intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn nuôi trồng thủy sản: Theo dõi một số chỉ tiêu sinh sản và quá trình phát triển phôi của cá hô (catlocarpio siamensis)

Chia sẻ: Nguyen Khanh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:45

129
lượt xem
26
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn nuôi trồng thủy sản: Theo dõi một số chỉ tiêu sinh sản và quá trình phát triển phôi của cá hô (catlocarpio siamensis). Mời các bạn cùng tham khảo bài luận văn dưới đây.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn nuôi trồng thủy sản: Theo dõi một số chỉ tiêu sinh sản và quá trình phát triển phôi của cá hô (catlocarpio siamensis)

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ KHOA SINH HỌC ỨNG DỤNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THUỶ SẢN MÃ SỐ: 52620301 THEO DÕI MỘT SỐ CHỈ TIÊU SINH SẢN VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN PHÔI CỦA CÁ HÔ (Catlocarpio siamensis) Cán bộ hướng dẫn Sinh viên thực hiện Ts. PHẠM MINH THÀNH BÙI SƠN NÊN Ths. ĐẶNG VĂN TRƯỜNG MSSV: 0853040072 Lớp: NTTS K3 Cần Thơ, 2012 1
  2. CHƯƠNG 1 ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1 Giới thiệu Hệ thống sông Mê Công được xem là một trong những hệ thống sông lớn nhất và mầu mớ nhất Việt Nam. Nó cung cấp thực phẩm và sinh kế cho hàng triệu cư dân. Sông Mê Công chứa đựng một trong những khu hệ cá phong phú và đa dạng nhất trên thế giới. Có ít nhất 1.200 loài cá đang sống ở đây đại diện cho nhiều họ, trong đó có 40 loài cá quan trọng và 3 loài liệt vào loài có nguy cơ tuyệt chủng hoặc nguy cơ đặc biệt (MRC, 2005). Trong đó, cá Hô (Catlocarpio siamensis) là loài duy nhất của giống Catlocarpio được Ủy hội sông Mê Công (MRC) xếp vào danh sách loài cá sông quan trọng ở hạ lưu sông Mê Công cần được bảo vệ. Cá Hô là một loài cá nổi bật bởi kích thước khá lớn, chất lượng thịt rất ngon, có giá trị kinh tế rất cao, nhất là cá lớn. Cá Hô được xem là loài cá lớn nhất trong họ Cá Chép (Cyprinidae), có thể dài đến 3m và nặng đến 300 kg. Cá Hô được xếp vào 1 trong 10 loài cá khổng lồ của sông Mê Công bên cạnh cá Tra dầu, Vồ cờ…Tuy nhiên, số lượng cá Hô được đánh bắt ngoài tự nhiên đã giảm sản lượng nghiêm trọng, người ta nghi ngờ rằng một số ngư cụ đang sử dụng đã gây nên sự giảm sút này. Đi đôi với những loại ngư cụ bất hợp pháp đang còn sử dụng phổ biến như nổ mìn hoặc đánh thuốc độc thì một số ngư cụ hợp pháp đặc biệt là lưới bén cũng gây ảnh hưởng nghiêm trọng. Nhưng mối đe dọa hơn cả đối với loài cá này là ảnh hưởng do phương thức quản lý nguồn nước như thủy lợi, thủy điện, chống lũ gây nên. Vì vậy, việc nghiên cứu sinh sản nhân tạo loài cá Hô là một yêu cầu cấp thiết để tìm giải pháp khôi phục đàn cá tự nhiên, bảo tồn nguồn gen quí hiếm, gìn giữ sự đa dạng sinh học thủy sản. Ngoài ra, còn chủ động cung cấp giống cho người nuôi, làm phong phú cơ cấu giống loài, tăng thêm nguồn thực phẩm thủy sản quý đáp ứng cho nhu cầu xã hội. Trước tình hình đó, được sự phân công của Khoa Sinh Học Ứng Dụng, Trường Đại học Tây Đô, đề tài “Theo dõi một số chỉ tiêu sinh sản và quá trình phát triển phôi của cá Hô (Catlocarpio siamensis)” được thực hiện. 1.2 Mục tiêu nghiên cứu Thu thập một số dẫn liệu về kết quả kích thích sinh sản của cá Hô bằng loại và liều lượng hormone khác nhau; góp phần làm cơ sở cho những giải pháp kỹ thuật, đạt hiệu quả kích thích sinh sản. 1.3 Nội dung nghiên cứu Xác định tỷ lệ thành thục của của cá bố mẹ trong ao nuôi vỗ. 2
  3. Kích thích sinh sản cá Hô bằng não thùy + LHRH_a + Dom. Kích thích sinh sản cá Hô bằng não thùy + HCG. Xác định thời gian phát triển phôi của cá. Xác định thời gian cá dinh dưỡng bằng noãn hoàng. Xác định thời điểm cá bắt đầu ăn thức ăn ngoài môi trường. 3
  4. CHƯƠNG 2 LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 2.1 Đặc điểm sinh học cá Hô 2.1.1 Phân loại Theo Boulenger (1898), cá Hô được phân loại như sau: Ngành: Chordata Lớp: Actinopterygii Bộ: Cypriniformes Họ: Cyprinidae Giống: Catlocarpio Loài: Catlocarpio siamensis Boulenger, 1898 Tên tiếng Anh: Giant barb 2.1.2 Hình thái Hình 2.1 Cá Hô (Nguồn: www.bestfish4u.com) Theo Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương (1982), cá Hô có đầu to, miệng rộng và co duỗi được, lỗ mang rộng, màng mang phát triển. Phần trước thân có tiết diện tròn, phần sau dẹp bên. Vảy tròn, to phủ khắp thân, phần lộ ra của vảy có hình lục giác. Đường bên hoàn toàn chạy dài từ mép trên của lỗ mang và chấm dứt ở điểm giữa góc vi đuôi, phần sau đường bên nằm trên trục giữa thân. Vây lưng nằm lệch về nữa sau của thân. Tia đơn vây lưng và vây hậu môn hóa xương không hoàn 4
