LUẬN VĂN: Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng
lượt xem 57
download
Kể từ khi ban hành (năm 1987) đến nay Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung và ngày càng tạo điều kiện hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Kết quả là thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, góp phần tăng trưởng kinh tế của cả nước nói chung và các vùng kinh tế cả nước nói riêng. Cùng với các tỉnh, thành phố trong nước, những năm qua thành phố Đà Nẵng đã có...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng
- LUẬN VĂN: Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Kể từ khi ban hành (năm 1987) đến nay Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung và ngày càng tạo điều kiện hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Kết quả là thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, góp phần tăng trưởng kinh tế của cả nước nói chung và các vùng kinh tế cả nước nói riêng. Cùng với các tỉnh, thành phố trong nước, những năm qua thành phố Đà Nẵng đã có nhiều cố gắng trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội. Nét nổi bật trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại Đà Nẵng là ngay từ đầu, Thành phố đã tiến hành quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội địa bàn, xác định các khu, các cụm công nghiệp để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Nhờ đó, nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã đến với Đà Nẵng để làm ăn, kinh doanh. Đến nay, trên địa bàn thành phố Đà Nẵng có 82 dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và 112 chi nhánh, văn phòng đại diện, kho trung chuyển. Nhìn chung, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hoạt động có hiệu quả, góp phần vào tăng trưởng kinh tế và kim ngạch xuất khẩu của thành phố, tăng thêm nguồn thu cho ngân sách, nâng cao trình độ khoa học công nghệ, tiếp thu kinh nghiệm quản lý hiện đại; giải quyết việc làm cho người lao động; làm tăng thu nhập và cải thiện rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân thành phố. Song so với yêu cầu thì hoạt động trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Đà Nẵng chưa đồng đều, quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn còn những mặt yếu kém, thủ tục hành chính còn phiền hà, làm nản lòng nhà đầu tư hoặc có những sơ hở gây tổn hại cho thành phố cũng như cả nước. Do vậy, hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn, để các doanh nghiệp này hoạt động hiệu quả hơn, góp phần tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội của thành phố vừa là vấn đề cấp bách, đồng thời cũng là vấn đề cơ bản lâu dài đối với Đà Nẵng. Đây cũng là lý do chủ yếu để tác giả lựa chọn đề tài: “Hoàn
- thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng” làm Luận văn Thạc sỹ kinh doanh và quản lý chuyên ngành quản lý kinh tế làm luận văn thạc sĩ Kinh doanh và quản lý chuyên ngành Quản lý kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được nhiều nhà khoa học và hoạt động thực tiễn trong và ngoài nước nghiên cứu. Dưới đây là một số công trình tiêu biểu: - Các bài báo:“Kỳ vọng đầu tư nước ngoài vào Đà Nẵng” (Phạm Hảo, Giám đốc Học viện chính trị khu vực III, Báo Đà Nẵng –11/2005); “Làm thế nào để tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Đà Nẵng” (Phan Quỳnh Hương, Trung tâm xúc tiến đầu tư – Báo Đà Nẵng – 11/2005); Môi trường và chính sách đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” (Trần Xuân Giá, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và đầu tư, Tạp chí Kinh tế và dự báo số 3/2001)... Trong các công trình này tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm tạo môi trường đầu tư thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư. - Các đề tài nghiên cứu như: "Đổi mới quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại tỉnh Đồng Nai” (Phan Thị Mỹ Hạnh, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Hà Nội, 2000); “Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn FDI ở Việt Nam hiện nay” (Nguyễn Văn Hùng, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2001); “Hoàn thiện cơ chế tổ chức và quản lý hoạt động FDI ở Việt Nam” (Nguyễn Chí Dũng, Luận án Phó tiến sĩ kinh tế - Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, 1996)… Các đề tài này đã đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài như: vai trò, nội dung, yêu cầu quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và phân tích và quản lý nhà nước đối với hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài các doanh nghiệp này trong những năm qua, nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước để từ đó đề ra các giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam hoặc ở các địa phương mà đề tài tiến hành nghiên cứu.
- Như vậy, các công trình trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu cơ bản, hệ thống về quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở phạm vi quốc gia cũng như ở địa bàn cấp tỉnh, luận văn đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với loại hình doanh nghiệp này tại thành phố Đà Nẵng đến năm 2010. - Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu đặt ra, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu sau: + Làm rõ những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở địa bàn cấp tỉnh. + Tìm hiểu kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của một số địa phương trong nước và quốc tế. + Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn thành phố Đà Nẵng thời gian qua. + Đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn thành phố Đà Nẵng thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, bao gồm doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động trong các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ trong thời gian từ 1997 đến nay, đề xuất và phương hướng, giải pháp hoàn thiện công tác này ở địa phương đến năm 2010.
