Luận văn Một số giải pháp và chính sách đối với vấn đề tôn giáo trong vùng đồng bào các dân tộc thiểu số tỉnh Đắc Lắc
lượt xem 65
download
Tính cấp thiết của đề tài Đạo Tin lành du nhập vào nước ta khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, vào Tây Nguyên từ năm 1929 và vào tỉnh Đác Lắc từ năm 1932. Từ đó cho đến suốt quá trình kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của dân tộc ta, đạo Tin lành ở Tây Nguyên tồn tại và phát triển ở mức độ bình thường. Nhưng, từ sau năm 1975, tôn giáo này phát triển rất mạnh....
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Một số giải pháp và chính sách đối với vấn đề tôn giáo trong vùng đồng bào các dân tộc thiểu số tỉnh Đắc Lắc
- 1 Luận văn Một số giải pháp và chính sách đối với vấn đề tôn giáo trong vùng đồng bào các dân tộc thiểu số tỉnh Đắc Lắc
- 2 MỞ ĐẦU 1 . Tính cấp thiết của đề tài Đ ạo Tin lành du nhập vào nước ta khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, vào Tây Nguyên từ năm 1929 và vào tỉnh Đác Lắc từ năm 1932. Từ đó cho đến suốt quá trình kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của dân tộc ta, đạo Tin lành ở Tây Nguyên tồn tại và phát triển ở mức độ bình thường. Nhưng, từ sau năm 1975, tôn giáo này phát triển rất mạnh. Đặc biệt, trong những năm gần đây, số người theo đạo Tin lành ở Tây Nguyên tăng lên gấp nhiều lần so với trước năm 1975. Sự phát triển của đạo Tin lành ở Tây Nguyên nói chung và ở tỉnh Đác Lắc nói riêng vừa đem lại những yếu tố tích cực, vừa có những yếu tố tiêu cực, đã và đ ang đặt ra nhiều vấn đề hết sức phức tạp cần được giải quyết cả trước mắt và lâu dài. Việc một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) từ bỏ hệ tín ngưỡng cổ truyền để tiếp nhận hệ tín ngưỡng của một tôn giáo độc thần như Công giáo hoặc Tin lành là điều bình thường. Việc tiếp nhận một số giáo lý mới như sống đời sống một vợ một chồng, ăn ở vệ sinh, ốm đau dùng thuốc, không uống rượu say, đơn giản hóa các thủ tục ma chay, lễ hội, không tin vào tà ma, bói toán… đ ã làm thay đổi một số tập tục lạc hậu trong đời sống của đồng bào. Tuy nhiên, so với những ảnh hưởng tích cực mà đạo Tin lành mang lại, ảnh hưởng tiêu cực của nó đối với vùng đồng bào DTTS lớn hơn rất nhiều. Những năm qua, hoạt động truyền đạo của Tin lành trong vùng đồng bào DTTS là một trong những vấn đề phức tạp nhất về chính trị - xã hội của các tỉnh trong vùng, gây ra nhiều tác động, hậu quả xấu trên nhiều mặt của đời sống xã hội. V ề mặt xã hội, việc phát triển tràn lan, bất chấp những quy định của Nhà nước của đạo Tin lành ở nhiều nơi đã vi phạm pháp luật, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội trong vùng đồng bào DTTS. Trên thực tế, quá trình phát triển đạo Tin
- 3 lành ở Đác Lắc đ ã gây nên sự chia rẽ sâu sắc trong cộng đồng, làm phai nhạt một phần ý thức công dân trong đồng bào (chủ trương không liên quan đến chính trị, tín đồ không tham gia các phong trào quần chúng, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân, đẩy một bộ phận tín đồ đến chỗ bất hợp tác với chính quyền…) V ề chính trị, các thế lực thù địch bên ngoài câu kết với các phần tử phản động trong nước tìm cách lợi dụng đạo Tin lành như một lực lượng tinh thần để lôi kéo, lừa bịp, kích động một bộ phận quần chúng chống lại chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, gây nên những hậu quả đáng lo ngại. Sau ngày miền Nam được giải phóng, hoạt động của tổ chức phản động FULRO thường gắn với hoạt động của đạo Tin lành trong vùng đồng b ào DTTS, nhiều giáo sĩ Tin lành là những lãnh đạo chủ chốt của FULRO; nhiều tín đồ là cơ sở tin cậy, là lực lượng của FULRO. Việc thành lập cái gọi là “Tin lành Đê-ga” gần đây đã kích động sự kỳ thị, chia rẽ tôn giáo giữa đồng bào DTTS với người Kinh và đã lừa phỉnh, lôi kéo được một số người tham gia. Trong hai vụ bạo loạn chính trị trong vùng DTTS ở Tây Nguyên năm 2001 và năm 2004 có nhiều tín đồ tự x ưng là “Tin lành Đê-ga” tham gia. Toàn Tây Nguyên hiện vẫn còn gần 7.000 người DTTS tự xưng là tín đồ của “Tin lành Đê-ga”. Nguy hiểm hơn, chúng coi “Tin lành Đê-ga” như là cơ sở tinh thần của cái gọi là “Nhà nước Đê-ga đ ộc lâp”. Hiện nay, các thế lực thù địch lợi dụng Tin lành, dựa vào lực lượng quần chúng là người DTTS Tây Nguyên, kích động số đông tín đồ làm lực lượng đối trọng với ta. Trong bối cảnh giao lưu rộng mở, các tổ chức và cá nhân của Hội thánh Tin lành vẫn tiếp tục bị lợi dụng vì âm mưu thù địch, chống phá cách mạng Việt Nam. V ề đối ngoại, các thế lực thù địch đang ra sức vu cáo ta vi phạm nhân quyền, đ àn áp tôn giáo, trong đó có vấn đề đạo Tin lành ở Tây Nguyên. Từ đó, trong hoạt động đối ngoại họ đưa nhiều yêu sách để gây sức ép với ta.
- 4 Trước tình hình Tin lành phát triển phức tạp, việc thực hiện chính sách tôn giáo như thừa nhận ho ạt động Tin lành bình thường, cho đăng ký và tạo điều kiện thuận lợi cho việc hành đạo ... đã đem lại những mặt tích cực, tạo ra tâm lý phấn khởi, tin tưởng trong đ ại đa số đồng bào có đạo. Tuy nhiên, ở nhiều nơi công tác đối với Tin lành vẫn còn nhiều hạn chế, nên hiện tại một bộ phận đồng bào có tâm lý hoang mang, lo lắng, giảm nhiệt tình và thái độ hợp tác tích cực. Mặt khác, do đạo Tin lành đang tồn tại trong trạng thái nửa hợp pháp, nửa không hợp pháp, có hệ phái chính thức, có hệ phái không chính thức, nơi đ ã được công nhận, nơi chưa được công nhận, nên tình hình của đạo Tin lành trong vùng DTTS ở các tỉnh Tây Nguyên vẫn còn là vấn đề hết sức phức tạp, không những gây khó khăn, lúng túng cho công tác quản lý nhà nước, mà còn nhiều mặt kẻ địch có thể lợi dụng chuyển hướng hoạt động theo hướng chính trị hóa, đưa đạo Tin lành thoát khỏi sự kiểm soát của chính quyền. V ấn đề Tin lành ở Tây Nguyên nói chung, ở Đác Lắc nói riêng, trong quá khứ cũng như hiện tại luôn gắn liền với vấn đề dân tộc. Cho nên, việc đẩy mạnh công tác vận động quần chúng trong vùng đồng bào DTTS theo đạo Tin lành ở tỉnh Đác Lắc được coi như là một trong những giải pháp tích cực để vừa thực hiện tốt chính sách dân tộc, vừa thực hiện tốt chính sách tôn giáo của Đảng, góp phần ổn định tình hình tư tưởng, sản xuất và nâng cao đời sống cho đồng bào, giữ vững ổn định an ninh chính trị trên địa b àn tỉnh hiện nay. Trong nhiều năm qua, các tổ chức đảng trong tỉnh Đác Lắc đã chú trọng lãnh đạo công tác quần chúng, đặc biệt là công tác quần chúng trong vùng DTTS, và đã đ ạt được những kết quả tích cực, góp phần làm ổn định tình hình. Song, sự lãnh đạo của các tổ chức đ ảng ở tỉnh Đác Lắc đối với công tác vận động đồng b ào DTTS theo đạo Tin lành còn nhiều lúng túng, hạn chế. Để nâng cao hơn nữa chất lượng lãnh đạo của các tổ chức đảng đối với công tác quần chúng trong vùng DTTS theo đạo Tin
- 5 lành đòi hỏi phải có sự nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn một cách hệ thống và tìm ra được những giải pháp phù hợp với điều kiện cụ thể, có tính khả thi. Luận văn này cố gắng đóng góp một phần vào yêu cầu thực tiễn cấp bách đó. 2 . Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Đác Lắc là một trong những địa bàn chiến lược quan trọng và là địa bàn có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. V ì thế, việc đầu tư nghiên cứu to àn diện về Tây Nguyên nói chung và Đác Lắc nói riêng từ lâu đã được quan tâm với những quy mô, mức độ và các lĩnh vực khác nhau. Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương, chính sách chỉ đạo, lãnh đạo rất quan trọng đối với vấn đề dân tộc, tôn giáo có liên quan trực tiếp đến vùng Tây Nguyên, tiêu biểu là Nghị quyết 10-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng - an ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001 – 2010; Quyết định 168/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc định hướng dài hạn kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 và những giải pháp cơ bản phát triển kinh tế - x ã hội vùng Tây Nguyên; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa VIII về tăng cường công tác quần chúng của Đảng; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa IX về công tác dân tộc, công tác tôn giáo; Thông báo 160-TB/TW của Bộ Chính trị về chủ trương công tác đối với đ ạo Tin lành trong tình hình mới; Chỉ thị 01/2005/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về một số công tác đối với đạo Tin lành... Bên cạnh đó, ý thức rõ tầm quan trọng của vấn đề đẩy mạnh công tác quần chúng nói chung và công tác quần chúng ở vùng đồng bào DTTS theo đạo Tin lành nói riêng, nhiều công trình khoa học xã hội cũng đã được triển khai nghiên cứu, tiêu biểu như: Chương trình Tây Nguyên I, Chương trình Tây Nguyên II, trong đó một phần nghiên cứu đánh giá, đề xuất giải pháp về công tác quần chúng. Đáng chú ý là một số công trình nghiên cứu chuyên sâu về tôn giáo như: “Một số tôn giáo ở Việt
- 6 Nam” năm 2005, “Bước đầu tìm hiểu đạo Tin lành trên thế giới và ở Việt Nam” năm 2002 của TS Nguyễn Thanh Xuân - Phó Trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ; “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên” năm 2005 của PGS, TS Trương Minh Dục; Đề tài nghiên cứu của Ban Tôn giáo Chính phủ “Một số giải pháp và chính sách đối với vấn đề tôn giáo trong vùng đồng bào các dân tộc thiểu số tỉnh Đắc Lắc” năm 2002 ; các công trình nghiên cứu về Tin lành Tây Nguyên của Nguyễn Xuân Hùng... Ngoài ra còn có những ý kiến chỉ đạo, những công trình nghiên cứu của một số nhà lãnh đạo, nhà nghiên cứu về Tin lành và công tác đối với đạo Tin lành được đăng tải trên các tạp chí, các báo trong nước như: “Chính sách đối với tôn giáo nói chung và Tin lành nói riêng trong tình hình mới” của Lê Quang Vịnh - Nguyên Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ; Kỷ yếu hội thảo “Tin lành Mỹ, Tin lành Việt Nam - Dự báo tình hình và giải pháp điều chỉnh”, Vụ Nghiên cứu chiến lược Bộ Công an; “Th ực trạng phát triển đạo Tin lành vùng đồng bào DTTS - những kiến nghị về chủ trương và giải pháp” của TS Trịnh Xuân Giới, Nguyên Phó Trưởng Ban Dân vận Trung ương; “Quá trình th ực hiện chính sách dân tộc - tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta qua tổng kết thực tiễn ở Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam bộ” của GS, TS Lê Hữu Nghĩa... Những công trình nghiên cứu đó đã cung cấp những cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoạch định các chủ trương, chính sách về công tác quần chúng nói chung và trong vùng đồng bào DTTS có đạo ở Tây Nguyên nói riêng. Đây cũng là cơ sở để tác giả kế thừa và đi sâu vào những vấn đề mới liên quan đ ến đối tượng nghiên cứu. Tuy nhiên, cho đ ến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu, riêng biệt về sự lãnh đ ạo của đảng bộ địa phương đối với công tác vận động quần chúng trong vùng đồng bào DTTS theo đạo Tin lành ở Đác Lắc. Luận văn này hy vọng sẽ góp phần nhỏ vào sự tìm tòi, đề ra những giải pháp hữu ích cho vấn đề đang cần sự đầu tư, nghiên cứu
- 7 nhiều hơn này trong quá trình xây d ựng Tây Nguyên ngày càng ổn định và phát triển. 3 . Mục tiêu, nhiệm vụ của luận văn 3 .1. Mục tiêu Nghiên cứu, đánh giá đúng thực trạng sự lãnh đạo của các tổ chức đảng đối với công tác vận động đồng bào DTTS theo đạo Tin lành ở tỉnh Đác Lắc, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp cụ thể, thiết thực để nâng cao chất lượng, hiệu q uả lãnh đạo của các tổ chức đảng đối với công tác vận động quần chúng trong vùng đ ồng b ào DTTS theo đạo Tin lành của tỉnh. 3 .2. Nhiệm vụ - Phân tích, làm rõ những vấn đề thực tiễn của việc truyền bá đạo Tin lành ở Đác Lắc, việc kẻ địch lợi dụng đạo Tin lành trong thời gian qua, đánh giá đúng sự tác động của đạo Tin lành đến tình hình chính trị, xã hội của tỉnh và tư tưởng, đời sống của đồng bào DTTS theo Tin lành. - Đánh giá đúng thực trạng, rút ra nguyên nhân và kinh nghiệm về sự lãnh đ ạo của các tổ chức đảng tỉnh Đác Lắc đối với công tác vận động đồng bào DTTS theo đạo Tin lành. - Xác định phương hướng và đề xuất những giải pháp chủ yếu, cụ thể để nâng cao chất lượng lãnh đạo của các tổ chức đảng đối với công tác vận động đồng bào DTTS theo đ ạo Tin lành của tỉnh Đác Lắc trong thời gian tới. 4 . Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu, đánh giá thực trạng tình hình đạo Tin lành và vấn đ ề nâng cao chất lượng lãnh đ ạo công tác vận động quần chúng đối với đồng b ào DTTS theo đạo Tin lành của các tổ chức đảng địa phương từ tỉnh đến cơ sở của tỉnh Đác Lắc. Luận văn giới hạn thời gian nghiên cứu tư liệu và tình hình thực tế chủ yếu từ năm 2001 (sau vụ biểu tình, bạo loạn chính trị tháng 02-2001) đến nay.
- 8 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5 .1. Luận văn được thực hiện trên cơ sở những quan điểm và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng, dựa trên các nghị quyết, chỉ thị của Đảng Cộng sản Việt Nam và thực tiễn tình hình công tác quần chúng ở tỉnh Đác Lắc. 5 .2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể của luận văn kết hợp chặt chẽ giữa lô-gích với lịch sử; sử dụng các phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập số liệu, đối chiếu, thống kê, phân tích, tổng hợp, coi trọng phương pháp tổng kết thực tiễn. 6 . Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Góp phần đánh giá đúng thực trạng sự lãnh đạo của các tổ chức đảng đối với công tác vận động đồng bào DTTS theo đạo Tin lành ở tỉnh Đác Lắc. - Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của yêu cầu nâng cao chất lượng lãnh đạo của các tổ chức đảng đối với công tác vận động đồng bào DTTS theo đạo Tin lành ở Đác Lắc hiện nay. - Đ ề xuất những giải pháp cụ thể có tính khả thi để góp phần nâng cao chất lượng lãnh đạo của các tổ chức đảng đối với công tác vận động đồng bào DTTS theo đạo Tin lành trong giai đoạn mới. K ết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo vận dụng vào thực tiễn công tác quần chúng hiện nay, góp phần vào sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với công tác quần chúng ở các địa phương; làm tài liệu phục vụ việc nghiên cứu, giảng dạy về công tác quần chúng ở các trường chính trị khu vực Tây Nguyên. 7 . Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.
- 9
- 10 Chương 1 SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH ĐÁC LẮC ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ THEO ĐẠO TIN LÀNH - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1 .1. LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG TRONG HOẠT ĐỘNG LÃNH ĐẠO CỦA CÁC TỔ CHỨC ĐẢNG Ở TỈNH ĐÁC LẮC 1 .1.1. Vị trí, vai trò và những nét đặc thù của công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số theo đạo Tin lành ở tỉnh Đác Lắc 1 .1.1.1. Một số đặc điểm tình hình các dân tộc thiểu số tỉnh Đác Lắc Đác Lắc là quê hương của đồng bào thuộc nhiều dân tộc, như: Ê-đê, M’nông, Gia-rai, Xê-đăng, Kinh... Sau ngày miền Nam giải phóng, thực hiện chủ trương phân bổ lại lao động và dân cư trong phạm vi cả nước, tỉnh đã tiếp nhận hàng chục vạn đồng bào từ khắp mọi miền đất nước đến xây dựng kinh tế mới. Cùng với người bản địa, nhiều dân tộc khác cũng đến đây làm ăn sinh sống và tạo nên một đại gia đình với 43 dân tộc anh em. Theo số liệu thống kê, đến ngày 31 -12-2006, dân số Đ ác Lắc là 1.701.496 người, mật độ 130,8 người/km2; trong đó dân tộc Kinh chiếm 70,5%; các DTTS 486.313 người, riêng đồng bào DTTS tại chỗ là 313.021 người. Các dân tộc thiểu số tại chỗ gồm dân tộc Ê-đê 271.117 người, chiếm 15,8%; dân tộc M'nông 39.171 người, chiếm 2,3%; dân tộc Gia-rai 15.389 người, chiếm 0,9%... Một số DTTS từ nơi khác đến có số dân khá lớn như dân tộc Tày 50.533 người, chiếm 2,95%, dân tộc Nùng 62.584 người, chiếm 3,64%, còn lại là các dân tộc khác [68, tr.15]. Qua rất nhiều lần tách nhập trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mỹ, cũng như sau ngày đất nước hòa bình thống nhất,
- 11 hiện nay tỉnh Đác Lắc gồm 12 huyện và thành phố Buôn Ma Thuột, 175 đơn vị hành chính cấp xã, 2.218 thôn, buôn, tổ dân phố (sau đ ây gọi tắt là buôn, làng). Xét về mặt địa lý, đồng bào các DTTS của tỉnh phân bố trên một địa bàn rộng lớn và chủ yếu thuộc vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới hiểm yếu, có vị trí chiến lược q uan trọng về chính trị, kinh tế và quốc phòng - an ninh. Trong chiến tranh, các vùng đồng bào DTTS sinh sống là căn cứ địa cách mạng hoặc là nơi nuôi dưỡng, phát triển thực lực của cuộc kháng chiến. Chính vì thế, trước đây cũng như hiện nay, các thế lực thù địch hết sức chú ý đến những vùng này để thực hiện ý đồ chính trị, chống phá cách mạng nước ta. Trước đây cũng như hiện nay, nét nổi bật của hai dân tộc Ê-đê, M'nông là đời sống xã hội mang đậm tính huyết thống (dòng họ) và tính cộng đồng hết sức bền chặt. Trong từng đơn vị b uôn, làng có sự tồn tại bền vững những mối quan hệ xã hội cổ truyền tốt đẹp được hình thành qua các thời kỳ lịch sử lâu dài, nổi bật là quan hệ giữa dân làng với già làng, chủ buôn; giữa các thành viên trong cùng một buôn, làng; giữa các gia đ ình trong một dòng tộc; giữa cha mẹ với con cái... Đồng bào Ê-đê và M'nông sống rất hiền hòa, hiếu khách, có lòng nhân ái, yêu thiên nhiên, yêu hòa bình, nhưng đồng thời cũng rất kiên cường, có tinh thần thượng võ, cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất. Đồng bào DTTS trong tỉnh có đ ặc điểm là d ễ nghe theo, dễ tin và đã tin ai thì đặt hết niềm tin vào người đó, không từ nan thử thách, hy sinh. Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, tuyệt đại bộ phận đồng bào DTTS của tỉnh đã tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh dũng đứng lên theo Đảng làm cách mạng, bất chấp mọi hy sinh, gian khổ để giành thắng lợi cuối cùng. V ề phương diện văn hóa, là một địa phương đa dân tộc, Đác Lắc hiện nay là một vùng đ ất đa dạng về sắc thái văn hóa: Có sắc thái văn
- 12 hóa của người Kinh, sắc thái văn hóa của các DTTS bản địa và sắc thái văn hóa của các DTTS từ nơi khác đ ến. Nhưng, trước hết và quan trọng nhất phải nói đến văn hóa, phong tục, tập quán, tâm lý, lối sống của hai dân tộc bản địa là các dân tộc Ê-đê và M'nông. Đồng bào các DTTS ở Đác Lắc là chủ nhân của một nền văn hóa bản địa vô cùng phong phú và đặc sắc. Trải qua nhiều thế hệ, các dân tộc ở đây đã tạo dựng nên những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể quý giá mà ngày nay các nhà nghiên cứu đều đánh giá cao, như: nhà dài, nhà mồ, đàn đá, cồng chiêng, các lễ hội và sinh hoạt cộng đồng độc đáo. Đồng bào còn có một kho tàng văn học dân gian với những những bản trường ca (khan), truyện cổ, truyện ngụ ngôn, lời nói vần; những làn điệu dân ca như Airay, Kuứt, Kmũn, Tâm pớt, Yuôn Yơh... đậm đà bản sắc dân tộc lưu truyền qua bao thế hệ. Đặc biệt, luật tục (tập quán pháp) của hai dân tộc Ê-đê, M'nông có thể coi là một di sản văn hóa tộc người rất đặc sắc, bao gồm hàng trăm điều, phản ánh những lề luật, tục lệ nghiêm ngặt của cộng đồng thị tộc cổ đại. Ngoài ra, các dân tộc Ê-đê, M’nông còn có cả chữ viết mà sau này được phiên âm sử dụng phổ biến từ thời kháng chiến cho đến nay. Trong đời sống hàng ngày, đồng bào có rất nhiều lễ hội và sinh hoạt truyền thống diễn ra xoay quanh vòng đời của con người và vòng xoay của mùa màng, như lễ thổi tai, lễ mừng sức khỏe, lễ cưới, lễ tang, lễ bỏ mã, lễ cúng voi, lễ đâm trâu, lễ mừng lúa mới, lễ rước K'pan, tục uống rượu cần, tục kể khan... Các sinh hoạt truyền thống này mang tính cộng đồng cao, thu hút mọi người cùng tham gia và trở thành một nét đẹp đáng quý trong đời sống của đồng bào. Chúng có tác động rất lớn đến tư tưởng, tình cảm của con người và mỗi thành viên trong cộng đồng luôn luôn gửi gắm vào đây những ước mơ về một cuộc sống tốt đẹp hơn. 1 .1.1.2. Vai trò của công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê-nin thì cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Điều này bao hàm cả ý nghĩa là quần
- 13 chúng phải được tập hợp, tổ chức lại và bản thân quần chúng phải tự mình tham gia vào cuộc cách mạng ấy. Nhưng “muốn cho quần chúng hiểu rõ phải làm gì thì cần phải tiến hành một công tác lâu dài và kiên nhẫn” [39, tr.164]. Phát triển quan điểm của C. Mác, V.I. Lê-nin cho rằng: “Không có sự đồng tình và ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với đội ngũ tiên phong của mình, tức là đối với giai cấp vô sản thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được” [36, tr.251]. Những quan điểm đó cho chúng ta thấy, công tác vận động quần chúng hết sức quan trọng và cần thiết. Đó là một công tác lâu dài, là cuộc đấu tranh giai cấp để giành lấy sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân. Phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cách mệnh trước hết là phải làm cho dân giác ngộ” [37, tr.266]. Muốn làm cho dân giác ngộ “trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi” [3 8, tr.267]. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định: Đ ảng Cộng sản phải vận động và tổ chức nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, “dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người nào, góp thành lực lượng toàn dân đ ể thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho” [39, tr.698-699]. Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, Lê-nin nhấn mạnh việc động viên và phát huy mọi lực lượng của quần chúng nhân dân. Người cảnh cáo : “những ai chỉ trông vào bàn tay của những người cộng sản để xây dựng xã hội cộng sản là những kẻ có tư tưởng hết sức ngây thơ” [35, tr.347]. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lê-nin và lãnh tụ Hồ Chí Minh đã chỉ rõ vai trò quan trọng của công tác vận động, tập hợp các tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, trong quá trình cách mạng do Đảng lãnh đạo, mỗi thời kỳ, mỗi đối tượng có những nội dung và hình thức vận động khác nhau. Trong thời kỳ mới của cách mạng, Đảng ta xác định nội dung công
- 14 tác vận động quần chúng là xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời đề ra các chính sách cụ thể đối với các giai cấp, các tầng lớp xã hội, xây dựng cơ chế cụ thể để thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước… Đồng bào DTTS nói chung và đồng bào DTTS theo đạo Tin lành nói riêng ở tỉnh Đác Lắc là một đối tượng vận động đặc biệt, do đó công tác vận động của Đảng ở đây có vai trò hết sức quan trọng. Do đặc điểm lịch sử, đời sống đồng bào còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí thấp, sự am hiểu của đồng bào về các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước còn đơn giản. Đ ịa bàn cư trú của đồng bào hầu hết là những vùng trọng yếu về quốc phòng - an ninh. Chính vì thế, các thế lực thù địch hết sức chú ý đến những vùng này đ ể lôi kéo quần chúng thực hiện ý đồ chính trị chống phá cách mạng nước ta. Hiện nay, vấn đề dân tộc, tôn giáo là vấn đề hết sức nhạy cảm trong cuộc đấu tranh chống chiến lược “diễn biến hòa bình”. N ếu chúng ta không chú ý làm tốt công tác vận động quần chúng trong vùng đồng bào DTTS thì các thế lực thù địch sẽ có cơ hội lợi dụng, lôi kéo đồng bào thành lực lượng đối trọng với ta. Công tác vận động đồng bào các DTTS ở Đác Lắc hiện nay, đặc biệt là những người theo đạo Tin lành, còn x uất phát từ mấy đặc điểm sau: - Đ ồng bào các DTTS nói chung sinh sống ở nhiều buôn, làng trong toàn tỉnh, không hình thành những lãnh thổ tộc người riêng biệt, mà sinh sống xen kẽ, đan xen nhau và có sự giao lưu sâu sắc về văn hóa. - V ề phương diện văn hóa, đồng bào DTTS Đác Lắc có một nền văn hóa b ản địa vô cùng phong phú và đặc sắc. Tuy nhiên, trong những năm qua, trước sự tác động của nền kinh tế thị trường và một phần của những yếu tố cực đoan trong việc truyền bá đạo Tin lành, nhiều giá trị văn hóa
- 15 tinh thần bị mai một, nhiều tập tục, lễ hội, nhiều hình thức sinh hoạt cộng đồng bị mất dần. Điều này đã hủy hoại sự đề kháng văn hóa và tạo điều kiện cho tôn giáo, đặc biệt là đạo Tin lành phát triển. - Số dân các dân tộc rất chênh lệch nhau (có dân tộc như Ê-đê gần 25 vạn dân, có nhiều dân tộc hiện chỉ có dưới vài chục người như Khơ- mú, Hà nhì, Chu-ru, Pu-péo...), nên d ễ sinh tư tưởng định kiến, phân biệt dân tộc lớn, dân tộc nhỏ. N hững đặc điểm đó cho thấy, công tác quần chúng có mục tiêu to lớn là tạo lập sự nhất trí, sự đồng thuận của tất cả các tầng lớp xã hội, các thành phần dân tộc vì sự nghiệp chung, tạo sự tương đ ồng, hài hòa trong tính thống nhất của toàn dân tộc. Đồng bào DTTS tuy không nhiều về số lượng, nhưng là một đối tượng quan trọng trong công tác dân vận của Đảng. Nếu như trước đây sự ổn định chính trị thường đ ược quan niệm gắn liền với sức mạnh kinh tế, quân sự (tuy nhiên trên thực tế không phải bao giờ cũng như vậy), thì ngày nay, sự ổn định chính trị phải là tổng hợp của sức mạnh kinh tế, chính trị, văn hóa, an ninh, quốc phòng, đối ngoại…; trạng thái ổn định chính trị chỉ vững chắc khi tất cả các lĩnh vực dân tộc, tư tưởng, tôn giáo… cùng đạt được sự ổn định tương ứng. Chính vì thế, công tác vận động đồng bào DTTS của Đảng là một trong những nhân tố góp phần ổn định tình hình an ninh chính trị của tỉnh, chống lại âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch và góp phần vào sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay. 1 .1.1.3. Đặc thù của công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số ở Đác Lắc - Về đối tượng vận động N ét nổi bật của hai dân tộc Ê-đê, M'nông là đời sống xã hội mang đậm tính huyết thống (dòng họ) và tính cộng đồng hết sức bền chặt. Buôn của đồng bào Ê-đê hay bon của đồng bào M'nông là các đơn vị cơ
- 16 sở của x ã hội, có nơi cư trú và nơi canh tác riêng, có bến nước và nghĩa địa riêng mặc nhiên được các buôn (bon) khác thừa nhận. Mỗi buôn có một già làng. Mặc dù, trong xã hội hiện đại có sự tác động của nhiều nếp sống mới, nhưng vai trò của già làng trong xã hội người DTTS ở Đác Lắc vẫn còn rất lớn. Già làng là người điều hành toàn bộ các hoạt động truyền thống trong xã hội của đồng bào. Tiếng nói của già làng thường đóng vai trò quyết định trong mọi sự việc. Hầu như mọi việc trong làng được giải quyết thông qua vai trò già làng. Trong từng đơn vị buôn, làng có sự tồn tại bền vững của những mối quan hệ xã hội cổ truyền tốt đẹp được hình thành qua quá trình lịch sử lâu dài đáng kể nhất là quan hệ giữa dân làng với già làng, chủ buôn; giữa các thành viên trong cùng một buôn; giữa các gia đình trong một dòng tộc; giữa cha mẹ với con cái... Trong các mối quan hệ đó, tinh thần cộng đồng, dân chủ, bình đẳng, tương thân tương ái... là đặc điểm nổi bật chi phối đời sống của đồng bào. Thành viên của buôn (b on) là các đại gia đình mẫu hệ, có nhiều thế hệ cùng chung sống trong một nhà dài, do một người phụ nữ cao tuổi nhất hoặc có uy tín nhất đứng ra trông nom tài sản, hướng dẫn sản xuất, do vậy sự chi phối của họ đối với gia đình, xã hội thường rất quan trọng. - Đặc điểm tâm lý, xã hội. Cả đồng bào Ê-đê và đồng bào M'nông đều rất hiền hòa, hiếu khách, có lòng nhân ái, sống thật thà, đ ôn hậu. Yêu thiên nhiên, yêu con người, yêu hòa bình, nhưng đồng thời cũng rất ngoan cường, dũng cảm, có tinh thần thượng võ, trong đó nổi bật hơn cả là ý chí đấu tranh bất khuất chống chọi với thiên nhiên và đấu tranh bảo vệ buôn làng, bảo vệ quê hương, đất nước. Đồng bào DTTS luôn nói đi đôi với làm, dễ tin và đã tin thì tin tuyệt đối; nếu đã hứa thì khó khăn mấy cũng thực hiện, ai không thực hiện thì mất niềm tin. Cho nên, đối với đồng bào, không có gì nguy hại hơn là để họ
- 17 mất niềm tin. Đồng bào đã mất niềm tin với ai thì dứt khoát không bao giờ nghe theo. Cũng như các dân tộc khác, đồng bào các DTTS ở Đác Lắc sống gắn bó với cộng đồng, hết lòng vì cộng đồng, nhưng đồng bào cũng có lợi ích thiết thân của mình. Do đó, trong công tác vận động đồng b ào phải quan tâm đến lợi ích thiết thân của đồng bào. Chủ nghĩa Mác đã chỉ ra rằng: muốn vận động quần chúng phải quan tâm đến lợi ích thiết thân của họ; lợi ích là một động lực thúc đẩy con người hành động. Nhưng, cần chú ý rằng, lợi ích phải được hiểu là những gì thiết thực, cụ thể, gắn với cuộc sống hàng ngày của đồng bào, chứ khô ng phải là những thứ họ chỉ thấy trong các báo cáo hoặc là những sự hứa hẹn suông. 1 .1.2. Tầm quan trọng của sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Đác Lắc đối với công tác vận động quần chúng nói chung và công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số theo đạo Tin lành nói riêng Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công” [39, tr.35]. Những lời căn dặn ấy cho thấy, công tác dân vận là nhiệm vụ hàng đầu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngay từ những năm đầu thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta đã nhấn mạnh: “Đổi mới và tăng cường sự lãnh đ ạo của Đảng đối với công tác quần chúng, giữ vững mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và toàn bộ sự nghiệp cách mạng” [18 , tr.65]. Từ đó, Đ ảng ta luôn luôn coi công tác vận động, tổ chức quần chúng tham gia công việc cách mạng là vấn đề chiến lược xuyên suốt mọi thời kỳ cách mạng. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, công tác dân vận tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, mọi giai cấp, tầng lớp, các giới đồng bào… Nó góp phần phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc, xây dựng đất nước giàu mạnh, công bằng, văn minh, hạnh phúc.
- 18 Đối với Đác Lắc, công tác vận động quần chúng cũng nhằm tăng cường hơn nữa mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, xây dựng mối quan hệ đoàn kết các thành phần dân tộc trong tỉnh, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính trị trong tỉnh. Tầm quan trọng của sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Đác Lắc đối với công tác vận động đồng bào các DTTS theo đ ạo Tin lành thể hiện ở những nội d ung sau: Một là, để đảm bảo cho công tác này thực hiện đ úng định hướng và đạt đ ược đ ầy đủ các mục tiêu, yêu cầu: - Củng cố mối quan hệ đoàn kết, thống nhất trong cộng đồng các dân tộc. Đồng bào các DTTS ở Đác Lắc từ bao đời nay sống và làm việc trong mối quan hệ cộng đồng tốt đẹp. Trong đấu tranh cách mạng trước đây, cũng như trong công cuộc xây dựng xã hội mới hiện nay, đồng bào luôn có những đóng góp tích cực và hiệu quả. Việc một bộ phận đồng bào DTTS theo Tin lành là d o những lý do khác nhau, một b ộ phận do nhu cầu chính đáng và tôn giáo thuần túy, nhưng có một bộ phận b ị lôi kéo, lừa bịp, khống chế buộc đi theo. Do đó, Đảng bộ tỉnh p hải chỉ đạo hệ thống chính trị các cấp trong tỉnh nhận rõ những vấn đề này, từ đó có những nội dung và phương pháp vận động thích hợp, hiệu quả. Đối với quần chúng phải tuyên truyền, vận động, giáo dục đồng bào nhận rõ và ý thức đ ược đầy đủ trách nhiệm công dân đối với xã hội, thực hiện tự do tín ngưỡng, tôn giáo, giúp họ nhận ra được âm mưu và tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh chống lại âm mưu lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để kích động chia rẽ của các thế lực thù đ ịch. - Phát huy sức mạnh của cộng đồng các dân tộc trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. N hân dân là lực lượng đông đ ảo tiến hành mọi nhiệm vụ, thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đồng bào DTTS theo đạo Tin lành ở Đác Lắc là
- 19 một đối tượng đặc biệt trong công tác dân vận của tỉnh, nhưng họ cũng chính là một bộ phận dân cư cấu thành các thành phần dân tộc trong tỉnh. Cho nên, phải xem đây là một bộ phận nhân dân cấu thành, lực lượng lao động, sức mạnh chung của tỉnh. Bộ phận theo Tin lành vì bị lợi dụng, lừa mị nhằm phục vụ cho mục đích chính trị xấu xa của chúng chỉ là thiểu số , và ngay cả khi họ lầm đường, lạc lối, họ vẫn là những q uần chúng của Đảng. Họ phải được giáo dục, tập hợp thành một khối đoàn kết thống nhất d ưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, xã hội, văn hoá, quốc p hòng, an ninh của tỉnh. Hai là, sự lãnh đ ạo công tác vận động quần chúng của Đảng bộ tỉnh xuất phát từ yêu cầu giữ vững ổn định tình hình an ninh chính trị trên địa bàn trong điều kiện các thế lực thù đ ịch tập trung chống phá ta về nhiều mặt, đặc biệt là việc lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo để lôi kéo một bộ phận đồng bào DTTS biểu tình bạo loạn, gây rối, vượt biên trái phép... Hiện nay, ở tỉnh Đác Lắc cũng như ở toàn vùng Tây Nguyên nói chung, yêu cầu, nhiệm vụ đấu tranh chống chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù đ ịch trên các vấn đề dân tộc, tôn giáo đ ược đặt ra một cách trực tiếp và cấp b ách. Các sự kiện biểu tình, bạo loạn của một bộ phận đồng bào DTTS ở Tây Nguyên vào các năm 2001 và 2004 thực chất sâu xa là do một bộ phận quần chúng bị lừa bịp, lôi kéo dưới chiêu bài đ òi thành lập “Nhà nước Đê-ga độc lập”, đòi trả đất cho người DTTS, đòi đuổi người Kinh ra khỏi Tây Nguyên… trong âm mưu lớn là gây mất ổ n định chính trị ở Tây Nguyên, đẩy nhân dân đ ến chỗ chống đối chính quyền, chia rẽ dân tộc, kích động chủ nghĩa ly khai, tạo cớ để quốc tế hóa vấn đề và nước ngoài can thiệp. Trên thực tế, một bộ phận không nhỏ những người tham gia biểu tình là những tín đồ Tin lành. Do vậy, sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh đối với công tác vận động quần chúng nói chung và vận động đồng bào DTTS theo Tin lành nói riêng là yêu cầu hết sức cần thiết. Đảng bộ chẳng những định hướng,
- 20 mà còn đề ra những yêu cầu cụ thể đối với toàn hệ thống chính trị trong việc đặt công tác quần chúng đúng với yêu cầu và vị trí của nó, làm cho công tác quần chúng góp phần tích cực vào việc giữ vững sự ổn định về an ninh, chính trị, trên cơ sở đó phát triển kinh tế - xã hội một cách hiệu quả. Ba là, lãnh đạo công tác vận động quần chúng là thước đo và còn là một trong những nội dung để nâng cao toàn diện năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng các cấp. N ăng lực lãnh đạo của các tổ chức và cấp ủy đảng thể hiện trên nhiều lĩnh vực và ở kết q uả ho ạt động của toàn bộ hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo bằng định hướng chính trị, bằng cô ng tác tổ chức - cán bộ, bằng công tác kiểm tra và bằng sự gương mẫu của đảng viên. Chính quyền làm công tác dân vận bằng việc ra quyết định, chủ trương đúng đắn, hợp lòng dân, tổ chức điều hành có hiệu quả việc thực hiện các quyết định, chủ trương đó. Mặt trận và các đoàn thể nhân dân làm công tác quần chúng bằng việc tuyên truyền, vận động tập hợp họ xây dựng và thực hiện các phong trào hành động cách mạng. Thông qua công tác quần chúng ở cơ sở, Đảng bộ kiểm nghiệm tính đúng đắn những chủ trương, chính sách của mình, để xác định tính hiệu quả trong việc thực hiện các chủ trương, kế hoạch cô ng tác và đánh giá, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên. Lãnh đạo công tác quần chúng bằng những nội dung, hình thức và phương pháp tốt là cơ sở để tạo nên sự ổn định x ã hội, đồng thời cũng là cơ sở để đánh giá năng lực lãnh đạo toàn diện của các cấp ủy đảng địa phương. Như vậy, vai trò lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Đác Lắc đối với công tác vận động quần chúng nói chung và công tác vận động đồng bào DTTS theo đạo Tin lành nói riêng chính là thể hiện ở sự lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị trong tỉnh thông qua công tác quần chúng để đoàn kết và
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản trị nhân sự tại công ty xe đạp- xe máy Đống Đa - Hà Nội
78 p | 2264 | 1290
-
Luận văn: “Một số giải pháp hỗ trợ và thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ ARTEXPORT sang thị trường Nhật Bản”
85 p | 766 | 343
-
Luận văn: Một số giải pháp Marketing nhằm nâng cao khả năng tiêu thụ sản phẩm tại Công ty Thiết bị và phát triển chất lượng
67 p | 689 | 306
-
Luận văn "Một số giải pháp thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào VN"
63 p | 401 | 185
-
Luận văn:Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty TNHH may xuất khẩu Minh Thành
98 p | 466 | 162
-
Luận văn: Một số giải pháp chủ yếu góp phần phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế
106 p | 408 | 159
-
Luận văn: " Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong giai đoạn hiện nay"
61 p | 327 | 147
-
Luận văn “Một số giải pháp nhằm thu hút FDI vào các KCN trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh”
35 p | 366 | 136
-
Luận văn: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng theo chuẩn mực và thông lệ Ngân hàng quốc tế
144 p | 304 | 111
-
Luận văn: “Một số giải pháp thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm của Công ty Dệt May Hà Nội”
68 p | 320 | 92
-
Luận văn - Một số giải pháp nâng cao hiệu quả TTHH ở Công ty Thương Mại Gia Lâm Hà Nội
46 p | 212 | 82
-
Luận văn: Một số giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của đạo đức tín đồ Công giáo trong quá trình đổi mới của địa phương và của đất nước
71 p | 523 | 81
-
Luận văn: " Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu ở công ty dâu tằm tơ I- Hà Nội "
72 p | 239 | 79
-
Luận văn: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động kế toán và nâng cao chất lượng thông tin kế toán trong các doanh nghiệp Việt Nam
93 p | 247 | 58
-
Luận văn: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu tại Công ty Cổ phần xuất nhập khẩu thương mại Việt Tuấn
66 p | 195 | 48
-
Luận văn: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TUYỂN DỤNG GIÁO VỤ TẠI CÔNG TY TNHH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THẦN ĐỒNG.
75 p | 170 | 22
-
Luận văn: Một số giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam
42 p | 160 | 21
-
Luận văn: Một số giải pháp tài chính chủ yếu nâng cao hiệu quả tổ chức sử dụng vốn kinh doanh tại công ty cổ phần Thiờn Tõn
52 p | 155 | 19
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn