LUẬN VĂN:
Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên trong
thanh niên của các Đảng bộ phường ở thành phố Đà Nẵng giai đoạn hiện nay
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chỉ thị số 52CT/TƯ ngày 21/01/2002 của Bộ Chính trị khẳng định: kết nạp đảng
viên là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, có tính qui luật trong công tác xây dựng Đảng
nhằm tăng cường thêm sức chiến đấu và bảo đảm sự kế thừa phát triển của Đảng. Đảng là
một cơ thể chính trị - xã hội sống, có quá trình hình thành, phát triển và đào thải riêng. Vì
vậy, sự phát triển của Đảng là đòi hỏi tự nhiên, là qui luật tất yếu, nhằm để bù đắp số
lượng giảm đi và tạo thêm sinh lực cho Đảng, trẻ hóa Đảng, bảo đảm sự kế thừa, tạo
thêm nhân tố mới trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên (ĐNĐV).
Thanh niên là lực lượng "rường cột của nước nhà" và Đoàn thanh niên cộng sản
Hồ Chí Minh là đội hậu bị tin cậy của Đảng, là đội quân xung kích cách mạng, là trường
học xã hội chủ nghĩa (XHCN) của thanh niên. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước, thanh niên càng có vị trí,
vai trò quan trọng đối với sự phát triển đi lên của cả dân tộc. Nghị quyết Hội nghị lần
thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã chỉ rõ: sự nghiệp đổi mới có thành
công hay không, đất nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế
giới hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường XHCN hay không,
phần lớn tùy thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh
niên.
Là cấp cơ sở trong hệ thống chính trị, phường là địa bàn mà ở đó các chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước được hiện thực hóa. Nằm trên địa
bàn đô thị, phường là nơi diễn ra những hoạt động sản xuất kinh doanh, sinh hoạt chính
trị, xã hội sôi động nhất. Những tác động tích cực cũng như tiêu cực đều diễn ra ở đây.
Điều đó đã tác động một cách trực tiếp đến lý tưởng, động cơ, lối sống của thanh
niên thành phố.
Hiện nay, ở Đà Nẵng đảng viên đang sinh hoạt tại các Đảng bộ phường rất đa
dạng và không đồng đều, xét theo nhiều khía cạnh. Số đảng viên "đương chức" (trong
đó có số trẻ) làm nòng cốt của các Đảng bộ đang giữ trọng trách tại các cấp ủy Đảng, ủy
ban nhân dân phường, trường học, đồn công an, trạm xá, hợp tác xã tiểu thủ công
nghiệp chiếm tỷ lệ ít (và chất lượng cũng còn nhiều hạn chế). Còn lại là các đảng viên
đã nghỉ hưu hoặc mất sức lao động. Chính vì vậy, làm tốt công tác phát triển đảng viên
(CTPTĐV) trong thanh niên ở cấp phường để góp phần trẻ hóa, tăng thêm sinh lực, trí
tuệ cho các Đảng bộ phường bảo đảm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của
phường là một vấn đề rất quan trọng trong công tác xây dựng Đảng.
Là cán bộ giảng dạy, nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng thuộc Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Phân viện Đà Nẵng, tác giả muốn góp tiếng nói trong
vấn đề này. Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài: "Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên
trong thanh niên của các Đảng bộ phường ở thành phố Đà Nẵng giai đoạn hiện nay "
làm luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, trên phạm vi cả nước đã có nhiều công trình, bài báo nghiên cứu về
CTPTĐV của Đảng, về giáo dục, bồi dưỡng tư tưởng chính trị, đạo đức cách mạng cho
thanh niên như: "Xây dựng đội ngũ đảng viên là thanh niên sinh viên ở các trường đại
học, cao đẳng trên địa bàn thành phố Hà Nội", luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Mỹ Trang,
2001; về công tác phát triển Đảng có các công trình "Phát triển đảng viên trong sinh viên
các trường đại học công an nhân dân ở phía Bắc trong giai đoạn hiện nay", luận văn thạc
sĩ của Vũ Thế Kỳ, 2001; "Nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng viên mới trong
học viên hệ đào tạo sĩ quan ở các nhà trường thuộc Quân chủng Phòng không - Không
quân trong thời kỳ mới", luận văn thạc sĩ của Lê Văn Lương, 2002; "Công tác phát triển
đảng viên mới trong sinh viên đại học ở Đà Nẵng hiện nay", luận văn thạc sĩ của Lê
Thưởng, 2001; và "Công tác phát triển Đảng trong sinh viên một số trường đại học ở
Hà Nội hiện nay, thực trạng và giải pháp", luận văn thạc sĩ của Dương Trung ý, 2001.
Riêng về CTPTĐV trong thanh niên ở Đà Nẵng đến nay chưa có công trình
nghiên cứu nào. Cũng tương tự như vậy, vấn đề phát triển đảng viên ở phường trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng chưa được nghiên cứu. Vì vậy, việc nghiên cứu để góp phần thực
hiện tốt nhiệm vụ phát triển đảng viên trong thanh niên của các Đảng bộ phường ở Đà
Nẵng là việc làm cần thiết và cấp bách.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích
Góp phần đẩy mạnh CTPTĐV trong thanh niên của các Đảng bộ phường ở Đà
Nẵng trong giai đoạn mới và phục vụ công tác giảng dạy của bản thân ở khu vực miền
Trung và Tây Nguyên.
* Nhiệm vụ
- Làm rõ vai trò của thanh niên nói chung, thanh niên trên địa bàn phường nói
riêng trong sự nghiệp CNH, HĐH theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và Đảng ta.
- Phân tích, đánh giá thực trạng thanh niên trên địa bàn phường và CTPTĐV
trong thanh niên của các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng từ năm 1997 đến nay. Từ đó, rút
ra nguyên nhân của thực trạng, đề xuất một số giải pháp để làm tốt CTPTĐV trong
thanh niên của các Đảng bộ phường ở thành phố Đà Nẵng giai đoạn mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Là CTPTĐV trong thanh niên trên địa bàn phường của các Đảng bộ phường ở
Đà Nẵng từ năm 1997 đến nay.
* Phạm vi nghiên cứu
CTPTĐV là vấn đề rất rộng, có thể nghiên cứu ở nhiều giai đoạn, đối tượng khác
nhau. Trong khuôn khổ của luận văn thạc sĩ, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu CTPTĐV
trong thanh niên (sống và làm việc ở phường, gắn bó chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền,
đoàn thể phường - gọi tắt là thanh niên trên địa bàn phường) của các Đảng bộ phường ở
Đà Nẵng từ năm 1997 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống quan điểm của Đảng ta về xây dựng Đảng và xây dựng
CNXH.
- Luận văn sử dụng phương pháp luận mác xít, trong đó đặc biệt chú ý các
phương pháp như: phương pháp lôgíc và lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu,
thống kê và lý luận gắn liền với thực tiễn.
6. ý nghĩa và đóng góp của luận văn
* ý nghĩa
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy và
chỉ đạo thực tiễn CTPTĐV của các Đảng bộ phường.
* Đóng góp của luận văn
- Hệ thống, khái quát thực trạng CTPTĐV trong thanh niên của các Đảng bộ
phường ở Đà Nẵng từ 1997 đến nay (2003).
- Đưa ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh, đổi mới CTPTĐV trong thanh niên
ở Đảng bộ phường tại Đà Nẵng thời kỳ mới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.
Mục lục
Trang
1 Mở đầu
5 Chương 1: công tác phát triển đảng viên trong thanh niên của các
đảng bộ phương ở thành phố đà nẵng - một số vấn đề
cơ bản về lý luận và thực tiễn
1.1. Công tác phát triển đảng viên trong thanh niên của các Đảng bộ 5
phương ở thành phố Đà Nẵng - quan niệm, vai trò và ý nghĩa
1.2. Những yếu tố tác động đến công tác phát triển đảng viên của các 17
Đảng bộ phường ở Đà Nẵng
Chương 2: Công tác phát triển đảng trong thanh niên của các đảng 27
bộ phường ở đà nẵng - thực trạng, nguyên nhân và
những vấn đề đặt ra
2.1. Thực trạng công tác phát triển đảng viên trong thanh niên của các 27
Đảng bộ phường ở Đà Nẵng
2.2. Nguyên nhân và kinh nghiệm về công tác phát triển đảng viên 39
trong thanh niên của Đảng bộ phường ở Đà Nẵng và những vấn đề
đặt ra
Chương 3: phương hướng và giải pháp đẩy mạnh công tác phát 54
triển đảng viên trong thanh niên của các đảng bộ
phuờng ở đà nẵng đến năm 2010
3.1. Dự báo và phương hướng công tác phát triển đảng viên trong thanh 54
niên của các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng
3.2. Giải pháp đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên trong thanh niên 62
của các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng
101 Kết luận
103 Danh mục tài liệu tham khảo
105 Phụ lục
Chương 1
Công tác phát triển đảng viên trong thanh niên của các đảng bộ phường ở thành
phố Đà Nẵng -
một số vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn
1.1. Công tác phát triển đảng viên trong thanh niên của các Đảng bộ
phường ở Thành phố Đà Nẵng - Quan niệm, vai trò và ý nghĩa
1.1.1. Quan niệm của Đảng bộ phường ở Đà Nẵng về công tác phát triển
đảng viên trong thanh niên
Lịch sử tồn tại và phát triển của Đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) chứng minh
rằng, Đảng luôn luôn chú trọng phát triển đảng trong thanh niên. Đây là vấn đề có ý nghĩa
cực kỳ quan trọng, không chỉ đối với tuổi trẻ Việt Nam mà còn liên quan đến sinh mệnh và
sức sống của Đảng. Trong bối cảnh mới đầy biến động và phức tạp trên thế giới, những thời
cơ và thách thức của đất nước ta hiện nay, ĐCSVN vẫn giữ vững được trọng trách lãnh đạo
toàn xã hội vươn lên. Bản thân Đảng đã tự đổi mới, tự chỉnh đốn để ngang tầm với nhiệm vụ
quan trọng của thời cuộc đặt ra. Vì vậy, CTPTĐV trong thanh niên nhằm:
Tăng thêm sinh lực cho Đảng, trẻ hóa đội ngũ, bảo đảm sự kế thừa
và phát triển của Đảng. Làm tốt công tác tạo nguồn để lựa chọn, bồi dưỡng,
kết nạp những người ưu tú có đủ tiêu chuẩn, trong Đoàn thanh niên, trong
công nhân, nông dân, trí thức, chiến sĩ các lực lượng vũ trang...chú ý những
cơ sở trọng yếu, những nơi còn ít và chưa có đảng viên. Coi trọng chất
lượng, không chạy theo số lượng, bảo đảm chặt chẽ về nguyên tắc, đồng thời
không định kiến, hẹp hòi... phải thường xuyên quan tâm lãnh đạo Đoàn thanh
niên cộng sản Hồ Chí Minh, coi đây là một nhiệm vụ quan trọng của công tác
xây dựng Đảng. Đặt CTPTĐV trong thanh niên thành chương trình, kế hoạch
cụ thể và tổ chức chỉ đạo chặt chẽ, mang lại kết quả thiết thực [6, tr. 39].
Trong quá trình đấu tranh, trưởng thành, lãnh đạo nhân dân trước đây và đổi
mới hiện nay, các cấp ủy Đảng ở Thành phố Đà Nẵng nói chung, ở các Đảng bộ phường
nói riêng đều nhận thức và quan niệm rằng:
Thứ nhất, trong sự tồn tại và phát triển của mình, Đảng phải thường xuyên bổ
sung vào ĐNĐV những lực lượng mới, ưu tú trong phong trào quần chúng. Đó là qui
luật trong quá trình trưởng thành và là một nội dung quan trọng trong công tác đảng
viên của Đảng. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, CTPTĐV càng trở nên có ý nghĩa đối
với việc nâng cao chất lượng ĐNĐV của Đảng.
Có thể nói, trong các phạm vi vận động thanh niên hiện nay thì địa bàn dân cư
là phạm vi khó nhất, đang gặp nhiều lúng túng nhất. Thực tiễn ở Đà Nẵng đặt ra: Thanh
niên trên địa bàn dân cư, họ là những ai? Có thể phân ra bốn loại thanh niên trên địa bàn
dân cư. Một loại đã được tập hợp trong tổ chức Đoàn, Hội ngoài phường, tạm gọi là loại
thứ nhất; loại đã được tập hợp trong tổ chức Đoàn, hội ở phường, tạm gọi là loại thứ
hai; loại đã được tập hợp trong tổ chức thanh niên không phải là Đoàn, Hội, tạm gọi là
loại thứ ba và loại chưa được tập hợp trong tổ chức thanh niên nào, tạm gọi là loại thứ
tư. (Xin nói rằng, việc phân loại ở đây chỉ là thao tác trừu xuất trong nghiên cứu và
quản lý, hoàn toàn không mang ý nghĩa phân biệt, đối xử - một điều tối kỵ trong quá
trình đoàn kết, tập hợp, giáo dục thanh niên). Nội dung và phạm vi nghiên cứu của đề
tài chỉ dừng lại ở loại thứ hai, thứ ba, thứ tư và tạm gọi là thanh niên trên địa bàn dân
cư.
Thứ hai, trước thực trạng ĐNĐV hiện nay, bên cạnh số đông có phẩm chất và
đạo đức tốt, có một bộ phận không nhỏ đảng viên thoái hóa, biến chất về chính trị, tư
tưởng, phẩm chất đạo đức và năng lực yếu, không tỏ rõ vai trò của mình đối với tổ chức
Đảng và với quần chúng. Cho nên, việc nâng cao chất lượng đảng viên theo phương
châm: chặt chẽ hơn nữa "đầu vào", xử lý chính xác "đầu ra", nâng cao chất lượng đội
ngũ hiện có và CTPTĐV phải kết hợp gắn chặt với việc chỉnh đốn, sàng lọc ĐNĐV.
Thứ ba, về nguyên tắc, Đảng chỉ kết nạp những người ưu tú, có đủ phẩm chất
chính trị, đạo đức và năng lực thực hiện các nhiệm vụ của Đảng. Trong khi kết nạp đảng
viên mới phải đặc biệt chú trọng thực hiện phương châm coi trọng chất lượng, không
chạy theo số lượng đơn thuần.
Bảo đảm chất lượng là yêu cầu xuyên suốt quá trình phát triển đảng viên mới.
Đây là một chuỗi các công đoạn đòi hỏi tổ chức Đảng mà trực tiếp là các cơ sở đảng và
các chi bộ phải quan tâm chỉ đạo công phu, chu đáo ngay từ khi tạo nguồn như tuyên
truyền, giáo dục, lựa chọn đến các khâu kết nạp và giúp đỡ đảng viên dự bị trở thành
đảng viên chính thức. Quá trình đó phải được thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ theo đúng
Điều lệ Đảng và hướng dẫn của Trung ương. Trong CTPTĐV phải luôn coi trọng chất
lượng, lấy tiêu chuẩn đảng viên làm cơ sở, phải có kế hoạch, biện pháp cụ thể, không hạ
thấp yêu cầu về chất lượng, chạy theo số lượng, nhưng cũng không có thái độ hẹp hòi,
định kiến, bảo thủ, cầu toàn, không tích cực tạo điều kiện phát triển đảng viên mới.
Lênin cho rằng: "Chúng ta cần có những đảng viên mới không phải là để quảng cáo mà
là để làm việc thật sự. Những người đó, chúng ta kêu gọi họ vào hàng ngũ của chúng ta,
đảng ta mở rộng cửa để đón những người lao động" [11, tr. 256].
Sức mạnh của Đảng phụ thuộc vào chất lượng đảng viên. Người được xét kết nạp
vào Đảng phải có đủ tiêu chuẩn đảng viên, số lượng chỉ có ý nghĩa khi bảo đảm chất lượng.
Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay khi cơ cấu, thành phần và độ tuổi của ĐNĐV còn mất
cân đối thì Đảng cần có một số lượng đảng viên phù hợp để hoàn thiện tổ chức, thực hiện
vai trò lãnh đạo của Đảng. Với ý nghĩa đó, số lượng đảng viên có quan hệ chặt chẽ với
chất lượng đảng viên. Giải quyết mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng chung trong
toàn Đảng đã là khó khăn, phức tạp, lâu dài thì đối với các đảng bộ phường (nói chung)
ở Đà Nẵng nói riêng lại càng nan giải. Bởi vì, do lịch sử để lại nhiều đảng viên giai
đoạn cách mạng trước tiên phong, gương mẫu, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Nay chuyển
sang giai đoạn cách mạng mới nhiều đảng viên do điều kiện hoàn cảnh mới, đòi hỏi
năng lực mới, không phát huy được vai trò của mình. Thậm chí có một bộ phận tụt hậu.
Bộ phận này cũng đã được các cấp ủy Đảng giải quyết dần dần bằng nhiều cách hợp lý,
hợp tình. Nhưng dù có giải quyết thế nào thì theo qui luật 10 đến 15 năm nữa số này sẽ
hết. Trong khi đó hướng kết nạp đảng viên mới hiện nay là chú trọng vào đối tượng
nam, nữ thanh niên ưu tú để "trẻ hóa" ĐNĐV thì ở phường lại gặp rất nhiều khó khăn cả
về số lượng lẫn chất lượng. Do vậy, một vấn đề đặt ra đối với các cấp đảng bộ phường ở
Đà Nẵng là trên cơ sở nắm vững những yêu cầu về tiêu chuẩn đảng viên, coi trọng chất
lượng nhưng cần vận dụng linh hoạt trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Không
đòi hỏi thực hiện một cách máy móc, cứng nhắc các tiêu chuẩn ở những địa bàn dân cư
chưa có đảng viên hoặc ít đảng viên mà rất cần có sự lãnh đạo trực tiếp của người đảng
viên. Nếu làm tốt việc phát triển đảng viên trẻ thì chất lượng ĐNĐV sẽ được tăng
cường, sau khoảng 10, 15 năm nữa các đảng bộ phường sẽ có một ĐNĐV trong sạch
vững mạnh, đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH và các thời kỳ tiếp theo trên
địa bàn phường.
Thứ tư, xét duyệt đúng tiêu chuẩn, đúng nguyên tắc, đúng trình tự, đúng thủ tục.
Đồng thời không định kiến, hẹp hòi, không "thành phần chủ nghĩa".
1.1.2. Vai trò và ý nghĩa của công tác phát triển đảng viên trong thanh niên
1.1.2.1. Vai trò của thanh niên
Thanh niên có vị trí đặc biệt quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng và tương
lai của dân tộc.
Theo C.Mác, giai cấp công nhân chỉ được hình thành với tư cách là một giai cấp
khi ý thức được địa vị và tương lai của mình. Những công nhân tiên tiến nhất hoàn toàn
hiểu rõ rằng, tương lai của giai cấp công nhân và do đó tương lai của nhân loại hoàn
toàn phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ công nhân đang lớn lên [17, tr. 263]. Cuối thế
kỷ XIX trong bối cảnh xã hội tư bản, Mác cho rằng, cần phải giải thoát cho thanh niên,
thiếu niên khỏi sự tác động có tính chất phá hoại của hệ thống hiện đại. Chính Mác đã gọi
thanh niên là cội nguồn của sự sống của dân tộc và giai cấp công nhân, là bộ xương của
mỗi cơ thể dân tộc.
Khi đánh giá vai trò của thanh niên trong đấu tranh cách mạng, các quan điểm
mácxít đã chỉ ra, chỉ có cách mạng vô sản và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản mới thực sự làm cho thế hệ thanh niên phát huy được vai trò to lớn của
mình một cách tích cực, chủ động và sáng tạo. Do vậy, giáo dục thanh niên được coi là
nhiệm vụ hàng đầu để có con người mới XHCN.
Ph. Ăngghen nêu rõ: Thanh niên không thể đứng ngoài chính trị, chính hiện
thực cuộc sống đã, đang và sẽ cuốn hút tuổi trẻ vào đời sống chính trị. Chính Ăngghen
là người đầu tiên đưa ra các quan niệm như: "Đội quân xung kích quyết định của đạo
quân vô sản", "đội hậu bị của đảng" để gắn với thanh niên. Vào năm 1853, khi "đảng
của Mác" đã khẳng định được vị trí của mình trên vũ đài chính trị, trong cuộc đấu tranh
quyết liệt chống lại đạo luật đặc biệt của Bítxmác, Ăngghen đã viết: Chính thế hệ trẻ là
nguồn bổ sung dồi dào nhất cho đảng. Luận thuyết của Mác - Ăngghen luôn khẳng định
lực lượng quần chúng nhân dân đông đảo cần được tập hợp, tổ chức và giáo dục, sao
cho những biến đổi tư tưởng của họ bắt kịp với thời đại, đi đúng quỹ đạo của dòng thác
cách mạng đang cuộn chảy.
