ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
LÊ HỒNG
HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÂN BỔ, SỬ DỤNG NGÂN SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA CÁC CƠ QUAN TRUNG ƢƠNG VÀ ĐỊA PHƢƠNG Ở VIỆT NAM (Nghiên cứu trƣờng hợp phần ngân sách nhà nƣớc)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHU ÊN NGÀNH CH NH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
MÃ SỐ: 60.34.70
Hà Nội - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
LÊ HỒNG
HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÂN BỔ, SỬ DỤNG NGÂN SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA CÁC CƠ QUAN TRUNG ƢƠNG VÀ ĐỊA PHƢƠNG Ở VIỆT NAM (Nghiên cứu trƣờng hợp phần ngân sách nhà nƣớc)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHU ÊN NGÀNH CH NH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
MÃ SỐ: 60.34.70
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Tạ Doãn Trịnh
Chủ tịch Hội đồng Giáo viên hƣớng dẫn
PGS.TS. Mai Hà TS. Tạ Doãn Trịnh
2
Hà Nội - 2015
LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành luận văn này, tác giả xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn khoa
học của TS. Tạ Doãn Trịnh, Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách Khoa học
và Công nghệ, đã giúp đỡ tận tình về phương pháp, tài liệu và kinh nghiệm nghiên
cứu. Thầy đã trực tiếp hướng dẫn chỉ bảo cho tôi, đã cho tôi những định hướng
nghiên cứu, những kiến thức chuyên môn và hơn hết là truyền cho tôi tinh thần tự
giác trong học tập nghiên cứu và lòng đam mê khoa học. Tôi xin bày tỏ lòng biết
ơn sâu sắc về sự giúp đỡ quý báu của Thầy.
Tác giả cũng xin cảm ơn Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi
trường của Quốc hội, Lãnh đạo và các đồng nghiệp thuộc Vụ Khoa học, Công
nghệ và Môi trường - Văn phòng Quốc hội, gia đình và các bạn Lớp Cao học đã
động viên và tạo điều kiện thuận lợi nhất để tôi học tập, nghiên cứu và hoàn thành
Luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc, chân thành về tất cả sự giúp đỡ này.
3
Lê Hồng
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN .......................................................................................................................... 1
DANH MỤC CÁC VIẾT TẮT ............................................................................................... 6
DANH MỤC CÁC HÌNH ....................................................................................................... 7
DANH MỤC CÁC BẢNG ...................................................................................................... 8
PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 9
CHƢƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÂN BỔ NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC CHO KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ .......................................................................................... 13
1.1. Cơ sở lý luận và đặc điểm hoạt động khoa học và công nghệ ................................ 13 1.1.1. Một số khái niệm về khoa học và công nghệ ........................................................ 13 1.1.2. Đặc điểm của hoạt động khoa học và công nghệ .................................................. 14
1.2. Cơ sở lý luận về đầu tƣ tài chính hoạt động khoa học và công nghệ .................... 15 1.2.1. Khái niệm về ngân sách nhà nước ......................................................................... 15 1.2.2. Đặc điểm đầu tư tài chính cho khoa học và công nghệ ......................................... 17
1.3. Tổng quan về phân bổ, sử dụng ngân sách nhà nƣớc ............................................. 19 1.3.1. Dự toán ngân sách nhà nước và yêu cầu lập dự toán ngân sách trung ương ......... 19 1.3.2. Dự toán ngân sách nhà nước và yêu cầu lập dự toán ngân sách địa phương ........ 25
Tiểu kết Chƣơng I ............................................................................................................. 33
CHƢƠNG II THỰC TRẠNG PHÂN BỔ NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC CHO KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRONG GIAI ĐOẠN 2006-2013 .............................................. 34
2.1. Thực trạng phân bổ, sử dụng ngân sách nhà nƣớc cho khoa học và công nghệ của cơ quan trung ƣơng ........................................................................................................... 34 2.1.1. Sử dụng ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ .................................... 34 2.1.2. Đối tượng được sử dụng ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ .......... 35 2.1.3. Đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ ....................... 39 2.1.4. Phân bổ ngân sách nhà nước ................................................................................. 42 2.1.5. Đề tài, dự án do các bộ, ngành thực hiện .............................................................. 43 2.1.6. Về thực hiện đầu tư cho khoa học và công nghệ trong các doanh nghiệp (Tập đoàn, Tổng công ty) của Nhà nước ................................................................................. 47 2.1.7. Kinh phí ngân sách nhà nước cấp cho các Quỹ quốc gia trong lĩnh vực khoa học và công nghệ .................................................................................................................... 49 2.1.8. Hoạt động các phòng thí nghiệm trọng điểm ........................................................ 49 2.1.9. Hoạt động các khu công nghệ cao ......................................................................... 51 2.1.10. Tồn tại và hạn chế trong phân bổ ngân sách ....................................................... 52
2.2. Thực trạng phân bổ, sử dụng ngân sách nhà nƣớc cho khoa học và công nghệ của địa phƣơng ......................................................................................................................... 54 2.2.1. Về các tổ chức hoạt động khoa học và công nghệ ................................................ 54 2.2.2. Việc sử dụng ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ ............................ 55
2.3. Đánh giá việc phân bổ, sử dụng ngân sách nhà nƣớc cho khoa học và công nghệ của các cơ quan trung ƣơng, địa phƣơng ........................................................................ 56 2.3.1. Nhận xét chung tình hình sử dụng ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ ................................................................................................................................. 56
4
2.3.2. Những mặt được .................................................................................................... 58 2.3.3. Một số hạn chế, tồn tại .......................................................................................... 59 2.3.4. Những khó khăn vướng mắc trong công tác xây dựng kế hoạch và quản lý nguồn vốn đầu tư cho hoạt động khoa học và công nghệ .......................................................... 66
Tiểu kết Chƣơng II ............................................................................................................ 69
CHƢƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÂN BỔ NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC CHO KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ............................................. 70
3.1. Quan điểm, mục tiêu, định hƣớng nhiệm vụ phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011-2020 ........................................................................................................... 70
3.2. Kinh nghiệm quản lý, sử dụng ngân sách nhà nƣớc cho khoa học và công nghệ ở một số nƣớc ........................................................................................................................ 73 3.2.1. Kinh nghiệm ở Mỹ ................................................................................................ 73 3.2.2. Kinh nghiệm ở Cộng hòa Liên bang Đức ............................................................. 76 3.2.3. Quản lý hoạt động khoa học và công nghệ của Úc và New Zealand .................... 76 3.2.4. Chi nghiên cứu và phát triển theo nguồn cấp kinh phí và khu vực thực hiện ....... 81
3.3. Giải pháp về phân bổ, sử dụng ngân sách nhà nƣớc cho khoa học và công nghệ 84 3.3.1. Giải pháp tăng nguồn ngân sách nhà nước và đổi mới phân bổ ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ ............................................................................................. 84 3.3.2. Đổi mới cơ chế phân bổ và sử dụng ngân sách nhà nước phát triển khoa học và công nghệ......................................................................................................................... 85 3.3.3. Điều chỉnh cơ cấu chi giữa chi đầu tư phát triển khoa học và công nghệ và chi sự nghiệp khoa học và công nghệ từ khối trung ương và địa phương ................................. 87 3.3.4. Đẩy mạnh việc đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với đơn vị sự nghiệp khoa học công lập ..................................................................................................................... 87 3.3.5. Hoàn thiện hệ thống các quỹ phát triển khoa học và công nghệ ........................... 88 3.3.6. Ưu tiên kinh phí dành cho nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia .......... 89 3.3.7. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về vai trò nền tảng, động lực, giải pháp đột phá để phát triển kinh tế - xã hội của khoa học và công nghệ............ 89 3.3.8. Công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình việc sử dụng ngân sách nhà nước trong lĩnh vực khoa học và công nghệ............................................................................. 90 3.3.9. Củng cố, tăng cường tiềm lực và phát triển các tổ chức khoa học và công nghệ . 90 3.3.10. Các giải pháp có liên quan khác .......................................................................... 91
3.4. Giải pháp giám sát việc phân bổ, sử dụng ngân sách nhà nƣớc cho khoa học và công nghệ ............................................................................................................................ 92 3.4.1. Về cơ quan giám sát phân bổ, sử dụng nguồn lực ................................................. 92 3.4.2. Về phân bổ nguồn lực............................................................................................ 92
Tiểu kết Chƣơng III .......................................................................................................... 94
KẾT LUẬN ............................................................................................................................ 95
KHU ẾN NGHỊ.................................................................................................................... 96
1. Đối với Quốc hội ............................................................................................................ 96
2. Đối với Chính phủ ......................................................................................................... 96
3. Đối với các bộ, ngành .................................................................................................... 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 98
5
DANH MỤC CÁC VIẾT TẮT
Khoa học và Công nghệ KH&CN
Nghiên cứu và phát triển NC&PT
Ngân sách nhà nước NSNN
Ngân sách trung ương NSTƯ
Ngân sách địa phương NSĐP
Hội đồng nhân dân HĐND
Ủy ban nhân dân UBND
Phòng thí nghiệm trọng điểm PTNTĐ
Tổng sản phẩm quốc nội GDP
UBTVQH Ủy ban thường vụ Quốc hội
UBKH,CN&MT Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường
UBTCNS Ủy ban Tài chính, ngân sách
TC Tài chính
KH&ĐT Kế hoạch và Đầu tư
ĐTPT Đầu tư phát triển
6
SNKH Sự nghiệp khoa học
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1. Quy trình xây dựng kế hoạch KH&CN ................................................... 27
Hình 2.1. Ngân sách nhà nước đầu tư cho khoa học và công nghệ trong giai đoạn
từ 2006-2013 ........................................................................................................... 41
7
Hình 2.2. Phân bổ NSNN cho KH&CN bình quân trong giai đoạn 2006-2013 .... 43
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Tóm tắt quá trình R&D (nghiên cứu và triển khai) ................................ 14
Bảng 2.1. Tổng hợp tình hình phân bổ ngân sách KH&CN giai đoạn 2006-2013 39
Bảng 2.2. Cơ cấu chi cho KH&CN từ NSTU và NSĐP ......................................... 40
Bảng 2.3. Cơ cấu chi cho KH&CN giữa ĐTPT và SNKH ..................................... 40
Bảng 2.4. Cơ cấu chi đầu tư phát triển .................................................................... 40
Bảng 2.5. Cơ cấu chi sự nghiệp khoa học ............................................................... 41
Bảng 2.6. Cơ cấu chi của nhiệm vụ cấp nhà nước (tỷ đồng) .................................. 44
Bảng 2.7. Đề tài/dự án do một số bộ, ngành thực hiện năm 2011 .......................... 45
Bảng 3.1. Chi cho nghiên cứu và phát triển của một số nước/nền kinh tế theo
nguồn cấp và khu vực thực hiện năm 2011 ............................................................. 82
Bảng 3.2. Tỷ lệ chi cho NC&PT quốc gia theo khu vực thực hiện của một số nước
8
ASEAN và Việt Nam .............................................................................................. 83
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Khoa học và công nghệ (KH&CN) được Đảng và Nhà nước ta coi là quốc
sách hàng đầu và đã có nhiều văn kiện quan trọng của Đảng được ban hành định
hướng cho phát triển khoa học và công nghệ ở nước ta như: Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 2 khoá VIII ngày 24 tháng 12 năm 1996 của Ban chấp hành trung
ương Đảng về định hướng chiến lược phát triển KH&CN trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000; Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung phát triển năm 2011);
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành trung ương Đảng khóa XI tháng 11
năm 2012 về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa
và hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế. Trên cơ sở đó, các văn bản pháp luật được ban hành tạo hành
lang pháp lý cho hoạt động KH&CN nước ta phát triển như: Hiến pháp 2001, Luật
KH&CN, Chiến lược phát triển KH&CN giai đoạn 2011-2020; Luật chuyển giao
công nghệ, Luật công nghệ cao, Luật sử hữu trí tuệ, Luật đầu tư, Luật Ngân sách
nhà nước và mới đây là Hiến pháp năm 2013 và Luật khoa học và công nghệ được
sửa đổi năm 2013.
Chính vì vậy, hoạt động KH&CN trong những năm qua đã có những bước
chuyển biến, đạt được một số tiến bộ và kết quả nhất định, đóng góp đáng kể cho
tăng trưởng kinh tế - xã hội, quốc phòng và an ninh, tạo ra nhiều sản phẩm hàng
hóa, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Kinh nghiệm của nhiều nước
đã và đang phát triển cho thấy đầu tư cho KH&CN là con đường ngắn nhất và hiệu
quả nhất cho phát triển của mỗi quốc gia. Mặt khác phát triển KH&CN nhằm mục
tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế trí thức,
vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới. Theo đánh giá của một số chuyên gia,
KH&CN đã đóng góp từ 10-30% giá trị gia tăng của sản phẩm. Do vậy, việc đầu tư
cho KH&CN trở nên hết sức quan trọng.
9
Ở nước ta, NSNN đầu tư cho KH&CN mỗi năm ở mức 2% NSNN. Tuy
nhiên, việc đầu tư NSNN cho KH&CN trong thời gian qua còn bộc lộ nhiều bất
cập như còn dàn trải, không tập trung; thiếu những nghiên cứu mang tính đột phá
trong sản xuất; tính ứng dụng của các nghiên cứu còn thấp hiệu quả chưa cao… Do
đó, việc lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện cơ chế phân bổ, sử dụng ngân sách khoa học
và công nghệ của các cơ quan trung ương và địa phương ở Việt Nam” là cần thiết
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN cho KH&CN, để KH&CN đóng góp thiết
thực cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trên cơ sở thực hiện luận văn này, người viết thực hiện nghiên cứu chính
sách, pháp luật của Việt Nam về đầu tư cho KH&CN và phân bổ NSNN cho
KH&CN nói chung, kinh nghiệm của thế giới; điều tra, phân tích và qua đó nêu
một số kiến nghị cho việc hoàn thiện cơ chế phân bổ, sử dụng NSNN cho khoa
học, công nghệ của các cơ quan trung ương và địa phương ở Việt Nam.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Vấn đề nghiên cứu về phân bổ, sử dụng ngân sách KH&CN của các cơ quan
trung ương và địa phương ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu liên
quan như:
- Đề tài cấp bộ năm 2008-2009 của Chủ nhiệm đề tài Đặng Duy Thịnh về
“Nghiên cứu đổi mới, cơ chế, chính sách tài chính của Nhà nước đối với hoạt động
KH&CN và hoạt động đổi mới công nghệ”;
- Luận án Tiến sỹ quản lý hành chính công của Lê Toàn Thắng về “Phân cấp
quản lý ngân sách nhà nước ở Việt Nam hiện nay”;
- Luận văn thạc sỹ quản trị kinh doanh của Bùi Mạnh Cường về “Hoàn thiện
công tác phân bổ ngân sách nhà nước tại tỉnh Quảng Bình”.
Tuy nhiên, các nghiên cứu này mới chỉ đề cập đến tài chính của Nhà nước
nói chung, hoặc việc phân bổ NSNN trong phạm vi địa phương nên chưa thấy
được tính tổng thể của việc đầu tư, phân bổ, sử dụng NSNN cho KH&CN trong
phạm vi rộng để có kiến nghị điều chỉnh ở tầm vĩ mô, phục vụ cho việc xây dựng
10
văn bản quy phạm pháp luật cho việc phân bổ, sử dụng NSNN cho KH&CN. Do
vậy, trong phạm vi luận văn này, luận văn sẽ nghiên cứu về phân bổ, sử dụng
NSNN cho KH&CN của các cơ quan trung ương và địa phương ở Việt Nam; đề
xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế phân bổ, sử dụng ngân sách
KH&CN.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện cơ chế phân bổ, sử dụng ngân sách
nhà nước cho KH&CN ở Việt Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi một luận văn cao học, với khả năng cho phép, tác giả tập trung
nghiên cứu về việc phân bổ, sử dụng NSNN cho KH&CN của một số cơ quan ở
trung ương và địa phương ở Việt Nam trong thời gian từ 2006-2013.
5. Mẫu khảo sát
- Các báo cáo của một số các cơ quan trung ương, địa phương có sử dụng
NSNN.
- Các báo cáo giám sát của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường
của Quốc hội có liên quan đến nội dung nghiên cứu.
6. Câu hỏi nghiên cứu
- Giải pháp nào cho việc hoàn thiện cơ chế phân bổ, sử dụng ngân sách
KH&CN ở Việt Nam?
7. Giả thuyết nghiên cứu
- Đưa ra một số giải pháp góp phần hoàn thiện cơ chế phân bổ, sử dụng ngân
sách nhà nước của các cơ quan trung ương, địa phương cho KH&CN trong tình
hình hiện nay trên cơ sở bổ sung định mức phân bổ chi sự nghiệp khoa học; sửa
đổi bổ sung các tiêu chí cụ thể để xác định nhiệm vụ KH&CN có sử dụng ngân
sách nhà nước; hoàn thiện cơ chế giám sát của các cơ quan của Quốc hội trong
việc thực hiện các nhiệm vụ KH&CN tại các Bộ, ngành.
11
- Đổi mới cơ chế phân bổ, sử dụng ngân sách khoa học và công nghệ của các
cơ quan trung ương và địa phương ở Việt Nam.
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tìm kiếm, thu thập một số tài liệu về:
Các vấn đề lý luận về khoa học và công nghệ, ngân sách nhà nước, giám sát; chủ
trương, chính sách liên quan nội dung nghiên cứu; kết quả các chuyên đề nghiên
cứu, luận văn thạc sỹ, tiến sỹ công bố trên mạng internet, thư viện.
- Phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích số liệu về dự toán phân bổ và
quyết toán ngân sách hằng năm cho lĩnh vực khoa học và công nghệ của cơ quan
trung ương, địa phương.
- Phương pháp dự báo.
9. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục và các
biểu số liệu, nội dung của Luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về việc phân bổ ngân sách nhà nước cho khoa học
và công nghệ
Chương 2. Thực trạng phân bổ ngân sách nhà nước cho khoa học và công
nghệ trong giai đoạn 2006-2013
Chương 3. Một số giải pháp hoàn thiện cơ chế phân bổ ngân sách nhà nước
12
cho khoa học và công nghệ
CHƢƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÂN BỔ NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC CHO KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
1.1. Cơ sở lý luận và đặc điểm hoạt động khoa học và công nghệ
1.1.1. Một số khái niệm về khoa học và công nghệ - Hoạt động KH&CN1 là hoạt động nghiên cứu khoa học, nghiên cứu và
triển khai thực nghiệm, phát triển công nghệ, ứng dụng công nghệ, dịch vụ
KH&CN, phát huy sáng kiến và hoạt động sáng tạo khác nhằm phát triển KH&CN. - Nghiên cứu khoa học1 là hoạt động khám phá, phát hiện, tìm hiểu bản chất,
quy luật của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy; sáng tạo giải pháp nhằm
ứng dụng vào thực tiễn.
- Nghiên cứu cơ bản1 là hoạt động nghiên cứu nhằm khám phá bản chất, quy
luật của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy.
- Nghiên cứu ứng dụng1 là hoạt động nghiên cứu vận dụng kết quả nghiên
cứu khoa học nhằm tạo ra công nghệ mới, đổi mới công nghệ phục vụ lợi ích của
con người và xã hội.
- Triển khai thực nghiệm1 là hoạt động ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa
học và phát triển công nghệ để tạo ra sản phẩm công nghệ mới ở dạng mẫu.
- Sản xuất thử nghiệm1 là hoạt động ứng dụng kết quả triển khai thực
nghiệm để sản xuất thử nhằm hoàn thiện công nghệ mới, sản phẩm mới trước khi
đưa vào sản xuất và đời sống.
- Dịch vụ KH&CN1 là hoạt động phục vụ, hỗ trợ kỹ thuật cho việc nghiên
cứu khoa học và phát triển công nghệ; hoạt động liên quan đến sở hữu trí tuệ,
chuyển giao công nghệ, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, đo lường, chất lượng sản
phẩm, hàng hóa, an toàn bức xạ, hạt nhân và năng lượng nguyên tử; dịch vụ về
thông tin, tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng, phổ biến, ứng dụng thành tựu KH&CN trong
các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
- Tổ chức KH&CN1 là tổ chức có chức năng chủ yếu là nghiên cứu khoa học,
nghiên cứu triển khai và phát triển công nghệ, hoạt động dịch vụ KH&CN, được
13
thành lập và đăng ký hoạt động theo quy định của pháp luật.
- Nhiệm vụ KH&CN1 là những vấn đề KH&CN cần được giải quyết để đáp
ứng yêu cầu thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh,
phát triển KH&CN.
- Phát triển công nghệ1 là hoạt động sử dụng kết quả nghiên cứu cơ bản,
nghiên cứu ứng dụng, thông qua việc triển khai thực nghiệm và sản xuất thử
nghiệm để hoàn thiện công nghệ hiện có, tạo ra công nghệ mới.
- Phát triển công nghệ2, tiếng Anh gọi là “Technology Development”, bao
gồm: “Phát triển công nghệ theo chiều rộng” - Extensive Development of
Technology, còn gọi là “Diffusion of Technology” tức “Mở rộng công nghệ”;
“Phát triển công nghệ theo chiều sâu” - Intensive Development of Technology, còn
gọi là “Upgrading of Technology” tức “Nâng cấp công nghệ”.
Bảng 1.1. Tóm tắt quá trình R&D (nghiên cứu và triển khai)3
R
R&D GIAI ĐOẠN Nghiên cứu cơ bản Nghiên cứu ứng dụng
KẾT QUẢ THU ĐƢỢC Phát hiện quy luật của đối tượng nghiên cứu. Làm ra các lý thuyết. Vận dụng lý thuyết để mô tả, giải thích hoặc tìm ra nguyên lý của các giải pháp (giải pháp công nghệ, giải pháp xã hội).
D Triển khai 1. Làm ra các vật mẫu (Prototype). 2. Tạo ra công nghệ sản xuất sản phẩm theo mẫu
mới (làm pilot).
3. Sản xuất thử nghiệm ở loạt đầu (Seri “0”).
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động khoa học và công nghệ 2
Hoạt động khoa học là dạng lao động trí tuệ, gồm tổng thể những hoạt động
của con người nhằm tìm hiểu bản chất của sự vật, quy luật diễn biến của các hiện
tượng tự nhiên, xã hội... mà người nghiên cứu chưa hề biết. Lao động khoa học có
các đặc thù như: Tính sáng tạo cao; tính tin cậy, tính thông tin; tính khách quan;
tính rủi ro; tính kế thừa; tính cá nhân; tính phi kinh tế.
Nghiên cứu khoa học là quá trình tìm tòi những điều chưa biết, vì vậy quá
trình nghiên cứu khoa học luôn là quá trình phải hướng tới những phát hiện mới
14
hoặc sáng tạo mới. Trong nghiên cứu khoa học không có sự lặp lại như cũ những
phát hiện hoặc sáng tạo mà những người đi trước đã làm. Do vậy, tính mới là thuộc
tính quan trọng số một của lao động khoa học.
Một kết quả nghiên cứu đạt được nhờ một phương pháp nào đó phải có khả
năng kiểm chứng nhiều lần do nhiều người khác nhau thực hiện trong những điều
kiện quan sát hoặc thí nghiệm hoàn toàn giống nhau và với những kết quả thu được
hoàn toàn giống nhau đó là tính tin cậy.
Sản phẩm của nghiên cứu khoa học được thể hiện dưới nhiều dạng có thể là
một báo cáo khoa học, tác phẩm khoa học song cũng có thể là một mẫu vật liệu
mới, mẫu sản phẩm mới, mô hình thí điểm về một phương thức tổ chức sản xuất
mới… tóm lại trong tất cả các trường hợp này, sản phẩm khoa học luôn mang đặc
trưng thông tin.
Tính khách quan vừa là một đặc điểm của nghiên cứu khoa học, vừa là một
tiêu chuẩn của người nghiên cứu khoa học.
Tính mới của nghiên cứu khoa học đồng thời cũng quy định một thuộc tính
quan trọng khác của nghiên cứu khoa học. Đó là tính rủi ro. Một nghiên cứu có thể
thành công, có thể thất bại.
1.2. Cơ sở lý luận về đầu tƣ tài chính hoạt động khoa học và công nghệ
1.2.1. Khái niệm về ngân sách nhà nước
- Ngân sách4 là kế hoạch tài chính của nhà nước và các cơ quan, xí nghiệp,
dự toán và thực hiện các khoản thu nhập và các khoản chi tiêu cho hoạt động quản
lý, đầu tư phát triển, kinh doanh hoặc sự nghiệp trong khoảng thời gian xác định (tháng, quý, năm...); Ngân sách5 là tổng số tiền thu và chi trong một thời gian nhất
định của nhà nước, của xí nghiệp, của một cá nhân; Ngân sách6 là tổng số nói
chung tiền thu và chi trong một thời gian nhất định của nhà nước, của xí nghiệp
hoặc của một cá nhân. Theo nhà nghiên cứu Đào Duy Anh thì Ngân sách7 là sổ
tính toán các món chi và món thu của Chính phủ.
- Ngân sách nhà nước4 là toàn bộ các khoản thu chi của nhà nước trong dự
toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Quốc hội) quyết định và thực hiện
trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.
NSNN bao gồm NSTƯ và NSĐP. NSTƯ bộ phận chủ yếu của NSNN, bao gồm dự 15
toán thu chi của Chính phủ, của các bộ, các cơ quan ngang bộ, các cơ quan trực
thuộc, quỹ bảo hiểm xã hội và một số khoản khác do nhà nước quy định. NSTƯ có
vị trí chủ yếu và giữ vai trò quyết định trong NSNN; tập trung một bộ phận lớn thu
nhập quốc dân nhằm đảm bảo những nhu cầu có tính chất toàn quốc về xây dựng
kinh tế, phát triển văn hoá, củng cố quốc phòng, quản lý nhà nước. NSĐP dự toán
và thực hiện các khoản thu chi ngân sách hằng năm của chính quyền địa phương
theo chế độ phân cấp quản lý ngân sách để bảo đảm thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ của chính quyền địa phương.
Tác giả luận văn cơ bản tuân theo khái niệm pháp lý này. Ngân sách nhà nước8 là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo
đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. NSNN gồm NSTƯ và
NSĐP. NSĐP bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính các cấp có HĐND và
UBND.
- Phân bổ6 là chia hết cái phải đóng góp hoặc cái được hưởng ra cho mỗi
người, mỗi đơn vị nhận một phần.
- Kinh phí6 là khoản ngân sách mà cơ quan nhà nước cấp cho các đơn vị trực thuộc để chi vào các hoạt động kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế v.v. Kinh phí5 là
khoản tiền cơ quan, nhà nước cấp để tổ chức các hoạt động kinh tế, xã hội.
- Chi đầu tư phát triển9 là những khoản chi để giải quyết những nhiệm vụ có
tính chất lâu dài của Nhà nước và hiệu quả không thể tính trong một thời gian
ngắn.
- Chi thường xuyên9 là những khoản chi cần thiết, không thể trì hoãn để duy
trì các hoạt động luôn tồn tại trong nhu cầu chi tiêu của nhà nước.
- Chi ngân sách nhà nước10 gồm:
(1) Chi ĐTPT về: a) Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế
- xã hội không có khả năng thu hồi vốn; b) Đầu tư và hỗ trợ cho các doanh nghiệp,
các tổ chức kinh tế, các tổ chức tài chính của Nhà nước; góp vốn cổ phần, liên
16
doanh vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước
theo quy định của pháp luật; c) Chi bổ sung dự trữ nhà nước; d) Chi ĐTPT thuộc
các Chương trình mục tiêu quốc gia, dự án nhà nước; đ) Các khoản chi ĐTPT khác
theo quy định của pháp luật.
(2) Chi thường xuyên về: a) Các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế,
xã hội, văn hoá thông tin văn học nghệ thuật, thể dục thể thao, KH&CN, các sự
nghiệp xã hội khác; b) Các hoạt động sự nghiệp kinh tế; c) Quốc phòng, an ninh và
trật tự an toàn xã hội; d) Hoạt động của các cơ quan nhà nước; đ) Hoạt động của
Đảng Cộng sản Việt Nam; e) Hoạt động của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu
chiến binh Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam; g)
Trợ giá theo chính sách của Nhà nước; h) Phần chi thường xuyên thuộc các
Chương trình mục tiêu quốc gia, dự án Nhà nước; i) Hỗ trợ Quỹ Bảo hiểm xã hội;
k) Trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội; l) Hỗ trợ cho các tổ chức chính trị
xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; m) Các khoản
chi thường xuyên khác theo quy định của pháp luật.
(3) Chi trả nợ gốc và lãi các khoản tiền do Chính phủ vay.
(4) Chi viện trợ của ngân sách trung ương cho các Chính phủ và tổ chức
ngoài nước.
(5) Chi cho vay của ngân sách trung ương.
(6) Chi trả gốc và lãi các khoản huy động đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng
theo quy định tại Khoản 3 Điều 8 của Luật NSNN.
(7) Chi bổ sung Quỹ dự trữ tài chính theo quy định tại Điều 58 của Nghị
định này.
(8) Chi bổ sung ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới.
(9) Chi chuyển nguồn ngân sách từ ngân sách năm trước sang ngân sách
năm sau.
1.2.2. Đặc điểm đầu tư tài chính cho khoa học và công nghệ
Đầu tư tài chính cho KH&CN không phải là cho “ăn ngay” mà là đầu tư cho
17
lâu dài. Đầu tư tài chính cho KH&CN là đầu tư cho tương lai, do vậy Nhà nước có
trách nhiệm đầu tư cho tương lai ngay cả khi không thể tính toán được hiệu quả tác
động của KH&CN trong ngắn hạn.
Hiệu quả sử dụng sử dụng ngân sách nhà nước cho KH&CN được nhìn nhận
thông qua đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) vào tổng sản phẩm quốc
dân (GDP). Từ khái niệm về năng suất yếu tố tổng hợp (TFP), các yếu tố tác động
tới TFP bao gồm chất lượng lao động, cơ cấu kinh tế, môi trường kinh doanh,
chính sách và thể chế, và yếu tố của đổi mới, phát triển KH&CN, trong đó nền tảng
là nâng cao trình độ khoa học công nghệ, nghiên cứu và triển khai, sáng tạo và đổi
mới, áp dụng công nghệ tiến tiến, cải tiến quá trình sản xuất, nâng cao hiệu quả
quản lý. Theo kết quả tính toán ban đầu của Viện Năng suất Việt Nam, với sự hỗ
trợ của các chuyên gia từ Cơ quan Năng suất Malaysia, và Đại học Keio Nhật Bản,
KH&CN là yếu tố chủ đạo chiếm khoảng 65-70% trong tăng TFP. Cũng theo số
liệu của Tổng cục Thống kê, tính theo đóng góp vào tăng trưởng kinh tế thì năm
2014, TFP đã đóng góp khoảng 40% vào tăng trưởng GDP. Như vậy, đầu tư của
toàn xã hội cho KH&CN, mà trong đó ngân sách nhà nước đang chiếm phần lớn,
đã góp phần đóng góp rất lớn cho tăng trưởng GDP thông qua yếu tố năng suất
tổng hợp TFP.
Hiện nay, nguồn ngân sách nhà nước cho KH&CN có 2 mục chi là chi đầu
tư phát triển và chi sự nghiệp khoa học. Chi đầu tư phát triển được đầu tư cơ sở vật
chất, trang thiết bị cho các tổ chức KH&CN của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương và các tổ chức KH&CN của các tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương. Chi sự nghiệp KH&CN hay chi thường xuyên
nhằm đảm bảo duy trì hoạt động và sở vật chất của các tổ chức KH&CN công lập,
hỗ trợ một phần kinh phí triển khai các nhiệm vụ KH&CN cho các tổ chức
KH&CN ngoài công lập, duy trì và trả lương cho nhân lực KH&CN làm ở khu vực
nhà nước, đóng góp gián tiếp, trực tiếp vào phát triển kinh tế - xã hội; chi nhiệm vụ
KH&CN cấp bộ, cấp tỉnh nhằm giải quyết các vấn đề KH&CN theo yêu cầu phát
triển của ngành, địa phương phục vụ quản lý nhà nước của bộ, ngành, lĩnh vực, địa
18
phương và đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội; chi nhiệm vụ KH&CN cấp
quốc gia nhằm giải quyết các vấn đề KH&CN theo yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước, phục vụ yêu cầu của quản lý nhà nước.
1.3. Tổng quan về phân bổ, sử dụng ngân sách nhà nƣớc
1.3.1. Dự toán ngân sách nhà nước và yêu cầu lập dự toán ngân sách
trung ương
Dự toán NSNN là kế hoạch thu, chi của nhà nước trong một năm đã được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện để bảo đảm các chức
năng, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội của Nhà nước.
a. Thẩm quyền của các cơ quan, quy trình và thời gian lập, phân bổ dự toán
thu, chi NSNN8,10,11
- Trước ngày 31 tháng 5, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị về việc xây
dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách năm kế hoạch.
- Trước ngày 10 tháng 6, căn cứ vào Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, Bộ
Tài chính ban hành Thông tư hướng dẫn về yêu cầu, nội dung, thời hạn lập dự toán
NSNN và thông báo số kiểm tra về dự toán ngân sách với tổng mức và từng lĩnh
vực thu, chi ngân sách đối với các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ,
cơ quan khác ở trung ương và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành Thông tư hướng dẫn về yêu cầu, nội dung, thời
hạn xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch ĐTPT và phối hợp với
Bộ TC thông báo số kiểm tra vốn ĐTPT thuộc NSNN, vốn tín dụng đầu tư.
- Trước ngày 20 tháng 7, các cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực ở Trung ương
và địa phương phối hợp với cơ quan TC và cơ quan KH&ĐT cùng cấp lập dự toán
thu, chi ngân sách theo ngành, lĩnh vực phụ trách của ngân sách cấp mình. Cơ quan
quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ ở Trung ương và địa phương phối hợp
với cơ quan TC và cơ quan KH&ĐT cùng cấp lập dự toán thu, chi ngân sách theo
lĩnh vực phụ trách trong phạm vi cả nước và từng địa phương. Các cơ quan nhà
nước ở Trung ương gửi báo cáo cho Bộ TC, Bộ KH&ĐT.
- Tháng 8 và tháng 9 hằng năm, thảo luận về dự toán thu, chi NSNN giữa Bộ
Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các bộ, cơ quan trung ương và các tỉnh thành
phố trực thuộc trung ương về nhu cầu chi và khả năng nguồn thu (đối với các địa 19
phương chỉ thảo luận năm đầu thời kỳ ổn định, các năm sau chỉ thảo luận khi địa
phương có yêu cầu.
Bộ KH&ĐT chủ trì phối hợp với Bộ TC lập dự toán chi ĐTPT, lập phương
án phân bổ chi ĐTPT; tổng hợp dự toán và phương án phân bổ chi chương trình
mục tiêu quốc gia (phần chi đầu tư xây dựng cơ bản) do cơ quan quản lý chương
trình mục tiêu quốc gia lập và tổng hợp chung dự toán, phương án phân bổ chi
chương trình mục tiêu quốc gia gửi Bộ TC trước ngày 10 tháng 9 năm trước.
Bộ TC chủ trì phối hợp với Bộ KH&ĐT và các bộ, cơ quan liên quan tổng
hợp và lập dự toán thu, chi NSNN, lập phương án phân bổ ngân sách trung ương
trình Chính phủ xem xét cho ý kiến để hoàn chỉnh Báo cáo dự toán NSNN, phân
bổ ngân sách trung ương gửi UBTCNS của Quốc hội chậm nhất vào ngày 01/10 để
thẩm tra.
Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội định kỳ họp 1
năm 2 kỳ, thời gian họp Ủy ban thường là trước các kỳ họp của Quốc hội. Kỳ họp
đầu năm, thường họp cuối tháng 4 để đánh giá bổ sung kết quả thực hiện nhiệm vụ
ngân sách cho KH&CN và bảo vệ môi trường, phân bổ ngân sách KH&CN năm
trước; tình hình triển khai nhiệm vụ ngân sách cho KH&CN và bảo vệ môi trường
những tháng đầu năm hiện tại; Kỳ họp cuối năm thường họp cuối tháng 9 để đánh
giá tình hình thực hiện nhiệm vụ ngân sách cho KH&CN và bảo vệ môi trường
năm hiện tại; dự kiến kế hoạch nhiệm vụ KH&CN và bảo vệ môi trường và phân
bổ ngân sách cho năm sắp tới. Tại hai kỳ họp này, Ủy ban nghe lãnh đạo Bộ Khoa
học và Công nghệ, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và
Đầu tư báo cáo, sau cuộc họp này, Ủy ban gửi báo cáo tới Ủy ban Kinh tế, Ủy ban
TCNS của Quốc hội.
UBTCNS của Quốc hội chủ trì phối hợp với Hội đồng dân tộc, các Ủy ban
khác của Quốc hội để thẩm tra báo cáo dự toán NSNN, phân bổ ngân sách trung
ương chậm nhất vào ngày 05/10; tổng hợp các ý kiến của Hội đồng dân tộc và các
Ủy ban khác của Quốc hội, ý kiến tiếp thu và giải trình của Chính phủ lập báo cáo
20
thẩm tra để trình Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Chính phủ, UBTCNS của Quốc hội trình UBTVQH báo cáo về dự toán
NSNN, phương án phân bổ NSTƯ năm sau, báo cáo thẩm tra chậm nhất vào ngày
12/10.
UBTVQH cho ý kiến đối với báo cáo của Chính phủ về dự toán NSNN,
phương án phân bổ NSTƯ trước ngày 18/10 hằng năm.
Báo cáo của Chính phủ và báo cáo thẩm tra của UBTCNS của Quốc hội sau
khi đã được chỉnh lý lại được gửi đến các đại biểu Quốc hội chậm nhất 10 ngày,
trước ngày khai mạc kỳ họp Quốc hội.
Quá trình quyết định NSNN diễn ra qua hai giai đoạn: Quốc hội thông qua
Nghị quyết dự toán NSNN và Nghị quyết phân bổ NSTƯ. Trên cơ sở dự toán
NSNN do Chính phủ trình, Quốc hội quyết định dự toán NSNN với các chỉ tiêu:
Tổng số thu NSNN, bao gồm thu nội địa, thu từ hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu,
thu viện trợ không hoàn lại; Tổng số chi NSNN, bao gồm chi NSTƯ và chi NSĐP,
chi tiết theo các lĩnh vực ĐTPT, chi thường xuyên, chi trả nợ và viện trợ, chi bổ
sung Quỹ Dự trữ tài chính, dự phòng ngân sách. Trong chi ĐTPT và chi thường
xuyên có mức chi cụ thể cho lĩnh vực KH&CN; Mức bội chi NSNN và nguồn bù
đắp bội chi NSNN.
Trường hợp dự toán NSNN, phương án phân bổ NSTƯ chưa được Quốc hội
quyết định, Chính phủ lập lại dự toán NSNN, phương án phân bổ NSTƯ trình
Quốc hội vào thời gian do Quốc hội quyết định.
Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết Dự toán NSNN và Nghị quyết
phân bổ NSTƯ trước ngày 15/11.
UBTVQH quyết định về tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu giữa
NSTƯ và NSĐP năm đầu thời kỳ ổn định.
Sau khi Quốc hội quyết định dự toán NSNN, Chính phủ xây dựng, trình
Quốc hội phương án phân bổ NSTƯ với tổng số và mức chi từng lĩnh vực; Dự toán
chi của từng bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan khác ở
trung ương theo từng lĩnh vực; Mức bổ sung từ NSTƯ cho ngân sách từng địa
phương, bao gồm bổ sung cân đối ngân sách và bổ sung có mục tiêu.
21
Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội về dự toán NSNN, Nghị quyết của
Quốc hội về phân bổ NSTƯ, Nghị quyết của UBTVQH về tỷ lệ phần trăm (%)
phân chia các khoản thu giữa NSTƯ và NSĐP, Bộ TC trình Thủ tướng Chính phủ
quyết định giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách cho từng bộ, cơ quan ngang bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương theo từng lĩnh vực; nhiệm vụ
thu, chi, tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu giữa NSTƯ và NSĐP, mức
bổ sung cân đối (nếu có), mức bổ sung có mục tiêu từ NSTƯ, dự toán chi từ nguồn
kinh phí ủy quyền của NSTƯ cho từng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trước
ngày 20 tháng 11 năm trước.
Bộ Tài chính hướng dẫn nhiệm vụ thu, chi ngân sách cho các bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương, UBND tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương trước ngày 25 tháng 11 năm trước.
Các Bộ, cơ quan trung ương phân bổ và giao dự toán cho các đơn vị trực
thuộc trước 31/12 năm trước.
b. Về căn cứ lập, phân bổ thu, chi ngân sách nhà nưóc:
(1) Nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng - an ninh;
chỉ tiêu, nhiệm vụ cụ thể của năm kế hoạch và những chỉ tiêu phản ánh quy mô
nhiệm vụ, đặc điểm hoạt động, điều kiện kinh tế - xã hội và tự nhiên của từng vùng
như: dân số theo vùng lãnh thổ, các chỉ tiêu về kinh tế - xã hội do cơ quan có thẩm
quyền thông báo.
(2) Các luật, pháp lệnh thuế, chế độ thu; định mức phân bổ ngân sách; chế
độ, tiểu chuẩn, định mức chi ngân sách do cấp có thẩm quyền quy định. Trong đó:
- Đối với thu NSNN căn cứ vào mức tăng trưởng kinh tế, các chỉ tiêu liên
quan và các quy định của pháp luật về thu ngân sách;
- Đối với chi ĐTPT căn cứ vào những dự án đầu tư có đủ các điều kiện bố trí
vốn theo quy định tại Quy chế quản lý vốn đầu tư và xây dựng và phù họp với khả
năng ngân sách hàng năm, kế hoạch tài chính 5 năm.
(3) Đối với chi thường xuyên tuân theo các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn,
định mức do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định; trong đó:
- Đối với các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác
ở trung ương: Căn cứ định mức phân bổ chi NSTƯ do Thủ tướng Chính phủ quyết 22
định, Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan trung ương ban hành định mức phân bổ
chi ngân sách cho các đơn vị trực thuộc.
- Đối với các địa phương: HĐND cấp tỉnh căn cứ định mức phân bổ chi
NSĐP do Thủ tướng Chính phủ quyết định, ban hành định mức phân bổ chi ngân
sách cho các cơ quan, đơn vị trực thuộc tỉnh và cấp dưới.
(3) Những quy định về phân cấp quản lý kinh tế - xã hội, phân cấp quản lý
ngân sách.
(4) Đối với dự toán ngân sách chính quyền địa phương các cấp, đối với năm
đầu thời kỳ ổn định ngân sách, việc lập dự toán căn cứ vào chế độ phân cấp ngân
sách và dự toán thu, chi ngân sách của từng địa phương; việc lập dự toán trong kỳ
ổn định ngân sách căn cứ vào tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu và mức
bổ sung cân đối từ ngân sách cấp trên đã được giao.
(5) Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội và dự toán NSNN năm sau; Thông tư hướng dẫn của Bộ TC về
việc lập dự toán ngân sách; Thông tư hướng dẫn về yêu cầu, nội dung, thời hạn xây
dựng kế hoạch phát triển kinh té - xã hội, kế hoạch ĐTPT của Bộ KH&ĐT; hướng
dẫn của UBND cấp tỉnh về lập dự toán ngân sách ở các cấp địa phương.
(6) Số kiểm tra về dự toán ngân sách do cơ quan có thẩm quyền thông báo.
(7) Tình hình thực hiện dự toán ngân sách các năm trước.
c. Nội dung lập, tổng hợp, trình quyết định dự toán thu, chi NSNN:
(1) Nội dung lập dự toán thu của cơ quan thuế, cơ quan hải quan: Cụ thể
theo từng khoản thu, từng sắc thuế và của từng địa phương.
(2) Nội dung lập dự toán thu, chi của các đơn vị dự toán: Cụ thể theo từng
khoản thu, theo từng lĩnh vực chi (chi tiết theo mục lục NSNN) và thuyết minh rõ
cơ sở, căn cứ tính toán (riêng chi đầu tư XDCB cụ thể theo từng công trình, dự án).
(3) Nội dung trình, quyết định dự toán thu, chi NSNN, phân bổ ngân sách
trung ương:
a) Nội dung các báo cáo Chính phủ trình Quốc hội gồm:
23
- Đánh giá tình hình thực hiện NSNN năm hiện hành, dự toán NSNN năm
sau (kèm theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về dự toán NSNN).
- Tình hình thực hiện NSTƯ năm hiện hành, phương án phân bổ NSTƯ năm
sau (kèm theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về phân bổ NSTƯ).
b) Nội dung do Quốc hội quyết định dự toán NSNN, phân bổ NSTƯ:
- Nội dung do Quốc hội quyết định dự toán NSNN:
+ Tổng số thu NSNN, bao gồm thu nội địa, thu từ hoạt động xuất khẩu và
nhập khẩu, thu viện trợ không hoàn lại;
+ Tổng số chi NSNN, bao gồm chi NSTƯ và chi NSĐP, chi tiết theo các
lĩnh vực chi ĐTPT, chi thường xuyên, chi trả nợ và viện trợ, chi bổ sung quỹ dự
trữ tài chính, dự phòng ngân sách. Trong chi ĐTPT và chi thường xuyên có mức
chi cụ thể cho các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, KH&CN;
+ Mức bội chi NSNN và nguồn bù đắp;
- Nội dung do Quốc hội quyết định phân bổ NSTƯ:
+ Tổng số và mức chi từng lĩnh vực;
+ Dự toán chi của từng bộ, cơ quan trung ương theo từng lĩnh vực;
+ Mức bổ sung từ NSTƯ cho ngân sách từng địa phương, bao gồm bổ sung
cân đối ngân sách và bổ sung có mục tiêu;
(Đối với năm đầu của thời kỳ ổn định ngân sách, UBTVQH căn cứ vào nghị
quyết của Quốc hội về dự toán NSNN và phân bổ NSTƯ, quyết định tỷ lệ phần
trăm (%) phân chia giữa NSTƯ và ngân sách từng địa phương đối với các khoản
thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) giữa NSTƯ và NSĐP).
(4) Nội dung giao dự toán thu, chi NSNN:
- Thủ tướng Chính phủ quyết định giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách cho
từng bộ, cơ quan trung ương theo từng lĩnh vực; giao nhiệm vụ thu, chi, tỷ lệ phần
trăm (%) phân chia các khoản thu giữa NSTƯ và NSĐP, mức bổ sung cân đối (nếu
có), mức bổ sung có mục tiêu từ NSTƯ, dự toán chi từ nguồn kinh phí ủy quyền
của NSTƯ cho từng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
- Bộ TC hướng dẫn cụ thể hơn các nhiệm vụ thu, chi ngân sách cho các bộ,
cơ quan trung ương, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đảm bảo khớp
24
đúng chỉ tiêu Thủ tướng Chính phủ giao.
(5) Nội dung phân bổ và giao dự toán thu, chi ngân sách cho các đơn vị trực
thuộc của các Bộ, cơ quan trung ương: Chi tiết cho từng đơn vị trực thuộc, từng
lĩnh vực chi đảm bảo khớp đúng về tổng mức, chi tiết dự toán Thủ tướng Chính
phủ giao.
(6) Nội dung thẩm tra của Bộ TC đối với phương án phân bổ dự toán ngân
sách cho các đơn vị trực thuộc của các Bộ, cơ quan trung ương: Đảm bảo khớp đúng
với tổng mức và chi tiết dự toán ngân sách Thủ tướng Chính phủ đã giao cho các
Bộ, cơ quan trung ương; đúng với chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức.
1.3.2. Dự toán ngân sách nhà nước và yêu cầu lập dự toán ngân sách địa
phương
Thẩm quyền của các cơ quan, quy trình và thời gian lập, phân bổ dự toán
thu, chi NSNN ở địa phương
(1) Chỉ đạo của UBND tỉnh/thành phố về công tác xây dựng kế hoạch
KH&CN hằng năm
Hằng năm, căn cứ hướng dẫn xây dựng Kế hoạch và dự toán ngân sách
KH&CN của Bộ KH&CN (vào tháng 1 hàng năm), UBND tỉnh, thành phố (sau
đây gọi là UBND tỉnh), UBND tỉnh có văn bản giao cho Sở KH&CN phối hợp với
các sở, ban, ngành có liên quan lập dự toán kinh phí KH&CN báo cáo UBND tỉnh
báo cáo Bộ KH&CN. Theo đó, Sở KH&CN có văn bản gửi các cơ quan, đơn vị,
địa phương để đề xuất các hoạt động KH&CN, trên cơ sở đó Sở KH&CN tổng
hợp, lấy ý kiến của Sở TC (đối với phần kinh phí sự nghiệp KH&CN), Sở KH&ĐT
(đối với phần kinh phí ĐTPT KH&CN) và hoàn chỉnh báo cáo Bộ KH&CN, đồng
thời báo cáo UBND tỉnh trình Hội đồng nhân dân tỉnh xem xét quyết định tại các
kỳ họp HĐND tỉnh.
(2) Căn cứ để xây dựng kế hoạch hoạt động KH&CN hàng năm
Công tác xây dựng kế hoạch KH&CN của tỉnh hàng năm căn cứ vào các văn
bản quy phạm pháp luật hiện hành về lĩnh vực KH&CN (Luật, Nghị định, Quyết
định…), công văn hướng dẫn của Bộ KH&CN. Nội dung kế hoạch theo đúng các
chương, mục mà Bộ KH&CN đã hướng dẫn với mục tiêu bám sát định hướng phát
triển kinh tế-xã hội của tỉnh cũng như Chiến lược phát triển KH&CN quốc gia. 25
Cách xác định nguồn vốn cân đối cho kế hoạch hàng năm chủ yếu dựa trên cơ sở
hướng dẫn của Bộ KH&CN, hướng dẫn của Sở KH&ĐT, Sở TC, kế hoạch thu, chi
ngân sách của tỉnh; thường cân đối năm sau tăng hơn năm trước từ 10-15%. Một số
văn bản hiện đang áp dụng để xây dựng kế hoạch:
- Luật KH&CN1 số 29/2003QH13 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2014,
Nghị định số 08/2014/NĐ-CP ngày 27/1/2014 của Chính phủ ban hành quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật KH&CN;
- Nghị định số 115/2005/NĐ-CP ngày 5/9/2005 của Chính phủ về cơ chế tự
chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức KH&CN công lập; Nghị định số 80/2007/NĐ-
CP ngày 19/05/2007 của Chính phủ về doanh nghiệp KH&CN, Nghị định số
96/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày 20/9/2011) về sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định 115/2005/NĐ-CP và Nghị định 80/2007/NĐ-CP và tình hình hoạt
động của các tổ chức khoa học công nghệ;
- Quyết định số 1244/QĐ-TTg ngày 25/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt phương hướng, mục tiêu nhiệm vụ KH&CN chủ yếu giai đoạn
2011-2015; Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ
về việc phê duyệt chiến lược KH&CN giai đoạn 2011-2020;
- Quyết định số 59/2010/QĐ-TTg ngày 30/9/2011 của Thủ tướng Chính phủ
về việc ban hành định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên NSNN năm 2011;
- Quyết định số 60/2010/QĐ-TTg ngày 30/9/2011 của Thủ tướng Chính phủ
về việc Ban hành các nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn ĐTPT bằng
nguồn NSNN giai đoạn 2011 – 2015;
- Thông tư Liên tịch số 93/2006/TTLT-BTC-BKHCN ngày 4/10/2006 của
Bộ TC và Bộ KH&CN về chế độ khoán kinh phí của đề tài, dự án KH&CN sử
dụng NSNN;
- Thông tư liên tịch số 44/2007/TTLT-BTC-BKHCN ngày 07/5/2007 của Bộ
TC và Bộ KH&CN về định mức xây dựng và phân bổ dự toán kinh phí các đề tài
KH&CN sử dụng NSNN;
- Hướng dẫn xây dựng kế hoạch và dự toán ngân sách cho hoạt động
26
KH&CN hàng năm của Bộ KH&CN;
- Hướng dẫn xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và kế hoạch ĐTPT
hàng năm của Bộ KH&ĐT;
- Hướng dẫn công tác đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ NSNN năm
hiện tại và xây dựng dự toán NSNN năm kế hoạch của Bộ TC;
- Căn cứ tình hình thực hiện kế hoạch các năm của ngành KH&CN;
- Và một số văn bản hướng dẫn của UBND tỉnh.
(3) Quy trình các bước xây dựng kế hoạch KH&CN
Bộ KH&CN
Sở KH&CN
UBND tỉnh và các đơn vị chức năng
Xâydựng biểu mẫu gửi các Sở, ban ngành và UBND quận, huyện xây dựng Kế hoạch
Hướng dẫn xây dựng kế hoạch và dự toán ngân sách KH&CN năm
Tổng hợp
Tổng hợp Kế hoạch Ngân sách KH&CN
Thông báo mức Phân bổ ngân sách Nhà nước năm cho ngành KH&CN tỉnh, thành phố
Phân ra Kế hoạch KH&CN của Sở theo chỉ tiêu UBND tỉnh, thành phố giao
Giao chỉ tiêu Kế hoạch Nhà nước năm
Triển khai thực hiện
Hình 1.1. Quy trình xây dựng kế hoạch KH&CN
Hàng năm, căn cứ vào hướng dẫn của Bộ KH&CN quý I năm trước năm kế
hoạch, căn cứ theo chỉ đạo của UBND tỉnh và hướng dẫn của Sở KH&ĐT, Sở TC
về xây dựng kế hoạch của năm, Sở KH&CN có công văn hướng dẫn xây dựng kế
hoạch KH&CN gửi các ngành, đồng thời đăng tải trên báo tỉnh và trên Website của
27
Sở KH&CN. Sở KH&CN đã triển khai việc xây dựng kế hoạch KH&CN.
Danh mục các đề tài, dự án của năm kế hoạch được hình thành từ các nguồn:
Theo yêu cầu của lãnh đạo tỉnh; Đề xuất của các ngành, địa phương, các tổ chức,
cá nhân; Sở KH&CN phối hợp với các cơ quan nghiên cứu ở trung ương để tham
khảo, đề xuất, lựa chọn các thành tựu KH&CN phù hợp.
Sở KH&CN phối hợp với các sở, ban, ngành có liên quan lập dự toán kinh
phí KH&CN theo các biểu mẫu hướng dẫn. Nhiệm vụ này thường được triển khai
vào Quý II của năm. Trên cơ sở đó, Sở KH&CN tổng hợp kế hoạch của các đơn vị
trực thuộc trình Bộ KH&CN và gửi Sở Tài chính (đối với kinh phí sự nghiệp
KH&CN), Sở Kế hoạch và Đầu tư (đối với kinh phí đầu tư phát triển KH&CN),
tổng hợp trình UBND tỉnh.
Căn cứ nhiệm vụ được giao, hồ sơ đăng ký của các tổ chức, cá nhân, mức độ
phù hợp với định hướng phát triển kinh tế-xã hội, KH&CN của địa phương, Sở
KH&CN xem xét, lựa chọn, tổng hợp thành danh mục các nhiệm vụ KH&CN cấp
tỉnh dự kiến thực hiện trong năm kế hoạch. Việc tổng hợp đề xuất các nhiệm vụ
KH&CN chuẩn bị đưa vào kế hoạch thực hiện xong trước 30 tháng 6 năm trước năm
kế hoạch.
Trên cơ sở kế hoạch của ngành KH&CN, UBND tỉnh xem xét và trình HĐND
tỉnh. HĐND tỉnh trên cơ sở cân đối tình hình thu, chi ngân sách của tỉnh sẽ phân bổ
kinh phí cho Sở KH&CN và các đơn vị sử dụng ngân sách KH&CN trên địa bàn
thành phố.
Sở KH&CN và các đơn vị căn cứ trên Quyết định giao chỉ tiêu, kế hoạch, …
của UBND thành phố lập phân ra chi tiết, ưu tiên cân đối thực hiện các nhiệm vụ theo
mức kinh phí mà UBND tỉnh giao, gửi Sở Tài chính thẩm định và nhập dự toán.
(4) Công tác thẩm định kế hoạch KH&CN
Sau khi có dự thảo Danh mục các nhiệm vụ KH&CN dự kiến triển khai
trong năm kế hoạch, Thường trực Hội đồng KH&CN tỉnh thành lập các Tổ tư vấn
xác định nhiệm vụ KH&CN để tư vấn, xác định danh mục và đề cương tóm tắt các
đề tài, dự án KH&CN cấp tỉnh. Kết quả làm việc của các Tổ tư vấn nói trên là
28
Danh mục và đề cương tóm tắt các nhiệm vụ KH&CN dự kiến đưa vào kế hoạch.
Việc xác định danh mục các nhiệm vụ KH&CN dự kiến đưa vào kế hoạch thực
hiện xong trong tháng 11 năm trước năm kế hoạch.
Sở KH&CN rà soát kết quả làm việc của Hội đồng tư vấn xác định nhiệm
vụ, tham khảo thêm ý kiến chuyên gia để trình Hội đồng KH&CN tỉnh xem xét và
tham mưu UBND tỉnh cho chủ trương đưa vào kế hoạch năm (15/6 hàng năm). Hội
đồng KH&CN tỉnh do Phó Chủ tịch UBND tỉnh làm chủ tịch Hội đồng, lãnh đạo
các Sở, ngành, Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật tỉnh, trường đại học trên
địa bàn làm thành viên. Danh sách nhiệm vụ KH&CN được Hội đồng KH&CN
tỉnh thông qua là cơ sở đưa vào kế hoạch KH&CN.
Sau khi có kết quả tư vấn, Sở KH&CN tổng hợp thành Danh mục dự kiến các
nhiệm vụ KH&CN đề nghị đưa vào kế hoạch năm sau, trình Hội đồng KH&CN xem
xét cho ý kiến làm căn cứ chuẩn bị trình UBND tỉnh.
Căn cứ kết quả làm việc của Hội đồng KH&CN, Sở KH&CN hoàn chỉnh,
tổng hợp thành Danh mục các nhiệm vụ KH&CN chính thức đề nghị ghi kế hoạch
năm sau, trình UBND tỉnh xem xét, phê duyệt.
Danh mục các nhiệm vụ KH&CN trình UBND tỉnh phê duyệt gồm 2 loại:
- Các nhiệm vụ KH&CN được giao theo phương thức tuyển chọn tổ chức, cá
nhân chủ trì thực hiện: là các đề tài có quy mô lớn, giải quyết những vấn đề quan
trọng, tác động mạnh đến phát triển kinh tế-xã hội của địa phương; có nhiều tổ
chức, cá nhân có khả năng tham gia thực hiện. Sở KH&CN tham mưu cho UBND
tỉnh lựa chọn một số đề tài trọng điểm hàng năm, thông báo công khai, rộng rãi để
thực hiện theo hình thức này.
- Các nhiệm vụ KH&CN được giao theo phương thức trực tiếp: là các đề tài
chỉ có một tổ chức hoặc cá nhân có đủ điều kiện về chuyên môn, nghiệp vụ, trang
thiết bị để thực hiện; các đề tài đặc thù, bí mật thuộc lĩnh vực an ninh, quốc phòng;
các dự án hỗ trợ đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp; các đề tài nghiên cứu có
quy mô nhỏ; các đề tài, dự án áp dụng tiến bộ KH&CN vào sản xuất; huy động vốn
từ nhiều nguồn.
Việc phê duyệt danh mục các nhiệm vụ trong kế hoạch KH&CN hàng năm
thực hiện xong trong tháng 12 năm trước năm kế hoạch.
29
Đối với các dự án ĐTPT được phê duyệt, phân bổ kinh phí, tổ chức triển
khai thực hiện, đánh giá, nghiệm thu, thanh quyết toán theo hình thức quản lý đầu
tư xây dựng cơ bản.
(5) Công tác phân bổ kinh phí để triển khai kế hoạch
Căn cứ quyết định phê duyệt danh mục các nhiệm vụ KH&CN của UBND
tỉnh (đối với các đề tài giao trực tiếp) và quyết định phê duyệt tổ chức, cá nhân
trúng tuyển của Giám đốc Sở KH&CN (đối với các đề tài tuyển chọn tổ chức, cá
nhân chủ trì thực hiện), chủ nhiệm và cơ quan chủ trì các đề tài, dự án KH&CN
hoàn thành thuyết minh chi tiết (theo mẫu quy định) gửi về Sở KH&CN. Giám đốc
Sở KH&CN thành lập Hội đồng Thẩm định thuyết minh các đề tài, dự án KH&CN
làm nhiệm vụ thẩm định chi tiết về nội dung và sử dụng kinh phí của các đề tài đã
được phê duyệt (thành phần Hội đồng Thẩm định thuyết minh các đề tài KH&CN
bao gồm một số cán bộ chuyên môn thuộc Sở KH&CN, các cán bộ chuyên môn
thuộc các lĩnh vực liên quan, cán bộ chuyên môn thuộc ngành tài chính).
(5.1) Công tác phối hợp giữa các ngành trong việc chuẩn bị trình HĐND
tỉnh phân bổ kinh phí KH&CN hàng năm:
Trên cơ sở dự toán do Bộ KH&CN và Bộ TC giao, Sở TC phối hợp với Sở
KH&CN dự kiến phân bổ vốn chi thường xuyên, Sở KH&ĐT phối hợp với Sở
KH&CN dự kiến phân bổ vốn đầu tư xây dựng cơ bản báo cáo UBND tỉnh trình
HĐND tỉnh quyết định phân bổ số kinh phí chi cho hoạt động trên địa bàn tỉnh
đảm bảo không thấp hơn dự toán Bộ KH&CN và Bộ TC giao. Sở KH&CN phối
hợp với các sở ngành để xác định kế hoạch nghiên cứu khoa học và phát triển công
nghệ (cấp Nhà nước, cấp tỉnh, cấp cơ sở), các dự án đầu tư tăng cường tiềm lực
KH&CN.
- Kinh phí các nhiệm vụ KH&CN cấp nhà nước (chủ yếu là các dự án tham
gia chương trình nông thôn miền núi của Bộ KH&CN, dự án về SHTT) được dự
toán trong dự toán kinh phí của Sở KH&CN (nếu Sở là cơ quan quản lý), hoặc dự
toán của huyện (nếu các cơ quan của huyện quản lý trực tiếp).
- Kinh phí các nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh do Sở KH&CN dự toán, quản lý
và cấp cho các cơ quan chủ trì theo tiến độ thực hiện.
- Kinh phí các nhiệm vụ cấp cơ sở (của các Sở, ngành, huyện thị), cơ quan
chủ trì xây dựng dự toán, Sở TC cấp cho các Sở, ngành; hoặc UBND huyện giao 30
dự toán cho Phòng Kinh tế để cấp cho đơn vị chủ trì.
(5.2) Căn cứ để trình HĐND tỉnh phân bổ kinh phí cho hoạt động KH&CN
a) Đối với kinh phí sự nghiệp KH&CN
- Chi cho bộ máy theo biên chế sự nghiệp được giao;
- Chi cho các nhiệm vụ KH&CN bố trí theo danh mục đã được UBND tỉnh
phê duyệt (bố trí vốn cho các đề tài chuyển tiếp và các đề tài mới phát sinh trong
năm theo khối lượng thực hiện của từng năm).
- Chi cho các nhiệm vụ đặc thù theo nhu cầu nhiệm vụ chi hằng năm được
cấp có thẩm quyền phê duyệt
b) Đối với kinh phí ĐTPT KH&CN
Căn cứ vào quy hoạch, định hướng và mục tiêu nhiệm vụ phát triển kinh tế
xã hội từng thời kỳ, từng năm, và được phân bổ phù hợp với tình hình thực tế tỉnh.
Sở KH&CN gửi văn bản cho các sở, ngành để đề xuất dự án, phối hợp với
Sở KH&ĐT để xem xét trình UBND tỉnh ban hành chủ trương. Có chủ trương của
UBND tỉnh, Sở KH&ĐT đưa vào kế hoạch và bố trí vốn chuẩn bị đầu tư; Sở
KH&CN đưa vào kế hoạch báo cáo Bộ KH&CN. Nguồn vốn Bộ KH&CN thông
báo được hòa vào nguồn vốn đầu tư của tỉnh. Khi dự án được UBND tỉnh phê
duyệt, Sở KH&ĐT bố trí vốn để thực hiện. Việc quản lý, triển khai các dự án đầu
tư theo quy định của Luật Đầu tư. Kinh phí triển khai các dự án tăng cường tiềm
lực, Sở KH&ĐT bố trí vào dự toán kinh phí của đơn vị chủ đầu tư.
(5.3) Các nội dung phân bổ kinh phí cho hoạt động KH&CN:
- Kinh phí SNKH thực hiện các nhiệm vụ KH&CN gồm kinh phí để thực
hiện các nhiệm vụ chuyển tiếp và triển khai nhiệm vụ mới.
- Kinh phí thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước: Hoạt động của Hội
đồng khoa học; thẩm định và giám định công nghệ; sở hữu trí tuệ, an toàn bức xạ;
thanh tra; quản lý khoa học cơ sở; công tác tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng; công
tác thông tin, hoạt động nghiệp vụ quản lý KH&CN cấp huyện… Nghiên cứu, ứng
dụng, phổ biến khoa học kỹ thuật: Các nhiệm vụ chuyển tiếp năm trước năm kế
hoạch, các nhiệm vụ KHXH&NV và điều tra cơ bản, áp dụng các thành tựu
KH&CN vào sản xuất và đời sống và đối ứng các dự án thuộc chương trình nông
31
thôn miền núi, chương trình 68 của Bộ KH&CN.
- Kinh phí cho hoạt động thường xuyên: lương và hoạt động bộ máy.
- Kinh phí ĐTPT cho KH&CN được sử dụng để chi cho các nội dung xây
dựng và phát triển tiềm lực KH&CN, tăng cường cơ sở vật chất, mua sắm trang
thiết bị kỹ thuật phục vụ quản lý nhà nước về KH&CN (quản lý nhà nước về tiêu
chuẩn đo lường chất lượng, kiểm soát an toàn và bức xạ hạt nhân,...), đầu tư cho
Trung tâm ứng dụng tiến bộ KH&CN, Trung tâm Kỹ thuật tiêu chuẩn đo lường
chất lượng, Trung tâm tin học và thông tin KH&CN để thực hiện chuyển đổi theo
Nghị định 115 của Chính phủ và kiện toàn cơ cấu tổ chức bộ máy theo quy định
hiện hành.
Trong bố trí vốn cho các dự án đầu tư tiềm lực, ưu tiên bố trí vốn cho các dự
án chuyển tiếp, các dự án ĐTPT là đối tượng áp dụng Quyết định 317/QĐ-TTg
ngày 15/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ.
(5.4) Thẩm quyền của cơ quan phân bổ NSĐP
Sau khi kết thúc họp Quốc hội, HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
tổ chức họp HĐND.
Trước ngày 10 tháng 12 năm trước, trên cơ sở quyết định giao nhiệm vụ thu,
chi ngân sách của Thủ tướng Chính phủ, UBND cấp tỉnh trình HĐND cùng cấp
quyết định dự toán NSĐP, phương án phân bổ dự toán ngân sách cấp tỉnh và mức
bổ sung từ ngân sách cấp tỉnh cho ngân sách cấp dưới; báo cáo Bộ TC, Bộ
KH&ĐT dự toán ngân sách tỉnh và kết quả phân bổ dự toán ngân sách cấp tỉnh đã
được HĐND cấp tỉnh quyết định.
HĐND cấp tỉnh quyết định dự toán NSĐP, phân bổ ngân sách cấp tỉnh trước
ngày 10 tháng 12 năm trước. HĐND cấp dưới quyết định dự toán NSĐP, phân bổ
ngân sách cấp mình chậm nhất là sau 10 ngày, kể từ ngày HĐND cấp trên trực tiếp
quyết định dự toán và phân bổ ngân sách. Trường hợp dự toán NSĐP chưa được
HĐND cùng cấp quyết định, UBND lập lại dự toán ngân sách trình HĐND cùng
cấp vào thời gian do HĐND quyết định, nhưng không được chậm hơn ngày 10
tháng 01 năm sau đối với ngân sách tỉnh, ngày 20 tháng 01 năm sau đối với ngân
sách huyện và ngày 30 tháng 01 năm sau đối với ngân sách xã.
Căn cứ vào Nghị quyết của HĐND cấp tỉnh, Sở TC trình UBND cùng cấp
quyết định giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách cho từng cơ quan, đơn vị trực thuộc 32
tỉnh; nhiệm vụ thu, chi, tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu giữa NSTƯ và
NSĐP (phần NSĐP hưởng) và giữa các cấp chính quyền địa phương, mức bổ sung
từ ngân sách cấp tỉnh cho từng huyện, dự toán chi từ nguồn kinh phí ủy quyền của
ngân sách trung ương, dự toán chi từ nguồn kinh phí ủy quyền của ngân sách cấp
tỉnh (nếu có) cho từng huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Sau khi nhận được quyết định giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách của UBND
cấp trên, UBND trình HĐND cùng cấp quyết định dự toán thu, chi NSĐP và
phương án phân bổ dự toán ngân sách cấp mình chậm nhất là 10 ngày kể từ ngày
HĐND cấp trên trực tiếp quyết định dự toán và phân bổ ngân sách.
Sau khi nhận được dự toán thu, chi ngân sách được cấp có thẩm quyền giao,
các đơn vị dự toán phải tổ chức phân bổ và giao dự toán thu, chi ngân sách cho
từng đơn vị trực thuộc, kể cả dự toán chi từ nguồn kinh phí ủy quyền (nếu có)
trước ngày 31 tháng 12 năm trước.
Chậm nhất 5 ngày sau khi HĐND quyết định dự toán ngân sách hoặc dự toán
ngân sách điều chỉnh, UBND có trách nhiệm báo cáo UBND và cơ quan tài chính cấp
trên (UBND cấp tỉnh báo cáo Bộ TC, Bộ KH&ĐT dự toán ngân sách tỉnh).
Bộ TC kiểm tra nghị quyết về dự toán ngân sách của HĐND cấp tỉnh, trong
trường hợp cần thiết báo cáo Thủ tướng Chính phủ, yêu cầu UBND cấp tỉnh trình
HĐND điều chỉnh lại dự toán NSĐP. Cơ quan tài chính các cấp ở địa phương kiểm
tra nghị quyết về dự toán ngân sách của HĐND cấp dưới, trong trường hợp cần thiết
báo cáo UBND cùng cấp yêu cầu HĐND cấp dưới điều chỉnh lại dự toán ngân sách.
Tiểu kết Chương I
Nội dung Chương I đã tập trung làm rõ khái niệm về khoa học và công
nghệ, khái niệm về ngân sách nhà nước; tổng quan về lập dự toán, phân bổ, sử
dụng ngân sách nhà nước; chi nghiên cứu và phát triển theo nguồn cấp và khu vực
thực hiện. Đó là những cơ sở lý thuyết cơ bản cho việc phân tích thực trạng việc
33
phân bổ, sử dụng ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ ở nước ta.
CHƢƠNG II THỰC TRẠNG PHÂN BỔ NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC CHO KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRONG GIAI ĐOẠN 2006-2013
2.1. Thực trạng phân bổ, sử dụng ngân sách nhà nước cho khoa học và
công nghệ của cơ quan trung ương
2.1.1. Sử dụng ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ
Hàng năm, chi NSNN cho KH&CN có 2 mục chi chính:
(1) Kinh phí chi đầu tư phát triển khoa học và công nghệ
(2) Kinh phí chi sự nghiệp khoa học và công nghệ.
a. Kinh phí chi ĐTPT KH&CN
- Kinh phí chi ĐTPT KH&CN ở Trung ương, gồm: ĐTPT cho các tổ chức
KH&CN trực thuộc các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; ĐTPT
các PTNTĐ quốc gia, các phòng thí nghiệm chuyên ngành; Các khu công nghệ cao
Hòa Lạc, công nghệ cao Đà Nẵng, khu công nghệ cao Hồ Chí Minh.
- Kinh phí chi ĐTPT KH&CN ở địa phương, được dành cho các tổ chức
KH&CN như trung tâm ứng dụng tiến bộ KH&CN, trung tâm kỹ thuật tiêu chuẩn
đo lường chất lượng thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các tổ chức
dịch vụ KH&CN.
b. Kinh phí chi SNKH&CN
- Kinh phí chi SNKH&CN từ nguồn ngân sách Trung ương được chi cho các
nội dung sau: Chi cho các hoạt động và nhiệm vụ KH&CN cấp bộ (bao gồm cả chi
lương và hoạt động KH&CN cấp Bộ); Chi cho thực hiện nhiệm vụ KH&CN cấp
Nhà nước; Kinh phí cấp cho Quỹ phát triển KH&CN Quốc gia.
- Kinh phí chi SNKH&CN từ nguồn ngân sách địa phương được chi cho các
nội dung sau: Chi cho thực hiện các nhiệm vụ khoa học và nghệ gồm kinh phí để
thực hiện các nhiệm vụ chuyển tiếp và triển khai nhiệm vụ mới; Kinh phí thực hiện
các nhiệm vụ quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ, kiểm soát và an toàn bức xạ hạt
nhân, quản lý khoa học, tiêu chuẩn đo lường chất lượng,...; Kinh phí cho hoạt động
thường xuyên: lương và hoạt động bộ máy; Chi cho các nhiệm vụ đặc thù theo nhu
34
cầu nhiệm vụ chi hằng năm được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
2.1.2. Đối tượng được sử dụng ngân sách nhà nước cho khoa học và
công nghệ
a. Tổ chức KH&CN do Chính phủ thành lập
(1) Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam là cơ quan thuộc Chính phủ, có chức
năng nghiên cứu cơ bản về khoa học tự nhiên và phát triển công nghệ; cung cấp
luận cứ khoa học cho công tác quản lý khoa học, công nghệ và xây dựng chính
sách, chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội; đào tạo nhân lực khoa học,
công nghệ có trình độ cao theo quy định của pháp luật.
Đến nay, cơ cấu tổ chức của Viện Hàn lâm gồm 50 đơn vị trực thuộc, trong
đó có 33 đơn vị sự nghiệp nghiên cứu khoa học, 6 đơn vị giúp Chủ tịch Viện, 6 đơn
vị sự nghiệp khác phục vụ yêu cầu quản lý của Viện Hàn lâm, 4 đơn vị tự trang trải
kinh phí (không nhận kinh phí của Nhà nước) và 1 doanh nghiệp Nhà nước.
Tính đến tháng 12/2013, Viện Hàn lâm có tổng số trên 4000 cán bộ, công chức,
viên chức, trong đó có 2649 cán bộ trong biên chế; 44 Giáo sư, 161 PGS, 35 TSKH,
706 TS, 781 ThS và 794 cán bộ, viên chức có trình độ đại học. Lực lượng cán bộ khoa
học này vừa làm công tác nghiên cứu khoa học, triển khai ứng dụng và tham gia vào
công tác đào tạo ở bậc đại học và sau đại học ở các cơ sở đào tạo sau đại học thuộc
Viện Hàn lâm cũng như các cơ sở đào tạo trong cả nước.
(2) Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam là cơ quan thuộc Chính phủ, có
chức năng nghiên cứu những vấn đề cơ bản về khoa học xã hội; cung cấp luận cứ
khoa học cho Đảng và Nhà nước trong việc hoạch định đường lối, chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển nhanh và bền vững của đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa; thực hiện tư vấn về chính sách phát triển; đào tạo sau đại
học về khoa học xã hội; tham gia phát triển tiềm lực khoa học xã hội của cả nước.
Đến nay, cơ cấu tổ chức của Viện Hàn lâm gồm 42 đơn vị trực thuộc, trong
đó có 32 đơn vị nghiên cứu khoa học, 5 đơn vị giúp Chủ tịch Viện, 5 đơn vị sự
nghiệp khác.
Tổng số biên chế của Viện tính là: l449, trong đó có 134 Giáo sư và Phó
Giáo sư, 273 Tiến sĩ khoa học và Tiến sĩ, 301 Thạc sĩ thuộc các chuyên ngành
35
khoa học xã hội.
b. Tổ chức KH&CN do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ thành lập
(1) Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, trước năm 2005, hệ thống
nghiên cứu KHCN thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn có 19 Viện
nghiên cứu (16 viện nghiên cứu về nông nghiệp, 2 viện nghiên cứu về thuỷ lợi, 1
viện nghiên cứu về lâm nghiêp) và Bộ Thủy sản (hợp nhất với Bộ Nông nghiệp và
PTNT năm 2007) 4 Viện nghiên cứu về thuỷ sản. Theo Quyết định số 930/QĐ-
TTg ngày 09/9/2005, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt đề án sắp xếp hệ thống tổ
chức khoa học thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn theo nguyên tắc
nâng cao tính hệ thống và hiệu quả, phát huy tính chủ động và năng động của các
đơn vị, phù hợp với đổi mới cơ chế hoạt động khoa học công nghệ.
Năm 2012, hệ thống nghiên cứu này được tổ chức lại còn 11 Viện, các Viện
nghiên cứu này được hưởng lương SNKH. Lĩnh vực nông nghiệp có 5 Viện, gồm
Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, Viện Chăn nuôi, Viện Thú y, Viện Cơ điện
nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch, Viện Chính sách và chiến lược phát triển
nông nghiệp nông thôn. Trong đó Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam có 18 đơn
vị thành viên; Viện Khoa học Thủy lợi có 14 đơn vị thành viên; Viện Khoa học Lâm
nghiệp Việt Nam có 13 đơn vị thành viên và 4 Viện nghiên cứu về Thuỷ hải sản
(Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I, II, III và Viện Nghiên cứu Hải sản).
Các tổ chức trên đều thuộc đối tượng điều chỉnh của Nghị định 115, đến
tháng 6/2011 Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã phê duyệt được 156 đề
án của các tổ chức KH&CN thuộc diện chuyển đổi. Trong năm 2012, Viện Khoa
học Lâm nghiệp Việt Nam và Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam có sự thay
đổi về cơ cấu tổ chức, hiện nay các đơn vị này đang xây dựng đề án mới để trình
Bộ phê duyệt. Không có đơn vị nào chuyển sang cơ chế hoạt động qui định tại
Nghị định 80/2007/NĐ-CP của Chính phủ về doanh nghiệp khoa học công nghệ.
Đội ngũ cán bộ KH&CN trực tiếp nghiên cứu, đào tạo và phục vụ nghiên
cứu khoa học công nghệ nông nghiệp thuộc các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, thú
y, cơ điện và công nghệ sau thu hoạch, thuỷ lợi, thuỷ sản và lâm nghiệp của 11
36
Viện, Trung tâm và 3 trường Đại học (Thuỷ lợi, Lâm nghiệp và Đại học Nông lâm
Bắc Giang) có trên 10.800 người, trong đó có 134 giáo sư và phó giáo sư, 600 tiến
sỹ khoa học và tiến sỹ, 1801 thạc sỹ, 5444 đại học, số còn lại là trung cấp và công
nhân kỹ thuật.
Cán bộ KH&CN làm việc trong 11 Tổ chức KH&CN trực thuộc Bộ là 7934
người trong đó có 67 giáo sư và phó giáo sư, 426 tiến sỹ khoa học và tiến sỹ, 1268
thạc sỹ, 3809 đại học và cao đẳng, số còn lại là trung cấp và công nhân kỹ thuật
phục vụ nghiên cứu, thí nghiệm, số người được hưởng lương từ ngân sách SNKH
của nhà nước là 4861 người chiếm tỷ lệ 58,54%.
(2) Bộ Giáo dục và Đào tạo14,16, hiện nay, theo số liệu đến hết năm 2013,
trên cả nước có 421 trường đại học và cao đẳng (207 trường đại học và 214 trường
cao đẳng - gọi chung là cơ sở giáo dục đại học). Trong 207 trường đại học lại gồm
có 2 đại học quốc gia (Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Tp. HCM), 3
đại học vùng (Đại học Thái Nguyên, Đại học Huế, Đại học Đà Nẵng, còn lại (202)
là các trường đại học, học viện, viện đại học (sau đây gọi chung là các trường đại
học), về hình thức quản lý, các trường đại học có thể thuộc quản lý nhà nước hay
công lập (153 trường), ngoài công lập (54 trường); có thể đào tạo tuyển sinh cả
nước, theo vùng hay tỉnh với quy mô sinh viên đại học năm học 2010-2011 là
1.435.887, và có 50.951 giảng viên (7.338 tiến sỹ, 22.865 thạc sĩ, 434 chuyên khoa
I và II, còn lại là trình độ đại học). Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo trực tiếp
quản lý 3 đại học vùng (có 20 trường đại học thành viên), 32 trường đại học, học
viện, 3 trường cao đẳng, 2 viện nghiên cứu, chiếm 11/16 trường đại học trọng điểm
của cả nước. Các trường đại học, cao đẳng trực thuộc Bộ phân bố trên tất cả các
vùng địa lý của đất nước nhưng tập trung chủ yếu ở Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh,
Thái Nguyên, Huế, Đà Nẵng. Có số giảng viên, nghiên cứu viên là 23.571 người,
trong đó có 106 giáo sư, 1.097 phó giáo sư, 2.762 tiến sĩ và tiến sĩ khoa học, 9.551
thạc sĩ, 10.055 cử nhân và kỹ sư.
Nhiệm vụ chính của các đại học, trường đại học là đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao và hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ phục vụ sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Hoạt động nghiên cứu khoa học của các trường
đại học gắn kết chặt chẽ với quá trình đào tạo, đặc biệt là đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ. Đây là 37
điểm khác biệt quan trọng của các trường đại học so với các tổ chức KH&CN khác.
Đồng thời, hoạt động KH&CN của các trường đại học và cao đẳng được đặt trong mối
quan hệ mật thiết với hoạt động đào tạo phát triển nguồn nhân lực. Chúng tôi17 cứ đeo
đẳng mãi ý nghĩ “Thì ra tổ chức nghiên cứu công nghệ của Tây nó gắn với sản xuất hơn
ta” và kết luận “Thì ra số phận các viện nghiên cứu ở nước ta giống nhau cả. Nghiên
cứu khoa học tách rời đại học; nghiên cứu công nghệ tách rời sản xuất”.
c. Tổ chức KH&CN trong các trường đại học
(1) Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm đào tạo đại
học, sau đại học và nghiên cứu khoa học - công nghệ đa ngành, đa lĩnh vực, chất
lượng cao, đạt trình độ tiên tiến, làm nòng cốt cho hệ thống giáo dục đại học, đáp
ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Năm 2014, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh có tổng cộng hơn
5.600 cán bộ - công chức với khoảng 2.600 cán bộ giảng dạy, 2.200 cán bộ quản lý
và 800 cán bộ nghiên cứu. Trong đó gồm: 250 Giáo sư, Phó Giáo sư, 1000 tiến sĩ,
1800 thạc sĩ.
(2) Đại học Quốc gia Hà Nội là trung tâm đào tạo đại học, sau đại học,
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đa ngành, đa lĩnh vực có truyền thống
lâu đời nhất và lớn nhất của cả nước, có sứ mệnh đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao, trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài, sáng tạo, nghiên cứu khoa học và phát
triển công nghệ đỉnh cao; đóng vai trò nòng cột và đầu tầu đổi mới trong hệ thống
giáo dục đại học Việt Nam; là một trong những đơn vị có năng lực khoa học công
nghệ và đào tạo mạnh nhất trong cả nước, là nơi quy tụ đông đảo đội ngũ nhà giáo
- nhà khoa học có trình độ chuyên môn cao thuộc các lĩnh vực khoa học cơ bản,
khoa học ứng dụng của nhiều ngành khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân
văn, kinh tế, kinh doanh và công nghệ.
Hiện nay, Đại học Quốc gia Hà Nội có 3.475 cán bộ, viên chức cơ hữu,
trong đó có 1.878 người là giảng viên, với 46 GS, 262 PGS, 21 TSKH, 700 TS,
trên 960 thạc sĩ. Ở ĐHQGHN, tỉ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ trở lên đạt trên
37,5%, tỉ lệ giảng viên có học hàm GS, PGS đạt trên 17,1%, cao nhất trong toàn bộ
hệ thống giáo dục đại học cả nước, trong đó có nhiều nhà khoa học đầu ngành, đầu 38
đàn có uy tín lớn ở trong và ngoài nước ở các lĩnh vực khoa học cơ bản, khoa học
ứng dụng cũng như công nghệ.
2.1.3. Đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ
Hiện nay, NSNN đầu tư hàng năm cho hoạt động KH&CN đạt 2% tổng chi
NSNN đúng theo quy định của Luật KH&CN. Tổng đầu tư cho hoạt động KH&CN
từ NSNN giai đoạn 2006 - 2013 là 73.905 triệu đồng; đầu tư từ NSNN cho
KH&CN tiếp tục được tăng cường và phát huy tính tích cực trong việc thúc đẩy
hoạt động KH&CN phát triển.
Đầu tư từ NSNN cho hoạt động KH&CN đã đảm bảo được mục tiêu đặt ra
theo Luật KH&CN là đạt 2% tổng chi NSNN (khoảng 0,5-0,6% GDP) và giá trị
tuyệt đối đạt tốc độ tăng chi bình quân là 14,84/năm trong giai đoạn 2006 -2013.
Đến nay, NSNN vẫn là nguồn lực chủ đạo, chiếm tới 70% tổng đầu tư của toàn xã hội cho hoạt động KH&CN14, 41 .
Bảng 2.1. Tổng hợp tình hình phân bổ ngân sách KH&CN giai đoạn 2006-2013
2007
2008
2009
2010
2011
2006
Đơn vị: Tỷ đồng 2012
2013
Năm Nội dung
Tổng chi NSNN
292.700 348.000
390.000
486.000
575.000
725.600
903.100
978.000
14.512
18.062
19.560
5.854
6.960
7.800
9.720
11.500
2% NS dành cho KH&CN
5.429
13.168
13.869
6.310
6.585
7.867
9.178
11.499
Tổng đầu tƣ cho KH&CN
1,85
1,46
1,42
1,81
1,69
1,62
1,60
1,58
Tỷ lệ tổng đầu tƣ cho KH&CN/Tổng chi NSNN (%)
14,51
7,41
16,22
4,36
19,46
16,66
25,28
Tốc độ tăng trưởng kinh cho phí KH&CN (%)
Vốn ĐTPT
2.272
2.730
2.758
3.477
4.088
5.069
6.008
6.136
ĐTPT địa phương
1.020
1.200
1.490
1.615
2.149
2.715
2.990
3.300
ĐTPT trung ương
1.252
1.530
1.268
1.862
1.939
2.354
3.018
2.836
Kinh phí SNKH
3.157
3.580
3.827
4.390
5.090
6.430
7.160
7.733
SNKH địa phương
753
880
957
1.080
1.240
1.560
1.750
1.920
SNKH trung ương
2.404
2.700
2.870
3.310
3.850
4.870
5.410
5.813
650
1.215
1.853
2.322
3.013
425
4.894
5.691
Chi khác AN,QP, dự trữ
39
Bảng 2.2. Cơ cấu chi cho KH&CN từ NSTU và NSĐP
Ngân sách trung ƣơng
Năm
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
Tổng chi dành cho KH&CN (Tỷ đồng)
Số tiền (tỷ đồng) 3.656
Ngân sách địa phƣơng Số tiền (tỷ đồng) 1.773
32,65
5.429
67,34
2006
6.310
4.230
67,03
2.080
32,96
2007
6.585
4.138
62,84
2.447
37,16
2008
7.867
5.172
65,74
2.695
34,25
2009
9.178
5.789
63,07
3.389
36,92
2010
11.499
7.224
62,82
4.275
37,17
2011
13.168
8.428
64,0
4.740
36,00
2012
13.869
8.924
63,09
5.220
37,64
2013
Bảng 2.3. Cơ cấu chi cho KH&CN giữa ĐTPT và SNKH
Năm
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
Tổng chi dành cho KH&CN (Tỷ đồng) 5.429 6.310 6.585 7.867 9.178 11.499 13.168 13.869
Đầu tƣ phát triển Số tiền (tỷ đồng) 2.272 2.730 2.758 3.477 4.088 5.069 6.008 6.136
41,85 44,54 41,88 44,19 44,54 44,08 45,63 44,25
Sự nghiệp khoa học Số tiền (tỷ đồng) 3.157 3.580 3.827 4.390 5.090 6.430 7.160 7.733
58,15 58,40 58,12 55,80 55,46 55,92 54,37 56,60
2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Bảng 2.4. Cơ cấu chi đầu tƣ phát triển
Ngân sách trung ƣơng
Năm
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
Tổng chi Đầu tƣ phát triển (Tỷ đồng) 2.272 2.730 2.758 3.477 4.088 5.069 6.088 6.136
Số tiền (tỷ đồng) 1.252 1.530 1.268 1.862 1.939 2.354 3.018 2.836
55,11 56,04 45,98 53,55 47,43 46,44 50,23 46,22
Ngân sách địa phƣơng Số tiền (tỷ đồng) 1.020 1.200 1.490 1.615 2.149 2.715 2.990 3.300
44,89 43,96 54,03 46,45 52,57 53,56 49,77 53,78
2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
40
Bảng 2.5. Cơ cấu chi sự nghiệp khoa học
Ngân sách trung ƣơng
Năm
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Tổng chi Sự nghiệp khoa học (Tỷ đồng) 3.157 3.580 3.827 4.390 5.090 6.430 7.160 7.733
Số tiền (tỷ đồng) 2.404 2.700 2.870 3.310 3.850 4.870 5.410 5.813
Ngân sách địa phƣơng Số tiền (tỷ đồng) 753 880 957 1.080 1.240 1.560 1.750 1.920
23,85 24,58 25,00 24,60 24,36 24,26 24,44 24,83
76,15 75,42 74,99 75,40 75,64 75,74 75,56 75,17
- Tổng đầu tư từ NSNN cho hoạt động KH&CN giai đoạn 2006-2013 là
73.905 tỷ đồng, bao gồm:
Hình 2.1. Ngân sách nhà nƣớc đầu tƣ cho khoa học và công nghệ trong giai đoạn từ 2006-2013
- Kinh phí ĐTPT: 32.538 tỷ đồng, chiếm 44%;
+ Trung ương: 16.059 tỷ đồng (bằng 49% tổng kinh phí ĐTPT)
41
+ Địa phương: 16.479 tỷ đồng (bằng 51% tổng kinh phí ĐTPT)
- Kinh phí SNKH: 41.642 tỷ đồng (56%), trong đó:
+ Trung ương: 31.502 tỷ đồng (bằng 75,65% tổng kinh phí sự nghiệp)
+ Địa phương: 10.140 tỷ đồng (bằng 24,35% tổng kinh phí sự nghiệp)
- Kinh phí chi cho nghiên cứu KHCN trong an ninh quốc phòng và dự trữ là
19.788 tỷ đồng (21,06%).
Như vậy, xét theo giá trị tuyệt đối, trong giai đoạn 2006-2013, lĩnh vực
KH&CN được bố trí như sau:
- Phân theo loại hình đầu tư: Chi ĐTPT là 32.538 tỷ đồng (trung ương
16.059 tỷ đồng, địa phương 16.479 tỷ đồng), chi sự nghiệp KH&CN là 41.642 tỷ
đồng, (trung ương 31.502 tỷ đồng, địa phương 10.140 tỷ đồng).
- Phân theo cấp quản lý: Chi cho hoạt động KH&CN ở trung ương chiếm tới
2/3 tổng chi NSNN (khoảng 64%/năm) và ở địa phương là khoảng 1/3 tổng chi
NSNN (khoảng 36%/năm).
Về cơ cấu chi, trong giai đoạn 2006-2013, cơ cấu chi cho KH&CN từ NSTƯ
và NSĐP, NSTƯ là 47.561 tỷ đồng chiếm 64%, NSĐP là 26.619 tỷ đồng chiếm
36%; cơ cấu chi cho KH&CN giữa chi ĐTPT là 32.538 tỷ đồng chiếm 44% với chi
SNKH là 41.367 tỷ đồng chiếm 56%; cơ cấu chi ĐTPT của NSTƯ là 16.059 tỷ
đồng chiếm 49%, NSĐP là 16.479 tỷ đồng chiếm 51%; cơ cấu chi SNKH của
NSTƯ là 31.227 tỷ đồng chiếm 75,5%, còn NSĐP là 10.140 tỷ đồng chiếm 24,5%.
2.1.4. Phân bổ ngân sách nhà nước
Hiện nay, Luật NSNN quy định trong chi ĐTPT và chi thường xuyên có
mức chi cụ thể cho các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, KH&CN. Do đó khi Bộ TC ra
quyết định giao dự toán chi NSNN hàng năm đều có mức chi cụ thể cho 2 lĩnh vực
giáo dục và đào tạo, KH&CN ở mục chi ĐTPT và chi thường xuyên. Tuy nhiên,
Bộ KH&ĐT ra quyết định giao dự toán chi NSNN hàng năm đều không có mục
chi ĐTPT cho KH&CN. Dẫn đến một số địa phương do khó khăn nên đã tùy tiện
bố trí nguồn vốn này vào mục đích khác. Ví dụ, tỉnh Ninh Bình, Hà Nam…trong 3
năm liền 2010 – 2012 gần như không sử dụng kinh phí này cho KH&CN. Tại một
số địa phương, thiếu sự phối hợp giữa các Sở KH&CN, Sở KH&ĐT, Sở TC…
trong công tác tổng hợp kế hoạch, phân bổ và giao kế hoạch vốn ĐTPT từ ngân 42
sách cho địa phương.
Chưa có nội dung quy định riêng về nguyên tắc, tiêu chí, định mức phân bổ
vốn ĐTPT từ ngân sách dành cho KH&CN, nên hàng năm, việc phân bổ phần kinh
phí này cho các địa phương vẫn được thực hiện như các lĩnh vực khác, không phù
hợp với đặc thù KH&CN.
Cơ cấu trong dự toán chi 2% ngân sách cho KH&CN thời gian qua có xu
hướng giảm chi thường xuyên, giảm chi ĐTPT và tăng chi cho quốc phòng – an ninh,
dự trữ.
Bộ, ngành = 17,09%
Chi ĐTPT = 34,6%
Tỉnh, thành phố = 17,54%
Bộ, ngành = 33,5%
Chi SNKH = 44,3%
Tỉnh, thành phố = 10,8%
2% chi NSNN phát triển KH&CN = 100%
Chi khác AN,QP, dự trữ = 21,06%
Hình 2.2. Phân bổ NSNN cho KH&CN bình quân trong giai đoạn 2006-2013
Mặt khác, trong tổng kinh phí ĐTPT từ ngân sách cho KHCN lại “cào bằng”
50-50 giữa các tổ chức KH&CN khối Trung ương và khối địa phương. Trong khi
khối Trung ương có tiềm lực KH&CN mạnh hơn. Điều đó dẫn đến tình trạng, tổ
chức KH&CN khối Trung ương cần đầu tư thì thiếu vốn; ngược lại, địa phương đã
dùng vốn này để đầu tư cho các dự án không thuộc lĩnh vực KH&CN. Trong giai
đoạn 2006-2013, bình quân chi ĐTPT của NSTƯ là 16.059 tỷ đồng (49%) và NSĐP
là 16.479 tỷ đồng (51%). Trong giai đoạn 2006 – 2012, tỷ lệ giải ngân bình quân của
63 địa phương chỉ đạt gần 40% kế hoạch. Còn năm 2013 đạt 65,3% kế hoạch.
2.1.5. Đề tài, dự án do các bộ, ngành thực hiện
- Giai đoạn 2006-2010, có 14 chương trình KH&CN trọng điểm cấp Nhà
nước, gồm 10 chương trình KC (chương trình thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên) và 43
4 Chương trình KX (chương trình thuộc lĩnh vực khoa học xã hội). Tổng kinh phí
phê duyệt và giao dự toán từ NSNN cả giai đoạn là: 1.096.068 triệu đồng.
STT Nội dung chi
2010
2011
2012
2013
Kinh phí
(%) Kinh phí
(%)
Kinh phí
(%)
(%)
1.181,4 256,6
100 21,7
1.703 214,5
100 12,6
1.632,3
100
Kinh phí 2.339,1
100
1
Tổng Nhiệm vụ theo chỉ đạo Thủ tướng
924,7
78,3
1.488,5
87,4
2
Các nhiệm vụ KH&CN cấp nhà nước
211,7
18,0
254,2
15,0
590,0
36,1
455
19,45
2.1
Chương trình KH&CN cấp nhà nước
2.2 Đề tài, dự án độc lập
257,5
21,8
334,9
210.9
13,9
256,48
10,96
19,7
43,0
65.5
4,0
14,58
0,62
2,5
165
13,9
251,3
14,8
370,1
22,7
848,15
36,26
2.4
2,1
36,3
9,6
0,8
24,2
1,6
14,82
0,63
7,6
129,1
100,2
8,5
154,6
9,4
154,66
6,61
2.3 Dự án KH&CN quy mô lớn và chương trình sản phẩm quốc gia Các chương trình/Đề án KH&CN trọng điểm do các bộ, ngành thực hiện 2.5 Nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng 2.6 Hợp tác nghiên cứu theo
0,5
8,0
8,0
0,7
10,0
0,6
10
0,43
Nghị định thư 2.7 Hoạt động của các hội
0,9
15,0
15,0
1,3
15,0
0,9
7,64
0,3
đồng tư vấn 2.8 Nhiệm vụ KH&CN
trọng điểm địa phương
Thị trường công nghệ
0,3 5,6
5,0 96,0
5,0 90,8
0,4 7,7
7,0 150,0
0,4 9,2
8,7
0,37
2.9 2.10 Chương trình nông thôn
miền núi
1,5
25,6
35,0
2,1
60
2,57
2.11 Các đề án khai thác Quỹ
gen
1,8
110
110
4,7
2.12 Đề án mạng lưới
50,0
4,2
30,0
KH&CN ở nước ngoài
1,4
25,0
199,1
8,5
11,9
1,0
220,1
12,9
8,6
100
100
250
12,3
200
2.13 Kinh phí trao giải thưởng Nhà nước 2.14 Nhiệm vụ KH&CN cấp nhà nước khác 2.15 Bổ sung cho Quỹ phát triển KH&CN quốc gia
Bảng 2.6. Cơ cấu chi của nhiệm vụ cấp nhà nƣớc (tỷ đồng)
Trong bảng 2.6 ta thấy tỷ lệ các chương trình/Đề án KH&CN trọng điểm14
do các bộ, ngành thực hiện trong giai đoạn từ 2010-2013 tăng dần từ 13,9% lên
36,26%, còn nhiệm vụ KH&CN trọng điểm địa phương trong giai đoạn này thì
giảm từ 1,3% xuống còn 0,3%.
Theo đánh giá của Bộ KH&CN, khối khoa học kỹ thuật đã nghiên cứu thành
44
công nhiều đề tài khoa học có giá trị ứng dụng cao, góp phần giải quyết các vấn đề
bức thiết phát sinh trong thực tế (Như các loại vắc xin trong lĩnh vực y tế và thú y;
các loại thuốc cai nghiện; các ứng dụng công nghệ sinh học trong sản xuất giống,
phân bón phục vụ nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản; các ứng dụng từ công nghệ
vật liệu mới, công nghệ tự động hoá, công nghệ chế tạo máy… vào thực tiễn sản
xuất của các doanh nghiệp); khối khoa học xã hội đã nghiên cứu nhiều đề tài quan
trọng (Các đề tài về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam và xây dựng Nhà nước
pháp quyền; các luận chứng về phát triển kinh tế; các vấn đề về dân tộc, tôn giáo,
lịch sử văn hoá; các vấn đề kinh tế quốc tế và hội nhập; các vấn đề về an ninh,
quốc phòng…). Ngoài ra, đã rút ngắn khoảng cách về trình độ khoa học cơ bản
giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới
Trong đó
STT Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ được điều tra về NC&PT năm 2012
Tổng số đề tài/dự án thực hiện trong năm
Số đề tài đã nghiên cứu trong năm
Chuyển tiếp từ năm trước
Phê duyệt mới trong năm
809 6.402 344 88 224 175
85 1.658 25 1 46 17
554 4.784 279 68 163 144
524 4.128 232 67 133 114
1 Bộ Công Thương 2 Bộ Giáo dục và Đào tạo 3 Bộ Giao thông Vận tải 4 Bộ Kế hoạch và Đầu tư 5 Bộ Khoa học và Công nghệ 6 Bộ Lao động, Thương binh và
35 1.750
5 682
30 635
8 800
Xã hội 7 Bộ Nội vụ 8 Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn
9 Bộ Tài nguyên và Môi trường 10 Bộ Thông tin và truyền thông 11 Bộ Tư pháp 12 Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
161 81 77 259
49 3 38 89
110 78 35 168
72 74 53 166
101 1.899 11 277
29 488 3 5
3 1.478 3 236
83 978 1 257
13 Bộ Xây dựng 14 Bộ Y tế 15 Đài truyền hình Việt Nam 16 Học viện Chính trị hành chính
quốc gia HCM 17 Ngân hàng nhà nước 18 Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam 19 Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam
Tổng cộng
313 1.290 302 14.588
101 535 89 3.948
211 683 152 9.814
118 627 89 8.524
45
Bảng 2.7. Đề tài/dự án do một số bộ, ngành thực hiện năm 2011
- Kinh phí cân đối thực hiện ĐTPT cho KH&CN nông thôn miền núi giai
đoạn 2006-2010 là 535.567 triệu đồng (Chương trình đã huy động trên 1.200 lượt
cán bộ khoa học từ 68 tổ chức KH&CN của Trung ương và địa phương trong cả
nước về phục vụ tại địa bàn nông thôn và miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số, đã xây dựng được 856 mô hình, đào tạo được trên 1.566 kỹ
thuật viên cơ sở và tập huấn công nghệ cho trên 35.136 lượt nông dân.).
Theo số liệu điều tra NC&PT năm 2012, trong năm 2011, các bộ, ngành đã
thực hiện 14.588 đề tài, dự án, trong đó có 9.814 đề tài, dự án được phê duyệt mới
(chiếm 62,27%); có 8.524 đề tài, dự án được nghiệm thu (chiếm 58,43%).
- Giai đoạn 2011-2015, Chính phủ xây dựng 15 chương trình KH&CN trọng
điểm cấp nhà nước, trong đó có 10 chương trình khoa học công nghệ (ký hiệu là
KC) và 5 chương trình khoa học xã hội (ký hiệu là KX). Các chương trình được
xây dựng trên cơ sở mục tiêu, các nội dung nghiên cứu, các sản phẩm dự kiến đạt
được và các chỉ tiêu đánh giá.
Đối với các chương trình KH&CN trọng điểm cấp nhà nước, năm 2013, có
266 nhiệm vụ chuyển tiếp và có 83 nhiệm vụ thuộc kế hoạch năm 2013 được triển
khai thực hiện. Trên cơ sở gần 360 đề xuất từ các bộ, ngành, địa phương và tổ chức
KH&CN, Bộ KH&CN đã lựa chọn được 91 nhiệm vụ đưa vào thực hiện trong kế
hoạch năm 2014.
Năm 2011, trong số các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có
cung cấp số liệu trong cuộc Điều tra NC&PT 2012, Bộ Giáo dục và Đào tạo có
tổng số đề tài/dự án thực hiện trong năm nhiều nhất với 6.402 đề tài/dự án (chiếm
43,88% trong tổng số 14.588 đề tài/dự án, tuy nhiên đa số đề tài là cấp cơ sở), tiếp
đến là Bộ Y tế (1.889), Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (1.750), Viện Hàn
lâm KH&CN Việt Nam (1.290). (bảng 2.7.).
Bộ Giáo dục và Đào tạo có số đề tài/dự án đã nghiệm thu trong năm 2011
nhiều nhất, với 4.128 đề tài/dự án (chiếm 48,42% trong tổng số 8.524 đề tài/dự án
do các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện đã được nghiệm
46
thu), tiếp đến là Bộ Y tế (978), Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (800),
Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam (627).
2.1.6. Về thực hiện đầu tư cho khoa học và công nghệ trong các doanh
nghiệp (Tập đoàn, Tổng công ty) của Nhà nước
- Thông qua việc xây dựng các cơ chế, chính sách (Nghị định số
119/1999/NĐ-CP), cơ chế hỗ trợ thực hiện các dự án KH&CN của các doanh
nghiệp và cơ chế đấu thầu, đặt hàng thực hiện các đề tài độc lập cấp Nhà nước,
NSNN đã tăng cường đầu tư hỗ trợ các doanh nghiệp nghiên cứu khoa học (Giai
đoạn 2006-2010, kinh phí hỗ trợ trực tiếp từ NSNN đối với hoạt động KH&CN của
doanh nghiệp là 38.240 triệu đồng. Bên cạnh việc cấp kinh phí từ NSNN đối với
hoạt động được ký kết trước năm 2008; những hợp đồng ký kết sau 2008 được
chuyển sang Quỹ phát triển KH&CN quốc gia để Quỹ thực hiện hỗ trợ doanh
nghiệp theo cơ chế tài chính của Quỹ).
- Các doanh nghiệp ngày càng đầu tư nhiều hơn cho KH&CN. Bình quân
một doanh nghiệp chi cho KH&CN đã tăng gấp 2 lần từ khoảng 2,4 tỷ đồng lên
đến 5 tỷ đồng. Mức đầu tư cho KH&CN chiếm khoảng 2,8% tổng nguồn vốn của
doanh nghiệp năm 2010. Các doanh nghiệp đã đạt được một số kết quả đáng khích
lệ trong việc đổi mới công nghệ và ứng dụng tiến bộ khoa học.
- Nhiều doanh nghiệp đã chú trọng đổi mới công nghệ, tạo ra những sản
phẩm, dịch vụ khác biệt, mang tính đột phá, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu
quả và khả năng cạnh tranh của mình. Tuy nhiên, công tác nghiên cứu triển khai ít
được chú trọng do hầu hết các doanh nghiệp (khoảng 95 % doanh nghiệp) có quy
mô nhỏ và rất nhỏ, do đó nguồn lực còn hạn chế, nhất là về vốn (Các hoạt động
KH&CN mà doanh nghiệp tiến hành là nghiên cứu triển khai và đổi mới công
nghệ, tỷ trọng dành cho nghiên cứu triển khai đã giảm mạnh trong cơ cấu đầu tư
cho KH&CN ở doanh nghiệp từ 55,3% năm 2007 xuống còn 38,35% năm 2010.
Chi phí đổi mới công nghệ bình quân của mỗi doanh nghiệp khoảng 712 triệu
đồng, chiếm 33% trong tổng mức đầu tư cho KH&CN năm 2007, đến năm 2010 đã
tăng lên gần gấp 3 lần, đạt trên 2 tỷ đồng, chiếm gần 50% tổng mức đầu tư cho
KH&CN hàng năm của doanh nghiệp).
47
- Nhìn chung doanh nghiệp đã sử dụng chủ yếu nguồn vốn của mình để đầu
tư cho KH&CN. Nguồn vốn từ NSNN đầu tư cho KH&CN tại các doanh nghiệp
ngày càng có xu hướng giảm, từ 15,06% năm 2007 xuống chỉ còn 8,48% năm
2010. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng sử dụng nguồn khác như từ nước ngoài (đối với
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài).
- Các doanh nghiệp đã nhận thức ngày càng rõ về vai trò của hoạt động đầu
tư đổi mới công nghệ đối với sự tồn tại và phát triển của mình trước bối cảnh tình
hình cạnh tranh ngày càng gay gắt. Nhiều doanh nghiệp đã coi việc đầu tư, đổi mới
KH&CN là nhu cầu tự thân của mình.
- Nhiều doanh nghiệp đã đổi mới thiết bị công nghệ, áp dụng các hệ thống
quản lý chất lượng tiên tiến (ISO 9000, ISO 14000, HACCP, GMP).
- Nhiều doanh nghiệp lớn (Dầu khí, Viễn thông, Xây dựng) đã tập trung
nghiên cứu, ứng dụng, đổi mới công nghệ, tạo ra những sản phẩm, dịch vụ khác
biệt, mang tính đột phá, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh
tranh của các doanh nghiệp.
- Nhiều doanh nghiệp đã xây dựng hệ thống các văn bản liên quan đến
ĐTPT cho KHCN của doanh nghiệp như quyết định thành lập Quỹ phát triển
KH&CN, hướng dẫn mức chi cho các nội dung thực hiện nhiệm vụ KH&CN,
hướng dẫn lập dự toán, hồ sơ thanh quyết toán...
- Nhiều doanh nghiệp đã sử dụng các nguồn vốn khác nhau để thực hiện các
nhiệm vụ KH&CN với tổng kinh phí tương đối lớn gồm các đề tài cấp Nhà nước,
đề tài cấp Bộ... Nhiệm vụ KH&CN các cấp của các doanh nghiệp lớn chiếm tỷ
trọng lớn nhất, qua đó khẳng định năng lực nghiên cứu cơ bản và ứng dụng của
mình, góp phần quan trọng trong tư vấn cho lãnh đạo doanh nghiệp quyết định đầu
tư chuyển đổi công nghệ sản xuất, kinh doanh.
- Nhiều doanh nghiệp lớn đã đầu tư thiết bị mới, cải tạo, nâng cấp thiết bị cũ,
xây dựng các cơ sở nghiên cứu, chuyển giao công nghệ... để tăng năng lực sản
xuất, kinh doanh.
- Tiến hành hoạt động KH&CN dưới nhiều hình thức như hợp tác, đặt hàng
với các đối tác trong và ngoài nước, tự nghiên cứu xuất phát từ yêu cầu sản xuất và
kinh doanh cũng như điều hành của doanh nghiệp... Nguồn tài chính của doanh 48
nghiệp chiếm phần lớn, ngoài ra có tài trợ từ các chương trình, NSNN.
- Tại nhiều TCty lớn đã thành lập Quỹ phát triển KH&CN được hình thành
từ lợi nhuận trước thuế, hiệu quả làm lợi từ hoạt động KH&CN áp dụng trong thực
tế sản xuất, nguồn vốn đóng góp tự nguyện, không vì mục đích lợi nhuận của các
tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước...
2.1.7. Kinh phí ngân sách nhà nước cấp cho các Quỹ quốc gia trong lĩnh
vực khoa học và công nghệ
Hàng năm, NSNN bố trí 200 tỷ đồng vốn điều lệ cho Quỹ phát triển
KH&CN quốc gia, cho đến nay, NSNN đã bố trí 800 tỷ đồng. Quỹ đổi mới công
nghệ Quốc gia đã được bố trí 70 tỷ đồng (năm 2011), dự kiến bố trí 180 tỷ đồng
năm 2012. Các đề tài đột xuất phát sinh trong năm có thể sử dụng nguồn kinh phí
được bố trí thông qua các Quỹ này. Tuy vậy, tỷ lệ giải ngân của các Quỹ này mới
đạt 450 tỷ đồng (đạt 51,7%).
2.1.8. Hoạt động các phòng thí nghiệm trọng điểm - Số PTNTĐ20,21 đã được đầu tư là 17, số PTNTĐ hiện nay đang khai thác sử
dụng là 16 phòng (PTNTĐ Bể thử mô hình tàu thủy đang tạm dừng đầu tư để tái
cơ cấu lại tập đoàn VINASHIN). Tổng mức đầu tư xây dựng 16 PTNTĐ là:
966.745 triệu đồng (trung bình 60.422 triệu đồng/1 phòng), trong đó: vốn NSNN
947.545 triệu đồng; vốn đối ứng của Tập đoàn Điện lực Việt Nam 19.200 triệu
đồng. Trong số 16 PTNTĐ đã hoàn thành đầu tư đi vào hoạt động có 16/16
PTNTĐ đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt quyết toán và cũng đã được
Kiểm toán Nhà nước kiểm tra xác nhận với tổng số tiền là: 948.829 triệu đồng
tương đương 98,2% dự toán được duyệt của 16 PTNTĐ.
- Bộ KH&CN đã phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan xây dựng và ban
hành các văn bản hướng dẫn về tổ chức và hoạt động, quản lý tài chính, quy chế
đánh giá PTNTĐ (Quyết định số 08/2008/QĐ-BKHCN ngày 08/7/2008 ban hành
Quy chế tổ chức và hoạt động của phòng thí nghiệm trọng điểm; Thông tư số
06/2010/TT-BKHCN ngày 02/7/2010 về việc sửa đổi, bổ sung một số Điều của
Quy chế tổ chức và hoạt động của phòng thí nghiệm trọng điểm ban hành kèm theo
hành Quyết định số 08/2008/QĐ-BKHCN ngày 08/7/2008 của Bộ trưởng Bộ Khoa 49
học và Công nghệ; Thông tư số 09/2010/TT-BKHCN ngày 23/7/2010 về việc ban
hành “Quy chế đánh giá PTNTĐ”; Thông tư liên tịch số 211/2010/TTLT-BTC-
BKHCN ngày 20/12/2010 quy định chế độ tài chính áp dụng đối với PTNTĐ). Đến
nay 16/16 PTNTĐ đã có Quyết định thành lập và bổ nhiệm chức danh Giám đốc;
14/16 PTNTĐ có thành lập phòng ban và các chức danh theo Quyết định số
08/2008/QĐ-BKHCN của Bộ KH&CN; 3/16 PTNTĐ có con dấu, tài khoản riêng;
13/16 PTNTĐ dùng con dấu và tài khoản của cơ quan chủ trì; 16/16 PTNTĐ đã có
Hội đồng chuyên ngành do Bộ KH&CN thành lập. 16 PTNTĐ đã thu hút được 726
nhà khoa học có trình độ cao làm việc (các PTNTĐ chỉ được giao 84 biên chế bằng
15,9% số cán bộ làm việc), trong số đó có 528 (gồm 34 Giáo sư, Phó giáo sư, 185
Tiến sỹ và Thạc sỹ, 234 cán bộ có trình độ đại học và cao đẳng, 75 trung cấp và các nhân viên khác) nhà khoa học làm việc ổn định và thường xuyên; 198 (gồm 35
Giáo sư, Phó giáo sư, 54 Tiến sỹ và Thạc sỹ, 32 cán bộ có trình độ đại học và cao
đẳng, 77 trung cấp và các nhân viên khác) nhà khoa học làm việc bán thời gian.
- Các PTNTĐ đã thực sự góp phần nâng cao năng lực, chất lượng nghiên cứu,
đào tạo cho các tổ chức KH&CN và các nhà khoa học trong nước, điều này được
thể hiện thông qua các kết quả cụ thể mà các PTNTĐ đã đạt được: chủ trì thực hiện
221 nhiệm vụ KH&CN cấp Quốc gia và 281 nhiệm vụ KH&CN cấp Bộ, ngành;
hợp tác, trao đổi trong nghiên cứu và đào tạo với hàng chục tổ chức KH&CN và
phòng thí nghiệm hiện đại ở các nước tiên tiến trên thế giới; công bố quốc tế 760
công trình khoa học; công bố trong nước 2.364 công trình khoa học; đăng ký được
26 sáng chế và 63 giải pháp hữu ích; đào tạo và tham gia đào tạo 279 Tiến sỹ, 689
Thạc sỹ và phục vụ hàng nghìn sinh viên làm luận án tốt nghiệp; thực hiện 182 hợp
đồng dịch vụ, chuyển giao công nghệ. Sau 2 năm so với năm 2011, số lượng nhiệm
vụ KH&CN cấp Quốc gia trúng tuyển chủ trì thực hiện tăng lên hàng trăm nhiệm
vụ; công trình khoa học công bố quốc tế tăng 80,95% (năm 2011 có 420 công bố
quốc tế); công trình khoa học công bố trong nước tăng 30,18% (năm 2011 có 1.816
công bố trong nước); đăng ký sáng chế và giải pháp hữu ích tăng 62,18%; số
lượng Tiến sỹ và Thạc sỹ được đào tạo tại các PTNTĐ tăng gần 100 người; hợp
tác, trao đổi trong nghiên cứu và đào tạo với hàng chục tổ chức KH&CN và phòng 50
thí nghiệm hiện đại ở các nước tiên tiến trên thế giới.
2.1.9. Hoạt động các khu công nghệ cao
Mặc dù phải đối diện với rất nhiều khó khăn khách quan và chủ quan như
thiếu vốn, thiếu nhân lực, thiếu các chính sách ưu đãi cụ thể.. tuy nhiên trong năm
2013 và 6 tháng đầu năm 2014 cả 3 khu công nghệ cao đều nỗ lực triển khai các
hoạt động theo kế hoạch. Khu CNC Hòa Lạc đã hoàn thành điều chỉnh quy hoạch
chung lần 2 xây dựng tỷ lệ 1/5000 Khu CNC Hòa Lạc; tích cực phối hợp với các
bên liên quan thực hiện công tác giải phóng mặt bằng (Tổng diện tích đã GPMB
bàn giao cho Ban quản lý là 990,68 ha/ 1.586 ha (đạt 62,46%), trong đó: mặt bằng
sạch 748,68 ha, đã chi trả chờ tái định cư và vướng mắc khác 242 ha. Diện tích
chưa GPMB 407,19 ha) đặc biệt là khu vực mặt bằng của dự án xây dựng cơ sở hạ
tầng bằng nguồn vốn ODA; đẩy nhanh công tác xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật;
tích cực triển khai các hoạt động giới thiệu và đơn giản hóa thủ tục hành chính để
(của Viện Thực phẩm chức năng và Công ty CP Phượng Hoàng Xanh) với tổng số
thu hút các nhà đầu tư, 6 tháng đầu năm 2014 đã cấp phép đầu tư cho hai dự án
vốn đăng ký 54.198,76 tỷ đồng trên diện tích là 338,25 ha nâng tổng số dự án đã
được cấp phép đầu tư lên 70 dự án; tích cực triển khai nhiệm vụ ươm tạo doanh
nghiệp công nghệ cao. Khu công nghệ TP. Hồ Chí Minh đã cấp phép mới 03 dự án
trong nước với tổng vốn đầu tư là 75,8 triệu USD (Giảm 23,7% so với cùng kỳ và
đạt 50,5% so với kế hoạch; lũy kế đến nay có 61 dự án được cấp giấy chứng nhận
đầu tư còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đạt 2.277,6 triệu USD (trong đó vốn trong
nước: 538,9 triệu USD/33 dự án, vốn FDI: 1.738,7 triệu USD/28 dự án).); Khu
công nghệ cao Đà Nẵng đã cơ bản giải tỏa và bàn giao mặt bằng 320ha/328ha (giai
đoạn 1), đang tích cực triển khai xây dựng cơ sở hạ tầng; trong 6 tháng đầu năm
2014 đã tiếp nhận và giải quyết hồ sơ thẩm tra công nghệ và giới thiệu địa điểm
đối với dự án FPT Telecom Đà Nẵng của Công ty Cổ phần Viễn thông FPT và sẽ
cấp Giấy chứng nhận đầu tư trong thời gian sắp tới; nhiều hoạt động như xúc tiến
đầu tư trong và ngoài nước, đào tạo nhân lực trình độ cao, ươm tạo doanh nghiệp
51
công nghệ cao... đang được tích cực triển khai.
2.1.10. Tồn tại và hạn chế trong phân bổ ngân sách
- Cơ chế hiện hành trong việc phân bổ kinh phí chi thường xuyên chưa gắn
với các yêu cầu cụ thể về sản phẩm, nhiệm vụ ứng với dự toán cấp chi thường xuyên
mà chủ yếu vẫn thực hiện phân bổ trên cơ sở biên chế (x) nhân định mức; theo các
các nhiệm vụ nghiên cứu (chương trình, đề tài, dự án) Việc phân bổ này dẫn tới tư
tưởng bao cấp, trông chờ, ỷ lại vào NSNN và chạy theo số lượng nhiệm vụ nghiên
cứu mà không gắn theo giá trị của kết quả nghiên cứu (tức là sản phẩm cuối cùng
của đề tài). Mặt khác, việc phân bổ NSNN theo cơ chế hiện hành dẫn đến tình trạng,
nhà khoa học dù làm nhiều, dù làm ít hoặc không làm gì nếu thuộc danh sách biên
chế, trả lương của tổ chức KH&CN công lập thì vẫn được NSNN cấp lương. Ngoài
ra khi nghiên cứu đề tài, dự án họ lại được hưởng thêm kinh phí cấp cho đề tài, dự
án nên có thể nói, trong các tổ chức KH&CN có 2 nguồn chi tiền lương, tiền công
nghiên cứu, hai nguồn này đều lấy từ NSNN.
- Quy định về định mức phân bổ cho đề tài, dự án KH&CN theo quy định
thông tư liên tịch số 44/2007/TTLT-BTC-BKHCN của Bộ TC và Bộ KH&CN
chưa tiếp cận theo hướng tính đủ chi phí cho nghiên cứu để bảo đảm có một kết
quả nghiên cứu tốt, tính ứng dụng cao. Ngoài những chi phí hoạt động liên quan
đến đề tài như điều tra, khảo sát, hội họp, tiền nguyên nhiên vật liệu (mà dự toán là
theo đề xuất của chủ nhiệm, chủ trì đề tài và theo thẩm định của Hội đồng), thông
tư còn quy định mức chi tiền công cho các chuyên đề thuộc đề tài, mức chi tiền
công này mới là một phần tiền công, mà chưa được tính đủ các chi phí tiền lương,
tiền công trực tiếp và gián tiếp để thực hiện nhiệm vụ. Theo đó các nhà khoa học
mất rất nhiều thời gian cho các thủ tục hành chính để thanh toán nguồn tài chính
được cấp thay cho việc tập trung vào kết quả nghiên cứu nên hiệu quả nghiên cứu
còn hạn chế..
- Theo Nghị định số 115/2005/NĐ-CP ngày 5/9/2005 của Chính phủ, Bộ
KH&CN có trách nhiệm trình Thủ tướng Chính phủ quyết định các tổ chức
KH&CN thuộc loại NSNN đảm bảo kinh phí hoạt động thường xuyên (nghiên cứu
cơ bản, nghiên cứu chính sách, chiến lược, nghiên cứu định mức phục vụ quản lý
nhà nước). Tuy nhiên, thực tế bộ, ngành, địa phương chưa có sự kiên quyết trong 52
việc phân loại các tổ chức KH&CN, nên nhiều tổ chức KH&CN cố xây dựng
phương án để nằm trong nhóm nghiên cứu cơ bản để tiếp tục được NSNN hỗ trợ
- Chính phủ ban hành Nghị định số 115/2005/NĐ-CP ngày 5/9/2005 quy
kinh phí hoạt động thường xuyên.
định về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động của các tổ chức
KH&CN. Quan điểm chủ đạo của Nghị định số 115/2005/NĐ-CP là giao quyền tự
chủ cao về tổ chức, biên chế, tài chính, kể cả quyền sản xuất kinh doanh như doanh
nghiệp cho các tổ chức KH&CN công lập; đổi mới phương thức cấp kinh phí của
Nhà nước cho hoạt động KH&CN (theo nhiệm vụ, không bao cấp theo số lượng
biên chế); nâng cao hiệu quả hoạt động, gắn kết tốt nghiên cứu với đào tạo, sản
xuất và dịch vụ. Các tổ chức KH&CN công lập được đăng ký kinh doanh, được
quyết định thu nhập tăng thêm cho người lao động theo kết quả tài chính hàng
năm, được quyết định về tổ chức và được các ưu đãi về thuế, tín dụng như đối với
các doanh nghiệp mới thành lập...Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện Nghị định số
115/2005/NĐ-CP còn một số vướng mắc, việc cấp kinh phí hoạt động thường
xuyên thông qua các nhiệm vụ KH&CN chưa được hướng dẫn do đến nay ngành
KH&CN chưa xây dựng được hệ thống khung định mức kinh tế - kỹ thuật làm căn
cứ để các Bộ, ngành chức năng phối hợp hướng dẫn tính đầy đủ chi phí trực tiếp,
gián tiếp (bao gồm cả kinh phí hoạt động thường xuyên) vào đề tài, nhiệm vụ, dự
án KH&CN. Theo đó, việc xây dựng dự toán các đề tài, dự án KH&CN vẫn thực
hiện theo quy định tại Thông tư liên tịch số 44/2007/TTLT/BTC-BKHCN (xây
dựng dự toán theo khối lượng công việc và số lượng các chuyên đề).
- Chưa có tiêu chí để phân định rõ cấp độ của các loại đề tài KH&CN: Đề tài
cấp Nhà nước, đề tài cấp Bộ, đề tài cấp cơ sở làm cơ sở cho việc cấp kinh phí.
Ngoài Chương trình KH&CN trọng điểm cấp Nhà nước được giao dự toán cho Bộ
KH&CN, còn có loại đề tài độc lập cấp Nhà nước do Bộ KH&CN quyết định phê
duyệt nhiệm vụ, kinh phí, chủ nhiệm đề tài, cơ quan chủ trì nhưng lại giao kinh phí
về cho các Bộ, ngành, địa phương thực hiện. Trong giai đoạn 2006 - 2013, chưa có
tiêu chí cụ thể để quyết định nhiệm vụ nào cần thực hiện theo hình thức đề tài
KH&CN độc lập cấp Nhà nước; nhiệm vụ nào cân đối vào kinh phí KH&CN cấp 53
Bộ. Theo đó, có trường hợp đề tài cấp Bộ quy mô và mức kinh phí lớn hơn đề tài
- Chưa có sự điều phối hiệu quả để khai thác các thông tin của các đề tài,
độc lập cấp Nhà nước.
nhiệm vụ, dự án KH&CN đã triển khai thực hiện. Vì vậy, còn có hiện tượng trùng
lặp về nội dung khi thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu KH&CN ở các cơ quan đơn
vị khác nhau. Bộ KH&CN quản lý các chương trình KHCN trọng điểm cấp nhà
nước, ngoài ra các Bộ (Công thương, Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Tài
nguyên và Môi trường,...) cũng quản lý các chương trình, đề án trọng điểm cấp nhà
nước nên trùng lắp về nội dung nghiên cứu, không thống nhất định hướng, kế thừa
các kết quả nghiên cứu; không tập trung nguồn lực, tăng chi phí quản lý,...
2.2. Thực trạng phân bổ, sử dụng ngân sách nhà nƣớc cho khoa học và
công nghệ của địa phương
2.2.1. Về các tổ chức hoạt động khoa học và công nghệ
Các tổ chức hoạt động KH&CN ở các địa phương22 gồm một số cơ quan lớn
của Trung ương, một số đơn vị trực thuộc các cơ quan trung ương khác và các cơ
quan của địa phương thuộc các sở ngành chuyên môn, các trạm, trại, trung tâm
thuộc lĩnh vực KH&CN, nông lâm nghiệp, thủy sản, bảo vệ môi trường, khoa học
xã hội và nhân văn... các trường đại học, cao đẳng đóng trên địa bàn. Một số tổ
chức KH&CN đã được nâng cao năng lực khảo sát thiết kế, kiểm định, kiểm
nghiệm, thí nghiệm. Một số đơn vị đã đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ mới.
Về năng lực hoạt động KH&CN: Trong hoạt động nghiên cứu - triển khai, tỷ
lệ các đề tài cấp Nhà nước và cấp Bộ còn ít, chủ yếu tập trung thực hiện các nhiệm
vụ KH&CN cấp cơ sở. Số phòng thí nghiệm, thử nghiệm đạt tiêu chuẩn quốc gia
VILAS ở đa số các địa phương còn hạn chế. Tuy nhiên, ở một số thành phố lớn, cơ
sở hạ tầng kỹ thuật của các viện, trung tâm nghiên cứu, các phòng thí nghiệm, các
đơn vị sự nghiệp cũng được các thành phố tăng cường năng lực thông qua Chương
trình tăng cường tiềm lực KH&CN và Chương trình công nghệ sinh học, Chương
trình công nghệ thông tin và các dự án tăng cường nguồn lực cho các đơn vị trên
54
địa bàn...
2.2.2. Việc sử dụng ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ
Các đề tài, dự án do địa phương thực hiện gồm các nhiệm vụ KH&CN các
cấp được thực hiện thông qua nguồn kinh phí dành cho KH&CN của các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương (gọi tắt là địa phương).
Trong giai đoạn 2006-2013, tổng số nhiệm vụ nghiên cứu KH&CN do các
địa phương thực hiện lên tới 11.911 đề tài, dự án cấp tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương (đề tài cấp tỉnh) và trên 21.000 đề tài, dự án, mô hình KH&CN cấp cơ
sở, với tổng kinh phí 6.603 tỷ đồng (bao gồm từ các nguồn NSNN, tài trợ của nước
ngoài, nguồn vốn hợp tác quốc tế, nguồn từ các doanh nghiệp, trong đó kinh phí từ
ngân sách sự nghiệp KH&CN nhà nước là 5.370 tỷ đồng chiếm 81,33%). Hoạt
động NC&PT ở các địa phương trong thời gian qua đã triển khai đầy đủ trên các
lĩnh vực khoa học. Trong số 11.911 đề tài cấp tỉnh, các đề tài thuộc lĩnh vực nông
nghiệp chiếm một phần ba, tiếp theo là các đề tài khoa học kỹ thuật và công nghệ
Năm 2013, các địa phương trên cả nước thực hiện khoảng 1.498 nhiệm vụ
KH&CN cấp tỉnh với tổng kinh phí trên 959 tỷ đồng (so với 1.875 nhiệm vụ và
866 tỷ đồng năm 2012). Hai trung tâm kinh tế của đất nước cũng là những địa
phương có hoạt động nghiên cứu mạnh là Hà Nội (101 đề tài với 120 tỷ đồng) và
TP. Hồ Chí Minh (100 đề tài với 181 tỷ đồng).
Hoạt động KH&CN địa phương đã có những đóng góp thiết thực vào sự phát
triển KT-XH của địa phương. Các đề tài trong lĩnh vực nông nghiệp của địa phương
tập trung vào lựa chọn, chuyển giao các kỹ thuật tiến bộ tổng thể từ chọn giống, quy
trình sản xuất thâm canh đến công nghệ chế biến, phù hợp với đặc điểm của từng
vùng, miền, góp phần tạo ra các sản phẩm hàng hóa nông nghiệp có giá trị kinh tế
cao, quy mô khối lượng lớn, chất lượng đồng đều để nâng cao giá trị xuất khẩu cũng
như mở rộng thị trường nội địa. Tỉnh Thái Bình đã khảo nghiệm và tuyển chọn được
4 giống lúa và 1 giống lạc được công nhận là giống quốc gia. Nghệ An đã đưa diện
tích lúa lai lên trên 76 nghìn hecta, năng suất tăng thêm 15,2 tạ/ha, lợi nhuận tăng
thêm khoảng 400 tỷ đồng, góp phần đưa Nghệ An đạt trên 1 triệu tấn lương thực.
Tỉnh Bắc Giang áp dụng mô hình sản xuất quả vải tươi theo tiêu chuẩn VietGAP đã
nhân rộng mô hình từ 10 ha lên 4000 ha, giá thành cao gấp 2-3 lần so với vải sản 55
xuất theo truyền thống.
Trong lĩnh vực khoa học tự nhiên và khoa học công nghệ, một sô công trình
khoa học cơ bản đã xây dựng cơ sở khoa học cho đổi mới và nâng cao trình độ
công nghệ. Những nghiên cứu đã tạo tiền đề cho việc tiếp thu công nghệ hiện đại,
định hướng cho bảo vệ môi trường sinh thái và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên
nhiên. Nhiều kết quả nghiên cứu triển khai được các doanh nghiệp ở Hà Nội và TP.
Hồ Chí Minh và một số địa phương khác ứng dụng tạo ra các sản phẩm công
nghiệp có giá trị kinh tế cao, ví dụ như:
Tại TP. Hồ Chí Minh, nâng cao năng lực nội sinh, tiếp thu và làm chủ một
số cống nghệ cao sản xuất ra các sản phẩm như pin mặt trời, năng lượng sinh khối,
nhiên liệu sinh học, thiết kế vi mạch (dự án sản xuất chip thương mại SG8-V1;
thiết kế và sản xuất thử nghiệm chip nhận dạng từ xa bằng sóng radio - RFID).
Nghiên cứu thiết kế và chế tạo máy nhuộm JET để hoàn tất vải sợi từ sợi
polyeste;...
Tại Hà Nội, chương trình thiết kế, chế tạo thiết bị thay thế nhập khẩu đã hỗ
trợ đầu tư 20 dự án thiết bị, công nghệ từ đơn đặt hàng của doanh nghiệp thuộc 4
lĩnh vực ưu tiên của thành phố là cơ khí, điện tử, hóa dược và nhựa- cao su. Ngân
sách đã hỗ trợ trên 40 tỷ đồng cho thiết kế, chế tạo 55 máy và thiết bị, chuyển giao
được 265 sản phẩm cho doanh nghiệp với giá bán rẻ hơn từ 20-60% so với giá
nhập khẩu, tiết kiệm ngoại tệ được khoảng 280 tỷ đồng.
Dự án “Chuyển giao công nghệ sơn bột tĩnh điện Hải Phòng” góp phần tạo
ra sản phẩm có giá thành rẻ hơn nhập ngoại 10%.
Tỉnh Ninh Bình, sản xuất cầu trục 10 tấn, 15 tấn, 20 tấn, 30 tấn và trên 30
tấn của Xí nghiệp cơ khí Quang Trung giá thành chỉ bằng 30-50% so với máy nhập
ngoại cùng loại, chất lượng tương đương, tiết kiệm hàng triệu đôla mỗi năm để
nhập khẩu các loại thiết bị này.
2.3. Đánh giá việc phân bổ, sử dụng ngân sách nhà nước cho khoa học
và công nghệ của các cơ quan trung ương, địa phương
2.3.1. Nhận xét chung tình hình sử dụng ngân sách nhà nước cho khoa
học và công nghệ
56
Thực tế cho thấy, kinh phí thực tế được sử dụng để đầu tư cho các nhiệm vụ KH&CN của địa phương22 luôn thấp hơn kinh phí mà Trung ương phân bổ, thường
chỉ đạt trong khoảng từ 50-70%. Sở dĩ như vậy là do: (1) Năng lực đề xuất và xây
dựng dự án ĐTPT của các tổ chức KH&CN còn bất cập; (2) Các cấp lãnh đạo địa
phương chưa quan tâm tạo điều kiện về chủ trương và ghi vốn chuẩn bị đầu tư cho
các dự án phát triển thuộc lĩnh vực KH&CN; (3) Hạn chế lớn nhất ở một số địa
phương là nguồn kinh phí ĐTPT cho KH&CN chưa được ghi thành một mục riêng
trong dự toán chi ngân sách hàng năm của tỉnh, do đó, mức chi cho ĐTPT cho
KH&CN thường không đảm bảo mức do Trung ương phân bổ.
Từ năm 2006, các địa phương đã phân cấp kinh phí SNKH cho các huyện,
thị xã; số kinh phí được phân bổ năm sau cao hơn năm trước. Từ năm 2009, các
huyện, thị và một số sở ngành tiến hành xây dựng kế hoạch hằng năm theo hướng
dẫn của Sở KH&CN để đưa vào kế hoạch phân cấp ngân sách sự nghiệp KH&CN
theo đúng quy định. Ở cấp huyện, cơ quan quản lý nhà nước về KH&CN cũng đã
từng bước triển khai công tác quản lý về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng.
Được sự hỗ trợ của Bộ KH&CN, trong thời gian qua, từ nguồn vốn ĐTPT
tiềm lực KH&CN, UBND các tỉnh, thành phố đã đầu tư cơ sở vật chất cho hoạt
động KH&CN. Trong đó, chủ yếu đầu tư cho hoạt động xây dựng các cơ quan
nghiên cứu và ứng dụng KH&CN, trang bị các trang thiết bị hiện đại cho các đơn
vị. Các trang thiết bị được đầu tư từ dự án giúp cho các đơn vị nâng cao khả năng,
năng lực hoạt động, từ đó hỗ trợ cho đơn vị quản lý hiệu quả hơn trong lĩnh vực
của đơn vị mình được giao nhiệm vụ.
Về quy trình xây dựng kế hoạch và dự toán ngân sách hàng năm, các đơn vị
tại địa phương đã thực hiện dự toán và lên kế hoạch theo đúng Luật NSNN. Cơ quan
quản lý KH&CN xây dựng kế hoạch và dự toán ngân sách hàng năm của đơn vị
mình, gửi về cơ quan quản lý TC, cơ quan quản lý KH&ĐT cùng cấp thẩm định,
báo cáo UBND cùng cấp trình HĐND cùng cấp quyết định. Sau khi có Nghị quyết
của HĐND tỉnh, UBND tỉnh giao Sở TC triển khai nhiệm vụ chi ngân sách, trong đó
có ngân sách sự nghiệp KH&CN. UBND tỉnh có quyết định phân bổ kinh phí cho
các đơn vị. Căn cứ kế hoạch của UBND tỉnh phê duyệt, các đơn vị tổ chức thực hiện
nhiệm vụ.
57
Nhìn chung, NSNN đầu tư cho sự nghiệp KH&CN năm sau cao hơn năm
trước, tăng bình quân khoảng 9%. Tuy có nhiều cố gắng nhưng kinh phí cho sự
nghiệp KH&CN vẫn còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, chưa đáp ứng yêu
cầu đầu tư kinh phí cho sự nghiệp KH&CN lớn hơn hoặc bằng 2% tổng chi NSĐP
theo Nghị quyết Trung ương 2 về KH&CN.
Các tổ chức, cá nhân hoạt động KH&CN phần lớn còn trông chờ vào
NSNN, chưa phát huy khai thác tốt các nguồn lực khác theo hướng xã hội hóa. Cơ
chế, chính sách đã được đề ra, song vẫn chưa có sức thu hút mạnh mẽ đội ngũ cán
bộ khoa học giỏi, đội ngũ trí thức trẻ có tài, có trình độ cao, các chuyên gia đầu
ngành tham gia cống hiến tài năng và trí truệ cho sự nghiệp phát triển KH&CN.
2.3.2. Những mặt được
- Kinh phí sự nghiệp KH&CN cho địa phương đã được điều chỉnh theo
hướng sát với tình hình thực tế thu chi ngân sách của từng địa phương được hướng
dẫn xây dựng kế hoạch và dự toán ngân sách kịp thời nên các tỉnh, thành phố đã có
sự chuẩn bị nhiệm vụ tốt để sử dụng ngày càng hiệu quả hơn. Điều này thể hiện đã
có sự chuyển biến tích cực xuất phát từ cách tiếp cận thực tế và nhu cầu của từng
địa phương.
- Các địa phương đã dành tỷ trọng đáng kể chi cho nghiên cứu ứng dụng và
triển khai (khoảng 60%), phần còn lại chi hỗ trợ hoạt động quản lý nhà nước, chi
cho hoạt động của các đơn vị sự nghiệp thuộc Sở KH&CN, chi cho hoạt động
KH&CN cấp huyện, cấp cơ sở…
- Kinh phí ĐTPT KH&CN ở khu vực trung ương tập trung (Báo cáo số
2528/BKHCN-KHTC ngày 6/9/2012 của Bộ Khoa học và Công nghệ) tăng cường
cơ sở vật chất cho các tổ chức nghiên cứu khoa học, tổ chức nghiên cứu khoa học và
phát triển công nghệ trực thuộc các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
để thực hiện tự chủ tự chịu trách nhiệm theo quy định của Nghị định 115/2005/NĐ-
CP. Đối tượng đầu tư chủ yếu là mua sắm trang thiết bị nghiên cứu cho các phòng
thí nghiệm; triển khai xây dựng khu nghiên cứu phát triển của các khu công nghệ
cao Hòa Lạc, khu công nghệ cao Tp. Hồ Chí Minh, tăng cường đầu tư nâng cao
năng lực đo lường, thử nghiệm cho Viện Đo lường Việt Nam và các trung tâm tiêu
chuẩn đo lường chất lượng tại Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Buôn Ma Thuột; 58
hỗ trợ một số doanh nghiệp xây dựng các trung tâm nghiên cứu, phòng thí nghiệm
phục vụ việc thực hiện mục tiêu của các chương trình, đề án đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt
- Việc ĐTPT KH&CN của các địa phương đã có nhiều chuyển biến mới,
tích cực, các địa phương đã chủ động hơn trong xây dựng, thẩm định, phê duyệt
các dự án đầu tư trong lĩnh vực KH&CN. Trong giai đoạn 2006-2013, vốn ĐTPT
cho KH&CN ở các địa phương chủ yếu là đầu tư cho: Tổ chức nghiên cứu khoa
học, tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ thuộc các tỉnh, thành
phố; các trung tâm ứng dụng và chuyển giao công nghệ, các trung tâm kỹ thuật tiêu
chuẩn - đo lường - chất lượng của các tỉnh, thành phố.
- Ngoài kinh phí NSĐP, nhiều địa phương đã tranh thủ các nguồn khác đầu
tư cho phát triển KH&CN như: kinh phí ngân sách trung ương, viện trợ quốc tế,
vốn tự có và huy động khác của các doanh nghiệp ...
+ Kinh phí huy động từ ngân sách KH&CN trung ương thông qua các nhiệm
vụ KH&CN cấp nhà nước, các nhiệm vụ hợp tác với các Viện, trường.
+ Nguồn viện trợ của nước ngoài thông qua các dự án hợp tác theo Nghị
định thư, các dự án hợp tác song phương và hỗ trợ không hoàn lại về KH&CN.
+ Các nguồn khác cho KH&CN ngoài ngân sách, tập trung chủ yếu thông
qua việc thực hiện các nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh, thành phố. Kinh phí từ các
doanh nghiệp đầu tư cho ứng dụng tiến bộ KH&CN.
+ Thực hiện chủ trương trích một phần vốn của các dự án, công trình phát
triển KT-XH để giải quyết các nhiệm vụ KH&CN liên quan đến nội dung và chất
lượng của dự án, công trình (đến nay, chủ trương này chưa được thực hiện trên
thực tế).
2.3.3. Một số hạn chế, tồn tại
a) Trong việc thực hiện ngân sách cho KH&CN nói chung
- Chính phủ ban hành Nghị định số 115/2005/NĐ-CP ngày 5/9/2005 quy
định về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động của các tổ chức
KH&CN. Quan điểm chủ đạo của Nghị định số 115/2005/NĐ-CP là giao quyền tự
chủ cao về tổ chức, biên chế, tài chính, kể cả quyền sản xuất kinh doanh như doanh 59
nghiệp cho các tổ chức KH&CN công lập; đổi mới phương thức cấp kinh phí của
Nhà nước cho hoạt động KH&CN (theo nhiệm vụ, không bao cấp theo số lượng
biên chế); nâng cao hiệu quả hoạt động, gắn kết tốt nghiên cứu với đào tạo, sản
xuất và dịch vụ. Các tổ chức KH&CN công lập được đăng ký kinh doanh, được
quyết định thu nhập tăng thêm cho người lao động theo kết quả tài chính hàng
năm, được quyết định về tổ chức và được các ưu đãi về thuế, tín dụng như đối với
các doanh nghiệp mới thành lập...
Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện Nghị định số 115/2005/NĐ-CP còn một
số vướng mắc, việc cấp kinh phí hoạt động thường xuyên thông qua các nhiệm vụ
KH&CN chưa được hướng dẫn, đến nay ngành KH&CN chưa xây dựng được hệ
thống khung định mức kinh tế - kỹ thuật làm căn cứ để các Bộ, ngành chức năng
phối hợp hướng dẫn tính đầy đủ chi phí trực tiếp, gián tiếp (bao gồm cả kinh phí
hoạt động thường xuyên) vào đề tài, nhiệm vụ, dự án KH&CN. Theo đó, việc xây
dựng dự toán các đề tài, dự án KH&CN vẫn thực hiện theo quy định tại Thông tư
liên tịch số 44/2007/TTLT/BTC-BKHCN (xây dựng dự toán theo khối lượng công
việc và số lượng các chuyên đề).
- Cùng với việc đổi mới cơ chế quản lý tài chính của các tổ chức KH&CN;
liên Bộ TC, Bộ KH&CN đã ban hành Thông tư liên tịch số 93/2006/TTLT/BTC-
BKHCN ngày 4/10/2006 hướng dẫn cơ chế khoán chi của các đề tài, dự án sử dụng
NSNN. Theo quy định tại Thông tư liên tịch số 93/2006/TTLT/BTC-BKHCN,dự
toán cho con người, chi viết chuyên đề, chi công tác phí, hội phí, các chi mua sắm
nguyên, nhiên vật liệu có định mức kinh tế, kỹ thuật... sẽ được giao kinh phí theo
hình thức khoán. Đối với các khoản chi khoán này, chủ nhiệm đề tài được quyết
định mức chi cho hiệu quả trên cơ sở quy chế chi tiêu của từng đề tài. Cơ chế
khoán theo quy định tại Thông tư số 93/2006/TTLT/BTC-BKHCN là một bước đổi
mới trong quản lý chi KH&CN, theo đó các chủ nhiệm đề tài đã chủ động hơn
trong việc sử dụng kinh phí nhằm mang lại hiệu quả cao của việc nghiên cứu
KH&CN và tiêt kiệm chi phí. Tuy nhiên, thực tế còn nhiều chủ đề tài, dự án chưa
áp dụng hiệu quả quyền tự chủ của mình trong việc thực hiện kinh phí khoán; chưa
chủ động trong việc xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ để được quyết định các mức 60
chi cao hơn, thấp hơn mức chi xây dựng dự toán, phù hợp với đặc thù của đề tài.
- Chưa có sự điều phối hiệu quả để khai thác các thông tin của các đề tài,
nhiệm vụ, dự án KH&CN đã triển khai thực hiện. Vì vậy, còn có hiện tượng trùng
lặp về nội dung khi thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu KH&CN ở các cơ quan đơn
vị khác nhau. Bộ KH&CN quản lý các chương trình KHCN trọng điểm cấp nhà
nước, ngoài ra các Bộ (Công thương, Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Tài
nguyên và Môi trường,...) cũng quản lý các chương trình, đề án trọng điểm cấp nhà
nước nên trùng lắp về nội dung nghiên cứu, không thống nhất định hướng, kế thừa
các kết quả nghiên cứu; không tập trung nguồn lực, tăng chi phí quản lý,...
- NSNN vẫn giữ vai trò chủ đạo, các nguồn vốn doanh nghiệp, đóng góp của
cộng đồng, cũng như nguồn tài trợ nước ngoài đã có nhiều chuyển biến tích cực,
nhưng vẫn còn ở mức thấp.
+ Tổng chi ngân sách cho KH&CN giai đoạn 2006-2011 đã tăng hơn 2 lần so
với giai đoạn 2001-2005, tuy nhiên tổng đầu tư toàn xã hội cho KH&CN mới chỉ đạt
khoảng 0,8% GDP, thấp xa so với chỉ tiêu 1,5% GDP như Chiến lược phát triển
KH&CN đến năm 2010 đã đặt ra. Đầu tư cho KH&CN trên đầu người chỉ đạt 8
USD/người/năm là rất thấp so với các nước trong khu vực và thế giới (của Trung
Quốc là 30 USD/người/năm, Hàn Quốc là 3.000 USD/người/năm.).
+ Chưa có cơ chế chính sách đủ mạnh để huy động được nhiều nguồn vốn
ngoài NSNN, đặc biệt là từ khu vực doanh nghiệp.
+ Đầu tư của doanh nghiệp chỉ đạt 0,2 - 0,3% GDP, tỷ trọng đầu tư giữa Nhà
nước và khu vực tư nhân là 85/15 (theo số liệu chưa đầy đủ). Theo số liệu của
Tổng cục Thống kê, trên 95% doanh nghiệp thuộc loại nhỏ và siêu nhỏ, trong đó
doanh nghiệp siêu nhỏ chiếm khoảng 66% (phân theo tiêu chí lao động của Nghị
định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của Chính phủ về trợ giúp phát triển
doanh nghiệp nhỏ và vừa). Điều đáng suy nghĩ là toàn bộ các số liệu phân tích kể
trên (về đầu tư cho KH&CN của doanh nghiệp) chỉ dựa trên số liệu được cung cấp
bởi các doanh nghiệp tham gia trả lời về tình hình đầu tư cho KH&CN của doanh
nghiệp, mà số doanh nghiệp này chỉ chiếm không đến 0,2% tổng số doanh nghiệp
được khảo sát. (Năm 2007 số doanh nghiệp trả lời về KH&CN/Tổng số doanh 61
nghiệp khảo sát là 271/155.771, năm 2010 là 509/290.767). Như vậy, còn khoảng
99,8% số doanh nghiệp khảo sát chưa quan tâm đến hoạt động KH&CN trong
doanh nghiệp hoặc chưa đủ sức đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp..
- Cơ cấu phân bổ kinh phí ĐTPT cho KH&CN và kinh phí SNKH cho
KH&CN còn chưa hợp lý.
Cơ cấu đầu tư NSNN cho KH&CN được điều chỉnh hằng năm nhưng nhìn
chung chưa thực sự hợp lý. So với kinh phí sự nghiệp KH&CN thì tỷ trọng kinh
phí đầu tư phát triển KH&CN cao, tốc độ tăng trưởng cho đầu tư phát triển cao hơn
tốc độ tăng trưởng đầu tư cho KH&CN nói chung. Nhìn chung, giai đoạn 2006-
2013, nguồn kinh phí ĐTPT cho KH&CN ngày càng tăng lên, bình quân mỗi năm
đạt khoảng 4.077 tỷ đồng chi ĐTPT từ nguồn NSNN, nguồn kinh phí SNKH là
5.171 tỷ đồng/năm. Mặt khác, nguồn kinh phí ĐTPT cho KH&CN tuy ngày càng
tăng lên, nhưng chỉ đáp ứng 30-50% nhu cầu của các Bộ, ngành.
- Cơ cấu phân bổ NSNN giữa trung ương và địa phương còn bất hợp lý
Tỷ trọng kinh phí đầu tư phát triển KH&CN của địa phương trong tổng kinh
phí đầu tư cho KH&CN là rất cao, nhưng năng lực chuẩn bị dự án, thẩm định, phê
duyệt, bố trí kế hoạch và giải ngân còn hạn chế, chưa phản ánh chính xác năng lực
phát triển KH&CN của địa phương nên chưa đáp ứng được yêu cầu của phát triển
KH&CN phục vụ phát triển KT-XH. Tuy nhiên, theo Luật NSNN, nguồn kinh phí địa
phương lại không điều tiết được để xử lý các vấn đề của vùng hoặc đầu tư cho các
phòng thí nghiệm của các Viện, trường ở Trung ương.
Tỷ trọng kinh phí ĐTPT cho KH&CN trung ương và địa phương không hợp
lý. Kinh phí ĐTPT trung ương chiếm 49%, địa phương chiếm 50,52%. Đây là tỷ
trọng không được hợp lý vì trong giai đoạn này, trung ương cần nguồn lực nhiều
hơn để giải quyết các nhiệm vụ KH&CN trọng điểm như đầu tư khu công nghệ
cao, các PTNTĐ Quốc gia, các Viện, trường trọng điểm… Trong khi đó, nhiều địa
phương không sử dụng hết nguồn ĐTPT cho KH&CN, sử dụng nguồn này cho các
mục tiêu khác, không phải là KH&CN, nhiều địa phương tính các công trình giao
thông, đê… vào kinh phí phát triển tiềm lực KH&CN.
62
- Phân bổ, quản lý, sử dụng NSNN cho KH&CN còn nhiều bất cập, tiến độ
phân bổ chậm dẫn đến nhiều năm không giải ngân hết kinh phí dành cho KH&CN
(như năm 2010, 2011).
Chưa có phương pháp luận và tiêu chí xác định tỷ lệ phân bổ vốn đầu tư một
cách hợp lý khi triển khai nhiệm vụ KH&CN giữa nhà nước, doanh nghiệp và nhà
khoa học, tổ chức KH&CN.
Định mức kinh tế - kỹ thuật, định mức nhân công, vật tư, thiết bị áp dụng
cho đề tài, đề án… còn thấp, không phù hợp thời giá, không đủ căn cứ cần thiết khi
giao dự toán, phải hợp lý hoá các thủ tục khi nghiệm thu đề tài, dự án KH&CN;
việc xây dựng dự toán và sử dụng kinh phí NSNN cho KH&CN chưa tiếp cận theo
hướng hoạch toán đủ chi phí. Việc phân bổ dự toán kinh phí cho các đề tài, dự án
KH&CN vẫn căn cứ vào số lượng các chuyên đề để xác định nhu cầu kinh phí dẫn
đến việc để được tăng kinh phí thì phải tăng số lượng chuyên đề (Thông tư liên
tịch số 44/2007/TTLT-BTC-BKH&CN).
Phân phối nguồn lực cho KH&CN không đồng đều, còn theo tình trạng cào
bằng mà chưa căn cứ vào hiệu quả hoạt động, năng lực, nhu cầu thực tế và khả
năng thực hiện. Việc phân bổ kinh phí trong một số trường hợp không thực sự căn
cứ vào hiệu quả hoạt động, năng lực, nhu cầu thực tế và khả năng thực hiện, chưa
căn cứ vào khả năng hấp thụ vốn của địa phương.
Việc phân bổ kinh phí cho các nhiệm vụ, dự án KH&CN rất chậm, thông
thường đến tháng 7 hoặc tháng 8 hằng năm mới phân bổ xong kinh phí (Ví dụ:
Năm 2012, đến tháng 8/2012 vẫn chưa thông qua được danh mục nhiệm vụ, đề tài
cho KH&CN năm 2012 để cấp kinh phí) trong khi đó theo Luật NSNN quy định
đến tháng 12 phải nộp các chứng từ nghiên cứu KH&CN trong năm để nghiệm thu,
thanh toán nên nhiều đề tài, dự án chỉ lo thủ tục quyết toán là đã hết thời gian
nghiên cứu.
Thủ tục sử dụng NSNN cho KH&CN còn chưa mang tính đặc thù hoạt động
KH&CN, làm nản lòng các nhà khoa học, nhiều đề tài, dự án chậm được triển khai
(Việc phân bổ kinh phí thường chậm hơn so với thời gian được phê duyệt kinh phí,
thường kéo dài từ 6-9 tháng sau khi Quốc hội và Chính phủ đã phê duyệt và giao
dự toán NSNN cho KH&CN, do chậm chễ trong khâu phê duyệt nhiệm vụ 63
KH&CN để sử dụng kinh phí đã được Quốc hội thông qua (ngay trong năm 2012,
đến thời điểm hiện tại vẫn còn chưa trên 400 tỷ đồng dự toán NSNN năm 2012 đã
được Quốc hội phê duyệt nhưng chưa xác định rõ nhiệm vụ để đề xuất phân bổ dự
toán kinh phí), nên kinh phí KH&CN thường không sử dụng hết trong năm, phải
chuyển sang năm sau, nhiều năm sử dụng không hết kinh phí được giao).
Chi ĐTPT cho lĩnh vực KH&CN tại các địa phương vẫn còn tình trạng chưa
được phân bổ hết trong khi đó theo cơ chế lại không thể điều hòa nguồn lực này về
trung ương để thực hiện các nhiệm vụ KH&CN quan trọng.
b) Trong việc thực hiện ngân sách cho KH&CN ở các địa phương
- Đầu tư cho KH&CN ở các địa phương nhìn chung chưa được sự quan tâm
đúng mức của các cấp, các ngành. Vấn đề chủ động huy động các nguồn đầu tư
cho KH&CN chưa được các cấp, các ngành, cơ sở thực sự quan tâm.
- Tỷ lệ đầu tư cho hoạt động KH&CN từ NSĐP còn thấp, có nơi ở mức dưới 1%
chi NSĐP. Việc huy động các nguồn kinh phí khác cho hoạt động nghiên cứu, ứng
dụng chưa được đẩy mạnh.
- Tại nhiều địa phương, chi ĐTPT thấp hơn mức chi tối thiểu theo quy định
hoặc được sử dụng không đúng mục đích, vai trò của Sở KH&CN trong việc quản
lý, hướng dẫn sử dụng kinh phí cho phát triển KH&CN còn mờ nhạt và chưa thực
sự được coi trọng.
- Vốn ĐTPT cho KH&CN ở các địa phương chủ yếu là đầu tư cho các trung
tâm ứng dụng và chuyển giao công nghệ, Chi cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng,
nhưng kinh phí được sử dụng hàng năm còn thấp, trang thiết bị vật chất nghèo nàn,
các đơn vị KH&CN còn chưa chủ động nên nhiều khi không có dự án để được
phân bổ kinh phí.
- Liên kết vùng, miền trong sử dụng và phát huy trang thiết bị, cơ sở vật chất
KH&CN, trong triển khai thực hiện các đề tài, dự án còn nhiều hạn chế.
- Một số địa phương sử dụng kinh phí SNKH cho những nhiệm vụ không
thuộc lĩnh vực hoạt động KH&CN (nhiều tỉnh chi cho CNTT; một số tỉnh chi cho
hoạt động hành chính, chi lương…). Tp. Hồ Chí Minh sử dụng hết số kinh phí được
phân bổ, Tp. Hà Nội sử dụng đạt 84% (kinh phí SNKH của 2 thành phố này chiếm 64
43% tổng kinh phí SNKH của 63 tỉnh, thành phố), chưa có năm nào UBND các
tỉnh, thành phố cân đối bố trí đủ số kinh phí Trung ương đã thông báo mặc dù
thông báo số tối thiểu, chỉ đạt từ 86%-95%, chưa xác định được sản phẩm chủ lực
của địa phương, hướng phát triển KH&CN hoặc liên kết, liên doanh với các trường
đại học lớn, viện nghiên cứu hoặc nhà khoa học để đặt hàng.
- Nhiệm vụ KH&CN chủ yếu được hình thành “từ dưới lên”, một số nhiệm
vụ còn mang tính nghiệp vụ, hàm lượng khoa học thấp, thiếu các nhiệm vụ
KH&CN có quy mô lớn, liên ngành. Cơ cấu các nhiệm vụ KH&CN hàng năm và
kinh phí đầu tư giữa các ngành, các lĩnh vực KH&CN còn mất cân đối (Lĩnh vực
nông nghiệp, nông thôn, môi trường, y học dân tộc có nhiều đề tài được thực hiện và
đạt được nhiều thành tựu nhưng các lĩnh vực khác còn nhiều hạn chế).
- Ngân sách KH&CN và ngân sách CNTT chưa tách riêng nên khi phân bổ
ngân sách cho CNTT vẫn từ nguồn ngân sách đầu tư cho KH&CN, nên số kinh phí
thực chi cho KH&CN còn thấp.
- Tỷ lệ kinh phí đầu tư cho KH&CN cấp huyện, thành phố có nơi còn thấp.
Hệ thống các đơn vị triển khai, dịch vụ KH&CN chưa được quan tâm đầu tư tương
xứng yêu cầu, nhiệm vụ và đòi hỏi của sự nghiệp CNH, HĐH trên địa bàn tỉnh.
- Kinh phí cho KH&CN ở nhiều địa phương chưa đạt được 2% NSNN, một
số địa phương phân bổ kinh phí cho KH&CN mới đạt trung bình hàng năm 1,05%
tổng chi ngân sách của tỉnh, có tỉnh chỉ đạt 0,35- 0,57% ngân sách cho hoạt động
KH&CN. Huy động nguồn ngoài ngân sách cho KH&CN còn hạn chế, nhất là từ
các doanh nghiệp.
- Nhiều địa phương chi chưa hết ngân sách cho KH&CN hoặc giải ngân còn
chậm do cơ chế, chính sách ban hành chưa phù hợp, chưa kịp thời.
- Hầu hết các địa phương còn lúng túng, chưa rõ ràng trong việc thanh quyết
toán hoặc chi cho đề mục ĐTPT cho KH&CN giữa các ngành.
- Cơ cấu các nhiệm vụ KH&CN hàng năm và kinh phí đầu tư giữa các
ngành, các lĩnh vực KH&CN còn mất cân đối: lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn,
môi trường; y học dân tộc có nhiều đề tài được thực hiện và đạt được nhiều thành
tựu; các lĩnh vực khác còn nhiều hạn chế. 65
- Xây dựng kế hoạch KH&CN tuy đã tích cực đổi mới về phương thức xây
dựng, nhưng nội dung kế hoạch vẫn còn thiếu những chương trình, dự án KH&CN
trọng điểm trước mắt và lâu dài do tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đặt hàng
để giải quyết những yêu cầu bức bách của sản xuất, đời sống và xã hội đặt ra. Kết
quả thực hiện nhiệm vụ KH&CN sau khi nghiệm thu đánh giá của một số đề tài
chưa được áp dụng rộng trong thực tiễn, nhất là những nhiệm vụ KH&CN trong
lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn.
- Chưa thực hiện đa dạng hoá nguồn đầu tư KH&CN. Tỷ lệ kinh phí đầu tư
cho KH&CN cấp huyện, thành phố còn thấp. Hệ thống các đơn vị triển khai, dịch vụ
KH&CN chưa được quan tâm đầu tư tương xứng yêu cầu, nhiệm vụ và đòi hỏi của
sự nghiệp CNH, HĐH trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
c. Trong việc phối hợp thực hiện phân bổ kinh phí chi ĐTPT, chi SNKH cho
KHCN ở trung ương và địa phương
- Sự phối hợp giữa Bộ KH&ĐT, Bộ TC, Bộ KH&CN ở trung ương và giữa
Sở KH&ĐT, Sở TC, Sở KH&CN ở địa phương còn thiếu sự gắn kết, hạn chế. Thể
hiện rõ sự bất cập qua xây dựng 17 PTNTĐ.
- Việc phân bổ kinh phí ĐTPT ở trung ương và địa phương, Bộ KH&CN, Sở
KH&CN tỉnh, thành phố không được biết, cũng như không thông báo sử dụng kinh
phí này từ Bộ KH&ĐT, Sở KH&ĐT.
2.3.4. Những khó khăn vướng mắc trong công tác xây dựng kế hoạch và
quản lý nguồn vốn đầu tư cho hoạt động khoa học và công nghệ
Kế hoạch KH&CN, trong đó có dự toán kinh phí cho các nhiệm vụ KH&CN
cho năm kế hoạch tới và dự toán này phải được UBND tỉnh phê duyệt. Việc này
nhiều năm qua Sở KH&CN có cố gắng nhưng chưa thực hiện được. Kế hoạch năm
phải được gửi Bộ KH&CN trước 30/6 hàng năm, lúc đó Sở KH&CN chỉ mới tham
mưu UBND tỉnh ban hành được danh sách các nhiệm vụ KH&CN để đưa vào kế
hoạch và như vậy dự toán chỉ là khái toán của đơn vị đề xuất. Từ tháng 7 đến tháng
12, tổ chức tuyển chọn, giao trực tiếp cho các tổ chức chủ trì nhiệm vụ, xét duyệt
kinh phí. Nếu công việc được thực hiện tốt thì đầu năm sau ký hợp đồng triển khai
66
thực hiện. Như vậy, từ lúc đặt hàng hoặc đề xuất nhiệm vụ thì sớm lắm thì một
năm sau mới triển khai thực hiện. Nếu nhiệm vụ thực hiện 12 tháng thì hơn 2 năm
mới có kết quả, đó là chưa tính đến chậm tiến độ của các đơn vị chủ trì.
Trong công tác xây dựng kế hoạch, khó khăn nhất của địa phương hiện nay
là việc xác định, lựa chọn các nhiệm vụ KH&CN để đưa vào kế hoạch hàng năm.
Phần lớn các ngành, các cấp thiếu chủ động trong việc đề xuất các nhiệm vụ, các
giải pháp KH&CN để giải quyết những khó khăn, bức xúc ngay trong ngành, đơn
vị mình. Những vấn đề lớn như Quy hoạch phát triển ngành KH&CN chưa được
Bộ hướng dẫn một cách cụ thể và thống nhất.
Chưa có hệ thống quản lý và tổng hợp được các nguồn tài chính đầu tư cho
hoạt động KH&CN. Sở KH&CN là cơ quan tham mưu giúp UBND tỉnh quản lý
nhà nước về KH&CN trên địa bàn tuy nhiên Sở KH&CN chỉ quản lý và theo dõi
được nguồn tài chính đầu tư từ NSNN cho hoạt động KH&CN do UBND tỉnh giao
thực hiện và một số nguồn vốn đối ứng của tổ chức, đơn vị, người dân tham gia
một số dự án có yêu cầu phải đối ứng vốn. Việc không nắm bắt, tổng hợp được
nguồn tài chính đầu tư cho hoạt động KH&CN gây khó khăn trong công tác quản
lý, dự báo được nguồn lực đầu tư cho KH&CN, từ đó ảnh hưởng đến việc huy
động nguồn lực và sử dụng nguồn lực đầu tư cho KH&CN. Chưa có sự phối hợp
chặt chẽ giữa Sở KH&CN với các sở, ngành và UBND cấp huyện và các cơ quan
của trung ương trên địa bàn để lồng ghép và chỉ đạo gắn kết các dự án với các
chương trình dự án khác.
Việc phân bổ kinh phí nghiên cứu KH và phát triển công nghệ cho các
sở, ban ngành, huyện, thị xã, thành phố, kinh phí ĐTPT cho các Sở, ban ngành
hiện nay trong tỉnh vẫn theo cơ chế UBND tỉnh giao trực tiếp cho Sở, ban
ngành, UBND các huyện, thị xã, thành phố. Vì vậy, Sở KH&CN chỉ thỏa thuận
danh mục các nhiệm vụ thực hiện nhưng không nắm được kinh phí thực hiện
hàng năm, gây khó khăn công tác tổng hợp và xây dựng kế hoạch hàng năm
Thiếu cơ chế, chính sách và hình thức huy động nguồn tài chính ngoài
NSNN cho nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ. Cơ chế, chính sách
kinh tế, tài chính thúc đẩy, huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách cho phát triển
KH&CN chưa đủ mạnh, chưa khuyến khích được các doanh nghiệp, nhất là các 67
doanh nghiệp tích cực áp dụng những thành tựu KH&CN đổi mới kỹ thuật, đổi
mới sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ trên thị trường
trong và ngoài nước.
Đối với một số tỉnh do điều kiện khó khăn của địa phương nên kinh phí cho
việc thực hiện các nhiệm vụ về KH&CN trên địa bàn còn hạn chế, chưa đáp ứng
được yêu cầu thực tiễn
Cán bộ chuyên trách làm công tác quản lý KH&CN ở cấp huyện vẫn phải
kiêm nhiệm nhiều việc khác và không cố định nên có ảnh hưởng nhất định đến
hoạt động KH&CN ở cơ sở.
Trong quá trình lập kế hoạch hoạt động KH&CN tại địa phương vẫn còn
một số hạn chế như: Trong quá trình phân tích, đánh giá thực trạng để lập kế hoạch
KH&CN hàng năm, chưa có sự so sánh chéo với các địa phương khác. Việc xác
định mục tiêu kế hoạch chưa mang tính đột phá mà vẫn còn dàn trải và có sự lặp đi
lặp lại qua nhiều giai đoạn, chưa có điểm nhấn, dẫn đến việc dự báo nhu cầu nguồn
lực tài chính còn chưa chính xác.
Việc tổ chức triển khai ứng dụng, chuyển giao các kết quả nghiên cứu khoa
học, các công nghệ mới đã được công bố áp dụng thành công ở các địa phương
trong nước và nước ngoài vào thực tế sản xuất và đời sống của tỉnh khi thực hiện
các nhiệm vụ này dưới hình thức tuyển chọn còn gặp khó khăn do Trung tâm Ứng
dụng tiến bộ KH&CN chưa hội đủ điều kiện về cơ sở vật chất, nhân lực, nguồn
vốn để thực hiện.
Do ở địa phương, các nhiệm vụ KH&CN hầu như không có các hoạt động
nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng mà chủ yếu là áp dụng các tiến bộ kỹ
thuật vào sản xuất và đời sống (thường đã có nguồn gốc, địa chỉ và tác giả của các
giải pháp kỹ thuật dự kiến áp dụng), nên việc áp dụng cơ chế tuyển chọn chủ
nhiệm và cơ quan chủ trì đề tài, dự án KH&CN là rất khó khăn, nhiều khi chỉ là
hình thức.
Khó khăn trong công tác lập dự toán, thanh quyết toán nguồn vốn ngân sách
đầu tư cho hoạt động KH&CN. Hiện nay còn thiếu văn bản quy phạm pháp luật để
hướng dẫn việc phân bổ, chi tiêu kinh phí từ ngân sách cho các hoạt động 68
KH&CN. Định mức chi rất thấp và đã rất lạc hậu (Thông tư liên tịch số
44/2007/TTLT-BTC-BKHCN); thủ tục thanh quyết toán rườm rà. Thông tư liên
tịch số 93/2006/TTLT/BTC-BKHCN đã đề cập hình thức khoán chi nhưng vẫn
chưa triệt để, chưa tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích các nhà khoa học lao
động sáng tạo.
Tiểu kết Chương II
Từ kết quả nghiên cứu thực trạng phân bổ, sử dụng ngân sách nhà nước cho
KH&CN của cơ quan trung ương, địa phương qua việc sử dụng NSNN cho
KH&CN từ 2 nguồn kinh phí chi cho ĐTPT và kinh phí chi cho SNKH cho thấy.
những tồn tại và hạn chế cũng như bất cập trong phân bổ, sử dụng ngân sách nhà
69
nước cho KH&CN của các cơ quan trung ương và địa phương.
CHƢƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÂN BỔ NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC CHO KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
3.1. Quan điểm, mục tiêu, định hướng nhiệm vụ phát triển khoa học và
công nghệ giai đoạn 2011-2020
Phát triển KH&CN cùng với giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là
động lực then chốt để phát triển đất nước nhanh và bền vững. KH&CN phải đóng
vai trò chủ đạo để tạo được bước phát triển đột phá về lực lượng sản xuất, đổi mới
mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tập trung thực hiện đồng bộ 3 nhiệm vụ chủ yếu: Tiếp tục đổi mới cơ bản,
toàn diện và đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động KH&CN; tăng
cường tiềm lực KH&CN quốc gia; đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng, gắn nhiệm vụ
phát triển KH&CN với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở các cấp, các ngành.
Nhà nước tăng mức đầu tư và ưu tiên đầu tư cho các nhiệm vụ KH&CN
quốc gia, các sản phẩm quốc gia. Đẩy mạnh xã hội hóa, huy động mọi nguồn lực,
đặc biệt là của các doanh nghiệp chi ĐTPT cho KH&CN.
Đến năm 2020, KH&CN góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế và tái
cấu trúc nền kinh tế, giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công
nghệ cao đạt khoảng 45%GDP. Tốc độ đổi mới công nghệ, thiết bị đạt 10-
15%/năm giai đoạn 2011 - 2015 và trên 20%/năm giai đoạn 2016 - 2020. Giá trị
giao dịch của thị trường KH&CN tăng trung bình 15 - 17%/năm.
Số lượng công bố quốc tế từ các đề tài nghiên cứu sử dụng NSNN tăng trung
bình 15 - 20%/năm. Số lượng sáng chế đăng ký bảo hộ giai đoạn 2011 - 2015 tăng
gấp 1,5 lần so với giai đoạn 2006 - 2010, giai đoạn 2016 - 2020 tăng 2 lần so với
giai đoạn 2011 - 2015, trong đó đặc biệt tăng nhanh số lượng sáng chế được tạo ra
từ các chương trình KH&CN trọng điểm cấp Nhà nước.
Phấn đấu tăng tổng đầu tư xã hội cho KH&CN đạt 1,5% GDP vào năm 2015
và trên 2% GDP vào năm 2020. Bảo đảm mức đầu tư từ NSNN cho KH&CN
không dưới 2% tổng chi NSNN hàng năm. 70
Đến năm 2015, số cán bộ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đạt 9
- 10 người trên một vạn dân; đào tạo và sát hạch theo chuẩn quốc tế 5.000 kỹ sư đủ
năng lực tham gia quản lý, điều hành dây chuyền sản xuất công nghệ cao trong các
ngành, lĩnh vực ưu tiên phát triển của đất nước.
Đến năm 2020, số cán bộ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đạt 11 -
12 người trên một vạn dân; đào tạo và sát hạch theo chuẩn quốc tế 10.000 kỹ sư đủ
năng lực tham gia quản lý, điều hành dây chuyền sản xuất công nghệ cao trong các
ngành, lĩnh vực ưu tiên phát triển của đất nước.
Đến năm 2015, hình thành 30 tổ chức nghiên cứu cơ bản và ứng dụng đạt
trình độ khu vực và thế giới, đủ năng lực giải quyết những vấn đề trọng yếu quốc
gia đặt ra đối với KH&CN; 3.000 doanh nghiệp KH&CN; 30 cơ sở ươm tạo công
nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao.
Đến năm 2020, hình thành 60 tổ chức nghiên cứu cơ bản và ứng dụng đạt
trình độ khu vực và thế giới, đủ năng lực giải quyết những vấn đề trọng yếu quốc
gia đặt ra đối với KH&CN; 5.000 doanh nghiệp KH&CN; 60 cơ sở ươm tạo công
nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao.
Đổi mới cơ bản cơ chế quản lý KH&CN phù hợp với nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và đặc thù của hoạt động KH&CN, đáp ứng yêu cầu
hội nhập quốc tế, nhanh chóng nâng cao hiệu quả đầu tư và đóng góp thiết thực của
KH&CN cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Đổi mới phương thức xây dựng nhiệm vụ KH&CN các cấp, bao gồm đề
xuất, lựa chọn và xác định nhiệm vụ KH&CN, bảo đảm tính thực tiễn, khoa học và
liên ngành. Quy định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban
nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc xác định và chỉ đạo
thực hiện các nhiệm vụ KH&CN trọng điểm thuộc phạm vi quản lý. Tăng tỷ lệ
nhiệm vụ KH&CN có khả năng thương mại hóa.
Đổi mới phương thức tổ chức thực hiện nhiệm vụ KH&CN các cấp theo
71
hướng bảo đảm công khai, minh bạch và cạnh tranh trong tuyển chọn tổ chức, cá
nhân thực hiện nhiệm vụ KH&CN. Khuyến khích các tổ chức KH&CN liên kết,
phối hợp để thực hiện các nghiên cứu khoa học có ý nghĩa quốc gia và trình độ
quốc tế. Thực hiện thẩm định, đánh giá theo chuẩn mực quốc tế trong việc giao,
thực hiện nhiệm vụ KH&CN.
Đổi mới cơ chế tài chính thực hiện nhiệm vụ KH&CN phù hợp với đặc thù
của hoạt động KH&CN. Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát việc
sử dụng NSNN đầu tư cho KH&CN ở các Bộ, ngành, địa phương.
Đổi mới cơ chế, chính sách sử dụng và trọng dụng cán bộ KH&CN theo
hướng tạo động lực và lợi ích thiết thực để giải phóng và phát huy sức sáng tạo của
cán bộ khoa học. Áp dụng cơ chế, chính sách đãi ngộ đặc biệt đối với cán bộ
KH&CN chủ trì thực hiện nhiệm vụ KH&CN cấp quốc gia. Bảo đảm lợi ích chính
đáng của các tác giả có phát minh, sáng chế.
Đổi mới hệ thống quản lý nhà nước về KH&CN theo hướng tinh giản, tập
trung cho xây dựng chiến lược, cơ chế, chính sách; tăng cường năng lực điều phối
liên ngành, liên vùng, bảo đảm phân công, phân cấp; giảm bớt chức năng tác
nghiệp cụ thể.
Triển khai mô hình hợp tác công - tư trong lĩnh vực KH&CN; phát triển các
hình thức hợp tác nghiên cứu, đổi mới công nghệ, đào tạo phát triển nguồn nhân
lực giữa khu vực công và tư.
Chuyển cơ chế cấp phát tài chính để thực hiện các nhiệm vụ KH&CN sang
cơ chế quỹ. Triển khai nhanh chóng và đồng bộ hệ thống các quỹ KH&CN bao
gồm các quỹ quốc gia, Bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp.
Chuyển các tổ chức KH&CN công lập sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách
nhiệm theo quy định của pháp luật. Thực hiện nghiên cứu ứng dụng KH&CN theo
đặt hàng của Chính phủ, các Bộ, chính quyền địa phương, của các doanh nghiệp và
tổ chức khác.
Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động
nghiên cứu, sáng tạo của trí thức KH&CN vì sự phát triển của đất nước.
72
Tập trung ĐTPT các tổ chức KH&CN trọng điểm; liên kết các tổ chức
KH&CN cùng tính chất, lĩnh vực, hoặc liên ngành; hình thành các nhóm nghiên
cứu mạnh đủ năng lực giải quyết những nhiệm vụ trọng điểm quốc gia. Nâng cao
năng lực nghiên cứu cơ bản của các trường đại học trọng điểm quốc gia. Phát triển
các nhóm nghiên cứu trẻ có tiềm năng trong các trường đại học, viện nghiên cứu.
Nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của các khu công nghệ cao, khu
nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, khu công nghệ thông tin tập trung, các
PTNTĐ Quốc gia, cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp KH&CN,
trung tâm thông tin KH&CN, trung tâm ứng dụng tiến bộ KH&CN, trung tâm kỹ
thuật tiêu chuẩn đo lường chất lượng ở Trung ương và địa phương.
Nâng cao năng lực, trình độ và phẩm chất của cán bộ quản lý KH&CN ở các
ngành, các cấp.
Phát triển hệ thống các tổ chức dịch vụ chuyển giao công nghệ, các chợ công
nghệ và thiết bị. Bảo đảm thực thi pháp luật về sở hữu trí tuệ, khai thác và sử dụng
có hiệu quả các sáng chế. Tổ chức triển lãm giới thiệu các thành tựu đổi mới và
sáng tạo KH&CN.
3.2. Kinh nghiệm quản lý, sử dụng ngân sách nhà nƣớc cho khoa học và
công nghệ ở một số nước
3.2.1. Kinh nghiệm ở Mỹ
a. Gắn KH&CN với phát triển kinh tế Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, do nhu cầu phát triển KH&CN12, Mỹ đã
cho thành lập hàng loạt các phòng thí nghiệm Liên bang. Mỹ đã chú trọng phát triển
hệ thống giáo dục cao học từ rất sớm, đầu tiên là các trường đại học vừa giảng dạy,
vừa nghiên cứu khoa học trong các lĩnh vực nông nghiệp, khai mỏ và chế tạo động
cơ. Năm 1862, nhằm hỗ trợ cho nông nghiệp và công nghiệp cơ khí, Mỹ đã ban
hành đạo luật Morrill, thành lập hệ thống “10 trường đại học lớn”. Đây là cái nôi đầu
tiên của nền KH&CN Mỹ. Ở Mỹ đã hình thành một hệ thống phối hợp rất chặt chẽ
giữa trường đại học – viện nghiên cứu công nghiệp. Để có được một hệ thống như
vậy, đòi hỏi một quá trình phát triển khá lâu dài. Năm 1980, từ những mối lo ngại sự
giảm sút năng suất và sức ép cạnh tranh của Nhật Bản và Tây Âu, Quốc hội Mỹ đã
thông qua đạo luật Bayh-Dole. Theo đạo luật này, lần đầu tiên các trường đại học 73
được phép nhận bằng sáng chế đối với những kết quả nghiên cứu do chính quyền
liên bang hỗ trợ. Mục đích của đạo luật này là tạo cho các trường đại học cơ hội
kiếm lợi nhuận từ việc cấp phép cho các công ty của Mỹ sử dụng những phát minh
sáng chế của trường. Chính quyền đã nhận thức rõ giá trị thương mại của các phát
minh, sáng chế trong trường đại học. Với sự ra đời của đạo luật Bayh-Dole, Mỹ đã
cách mạng hóa quan hệ giữa các trường đại học và công nghiệp. Nhờ vậy, từ năm
1980 đến năm 1988, sự hỗ trợ tài chính của khu vực công nghiệp cho hoạt động
nghiên cứu của trường đại học tăng với tỷ lệ 8,1% hàng năm. Năm 1997, số tiền tài
trợ lên tới 1,9 tỷ USD, gấp 8 lần so với 20 năm trước. Số bằng sáng chế tăng vọt, từ
trước năm 1980 là 250 đến năm 1988 là 4800. Có thể nói nghiên cứu cơ bản là yếu
tố quyết định trình độ học vấn và tri thức trong nước, không có khoa học cơ bản thì
không thể có khoa học ứng dụng thực sự. Ở Mỹ, các trường đại học tìm ra những lý
thuyết, thực nghiệm, phương pháp, công nghệ mới, các loại dụng cụ mới, còn giới
kinh doanh có những kiến thức cụ thể về tiếp thị, kỹ thuật sản xuất, khả năng thương
mại. Các trường đại học tập trung vào các nghiên cứu phát minh cơ bản, còn các khu
vực kinh doanh đầu tư nhiều hơn vào ứng dụng và phát triển, cả hai liên kết chặt chẽ
với nhau để đưa một phát minh từ phòng thí nghiệm trở thành hữu ích, phục vụ xã
hội. Nhờ vậy, từ những phát minh mà các sản phẩm được sản xuất ra và đem bán
mang lại lợi nhuận cao. Những lợi ích của khoa học đối với con người và kinh tế là
vô giá, nhưng phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các trường đại học với các ngành
kinh tế mới biến được khoa học thành lợi nhuận.
b. Chính sách đầu tư cho KH&CN
Trong gần nửa thế kỷ qua, Chính phủ Mỹ đã hết sức coi trọng tới việc phát
triển KH&CN. Năm 1965, tài trợ của Chính phủ Mỹ cho nghiên cứu khoa học ở
các trường đại học đã tăng gấp 20 lần so với năm 1935 và vẫn tiếp tục tăng cho đến
cuối thập kỷ 80. Vì vậy các trường đại học ở Mỹ đã có nhiều phát minh khoa học
quan trọng, đóng góp vào sự phát triển các ngành sản xuất mũi nhọn của Mỹ. Nhờ
việc thúc đẩy nghiên cứu khoa học, nhiều ngành công nghiệp mới đã xuất hiện như
chất dẻo, sản xuất máy thu thành, điều hòa nhiệt độ… làm rút ngắn thời gian sản
xuất, tăng thu nhập cho người lao động. Nghiên cứu khoa học đã giúp Mỹ có 74
những bước tiến lớn trong các lĩnh vực như điện tử, y học… và là nước đầu tiên
sản xuất được bom nguyên tử.
Để có một chính sách KH&CN hợp lý, Mỹ đã hết sức quan tâm đến vấn đề
quan trọng hàng đầu là NSNN dành cho khoa học và phương thức chi tiêu ngân sách
đó. Ngay từ năm 1985, ngân sách Mỹ dành cho KH&CN đã là khoảng 54 tỷ USD và
được phân chia như sau: 34,5 tỷ USD (64%) cho quốc phòng, 6,1 tỷ USD cho năng
lượng, 5 tỷ USD cho y tế và giáo dục, 3,5 tỷ USD cho chinh phục vũ trụ và 1,2 tỷ
USD cho quỹ khoa học quốc gia. Nếu tính theo lĩnh vực nghiên cứu thì 54 tỷ này
đước chia ra: Nghiên cứu cơ bản 7,6 tỷ USD, nghiên cứu ứng dụng 8,4 tỷ USD, hoạt
động triển khai 36,2 tỷ USD và cho những cơ sở thực nghiệm là 1,8 tỷ USD.
c. Cơ chế phân bổ ngân sách đầu tư của Chính phủ
Ngay từ khi ra đời, nền KH&CN Mỹ kiên quyết chống lại việc tập trung
nghiên cứu. Khoa học cơ bản và khoa học ứng dụng đã nhanh chóng hòa hợp với
nhau trong khu vực nhà nước cũng như trong khu vực tư nhân và đã thu hút được
một nguồn tài chính lớn. Trong nghiên cứu khoa học của Mỹ có sự phân quyền
một cách cao độ. Phân quyền và tự trị là phương châm được áp dụng một cách chặt
chẽ. Mỗi cơ quan liên bang, mỗi khu vực liên bang có những hoạt động nghiên cứu
khoa học riêng. Họ tự bố trí chương trình nghiên cứu và xin ngân sách với Tổng
thống. Chính quyền Mỹ luôn cho rằng việc để cho mỗi khu vực hoạt động chịu
trách nhiệm cân nhắc những ý đồ, khả năng và những nguồn vốn mà họ định đầu
tư vào công việc nghiên cứu và phát triển là thích hợp hơn cả. Sau khi lập ngân
sách, trình lên cơ quan quyền lực cao nhất (Cơ quan tổ chức và ngân sách đặt bên
cạnh Tổng thống), tổng thống sẽ chấp nhận hoặc thay đổi những đề nghị đó.
Những phần dự thảo ngân sách đó sẽ chuyển lên Quốc hội nghiên cứu cặn kẽ. Cuối
cùng, Quốc hội duyệt lại kế hoạch phân bổ đầu tư dựa trên các nhu cầu cụ thể và
các mục tiêu phát triển KH&CN, đồng thời xác định khoản đầu tư dành riêng cho
các mục tiêu có ưu tiên đặc biệt.
Chính trong cơ chế tự chủ trên, KH&CN Mỹ nói chung và các tri thức Mỹ
nói riêng đã thấm nhuần tinh thần thực tiễn rất cao. Họ chỉ làm những gì mà thực
tiễn thực sự cần. Những người lính xung kích đầu tiên của nền khoa học Mỹ đã 75
sáng tạo ra không phải những trung tâm nghiên cứu cơ bản mà là các trường đại
học hoặc các viện kỹ thuật. Các trường đại học và viện kỹ thuật đó có vai trò
không phải là thúc đẩy khoa học thế giới mà là để giải quyết những vấn đề bức
bách của thực tiễn xã hội Mỹ.
3.2.2. Kinh nghiệm ở Cộng hòa Liên bang Đức
a. Về việc lập, phân bổ dự toán chi NSNN theo kết quả “đầu ra”
Mục đích “với một ngân sách không tăng nhưng kết quả sử dụng ngân sách phải tăng cao”, quản lý ngân sách13 không chỉ theo các yếu tố đầu vào, mà chuyển
sang phương pháp quản lý theo kết quả “đầu ra”, chuyển từ yêu cầu chi đúng mục
đích, đúng chế độ, đúng mục chi, … sang đánh giá hiệu quả sử dụng ngân sách căn
cứ khối lượng, chất lượng mà đơn vị sử dụng ngân sách mang lại, không chỉ từng
năm mà cả thời kỳ trung hạn (3-5 năm), có tính chất ổn định, phát triển bền vững.
b. Về vai trò của các cơ quan trong việc lập phương án phân bổ ngân sách
cho các đơn vị và các địa phương
Ở Đức tổng mức chi hỗ trợ ngân sách cho các địa phương được xác định bằng
một tỷ lệ % trên dự toán chi ngân sách bang (quy định trong Luật NSNN). Bộ Nội vụ
xác định nguyên tắc và phân bổ mức hỗ trợ cho từng địa phương (bổ sung cân đối và
bổ sung có mục tiêu); Bộ TC chỉ tham gia vào việc lập phương án phân bổ cho các
đơn vị cùng cấp, không tham gia vào việc phân bổ mức hỗ trợ cho địa phương.
3.2.3. Quản lý hoạt động khoa học và công nghệ của Úc và New Zealand
a. Bộ chuyên ngành đóng vai trò gì?
76
Như nhiều nước công nghiệp phát triển, cơ quan Bộ có quy mô rất nhỏ (làm việc tại trụ sở chính của Bộ Khoa học Công nghệ New Zealand15 chỉ có 80 cán bộ) do công tác quản lý nhà nước chỉ tập trung vào nhiệm vụ chính là hoạch định chính sách. Nếu như ở Việt Nam, cấp Bộ đã tách ra khỏi các hoạt động về quản lý trực tiếp doanh nghiệp và đang bước vào giai đoạn tách ra khỏi các hoạt động quản lý các cơ quan hành chính sự nghiệp (viện, trường, trung tâm, trạm, trại...) thì ở các nước này, các Bộ đã bước sang giai đoạn cao hơn là tách ra khỏi hoạt động trực tiếp quản lý và cấp vốn và một phần lớn các hoạt động cung cấp dịch vụ công. Việc cấp vốn và quản lý vốn cho khoa học công nghệ được tiến hành thông qua tổ chức là Quỹ nghiên cứu khoa học công nghệ (RDC ở Úc và FRST ở New
Zealand), không trực thuộc các Bộ. Các cơ quan phục vụ công tác nghiên cứu và đào tạo (trường Đại học) và phục vụ nghiên cứu (các Viện nghiên cứu) cũng hoạt động độc lập.
Đối với nhiều dịch vụ công như khuyến nông, thú y,... các Bộ chuyển sang
hỗ trợ cho các đơn vị tư nhân hoạt động cạnh tranh trên thị trường. Các cộng đồng,
hiệp hội ngành hàng trực tiếp tiến hành cung cấp dịch vụ và người sử dụng trả tiền.
Bộ chỉ tập trung vào các dịch vụ công đòi hỏi trình độ chuyên môn cao và không
đem lại lợi nhuận như nghiên cứu thông tin thị trường, kiểm dịch động, thực vật,
bảo vệ chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm (Ở Úc, trong số 4000 cán bộ của Bộ
Nông nghiệp có khoảng 3000 cán bộ kiểm dịch trực tiếp làm việc tại các cửa khẩu,
nhà ga, sân bay...).
Trong công tác quản lý nhà nước, Bộ không có trách nhiệm xây dựng kế
hoạch mục tiêu cụ thể về sản xuất như xác định diện tích, sản lượng hàng năm như
ở Việt Nam mà tập trung vào xây dựng chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho
người sản xuất và kinh doanh hoạt động. Ngoài ra, Bộ còn chỉ đạo và tham gia các
hoạt động hỗ trợ nông dân khi gặp thiên tai, dịch bệnh, quản lý xây dựng cơ sở hạ
tầng nông thôn, đàm phán tìm thị trường xuất khẩu, thiết lập chỉ tiêu chất lượng...
b. Vốn đầu tư cho khoa học công nghệ lấy từ nguồn nào?
Hàng năm vốn đầu tư cho KHCN của Úc là 1,2 tỷ đô la Úc, của New Zealand
là 477 triệu đô la New Zealand. Vốn đầu tư cho khoa học công nghệ được cung cấp
từ cả Chính phủ và nhân dân. Ngoài ra, bản thân doanh nghiệp khoa học cũng tham
gia tích lũy vốn đầu tư trở lại cho khoa học công nghệ. Sau 30 năm cải cách, hiện
nay nguồn vốn của nhà nước trong nhiều trường hợp đã giảm xuống dưới 50% và dự
tính trong tương lai gần mức đóng góp của các nguồn khác sẽ tăng lên 75% do
người sử dụng tiến bộ khoa học đóng góp ngày càng tăng và dưới hình thức một loại
thuế khoa học công nghệ thu từ các cơ sở sản xuất theo từng ngành hàng.
Vốn nghiên cứu từ cả hai nguồn nhà nước và tư nhân được giao cho các quỹ
nghiên cứu khoa học công nghệ. Đây là các cơ quan hoạt động độc lập chuyên làm
nhiệm vụ “đặt hàng” và “mua” kết quả nghiên cứu của các Viện, Trường. Các quỹ
77
này đều được tổ chức dưới hình thức như một quỹ đầu tư do một Hội đồng quản lý
bao gồm đại diện của Nhà nước (Bộ TC, Bộ KH&CN) và đại diện của người sử
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật (các công ty đóng thuế khoa học công nghệ). Dưới
Ban quản lý này cũng là một Tổng giám đốc điều hành (CEO) chịu trách nhiệm
quản lý, điều hành quỹ và chịu trách nhiệm trước Hội đồng. Các quỹ nghiên cứu
khoa học công nghệ chịu trách nhiệm tổ chức đấu thầu, đặt hàng nghiên cứu, đề
tài, dự án...
Các đơn đặt hàng không tiến hành dưới dạng các đề tài riêng biệt hàng năm
như ở Việt Nam mà được xây dựng thành các chương trình dài hạn 3-5 năm, từ ý
tưởng ban đầu cho đến sản phẩm cuối cùng để có thể ứng dụng đưa vào sản xuất.
Mỗi một chương trình được chia thành các bước đi có sản phẩm trung gian cụ thể.
Các hợp đồng được ký kết với các Viện lớn theo chương trình và có thể chia nhỏ
cho các cơ quan nghiên cứu cấp dưới hoặc cho các cơ quan nghiên cứu chuyên
ngành khác theo từng công đoạn.
NSNN thường được đầu tư cho các bước đầu tiên khi nghiên cứu chỉ mang
tính chất lý thuyết và vốn của doanh nghiệp được tập trung đầu tư vào các giai
đoạn cuối gắn với ứng dụng. Ngoài ra, cách tổ chức quỹ như vậy còn khuyến khích
các Viện tự bỏ vốn đầu tư vào hướng nghiên cứu có triển vọng và cho phép họ thu
tiền bản quyền tác giả lâu dài. Mặt khác, nếu thấy kết quả có khả năng ứng dụng
cao vào sản xuất, các công ty, doanh nghiệp tư nhân có thể hợp đồng thêm với các
viện nghiên cứu ở giai đoạn cuối cùng để đa dạng hóa sản phẩm khoa học và đưa
nhanh vào ứng dụng.
Cách quản lý và sử dụng nguồn vốn của Nhà nước, viện nghiên cứu và tư
nhân như trên giúp tránh được hai vấn đề thường gây tranh cãi ở Việt Nam. Đó là
sự phân bổ đầu tư giữa nghiên cứu cơ bản (của nhà nước) và nghiên cứu ứng dụng
(đang xã hội hoá) và mối quan hệ giữa Viện lớn (các viện hàn lâm, viện mẹ) và các
đơn vị trực thuộc.
c. Làm thế nào quản lý hiệu quả và tạo động lực cho cán bộ khoa học ?
Theo ý kiến của các nhà quản lý ở hai nước, cách đánh giá cán bộ tốt nhất
không phải là từ dưới lên (nhân viên đánh giá lãnh đạo) như Việt Nam làm mà nên
là ngược lại (lãnh đạo nhận xét nhân viên). 78
Đầu năm và giữa năm, lãnh đạo cấp trên có trách nhiệm giao nhiệm vụ cho
người dưới quyền căn cứ theo kế hoạch hoạt động của đơn vị, chức năng và nhiệm
vụ của cá nhân thành điều khoản giao việc (TOR). Sáu tháng một lần các cấp quản
lý đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của cấp dưới và tính thành điểm rõ ràng để
làm căn cứ đề bạt, sa thải, tăng lương...
Trong trường hợp cán bộ không làm tròn trách nhiệm ở mức độ nghiêm
trọng, cấp quản lý trực tiếp có trách nhiệm nhắc nhở và theo dõi việc sửa chữa.
Trong vòng 3 tháng nếu cán bộ đó tiếp tục sai phạm, không làm tròn nhiệm vụ thì
sẽ bị hạ cấp hoặc đưa ra khỏi cơ quan. Đây là hình thức đánh giá chính trong toàn
hệ thống dựa trên kết quả công việc và quy định chung.
Ngoài ra, hàng năm, các cán bộ đồng nghiệp trong viện có thể góp ý cho
nhau thông qua một loại phiếu điều tra. Phiếu hỏi những người có liên quan trong
đơn vị về quan hệ hợp tác giữa cán bộ và đồng nghiệp. Sau đó kết quả được gửi lại
cho chính đương sự nhằm mục đích góp ý xây dựng một cách khách quan, không
dùng làm căn cứ để đánh giá, đối xử với cán bộ.
Do có cơ chế thưởng phạt rõ ràng nên đội ngũ cán bộ liên tục được đổi mới.
Hàng năm vẫn có cán bộ bị đưa ra khỏi cơ quan hoặc được tuyển vào.
Ở Úc, lương cho đội ngũ cán bộ then chốt được nhà nước đảm bảo. Ngoài ra, Viện
dùng nguồn tài chính từ các đề tài đấu thầu cạnh tranh để chi trả cho các hoạt động
nghiên cứu, vận hành bộ máy, chi phí hành chính... và phần còn lại được dùng để
thưởng thêm vào lương cán bộ.
Ở New Zealand, toàn bộ nguồn thu của các viện là từ đề tài và đấu thầu cạnh
tranh bao gồm cả lương, hoạt động nghiên cứu, chi phí hành chính và quản lý đơn
vị... So giữa hai nước, cách làm của New Zealand khuyến khích và đào thải mạnh
hơn nên khả năng thu hút cán bộ từ quốc tế rất mạnh. Ví dụ, Viện Nghiên cứu cây
ăn quả New Zealand hiện nay có hơn 500 cán bộ cao cấp nằm ở 10 trung tâm, trụ
sở với các phân viện ở Mỹ, Úc, Tây Ban Nha...
d. Đổi mới quản lý KHCN ở Úc và New Zealand diễn ra như thế nào?
Cũng như Việt Nam, Úc và New Zealand phải trải qua một quá trình dài vất
vả đổi mới cơ chế quản lý và tổ chức các cơ quan nghiên cứu. Trước năm 1992, 79
ngành nông nghiệp New Zealand có trên 60 Viện và Trung tâm nghiên cứu (không
kể các trường Đại học). Công tác quản lý khoa học chồng chéo giữa Bộ Khoa học
Công nghệ và Bộ Nông nghiệp. Hiện nay, cải cách hoàn tất, số lượng các viện
nghiên cứu giảm xuống còn 4 (Viện chăn nuôi gia súc và gia cầm, Viện Nghiên
cứu cây ăn quả, Viện Giống cây trồng và chế biến thực phẩm, Viện sử dụng đất
nước bền vững).
Một trong những thay đổi lớn là chuyển từ cấp vốn theo kiểu phân bổ đề tài
hàng năm trước đây sang đầu tư cho các chương trình nghiên cứu dài hạn cho các
sản phẩm khoa học cụ thể. Các cơ quan chịu trách nhiệm đặt hàng nghiên cứu
(RDC ở Úc và FRST ở New Zealand) bàn bạc với các viện để xây dựng các
chương trình đầu tư dài hạn. Trên cơ sở đó, hai bên ký hợp đồng cho toàn bộ
chương trình để cấp vốn cụ thể và đánh giá hàng năm.
Một sự đổi mới khác là Chính phủ thu thuế khoa học công nghệ từ các cơ sở
sản xuất để đầu tư lại cho cơ quan nghiên cứu. Và do phải sống bằng nguồn thu từ
thuế trực tiếp của người sử dụng công nghệ nên các viện nghiên cứu phải rất chú ý
đến yêu cầu của thực tiễn sản xuất. Nhờ đó mối liên kết chặt chẽ giữa sản xuất và
nghiên cứu được hình thành một cách tự nhiên.
Trong quá trình đổi mới, Úc và New Zealand cũng phải từng bước điều
chỉnh để các viện nghiên cứu không quá sa đà vào cung cấp dịch vụ kỹ thuật và tư
vấn để tăng thêm thu nhập mà lãng quên công tác nghiên cứu. Để thực hiện điều
này, cả hai nước áp dụng chính sách để các viện nghiên cứu chỉ thông qua các hoạt
động nghiên cứu là đủ khả năng thu hồi mọi chi phí hoạt động và có tái sản xuất
mở rộng (gồm chi phí tiền lương, quản lý bộ máy, mua sắm tài sản và các chi phí
khác...) Mặt khác, các viện được hưởng lợi ngày càng nhiều từ tiền sáng chế và
bản quyền. Chính sách này khuyến khích viện vào hoạt động nghiên cứu hơn là
làm dịch vụ kỹ thuật thuần tuý.
e. Các đề tài nghiên cứu được xác định và lựa chọn như thế nào?
Chính phủ định kỳ thông báo các định hướng nghiên cứu muốn tiến hành.
Căn cứ vào đó, các Bộ đề ra các mục tiêu chiến lược cho ngành (Ví dụ Bộ Nông
nghiệp hướng vào nâng cao năng lực cạnh tranh của nông sản, đảm bảo an toàn vệ 80
sinh thực phẩm, bảo vệ môi trường...).
Các cơ quan cấp vốn (RDC của Úc và FRST của New Zealand) có trách
nhiệm đề ra các chương trình sản phẩm cụ thể mà nhà nước muốn có và sắp xếp
theo thứ tự ưu tiên cho cả nước, từng địa phương, và từng lĩnh vực. Các cơ quan
này có thể xác định tên đề tài và sản phẩm cụ thể hoặc có thể chỉ nêu định hướng
để các Viện đề xuất nghiên cứu.
Các viện, trường dựa trên định hướng của Bộ/ngành, yêu cầu của các thành
phần kinh tế trong ngành và lợi thế so sánh của đơn vị mình, chủ động đề xuất, xây
dựng kế hoạch nghiên cứu của mình và tham gia đấu thầu cạnh tranh.
Ở cả ba cấp, kế hoạch được xây dựng trong 3 năm hoặc 5 năm với các sản phẩm và
mục đích rõ ràng kèm theo giải pháp thực hiện cụ thể (cán bộ, tài chính, chính sách,
cách thức quản lý...). Kế hoạch này đều phải thông qua Hội đồng Quản lý các cấp
trong kế hoạch hàng năm và báo cáo tiến độ kết quả thực hiện vào cuối năm.
Cách xác định và lựa chọn đề tài nghiên cứu như trên giúp tránh được sự chồng chéo
giữa các cơ quan cấp vốn, đảm bảo sự chủ động và thích ứng của các viện nghiên
cứu, định hướng được các hoạt động nghiên cứu theo chương trình lớn từ trên xuống
dưới và thể hiện thành các sản phẩm cụ thể ngay từ đầu để phối hợp đầu tư.
Phương thức tổ chức phối hợp hài hòa giữa các đại diện của người dân làm
chủ trong các hội đồng quản lý, và đội ngũ cán bộ quản trị làm thuê, đội ngũ cán
bộ khoa học nhiệt tình và hăng say nghiên cứu là những yếu tố quyết định thành
công trong hoạt động KH&CN của Úc và New Zealand.
3.2.4. Chi nghiên cứu và phát triển theo nguồn cấp kinh phí và khu vực
thực hiện
Hiện nay nguồn cấp kinh phí cho NC&PT là Chính phủ, doanh nghiệp, nước
ngoài và các nguồn trong nước khác, còn tổ chức thực hiện – khu vực thực hiện là
Chính phủ, doanh nghiệp, trường đại học, phi Chính phủ.
Bảng 3.1 ở dưới đây cho thấy ở các nước14 có nền kinh tế phát triển, xét theo
nguồn cấp kinh phí, khu vực doanh nghiệp là khu vực chính cấp kinh phí cho
NC&PT, sau đó là khu vực Chính phủ, nước ngoài và các nguồn trong nước khác;
ngược lại trong khi đó ở Việt Nam, thì theo thứ tự Chính phủ - Nhà nước là nhà tài 81
trợ chính cho NC&PT chiếm 64,29%, doanh nghiệp chỉ chiếm 28,21%, nước ngoài
4,47%, các nguồn trong nước khác 3,03% trong nguồn cấp kinh phí. Trung Quốc
đã có sự chuyển biến mạnh mẽ với tỉ lệ cấp tài chính cho NC&PT từ Chính phủ chỉ
có 24,26%, còn từ doanh nghiệp là 74,35%, nước ngoài 1,39%. Nhật Bản, tỉ lệ cấp
tài chính cho NC&PT từ Chính phủ thấp hơn là 17,68%, còn từ doanh nghiệp là
75,27%, nước ngoài 0,42% và 6,63% là nguồn trong nước khác.
Bảng 3.1. Chi cho nghiên cứu và phát triển của một số nƣớc/nền kinh tế
Nguồn cấp kinh phí (%)
Khu vực thực hiện (%)
Nước (năm có số liệu)
Tổng chi (triệu USD ppp)
Doanh nghiệp
Chính phủ
Nước ngoài
Doanh nghiệp
Đại học
Chính phủ
Phi Chính phủ
Các nguồn trong nước khác
13.216,23
58,15
27,53
3,46
10,86
69,29
26,05
4,33
0,32
Thụy Điển
7.634,75
67,01
25,03
1,41
6,54
70,46
19,99
8,85
0,71
Phần Lan
7.052,44
60,17
27,57
3,53
8,73
67,57
29,85
2,16
0,43
Đan Mạch
39.627,15
44,60
32,25
6,18
16,98
61,47
26,86
9,28
2,39
Anh
9.761,91
45,50
38,09
0,55
15,86
68,09
26,10
5,34
0,48
Áo
33.721,36
27,68
67,08
0,96
4,28
60,96
9,03
29,84
0,17
Nga
616,33
28,21
64,29
3,03
4,47
26,0
14,4
58,3
1,3
Việt Nam
148.936,24
74,35
24,26
0,00
1,39
73,23
8,07
18,71
Trung Quốc (2009)
53.156,57
71,80
26,75
1,23
0,22
0,59
85,78
0,10
13,5
(2009) Hàn Quốc (2010)
137.451,21
75,27
17,68
6,63
0,42
75,76
13,41
9,21
1,61
Nhật Bản (2009)
24.258,05
46,52
,,
,,
6,43
51,28
38,11
10,13
0,48
Canađa
415.193,00
59,96
33,39
6,65
,,
68,35
15,20
12,15
4,30
Hoa Kỳ
theo nguồn cấp và khu vực thực hiện năm 2011
Kết quả so sánh ở Bảng 3.1. cho thấy ở Việt Nam, khu vực tổ chức thực hiện
NC&PT của nhà nước là khu vực chủ yếu sử dụng kinh phí cho NC&PT (chiếm
đến 58,3%) trong khu vực doanh nghiệp chỉ chiếm 26,01%, khu vực trường đại 82
học chiếm 14,4%. Ở đa số những nước phát triển, khu vực doanh nghiệp là khu
vực thực hiện chính và sử dụng đến trên 50% chi phí cho NC&PT, sau đó là trường
đại học, chính phủ, cụ thể như Nhật Bản, doanh nghiệp thực hiện chiếm 75,76%,
trường đại học thực hiện chiếm 13,41%, Chính phủ thực hiện 9,21%, còn Canada
thì doanh nghiệp thực hiện 51,25%, trường đại học thực hiện 38,11%, Chính phủ
thực hiện 10,13%. Ở Hàn Quốc thì khu vực thực hiện NC&PT tập trung chủ yếu là
ở trường đại học, chiếm 85,78%, doanh nghiệp thực hiện 0,59%, Chính phủ thực
hiện 0,10% và phi Chính phủ là 13,5%.
Khu vực thực hiện (theo % GERD)
Các nước ASEAN (Năm có số liệu)
Đại học
Phi Chính phủ
Không xếp loại
Bảng 3.2. Tỷ lệ chi cho NC&PT quốc gia theo khu vực thực hiện
Doanh nghiệp
Chính phủ
Malaixia (2006)
2.090.512
84,9
5,2
9,9
-
-
Thái Lan (2007)
1.120.750
45,0
18,5
32,5
2,7
1,2
Philipin (2007)
342.491
56,9
17,7
23,3
2,1
-
Singapo (2008)
6.605.896
71,8
7,6
20,5
-
-
Inđônêxia (2009)
803.522
14,3
81,1
4,6
-
-
-
Việt Nam (2011)
616.330
26,0
58,3
14,4
1,3
của một số nƣớc ASEAN và Việt Nam GERD (theo nghìn USD ppp)
Kết quả so sánh tỷ lệ chi cho NC&PT quốc gia theo khu vực thực hiện của một số nước ASEAN và Việt Nam14 tại Bảng 3.2 ở trên cho thấy ở Việt Nam khu
vực tổ chức thực hiện NC&PT của nhà nước là 58,3% chỉ thấp hơn Inđônêxia
81,1%, trong khi đó các nước trong khối ASEAN thì khu vực thực hiện là chủ yếu,
như Malaixia 84,9%, Singapo 71,8%, Philippin 56,9%, Thái Lan 45%. Khu vực
thực hiện chủ yếu sau doanh nghiệp là ở trường Đại học như Thái Lan 32,5%,
Philippin 23,3%, Singapo 20,8%, Malaixia 9,9%. Ở Việt Nam khu vực thực hiện
chủ yếu là Chính phủ (58,3%), doanh nghiệp (26%), trường Đại học 14,4%, cuối
83
cùng là phi Chính phủ thực hiện (1,3%).
3.3. Giải pháp về phân bổ, sử dụng ngân sách nhà nƣớc cho khoa học và
công nghệ
3.3.1. Giải pháp tăng nguồn ngân sách nhà nước và đổi mới phân bổ
ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ
Tiếp tục đảm bảo bố trí đủ nguồn lực và tăng dần hàng năm và nâng cao
hiệu quả đầu tư từ NSNN cho hoạt động KH&CN.
Thực hiện đổi mới toàn diện và đồng bộ tổ chức và hoạt động KH&CN để
đảm bảo chi có hiệu quả 2% tổng chi NSNN, đồng thời khắc phục tình trạng nhiều
kết quả nghiên cứu không được ứng dụng như hiện nay; tăng cường chi đầu tư phát
triển cơ sở vật chất, trang thiết bị để nâng cao nâng cao năng lực nghiên cứu của
các tổ chức KH&CN. Về lâu dài, có thể cân nhắc đến việc không cân đối chi
KH&CN theo tỷ lệ chi NSNN, mà cân đối theo dự toán, gắn với nhu cầu, nhiệm vụ
cụ thể hằng năm, có thể hơn 2% nhưng phải gắn liền với nhiệm vụ cụ thể tạo ra sản
phẩm chất lượng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thực tế,
đã có địa phương quy định mức chi từ NSNN cho KHCN cao hơn 2% nhằm kích
thích tối đa sự phát triển hoạt động KHCN phục vụ phát triển KTXH trên địa bàn.
Triển khai mô hình hợp tác công – tư trong lĩnh vực KH&CN thông qua việc
hợp tác nghiên cứu trong và ngoài nước, đổi mới công nghệ, đào tạo phát triển
nguồn lực giữa khu vực công và khu vực tư. Khuyến khích tổ chức, cá nhân trong
nước và nước ngoài thành lập Quỹ phát triển KH&CN, quỹ đầu tư mạo hiểm trong
lĩnh vực KH&CN.
Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, đổi mới sản
phẩm nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua việc: (i) hoàn thiện các cơ chế,
chính sách tài chính khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào hoạt động KH&CN
được quy định tại Nghị định 119/1999/NĐ-CP ngày 18/9/1999 và Thông tư
15/2011/TT-BTC ngày 9/2/2011, 105/2012/TT-BTC ngày 25/6/2012 của Bộ Tài
chính sửa đổi, bổ sung Thông tư số 15/2011/TT-BTC ngày 09/02/2011 của Bộ Tài
chính hướng dẫn thành lập, tổ chức, hoạt động, quản lý và sử dụng Quỹ phát triển
84
khoa học và công nghệ của doanh nghiệp; (ii) khuyến khích doanh nghiệp thành
lập Quỹ phát triển KH&CN để thực hiện nghiên cứu, ứng dụng kết quả nghiên cứu
thông qua việc tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách liên quan.
Tăng cường hợp tác quốc tế về tài chính cho phát triển KH&CN thông qua
việc hoàn thiện cơ sở pháp lý cho các tổ chức KH&CN khai thác nguồn vốn ngoài
nước từ hoạt động hợp tác quốc tế bằng nhiều hình thức khác nhau: hợp tác nghiên
cứu, đào tạo song phương, đa phương; khuyến khích tổ chức, các nhân nước ngoài
đầu tư, thành lập tổ chức KH&CN tại Việt Nam dưới nhiều hình thức. Đối với
nguồn ODA, cần ưu tiên đầu tư phát triển tiềm lực KH&CN, đặc biệt trong các
lĩnh vực như: các tổ chức nghiên cứu và phát triển trọng điểm, các phòng thí
nghiệm trọng điểm, các khu công nghệ cao.
3.3.2. Đổi mới cơ chế phân bổ và sử dụng ngân sách nhà nước phát triển
khoa học và công nghệ
- Ngân sách nhà nước cho KH&CN tập trung đầu tư vào các lĩnh vực trọng
điểm được xác định trong Chiến lược phát triển KH&CN, các lĩnh vực nghiên cứu
cơ bản, nghiên cứu chiến lược, chính sách và những lĩnh vực công ích do Nhà
nước quy định. Nhà nước tập trung đầu tư đồng bộ giữa hạ tầng cơ sơ, trang thiết
bị với đào tạo cán bộ KH&CN nhằm nâng cao năng lực hoạt động của các tổ chức
KH&CN. Tăng cường đầu tư NSNN cho việc xây dựng một số tổ chức nghiên cứu
và phát triển đạt trình độ hiện đại, tiên tiến, nhất là các tổ chức KH&CN đầu ngành
có tiềm năng để thúc đẩy quá trình hội nhập với khu vực và thế giới. Có chế độ ưu
đãi đặc biệt (về nhà ở, điều kiện làm việc, chế độ tiền lương, thu nhập, xuất nhập
cảnh thuận lợi …) để thu hút chuyên gia giỏi trong nước và nước ngoài tới làm
việc tại các tổ chức này.
Nguồn lực NSNN cho KH&CN cần được tập trung đầu tư cho các địa
phương nghiên cứu ưu tiên. Dành nguồn lực hợp lý để thực hiện các đề án, chương
trình được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt như Chương trình phát triển sản phẩm
quốc gia, Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao, Chương trình đổi mới
công nghệ, Chương trình nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hóa,
Chương trình quốc gia phát triển tài sản trí tuệ, Chương trình hỗ trợ ứng dụng và
85
chuyển giao tiến bộ KH&CN nông thôn, miền núi …
Sửa đổi, bổ sung các tiêu thức cụ thể để xác định nhiệm vụ KH&CN sử
dụng NSNN cho phù hợp với nhu cầu, khả năng quản lý và thực hiện của từng cấp,
trong đó quy định rõ các tiêu chí phân biệt đề tài KH&CN cấp Nhà nước, cấp bộ,
ngành và cấp cơ sở. Khẩn trương xây dựng và ban hành khung định mức kinh tế kỹ
thuật, định mức nhân công, vật tư, thiết bị áp dụng cho đề tài, đề án và các định
mức tài chính phục vụ cho việc xây dựng dự toán, phân bổ dự toán kinh phí và các
tiêu chí nghiệm thu, đánh giá sản phẩm KH&CN dựa trên các tiêu chí đầu ra, theo
thông lệ quốc tế.
Chỉ thực hiện phân bổ, bố trí kinh phí NSNN cho chương trình, đề án lớn
cho các bộ, ngành khi đã có đầy đủ cơ sở pháp lý (như quyết định của Thủ tướng
Chính phủ, Thông tư hướng dẫn quản lý tài chính của Bộ Tài chính, Quyết định
phê duyệt nội dung nghiên cứu, kinh phí thực hiện từng nhiệm vụ của Thủ trưởng
Bộ, ngành, địa phương …).
Có cơ chế gắn kết nguồn kinh phí NSNN dành cho nghiên cứu, sản xuất thử
nghiệm với nguồn kinh phí để sản xuất, thương mại hóa sản phẩm nghiên cứu.
Theo đó, đẩy mạnh việc nghiên cứu các sản phẩm KH&CN gắn với kết quả đầu ra,
đáp ứng nhu cầu của xã hội và thu hút được nguồn vốn đầu tư, thương mại hóa kết
quả nghiên cứu từ doanh nghiệp. Thay đổi việc xây dựng nhiệm vụ dựa trên khả
năng của các tổ chức KH&CN bằng việc xuất phát từ yêu cầu của xã hội, yêu cầu
của nền kinh tế và gắn với địa chỉ sử dụng, đảm bảo sự gắn kết và nguồn lực tài
chính giữa các khâu xác định nhiệm vụ, tổ chức nghiên cứu và áp dụng, triển khai
vào thực tiễn.
Tăng cường phân cấp, nâng cao vai trò, trách nhiệm, tính tự chủ của các Bộ
quản lý ngành, lĩnh vực, địa phương trong quản lý, sử dụng kinh phí KH&CN. Các
Bộ, ngành, địa phương quyết định thực hiện các đề tài, dự án KH&CN cấp nhà nước
thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của các Bộ, ngành, địa phương, đồng thời kinh phí
thực hiện các đề tài, dự án này được giao trong dự toán chi NSNN hằng năm của các
Bộ, ngành, địa phương; Bộ KH&CN có trách nhiệm: hướng dẫn về định hướng
nghiên cứu, tiêu chí xác định và ban hành các quy định quản lý chung đối với các đề
86
tài, dự án cấp nhà nước tại các Bộ, ngành, địa phương theo quy định.
3.3.3. Điều chỉnh cơ cấu chi giữa chi đầu tư phát triển khoa học và công
nghệ và chi sự nghiệp khoa học và công nghệ từ khối trung ương và địa phương
Trên cơ sở phân tích cơ cấu chi ngân sách trung ương và địa phương trong
những năm qua, đề xuất thực hiện từ năm 2015 như sau:
- Các tỉnh và thành phố chủ động đặt hàng các tổ chức KH&CN, các trường
đại học của trung ương hoặc địa phương tham gia triển khai các nhiệm vụ khoa học
và công nghệ cấp tỉnh (theo yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương), để
làm tăng tổng mức chi sự nghiệp KH&CN trong cân đối ngân sách của địa
phương. Đồng thời, giảm tổng mức chi đầu tư phát triển cân đối từ ngân sách địa
phương trên cơ sở cân đối tối thiểu 2% chi ngân sách của địa phương dành cho
KH&CN.
- Trên cơ sở tổng mức chi dành cho KH&CN thực tế của ngân sách địa
phương, Bộ KH&CN sẽ tổng hợp và kiến nghị cân đối bổ sung ngân sách trung
ương cho từng địa phương trong trường hợp địa phương đã bảm bảo đủ 2% chi
ngân sách từ địa phương thông qua các chương trình KH&CN cấp quốc gia và các
dự án đầu tư phát triển cân đối từ ngân sách trung ương.
- Để tối đa hoá hiệu quả sử dụng NSNN cho việc thực hiện các nhiệm vụ
KH&CN trên cơ sở đánh giá hiệu quả và sử dụng đúng mục đích kinh phí của các
bộ, ngành, địa phương trong năm kế hoạch, Bộ KH&CN sẽ đề xuất mức kinh phí
dành cho KH&CN của năm kế hoạch tiếp theo cho các bộ, ngành, địa phương và
kiến nghị Bộ TC, Bộ KH&ĐT điều chỉnh tổng mức khi xây dựng dự toán ngân
sách năm sau.
3.3.4. Đẩy mạnh việc đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với đơn vị sự
nghiệp khoa học công lập
Thực hiện đổi mới đồng bộ cơ chế tài chính đối với các đơn vị KH&CN theo
hướng tăng cường phân cấp và tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong tổ chức
thực hiện nhiệm vụ và trong sử dụng nguồn lực (bao gồm cả nhân lực và trong
nguồn lực tài chính) trên cơ sở gắn với đặc điểm từng loại hình dịch vụ và nhu cầu
của thị trường. Các đơn vị KH&CN được quyền quyết định việc sử dụng tiền vốn,
tài sản gắn với nhiệm vụ được giao theo quy định; và dựa trên các tiêu chí định 87
mức công việc được quyết định biên chế và trả lương theo quy định và hiệu quả
công việc.
Thực hiện cơ chế đấu thầu Nhà nước đặt hàng đối với các nhiệm vụ
KH&CN dựa trên chất lượng thông qua quy trình lựa chọn khách quan, trước hết
thực hiện đối với các sản phẩm quốc gia, sản phẩm công nghệ cao. Thực hiện các
hình thức mua, khoán sản phẩm phù hợp với từng loại hình hoạt động KH&CN.
Khuyến khích, tạo điều kiện để các nhà khoa học khai thác các hợp đồng
nghiên cứu bên ngoài, từ đó các tổ chức KH&CN với thương hiệu và uy tín khoa
học được tham gia nghiên cứu mở rộng. Các kết quả tài chính có được cần được
quản lý và có sự phân phối công khai theo quy chế chi tiêu nội bộ, góp phần tăng
thu cho đơn vị.
Hoàn thiện hệ thống định phân bổ ngân sách và định mức, chế độ, tiêu chuẩn
chi tiêu NSNN áp dụng cho đơn vị sự nghiệp KH&CN công lập trên cơ sở: (i) hạn
chế số lượng định mức cứng, tăng số lượng các khung định mức, trần định mức để
nâng cao sự chủ động của các cơ quan, đơn vị trong việc sử dụng nguồn NSNN;
(ii) phù hợp với phương thực lập dự toán ngân sách và phân bổ dự toán ngân sách
cho các cơ quan, đơn vị theo kết quả đầu ra; (iii) phù hợp với kế hoạch chi tiêu
trung hạn của ngành, lĩnh vực.
3.3.5. Hoàn thiện hệ thống các quỹ phát triển khoa học và công nghệ
- Xây dưng chức năng nhiệm vụ của Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia (theo
Quyết định 1342/QĐ-TTg ngày 5/8/2011 của Thủ tướng Chính phủ), bảo đảm
không có sự trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ với Quỹ phát triển KH&CN quốc
gia quy định tại Nghị định số 122/2003/NĐ-CP ngày 22/1/2003 của Chính phủ; có
giải pháp nâng cao vai trò của Quỹ phát triển KH&CN quốc gia trong việc huy
động các nguồn lực ngoài NSNN và thực hiện nhiệm vụ cho vay và bảo lãnh vốn
vay; cân nhắc tính hiệu quả khi thành lập thêm các quỹ KH&CN mới có nguồn vốn
từ NSNN. Có giải pháp huy động các nguồn lực ngoài NSNN để tăng nguồn vốn
hoạt động và phát huy đầy đủ vai trò của các quỹ KH&CN và duy trì, bảo tồn vốn
88
cấp ban đầu từ NSNN.
- Nghiên cứu sửa đổi chính sách khuyến khích các doanh nghiệp trích lập và
sử dụng có hiệu quả Quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp theo hướng có
chính sách khuyến khích các đơn vị tăng tỷ lệ trích quỹ KH&CN trong khung được
pháp luật cho phép, đồng thời mở rộng nội dung sử dụng, đơn giản hóa thủ tục
thanh quyết toán nguồn quỹ phát triển KH&CN cho các hoạt động phát triển
KH&CN của doanh nghiệp.
3.3.6. Ưu tiên kinh phí dành cho nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp
quốc gia
Căn cứ chiến lược phát triển KH&CN quốc gia; phương hướng, mục tiêu,
nhiệm vụ KH&CN 5 năm và hàng năm; hiệu quả sử dụng kinh phí thực hiện các
nhiệm KH&CN của các Bộ, ngành, địa phương trong năm trước; Bộ KH&CN đề
xuất tổng mức chi, cơ cấu chi, tỷ lệ chi thực hiện nhiệm vụ KH&CN các cấp của
các Bộ, ngành, địa phương gửi Bộ Tài chính. Trong đó ưu tiên tổng mức kinh phí
dành cho các nhiệm vụ KH&CN cấp quốc gia đảm bảo các mục tiêu, kết quả của
các chương trình KH&CN quốc gia đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
3.3.7. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về vai trò nền
tảng, động lực, giải pháp đột phá để phát triển kinh tế - xã hội của khoa học và
công nghệ
- Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp chính quyền, ban ngành về
vai trò của KH&CN trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nói chung và các tỉnh,
thành phố nói riêng. Xác định việc phát huy và phát triển KH&CN là một nhiệm
vụ trọng tâm, là một trong những nội dung lãnh đạo quan trọng của người đứng
đầu chính quyền các cấp từ tỉnh, thành phố đến cơ sở.
- Gắn các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ phát triển KH&CN với các mục tiêu,
nhiệm vụ phát triển KT-XH của tỉnh, thành phố, của từng cấp, từng ngành; đảm
bảo rằng việc xây dựng kế hoạch ứng dụng và phát triển KH&CN là một nội dung
của quy hoạch, kế hoạch phát triển của từng ngành, địa phương.
- Thường xuyên quán triệt, đẩy mạnh tuyên truyền, cung cấp thông tin về vai
trò nền tảng, động lực và là lực lượng sản xuất trực tiếp của KH&CN đối với phát
triển KT-XH, để lãnh đạo các cấp, các ngành, doanh nghiệp nhận thức được cơ hội 89
và thách thức trước các xu thế quốc tế, nhất là xu thế hội nhập và và phát triển
kinh tế tri thức.
3.3.8. Công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình việc sử dụng ngân
sách nhà nước trong lĩnh vực khoa học và công nghệ
- Nâng cao tính công khai, minh bạch, dân chủ trong quản lý tài chính đối
với các đơn vị sự nghiệp KH&CN. Hình thành hệ thống chỉ tiêu đánh giá mức độ
hoàn thành và chất lượng thực hiện nhiệm vụ được giao của các đơn vị KH&CN
công lập gắn với việc sử dụng kinh phí NSNN trên cơ sở gắn với các tổ chức kiểm
định, đánh giá độc lập.
- Hoàn thiện chế độ thông tin báo cáo, công tác tài chính kế toán và trách
nhiệm giải trình về kết quả của các đơn vị cung ứng dịch vụ của các tổ chức
KH&CN công lập.
3.3.9. Củng cố, tăng cường tiềm lực và phát triển các tổ chức khoa học và
công nghệ
- Củng cố, sắp xếp lại và phát triển các tổ chức KH&CN công lập của địa
phương theo hướng mỗi ngành, mỗi lĩnh vực có những cơ sở trọng điểm để đủ sức
giải quyết những nhiệm vụ KH&CN của ngành, lĩnh vực; bảo đảm chức năng
nhiệm vụ không chồng chéo và tính kết nối mạng lưới, hệ thống để phát huy sức
mạnh. Tập trung đầu tư xây dựng một số đơn vị hoạt động KH&CN đủ năng lực
nghiên cứu, tiếp thu chuyển hoá kết quả KH&CN, đáp ứng yêu cầu trong tình hình
mới: Nâng cao năng lực của Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng tiến bộ KH&CN,
Trung tâm Kỹ thuật tiêu chuẩn - đo lường - chất lượng...
- Hình thành các khu hoặc vùng ứng dụng công nghệ, kỹ thuật cao thích hợp
với địa phương. Củng cố, kiện toàn nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu,
vùng, cơ sở ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao, tập trung cho lĩnh vực công
nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ tự động hoá và công nghệ vật liệu
mới. Trước mắt, tập trung điều chỉnh dự án đầu tư xây dựng Khu nghiên cứu,
chuyển giao và ươm tạo công nghệ theo hướng xây dựng Khu nghiên cứu, đào tạo,
90
trình diễn và chuyển giao công nghệ trong nông nghiệp cho phù hợp với tình hình
mới, xúc tiến xây dựng Khu công nghiệp công nghệ kỹ thuật cao, Khu công nghệ
thông tin tập trung địa phương.
- Tăng cường tiềm lực KH&CN của các trường đại học, cao đẳng trên địa
bàn, chú ý khai thác năng lực KH&CN của các tổ chức, các trường đại học của
trung ương.
- Thúc đẩy hình thành các doanh nghiệp KH&CN, hỗ trợ các doanh nghiệp
thành lập tổ chức nghiên cứu và phát triển trực thuộc.
3.3.10. Các giải pháp có liên quan khác
- Tăng cường sự phối hợp giữa các Bộ, ngành liên quan trong việc xây dựng
và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ về KH&CN; phân công, phân cấp rõ ràng nhiệm
vụ, quyền hạn và trách nhiệm giữa các cơ quan, đơn vị quản lý. Nghiên cứu cụ thể
hóa và thể chế hóa trách nhiệm quản lý nhà nước về KH&CN của các bộ, ngành,
địa phương.
- Đổi mới căn bản việc xây dựng và tổ chức thực hiện nhiệm vụ KH&CN.
Nhiệm vụ KH&CN phải được xác định một cách khoa học, trên cơ sở ý kiến tư
vấn của Hội đồng KH&CN do cấp có thẩm quyền quyết định thành lập. Cần xác
định rõ vai trò trách nhiệm và thẩm quyền quyết đinh về mặt khoa học của hội
đồng tư vấn trong việc lựa chọn, xây dựng danh mục đề tài nghiên cứu.
- Đổi mới công tác thẩm định thông tin đối với các đề tài từ khâu xây dựng,
xét chọn cho đến đánh giá nghiệm thu. Cải tiến phương pháp đánh giá thực hiện
nhiệm vụ KH&CN và nâng cao chất lượng, tính khách quan của việc đánh giá
nghiệm thu kết quả thực hiện nhiệm vụ KH&CN. Xây dựng cơ chế đánh giá sau
nghiệm thu để khuyến nghị việc tiếp tục hoàn thiện và có cơ chế hỗ trợ các tổ
chức, cá nhân hoạt động KH&CN, các doanh nghiệp đưa nhanh kết quả nghiên cứu
vào ứng dụng trong thực tiễn.
- Tăng cường nguồn lực cho KH&CN thông qua đào tạo, đào tạo lại nhân
lực KH&CN; nghiên cứu, bổ sung các giái pháp khả thi để tạo ta nguồn thu nhập
lâu dài, ổn định cho các nhà khoa học, thu nhập của các nhà khoa học cần gắn với
các kết quả nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ.
91
- Xây dựng và phát triển thị trường KH&CN; duy trì các loại hình chợ công
nghệ, tổ chức các Hội chợ triển lãm giới thiệu kết quả, sản phẩm nghiên cứu khoa
học; xây dựng các trung tâm tư vấn, trung tâm thông tin KH&CN, cơ sở dự liệu
dùng chung.
3.4. Giải pháp giám sát việc phân bổ, sử dụng ngân sách nhà nước cho
khoa học và công nghệ
3.4.1. Về cơ quan giám sát phân bổ, sử dụng nguồn lực
Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nước CHXHCNVN và HĐND
là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương thực hiện quyền giám sát nói chung
và giám sát ngân sách nhà nước nói riêng. Hai cơ quan này theo chức năng nhiệm
vụ giám sát về dự toán ngân sách, phân bổ ngân sách, giám sát về sử dụng ngân
sách có đúng quy định.
Ủy ban KH,CN&MT của Quốc hội tổ chức giám sát việc phân bổ, sử dụng
NSNN khi Quốc hội thông Nghị quyết dự toán NSNN và Nghị quyết phân bổ ngân
sách Trung ương năm hiện tại cho KH&CN sau khi Quốc hội phân bổ cho các cơ
quan trung ương và địa phương có đúng tiến độ, đúng đối tượng…; tổ chức nghe
Bộ TC, Bộ KH&ĐT, Bộ KH&CN báo cáo tình hình phân bổ, sử dụng NSNN cho
KH&CN vào những thời điểm: tháng 1 năm hiện tại, tháng 9 (sau khi có báo cáo
tổng hợp của các bộ, ngành, địa phương gửi về Bộ TC, Bộ KH&ĐT về dự toán
ngân sách) để có những ý kiến cụ thể về ngân sách cho KH&CN;
Ban Kinh tế và ngân sách của HĐND tỉnh, thành phố tổ chức giám sát việc
phân bổ, sử dụng NSNN cho KH&CN vào thời điểm tháng 1 hàng năm sau khi Bộ
Tài chính hướng dẫn nhiệm vụ thu, chi ngân sách cho các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương, UBND tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương và HĐND tỉnh họp xong quyết định việc phân bổ ngân sách.
3.4.2. Về phân bổ nguồn lực
Việc bố trí ngân sách nhà nước cho KH&CN trong các năm gần đây đã
không tương xứng với sự quan tâm ưu tiên của Nhà nước như các quan điểm đã
được Hiến định, Luật hóa. Tổng hợp dự toán chi NSNN cho KH&CN qua các năm
92
cho thấy chưa năm nào chi cho KH&CN đạt mức 2% tổng chi ngân sách nhà nước,
thậm chí tỷ lệ này đang có xu hướng giảm qua các năm (năm 2006: 1,85%; năm
2007: 1,81%; … năm 2012:1,46%; năm 2013:1,42%). Số lượng các Chương trình
KH&CN quốc gia tăng, dẫn đến nhu cầu kinh phí thực hiện tăng. Tuy nhiên, tình
hình cân đối kinh phí NSNN dành cho khoa học và công nghệ các năm từ 2011-
2013 cho thấy tổng mức kinh phí sự nghiệp khoa học và công nghệ hàng năm tuy
có tăng về số tuyệt đối nhưng thực tế giảm về tỷ lệ trong 2% tổng chi NSNN. Với
việc bố trí nguồn lực ở mức thấp như vậy, các năm gần đây ngành KH&CN gặp
nhiều khó khăn trong việc cân đối kinh phí thực hiện các nhiệm vụ KH&CN cấp
quốc gia đã được phê duyệt (năm 2013 các nhiệm vụ đã được phê duyệt nhưng
không đủ nguồn thực hiện là 625 tỷ đồng, 2014 là 1.365 tỷ đồng), dẫn tới phải
giãn, hoãn thời gian thực hiện nhiệm vụ, ảnh hưởng đến tiến độ, kết quả nghiên
cứu và không đáp ứng được phần lớn các mục tiêu của các chương trình KH&CN
cấp Quốc gia đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Mặt khác, việc triển khai các nhiệm vụ KH&CN các cấp phụ thuộc vào nguồn
nhân lực KH&CN của các tổ chức khoa học và công nghệ (trung bình là 10 cán bộ
nghiên cứu cần thiết để thực hiện 1 nhiệm vụ KH&CN). Quy trình tuyển chọn, xét
chọn các nhiệm vụ KH&CN được thực hiện công khai và có tính cạnh tranh cao
trong các năm gần đây. Số lượng nhiệm vụ KH&CN và kinh phí sự nghiệp KH&CN
đánh giá thực trạng năng lực nghiên cứu của các tổ chức KH&CN và có mối liên hệ
hữu cơ với hoạt động đầu tư và phát triển. Do đó đề nghị mức chi cho KH&CN và
giáo dục đào tạo cần được ưu tiên phát triển để có nguồn nhân lực chất lượng cao,
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, thực tế phân
bổ nguồn lực có sự trùng lắp về thẩm quyền của Quốc hội và HĐND cấp tỉnh, nhiều
địa phương sử dụng nguồn lực này không đúng mục đích, phân tán và khó tổng hợp
để bảo đảm các tỷ lệ theo Nghị quyết của Trung ương. Mặt khác, hiện nay cũng có
nhiều lĩnh vực chi được “cứng hóa” tỷ lệ như chi giáo dục đào tạo 20%, khoa học
công nghệ 2%, môi trường 1%, văn hóa thông tin 1,8% tổng chi NSNN..., dễ xảy ra
tình trạng lúc thừa, lúc thiếu, không phù hợp với tình hình thực tế trong từng năm,
từng giai đoạn, không bảo đảm được tính linh hoạt trong điều hành NSNN. Do vậy,
đề nghị nghiên cứu ấn định tỷ lệ cứng trong trung hạn thay cho việc quyết định hàng
93
năm trong chi NSNN đối với các lĩnh vực KH&CN.
Tiểu kết Chương III
Nội dung chương III đã tập trung phân tích nêu:
Quan điểm, mục tiêu, định hướng nhiệm vụ phát triển KH&CN giai đoạn
2011-2020 (chỉ tập trung nêu phân bổ, sử dụng ngân sách nhà nước dành cho
KH&CN);
Kinh nghiệm quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước cho KH&CN ở một số
nước (các Bộ đã tách ra khỏi hoạt động trực tiếp quản lý và cấp vốn và một phần
lớn các hoạt động cung cấp dịch vụ công. Việc cấp vốn và quản lý vốn cho khoa
học công nghệ được tiến hành thông qua tổ chức là Quỹ nghiên cứu khoa học công
nghệ (RDC ở Úc và FRST ở New Zealand), không trực thuộc các Bộ. Các cơ quan
phục vụ công tác nghiên cứu và đào tạo (trường Đại học) và phục vụ nghiên cứu
(các Viện nghiên cứu) cũng hoạt động độc lập, quản lý ngân sách theo kết quả đầu
ra như ở Đức, gắn KH&CN với phát triển kinh tế);
Nhóm giải pháp cho việc phân bổ, sử dụng ngân sách nhà nước cho
KH&CN về: Tăng nguồn NSNN và đổi mới phân bổ NSNN cho KH&CN; Đổi
mới cơ chế phân bổ và sử dụng NSNN phát triển KH&CN; Điều chỉnh cơ cấu chi
giữa chi đầu tư phát triển KH&CN và chi sự nghiệp KH&CN từ khối trung ương
và địa phương; Đẩy mạnh việc đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với đơn vị sự
nghiệp khoa học công lập; Hoàn thiện hệ thống các quỹ phát triển KH&CN; Ưu
tiên kinh phí dành cho nhiệm vụ KH&CN cấp quốc gia; Đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, nâng cao nhận thức về vai trò nền tảng, động lực, giải pháp đột phá để phát
triển kinh tế xã hội của KH&CN; Công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình
việc sử dụng NSNN trong lĩnh vực KH&CN; Củng cố, tăng cường tiềm lực và phát
triển các tổ chức KH&CN; Các giải pháp có liên quan khác;
Nhóm giải pháp giám sát việc phân bổ, sử dụng ngân sách nhà nước cho
khoa học và công nghệ để việc phân bổ, sử dụng NSNN cho KH&CN đúng địa
94
chỉ, bảo đảm hiệu quả.
KẾT LUẬN
Có thể nói rằng hoạt động KH&CN ở trung ương và địa phương trong giai đoạn 2006-2013 đã bám sát mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ với yêu cầu thực tiễn trong sản xuất và đời sống. Cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định nghị quyết, chủ trương, chính sách, phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh; Các chương trình đề tài, dự án khoa học và công nghệ được đầu tư trọng điểm, chủ yếu tập trung đổi mới nâng cao trình độ công nghệ trong các ngành sản xuất, dịch vụ. Đẩy mạnh chuyển giao ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, thành tựu KH&CN trong nông nghiệp, nâng cao giá trị và sức cạnh tranh hàng hoá, hiệu quả sản xuất kinh doanh, xây dựng môi trường bền vững; Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ nhân dân, bảo vệ môi trường, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá truyền thống của quê hương; Cơ chế quản lý khoa học công nghệ tiếp tục được đổi mới; Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vục cho công tác nghiên cứu triển khai được tăng cường. Đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học có trình độ cao, chuyên gia giỏi trên các lĩnh vực ngày càng tăng. Công tác quản lý Nhà nước trên các lĩnh vực: quản lý khoa học, công nghệ, sở hữu trí tuệ, an toàn bức xạ, thanh tra, tiêu chuẩn - đo lường - chất lượng từng bước nâng cao hiệu lực, hiệu quả. Trong phạm vi một luận văn nghiên cứu thạc sỹ, tác giả đã nghiên cứu làm rõ:
Một là, về cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế trong phân bổ và sử dụng
NSNN cho khoa học và công nghệ;
Hai là, thực trạng việc phân bổ, sử dụng NSNN trong một số cơ quan trung
ương và địa phương
Ba là, đề xuất 10 nhóm giải pháp về phân bổ NSNN cho KH&CN và 02 nhóm giải pháp về giám sát việc phân bổ, sử dụng và các khuyến nghị để sửa đổi, hoàn thiện cơ chế phân bổ, sử dụng NSNN hiện nay, để nguồn lực này được sử dụng đúng mục đích, hiệu quả.
95
Tác giả tin tưởng rằng, kết quả nghiên cứu này sẽ đóng góp một phần nhỏ bé vào việc hoàn thiện các quy định pháp luật về phân bổ, sử dụng NSNN, để KH&CN trong khu vực nhà nước có những đột phá, làm đầu tàu thúc đẩy KH&CN của Việt Nam phát triển, đóng góp hiệu quả cho công cuộc CNH-HĐH đất nước.
KHU ẾN NGHỊ
1. Đối với Quốc hội
- Luật Khoa học và công nghệ năm 2013 đã có hiệu lực, cần nghiên cứu,
xem xét sớm sửa đổi Luật NSNN, Luật Tổ chức Hội đông nhân dân và Ủy ban
nhân dân, các đạo luật khác liên quan đến đầu tư cho KH&CN để đảm bảo đầu tư
có trọng tâm, tránh dàn trải, thực hiện xã hội hóa công tác đầu tư cho KH&CN.
- Tăng cường giám sát việc thực hiện đầu tư và hiệu quả đầu tư cho
KH&CN, đảm bảo chi cho KH&CN đạt tỷ lệ 2% theo Luật KH&CN để nâng cao
hiệu quả đầu tư cho KH&CN; giám sát việc ban hành, thực hiện văn bản quy phạm
pháp luật về KH&CN và đầu tư cho KH&CN tại các địa phương, các Bộ, ngành,
các tổ chức, cá nhân có hoạt động KH&CN.
2. Đối với Chính phủ
- Cân đối hài hòa, hợp lý việc bố trí ngân sách chi đầu tư phát triển cho
KH&CN và sự nghiệp KH&CN của trung ương - địa phương, giữa ngân sách chi
cho đầu tư phát triển KH&CN và ngân sách sự nghiệp KH&CN.
- Tăng cường sự phối hợp giữa các Bộ, ngành liên quan trong việc xây dựng
và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ về KH&CN; phân công, phân cấp rõ ràng nhiệm
vụ, quyền hạn và trách nhiệm giữa các cơ quan, đơn vị quản lý. Nghiên cứu cụ thể
hóa và thể chế hóa trách nhiệm quản lý nhà nước về KH&CN của các bộ, ngành,
địa phương.
3. Đối với các bộ, ngành
- Hướng dẫn kiện toàn lại các tổ chức KH&CN công lập, tái cơ cấu sắp xếp
lại các Viện, trường cho phù hợp với tình hình hiện nay; lựa chọn các đề tài nghiên
cứu cho hiệu quả.
- Tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn thực hiện Thông tư liên tịch số
121/2014/TTLT-BTC-BKHCN ngày 25/8/2014 về hướng dẫn xây dựng dự toán,
quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí thực hiện nhiệm vụ thường xuyên theo
chức năng của tổ chức KH&CN công lập.
- Đánh giá hiệu quả hoạt động của toàn ngành KH&CN để có phương án tái
cấu trúc của ngành, gắn kết các chương trình, nhiệm vụ KH&CN phục vụ cho tái 96
cơ cấu và chuyển đổi mô hình tăng trưởng; đánh giá việc ứng dụng KH&CN với
việc nâng cao chất lượng và hiệu quả lao động, sản xuất. Trong đặt hàng và xây
dựng nhiệm vụ, kế hoạch nghiên cứu, đề nghị có sự rà soát, lồng ghép các chương
trình, dự án, tránh dàn trải, trùng lắp.
- Nghiên cứu thay đổi cho hợp lý, linh hoạt về cơ cấu chi đầu tư phát triển và
chi sự nghiệp KH&CN, giữa trung ương và địa phương; sớm trình Thủ tướng
Chính phủ quyết định nguyên tắc, tiêu chí, tỷ lệ, cơ cấu phân bổ ngân sách dành
cho các nhiệm vụ, chương trình KH&CN.
- Đối với đầu tư cho KH&CN của địa phương: đề nghị theo cơ chế đặt hàng
để các tổ chức KH&CN ở trung ương có thể tham gia thực hiện các nhiệm vụ
KH&CN cấp tỉnh. Đề nghị quan tâm đầu tư thiết bị, cơ sở vật chất cho KH&CN ở
địa phương, nhất là các bộ phận kiểm định, kiểm nghiệm, các phương tiện phục vụ
quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng hàng hóa, công bằng giữa người mua,
người bán, tạo điều kiện gia nhập hiệp định TPP… Trong thực hiện ngân sách
KH&CN địa phương, đề nghị tạo quyền chủ động, quyền tự chủ hơn nữa cho các
địa phương theo đặc điểm, tình hình phát triển KT-XH từng địa phương.
- Thực hiện cơ chế đấu thầu Nhà nước đặt hàng đối với các nhiệm vụ
KH&CN dựa trên chất lượng thông qua quy trình lựa chọn khách quan, trước hết
thực hiện đối với các sản phẩm quốc gia, sản phẩm công nghệ cao. Thực hiện các
hình thức mua, khoán sản phẩm phù hợp với từng loại hình hoạt động KH&CN.
- Nghiên cứu sửa đổi chính sách khuyến khích các doanh nghiệp trích lập và
sử dụng có hiệu quả Quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp, đơn giản hóa thủ
tục thanh quyết toán nguồn Quỹ phát triển KH&CN cho các hoạt động phát triển
97
KH&CN của doanh nghiệp.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Khoa học và công nghệ - Luật 29/2013/QH13
2. Vũ Cao Đàm, Tuyển tập các công trình đã công bố, Tập I, Lý luận và phương pháp khoa học “So sánh quan niệm R&D của UNESCO với Luật KH&CN Việt Nam”, trang 80, 81, 83, 132.
3. Vũ Cao Đàm, Tuyển tập các công trình đã công bố, Tập II, Nghiên cứu chính sách và chiến lược “Lại bàn về doanh nghệp khoa học và công nghệ”, trang 290, 291.
4. Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 3, NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2003. 5. Nguyễn Như Ý, Chủ biên, Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa Thông tin, 1998. 6. Hoàng Phê, Chủ biên, Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng – Trung tâm từ điển
học, 2008.
7. Đào Duy Anh, Từ điển Hán Việt, NXB Văn hóa Thông tin Hà Nội, 2003.
8. Luật Ngân sách nhà nước năm 2002.
9. Võ Đình Toản, Tìm hiểu Luật Tài chính, NXB Tư pháp 2012, trang 44, 45. 10. Nghị định số 60/2003/NĐ-CP ngày 6/6/2003 của Chính phủ Quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành Luật Ngân sách nhà nước.
11. Thông tư số 59/2003/TT-BTC ngày 23/6/2003 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 60/2003/NĐ-CP ngày 6/6/2003 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Ngân sách nhà nước.
12. Khoa học và công nghệ phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền
vững, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2012.
13. Những vấn đề lý luận và thực tiễn mới đặt ra trong tình hình hiện nay - Quản lý ngân sách nhà nước, kinh nghiệm Việt Nam và các nước, tập 1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2008.
14. Khoa học và công nghệ Việt Nam 2013, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội 2014,
trang 204, 205.
15. http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=77&News=1020&CategoryID=36. 16. Hội thảo Đầu tư và cơ chế tài chính phát triển khoa học và công nghệ, ngày
5/6/2012;
17. Vũ Cao Đàm, Tuyển tập các công trình đã công bố, Tập IV, Nghịch lý của khoa học và giáo dục trong xã hội đương đại Việt Nam “Trò chơi hay chìa khóa trên đường tới kinh tế thị trường”, trang 157.
18. Công văn số 842/ BKHCN-KHTC ngày 05/4/2012 của Bộ Khoa học và Công nghệ. Tổng hợp tình hình phân bổ ngân sách cho KH&CN giai đoạn 2006-2011.
19. Báo cáo số 561/BC-UBKHCNMT13 ngày 19/11/2012 Báo cáo kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về đầu tư cho KH&CN giai đoạn 2006 - 2011. 20. Báo cáo số 752/BC-UBKHCNMT12 ngày 24/10/2009 Báo cáo giám sát về tổ chức, hoạt động của các cơ sở nghiên cứu KH&CN, các PTNTĐQG và các khu công nghệ cao.
21. Báo cáo của Bộ KH&CN tại phiên họp toàn thể lần thứ 9 Ủy ban KH,CN&MT
ngày 14/10/2014 tại Tp. Hồ Chí Minh.
22. Đề tài cấp cơ sở “Việc thực hiện nhiệm vụ và ngân sách cho KH&CN giai đoạn 2006-2011 ở các địa phương, phương hướng, nhiệm vụ và ngân sách cho KH&CN
98
của các địa phương giai đoạn 2011-2015: Phân tích, đánh giá và kiến nghị” của Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Văn phòng Quốc hội, 2013.
23. Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 31/10/2012 Hội nghị Trung ương 6 khóa XI về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
24. Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.
25. Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội
26. Nghị định số 115/2005/NĐ-CP ngày 05/9/2005 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức KH&CN công lập, được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 96/2010/NĐ-CP ngày 20/9/2010 của Chính phủ.
27. Nghị định số 116/2008/NĐ-CP, ngày 14/11/2008 của Chính phủ quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ KH&ĐT.
28. Nghị định số 20/2013/NĐ-CP, ngày 26/2/2013 của Chính phủ quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ KH&CN.
29. Nghị định số 215/2013/NĐ-CP, ngày 23/12/2013 của Chính phủ quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ TC.
30. Nghị định số 08/2014/NĐ-CP ngày 27/01/2014 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Khoa học và công nghệ năm 2013.
31. Nghị định số 95/2014/NĐ-CP ngày 17/10/2014 của Chính phủ quy định về đầu tư
và cơ chế tài chính đối với hoạt động khoa học và công nghệ.
32. Quyết định số 1244/QĐ-TTg ngày 25/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt phương hướng, mục tiêu nhiệm vụ KH&CN chủ yếu giai đoạn 2011- 2015;
33. Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt
Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011-2020.
34. Quyết định số 59/2010/QĐ-TTg ngày 30/9/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc
ban hành định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên NSNN năm 2011;
35. Quyết định số 60/2010/QĐ-TTg ngày 30/9/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc Ban hành các nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn ĐTPT bằng nguồn NSNN giai đoạn 2011 – 2015;
36. Thông tư số 15/2003/TTLT-BKHCN-BNV ngày 15/7/2003 của Bộ KH&CN, Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn giúp Uỷ ban nhân dân quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ ở địa phương.
37. Thông tư liên tịch số 93/2006/TTLT-BTC-BKHCN ngày 04/10/2006 của Bộ Tài chính – Bộ KH&CN hướng dẫn chế độ khoán kinh phí của đề tài, dự án khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước.
38. Thông tư liên tịch số 44/2007/TTLT-BTC-BKHCN ngày 07/5/2007 của Bộ Tài chính, Bộ KH&CN hướng dẫn định mức xây dựng và phân bổ dự toán kinh phí đối với các đề tài, dự án khoa học và công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước.
99
39. Thông tư số 15/2011/TT-BTC ngày 09/02/2011 của Bộ Tài chính hướng dẫn thành lập, tổ chức, hoạt động, quản lý và sử dụng quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp.
40. Thông tư số 105/2012/TT-BTC ngày 25/6/2012 của Bộ Tài chính - Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 15/2011/TT-BTC ngày 09/02/2011 của Bộ Tài chính hướng dẫn thành lập, tổ chức, hoạt động, quản lý và sử dụng quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp.
41. Nghị quyết của Quốc hội về dự toán ngân sách nhà nước, Nghị quyết của Quốc
hội về phân bổ ngân sách sách Trung ương Nghị quyết số 47/2005/QH11 ngày 01/11/2005 của Quốc hội về dự toán ngân
sách nhà nước năm 2006;
Nghị quyết số 48/2005/QH11 ngày 3/11/2005 của Quốc hội về phân bổ ngân
sách Trung ương năm 2006;
Nghị quyết số 68/2006/QH11 ngày 31/10/2006 của Quốc hội về dự toán ngân
sách nhà nước năm 2007;
Nghị quyết số 69/2006/QH11 ngày 3/11/2006 của Quốc hội về phân bổ ngân
sách Trung ương năm 2007;
Nghị quyết số 08/2007/QH12 ngày 12/11/2007 của Quốc hội về dự toán ngân
sách nhà nước năm 2008;
Nghị quyết số 09/2007/QH12 ngày 14/11/2007 của Quốc hội về phân bổ ngân
sách trung ương năm 2008;
Nghị quyết số 21/2008/QH12 ngày 08/11/2008 của Quốc hội về dự toán ngân
sách nhà nước năm 2009
Nghị quyết số 22/2008/QH12 ngày 10/11/2008 của Quốc hội về phân bổ ngân
sách Trung ương năm 2009;
Nghị quyết số 37/2009/QH12 ngày 11/11/2009 của Quốc hội về dự toán ngân
sách nhà nước năm 2010;
Nghị quyết số 38/2009/QH12 ngày 13/11/2009 của Quốc hội về phân bổ ngân
sách Trung ương năm 2010;
Nghị quyết số 52/2010/QH12 ngày 10/11/2010 của Quốc hội về dự toán ngân
sách nhà nước năm 2011;
Nghị quyết số 53/2010/QH12 ngày 15/11/2010 của Quốc hội về phân bổ ngân
sách trung ương năm 2011;
Nghị quyết số 14/2011/QH13 ngày 10/11/2011 của Quốc hội về dự toán ngân
sách nhà nước năm 2012;
Nghị quyết số 16/2011/QH13 ngày 14/11/2011 của Quốc hội về phân bổ ngân
sách trung ương năm 2012;
Nghị quyết số 32/2012/QH13 ngày 10/11/2012 của Quốc hội về dự toán ngân
sách nhà nước năm 2013;
Nghị quyết số 33/2012/QH13 ngày 15/11/2012 của Quốc hội về phân bổ ngân
sách trung ương năm 2013
100