  5. toàn. Vây đuôi chẻ 2 rảnh sâu hơn 1/2 chiều dài của vây. Mặt lưng của thân và đầu có màu xám đen và lợt dần xuống bụng, bụng có màu trắng bạc. Ở mặt bên và lưng có sắc tố đen viền xung quanh phần lộ ra của vảy tạo thành hình mạng lưới. Phần ngọn của các tia vi có màu đen. Theo Mai Đình Yên (1992), cá Hô có thân thon dài, hơi hẹp hai bên. Đầu rộng. Miệng ở đầu mõm, hàm kéo dài đến quá viền trước của mắt. Môi dưới rất dày. Mõm hơi hếch lên, mặt lưng của đầu giữa mắt và mõm lõm xuống. Mắt to, không có râu, vây lưng cao, tia đơn không hoá xương, gốc phủ vẩy nhỏ. Vây ngực, vây bụng, vây hậu môn ngắn. Các vây màu đỏ có viền đen. Cá có kích thước lớn. Giá trị kinh tế cao. 2.1.3 Phân bố Theo Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương (1982), Cá Hô sống ở nước ngọt, phân bố ở sông Mê Công, cá có mặt ở Lào, Thái Lan, Campuchia và Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) Việt Nam. Cá Hô gặp ở mọi nơi thuộc hạ lưu sông Mê Công, nhưng rất hiếm đoạn từ trên thác Khôn trở lên (MRC, 2005). Những nơi này thường đánh được cá giống là ở các vùng ngập, nhưng cá cở lớn hiện nay rất hiếm (A.F. Poulsen, 2005). Ở Thái Lan, cá giống có chiều dài từ 2 - 6 cm được tìm thấy ở Chian Saen thuộc tỉnh Chiang Rai, Tab Phanom và Khemaratah thuộc tỉnh Ubol Ratchathani (MRC. Catch and Culture, 2005) Ở Campuchia vào mùa sinh sản, cá giống đi xuôi dòng từ Stung Streng đến hồ Tonle Sap và các nhánh sông nhỏ, ở đây thu mẫu tìm thấy mỗi ngày có trên 10 triệu cá con trôi dạt xuôi dòng xuống hạ lưu sông Mê Công, trong đó có cá Hô giống cỡ 10 - 12 cm cũng được tìm thấy (Hortle et al, 2004) (Trích bởi Thi Thanh Vinh, 2008). Ở Việt Nam thường thấy cá Hô có kích thước lớn phân bố ở khu vực Vàm Nao, vùng tiếp giáp giữa sông Tiền và sông Hậu, nơi có nhiều hố xoáy sâu thích hợp cho cá đến trú ẩn, đôi khi ở đây còn gặp được cỡ cá lớn hàng trăm kg (Thi Thanh Vinh, 2008). Cá non thường bắt được ở khắp vùng ngập Campuchia và Việt Nam. Nghề đáy ở Tonle Sap cũng thường bắt được cá non cỡ lớn nhưng số lượng không nhiều. Cá trưởng thành thỉnh thoảng cũng đánh được dọc theo các lưu vực sông nhưng ngày càng một hiếm (A.F. Poulsen, 2005). Hiện nay, Sản lượng cá Hô đã và đang giảm sút đến mức báo động, ít đánh bắt được, có nguy cơ bị diệt chủng. Cá Hô là loài cá đã được ghi trong sách Đỏ Việt Nam, mức độ diệt chủng ở bậc E, cần được bảo vệ khẩn cấp (Nguyễn Văn Hảo, 1993). 5
  6. 2.1.4 Đặc điểm dinh dưỡng Dinh dưỡng là một trong những chức năng quan trọng nhất của cơ thể cá. Nhờ hoạt động của hệ tiêu hoá mà vật chất dinh dưỡng từ môi trường ngoài được chuyển vào cơ thể dưới dạng thức ăn, nhằm cung cấp năng lượng cho hoạt động sống của cơ thể như bơi lội, kiếm ăn, sinh trưởng và sinh sản (Trần Ngọc Tuyền, 2008). Theo Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm (2009), mỗi lài cá ăn một số loại thức ăn nhất định được người ta gọi là “phổ thức ăn”. Có nhiều căn cứ làm cơ sở cho những hình thức phân chia tính ăn của cá. Theo số loại thức ăn thì tính ăn của cá có thể là đơn thực, có thể là hẹp thực, có thể là rộng thực. Tuy nhiên, hiện nay, tính ăn của cá được chia theo các nhóm: cá ăn thực vật, cá ăn động vật và cá ăn tạp. Theo MRC (2005), cá Hô thuộc loài ăn tạp, di chuyển chậm. Thức ăn phần chính là những thủy sinh vật như tảo, động vật nhỏ, nhuyễn thể, giáp xác, giun, rong và trái cây,… Thỉnh thoảng ăn cả cá con. Cá Hô có miệng rất rộng, thuộc loại miệng trên, cá tìm thức ăn ở tầng mặt và tầng giữa, bắt mồi chủ động và tầng số bắt mồi thấp (Huỳnh Hữu Ngãi, 2009). Cá Hô từ 1 - 30 ngày tuổi sử dụng được các loại thức ăn như: Tảo lục (Chlorophyta), Moina, Artemia và thức ăn công nghiệp dạng viên mảnh (Huỳnh Hữu Ngãi, 2009). Trong nuôi thương phẩm có thể dùng thức ăn viên có hàm lượng đạm từ 25 - 30% hoặc thức ăn tự chế gồm 50% cám và 50% bột cá. Khẩu phần ăn hàng ngày là 2 - 3% trọng lượng thân (Huỳnh Hữu Ngãi, 2009). 2.1.5 Đặc điểm sinh trưởng Theo Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm (2009), sinh trưởng là sự gia tăng về kích thước, về khối lượng cá theo thời gian, là kết quả của quá trình trao đổi chất. Những loài cá khác nhau thì có tốc độ sinh trưởng khác nhau. Sống trong điều kiện môi trường thuận lợi (nhất là dinh dưỡng) thì cá có tốc độ tăng trưởng nhanh, đặc biệt quan trọng đối với cá trong những giai đoạn đầu của chu kỳ sống. Thức ăn là cơ sở cung cấp vật chất dinh dưỡng cho cá, cần phải đáp ứng đủ về chất và lượng theo nhu cầu dinh dưỡng thì cá mới duy trì nhịp điệu sinh trưởng tốt (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009). Theo Huỳnh Hữu Ngãi (2009), cá Hô thuộc giai đoạn từ cá bột lên cá hương mất khoảng 30 ngày, từ cá hương lên cá giống mất khoảng 60 ngày. Ấu trùng khi nở dài khoảng 6 cm. Cá tăng trưởng từ 100 - 700 gram trong năm đầu và tăng đến 2kg vào năm thứ nhì. Trong các điều kiện môi trường nhân tạo cá phải mất 7 năm để trưởng thành. 6
  7. Trích bởi Thi Thanh Vinh (2008), theo Potharos (1967) thì cá Hô là loài tăng trưởng rất nhanh, trong tự nhiên có thể tăng trọng từ 2 - 4 kg trong thời gian 8 tháng. Vì trong tự nhiên có nguồn thức ăn phong phú, điều kiện sống thuận lợi, tính ăn rộng nên chúng có thể tìm thức ăn ưa thích dễ dàng. Trong thử nghiệm nuôi đơn trong ao tại Trung Tâm Quốc gia Giống Thủy sản nước ngọt Nam bộ (Viện NCNTTS II), thì năm thứ nhất sau 9 tháng nuôi cá đạt trọng lượng trung bình 456 g/con, năm thứ hai sau 21 tháng cá đạt trọng lượng trung bình 2.614 g/con và sau 32 tháng đạt 6.000 g/con (Nguyễn Văn Khánh, 2005). Nuôi ghép trong bè ở An Giang sau 32 tháng nuôi cá đạt trọng lượng trung bình 8 kg/con, lớn nhất 11 kg và nhỏ nhất là 6kg (Huỳnh Hữu Ngãi, 2009). Theo Huỳnh Hữu Ngãi (2009), cá Hô nuôi ghép có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn nuôi đơn, nên chọn mô hình nuôi ghép để góp phần tăng thu nhập trong quá trình nuôi vì cá Hô có kích thước rất lớn nên đòi hỏi thời gian nuôi phải rất dài thì cá mới đạt kích cỡ thương phẩm theo yêu cầu của thị trường. Cá Hô có thể lớn tới 300 cm, nhưng thông thường chỉ đến 100 – 200 cm (A.F. Poulsen, 2005). Cở cá ngư dân thường đánh bắt được có khối lượng từ 80 – 150 kg (Nguyễn Văn Hảo, 1993). 2.1.6 Đặc điểm sinh sản Sinh sản là đặc trưng cơ bản của cá để tạo ra thế hệ mới duy trì và phát triển nòi giống, là hoạt động thể hiện cao nhất sự thích nghi với điều kiện môi trường sống (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009). Theo Bộ Thủy sản (1996), mùa vụ sinh sản của cá Hô từ tháng 5 đến tháng 7. Nhưng trong điều kiện nhân tạo nuôi trong ao nước tĩnh, thì mùa vụ sinh sản kéo dài từ tháng 3 đến tháng 11, đó là do trong điều kiện nuôi cá được cho ăn đầy đủ cả về chất và lượng, bố trí mật độ nuôi thích hợp và được chăm sóc kỹ về các chế độ như thay nước, kích thích sự phát dục, quản lí môi trường,… Theo MRC (2005), Cá thể cái 60 kg có thể đẻ 400.000 trứng, cá Hô có đặc điểm di cư sinh sản gần giống với một số loài cá khác ở sông Mê Công, tức là chúng đẻ trứng ở dòng chính, trứng và ấu trùng trôi xuôi dòng đến nơi kiếm mồi và sinh trưởng ở đó trong suốt mùa lũ. Khi mức nước bắt đầu xuống chúng di chuyển ngược lại ra sông chính, di cư đến nơi ẩn náu cho mùa khô. Tuy nhiên, nếu so sánh với nhiều loài khác thì loài này phải trải qua nhiều năm mới thành thục. Cá thành thục sinh dục khi đạt trọng lượng 9 kg, tương ứng với tuổi thành thục là 7 tuổi. Đến mùa sinh sản cá di cư lên phần trung lưu sông để đẻ trứng. Cá có sức sinh sản lớn. Ở những cá cái lớn số lượng có thể đạt 6 - 7 triệu trứng, trứng có màu vàng nhạt hay nâu và lớn khoảng 1 mm, sau đó ngấm nước thành 3 mm. Số lượng trứng 7
  8. tùy theo trọng lượng của cá (Bộ thủy sản, 1996). Cá Hô là loài cá đẻ trứng bán trôi nổi, có đường kính trứng 0,09 - 1,17 mm, tương đương với một số loài thuộc họ cá chép khác như cá ét mọi, cá mè hôi. Sau khi trương nước trứng nổi lơ lững trong điều kiện có nước chảy nhẹ. Do đó có thể ấp trứng trong bình weise, trong bể composite, bể vòng có kết hợp với sục khí, ở nhiệt độ 28 - 30 oC trứng nở sau 12 – 12 giờ 30 phút (Huỳnh Hữu Ngãi, 2009). 2.2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 2.2.1 Nuôi vỗ Nuôi vỗ cá bố mẹ là một khâu có ý nghĩa quan trọng và là cơ sở vật chất có ý nghĩa quyết định trong việc sinh sản nhân tạo. Sự phát dục của tuyến sinh dục có quan hệ chặt chẽ với chế độ dinh dưỡng. Kỹ thuật nuôi vỗ hợp lý sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ thành thục, tỷ lệ cá đẻ, tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ nở và tỷ lệ sống của cá con. Thức ăn có nguồn gốc động vật hay thực vật điều có các thành phần chính như protid, lipid, carbohydrate, vitamin và chất khoáng. Thành phần và chất lượng thức ăn khi nuôi vỗ cá có ý nghĩa quyết định đến sự thành thục của cá. Thức ăn là một trong những yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến sinh trưởng và sinh sản cá. Các chất dinh dưỡng được cung cấp từ thức ăn là nguồn năng lượng cho mọi hoạt động sinh lý của cơ thể. Sự phát dục của tuyến sinh dục có quan hệ chặt chẽ với chế độ dinh dưỡng, không chỉ phụ thuộc vào số lượng mà còn phụ thuộc và chất lượng thức ăn. Điều kiện dinh dưỡng không những có ảnh hưởng lớn đến tỷ lệ thành thục mà còn có ảnh hưởng rất lớn đến sức sinh sản thực tế. Khi số lượng thức ăn đầy đủ và chất lượng phù hợp là điều kiện tốt nhất cho quá trình thành thục sinh dục. Hiện tượng sinh sản là một quá trình thích nghi nhằm duy trì nòi giống. Để chuẩn bị cho một mùa sinh sản, trước đó cá phải trải qua một thời kỳ tích luỹ chất dinh dưỡng. Qui luật chung đối với các loài cá là trước mùa thành thục sinh dục, cá có một thời gian tăng cường độ bắt mồi, tích luỹ chất dinh dưỡng. Trong tự nhiên thông thường trước mùa sinh sản là thời kỳ vỗ béo, cơ thể tăng khối lượng, chiều dài, độ béo. Các loài cá có thời kỳ vỗ béo dài hoặc ngắn khác nhau tuỳ từng loài. Muốn cho việc sinh sản đạt kết quả, cá nuôi trong ao cũng phải được trải qua thời kỳ vỗ béo. Các chất dinh dưỡng được tích luỹ từ trước được sử dụng cho hoạt động phát dục. Sự tích luỹ vật chất của thời kỳ đầu nuôi vỗ rất quan trọng. Vật chất cung cấp cho giai đoạn này chủ yếu được hấp thụ trực tiếp từ thức ăn bên ngoài. Còn trong giai đoạn nuôi vỗ thành thục, nguồn dinh dưỡng cung cấp cho buồng trứng chủ yếu được điều tiết nội bộ. Thức ăn không những là nguồn vật chất cho sự sinh trưởng, năng lượng cho sự trao đổi chất mà còn là nguyên liệu cung cấp cho buồng trứng và tinh sào. Những cá đói thì có hệ số thành thục thấp hoặc không thành thục mặc dù 8
  9. mọi yếu tố khác của môi trường trong thời gian thành thục trước vụ đẻ là thuận lợi. Những cá đang trong thời kỳ tạo noãn hoàng nếu bị đói trong thời gian dài thì buồng trứng có thể bị thoái hoá và tiêu biến. Thức ăn nuôi vỗ cá bố mẹ có ảnh hưởng đến chất lượng trứng và tỷ lệ sống của cá con (Wantanabe et. al., 1985)(Trích bởi Đặng Văn Trường và ctv., 2011). 2.2.2 Kích thích sinh sản nhân tạo Kích thích sinh sản đóng vai trò quan trọng trong thực tiển sản xuất đối với các loài cá nuôi. Trong điều kiện nuôi, cá không sinh sản tự phát. Các nguyên nhân ức chế sự sinh sản vẫn còn chưa biết đến, nhưng có thể liên quan đến các stress hoặc sự thiếu các yếu tố môi trường gây sinh sản tự nhiên. Sự phát triển tuyến sinh dục hoặc tái thành thục thường xãy ra một cách bình thường ở cá nuôi, nhưng sự ức chế quá trình sinh sản được gây ra bởi những yếu tố ngăn cản sự thành thục cuối cùng sự chín và sự rụng trứng. Đa số các loài cá nuôi vỗ trong ao với chế độ dinh dưỡng và điều kiện sinh thái thích hợp thì cá cái có thể thành thục sinh dục. Kích thích sinh sản đối với cá cái là tiêm các hoạt chất hoặc hormone có khả năng trực tiếp hay gián tiếp đưa đa số noãn bào chuyển sang giai đoạn chín và rụng trứng, trở nên cần thiết để vượt qua những trở ngại kích thích cá đẻ (Đặng Văn Trường và ctv., 2011) Tùy từng loài cá mà sử dụng loại hormon khác nhau để kết quả sinh sản đạt tỷ lệ cao nhất. Theo Huỳnh Hữu Ngãi (2009), đối với cá Hô, trong năm 2007 và 2008 thì loại và liều lượng kích dục tố để kích thích sinh sản cá được thể hiện ở bảng 2.1 như sau: Bảng 2.1. Loại và liều lượng kích thích tố sinh sản cá Hô, thực hiện năm 2007 và 2008 Liều sơ bộ/kg Liều quyết định/kg Năm và loại kích thích tố Cá cái Cá đực Cá cái Cá đực Não thùy (mg) 1-2,5 3,5-4 1,75-2 HCG (UI) 500 2.000-4.000 1.000-2.000 2007 Não thùy (mg) 1,5-3 0,75 LH-Rha (ug) 1,5-2,5 180-200 90-100 DOM (mg) 18-20 9-10 Não thùy (mg) 2 4 2 2008 HCG (UI) 500 4.000 2.000 (Nguồn: Huỳnh Hữu Ngãi, 2009) Sau khi cá đẻ sử dụng phương pháp thụ tinh khô cho trứng, khi trứng đã thụ tinh được cho vào bể composite để ấp, trong bể có nước chảy và sục khí liên tục (Huỳnh Hữu Ngãi, 2009). 9
  10. 2.2.3 Sự phát triển phôi và hậu phôi Theo Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm (2009), sau khi trứng thụ tinh trở thành hợp tử thì hình thành màng sơ cấp và trương lên cùng với màng thụ tinh. Kết quả tạo khoảng trống xung quanh trứng (gọi là xoang bao trứng) chứa đầy nước, có tác dụng như môi trường đệm (bảo vệ cho phôi phát triển). Mức độ trương nước khác nhau theo loài, cao nhất là trứng bán trôi nổi . Quá trình phát triển phôi từ lúc thụ tinh, tạo hợp tử từ sự kết hợp giữa tinh trùng và trứng trải qua một quá trình biến đổi với nhiều giai đoạn kế tiếp nhau. Cuối cùng là một cá thể trưởng thành, hoàn chỉnh, bao gồm nhiều hiện tượng sinh học quan trọng. Tốc độ phát triển của từng cá thể nhanh hay chậm phụ thuộc vào loài, điều kiện môi trường (Nhiệt độ, pH, Oxy,…) và một số tác nhân khác. Theo Đặng Văn Trường và ctv. (2011), quá trình phát triển phôi và hậu phôi cá trải qua 6 giai đoạn sau: a. Giai đoạn I Ngay khi rơi vào nước là bắt đầu sự hoạt hoá trứng. Trước tiên là tách màng thụ tinh và tạo xoang quanh noãn (periviteline) do các thông bào vỏ (các hạt vỏ) trương nước và vỡ ra. Quá trình vỡ hạt vỏ làm cho lớp tế bào chất vỏ tách làm đôi. Bên trong chứa đầy chất dịch xuất hiện khe quanh noãn. Phần ngoài lớp vỏ, cùng với một phần chất chứa của hạt vỏ gắn với màng noãn hoàng và màng phóng xạ tạo nên màng thụ tinh. Phần trong của lớp vỏ đông đặc lại và hình thành một lớp vỏ mới của trứng thụ tinh. Một phần chất chính của hạt vỏ tiếp tục hấp thụ nước làm cho xoang quanh noãn tiếp tục lớn lên. Màng thụ tinh và xoang quanh noãn có vai trò ngăn cản không cho các tinh trùng khác xâm nhập (Ginzburg, 1961). Trong noãn bào có các không bào chứa một số chất đặc biệt mà sau khi thụ tinh các chất này được tiết ra và thúc đẩy sự hút nước làm trứng trương lên (Sakun, 1960; Zotin, 1961). Sự hình thành xoang quanh noãn tạo một khoảng trống giữa màng trứng ở phía ngoài và noãn hoàng bên trong để cho phôi phát triển sau này. Bên trong dịch periviteline có áp suất thẩm thấu cao hơn để hấp thụ nước từ bên ngoài. Sự tăng kích thước sau khi thụ tinh được nhiều tác giả cho là hiện tượng có lợi tạo khoảng không gian cho phôi phát triển, giúp cho phôi cử động một cách tự do, tăng cường sự xáo trộn chất dịch quanh noãn hoàng và cải thiện điều kiện trao đổi khí trong quá trình phát triển (S. G. Soin,…). Lúc này màng trứng căng phồng giống như quả bóng được bơm đầy hơi. Màng thụ tinh trở nên cứng lại và đóng vai trò bảo vệ cho phôi phát triển sau này. 10
  11. Quá trình cứng màng vỏ có thể do hoạt động của enzym gây cứng mà sự hoạt động của enzym này cần phải có ion canxi (Zotin, 1958). b. Giai đoạn II Kiểu phân cắt ở hầu hết các loài cá nuôi là phân cắt đoạn noãn hoàng, còn gọi là phân cắt không hoàn toàn. Trứng chứa một lượng noãn hoàng rất lớn để cung cấp dinh dưỡng cho giai đoạn phát triển phôi và các giai đoạn đầu của hậu phôi (ấu thể). Đầu tiên tế bào chất chỉ là một khối nhỏ ở cực động vật. Ngay sau khi kết thúc quá trình hoạt hoá trứng, dần dần tế bào chất từ các khu vực ở phía cực động vật, kể cả lượng tế bào chất chen lẫn trong noãn hoàng di chuyển về phía cực động vật. Phía trên cực động vật, tế bào chất được tập chung lại hình thành đĩa phôi. Lúc đầu đĩa phôi còn mỏng, dần dần lượng tế bào chất tập chung càng nhiều và từ từ nhô lên hình thành phôi bào (1 tế bào). Ở nhiệt độ 28 – 30 oC, sau khi thụ tinh 30 phút xuất hiện một rãnh phân cắt thứ nhất phân chia phôi bào thành 2 tế bào. Sau 50 phúc xuất hiện rãnh phân cắt thứ hai, vuông góc với đường phân cắt thứ nhất cho ra 4 tế bào. Sau 1 giờ 40 phúc xuất hiện cùng lúc 2 đường phân cắt thứ ba và thứ tư nằm 2 bên và song song với đường phân cắt thứ nhất cho ra 8 tế bào. Các đường phân cắt tách các phôi bào nhưng không phân ly khỏi khối noãn hoàng. Quá trình tiếp tục phát triển trải qua các giai đoạn 16, 32, 64, 128 tế bào,… Càng về sau kích thước tế bào càng nhỏ, mà phôi lại gồm nhiều tế bào để rồi hình thành phôi dâu (morula). Phôi nang (blastula): tế bào tiếp tục phân chia, thứ tự và ranh giới không rỏ ràng, nhưng xoang phôi nang chưa hình thành có dạng hình cầu đó là thời kỳ phôi nang cao. Sau đó tầng phôi nang hình thành xoang ở chính giữa gọi là xoang phôi nang. Tế bào phôi nang bắt đầu bọc xuống khối noãn hoàng, tầng phôi nang trở nên dẹt, thời điểm này là phôi nang thấp. c. Giai đoạn III Phôi vị (gastrula): tầng phôi nang không ngừng phát triển. Khi sắp bắt đầu giai đoạn phôi vị, đĩa phôi trở nên mỏng hơn, rìa ngoài dày gọi là vòng rìa. Trong quá trình tạo phôi vị, vòng rìa và những phần ngoại vi của đỉa phôi bắt đầu mọc phủ lên bề mặt noãn hoàng. Khi vòng rìa bọc xuống tới gần đường xích đạo là thời kỳ giữa phôi vị. Vòng rìa từ từ tiến dần về phía cực thực vật và bao bọc toàn bộ khối noãn hoàng, đây là giai đoạn cuối phôi vị. Phôi vị hoá kết thúc bằng sự khép kín phôi khẩu bởi đóng nút noãn hoàng. d. Giai đoạn IV Tấm thần kinh bắt đầu hình thành ở giai đoạn phôi thần kinh. Sau đó không lâu ở chính giữa tấm thần kinh hơi nhô lên sẽ là vị trí đầu của phôi thể. Dọc theo hình trụ 11
  12. xuất hiện các đường phân cắt ngang hình thành mầm xương sống. Phôi hình thành 3 lá phôi và xoang phôi vị. Từ các lá phôi sẽ phân cắt ra các cơ quan nguyên thuỷ. e. Giai đoạn V Ở cá basa sau 24 giờ, thân phôi tách khỏi túi noãn hoàng. Phôi bắt đầu cử động, uốn éo từ bên này sang bên kia, xen lẫn là những động tác quay tròn. Ở nhiệt độ 28 – 30 o C, sau khi thụ tinh 29 giờ, bắt đầu xuất hiện sắc tố đen (melanophore) trên vách túi noãn hoàng. f. Giai đoạn VI Thời gian nở phụ thuộc vào nhiệt độ nước, trong phạm vi giới hạn nhiệt độ nước tăng thì thời gian nở của cá bột ngắn lại. Mỗi loài cá có thời gian nở khác nhau. 2.2.4 Thời gian dinh dưỡng noãn hoàng của cá Khi mới nở, cá dinh dưỡng bằng noãn hoàng do mẹ để lại. Thời gian này dài hay ngắn khác nhau tùy loài và tùy nhiệt độ nước (Lê Như Xuân và ctv., 1994). Thời gian này còn được gọi là thời kỳ dinh dưỡng tự cung cấp: Thủy sinh vật thuộc nhóm này dinh dưỡng nhờ các chất dự trữ chứa sẵn trong cơ thể (noãn hoàng, chất mỡ, chất đường) (Đặng Ngọc Thanh, 1974). Đây là giai đoạn đầu tiên của chu kỳ sống được bắt đầu khi trứng đã thụ tinh, tiến hành phân cắt. Đặc trưng dinh dưỡng của cá ở giai đoạn này là dinh dưỡng bên trong, có hệ số sử dụng năng lượng cao nhất ( tới hơn 50%) so với các giai đoạn khác trong chu kỳ sống. Vật chất dinh dưỡng là noãn hoàng, có được là do cá mẹ để lại từ trứng (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009). Giai đoạn phôi được chia làm 2 thời kỳ gồm: thời kỳ trứng và thời kỳ phôi tự do. Thời kỳ trứng: phôi phát triển trong vỏ trứng. Thời gian cần thiết để hoàn thành thời kỳ này khác nhau theo loài, khác nhau theo điều kiện sống (nhất là nhiệt độ) (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009). Thời kỳ phôi tự do: phôi phát triển ngoài vỏ trứng, thường gọi là thời kỳ trứng đã nở; được tính từ khi phôi thoát ra khỏi vỏ trứng (trứng nở) đến khi sử dụng hết noãn hoàng. Noãn hoàng là nguồn vật chất dinh dưỡng chính cung cấp năng lượng cho quá trình phát triển và được tiêu thụ chủ yếu ở thời kỳ này cho đến khi xuất hiện phase hỗn dưỡng (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009). 2.2.5 Thời điểm cá bắt đầu sử dụng thức ăn ngoài Hầu hết các loài cá bắt đầu sử dụng thức ăn ngoài trước khi tiêu biến hết noãn hoàng (Heming and Buddington, 1988) và đó là bản năng vốn có của chúng (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009). Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn 12
  13. Văn Triều và ctv. (2008), cá kết sau khi nở 45 giờ đã bắt đầu ăn thức ăn ngoài sớm hơn nhiều so với thời gian tiêu biến noãn hoàng (72 giờ). Theo Lã Ánh Nguyệt (2011), thời điểm cá bắt đầu dinh dưỡng bằng thức ăn ngoài phụ thuộc rất nhiều vào nhiệt độ môi trường. Nhiệt độ cao trong khoảng thích hợp cá sẽ bắt đầu sử dụng thức ăn ngoài sớm hơn. Theo Rana (1990), thí nghiệm trên cá rô phi Oreochromis niloticus cho thấy ở 24 oC cá bắt đầu ăn ngoài ở ngày tuổi thứ 8 nhưng ở 28 oC là vào ngày tuổi thứ 5 và ở 30 oC là vào ngày tuổi thứ 4. Theo Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm (2009), thức ăn phù hợp, tốt và được nhiều loài cá ưa thích ở giai đoạn đầu là động vật phiêu sinh có kích thước phù hợp với khả năng bắt mồi của cá như: moina, rotifer, trùn chỉ, Artemia,… Theo Lein and Holmefjord (1992), đặc điểm ăn ngoài trước khi hết noãn hoàng, một mặt tạo điều kiện để hệ thống tiêu hoá dần dần hoàn thiện chức năng, mặc khác kích thích phát triển tính ăn của loài. Vai trò của các enzym tiêu hoá có sẵn trong thức ăn trong tự nhiên thật sự rất quan trọng trong quá trình tiêu hoá của ấu trùng tôm cá (Walford and Lam, 1993). Theo Moran et. al., 1990, giai đoạn này cấu trúc ống tiêu hoá chưa hoàn chỉnh hệ enzym hoạt động còn yếu và chưa ổn định. Đã có rất nhiều nghiên cứu về ưu điểm của thức ăn tự nhiên. Chúng được nhận định là có dinh dưỡng cao, cung cấp nhiều amino acid và khoáng chất cần thiết, đặc biệt rất dễ tiêu hoá (Wantanable et. al., 1983). 2.3 Một số kết quả sinh sản nhân tạo cá Hô Theo Huỳnh Hữu Ngãi (2009), mùa vụ sinh sản của cá Hô ngoài tự nhiên từ tháng 5 đến tháng 7. Nhưng trong điều kiện nhân tạo nuôi trong ao nước tĩnh, thì mùa vụ sinh sản kéo dài từ tháng 3 đến tháng 11, đó là do trong điều kiện nuôi cá được cho ăn đầy đủ cả về chất và lượng, bố trí mật độ nuôi thích hợp và được chăm sóc kỹ về các chế độ như thay nước, kích thích sự phát dục, quản lí môi trường,… Bảng 2.2. Kết quả sinh sản nhân tạo cá Hô năm 2005, 2006, 2007 và 2008 Năm Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008 Số cá cái tham gia sinh sản (con) 6 9 35 34 Số cá cái rụng trứng hoàn toàn (con) 4 (66,7) 6 (66,7) 22 (62,9) 27 (79,4) hay (%) Trọng lượng cá đẻ róc (kg) 64 412,3 576,3 Tổng số trứng (trứng) 1.037.864 1.820.594 3.507.528 8.949.292 Sức sinh sản thực tế trung bình 14.099 21.048 8.868 18.417 (trứng/kg) Tỷ lệ thụ tinh (%) 54,7 40,8 33 39,11 Tỷ lệ nở (%) 38,7 64,6 66,9 55,34 Số lượng cá bột (con) 263.000 411.000 571.130 1.571.000 (Nguồn: Huỳnh Hữu Ngãi, 2009) 13
  14. Năm 2008 tỷ lệ cá đẻ 79,4%, tỷ lệ thụ tinh 39,11%, tỷ lệ nở 55,34%. Nhìn chung năm 2008 tỷ lệ cá đẻ được nâng cao và tương đối ổn định hơn so với các năm trước, là do rút kinh nghiệm các đợt cá đẻ cuối vụ năm 2007, chuyển qua sử dụng não thùy kết hợp với HCG thì cá đẻ tốt hơn giữa sự kết hợp não thùy và LHRH_a. Trứng cá Hô thuộc dạng bán trôi nổi, có đường kính 1,17 ± 0,09 mm, tương đương với một số loài thuộc họ cá chép khác như cá ét mọi, cá mè hôi. Sau khi trương nước trứng nổi lơ lửng trong điều kiện có nước chảy nhẹ. Do đó có thể ấp trứng trong bình weise, trong bể composite, bể vòng có kết hợp với sục khí. Ở nhiệt độ 28 – 30 oC trứng nở sau 12 - 12h30’. Sau khi nở 2 - 3 ngày thì cá bột hết noãn hoàng sẽ được chuyển ra bể hoặc ao ương (Huỳnh Hữu Ngãi, 2009). Cá Hô giữ địa vị quan trọng đối với nghề đánh cá ở Thái Lan, đã được sinh sản và thả giống vào hồ (A.F. Poulsen, 2005). Ở Việt Nam, cá Hô có giá trị kinh tế rất cao, được sản xuất giống thành công tại Viện NCNTTS II và Trung tâm giống Thuỷ sản An Giang. 2.4 Một số chất kích thích sinh sản ở cá Trong sản xuất giống thủy sản nói chung, sản xuất giống cá nói riêng, kích dục tố được sử dụng thường xuyên và cho hiệu quả cao. Ngoài việc chủ động về thời gian, thời điểm bố trí sinh sản, việc dùng kích dục tố còn kích thích cá đẻ đồng loạt, đẻ róc, cho tỷ lệ đẻ, tỷ lệ trứng thụ tinh, tỷ lệ nở, sức sinh sản tuyệt đối rất cao và hiệu quả hơn nhiều so với việc không dùng kích dục tố. Tùy thuộc vào những loại cá khác nhau mà sử dụng loại kích dục tố tương ứng. 2.4.1 LHRH_a (Luteotropin Hormon Releasing Hormon_analog) Năm 1973, các nhà khoa học Trung Quốc đã tổng hợp một peptid gồm 10 amino acid dưới tên thương mại là LRH_a hay LH-RH_a (Luteotropin Hormon Releasing Hormon_analog) hoặc Ovaprim (Canada). Ngày nay, các chất tổng hợp có sự thay thế amino acid tại một vài vị trí trên phân tử GnRH ít bị phân giải bởi các enzym và do đó hoạt tính mạnh gấp trăm đến ngàn lần so với các chất tự nhiên. Ngoài việc dùng các GnRH tiêm để kích thích cá đẻ trứng, các chất này còn có thể được cấy vào cá ở những giai đoạn khác nhau kích thích tạo noãn hoàng, thành thục và cho chúng đẻ đồng loạt (Đặng Văn Trường và ctv, 2011). LHRH_a là hormon nhân tạo. Loại hormon này có tác dụng như GnRH và được sử dụng kèm với thụ thể nhân tạo kháng Dompamin là Domperidon. Domperidon là tên hóa học của thụ thể nhân tạo, có tên thương mại phổ biến là Motilium. Ở nước ta, LHRH_a và Motilium được sử dụng trong khoảng 20 năm gần đây, hiện nay được dùng rất phổ biến trên nhiều loài cá, được nhập từ Trung Quốc, có giá rẽ lại không gây phản ứng phụ và phản ứng miễn dịch ở cá (nếu sử dụng với liều lượng hợp lí) (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009). 14
  15. 2.4.2 Não thùy thể (Hypophysis – tuyến yên) Não thùy thể tuyến yên được lấy ra từ những loài cá chép, trắm, mè, trê,… đã thành thục , còn tươi sống. Cá chết vài giờ thì hoạt tính kích dục chỉ còn khoảng 50%. Não thùy thể cá Chép được xem là kích dục tố mạnh cho nhiều loài cá kể cả các đối tượng khác họ và các loài cá biển (Nguyễn Tường Anh, 1999). Ở cá cái, tế bào basophyl trong thùy giữa não thùy của cá là bộ phận tiết ra kích dục tố gồm: FSH (Follicle Stimulating Hormone) – kích thích nang trứng hoạt động và sự lên lên của noãn bào, LH (Luteinizing Hormone) – gây sự rụng trứng và biến nang trứng thành thể vàng do tế bào kích dục (gonadotroph) tiết ra. Ở cá đực, chất LH có tên là ICSH (Interstitial Cell Stimulating Hormone) có tác dụng kích thích các tế bào kẽ (tế bào Leydig) trong tinh hoàn tiết ra hormone sinh dục đực và kích thích quá trình tạo tinh cũng như hoạt tính của các tế bào dinh dưỡng Setoli bên trong ống sinh tinh (Đặng Văn Trường và ctv., 2011). Kỹ thuật tiêm cá đẻ bằng não thùy đã được Houssay (1931) sử dụng lần đầu tiên. Liều lượng kích tố sử dụng cho cá đẻ phụ thuộc vào mức độ thành thục của cá, khối lượng hoặc chu vi vòng bụng của cá. Có thể tính toán lượng kích tố (não thùy) theo phương trình sau: Y = 0,125x – 1,75 Trong đó Y: lượng kích tố cần dùng (mg), x: chu vi vòng bụng của cá (cm). Những điều cần lưu ý chung khi dùng não thuỳ để kích thích cá sinh sản (Nguyễn Tường Anh, 2005) Hoạt chất não thuỳ lấy từ những cá thích hợp có tác dụng kích thích tuyến sinh dục phát triển, thúc đẩy sự thành thục hoàn toàn cũng như gây chín và rụng trứng và tiết ra tinh dịch. Khi định liều tiêm cho cá bố mẹ cần biết rõ xuất xứ não thuỳ vì: Não thuỳ lấy từ cá thành thục tốt hơn não thuỳ lấy từ cá chưa thành thục hoặc thành thục kém. Não thuỳ cá cái có hoạt tính kích dục gấp 2 – 3 lần não thuỳ cá đực cùng loài. Não thuỳ cá chép, cá trê mạnh gấp 1,5 – 2 lần não thuỳ cá mè, cá trắm và những loài không đẻ được trong ao. Não thuỳ cá rô phi không có tác dụng trên các loài cá nuôi ao. Não thuỳ của những cá bố mẹ sau khi đã đẻ nhờ tiêm kích dục tố vẫn có hoạt tính cao còn những loài tự đẻ thì không có hoạt tính. Não thuỳ lấy từ cá có tuyến sinh dục thoái hóa, hoặc tuyến sinh dục đang teo lại vào cuối vụ thì không có hoạt tính. 15
  16. Đơn vị hoạt tính cũa não thuỳ Đơn vị tính não thuỳ là: cái, mg và dose ( Dose là lượng não thuỳ dùng để tiêm cho cá khi trọng lượng của cá bị lấy não bằng trọng lượng của cá được tiêm) ( Nguyễn Tường Anh, 2005) 2.4.3. HCG (Human Chorionic Gonadotropin) HCG có tên tiếng Việt là kích dục tố màng đệm hoặc kích dục tố nhau thai, có nguời gọi HCG là Prolan B (Tên viết từ chữ cái Producto Lobi Anterioris) được Zondec và Aschheim phát hiện từ năm 1927 trong nước tiểu của phụ nữ có thai (Nguyễn Tường Anh, 2005). HCG được chiết suất từ nước tiểu người phụ nữ có thai ở tháng thứ 3. Cao nhất là khi mang thai được 50 ngày, cơ thể bài tiết 60000 UI/24h. Morozova (1936) là người đầu tiên sử dụng HCG gây rụng trứng ở cá perca pluviatilis (lúc ấy còn mang tên là Prolan B). HCG là loài kích dục tố dị chủng được dùng có hiệu quả cho nhiều loài cá. Ngoài các loài cá mè, cá trê, HCG còn có tác dụng gây rụng trứng cho các loài cá khác ở nước ta như cá chày, cá vền, cá trôi…Ở nước ngoài, HCG còn được dùng cho cá chình, cá nheo mang túi Ấn Độ, cá bơn, cá sóc, cá bống tượng. Thuốc được đóng gói trong lọ thủy tinh với lượng chứa 5.000 UI hoặc 10.000 UI (UI viết tắt của chữ đơn vị quốc tế - Unit International). Khi sử dụng cần pha với nước nấu chín hoặc nước muối sinh lý nhưng tốt nhất là nước muối sinh lý. Tác dụng của HCG là kích thích rụng trứng. HCG được bảo quản trong ampul hoặc trong lọ có nút cao su, hoạt tính HCG được giữ trong vài năm ( Nguyễn Tường Anh, 2005). Bảng 2.3: Tác dụng cuả một số loại kích dục tố Kích dục tố Tác dụng chính FSH (GTH1) Kích thích tạo noãn hoàng, kích thích nang trứng hoạt động (1) LH (GTH2) Kích thích trứng chín và rụng, biến nang trứng thành thể vàng (2) Não thùy Tham gia vào cả 2 quá trình (1) và (2) LHRH_a/GnRH Kích thích cá tiết FSH và LH, điều khiển 2 quá trình (1) và (2) HCG Gây ra phản ứng chín và rụng trứng ở cá (2) DOM Chất phụ trợ kết hợp với LHRH_a để kháng Dompamin Ovaprim Kích thích tạo ra kích dục tố và kháng Dompamin Ghi chú: 1 ml Ovaprim chứa 20 µg sGnRH_a và 10 mg DOM. (Nguồn: Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009) Liều lượng hormon sử dụng tiêm cho cá khác nhau theo giới tính (liều tiêm cá đực bằng 1/3 – 1/2 của cá cái), theo loài, theo mức độ thành thục của cá, tức là khác nhau theo các tháng trong mùa sinh sản và theo chất lượng và uy tín của cơ sở sản xuất hormon (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009). 16
  17. 2.5 Một số kết quả nghiên cứu sử dụng kích dục tố trong sinh sản cá Theo Phạm Văn Khánh (2005), kết quả thử nghiệm sinh sản nhân tạo cá Cóc (Cyclocheilichthys enoplos, Bleeker, 1850), kích thích tố được sử dụng là não thùy kết hợp với LHRH_a. Đối với não thùy, liều lượng sử dụng cho cá cái ở liều sơ bộ là 1 – 2,5 mg/kg; liều quyết định 3 – 7,05 mg/kg. Đối với LHRH_a tiêm ở liều quyết định là 130 – 150 µg LHRH_a trộn tương ứng với 5 – 7,5 viên Motilium. Kích dục tố dùng cho cá đực bằng 1/3 liều lượng của cá cái. Cá rụng trứng sau liều tiêm quyết định từ 5 – 6 giờ. Theo Huỳnh Hữu Ngãi và ctv. (2008), bước đầu sinh sản nhân tạo cá Bông Lau (Pangasius Krempfi, Fang và Chaux, 1949), liều kích dục tố cho cá cái từ 6 – 7 liều với kích thích tố là HCG. Liều dẫn là 500 UI/ kg, từ sơ bộ tăng từ từ lên, 800, 1000, 2000 và 3000 UI/ kg. Hai liều quyết định được sử dụng, liều 1 là 8000 UI/ kg, liều 2 là 6000 UI/ kg. Liều dẫn và liều sơ bộ mỗi liều các nhau 24 giờ, từ liều sơ bộ đến liều quyết định cách nhau 7 giờ. Cá đực tiêm 1 liều cùng với thời gian tiêm liều quyết định thứ nhất và bằng 1/3 liều tiêm cá cái. Sau khi tiêm liều quyết định thì 12 giờ trứng rụng. Tỷ lệ thụ tinh đạt từ 26 – 45%, tỷ lệ nở là 57%. Sau thời gian 24 giờ thì trứng nở ở nhiệt độ 28 – 300C. Theo Đặng Văn Trường và ctv. (2008), nghiên cứu sinh sản nhân tạo cá Chạch Lấu (Mastacembelus favus, Hora 1923), cá cái được tiêm 3 liều kích dục tố, mỗi liều tiêm cách nhau 12 đến 24 giờ. Cá đực được tiêm 1 liều vào thời điểm tiêm liều quyết định cho cá cái. Loại kích dục tố sử dụng là HCG. Liều tiêm là 5000 UI/ cá cái. Sau 18 – 36 giờ cá rụng trứng. Trứng thụ tinh nở sau 55 giờ ở nhiệt độ nước 28 – 30 oC. Tỷ lệ thụ tinh đạt 61%. Theo Võ Minh Khôi (2007), trong sinh sản nhân tạo cá Lóc Bông (Channa micropeltes), cá đực được tiêm trước cá cái từ 2 – 4 ngày, liều lượng HCG tiêm cho cá đực nằm trong khoảng 2.000 – 3.000 UI/kg. Đối với cá cái liều lượng tiêm HCG là 1.000 UI/kg sẽ cho sinh sản tốt hơn liều 1.500 UI/kg. Theo phương pháp này, tỷ lệ thụ tinh của cá Lóc bông đạt từ 58,43 – 79%, tỷ lệ nở đạt 91,14 – 95,56%. Theo Trần Thị Phương Lan (2008), sử dụng LHRH_a, HCG và não thùy để sinh sản nhân tạo cá Bống Tượng, đạt tỷ lệ rụng trứng cao nhất ở mức 100 µg/ kg cá cái, 600 UI/ kg và 3,5 não/ kg, với tỷ lệ cá đẻ là 100%. Kết quả về sức sinh sản, tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ nở của cá sau khi tiêm các loại kích dục tố lần lượt là: Ở LHRH_a: 74.733 trứng/kg cá cái, 40% và 68,73%; Ở HCG là: 83.480 trứng/kg, 64,29% và 80,37%; Ở não thùy là: 156.881 trứng/kg, 85,64% và 95,04%. Thời gian rụng trứng của cá từ 3 – 5 ngày sau khi tiêm kích dục tố. Như vậy, trong 3 loại kích dục tố cho cá bống tượng sinh sản thì não thùy cho kết quả tốt hơn cả về số lượng trứng đẻ ra và số lượng ấu trùng khi nở. 17
  18. Theo Nguyễn Ngọc Linh (2006), sử dụng kích dục tố 200 µg LHRH_a + 10 mg Motilium/ kg cá cái trong sinh sản cá Chép Nhật (Cyprinus carpio). Thu được kết quả khả quang, với sức sinh sản thực tế của cá khoảng 30.000 trứng/kg, thời gian hiệu ứng thuốc là 9 giờ, tỷ lệ thụ tinh 80 – 93%, tỷ lệ nở 81 – 90%. Theo Võ Như Mĩ (2008), trong sinh sản nhân tạo cá Chốt Trắng sử dụng liều 50, 100 và 150 µg LHRH_a + Motilium đều có tác dụng gây chín và rụng trứng ở các liều lượng thí nghiệm, trong đó liều lượng 100 µg/kg cho kết quả tốt nhất và 1.000, 1.500, 2.000 UI HCG/kg. Trong đó chỉ có 2 liều lượng 1.000 và 1.500 UI/kg có tác dụng gây chín và rụng trứng, liều lượng 2.000 UI/kg không gây chín và rụng trứng, liều lượng cho kết quả tốt nhất là 1.500 UI/kg. Kết quả giữa 2 loại kích dục tố LHRH_a + Motilium và HCG thì tỷ lệ cá đẻ ở kích dục tố 100 µg LHRH_a + Motilium là tốt nhất. Tuy nhiên, tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ cá nở tốt nhất là ở kích dục tố 1.500 UI HCG. Theo Ngô Vương Hiếu Tính (2008), kích dục tố là HCG chưa cho kết quả gây rụng trứng trong việc kích thích sinh sản nhân tạo cá Leo ở mức liều lượng là 2.000, 3.000, 4.000 UI/kg cá cái. Các mức liều lượng kích dục tố HCG (4.000 UI/kg) + não thùy, LHRH_a (150 µg/kg) + Motilium hoặc não thùy (8, 9, 10 mg/kg) có thể sử dụng để kích thích sinh sản cá Leo. Trong thí nghiệm này sử dụng kích dục tố là não thùy cá Chép với liều lượng 10 mg/kg cho hiệu quả cao nhất với sức sinh sản đạt 118.683 trứng/kg, tỷ lệ thụ tinh đạt 59,34% và tỷ lệ nở đạt 53,98%. Theo Nguyễn Đức Tuân (2004), cá Lăng chấm (Hemibagrus guttatus, Lacepede, 1803), dùng các loại kích dục tố LHRH_a + Motilium, HCG, não thùy. Thực hiện tiêm 2 lần cách nhau 23 – 25 giờ. Liều lượng tiêm cho cá đực bằng 1/3 cá cái. Liều tiêm cho liều 1 bằng 1/5 tổng liều. Năm 2004, họ đã sử dụng công thức này và thử nghiệm thêm công thức 20 µg LHRH_a + 6 viên Motilium/ kg cá cái để kích thích cá bố mẹ sinh sản và đã 2 lần thu được tỷ lệ cá đẻ 100%, tỷ lệ thụ tinh trung bình cao nhất là 84,70%, tỷ lệ nở cao nhất 72,47% và tỷ lệ dị hình thấp nhất 9,38%. Năng suất cá bột cao nhất trong các lần cho đẻ là 2.690 cá bột/kg cá cái, thấp nhất là 69 cá bột/kg 18
  19. CHƯƠNG 3 VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1 Thời gian và địa điểm nghiên cứu Thời gian: đề tài được thực hiện từ tháng 02/2011 đến tháng 06/2012. Địa điểm: tại Trung tâm Quốc gia Giống Thủy sản Nước ngọt Nam bộ, xã An Thái Trung, Huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. 3.2 Vật liệu nghiên cứu 3.2.1 Dụng cụ Thức ăn công nghiệp, thức ăn tự chế biến Lưới, vợt vớt cá bố mẹ Ống tiêm, kim tiêm Máy sục khí, máy bơm Cối sứ, chày sứ Nhiệt kế, test pH, que thử trứng Thau, xô, ống nhựa, khay, khăn, muỗng, lông gà Cân đồng hồ, cân điện tử Kính hiển vi, đĩa petri, cốc thủy tinh Một số vật dụng cần thiết khác. 3.2.2 Hóa chất Chlorine Nước muối sinh lí Ethylenglycolmonphenyl ether 3.2.3. Loại hormone kích thích sinh sản nhân tạo HCG (Human Chorionic Gonadotropin) LHRH_a (Luteotropin Hormon Releasing Hormon_analog) Não thùy. 3.2.4 Nguồn cá thí nghiệm Cá Hô bố mẹ được nuôi vỗ cho đến giai đoạn thành thục thì tiến hành bố trí thí nghiệm kích thích sinh sản. 19
  20. 3.3 Phương pháp tiến hành 3.3.1 Nuôi vỗ cá bố mẹ 3.3.1.1 Nguồn cá bố mẹ Cá bố mẹ được chọn nuôi vỗ có nguồn gốc từ tự nhiên và đã được thuần hóa tại Trung tâm Quốc gia Giống Thủy sản Nước ngọt Nam bộ, xã An Thái Trung, Huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Cá có ngoại hình tốt, khỏe mạnh, không dị hình, trọng lượng từ 10 - 31 kg/con. 3.3.1.2 Chuẩn bị ao nuôi Trước khi thả cá, ao nuôi được tát cạn nước, vét bớt bùn đáy, tu sửa bờ ao. Sau đó bón vôi và cho nước vào ao. Ao nuôi vỗ có diện tích 2.000 m2, sâu 1,5 m, lớp bùn đáy < 20 cm. Ao có hệ thống cấp và thoát nước riêng biệt, luôn chủ động và không bị ô nhiễm. 3.3.1.3 Thả cá vào ao Sau khi cho nước ra vào ao, khoảng 3 – 4 ngày thì tiến hành thả cá. Thả cá vào lúc trời mát, thả từ từ xuống ao, tránh làm sốc cá. Thả cá nuôi từ ngày 22/01/2012. Tổng số lượng đàn cá là 67 con (37 cá cái và 30 cá đực). 3.3.1.4 Chăm sóc và quản lý cá bố mẹ Cá bố mẹ được nuôi vỗ chia làm 2 giai đoạn: Giai đoạn 1 (nuôi vỗ tích cực): cho cá ăn thức ăn viên chứa 27% protein, khẩu phần ăn cho cá bằng 2% khối lượng thân, ngày chia làm 2 lần, lúc 8 giờ sáng và 5 giờ chiều. Sau thời gian nuôi 1 tháng kiểm tra sự thành thục của cá. Khi tuyến sinh dục đạt đến giai đoạn III thì chuyển sang nuôi giai đoạn 2. Giai đoạn 2 (nuôi vỗ thành thục): cho cá ăn giống như ở giai đoạn 1 nhưng khẩu phần giảm 1/3 – 1/2. Ngoài ra còn bổ sung vitamin E vào thức ăn viên và cho cá ăn thêm trái cây (ổi, mận,...) 1 lần/ngày lúc 5 giờ chiều. 3.3.1.5 Quản lý môi trường ao nuôi Các chỉ tiêu môi trường nước được đo định kỳ. Nhiệt độ, ôxy và pH được đo 1 ngày 2 lần lúc 7 - 8 giờ sáng và 1 - 2 giờ chiều trong một ngày và kiểm tra liên tục trong suốt quá trình thí nghiệm. Giữ nước trong sạch bằng cách: không cho cá ăn thừa, vớt sạch rác và các loại tảo nổi trôi trên mặt nước. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0