Phát triển sáng tạo những luận điểm của Mác và Ăngghen trong điều kiện lịch
sử mới, V.I.Lênin đã coi thanh niên là "nguồn sinh lực chiến đấu của cách mạng".
Người chỉ rõ: "Há chẳng phải trong đảng cách mạng của chúng tôi, thanh niên chiếm ưu
thế tuyệt đối là một điều tự nhiên sao? Chúng tôi là đảng của những người đổi mới, mà
thanh niên luôn đi theo đổi mới. Chúng tôi là đảng đấu tranh chống chế độ cũ thối nát
mà thanh niên luôn đi đầu" [12, tr. 210]. Có thể nói, đây là luận điểm thể hiện rõ nhất,
trực tiếp nhất vai trò của thanh niên trong đấu tranh cách mạng. Với quan điểm này
Lênin khẳng định, thanh niên là một bộ phận quan trọng, hùng hậu của cách mạng, là
đội hậu bị của Đảng cộng sản, là đội quân xung kích trong sự nghiệp cách mạng của
Đảng, là thế hệ kế tục sự nghiệp cách mạng của các thế hệ đi trước và các thế hệ thanh
niên sẽ nối tiếp nhau xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Lênin khẳng định:
Chúng ta biết rằng, hiện giờ có hàng chục, hàng trăm ngàn quân hậu
bị là thanh niên công nông..., hoàn cảnh của chúng ta càng khó khăn, thì họ
càng xích gần lại với chúng ta đông đảo hơn, với tinh thần hy sinh quên mình
cao hơn. Những quân hậu bị đó làm cho chúng ta hoàn toàn tin chắc
rằng...chúng ta đã có được nguồn lực lượng hậu bị mà chúng ta có thể khai
thác lâu dài, với qui mô to lớn [15, tr. 338].
Lênin tin tưởng việc tham gia vào bộ máy lãnh đạo của Đảng và quản lý nhà nước
trong chế độ mới sẽ có lực lượng thanh niên. Họ sẽ hoạt động với cách thức mới hơn và
hiệu quả cao hơn. Người viết: "Nếu chúng tôi làm việc không quá gấp, thì trong vài năm
nữa chúng tôi sẽ có một số thanh niên đông đảo có khả năng làm thay đổi bộ máy của
chúng tôi" [16. tr. 360-363]. Đó chính là sự thể hiện cao nhất vai trò, vị trí, sự đóng góp
của thanh niên trong quản lý xã hội và xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Người khẳng định
rõ lập trường của những người cộng sản chân chính là cần phải giáo dục cộng sản cho
thế hệ trẻ và kết hợp việc giáo dục ấy với cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công
nhân.
Kế thừa những di sản quí báu của C.Mác, Ph. Ăngghen, V.I.Lênin, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã phát triển một cách sáng tạo những luận điểm mác xít về vị trí, vai trò của
thanh niên trong xã hội; về nhiệm vụ giáo dục thanh niên, về Đoàn thanh niên cộng sản
trong điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Nếu như trước đó C.Mác. Ph.
Ăngghen, V.I.Lênin luôn gắn thanh niên với giai cấp công nhân, với đảng tiên phong
của nó, thì đến Hồ Chí Minh đã có sự phát triển vượt bậc, cụ thể. Thanh niên không
những gắn với giai cấp công nhân mà còn gắn với dân tộc, với Đảng cộng sản. Do đó,
muốn "hồi sinh" dân tộc, trước hết phải "hồi sinh" thanh niên. Trong tác phẩm Bản án
chế độ thực dân Pháp, phần phụ lục "gửi thanh niên Việt Nam" Người tha thiết kêu gọi
"Hỡi Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất, nếu đám thanh niên sớm già của
Người không sớm hồi sinh" [18, tr. 133]. Bác nhận thấy "thanh niên là một bộ phận quan
trọng của dân tộc", "người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già; đồng thời là
người phụ trách, dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai". "Thanh niên là lực lượng cơ bản
trong bộ đội, công an và dân quân tự vệ". Trong mọi công việc thanh niên là người có
khả năng thực hiện khẩu hiệu "đâu cần thanh niên có, việc khó thanh niên làm" [7, tr.
96]. Người tổng kết: "Thanh niên là một bộ phận quan trọng của dân tộc. Dân tộc bị nô
lệ thì thanh niên cũng bị nô lệ. Dân tộc được giải phóng, thanh niên mới được tự do. Vì
vậy thanh niên phải hăng hái tham gia cuộc đấu tranh của dân tộc" [7, tr. 96]. Việc
thành lập tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (với hạt nhân là cộng sản Đoàn)
để chuẩn bị cho việc thành lập ĐCSVN và sáng lập từ báo cách mạng mang tên Thanh
niên chứng tỏ Hồ Chí Minh có một tầm nhìn chiến lược, khi Người biết rằng chỉ có
thanh niên mới có thể "nắm vai trò là những người châm ngòi lửa đầu tiên cho cách
mạng nước ta". Người thấy rõ sự thịnh suy, mạnh yếu của một dân tộc phần lớn tùy
thuộc vào thanh niên. Coi thanh niên là đầu tàu của lực lượng cách mạng, thức tỉnh
thanh niên để thức tỉnh một dân tộc là điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh.
Trong các tác phẩm, các buổi nói chuyện, Hồ Chí Minh đã đề cập nhiều đến
việc giáo dục đạo đức, đến những mục tiêu, phương hướng, hình thức, biện pháp thiết
thực để giáo dục thanh niên nhằm biến nguồn sinh lực dồi dào của tuổi trẻ dưới dạng
tiềm năng trở thành hiện thực. Theo Người, giáo dục thanh niên không thể tách rời với
những cuộc đấu tranh cải tạo, xây dựng xã hội. Nhiệm vụ của thanh niên to lớn, vai trò
càng vẻ vang thì phẩm chất, năng lực càng phải cao. Phẩm chất và năng lực đó nhất thiết
phải thông qua con đường giáo dục và rèn luyện mới có. Bác nhắc nhở: giáo dục và rèn
luyện thanh niên là trách nhiệm của Đảng, Chính phủ, các tổ chức của thanh niên, của gia
đình và toàn xã hội. Trong đó, Đoàn thanh niên là tổ chức chính trị của thanh niên do
Đảng lập ra, là người đại diện cho thanh niên, là hạt nhân đoàn kết, giáo dục và phát
huy vai trò xung kích của thanh niên. Đoàn thay mặt Đảng tập hợp và rèn luyện thanh
niên, tổ chức thanh niên đấu tranh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong mối quan hệ
giữa Đoàn với Đảng và Nhà nước, Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng về đường lối chính trị thì
thanh niên theo Đảng chỉ huy, nhưng việc làm thì thanh niên độc lập; trong mọi công
việc, đảng viên và đoàn viên thanh niên phải gương mẫu để lôi cuốn nhân dân cùng tiến
bộ; mọi công việc đều vì lợi ích của nhân dân mà làm.
Trong di chúc để lại, Người nêu bật vấn đề thanh niên với những đánh giá và
căn dặn của mình:
Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái
xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần chăm lo giáo dục
đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng
chủ nghĩa xã hội, vừa "hồng" vừa "chuyên". Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho
đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết [21, tr. 498].
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta hết sức coi trọng và đánh giá cao vai trò
của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng. Điều đó được công nhận ngay từ Đại hội Đảng
lần thứ nhất (28/3/1935): "Thanh niên lao động Đông Dương là một lực lượng cách
mạng rất lớn, vị trí thanh niên trong các phong trào dân tộc giải phóng trước năm 1930
rất quan trọng. Trong thời kỳ cao trào 1930-1931, thanh niên lao động rất hăng hái tham
gia các cuộc bãi công, biểu tình vũ trang, bạo động, thiết lập chính quyền Xô viết" [2, tr.
253]. Trong các thời kỳ khó khăn của cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn khẳng định:
"Một Đảng cách mạng bao giờ cũng tuyển đội ngũ xung phong của mình trong các giới
thanh niên". Năm 1968, Nghị quyết 181 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác
vận động thanh niên đã khẳng định vai trò của Đoàn thanh niên lao động Việt Nam là:
Đội quân xung kích cách mạng thực hiện mọi nhiệm vụ của Đảng, tham gia xây dựng
Đảng, kiện toàn Đảng, đào tạo lực lượng hậu bị cho Đảng.
Bước vào thời kỳ đổi mới đất nước, trước những biến động phức tạp của tình
hình trong nước và thế giới, diễn biến tâm lý, tư tưởng của thanh niên đang có nhiều vấn
đề đặt ra phải được suy nghĩ nghiêm túc. Sự phân tầng về nghề nghiệp và thu nhập
trong thanh niên ngày càng rõ nét do tác động của cơ chế kinh tế thị trường, những
chuẩn mực truyền thống và những định hướng giá trị tốt đẹp đang có xu hướng biến đổi.
Do vậy, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết quan trọng về công tác thanh niên, khẳng
định sự quan tâm đặc biệt đến thanh niên và công tác thanh niên.
Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa V) đặt
vấn đề: tập hợp thanh niên một cách rộng rãi bằng nhiều loại hình thức tổ chức linh hoạt
khác nhau theo đối tượng, nhu cầu và sở thích để làm những việc có ích cho xã hội và cho
tuổi trẻ. Chú ý thích đáng những đặc điểm của nữ thanh niên, của thanh niên các dân tộc,
các tôn giáo, thanh niên quân đội, thanh niên học sinh, thanh niên các vùng khác nhau của
đất nước. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 8 (khóa VI) chỉ rõ:
Đảng cần hướng dẫn sự đổi mới nội dung hoạt động của các đoàn thể và tổ chức quần
chúng vào việc đoàn kết đoàn viên, hội viên cùng nhau chăm lo lợi ích thiết thực của mình
và góp phần vào sự nghiệp chung của đất nước, xây dựng và bảo vệ chính quyền cách
mạng và ở các cơ sở, đoàn thể cần coi trọng việc tập hợp quần chúng (trong và ngoài đoàn
thể) bằng những hình thức linh hoạt (nhóm, tổ, câu lạc bộ...) hoạt động theo những nội
dung thích hợp. Tiếp theo tinh thần đó, Nghị quyết 25 của Bộ Chính trị (khóa VI) một lần
nữa khẳng định rằng Đảng, Nhà nước và toàn dân ta phải hết lòng bồi dưỡng, phát huy tiềm
năng và vai trò chủ động của thanh niên trên mọi lĩnh vực của công cuộc đổi mới, coi đó là
nhiệm vụ ưu tiên trong chiến lược con người. Đặc biệt, Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành
Trung ương Đảng (khóa VII) "Về công tác thanh niên trong thời kỳ mới" đã đánh giá về
thanh niên một cách toàn diện hơn. Đảng ta chỉ rõ: "Thanh niên ngày nay là lực lượng xã
hội to lớn, có tiềm năng hùng hậu" [5, tr. 80], "Thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc,
là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng" [5, tr. 82].
Trong suốt tiến trình lịch sử dân tộc ta, thanh niên Việt Nam đã thể hiện vai trò
cực kỳ to lớn của mình. Có biết bao thanh niên đã xả thân vì nước, góp phần làm nên
những kỳ tích trong lịch sử đấu tranh gìn giữ nền độc lập, tự do cho Tổ quốc. Họ luôn
có mặt trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và làm bất cứ việc gì khi Tổ quốc yêu cầu
theo lời dạy của Bác Hồ: "không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền, đào núi và lấp
biển, quyết chí cũng làm nên" [18, tr. 95].
Trong thực tế cuộc sống hiện nay, thanh niên là những người góp phần tạo ra
cục diện mới của đất nước. "Quân đội bảo vệ Tổ quốc là từ thanh niên, lực lượng lao
động và phát triển đất nước cũng là thanh niên; trong lao động sáng tạo, tiếp thu thành
tựu khoa học công nghệ mới, thanh niên đóng vai trò chủ lực" [22, tr. 37]. "Thành công
và phát triển hay để đất nước tiếp tục trì trệ trong tình trạng nghèo nàn, lạc hậu chủ yếu
là do thanh niên quyết định" [22, tr. 40].
Tóm lại, trong lịch sử và hiện tại giành, giữ chính quyền và xây dựng chủ nghĩa xã
hội, Mác, Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn nhấn mạnh và đánh giá cao vai
trò của thanh niên. Đồng thời cũng luôn chỉ rõ con đường duy nhất để thanh niên xứng
đáng với vai trò vẻ vang của mình là phải không ngừng học tập và rèn luyện đạo đức
cách mạng, tức là thanh niên phải phấn đấu trở thành người cộng sản chân chính.
1.1.2.2. ý nghĩa công tác phát triển trong thanh niên ở các Đảng bộ phường
Phát triển ĐNĐV trẻ về tuổi đời, có trí tuệ cao phẩm chất tốt, dồi dào về thể lực,
trong sáng về đạo đức là nhiệm vụ có ý nghĩa cực kỳ quan trọng:
Một là, là nền tảng của Đảng, các Đảng bộ phường trực tiếp đưa đường lối của
Đảng đến với quần chúng và lãnh đạo, tổ chức quần chúng thực hiện thắng lợi đường lối
ấy. Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới các Đảng bộ phường cần phải tăng thêm số đảng
viên trẻ, thông qua đó Đảng hoạt động "ăn sâu", "bám chắc" rộng rãi trong các khu dân
cư, nắm bắt thông tin, dư luận, tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu chính đáng của quần
chúng để phản ánh và tham gia cùng cấp ủy Đảng, chính quyền cấp trên kịp thời điều
chỉnh, bổ sung, hoàn thiện, thúc đẩy các phong trào của phường, của thành phố và cả
nước. Đồng thời, trực tiếp tiến hành công tác tuyên truyền, cổ động, giáo dục, thuyết
phục, tổ chức quần chúng quán triệt, thực hiện có hiệu quả đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của nhà nước, các chương trình, kế hoạch công tác của cấp trên và của
cấp mình nhằm mục tiêu ổn định chính trị - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, nâng cao
đời sống các tầng lớp nhân dân trên địa bàn phường.
Hai là, làm tốt CTPTĐV trong thanh niên sẽ góp phần trẻ hóa Đảng, khắc phục sự
bất hợp lý trong kết cấu độ tuổi và năng lực lãnh đạo của ĐNĐV đang sinh hoạt và làm
việc tại phường. Mặt khác, việc chú trọng CTPTĐV trong thanh niên ở phường, ở tổ
dân phố sẽ tạo ra được những hạt nhân cho phong trào quần chúng ở cơ sở. Sự tiếp cận
và chà xát của đời sống thị trường sẽ tạo cho Đảng những cán bộ có đủ năng lực và tính
nhạy bén để hiểu được tâm tư nguyện vọng của quần chúng, cũng như giúp Đảng tìm
được phương sách tốt nhất để hiện thực hóa chủ trương, đường lối của mình. Làm được
như vậy thì sẽ khắc phục được tình trạng xa dân, xa thực tế mà nhiều chi bộ, đảng bộ ở
phường đang mắc phải.
Ba là, tăng cường CTPTĐV trong thanh niên ở phường sẽ nâng cao trình độ trí
tuệ cho Đảng bộ phường và góp phần củng cố khối liên minh công - nông - trí thức
đang công tác, sinh hoạt, nghỉ hưu tại phường.
Xu thế của thời đại ngày nay là phát triển mạnh về khoa học, kỹ thuật và công
nghệ. Lực lượng sản xuất ngày càng chứa đựng hàm lượng trí tuệ cao, khoa học trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 2
(khóa VIII) chỉ rõ: chỉ bằng con đường CNH, HĐH, phát triển khoa học - công nghệ
mới có thể đưa nước ta từ nghèo nàn, lạc hậu trở thành một nước giàu mạnh, văn minh.
Giai cấp công nhân muốn thực hiện được sứ mệnh của mình trong điều kiện hiện nay tất
yếu phải được trí tuệ hóa. ĐCSVN với tư cách là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
của xã hội cần phải được nâng cao năng lực trí tuệ. Nhiệm vụ hàng đầu của Đảng hiện
nay là lãnh đạo thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Quá trình này đòi
hỏi một cách khách quan Đảng phải nâng cao trình độ trí tuệ từ trung ương đến cơ sở.
Vì thế, ĐNĐV ở phường - những tế bào của Đảng không chỉ có đạo đức trong sáng mà
còn phải có tri thức, trí tuệ cao, thể lực dồi dào. Có như vậy quần chúng và cán bộ ở cơ
sở mới thực sự yên tâm và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng bộ.
Bốn là, làm tốt CTPTĐV trong thanh niên trên địa bàn dân cư sẽ có cơ sở tạo
nguồn cán bộ cho Đảng, chính quyền và các đoàn thể ở phường.
Làm tốt CTPTĐV ở các Đảng bộ phường là quá trình xây dựng một lực lượng
kế tục sự nghiệp vẻ vang của Đảng và bảo đảm chắc chắn cho sự thành công của cách
mạng nước ta. Quá trình đó sẽ làm cho Đảng ta trưởng thành về mọi mặt nâng cao sức
chiến đấu, làm cho Đảng luôn phát triển, tăng cường ảnh hưởng của Đảng đến các đối
tượng dân cư ở phường vốn đa dạng, phức tạp hiện nay.
1.2. Những yếu tố tác động đến công tác phát triển đảng viên của các Đảng
bộ phường ở Đà Nẵng
1.2.1. Tình hình, đặc điểm tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội các phường ở
Đà Nẵng và nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ phường hiện nay
1.2.1.1. Tình hình, đặc điểm các phường
Là một trọng điểm của vùng kinh tế miền Trung, Đà Nẵng liền kề với khu kinh
tế mở Chu Lai, khu công nghiệp Dung Quất. Với lợi thế về cơ sở hạ tầng như đường sá,
cầu cống, bến cảng, sân bay, nhà ga, bệnh viện, trường học... tương đối tốt; có cảng
nước sâu tiếp nhận tàu vận tải và tàu du lịch cỡ lớn, có sân bay quốc tế, quốc lộ 14 B
với cảng Tiên Sa, đầu mối của đường xuyên á, nối liền biển Đông nước ta với Lào, Thái
Lan và các nước Đông Nam á. Đà Nẵng lại nằm giữa quần thể di sản văn hóa thế giới
gồm cố đô Huế, phố cổ Hội An và khu di tích Mỹ Sơn, nên có nhiều lợi thế so sánh và
điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội, nhất là phát triển công nghiệp, cảng biển, thương
mại dịch vụ, du lịch và nhiều ngành nghề truyền thống khác.
Ngày 1/1/1997 Đà Nẵng đi vào hoạt động theo cơ chế mới trực thuộc Trung
ương, tiếp đó ngày 23/10/1997, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt qui hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội. Điều 1 của Quyết định đã xác định rõ mục tiêu và định hướng phát
triển kinh tế - xã hội thành phố đến năm 2010:
Thành phố Đà Nẵng là một trong những trung tâm vùng kinh tế trọng
điểm miền Trung và của cả nước. Từng bước phát triển thành phố trở thành
hiện đại, liên kết chặt chẽ về qui hoạch, kết cấu hạ tầng, kinh tế - xã hội với
các tỉnh miền Trung để thúc đẩy quá trình CNH, HĐH và bảo vệ môi trường,
góp phần cùng cả nước mở rộng hợp tác, nâng cao sức cạnh tranh của kinh tế
nước ta trên thị trường khu vực và quốc tế.
Thành phố Đà Nẵng gồm 33 phường, 14 xã, số phường nhiều gấp 2,5 lần số xã.
Theo số liệu thống kê dân số đến năm 2000 là 730.000 người, phân bố không đều giữa
năm quận nội thành. Phường là đơn vị hành chính cơ sở ở nội thành, tổ chức theo khu
vực dân cư ở đường phố. Một số phường ở Đà Nẵng được nâng cấp từ xã lên, có
phường dân số động, diện tích hẹp, mật độ dân số cao (phường Hải Châu 2 mật độ dân số 43.866 người/km2). Dân số, ngành nghề ở phường thường xuyên biến động do sự
thay đổi, di dân, di chuyển, công tác... các phường ở trung tâm thành phố là nơi tập
trung nhân lực, cơ sở vật chất, các loại hình văn hóa, xã hội, an ninh, chính trị tương đối
phức tạp.