- Ngoài ra, luận văn cũng nghiên cứu kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của một số địa phương trong nước và quốc tế. 5. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, luận văn sử dụng các phương pháp khảo sát thực tế, phỏng vấn chuyên gia, phân tích, tổng hợp, so sánh… trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, đồng thời kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu của một số công trình nghiên cứu có liên quan. 6. Đóng góp mới về lý luận và thực tiễn Luận văn có những đóng góp mới sau đây: - Góp phần hệ thống hóa và làm rõ thêm những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở địa bàn cấp tỉnh. - Rút ra được những bài học có thể vận dụng vào thực tiễn ở thành phố Đà Nẵng từ kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của một số địa phương trong nước và quốc tế. - Đánh giá đúng thực trạng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Đà Nẵng, rút ra được những thành công, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng. - Đề xuất được phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Đà Nẵng đến năm 2010. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được kết cấu thành 3 chương, 9 tiết. Chương 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở địa bàn cấp tỉnh. Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng.
- Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng đến năm 2010.
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở ĐỊA BÀN CẤP TỈNH 1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI 1.1.1 Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Tìm hiểu, nghiên cứu khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài chúng ta thấy có nhiều khái niệm khác nhau về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mỗi khái niệm đều cố gắng khái quát hoá bản chất và nhấn mạnh đến một khía cạnh nào đó của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Có thể thấy rõ qua một số khái niệm sau: Theo Synthia Day, Wallace đưa ra khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể định nghĩa theo nghĩa rộng là: việc thiết lập hay giành được quyền sở hữu đáng kể trong một loạt công ty ở nước ngoài hay sự gia tăng khối lượng của một khoảng đầu tư nước ngoài nhằm đạt được quyền sở hữu đáng kể. Khái niệm này nhấn mạnh đến quyền sở hữu. Ủy ban Liên hợp Quốc về Thương mại và phát triển (UNCTAD) định nghĩa đầu tư trực tiếp nước ngoài là: “một khoản đầu tư bao gồm mối quan hệ trong dài hạn, phản ánh lợi ích và quyền kiểm soát lâu dài của một thực thể thường trú ở một nền kinh tế (nhà đầu tư nước ngoài hoặc công ty mẹ nước ngoài) trong một doanh nghiệp thường trú ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư nước ngoài (doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trực tiếp, doanh nghiệp liên doanh hoặc chi nhánh nước ngoài) [27, tr.465]. Khái niệm do Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đưa ra năm 1997 được chấp nhận khá rộng rãi về đầu tư trực tiếp nước ngoài là: “số vốn đầu tư được thực hiện để thu được lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động ở nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư. Mục đích của nhà đầu tư là có được tiếng nói hiệu lực và đạt hiệu quả cao trong quản lý doanh nghiệp” [26, tr.1]. Khái niệm này cho thấy, sự khác nhau cơ bản giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài với đầu tư gián tiếp là mục đích của các nhà đầu tư.
- Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (năm 1996) đã nêu: đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này” [1, tr.8]. Năm 2005, Luật đầu tư được điều chỉnh và đã đưa ra định nghĩa đầu tư nước ngoài như sau: “Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư”. Luật đầu tư năm 2005 không đề cập cụ thể đến khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư nước ngoài gián tiếp mà chỉ đưa ra khái niệm đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp. Hai khái niệm trên được hiểu: “đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư”, “đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư”. Dù có nhiều khái niệm khác nhau, nhưng xét về bản chất, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một loại hình di chuyển vốn quốc tế trong đó người chủ sở hữu vốn đồng thời là người quản lý và điều hành các hoạt động sử dụng vốn. Để tham gia trực tiếp vào việc quản lý và điều hành các hoạt động sử dụng vốn, nhà đầu tư nước ngoài phải có một lượng vốn nhất định và tuân theo các hình thức đầu tư nhất định do pháp luật nước sở tại quy định. Nói cách khác, trong đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài sẽ sử dụng vốn, tài sản, kinh nghiệm, uy tín và nhãn hiệu sản phẩm của mình để tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh ở nước sở tại nhằm thu lợi nhuận và để đạt được những mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định. về thực chất đây là hình thức xuất khẩu vốn, một hình thức cao hơn của xuất khẩu hàng hoá. Với những trình bày trên, đầu tư trực tiếp nước ngoài có các đặc trưng sau: - Đầu tư trực tiếp nước ngoài không có những ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế của nước chủ nhà nhưng có đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế và là một bộ phận hữu cơ trong cơ cấu đầu tư của nền kinh tế nước chủ nhà;
- - Trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, có sự thiết lập quyền sở hữu về tư bản thực của công ty ở một nước khác; đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện bằng vốn của cá nhân hoặc tập thể do các chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất, kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về các khoản lỗ, lãi. Đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển gắn liền với sự ra đời và hoạt động của các công ty xuyên quốc gia; - Đầu tư trực tiếp nước ngoài có mục tiêu, nhiệm vụ rõ ràng nhằm mở rộng, chiếm lĩnh thị trường của các công ty xuyên quốc gia và thu về lợi nhuận tối đa cho nhà đầu tư; - Đầu tư trực tiếp nước ngoài có sự kết hợp quyền sở hữu với quyền quản lý các nguồn vốn đã được đầu tư. Khác với hình thức đầu tư gián tiếp, trong đầu tư trực tiếp, chủ đầu tư nước ngoài điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư nếu là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp liên doanh tuỳ theo tỷ lệ góp vốn của mình; - Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài có kèm theo việc chuyển giao công nghệ và kỹ năng quản lý. Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý... Đây là những mục tiêu mà các hình thức đầu tư khác không giải quyết được; - Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài gắn liền với sự phát triển của thị trường tài chính quốc tế và thương mại quốc tế. Trong hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài, các công ty mẹ thường chuyển giao vốn của mình qua các công ty chi nhánh. Do đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài có liên quan chặt chẽ với dòng lưu chuyển vốn quốc tế, trong đó một công ty ở một nước tạo ra hoặc mở rộng chi nhánh ở nước khác. Những đặc trưng trên cho thấy bản chất và những lợi thế nổi bật của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong phát triển kinh tế của các n ước đang phát triển nói riêng và của nền kinh tế thế giới nói chung. Hiện nay, trong bối cảnh hầu hết các quốc gia đều hoạt động theo cơ chế thị trường, xu thế khu vực hóa và toàn c ầu hóa các hoạt động kinh tế đang ngày càng phổ biến và diễn ra với tốc độ nhanh, khoa học – kỹ thuật, công nghệ đạt đến trình độ phát triển cao... Đầu tư trực tiếp nước ngoài được sử dụng như một trong những hình thức hợp tác kinh tế, ph ương tiện thực hiện phân công lao động quốc
- tế, và được xem là một trong các điều kiện quyết định sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Trong hoạt động FDI, các nhà đầu tư nước ngoài là chủ thể quan trọng thành lập nên doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (hay còn gọi là doanh nghiệp FDI) và có thể nói không có FDI tất yếu không có doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là phương tiện, là cách thức để nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp bỏ vốn và tham gia quản lý kinh doanh ở một nước khác. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Đến nay vẫn có nhiều quan niệm khác nhau về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: - Doanh nghiệp FDI là những pháp nhân mới được thành lập tại nước nhận đầu tư. Trong đó, các đối tác có quốc tịch khác nhau và bên nước ngoài có tỷ lệ góp vốn tối thiểu đủ để trực tiếp tham gia quản lý doanh nghiệp [10, tr.59]. Quan niệm này nhấn mạnh đến vai trò sáng lập của nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp FDI. - Doanh nghiệp FDI là những loại hình doanh nghiệp có vốn của bên nước ngoài và có sự quản lý trực tiếp của bên nước ngoài. Doanh nghiệp này hoạt động theo luật pháp của nước sở tại để tiến hành các hoạt động kinh doanh nhằm thu được lợi ích cho tất cả các bên [10, tr.59]. Theo các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp FDI là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân, trong đó nhà đầu tư nước ngoài sở hữu từ 10% trở lên số cổ phần thường hay quyền bỏ phiếu (đối với doanh nghiệp có tư cách pháp nhân) hoặc tương đương (đối với doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân) [29, tr.8]. Những quan niệm đã trình bày ở trên cho thấy sự không thống nhất trên bình diện quốc tế trong quan niệm về doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, do đặc thù của mỗi quốc gia mà có các quy định khác nhau về mô hình doanh nghiệp cho hoạt động đầu tư nước ngoài. Ở Việt Nam, đến nay chưa có khái niệm chính thức nào khác về doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài những ghi nhận về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được đề cập trong Luật đầu tư nước ngoài năm 1996 và Luật đầu tư năm 2005. Tuy nhiên, Luật đầu
- tư nước ngoài 1996 cũng không đưa ra khái niệm về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mà chỉ thừa nhận doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gồm doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. Và về mặt pháp lý, cả doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài đều hoạt động với tư cách công ty trách nhiệm hữu hạn. Như vậy, khác với Luật doanh nghiệp và Luật doanh nghiệp nhà nước quan tâm đến tiêu chí trách nhiệm của doanh nghiệp (công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân) và tiêu chí nguồn gốc vốn của doanh nghiệp (công ty nhà nước, doanh nghiệp nhà nước khác), thì qui định của Luật đầu tư nước ngoài về doanh nghiệp lại nhấn mạnh theo tiêu chí tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp. Điều này không phù hợp với thực tiễn về quản lý nhà n ước đối với doanh nghiệp, bởi vì điều mà các bên thứ ba quan tâm ở doanh nghiệp không phải là nhà đầu tư có tỷ lệ góp vốn bao nhiêu,... mà là doanh nghiệp chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài sản trước đối tác, trước Nhà nước và các chủ thể khác như thế nào. Đây chính là điểm hạn chế trước đây của pháp luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. Để khắc phục hạn chế trên, Luật doanh nghiệp 2005 đã phân loại doanh nghiệp theo tiêu chí cách thức góp vốn và chịu trách nhiệm (công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân) mà không phụ thuộc vào nguồn gốc vốn góp (tức là không phân biệt doanh nghiệp của nhà đầu tư trong nước hay nước ngoài, của một nhà đầu tư hay nhiều nhà đầu tư). Luật đầu tư 2005, khi định nghĩa về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng không còn sử dụng khái niệm doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh nữa mà thay vào đó đã sử dụng khái niệm: “doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bao gồm doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài thành lập để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam; doanh nghiệp Việt Nam do nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, sáp nhập, mua lại”. Vậy, theo luật doanh nghiệp 2005 và Luật đầu tư 2005, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh về bản chất vẫn tồn tại nhưng tên gọi pháp lý của chúng đã thay đổi. Tùy theo cách thức góp vốn và chịu trách nhiệm trong các doanh nghiệp này, chúng có thể là công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh hoặc doanh nghiệp tư nhân.
