khứ và hiện tại… Đó vẫn mãi là một dòng chảy không
44
thôi. Câu hỏi về đâu là chân lý, đâu là lẽ sống… hãy để cho người đọc tự
kiếm tìm câu trả lời sau khi gấp trang sách lại.
Nhưng nếu chỉ nói như vậy có lẽ chưa làm rõ được tính đối thoại văn
hóa ở đây và vai trò của nó được thể hiện như thế nào. Người viết, ở đây, xin
được tập trung vào nhân vật Savitri để làm rõ hơn điều này. Savitri vừa là
người kể chuyện, vừa là cầu nối đại diện của hai thế giới cổ đại và hiện đại.
Nhân vật này hội tụ cả hơn 2000 năm văn hóa Ấn Độ. Một Savitri phóng
túng, đầy nhục cảm, sức sống trong quá khứ được soi chiếu bởi một Savitri
trầm lắng của hiện tại.
Sự đối thoại ấy vừa khiến nhân vật như đang tranh luận với bản thân,
vừa như câu hỏi trong quá khứ tràn về chất vấn hiện tại. Dường như sau khi
đầu thai chuyển kiếp Savitri đã giác ngộ. Savitri đã đi qua sự vô minh của tiền
kiếp để có thể đọc được suy nghĩ của người khác: “Savitri đọc được suy nghĩ
của tôi. Cô thản nhiên kể tiếp” Những câu nói của cô ở hiện kiếp đầy triết lý;
“thấy mà không thấy”; “Không chỉ con người mà ngay cả lịch sử cũng thường
xuyên phân tâm” [35, tr.25]
Một Savitri có thể nhìn xuyên qua lớp sương mù của thế giới vô minh
chiêm nghiệm lại cuộc đời. Cây cầu thời gian - nàng Savitri - cho thấy những
thăng trầm lịch sử, những thời đại hoàng kim của các đế chế cổ đại đến phế tích
đền đài ngày nay: “Savitri và tôi đang viếng thăm thành phố Raijgir. Tên cổ đại
là Rajagaha. Vương xá. Nơi đây xưa kia có nhiều đền đài thành quách của các
triều đại, kinh đô của vương quốc Magadla” [35, tr.286]
“Xuống xe, nơi đầu tiên Savitri dẫn tôi đến là cột đá Asoka” [35,
tr.20]... Những chứng tích lịch sử, những dấu ấn văn hóa một thời, được sống
lại trong thời hiện tại bởi nàng Savitri. Nó như có âm vang của quá khứ vọng
về, lại như câu hỏi từ tương lai dội lại: Cái gì là chân lí? Đồng thời, cuộc đối
thoại văn hóa xuyên thời gian cũng như luận công tội, đánh giá lại về con
người, về lịch sử, về những gì là chân lí. Chân lí mãi trường tồn: “Asoka là
người nhìn xa trông rộng. Ngài biết kí ức lịch sử là cái không bền vững, sẽ có
45
ngày người đời quên lãng rồi sinh ra nghi vấn. Hoàng đế bèn đến tất cả thánh
địa có dấu chân Phật trên đất Ấn Độ cổ đại, đến đâu ngài cho khắc những chỉ
dụ lên đá, dựng lên ở đó những trụ đá có khắc thông cáo và mệnh lệnh của
hoàng đế. Văn bia nghìn năm trên đá. Cột đá đã đổ, vùi sâu trong đất, cả
thánh địa hoang tàn bị bỏ quên nghìn năm trong rừng rậm. Nhưng rồi cũng có
ngày tất cả được khai quật, được dựng lại ở vị trí ngày xưa” [35, tr.23].
Tính đối thoại văn hóa ở đây không chỉ là sự tồn tại các di tích, các
huyền thoại, Phật tích vượt thời gian mà còn thể hiện ở con mắt của người
hiện tại nhìn về quá khứ: “Thời gian cố tình xóa mờ tất cả, nhưng vẫn thua sự
tính toán của con người, thua cái tâm của con người” [35, tr.23].
“Một mình thời gian không làm nên lịch sử Hoàng đế Asoka đã cắm
vào thời gian một cái dấu mốc, gửi nó lại cho thời gian gìn giữ, nhờ người đời
sau gìn giữ, mới được như ngày hôm nay” [35, tr.25].
Cái nhìn về quá khứ, về Phật tích là câu hỏi của con người hiện đại để
tìm ra lẽ sống cho mình. Nhân vật tôi cũng đối thoại với câu chuyện về Đức
Phật để tìm ra câu trả lời cho mình. Từ câu nói của Đức Phật dạy đệ tử cách
đây 2000 năm: “Kiến thức như lá trên cây kia, những điều ta nói với các con
chỉ như nắm lá trong tay này. Vì sao vậy? Vì ta chỉ nói những điều cần thiết
phải làm để đạt tới giải thoát mọi khổ đau, để được khai sáng, được giác ngộ”
[35, tr.39]. Nhân vật tôi đã không hỏi nàng Savitri trong 6 cái bao tải mà nàng
luôn mang theo vỉ hiểu rằng chỉ nên biết những gì cần cho mình: “Tôi đã
không hỏi Savitri. Và có lẽ sẽ không bao giờ hỏi” [35, tr.29]
Theo hành trình của Đức phật 2000 năm về trước, theo bước chân chỉ
đường của nàng Savitri, nhân vật tôi dần dần tìm lại một thời vàng son của Ấn
Độ cổ đại, tìm lại khởi nguồn những chân lí của nhân loại và có lẽ cũng tìm
thấy bản ngã của mình khi soi mình vào đó. Những chứng tích văn hóa này
cũng đang đối thoại với người đọc hiện đại chúng ta về những vấn đề muôn
thuở của nhân loại: sự sống - cái chết? khổ đau - hạnh phúc? Lịch sử - sự
thật? Quá khứ đang đối thoại với hiện tại bằng những lời nói thầm gửi vào
46
trong các di tích đền đài, tượng đá, văn bia… dẫu đến hôm nay chỉ còn là phế
tích. Đó chính là một cuộc đối thoại khổng lồ và vĩnh cửu.
Tính đối thoại thực sự không đơn giản là những đối thoại giữa các nhân
vật bên trong tiểu thuyết. Trong tác phẩm Đức Phật, nàng Savitri và tôi của
Hồ Anh Thái, đối thoại giữa văn hóa cổ đại và hiện đại cũng không phải là
đối thoại giữa các nhân vật. Nó phần nào được thể hiện ở nhân vật người kể
chuyện. Những phát ngôn của các nhân vật kể chuyện về văn hóa như sự
tranh luận, va chạm với nhau hay tự tranh luận với chính mình: “Các học giả
cổ đại không có kiểu viện nghiên cứu như chúng ta ngày nay. Ẩn viện của họ
chính là viện nghiên cứu vậy. Có khi những nơi chốn vắng người thuận lợi
cho tu học cũng là viện nghiên cứu. Gốc bồ đề này đã là một cái viện nghiên
cứu vĩ đại. Hàng nghìn năm sau các viện nghiên cứu ngày nay trên khắp thế
giới còn phải biết ơn nó” [35, tr.189].
Những giá trị từ cổ đại được nhìn nhận, đánh giá lại để mang lên mình
một ý nghĩa mới. Những ẩn viện xa xưa được so sánh với các viện nghiên cứu
hiện đại để cho thấy môi trường học thuật thời xưa và khẳng định các giá trị
muôn đời hầu như được xuất phát từ “gốc bồ đề” - viện nghiên cứu vĩ đại đó.
Các văn bản trong tính liên kết của nó góp phần cắt nghĩa giải thích cho nhau.
Đặc biệt, các yếu tố văn hóa chứa đựng trong nó sẽ giúp chúng ta cắt nghĩa
các giái trị trong tác phẩm. Hay nói cách khác, nếu không đặt văn học trong
môi trường sinh ra nó là văn hóa chúng ta sẽ như đi trên một con đường mà
không biết phương hướng. Mở ra một tác phẩm khác là Tôtem sói (Khương
Nhung) cũng thể hiện rất rõ điều này. Có lẽ với nhiều nước trên thế giới thì
văn hoá du mục và loài sói thảo nguyên vẫn còn rất xa lạ. Chúng ta không biết
rằng nền văn hoá đó đang dần bị biến mất bởi sự phát triển của đô thị, của
khoa học hiện đại. Tác giả Khương Nhung, bằng tác phẩm của mình, đã giới
thiệu cho bạn đọc thế giới về điều đó. Nó như một tiếng chuông cảnh tỉnh
chúng ta về sự lụi tàn của văn hoá du mục và sự biến mất của loài sói thảo
nguyên nói riêng và nguồn cội văn hóa của mỗi dân tộc nói chung. Chính góc
47
nhìn văn hóa đã giúp chúng ta có sự giải thích hợp lý về văn học và cuộc
sống.
Bên cạnh đó, trong tác phẩm Đức Phật, nàng Savitri và tôi, những đền
đài thành quách xa xưa được hồi sinh trong cảm nhận của tác giả và người
đọc. Những nét văn hóa trường tồn hàng nghìn năm thời gian, qua thăng trầm
lịch sử. Nó không bị thời gian bỏ quên. Nó vẫn tồn tại và sống động trong
những văn bản nghệ thuật. Điều gì đã kết nối những công trình đó với tác
phẩm của Hồ Anh Thái. Phải chăng đó là tấm lòng hướng về Đức Phật, hướng
về những giá trị văn hóa một thời đã lưu giữa chân lý của ngàn đời, cho cả
hôm này và mai sau. Trong cảm quan thời gian của tác giả, ta thấy những biến
thiên, thăng trầm của các công trình đó. Tại sao nó vẫn tồn tại. Những chứng
tích về cuộc đời Đức Phật không phải ngẫu nhiên có sức sống bền bỉ như vậy.
Giá trị đã giúp nó không bị phá hủy bởi bàn tay con người. Sự đối thoại giữa
xưa và nay, cổ đại và hiện đại đã nói cho ta biết điều đó: “Phần chân thạch trụ
này chỉ còn cao khoảng một mét. Những bàn tay hận thù tôn giáo đã đốn ngã
chiếc cột bằng đá. Cột bị vùi lấp dưới nhiều tầng đất. Qua nhiều thế kỉ cây
mọc thành rừng, toàn bộ thánh địa bị lãng quên. Mãi đến đầu thế kỉ mười
chín, các nhà khảo cổ mới bắt đầu khai quật thánh địa. Phần trên của cột đá
Asoka được tìm thấy. Tất cả đều sững sờ trước một tác phẩm điêu khắc tuyệt
vời” [35, tr.224]. Văn bản điêu khắc cổ đại đến trang văn hiện tại là một
đường dẫn vô hình. Những dòng chữ chỉ dẫn cho người đọc lần về quá khứ
theo bước chân người xưa chiêm ngưỡng và cảm nhận nó. Nếu không có
những văn bản kí tự giới thiệu về những công trình này, đặc biệt là một tác
phẩm văn học như Đức Phật, nàng Savitri và tôi, có lẽ chúng ta có lẽ cũng
không thể hiểu thật sự sâu sắc về nó. Tác phẩm đưa các công trình kiến trúc
vượt qua thời gian và không gian để chỉ cho chúng ta những cảm nhận về lịch
sử, về văn hóa ở nhiều thời đại. Nghệ thuật chính là sự kết nối như vậy. Quả
thực công việc của một nghệ sĩ nói chung hay một nhà văn nói riêng, khi sáng
tác cũng không khác gì một nhà khảo cổ hay ít nhiều cũng phải có thao tác
48
khảo cổ học. Họ phải lần về lịch sử, ngược dấu thời gian để tái hiện chân xác
thời đại mà họ muốn nói. Một thước phim dã sử, một bức tranh về thời xưa,
hay trong một tiểu thuyết thời cổ đại... sẽ mất hoàn toàn giá trị nếu không liên
kết được với không gian văn hóa thời đại đó: “Toàn bộ nhóm tượng đặt trên
một tòa sen tượng trưng cho nguồn nước sự sống và cảm hứng sáng tạo. Bên
dưới quốc huy có một dòng chữ bằng kí tự Devanagari: Satyameva Jayate, chỉ
có chân lý chiến thắng” [35, tr.225]
Tóm lại, chúng ta có thể khẳng định sự giao lưu văn hóa trong xu thế
toàn cầu hóa của văn học đương đại là tất yếu. Nó mở ra những hướng đi mới
cho sáng tạo nghệ thuật. Tiểu thuyết Đức Phật, nàng Savitri và tôi của Hồ
Anh Thái là một ví dụ tiêu biểu cho sự giao thoa này. Trong tính đối thoại,
các giá trị văn hóa nổi bật lên trong sự đối sánh. Và thêm một lần nữa, người
viết muốn khẳng định không văn bản nào là một “hòn đảo cô đơn” mà chúng
liên kết, gắn bó với nhau, kêu gọi ý nghĩa thông qua nhau. Những giá trị văn
hóa cũng là những văn bản như vậy. Trong xu thế của nghệ thuật cũng như
nhiều lĩnh vực khác, hôm nay, tính liên kết ấy càng được mở rộng. Tiểu
thuyết Đức Phật, nàng Savitri và tôi phần nào đấy mang tính chất của một
tiểu thuyết phong tục cũng không nằm ngoài quy luật ấy.
2.3.2.2. Đối thoại giữa văn hóa Ấn Độ và văn hóa Việt Nam
Trong tác phẩm Đức Phật, nàng Savitri và tôi của Hồ Anh Thái không
chỉ có đối thoại giữa văn hóa cổ đại và hiện đại mà còn có đối thoại giữa văn
hóa Ấn Độ và Việt Nam. Ngay việc một nhà văn Việt Nam viết về đất nước
và con người Ấn Độ đã là một sự đối thoại văn hóa thú vị. Sự giao lưu văn
hóa sẽ được thúc đẩy qua những trang sách của tác giả, độc giả sẽ thêm hiểu
về một đất nước, một tôn giáo lớn của thế giới.
Có thể nói, với Ấn Độ, nhà văn Hồ Anh Thái có một cái duyên. Tác giả
đã đi nhiều nới trên thế giới nhưng riêng mảnh đất Ấn Độ mang lại cho ông
nhiều cảm xúc để sáng tạo nhất. Trước tác phẩm Đức Phật, nàng Savitri và
tôi, nhà văn đã có khá nhiều truyện ngắn viết về đề tài này. Trước đó, ông đã
49
xuất bản tập truyện: Tiếng thở dài qua rừng kim tước (1998) và sau Đức Phật,
nàng Savitri và tôi là Namaskar! Xin chào Ấn Độ (2008). Vốn hiểu biết của
nhà văn về Ấn Độ là vô cùng sâu sắc. Đồng thời chúng ta cũng có thể khẳng
định, các tác phẩm của ông về Ấn Độ cũng chính là một mạng lưới liên văn
bản. Tác phẩm này chứa đựng phần nào tác phẩm kia. Nếu trong tập truyện
Tiếng thở dài qua rừng kim tước là các truyện ngắn về đất nước Ấn Độ cả
hiện đại và cổ đại, đặc biệt là một loạt truyện ngắn viết về cuộc đời Đức Phật
thì trong Đức Phật, nàng Savitri, một lần nữa nhân vật huyền thoại này lại
được tái hiện. Từ tướng cướp Agulimala đến việc Đức Phật đắc đạo hành
pháp đều đã được tác giả từng tái hiện. Chỉ có điều vẫn cùng một nhân vật ấy,
một chi tiết ấy những mỗi lần xuất hiện trên trang giấy, tác phẩm lại gợi thêm
nhiều ý nghĩa. Đó chính là nhờ khả năng liên kết các văn bản trong sự liên
tưởng của người đọc.
Quay trở lại vấn đề đối thoại văn hóa giữa Ấn Độ và Việt Nam, bằng
con mắt của người Việt nhưng Hồ Anh Thái thậm chí có những cảm nhận rất
tinh tế về Ấn Độ. Điều này cũng tương tự việc một số người nước ngoài sống
ở Việt Nam hiểu tính cách của người Việt hơn chúng ta. Với Hồ Anh Thái
cũng vậy, bằng niềm đam mê và những nỗ lực tìm hiểu, nhà văn đã sáng tạo
nên tác phẩm Đức Phật, nàng Savitri và tôi - nơi hội tụ về cơ bản các giá trị
văn hóa Ấn Độ. Trong quá trình viết, nhà văn mượn lời các nhân vật để đưa ra
những bình luận trong sự so sánh giữa hai quốc gia: “Nhà tắm công cộng là
bằng chứng một nền văn minh phát triển bậc cao của xứ này. Đâu đó trên thế
gian, con người vẫn còn chui rúc trong hang ăn lông ở lỗ, nóng bức thì ra bờ
suối kỳ cọ, rác thải thì tiện đâu vứt đấy, nhà cửa thì vẫn còn đắp đất làm mái
tranh. Xứ này đã xây lâu đài thành quách chùa chiền đồ sộ, kiến trúc đã nguy
nga, trình độ xây dựng tinh xảo. Phố phường đã có hệ thống cống rãnh tiêu
nước thải. Có tổ chức người đi thu nhặt và tiêu hủy rác. Có những nhà vệ
sinh, nhà tắm công cộng” [35, tr.204].
