intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn: Một số giải pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh trong tiêu thụ sản phẩm của công ty khoá Minh Khai

Chia sẻ: Nguyen Bao Ngoc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:84

121
lượt xem
21
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo luận văn - đề án 'luận văn: một số giải pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh trong tiêu thụ sản phẩm của công ty khoá minh khai', luận văn - báo cáo, quản trị kinh doanh phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn: Một số giải pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh trong tiêu thụ sản phẩm của công ty khoá Minh Khai

  1. Luận văn Một số giải pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh trong tiêu thụ sản phẩm của công ty khoá Minh Khai 1
  2. Lời mở đầu Quá trình chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã và đang đặt ra những thách thức cùng những cơ hội phát triển cho tất cả các doanh nghiệp khác nhau đặc biệt là các doanh nghiệp quốc doanh. Vận hành theo cơ chế thị trường nghĩa là các doanh nghiệp phải tuân thủ một cách nghiêm ngặt các quy luật khách quan của thị trường trong đó có quy luật cạnh tranh. D ưới tác động và yêu cầu của quy luật này, các doanh nghiệp phải vận dụng tối đa, linh hoạt và hợp thức các thủ pháp và nghệ thuật kinh doanh để đạt tới các lợi thế tương đ ối để tăng trưởng và phát triển cặp thị trường - sản phẩm, khách hàng tiềm năng - thị phần nhằm tối ưu hoá lợi nhuận mong muốn. Hậu quả tất yếu của động thái cạnh tranh này là một nhóm doanh nhgiệp do không hoà nhập hoặc xác định không đúng các thủ pháp cạnh tranh nên bị suy thoái, thậm chí phá sản và bị gạt ra khỏi thị trường, một số doanh nghiệp thích ứng được và vận dụng đồng bộ các thủ pháp cạnh tranh hợp lý thì không ngừng phát triển. Hiện nay, Việt nam đă tham gia Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEBT) để thành lập khu vực mậu dịch tự do của ASEAN (AFTA) vào năm 2003, đ ã tham gia diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á-Thái Bình Dương (APEC) và đang xúc tiến xin gia nhập tổ chức thương mại Thế giới (WTO) . Những sự kiện trên cũng có nghĩa là trong thời gian tới, doanh nghiệp Việt Nam nói chung không những chỉ cạnh tranh với nhau ở trong nước m à còn phải trực diện cạnh tranh với các doanh nghiệp ở nước ngoài. Thực tế trong lĩnh vực sản xuất khoá và máy móc thiết bị đã phản ánh đầy đủ và điển hình các yếu tố của môi trường kinh doanh trong cơ chế cạnh tranh. Công ty khoá Minh khai là một Công ty kinh doanh trong lĩnh vực này, do vậy đòi hỏi phải có những biện pháp thiết thực để nâng cao năng lực cạnh tranh 2
  3. của doanh nghiệp trên thị trường giúp doanh nghiệp tồn tại và phát triển ngày một vững mạnh. Vấn đề này được quan tâm nghiên cứu trên cơ sở tổng hợp các nguyên lý kinh doanh trong tình hình cạnh tranh nhằm nghiên cứu thực trạng hoạt động cũng như tình hình cạnh tranh trong tiêu thụ sản phẩm của Công ty khoá Minh Khai. Bài viết này được chia thành 3 phần chính: Phần I: Những vấn đề lý luận về nâng cao khả năng cạnh tranh trong tiêu thụ sản phẩm của Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Phần II: thực trạng khả năng cạnh tranh trong tiêu thụ sản phẩm của công ty khoá minh khai. Phần III: một số giải pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh trong ti êu thụ sản phẩm của công ty khoá minh khai 3
  4. Phần I Những vấn đề lý luận về khả năng cạnh tranh trong tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường I. Vai trò và loại hình C ạnh tranh của Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. 1. Khái niệm cạnh tranh của Doanh nghiệp Thuật ngữ “cạnh tranh” có nguồn gốc từ tiếng La tinh với nghĩa chủ yếu là sự đấu tranh, ganh đua, thi đua giữa các đối tượng cùng p hẩm chất, cùng loại, đồng giá trị nhằm đặt được những ưu thế, lợi thế mục tiêu xác định. Trong hình thái cạnh tranh thị trường, quan hệ ganh đua xảy ra giữa hai chủ thể cung (nhóm người bán) cũng như chủ thể cầu (nhóm người mua) , cả hai nhóm này tiến tới cạnh tranh với nhau vì đ ược liên kết với nhau bằng giá cả thị trường. Động cơ của bất kỳ một cuộc cạnh tranh nào cũng là nhằm đạt đ ược ưu thế, lợi ích hơn về lợi nhuận, về thị trường mục tiêu Marketing, về nguồn cung ứng, về kỹ thuật, về khách hàng tiềm năng.Chính vì động cơ này các chủ thể kinh doanh căn cứ vào vị trí, thế lực của mình để lựa chọn phương cách, công cụ cạnh tranh thích hợp. Sức cạnh tranh của doanh nghiệp là cường dộ các yếu tố sản xuất trong tương quan so sánh của doanh nghiệp. Sức cạnh tranh không đồng nhất với quy mô của doanh nghiệp và nó không được đo lường bởi các yếu tố cạnh tranh kinh điển mà phải đặt nó trong mối quan hệ với thị trường cạnh tranh, môi trường cạnh tranh, vì vậy ta có thể có khái niệm tổng quát: “Sức cạnh tranh trong kinh doanh của doanh nghiệp là tổng hợp các yếu tố để xác lập vị thế so sánh tương đ ối hiọc tuyệt đối và tốc độ tăng trưởng và phát triển bền vững, ổn định của doanh nghiệp trong mối quan hệ so sánh với tập các 4
  5. đối thủ cạnh tranh trong cùng một môi trường và thị trường cạnh tranh xác định trong một khoảng thời gian hoặc một thời điểm định gía xác định” 2. Vai trò của cạnh tranh giữa các doanh nghiệp 2.1. Đ ối với doanh nghiệp. - Cạnh tranh buộc các doanh nghiệpphải tối ưu hoá các yếu tố đầu vào của sản xuất kinh doanh,phải triệt để không ngừng sáng tạo, tìm tòi. - Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải không ngừng đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nắm bắt thông tin kịp thời. - Cạnh tranh quy định vị thế của doanh nghiệp trên thương trường thông qua những lợi thế mà doanh nghiệp đạt được nhiều hơn đ ối thủ cạnh tranh. Đồng thời cạnh tranh cũng là yếu tố làm tăng ho ặc giảm uy tín của doanh nghiệp trên thương trường. 2.2. Đ ối với người tiêu dùng. - Cạnh tranh mang đến cho người tiêu dùng ngày càng nhiều hơn chủng loại hàng hoá, đáp ứng ngày càng đầy đủ nhu cầu của khách hàng, của người tiêu dùng. Khôngnhững thế, cạnh tranh đem lại cho người tiêu dùng sự thoả mãn hơn nữa về nhu cầu. 2.3. Đ ối với nền kinh tế quốc dân: - Cạnh tranh là môi trường, là đ ộng lực thúc đẩy sự phát triển bình đẳng mọi thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường. - Cạnh tranh là điều kiện quan trọng để phát triển lực lượng sản xuất, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật ngày càng cao vào sản xuất, hiện đại hoá nền kinh tế xã hội. - Cạnh tranh góp phần xoá bỏ những độc quyền bất hợp lý, xoá bỏ những bất bình đ ẳng trong kinh doanh. Tuy nhiên không phải tất cả các mặt của cạnh tranh đều mang tính tích cực mà bản thân nó cũng phải thừa nhận các mặt tiêu cực như: + Bị cuốn hút vào các mục tiêu cạnh tranh mà các doanh nghiệp đã không chú ý đến các vấn đề xung quanh như: xử lý chất thải, ô nhiễm môi trường và hàng loạt các vấn đề xã hội khác. 5
  6. + Cạnh tranh có thể có xu hướng dẫn tới độc quyền. + Cường độ cạnh tranh mạnh sẽ làm ngành yếu đi. 3. Các loại hình cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường: Chúng ta có thể phân biệt thành bốn mức độ cạnh tranh căn cứ vào mức độ thay thế của sản phẩm: * Cạnh tranh nhãn hiệu: Doanh nghiệp có thể xem những doanh nghiệp khác có bán sản phẩm và dịch vụ tương tự cho cùng một số khách hàng với giá bán tương tự là các đối thủ cạnh tranh của mình. * Cạnh tranh ngành: Doanh nghiệp có thể xem một cách rộng hơn tất cả những doanh nghiệp cùng sản xuất một loại hay một lớp sản phẩm đều là đ ối thủ cạnh tranh của mình. * Cạnh tranh công dụng: Doanh nghiệp có thể xem một cách rộng hơn nữa là tất cả những doanh nghiệp sản xuất ra những sản phẩm thực hiện cùng một dịch vụ là đ ối tượng cạnh tranh của mình. Để cụ thể hơn, ta có thể phân biệt thành năm kiểu cơ cấu ngành căn cứ vào số lượng người bán và sản phẩm đồng nhất hay rất khác biệt như sau: + Đ ộc quyền hoàn toàn: Độc quyền ho ành toàn tồn tại khi chỉ có một doanh nghiệp duy nhất cung cấp một sản phẩm hay dịch vụ nhất định trong một nước hay một khu vực nhất định. + Nhóm đ ộc quyền hoàn toàn: Gồm một vài doanh nghiệp sản xuất phần lớn một loại sản phẩm (ví dụ: dầu mỏ, thép...) . + N hóm đ ộc quyền có khác biệt: Gồm một vài doanh nghiẹp sản xuất ra những sản phẩm có khác nhau một phần (ví dụ: ô tô, xe máy...) . + Cạnh tranh độc quyền: Gồm nhiều đối thủ cạnh tranh có khả năng tạo ra những điểm khác biệt cho toàn bộ hay một phần sản phẩm của mình (ví dụ: nhà hàng, khách sạn...) . 6
  7. + Cạnh tranh hoàn hảo: Gồm nhiều đối thủ cạnh tranh cùng cung ứng một loại sản phẩm và dịch vụ (ví dụ: thị trường chứng khoán, thị trường hàng hoá...) . 4. Mối quan hệ giữa cạnh tranh và hợp tác: Trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển bền vững thì không thể duy trì m ột biện pháp cạnh tranh cứng nhắc. Những mối quan hệ tốt chính là những tài sản quý giá của doanh nghiệp. Do sự biến đổi không ngừng của môi trường kinh doanh, các doanh nghiệp luôn phải có sự điều chỉnh thích hợp với những biến động đó để có thể hạn chế tối thiểu những điểm yếu, phát huy tối đa những mặt mạnh của mình để chủ động trong kinh doanh, khai thác tốt những cơ hội trên thị trường. Sự mềm dẻo, linh hoạt trong việc đề ra các chính sách kinh doanh là một tố chất không thể thiếu được đối với những nhà quản lý giỏi. Có thể ở một thời điểm nào đó, các doanh nghiệp cạnh tranh với một cường độ rất gay gắt, đôi khi là một mất, một còn nhưng ở một thời điểm khác, do những biến động nào đó của môi trường kinh doanh, các doanh nghiệp lại liên kết, hợp tác với nhau nhằm khai thác một cơ hội kinh doanh nào đó hoặc để chống đỡ những nguy cơ nào đó từ phía môi trường. II. Các công cụ cạnh tranh chủ yếu: Mỗi chủ thể khi tham gia vào ho ạt động kinh doanh đều phải biết phân tích những điểm mạnh, điểm yếu của mình để từ đó tìm ra và phát huy những thế mạnh, hạn chế giảm bớt những mặt yếu. Sau đây là một số công cụ cạnh tranh chủ yếu mà doanh nghiệp thường sử dụng : 1. Cạnh tranh bằng sự đa dạng hoá: 1.1. Đa dạng hoá sản phẩm: Có 3 phương thức: * Đa dạng hoá đồng tâm: Là hướng phát triển đa dạng hoá trên nền của sản phẩm chuyên môn hoá dựa trên cơ sở khai thác mối liên hệ về nguồn vật tư và thế mạnh về cơ sở vật chất - kỹ thuật. 7
  8. Ví dụ: Công ty khoá Minh Khai ngoài sản xuất khoá còn sản xuất các loại như b ản lề, ke, chốt mạ... * Đa dạng hoá theo chiều ngang: Là hình thức tăng trưởng bằng cách mở rộng các danh mục sản phẩm và dịch vụ cung cấp cho khách hàng hiện có của doanh nghiệp. Thông thường những sản phẩm này không có mối liên hệ với nhau nhưng chúng có những khách hàng hiện có nắm rất chắc . * Đa dạng hoá hỗn hợp: Là sự kết hợp của hai hình thức trên. Sử dụng chiến lược này thường là những tập đo àn kinh doanh lớn hay những Công ty đa Quốc gia. Đa dạng hoá hỗn hợp đang là xu thế của các doanh nghiệp hiện nay. 1.2. Khác biệt hoá sản phẩm: Khác biệt hoá sản phẩm là tạo ra các đặc điểm riêng, đ ộc đáo được thừa nhận trong toàn ngành có thể là nhờ vào lợi thế công nghệ sản xuất sản phẩm. Khác biệt hoá sản phẩm nếu đạt đ ược sẽ là chiến lược tạo khả năng cho Công ty thu được tỷ lệ lợi nhuận cao hơn bởi nó tạo nên một vị trí vững chắc cho hẵng trong việc đối phó với 5 lợi thế cạnh tranh. Khác biệt hoá sản phẩm tạo ra sự trung thành của khách hàng vào nhãn hiệu sản phẩm, điều này sẽ dẫn đến khả năng ít biến động hơn về giá. Sự chênh lệch giữa chi phí khác biệt hoá ản phẩm khá lớn với chi phí thấp hơn của các đối thủ cạnh tranh thì người mua có thể sẵn sàng hy sinh một vài đặc tính tốt của sản phẩm, dịch vụ khác biệt hoá để tiết kiệm một khoản tiền lớn. V ì vậy, các doanh nghiệp cần phải cân nhắc kỹ lưỡng các nguy hiểm khi thưch hiện chính sách này. 2. Cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm: Xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng, thị trường ngày càng đ òi hỏi phải có nhiều loại sản phẩm có chất lượng cao, thoả mãn nhu cầu tiêu dùng. Doanh nghiệp cần phải thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm để nâng cao khả năng cạnh tranh. 8
  9. Chất lượng sản phẩm là tổng thể các chỉ tiêu, đặc trưng kinh tế, kỹ thuật được thể hiện qua sự thoả mãn nhu cầu trong những điều kiện tiêu dùng xác định, phù hợp với công dụng sản phẩm mà người tiêu dùng mong muốn. Chất lượng sản phẩm được hình thành từ khâu thiết kế sản phẩm cho đến khi sản xuất xong tiêu thụ sản phẩm. Có nhiều yếu tố tác động đến chất lượng sản phẩm như: khâu trang bị sản xuất, chất lượng nguyê vật liệu, chất lượng máy móc thiết bị và chất lượng lao động. Để nâng cao chất lượng sản phẩm, trong quá trình sản xuất kinh doanh, cán bộ quản lý chất lượng phải chú ý ở tất cả các khâu trên, đồng thời phải có chế độ kiểm tra chất lượng sản phẩm ở tất cả các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh do các nhân viên kiểm tra chất lượng thực hiện. Phải có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các bộ phận Marketing với bộ phận nghiên cứu, thiết kế sản phẩm... 3. Cạnh tranh bằng giá cả. 3.1. Cạnh tranh bằng chính sách định giá. a/ Chính sách định giá cao: Thực chất là đưa giá bán sản phẩm cao hơn giá bán trên thị trường và cao hơn giá trị. Chính sách này thường được áp dụng cho các doanh nghiệp có sản phẩm hay dịch vụ độc quyền, không bị cạnh tranh hoặc được áp dụng cho các loại hàng hoá xa sỉ, sang trọng phục vụ cho đoạn thị trường có mức thu nhập cao. Các doanh nghiệp sản xuất có các loại sản phẩm có chất lượng cao vượt trội so với các đối thủ khác cũng có thể áp dụng chính sách định giá cao. b/ Chính sách định giá ngang với giá cả trên thị trường. Định ra mức giá bán sản phẩm xoay quanh mức giá cả trên thị trường. Đây là cách đánh giá khá phổ biến, các doanh nghiệp có thể tổ chức tốt các hoạt động chiêu thị và các hoạt động bán hàng để tăng khối lượng hàng hoá tiêu thụ nhằm nâng cao lợi nhuận. c/ Chính sách đ ịnh giá thấp. Là định ra mức giá bán sản phẩm thấp hơn giá thị trường để thu hút khách hàng về phía mình nhằm tăng khối lượng hàng hoá tiêu thụ. 9
  10. Các doanh nghiệp có thể áp dụng chính sách định giá thấp khi muốn đưa sản phẩm mới thâm nhập nhanh vào thị trường hoặc các doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh cũng có thể áp dụng chính sách định giá thấp để có thể đánh bại đối thủ hay đuổi các đối thủ mới ra khỏi thị trường. 3.2. Cạnh tranh bằng cách hạ giá thành. Giá thành đơn vị sản phẩm được tập hợp từ các chi phí về nguyên vật liệu, các chi phí về nhân công sản xuất và các chi phí cố định phục vụ cho sản xuất chung. Kiểm soát giá thành gồm có: a/ Giảm chi phí về nguyên vật liệu: - Chi phí về nguyên vật liệu trong sản phẩm thường chiếm trên 50% tổng giá thành sản phẩm. Có những loại sản phẩm chi phí về nguyên vật liệu chiếm 70% tổng giá thành. Vì vậy, giảm chi phí về nguyên vật liệu là biện pháp có ý nghĩa nhất trong việc thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm. - Chi phí nguyên vật liệu chiếm tỷ lệ cao trong giá thành sản xuất nên chỉ cần tiết kiệm một tỷ lệ nhỏ chi phí nguyên vật liệu có ý nghĩa rất lớn đến kế hoạch giá thành. b/ Giảm chi phí về nhân công: - Chi phí về nhân công trong giá thành sản phẩm chiếm tỷ lệ khá cao. Thông thường chi phí nhân công trong giá thành đối với sản phẩm được giảm bằng cách nâng cao năng suất lao động. Phương pháp này có thể được thực hiện thông qua việc giảm định mức lao động tiêu hao đối với sản phẩm. Để thực hiện đầy đủ điều này, thông thường người ta thay thế yếu tố kinh tế cho yếu tố lao động thông qua đầu tư, đổi mới công nghệ. c/ Giảm chi phí cố định: - Chi phí cố định bao gồm khấu hao tài sản cố định, các chi phí lãi cho vốn vay và chi phí về quản lý. Để giảm chi phí cố định trong giá thành đơn vị sản phẩm cần phải tận dụng thời gian hoạt động cuả máy móc thiết bị sản xuất, áp dụng phương pháp khấu hao nhanh để giảm bớt hao mòn vô hình, tổ chức hợp lý lực lượng cán bộ quản trị để giảm bớt chi phí quản lý. 10
  11. Tóm lại, giảm chi phí cố định trong giá thành sản phẩm bằng cách tăng khối lượng sản phẩm sản xuất và tổ chức công tác tiêu thụ sản phẩm trong doanh nghiệp. 3.3. Giảm các chi phí thương mại: - Phí tổn thương mại gồm to àn b ộ các chi phí có liên quan đến việc bán sản phẩm từ những chi phí trực tiếp liên quan đến hoạt động Marketing đến các chi phí khác như chi phí quản lý bán hàng, chi phí lưu thông. Chi phí thương mại có thể giảm tới mức tối thiểu nhưng nếu thực hiện như vậy thì doanh nghiệp rất khó có thể thực hiện tốt công tác tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy, giảm phí tổn thương mại ở đây có thể hiểu giảm đến mức tối ưu chi phí cho các hoạt động có liên quan đến bán sản phẩm như: Chi phí vận chuyển, chi phí cho công tác chiêu thị, chi phí cho lực lượng bán hàng. 4. Cạnh tranh bằng nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm: 4.1. Lựa chọn hệ thống k ênh phân phối: - Trước hết để tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp phái nghiên cứu thị trường, lựa chọn thị trường và lựa chọn kênh phân phối để sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ nhanh chóng, hợp lý và đạt hiệu quả cao. Thông thường có 4 kênh phân phối sau: Sơ đồ số 1: Hệ thống kênh phân phối Kiểu 1: Ng i tiêu dùng Ng i s n xu t cu i cùng Kiểu 2: Ng i tiêu dùng Ng i s n xu t Ng i bán l cu i cùng Kiểu 3: Ng i Ng i bán Ng i bán l Ng òi tiêu dùng s n xu t buôn cu i cùng 11
  12. 12
  13. Kiểu 4: Ng i u Ng i Ng i c môi gi i s n xu t bán buôn Ng i tiêu dùng Ng i bán l cu i cùng Việc lựa chọn kênh phân phối phải dựa trên đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của sản phẩm cần tiêu thụ, đồng thời cũng phải dựa trên đặc điểm của thị trường cần tiêu thụ, đặc điểm về khoảng cách giữa doanh nghiệp đến thị trường. Từ những đặc điểm trên, doanh nghiệp sẽ lựa chọn cho mình một hệ thống kênh phân phối hợp lý, hiệu quả. 4.2. Một số biện pháp yểm trợ bán hàng: a/ Chính sách qu ảng cáo: Muốn thực hiện được nhiệm vụ quảng cáo đó thì quảng cáo phải thoả mãn được những yêu cầu sau: - Quảng cáo phải có tính tập trung cao - Quảng cáo phải có tính trung thực - Quảng cáo phải có tính hấp dẫn - Quảng cáo phải có tính hiệu quả Để quảng cáo cho một loại sản phẩm hay dịch vụ nào đó của doanh nghiệp có thể sử dụng nhiều loại phương tiện khác nhau. Vì mỗi phương tiện quảng cáo khác nhau có ảnh hưởng khác nhau đến người nhận thông tin quảng cáo nên doanh nghiệp phải lựa chọn và kết hợp có lợi nhất các phương tiện quảng cáo phù hợp. b/ Một số chính sách phục vụ khách hàng: * Chính sách thanh toán: 13
  14. - Chính sách thanh toán là một công cụ nhằm hấp dẫn khách hàng về phía doanh nghiệp. Trong trường hợp 2 doanh nghiệp cùng bán m ột loại sản phẩm theo cùng một giá thì điều kiện thanh toán sẽ trở thành quyết định đối với sự lựa chọn của người mua. Các chính sách bán trả chậm, chính sách bán trả góp thường áp dụng cho khách hàng là người mua cuối cùng. * Chính sách phục vụ ở đây là hoạt động khuyến mại nhằm hấp dẫn khách hàng về phía m ình. Chúng ta có thể chia các chính sách phục vụ khách hàng thành 2 giai đoạn chính là chính sách phục vụ trước và sau khi bán hàng. Cạnh tranh ngày càng gay gắt thì các ho ạt động phục vụ khách hàng ngày càng mở rộng, đặc biệt là các hoạt động, dịch vụ sau bán hàng. Ngoài một số biện pháp trên, các doanh nghiệp còn sử dụng thêm một số biện pháp khác như: tham gia hội chợ, chào hàng, tăng cường quảng cáo… III. sự cần thiết của việc nâng cao khả năng cạnh tranh trong tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. 1. Khả năng cạnh tranh và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng, năng lực mà doanh nghiệp có thể tự duy trì vị trí của nó một cách lâu dài trên thị trường cạnh tranh, đảm bảo thực hiện một tỷ lệ lợi nhuận ít nhất bằng tỷ lệ đòi hỏi cho việc tài trợ những mục tiêu của doanh nghiệp. Loại thị trường phổ biến trong thực tế là loại thị trường cạnh tranh không hoàn hảo. Do vậy, các d oanh nghiệp tồn tại trong thị trường cạnh tranh đều có một vị trí nhất định của nó. Vì thế, nếu doanh nghiệp tham gia vào thị trường mà không có khả năng cạnh tranh hoặc cạnh tranh yếu thì không tồn tại được. Kết quả tổng hợp các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng cạnh tranh của doanh nghiệp được phản ánh bằng quy mô tiêu thụ. V ì vậy, phần thị trường chiếm lĩnh của doanh nghiệp đ ược coi là chỉ số tổng hợp đo lường tính cạnh tranh của nó, qua chỉ số đồng nhất này có thể đánh giá thành tích của doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh khác cũng như so sánh thắng lợi giữa các đối thủ cạnh tranh với nhau. 14
  15. 2. Tính tất yếu của nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Trước đây, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, chúng ta không một ai nói đến việc nâng cao khả năng cạnh tranh là cần thiết cho doanh nghiệp. Bởi một thực tế là các doanh nghiệp không phải cạnh tranh với nhau mà chỉ cần thực hiện các chỉ tiêu Nhà nước giao, nhà nước đảm bảo mọi khâu, mọi mặt trong quá trình sản xuất kinh doanh. Ngày nay nền kinh tế Nhà nước ta vận hành theo cơ chế thịt rường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, nó hoạt động theo quy luật khách quan vốn có của nó đó là quy luật giá trị, quy luật cung – cầu, quy luật cạnh tranh. Quy luật cạnh tranh thể hiện rất rõ trong nền kinh tế thị trường. Có kinh tế thị trường thì tất yếu có cạnh tranh. Cơ sở của cạnh tranh là chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần với sự tham gia của nhiều loại hình doanh nghiệp là một tất yếu khách quan. Thêm vào đó với chính sách mở cửa của nền kinh tế, ngày càng có nhiều doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào lĩnh vực kinh doanh trên thị trường Việt Nam thì tình hình cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng quyết liệt hơn. Thực tế cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam tỏ ra rất yếu trong cạnh tranh so với các doanh nghiệp nước ngoài. Bởi nước ta mới chuyển đổi nền kinh tế dó đó các doanh nghiệp Việt Nam chưa quen với cạnh tranh. Vì vậy mà hàng hoá nước ngoài cạnh tranh gay gắt, chèn ép sản phẩm trong nước. Hơn nữa, các hình thức trong kinh doanh, cách làm ăn của các doanh nghiệp trong nước thường mang tính chụp giật, cạnh tranh không lành mạnh và rất ít doanh nghiệp áp dụng chiến lược kinh doanh. Vậy, có thể nói nâng cao khả năng cạnh tranh là m ột tất yếu khách quan của các doanh nghiệp làm thay đổi mối tương quan thế và lực của doanh nghiệp trên thị trường về mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh. 15
  16. 16
  17. Phần II thực trạng khả năng cạnh tranh trong tiêu thụ sản phẩm của công ty khoá minh khai I. Tổng quan về hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty khoá minh khai. 1. Quá trình hình thành và phát triển. 1.1. Quá trình hình thành. Công ty khoá Minh Khai trước đây là nhà máy khoá Minh Khai, được thành lập từ năm 1972 theo quyết định số 561/BKT của Bộ Trưởng Bộ Kiến Trúc (nay là Bộ xây dựng) với sự giúp đỡ của Ba Lan về nhà xưởng, máy móc thiết bị. Về loại hình tổ chức: Công ty khoá Minh Khai là một doanh nghiệp Nhà nước hạch toán kinh tế độc lập, tự chủ về tài chính, có tư cách pháp lý trực tiếp của Tổng công ty cơ khí xây d ựng - Bộ xây dựng. * Trụ sở chính: 125D -Minh Khai-Quận Hai Bà Trưng- Hà Nội. * Lĩnh vực kinh doanh: Sản xuất thiết bị máy móc cho ngành xây dựng, vật liệu xây dựng, sản xuất phụ tùng, phụ kiện bằng kim loại và kinh doanh các sản phẩm cơ khí xây d ựng * Hình thức hoạt động: Theo ngành kinh tế sản xuất. * Tổng số công nhân viên: 340 người, trong đó cán bộ nhân viên, quản lý là 70 người. 17
  18. 1.2. Các giai đoạn phát triển. Năm 1972, do chiến tranh tàn phá nên Công ty đ ã ngừng hoạt động để đi vào phục hồi lại, do đó đến cuối năm 1973 Công ty chính thức đi vào hoạt động. Do đặc điểm của thị trường và nhu cầu của người tiêu dùng thay đổi theo từng thời kỳ nên quá trình phát triển của Công ty khoá Minh Khai đã trải qua các giai đoạn sau: - G iai đoạn từ 1973-1980: Công ty hoạt động theo đúng chức năng nhiệm vụ, mục tiêu ngành nghề theo quy định ban đầu về sản xuất. Sản phẩm gồm các loại: khoá, bản lề, ke cửa, chốt, móc gió. Thời gian đầu Công ty sản xuất sản phẩm theo mẫu thiết kế của Ba Lan nên có phần nào chưa phù hợp với điều kiện của Việt Nam. - G iai đoạn 1981-1988: Công ty sản xuất theo kế hoạch Bộ giao. Ngoài những sản phẩm cũ như trên còn có giàn giáo thép, bi đan và mắt sàng xi măng, đồng thời sản xuất thêm các mặt hàng kim khí, phục vụ xây dựng như của xếp, của chớp lật, cửa hoa. Trong giai đoạn này Công ty đã tiến hành hai vấn đề lớn: + N âng cao chất lượng sản phẩm và đã xuất khẩu các khoá, le, bản lề, cremon cho các nước Hungary, Cuba, Lào và xuất khẩu tại chỗ cho Tây Đức. + Công ty đ ã nghiên cứu và chế tạo bi nghiền cho công nghiệp xi măng và phụ tùng khác. Ngoài ra còn là đơn vị đi tiên phong trong việc nghiên cứu công nghệ sản xuất giàn giáo thép. - Giai đoạn từ 1989-1991: thời kỳ chuyển mạch từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, bước đầu có nhiều khó khăn, nhất là đối với ngành cơ khí. Nhưng nhà máy đã đưa ra mục tiêu: giữ vững được sản xuất và tiêu thụ, không để công nhân nghỉ vì thiếu việc làm, hàng hoá sản xuất phải tiêu thụ hết và đ ảm bảo đời sống công nhân viên. Rút lại một phần lớn lao động dôi dư không có trình độ tay nghề, sức khoẻ và chuyển sang công tác khác cho phù hợp, đồng thời gửi cán bộ, công nhân đi lao động, học tập ở nước ngoài, m ột phần cho nghỉ hưu, về mất sức. - Giai đoạn từ 1992 -> nay: giai đoạn này Công ty đ ã chuyển hoá mạnh vào nền kinh tế thị trường. Công ty đã tiến hành sắp xếp lại sản xuất theo Nghị định số 388/HĐBT. Công ty đã chú trọng nhiều vào việc sản xuất, đa dạng hoá các 18
  19. loại sản phẩm đáp ứng nhu cầu phát triển nền kinh tế của đất nước. Việc quan tâm tới chất lượng, kỹ thuật, mỹ thuật của sản phẩm được đưa lên hàng đ ầu. Thời kỳ này bên cạnh việc sản xuất những mặt hàng truyền thống, Công ty đã tung ra thị trường nhiều sản phẩm mới với mẫu mã phong phú và cải tiến tiện lợi hơn. Ngày 5/5/1983 Bộ trưởng Bộ xây dựng đã ký quyết địng số 163A/BXD - TCLĐ thành lập lại doanh nghiệp Nhà nước với tên gọi nhà máy khoá Minh Khai trực thuộc liên hiệp các xí nghiệp cơ khí xây dựng-Bộ xây dựng. Ngày 7/3/1994 Thủ tướng chính phủ ra quyết định số 90 TTg về việc tiếp tục sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước, liên hiệp các xí nghiệp xây dựng được gọi là Công ty cơ khí xây dựng và nhà máy Khoá Minh khai được đổi tên thành Công ty khoá Minh Khai. Trải qua quá trình xây dựng và trưởng thành, Công ty khoá Minh Khai đã không ngững phấn đấu về mọi mặt. Công ty đã thực hiện hạch toán kinh tế độc lập, tự cân đối về tài chính, coi trọng hiệu quả kinh tế đồng thời thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước, đời sống của cán bộ công nhân viên được nâng cao. Mặt khác, Công ty không ngừng cải tiến, mua sắm máy móc thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm và nắm bắt kịp thời thị hiếu người tiêu dùng để tung ra thị trường những sản phẩm chất lượng cao, phù hợp với người tiêu dùng nhất. Hiện nay, sản phẩm của Công ty đủ sức mạnh cạnh tranh và tiêu thụ tốt trên thị trường. Năm 1994, Công ty đã có 4 sản phẩm đạt huy chương Vàng tại hội chợ Quốc tế H àng công nghiệp Việt Nam. Đó là khoá MK10, khoá treo MK10N, bản lề 100 và cremon MK 23A. 2. Bộ máy tổ chức và lao động. 2.1. Bộ máy tổ chức Để đảm bảo cho tổ chức quản lý sản xuất có hiệu quả, Công ty tổ chức bộ máy quản lý gọn nhẹ với chế độ một thủ trưởng, đứng đầu là Giám đốc Công ty, người có quyền hành cao nhất, chịu mọi trách nhiệm trước Nhà nước và tập thể cán bộ công nhân viên trong Công ty ở mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Bộ phận giúp việc cho Ban giám đốc bao gồm: 19
  20. + Một phó Giám đốc kỹ thuật + Một phó Giám đốc sản xuất + Các trường phòng ban khác Cùng với hoạt động quản lý ở các phòng ban, phân xưởng sản xuất thì quản đốc là người chịu trách nhiệm hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị mình: Bố trí từng tổ đội sản xuất sao cho phù hợp với khả năng trình độ của họ, thường xuyên giám sát hướng dẫn kỹ thuật của đơn vị mình. Chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận trong bộ máy tổ chức của Công ty khoá Minh Khai được phân bổ như sau: - Bộ phận Marketing: Là bộ phận tham mưu cho ban Giám đốc về tình hình thị trường, giá cả, vật tư, sản phẩm có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh đồng thời đề xuất các phương án có liên quan đến các hoạt đông hỗ trợ trước và sau khi bán hàng. - Bộ phận kế hoạch: Là bộ phận giúp ban Giám đốc lập kế hoạch đôn đốc, theo dõi các kế hoạch sản xuất tiêu thụ ngắn và dài hạn. Ngoài ra còn thu nhận các thông tin từ các bộ phận để kịp thời kiểm tra và chỉnh lý các kế hoạch của Công ty, đồng thời thực hiện các công việc đột xuất khi cần. - Bộ phận kỹ thuật: Xây dựng các định mức kinh tế -kỹ thuật đồng thời nghiên cứu và lập ra các tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm. Ngoài ra còn phải thiết kế khuôn mẫu, bản vẽ thiết kế, nghiên cứu và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Hơn nữa còn phải xác định thời gian bảo trì sửa chữa đại tu máy móc sản xuất. - Bộ phận KCS: Kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi nhập vào kho của Công ty theo tiêu chuẩn phòng kỹ thuật đề ra. - Bộ phận cung tiêu: 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0