- Qua phân tích ở trên, có thể hiểu: “Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (hay còn gọi là doanh nghiệp FDI) là một hình thức tổ chức kinh doanh, trong đó có một bên hoặc các bên mang quốc tịch khác nhau cùng góp vốn, cùng quản lý cơ sở kinh tế đó vì mục tiêu sinh lời, phù hợp với các quy định luật pháp của nước sở tại và thông lệ quốc tế”. 1.1.2. Đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có nhiều loại hình, nhiều cách thức tổ chức hoạt động khác nhau. Do vậy, nhận thức các đặc điểm hoạt động của các doanh nghiệp này có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước đối với chúng. Doanh nghiệp FDI ở Việt Nam có các đặc điểm cơ bản sau: - Doanh nghiệp FDI là những tổ chức kinh doanh có yếu tố quốc tế, chủ yếu được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, thuộc một phần sở hữu nước ngoài (doanh nghiệp liên doanh) hoặc thuộc toàn bộ sở hữu nước ngoài (doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài). Quá trình thành lập và vận hành của doanh nghiệp FDI luôn có sự cộng đồng trách nhiệm của các bên, đại diện cho lợi ích của các quốc gia khác nhau và được các bên lấy phương châm “cùng có lợi” làm nguyên tắc cơ bản để giải quyết các vấn đề trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp; - Doanh nghiệp FDI có sự tham gia quản lý trực tiếp của nước ngoài, quyền quản lý của các bên phụ thuộc vào tỷ lệ vốn góp. Tuy nhiên, các doanh nghiệp đều là những pháp nhân Việt Nam, ra đời và hoạt động theo luật pháp của Nhà nước Việt Nam, đồng thời chịu sự chi phối của nhiều hệ thống pháp luật (bao gồm luật pháp của các quốc gia xuất thân của các bên và luật pháp quốc tế); - Doanh nghiệp FDI thường có phần sở hữu của các công ty đa quốc gia, nên các quyết định của nó không hoàn toàn phụ thuộc vào khuôn khổ pháp lý của Việt Nam. Phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài càng cao, thì hoạt động của doanh nghiệp FDI có thể càng chịu nhiều sự ảnh hưởng của bên nước ngoài. Mặt khác, xu hướng tự nhiên của doanh nghiệp FDI bao giờ cũng coi lợi nhuận là mục tiêu duy nhất hàng đầu; trong khi đó, nước chủ nhà lại quan tâm nhiều đến hiệu quả kinh tế - xã hội, đến sự phát triển tổng thể
- nền kinh tế. Do vậy, quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải dung hòa được hai lợi ích này, phải cho doanh nghiệp FDI trong khi phục vụ lợi ích của họ cũng đồng thời phải mang lại lợi ích cho bên Việt Nam nói riêng và Nhà n ước Việt Nam nói chung; - Doanh nghiệp FDI nằm trên lãnh thổ Việt Nam, chịu sự quản lý vĩ mô, chịu ảnh hưởng của tình hình chính trị, kinh tế - xã hội của Nhà nước Việt Nam trên các phương tiện môi trường sinh thái, môi trường chính trị, kinh tế - xã hội..., đồng thời cũng có tác động trở lại đối với đất nước Việt Nam, có thể tích cực hoặc tiêu cực, tuỳ thuộc vào tình hình hoạt động đúng hay chệch hướng, hiệu quả, hay thua lỗ của doanh nghiệp. - Doanh nghiệp FDI hoạt động trong một thời hạn nhất định do Chính phủ nước Cộng hoà XHCN Việt Nam quyết định đối với từng dự án, thường không quá 50 năm, trường hợp đặc biệt có thể dài hơn nhưng tối đa không quá 70 năm. Hết thời hạn qui định, doanh nghiệp FDI phải giải thể hoặc chuyển cho phía Việt Nam (theo hình thức bồi hoàn hoặc không bồi hoàn). Như vậy, chế độ sở hữu đối với bên nước ngoài chỉ giới hạn trong thời gian hoạt động của doanh nghiệp, trừ số doanh nghiệp phải giải thể, khi hết thời hạn hoạt động những doanh nghiệp FDI đó dù tốt, xấu đều trở thành đơn vị kinh doanh và sở hữu của phía Việt Nam; - Doanh nghiệp FDI là nơi gặp gỡ và cọ xát giữa các nền văn hoá khác nhau, phản ánh sự pha trộn các yếu tố văn hoá của nhiều nước, thể hiện qua triết lý kinh doanh, tập quán, sự hiểu biết pháp luật, ngôn ngữ, lối sống, thói quen, lòng tin, thái độ, phong cách ứng xử của các bên tham gia. Văn hoá kinh doanh của doanh nghiệp FDI tương đối phức tạp, nhiều khi mang sắc thái chính trị, tôn giáo rõ rệt, làm cho quá trình triển khai và vận hành doanh nghiệp FDI hết sức phức tạp đòi hỏi Việt Nam phải chuẩn bị đủ các điều kiện cần thiết để tham gia kinh doanh với các nhà đầu tư nước ngoài một cách bình đẳng và đảm bảo hiệu quả, đồng thời hạn chế tới mức thấp nhất những thua thiệt có thể xẩy ra đối với nước mình; Doanh nghiệp FDI được coi là loại doanh nghiệp không có cơ quan chủ quản, cơ quan lãnh đạo cao nhất và có quyền quyết định mọi vấn đề của doanh nghiệp là Hội đồng quản trị. Giám đốc chịu trách nhiệm trực tiếp trước Hội đồng quản trị. Hoạt động của
- doanh nghiệp FDI là hoạt động theo luật, trong khuôn khổ pháp luật và các cơ quan quản lý nhà nước của Việt Nam chỉ thực hiện chức năng quản lý về mặt Nhà nước đối với các hoạt động của loại hình doanh nghiệp này. Những đặc điểm trên cho thấy, để có thể tham gia kinh doanh với các nhà đầu tư nước ngoài một cách bình đẳng, đồng thời các doanh nghiệp F DI hoạt động đúng định hướng, có hiệu quả cao, phát huy được tác dụng tích cực đến đời sống chính trị, kinh tế - xã hội ở trong nước, ngăn ngừa và hạn chế đến mức thấp nhất những ảnh h ưởng tiêu cực, những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình hợp tác đầu tư. Việt Nam phải chuẩn bị đủ các điều kiện cần thiết như hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách, phương thức và biện pháp quản lý thích hợp. 1.1.3. Tác động kinh tế - xã hội của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến địa bàn tiếp nhận đầu tư 1.1.3.1. Tác động tích cực Doanh nghiệp FDI góp phần gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế, kích thích các công ty khác tham gia đầu tư vào nước chủ nhà, là một tác nhân để thu hút vốn ODA; tăng thêm tỷ lệ huy động vốn trong nước; là phương tiện để tiếp nhận công nghệ hiện đại; tạo thêm nhiều việc làm và học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước... Cụ thể là: - Thu hút vốn cho đầu tư phats triển: đối với những địa bàn thiếu vốn, tích lũy từ nội bộ nền kinh tế thấp (thường là ở các nước đang phát triển) thì việc thành lập các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài, là biện pháp thu hút vốn đầu tư có hiệu quả. Lượng vốn này, đôi khi là “cú hích” từ bên ngoài khá hữu hiệu tạo nên một loạt sự thay đổi theo chiều hướng tích cực của nền kinh tế. - Tạo điều kiện tiếp nhận công nghệ hiện đại: Hoạt động của FDI tác động rất lớn đối với quá trình phát triển khoa học, công nghệ. Bởi vì, các doanh nghiệp FDI khi được thành lập luôn gắn liền với công nghệ, máy móc thiết bị, kỹ năng quản lý đảm bảo năng lực sản xuất và năng suất lao động nhằm thu được lợi nhuận tối đa. Đối với những địa bàn kinh tế lạc hậu, chủ yếu dựa vào khu vực nông nghiệp thì việc chuyển giao công nghệ thông qua các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài là một giải pháp khá tiết kiệm và an toàn. Việc tiếp thu được các công nghệ tiên tiến của nước ngoài tạo điều kiện cho địa
- bàn nhận đầu tư mở những bước “đột phá” sâu vào những ngành nghề sản xuất kinh doanh quan trọng như điện tử, ô tô, công nghệ luyện kim, công nghệ hóa chất, khai thác dầu khí... - Tạo điều kiện học tập kinh nghiệp quản lý tiên tiến của n ước ngoài: không những trong doanh nghiệp liên doanh mà ngay cả trong doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, các nhân viên của địa bàn nhận đầu tư nước ngoài có dịp tiếp xúc với một phong cách quản lý tiên tiến của nước ngoài, qua đó từng bước học tập được các mô hình quản lý, kỹ năng kinh doanh và thích nghi với cạnh tranh, thích nghi với công nghệ... đặc biệt là kỹ năng điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Hơn nữa, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài còn góp phần hình thành thế hệ doanh nhân mới trong nước có đầy đủ bản lĩnh và khả năng để thành lập và điều hành các doanh nghiệp đương đầu với cạnh tranh trên thị trường. Từ những bài học được tích lũy đó, địa bàn nhận đầu tư nước ngoài có thể áp dụng các mô hình quản lý tiên tiến dựa trên các công cụ hiện đại vào công ty điều hành các cơ sở sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế. Tuy nhiên, hiệu quả việc áp dụng các kinh nghiệm quản lý tiến tiến này phụ thuộc rất lớn vào bản lĩnh và trình độ của đội ngũ cán bộ của địa bàn tiếp nhận đầu tư nước ngoài. Việc áp dụng dập khuôn đôi khi gây ra hậu quả phản tác dụng không phải là nhỏ. Tiếp thu kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài chính là một khoản lợi ích vô hình mà địa bàn đầu tư nước ngoài có được, nhưng nó cũng yêu cầu chính địa bàn nhận đầu tư nước ngoài phải có những điểu chỉnh phù hợp trong việc áp dụng. - Khai thác được nguồn tài nguyên thiên nhiên, phát triển kết cấu hạ tầng, phát triển thị trường và kích thích tăng trưởng kinh tế trên địa bàn nhận đầu tư: Đối với địa bàn có nhiều tài nguyên khoáng sản nhưng không đủ khả năng khai thác thì việc thành lập các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo điều kiện để khai thác lợi thế về tư nhiên. Sự phát triển của doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng tạo sức ép và điều kiện để hiện đại hoá kết cấu hạ tầng như hệ thống đường xá, kho tàng, sân bay, bến cảng, hệ thống thông tin liên lạc, cung cấp điện, nước... đồng thời tăng năng lực sản xuất và năng suất lao động cho các cơ sở sản xuất hiện có. - Tạo thêm việc làm, góp phần bồi dưỡng đội ngũ lao động có kỹ năng và tay nghề cao cho địa bàn tiếp nhận đầu tư: Chính hoạt động của các doanh nghiệp đầu tư
- nước ngoài và sự tăng trưởng kinh tế mà nó mang lại đã tạo ra nhiều cơ hội việc làm, làm giảm thất nghiệp. Bài toán khó về việc làm được giải quyết một phần đáng kể nhờ vào doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài và những ảnh hưởng dây chuyền của nó đối với các ngành cung cấp nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm. Mặt khác, thông qua quá trình lao động trong các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài mà người lao động của địa bàn nhận đầu tư trực tiếp sẽ tiếp thu được những kỹ năng sản xuất mới, tiên tiến góp phần nâng cao tay nghề và tạo được thu nhập ổn định, đảm bảo đời sống. - Tiếp cận với thị trường thế giới: Thông qua doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài, địa bàn tiếp nhận đầu tư có thể tiếp cận với thị trường thế giới. Bởi vì hầu hết các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đều do các công ty đa quốc gia thực hiện, mà các công ty này có lợi thế trong việc tiếp cận với khách hàng bằng những hợp đồng dài hạn dựa trên cơ sở những thân thế và uy tín của họ về chất lượng, kiểu dáng của sản phẩm. Những tác động tích cực nói trên cho thấy vai trò quan trọng của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với phát triển kinh tế - xã hội ở địa bàn tiếp nhận đầu tư. 1.1.3.2. Tác động tiêu cực Bên cạnh những tác động tích cực, doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài còn có các tác động tiêu cực đến kinh tế - xã hội của địa bàn tiếp nhận đầu tư: - Doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài có mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, vì thế họ có thể bất chấp những đòi hỏi tôn trọng truyền thống văn hoá, xã hội của dân tộc, khai thác tài nguyên quá mức, không quan tâm tới việc xử lý ô nhiễm môi trường, đẩy mạnh bóc lột người lao động bằng các hình thức tăng cường độ lao động đối với công nhân, kéo dài thời gian làm việc, cắt xén điều kiện bảo hộ lao động, làm phân hoá đội ngũ cán bộ, “chảy máu chất xám”. Điều đó có thể gây nên mâu thuẫn và làm nảy sinh nhiều vấn đề mới trong xã hội. - Doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài thường lợi dụng, khai thác những mặt yếu kém của Chính phủ và các doanh nghiệp sở tại, đặc biệt họ thường chú ý khai thác những sơ hở, yếu kém về luật lệ, thủ tục và cán bộ trong khâu quản lý, sự nắm bắt không
- kịp thời các thông tin thị trường về công nghệ, giá cả của nước chủ nhà để khai khống giá trị máy móc thiết bị công nghệ góp vốn, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ không thích hợp, lạc hậu, làm thiệt hại đến lợi ích của phía nhận đầu tư. - Doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể làm tăng sự phụ thuộc về vốn, kỹ thuật và mạng lưới tiêu thụ của địa bàn nhận đầu tư vào phía nước ngoài, vì các qui trình kỹ thuật, công nghệ sản xuất cũng như thị trường tiêu thụ hàng hoá do các nhà đầu tư nắm giữ và chỉ được chuyển giao dần dần. Sự phụ thuộc càng nhiều thì tính chủ động của địa bàn nhận đầu tư càng yếu. Do vậy, nếu không tranh thủ được những tác động tích cực của doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài để nhanh chóng phát triển công nghiệp nội địa, tạo nguồn tích lũy, đa dạng hóa thị trường tiêu thụ, tiếp nhận kỹ thuật mới, thì địa bàn tiếp nhận đầu tư khó có khả năng giảm và loại bỏ được sự phụ thuộc. - Các nhà đầu tư nước ngoài có thể bằng nhiều cách làm tổn hại đến chủ quyền kinh tế của địa bàn tiếp nhận đầu tư. Thông qua các công ty xuyên quốc gia, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhất là doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài có thể gây ảnh hưởng tới chính trị của địa bàn tiếp nhận đầu tư, gây sức ép đối với Chính phủ, tác động không lành mạnh đến cơ cấu xã hội. Mục tiêu chiến lược của họ không phải bao giờ cũng thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế của địa bàn nhận đầu tư, do đó, các nhà đầu tư nước ngoài có thể có quan điểm, ý kiến trái ngược hoặc có hành vi vi phạm các chính sách quản lý tài chính, tiền tệ của địa bàn tiếp nhận đầu tư. - Trong điều kiện nền kinh tế mở, nếu sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nội địa trên địa bàn tiếp nhận đầu tư nước ngoài yếu thì sự xuất hiện của các doanh nghiệp FDI có thể dẫn đến sự lũng đoạn và làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước. Bởi vì, các doanh nghiệp FDI thường chiếm ưu thế về kỹ thuật, vốn và kinh nghiệm tổ chức quản lý so với doanh nghiệp trong nước. Như vậy, doanh nghiệp FDI không chỉ mang lại những tác động tích cực mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tiếp nhận đầu tư. Tuy nhiên, chúng ta cũng không nên quá lo ngại về điều này, bởi lẽ bất kỳ một loại hình doanh nghiệp nào trong nền kinh tế thị trường cũng đều có mặt trái của nó. Vấn đề đặt ra là, quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phải ngăn chặn, giảm