50
Mặc dù không nhắc trực tiếp tới Việt Nam nhưng có lẽ trong ẩn ý của
tác giả, nhà văn đang muốn nói về đất nước mình “rác thải thì tiện đâu vứt
đấy, nhà cửa thì vẫn còn đắp đất làm mái tranh”. Từ đất nước Ấn Độ, nhà văn
vẫn hướng về Việt Nam với những lời cầu nguyện: “Tôi cầu gì? tôi cầu cho
xứ sở tôi mãi mãi yên bình thịnh vượng. Tôi cầu cho chúng sinh có văn minh
máy móc mà không giả dối tàn ác lầm lạc nhem nhuốc mãi thế này. Tôi cầu
cho người thân bạn hữu của tôi thành đạt và khỏe mạnh cho đến giây phút
cuối cùng của cuộc đời. Tôi cầu” [35, tr.187]
Tác phẩm còn giới thiệu với độc giả một quần thể kiến trúc đa văn hóa
ngay trên mảnh đất Ấn Độ, trong đó có cả Việt Nam: “Cả một quần thể chùa
chiền các nước ở đây. Những tòa sứ Phật giáo các nước ở đây. Quây quần trên
vùng đất ghi dấu chân Phật. Chùa Thái Lan. Chùa Trung Quốc. Chùa Miến
Điện. Chùa Hàn Quốc.
Và kia là chùa Việt Nam”
“Ngang qua một cánh đồng, lúa mì là Việt Nam Phật Quốc tự. Ở
Lumbini nơi Phật ra đời cũng có một Việt Nam Phật Quốc tự như thế này.
Một mái chùa kiến trúc Việt Nam thấp thoáng trong rừng cây”... “Cả những
cây cỏ của đất Việt nữa” [35, tr.192]
Các công trình kiến trúc hay cũng có thể gọi là các văn bản kiến trúc
được đặt cạnh nhau. Chúng có chung một mối liên kết là Đạo Phật. Các văn
bản kiến trúc ấy lại liên kết với văn bản kí tự Đức Phật, nàng Savitri và tôi để
cho chúng ta thấy một thế giới đa văn hóa, giao lưu tôn giáo. Những công
trình với những sắc thái riêng đặt cạnh nhau để tô điểm cho nhau và cũng
chính là tôn vinh đạo Phật. Qua việc nối liền văn hóa ở hai thời kì khác nhau
của lịch sử loài người trong tính đối thoại của nó để làm nổi bật nên các giá trị
xưa và nay, chúng ta cảm nhận được phần nào sức sống bền bỉ của Phật giáo.
Đồng thời người đọc cũng thấy được tài năng sáng tạo của Hồ Anh Thái. Chỉ
riêng việc tổ chức cả hơn hai nghìn năm lịch sử Ấn Độ vào hơn bốn trăm
trang sách cũng đủ cho chúng ta thấy nỗ lực rất lớn của nhà văn.
51
2.3.2.3. Đối thoại với Ấn giáo, Phật giáo từ quan điểm nhân văn chủ
nghĩa
Tôn giáo và tư tưởng thực chất cũng không nằm ngoài văn hóa. Tuy
nhiên, với một tác phẩm viết về Phật học như Đức Phật, nàng Savitri và tôi
thì có lẽ chúng ta nên tách nó ra như một đối tượng khảo sát riêng để có thể
làm rõ hơn ý nghĩa của tác phẩm. Nổi bật lên trong tác phẩm này là sự đối
thoại giữa hai tôn giáo là đạo Phật và đạo Bà la môn. Đạo Bà la môn mà sau
này là Ấn Độ giáo ra đời vào khoảng thế kỉ XV trước công nguyên, trong
hoàn cảnh đang có sự bất bình đẳng sâu sắc về đẳng cấp và đạo này chứng
minh cho sự hợp lí của tình trạng đó. Nhà văn Hồ Anh Thái đã tái hiện một
đạo Bà la môn hà khắc theo đúng như lịch sử bên cạnh một đạo Phật ôn hòa,
từ bi. Nhân vật Đức Phật và Tế sư đặt bên cạnh nhau trong thế đối sánh để
thấy sự xung đột về tư tưởng và giáo lý của hai tôn giáo lớn: “Cao nhất là
Brahmin (tăng lữ), đẳng cấp giáo sĩ Bà la môn và các nhà tư tưởng. Đứng thứ
hai là Kshatrua (vũ sĩ), đẳng cấp tướng lĩnh cầm quyền và binh sĩ. Thứ ba là
Vaisya (bình dân tự do), đẳng cấp thương nhân và chúa đất. Thứ tư là Sudra
(tiện dân), đẳng cấp đầy tớ và thợ thủ công”. [35, tr.62]
Những văn bản về đạo Bà la môn và đạo Phật được liên kết trong cùng
một tác phẩm không phải là ngẫu nhiên mà tác giả đang muốn chúng tranh
luận tư tưởng với nhau. Trong hành trình đi tìm chân lý cho nhân loại,
phương pháp của Đạo Phật cũng khác đạo Bà la môn. Trong khi các tu sĩ
hành xác khổ hạnh để mong tìm được con đường đắc đạo thì Đấng Giác ngộ
lại đi theo một con đường khác: “Ta đã lầm đường, chàng nghĩ, ta đã sống
trong nhung lụa mà không tìm thấy chân lý. Rồi ta đày đoạ thân xác cho đến
nỗi này, ta cũng không tìm được gì. Ví thử ta chết vì đói khát, vì bị nước cuốn
đi, thì còn đâu con người này để tiếp tục tìm kiếm”. [35, tr.176]
Thời điểm mà đạo Phật được hình thành có lẽ là thời điểm đạo Bà la
môn đang suy thoái nghiêm trọng. Những giáo điều hà khắc, những quan
52
niệm về tôn ti trật tự bóp chết quyền sống con người, là nguyên nhân để con
người hướng đến đạo Phật để giải thoát.
“Sao người có thể mê muội để cho một giáo sĩ Bà la môn thao túng đến
mức phải đứng nhìn con gái mình lên dàn hỏa táng. Ôi những ông vua trên lục
địa này. Sao họ có thể mê man để cho những giáo sĩ tham nhũng hoành hành
ngay trong vương triều của mình” [35, tr.159].
“Giáo sĩ không từ một cơ hội nào để bày vẽ tế lễ. Tế lễ củng cố địa vị
độc tài của giáo sĩ về tư tưởng. Tế lễ là dịp giáo sĩ vơ vét tài sản của đất nước
và con dân. Các giáo sĩ Bà La Môn đã làm cho thời buổi chúng ta đang sống
trở nên đen tối và bế tắc chưa từng có.” [35, tr.160]
“Dân chúng theo đạo Bà la môn vẫn duy trì tập quán giết gia súc để
cúng tế thần linh. Người ta cho rằng cúng tế sẽ làm cho các vị thần hài lòng,
các thần sẽ ban cho con người của cải, những cơn mưa có ích cho vụ mùa
hoặc biến mọi ước nguyện thành sự thật. Đi tới đâu Phật cũng khuyên mọi
người không nên giết gia súc để cúng tế” [35, tr.245].
Một Tế sư độc ác và thủ đoạn, một đức Phật từ bi, nhân ái, đó chính là
sự tranh luận về đạo lý một cách sâu sắc. Trong tác phẩm đạo Bà la môn bị
giễu nhại một cách thảm hại ở các mặt tiêu cực của nó như tế lễ, thanh tẩy,
đẳng cấp... Sự lụi tàn của đạo Bà la môn, sự khai sinh của đạo Phật. Giữa một
bên là sự già cỗi, khắc kỉ, phi nhân đã đến lúc diệt vong và một bên là đạo Phật
đầy tình thương và nhân bản, cứu giúp chúng sinh vượt qua bể khổ cuộc đời.
Tuy nhiên, không có giọng nào trong tiểu thuyết hiện đại là độc tôn quyền lực,
ngay cả đạo Phật cũng không phải tuyệt đối được tất cả sùng bái. Vẫn còn nghi
ngờ, có những phản đối, có xung đột như vua Udena: “Vị giáo chủ ấy là gì vậy
mà khiến các ngươi u mê cuồng tín? Ta sẽ quăng Đấng giác ngộ của các ngươi
vào tổ kiến lửa giữa rừng cho mà xem” [35, tr.321].
Hay Devadatta: “Không từ một cơ hội nào để tuyên truyền trong giáo
đoàn rằng Phật đã lỗi thời, đã buông lỏng giáo lý, đã trở nên dễ dãi. Ông ta
cũng được một số đệ tử hưởng ứng” [35, tr.369].
53
Trong tác phẩm Đức Phật, nàng Savitri và tôi, cuộc đời Đức Phật luôn
được đặt song song với nàng Savitri. Và đây chính là đối thoại dài nhất và
quan trọng nhất trong tác phẩm về tư tưởng, đối thoại gữa chủ nghĩa nhân văn
và tôn giáo. Nàng Savitri một đời khát khao yêu thương, khát khao nhục cảm.
Ở nàng toát ra sự sôi sục của một đời sống phóng đãng, chìm đắm trong sắc
dục. Nàng như vượt qua mọi rào cản về khuôn phép, là hiện thân trần trụi nhất
của đời sống tình dục:
“Khi ấy ta bốn tuổi, nhưng nhìn thấy chàng Siddhatha, ta đã quyết lớn
lên sẽ lấy chàng bằng được, lấy bằng được” [35, tr.43].
“Ta bất chợt nhận ra một điều lâu nay đắm chìm không nhận ra. Yasa là
dục vọng nhất thời của ta trên con đường tìm kiếm hoàng tử Siddhatha. Một
là miếng tạm bợ cho đỡ đói lòng. Một là kháo khát bền bỉ hằng mong đạt tới”
[35, tr.235].
“Ta làm như trong cơn ngủ mê, tay trái ta đã vòng ra sau lưng ông, ôm
ngang người ông” [35, tr.309].
Có thể nói, suốt cuộc đời Savitri chưa bao giờ ý thức được về cái khổ
của phận người, nàng đắm chìm trong dục vọng thể xác. Suốt cuộc đời nàng
theo đuổi tình yêu một cách mù quáng để cho đến cuối đời nàng chỉ đạt được
một sự mãn nguyện duy nhất và cuối cùng là được tắm cho Đức Phật khi
người đã nhập điệt. Có thể nói, đặt hình tượng nàng Savitri - nơi nhà văn thể
hiện sự sáng tạo bay bổng - đầy phóng túng bên cạnh hình tượng Đức Phật -
nhân vật huyền thoại, lịch sử, nhà văn đã đặt hai quan niệm sống, hai tư tưởng
sống song hành với nhau. Cái này làm nổi bật cái kia, mở rộng ý nghĩa cho
nhau. Phải chăng đó cũng là minh chứng cho hai luồng tư tưởng chính ở Ấn
Độ như Mác đã nói về tôn giáo nơi đây: “Tôn giáo hưởng lạc cảm quan và tôn
giáo khổ hạnh tự dày vò thân thể - tôn giáo của vũ nữ và tôn giáo của tăng lữ”
[11, tr.355].
Việc đặt các văn bản Phật giáo, các triết thuyết tu hành bên cạnh Kama
Sutra (Dục lạc kinh), tác giả đã phần nào nói lên được hai quan điểm sống của
54
người dân Ấn Độ nói trên. Một bên là tu hành, diệt dục, từ bỏ mọi tham, sân,
si... một bên là con đường dẫn đến khoái lạc, nhục cảm. Có lẽ việc lựa chọn
hai cách sống đó không chỉ là câu hỏi của văn hóa Ấn Độ mà còn là vấn đề
muôn đời của nhân loại. Tác phẩm đã cố gắng xây dựng hình tượng Đức Phật
song song với hình tượng nàng Savitri. Hai nhân vật này chính là biểu hiện
của hai tư tưởng đó. Trong suốt tác phẩm, hai quan điểm sống này vừa đan
xen, vừa tranh luận với nhau. Đức Phật kiên tâm bước về chân lý. Nàng
Savitri chìm đắm trong dục lạc nhưng cũng một lòng hướng về người mình
yêu thương.
“Ta nhớ lại một quãng đời đã qua. Nhiều truân chuyên nhưng ta không
khi nào nặng nghĩ về truân chuyên. Sau mỗi biến cố đầy uất hận và nước mắt,
ta lại chỉ cho mình một cuộc sống nhung lụa và đầy ắp lạc thú. Lạc thú đem
đến tiếng cười. Tiếng cười xóa đi đau khổ. Khổ nhiều nhưng ta không biết
khổ. Ta chỉ hướng tới đời sống dục lạc. Quên và hưởng. Càng nhiều càng tốt”
[35, tr.250].
Đó là cách nàng Savitri sống, vượt qua đau khổ bằng dục lạc. Nó cũng
như một thứ tôn giáo với những quan điểm của riêng mình. Nó hoàn toàn trái
ngược với quan niệm: “Ngay cả khi tìm được lạc thú thì liền sau đó con người
cũng mỏi mệt vì chính lạc thú ấy. Ở đó không có chỗ cho sự thỏa mãn và an
lạc thực sự... Khi ta diệt trừ được ham muốn và dục vọng thì nỗi khổ đau cũng
chấm dứt. Ta sẽ được an lạc và hạnh phúc” [35, tr.221].
Nàng Savitri trong hành trình tìm kiếm tình yêu của mình là Đức Phật
luôn coi Đạo Phật là rào cản, là kẻ thù của mình. Đạo Phật lấy đi của nàng
những người tình. Ẩn sâu trong sự căm ghét của nàng Savitri là cuộc chiến
giữa tu hành và dục lạc: “Yasa rời bỏ giáo hội đồng nghĩa với việc người ấy đã
thua ta trong một trận chiến. Ta chiến thắng. Chỉ để nói với người ấy rằng nếu
còn cơ hội, ta cũng sẽ chiếm đoạt luôn cả người ấy nữa”.
Nhưng mà những người đàn ông này, sao tâm trí họ chỉ có những triết
thuyết, sao họ chỉ ưu tư mà cuộc sống thì lại hồn nhiên, sao họ loay hoay đi
55
tìm kiếm trong khi đời sống luôn bày ra trước mắt? Họ lẩm cẩm hết rồi sao?”
[35, tr.278].
Trong tác phẩm, tác giả Hồ Anh Thái cũng không khẳng định tư tưởng
nào là chiến thắng. Ông chỉ đặt nó cạnh nhau, đối thoại với nhau cho đến cuối
cùng. Tác phẩm kết thúc, nàng Savitri vẫn là nàng. Một con người đầy khao
khát. Nàng hài lòng với thỏa nguyện là tắm cho Đức Phật, thỏa nguyện đam
mê trần thế của mình: “Thời thanh xuân, ta biết bao lần mơ được chạm vào
người chàng như thế này. Mơ được tắm cho chàng. Giờ thì ta đã được tự tay
múc nước tắm cho chàng. Lần duy nhất. Ta đã đi đến tận cùng thỏa nguyện”
[35, tr.225].
Người viết còn tìm thấy sự đối thoại ngay trong chính đạo Phật. Tín đồ
của đạo Phật liệu có cần xuất gia hay không? Tu hành, tin vào Đấng Giác Ngộ
có nhất thiết phải xuống tóc. Lời của Đức Phật với nàng Savitri trước khi
Người viên tịch đã trả lời cho điều đó:
“Người như nàng rất cần cho giáo hội: Quả thực. Những người không
phải là tín đồ nhưng luôn giữ lòng thiết tha với giáo chủ. Với giáo hội. Họ không
làm tín đồ, không vụ lợi được chứng quả nhập niết Bàn. Họ ở bên ngoài nhưng
họ trải nghiệm thế tục, họ chứng nghiệm những chân lý mà giáo chủ đúc rút ra
được... Đức tin là cái mà người ta được tự do lựa chọn. Cái này và cái khác. Nơi
này và nơi khác. Thời điểm này và thời điểm khác”. [35, tr.424-425].
Quả thực, hướng đạo không nhất thiết phải xuất gia, “Phật tại tâm” là
quan niệm từ xưa của con người. Một lòng hướng Phật, thành tâm cũng có thể
coi là người con của Phật.
Đối thoại trong tác phẩm Đức Phật, nàng Savitri và tôi cũng làm những
hệ tư tưởng, tôn giáo được sáng rõ hơn. Đó chính là sự hồi đáp đầy thú vị
giữa các quan điểm triết thuyết. Sự đối thoại ấy là do nhà văn đã đặt các văn
bản bên cạnh nhau trong một tác phẩm tạo thành mạng lưới liên kết. Ý nghĩa
tràn ra từ sự kêu gọi giữa các văn bản. Sức hấp dẫn của tác phẩm phần nhiều
có lẽ là ở đấy.
56
Tóm lại, một bề dầy văn hóa cả mấy nghìn năm của đất nước Ấn Độ,
không thể nói là trọn vẹn nhưng về cơ bản đã được hội tụ trong hơn 400 trang
sách của tác giả Hồ Anh Thái. Bằng cuộc du hành vượt thời gian, nhà văn đã
cho người đọc một cuộc đối thoại thú vị với đất nước này. Trong sự liên kết
giữa các văn bản văn hóa, chúng va chạm với nhau để giúp người đọc hiểu
được những triết lý sâu sắc, những quan niệm sống, cũng như phong tục tập
quán.
Với những trình bày trên, chúng tôi muốn cố gắng thể hiện tính đối
thoại của tác phẩm qua các yếu tố văn hóa, lịch sử và tôn giáo trong tác phẩm
Đức Phật, nàng Savitri và tôi của Hồ Anh Thái để thấy được sự kêu gọi ý
nghĩa, mở rộng góc nhìn về đối tượng theo lý thuyết liên văn bản. Có thể nói,
qua cách nhìn linh hoạt hơn về văn bản, người đọc có thể hiểu một cách sâu
sắc hơn Phật giáo nói riêng và văn hóa Ấn Độ nói chung. Từ đó tự tìm ra câu
trả lời cho những câu hỏi vĩnh hằng của loài người: Đâu là chân lí? Tôn giáo
có vai trò như thế nào trong đời sống của con người? Đau khổ và hạnh phúc?
Sự sống và cái chết... Sự đối thoại trong tiểu thuyết này cũng cho thấy nghệ
thuật tiểu thuyết đương đại ngày càng linh hoạt hơn trong cả đề tài lẫn cách
thể hiện. Điều này thể hiện rất rõ qua tác phẩm khi nó đã tái hiện lại văn hóa
Ấn Độ dưới nhiều góc nhìn: Quá khứ - hiện tại; Việt Nam - Ấn Độ, tiền kiếp -
hậu kiếp... Đặc biệt hơn tính đối thoại giờ không chỉ bó hẹp trong phạm vi tác
phẩm nữa. Người đọc cũng trở thành một nhân tố quan trọng của sáng tạo khi
mỗi người sẽ bằng vốn kinh nghiệm và tri thức của mình, tự mở rộng liên
tưởng để có những khám phá riêng, có những văn bản riêng cho chính mình.
57
Chƣơng III:
KẾT CẤU VÀ NGÔN NGỮ CỦA TIỂU THUYẾT
3.1. Kết cấu của tiểu thuyết Hồ Anh Thái
3.1.1. Một số vấn đề lí thuyết kết cấu
Kết cấu là một khái niệm khá phức tạp, không nhất thành bất biến. Khó
có thể đưa ra đáp án chính xác nhất cho câu hỏi “kết cấu là gì?” bởi xét đến
cùng, mỗi tác phẩm lại có một cách kết cấu riêng nhằm phù hợp với những tư
tưởng khác nhau và những phong cách khác nhau.
Vấn đề kết cấu của tác phẩm văn học xuất hiện từ rất lâu trong các tài liệu
nghiên cứu của các nhà lý luận cổ đại với cách hiểu kết cấu là cách sắp xếp, tổ
chức để tạo ra hình tượng nhân vật hay cốt truyện biểu hiện nhân vật đó. Nói
cách khác, kết cấu chỉ là sự tổ chức hình thức bên ngoài, kết cấu bề mặt của
tác phẩm. Ở phương Đông, các nhà lý luận Trung Quốc gọi kết cấu bằng các
thuật ngữ “bố cục” - sự sắp xếp các bộ phận, “phân bố” - sắp ra bề mặt hay
“bố trí” - sắp đặt thứ tự. Cách bắt đầu hay kết thúc một bài văn, cách chuyển
ý, thứ tự “khai, thừa, chuyển, hợp”, sắp xếp thưa, dày, liên tục hay gián đoạn,
tương đồng hay tương phản chính là những hình dung đầu tiên về kết cấu của
tác phẩm. Quan niệm này đã được tiếp thu và định hình ở Việt Nam từ cuối
thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX với tác giả Nhữ Bá Sĩ. Ông khẳng định không có
kết cấu thì không thành văn chương. Ở phương Tây, thời cổ Hy Lạp, kết cấu
được quan niệm là một thể thống nhất, hữu cơ giữa ba phần mở - thân - kết.
Những tác giả đầu tiên đặt ra vấn đề này là Platon và Aristote. Platon cho
rằng “Kết cấu của mỗi bài văn phải là một yếu tố có sức sống, có cái thân thể
vốn có của nó, có đầu, có đuôi, có phần thân, có tứ chi, có bộ phận này và bộ
phận khác, có quan hệ bộ phận và toàn thể, tất cả đều phải có vị trí của nó”
(Platon, Đối thoại, tr 150). Còn Aristote lại quan tâm đến sự thống nhất tự
nhiên giữa các phần của sự kiện trong tác phẩm “cần phải sắp xếp như thế nào
đẻ khi thay đổi hay bỏ đi một phần thì cái chỉnh thể cũng biến động theo, bởi
58
vì cái gì mà có hoặc thiếu nó cũng được thì cái đó không phải là bộ phận hữu
cơ của thể thống nhất ấy” (Aristote, Nghệ thuật thơ ca, tr 40).
Đầu thế kỉ XX, lý luận hiện đại đã xem xét kết cấu như một phương tiện
biểu hiện và biểu đạt, một phương tiện tổ chức tạo nghĩa trên cơ sở phân biệt
kết cấu với những kĩ thuật, thủ pháp riêng lẻ, thuần túy hình thức. Các nhà
nghiên cứu hình thức ở Nga những năm hai mươi của thế kỉ và ở phương Tây
hiện đại đã tìm ra cấu trúc bề sâu của văn bản nghệ thuật - tức là cái cấu trúc
có vai trò như một ngôn ngữ chi phối lời nói, từ đó chi phối văn bản và ý
nghĩa của văn bản. Một hướng đi mới được mở ra cho việc nghiên cứu kết
cấu, đó là nghiên cứu các mối liên kết ở mọi phương diện tổ chức tác phẩm,
theo sự phát hiện đời sống và suy nghĩ của nhà văn tạo thành một hệ thống
đem lại hiệu quả tư tưởng - thẩm mĩ. Sự sắp xếp, tổ chức các yếu tố thuộc về
kết cấu không phải chỉ nhằm tái hiện các sự vật mà còn nhằm làm cho sự vật
có thể biểu đạt một ý nghĩa nào đó.
Hiểu một cách chung nhất, kết cấu là phương diện cơ bản của hình thức
tác phẩm văn học, là biểu hiện của nội dung văn học, là sự tổ chức, sắp xếp
các yếu tố cũng như những mối liên hệ qua lại giữa các yếu tố cấu thành nên
tác phẩm theo những nguyên tắc nhất định.
Theo tác giả Trần Đình Sử, có ba nguyên tắc mà kết cấu phải phục tùng.
Một là, kết cấu phải phục tùng yêu cầu biểu đạt tư tưởng. Khi lựa chọn
một kết cấu nào, nhà văn bao giờ cũng nhằm nâng cao sức biểu hiện của đề
tài và chủ đề, tăng cường sức tác động nghệ thuật, phục vụ tối đa cho nhiệm
vụ nghệ thuật và tư tưởng tác phẩm.
Hai là, kết cấu phục tùng việc xây dựng hình tượng nhân vật. Xét ở bình
diện cá thể nhân vật với tính cách, số phận, ý nghĩa nhân sinh riêng, nhà văn
có thể lựa chọn một giai đoạn hay một phương diện nhất định của cuộc đời
nhân vật để tập trung miêu tả. Trong “Chí Phèo”, Nam Cao chỉ miêu tả trực
tiếp hoạt động của nhân vật trong quãng thời gian từ sau khi nhân vật đi tù về
cho đến cuộc trả thù và tự sát thảm khốc.
59
Xét ở bình diện mối quan hệ giữa các nhân vật trong hệ thống nhân vật
của tác phẩm, có thể nhận thấy sự chi phối của các mối quan hệ này đối với
kết cấu. Nếu tác phẩm khai thác hai tuyến nhân vật đối lập hoặc song song
hoặc kết hợp cả hai.
Ba là, kết cấu đạt đến sự hoàn chỉnh, thống nhất, thẩm mĩ. Đây là một
nguyên tắc quan trọng của kết cấu tác phẩm. Tuy nhiên, hoàn chỉnh, thống
nhất và thẩm mĩ không phải là mẫu số chung cho tất cả các kiểu kết cấu. Tuỳ
theo nội dung tư tưởng và cách lựa chọn các yếu tố trong đời sống hiện thực
để cấu thành tác phẩm của người nghệ sĩ mà xác định sự hoàn chỉnh hay dang
dở, thống nhất hay rời rạc, thẩm mĩ hay phi thẩm mĩ của kết cấu. Không thể
bỏ qua những kết cấu còn dang dở mà giàu khả năng khơi gợi, đồng sáng tạo
cho người đọc, những kết cấu đạt đến sự thống nhất trong rời rạc và những
kết cấu có khả năng kích thích năng lực tư duy thẩm mĩ từ những yếu tố phi
thẩm mĩ.
Tiểu thuyết hiện đại đã và đang dần dần phá vỡ những hệ hình cũ với kĩ
thuật, thủ pháp riêng, định hình những kiểu kết cấu mới, tạo ra hiệu quả thẩm
mỹ cao. Nhà phê bình Pháp Tadié cho rằng, các nhà văn hiện đại thường vận
dụng một kiểu lắp ghép (montage) quá khứ (có khi là hết sức xa xôi) và hiện
tại của nhân vật, hành động luôn luôn chuyển từ thời gian này sang thời gian
khác. Những mối liên hệ bên trong mang ý nghĩa - cảm xúc tức là liên hệ kết
cấu giữa các tình tiết truyện, có lúc lại có chức năng quan trọng hơn so với
các mối liên hệ thời gian, nhân quả của bản thân cốt truyện. Đây là kiểu “kết
cấu mở” của một tác phẩm mở, cho phép sự cắt dán, lắp ghép, bấp bênh, chưa
hoàn tất.
Nhà nghiên cứu Đặng Anh Đào trong cuốn Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết
phương Tây hiện đại có đề cập tới kiểu kết cấu dựa trên yếu tố thời gian và
kiểu kết cấu dựa trên dòng tâm tư của tiểu thuyết hiện đại cũng như mối liên
hệ giữa hai kiểu kết cấu này. Kiểu thứ nhất được triển khai theo hai hướng:
xoáy vào dòng chảy của thời gian và tăng thêm cảm giác về thời gian hiện tại.
60
Sự phá vỡ trật tự tuyến tính thông thường của thời gian sự kiện khiến quá
khứ, hiện tại và tương lai “xuất hiện cùng một lúc, không bị ngăn cách, liên
tục như một dòng chảy, đó là hiện tượng thời gian đồng hiện” hoặc “thời gian
chồng chéo lên nhau”. Kiểu thứ hai khai thác những dòng suy nghĩ, hồi ức,
thậm chí những ám ảnh bên trong của nhân vật đối với những sự kiện xảy ra
trong quá khứ và ở hiện tại. “Xuất phát của chúng vẫn là từ một điểm của hiện
tại, nên chẳng những tương lai chỉ là một thứ cảm giác của hiện tại, mà cả quá
khứ…cũng sống dậy từ một nguyên cớ của hiện tại và những cảm giác sống
động, tươi mới của hiện tại”. Đây được coi là những hình thức thủ pháp và kĩ
thuật mới mẻ làm nên diện mạo tiểu thuyết hiện đại thế giới.
Khai thác cuộc sống góc cạnh, nhiều chiều, cuộc sống như những mảnh
vỡ được lắp ghép, cắt dán, các nhà văn còn lựa chọn lối kết cấu dựa trên
những yếu tố kì ảo, giả huyền thoại hoặc mô phỏng huyền thoại. Theo nhà
nghiên cứu Phùng Văn Tửu trong bài viết “Phương thức huyền thoại trong
sáng tác văn học”, “huyền thoại là một phương thức nghệ thuật đang có xu
hướng trở thành một trong những kỹ thuật sáng tác của tiểu thuyết hiện đại”.
Huyền thoại trong tiểu thuyết hiện đại như một cấu trúc nghệ thuật đảm
nhiệm chức năng của cái biểu đạt vừa độc lập vừa khơi gợi đến cái được biểu
đạt thông qua mối liên tưởng đồng sáng tạo hết sức phong phú của người tiếp
nhận. Huyền thoại trở thành một yếu tố cấu thành nên thế giới hình tượng -
biểu tượng ở bề sâu của kết cấu. Phía sau cấu trúc bề mặt của các biến cố
được kể lại đó là cấu trúc huyền thoại. Đọc tác phẩm theo chiều ngang, ta
hiểu câu chuyện kể, đọc tác phẩm theo chiều dọc, ta tìm ra hạt nhân huyền
thoại. Trong thế giới văn bản, huyền thoại không chỉ là bộ phận được ghép
thêm vào tác phẩm mà nó là toàn bộ tác phẩm, chi phối mọi mặt của tác
phẩm. Nó có khả năng “bao quát toàn tác phẩm được xây dựng phức tạp với
nhiều nhân vật, nhiều sự kiện, nhiều bình diện khác nhau; cái biểu đạt trở
thành một sinh thể nghệ thuật độc lập thực thụ, mà mỗi người, từ hoàn cảnh
61
của riêng mình có thể tìm thấy trong đó những ý nghĩa (cái được biểu đạt)
khác nhau cũng mang tầm vóc bao quát không kém”.
Việc tìm tòi các kiểu kết cấu mới cho tiểu thuyết vẫn được tiếp tục. Nhắc
đến kết cấu tiểu thuyết hiện đại không thể không nhắc tới kiểu kết cấu “tiểu
thuyết trong tiểu thuyết”. Có hai câu chuyện tưởng chừng không tồn tại mối
liên hệ nào giữa chúng nhưng xét ở cấu trúc bề sâu của văn bản, câu chuyện
này lại là nguyên nhân hay hệ quả của câu chuyên kia. Chinatown của Thuận
khai thác khá thành công và bất ngờ lối kết cấu này. Trong Chinatown lại có
“I‟m yellow”, hai câu chuyện này lẫn lộn, chuyển hóa lẫn nhau trong một
khối đặc quánh 227 trang không chia chương, không thời gian, không không
gian cụ thể. Chinatown là cái khung vững chãi cho “I‟m yellow” tự do phát
triển bám vào đó. Chinatown bắt đầu từ khi “đồng hồ đeo tay chỉ số mười” và
kết thúc khi “đồng hồ đeo tay chỉ số mười hai” như một vòng tròn khép kín.
“I‟m yellow” bắt đầu từ trang thứ 39 của Chinatown, tạm kết ở trang thứ 49
và lại tiếp tục từ trang 125 cho đến trang 151. Hai cấu trúc, một vòng tròn
khép kín trong thời gian, diễn biến tâm lý của nhân vật chính trong Chinatown
và một góc nhọn bắt đầu từ một điểm của sự bế tắc lại kết thúc ở việc gợi mở
tương lai đến vô cùng đối với nhân vật chính trong “I‟m yellow”. Một cấu
trúc mở nằm trong một cấu trúc khép kín.
Văn học Việt Nam thời kì đổi mới, đặc biệt là ở thể loại tiểu thuyết, các
tác giả cũng tiếp thu và thể nghiệm những đặc điểm của lối kết cấu hiện đại
với tư duy hiện đại, khai thác tối đa các yếu tố cấu thành nên kết cấu bằng
những hình thức nghệ thuật độc đáo, đặc sắc, không lặp lại người khác cũng
như không lặp lại chính mình.
Bài viết “Xung quanh việc biểu hiện hiện thực trong văn xuôi nước ta từ
sau 1975 - một vài nhận xét” của tác giả Nguyễn Thị Bình có đề cập tới các
thể nghiệm hình thức, kĩ thuật trong việc xây dựng kết cấu: bút pháp kì ảo, lạ
hoá và cả bút pháp “phi hiện thực”. “Hồ Anh Thái dùng một bút pháp lẫn lộn
thực hư để trình bày những bí ẩn của đời sống tâm linh. Phạm Thị Hoài thông
62
qua bút pháp huyền thoại pha trộn trào phúng, soi thế giới vào một tấm gương
cong hay mô hình hóa toàn bộ trạng thái hiện sinh của con người, đã công
khai đi ngược lại nguyên tắc miêu tả hiện thực kiểu truyền thống. Các kĩ thuật
tự sự hiện đại thế giới đều được nhà văn này thể nghiệm: từ các-na-van hóa
đến những yếu tố quái dị, những nét vẽ lệch chuẩn, kĩ thuật dòng ý thức, kịch
hóa, kĩ thuật gián cách…” Bên cạnh đó, tác giả còn đề cập tới lối kể chuyện
khơi gợi tối đa sự liên tưởng của người đọc, lối kể chuyện phi ngã của
Nguyễn Huy Thiệp, việc sử dụng các yếu tố kì và ảo trong mạch kể của Hoà
Vang, Ma Văn Kháng, Phạm Hải Văn…Tất cả đã tạo nên tính đa dạng, linh
hoạt của kĩ thuật tự sự, giảm đi sự đơn điệu, cũ kĩ trong nghệ thuật tự sự của
văn học nước ta giai đoạn từ sau 1975.
Bài viết “Tiểu thuyết - khoảng cách giữa khát vọng và thực tế” của tác giả
Nguyễn Hòa lại phân tích không chỉ những khám phá, sáng tạo đáng trân
trọng trong nghệ thuật tiểu thuyết đương đại mà cả những hạn chế còn tồn tại.
Nhìn chung, tác giả cũng ghi nhận những cố gắng cách tân tiểu thuyết trên các
phương diện kết cấu văn bản: giọng điệu trần thuật, điểm nhìn, tình huống
truyện…ở những nhà văn có đóng góp đáng kể. Tiểu thuyết của Ma Văn
Kháng “không xây dựng theo lối truyện kể thông thường, chúng được xử lý
một cách sinh động trong tương quan chặt chẽ giữa giọng điệu trần thuật với
thời gian tâm lý, thời gian ý thức”. Nguyễn Khải lại “sử dụng khá thuần thục
thủ pháp thời gian đồng hiện, thu hẹp không gian - thời gian tiểu thuyết, ít sa
đà miêu tả chi tiết đời sống, ngôn ngữ nhân vật có xu hướng giãi bày tâm sự,
độc thoại nội tâm đến mức có trường hợp nhân vật như là nơi tác giả gửi gắm
những chiêm nghiệm được anh rút ra sau những suy tư về cuộc đời”. Tác
phẩm của Chu Lai được tổ chức theo kết cấu kịch bản có xung đột, có thắt
nút, cởi nút. Còn Tạ Duy Anh lôi cuốn người đọc bởi cách tạo tình huống đặc
biệt để triển khai ý tưởng và góc nhìn luôn lưu chuyển, nhằm tăng thêm các
điểm nhìn về số phận nhân vật. Tuy nhiên, Nguyễn Hòa cũng cho rằng “kết
cấu tiểu thuyết theo lối kịch bản dễ đẩy tới sự khiên cưỡng trong giải quyết
63
xung đột, tăng điểm nhìn nhưng chưa nắm bắt được sắc thái ngôn ngữ - tâm lý
riêng làm cho cái nhìn đa chiều xét đến cùng chỉ còn là cái nhìn một chiều.
Nhìn chung, kết cấu tiểu thuyết hiện đại đã và đang có những cách tân đầy
sáng tạo, đa dạng, chứa đựng những quan niệm mới của nhà văn hiện đại về
hiện thực, phản ánh nhiều vấn đề của cuộc sống, làm thay đổi cách tiếp nhận
của độc giả.
3.1.2. Kết cấu tiểu thuyết Đức Phật, nàng Savitri và tôi
Tiểu thuyết Đức Phật, nàng Savitri và tôi được xây dựng trên một cấu
trúc lạ với sự tích hợp của ba góc nhìn, ba người kể chuyện. Đó là: Người kể
chuyện tường minh kể về cuộc đời Đức Phật; người nghiên cứu văn hóa cổ kể
về sự gặp gỡ với nàng Savitri và nàng Savitri kể về tiền kiếp của mình. Cùng
với việc kết hợp nhiều người kể chuyện, nhà văn đã kết cấu tác phẩm của
mình thành 19 chương với 3 chương tôi, 7 chương Savitri và 9 chương Đức
Phật. Chính sự kết hợp nhiều người kể chuyện, nhiều góc nhìn và nhiều
giọng điệu như vậy trong một tác phẩm đã tạo nên cơ sở của kết cấu liên văn
bản mà chúng tôi sẽ triển khai sau đây. Nhà văn Tô Hoài khi đánh giá về tác
phẩm này cũng đã khẳng định kết cấu mới mẻ của nó: “nhà văn đã tạo ra
một lối “quay ngược sáng, tạo dấu ấn chồng chéo”… “Yếu tố văn hóa đã
tham gia vào cấu trúc truyện cổ”. Tác giả Trần Thùy Mai cũng từng đánh giá
về kết cấu của tác phẩm: “Có 3 chương tôi, 7 chương Savitri, và 9 chương
Đức Phật. Tiểu thuyết của Hồ Anh Thái được cấu thành bởi 3 phần rõ rệt,
nhưng ba phần ấy không tách lìa nhau, chúng xen lẫn vào nhau để dẫn tới
một kết thúc chung nhất. Tựa như những âm thanh của một dàn hợp tấu - ta
có thể nghe rõ âm sắc từng nốt nhạc những tất cả quyện chặt với nhau thành
một tổng thể không thể tách rời” [25].
Với sự xây dựng cuộc đời Đức Phật và nàng Savitri song song với
nhau, tác phẩm đã vượt qua kết cấu truyền thống trong văn học để tạo ra một
thế giới nghệ thuật với nhiều thời gian và không gian cùng hiện diện. Đó là
không gian thời gian cổ đại cùng thời gian không gian hiện đại qua tiền thân
64
và hậu thân của Savitri. Việc xây dựng nhân vật nàng Savitri như vậy khiến
cho tác phẩm có kết cấu như những vòng tròn đồng tâm: vòng ngoài cùng là
hành trình của tôi và nàng Savitri - hậu thân đi tìm Phật tích; vòng bên trong
là hành trình của Savitri - tiền thân, nàng công chúa bị lưu đày với tình yêu
dành cho Đức Phật; và vòng trong cùng là hành trình của Thái tử Siddhatha đi
tìm chân lý. Mặc dù vòng trong cùng về cuộc đời của Thái tử Siddhatha - Đức
Phật, được tác giả viết cô đọng nhất nhưng nó là trung tâm, là ngọn đuốc để
soi chiếu các nhân vật khác. Bên cạnh những vòng tròn đồng tâm ấy là những
câu chuyện khác bao quanh nó như những huyền thoại xưa, những câu chuyện
về kĩ nữ Usa, về Devadatta - em ruột của Đức Phật… Tất cả đều tạo thành
một mạng lưới có sự kết nối độc đáo. Đó cũng là cơ sở để hình thành một kết
cấu độc đáo: kết cấu liên văn bản
3.2. Kết cấu liên văn bản, một đặc sắc nghệ thuật của Hồ Anh Thái
3.2.1. Khái niệm liên văn bản
Liên văn bản (intertextuality) là một khái niệm thường xuyên gắn bó
với chủ nghĩa hậu hiện đại. Được“khởi nguồn” từ D.Sausurre và M.Bakhtin,
khái niệm này, lần đầu tiên, chính thức được giới thiệu bởi J. Kristeva và nó
nhanh chóng trở nên hữu dụng với khả năng nêu bật những quan niệm về tính
liên hệ trong đời sống văn hóa hiện đại.
Liên văn bản là một trong những ý tưởng trọng tâm của lí thuyết văn
học đương đại. Cái khó trong việc tiếp nhận lý thuyết này là do nội hàm của
nó quá rộng, không hề dễ hiểu rõ ràng và minh bạch. Với năng lực nghiên cứu
còn hạn chế, người viết cũng chỉ mong muốn đưa ra cách hiểu một vài khía
cạnh của khái niệm này, bởi như Graham Allen cũng từng thừa nhận trong
công trình về lý thuyết liên văn bản của mình: “Cuốn sách này không tìm
kiếm để điều chỉnh những nhầm lẫn này bằng việc đề xuất một định nghĩa
thiết yếu về thuật ngữ đó. Một dự án như thế tất phải thất bại. Cái chúng ta
được đòi hỏi là trở lại với lịch sử của thuật ngữ và để gợi nhắc bản thân chúng
65
ta về việc như thế nào và tại sao nó lại mang chính những ý nghĩa và sự áp
dụng hiện hành.” [47, tr.3]
Muốn hiểu về liên văn bản, có lẽ chúng ta cần tìm hiểu về văn bản và
các quan niệm về văn bản khi thuật ngữ liên văn bản còn chưa xuất hiện. Cho
đến nay, văn bản được dùng với nhiều phạm vi, góc độ khác nhau. Với nghĩa
thông thường, văn bản là tên gọi chỉ những tài liệu, bài viết được in ấn, lưu
hành hàng ngày trong giao tiếp (một bài báo, một công văn, một tập tài liệu,
một quyết định,…). Với nghĩa là một thuật ngữ ngôn ngữ học, văn bản là một
trong những đơn vị phức tạp, có nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau.
Tuy nhiên có thể dẫn giải theo lối một định nghĩa như sau: “1, Bản ghi bằng
chữ viết hay chữ in, một phát ngôn hoặc một thông báo ngôn từ (phân biệt với
thực hiện phát ngôn hoặc thông báo ấy bằng nói miệng); 2) Phương diện tri
giác cảm xúc của tác phẩm được biểu đạt và ghi nhận bằng kí hiệu ngôn ngữ;
3) Đơn vị nhỏ nhất tương đối (có tính thống nhất tương đối và tính độc lập
tương đối) của giao tiếp bằng ngôn từ.” [16, tr.395]
Quan niệm truyền thống về văn bản và nghiên cứu văn bản có khuynh
hướng nghiên cứu riêng lẻ văn bản như một cơ thể, một thực thể khép kín. Và
đây cũng chính là nhược điểm của Chủ nghĩa cấu trúc và kí hiệu học. Chủ
nghĩa cấu trúc nghiên cứu văn bản như một “thể” - tập hợp thống nhất - trong
ranh giới xác định. Văn bản được xem như “một hòn đảo cô độc” bị tách ra
khỏi những mối liên hệ khác bên ngoài với mong muốn của các nhà cấu trúc
rằng theo cách đó phê bình văn học sẽ trở nên khách quan hơn.
Cùng với quan niệm như vậy về văn bản, phê bình văn học trước đây coi
tác giả trở thành người “độc sáng”, là “đấng quyền năng” chi phối toàn bộ tác
phẩm của mình. Trên “hòn đảo” văn bản đó, nhà văn là một “vị chúa” sáng tạo
nên tất cả, còn người đọc với tác phẩm chỉ giữ vai trò tiếp nhận thụ động. Việc
66
tiếp cận văn bản đơn chiều như vậy làm cho ý nghĩa của tác phẩm bị hạn chế,
có phần cứng nhắc, làm mất đi nhiều giá trị hàm ẩn của nó.
Với sự xuất hiện của khái niệm liên văn bản, phê bình văn học đã được
mở ra theo một hướng mới, khả quan và linh hoạt hơn. Liên văn bản không
chỉ dừng ở ảnh hưởng của người viết đối với văn bản mà nó đặt văn bản trong
tất cả những mối quan hệ nội tại và ngoại tại.
Như đã nói ở trên, khái niệm liên văn bản được sử dụng rất phổ biến
trong những nửa cuối của thế kỉ XX với nhiều định nghĩa, nhiều cách ứng
dụng trong nhiều lĩnh vực. Nhưng có lẽ cách hiểu về liên văn bản lần đầu tiên
khi nó xuất hiện bởi J.Kristeva là rõ ràng hơn cả: “Chiều ngang (chủ thể -
người nhận) và chiều dọc (văn bản - văn cảnh) cùng hiện diện làm sáng tỏ
một thực tế quan trọng: mỗi từ (văn bản) là một giao tuyến của từ (các văn
bản) nơi mà ít nhất một từ khác (văn bản khác) có thể đọc được” [47, tr.34].
Kristeva quy cho văn bản trong giới hạn của hai trục: một trục ngang kết nối
giữa tác giả và người đọc văn bản, và một trục dọc được kết nối giữa văn bản
với các văn bản khác. Ở đây người viết xin được sơ đồ hóa quan niệm này
như sau:
Văn bản
Tác giả Văn bản Độc giả
Văn bản
Như vậy, Kristeva đã tuyên bố rằng mỗi văn bản được bắt đầu dưới
quyền lực của những cuộc đối thoại. Quan niệm về liên văn bản nhắc chúng ta
67
mỗi văn bản luôn tồn tại trong mối quan hệ với những văn bản khác, với
người đọc và tác giả. Liên văn bản thường được định nghĩa như nơi một văn
bản ám chỉ tới một văn bản khác. Nó tạo thành một chuỗi bất tận và văn bản
trở nên vô biên trong sự ám chỉ đó.
Văn bản không còn đơn độc mà ẩn sau nó là những văn bản khác được
tác giả trích dẫn sử dụng trong quá trình viết của mình một cách ý thức hay vô
thức. Và đến người đọc cũng vô thức hay ý thức sử dụng những văn bản cũ để
khám phá tác phẩm và tạo ra văn bản mới cho mình. Trong quá trình đối thoại
với văn bản, tác giả và người đọc đã đối thoại với nhau một cách gián tiếp.
Và có lẽ, nếu hiểu về liên văn bản cụ thể hơn như vậy thì sơ đồ về nó cần
được thể hiện như sau:
Văn bản
Tác giả Văn bản Người đọc
Văn bản
Có thể nói, liên văn bản đã mở ra nhiều chiều khám phá cho văn bản.
Trong mỗi mối quan hệ nó lại có khả năng tạo ra thêm một tầng ý nghĩa. Ý
nghĩa trong mỗi tác phẩm có lẽ trở nên vô hạn. Ngay cả tác giả cũng không
biết được hết tác phẩm của mình có những ý nghĩa gì. Ý nghĩa trở nên vượt ra
ngoài ảnh hưởng của tác giả và ở bên kia sự sáng tạo, hiểu biết. Văn bản trở
thành “một không gian nhiều chiều” và việc đi tìm nguồn gốc của nó là không
tưởng bởi nó là những “mảnh ghép” trong “kí ức” của nhà văn và người đọc.
68
3.2.2. Liên văn bản trong tiểu thuyết “ Đức Phật, nàng Savitri và tôi”
Như chúng ta đã biết, tính chất của liên văn bản là một chuỗi những
văn bản được liên kết. Văn bản này kêu gọi văn bản kia tạo ra những ý nghĩa
mới. Nghiên cứu liên văn bản chúng ta không thể không khảo sát các kiểu văn
bản trong mối quan hệ với nhau. Tiểu thuyết Đức Phật, nàng Savitri và tôi
của Hồ Anh Thái nhìn từ góc độ liên văn bản quả thực là một tác phẩm độc
đáo bởi nó chứa đựng rất nhiều kiểu văn bản thuộc nhiều lĩnh vực. Chỉ trong
hơn 400 trang sách những nhà văn đã hội tụ được một lượng tri thức khổng lồ
về văn hóa Ấn Độ.
3.2.2.1. Văn bản Phật sử
Tiểu thuyết Đức Phật, nàng Savitri và tôi của Hồ Anh Thái là một trong
những tác phẩm hiếm hoi viết về đạo Phật bằng Việt ngữ. Hơn nữa tác phẩm
này là do một tiến sĩ Phật học, từng nhiều năm công tác ở Ấn Độ viết nên có lẽ
văn bản đầu tiên phải kể đến ở đây chính là văn bản lịch sử và Phật giáo.
Lý thuyết về liên văn bản cho rằng nhà văn viết tác phẩm là quá trình
họ sử dụng, trích dẫn lại những văn bản trước đó một cách ý thức hoặc vô
thức. Tuy nhiên để người đọc có thể nhận ra văn bản được trích dẫn, sử dụng
một cách hữu thức hay vô thức là một vấn đề không đơn giản. Bởi ngay cả tác
giả cũng nhiều lúc không biết là mình đã trích dẫn văn bản từ đâu trong thế
giới văn chương rộng lớn này. Vì vậy, ở đây, người viết sẽ chỉ phân chia các
văn bản thành văn bản được trích dẫn trực tiếp và văn bản được trích dẫn gián
tiếp. Văn bản được sử dụng trích dẫn trực tiếp như các dòng chữ cổ khắc trên
cột đá, các câu thần chú, câu kinh Phật. Tất cả các văn bản này đã được dịch
sang tiếng Việt nhưng người viết vẫn xếp nó vào loại văn bản được sử dụng
trực tiếp bởi ý nghĩa trong quá trình dịch vẫn đảm bảo ý nghĩa vốn có.
“Đức Phật, nhà hiền triết, người của bộ tộc Thích ca, đã sản sinh ở nơi
đấy” [35, tr.23].
“Hai mươi năm sau khi lên ngôi, quốc vương Asoka, danh xưng
Devamampiya Piyadasi, đến viếng thăm nơi ra đời của Đức Phật, vị hiền triết,
69
người của bộ tộc Thích Ca. Hoàng đế truyền lệnh tạc một pho tượng bằng đá
và dựng lên một thạch trụ. Ngài miễn thuế đất làng Lumbini và giảm thuế hoa
mầu từ 1/4 theo lệ thường xuống 1/8” [35, tr.24].
“Budham Saranam gacchami
Dhammam Saranam Gacchami
Sangham Saranam Gacchami” [35, tr.405]
“Om mani padme hum” [35, tr.428]
Tuy nhiên, nếu chỉ dừng ở việc thống kê, phân loại các kiểu văn bản mà
không chỉ ra sự kêu gọi ý nghĩa của chúng thì đó chỉ là một thao tác “chết”.
Việc sử dụng lại các văn bản cổ, các câu kinh chiếm số lượng ít trong tác
phẩm. Nhưng nó cũng giữ một vai trò nhất định. Các văn bản đó không chỉ thể
hiện tri thức Phật học mà tác giả sử dụng mà còn có ý nghĩa trong việc tạo sự
hấp dẫn, mở rộng ý nghĩa cũng như ý đồ nghệ thuật của tác giả. Văn bản thứ
nhất liệt kê ở trên được tác giả trích dẫn là văn bia viết trên cột đá năm 245
trước Công Nguyên. Văn bản này về nội dung đơn thuần chỉ là kể lại chuyến
thăm của quốc vương Asoka tới nơi ra đời của Đức Phật. Tuy nhiên, nó lại là
dấu mốc trong tác phẩm đánh dấu hành trình của tác giả đi tìm về cội nguồn
đạo Phật, hành trình của nàng Savitri tìm về tiền kiếp và Đức Phật đi tìm chân
lý. Nó phục sinh một không khí cổ đại cách đây 2000 năm và kêu gọi những
văn bản lịch sử và Phật giáo khác. Từ những văn bản này, tác giả đã hồi tưởng
về quê hương Đức Phật, về nơi mà vị hoàng tử Siddhattha được sinh ra. Thậm
chí nó còn gọi cả những văn bản, những Phật tích, những giáo lý nhà Phật và cả
về cuộc đời vị hoàng đế vĩ đại nhất trong lịch sử Ấn Độ: “Đó là vị hoàng đế vĩ
đại nhất trong lịch sử Ấn Độ. Chỉ có các vị hoàng đế đạo Hồi trong toàn bộ
triều đại Moghul sau này mới sánh được với Asoka, nhưng là phải 18 thế kỉ sau
ngài” [35, tr.22].
Bên cạnh những văn bản trực tiếp, trong tác phẩm Đức Phật, nàng
Savitri và tôi, nhà văn Hồ Anh Thái còn sử dụng rất nhiều các văn bản một
cách gián tiếp bằng các hình thức khác nhau để tái hiện cuộc đời Đức Phật
70
một cách sinh động nhất. Ngay trong chương đầu của tác phẩm, tác giả đã sử
dụng câu chuyện Đức Phật dạy học trò:
“Sinh thời, Đức Phật có lần ngồi nghỉ cùng đồ đệ dưới một bóng cây vô
ưu. Người nhặt một nắm lá rụng trên mặt đất mà hỏi:
- Này các đệ tử, lá trong tay ta nhiều hơn hay lá trên cây kia nhiều hơn?
Thưa Đấng Giác Ngộ, lá trên cây nhiều hơn.
- Đúng vậy. Kiến thức như lá trên cây kia, những những điều ta nói với
các con chỉ như nắm lá trong tay này. Vì sao vậy? Vì ta chỉ nói những điều cần
thiết phải làm sao để đạt tới giải thoát mọi khổ đau, để được khai sáng, được
giác ngộ. Những điều khác thì vô vàn trên thế gian, nhưng chúng không có ích
lợi gì, không phụng sự cho mục đích của chúng ta, ta không nói” [35, tr.28-29].
Trong tác phẩm, chỉ riêng 9 chương viết về cuộc đời Đức Phật, nhà văn
Hồ Anh Thái đã sử dụng hầu hết các tích truyện về cuộc đời vị hoàng tử
Siddhattha từ khi được sinh ra, lấy vợ sinh con, tu hành và ngộ ra chân lý...
Ngay chính bản thân tác giả trong lời cảm tạ của mình cũng đã thừa nhận: “Tác
giả chịu ơn hai học giả về Phật học trong số các vị cao tăng. Nhờ sự khích lệ
bền bỉ cũng như kiến thức thu nhận được từ cuộc đàm đạo với các thầy trong
nhiều năm qua, tác giả mới càng thêm cảm hứng để viết cuốn sách này. Việc
không nêu tên các thầy ở đây cũng chứng tỏ sự giúp đỡ vô tư đó.
Tác giả chịu ơn nhiều công trình nghiên cứu của các học giả Ấn Độ và
các nước châu Âu có ngành Ấn Độ học phát triển. Trong số họ có cả những
nhà ngoại giao - chính những đồng nghiệp ngoại giao nước ngoài hiểu biết sâu
về Ấn Độ đã là nguồn động viên lớn trong quá trình thu thập và xử lý tài liệu.
Tác giả cũng khai thác nhiều nguồn tài liệu triết học và lịch sử Phật
giáo nhằm xây dựng hình ảnh một Đức Phật lịch sử, không phải là nhân vật
huyền thoại. Cả những chi tiết ít được biết, nhưng mang tính lịch sử, cũng đã
được sử dụng cho tiểu thuyết này” [35] Như vậy chúng ta có thể thấy tính
chất liên văn bản ở tác phẩm này vô cùng rõ nét.
71
3.2.2.2. Văn bản thần thoại, sử thi
Tác phẩm Đức Phật, nàng Savitri và tôi của Hồ Anh Thái là tiểu thuyết
du kí (về cuộc hành hương của nhân vật xưng Tôi), tiểu thuyết biên niên (về
Đức Phật), và bên cạnh đó còn là tiểu thuyết phong tục (về đất nước Ấn Độ).
Đây là một cách tân đáng ghi nhận của nhà văn. Bởi khi có sự đan xen, quyện
hòa giữa lịch sử và văn hóa phong tục, du kí kết cấu tác phẩm trở nên mềm
dẻo và linh hoạt hơn, cốt truyện cũng được mở rộng. Có thể nói, điều làm nên
sức hấp dẫn của cuốn tiểu thuyết này chính là những trang viết đầy say mê về
những lễ tục, văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo. Nhiều loại hình tiểu thuyết khác
nhau có mặt trong một tiểu thuyết như vậy cũng tạo nên sự đối thoại ngầm với
nhau và với người đọc. Đó cũng là một biểu hiện của sự liên kết văn bản ở
khía cạnh thể loại.
Ở đây chúng ta không chỉ bắt gặp vầng hào quang của Phật học mà còn
tìm thấy dấu ấn những pho thần thoại, sử thi của văn hóa Ấn Độ. Trong hơn
400 trang sách, tác giả đã dồn nén rất nhiều văn bản thần thoại sử thi nhằm tái
hiện không khí cổ đại và một lịch sử hào hùng của đất nước này.
Các văn bản thần thoại, sử thi được gợi lại qua tác phẩm Đức Phật,
nàng Savitri và tôi hầu hết là những văn bản được tác giả sử dụng gián tiếp.
Chủ yếu nhà văn chỉ nhắc tên hay điểm qua một cách khái quát để phục vụ
mạch truyện của mình. Chúng ta có thể thấy, để tái hiện được không gian văn
hóa cổ đại với những con người, những tín ngưỡng, phong tục, tâm linh nhà
văn phải thật sự am tường về nó. Điều này không khó với nhà văn Hồ Anh
Thái bởi ông đã sống và làm việc nhiều năm ở Ấn Độ. Tuy nhiên, sử dụng
vốn hiểu biết của mình, điều tiết nó làm sao cho hợp lý, không phá hỏng
mạch truyện là cả một vấn đề phức tạp. Đọc tác phẩm Đức Phật, nàng Savitri
và tôi, chúng ta thấy nhà văn đã xử lý rất khéo léo trong vấn đề này. Đôi khi
chỉ điểm qua nhân một tình tiết được nhắc tới, đôi khi lại được mở rộng trong
sự hồi tưởng nhưng dù thế nào thì những văn bản này vẫn được tiết chế chừng
mực. Không quá lan man nhưng đủ để cho người đọc hứng thú và hiểu biết
72
hơn về văn hóa Ấn Độ. Đối với bất kì người đọc nào, những tri thức, những
điều mới lạ trong cuốn sách chính là điều mà họ muốn tìm kiếm. Tiểu thuyết
Đức Phật, nàng Savitri và tôi là một tác phẩm mang lại nhiều thú vị như vậy.
Văn bản thần thoại trong Đức Phật, nàng Savitri và tôi phải kể đến các
vị thần trong tín ngưỡng của người Ấn Độ. Nó chỉ là những cái tên như:
“Ngọc Hoàng Indra hỡi. Thần mặt trời Surya, thần mặt trăng Soma hỡi. Con
cầu Thần Gió, con cầu Thần Mưa, con cầu Nữ thần Sông Hằng linh thiêng...”
[35, tr.32] Được nhắc tới những sức gợi của nó là cả những văn bản khổng lồ
của thần thoại Ấn Độ. Từ Tam vị nhất thể Thần sáng tạo Brahma, thần Bảo vệ
Vishnu, thần Hủy Diệt và Tái Tạo Shiva đến các vị thần như thần tình yêu
Kama, thần sông Hằng... đều được nhắc đến đi kèm với những phong tục của
người Ấn Độ như về những tràng hạt của giáo sĩ, nghi lễ thờ cúng... Chúng ta
thử đặt giả thiết nếu trong tác phẩm không có những văn bản này lồng ghép
trong những câu chuyện về cuộc đời Đức Phật, người viết giám chắc là sức
hấp dẫn của nó sẽ giảm đi đáng kể nếu không muốn nói là trở nên khô cứng.
Đọc tiểu thuyết này, cái thú vị hơn có lẽ là được phiêu lưu vào thế giới của
các vị thần, nơi trí tưởng tượng bay bổng ở một miền đất lạ lẫm và hấp dẫn.
Để làm rõ tính liên kết giữa các văn bản ở đây, người viết xin khảo sát
một ví dụ cụ thể. Trong tác phẩm của mình, nhà văn Hồ Anh Thái nhiều lần
nhắc đến Nữ thần sông Hằng: “Ganga là tên nàng. Trong tranh thờ người ta
vẽ nàng có nước da trắng, trang phục màu trắng, cưỡi trên một con cá sấu.
Nàng có bốn tay. Tay cầm bông hoa súng. Tay cầm một tràng hạt. Tay cầm
bình nước thiêng. Một bàn tay ngửa ra hướng lên trời trong tư thế bảo hộ”.
[35, tr.204]. Ít nhất khi viết đoạn văn này nhà văn phải xuất phát từ một văn
bản khác. Đó là bức tranh thờ nữ thần Ganga. Từ bức tranh này chúng ta lại
có thể dẫn đường liên kết đến câu chuyện về ông vua Sakar: “Ông vua Sakar
là một đại vương hùng mạnh. Vua có sáu vạn con trai. Cách thức mở rộng bờ
cõi của vua là làm một cái lễ tế ngựa. Chọn ra một con ngựa có những dấu
thiêng trên người. Thả cho ngựa chạy sang lãnh thổ của các tiểu vương quốc
73
láng giềng. Một đạo quân binh hùng tướng mạnh rầm rộ phi theo sau con
ngựa. Ngựa chạy đến đâu bờ cõi của đại vương mở rộng đến đó. Kẻ nào chặn
đường con ngựa sẽ bị xem là quân thù, bị tiêu diệt ngay tức khắc. Bằng cách
bành trướng như vậy, Sakar chinh phục được các nước láng giềng, vương
quốc của ông ta mở rộng nhanh như vũ bão.
Ngọc Hoàng Indra từ trên trời hoảng sợ trước sự bành trướng của vua
Sakar. Ngọc Hoàng bèn xuống tay bắt trộm con ngựa, đem giấu vào am của ẩn
sĩ Kapila. Ẩn sĩ đang nhắm mắt ngồi thiền. Sáu vạn đứa con trai của vua Sakar
theo dấu ngựa tìm đến. Chúng lấy lại được con ngựa và nói năng hỗn xược.
Lão già bẩn thỉu này đi tu còn chưa trót. Lão đã ăn cắp con ngựa thiêng của
một vương quốc hùng mạnh. Nay các huynh đệ ta phải vào phá tan am thất của
lão ra.
Ẩn sĩ mở choàng mắt, ánh mắt của ông tức khắc thiêu chúng thành tro
bụi.
Lỡ ra rồi, ẩn sĩ lại ân hận. Ông truyền rằng sáu vạn gã trai sẽ được phục
sinh nếu cầu xin nữ thần Ganga từ trên trời đưa nước xuống. Tro ấy gặp nước
thiêng sẽ cho chúng trở lại làm người. Cả một hành trình gian khó. Trong đám
cháu chắt của nhà vua có một dũng sĩ đủ thanh sạch để cầu nguyện. Thần
sáng tạo Bhama bằng lòng cho nữ thần Ganga đưa nước xuống, nhưng cảnh
báo phải nhờ thần Shiva chặn bớt một phần nước, nếu không cả thế gian sẽ
đắm chìm trong cơn đại hồng thủy. Quả nhiên, Shiva phải chìa mái tóc tết của
mình ra để chặn bớt một dòng nước từ trên trời do nữ thần Ganga đổ xuống.
Dòng sông ấy chia làm ba nhánh. Nhánh vẫn chảy trên trời tên là Mandakini.
Nhánh đổ xuống cõi âm gặp đám tro tàn, phục sinh cho sáu vạn đứa con trai,
nhánh này tên là Bhagirath, tên người chắt đã thành tâm cầu nguyện làm động
lòng nữ thần Ganga. Nhánh chảy xuống trần gian mang tên nữ thần Ganga,
sông Hằng.” [35, tr.202 - 203]
74
Văn bản kể trên lại dẫn đến sự liên kết với các thần thoại về thần
Brahma và thần Shiva. Như vậy nó tạo thành một chuỗi các liên tưởng ít nhất
là như sau:
… Indra Ganga
Vua Sakar ...
Shiva Hỏa táng, rắc tro Brahma n
Đây chỉ là chuỗi liên kết các văn bản trong sự hạn chế nhất sự liên tưởng
có thể. Nếu mở rộng sự liên tưởng thì có lẽ nó sẽ trở lên vô biên trong khả năng
kêu gọi các văn bản khác tùy thuộc vào hiểu biết của độc giả.
Nhắc tới Ấn Độ, chúng ta cũng không thể không nhắc đến hai bộ sử thi
đồ sộ là Ramayana và Mahabharata. Và chắc chắn tiểu thuyết Đức Phật,
nàng Savitri và tôi cũng không thể quên điều đó. Thậm chí hai bộ sử thi này
còn được nhắc đến nhiều lần trong tác phẩm này. Theo thống kê của người
viết thì Sử thi Mahabharata được nhắc đên bốn lần và Ramayana được nhắc
đến một lần.
Qua những phân tích kể trên, chúng ta có thể thấy được phần nào vai
trò của các văn bản thần thoại sử thi được sử dụng trong tiểu thuyết Đức Phật,
nàng Savitri và tôi. Nó không chỉ tạo nên một không khí huyền thoại cho tác
phẩm mà còn là cách để tác giả thể hiện các quan niệm sống của người Ấn Độ
từ xa xưa. Những triết lý sâu sắc về cuộc sống và con người qua các hình
tượng dân gian vừa huyền bí vừa khúc triết. Nó tạo ra ấn tượng mạnh cho
người đọc, đặc biệt là với những độc giả Việt Nam chúng ta vốn còn ít nhiều
xa lạ với nền văn minh vĩ đại này. Đồng thời sự liên kết các văn bản đó dẫn
dắt người đọc đi tìm một văn bản cho riêng mình trong vô vàn những ý nghĩa
mà nó gợi ra.
75
3.2.2.3. Văn bản phong tục
Nói đến đất nước Ấn Độ là nói đến đất nước của những lễ nghi, phong
tục. Một tác phẩm viết về đất nước này như Đức Phật, nàng Savitri và tôi
cũng không thể không đề cập đến phong tục, tập quán của con người nơi đây.
Và tất nhiên khảo sát các kiểu văn bản trong tiểu thuyết này mà không nói đến
văn bản phong tục thì sẽ là một thiếu sót lớn.
Với sự am hiểu sâu sắc về con người Ấn Độ, nhà văn Hồ Anh Thái đã
đem đến cho người đọc nhiều hiểu biết mới về phong tục của đất nước này.
Ngay từ đầu tác phẩm, chúng ta đã được tiếp cận với tục thờ Nữ Thần Đồng
Trinh: “Không một nghề nào về hưu sớm như làm Kumari. Đúng tuổi trở
thành thiếu nữ, đúng tuổi dậy thì, chính xác là đúng ngày đầu tiên có kinh
nguyệt, Nữ thần Đồng Trinh phải chấm dứt trị vì trên ngôi. Nữ thần Sống
được trở về với đời thường sau những năm tháng được sùng kính chiều
chuộng”[35, 6]. Một thế giới sống động như hiển hiện trên trang sách bằng sự
kết nối các văn bản phong tục với tác phẩm. Chúng ta bắt gặp trong tác phẩm
cả những nghi lễ cổ xưa như thanh tẩy con người bằng phân bò: “Ba tế sư phụ
lễ đồng thanh vang vang. Ôi bình yên, ôi bình yên, ôi bình yên. Họ vừa đồng
thanh vừa rẩy bơ tinh khiết vào lửa. Họ ném vào đó những nắm gạo, những
nắm bỏng ngô, những kẹo bánh, những bột màu, những hòa nhài hoa huệ hoa
hồng. Phẩm vật dâng lên cho chư thiên trên trời cao”. [35, tr.72] “Cha mẹ ơi,
đã đến phần làm thủ tục tẩy uế. Một cái bát đựng phân bò. Một bát đựng nước
giải bò. Phải là bò cái” [35, tr.73].
Những phong tục lạ lẫm của người Ấn thực sự mang lại khoái cảm
thẩm mĩ cho người đọc. Thế giới như được mở rộng ra trong sự liên kết văn
hóa. Xu hướng của thời đại làm con người hiểu nhau hơn và đặc biệt làm cho
văn học phong phú hơn rất nhiều. Các phong tục từ sinh nở đến ma chay, cưới
xin đều được tác giả đề cập đến. Nó vừa dẫn dắt câu chuyện, vừa giúp người
đọc có những kiến giải riêng cho bản thân về tác phẩm. Chẳng hạn như tục
hỏa táng vợ theo chồng chính là cái cớ để dẫn đến những năm tháng lưu lạc
76
của nàng Savitri, giúp cho mạch truyện phát triển đồng thời cho người đọc
thấy những hủ tục tàn nhẫn thời xưa: “Đạo sư thừa biết trên toàn coi bắc Ấn
chỉ có mỗi tiểu vương quốc ở phía tây này duy trì hủ tục thiêu hủy vợ theo
xác chồng. Đạo sư làm mối cho ta lấy ông vua lục tuần tức là đã làm mối cho
ta với cái chết” [35, tr.143].
Như đã khảo sát đối với các văn bản khác, giữa các văn bản luôn có ít
nhất một đường kết nối với nhau. Văn bản về phong tục cũng vậy. Nó cũng có
sự liên kết với các văn bản khác. Khi chúng ta tiếp cận với văn bản về hỏa
táng rồi rắc tro cốt xuống sống Hằng. Nó không chỉ là văn bản phong tục mà
còn gắn kết với tín ngưỡng về Nữ Thần Sông Hằng: “Thiêu một tử thi mất
nửa ngày. Tro cốt được gom vào một cái hũ sành hình cầu, được đem lên đầu
nguồn sông Hằng mà rải xuống” [35, tr.201]. Với người Ấn, sông Hằng là con
sông linh thiêng gắn với các truyền thuyết xa xưa. Họ quan niệm tất cả những
tội lỗi, hay ô uế gì khi những nước sông Hằng đều được gột rửa: “Nam nữ già
trẻ, khỏe mạnh tật nguyền, tất cả đều lặn ngụp trong dòng nước họ một đời ao
ước được đến” [35, tr.200]. Việc thờ nữ thần sông Hằng nhắc chúng ta nhớ tới
mẫu cổ. Mẫu cổ là cấp độ đầu tiên của biểu tượng. Nó là "bản tổng kết đã
được công thức hoá của khối kinh nghiệm to lớn của các thế hệ tổ tiên", "vết
tích tâm lí của vô số cảm xúc cùng một kiểu"(Jung). Khi đi vào đời sống văn
hoá, mỗi mẫu gốc có thể sản sinh những biểu tượng văn hoá khác nhau, dấu
vết của nó có thể được tìm thấy trong các thần thoại, truyền thuyết, nghi lễ,
phong tục. Cũng như Việt Nam, người Ấn Độ sinh sống ven các đồng bằng
ven sông (sông Ấn, sông Hằng) từ xa xưa. Con sông Hằng từ lâu trở thành
một biểu tượng thiêng liêng của đất nước này. Nó gắn với con người từ khi
sinh ra, lớn lên và khi trở về với cát bụi. Nhà văn Hồ Anh Thái đã qua con
sông thể hiện cảm quan về sự sống, về tâm linh, tín ngưỡng và phong tục của
con người nơi đây. Con sông cũng như dòng đời của con người, chảy trôi qua
năm tháng. Các nghi lễ rửa tội, hỏa táng rắc tro xuống sông của dân cư miền
đất này chỉ có thể giải thích bằng những vết hằn tâm lý trong tâm thức cộng
77
đồng. Chúng ta hãy xem nhà văn Hồ Anh Thái tái hiện nó ra sao: “Hàng nghìn
hàng vạn con người lội xuống bến dòng sông thiêng, vục nước vào vào giữa hai
bàn tay, chờ mặt trời mọc để dâng nước cho mặt trời”... “Đàn ông đàn bà.
Người già trẻ con. Thỏa nguyện ít nhất một lần trong đời được nhúng mình
trong nước thánh. Nghi lễ nhúng mình xóa tội. Bao nhiêu tội lỗi được gột rửa
hết qua một cái nhúng mình này” [35, tr.199] với người Ấn, con sông Hằng
chính là biểu tượng của sự nhiệm mầu vì từ ngàn xưa nó đã nuôi dưỡng con
người. Chỉ cần nước sông Hằng thì mọi ước nguyện đều thành sự thật: ai không
có con uống nước sông sẽ có con, ai bi bệnh tắm sông sẽ khỏi, dòng sông sẽ
giúp cho việc đầu thai chuyển kiếp... Đến thời hiện đại, những phong tục từ xa
xưa vẫn như một nét văn hóa, không ai biết từ bao giờ, không ai biết tại sao
nhưng ai cũng một lòng thành kính với nó.
3.2.2.4. Văn bản nghệ thuật
“Xu hướng mở rộng khái niệm “văn bản” (text) đã cho phép khái niệm
này dung nạp hầu như toàn bộ các phương thức thể hiện mà không nhất thiết
phải dựa trên phương tiện văn tự ghi ký. Theo đó, một tác phẩm hội họa điện
ảnh, hay quảng cáo đã trở thành văn bản và được “đọc” bằng nhiều phương
thức khác nhau. Khi lời tuyên bố của Roland Barthes, “Bất kì văn bản nào cũng
là liên văn bản”, đã trở nên quá phổ biến đến mức có thể “liên văn bản‟ nặc
danh, tiếp cận liên văn bản được mở rộng hầu như trên mọi lĩnh vực” [28]. Như
vậy, bất kì văn bản nào thuộc lĩnh vực gì và phương thức thể hiện thế nào cũng
có thể trở thành đối tượng nghiên cứu của liên văn bản. Đức Phật, nàng Savitri
và tôi của Hồ Anh Thái cũng xuất hiện rất nhiều những văn bản xuất phát từ
các loại hình nghệ thuật khác như vậy. Cụ thể hơn là những văn bản được liên
kết từ các loại hình kiến trúc, điêu khắc, âm nhạc... Ở đây người viết xếp chúng
vào loại văn bản nghệ thuật.
Trong tác phẩm của mình, Hồ Anh Thái đã tái hiện một không gian
kiến trúc Ấn Độ với những đền đài, thành quách, cung điện. Những văn bản
đó vốn là các loại hình nghệ thuật hình khối những trong tính liên văn bản nó
78
được chuyển dẫn thành văn bản kí tự, tức là đi vào tác phẩm Đức Phật, nàng
Savitri và tôi. Trong mối quan hệ đó, hai dạng văn bản tương tác hỗ trợ nhau
để biểu đạt ý nghĩa. Nếu có thể so sánh nó cũng gần như một đoạn quảng cáo
về phong cảnh và kiến trúc Ấn Độ. Những kí tự được chuyển hóa từ hình ảnh
giúp bổ sung và giải mã những hình khối, đường nét hoa văn: “Savitri và tôi
đứng đối diện quần tượng đặt trên đỉnh thạch trụ... Bốn con sư tử chạm lưng
vào nhau nhìn về bốn hướng... Bốn con sư tử trượng trưng cho sức mạnh,
lòng dũng cảm và đức tin, đứng trên một bánh xe chakra 24 nan để tưởng nhớ
bánh xe Chân lý của Đức Phật. Bên dưới đó, có bốn con vật được chạm khắc
xung quanh để canh bốn hướng: Sư tử ở hướng Bắc, voi ở hướng Đông, ngựa
ở hướng Nam, bò ở hướng Tây. Bốn phần của vũ trụ. Đây còn là sự tiếp tục
của huyền thoại Vệ Đà, gợi nhớ rằng kinh Rig Veda coi sư tử là vua của rừng
rậm, coi ngựa phi tốc tượng trưng cỗ xe của thần mặt trời, bò tượng trưng cỗ
xe của Ngọc Hoàng Indra. Pho tượng cũng nhắc nhở đến hình ảnh Đức Phật
thông qua Sakya Simba (sư tử của bộ tộc thích Ca), dòng dõi của Đức Phật”
[35, tr.224].
Giả sử như chỉ ngắm thạch trụ được điêu khắc trong bảo tàng Sarnath
đó, có lẽ chúng ta cũng không thể hiểu hết ý nghĩa của nó. Văn bản này giúp
cho việc giải mã các biểu tượng trong sự liên kết với hình khối thạch trụ. Nó
là mối quan hệ hai chiều bổ xung cho nhau. Hơn thế nữa, nó còn mở ra mối
liên hệ với các văn bản thuộc tín ngưỡng Phật giáo, về thần thoại với các vị
thần đã nói ở trên. Chúng không tồn tại đơn lẻ mà tạo thành một mạng lưới
móc xích lại với nhau.
Mọi kiến trúc hay điêu khắc, cũng như những loại hình nghệ thuật khác
đề thể hiện những quan niệm ý nghĩa riêng. Có điều không phải ai cũng hiểu
và phát biểu lên được: “Hỏa lò phía tây hình tròn, tượng trưng cho mặt trời,
nhờ có mặt trời mà sự sống muôn loài, cây trái và chúng sinh nảy nở được.
Hỏa lò phía đông hình vuông, tượng trưng cho mặt đất bằng phẳng vuông
79
vắn” [35, tr.68] văn bản kí tự giúp cho “hỏa lò” bộc lộ được ý nghĩa của nó
cũng như quan niệm của người Ấn Độ về thế giới xưa kia. Những văn bản
này như chiếc chìa khóa khi đặt cạnh những bức phù điêu, những công trình
kiến trúc để mở đường cho sự khám phá của chúng ta.
Trong tác phẩm Đức Phật, nàng Savitri và tôi chúng ta còn gặp văn bản
âm nhạc. Tuy chỉ xuất hiện hai lần và cùng là một khúc hát gắn với nhân vật
kĩ nữ Usa nhưng chúng ta cũng không thể không nhắc đến:
“Núi xa xa
Nước thu ba
Chàng hãy đi đi
Một lạy này xin chàng nhận
Cho một đời biệt ly” [35, tr.218; tr.404]
Thực ra, gọi là khúc ca nhưng tồn tại dưới dạng kí tự trong một tiểu
thuyết mà không có nốt nhạc thì nó cũng chẳng khác gì một bài thơ. Tuy nhiên
giữa tiểu thuyết và thơ, hai thể loại khác nhau thì có lẽ cũng là một liên kết văn
bản đáng quan tâm. Nhân vật Usa xuất hiện ở giữa tác phẩm là một kĩ nữ nổi
tiếng và giác ngộ ở gần cuối tác phẩm. Cả số phận của cô đều gắn bó với khúc
ca này. Trong tính chất liên văn bản, bài ca này chắc chắn có mối quan hệ với ý
nghĩa của tiểu thuyết, đặc biệt là nhân vật Usa. Bài ca là tâm trạng của kẻ lụy
tình, là lời của chia ly. Nó phù hợp với tâm trạng của một kĩ nữ. Người đi qua
biết bao cuộc tình mà cuộc tình nào cũng chóng vánh, tiếc nuối. Bài ca xuất
hiện lần đầu để giới thiệu về nhân vật Usa trong bể ái tình: “Nàng Usa đôi mắt
mờ đi sau màng nước. Nàng cũng lơ mơ gật đầu cảm thông” [35, tr.218] và
xuất hiện lần cuối cho sự quy y của nàng. Nhà văn tả rất ít về nhân vật này
nhưng bài ca đã nói lên được con người nàng. Có thể nói bài ca là cả cuộc đời
của nàng: “Vả lại đời bà có lẽ đã hát không biết bao nhiêu lần bài ca này” [46,
tr.404]. Mở đầu bằng ái tình kết thúc bằng ái tình như một vòng tròn khép kín
80
trước khi con người bước vào đạo. Ranh giới giữa đạo và đời phải chăng là
bước qua cái ngưỡng cửa ái tình.
Tiểu thuyết Đức Phật, nàng Savitri và tôi cũng đem đến một văn bản
khá thú vị nữa. Đó là Kama Sutra (Dục lạc kinh). Ở đây người viết xếp nó vào
loại văn bản nghệ thuật và người Ấn Độ coi tình dục là một nghệ thuật linh
thiêng. Những văn bản liên kết với Kama Sutra ấy không chỉ nói lên đời sống
phóng túng, đầy nhục cảm của nàng Savitri mà còn thể hiện cả quan niệm về
chuyện phòng the của người Ấn Độ: “Nào là rắn. Nào là ngựa. Nào là voi là
hươu, thậm chí là kiểu ong đất. Những là naga, hadavaka, hastika, harina,
bhamara. Ta làm cho nhà vua quay cuồng, nhà vua choáng váng, nhà vua
rung lắc, nhà vua vật vã tê liệt” [35, tr.118]
“Những là thắt nút. Những là chơi đu. Những là khuấy sữa. Những là
giã gạo. Là những Bandhura, prenkha, dadhyata, mausala” [35, tr.119].
“Chị ấy đã được học nhiều về nghệ thuật Kama, nghệ thuật của thần
tình yêu” [35, tr.100].
“Đền thờ của chúng ta vẫn thường chạm khắc hình trai gái giao hoan
trên khắp bề mặt đấy thôi. Những bức phù điêu tả cảnh giao hoan thường
được diễn tả tuần tự từng bước như sách giáo khoa đây thôi. Các bậc đạo sư
lại bảo: chạm khắc hình trai gái trên mặt tường bên ngoài chùa như vậy nhắc
nhở tín đồ bỏ hết lại chuyện sắc dục ở bên ngoài, trước khi vào đến trong
chùa tĩnh tâm thanh tẩy. Lại hàm ý chuyện thực hành ở nơi nào cũng được,
chỉ có một chỗ phải trừ ra, đó là đền thờ”. [35, tr.209].
Những văn bản về nghệ thuật ái tình này không chỉ liên kết với cuộc
đời nàng Savitri, công tử Yasa, Juhi... mà còn kêu gọi cả những văn bản thể
hiện phong tục đeo bao dương vật của đàn ông Ấn Độ cũng như việc người
phụ nữ phải giặt những cái bao đó: “Đấy là dụng cụ ăn chơi của các chàng.
Một khúc ruột non của bò đực. Cánh thợ thuộc da khéo léo bào cho nó mỏng
ra như lụa rồi thuộc rồi hấp rồi phơi. Cho đến khi nó mỏng dính và có độ đàn
81
hồi lớn, đến mức có thể thổi to lên như bóng bóng. Nó trở thành cái bao
dương vật cho những cuộc hoan lạc.”... “trên bề mặt cái bao, cánh thuộc da đã
vẽ công vẽ phượng vẽ hổ vẽ rắn để tăng hưng phấn cho những cuộc giao
hoan. Sau trận mây mưa đến lượt người phụ nữ phải tự tay đi giặt cái bao ấy
cho người đàn ông, trước khi bước sang một cuộc khá [35, tr.101]. Chúng ta
cũng có thể dẫn sự liên kết từ Kama Sutra đến Xuân cung đồ của Nhật Bản
hay Ngọc Phòng thuật của Trung Quốc bởi tính chất tương tự của chúng. Đây
chính là một điểm nữa của sự kết nối văn bản.
Trong mỗi mối quan hệ giữa các văn bản với nhau, nó lại làm nảy sinh
thêm ý nghĩa mới. Dục lạc kinh đặt bên cạnh Đạo Phật làm rõ hơn con đường
tu hành diệt dục, nhưng đặt bên cạnh những tín ngưỡng cổ đại nó lại là sự liên
kết với tục thờ cùng Linga va Yoni, liên kết với những điêu khắc cảnh giao
hoan trên đền đài... Có thể thấy mỗi văn bản trong tính liên kết lại mở ra
những quan niệm riêng, nhiều chiều. Một thế giới phong phú, một sự giao lưu
văn hóa đa dạng qua những liên văn bản gộp lại dường như sinh động và mềm
mại hơn.
Như vậy, có thể khẳng định, từ một hay nhiều văn bản, có thể mở ra vô
số những văn bản khác. Mỗi người đọc sẽ tại ra một văn bản theo cảm nhận
và khả năng của mình. Người đọc càng nhiều, văn bản càng phong phú. Theo
thời gian, cấp số nhân nó lên trong tính liên kết, văn bản sẽ là vô tận như nhà
văn Hồ Anh Thái cũng từng khẳng định: “Tôi tin rằng mỗi người khi đọc Đức
Phật, nàng Savitri và tôi sẽ có một văn bản của riêng mình, khác với văn bản
của những độc giả khác. Đó là một đặc điểm của việc tiếp nhận văn chương
nghệ thuật”.
3.3. Đặc sắc ngôn ngữ trong Đức Phật, nàng Savitri và tôi
3.3.1. Khái niệm ngôn ngữ nghệ thuật
Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt và quan trọng bậc nhất của
loài người, phương tiện tư duy và công cụ giao tiếp xã hội. Ngôn ngữ bao
82
gồm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết, trong thời đại hiện nay, nó là công cụ
quan trọng nhất của sự trao đổi văn hoá giữa các dân tộc. Ngôn ngữ là phương
tiện giao tiếp quan trọng nhất của xã hội, và là công cụ tư duy của con người.
Ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ gợi hình, gợi cảm được dùng trong
văn học nghệ thuật.
Ngôn ngữ nghệ thuật được sử dụng trong phạm vi giao tiếp hàng ngày,
trong các văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ khác : Chính luận, báo chí...
Ngôn ngữ nghệ thuật được chia thành ba loại chính :
- Ngôn ngữ tự sự : Truyện,tiểu thuyết,bút kí,kí sự,phóng sự...
- Ngôn ngữ thơ : Ca dao,vè,thơ...
- Ngôn ngữ sân khấu : Kịch,chèo,tuồng...
Ngôn ngữ nghệ thuật có các chức năng chính:
- Chức năng thông báo.
- Chức năng thẩm mĩ : biểu hiện cái đẹp,khơi gợi và nuôi dưỡng cảm
xúc thẩm mĩ ở người nghe,người đọc. Chức năng này làm cho ngôn ngữ nghệ
thuật khác với các ngôn ngữ khác.
Ngôn ngữ nghệ thuật lấy ngôn ngữ hàng ngày làm chất liệu.
Trong lịch sử văn học nhân loại, từ lâu tiểu thuyết đã chiếm vị trí
then chốt, là "hình thái chủ yếu của nghệ thuật ngôn từ". Những thành tựu
văn học rực rỡ của nhân loại hầu như tập trung ở thể loại tiểu thuyết. Ở
Việt Nam, tiểu thuyết tuy xuất hiện muộn hơn song vẫn được xem là một
thể loại quan trọng. Sự xuất hiện của nó đánh dấu một bước tiến trong
lịch sử văn học, tiểu thuyết nhanh chóng trở thành "món ăn tinh thần"
không thể thiếu trong đời sống văn học.
Vì tiểu thuyết là một “thể loại văn chương đang biến chuyển và
còn chưa định hình” (M. Bakhtin) nên việc nghiên cứu đặc trưng của thể
loại tiểu thuyết nói chung, đặc trưng ngôn ngữ tiểu thuyết nói riêng còn
có những khó khăn nhất định. Trên cơ sở có sự kế thừa, tích hợp có lựa
83
chọn, phát huy một số thành tựu của các nhà nghiên cứu về vấn đề này,
chúng tôi đưa ra một số đặc trưng về ngôn ngữ tiểu thuyết như sau:
Ngôn ngữ tiểu thuyết là ngôn ngữ nghệ thuật, nên ngôn ngữ tiểu
thuyết nói riêng, ngôn ngữ nghệ thuật nói chung có những điểm khác với
ngôn ngữ phi nghệ thuật. Nếu ngôn ngữ phi nghệ thuật (tức ngôn ngữ tự
nhiên) là hệ thống tín hiệu thứ nhất, thì ngôn ngữ nghệ thuật ngôn ngữ
tiểu thuyết là hệ thống tín hiệu thứ 2 được cấu thành nên từ hệ thống tín
hiệu thứ nhất. Về mặt chức năng xã hội, nếu ngôn ngữ phi nghệ thuật
đảm nhận chức năng giao tiếp, những phẩm chất thẩm mĩ nếu có thì chỉ
đóng vai trò phụ, thứ yếu, thì ở ngôn ngữ nghệ thuật, ngôn ngữ tiểu
thuyết, chức năng thẩm mĩ xuất hiện ở bình diện thứ nhất, nó đẩy chức
năng giao tiếp xuống bình diện thứ hai. Mặt khác, tính hệ thống đều có ở
ngôn ngữ phi nghệ thuật và ngôn ngữ nghệ thuật song có sự khác nhau về
chất. Tính hệ thống của một yếu tố ngôn ngữ nghệ thuật được xác định
bởi vị trí và vai trò của nó trong hệ thống các hình tượng của tác phẩm và
phong cách cá nhân tác giả. Còn đối với ngôn ngữ phi nghệ thuật, tính hệ
thống gắn với sự khu biệt xã hội đối với ngôn ngữ.
Về bình diện nghĩa, nếu ngôn ngữ phi nghệ thuật chỉ có một bình
diện nghĩa, thì ngôn ngữ nghệ thuật có hai bình diện nghĩa (một bình diện
hướng vào hệ thống ngôn ngữ văn học với ý nghĩa của các từ, của các
hình thức ngữ pháp; và mặt khác hướng vào hệ thống các hình tượng của
tác phẩm nghệ thuật). Phạm vi sử dụng phương tiện ngôn ngữ của ngôn
ngữ tiểu thuyết - nghệ thuật rộng hơn ngôn ngữ phi nghệ thuật. Đặc biệt,
ngôn ngữ nghệ thuật - tiểu thuyết là chuẩn mực hoàn thiện do quá trình
lao động bền bỉ, sáng tạo của bao nhà văn ưu tú.
Mặt khác, cũng chính do ngôn ngữ tiểu thuyết là ngôn ngữ nghệ
thuật nên ngôn ngữ tiểu thuyết cũng mang những đặc điểm chung của
ngôn ngữ nghệ thuật: tính hình tượng, tính cấu trúc, tính truyền cảm, tính
cá thể và tính cụ thể hoá.
84
Như chúng ta đã biết, ngôn ngữ tiểu thuyết thuộc ngôn ngữ tự sự
xét trong sự khu biệt với ngôn ngữ trữ tình và ngôn ngữ kịch. Do vậy,
ngôn ngữ tiểu thuyết một mặt mang những đặc điểm của ngôn ngữ thuộc
thể loại tự sự, còn có những đặc điểm khác biệt so với thể trữ tình và
kịch.
Thật vậy, ngôn ngữ của tác phẩm trữ tình là ngôn ngữ thấm đẫm
cảm xúc, là sản phẩm của sự thăng hoa cảm xúc của chủ thể sáng tạo, đó
là ngôn ngữ đánh dầu sự tồn tại của chủ thể trữ tình. Ngôn ngữ tác phẩm
trữ tình, đặc điểm là ngôn ngữ thơ giàu tính nhạc, biểu hiện ở vần, nhịp
và sự cân đối, ngôn ngữ thường đưa người đọc vào những chân lí "bí ẩn",
thâm thuý, kì ảo, giàu chất thơ của đời sống. Nếu ngôn ngữ của tác phẩm
kịch phải có tính hành động, tính khẩu ngữ, phù hợp với tính cách nhân
vật, thì ngôn ngữ trong tác phẩm tự sự lại là ngôn ngữ khách quan, yên
tĩnh. Do vậy, ngôn ngữ người trần thuật thường trầm tĩnh, nhịp điệu ngôn
ngữ tự sự thường khoan thai hơn chứ không như nhịp điệu của ngôn ngữ
hành động kịch là luôn luôn vận động tới những mục đích đã định. Ngôn
ngữ nhân vật có thể là trực tiếp hoặc có thể gián tiếp qua lời người trần
thuật, hoặc có thể thêm, tách, đan xen trong ngôn ngữ người trần thuật.
Sự khác biệt này do đặc trưng phản ánh đời sống của mỗi thể loại qui
định. Tiểu thuyết ra đời sau cũng mang trong mình nó tinh hoa về ngôn
ngữ của ngôn ngữ thuộc thể loại khác xuất hiện trước và tồn tại cùng nó.
Mặt khác, ở các thể loại khác như: truyện ngắn, truyện vừa… là những
thể loại vẫn đang phát triển cũng có sự kế thừa những mặt tích cực của
đặc trưng thể loại tiểu thuyết nói chung, ngôn ngữ tiểu thuyết nói riêng.
Với Hồ Anh Thái, “tiểu thuyết như một giấc mơ dài, gấp sách lại
người ta vừa mừng rơn như vừa thoát khỏi một cơn ác mộng, lại vừa tiếc nuối
vì phải chia tay với những điều mà đời thực không có. Nếu tôi chỉ dùng một phương pháp hiện thực thuần túy thì sẽ không có giấc mơ ấy đâu” [36].
85
Là một trong những yếu tố quan trọng trong nghệ thuật tự sự, ngôn ngữ
nghệ thuật là yếu tố cơ bản thể hiện phong cách sáng tạo của nhà văn, đồng
thời qua đó truyền đạt cái nhìn, quan điểm, giọng điệu tác phẩm và cấu trúc
tác phẩm. M.Gorki khẳng định “ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học”. Hồ
Anh Thái luôn là người say mê đi tìm sự đổi mới cho văn chương. Đối với
ông sự chau chuốt và đổi mới trong ngôn ngữ là một điều rất quan trọng. Ông
nói “nhà văn phải là người sáng tạo ngôn ngữ, phải dùng ngôn ngữ cho thật
chuẩn”. Ông luôn là người khổ công trong việc tìm tòi thể nghiệm và làm việc
hết sức nghiêm túc. Ông luôn quan niệm rằng nhà văn cần phải tạo nên cho
mình một ngôn ngữ đẹp và độc đáo, khiến độc giả có thể đọc lại tác phẩm,
mặc dù họ đã biết rõ cốt truyện.
3.3.2. Ngôn ngữ đối thoại
Ngôn ngữ trần thuật luôn bao gồm ngôn ngữ của người trần thuật và
ngôn ngữ nhân vật. Sự kết hợp thành công của Hồ Anh Thái đã giúp bạn đọc
hiểu rõ và sâu sắc hơn về tính cách và bản chất nhân vật. Đức Phật, nàng
Savitri và tôi được nhà văn cấu trúc khá độc đáo với nhiều chương truyện
luân phiên, xen kẽ, hình thành các giọng điệu trần thuật khác nhau. Các giọng
điệu có sự tương phản khác biệt nhau trong vị thế đối thoại bình đẳng, dân
chủ.
Ngôn ngữ đối thoại là thuật ngữ chỉ ngôn ngữ được vận dụng trong
giao tiếp giữa các chủ thể trong tác phẩm văn học. Đối thoại là hình thức
đối đáp, trò chuyện giữa 2 hoặc nhiều người. Mỗi lượt lời là 1 lần gạch đầu
dòng. Ngôn ngữ đối thoại góp phần bộc lộ cá tính, tâm trạng nhân vật.
Trong Đức Phật, nàng Savitri và tôi hình thức ngôn ngữ đối thoại
không được sử dụng nhiều, nếu có cũng chỉ là những cuộc đối thoại ngắn giữa
các nhân vật, thường chỉ là 4, 5 lượt lời:
“- Ta đã chọn ngươi.
- Tôi biết.
- Biết thế nào?
86
- Kumari chọn làm hướng dẫn viên du lịch cho tôi”. [35,trg.14]
Hay:
“- Ngay khi chúng ta đang ở đây, nàng có thể cho biết nàng chọn niên
đại nào? Chính xác là năm nào hoàng hậu Maya đặt chân vào khu vườn này
và hạ sinh Đức Phật?
- Năm 563 trước Công nguyên. Chắc chăn là như vậy.
- Nàng chọn niên đại mà hầu hết học giả Ấn Độ và học giả phương Tây
tán đồng hay sao?
- Có đôi khi số đông lại không đúng? [35,trg.27]
Chỉ có một cuộc đối thoại có nhiều lượt lời hơn hẳn là cuộc đối thoại
giữa vua Ajatasattu và mẹ của mình: có tới 19 lượt lời [35, trg.370-376]. Tác
giả đặc biệt thuật lại cuộc đối thoại này, lồng trong đó là lời kể của người mẹ
để cho người con biết tấm lòng của vua cha và để người con trở về với con
đường chính đạo.
Ngoài ra, giữa những lượt lời của các nhân vật trong các cuộc đối thoại
trong Đức Phật, nàng Savitri và tôi thường được đan xen với những câu chú
thích, đặc biệt là những lời độc thoại nội tâm.
“Ta lay nhẹ Raja, gọi chàng dậy. Tờ mờ đất thế này, chàng phải đi rồi.
- Đêm qua sao có lúc nàng gọi ta là Yasa?
Chàng hỏi.
Ta giật mình. Thật thế ư? Thì ra cũng có lúc ta bất cẩn.
- Đó là người đã cứu giúp chị em thiếp ở Varanasi”. [35, trg.269]
Có lẽ việc sử dụng ít lời đối thoại trong tiểu thuyết này là dụng ý của
tác giả, bởi ông muốn “dành đất” cho việc xen kẽ vào đó những lời độc thoại
nội tâm – một đặc sắc trong nghệ thuật trần thuật của tác phẩm này.
3.3.3. Ngôn ngữ độc thoại
Khác với đối thoại, ngôn ngữ độc thoại là sự biểu hiện của lời nói
trước hết hướng tới bản thân mà không tính đến phản ứng người đối
87
thoại. Độc thoại là lời của một người nào đó nói với chính mình hoặc nói với
ai đó trong tưởng tượng, nói thành lời thì phía trước có gạch đầu dòng.
Độc thoại nội tâm là lời của một người nào đó nói với chính mình hoặc
là nói với một ai đó trong tưởng tượng song không nói thành lời, không có
gạch đầu dòng.
Cũng như ngôn ngữ đối thoại, ngôn ngữ độc thoại phản ánh những
hành vi ngôn ngữ trong nhận thức nhân vật tham gia vào bố cục và sự
liên kết cốt truyện, đồng thời thực hiện chức năng liên kết cá nhân. Thông
qua lời thoại nhân vật, ta thấy được những ý nghĩa ngoài nội dung cụ thể,
trực tiếp ở lời như: thái độ đối xử, truyền thống văn hoá…
Đối thoại luôn thực hiện chức năng của ngôn ngữ người nói với
người nghe trực tiếp hiện hữu. Trong khi đó, độc thoại diễn ra mà không
có người nghe, ngôn ngữ độc thoại giao tiếp với người nói chính là bản
thân nó, đó là hình thức nói cho riêng mình nghe. Nói như vậy không có
nghĩa độc thoại không thể hiện chức năng giao tiếp. Bởi khi độc thoại, là
lúc chủ thể đang giãi bày, bộc lộc tâm sự. Đó là phương thức, là lúc nhân
vật tự giải phóng mình khỏi những vướng bận, bức xúc của tâm trạng.
Độc thoại không gì khác hơn là sự thể hiện nhu cầu giao tiếp của nhân
vật, mà trong một chừng mực nào đó, đối thoại với những quy định, ràng
buộc, không cho phép nhân vật thổ lộ, trình bày tự do, dễ dàng thể hiện
bằng độc thoại. Do vậy, những phát ngôn hướng tới mình, tự nói với
mình, tự diễn đạt những cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ, diễn biến nội tâm
đều là sự thể hiện chức năng đặc thù của độc thoại. Nhân vật độc thoại
trong một tác phẩm, một mặt để nói với bản thân về chính nó, mặt khác
ngầm hướng tới đối tượng khác, hướng sự tác động tới đối tượng khác,
hướng sự tác động tới người đọc.
Bằng cách kết hợp ngôn ngữ miêu tả, ngôn ngữ đối thoại với ngôn ngữ
độc thoại nội tâm, Hồ Anh Thái đã khám phá được đời sống tâm hồn nhân vật
ở tầng sâu hơn, đồng thời cũng tạo nên sự đa giọng cho tiểu thuyết Đức Phật,
88
nàng Savitri và tôi. Có 5 chương trong tác phẩm là giọng trần thuật của nhân
vật Tôi. Đây chính là sự đan xen giữa ngôn ngữ của người trần thuật là nhân
vật Tôi với ngôn ngữ nhân vật của công chúa Savitri. Điều này tạo nên sự
hấp dẫn và uyển chuyển cho tác phẩm. Giọng trần thuật của nhân vật Tôi đó
chính là tiếng nói của người đương thời đối thoại với lịch sử, truy tìm cội
nguồn của lịch sử. Phần dẫn chuyện bởi nhân vật Tôi gọn nhẹ, mênh mang,
đôi khi thấp thoáng cách viết dí dỏm hài hước đúng kiểu Hồ Anh Thái.
Theo chân nhân vật Tôi cùng hành hương trên đất Phật, bạn đọc lần
lượt biết đến những địa danh lưu dấu Phật tích thiêng liêng, cổ kính như:
Lumbini - nơi Phật chào đời, Sarnath - nơi Phật giảng bài kinh đầu tiên,
Kushinagar - nơi Phật tịch diệt. Tác giả còn tạo ra một trường từ vựng về
nguồn cội của đạo Phật với màu sắc trang trọng, cổ kính, thiêng liêng tạo cảm
giác Đức Phật là một con người có thật trong lịch sử và dẫn dắt người đọc
cùng nhân vật Tôi đi theo con đường mà Phật đã bước chân đi.
Độc thoại nội tâm đặc biệt hiệu quả trong việc thể hiện những suy nghĩ,
tâm trạng của nhân vật.
“Ôi trời ơi. Ôi thần ơi thánh ơi. Ta bật lên một tiếng cười đắc chí..”.[35,
trg.58]
“Sang sảng. Ngân nga. Giọng trong và đẹp quá chừng. Tiêu chuẩn hàng
đầu cho một tế sư triều đình đấy. Tìm cả vương quốc không có ai giọng đẹp
bằng ông. Lại còn cầu xin cho ta, thay lời ta cầu nguyện. Này hỡi tế sư, ta thề
sẽ có lúc chính ta sẽ làm cho ông trong sạch trở lại”. [35, trg.71]
3.3.4. Ngôn ngữ văn hóa
Những chương viết về Đức Phật mang một giọng trang nghiêm, cổ
kính. Tác giả đã chọn thủ pháp “nén” thật chặt, những chương này thường rất
ngắn, đủ với lời văn súc tích. Tất cả có 13 chương nói về Đức Phật, là lời trần
thuật của Savitri về cuộc đời Đức Phật và mối tình đơn phương của công chúa
Savitri đối với vị hoàng tử của đời mình theo chân Đức Phật trong suốt quá
trình Phật đi tìm con đường của sự giải thoát con người khỏi khổ đau. Những
89
chương về Đức Phật là lịch sử về cuộc đời thật của Phật, đồng thời cả một nền
văn hóa Ấn Độ giàu có được hiện ra trước mắt người đọc với giọng trần thuật
trang nghiêm và khá mạch lạc. Một quá khứ, một lịch sử, một nền văn hóa
khổng lồ được dẫn dắt bởi con người ở thế giới hiện tại. Một tiền kiếp đầy
huyền thoại song hành với một hiện kiếp trong xã hội văn minh.
“Savitri và tôi đang viếng thăm thành phố Raijgir. Tên cổ đại là
Rajagaha. Vương xá. Nơi đây xưa kia có nhiều đền đài thành quách của các
triều đại, kinh đô của vương quốc Magadla” [35, tr.286]
“Xuống xe, nơi đầu tiên Savitri dẫn tôi đến là cột đá Asoka” [35,
tr.20]...
“Asoka là người nhìn xa trông rộng. Ngài biết kí ức lịch sử là cái không
bền vững, sẽ có ngày người đời quên lãng rồi sinh ra nghi vấn. Hoàng đế bèn
đến tất cả thánh địa có dấu chân Phật trên đất Ấn Độ cổ đại, đến đâu ngài cho
khắc những chỉ dụ lên đá, dựng lên ở đó những trụ đá có khắc thông cáo và
mệnh lệnh của hoàng đế. Văn bia nghìn năm trên đá. Cột đá đã đổ, vùi sâu
trong đất, cả thánh địa hoang tàn bị bỏ quên nghìn năm trong rừng rậm.
Nhưng rồi cũng có ngày tất cả được khai quật, được dựng lại ở vị trí ngày
xưa” [35, tr.23].
“Thời gian cố tình xóa mờ tất cả, nhưng vẫn thua sự tính toán của con
người, thua cái tâm của con người” [35, tr.23].
“Một mình thời gian không làm nên lịch sử Hoàng đế Asoka đã cắm
vào thời gian một cái dấu mốc, gửi nó lại cho thời gian gìn giữ, nhờ người đời
sau gìn giữ, mới được như ngày hôm nay” [35, tr.25].
Có 11 chương trong cuốn tiểu thuyết viết về công chúa Savitri. Tác giả
đã mang lại cho bạn đọc không khí của một bữa tiệc hoành tráng của lịch sử
và văn hoá Ấn Độ. Tác giả thoả sức vẫy vùng với những kiến thức về đạo Bà
La Môn, về Veda, Upanishad, Ramayana, Mahabharata và cả Kama Sutra,
những cuộc chiến, những tham vọng, đố kỵ, khổ đau, tang thương… Ở những
90
chương này ngôn ngữ trần thuật tác giả chủ yếu sử dụng mang đậm chất
giọng giễu nhại, thông tục suồng sã.
Trong Đức Phật, nàng Savitri và tôi, Hồ Anh thái sử dụng nhiều những
biện pháp nghệ thuật để tạo nên sự đa dạng cho ngôn ngữ trần thuật một
trường từ vựng đặc biệt đó là trường từ vựng Phật giáo. Những từ như: thiện,
ác, chính, tà, dục vọng, lạc thú, dục lạc, cõi tục, vô minh, niết bàn, nhân quả,
hận thù, quy y, tín đồ, ngộ ra, chân lý, luân hồi, kiếp trước… với cảm quan
phật giáo. Nhất là những chương mang tựa đề Đức Phật, tác giả sử dụng
những lời văn diễn đạt trực tiếp các triết thuyết, tư tưởng đậm màu sắc phật
giáo, tạo nên một giọng điệu chiêm nghiệm triết lý thấm đẫm trong từng trang
viết. Không một lời bình luận, không một đoạn trữ tình ngoại đề, cuộc đời
Đức Phật dần được sáng tỏ qua từng trang viết. Tác giả cũng khai thác triệt để
những lợi thế mà kiểu câu đơn và ngắn để tạo nên một vẻ đẹp riêng cho cuốn
tiểu thuyết. Đây chính là một kỹ thuật tiêu biểu của lối viết hậu hiện đại mà
Hồ Anh Thái đã vận dụng khá thành công. Lối viết này tạo cho ngôn ngữ trần
thuật trong tác phẩm được giải phóng và thoải mái thể hiện những cảm nhận
về cuộc sống.
Ở đất nước Ấn Độ, hoạt động tình dục có một vai trò rất quan trọng và
có ý nghĩa trong đời sống tinh thần của họ. Có thể nói tình dục được xem là
một văn hóa ứng xử của Ấn Độ. Dù trải qua thăng trầm lịch sử, nó vẫn luôn
hiện hữu như một phần tâm thức văn hóa, hòa quyện vào trong lĩnh vực văn
học nghệ thuật. Nàng Savitri của Hồ Anh Thái là một hình tượng độc đáo
được tác giả xây dựng nên để "tháo cũi sổ lồng" ra khỏi những khuôn phép, ta
như thấy được sự đột phá bằng sự thể hiện tất cả những gì trần trụi nhất của
đời sống tình dục. Ta thấy ngay dụng ý của tác giả, thay vì kể về các sự biến
xảy ra, tác giả đã chú trọng mô tả hành động đầy nhục cảm.
"Ta nhấc từng bàn chân ông lên để xoa bóp. Cách thức này chị Juhi đã
dặn đi dặn lại ta từng bước... Xoa vuốt từng cái huyệt hưng phấn trên bàn
91
chân, tiến dần dần lên bụng chân, lên đầu gối, lên bắp đùi. Cẩn trọng, chu đáo,
chi chút. Không vội vàng. Như thể ta có cả đời để làm việc ấy... Khi những
ngón tay cùng cả hai bàn tay trườn dần lên cao đến đủ độ thì gã trai kia đã vồ
lấy Juhi ngay trước mắt ta. Không thể chờ lâu hơn được nữa. Bây giờ nhà vua
cũng vồ lấy ta... Chúng ta quấn lấy nhau vằng qua vật lại. Đó là kiểu đầu tiên.
Nagabadha. Kiểu rắn" [35; 118].
"Những kiểu cách nóng bỏng nhất chị dạy cho, ta đã khéo dụng trong
đêm tân hôn. Nào là rắn, nào là ngựa. Nào là voi là hươu, thậm chí là kiểu của
ong đất. Là những naga, hadavaka, hastika, harina..." [35; 118]. Kết quả là
nhà vua bỏ một buổi thiết triều. Đến đêm thứ hai Savitri lại làm cho nhà vua
tiếp tục quay cuồng trong cơn đê mê của dục lạc, đó là "Những động tác lao
động vui chơi của dân gian. Những là thắt nút. Những là chơi đu. Những là
khuấy sữa. Những là giã gạo. Là những bandhura, prenkha, dadhyataka..."
[35; 119]. Hóa ra lạc thú tình dục của nhân vật là kết tinh của văn hóa Ấn mà
đây đó đã được truyền lại cho đời sau như một giá trị thực thụ. Tuy nhiên cái
gì cũng có mặt trái của nó. Sự thái quá sẽ bất cập: "Dục lạc thống trị lên đời
người, lên mọi kiếp người. Nhưng dục lạc trở thành độc tôn độc diễn thì dục
lạc đi kèm tai họa" [35; 125]. Đây cũng là logic trong ứng xử văn hóa tình dục
và trở thành bài học cho muôn đời.
3.3.5. Ngôn ngữ bình dân
Trong sáng tác của Hồ Anh Thái luôn có sự tham dự của “dàn hợp
xướng” giọng điệu: hài hước có, giễu nhại có, trữ tình có và giọng triết lý
cũng nhiều. Sự hoà điệu của các giọng khác nhau tạo nên trong tác phẩm của
ông một lối kể chuyện nhiều bè, và thể hiện những cách nhìn nhận khác nhau
của nhà văn. Nét đặc sắc của ngôn ngữ trần thuật trong tiểu thuyết Đức Phật,
nàng savitri và tôi của Hồ Anh Thái chính là ở sự phối trộn hài hoà các hệ lời:
ngôn ngữ văn học, ngôn từ lịch sử, triết học, ngôn ngữ trang trọng, ngôn ngữ
dung tục suồng sã, ngôn ngữ bình dân… Thậm chí trong tác phẩm, Hồ Anh
92
Thái còn sử dụng nguyên bản những danh từ riêng, tên nhân vật và địa danh
đều không được phiên âm từ tiếng Phạn sang Việt ngữ như Siddhattha (Tất
Đạt Đa), Lumbini (Lâm Tì Ni)… Đây là ngụ ý của tác giả tôn trọng lịch sử và
muốn bạn đọc làm quen với tiếng Ấn và có cảm giác gần gũi hơn.
Ngôn ngữ bình dân trong Đức Phật, nàng savitri và tôi còn thể hiện
trong sự táo bạo khi miêu tả trần trụi văn hóa tình dục của người Ấn Độ, như
đã nói ở trên.
Như vậy, ta có thể thấy, ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết Hồ Anh
Thái là một trong những phương diện thể hiện sự nỗ lực cách tân của nhà văn
nhằm tạo ra một hướng đi mới cho ngôn ngữ tiểu thuyết. Trong Đức Phật,
nàng savitri và tôi, ta thấy nổi bật lên là sự độc đáo trong ngôn ngữ đối thoại,
ngôn ngữ độc thoại, ngôn ngữ văn hóa và ngôn ngữ bình dân. Nếu như văn
học hiện đại giai đoạn trước tự hào với những tài năng xuất sắc như Nam Cao,
Vũ Trọng Phụng... thì văn học giai đoạn này Hồ Anh Thái cũng đã chứng tỏ
được tài năng và một triển vọng không thua kém các bậc tiền bối.
93
C. KẾT LUẬN
1. Đức Phật, nàng Savitri và tôi là một tác phẩm thành công trên nhiều
phương diện. Tác phẩm thể hiện những hiểu biết sâu sắc của Hồ Anh Thái về
không gian văn hoá và con người Ấn Độ. Tiểu thuyết hấp dẫn bạn đọc bởi lối
viết mới lạ, một hệ thống tri thức phong phú sâu sắc về phật giáo, về văn hoá
và đất nước, con người Ấn Độ. Bao trùm lên tất cả, là khát vọng giải mã một
nền văn hoá được xem là bí ẩn bậc nhất của loài người. Hồ Anh Thái đã mạnh
dạn tái hiện lại cuộc đời Đức Phật bằng lối tư duy tiểu thuyết hoàn toàn mới.
Tác phẩm thể hiện sự nỗ lực của nhà văn trong việc tự làm mới mình khi đã đi
xa hơn trong việc phục hồi huyền thoại. Một trong những thành công của tác
phẩm lôi cuốn được đông đảo bạn đọc là sự mới lạ trong nghệ thuật viết của
nhà văn. Bởi ông đã được hoà mình vào không khí huyền thoại của văn hoá,
văn học Ấn Độ.
2. Hồ Anh Thái là một nhà văn luôn có ý thức trách nhiệm với ngòi bút
của mình. Ông là một điển hình cho lớp nhà văn trẻ luôn trăn trở tìm kiếm cho
mình một đường, một lối viết riêng. Đánh giá mức độ thành công của những
thể nghiệm nghệ thuật ấy hiện còn nhiều ý kiến khác nhau, song một thực tế
không thể phủ nhận là Hồ Anh Thái và một số nhà văn trẻ tài năng đã mang
đến cho tiểu thuyết Việt Nam đương đại một kiểu tư duy mới. Nhiều vấn đề
nhạy cảm, thậm chí là huý kỵ như đề tài về tôn giáo, về vĩ nhân… đã được
ông chiếm lĩnh và thể hiện bằng một phương thức nghệ thuật đầy sáng tạo. Tư
duy sử thi trong văn học một thời đã được thay bằng tư duy tiểu thuyết với
một cái nhìn cởi mở, bình đẳng và dân chủ. Sức hấp dẫn, sự mới mẻ của Đức
Phật, nàng Savitri và tôi trước hết là ở đó.
3. Qua quá trình nghiên cứu, luận văn đã góp phần làm rõ hơn tài năng
cũng như những nỗ lực cách tân tiểu thuyết của Hồ Anh Thái. Thành quả của
nhà văn đạt được là sự nỗ lực hết mình trong sáng tạo nghệ thuật. Nhà văn đã
dũng cảm đi vào những đề tài khó, những vấn đề rộng và đa văn hóa để cho
94
người đọc có những tác phẩm độc đáo, bắc thêm một “cây cầu” giao lưu dân
Vượt khỏi cái nhìn sử thi, Hồ Anh Thái có cái nhìn nghệ thuật vừa bao tộc.
quát rộng lớn, vừa năng động đa chiều, vừa có bề rộng, vừa có chiều sâu, luôn
vận động, biến đổi, có khả năng bứt phá để thể hiện cá tính sáng tạo của mình.
Nét làm nên diện mạo riêng của tiểu thuyết Hồ Anh Thái là cái nhìn hướng về
một vùng đề tài góp phần làm nên tên tuổi và bản sắc của nhà văn - nền văn
hoá Ấn Độ - cái nhìn nghệ thuật vừa thấm đẫm chất triết lí dân gian truyền
thống, vừa có chiều sâu, bề rộng của triết học Phật giáo phương Đông, một
cái nhìn luôn khao khát kiếm tìm những điều tốt đẹp ở con người.
95
THƢ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT:
1. Phạm Lan Anh (2008), Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Hồ
Anh Thái, Luận văn Thạc sĩ, ĐH Quy Nhơn.
2. Ngọc Ánh (2008). “Nhà văn Hồ Anh Thái: sáng tạo, bứt phá trên từng con
chữ”,
3. Tuệ Chân sưu tầm và biên soạn (2009), Truyện cổ tích nhà Phật, Nxb Văn
học, Hà Nội.
4. Doãn Chính (2010), Lịch sử tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
5. Nguyễn Đình Cường (1999), Ánh đạo vàng,
6. Hoàng Công Danh (2008), “Tái hiện Phật sử, đồng hiện nghệ thuật, tương
hợp đạo và đời”, Tạp chí nhà văn, 5/2008
7. Trương Đăng Dung (1998), Từ văn bản đến tác phẩm văn học, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
8. Trương Đăng Dung (2012), “Những giới hạn của cộng đồng diễn giải”,
9. Diệu Hường (2008), Một góc nhỏ văn chương Hồ Anh Thái, Văn Nghệ, số
12, ngày 22/3/2008.
10. Nguyễn Đăng Điệp (2012), “Hồ Anh Thái - người mê chơi cấu trúc”,
11. Cao Huy Đỉnh (2004), Nghiên cứu văn hóa Ấn Độ, Nxb Lao Động, trung
tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây
12. Thi Hà (2007), “Yếu tố tiền kiếp - hậu thân và kết cấu tiểu thuyết”, Hà
Nội mới.
13. Nguyễn Thị Ngọc Hà (2009), Hồ Anh Thái và nỗ lực cách tân tiểu thuyết,
Luận văn Thạc sĩ, ĐH Đà Nẵng.
14. Văn Thị Thu Hà, (2007) “Một vẻ đẹp trong suốt”, Lao động cuối tuần,
22/6/2007
96
15. Thích Nhất Hạnh (2011), Đường xưa mây trắng, Nxb Thời đại, Hà Nội.
16. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Chủ biên) (2009), Từ điển
thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
17. Ngô Thị Thu Hương (2007), Đặc điểm tiểu thuyết Hồ Anh Thái, Luận văn
Thạc sĩ, ĐH Quy Nhơn
18. Ngô Thị Thu Hương (2008), Không chỉ là cái tên,
[24/1/2008].
19. Nguyễn Thị Từ Huy (2009), Sự thật và diễn giải, NxB. Hội nhà văn, Hà
Nội.
20. Nguyễn Tham Thiện Kế (2009), Cảm theo cách của Đức Phật, nàng
Savitri và tôi, Tạp chí sông Hương, 5/10/2009.
21. Lê Minh Khuê (2007), “Nàng Savitri ngọn gió sống động”, Người đô thị,
số 5, 25/6/2007.
22. Nguyễn Kim Lan (2010), Nghệ thuật kết cấu trong một số tiểu thuyết
huyền ảo triết luận của Tạ Duy Anh, Châu Diên, Hồ Anh Thái, Luận văn Thạc
sĩ, ĐH Quy Nhơn
23. Nguyễn Danh Lam (2007), “Vững chắc trên cây cầu phưu lưu”, Tuổi trẻ
TP. HCM, 25/5/2007.
24. Phương Lựu (1995), Lý luận phê bình văn học phương Tây thế kỉ XX,
NXB Văn học, Hà Nội.
25. Trần Thùy Mai, (2007), “Trong hoa sen có ngọc”, Hà Nội mới, 3/6/2007.
26. Võ Anh Minh (2007), “Chiêm nghiệm theo con lắc thời gian”, Văn hóa
Phật giáo, số 36, 1/7/2007.
27. Nguyễn Minh (2008), “Lấy sự ôn hòa mà đáp lại”, Tạp chí Văn hóa Phật
giáo, số 51, 2/2008.
28. Nguyễn Nam (2012), “Điểm qua mấy hướng tiếp cận liên văn bản ngoài
nước”,
97
29. Hồ Anh Thái, Hồ Anh Thái… và 3 trong 1, Nguồn Thể thao và Văn hoá,
28/10/2005.
30. Hồ Anh Thái (2007), Mười lẻ một đêm, Nxb Đà Nẵng.
31. Hồ Anh Thái (2006), Mảnh vỡ của đàn ông, Nxb Đà Nẵng.
32. Hồ Anh Thái (2005), Người và xe chạy dưới ánh trăng, Nxb Hội Nhà văn,
Hà Nội.
33. Hồ Anh Thái (2005), Người đàn bà trên đảo – Trong sương hồng hiện ra,
Nxb Phụ nữ, Hà Nội
34. Hồ Anh Thái (2005), Tự sự 265 ngày, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
35. Hồ Anh Thái (2007), Đức Phật, nàng Savitri và tôi, Nxb Đà Nẵng và
công ty Văn hóa Phương Nam.
36. Hồ Anh Thái (2004), Cõi người rung chuông tận thế, Nxb Đà Nẵng.
37. Hồ Anh Thái (2008), Namaskar!Xin chào Ấn Độ, NXb Văn Nghệ, Hà
Nội.
38. Trần Ngọc Thêm (2007), Lời ngỏ,< vanhoahoc.com>,[27/01/2007]
39. Hòa thượng Thích Chơn Thiện (2007), “Diễn giải vô mình bằng tiểu
thuyết”, Tạp chí Tia sáng, 20/6/2007
40. Đỗ Lai Thúy (1999), Từ cái nhìn văn hóa, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
41. Đỗ Lai Thuý (2006), “Mối quan hệ văn hoá - văn học nhìn từ lí thuyết hệ
thống”,
42. Hoàng Thu Thủy (2011), Điểm nhìn trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái, Luận
văn thạc sĩ, ĐH Đà Nẵng.
43. Phạm Xuân Thạch (2007), Hồ Anh Thái có “sợ” giải thiêng,
44. Nguyễn Hữu Tâm (2006), Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Hồ Anh
Thái, Lv Thạc sĩ, ĐH Sư phạm Hà Nội.
45. Văn học 12, phần lí luận văn học (1992), tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
46. Hoàng Thị Xuân (2008) - Hồ Anh Thái và những nỗ lực cách tân trong
tiểu thuyết, Luận văn Thạc sĩ.
98
TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG NƢỚC NGOÀI:
47. Graham Allen, Intertextuality (Nguyễn Văn Thuần dịch), tài liệu đánh máy.
48. I.P Ilin và E.A Tzurgannova (2003), Các khái niệm và thuật ngữ của các
trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỷ 20, Nxb. ĐHQG.
Hà Nội.
49. Iu.M. Lotman, “Kí hiệu học văn hóa và khái niệm văn bản” (Lã Nguyên
dịch),
50. Jean Chevalier, Alain Gheerbrant(1969),Từ điển biểu tượng văn hoá thế
giới (bản dịch tiếng Việt của NXB Đà Nẵng, Trường viết văn Nguyễn Du)
51. Lucie Guillemette và Josiane Cossette (2011), “Giải cấu trúc và khái niệm
trì biệt” (Nguyễn Duy Bình dịch), http://www.bichkhe.org/home.php,
52. M. Bakhtin (2003), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư dịch),
Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
53. M. Bakhtin (1993), Những vấn đề thi pháp tiểu thuyết Doxtoiepxki, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
54. Michel Foucault (2012), “Thế nào là tác giả” (Nguyễn Phương Ngọc
dịch),
55. R. Barthes (1997), Độ không của lối viết (Nguyên Ngọc dịch), Nxb Hội
nhà văn, Hà Nội.
56. Umberto Eco (2004), Đi tìm sự thật biết cười, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
57. Vincent Kaufmann, Jonathan Culler: “Giải cấu trúc chống lại các dự định
lý thuyết có hệ thống” (Cao Việt Dũng dịch), lyluanvanhoc.com
trái tim Việt Nam”,
58. Wayne Karlin, “ Điều kì diệu về
99