intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận Văn: Một số giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh hàng nông thủy sản xuất khẩu của nước ta

Chia sẻ: Nguyễn Phi Nhung Nhung | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:44

72
lượt xem
20
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Điều kiện tự nhiên: a-Tiềm năng đất đai: Lãnh thổ Việt Nam có diện tích là 331.688 km2(1), xấp xỉ 33 triệu ha, trong đó vùng miềm núi và trung du chiếm gần 3/4 diện tích. Quỹ đất canh tác hiện nay là 8,2 triệu ha và có thể mở rộng diện tích canh tác lên 10 triệu ha hoặc cao hơn; trong đó có một phần đất bằng, đa số là đất dốc dưới 15 độ. Diện tích đất canh tác hiện nay chiếm 25,1% tổng diện tích, trong đó diện tích canh tác lúa đạt 4,2 triệu...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận Văn: Một số giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh hàng nông thủy sản xuất khẩu của nước ta

  1.   Luận Văn Một số giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh hàng nông thủy sản xuất khẩu của nước ta 2
  2. CHƯƠNG I THỰC TRẠNG SẢN XUẤT MỘT SỐ MẶT HÀNG NÔNG THỦY SẢN CHỦ ĐẠO CỦA NƯỚC TA TRONG NHỮNG NĂM QUA I-Khả năng để sản xuất một số mặt hàng nông thủy sản xuất khẩu: 1-Điều kiện tự nhiên: a-Tiềm năng đất đai: Lãnh thổ Việt Nam có diện tích là 331.688 km2(1), xấp xỉ 33 triệu ha, trong đó vùng miềm núi và trung du chiếm gần 3/4 diện tích. Quỹ đất canh tác hiện nay là 8,2 triệu ha và có thể mở rộng diện tích canh tác lên 10 triệu ha hoặc cao hơn; trong đó có một phần đất bằng, đa số là đất dốc dưới 15 độ. Diện tích đất canh tác hiện nay chiếm 25,1% tổng diện tích, trong đó diện tích canh tác lúa đạt 4,2 triệu ha, diện tích gieo trồng là 6,8 triệu ha chiếm tỉ lệ 51,2%; diện tích trồng cà phê là 310.000 ha (năm 1998) chiếm tỉ lệ 3,77%; diện tích trồng cao su là 363.400 ha (năm 1998) chiếm tỉ lệ 4,42%(2); diện tích nuôi trồng thủy sản là 372.000 ha. Diện tích nước ta vào loại trung bình trên thế giới (đứng thứ 56 / hơn 200 quốc gia), nhưng do dân số đông nên bình quân đ ất đai tính theo đầu người chỉ đạt 0,5 ha/ người (năm 1992) và bình quân đất canh tác là 0,1 ha / người. Đất đai nước ta rất phức tạp và đa dạng về loại hình, nhưng chủ yếu phân thành hai nhóm: nhóm đất núi và nhóm đất hình thành trên sản phẩm bồi tụ. Nhóm th ứ nhất chiếm khoảng 1/2 diện tích tự nhiên với hơn 16,5 triệu ha chủ yếu là các loại đất feralit. Loại đất này được hình thành trong quá trình phong hoá nhiệt đới, có tầng đất sâu, dày, ít mùn, chua và thường có mầu vàng (1): Địa lý kinh tế Việt Nam PGS -PTS Lê Thông - 1997 (2): Báo cáo nghiên cứu: Tổng quan về ngành nông nghiệp Việt Nam. Tác động của Hiệp định WTO về nông nghiệp - Bộ Th ương mại (12/1999). Dự án VIE 95/024/A/01/99 trang 9 3
  3. đỏ. Đất feralit đặc biệt là đất đỏ bazan (có hơn 2 triệu ha ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ) thích hợp cho việc trồng các loại cây công nghiệp d ài ngày trong đó có cà phê, cao su. Nhóm đất thứ hai tập trung ở các châu thổ và dọc theo các thung lũng rộng lớn. Đây là loại đất trẻ mầu mỡ. Trong nhóm đất này thì phì nhiêu hơn cả là đất phù sa với diện tích 3,12 triệu ha, phân bố chủ yếu ở đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Loại đất này có độ PH trung tính, hàm lượng dinh d ưỡng khá thích hợp cho việc trồng lúa và nhiều loại cây khác. Hiện nay, quỹ đất mà chúng ta đã đưa vào sử dụng (cho mục đích nông (1) nghiệp, lâm nghiệp, chuyên dùng và cư trú) là 18.881.240 ha , chiếm khoảng 57% tổng quỹ đất; đất chưa sử dụng là 14.217.845 ha(2), chiếm 43%. Quỹ đất thuận lợi cho trồng lúa hầu như đã khai thác hết. Để nâng cao sản lượng lúa, nông dân chỉ còn cách tăng vụ để nâng cao hệ số sử dụng đất và đầu tư thâm canh. Quỹ đất thuận lợi cho trồng cây công nghiệp dài ngày có hơn 2 triệu ha, song mới chỉ khai thác được rất ít chủ yếu là cao su (363.400 ha năm 1998), cà phê (310.000 ha năm 1998)(3). Tóm lại, quỹ đất của chúng ta không nhiều song đất đai lại thuận lợi cho việc trồng lúa và cây công nghiệp dài ngày. N ếu chúng ta biết quản lý và sử dụng tốt quỹ đất hiện có thì sản lượng sẽ không ngừng được tăng lên. (1), (2), (4), (5): Địa lý kinh tế Việt Nam - Lê Thông -1997 (3): Báo cáo nghiên cứu: Tổng quan về ngành nông nghiệp Việt Nam. Tác động của Hiệp định WTO về nông nghiệp –Bộ Thương mại (12/1999). Dự án VIE 95/024/A/01/99 trang 9. 4
  4. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I THỰC TRẠNG SẢN XUẤT MỘT SỐ MẶT HÀNG NÔNG THỦY SẢN CHỦ ĐẠO CỦA NƯỚC TA 3 1.1 Lư luận về cạnh tranh ................................ ................................ ......................... 3 Định n ghĩa cạnh tranh ............................................................................... 3 1.1.1 1.1.2 Phõn loại cạnh tranh .......................................................................................... 5 1.1.2.1 Căn cứ vào cỏc chủ thể kinh tế tham gia vào thị trường .................................. 5 1.1.2.2 Căn cứ vào tính chất và m ức độ ................................ ................................ ...... 6 1.1.2.3 Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế .................................................................. 6 1.1.3 Tỏc động của cạnh tranh đối với nền kinh tế....................................................... 7 1.2 Lư luận về năng lực cạnh tranh .......................................................................... 9 1.2.1 Định nghĩa năng lực cạnh tranh .......................................................................... 9 1.2.2 Cỏc tiờu chớ đánh giá năng lực cạnh tranh ................................ ....................... 10 1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh : ............................................. 13 1.2.3.1 Cỏc nhõn tố bờn ngo ài doanh nghiệp ................................ ............................. 13 1.2.3.2 Cỏc nhõn tố bờn trong ................................ ................................ ....................... 14 5
  5. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU VIỆT NAM 15 2.1 T́nh hnh xuất khẩu nông sản Việt Nam ........................................................... 15 ́ 2.2 Thực trạng năng lực cạnh tranh của nụng sản xuất khẩu Việt Nam ............. 25 2.3 Đánh giá chung về năng lực cạnh tranh của nông sản xuất khẩu Việt Nam...... 31 2.3.1 Những thành tựu đă đạt được............................................................................ 31 2.3.2 Những tồn tại................................................................ ................................ .... 32 2.3.3 Nguyờn nhõn của tồn tại................................................................................... 34 CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NÔNG SẢN XUẤT KHẨU VIỆT NAM. 36 KẾT LUẬN 41 TÀI LIỆU THAM KHẢO b-Tiềm năng nước và khí hậu: Nước cũng như đất là vấn đề sống còn của mỗi quốc gia nói chung và của nền nông nghiệp nói riêng. Tài nguyên nước của Việt Nam khá phong phú bao gồm nước trên m ặt và nước dưới đất. Hàng năm, lượng nước m ưa cung cấp cho lãnh thổ nước ta trên 900 tỷ m3 nước(4). Lượng mưa lớn đã tạo cho nước ta một mạng lưới sông ngòi dày đặc với 2345 con sông(5) dài trên 10 km, mật độ sông ngòi là 0,5-2,0 km/km2, trung bình cứ 20 km bờ biển lại có một cửa sông. Tổng lượng dòng chảy hàng năm 6
  6. phát sinh trên đất nước ta là 317 tỷ m3(1). Xét về mặt hoá tính, nước sông ngòi Việt Nam có chất lượng tốt, độ khoáng hoá thấp, ít biến đổi, độ PH trung tính và hàm lượng chất hữu cơ thấp. Nguồn nước trên mặt của nước ta khá dồi dào nên chỉ cần khai thác 10- 15% trữ lượng nói trên là đảm bảo nhu cầu cho sản xuất và đời sống. Hiện nay, nông nghiệp là ngành tiêu thụ nhiều nước nhất. Mức tiêu thụ năm 1990 là 47 tỷ m3, năm 2000 là 60,5 tỷ m3. Tuy nhiên, do tổng lượng dòng chảy sông ngòi lớn lại phân bố không đều, mùa mưa lượng d òng chảy chiếm tới 70 -80%, mùa khô chỉ chiếm 20-30% tổng lượng dòng chảy cả năm nên lũ lụt, hạn hán là mối đe doạ thường xuyên đối với sản xuất nông nghiệp. Nguồn nước ngầm ở nước ta có trữ lượng khá lớn, có thể cho sản lượng 130 triệu m3/ ngày. Có thể nói, tiềm năng nước của chúng ta còn khá d ồi dào, đ ủ cung cấp cho mọi hoạt động trong đó có nông nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay, nguồn nước đang bị nạn ô nhiễm đe doạ nghiêm trọng, ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng của cây và độ an toàn vệ sinh thực phẩm. Khí hậu gió mùa mang tính chất chí tuyến ở phía Bắc và tính chất xích đới ở phía Nam là một khả năng lớn để phát triển một nền nông nghiệp đa dạng, toàn diện. Tác đ ộng của khí hậu đối với nông nghiệp nước ta trước hết là việc cung cấp một lượng bức xạ lớn, nguồn ánh sáng dồi d ào, nguồn nhiệt phong phú cho cây trồng phát triển, đảm bảo cho cây có năng suất cao. Tiếp đó lượng ẩm không khí và lượng mưa dồi dào tạo điều kiện cho cây trồng tái sinh, tăng trưởng mạnh mẽ. Điều kiện sinh thái nóng ẩm giúp cho cây ngắn ngày có thể tăng thêm một đến hai vụ một năm, cây dài ngày có thể khai thác được nhiều đợt, nhiều lứa. Khí hậu nước ta phân hoá mạnh theo chiều Bắc-Nam và theo độ cao. Khí hậu miền Bắc có tính á nhiệt đới, miền Nam có tính á xích đạo, miền Trung có (1): Địa lý kinh tế Việt Nam Lê Thông 1997 7
  7. tính chất trung gian, chuyển tiếp giữa khí hậu miền Bắc và miền Nam. Sự phân hoá theo vĩ độ và độ cao cho phép nước ta trồng được nhiều loại cây, cả cây nhiệt đới, ôn đới, á nhiệt. Ngoài ra, sản xuất nông nghiệp cần rất nhiều loại phân bón mà các hộ nông dân ở nước ta đều có thể sản xuất các loại như phân chuồng, phân xanh...ho ặc phân chế biến từ dầu thô mà dầu ở nước ta lại có trữ lượng lớn chưa khai thác hết công suất hay chế biến từ quặng (quặng Apatít ở Lào Cai). Nước ta có 3260 km đường bờ biển, hàng nghìn km2 diện tích mặt hồ, ao, đầm, sông ngòi để đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản. Thủy hải sản nước ta có nhiều loại phong phú có giá trị xuất khẩu cao.như: cá ngừ, cá thu, cá mực, tôm hùm, tôm sú. Cá nước ngọt thì có cá basa, cá tra, ngọc trai... Tóm lại, điều kiện tự nhiên của nước ta là cơ sở khá thuận lợi để chúng ta tăng cường phát triển sản xuất nông sản phục vụ nhu cầu cuộc sống và xuất khẩu. 2-Tiềm năng lao động: Theo số liệu thống kê của cuộc tổng điều tra dân số 1-4-1999 dân số nước ta là 76,37 triệu người. Lực lượng lao động là 46 triệu người chiếm xấp xỉ 60% dân số. Có tới gần 80% dân số sống ở nông thôn, trong đó lực lượng lao động ở nông thôn khoảng 33 triệu người chiếm 72% lao động toàn xã hội. Do tỉ lệ tăng dân số hiện nay giảm xuống còn 1,7%/năm nên hàng năm có khoảng 1,3 triệu người(1) tham gia lực lượng lao động trong đó lao động nông thôn chiếm khoảng 1 triệu người. Lao động nông nghiệp Việt Nam như vậy là quá ư dồi dào, có truyền thống cần cù, chịu khó, thông minh, ham học hỏi. Người nông dân Việt Nam chủ yếu là làm nông nghiệp, gắn bó với mảnh đất của mình nên tích lũy được nhiều kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp. Song do phần lớn trong số này có trình độ tương đối thấp nên khả năng tiếp nhận, ứng dụng các thành tựu khoa học nông nghiệp còn chậm. Tuy nhiên, từ sau khi đất nước đổi mới đến nay, đời (1): Nguồn nhân lực Việt Nam - Thực trạng và giải pháp - Hà Quý Tình. Tạp chí Cộng sản số 7 (4/1999) trang 21 8
  8. sống kinh tế khá lên, một bộ phận lớn nông dân nhất là lao động trẻ đã học qua phổ thông, có đủ trình độ tiếp nhận và tham gia các chương trình khuyến nông khá hiệu quả; nghiên cứu các giống mới, môi trường sinh thái mới để nuôi trồng và áp d ụng ở một số vùng một cách rất thành công. 3-Chính sách phát triển nông ngư nghiệp, nông thôn của Nhà nước: Một thời kì dài, nền nông nghiệp của nước ta phát triển rất chậm, cơ cấu không phù hợp, sản lượng thấp, cung không đáp ứng được cầu. Từ sau thời kì đổi mới, nền nông nghiệp có b ước phát triển vượt bậc. Khoán 10 là một thí dụ sinh động về ảnh hưởng của chủ chương, chính sách của Nhà nước đến sự phát triển của nông nghiệp. Khoán 10 cho phép các hộ nông dân được tự do canh tác trên mảnh đất của mình, được đầu tư thâm canh, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm đạt sản lượng cao, chất lượng tốt. Các hộ nông dân chỉ phải đóng thuế theo định mức cho Nhà nước và trả tiền các dịch vụ mà họ sử dụng. Thực tế, hình thức khoán này đã khuyến khích được nông dân tăng cường đầu tư, tăng năng suất lao động, làm lợi cho mình và làm lợi cho xã hội. Sau khoán 10, năm1994 Nhà nước lại ban hành Luật đất đai, trong đó quy định thời gian sử dụng ruộng đất kéo tới 30 năm. Nông dân có quyền bán, nhượng lại, thừa kế...Điều này đã làm cho họ gắn bó với mảnh ruộng hơn, yên tâm với sản xuất. Đại hội Đảng khoá VIII đ ã đề ra chủ trương đưa đất nước ta vào thời kỳ CNH-HĐH; trong đó có một vấn đề quan trọng là CNH-HĐH nông nghiệp và phát triển nông thôn. Để thực hiện chiến lược này, Nhà nước đã đề ra một loạt các chính sách như chính sách xoá đói giảm nghèo, chính sách khuyến nông, phát triển khoa học công nghệ, chính sách ưu đãi tín dụng, chính sách hỗ trợ giá nông sản, quy định giá trần, giá sàn. Ngoài ra, Nhà nước còn có các chương trình và mô hình như : chương trình giải quyết việc làm, chương trình dân số kế hoạch hoá gia đình, chương trình tăng cường y tế và giáo dục cơ sở, mô hình đ iện, đường, trường, trạm...Tất cả các chương trình này có một ý nghĩa và hiệu quả tích cực đối với sự phát triển của nông nghiệp và nông thôn. Năm 1999, tổng vốn đầu tư cho nông 9
  9. nghiệp nông thôn của Nhà nước tăng gấp rưỡi đất với năm 1998 (1), chủ yếu tập trung vào các công trình thuỷ lợi, giao thông, điện và các công trình phúc lợi khác. Công tác nghiên cứu, tìm tòi các giống cây, con mới cũng được đẩy mạnh và đ ạt nhiều thành tựu. Công tác chăm sóc bảo vệ thực vật, động vật cũng được quan tâm chú ý; đã có Chương trình trồng 5 triệu ha rừng với số vốn dự tính là hơn 30.000 tỷ đồng (thực tế năm 1999 chỉ chi 328 tỷ đồng), Chương trình 135 giao cho xã làm chủ dự án. Sự ra đời của các dịch vụ nông nghiệp như cung ứng giống, phân bón, thuốc trừ sâu, vận tải, vật liệu đã góp phần rất lớn vào sự thành công của nông nghiệp Việt Nam trong mấy năm gần đây. Đối với ngành thủy sản thì năm năm qua là thời kì phát triển mới của ngành. Với phương châm kết hợp giữa khai thác với nuôi trồng và chế biến xuất khẩu đã làm tăng chất lượng và hiệu quả sản xuất gắn với bảo vệ tài nguyên môi trường. Thực hiện phương châm đó, một mặt Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế, khai thác mọi tiềm năng về vốn và kinh nghiệm; mặt khác tập trung vốn ngân sách, vốn tín dụng ưu đãi cho ngành thủy sản, tập trung nguồn vốn ngân sách cho việc x ây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và chế biến thủy sản; ứng dụng tiến bộ sinh học trong chọn và lai tạo giống đi đôi với công nghiệp hoá sản xuất thức ăn, mở rộng nuôi các loại thủy sản có giá trị tiêu dùng và xuất khẩu khác như nghêu (Trà Vinh, Bến Tre), sò huyết (Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, duyên hải miền Trung), ba ba, ếch...Phát triển công nghiệp chế biến thủy sản theo chiều sâu, gắn với xuất khẩu. II-Tình hình sản xuất một số mặt hàng nông thủy sản xuất khẩu trong mấy năm gần đây: 1-Tình hình sản xuất lúa gạo: Việt nam là một nước nông nghiệp, có tập quán canh tác lúa nước lâu đời. Cây lúa là sản phẩm chính của nền nông nghiệp. Nó không những góp phần bảo (1): Khoa h ọc và công nghệ ph ục vụ CNH-HĐH nông nghiệp và phát triển nông thôn -Đặng Hữu-Tạp Chí Cộng sản số 17 (9/2000) trang 34 10
  10. đảm đời sống cho nhân dân, mà trong thời kỳ hiện nay nó còn góp một phần rất lớn vào giá trị tổng kim ngạch xuất khẩu thúc đẩy sự nghiệp CNH- HĐH đất nước. Nhờ có các chính sách đổi mới mà sản lượng lúa gạo đã tăng hàng năm. Bảng 1: Tình hình sản xuất lúa gạo một số năm Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Sản lượng 19,6 21,6 22,8 23,5 24,9 26,4 27,6 29,1 31,4 32,8 (Triệu tấn) % so sánh 100 110 106 103 106 106 104,5 105,4 108 104,5 Nguồn: Báo cáo nghiên cứu: Tổng quan về ngành nông nghiệp Việt Nam. Tác động của Hiệp định WTO về nông nghiệp - Bộ Th ương Mại (12/1999). Dự án VIE 95/024/A/01/99 trang 9 Bảng trên cho thấy, tỉ lệ tăng tổng sản lượng lúa gạo qua các năm tuy không ổn định (một phần do thiên tai , lũ lụt) nhưng tăng khá cao, trung bình 5,9% /năm. Tỉ lệ này cao hơn tỉ lệ tăng dân số trung bình hàng năm (1,8%) nên đảm b ảo đủ cung cấp cho nhu cầu trong nước và dư thừa để xuất khẩu. Trong 10 năm từ 1991 đến 2000, sản lượng lúa gạo đã tăng được 13,2 triệu tấn , một mức tăng kỉ lục từ trước đến nay. Sản lượng lúa gạo trong những năm qua tăng lên chủ yếu do hai yếu tố là do tăng diện tích canh tác / diện tích gieo trồng và năng suất, trong đó quan trọng nhất là tăng năng suất. Năm 1987, diện tích canh tác lúa là 3,5 triệu ha, diện tích gieo trồng là 5,6 triệu ha. Năm 1997, số liệu tương ứng là 4,2 và 6,8(1), tăng 20% và 21,4%. Nhìn chung, từ năm 1997 đến nay diện tích canh tác và diện tích gieo trồng ổn định vì khả năng mở rộng diện tích canh tác là rất khó. Năm 1987, năng suất lúa b ình quân là 27 tạ/ha, năm 1997 là 40 tạ/ha tăng 48%. Trong đó, năng suất lúa ở các vùng sản xuất lúa gạo chủ yếu như đồng bằng (1): Nông nghiệp b ền vững và sản xuất lương thực ở Việt Nam - Vũ Tuyên Hoàng – Tạp chí Cộng sản số 22 (11/1998 ) trang 16 11
  11. sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long rất cao, đạt trung bình trên 60 tạ/ha. Dự kiến, trong những năm tới khi dân số của nước ta ngày một tăng trong khi diện tích canh tác lúa có hạn thì tăng năng suất là việc rất quan trọng, đ óng vai trò chủ đạo giữ vững an ninh lương thực và góp phần xuất khẩu. Kế hoạch đến năm 2020, năng suất lúa bình quân phải đạt 59,4 tạ/ha. Do sản lượng lúa gạo liên tục tăng cao hơn tỉ lệ tăng dân số nên lương thực bình quân đầu người cũng liên tục tăng. Bảng 2: Bình quân lương thực đầu ng ười Năm 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Lương thực / 325 372 349 359 361 372 387 398 408 411 420 người (kg) % so sánh 100 115 108 111 112 115 120 123 126 127 130 Nguồn: Xuất khẩu gạo ở Việt Nam - 10 năm nh ìn lại - Nguyễn Sinh Cúc. Tạp chí Cộng sản số 7 (4/1999) trang 45 Bảng trên cho ta thấy, bình quân lương th ực đầu người của nước ta tăng khá đ ều đặn, duy chỉ có năm 1991 là đột biến. Dự kiến đến năm 2020 dân số nước ta là 1 05 triệu người, sản lượng lương thực quy thóc đạt 52,5 triệu tấn thì bình quân lương thực sẽ đật 500 kg/ người(1). Ngoài sản lượng, trong sản xuất lúa gạo, chúng ta cũng đặc biệt quan tâm đến chất lượng; có như vậy mới đảm bảo đủ tiêu chuẩn xuất khẩu và cạnh tranh được với các cường quốc xuất khẩu khác. Để đáp ứng yêu cầu tăng sản lượng và tăng chất lượng, những năm qua các nhà khoa học đã không ngừng nghiên cứu, cải tiến các giống lúa, nhằm tạo ra những giống có hiệu quả kinh tế cao nhất. Các giống đã đ ược đ ưa vào gieo trồng có thể kể đến như : IR64, OM1490, OM2031, VND95-20, MTL250, IR62032, P4, P6... Ngoài giống, các biện pháp kĩ thuật khác cũng không ngừng được cải tiến như k ĩ thuật gieo trồng, quản lí dịch bệnh, bón phân theo bảng màu lá lúa, tưới tiêu theo khoa học, ứng dụng (1): Nông nghiệp bền vững và sản xuất lương thực ở Việt Nam - Vũ Tuyên Hoàng - Tạp chí Cộng sản số 22 (11/1998) trang 18 12
  12. các công nghệ sau thu hoạch như: sơ chế, bảo quản, dự trữ. Công nghệ đánh bóng, xay xát gạo xuất khẩu cũng luôn được đổi mới về máy móc thiết bị. Nhờ đó, chất lượng gạo Việt Nam đã được cải thiện đáng kể, có uy tín trên thị trường xuất khẩu thế giới. 2-Tình hình sản xuất cà phê: Cà phê là cây lấy hạt để chế biến làm đồ uống. Từ năm 1930, cà phê đã được du nhập vào nước ta và tỏ ra thích hợp với sinh thái từ vĩ tuyến 20 độ Bắc trở vào, đặc biệt là thích hợp với vùng đất bazan ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Cà phê ở nước ta có 3 giống là cà phê vối (coffee Robusta), cà phê mít (coffee Excelsa), cà phê chè (coffee Arabica). Trong 3 giống chỉ có cà phê vối là thích hợp nhất (chiếm 95%) với điều kiện sinh thái. Tuy nhiên, do xuất xứ ở các vùng núi cao, nên khi đưa xuống các thung lũng có biên độ nhiệt lớn cà phê vối hay có bệnh rỉ sắt. Sau giải phóng Miền Nam 1975, chúng ta chỉ có 11.400 ha, sản lượng 6800 tấn nhân. Đến năm 1980, diện tích cà phê tăng lên 22.500 ha nhưng sản lượng chỉ đạt 8400 tấn (do 1/2 diện tích mới trồng). Năm 1994, diện tích cà phê là 123.000 ha, tăng so với năm 1980 là 5,5 lần; sản lượng là 166.400tấn, tăng 19,8 lần. Năm 1997, diện tích cà phê là 270.000 ha, tăng so với năm 1994 là 2,19 lần; sản lượng là 400.300 tấn, tăng so với năm 1994 là 2,4 lần. Năm 1998, diện tích cà phê là 310.000 ha, tăng 1,14 lần so với năm 1997; sản lượng là 430.000 tấn, tăng 1,07 lần so với năm 1997(Bảng 3). Bảng 3: Diện tích và sản lượng cà phê một số năm Năm 1975 1980 1994 1997 1998 Diện tích (1000ha) 11.4 22,5 123 270 310 Sản lượng (1000tấn) 6,8 8,4 166,4 400,3 430 13
  13. Nguồn: Báo cáo nghiên cứu: Tổng quan về ngành nông nghiệp Việt Nam. Tác động của Hiệp định WTO về nông nghiệp - Bộ Thương mại (12/1999). Dự án VIE 95/024/A/01/99 trang 9,10 Ta thấy, tốc độ tăng d iện tích và tăng sản lượng của cà phê là cực kì cao. Vì thị trường tiêu thụ trong nước không lớn (khoảng 5%/năm) nên phần lớn cà phê sản xuất ra là để xuất khẩu. Năng suất cà phê của nước ta thuộc loại cao nhất nhì thế giới. Năm 1991 đạt 800 kg/ha trong khi năng suất trung bình của thế giới chỉ đạt 469 kg/ha. Năm 1994 chỉ số tương ứng là 1353 kg/ha và 492 kg/ha. Năm 1997 chỉ số tương ứng là 1666 kg/ha và 560 kg/ha. Như vậy, trong 7 năm năng suất cà phê tăng lên gấp đôi. Tuy năng suất cà phê của ta rất cao nhưng do kĩ thuật canh tác và công nghệ chế biến còn lạc hậu nên chất lượng cà phê xuất khẩu còn chưa cao mặc dù chỉ là xuất thô tức là xuất khẩu cà phê nhân. Cà phê nước ta được trồng chủ yếu ở Tây Nguyên. Có tới 75% diện tích cà phê tập trung ở Đắc Lắc. Số còn lại ở Sông Bé, Đồng Nai và Lâm Đồng (mỗi nơi chiếm 6% diện tích) và 7% diện tích rải rác ở các tỉnh khác(1). Hiện nay, chúng ta còn nhiều khả năng mở rộng diện tích canh tác và nâng cao năng suất cây cà phê. 3-Tình hình sản xuất cao su: Cao su là một loại cây được trồng lấy mủ để sản xuất ra các loại sản phẩm có chất cao su. Ở nước ta, loại cây này được trồng chủ yếu ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Diện tích trồng cao su năm 1975 mới chỉ có 75.200 ha thì năm 1998 con số này đã là 363.400 ha, tăng 4,83 lần so với năm 1975 (2). Từ năm 1990 đến nay, các công ty cao su đã mở rộng quy mô sản xuất, áp dụng công nghệ hiện đại, cơ khí hoá cao, tiết kiệm nhiên liệu và năng lượng, (1): Thời báo Kinh tế Việt Nam số 31 (3/2001) (2): Báo cáo nghiên cứu: Tổng quan về ngành nông nhgiệp Việt Nam. Tác động của Hiệp định WTO về nông nghiệp- Bộ Thương mại (12/1999). Dự án VIE 95/024/A/01/99 trang 22 (3): Công nghiệp chế biến cao su trên đường h ội nhập- Nguyễn Đăng Kiều, Nguyễn Hữu Tiến. Tạp chí Cộng sản số 18(9/2000) trang 50 14
  14. giảm cường độ lao động, bảo đảm an to àn lao động và vệ sinh môi trường...Nếu trước năm 1989, cả nước mới chỉ có 15 nhà máy tại 10 công ty,thì đến cuối năm 1999 đã có 30 nhà máy tại 19 công ty với tổng công suất thiết kế đạt tới 225.000 tấn/năm(3). Diện tích và sản lượng cao su từ năm 1990 tăng lên nhanh chóng. Bảng 4: Diện tích và sản lượng cao su một số năm Năm 1990 1993 1995 1997 1998 Diện tích (1000ha) 221,7 242,5 278,4 329,4 363,4 Sản lượng (1000tấn) 57,9 96,9 122,7 180,7 190 Năng suất(kg/ha) 261 399,5 440,7 548,5 522,8 Nguồn Báo cáo nghiên cứu:Tổng quan về ngành nông nghiệp Việt Nam.Tác động của Hiệp định WTO về nông nghiệp -Bộ Thương mại.(12/1999)-Dự án VIE 95/024/A/01/99,trang 9,10,14 Qua bảng trên, ta thấy diện tích và sản lượng cao su tăng nhanh qua các năm. Năm 1990, diện tích trồng cao su là 221.700 ha với sản lượng đạt ở mức khiêm tốn 57,9 ngàn tấn. Năm 1993, diện tích là 242,5 ngàn ha, tăng so năm 1990 là 1,09 lần; sản lượng tăng lên rõ rệt là 96,9 ngàn ha, tăng 1,67 lần so với năm 1990. Đ ến năm 1995, diện tích và sản lượng là 278,4 ngàn ha và 122,7 ngàn tấn, tăng so với năm 1993 tương ứng là 1,15 lần và 1,27 lần. Năm 1997, diện tích và sản lượng tăng tương ứng lvới năm 1995 là 1,18 lần và 1,47 lần; năm 1998 là 1,10 lần và 1,05 lần. Ta thấy, năm 1997, sản lượng cao su tăng một cách đột biến so với các năm trước. Sản lượng cao su tăng trung bình khoảng 6,27%/năm, năng suất đạt trung bình qua các năm là 435 kg/ha. Từ năm 1990 đến năm 1999 sản lượng cao su đã tăng lên nhanh chóng đạt1050 ngàn tấn(1). (1): Thuỷ sản Việt Nam sau 18 năm đổi mới 1980-1998. Nguyễn Sinh Cúc. Tạp chí Cộng sản số 20 (10/1998) trang 45. 15
  15. Đây là thành tựu đáng tự hào trong thời gian qua đối với ngành công nghiệp chế biến cao su Việt Nam. 4- Tình hình sản xuất thủy sản: Thủy sản là một ngành rất có lợi thế ở Việt Nam vì chúng ta có đ ường bờ biển dài, dọc theo chiều d ài của đất nước, nguồn thủy sản lại rất phong phú và đa d ạng nên rất thuận lợi cho việc khai thác, nuôi trồng và vận chuyển. Trong 5 năm 1991 -1995, tổng sản lượng thủy sản toàn ngành đạt 6,1 triệu tấn, tăng 32,4% so với thời kì 1986-1990; riêng năm 1995 đạt 1,58 triệu tấn so với 969 ngàn tấn năm 1991. Sản lượng thủy sản xuất khẩu trong 5 năm đó đạt 1,35 triệu tấn, doanh thu 1944,3 triệu USD, tăng 43,7% so với 5 năm trước đó; riêng năm 1995 xuất khẩu đạt 550 triệu USD(1).Năm 1995 so với năm 1991, sản lượng thủy sản đánh bắt tăng 47,0%; sản lượng nuôi trồng là 402.000 tấn, tăng gấp 2,39 lần năm 1991(168.000 tấn)(2). Sản lượng thủy sản năm 1998 đạt 1,7 triệu tấn, tăng khoảng 6% so với năm 1997. Sản lượng thủy sản nuôi trồng năm 1998 đ ạt 450 ngàn tấn, so với 168 ngàn tấn năm 1991 và 417 ngàn tấn năm 1997(3). Bảng 5: Sản lượng nuôi trồng thủy sản một số năm Năm 1991 1995 1997 1998 1999 2000 Sản lượng (1000tấn) 168 402 417 450 % so sánh liên hoàn 100 239 103,7 108 Nguồn: Thủy sản Việt Nam sau 18 năm đổi mới (1980-1998)-Nguyễn Sinh Cúc. Tạp chí Cộng sản số 20 (10/1998) trang 45 Năm 1998, xuất khẩu thủy sản đạt 850 triệu USD, tăng 5% so với năm 1997(4). Năm 2000, ngành thủy sản đã đóng góp 25% vào tổng kim ngạch, xuất (1),(2): Thuỷ sản Việt Nam sau 18 năm đổi mới 1980-1998. Nguyễn Sinh Cúc. Tạp chí Cộng sản số 20 (10/1998) trang 45 (3): Tổng quan kinh tế- xã hội năm 1998, triển vọng năm 1999. Nguyễn Sinh. Tạp chí Cộng sản số 1 (1/1999) trang 8. (4): Kinh tế Thế giới 1998-1999: Đặc điểm và triển vọng. Nhà xuất bản chính tri quốc gia trang 260. (5): Thành tựu 15 năm phát trtiển kinh tế-Nguyễn Cảnh Hưng. Tạp chí Cộng sản số 1 (1/2001) trang 13. 16
  16. khẩu đạt 1,4 tỉ USD, gấp 2,5 lần năm 1995(5). Đây là một thắng lợi to lớn của ngành thủy sản do có sự chuyển đổi cơ cấu sản xuất cũng như cơ cấu đầu tư; cơ cấu mặt hàng và cơ sở chế biến thủy sản xuất khẩu cũng chuyển biến theo hướng đa dạng hoá gắn với yêu cầu của thị truường; nhiều cơ sở chế biến thủy sản xuất khẩu được xây dựng mới ở các vùng sản xuất nguyên liệu như Cà Mau, An Giang thu hút hàng chục nghìn lao động nông nghiệp, góp phần phân công lại lao động ở nông thôn. Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế khai thác mọi tiềm năng về vốn và kinh nghiệm, mặt khác tập trung vốn ngân sách, vốn tín dụng ưu đãi cho ngành thủy sản. 17
  17. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU MỘT SỐ MẶT HÀNG NÔNG THỦY SẢN XUẤT KHẨU I-Các thị trường chính và tiềm năng: 1-Các thị trường chính: Về thị trường xuất khẩu, hiện nay Việt Nam đang xuất khẩu gạo tới trên 50 nước và lãnh thổ (1) ở tất cả các khu vực như châu Á, châu Âu, châu Phi, châu Mĩ. Trong đó, thị trường châu Á, châu Phi chiếm 70 -90%(2) lượng gạo xuất khẩu hàng năm. Số còn lại là thị trường châu Âu, châu Mĩ. Các nước nhập khẩu gạo chính của Việt Nam ở châu Á có thể kể đến là Indônêxia, Philippin, Singapore, các nước vùng Trung Đông. Ở châu Phi có Angiêri, Nigiêria, Tuynidi, Cônggô, Êtiôpia, Nam Phi, Libi. Ở châu Âu thì chủ yếu là Nga và Đông Âu. Ở châu Mỉ thì chủ yếu là khu vực Mỉ latinh. Thị trường Châu Á, Châu Phi rất dễ tính, không đòi hỏi chất lượng thật cao, chỉ cần giá rẻ nên rất phù hợp với gạo Việt Nam. Hai năm gần đây và các năm tới, thị trường lúa gạo thế giới cũng như thị trường của Việt Nam gặp nhiều biến động theo cả 2 chiều hướng tích cực và tiêu cực. Năm 1999 và năm 2000, lũ lụt, hạn hán xảy ra ở nhiều nơi khiến cho các nước vốn xuất khẩu gạo bị giảm sản lượng mạnh, khả năng xuất khẩu hạn chế; còn các nước vốn đã nhập khẩu gạo thì lại càng phải nhập nhiều hơn. Điển hình là châu Phi, Trung Đ ông và Mĩ latinh vừa qua gặp hạn hán nặng và tình hình chính trị rất bất ổn nên trong những năm tới họ sẽ phải nhập thêm nhiều. Ngược lại, những nước trước đây vẫn nhập khẩu lớn gạo của Việt Nam ở châu (1): Xuất khẩu gạo năm 2000, thời cơ -thách thức- giải pháp. Nguyễn Cảnh Hưng Tạp chí Cộng sản số 8(4/2000) trang 41 (2): Nâng cao sức cạnh tranh hàng nông sản xu ất kh ẩu ở nước ta -Nguyễn Đình Long-Tạp chí Cộng sản số 4 (2/1999) trang 53 18
  18. Á là Indônexia, Philippin, Bănglađét sẽ giảm nhu cầu trong những năm tới. Theo cơ quan hậu cần quốc gia Indônexia, một vài năm tới nước này chỉ nhập khoảng 1,8-2 triệu tấn gạo thay vì 3-3,5 triệu tấn như trước. Còn Philippin cũng chỉ nhập 0,5 -0,8 triệu tấn, giảm 0,5-0,7 triệu tấn(1). Sở dĩ như vậy là vì có sự cạnh tranh giữa gạo của Thái Lan, Trung Quốc và gần đây là Campuchia với Việt Nam về chất lượng, giá cả và thủ tục. Đây là một nguy cơ rất lớn đối với xuất khẩu gạo của Việt Nam. Nhìn chung, trên thị trường chính của chúng ta, khả năng phát triển là rất có hạn bởi vì như trên đã nói một số nước nhập khẩu lớn đã dần đi vào ổn định kinh tế, chính trị, do vậy nhu cầu nhập khẩu gạo của họ giảm. Ở châu Phi, Trung Đông và Mĩ latinh nhu cầu nhập khẩu có tăng, song thị trường ở đây còn nhỏ bé, hơn nữa chúng ta lại có nhiều đối thủ cạnh tranh, do vậy tỉ trọng gạo xuất sang khu vực này của chúng ta sẽ giảm đi và thay vào đó tỉ trọng xuất sang một số thị trường tiềm năng mới mở sẽ ngày một tăng lên trong tổng kim ngạch xuất khẩu gạo. Mục tiêu của chúng ta là cố gắng giữ vững thị trường truyền thống, tăng cường, xâm nhập và mở rộng các thị trường mới. Đối với mặt hàng cà phê, hiện nay, chúng ta đã xuất khẩu tới hơn 40 nước và lãnh thổ, trong đó chủ yếu xuất sang EU, Bắc Mĩ, Nhật, Singapore. Chủng loại cà phê xuất khẩu của chúng ta rất nghèo nàn, chủ yếu là cà phê hạt; cho nên chúng ta thường xuất sang các nước phát triển có nền công nghiệp chế biến, để họ sản xuất ra cà phê tinh chế. Thị trường cà phê là một thị trường cực kì b ất ổn, luôn có những biến động rất lớn, gây khó khăn cho các nước sản xuất và xuất khẩu cà phê nhân. Có năm như niên vụ 1998 -1999, giá cà phê lên rất cao khoảng 900-1200 USD/tấn; nhưng năm 1999-2000 giá sụt đi hơn một nửa chỉ còn khoảng 400-550 USD/tấn. Điều đó có nghĩa là, có năm các nước nhập khẩu cà phê nhân nhiều, có năm họ nhập ít. (1): Xuất khẩu gạo n ăm 2000, thời cơ -thách thức- giải pháp. Nguyễn Cảnh Hưng Tạp chí Cộng sản số 8(4/2000) trang 41 19
  19. Trong những năm tới, thị trường chính của chúng ta vẫn là EU, Bắc Mĩ, Nhật, và Singapore. Cà phê của chúng ta chất lượng tương đối tốt mà giá lại rẻ nên vẫn có sức cạnh tranh trên các thị trường này. Đối với mặt hàng cao su, thị trường xuất khẩu chủ yếu của chúng ta trước đây là Liên Xô, khoảng 80% sản lượng cao su của Việt Nam. Song những năm gần đây, thị trường này không những không được mở rộng mà còn bị thu hẹp. Hiện nay, ta chủ yếu xuất khẩu cao su sang Trung Quốc, chiếm 70% sản lượng. Nhưng do xuất qua tiểu ngạch nên thường xuyên bị ép giá, nhu cầu mặt hàng không ổn định, tình trạng ứ đọng sản phẩm thường xuyên xảy ra; xuất khẩu sang châu Âu và Mỹ chỉ đạt 10% sản lượng(1); còn tiêu thụ trong nước thì thật ít ỏi chỉ khoảng 20%. Năm 2000, ta đã khai thác 213.000 tấn và xuất khẩu sang Nga 400 tấn với giá là 670 USD/tấn tăng 30-40 USD/tấn so với năm trước(2). Chất lượng cao su của chúng ta tốt, nhưng không phù hợp với nhu cầu của thế giới nên chỉ xuất đ ược sang Trung Quốc là chủ yếu. Đối với mặt hàng thủy sản, thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là EU chiếm khoảng 60%. Đây là bạn hàng xuất khẩu thủy sản thường xuyên của Việt Nam từ nhiều năm qua. Khu vực này tuy dân số không lớn nhưng số lượng hàng thủy sản tiêu thụ nhiều. Tính đến năm 1998, cả nước đã có 27 d oanh nghiệp chế biến thủy sản được xếp vào danh sách các đơn vị đủ tiêu chuẩn xuất khẩu sản phẩm sang thị trường châu Âu. Ngoài ra, ta còn xuất khẩu thủy sản sang Nhật Bản, chiếm khoảng 20% sản lượng xuất khẩu của Việt Nam. Đây là một thị trường rất khó tính, đòi hỏi chất lượng sản phẩm cao. Nhưng là thị trường xuất khẩu chủ yếu của ta từ lâu. Nhật Bản cũng là một cường quốc về đánh bắt thủy hải sản, với các phương tiện (1): Báo cáo nghiên cứu: Tổng quan về ngành nông nghiệp Việt Nam. Tác động của Hiệp định WTO về nông nghiệp. Bộ Thương mại(12/1999). Dự án VIE 95/024/A/01/1999 trang 24 (2): Thời báo kinh tế Việ Nam số 146 (6/12/2000) 20
  20. kỹ thuật rất hiện đại nhưng giá thành lại cao hơn so với nhập khẩu thủy sản từ Việt Nam, hơn nữa chủng loại thủy hải sản của ta lại rất đa dạng, phong phú. Ngoài EU và Nhật ra, Singapore cũng là thị trường xuất khẩu thủy sản chủ yếu của ta. 2-Thị trường tiềm năng: Ngoài thị trường chính ở châu Á, châu Phi, hiện nay gạo Việt Nam đã và đang xuất sang các thị trường mới như EU, Bắc Mĩ, Nhật, Hàn Quốc. Đây là các thị trường rất khó tính nhưng có tiềm năng lớn vì những nước này có nền công nghiệp và dịch vụ ngày càng phát triển mạnh mẽ, nông nghiệp ngày càng không đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Sở dĩ như vậy vì phần lớn diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị lấn chiếm để sử dụng vào việc xây dựng các khu công nghiệp, trung tâm thương m ại, khu vui chơi giải trí và khu dân cư. Cùng với quá trình đó là việc một bộ phận dân cư tách ra khỏi lao động nông nghiệp để tham gia vào lực lượng lao động phi nông nghiệp. Do vậy, sản lượng tăng thêm do áp dụng khoa học kĩ thuật không bù được sản lượng mất đi do thiếu đất canh tác và thiếu lao động nông nghiệp. Thêm vào đó, quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam với EU, Nhật, Hàn Quốc đặc biệt là Mĩ ngày càng có bước phát triển mới. Riêng với EU và Nhật, Việt Nam đã được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN), do vậy giá gạo nhập vào các nước này sẽ giảm đi. Mặt khác, chất lượng gạo của chúng ta không ngừng được cải thiện do thành quả của việc ứng dụng khoa học vào nông nghiệp, do đó ngày càng được các khách hàng tin cậy và trụ vững được trên thị trường này. Đối với cà phê, thị trường tiềm năng có thể kể đến là Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, Nga và Đông Âu. Những nước này hàng năm vẫn nhập cà phê của ta, song số lượng rất khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của ta và bạn. Do vậy, trong những năm tới, mục tiêu của chúng ta là đẩy mạnh cạnh tranh nhằm nâng cao kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường này, khẳng định uy tín và chất lượng của cà phê Việt Nam. Tuy nhiên , chúng ta cũng cần 21
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2