- thiểu những ảnh hưởng tiêu cực các doanh nghiệp này, đồng thời tạo điều kiện hấp thu tối đa các tác động tích cực của chúng, thu hút ngày càng nhiều hơn lượng vốn FDI, qua đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế của địa bàn tiếp nhận đầu tư trong bối cảnh cạnh tranh thu hút FDI trên thế giới diễn ra ngày một khốc liệt. 1.2. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở ĐỊA BÀN CẤP TỈNH 1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở địa bàn cấp tỉnh Quản lý là một chức năng bắt nguồn từ tính xã hội của lao động trong điều kiện phát triển kinh tế quản lý được xem là thước đo của hầu hết các hoạt động xã hội. Từ khái niệm về quản lý chúng ta có thể hiểu, quản lý nhà nước là hoạt động chấp hành và điều hành của các cơ quan hành chính nhà nước được tiến hành trên cơ sở pháp luật và để thi hành pháp luật. Trong giai đoạn hiện nay, mặc dù các quốc gia trên thế giới có nhiều chế độ chính trị khác nhau, nhưng đều có điểm chung là ngày càng coi trọng vai trò quản lý, điều tiết của Nhà nước. Như vậy, vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước, trong đó có quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp ngày càng được tăng thêm. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp là một bộ phận, đồng thời là nội dung cơ bản của quản lý nhà nước về kinh tế, nên Nhà nước có chức năng và nhiệm vụ quản lý đối với tất cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, nhưng không được can thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nói chung, doanh nghiệp FDI nói riêng hoàn toàn có quyền tự chủ khi tiến hành hoạt động kinh doanh những gì mà pháp luật không cấm. Doanh nghiệp FDI cũng như các đơn vị kinh doanh khác, ngoài sự chi phối của thị trường, còn chịu sự điểu chỉnh bởi hệ thống pháp luật và quản lý vĩ mô của Nhà nước kể từ khi thành lập cho đến khi giải thể. Quan hệ giữa Nhà nước với doanh nghiệp FDI trong nền kinh tế thị trường chủ yếu là quan hệ quản lý bằng pháp luật, cơ chế chính sách, kế hoạch, định hướng, hỗ trợ, điều chỉnh và không chế trong phạm vi cần thiết để đảm bảo lợi ích chung của quốc gia.
- Như vậy, Nhà nước với doanh nghiệp FDI có mối quan hệ qua lại với nhau và tác động lẫn nhau, bởi vì: Về phía Nhà nước, việc thiết lập quản lý đối với các doanh nghiệp FDI là cần thiết vì quan hệ giữa từng doanh nghiệp với nền kinh tế nói chung là quan hệ giữa bộ phận và tổng thể, nhiều khi quyền lợi giữa bộ phận và tổng thể là không thống nhất, thậm chí còn mâu thuẫn nhau. Vai trò của quản lý nhà nước là để cho lợi ích của từng doanh nghiệp FDI không lấn át nhau, không làm tổn hại tới lợi ích các quốc gia và của doanh nghiệp khác. Về phía các doanh nghiệp FDI, cũng cần có sự quản lý của Nhà nước, vì đó chính là chỗ dựa về mặt pháp lý để doanh nghiệp hoạt động. Nhà nước không những đóng vai trò trong việc tạo lập môi trường kinh doanh, mà còn hỗ trợ, khuyến khích thúc đẩy doanh nghiệp FDI phát triển. Phần lớn hoạt động này thực hiện thông qua sự điều tiết, quản lý của Nhà nước. Mặt khác, trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp FDI, mỗi bước đi từ khi khởi đầu đến kết thúc đều phải gắn liền vào quá trình quản lý liên tục cả dưới góc độ vĩ mô và vi mô. Doanh nghiệp FDI có thành công hay không, hoạt động có theo chiến lược phát triển chung của xã hội hay không, không những phụ thuộc vào quản lý kinh tế vi mô của bản thân doanh nghiệp, mà còn phụ thuộc rất nhiều vào quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Với những trình bày ở trên cho thấy, Nhà nước với các doanh nghiệp FDI có mối quan hệ qua lại chắt chẽ với nhau. Nhà nước có ảnh hưởng quyết định tới cách thức hoạt động của doanh nghiệp FDI; ngược lại, sự phát triển và lớn mạnh của các doanh nghiệp FDI ảnh hưởng tới sức mạnh của Nhà nước và tác động đến kinh tế - xã hội của đất nước. Nhà nước có nhiệm vụ hướng các doanh nghiệp FDI sản xuất kinh doanh theo định hướng mà nhà nước đã chọn, đảm bảo quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp, trên cơ sở pháp luật cho phép. Nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý có những tác động đến hoạt động của doanh nghiệp, có thể khuyến khích giúp đỡ doanh nghiệp nếu đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội; hoặc có thể ngăn cản, hạn chế nếu hoạt động của doanh nghiệp FDI không theo định hướng hay làm tổn hại đến lợi ích quốc gia.
- Trong hoạt động quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI, yếu tố quan trọng có nghĩa quyết định đến mức độ thành công của quản lý là xác định rõ mục tiêu quản lý, từ đó làm rõ nội dung quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI. 1.2.2. Mục tiêu của quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Việc xác định mục tiêu quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là điểm khởi đầu và là khâu rất quan trọng của quá trình quản lý. Mục tiêu quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI là nhằm giải quyết các vấn đề cơ bản trong quan hệ hợp tác kinh tế với n ước ngoài và suy cho cùng là làm thế nào để cho các doanh nghiệp này hoạt động có hiệu quả phù hợp với chiến l ược phát triển kinh tế - xã hội của địa bàn tiếp nhận đầu tư. Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta là tạo điều kiện để doanh nghiệp FDI phát triển thuận lợi, h ướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Trên cơ sở đó, quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI nhằm đạt các mục tiêu sau: Thông qua quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI nhằm không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách thu hút, nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thực sự trở thành một bộ phận quan trọng đóng góp cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định: “ Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp của nước ngoài”[4, tr.240], “xoá bỏ các hình thức phân biệt đối xử trong tiếp cận các cơ hội đầu tư”[4, tr.239], “Đơn giản hoá thủ tục cấp giấp phép đầu tư đối với đầu tư nước ngoài”, “ Tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư phát triển” [4, tr.240]. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI nhằm kết hợp tối ưu giữa nguồn lực bên ngoài với nguồn lực trong nước, vừa mở cửa rộng rãi với bên ngoài nhằm tranh thủ các lợi thế của nhà đầu tư, vừa tính đến bảo hộ một cách hợp lý để các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước có thời gian thích ứng để phát triển và đủ khả năng hội nhập kinh tế quốc tế. Do đó, quản lý nhà nước phải làm sao phát huy hết khả năng tiềm tàng của doanh nghiệp FDI, tạo ra nhịp sống kinh tế cần thiết để khơi dậy nguồn nội lực của địa bàn tiếp nhận đầu tư.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty Dong Yun
49 p | 535 | 187
-
Luận văn: Hoàn thiện quản lý vốn đầu tư Xây dựng cơ bản của Bảo hiểm xã hội Việt Nam
81 p | 309 | 79
-
Luận văn: Hoàn thiện quản lý và phát triển lực lượng đại lý tại Công ty Bảo hiểm nhân thọ Bến Tre
91 p | 303 | 76
-
Luận văn - Hoàn thiện quản lý và tổ chức hệ thống kênh phân phối của CTCP Bánh kẹo Hải Châu
61 p | 178 | 38
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh doanh và quản lý: Hoàn thiện quản lý chi ngân sách nhà nước cấp huyện tại huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An
108 p | 24 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Hoàn thiện quản lý chi ngân sách nhà nước trên địa bàn quận Sơn Trà – thành phố Đà Nẵng
131 p | 20 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý kinh tế: Hoàn thiện quản lý chi thường xuyên ngân sách nhà nước của tỉnh Kon Tum
119 p | 14 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý kinh tế: Hoàn thiện quản lý dịch vụ hành chính công của ủy ban Nhân dân thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh
93 p | 15 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý kinh tế: Hoàn thiện quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội tại tỉnh Kon Tum
129 p | 20 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh doanh và quản lý: Hoàn thiện quản lý kho thành phẩm tại Công ty cổ phần Sữa Quốc tế
132 p | 15 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Hoàn thiện quản trị kênh phân phối của Công ty TNHH MTV Xổ số kiến thiết tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020
116 p | 26 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh doanh và quản lý: Hoàn thiện quản lý tài chính tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Phú Thọ
105 p | 14 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh doanh và quản lý: Hoàn thiện quản trị cung ứng nguyên vật liệu tại Công ty TNHH dịch vụ ăn uống Ba Sao
146 p | 14 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Hoàn thiện quản lý thu bảo hiểm xã hội bắt buộc tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Hòa Bình
130 p | 18 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh doanh và quản lý: Hoàn thiện quản trị thực hiện dự án đầu tư tại Ban quản lý dự án Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội
106 p | 17 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý kinh tế: Hoàn thiện quản lý chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội tại thành phố Kon Tum tỉnh Kon Tum
145 p | 19 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Hoàn thiện quản trị quan hệ khách hàng tại Công ty cổ phần Ô tô Quang Phi Hùng - Nissan Đà Nẵng
106 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Hoàn thiện quản trị mua hàng tại Công ty cổ phần Tiến bộ Quốc tế
91 p | 5 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn