intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Nguyenn Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:77

252
lượt xem
51
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ở nước ta bán đấu giá tài sản với tư cách là một chế định pháp lý đã ra đời rất sớm và ngày càng khẳng định vai trò của nó trong đời sống xã hội theo yêu cầu đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế. Với những quy định tại Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18 tháng 01 năm 2005 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản và một số văn bản luật có liên quan như: Luật Đất đai 2003, Bộ Luật Dân sự 2005, Luật Thương mại, Luật Đăng ký giao dịch...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay

  1. LUẬN VĂN: Hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
  2. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ở nước ta bán đấu giá tài sản với tư cách là một chế định pháp lý đã ra đời rất sớm và ngày càng khẳng định vai trò của nó trong đời sống xã hội theo yêu cầu đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế. Với những quy định tại Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18 tháng 01 năm 2005 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản và một số văn bản luật có liên quan như: Luật Đất đai 2003, Bộ Luật Dân sự 2005, Luật Thương mại, Luật Đăng ký giao dịch bảo đảm, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007, năm 2008), Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 được ban hành và có hiệu lực thi hành trong những năm gần đây đã chứa đựng nhiều tư duy pháp lý mới đáp ứng yêu cầu Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”(gọi tắt là Nghị quyết số 08-NQ/TW), Nghị quyết số 48 NQ/TW ngày 24 tháng5 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến 2010, định hướng đến năm 2020 (gọi tắt là Nghị quyết số 48 NQ/TW) và Nghị quyết số 49 NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến 2020 (gọi tắt là Nghị quyết 49 NQ/TW). Trong cơ chế thị trường, mọi loại tài sản được mua bán ở thị trường đều được coi là hàng hóa nhưng không phải tất cả loại tài sản đều có thể được đem bán đấu giá. Dựa trên khả năng tham gia giao dịch của tài sản, có thể chia tài sản thành 3 loại: tài sản không được phép đấu giá, tài sản bán đấu giá hạn chế đối với người tham gia đấu giá và tài sản bán đấu giá không hạn chế. Tài sản không được phép bán đấu giá là loại tài sản mà Nhà nước cấm giao dịch mua bán tự do. Ví dụ: Các loại thực vật, động vật hoang dã, quý hiếm ban hành kèm theo Nghị định số 48/2002/NĐ-CP ngày 22 tháng 4 năm 2002, các loại ma túy theo quy định Luật Phòng chống ma túy năm 2000, Nghị định số 67/2001/NĐ-CP và Nghị định số 133/2003/NĐ-CP, các loại pháo theo quy định của Nghị định số 03/2000/NĐ-CP.
  3. Tài sản bán đấu giá có hạn chế đối với người tham gia đấu giá là những loại tài sản mà chỉ những người đáp ứng được một số điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật mới được phép tham gia đấu giá. Ví dụ: Tài sản là nguyên liệu thuốc lá, sản phẩm thuốc lá theo quy định của Nghị định số 76/2001/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2001, tài sản là vàng theo quy định của Nghị định số 174/1999/NĐ-CP ngày 9 tháng 12 năm 1999 và Nghị định số 64/2003/NĐ-CP ngày 11 tháng 6 năm 2003. Tài sản bán đấu giá không hạn chế là tất cả các loại tài sản mà pháp luật không quy định về điều kiện đối với người mua và người bán loại tài sản đó, bao gồm tất cả các loại tài sản còn lại ngoài hai loại tài sản trên. Bán đấu giá tài sản là hình thức bán tài sản công khai, có từ hai người trở lên tham gia đấu giá theo nguyên tắc và thủ tục được pháp luật quy định. Tài sản đấu giá là động sản, bất động sản và các quyền tài sản được phép giao dịch theo quy định của pháp luật. Người có tài sản bán đấu giá là chủ sở hữu tài sản hoặc người được chủ sở hữu tài sản ủy quyền bán tài sản hoặc cá nhân, tổ chức có quyền bán tài sản của người khác theo quy định của pháp luật. Người tham gia bán đấu giá tài sản là cá nhân, tổ chức được phép tham gia đấu giá để mua tài sản bán đấu giá theo quy định của Nghị định về bán đấu giá tài sản. Người mua được tài sản bán đấu giá là người trả giá cao nhất và ít nhất bằng giá khởi điểm và được coi là đã chấp nhận giao kết hợp đồng mua bán tài sản. Pháp luật về bán đấu giá tài sản là toàn bộ những quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực bán đấu giá tài sản bao gồm những quy định về nguyên tắc, thủ tục bán đấu giá tài sản, người bán đấu giá tài sản và quản lý nhà nước đối với hoạt động bán đấu giá tài sản do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành. Song trong thực tiễn từ đổi mới đến nay pháp luật bán đấu giá tài sản vẫn còn một số bất cập trước áp lực của xu thế hội nhập của các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế cũng như còn chồng chéo, mâu thuẫn với hệ thống pháp luật trong nước luôn được sửa đổi để hoàn thiện cho phù hợp với thực tiễn. Theo đánh giá tại Chỉ thị số 18/2006/CT-TTg ngày 15 tháng 5 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường thực hiện Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18 tháng 01 năm 2005 về bán đấu giá tài sản thì tại nhiều địa phương một số quy định của Nghị định số 05/2005/NĐ-CP vẫn chưa được thực hiện hoặc thực hiện chưa nghiêm, chưa thống nhất dẫn đến tình trạng chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan quản lý nhà nước.
  4. Hiệu lực quản lý nhà nước đối với các tổ chức hoạt động bán đấu giá tài sản tại địa phương chưa cao ảnh hưởng đến việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền lợi của cá nhân, tổ chức tham gia bán đấu giá tài sản. Do đó, để khắc phục những hạn chế thiếu sót của hệ thống pháp luật về bán đấu giá tài sản cần phải tiến hành nghiên cứu rà soát, điều chỉnh, bổ sung, ban hành các văn bản mới có giá trị pháp lý cao nhằm hoàn thiện, tạo khuôn khổ pháp lý đồng bộ, thống nhất toàn diện bảo đảm cho hoạt động bán đấu giá tài sản thông thoáng đem lại những giá trị lợi ích cao nhất, văn minh nhất cho cá nhân, tổ chức có tài sản bán đấu giá và lợi ích cho Nhà nước, cho xã hội, đặc biệt là trong điều kiện thực hiện chủ trương cải cách hành chính và xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động bán đấu giá. Vì vậy, với những lý do trên thì việc nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay” là rất cần thiết, không chỉ góp phần hoàn thiện lý luận pháp luật về vấn đề này mà còn góp phần giải quyết một vấn đề thực tiễn đang đặt ra rất cấp bách. 2. Tình hình nghiên cứu Trong những năm gần đây, trước yêu cầu đổi mới đất nước, yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp cũng có tác giả đề cập đến lĩnh vực pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam nhưng ở những gốc độ khác nhau. Bộ Tư pháp với nhiệm vụ được Chính phủ giao cho việc thực hiện quản lý nhà nước trên lĩnh vực bán đấu giá tài sản cũng đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo tại hai miền (phía Bắc ở tỉnh Nghệ An và phía Nam ở tỉnh An Giang), đồng thời biên soạn các tài liệu tập huấn hướng dẫn công tác này. Bên cạnh đó cũng đã có một số bài viết nghiên cứu về pháp luật bán đấu giá tài sản ở Việt Nam được đăng trên tạp chí dân chủ và pháp luật của Bộ Tư pháp như: - Hoạt động bán đấu giá tài sản - thực tiễn và triển vọng của tác giả Đỗ Khắc Trung (số chuyên đề tháng 10/2006). - Một số bất cập của pháp luật về bán đấu giá tài sản của tác giả Nguyễn Văn Mạnh (số chuyên đề tháng 10/2006). - Những vướng mắc cần tháo gỡ trong công tác bán đấu giá tài sản của tác giả Phạm Văn Chung (số chuyên đề tháng 10/2006). - Những vướng mắc trong việc áp dụng hình thức đấu giá bằng bỏ phiếu của tác giả Minh Đức (số chuyên đề tháng 11/2007).
  5. - Có hay không sự khác nhau giữa bán đấu giá quyền sử dụng đất và đấu giá quyền sử dụng đất của tác giả Nguyễn Vĩnh Diện ( số 6/2007). Đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu tương đối hệ thống và toàn diện về hoàn thiện pháp luật bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay. Mặc dù những công trình khoa học đã được công bố là tài liệu tham khảo có giá trị để nghiên cứu và viết luận văn này. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích của luận văn Trên cơ sở nghiên cứu lý luận thực trạng pháp luật bán đấu giá tài sản ở Việt Nam luận văn đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật bán đấu giá tài sản ở Việt Nam đến năm 2020. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn Để thực hiện mục đích đã nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu và đánh giá thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật bán đấu giá tài sản ở Việt Nam thời kỳ đổi mới đến nay. - Xác lập quan điểm và đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật bán đấu giá tài sản ở Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến đề tài hoàn thiện pháp luật bán đấu giá tài sản ở Việt Nam như: khái niệm, đặc điểm, nội dung pháp luật bán đấu giá tài sản, vai trò, các yêu cầu và tiêu chí hoàn thiện pháp luật bán đấu giá tài sản, qúa trình hình thành và thực trạng pháp luật bán đấu giá tài sản, những quan điểm và giải pháp hoàn thiện hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn tập trung nghiên cứu hệ thống văn bản pháp luật về bán đấu giá tài sản ở nước ta chủ yếu trong thời kỳ đổi mới cho đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận của luận văn
  6. Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, những cơ sở lý luận của Đảng cộng sản Việt Nam về đổi mới Nhà nước và pháp luật về cải cách tư pháp. 5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử Mát xít như phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp phân tích tổng hợp, so sánh thống kê. Luận văn cũng sử dụng một số phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng như nghiên cứu và rà soát tài liệu. 6. Những đóng góp mới của luận văn Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên có tính hệ thống và toàn diện về hoàn thiện pháp luật bán đấu giá tài sản ở Việt Nam, do đó luận văn có những đóng góp nhất định sau: - Xác lập và đưa ra khái niệm về pháp luật bán đấu giá tài sản, chỉ ra những đặc điểm của pháp luật này cùng những tiêu chí hoàn thiện pháp luật bán đấu giá tài sản. - Chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và những nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế đó của pháp luật bán đấu giá tài sản ở nước ta. - Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật bán đấu giá ở Việt Nam hiện nay. 7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn - Luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận, hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực cụ thể là bán đấu giá tài sản. - Luận văn góp phần làm cơ sở lý luận cho các cơ quan Nhà nước, các nhà làm luật trong việc hoạch định chính sách sửa đổi, bổ sung, ban hành mới pháp luật về bán đấu giá tài sản và của những ai quan tâm đến lĩnh vực này. 8. Kết luận của luận văn Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương, 8 tiết.
  7. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG CỦA PHÁP LUẬT BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN 1.1.1. Khái niệm bán đấu giá tài sản và pháp luật bán đấu giá tài sản - Khái niệm về bán đấu giá tài sản: Theo từ điển Luật học do Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp xuất bản năm 2006, trang 31 có nêu: Bán đấu giá tài sản là hình thức bán công khai một tài sản, một khối tài sản; theo đó có nhiều người muốn mua tham gia trả giá, người trả giá cao nhất nhưng không thấp hơn giá khởi điểm là người mua được tài sản. Theo quy định của pháp luật, người bán đấu giá là: doanh nghiệp bán đấu giá tài sản; trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản; hội đồng bán đấu giá tài sản. Người bán đấu giá có nghĩa vụ: tổ chức việc bán đấu giá tài sản theo nguyên tắc và thủ tục quy định của pháp luật; niêm yết , thông báo công khai, đầy đủ, chính xác các thông tin cần thiết có liên quan đến tài sản bán đấu giá; bảo quản tài sản bán đấu giá khi được người có tài sản giao bảo quản hoặc quản lý; trưng bày, cho xem và cho tham khảo hồ sơ tài sản bán đấu giá; giao tài sản bán đấu giá được giao bảo quản hoặc quản lý cho người mua được tài sản bán đấu giá; yêu cầu người có tài sản bán đấu giá giao tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá trong trường hợp người có tài sản bán đấu giá đang trực tiếp quản lý tài sản đó; cung cấp đầy đủ các giấy tờ liên quan đến tài sản bán đấu giá cho người mua được tài sản bán đấu giá; thanh toán cho người có tài sản bán đấu giá số tiền bán tài sản sau khi trừ các chi phí bán đấu giá theo quy định của pháp luật; thực hiện chế độ kế toán, tài chính theo quy định của pháp luật; bồi thường thiệt hại trong trường hợp có lỗi do vi phạm nghĩa vụ; định kỳ hàng năm, trung tâm và doanh nghiệp bán đấu giá tài sản báo cáo Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi trung tâm, doanh nghiệp đặt trụ sở chính và Bộ Tư pháp về tổ chức và hoạt động của mình. Người bán đấu giá tài sản có quyền: yêu cầu người có tài sản bán đấu giá cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin, giấy tờ liên quan đến tài sản bán đấu giá; yêu cầu người mua
  8. được tài sản bán đấu giá thực hiện việc thanh toán tiền mua tài sản bán đấu giá; yêu cầu người có tài sản bán đấu giá thực hiện việc thanh toán chi phí bán đấu giá tài sản theo quy định của pháp luật. Mua tài sản bằng hình thức bán đấu giá tài sản là một căn cứ xác lập quyền sở hữu tài sản đối với người đã mua được tài sản. Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Nghị định số 05/2005/NĐ-CP thì: Bán đấu giá tài sản là hình thức bán tài sản công khai, có từ hai người trở lên tham gia đấu giá theo nguyên tắc và thủ tục được quy định tại Nghị định này. Tài sản bán đấu giá là động sản, bất động sản và các quyền tài sản được phép giao dịch theo quy định của pháp luật. Người có tài sản bán đấu giá là chủ sở hữu tài sản hoặc người được chủ sở hữu tài sản ủy quyền bán tài sản hoặc cá nhân, tổ chức có quyền bán tài sản của người khác theo quy định của pháp luật. Người tham gia đấu giá tài sản là cá nhân, tổ chức được phép tham gia đấu giá để mua tài sản bán đấu giá theo quy định của Nghị định này và quy định khác của pháp luật có liên quan. Người tham gia đấu giá tài sản có thể ủy quyền bằng văn bản cho người khác thay mặt mình tham gia đấu giá tài sản. Người mua được tài sản bán đấu giá là người trả giá cao nhất ít nhất bằng giá khởi điểm và được coi là đã chấp nhận giao kết hợp đồng mua bán tài sản Nói về nguyên tắc bán đấu giá tài sản, tại điều 3 Nghị định quy định: Việc bán đấu giá tài sản được thực hiện theo nguyên tắc công khai, liên tục, trung thực, bình đẳng, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia. Về các loại tài sản bán đấu giá, tại điều 5 của Nghị định có quy định cụ thể đó là: tài sản để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án; tài sản là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu sung quỹ nhà nước theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm; tài sản thuộc sở hữu của cá nhân, tổ chức có yêu cầu bán đấu giá tài sản; hàng hóa lưu giữ do người vận chuyển đường biển, đường hàng không, đường bộ lưu giữ tại Việt nam; tài sản nhà nước phải bán đấu giá theo quy định của pháp luật về quản lý tài sản nhà nước. So với quy định tại Nghị định số 86/CP ngày 19 tháng 12 năm 1996 của Chính phủ ban hành Quy chế bán đấu giá tài sản thì tại điều 2 Quy chế kèm Nghị định trên quy định:
  9. Bán đấu giá là hình thức bán tài sản công khai mà có nhiều người muốn mua tham gia trả giá theo thủ tục được quy định tại Quy chế này; Người trả giá cao nhất và ít nhất bằng giá khởi điểm là người được mua tài sản bán đấu giá đó; Người bán đấu giá là Trung tâm dịch vụ bán đấu giá do Sở Tư pháp trực tiếp quản lý hoặc các tổ chức kinh doanh dịch vụ bán đấu giá chuyên nghiệp do Sở Tư pháp quản lý về nghiệp vụ; Người bán tài sản là chủ sở hữu về tài sản hoặc là người được chủ sở hữu ủy quyền bán hoặc là người có quyền bán tài sản của người khác theo quy định của pháp luật; Người tham gia đấu giá là cá nhân, tổ chức; Người điều hành bán đấu giá là người do người bán đấu giá cử ra để điều hành cuộc bán đấu giá; Tài sản bán đấu giá có thể là động sản hoặc bất động sản được phép giao dịch. Tại điều 3 của Nghị định quy định nguyên tắc bán đấu giá đó là, việc bán đấu giá tài sản thực hiện theo nguyên tắc trực tiếp công khai, trung thực bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia. Trong Bộ luật Dân sự năm 2005 tại mục 1, phần III Chương XVIII có nêu một số quy định riêng về mua bán tài sản, mục về Hợp đồng mua bán tài sản ở chương Hợp đồng dân sự thông dụng ( Điều 456 đến Điều 459). Luật Thương mại năm 2005 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2006. Luật Thương mại năm 2005 coi đấu giá hàng hóa là một trong số hoạt động thương mại cụ thể được Luật quy định hoàn chỉnh gồm 29 điều (từ điều 185 đến điều 213). Theo đó người bán hàng tự mình hoặc thuê người tổ chức bán đấu giá thực hiện việc bán hàng hóa công khai để chọn người mua trả giá cao nhất (khoản 1 Điều 185). Những quy định liên quan đến đấu giá hành hóa trong Luật Thương mại năm 2005 nhằm phát triển hoạt động kinh doanh dịch vụ đấu giá hàng hóa, nâng cao hiệu quả và hiệu lực pháp lý của hoạt động thương mại này. Song trên thực tế, hoạt động bán đấu giá đang được thực hiện đối với các hàng hóa là tài sản bị tịch thu do vi phạm hành chính hoặc để thi hành án là chủ yếu còn mua bán hàng hóa thương mại chủ yếu là người bán hàng tự mình thực hiện việc bán hàng hóa qua thỏa thuận. Việc chuyển giao tài sản nhà nước để bán đấu giá đựơc thực hiện trên cơ sở của Luật Ngân sách nhà nước ngày 16 tháng 12 năm 2002, Nghị định số 60/2003/NĐ-CP ngày
  10. 6 tháng 6 năm 2003 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật ngân sách nhà nước, Nghị định số 14/1998/NĐ-CP ngày 6 tháng 3.năm 1998 của Chính phủ về quản lý tài sản nhà nước, Thông tư số 34/2005/TT-BTC ngày 12 tháng 5 năm 2005 của Bộ Tài chính hướng dẫn việc xác định giá khởi điểm và chuyển giao tài sản nhà nước để bán đấu giá, Thông tư số 13/2007/TT-BTC sửa đổi, bổ sung Thông tư số 34/2005/TT-BTC quy định việc bán đấu giá chỉ liên quan đến việc xử lý tài sản nhà nước khi tài sản nhà nước có quyết định bán của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Về nguyên tắc chuyển giao tài sản nhà nước để bán đấu giá phải phù hợp với các quy định hiện hành của pháp luật về quản lý tài sản nhà nước đã nêu ở trên và Nghị định số 05/2005/NĐ-CP, cụ thể là cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản phải ký hợp đồng ủy quyền bán đấu giá với tổ chức có chức năng bán đấu giá tài sản. Tóm lại, khái niệm về bán đấu giá tài sản ở nước ta từ khi đổi mới đến nay ngày càng được quy định rõ ràng cụ thể, dễ hiểu.Tại khoản 1 Điều 2 Nghị định số 05/2005/ NĐ - CP có quy định: Bán đấu giá tài sản là hình thức bán tài sản công khai, có từ hai người trở lên tham gia đấu giá theo nguyên tắc và thủ tục được quy định tại Nghị định này. Song mặt hạn chế của khái niệm về bán đấu giá là chưa bao quát hết các nội dung của hoạt động này. Chẳng hạn như thế nào là tài sản để bán đấu giá, theo quy định tại điều 163 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Mặt khác điều 174, chương XI Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định các loại tài sản là bất động sản và động sản có nêu bất động sản là các loại tài sản bao gồm: đất đai; nhà , công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đó; các tài sản khác gắn liền với đất đai; các tài sản khác do pháp luật quy định. Động sản là những tài sản không phải là bất động sản; điều 181 Bộ luật Dân sự năm 2005 cũng quy định quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ. Trong khi đó theo quy định tại điều 5 của Nghị định số 05/2005/NĐ-CP thì các loại tài sản bán đấu giá chỉ bao gồm: Tài sản để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án; tài sản là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu sung quỹ nhà nước theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm; tài sản thuộc sở hữu của cá nhân, tổ chức có yêu cầu
  11. bán đấu giá tài sản; hàng hóa lưu giữ do người vận chuyển đường biển, đường hàng không, đường bộ lưu giữ tại Việt nam; tài sản nhà nước phải bán đấu giá theo quy định của pháp luật về quản lý tài sản nhà nước. Việc kê biên, đấu giá quyền sử dụng đất để đảm bảo thi hành án được Chính phủ quy định tại một Nghị định riêng (Nghị định số 164/2004/NĐ-CP ngày 14 tháng 9 năm 2004), theo đó thẩm quyền và trách nhiệm đấu giá quyền sử dụng đất đã kê biên được quy định tại khoản 2 điều 7 như sau: đối với địa phương chưa có tổ chức có chức năng bán đấu giá tài sản hoặc tổ chức có chức năng bán đấu giá tài sản từ chối ký hợp đồng ủy quyền đấu giá quyền sử dụng đất để thi hành án thì Chấp hành viên thực hiện việc đấu gía quyền sử dụng đất theo quy định của Nghị định này và pháp luật về bán đấu giá tài sản. Bên cạnh đó Nghị định tiếp tục quy dịnh tại tại khoản 3 điều 23 như sau: đối với những địa phương chưa thành lập tổ chức có chức năng bán đấu giá tài sản, thì trong thời hạn quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này, Chấp hành viên phải thực hiện việc đấu gía quyền sử dụng đất để bảo đảm thi hành án. [39, tr 56]. Theo quy định tại Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm thì việc bán đấu giá tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm chỉ được thực hiện khi xử lý tài sản bảo đảm là động sản trong trường hợp không có thỏa thuận về phương thức xử lý. Riêng đối với tài sản bảo đảm có thể xác định được giá cụ thể, rõ ràng trên thị trường thì người xử lý tài sản được bán theo giá thị trường mà không phải qua thủ tục bán đấu giá (điều 65). Nghị định cũng quy định về thời hạn xử lý tài sản bảo đảm, trước hết tài sản bảo đảm được xử lý trong thời hạn do các bên thỏa thuận; nếu không có thỏa thuận thì người xử lý tài sản có quyền quyết định về thời hạn xử lý, nhưng không được trước bảy ngày đối với động sản hoặc mười lăm ngày đối với bất động sản, kể từ ngày thông báo về việc xử lý tài sản bảo đảm. Riêng đối với tài sản bảo đảm có nguy cơ bị mất giá trị hoặc giảm sút giá trị, quyền đòi nợ, giấy tờ có giá, thẻ tiết kiệm, vận đơn thì người xử lý tài sản có quyền xử lý ngay (khoản 2 điều 61, điều 62). Theo Nghị định số 46/2006/NĐ-CP ngày 16 tháng 5 năm 2006 của Chính phủ về xử lý hàng hóa do người vận chuyển lưu giữ tại cảng biển Việt Nam, thì hàng hóa bị l ưu giữ là hàng hóa do người vận chuyển bằng đường biển lưu giữ tại cảng biển Việt Nam để bảo
  12. đảm việc thanh toán tiền cước vận chuyển, tiền bồi thường do lưu tàu và các khoản chi phí khác liên quan đến việc vận chuyển hàng hóa bằng đường biển. Người lưu giữ là người vận chuyển có quyền lưu giữ hàng hóa khi có căn cứ làm phát sinh quyền lưu giữ hàng hóa và người lưu giữ có quyền bán đấu giá hàng hóa bị lưu giữ sau sáu mươi ngày, kể từ ngày tàu biển đến cảng trả hàng nếu những ngườicó lợi ích liên quan không thanh toán đủ các khoản nợ hoặc không có bảo đảm cần thiết khác và sau khi người lưu giữ đã thực hiện thông báo lưu giữ hàng hóa. Trong trường hợp hàng hóa bị lưu giữ thuộc loại mau hỏng, có khả năng gây ô nhiễm môi trường, có ảnh hưởng tới quốc phòng an ninh hoặc việc ký gửi hàng hóa bị lưu giữ quá tốn kém so với giá trị thực tế của hàng hóa thì người vận chuyền có quyền căn cứ theo tính chất đặc điểm tự nhiên của hàng hóa và khả năng tài chính của mình để xử lý hàng hóa bị lưu giữ sớm hơn thời gian quy định nhưng vẫn phải thực hiện các công việc thông báo lưu giữ hàng hóa. Hàng hóa bị lưu giữ thuộc loại cấm nhập khẩu hoặc cấm lưu thông trên lãnh thổ Việt Nam được xử lý theo quy định của pháp luật. N gư ời l ưu gi ữ c ó quy ền ký hợp đồng ủy quyền việc bán đ ấu giá hàng hóa bị l ưu gi ữ cho ngừ ơi bán đ ấu giá là doanh nghiệp bán đ ấu giá tài sản, Trung tâm dịch vụ bán đ ấu giá tài sản hoặc hội đ ồng bán đ ấu giá tài sản theo quy đ ịnh tại các đ i ều 3 4, 35, 36 và 37 c ủa Nghị đ ịnh s ố 05/2005/N Đ - CP. Th ủ tục bán đ ấu giá hàng hóa bị l ưu gi ữ đ ư ợc thực hiện theo quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản ( kho ản 3 đ i ều 5, đ iều 6 Nghị đ ịnh số 46/2006/N Đ- CP ) . Ngh ị định còn quy đ ịnh tr ước khi ký h ợp đ ồng ủy quyền bán đ ấu giá hàng hóa bị l ư u gi ữ, ngư ời l ưu gi ữ phải thuê giám đ ịnh về số l ư ợng, chất l ư ợng và tổn thất (n ếu có) của hàng hóa bị l ưu gi ữ. Chi phí giám đ ịnh hàng hóa bị l ưu gi ữ đ ư ợc tính vào chi phí liên quan đến bán đ ấu giá hàng h óa. Toàn b ộ tiền thu đ ư ợc do bán đấu giá hàng h óa bị l ưu gi ữ đ ược gửi vào “Tài kho ản tiền quản lý, giữ hộ” của ng ư ời l ưu gi ữ tại Ngân hàng đ ược phép hoạt đ ộng ở V i ệt Nam. Việc chi trả số tiền này đ ư ợc thực hiện theo thứ tự ư u tiên trước hết cho c ác kho ản thuế, lệ phí, các chi phí liên quan đ ến việc ký gửi và bán đ ấu giá hàng hóa ( đi ều 8, đi ểm a khoản 1 đi ều 9 Nghị đ ịnh số 46/2006/NĐ - CP). Tại kỳ họp thứ ba Quốc hội khóa XII, Quốc hội đã thông qua Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nước, ngày 12.6.2008 Chủ tịch nước đã ký Lệnh số 04/2008/L-CTN công bố
  13. Luật. Đây là lần đầu tiên các quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước được quy định thống nhất trong một văn bản Luật, tạo tiền đề pháp lý cao trong việc quản lý, sử dụng có hiệu quả tài sản nhà nước. Theo quy định tại điều 1 của Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nước thì luật này chỉ điều chỉnh đối với những tài sản nhà nước phục vụ hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị như: trụ sở làm việc, tài sản khác gắn liền với đất, quyền sử dụng đất đối với đất dùng để xây dựng trụ sở làm việc,cơ sở hoạt động sự nghiệp; máy móc, phương tiện vận tải, trang thiết bị làm việc… Đối với tài sản nhà nước là tiền, hàng hóa, vật tư, tài sản dự trử quốc gia tại cơ quan, đơn vị, tổ chức; tài sản là đất đai tài nguyên thiên nhiên, vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp, tài sản thuộc kết cấu hạ tầng phục vụ lợi ích công cộng, lợi ích quốc gia, tài sản được xác lập quyền sở hữu của nhà n ước…, việc quản lý sử dụng được thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan nh ư Luật Đất đai, Pháp lệnh dự trữ quốc gia, Luật Doanh nghiệp nhà nước. Việc bán tài sản nhà nước được thực hiện trong các trường hợp không có nhu cầu sử dụng hoặc việc sử dụng không có hiệu quả.Việc bán tài sản nhà nước được thực hiện công khai, theo cơ chế thị trường. Việc bán tài sản nhà nước là trụ sở làm việc hoặc tài sản khác gắn liền với đất được thực hiện theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. - Khái niệm về pháp luật bán đấu giá tài sản trong tiến trình hoàn thiện hệ thống pháp luật là một lĩnh vực mới mẻ rất phức tạp. Theo lý luận chung hệ thống pháp luật được hiểu là tập hợp tất cả các quy phạm pháp luật, văn bản pháp luật tạo thành một cấu trúc tổng thể, được phân chia thành các bộ phận có sự thống nhất nội tại theo những tiêu chí nhất định như bản chất, nội dung, mục đích. Theo đó hệ thống pháp luật bao gồm hệ thống cấu trúc bên trong và hệ thống cấu trúc bên ngoài. Hệ thống cấu trúc bên trong là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau, được phân chia thành các ngành luật, mỗi ngành luật lại được tạo nên bởi một bộ phận các quy phạm pháp luật có sự thống nhất nội tại, có chung đối tượng và phương pháp điều chỉnh. Trong mỗi bộ phận quy phạm pháp luật lại được phân bổ
  14. thành những bộ phận nhỏ hơn hợp thành các chế định pháp luật và mỗi chế định pháp luật lại được hình thành từ các quy phạm pháp luật. Hệ thống cấu trúc bên ngoài là tổng thể các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự luật định nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản quan trọng. Hệ thống cấu trúc bên ngoài được phân định thành các văn bản luật và văn bản dưới luật [10, tr.173]. Theo quan niệm này, pháp luật về bán đấu giá tài sản chưa phải là một ngành luật độc lập có phạm vi điều chỉnh và đối tượng điều chỉnh riêng biệt. Mặc dù pháp luật về bán đấu giá tài sản cũng bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật, điều chỉnh các quan hệ xã hội về bán đấu giá tài sản được thể hiện trong các văn bản pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và có mối quan hệ thống nhất trong hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, do đặc điểm của loại tài sản được đưa ra bán đấu giá theo cách phân định của pháp luật, mà pháp luật về bán đấu giá tài sản không thuộc một ngành luật chuyên biệt nào. Các quy định của pháp luật về bán đấu giá nằm rải rác trong các quy định của luật, pháp lệnh, nghị định như Luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật Đăng ký giao dịch đảm bảo, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nước, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Pháp lệnh thi hành án, Nghị định về kê biên đấu giá quyền sử dụng đất trong thi hành án, Quyết định về việc ban hành quy chế đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất, Nghị định về xử lý hàng hoá do người vận chuyển lưu giữ tại cảng biển Việt Nam... Vì vậy, cần thấy rằng pháp luật về bán đấu giá tài sản vừa đang là những quan hệ bổ trợ tư pháp giúp cho hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước, các cơ quan tư pháp thực hiện nhiệm vụ của mình trong xử lý các tài sản để thi hành án, tịch thu sung công quỹ nhà nước, trong các khoản bồi hoàn, tiền phạt hoặc bán tài sản nhà nước vừa là các quan hệ pháp luật về giao dịch dân sự khi cá nhân, tổ chức có yêu cầu bán đấu giá tài sản thuộc sở hữu của họ.. Tại Điều 1, Nghị định số 05/2005/NĐ-CP quy định phạm vi điều chỉnh đó là: quy định về nguyên tắc, thủ tục bán đấu giá tài sản, người bán đấu giá tài sản và quản lý nhà nước đối với hoạt động bán đấu giá tài sản. Về đối tượng điều chỉnh Điều 34 của Nghị định này cũng quy định rõ đó là Doanh nghiệp bán đấu giá tài sản, Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản và Hội đồng bán đấu giá tài sản (đối với tài sản dưới mười triệu đồng mà không phải là Hội đồng đấu giá tài sản theo Quyết
  15. định 216/2005/QĐ-TTg). Do đó, pháp luật về bán đấu giá hiện nay so với các quy định pháp luật nói chung còn chưa hợp lý nhất là về nội dung pháp luật, hình thức pháp luật và tổ chức thực hiện của hệ thống pháp luật này. Tuy nhiên, xem xét pháp luật về bán đấu giá trong mối quan hệ với các ngành luật trong hệ thống pháp luật có thể đưa ra khái niệm pháp luật về bán đấu giá tài sản như sau: Pháp luật về bán đấu giá tài sản là toàn bộ các quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực bán đấu giá tài sản bao gồm những quy định về nguyên tắc, thủ tục bán đấu giá tài sản, người bán đấu giá và quản lý nhà nước đối với hoạt động bán đấu giá tài sản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Điều cần thấy rằng, khung pháp luật về bán đấu giá tài sản ở nước ta đang trong quá trình hình thành chưa thể tạo thành một trật tự pháp luật đầy đủ và ổn định. Chưa có một văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao như Luật để điều chỉnh và tổ chức hoạt động bán đấu giá tài sản nhằm đưa tổ chức và hoạt động này ngày càng có hiệu quả hơn trong tiến trình cải cách hành chính, cải cách tư pháp cũng như hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần tăng cường tính công khai, minh bạch và phát huy được các lợi ích kinh tế do bán đấu giá tài sản đem lại. Với ý nghĩa đó chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản và các lĩnh vực pháp luật khác có liên quan. 1.1.2 Đặc điểm của pháp luật bán đấu giá tài sản Nói đến đặc điểm của pháp luật bán đấu giá chính là muốn nói đến những dấu hiệu đặc trưng để phân biệt pháp luật bán đấu giá với những quy phạm pháp luật và văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành khác. Ở góc độ này chúng ta thấy pháp luật về bán đấu giá có những đặc điểm sau: Thứ nhất, trước đổi mới và những năm đầu sau khi đổi mới và cho đến nay số lượng văn bản pháp luật về bán đấu giá tài sản còn ít, chủ yếu là trong lĩnh vực Dân sự, thi hành án dân sự và trong lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính. Đó là các quy định của Bộ luật dân sự năm 1995, Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1989… Thứ hai, những văn bản pháp luật về bán đấu giá tài sản chỉ có hình thức pháp lý là văn bản dưới luật hoặc được quy định dưới các hình thức là các chế định pháp luật trong các văn bản luật chuyên ngành. Chẳng hạn như Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18
  16. tháng 01 năm 2005 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản; Chế định pháp luật về đấu giá hàng hóa theo quy định của Luật Thương mại năm 2005; Chế định pháp luật về bán đấu giá tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005; Các quy định về bán đấu giá trong Pháp lệnh Thi hành án Dân sự năm 2004… Thứ ba, pháp luật về bán đấu giá còn rất tản mạn, phức tạp chưa có tính hệ thống. Đặc biệt là trong thực hiện công cuộc đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế nhiều văn bản pháp luật trên nhiều lĩnh vực ban hành có liên quan đến hoạt động bán đấu giá tài sản như Luật đất đai năm 2003 (sửa đổi), Luật đăng ký giao dịch bảo đảm năm 2005, Luật Kinh doanh bất động sản năm 2006, Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nước năm 2008… Nếu chúng ta xem pháp luật về bán đấu giá tài sản là những quy định chung thì trong mối quan hệ với những văn bản luật trên có ý nghĩa như là những quy định của pháp luật chuyên ngành. Ở đặc điểm này của pháp luật về bán đấu giá cho thấy cũng giống như đặc điểm của pháp luật xã hội chủ nghĩa nói chung nó tồn tại không phải bởi “ tổng số cộng” đơn giản các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành mà phải là một chỉnh thể thống nhất với sự phối hợp cùng tác động điều chỉnh các quan hệ pháp luật về bán đấu giá tài sản hết sức linh hoạt và phong phú, trãi rộng trên nhiều lĩnh vực. Thứ tư, pháp luật bán đấu giá có đặc điểm quy định về người bán đấu giá tài sản rất rộng gồm nhiều loại chủ thể tham gia. Đó là Doanh nghiệp bán đấu giá tài sản, Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản và Hội đồng bán đấu giá tài sản. Doanh nghiệp bán đấu giá tài sản được tiến hành kinh doanh dịch vụ bán đấu giá tài sản khi có đủ các điều kiện sau đây: Có đăng ký kinh doanh dịch vụ bán đấu giá tài sản; Có ít nhất một đấu giá viên; Có cơ sở vật chất bảo đảm cho việc thực hiện bán đấu giá tài sản. Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định thành lập và giao cho Sở chuyên môn có chức năng quản lý nhà nước về công tác bán đấu giá tài sản ở địa phương trực tiếp quản lý. Trung tâm là đơn vị sự nghiệp có thu, có tư cách pháp nhân. Giám đốc Trung tâm phải là đấu giá viên. Trung tâm có nhiệm vụ bán đấu giá tài sản để thi hành án, tài sản là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu sung quỹ Nhà nước theo quy định của pháp luật. Ngoài
  17. nhiệm vụ bán đấu giá các tài sản nói trên, Trung tâm có thể ký hợp đồng với tổ chức, cá nhân có yêu cầu để bán đấu giá các loại tài sản khác. Hội đồng bán đấu giá tài sản do Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền quyết định thành lập để tổ chức bán đấu giá tài sản của nhà nước có giá trị dưới mười triệu đồng. So sánh với pháp luật bán đấu giá một số nước đã nghiên cứu ở trên cho thấy chủ thể bán đấu giá tài sản ở các nước này chủ yếu hoặc chỉ có Doanh nghiệp bán đấu giá hoặc Công ty bán đấu giá. 1.1.3 Nội dung của pháp luật bán đấu giá tài sản Nội dung của pháp luật bán đấu giá tài sản bao gồm nguyên tắc, trình tự, thủ tục bán đấu giá, người bán đấu giá tài sản và quản lý nhà nước đối với hoạt động bán đấu giá tài sản. Những nội dung trên đựơc pháp luật quy định hoặc do thỏa thuận của các bên về quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý được thể hiện bằng những hình thức cụ thể đó là Hợp đồng ủy quyền bán đấu giá tài sản và Văn bản bán đấu giá tài sản. Hợp đồng uỷ quyền bán đấu giá tài sản là sự thoả thuận giữa bên có tài sản bán đấu giá và trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản hoặc doanh nghiệp bán đấu giá tài sản. Nội dung của hợp đồng uỷ quyền về cơ bản quy định trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ của bên có tài sản bán đấu giá, một số điều khoản có liên quan đến người thứ ba trong hợp đồng uỷ quyền như: người giữ tài sản, người tham gia đấu giá tài sản. Chủ thể tham gia hợp đồng uỷ quyền bán đấu giá tài sản: Một bên là tổ chức, cá nhân có yêu cầu bán đấu giá tài sản, bên kia là trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản hoặc doanh nghiệp bán đấu giá tài sản [6, tr.55]. Theo quy định tại Khoản 2, Điều 7 Nghị định số 05/2005/NĐ/CP thì hợp đồng uỷ quyền bán đấu giá tài sản phải được lập thành văn bản và có các nội dung chủ yếu sau đây: Họ, tên, địa chỉ của người có tài sản bán đấu giá; tên, địa chỉ của người bán đấu giá tài sản; Thời hạn, địa điểm bán đấu giá tài sản; Liệt kê, mô tả tài sản bán đấu giá; Giá khởi điểm của tài sản bán đấu giá; Thời hạn, địa điểm, phương thức giao tài sản để bán đấu giá; Việc thanh toán tiền bán tài sản trong trường hợp bán đấu giá thành; Các chi phí thực tế, hợp lý cho việc bán đấu giá tài sản; Quyền, nghĩa vụ của các bên; Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng; Các thoả thuận khác.
  18. Văn bản bán đấu giá tài sản hay hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá là sự thoả thuận giữa người bán đấu giá tài sản là trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản hoặc doanh nghiệp bán đấu giá tài sản và người mua được tài sản bán đấu giá. Nội dung của hợp đồng này chủ yếu quy định trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ của người đấu giá và người mua được tài sản bán đấu giá. Văn bản bán đấu giá tài sản có giá trị xác nhận việc mua bán tài sản, là cơ sở pháp lý để chuyển quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng tài sản bán đấu giá. Văn bản bán đấu giá tài sản phải có chữ ký của đấu giá viên chịu trách nhiệm về việc bán đấu giá tài sản và của người mua được tài sản bán đấu giá. Đối với văn bản bán đấu giá bất động sản thì phải có chứng nhận của công chứng viên nơi có bất động sản. Quy định này phù hợp với pháp luật về đất đai và Luật nhà ở. Chủ thể tham gia hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá tài sản gồm một bên là trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản hoặc doanh nghiệp bán đấu giá tài sản, bên kia là người mua được tài sản bán đấu giá. Nội dung của hợp đồng này có các nội dung chủ yếu sau đây: Tên, địa chỉ của người bán đấu giá tài sản; Họ, tên của người điều hành cuộc bán đấu giá tài sản; Họ, tên, địa chỉ của người có tài sản bán đấu giá; Họ, tên, địa chỉ của người mua được tài sản bán đấu giá; Thời gian, địa điểm bán đấu giá tài sản; Tài sản bán đấu giá; Giá khởi điểm của tài sản bán đấu giá; Giá bán tài sản; Thời hạn, phương thức, địa điểm thanh toán tiền mua tài sản đã bán đấu giá; Thời hạn, địa điểm giao tài sản đã bán đấu giá cho người mua được tài sản bán đấu giá; Trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ của các bên [9, tr.9]. Sự khác nhau giữa hợp đồng uỷ quyền bán đấu giá và hợp đồng bán đấu giá tài sản ở các chủ thể tham gia của hai hợp đồng này là khác nhau, hai hợp đồng này là hai hợp đồng tách biệt. Tuy nhiên, có thể thấy rằng, hợp đồng uỷ quyền bán đấu giá tài sản là hợp đồng gốc, khi các bên thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng này thì sẽ dẫn đến hợp đồng thứ hai là hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá. Hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá cần phải chuyển cho người có tài sản để họ biết và làm các thủ tục chuyển giao tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá. Trong trường hợp tài sản bán đấu giá là bất động sản thì văn bản bán đấu giá tài sản còn được gửi cho cơ quan thuế. Tuy nhiên, tùy theo các loại tài sản được đưa ra bán đấu giá mà có thể có hợp đồng uỷ quyền bán đấu giá hoặc hợp đồng bán đấu giá tài sản. Đối với trường hợp đấu giá
  19. quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất thì người bán đấu giá tài sản lập phương án bán đấu giá được cấp có thẩm quyền phê duyệt và khi tổ chức đấu giá thì lập biên bản đấu giá của mỗi vòng đấu giá được quy định tại Quyết định số 216/2005/QĐ-TTg. Trong chuyển giao tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu để bán đấu giá được tiến hành trên cơ sở của pháp luật và người có thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm không được quyền lựa chọn người bán đấu giá để tiến hành bán đấu giá các loại tài sản này. Bán đấu giá quyền sử dụng đất để thi hành án theo quy định tại Điều 23 của Nghị định 164/2004/NĐ-CP có quy định: Trường hợp người được thi hành án không đồng ý nhận quyền sử dụng đất hoặc người phải thi hành án không đồng ý cho người được thi hành án nhận quyền sử dụng đất để thi hành án kể cả quyền sử dụng đất có tài sản gắn liền với đất thì trong thời hạn không quá mười ngày làm việc, kể từ ngày định giá chấp hành viên phải làm thủ tục ký Hợp đồng uỷ quyền bán đấu giá với tổ chức có chức năng bán đấu giá tài sản để đấu giá quyền sử dụng đất. Nếu người phải thi hành án có chung quyền sử dụng đất đối với người khác thì người có chung quyền sử dụng đất đối với người phải thi hành án có văn bản đề nghị nhận quyền sử dụng đất đã kê biên. Nếu trong thời hạn thực hiện quyền ưu tiên không quá mười ngày làm việc, nếu người có chung quyền sử dụng đất với người phải thi hành án có văn bản đề nghị không nhận quyền sử dụng đất đó [39, tr.56]. Nội dung quản lý Nhà nước về bán đấu giá tài sản quy định tại Nghị định số 05/2005/NĐ/CP có nêu nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Chính phủ thực hiện quản lý Nhà nước thống nhất về tổ chức và hoạt động bán đấu giá tài sản trong phạm vi cả nước, có nhiệm vụ, quyền hạn soạn thảo, trình cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động bán đấu giá; hướng dẫn thi hành các văn bản quy phạm pháp luật đó. Ban hành, quản lý và hướng dẫn theo thẩm quyền việc sử dụng các mẫu văn bản, giấy tờ trong lĩnh vực bàn đấu giá tài sản, Sổ đăng ký bán đấu giá tài sản. Kiểm tra, thanh tra về tổ chức và hoạt động bán đấu giá tài sản theo thẩm quyền. Tổng hợp và hàng năm báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tổ chức và hoạt động bán đấu giá tài sản. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản. Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác được Chính phủ giao.
  20. Bộ Tài chính có nhiệm vụ, quyền hạn hướng dẫn về chế độ tài chính trong hoạt động bán đấu giá tài sản. Hướng dẫn, kiểm tra việc chuyển giáo tài sản Nhà nước để bán đấu giá. Hướng dẫn việc xác định giá khởi điểm của tài sản bán đấu giá là tài sản nhà nước. Hướng dẫn chung về mức thu, việc quản lý, sử dụng phí đấu giá thuộc nguồn thu của ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp luật về phí, lệ phí. Ủy ban Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quản lý hoạt động bán đấu giá tài sản tại địa phương có nhiệm vụ, quyền hạn quyết định thành lập Trung tâm; bổ nhiệm, miễn nhiệm Giám đốc Trung tâm. Bảo đảm biên chế, cơ sở vật chất và phương tiện làm việc cho Trung tâm. Quy định cụ thể về mức phí đấu gía tại địa phương căn cứ vào quyết định của Hội đồng Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Kiểm tra, thanh tra về tổ chức và hoạt động bán đấu giá tài sản trong phạm vi địa phương theo thẩm quyền. Sở Tư pháp là cơ quan chuyên môn tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác bán đấu giá tài sản tại địa phương theo quy định của Nghị định số 171/2004/NĐ-CP ngày 29/9/2004 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Sở Tư pháp có nhiệm vụ, quyền hạn sau: Phối hợp với Sở Nội vụ trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương Đề án thành lập Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản; Phối hợp với Sở Nội vụ đề nghị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bổ nhiệm, miễn nhiệm Giám đốc Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản; Bổ nhiệm, miễn nhiệm Phó giám đốc Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản; Trực tiếp quản lý Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản theo thẩm quyền; Kiểm tra về tổ chức và hoạt động của Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản; Phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư kiểm tra về tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp bán đấu giá tài sản; Định kỳ hàng năm báo cáo Uỷ ban nhân tỉnh, thành phố trực thuộc Trrung ương và Bộ Tư pháp về tổ chức và hoạt động bán đấu giá tài sản tại địa phương; Các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc theo ủy quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp (Mục 9 Thông tư số 03/2005/TT- BTP). 1.2. CÁC YÊU CẦU VÀ TIÊU CHÍ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0