Về kinh tế 33 phường ở Đà Nẵng là nơi tập trung các hoạt động thương mại,
kinh doanh, dịch vụ, văn hóa xã hội... nên tốc độ phát triển kinh tế nhanh. Những năm
qua, nhờ xác định đúng cơ cấu kinh tế là công nghiệp, dịch vụ, du lịch, nông nghiệp,
Đảng bộ và nhân dân Đà Nẵng đoàn kết một lòng vượt qua khó khăn, phát huy tiềm
năng, lợi thế nên đã đạt được bước phát triển tương đối toàn diện.
Về chính trị, xã hội và an ninh quốc phòng, ý thức được sự ổn định chính trị là
điều kiện tiên quyết để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới; nền tảng để duy trì ổn
định chính trị - xã hội là tập trung phát triển kinh tế, từng bước nâng cao đời sống nhân
dân, Đảng bộ các phường ở Đà Nẵng chú trọng và dành nhiều công sức cho sự phát
triển các lĩnh vực xã hội đã tạo nên bước chuyển mới trên các mặt: Thành phố hoàn
thành sớm việc phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, là địa phương thứ hai sau Hà
Nội được công nhận đạt chuẩn quốc gia phổ cập trung học cơ sở. Số học sinh các cấp
học, ngành học tăng nhanh hàng năm, nhất là ở trung học cơ sở và phổ thông trung học.
Hiện nay thành phố đã có 33/33 phường được công nhận chuẩn quốc gia về phổ cập tiểu
học, xóa mù chữ và phổ cập trung học cơ sở.
Bằng nhiều hình thức và phương cách, trong 5 năm qua thành phố đã tạo việc
làm cho 7.780 vạn người, bình quân mỗi năm giải quyết việc làm ổn định cho 1,55 vạn
lao động trong các thành phần kinh tế. Năm 2001, thành phố đã cơ bản xóa hộ đói, và
giảm số hộ nghèo xuống còn 5,1% (theo chuẩn mới), đời sống dân cư thành thị được
nâng lên đáng kể, đặc biệt là các hộ chính sách có mức sống trung bình so với khu vực.
Đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân ngày một nâng cao, cuộc vận động "Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư" được các tầng lớp nhân dân đồng
tình hưởng ứng và đạt kết quả tốt.
Công tác vận động quần chúng, cải cách hành chính, xây dựng chính quyền, xây
dựng Đảng thường xuyên được tăng cường. Qui chế dân chủ được triển khai đến các loại
hình cơ sở; thực hiện cơ chế "một cửa" trong các dịch vụ bước đầu đạt kết quả tốt. Việc
tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo được tổ chức tốt (không có tồn đọng). Vai
trò, chất lượng và hiệu quả quản lý của chính quyền các cấp được nâng cao.
Những thành tựu đổi mới của Đà Nẵng trong gần 6 năm qua là kết quả của quá
trình nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố, đã và đang
tạo ra thế và lực mới để Đà Nẵng tiếp tục phát triển. Tuy nhiên, sự phát triển đó chỉ mới
bước đầu, chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh của Đà Nẵng. Muốn trở thành
trung tâm công nghiệp, thương mại dịch vụ, du lịch, văn hóa, khoa học kỹ thuật của miền
Trung, các Đảng bộ phường Đà Nẵng phải giải quyết một số vấn đề chủ yếu sau:
1.2.1.2. Nhiệm vụ chính trị của các Đảng bộ phường
Đại hội Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lần thứ XVIII (tháng 2 năm 2001) đề ra
phương hướng chung là:
Tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, quán triệt phương châm "phát
triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt", tăng cường khối đoàn kết thống
nhất, phát huy cao độ nội lực kết hợp khai thác mọi nguồn lực bên ngoài, tận dụng mọi
thời cơ thuận lợi để phát triển nhanh và bền vững, phấn đấu xây dựng Đà Nẵng giàu về
kinh tế, phát triển về văn hóa và khoa học công nghệ, đảm bảo quốc phòng - an ninh, hệ
thống chính trị vững mạnh, dân trí ngày càng được nâng cao, cảnh quan thiên nhiên,
môi trường đô thị lành mạnh, sạch đẹp, vươn lên xứng đáng là một trong những trung
tâm kinh tế, văn hóa, khoa học - công nghệ của miền Trung và cả nước [3, tr. 41].
Từ phương hướng chung và mục tiêu cụ thể từ năm 2001 đến năm 2005, 33 Đảng
bộ có những nhiệm vụ cụ thể như sau:
Một là, xác định chủ trương, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh quốc
phòng...và lãnh đạo thực hiện các chủ trương đó ở phường trên cơ sở quán triệt, chấp
hành nghiêm chỉnh các nghị quyết, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà
nước.
Hai là, làm tốt công tác giáo dục tư tưởng trong các tầng lớp nhân dân, phát huy
truyền thống yêu quê hương, đất nước, yêu chủ nghĩa xã hội; xây dựng tinh thần làm
chủ, đoàn kết, gắn bó yêu thương giúp đỡ nhau trong cộng đồng dân cư. Làm cho nhân
dân hiểu và chấp hành đúng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước và các chủ trương, nhiệm vụ của thành phố, quận và phường.
Ba là, lãnh đạo xây dựng tổ chức chính quyền, đoàn thể nhân dân, đơn vị kinh
tế sự nghiệp ở phường; xây dựng và thực hiện qui hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ của các tổ chức đó. Cấp ủy phường quyết định các vấn đề về tổ chức Đảng và
quản lý cán bộ theo phân cấp.
Bốn là, Đảng bộ phường lãnh đạo các đoàn thể chính trị - xã hội thực hiện tốt
chức năng, nhiệm vụ theo điều lệ của mỗi đoàn thể, phát huy quyền làm chủ của các
tầng lớp nhân dân, thi đua thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao. Lãnh đạo các
đoàn thể và các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng và bảo vệ đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trước hết là những chủ trương, chính
sách về xây dựng và quản lý đô thị, giải quyết việc làm và các chính sách xã hội khác.
Năm là, xây dựng tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh, thực hiện đúng nguyên
tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng. Thường xuyên làm tốt công tác tạo nguồn và phát triển
đảng viên mới đúng tiêu chuẩn, nguyên tắc, thủ tục, coi trọng chất lượng, bảo đảm số
lượng. Chú trọng phát triển đảng trong đoàn viên Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh, nhất là những đoàn viên ưu tú đang công tác, sinh hoạt tại cụm dân cư, tổ dân
phố.
1.2.2. Đặc điểm các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng
Một là, Đảng bộ phường ở Đà Nẵng là sự đa dạng về loại hình các chi bộ, trong
đó chiếm số đông là chi bộ tổ dân phố. Các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng phân bố không
đều giữa 5 quận nội thành.
Biểu 1.1: Phân bố Đảng bộ, chi bộ và số đảng viên
ở các quận trong thành phố
Tổng số Đảng Tổng số Tổng số bộ cơ sở Quận Chi bộ đảng viên (phường)
1. Hải Châu 12 211 4.498
2. Sơn Trà. 7 98 1.574
3. Thanh Khê. 8 121 2.373
4. Liên Chiểu. 3 49 882
5. Ngũ Hành Sơn 3 54 898
Tổng cộng 33 533 10.222
Nguồn: Ban Tổ chức Thành ủy Đà Nẵng.
Theo số liệu thống kê đến tháng 12/2002 cho thấy, số lượng đảng bộ cơ sở và chi
bộ giữa các quận chênh nhau đáng kể, chủ yếu tập trung ở trung tâm thành phố, còn những
địa bàn mới thành lập thì tổ chức Đảng còn ít, nhất là hai quận Liên Chiểu và Ngũ Hành
Sơn. Đảng bộ phường ở Đà Nẵng bao gồm nhiều loại chi bộ, nhưng có thể phân ra
thành hai loại. Loại thứ nhất là những chi bộ được hình thành trên cơ sở hoạt động thực
tiễn như: công an, khối ủy ban nhân dân và văn phòng, trường học (mẫu giáo, tiểu học
và trung học cơ sở), hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ... Đây là
những chi bộ quan trọng nhất, đa số đảng viên còn trẻ, đang tham gia công tác trên các
lĩnh vực của phường và thường giữ các cương vị chủ chốt. Loại thứ hai là những chi bộ
gồm đa số đảng viên đã về hưu hoặc mất sức lao động. Toàn thành phố Đà Nẵng hiện
có 261 khối phố, 2275 tổ dân phố, tất cả các phường đều thành lập theo khối phố. Trong
đó:
+ Khối phố có 1 chi bộ: 226 khối phố.
+ Khối phố có 2 chi bộ: 17 khối phố.
+ Khối phố có 3 chi bộ: 11 khối phố.
+ Khối phố có 4 chi bộ: 3 khối phố.
+ Khối phố có 5 chi bộ: 2 khối phố.
+ Khối phố có 6 chi bộ: 1khối phố.
+ Khối phố có 7 chi bộ: 1 khối phố.
Hai là, các Đảng bộ phường có số lượng đảng viên đông, trình độ mọi mặt của
đảng viên tương đối cao nhưng không đều, phần lớn là đảng viên hưu trí. Những chức
vụ đảng chủ chốt hầu hết do đảng viên là cán bộ hưu trí đảm trách.
Hiện nay đảng viên đang sinh hoạt tại 33 phường ở Đà Nẵng rất đa dạng và
không đồng đều. Ngoài số đảng viên trẻ "đương chức" - nòng cốt của các đảng bộ đang
giữ trọng trách tại các cấp ủy, ủy ban nhân dân phường, trường học, trạm xá, đồn công
an, hợp tác xã thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ... còn lại là đảng viên hưu trí, mất
sức lao động.
Trên địa bàn phường ở Đà Nẵng, hiện tại có ba lực lượng cán bộ: cán bộ đương
chức ở phường, cán bộ hưu trí và cán bộ thuộc các cơ quan đơn vị do cấp trên quản lý cư
trú ở phường. Đội ngũ cán bộ công tác tại phường hiện nay gồm các đối tượng như: cán bộ
theo qui định tại Nghị định 09/1998/NĐ-CP; cán bộ cấp phó Mặt trận và cấp phó các
đoàn thể; cán bộ chuyên trách về: xóa đói giảm nghèo, dân số - kế hoạch hóa gia đình,
bảo vệ và chăm sóc trẻ em, văn hóa thông tin; cán bộ hợp đồng (hiện có 206, trong đó
188 do quận, huyện, phường, xã hợp đồng và trả lương từ ngân sách của quận, huyện,
xã, phường). Tổng số cán bộ phường, xã theo Qui định 09/1998/NĐ-CP có mặt đến cuối
năm 2002 là 983 người. So với trước đây, đội ngũ này đều được trẻ hóa, chất lượng
ngày càng được nâng cao, số đông được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ về quản lý
nhà nước, lý luận chính trị. Cụ thể:
- Học vấn: Trung học cơ sở: 3%; Trung học phổ thông: 79,8%.
- Chuyên môn: Đại học 9,8%; cao đẳng, trung cấp: 18,4%; sơ cấp: 0,8%.
- Lý luận chính trị: cao cấp: 4,15%; trung cấp: 41,1%; sơ cấp: 10,9%.
- Quản lý nhà nước: trung cấp 27,2%; bồi dưỡng: 17,7%.
Riêng đối với cán bộ thuộc 4 chức danh chuyên môn ở phường (Tư pháp - Hộ
tịch, Văn phòng - Thống kê tổng hợp, Địa chính, Tài chính - Kế toán) được thành phố
tạo điều kiện bồi dưỡng kiến thức luật, quản lý nhà nước, tin học... nhằm đáp ứng tiêu
chuẩn theo qui định. Đến nay đã có 106/186 cán bộ đủ tiêu chuẩn về chuyên môn (tỷ lệ
57%). Tuy vậy, ĐNĐV là cán bộ ở phường có tuổi đời bình quân cao, phần lớn là cán
bộ, bộ đội nghỉ hưu, trình độ mọi mặt còn bất cập so với yêu cầu thực tiễn. Nhiều cán
bộ ngại học tập, không muốn tham gia công tác Đảng, đoàn thể xảy ra khá phổ biến ở
phường, cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp. Một số đảng viên thiếu tinh thần trách
nhiệm, đùn đẩy, né tránh những công việc phức tạp, không kiên quyết đấu tranh bảo vệ
chân lý, lẽ phải. Đặc biệt nghiệm trọng là tình trạng đảng viên ở phường có chức, có
quyền, nắm tiền, nắm luật pháp, được giao xử lý các công việc liên quan đến sản xuất
và đời sống của dân đã cửa quyền, gây phiền hà, sách nhiễu, đòi hối lộ, đút lót... khiến
nhân dân oán thán, ngại và xa lánh cơ quan nhà nước.
1.2.3. Đặc điểm thanh niên trên địa bàn dân cư
Tính đến tháng 9/2002, tổng số thanh niên của thành phố Đà Nẵng là 219175
người, tăng 21.841 người so với năm 1997, chiếm 31% dân số và hơn 50% lao động xã
hội. Trong đó, thanh niên công chức, viên chức gần 2000 người, chiếm 0,9%; thanh
niên trong doanh nghiệp 41.000 người, chiếm 18,7%; thanh niên học sinh, sinh viên
64.716 người, chiếm 25,5%; thanh niên tham gia các lực lượng vũ trang 5.250 người,
chiếm 2,3%. Nhiều nhất là thanh niên trên địa bàn dân cư với 106.209 người, chiếm tỷ
lệ 48,6% trong tổng số thanh niên toàn thành phố [9, tr. 5-7].
Có thể nêu một số đặc điểm chủ yếu của thanh niên trên địa bàn dân cư (ở
phường) ở thành phố Đà Nẵng như sau:
- Có nhiều cơ hội để phát huy khả năng của mình:
Sau hơn 5 năm trực thuộc Trung ương, thành phố Đà Nẵng đang vươn mình
trong cơ chế mới. Tình hình kinh tế - xã hội có nhiều thay đổi cho theo hướng phát triển
toàn diện. Sự năng động trong chỉ đạo, điều hành của Đảng bộ và chính quyền thành
phố, chú trọng hơn trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng, chỉnh trang đô thị, cải thiện môi
trường xã hội... đã tạo nên cho thành phố một sinh khí mới, diệu mạo mới. Đó là điều
kiện để thanh niên Đà Nẵng có cơ hội tiếp xúc với khoa học kỹ thuật, có cơ hội làm việc
để nâng cao mức sống, phát huy khả năng sáng tạo của mình.
- Thành phần đa dạng, phức tạp:
Đà Nẵng là thành phố biển. Số thanh niên xuất thân trong gia đình lao động ngư
nghiệp và hoạt động nghề biển chiếm tỷ lệ tương đối cao. Hiện tại có 17/33 phường
hoạt động đánh bắt, chế biến thủy sản, phân bố ở 5 quận với 19.540 lao động, số lao
động này chủ yếu là thanh niên trai trẻ. Vì vậy, thanh niên ở đây thường có khí chất
mạnh mẽ, cần cù, chịu khó, nhưng cũng dễ dàng tiếp thu những luồng tư tưởng này hay
luồng tư tưởng khác. Do tính chất nghề nghiệp nên gây không ít khó khăn cho công tác
tập hợp, đoàn kết đối tượng này. Mặt khác, do lịch sử để lại, hiện tại nhiều gia đình có
người thân sống ở nước ngoài (chủ yếu ở Mỹ), chi phí sinh hoạt, xây nhà, mua sắm vật
dụng, sửa sang phần mộ, nhà thờ, đền chùa ở đây chủ yếu từ nước ngoài gửi về. Thậm chí
không ít gia đình vợ chồng, con cái sinh sống và dựa hẳn vào nguồn đó. Vì vậy, mặc dù
nhạy cảm và trung kiên, có hoài bão vươn lên góp sức xây dựng quê hương nhưng vốn
sống còn ít, đa số phụ thuộc gia đình, chưa thể tự lập thân, lập nghiệp, thiếu từng trải... nên
cách nhìn nhận nhiều vấn đề, giải quyết nhiều sự việc, lựa chọn nhiều giá trị không đúng
với chuẩn mực đạo đức xã hội. Không ít trường hợp xảy ra mâu thuẫn, xung đột giữa
các thế hệ trong gia đình. Bởi ảnh hưởng lối sống của chế độ cũ chưa hẳn mất đi một cách
dễ dàng trong tâm trí một số người, nhất là những người gắn bó với chế độ Mỹ - Ngụy.
Các phường như An Hải Tây, Mân Thái, Thọ Quang, An Hải Đông, Phước Mỹ, Thuận
Phước... trước đây là nơi cư trú của nhiều gia đình sĩ quan, binh lính, thương phế binh
và công chức ngụy quyền Sài Gòn. Trong đó, như An Hải Đông có 407 hộ với 2.705
nhân khẩu, An Hải Tây hơn 2.000 nhân khẩu... thường xuyên nhận đô la từ Mỹ gửi về.
- Về học vấn - điều kiện cơ bản để vào đời:
Đối tượng này chủ yếu dừng lại ở tốt nghiệp phổ thông trung học, thậm chí thấp
hơn. Phần lớn chưa có việc làm ổn định, chưa được đào tạo nghề, sống phụ thuộc vào
gia đình; ít được tiếp xúc với khoa học - công nghệ; lao động chủ yếu trong các ngành
nghề phổ thông, kinh tế gia đình; tư nhân, cá thể... chính vì vậy, nhu cầu, nhận thức và
nguyện vọng của đối tượng thanh niên này cũng khác với các đối tượng thanh niên
khác. Điều họ quan tâm, chi phối nhất là việc làm, thu nhập của bản thân. Họ quan tâm
đến thu nhập nhiều hơn là chọn nghề mình hứng thú và trong thực tế họ biết rằng mình
không có nhiều cơ hội để lựa chọn nghề mình thích.
- Đặc điểm nổi bật, dễ nhận thấy nhất ở thanh niên nói chung, thanh niên Đà
Nẵng nói riêng là sự tiếp bước truyền thống yêu nước, lòng nhân đạo, một lòng tin theo
Đảng, sẵn sàng góp sức mình cho công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước, quê hương.
Đà Nẵng xưa cũng như nay đã sinh ra nhiều nhà văn hóa, anh hùng dân tộc, Đà
Nẵng là chiến trường ác liệt trong thời kỳ chống Mỹ, biết bao người đã ngã xuống mảnh
đất này để giữ lấy độc lập, tự do của dân tộc, bình yên cho quê hương, để nền văn hóa
Việt Nam trường tồn với lịch sử nhân loại. Chính trong gian khó đó, một phần đã tôi
luyện nên con người Đà Nẵng với những đức tính như cần cù, chịu khó, trung thực, kiên
cường, tiết kiệm... Không có nhiều nơi như Đà Nẵng, thanh niên được thừa hưởng tất cả
những truyền thống quí báu mà cha, anh để lại, đó chính là hành trang, là cội nguồn sức
mạnh để thanh niên mang theo bước tiếp vào thế kỷ mới, với vị trí mới của thành phố.
Nhìn một cách tổng quát, sau hơn 15 năm đổi mới Đảng ta đã đánh giá: kinh tế
tăng trưởng khá, văn hóa xã hội có bước tiến bộ, đời sống nhân dân tiếp tục được cải
thiện. Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định, quốc phòng và an ninh được tăng cường.
Công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng được chú trọng; hệ thống chính trị được củng cố. Quan
hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến hành chủ động
và đạt nhiều kết quả tốt. Tuy thế và lực của đất nước ta hơn hẳn 15 năm trước, khả năng
độc lập, tự chủ được nâng lên, tạo thêm điều kiện đẩy mạnh CNH,HĐH. Nhưng những
thành tựu và tiến bộ đạt được chưa đủ để vượt qua tình trạng nước kém phát triển, chưa
tương xứng với tiềm năng phát triển của đất nước. Trong khi đó, lợi dụng sơ hở của một
số chủ trương chính sách, cũng như sự tha hóa của một bộ phận cán bộ đảng viên, các
thế lực thù địch đang rắp tâm bôi nhọ, kích động, hạ thấp vai trò lãnh đạo của ĐCSVN.
Điều đó đã tác động đến CTPTĐV trong thanh niên của các Đảng bộ phường ở Đà
Nẵng.
Chương 2
Công tác phát triển Đảng trong thanh niên
của các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng - thực trạng, nguyên nhân và những vấn đề
đặt ra
2.1. Thực trạng công tác phát triển đảng viên trong thanh niên của các
Đảng bộ phường ở Đà Nẵng
Tháng 1/1997, thành phố Đà Nẵng trở thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung
ương, cuối năm đó Đảng bộ thành phố Đà Nẵng có 21.361 đảng viên, với 18 Đảng bộ trực
thuộc Thành ủy, bao gồm 395 tổ chức cơ sở Đảng, trong đó 151 đảng bộ cơ sở và 244 chi
bộ cơ sở. Đến cuối năm 2002, toàn Đảng bộ có 26.765 đảng viên, 196 Đảng bộ cơ sở và
313 chi bộ cơ sở.
Từ 1997 đến nay, ĐNĐV của thành phố không ngừng tăng cả về số lượng và
chất lượng. Năm 1997 số đảng viên có trình độ chuyên môn, đại học cao đẳng là 6.301
đồng chí (30,4%); số trên đại học là 148 đồng chí (0,7%) đã qua đào tạo lý luận chính
trị cao cấp và cử nhân chính trị 1.239 đồng chí (5,96%), trung cấp 6216 đồng chí
(29,9%). Cuối năm 2001 tổng số đảng viên 25516 đồng chí, trong đó số có trình độ cao
đẳng, đại học là 8.815 người (34,5%) tăng 4,1% so với 1997. Thạc sĩ và tiến sĩ là 253
đồng chí (1,38%) tăng 0,68%, về lý luận chính trị, số có trình độ cử nhân chính trị là
394, cao cấp 1.994 đồng chí (7,8%), tăng 1,84%. Cơ cấu ĐNĐV toàn đảng bộ:
Biểu 2.1: Tình hình đảng viên qua các năm 1997 - 2001
Tổng số Còn sinh Công tác Mới kết Dưới 30 Trên 60 Hưu, đảng hoạt ở xã, Năm nạp tuổi tuổi mất sức viên đoàn phường
1997 21361 752 1040 850 4391 8115 557
1998 22164 1048 1081 1020 4703 8229 604
1999 23140 1147 1193 1160 5037 8244 881
2000 24165 1081 1411 1235 4943 8278 927
2001 25217 1337 1786 1462 4960 8290 931
Nguồn: Ban Tổ chức Thành ủy Đà Nẵng.
Nhìn vào cơ cấu đảng viên trên ta thấy vấn đề nổi lên cần quan tâm là: tỷ lệ
đảng viên trẻ ở độ tuổi thanh niên quá thấp. Trong khi đó tỷ lệ đảng viên là hưu trí, mất
sức cao. Số đảng viên trên 60 tuổi chênh lệch lớn so với số đảng viên dưới 30 tuổi. Tuổi đời
bình quân của toàn đảng bộ gân 50 tuổi. Đây là cơ cấu không hợp lý, phản ánh đúng tình
hình đảng bộ đang bị "lão hóa".
Xác định CTPTĐV là một nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên để đảm bảo sự
kế thừa, phát triển của Đảng, để chi bộ, đảng bộ ngày càng được củng cố về mọi mặt và
làm tròn trách nhiệm của mình. Từ 1997 đến nay, Thành ủy và các cấp ủy trực thuộc rất
quan tâm đến CTPTĐV, xem đây như một nhiệm vụ chính trị quan trọng. Chính vì vậy
số lượng và chất lượng phát triển đảng viên mới tăng qua các năm tăng lên.
Biểu 2.2: Đảng viên mới kết nạp từ 1997 - 2002
1997 1998 1999 2000 2001 2002 T.cộng
Số ĐV mới kết 752 1048 1147 1081 1337 1444 6809
nạp
Nữ 212 350 451 445 552 590 2519
Tỷ lệ 28,2% 33,3% 39,3% 41,1% 39% 40,8%
30 tuổi trở xuống. 209 288 305 337 470 587 2196
Tỷ lệ 27,7% 27,4% 30,5% 31,1% 35,1% 40,6%
Cao đẳng, đại 318 451 531 466 601 726 3093
học. 0,39% 43% 46,2% 43,1% 44,9% 52,7%
Tỷ lệ
Trên đại học. 3 2 1 8 14 21 49
Tỷ lệ 0,39% 0,13% 0,08% 0,74% 1% 1,45%
Nguồn: Ban Tổ chức Thành ủy Đà Nẵng.
Từ lâu các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng đã coi trọng CTPTĐV, bởi lẽ xu hướng
lão hóa trong các đảng bộ ở đây nổi lên quá rõ. Mặt khác, sự hụt hẫng trong đội ngũ cán
bộ cơ sở có nguyên nhân từ chỗ không làm tốt CTPTĐV mới trong thanh niên trên địa
bàn dân cư. Năm 1997 tổng số đảng viên đang công tác và sinh hoạt tại 33 phường là
9.237 đồng chí chiếm 43,2% so với tổng số đảng viên toàn thành phố, đến cuối năm
2002 tăng lên 10.218 đồng chí chiếm 38% tổng số đảng viên, trong đó đảng viên hưu trí
là 7.507 đồng chí (73,4%), còn lại là đảng viên trẻ và đảng viên đương chức đang làm
việc, công tác tại các cơ quan, đoàn thể ở phường. Nếu nói rằng, sự chênh lệch về số
lượng giữa đảng viên già (trên 60 tuổi) với đảng viên trẻ (dưới 30 tuổi) toàn thành phố
là lớn thì đối với các phường là quá lớn và khó có thể biện minh cho xu hướng "lão hóa"
và sút kém của một số tổ chức cơ sở đảng trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của
mình.
Qua khảo sát ở 25 Đảng bộ phường thuộc 4 quận: Quận Hải Châu, quận Liên
Chiểu, quận Ngũ Hành Sơn và quận Sơn Trà cho thấy những ưu điểm và khó khăn hạn
chế trong CTPTĐV trẻ như sau:
2.1.1. Những ưu điểm
ở Đảng bộ quận Hải Châu, từ 1997 đến tháng 6 năm 2003 phát triển được 635
đảng viên, có 392 nữ (tỷ lệ 61,76%), 196 đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
(30,8%) số dưới 30 tuổi 190 (29,9%), được phân loại theo tính chất công tác như sau:
46 đồng chí là công chức Nhà nước (7,2%), 328 ở các đơn vị sự nghiệp (51%); 32 đồng
chí là cán bộ quản lý doanh nghiệp (5%); 38 người là cán bộ chiến sĩ lực lượng vũ trang
(5,8%), 8 dân quân phường (1,25%); 99 công tác ở khối phố, tổ dân phố (15,5%); 88
cán bộ phường (13,8%). Tổ chức cơ sở Đảng phát triển nhiều nhất là 36 đảng viên, ít
nhất là 1 đảng viên.
Trước những hạn chế và tốc độ lão hóa nhanh của đảng viên trong các đảng bộ,
các cấp ủy đã coi trọng CTPTĐV, nhất là trong thanh niên trên địa bàn dân cư. Nhiều
đảng bộ đã ra nghị quyết chuyên đề về phát triển Đảng trong thanh niên, xác định trách
nhiệm của cấp ủy đối với công tác này, phân công trực tiếp từng đồng chí cấp ủy viên
xuống sinh hoạt với các chi bộ để kiểm tra nội dung nghị quyết nhằm chuyển biến nhận
thức của từng đảng viên trong Đảng bộ và giúp đảng viên hiểu rõ ý nghĩa của CTPTĐV
đối với việc nâng cao sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ mới, đồng thời giao chỉ tiêu,
nhiệm vụ cụ thể cho các chi bộ. Hầu hết các TCCSĐ đều làm CTPTĐV theo hướng chú
trọng đến chất lượng. Tỷ lệ đảng viên trẻ có học vấn và trình độ chuyên môn nghiệp vụ
ngày càng tăng, một số trường hợp được kết nạp vào Đảng khi tuổi đời còn rất trẻ (18-
20 tuổi) tuy không nhiều nhưng là tín hiệu đáng phấn khởi. Đặc biệt là CTPTĐV ở các
trường học, trạm y tế phường, lực lượng dân quân tự vệ. Một số phường đã chú trọng
đúng mức đến việc phát triển đảng viên ở khối phố, tổ dân phố. Điều này có ý nghĩa hết
sức quan trọng đối với nhiệm vụ củng cố, kiện toàn hệ thống chính trị ở cấp cơ sở hiện
nay. Tiêu biểu một số phường làm tốt CTPTĐV như: phường Thạch Thang, phường
Hòa Cường, Hòa Thuận, Phước Ninh...
Đảng bộ phường Hòa Cường từ 1995-2002 kết nạp được 67 đảng viên trong đó 19
đảng viên thanh niên (28,35%); 36 giáo viên (53,73%); 5 cán bộ chiến sĩ công an
(7,74%); 3 dân quân (4,47%); 16 tổ trưởng, tổ dân phố (23,88%); 3 cán bộ phường
(4,47%); 4 đoàn thể (5,97%)... Đa số các đảng viên mới kết nạp đều phát huy tác dụng
tốt, thực sự tăng thêm sức mạnh lãnh đạo ở cơ sở, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
chính trị ở địa phương.
Tính riêng trong năm 2001, Đảng bộ phường Hòa Thuận đã kết nạp được 15
đảng viên, trong đó 12 đảng viên (80%) được kết nạp ở chi bộ đường phố có tuổi đời từ
21-37 tuổi, số đông đảng viên mới đều có trình độ học vấn, bảo đảm các tiêu chuẩn về
phẩm chất chính trị và năng lực hành động, phát huy được vai trò tiên phong gương
mẫu, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Qua phấn đấu rèn luyện nhiều đồng chí trở thành
nòng cốt phong trào ở địa phương như 1 ủy viên BCH phụ nữ, một tổ trưởng, 3 tổ phó tổ
dân phố, 1 phường đội, 1 trở thành doanh nghiệp. Có trường hợp, mặc dù vướng mắc về
lý lịch gia đình, thời gian xác minh kéo dài nhưng với quyết tâm và ý chí vươn lên, cộng
với sự giúp đỡ tận tình của chi bộ đã chứng tỏ năng lực, hoàn thành nhiệm vụ, thể hiện
rõ bản lĩnh chính trị, động cơ phấn đấu của mình và trở thành đảng viên của Đảng được
bà con khối phố tin yêu.
Thấy được tính chất và ý nghĩa trọng yếu của việc phát triển đảng viên trong
thanh niên của ba phường trên địa bàn quận. Ngày 2/1/1998 Ban Thường vụ Quận ủy
Ngũ Hành Sơn đã ban hành Chỉ thị số 02-CT/QU về tăng cường lãnh đạo CTPTĐV và
để cụ thể hóa một bước ngày 10/8/1999 quận ủy ban hành tiếp Chỉ thị số 03-CT/QU về
tăng cường lãnh đạo CTPTĐV trong lực lượng dân quân tự vệ và dự bị động viên, yêu cầu
các cấp ủy thường xuyên làm tốt CTPTĐV đảm bảo yêu cầu về số lượng. Quán triệt và
thực hiện tinh thần chỉ thị trên ba Đảng bộ phường qua 6 năm đạt được một số kết quả
cụ thể sau:
Biểu 2.3: Số lượng đảng viên mới kết nạp từ 1997 - 2002
Kết nạp Tổng Tổng
số số Đảng bộ T.cộn Tỷlệ đảng chi 1997 1998 1999 2000 2001 2002 g (%) viên bộ
1. Hòa Quí 175 15 2 6 8 9 13 47 28,6 9
2. Hòa Hải. 269 16 11 12 14 12 14 67 24,9 7
436 20 6 4 12 14 14 14 64 14,6 3. Bắc Mỹ
An
T, cộng 880 51 19 22 28 33 35 41 178 20.2
Nguồn: Ban Tổ chức Quận ủy Ngũ Hành Sơn.
178 đảng viên mới kết nạp về cơ bản bảo đảm về chất lượng, được thử thách
trong thực tiễn, tham gia công tác ở cơ sở, đảng viên nữ chiếm tỷ lệ 36,7%, đoàn thanh
niên 27,3%; đa số đảng viên mới có trình độ phổ thông trung học trở lên. Đối tượng
được phát triển nhiều nhất là giáo viên và lực lượng dân quân tự vệ. Nếu như trước đây
khu dân cư Hải Châu (phường Hòa Hải) không có đảng viên thì nay tất cả các địa bàn
dân cư đều có đảng viên, có chi bộ Đảng. Lực lượng thanh niên ưu tú trên địa bàn
phường nói trên được kết nạp vào Đảng qua các năm tuy còn ít, nhưng đã phát huy được
vai trò của mình, đa số là những cán bộ cốt cán trong phong trào đoàn ở cơ sở, là những
nhân tố tích cực trong việc tuyên truyền vận động thanh niên phấn đấu để được đứng
vào hàng ngũ của Đảng. Qua các kỳ phân loại chất lượng hầu hết các đồng chí này đều
đủ tiêu chuẩn loại 1 và được chuyển thành đảng viên chính thức đúng thời hạn (xem
biểu 6).
Quận Liên Chiểu nằm ở phía Bắc thành phố Đà Nẵng có 3 phường, năm 1997
được cấp trên tăng cường cán bộ về công tác ở phường, lúc này CTPTĐV được coi là
một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng của các cấp ủy và chi bộ Đảng. Để
CTPTĐV đi vào nề nếp, đạt hiệu quả và chất lượng cao, bước đầu các Đảng ủy tiến
hành lập kế hoạch và khảo sát, nắm lý lịch trích ngang của từng đối tượng là con em cán
bộ và gia đình cách mạng trên địa bàn phường để tìm hiểu nguồn phát triển Đảng, từ đó
có kế hoạch bồi dưỡng, tiếp tục tạo nguồn trong những năm tiếp theo. Do được khảo sát
kỹ nên các đối tượng quần chúng sau giai đoạn thử thách đều được xét kết nạp, không
có tình trạng đối tượng được đi học nhưng do vướng mắc về lý lịch gia đình mà không
được kết nạp, dẫn đến nảy sinh tư tưởng chán nản, làm ảnh hưởng đến tình hình chung.
Hơn 6 năm Đảng bộ phường đã phát triển được 58 đảng viên trên tổng số đảng viên mới
là 363 (15,9%). Cụ thể năm 1997 phát triển được 6/26 (2,31%); 1998 là 11/61 (10%);
1999 là 8/54 (14,8%); 2000 là 8/64 (12,5%); 2001 là 14/70 (20%); 2002 là 4/68 (5,9%);
quí I 2003 là 7/20 (35%). Tỷ lệ đảng viên mới tuổi đời dưới 30 chiếm khoảng 30% so với
tổng số đảng viên mới được kết nạp; trình độ học vấn và chuyên môn nghiệp vụ ngày
càng được nâng cao. Tuy nhiên CTPTĐV ở phường vẫn chưa đi vào ổn định (năm 2002
chỉ phát triển được 4 đảng viên) mặc dầu các cấp ủy đảng đã chuẩn bị chu đáo và có kế
hoạch cụ thể (xem biểu 1).
ở 7 Đảng bộ phường quận Sơn Trà năm 1997 tỷ lệ đảng viên chiếm rất thấp so
với dân số, trong đó 70% là đảng viên hưu trí, 32% tổ dân phố, 20,8% trường học (mầm
non, tiểu học, trung học cơ sở) không có đảng viên; tỷ lệ đảng viên trẻ dưới 30 tuổi rất
thấp 2,38%. Xuất phát từ thực trạng trên, Đại hội Đảng bộ quận Sơn Trà lần thứ nhất đã
đề ra mục tiêu, nhiệm vụ là "Đẩy mạnh CTPTĐV mới, coi trọng cả số lượng và chất
lượng, chú ý lực lượng trẻ, nữ công nhân, lực lượng vũ trang. Quan tâm thanh niên
trong trường học, khu dân cư. Phấn đầu hàng năm phát triển 70 đảng viên". Năm nào
cũng vậy, sau khi tổng kết, Ban thường vụ quận ủy đều tiến hành mở hội nghị chuyên
đề sơ kết đánh giá những kết quả, những hạn chế và đề ra phương pháp tháo gỡ vướng
mắc trong CTPTĐV. Đặc biệt từ khi thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) và
Chỉ thị 34-CT/TW của Bộ Chính trị, các ban xây dựng Đảng đã kết hợp chặt chẽ, hướng
dẫn các đảng bộ, chi bộ xây dựng kế hoạch tạo nguồn trong đoàn viên thanh niên, trong
giáo viên, dân quân tự vệ, cán bộ phường... thông qua phong trào hành động cách mạng từ
cơ sở, các đoàn thể chính trị - xã hội đã giới thiệu cho Đảng 246 đoàn viên, thanh niên ưu
tú và 227 quần chúng tốt. Ban tuyên giáo quận ủy mấy năm qua đã mở hàng chục lớp
đối tượng đảng cho gần 500 người, trong đó có 183 giáo viên tham dự.
Từ 1/1997 đến tháng 6/2003, 7 Đảng bộ phường ở quận Sơn Trà đã kết nạp
được 259 đảng viên. Cụ thể: Năm 1997 là 22 đồng chí; 1998 là 42; 1999 là 35; 2000 là
44; 2001 là 59; 2002 là 38; quí I năm 2003 là 19, đoàn viên thanh niên chiếm tỷ lệ
43,92%; dưới 30 tuổi chiếm 37,83%, cán bộ phường và khu dân cư 24,66%; dân quân
11,15%; giáo viên 33,78%; y tế 3,37%. Số chi bộ cơ sở phát triển được đảng viên hàng
năm đều tăng, năm 1997 có 13; năm 1998 có 20 và 1999 là 21. Đã xóa được tình trạng
trắng đảng ở 19 tổ dân phố, số lượng đảng viên trẻ, có trình độ học vấn trưởng thành từ
cơ sở được nâng lên đáng kể, góp phần tích cực trong việc qui hoạch, đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ kế cận, dự nguồn vào các chức vụ chủ chốt của phường. Qua bầu
cử HĐND các cấp nhiệm kỳ 2002-2004 đã có 19 đồng chí trúng cử đại biểu HĐND, 10
đồng chí được bầu vào ủy ban nhân dân các phường, 33 đảng viên mới được cử đi học
trung cấp lý luận chính trị.
Thực hiện chỉ thị 51-CT/TƯ về "kết nạp đảng viên nhân kỷ niệm 70 năm thành
lập Đảng". Qua một năm thực hiện từ 3/2/2000 đến 3/2/2001 toàn Đảng bộ quận Sơn
Trà phát triển được 76 đảng viên mới, trong đó cán bộ phường và địa bàn dân cư là 33
người (43,4%); đảng viên thanh niên chiếm 47,3%; giáo viên 24 đồng chí (31,6%), lực
lượng vũ trang 12 đồng chí (15,7%). Sau một năm đã phát triển mới 2 chi bộ trường
học, khắc phục tình trạng không có đảng viên ở 2 trường học, 1 trạm y tế, 7 tổ dân phố.
Điển hình như Đảng bộ phường Thọ Quang, An Hải Bắc, An Hải Tây, An Hải Đông...
riêng Đảng bộ phường An Hải Đông trong 3 năm (2000-2002) đã kết nạp được 21 đảng
viên, nhìn chung đảm bảo yêu cầu. Trong số đó, đảng viên có trình độ đại học cao đẳng
chiếm 38%; cấp III có 12 đồng chí (62,9%), đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh 20 đồng chí (95,2%), có 5 chi bộ tổ dân phố phát triển được 7 đảng viên, 4 chi bộ
trường học phát triển được 4 đảng viên, còn lại là các chi bộ khác như công an, cơ quan,
dân quân (xem biểu 2, 3, 4).
Qua theo dõi CTPTĐV mới những năm gần đây của các Đảng bộ phường ở Đà
Nẵng cho thấy hướng phát triển ở hai lĩnh vực giáo dục và lực lượng vũ trang được chú
trọng mạnh mẽ. Trong đó lực lượng dân quân tự vệ được kết nạp vào Đảng chiếm tỷ lệ
khá cao trong tổng số đảng viên mới kết nạp ở địa phương. Riêng ở 7 Đảng bộ phường
của quận Sơn Trà từ 1998 đến giữa năm 2001 đã phát triển được 29 đảng viên trong lực
lượng dân quân tự vệ, cụ thể: 1998 phát triển 3/62 đảng viên mới (4,92%); 1999 phát
triển 7/60 đảng viên mới (11,66%); 2000 phát triển 12/61 đảng viên (19,67%) và 6
tháng đầu năm 2003 phát triển 7/51 đảng viên mới (13,72%). Hướng thứ 2 là lực lượng
giáo viên (mầm non, tiểu học, phổ thông cơ sở). Cũng thời gian trên các cấp ủy đảng
trên địa bàn quận Sơn Trà đã kết nạp được 116 đảng viên là giáo viên trên tổng số 259
đảng viên mới, chiếm tỷ lệ 44,7% trong đó 6 trường trung học cơ sở phát triển được 14
đồng chí (12,8%); 14 trường tiểu học phát triển được 49 đồng chí (42,2%) và 8 trường
mầm non quốc lập phát triển được 8 đồng chí (6,8%). Nếu năm 1998 toàn ngành giáo
dục quận chỉ có 14 chi bộ với 123 đảng viên, trong đó có 5 chi bộ cơ sở, còn lại là chi
bộ ghép. Đến nay, tất cả các trường trung học cơ sở đều có chi bộ độc lập, 12/14 trường
tiểu học có chi bộ, đa số các trường mầm non đều có đảng viên.
Kết quả này đem so sánh với thời điểm năm 1997 mới thấy được đây là sự nỗ
lực vượt bậc và mang đầy ý nghĩa của CTPTĐV của Đảng bộ phường hiện nay. Số
lượng và tỷ lệ đoàn viên ưu tú được kết nạp đảng ngày càng tăng. Nếu năm 1997 tỷ lệ
đảng viên thanh niên toàn thành phố là 26,4% so với tổng số đảng viên mới, thì đến năm
2002 tỷ lệ này tăng lên 43,9%. Riêng các Đảng bộ phường có tỷ lệ thấp hơn và không
đồng đều, có phường tỷ lệ đảng viên thanh niên trên 90%, nhưng có phường chỉ dừng
lại ở 23%. Trung bình các Đảng bộ phường toàn thành phố dao động từ 27% đến 35%.
Kết quả này chưa phải là cao, chưa phản ánh đúng thực lực và công sức của các cấp ủy
Đảng bỏ ra, nhưng đây là tỷ lệ đáng mừng.
2.1.2. Những khó khăn, hạn chế
Đối với các Đảng bộ phường và chi bộ khối phố, nguồn phát triển Đảng gặp
khó khăn. Đa phần thanh niên có học vấn, tay nghề giỏi đã có việc làm ở nhà máy, xí
nghiệp hoặc cơ quan đơn vị. Số ít ở địa phương trình độ học vấn thấp, không có việc
làm, trong khi hoạt động của các tổ chức đoàn thể, nhất là đoàn thanh niên chưa đủ
mạnh để lôi cuốn đối tượng này vào tổ chức của mình để giao việc nên tổ chức Đảng
khó tìm được nguồn kết nạp. Mặt trái của cơ chế thị trường, lối sống hưởng thụ phương
Tây, sự phân hóa giàu, nghèo, tình trạng tha hóa của một số cán bộ trong các ngành, các
địa phương chưa được ngăn chặn triệt để... đã tác động không tốt đến niềm tin, lý tưởng
của quần chúng thanh niên. Tình trạng thanh niên "nhạt Đoàn", đoàn viên "nhạt Đảng"
xuất hiện không phải là cá biệt.
Theo số liệu thống kê của Ban Tổ chức Thành ủy, hoạt động của tổ chức Đoàn
ở nhiều địa phương yếu, nhiều nơi chỉ tồn tại trên danh nghĩa, toàn thành phố có 51123
thanh niên đang sinh hoạt tại địa phương thì có 1840 thanh niên có cảm tình Đảng
(3,5%) nhưng chưa được tổ chức nào theo dõi giúp đỡ. Có những đơn vị 5 năm qua
không kết nạp được đảng viên mới hoặc chỉ kết nạp được 1-2 người. Nhiều tổ chức
Đảng chưa có chương trình, kế hoạch, biện pháp phù hợp với từng trường hợp, lĩnh vực
trong điều kiện mới. Đa số các Đảng bộ phường phạm vi xem xét các đối tượng chỉ
dừng lại ở số cán bộ, nhân viên hiện có; chưa chú ý đến đông đảo đối tượng ưu tú, tích
cực từ các phong trào cách mạng của quần chúng ở tổ dân phố, khu phố, ở giáo viên các
cấp và số thanh niên đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về địa phương.
Do đó, CTPTĐV tuy có đạt về số lượng nhưng vẫn còn thấp so với yêu cầu,
nhất là ở những địa bàn và lĩnh vực trọng điểm như: những quần chúng ưu tú trong lao
động sản xuất giỏi, trong phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu
dân cư, trong lực lượng dự bị động viên và dân quân tự vệ, trong hợp tác xã và tổ hợp
sản xuất, trong đội ngũ giáo viên, trạm y tế phường...
Theo báo cáo của Ban Tổ chức Quận ủy Sơn Trà hiện nay vẫn còn 127 tổ dân
phố (31%), 2 trường mẫu giáo, 2 trạm y tế phường chưa có đảng viên; 2 trường tiểu học
còn sinh hoạt chi bộ ghép, tỷ lệ đảng viên mới trong dân quân tự vệ thấp (0,57%). Ban
Tổ chức Quận ủy Hải Châu cũng cho biết 12 phường trên địa bàn quận từ năm 1997-
2001 chỉ kết nạp được 231 đảng viên. Trong đó 32/131 (24,4%) chi bộ khối phố có làm
công tác phát triển đảng, còn 106 chi bộ 4 năm qua không làm công tác này. Thực tế
cho thấy, một số chi bộ không thực hiện được kế hoạch phát triển đảng viên như đã
đăng ký, nhiều cấp ủy còn lúng túng trong thực hiện các biện pháp nghiệp vụ, sai sót thủ
tục hồ sơ hoặc xem nhẹ các qui định mới về bảo vệ chính trị nội bộ. Số lượng đảng viên
mới kết nạp hàng năm chỉ đạt từ 85,4% - 88,5% so với chỉ tiêu đại hội đảng bộ các
phường đề ra. Riêng số đoàn viên ưu tú được kết nạp Đảng chỉ đạt 24,1% so với tổng số
được giới thiệu. Tỷ lệ đảng viên trẻ thấp mới đạt 24,1% chỉ chiếm 3,15% trong đoàn
viên thanh niên và 0,41% trong thanh niên. Nhiều chi đoàn, đoàn cơ sở nhiều năm liền
không có đoàn viên được kết nạp Đảng, một số cơ sở chỉ kết nạp Đảng đến cán bộ chủ
chốt hoặc ủy viên ban chấp hành chi đoàn, chưa kết nạp tới đoàn viên. Đặc biệt có tình
trạng đoàn viên phấn đấu tích cực nhiều năm liền nhưng vẫn chưa được đứng vào hàng
ngũ của Đảng, gây nên cảm giác cái đích để trở thành đảng viên thật xa vời. Đây là hệ
quả của nhiều yếu tố không tích cực cần được khắc phục kịp thời.
Một số cấp ủy và chi bộ cơ sở chưa thực sự coi trọng chất lượng, chạy theo số
lượng, cơ cấu đơn thuần. Có nơi vì để hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch đề ra để đạt tiêu
chuẩn Đảng bộ, chi bộ trong sạch vững mạnh nên đã chỉ đạo tổ chức thực hiện kết nạp
cả những đối tượng không đảm bảo chất lượng về phẩm chất đạo đức hoặc lịch sử chính
trị. Mặt khác, công tác bồi dưỡng, giáo dục và giúp đỡ của tổ chức Đảng đối với đảng
viên mới ở nhiều cơ sở chưa tốt. Một số đảng viên sau khi được công nhận chính thức
đã tỏ ra thỏa mãn, ít rèn luyện phấn đấu nên chưa phát huy tốt tác dụng. Ngoài ra, còn
một số yếu tố như: Những phường có đông đồng bào theo đạo, những vấn đề liên quan
đến lịch sử chính trị, quan hệ với người thân ở nước ngoài, trình độ học vấn, tuổi tác...
do điều kiện lịch sử dể lại; vấn đề xác minh lý lịch gặp nhiều khó khăn, các tổ chức
Đảng lại không có kinh phí để thẩm tra xác minh, nhiều trường hợp chậm hoặc không
có kết quả. Đảng viên ở phường đông nhưng không có đủ người để phục vụ kịp thời các
yêu cầu trên, nhất là những trường hợp liên quan đến công tác bảo vệ chính trị nội bộ.
Còn nhiều đảng viên và cả những cấp ủy viên chưa thật sự tin vào lớp trẻ, định
kiến, hẹp hòi khi xem xét đánh giá. Một số tổ chức Đảng còn cho rằng kết nạp đảng viên
là để phân công công việc hoặc bố trí công tác lãnh đạo, quản lý mà hiện nay còn có đảng
viên chưa được phân công, bố trí công tác được thì không cần phải phát triển thêm nữa. Có
đảng viên quan niệm, việc phát triển đảng viên mới là nhiệm vụ của cấp ủy, của đồng chí bí
thư, của cán bộ tổ chức chứ không phải là nhiệm vụ đảng viên. Do những quan niệm
không đúng, nên nhiều tổ chức cơ sở Đảng đã "thả nổi" phong trào Đoàn, bất lực trước
sự xuống cấp của tổ chức Đoàn, coi đó là hiện tượng không thể khắc phục được. Thậm
chí có người còn xuyên tạc khi cho rằng, với cơ chế hiện nay đã làm đảo lộn các giá trị
sống của thanh niên, sự hy sinh, tính tình nguyện của tuổi trẻ hiện nay không đi cùng với
kinh tế thị trường... Mặt khác, không ít tổ chức đoàn, nhất là đoàn cơ sở coi việc phát
triển Đảng là của tổ chức Đảng, do Đảng chủ động, chỉ khi nào Đảng gợi ý hoặc thông
báo cho Đoàn cần bồi dưỡng, giới thiệu thì Đoàn mới tiến hành xem xét và gửi văn bản
lên. Ngược lại, theo khảo sát thì đa số các chi bộ lại "khoán trắng" cho chi đoàn trong
việc bồi dưỡng, giúp đỡ thanh niên để tạo nguồn. Khi nào Đoàn chuẩn bị xong nguồn,
giới thiệu sang thì chi bộ mới bắt đầu xem xét. Nghị quyết của Đảng bộ, chi bộ phường
chỉ đề cập đến các đoàn thể một cách chung chung, thiếu kiểm tra đôn đốc thường
xuyên. Đây là một sự chờ đợi không tích cực dẫn đến không xây dựng được mối quan
hệ phối hợp chặt chẽ giữa Đảng với các tổ chức đoàn thể quần chúng; quần chúng ít
quan tâm tới Đảng, thờ ơ với chi bộ, không hào hứng tham gia xây dựng Đảng, thậm chí
đứng ngoài công tác xây dựng Đảng. Nhìn một cách khái quát, xây dựng đảng bộ, chi
bộ ở phường vững mạnh chính là xây dựng các tổ chức trên địa bàn phường vững mạnh
nhằm đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân lao động, phát huy sức mạnh tổng hợp của
cả hệ thống chính trị.
Với số lượng đảng viên hưu trí chiếm tỷ lệ cao, nên có thể nói, sự lãnh đạo của
Đảng bộ, chi bộ phường về thực chất là sự lãnh đạo của đa số ĐNĐV hưu trí đối với
quần chúng nhân dân nói chung và các đoàn thể quần chúng nói riêng. Tình trạng đó
nhiều khi biểu hiện ở quan hệ cha, chú, bề trên, quan liêu, áp đặt của một số cán bộ, cấp
ủy đảng đối với cán bộ đoàn thể, nhất là đoàn thanh niên. Đó còn là biểu hiện của tình
trạng nhiều đảng viên ở các chi bộ khối phố, tổ dân phố đứng ngoài phong trào quần
chúng, né tránh trách nhiệm. Sự quan tâm của một số cấp ủy tới CTPTĐV trong thanh
niên mới chỉ dừng lại ở những quan điểm, chủ trương chung, còn kế hoạch, biện pháp
cụ thể để tổ chức thực hiện thì chưa có. Đây là sự báo động khẩn cấp đối với các đảng
bộ, chi bộ phường ở Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay.
2.2. Nguyên nhân và kinh nghiệm về CÔNG Tác Phát Triển Đảng VIÊN
trong thanh niên của Đảng bộ phường ở Đà Nẵng và những vấn đề đặt ra
2.2.1. Nguyên nhân của ưu điểm
Thứ nhất, những thành tựu của công cuộc đổi mới ở nước ta cũng như sự khởi
sắc, phát triển trên nhiều lĩnh vực của thành phố Đà Nẵng những năm qua đã chứng tỏ:
việc hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới do ĐCSVN khởi xướng "tuy trong quá
trình thực hiện có một số khuyết điểm, lệch lạc lớn kéo dài dẫn tới chệch hướng ở lĩnh
vực nay hay lĩnh vực khác, ở mức độ này hay mức độ khác" [6, tr. 68] nhưng cơ bản là
đúng đắn, có sức thuyết phục lớn đối với thanh niên. Đó là nguyên nhân làm tăng sự
khẳng định tất yếu vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng ta trong cách mạng từ trước đến
nay và từ nay về sau. Đồng thời, được thụ hưởng những lợi ích cơ bản, thiết thực do đổi
mới đem lại, cho nên đại bộ phận thanh niên tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, một
số mong muốn được đứng và hàng ngũ của Đảng để xây dựng và bảo vệ thành công chủ
nghĩa xã hội; mặc dù còn một bộ phận nhỏ trong số họ còn chưa thật sự giác ngộ chính
trị.
Thứ hai, trong những năm qua Đảng đã ban hành các nghị quyết, chỉ thị, qui
định không chỉ liên quan đến cuộc vận động đổi mới, chỉnh đốn Đảng trong tổ chức
Đảng nói chung mà còn liên quan trực tiếp đến CTPTĐV trong thanh niên của các Đảng
bộ phường. Đó là: Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 3 và 4 (khóa VII), Nghị quyết
Trung ương lần thứ 2 (khóa VIII), Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII,
Nghị quyết Trung ương 7 khóa IX (6/2003), Chỉ thị 34-CT/TƯ (30/5/1998), Chỉ thị
51/TƯ (20/1/2000). Đặc biệt Qui định 52-QĐ/TƯ ngày 19/11/1992 của Ban Bí thư về
chức năng nhiệm vụ của Đảng bộ, chi bộ phường ghi rõ: "Thường xuyên làm tốt công
tác tạo nguồn và phát triển đảng viên đúng tiêu chuẩn, coi trọng chất lượng; chú trọng
phát triển đảng viên trong đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh".
Thấu triệt tinh thần các nghị quyết, chỉ thị, qui định nêu trên nhằm thực hiện và
cụ thể hóa việc đổi mới chỉnh đốn Đảng trong toàn Đảng bộ thành phố Đà Nẵng, các
cấp ủy Đảng đã kịp thời đề ra các chỉ thị, chương trình kế hoạch hành động, tổ chức hội
nghị, hội thảo... tăng cường công tác tư tưởng, tổ chức quán triệt nghiêm túc các nghị
quyết, chỉ thị của Đảng gắn với học tập nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin,
Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng đấu tranh uốn nắn những nhận
thức lệch lạc, phê phán các quan điểm sai trái, đã tiến hành nhiều hình thức, phương
pháp nhằm cung cấp thông tin, bồi dưỡng và phát huy truyền thống yêu nước, truyền
thống cách mạng của Đảng bộ cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Các cấp ủy chi ủy
Đảng ở phường đã cố gắng bám sát cơ sở, giải quyết những vấn đề cụ thể đang đặt ra,
góp phần quan trọng vào việc củng cố lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sự nghiệp
đổi mới; động viên cán bộ, đảng viên và nhân dân khắc phục khó khăn, đẩy mạnh các
phong trào hành động cách mạng, tạo được khí thế sôi nổi của quần chúng trên nhiều
lĩnh vực hoạt động, nhất là trong những dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn.
Nhờ có sự chỉ đạo sát sao của các cấp ủy Đảng từ Thành ủy đến cơ sở mà đến
nay hơn 12.000 đảng viên đương chức ở các cơ quan đã được giới thiệu về sinh hoạt với
cấp ủy nơi cư trú, giữ mối liên hệ thường xuyên với địa bàn dân cư. Số đảng viên phát
huy tác dụng tốt (loại 1) năm 1997 có tỷ lệ là 75,7% thì đến nay đạt tỷ lệ trên 80% tổng
số đảng viên. Qua thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), bước đầu đã khắc phục
được sự sa sút, yếu kém của một số tổ chức cơ sở Đảng, cải tiến và nâng cao chất lượng
sinh hoạt chi bộ, kiện toàn cấp ủy, quản lý chặt chẽ đảng viên, thực hiện nghiêm túc tự
phê bình và phê bình, củng cố đoàn kết nội bộ. Nhiều đảng viên ở cơ sở đã thể hiện tốt
tính tiền phong, gương mẫu thực sự là tấm gương tốt đã và đang có tác dụng tích cực
trong giáo dục, thuyết phục quần chúng, nhất là quần chúng thanh niên noi theo và phấn
đấu trở thành người đảng viên.
Thứ ba, sự đổi mới về nhận thức và phương thức hành động của Đảng bộ phường
đối với CTPTĐV trong thanh niên trên địa bàn dân cư, trước hết là người đứng đầu cấp ủy,
được thể hiện ngay trong quan điểm lãnh đạo, chỉ đạo từ Đảng bộ xuống các chi bộ và
đảng viên. Đó là nguyên nhân rất quan trọng, vừa là động lực, vừa là điều kiện thực sự
chuyển biến công tác này.
Từ việc thay đổi nhận thức và đánh giá thanh niên trên địa bàn dân cư một cách
đúng hơn, sát thực và phù hợp với điều kiện thực tế hiện nay. Các cấp ủy Đảng đã quan
tâm thường xuyên, cử cán bộ chuyên trách theo dõi, đưa ra bàn bạc trong các cuộc họp
đảng ủy và chi bộ, xây dựng kế hoạch, qui trình và tiêu chí trong quá trình thực hiện
cũng như đánh giá chi bộ, đảng bộ trong sạch vững mạnh. Nhiều nơi đã thực hiện điều
tra cơ bản để lập kế hoạch tạo nguồn và thực hiện tốt việc tuyên truyền giáo dục, bồi
dưỡng, nâng cao nhận thức cách mạng cho quần chúng thanh niên, đồng thời thực hiện
nghiêm túc việc phân công đảng viên, định kỳ kiểm tra, đôn đốc nhắc nhở đảng viên và
tổ chức đảng trong công tác thanh niên. Kịp thời uốn nắn những lệch lạc, khắc phục
những tồn tại, chủ động và kiên quyết lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện bằng được chỉ tiêu, kế
hoạch phát triển đảng viên cả về số lượng và chất lượng.
Đổi mới nhận thức và phương thức hành động còn được thể hiện ở sự quan tâm
xây dựng các tổ chức đoàn thể quần chúng vững mạnh, trước hết là Đoàn thanh niên.
Hầu hết thủ lĩnh thanh niên ở phường theo qui định đều phải là đảng viên tiên tiến, có
năng lực công tác thanh niên, được cơ cấu trong cấp ủy, mọi đề đạt nguyện vọng chính
đáng của thanh niên được quan tâm giải quyết thỏa đáng.
Thứ tư, Đoàn thanh niên, Hội thanh niên đã "cung cấp" nhiều đoàn viên ưu tú và
là "cái nôi" góp phần tạo dựng đảng viên có chất lượng cho Đảng.
Tuy còn ở các mức độ khác nhau và không đồng đều giữa các phường, nhưng
Đoàn, Hội thanh niên đã thấy được trách nhiệm của mình trong công tác xây dựng
Đảng, xây dựng Đoàn là xây dựng Đảng trước một bước, xây dựng Đoàn vững mạnh là
góp phần xây dựng Đảng vững mạnh. Tổ chức Đoàn, Hội đã thể hiện những cố gắng
trong việc đổi mới phương pháp, nội dung, phương thức hoạt động để thu hút, tập hợp
và giáo dục thanh niên. Trong nhiều năm qua, được sự giúp đỡ của Đoàn, Hội Trung
ương và Thành đoàn Đà Nẵng, cùng với sự quan tâm giúp đỡ của Đảng và chính quyền
các cấp, phong trào của Đoàn, Hội ở phường có nhiều chuyển biến tích cực hơn. Các
phong trào "Thanh niên lập nghiệp", "Tuổi trẻ giữ nước", "Thanh niên với công tác xã
hội" và nhiều câu lạc bộ sở thích như: Gia đình trẻ, giúp nhau làm kinh tế... đã thu hút
được đông đảo thanh niên trên địa bàn phường tham gia. Thông qua các phong trào và
hoạt động của thanh niên, Đoàn, Hội đã phối với các cấp ủy Đảng ở cơ sở giáo dục
chính trị, tư tưởng, tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, giúp cho thanh niên có nhận thức đúng đắn, đầy đủ và tin tưởng vào sự lãnh
đạo của Đảng trong sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng XHCN. Do đó, nhiều
thanh niên xây dựng được lý tưởng, hoài bão cho mình, xác định đúng động cơ và phấn
đấu rèn luyện để có điều kiện gia nhập Đảng.
2.2.2. Nguyên nhân của hạn chế
2.2.2.1. Nguyên nhân khách quan
Một là, những năm qua, tình hình quốc tế có nhiều biến động như xung đột vũ
trang, chiến tranh xâm lược, chiến tranh về dân tộc, tôn giáo,sắc tộc... là nạn đói, bệnh
tật, khủng bố, phân hóa giàu nghèo trên thế giới..., lớn nhất là sự kiện Đảng cộng sản
trong các nước XHCN ở Liên Xô và Đông Âu bị giải tán. Đảng viên, thậm chí cả lãnh
tụ của nhiều đảng cộng sản bị truy bức, đã tác động mạnh đến yếu tố tư tưởng và niềm
tin của quần chúng, gây hoang mang, dao động trong một bộ phận cán bộ đảng viên
ĐCSVN. Sự kiện này làm cho một bộ phận thanh niên gặp khó khăn về định hướng
chính trị, giảm sút lòng tin vào lý tưởng XHCN và bị lợi dụng.
Bên cạnh đó là chiến lược "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch đối với
Việt Nam. Lợi dụng sự sơ hở của một số chính sách trong cơ chế mới và một số biểu
hiện tiêu cực của một bộ phận cán bộ đảng viên thoái hóa, biến chất, bằng nhiều thủ
đoạn được áp dụng, kẻ thù muốn đã tách nhân dân ra khỏi chính quyền, làm lu mờ vai
trò lãnh đạo của Đảng. Thanh niên nói chung, thanh niên sống trên địa bàn dân cư
phường nói riêng là đối tượng quan trọng để chúng tranh chấp, dụ dỗ, lôi kéo theo lối
sống đồi trụy, phi đạo đức, phi chính trị để xao nhãng và quên đi ý thức dân tộc, trách
nhiệm công dân, mục tiêu và lý tưởng XHCN. Một khi đã như vậy, thì thanh niên không
còn mong muốn phấn đấu rèn luyện vươn lên trở thành người cộng sản.
Hai là, mặt trái của kinh tế thị trường đang hàng ngày, hàng giờ tác động vào
thanh niên trên địa bàn phường.
Phường là nơi diễn ra nhiều hoạt động sản xuất, kinh doanh sôi động nhất và chịu
tác động mạnh mẽ của kinh tế thị trường. Đối với thanh niên ở đó, kinh tế thị trường tạo
cho họ năng lực tư duy và hành động thiết thực, thói quen làm việc chủ động, tích cực,
nhạy cảm, lôi cuốn thanh niên vào con đường học tập, lao động và ý thức tự khẳng định
mình.
Bên cạnh những mặt tích cực, bản thân "kinh tế thị trường cũng có mặt tiêu cực
mâu thuẫn với bản chất XHCN. Đó là xu thế phân hóa giàu nghèo, là tâm lý sùng bái
đồng tiền, vì đồng tiền mà chà đạp lên đạo đức, nhân phẩm" [6, tr. 72]. Tác động bởi
mặt trái kinh tế thị trường đối với thanh niên trên địa bàn phường được thể hiện rõ nhất
ở lối sống, một lối sống thực dụng, cực đoan, làm ảnh hưởng xấu đến thuần phong, mỹ
tục và bản sắc dân tộc Việt Nam. Qua 5 năm phấn đấu nhưng tỷ lệ thất nghiệp ở Đà
Nẵng vẫn còn ở mức cao (6,17%). Số lao động không đủ việc làm chiếm tới 4,35% lực
lượng lao động; 76,3% người lao động hiện nay chưa qua đào tạo nghề (chỉ tiêu của Đại
hội XVII là đến 2000 lực lượng lao động có tay nghề đạt trên 30% trên tổng số lao động
có việc làm), kết quả phân luồng sau trung học phổ thông theo hướng đào tạo nghề còn
rất hạn chế, chỉ chiếm khoảng 14% số học sinh tốt nghiệp mỗi năm [3, tr. 30].
Trong điều kiện hiện nay không ít đảng viên lao vào kinh doanh buôn bán, dịch
vụ, một số đảng viên làm kinh tế tư bản tư nhân và giàu lên một cách nhanh chóng.
Trong khi đó đại bộ phận đảng viên ở phường hưởng lương hưu trí, làm ăn chân chính
nhưng chưa thích nghi với cơ chế mới nên đời sống khó khăn, thiếu thốn. Điều đó làm
ảnh hưởng đến tâm lý quần chúng. Chân dung người cộng sản trong chừng mực nào đó
không còn hấp dẫn đối với một bộ phận thanh niên ở phường. Đó là lý do không ít
thanh niên không muốn vào Đảng.
2.2.2.2. Nguyên nhân chủ quan
Một là, do cấp ủy ở nhiều Đảng bộ phường chưa thấy được vai trò, vị trí của
thanh niên và công tác vận động thanh niên trong thời kỳ mới cho nên chưa quan tâm,
chú trọng đúng mức đến CPPTĐV trong thanh niên.
Mặc dù đã có chỉ thị, hướng dẫn của cấp trên, nhưng do nhận thức chưa đầy đủ
về tầm quan trọng của công tác này nên sự quan tâm của nhiều cấp ủy chỉ thể hiện ở
quan điểm chủ trương chung, thiếu kế hoạch, biện pháp cụ thể, đồng bộ để tổ chức thực
hiện. Một số cấp ủy "thả nổi" các hoạt động của Đoàn, Hội, không cử cán bộ theo dõi,
không có sự kết hợp chặt chẽ với chính quyền, đoàn thể trong công tác bồi dưỡng, tạo
nguồn tổ chức này. Hơn nữa, việc tiến hành các thủ tục, hồ sơ xét kết nạp Đảng cho
thanh niên ở một số cấp ủy chậm chạp, cứng nhắc, phức tạp theo lối hành chính, quan
liêu để ách tắc hồ sơ và kéo dài thời gian kết nạp.
Một số đảng viên chưa ý thức được làm CTPTĐV trong thanh niên là nhiệm vụ
của mình. Do đó, cách tiếp cận thanh niên nhất là với đối tượng là thanh niên ở phường
còn mang đầu óc gia trưởng, cứng nhắc, hẹp hòi, ít gần gũi, thiếu tin tưởng, thiếu tôn
trọng. Số đồng chí này vẫn giữ nguyên những quan điểm về chuẩn mực đạo đức, tác
phong trước đây để đánh giá thanh niên trong cơ chế mới, trong thời kỳ mở cửa giao lưu
với bên ngoài. Nhiều đồng chí còn dè dặt với thanh niên tháo vát, biết cách làm ăn, làm
giàu chính đáng và vui chơi giải trí như vũ hội, du lịch, đi nhà hàng... Do đó, khi xem
xét đối tượng phát triển Đảng là thanh niên thường xem nhẹ hoặc bỏ qua năng suất, chất
lượng, hiệu quả công việc làm thước đo đánh giá; mà còn bị vướng mắc bởi tác phong
đi đứng, đầu tóc, cách ăn mặc và cá tính của tuổi trẻ.
Một bộ phận đảng viên lớn tuổi coi tuổi trẻ ngày nay là quá thuận lợi, không
được thử thách "vào sinh ra tử" như họ khi phấn đấu vào Đảng. Những đồng chí này
cho rằng cần phải kéo dài thời gian phấn đấu để thử thách thanh niên, bảo đảm độ chín
mới có thể kết nạp vào Đảng được.
Hai là, sự thoái hóa, biến chất của một bộ phận không nhỏ cán bộ công chức
nhà nước cùng với sự hạn chế về nhận thức của một số đảng viên đã làm CTPTĐV
trong thanh niên của các Đảng bộ phường gặp khó khăn.
Một số cán bộ, đảng viên lợi dụng chức quyền, lợi dụng sự sơ hở, chưa đồng bộ
của một số chính sách để làm ăn phi pháp, tham nhũng, hối lộ gây thái độ bất bình trong
nhân dân. Một bộ phận phai nhạt lý tưởng, chạy theo lối sống thực dụng, phát ngôn bừa
bãi, tung tin thất thiệt gây ảnh hưởng xấu đến mẫu hình, tư cách của người cộng sản.
Mặc dù sống gần dân, trong dân nhưng tình trạng dân chủ hình thức, gia trưởng, định
kiến cá nhân, thiếu trách nhiệm, làm ngơ trước những yêu cầu chính đáng của thanh
niên vẫn còn tồn tại trong một số cán bộ, đảng viên và bộ máy lãnh đạo, quản lý ở
phường. Theo báo cáo của Ban Tổ chức Thành ủy Đà Nẵng, trong 5 năm qua, toàn
Đảng bộ thành phố có 383 đảng viên bị thi hành kỷ luật, trong đó 201 đảng viên bị
khiển trách, 118 đảng viên bị cảnh cáo, 9 bị cách chức, 55 bị khai trừ; về tổ chức cơ sở
đảng hiện vẫn còn 24% tổ chức cơ sở đảng đạt loại khá và 1,3% tổ chức cơ sở đảng yếu
kém. Rất tiếc là đa số các vụ việc tiêu cực của cán bộ đảng viên không phải do nội bộ tổ
chức Đảng kiên quyết đấu tranh đưa ra ánh sáng bằng tự phê bình và phê bình mà do
quần chúng phát hiện, tố giác. Theo nhận thức và đánh giá của những cán bộ đảng viên
và quần chúng thanh niên tốt ở phường thì đây là nguy cơ đứng vị trí đầu tiên trong 4
nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ. Nguy cơ này đã và đang làm tổn thất
lớn đến uy tín của Đảng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến ý chí phấn đấu, động cơ hướng
về Đảng của thanh niên trên địa bàn phường.
Ba là, về phía Đoàn thanh niên, Hội thanh niên ở phường.
Từ 1997 trở lại đây, Đoàn, Hội thanh niên ở phường đã có sự chuyển hướng, đổi
mới mạnh mẽ về nội dung, phương pháp hoạt động và đạt được những kết quả đáng kể.
Nhưng do nhiều yếu tố tác động, vẫn trên đà xuống cấp nghiêm trọng về mọi mặt: Tư
tưởng, tổ chức và số lượng đoàn viên. Qua điều tra ở một số phường cho thấy, lực lượng
cán bộ Đoàn vừa thiếu lại vừa yếu, đa số không chuyên trách, tuổi đời trẻ (21-25),
chiếm 49,5%; trình độ học vấn chưa cao, chủ yếu là tốt nghiệp phổ thông trung học.
Không ít bí thư chi đoàn, chủ tịch Hội không phát huy được vai trò tập hợp đoàn viên,
hội viên. Trình độ nghiệp vụ thanh vận của cán bộ Đoàn, Hội chưa đáp ứng được yêu
cầu phát triển chung của xã hội và xu hướng vận động của thanh niên. Có thể nói, hầu
như đoàn thanh niên phường, nhất là chi đoàn không còn hoạt động hoặc hoạt động yếu
ớt, cả năm sinh hoạt thường chỉ 1,2 lần, thanh niên không được tổ chức, tập hợp. Nhiều
phường Đoàn thanh niên chỉ tồn tại trên danh nghĩa hoặc chỉ còn tồn tại ban chấp hành;
có sổ sách, hồ sơ, số lượng đoàn viên nhưng thực chất không hoạt động. Việc tổ chức
kết nạp đoàn viên mới khó khăn chủ yếu theo "mùa vụ" như vào các đợt tuyển quân
hoặc các ngày lễ lớn. Đối tượng kết nạp chưa rộng rãi, phần lớn là học sinh các trường
trung học phổ thông cơ sở và trung học phổ thông, khu vực tổ dân phố, cụm dân cư ít
được chú ý.
Bốn là, về bản thân thanh niên trên địa bàn dân cư phường.
Bởi nhiều lý do, nên đại bộ phận thanh niên ở đây trình độ học vấn không cao,
chưa có việc làm hoặc có việc làm nhưng không ổn định, thu nhập thấp. Không ít thanh
niên vẫn còn sống trong sự "bao cấp" của gia đình, cho nên họ quan niệm cứ có việc
làm, thu nhập là được, ít quan tâm đến những vấn đề chính trị - xã hội. Họ chưa hiểu
được bất kỳ một chế độ xã hội nào, một giai đoạn nào, thịnh hay suy đều được chi phối
bởi định hướng chính trị, đường lối chính trị của một giai cấp nhất định. Đó là một
nguyên nhân làm cho thanh niên chưa hiểu nhiều và hiểu chưa rõ về ĐCSVN, về sự
nghiệp đổi mới, về vai trò, vị trí của người cộng sản... cho nên họ "xa" Đảng, chưa thiết
tha phấn đấu vào Đoàn, vào Đảng.
Những năm qua nhiều thanh niên trên địa bàn dân cư phường có nguyện vọng
được đứng vào hàng ngũ của Đảng, nhưng không phải tất cả những người có nguyện
vọng đó đều thực sự thiết tha phấn đấu, rèn luyện, chủ động đến với Đảng và đặt kế
hoạch tu dưỡng cho mình. Nguyện vọng có, nhưng ngại phấn đấu và tham gia sinh hoạt
Đoàn, sinh hoạt Hội, ngại tham gia các hoạt động chính trị - xã hội trong và ngoài
phường. Chỉ có một tỷ lệ không nhiều, thường là cán bộ Đoàn, Hội, những người có
việc làm ổn định ở phường, ở trường hoặc con em những gia đình có nhiều đời là đảng
viên cộng sản... xác định vào Đảng là mục tiêu phấn đấu của họ nên họ rất tích cực
trong công việc và hoạt động. Đây là một trong những nguyên nhân lý giải vì sao thực
tế ở các Đảng bộ, chi bộ phường rất ít thanh niên được kết nạp vào Đảng.
Do xác định động cơ vào Đảng không đúng đắn, không trong sáng nên đã làm
cho sự phấn đấu ở nhiều thanh niên thiếu bền bỉ, động lực không rõ ràng, tính tích cực
chính trị bị giảm sút. Hiện tượng một số thanh niên trên địa bàn dân cư coi việc phấn
đấu vào Đảng để dễ tìm việc làm, hoặc dễ tiến thân, chứ không phải vào Đảng để cống
hiến. Đặc biệt, có cả những đảng viên là bộ đội xuất ngũ khi trở về địa phương vì "mưu
sinh" đã tự gạch tên mình ra khỏi danh sách đảng viên. Điều đó không chỉ gây tổn thất
cho Đảng mà còn ảnh hưởng đến CTPTĐV của các Đảng bộ phường. Nhiều thanh niên
có suy nghĩ: cha, chú mình phấn đấu cả đời, để lại tuổi trẻ, thậm chí một phần xương
máu nơi chiến trường mới được vào Đảng, với mình thì không dễ và đến bao giờ? Do
đó họ cảm thấy xa vời và chưa có ý định phấn đấu vào Đảng.
2.2.3. Những kinh nghiệm
Thứ nhất, cấp ủy các cấp từ Thành ủy đến chi bộ phường cần nhận thức sâu
sắc về CTPTĐV trong thanh niên ở các Đảng bộ phường, coi đây là nhiệm vụ thường
xuyên của công tác xây dựng Đảng hiện nay.
Kinh nghiệm cho thấy ở Đảng bộ nào có quan điểm đúng đắn, có qui định, qui
trình cụ thể, có sự phối kết hợp hoạt động giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị ở
phường thì ở đó tình cảm, niềm tin, sự phấn đấu của quần chúng thanh niên sẽ nhiều
hơn, cao hơn; từ đó chi bộ sẽ có nguồn để lựa chọn những thanh niên ưu tú. Lựa chọn là
khâu quan trọng, nhưng cũng chỉ là bước đầu, bởi nhiều quần chúng có nguyện vọng
nhưng mức độ phấn đấu còn khác nhau. Lựa chọn, đánh giá đúng sẽ tạo ra động lực
phấn đấu, ngược lại nếu lựa chọn thiếu chính xác sẽ làm triệt tiêu tính tích cực của quần
chúng. Cấp ủy phường và các chi bộ trực thuộc phải có kế hoạch, chuyên đề, có danh
sách qui hoạch cụ thể, phân công từng đảng viên tìm hiểu lịch sử chính trị, chủ động bồi
dưỡng nguồn phát triển. Trong chọn nguồn cần vận dụng linh hoạt tiêu chuẩn đảng viên
về trình độ học vấn cho phù hợp với thực tế từng phường, nhất là những phường có
đông đồng bào có đạo. Muốn vậy, khi lựa chọn phải đảm bảo qui trình: Thông qua
phong trào quần chúng để các tổ chức, đoàn thể tổ chức bình chọn, giới thiệu, trên cơ sở
đó tập thể cấp ủy bàn bạc, quyết định công nhận và có kế hoạch bồi dưỡng. Nếu thực
hiện tất cả các qui trình này, vừa bảo đảm tôn trọng và phát huy dân chủ của các tổ chức
đoàn thể, vừa bảo đảm nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng bộ phường.
Thứ hai, cần nhận thức sâu sắc và tổ chức nghiên túc, có chất lượng việc giáo
dục, bồi dưỡng những kiến thức cơ bản, cần thiết về Đảng.
Thực tế ở những Đảng bộ, chi bộ làm tốt CT PTĐV trong thanh niên ở phường
cho thấy, việc phát hiện sớm, phát hiện đúng đối tượng là quan trọng. Nhưng quan trọng
hơn vẫn là tổ chức giáo dục, bồi dưỡng để bước đầu trang bị cho họ những kiến thức cơ
bản về cương lĩnh, điều lệ, một số chủ trương, đường lối của Đảng. Tạo điều kiện thuận
lợi để quần chúng ưu tú tiếp tục tìm hiểu về Đảng, xây dựng động cơ phấn đấu đúng
đắn. Tránh tình trạng tổ chức lớp học như kiểu mít tinh, số người dự quá đông, ngồi
nghe là chính. Có nơi lấy lý do không có thời gian, quá bận công việc nên rút ngắn thời
gian, làm lướt, bỏ qua thảo luận, giải đáp thắc mắc. Kinh nghiệm của một số đảng bộ
làm tốt công tác này là ngoài việc đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp truyền
đạt cho phù hợp với đối tượng người học, thì các đảng ủy đã phân công các đồng chí ủy
viên cơ sở cùng tham gia quản lý lớp học, dự và hướng dẫn thảo luận ở tổ, tăng cường
đối thoại với người học.
Sau khi được bồi dưỡng qua các lớp, tổ chức đảng cần có kế hoạch phân công
đảng viên trực tiếp theo dõi, giúp đỡ quần chúng. Đồng thời tạo môi trường, điều kiện
bằng cách giao nhiệm vụ cụ thể, phù hợp để rèn luyện, thông qua thực tế để thử thách,
đánh giá và lựa chọn. Kết hợp và phát huy trách nhiệm của các đoàn thể chính trị - xã
hội ở phường, ở khu dân cư cùng tham gia vào việc bồi dưỡng, giới thiệu nguồn phát
triển Đảng.
Thứ ba, vừa thực hiện nhiệm vụ chính trị, vừa thực hiện tốt các vấn đề xã hội.
Đó là các vấn đề: xóa đói giảm nghèo trong từng chi bộ, bố trí và sắp xếp công
việc phù hợp cho đảng viên, giúp đảng viên nghèo có điều kiện vươn lên, thực hiện tốt
chính sách chăm lo chu đáo các gia đình có công với cách mạng, các đảng viên lão
thành, kính trọng và biết ơn những người đi trước... là một trong những biện pháp để
nâng cao chất lượng ĐNĐV, thu hút quần chúng vào Đảng.
Thứ tư, gắn công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng với việc thường xuyên làm tốt
công tác xây dựng, củng cố tổ chức Đoàn, đổi mới nội dung, hình thức hoạt động cho
phù hợp với từng giai đoạn, từng địa phương và đối tượng tác động trong đoàn viên,
thanh niên.
Các cấp ủy và tổ chức Đảng cần có kế hoạch lãnh đạo việc xây dựng, củng cố
các tổ chức quần chúng, nhất là Đoàn thanh niên vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức đi đôi với đổi mới phương thức hoạt động; tạo ra phong trào thi đua lao động sản
xuất, công tác, học tập ở cơ sở; tổ chức việc giáo dục cho đoàn viện, hội viên hiểu biết
về Đảng, về mục tiêu lý tưởng của Đảng. Định kỳ các cấp ủy làm việc với tập thể lãnh
đạo các tổ chức quần chúng, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của đoàn viên, hội viên,
trao đổi, bàn bạc những vấn đề đặt ra, kịp thời giúp đỡ, tạo điều kiện cho các tổ chức
quần chúng hoạt động có hiệu quả. Qua đó, lựa chọn tạo nguồn và giới thiệu những
quần chúng ưu tú, có đủ điều kiện và tiêu chuẩn để kết nạp vào Đảng.
Thứ năm, coi trọng công tác sơ kết, tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm để đề ra
chủ trương, kế hoạch, biện pháp sát hợp với từng đặc điểm của Đảng bộ, phát huy mặt
tốt, khắc phục hạn chế, thiếu sót, đưa CTPTĐV đi vào nề nếp.
Mọi chủ trương, nghị quyết của Đảng đều là sản phẩm của tổng kết kinh
nghiệm, trong đó có cả thành công lẫn không thành công. Đối với CTPTĐV trong thanh
niên ở các Đảng bộ phường thì việc này càng giữ một vị trí quan trọng. Nếu làm tốt sẽ
cung cấp cơ sở để hoạch định và nâng cao các chủ trương, nghị quyết tiếp theo.
2.2.4. Những vấn đề đặt ra
Một là, những năm qua CTPTĐV trong thanh niên ở các Đảng bộ phường ở Đà
Nẵng đã có sự khởi sắc, nhiều đảng viên trẻ, có năng lực đã và đang được bổ sung vào
danh sách đảng viên của đảng bộ. Tuy nhiên so với thực tế yêu cầu của nhiệm vụ chính
trị thì công tác này vẫn còn chậm chạp, bất cập và nảy sinh nhiều vấn đề khó khăn, phức
tạp, thực trạng "lão hóa" ở các Đảng bộ, chi bộ phường vẫn đang còn là bài toán hóc
búa. Trong khi đó việc tạo nguồn trong thanh niên trên địa bàn phường không phải dễ,
nếu như không muốn nói là "đốt đuốc" đi tìm. Vậy phải làm gì để khắc phục tình trạng
đó?
Hai là, xây dựng Đoàn phường vững mạnh xứng đáng vai trò trường học cộng
sản chủ nghĩa là yêu cầu bức xúc không chỉ của thanh niên mà còn là của Đảng, của
chính quyền, và các tổ chức chính trị - xã hội khác. Thực tế hoạt động của các Đoàn
phường đòi hỏi Đoàn phải mạnh ở tất cả các cấp. Đặc biệt là cấp chi đoàn, vì đây là
khâu quan trọng nhất trong tổ chức đoàn nhưng cũng là khâu yếu nhất ở phường hiện
nay. Nếu Đoàn phường không mạnh thì không tập hợp được thanh niên tham gia các
phong trào chung và sẽ không có cơ hội để phát hiện, lựa chọn quần chúng ưu tú để bồi
dưỡng, giới thiệu cho Đảng.
Ba là, với đặc điểm và thực trạng của thanh niên trên địa bàn phường ở Đà Nẵng
(trừ số thanh niên là giáo viên mầm non, trung học cơ sở, hoặc ở trạm y tế và các cơ
quan ở phường) còn đa số chưa có việc làm ổn định, sống phụ thuộc vào gia đình,
không có điều kiện học tiếp lên cao đẳng, đại học, trung cấp, trình độ học vấn chỉ ở mức
trung bình... cho nên vấn đề đổi mới nội dung, hình thức, chất lượng giáo dục chính trị,
tư tưởng cho thanh niên trên địa bàn phường là vấn đề cần thiết.
Bốn là, một trong những biểu hiện khá rõ của thanh niên phường trong nền kinh
tế thị trường là thực dụng. Vì vậy, CTPTĐV trong quá trình thực hiện đường lối đổi
mới phải làm gì để khắc phục biểu hiện này, làm gì để cảnh giác và đề phòng những phần
tử cơ hội, phản động tìm cách lợi dụng len lỏi vào hàng ngũ của Đảng để phá hoại Đảng
và chống phá cách mạng.
Năm là, mặt trái của kinh tế thị trường là những tệ nạn xã hội phức tạp, nguy
hiểm tấn công vào tầng lớp thanh niên, nhất là những thanh niên ít học, thiếu bản lĩnh.
Vì vậy cần phải có những chuẩn mực gì trong nền kinh tế thị trường để đối tượng là
thanh niên lấy đó làm thước đo sự phấn đấu, rèn luyện, tu dưỡng bản thân. Đồng thời
phải có giải pháp chế tài đủ mạnh ở địa bàn phường để điều chỉnh có hiệu quả các mặt
tiêu cực ảnh hưởng trực tiếp đến thanh niên để thanh niên sống và sinh hoạt lành mạnh,
tiến bộ, lao động sản xuất có hiệu quả, làm giàu một cách chính đáng, khi đó sẽ xuất
hiện nhiều người tốt, CTPTĐV ở các Đảng bộ phường sẽ thuận lợi hơn.
Sáu là, những thanh niên trực tiếp lao động trong các thành phần kinh tế ngoài
quốc doanh, nhưng sinh sống và tham gia hoạt động tại phường ít được kết nạp vào
Đảng. Phải chăng họ chỉ cần nhiều tiền là được, còn lý tưởng và giá trị tinh thần họ
không quan tâm? Do thanh niên không muốn vào Đảng, hay đảng viên, tổ chức Đảng
còn hẹp hòi, định kiến, cố chấp về tác phong sinh hoạt của thanh niên hiện nay, hoặc
quá cầu toàn khi xét kết nạp.
Bảy là, phải làm gì để xác định, xây dựng động cơ đúng đắn cho thanh niên.
Bởi động cơ luôn ẩn dấu trong tư tưởng con người, không bộc lộ ra ngoài một cách trực
diện, nên trong quá trình theo dõi, thử thách cần phải hiểu rõ động cơ vào Đảng của họ.
Do đó, đòi hỏi tổ chức Đảng phải sâu sát đối tượng và biết phân tích, tổng hợp thông tin
nhận xét từ nhiều phía.
Tám là, hiện nay đa số các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng đều đã đưa ra và xây
dựng tiêu chuẩn đảng viên thanh niên nhưng chưa thật sự cụ thể, đầy đủ, nhiều vấn đề
còn có sự tranh luận chưa thống nhất. Vì vậy gây khó khăn không chỉ cho thanh niên
phấn đấu vào Đảng mà còn ảnh hưởng, ách tắc đến việc phát triển đảng viên mới trong
thanh niên. Cụ thể hóa tiêu chuẩn đảng viên - thanh niên là một yêu cầu phải được tiếp
tục nghiên cứu và giải quyết.
Chương 2 của luận văn đã phác họa bức tranh toàn cảnh về thực trạng CTPTĐV
trong thanh niên ở các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng từ 1997 đến nay. ở đó thấy rõ những
thuận lợi và khó khăn với những dự báo, chủ trương đưa ra nhằm thoát khỏi tình trạng
yếu kém ban đầu. Sự đổi mới trong nhận thức của Đảng và Đoàn đem lại cho CTPTĐV
một sức sống mới. Cùng với đó là những nghị quyết, chỉ thị, chủ trương, kế hoạch cụ
thể, là sự quan tâm, phối hợp tốt giữa tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể có trên địa
bàn phường... tất cả những điều đó tác động vào thanh niên.
Sự khởi sắc trong CTPTĐV trong thanh niên là niềm động viên lớn đối với các
Đảng bộ phường ở Đà Nẵng. Tuy nhiên, mọi việc mới chỉ là bước đầu. Bên cạnh những
việc làm được, làm tốt còn nhiều việc làm chưa tốt. Điều đó đòi hỏi các Đảng bộ
phường phải nỗ lực nhiều hơn nữa.
Nghiên cứu thực trạng CPPTĐV trong thanh niên cho phép tìm ra nguyên nhân,
rút ra kinh nghiệm ban đầu và nhìn thấy những vấn đề tiếp theo để tiếp tục giải quyết.
Đó cũng là tiền đề để đề ra những giải pháp hợp lý nhằm thúc đẩy CPPTĐV trong thanh
niên của các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng hiện nay.
Chương 3
Phương hướng và giải pháp đẩy mạnh công tác
phát triển đảng viên trong thanh niên
của các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng đến năm 2010
3.1. Dự báo và phương hướng CÔNG Tác Phát Triển Đảng VIÊN trong
thanh niên của các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng
3.1.1. Thuận lợi, khó khăn và dự báo công tác phát triển đảng viên trong
thanh niên của các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng
Từ thực trạng, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra trong CTPTĐV trong thanh
niên của các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng trong thời gian qua đã phần nào nói lên những
thuận lợi và khó khăn cho các Đảng bộ phường ở đây tiếp tục thực hiện nhiệm vụ trẻ
hóa ĐNĐV của mình CTPTĐV trong thanh niên của các Đảng bộ phường hiện nay có
nhiều thuận lợi hơn thời kỳ trước đó, những thuận lợi đó là:
Mặc dù còn phải cảnh giác, đấu tranh chống các âm mưu thủ đoạn "diễn biến
hòa bình" của kẻ thù và sự phá hoại của các thế lực xấu, phải vượt qua nhiều thử thách
mới. Nhưng rõ ràng hoàn cảnh sống của đảng viên và nhân dân Đà Nẵng bây giờ yên
ổn, thanh bình, không còn bị địch theo dõi, vây ráp, bắt giam, tra tấn như trước. Cơ chế
kinh tế mới và dân chủ trong nhân dân được mở rộng cho phép mọi người, nhất là thanh
niên được bày tỏ ý kiến, đề đạt nguyện vọng, tự do phát huy lợi thế của mình trong học
tập, lao động sản xuất và cống hiến.
Uy tín của ĐCSVN tiếp tục được giữ vững và ngày càng nâng cao trong những
năm đổi mới vừa qua. " Đây là một thuận lợi đặc biệt lớn, là chỗ dựa tinh thần và tổ
chức vững chắc để mỗi đảng viên - nhiều hay ít tuổi đảng, làm công tác đảng hay bất cứ
công tác gì, đang làm công tác hay đã nghỉ hưu - hoạt động" [23, tr. 218]. Gắn liền với
uy tín, vai trò của Đảng là sự kiên định một cách nhất quán mục tiêu, con đường đi lên
của dân tộc, sự vững vàng của bộ máy nhà nước, của các đoàn thể chính trị, xã hội từ
Trung ương xuống tận cơ sở.
Thành tựu của công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng ta đã tạo ra thế và
lực mới cho đất nước, đời sống mọi mặt của nhân dân đã có bước chuyển biến tích cực,
bộ mặt thành phố đang thay đổi từng ngày, từng giờ tạo cơ sở vững chắc để Đà Nẵng
tiếp tục bước vào thời kỳ mới. Kết quả đó càng khẳng định vai trò của Đảng, xác nhận
những nỗ lực của ĐNĐV đã và đang được nhân dân tin cậy, tiếp tục thừa nhận là người
lãnh đạo chân chính duy nhất của cả dân tộc; sẵn sàng cùng chịu đựng khó khăn, thông
cảm với những yếu kém của Đảng, sẵn lòng tha thứ những khuyết điểm của một số đảng
viên khi đã biết nhận lỗi và sửa chữa sai lầm.
Trong cơ cấu ĐNĐV ở các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng số đảng viên hưu trí,
lớn tuổi trên 80%, thậm chí có phường trên 90%. Đây là những thế hệ chiến sĩ cách
mạng kiên cường trong đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc. Nhờ được tôi luyện
trong môi trường đấu tranh lâu dài, gian khổ, đầy thử thách, hy sinh nên đa số các đồng
chí này có tinh thần, bản lĩnh kiên định lập trường cách mạng, có nhiều kinh nghiệm
trong thực hiện vai trò lãnh đạo và công tác vận động quần chúng. Đây thực sự là "vốn
quí" của Đảng và nhân dân ta. Mặc dù nghỉ hưu sau nhiều chặng đường khốc liệt, nhưng
nhiều đồng chí vẫn tiếp tục tham gia công tác ở cơ sở, một số đồng chí vẫn được tín
nhiệm và được bầu vào các cấp ủy ở cơ sở, phát huy tác dụng tốt. Một số đồng chí do
tuổi cao sức yếu, được miễn sinh hoạt và công tác, nhưng vẫn giữ vững phẩm chất của
người cộng sản có tác dụng rất lớn đối với việc giáo dục thế hệ trẻ.
"Đà Nẵng là vùng đất có truyền thống lịch sử cách mạng trung dũng kiên
cường, có truyền thống hiếu học và truyền thống văn hóa" [3, tr. 40]. Bước vào thời kỳ
đổi mới, được sự quan tâm chỉ đạo giúp đỡ của Trung ương, của Thành ủy, cuộc vận
động xây dựng chỉnh đốn Đảng ở các Đảng bộ phường đang được tiến hành và đạt được
một số kết quả nhất định; trong đó CTPTĐV trong thanh niên đã tạo thêm sức mạnh, trẻ
hóa dần đội ngũ, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đã được các
tầng lớp nhân dân đồng tình hưởng ứng. Đó là cơ sở để các Đảng bộ phường tiếp tục
nâng cao nhận thức, thống nhất ý chí và hành động nhằm thực hiện nhanh chóng việc
trẻ hóa ĐNĐV.
Bên cạnh những thuận lợi cơ bản trong hoàn cảnh mới, CTPTĐV trong thanh
niên của các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng cũng gặp rất nhiều thử thách, khó khăn.
Cuộc sống trong điều kiện hòa bình buộc mọi người, trong đó có thanh niên
phải lo toan cho đời sống bản thân và tương lai gia đình mình. Mục tiêu phấn đấu không
chỉ cho lý tưởng cao cả mà còn phải đối mặt với cuộc sống thường nhật. Vì thế, ngoài
bản chất tình nguyện, cống hiến thì vấn đề lợi ích nổi lên thành hành động trực tiếp,
mạnh mẽ chi phối tư tưởng và việc làm của thanh niên. Việc làm ổn định, có thu nhập
cao, tiền bạc, của cải nhiều, tương lai sáng lạn.... luôn có sức cám dỗ âm thầm nhưng rất
mãnh liệt đối với thanh niên. Công bằng mà nói đây là nguyện vọng chính đáng và tự
nhiên của họ. Vấn đề là ở chỗ, để đạt tới được các mục tiêu ấy nhiều thanh niên không
phải bằng năng lực thực tế của mình mà chủ yếu cho do sự sắp đặt, bố trí của gia đình
hoặc tự bản thân mình vươn lên một cách không chính đáng. Vì vậy, động cơ phấn đấu
vào Đảng của một số thanh niên không nằm ngoài những lợi ích thực dụng nói trên.
Trong quá trình thực hiện kinh tế thị trường, nhiều tác động tiêu cực của nó đã
ảnh hưởng trực tiếp đến thanh niên. Điều đáng lo ngại nhất là có đến hơn 70% thanh
niên trên địa bàn phường còn thờ ơ với tổ chức Đoàn; số chi đoàn chưa được củng cố
còn chiếm tỷ lệ quá cao (hơn 60%); cơ chế, chính sách đối với thanh niên ở phường còn
nhiều vấn đề chưa hợp lý với nhu cầu chính đáng của họ. Qua tìm hiểu thực tế cho thấy
không ít thanh niên trên địa bàn phường khi bước vào cuộc sống không dễ dàng trả lời
được các câu hỏi thiết thực như: thế nào là làm giàu chính đáng, thế nào là làm giàu bất
chính? Trong thời buổi này cần phải học cái gì, học để làm gì và học như thế nào? cần
lựa chọn nghề gì để vừa có lợi cho bản thân, cho gia đình và cho xã hội? Phấn đấu vào
Đảng hiện nay cần phải noi gương những đảng viên nào? và còn biết bao giá trị khác mà
thanh niên ở đây còn mơ hồ, không định hướng nổi! Đây là khó khăn chưa từng thấy so
với trước đó mà giới trẻ nói chung, thanh niên trên địa bàn phường ở Đà Nẵng nói riêng
phải đương đầu.
Hiện tại, hầu hết các tổ chức quần chúng ở phường đều có sự tham gia đông đảo
của một lực lượng xã hội là những người về hưu, mất sức. Đây là một nét đặc thù trong
giai đoạn giao thời khi cơ chế quản lý hành chính, quan liêu bao cấp vừa mất đi, cơ chế
mới đang được xác lập, nhưng chưa vững chắc. Lớp già chưa thể giao ngay toàn bộ
nhiệm vụ, kinh nghiệm và quyền lực của mình, và lớp trẻ lại chưa đủ những điều kiện
cần thiết để gánh vác. Trong khi đó từ trước tới nay nguồn phát triển Đảng chủ yếu
hướng vào những cán bộ trẻ trong khối chính quyền, các đơn vị công an, trường học,
tức là những người làm trong khu vực biên chế Nhà nước ở phường. Tất nhiên đối
tượng này vẫn cần được chú ý, quan tâm đặc biệt. Nhưng trong điều kiện phát triển kinh
tế nhiều thành phần thì việc chú trọng những nhân tố tích cực trong những đoàn thể
quần chúng ở phường, những thanh niên làm việc trong các cơ sở sản xuất tư nhân,
những người hoạt động trong lĩnh vực thương nghiệp, dịch vụ phi nhà nước cũng không
kém phần quan trọng. Đây là những lĩnh vực mà các Đảng bộ phường xác định là không
thể bỏ trắng trận địa, nhưng hướng giải quyết thế nào thì chưa rõ và thực tế gặp rất
nhiều khó khăn.
Những thuận lợi nói trên là cơ bản, lâu dài, những khó khăn, thách thức là tạm
thời nhưng không dễ khắc phục, nếu như không có sự nỗ lực vượt bậc của Đảng, chính
quyền, các đoàn thể và bản thân thanh niên ở đó. Qua thực trạng thanh niên trên địa bàn
phường và CTPTĐV trong thanh niên của các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng, có thể đưa
ra một số dự báo đến năm 2010 như sau:
Một là, những năm đầu thế kỷ XXI, đất nước ta có những đặc điểm lớn chi phối
đó là: Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế, với xu thế
phát triển của nó, tác động mạnh mẽ đến tình hình nước ta. Chúng ta đang có cả thời cơ
và thách thức lớn trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Khoa học - công nghệ và nguồn nhân lực có tác động cao ngày càng
tỏ rõ ưu thế của mỗi quốc gia, là tài sản vô giá có ý nghĩa hàng đầu so với tài
nguyên thiên nhiên sẵn có. Nguồn nhân lực đang trở thành yếu tố chủ đạo đối
với tăng trưởng kinh tế một cách nhanh chóng và bền vững. Đầu tư phát triển
nhân lực và bồi dưỡng nhân tài là sự lựa chọn thông minh đúng đắn để thực
hiện sự nghiệp CNH, HĐH đất nước [1, tr. 145].
Trong bối cảnh đó, thanh niên vẫn luôn là lực lượng xã hội to lớn, có vai trò
xung kích, sáng tạo cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước, là đội ngũ kế tục
sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc và là nhân tố quyết định thắng lợi của quá
trình CNH, HĐH, là nguồn bổ sung sinh lực dồi dào cho Đảng để Đảng ta đủ sức lãnh
đạo thành công sự nghiệp đổi mới. Qua nghiên cứu dự báo thấy rằng, thanh niên trên
địa bàn phường ở Đà Nẵng vẫn sẽ tiếp tục tăng nhanh, sức ép về lao động việc làm vẫn
còn nặng nề, tác động trực tiếp đến đời sống mọi mặt của thanh niên. Sự dịch chuyển
lao động trẻ từ nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ và du lịch sẽ diễn ra nhanh
chóng. Cơ cấu lao động trẻ vẫn mất cân đối, số có trình độ khoa học kỹ thuật, tay nghề
cao vẫn thiếu. Tình trạng thất nghiệp trong thanh niên ở Đà Nẵng vẫn còn, thậm chí sẽ
cao hơn đối với đối tượng thanh niên trên địa bàn phường. Đây không chỉ là khó khăn
cho công tác vận động thanh niên mà còn là thách thức đối với CTPTĐV của các Đảng
bộ phường ở Đà Nẵng trong thời gian tới.
Hai là, từ Thành ủy đến các chi bộ phường, các cấp ủy Đảng sẽ quan tâm hơn
tới nhiệm vụ lãnh đạo và giáo dục, rèn luyện cho thanh niên nên nhận thức chính trị của
thanh niên trên địa bàn phường ngày càng được củng cố và nâng cao, thanh niên tin
tưởng hơn vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sự nghiệp cách mạng, vào tương lai giàu đẹp
văn minh của thành phố, kế thừa và phát huy truyền thống cách mạng của các thế hệ cha
anh để lại. Nhận thức, hành động của thanh niên sẽ thể hiện rõ hơn sự tự nguyện, tự
giác, tự rèn luyện và phấn đấu, sự tôn trọng và chấp hành pháp luật sẽ được thanh niên
hướng tới và đề cao hơn nữa; hăng hái học tập, lao động sản xuất, tham gia các hoạt
động xã hội; tổ chức Đoàn và các tổ chức của thanh niên ở phường sẽ khẳng định trở lại
vị trí và thực hiện tốt chức năng của nó; số thanh niên phấn đấu vào Đoàn, số đoàn viên
phấn đấu vào Đảng sẽ tăng lên... Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận thanh niên nhận thức
về chính trị, về Đảng, về Đoàn còn hạn chế, chưa tin tưởng vào đường lối đổi mới của
Đảng, dễ phản ứng bột phát trước những mâu thuẫn gay gắt của nền kinh tế thị trường
cũng như sự kích động lợi dụng của những phần tử xấu.
Ba là, sự phân hóa xã hội kéo theo sự phân hóa mạnh mẽ quá trình phát triển
của thanh niên trong nhận thức, trình độ văn hóa, thu nhập, mức tiêu dùng và đặc biệt là
biến đổi về định hướng giá trị và lối sống. Từ nay đến 2010 và lâu hơn nữa vẫn luôn
luôn xuất hiện, tồn tại một bộ phận thanh niên ưu tú, vượt hẳn lên về mọi mặt, tiêu biểu
cho thế hệ trẻ. Đó là những đoàn viên thanh niên cộng sản chiếm tỷ lệ từ 20-30% tổng
số thanh niên, có nhận thức và bản lĩnh chính trị vững vàng, có hoài bão và ý chí vươn
lên. số thanh niên này như một đầu tàu vận hành làm nòng cốt trong các phong trào của
thanh niên ở phường. Số này sẽ là nguồn bổ sung cho các Đảng bộ phường. Một bộ
phận vẫn còn gặp khó khăn trên con đường mưu sinh, lập nghiệp mặc dù đã có sự quan
tâm, giúp đỡ của Đảng, chính quyền và các tổ chức khác. Bộ phận còn lại, do những
điều kiện khách quan, chủ quan nhất định ít được giáo dục nên chây lười, ỷ lại, sống
dựa vào người khác, dễ sa vào các tệ nạn xã hội và sẽ là gánh nặng cho gia đình và xã
hội. Có thể nói, bức tranh toàn diện về thanh niên trên địa bàn phường vẫn còn biểu hiện
hai màu sáng, tối. Tuy nhiên, màu sáng vẫn là màu chủ đạo, nổi trội và có ý nghĩa trực
tiếp lớn lao đến CTPTĐV của các Đảng bộ phường.
Bốn là, Sức mạnh của các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng trong những năm tới vẫn
còn phụ thuộc vào hai yếu tố đó là: Phát huy như thế nào vai trò của ĐNĐV hưu trí, mất
sức và việc phát triển đảng viên trẻ trong thanh niên. Đây là hai vấn đề không kém phần
gay gắt hiện nay. Theo qui luật thì số lượng đảng viên ở đây sẽ bị hao hụt, trong đó chủ
yếu do già và qua đời. Do đó, để đảm bảo về mặt số lượng ở mức cân bằng bình thường
thì phải tăng cường kết nạp thêm nhiều đảng viên mới theo phương châm mà Đảng ta đã
đề ra là coi trọng chất lượng vẫn hướng vào lớp trẻ - những đoàn viên thanh niên cộng
sản Hồ Chí Minh.
Mặt khác, cũng sẽ có nhiều nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch, chương trình về kết
nạp đảng viên trên cơ sở nghiên cứu sâu sắc tình hình thực tế ở phường trong cả nước
nói chung và ở Đà Nẵng nói riêng để tiếp tục thực hiện phương châm đã đề ra.
3.1.2. Phương hướng
Xác định đúng phương hướng phát triển đảng viên là một trong những điều kiện
quan trọng để các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng có ĐNĐV trẻ về tuổi đời, cao về trí tuệ,
vững vàng về bản lĩnh, hợp lý về cơ cấu, phân bổ đều khắp các khu vực dân cư, các lĩnh
vực công tác nhằm bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trên toàn địa bàn thành phố.
Phương hướng phát triển đảng viên trong thời kỳ đổi mới được Đảng ta xác
định trong Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VII). Đến nghị quyết Trung ương 5 (khóa
IX), để cụ thể hóa thêm một bước CTPTĐV trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước, Đảng ta chỉ rõ: CTPTĐV mới nhằm vào những người lao động giỏi, có đạo đức
và lối sống lành mạnh, có uy tín trong quần chúng. Những người có lý tưởng cách
mạng, tích cực hoạt động trong hệ thống chính trị, có vai trò nòng cốt trong các đoàn thể
nhân dân và các tổ chức tự quản của dân.
Quán triệt tinh thần các nghị quyết của Trung ương Đảng nêu trên, Đảng bộ
thành phố Đà Nẵng đề ra phương hướng, nhiệm vụ lãnh đạo CTPTĐV là:
Các tổ chức cơ sở Đảng phải thường xuyên tuyên truyền, bồi dưỡng
phát triển đảng viên mới bảo đảm tiêu chuẩn, đồng thời xem xét đưa ra khỏi
Đảng những đảng viên thoái hóa biến chất, không còn đủ tiêu chuẩn. Làm tốt
việc tạo nguồn để tăng cường phát triển đảng viên mới ở các đơn vị, địa
phương chưa có hoặc còn ít đảng viên. Chú ý phát triển đảng viên mới trong
công nhân lao động, giáo viên, cán bộ khoa học... [3, tr. 67].
Xuất phát từ thực trạng ĐNĐV và CTPTĐV mới trong thanh niên của các Đảng
bộ phường thời gian qua, phương hướng của các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng là: Phải
tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, đồng thời có kế hoạch, biện pháp sát thực
để phát triển đảng viên mới bảo đảm được yêu cầu cả về chất lượng và số lượng, cơ cơ
cấu phù hợp để từng bước cải thiện cơ cấu, thành phần đảng viên theo hướng tỷ lệ đảng
viên trẻ ngày càng tăng lên, bảo đảm tính liên tục, tính kế thừa trong sự phát triển và
lãnh đạo của các Đảng bộ phường trước yêu cầu của tình hình nhiệm vụ mới. Đối tượng
tập trung phát triển chủ yếu nhằm vào những quần chúng ưu tú nhất trong con em cán
bộ, công nhân viên đương chức hoặc đã về hưu, con em các gia đình thương binh, liệt
sĩ, gia đình có công với cách mạng và những người ưu tú trong các tầng lớp lao động
khác, những chiến sĩ trong lực lượng công an, dân quân tự vệ, trong đội ngũ giáo viên
các trường và chú trọng đối tượng là đoàn viên thanh niên, phụ nữ ưu tú.
Để làm tốt CTPTĐV trong thanh niên các Đảng bộ phường phải chủ động tạo
nguồn bằng lãnh đạo, chỉ đạo phát động các phong trào quần chúng, đặc biệt là Đoàn
thanh niên, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đoàn viên,
thanh niên, qua đó lựa chọn, bồi dưỡng những người ưu tú; chú trọng những người cảm
tình với Đảng, giao việc và thử thách đủ mức, đồng thời xét duyệt đúng tiêu chuẩn,
đúng nguyên tắc, đúng trình tự, thủ tục; tránh định kiến, hẹp hòi, máy móc; nhằm tăng
số lượng thanh niên được kết nạp hàng năm nhưng phải trên cơ sở bảo đảm chất lượng
ngay từ đầu; gắn việc phát triển đảng viên trong thanh niên với việc xây dựng, củng cố,
tổ chức cơ sở đảng, tổ chức đoàn, chỉnh đốn ĐNĐV hiện có, kiên quyết xử lý chính xác,
đúng đối tượng "đầu ra" để làm trong sạch nội bộ Đảng.
Trên đây là những phương hướng cơ bản để tiếp tục đẩy mạnh CTPTĐV trong
thanh niên của các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng từ nay đến năm 2010. Thực hiện theo
đúng hướng đó, nhất định sẽ có phong trào thanh niên sôi nổi, tích cực, và CTPTĐV
trong thanh niên sẽ được thực hiện tốt hơn so với hiện nay.
3.2. Giải pháp đẩy mạnh CÔNG Tác Phát Triển Đảng VIÊN trong thanh
niên của các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng
3.2.1. Đổi mới việc đánh giá thanh niên, thống nhất nhận thức về công tác
phát triển đảng viên trong thanh niên của các Đảng bộ phường
Đẩy mạnh CTPTĐV trong thanh niên trên địa bàn phường đòi hỏi phải có sự
chuyển biến mới về nhận thức của tất cả mọi thành viên, mọi lực lượng, mọi tổ chức ở
phường. Trước hết là các cấp ủy Đảng, đội ngũ đảng viên, và cán bộ lãnh đạo trong
chính quyền Nhà nước và các đoàn thể quần chúng. Bởi vì, phường là cấp cơ sở trong hệ
thống chính trị. Chuyển động tích cực của phường vừa là sự phản ánh vừa tác động trở lại
đối với toàn bộ hệ thống chính trị và quá trình đổi mới của Đảng. Do đó, việc đổi mới
đánh giá thanh niên, thống nhất nhận thức về CTPTĐV trong thanh niên của các Đảng
bộ phường phải có sự phối hợp, tác động qua lại giữa đổi mới từ trong Đảng đến các tổ
chức ngoài xã hội. Tức là, luận văn muốn chú ý tới tính toàn diện của các đối tượng cần
phải được đổi mới nhận thức về CTPTĐV trong thanh niên.
Giai đoạn cách mạng mới sẽ là thời cơ thuận lợi để các lực lượng nói trên tiếp
tục quán triệt sâu sắc các quan điểm, phương châm, phương hướng của Đảng về
CTPTĐV trong thanh niên. Đây không chỉ là một nhu cầu tồn tại có tính nguyên lý về
mặt lý luận mà còn là giải pháp thực tiễn cực kỳ quan trọng đối với các Đảng bộ
phường ở Đà Nẵng. Vậy, nội dung của đổi mới, đánh giá thanh niên, thống nhất nhận
thức về CTPTĐV trong thanh niên trên địa bàn phường hiện nay phải tiếp tục khắc phục
lối nhìn nhận không đúng, có phần phiến diện, chủ quan, hẹp hòi và thiên kiến từ những
hạn chế, tiêu cực của thanh niên mà đi đến chê bai, hạ thấp vai trò của họ.
Cuộc sống đã chứng tỏ rằng, ở mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi xã hội đều
có một mẫu hình nhân cách nhất định. Mẫu hình nhân cách ấy sẽ thay đổi
theo sự thay đổi của hoàn cảnh lịch sử, theo điều kiện xã hội. Bởi vì, trả giá
cho sự bền vững của một mẫu hình nhân cách nào đó là sự bảo thủ, trì trệ của
xã hội trong tương lại, là một lực cản lớn đối với tiến bộ xã hội [26, tr. 136].
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở các đồng chí đảng viên già cần phải
chống bệnh "công thần chủ nghĩa". Những đồng chí này thường tự cho rằng: chỉ có
những người có công lao cống hiến, vào sinh ra tử mới xứng đáng là người lãnh đạo. Từ
đó, có thái độ "cha chú" với lớp trẻ. Để khắc phục căn bệnh trên, Người nhắc nhở: Đồng
chí già phải giúp đỡ cho đồng chí trẻ tiến bộ. Như thế đòi hỏi ở đồng chí già phải có thái
độ độ lượng, dìu dắt đồng chí trẻ. Đó cũng là một tiêu chuẩn đạo đức cộng sản chủ
nghĩa. Bác khuyên rằng, một mặt các đồng chí già cần đánh giá thanh niên cho đúng với
vai trò, vị trí của họ mà giúp đỡ, tạo điều kiện để họ sớm đứng vào hàng ngũ của Đảng.
Mặt khác, đảng viên già cần phải khiêm tốn học tập các đồng chí trẻ về mặt văn hóa,
khoa học kỹ thuật để bổ sung cho vốn kiến thức của mình.
Chính sự thiên kiến, thiếu khách quan, không khoa học trong cách nhìn nhận,
đánh giá đã dẫn tới coi thường lớp trẻ, thiếu tin cậy ở họ. Không chỉ đối với những
thanh niên chưa có việc làm, còn sống phụ thuộc vào gia đình mà ngay cả với những
người đã có việc làm, đã tạo ra thu nhập cho cá nhân, gia đình và xã hội vẫn bị đánh giá
thấp; vẫn còn dè dặt khi sử dụng, khi giao việc. Trong xem xét đối tượng phát triển
Đảng, một số cán bộ, đảng viên chưa chấp nhận hoặc còn e ngại những thanh niên nhiều
bạn bè, nhiều mốt quần áo, hay đi nhà hàng cho dù chính họ biết lao động để làm giàu
một cách chính đáng. Không ít thanh niên trên địa bàn phường có điều kiện lập nghiệp,
mở xưởng sản xuất, hùn vốn, thuê mướn người làm và thực tế họ đã đem lại lợi ích
không cho bản thân mà còn cho bạn bè, cho người làm thuê và tạo ra sản phẩm cho xã
hội. Nhưng khi xét nguyện vọng gia nhập Đảng của họ thì Đảng bộ, chi bộ ngần ngại,
không thống nhất. Đành rằng, đây là vấn đề phức tạp, nhạy cảm, cần có sự nghiên cứu, kết
luận xác đáng. Nhưng theo tác giả hiện tượng này đang gây trở ngại lớn đối với việc phát
huy khả năng, tiềm năng của tuổi trẻ, thậm chí gây lãng phí một nguồn nhân lực mà bản
thân Đảng đang cần nhất là ở cơ sở phường. Mặt khác, cũng không ít cấp ủy và đảng
viên khi đặt vấn đề phát triển đảng trong thanh niên thì chỉ giới hạn ở những thanh niên
là cán bộ trong các cơ quan đoàn thể ở phường hoặc chí ít cũng phải có việc làm ổn
định. Đây cũng là một biểu hiện phiến diện, thực dụng và thiển cận cần phải được phê
phán và thống nhất nhận thức trong mọi cán bộ, đảng viên để có ý thức chính trị đúng
đắn khi đánh giá thanh niên trên địa bàn phường, nêu cao tinh thần trách nhiệm của
cộng đồng để giáo dục, bồi dưỡng, giúp đỡ họ phấn đấu vào Đảng.
Đảng viên là những người tiêu biểu và ưu tú nhất trong quần chúng nhưng
không có nghĩa hoàn thiện, hoàn mỹ. Đảng viên cũng là con người bình thường trong
quần chúng. Họ chỉ hơn quần chúng bình thường ở chỗ họ là những người được giác
ngộ lý tưởng, có tinh thần tiền phong gương mẫu trong công tác hàng ngày, tự giác
trong lao động sản xuất, học tập; có tổ chức, chịu sự kỷ luật của Đảng, đứng trên lập
trường giai cấp công nhân để xem xét, giải quyết đấu tranh cho cái mới, cái tiến bộ, hợp
với xu thế phát triển, do đó họ có tác dụng nêu gương, thuyết phục và lôi cuốn quần
chúng ở nơi công tác và sinh hoạt thường ngày. Vì vậy, các cấp ủy Đảng, cán bộ đảng
viên lãnh đạo các tổ thức, đoàn thể ở phường phải thống nhất nhận thức rằng: Phát triển
những đoàn viên thanh niên ưu tú vào Đảng là làm cho họ tốt lên, tạo cho họ môi trường
tích cực nhất. Đó là đời sống tư tưởng, chính trị và các nguyên tắc trong sinh hoạt, hoạt
động của Đảng; là quan hệ đạo đức trong sáng của tình đồng chí cùng phấn đấu hy sinh
vì mục tiêu, lý tưởng cộng sản cao quý; để tu dưỡng, rèn luyện, sống, lao động và cống
hiến một cách có ý nghĩa nhất, vì hạnh phúc lợi ích chung của toàn thể nhân dân. Thanh
niên vào Đảng là để tiếp tục phấn đấu ở một mức cao hơn, với yêu cầu cao hơn về mọi
mặt so với quần chúng thanh niên bình thường.
Thanh niên trên địa bàn phường ở Đà Nẵng hiện nay có điều kiện thuận lợi hơn
các thế hệ trước và còn những mặt yếu kém hạn chế nhưng thời kỳ nào thanh niên cũng
đứng trước khó khăn và thuận lợi. Họ vừa là người chủ tương lai, đồng thời là bộ phận
trong nhân dân có vai trò làm chủ hiện tại. Trong kinh tế thị trường, cần ủng hộ lối sống
thực tế của thanh niên. Đó là xu hướng tích cực trong việc học tập và tìm kiếm việc làm.
Đồng thời kiên quyết bác bỏ lối sóng thực dụng, chạy theo đồng tiền mà xao lãng các
giá trị đạo đức xã hội. Phải nhìn nhận và đánh giá thanh niên trong sự vận động và phát
triển của xã hội, phải thấy mặt mạnh là cơ bản, coi đó là lực lượng kế cận của Đảng, để
có thái độ tin tưởng, khoa học khi giao nhiệm vụ và giúp thanh niên vượt khó vươn lên
trong cuộc sống. Đảng viên phải là "người lãnh đạo, là tấm gương của tuổi trẻ" [5, tr.
82].
Trong chương trình công tác của mỗi cấp ủy cần xác định rõ hơn công tác xây
dựng Đảng. Lãnh đạo Đảng, Đoàn, chính quyền, các đoàn thể ở phường phải cộng đồng
trách nhiệm để làm tốt công tác thanh niên. Qui định chặt chẽ đảng viên trẻ phải tham gia
sinh hoạt đoàn, gắn liền với nhiệm vụ thanh vận, là tấm gương cho đoàn viên thanh niên
noi theo. Đảng viên có con em trong độ tuổi thanh niên phải động viên con em mình tự
giác, gương mẫu tham gia sinh hoạt đoàn, hội. Chi bộ phải có nghị quyết chuyên đề về
công tác thanh niên, chi ủy định kỳ nghe báo cáo và kiểm tra thực hiện nghị quyết đó.
Các cấp ủy Đảng phải thực hiện đúng định kỳ giao ban, chỉ đạo, kịp thời tổng kết các
nghị quyết, chỉ thị về công tác thanh niên, phải coi đó là nội dung quan trọng của công
tác xây dựng Đảng, chứ không phải là sự "ban ơn" của chi bộ, của đảng viên đi trước
đối với thanh niên.
Đánh giá đúng, nhận thức đúng, thống nhất cao là khâu mở đầu, định hướng
cho mọi hoạt động trong thực tiễn. Có thống nhất được nhận thức trong Đảng bộ, cấp
ủy, chi bộ, đảng viên và cán bộ lãnh đạo chính quyền, đoàn thể mới có cơ sở để làm tốt
CTPTĐV trong thanh niên trên địa bàn phường. Đẩy mạnh CTPTĐV trong thanh niên ở
các Đảng bộ phường cũng là nâng cao chất lượng công tác xây dựng Đảng, nâng cao
chất lượng lãnh đạo của cấp ủy, trẻ hóa đội ngũ, đảm bảo tính chuyển tiếp và nâng cao
năng lực lãnh đạo của Đảng bộ, chi bộ cho thời kỳ tiếp theo. Đồng thời tạo ra động lực
kích thích những đoàn viên thanh niên phấn đấu vươn lên, tạo cho phong trào quần
chúng phát triển, thúc đẩy sự tiến bộ mọi mặt của phường - một bảo đảm tin cậy cho sự
bền vững của chế độ và thắng lợi của sự nghiệp đổi mới theo định hướng XHCN.
3.2.2. Quán triệt và cụ thể hóa tiêu chuẩn đảng viên trong độ tuổi thanh
niên
"Tiêu chuẩn đảng viên là những tiêu chí và chuẩn mực để xem xét và kết nạp đảng
viên trong từng giai đoạn cách mạng, do đó tiêu chuẩn đảng viên được bổ sung, phát triển
gắn liền với từng giai đoạn cách mạng" [10, tr. 77]. Xác định tiêu chuẩn đảng viên là tất
yếu cần thiết để mỗi đảng viên có căn cứ đề ra phương hướng rèn luyện, phấn đấu. Các
tổ chức Đảng tiến hành đánh giá, phân loại chất lượng đảng viên, trên cơ sở đó tiến
hành các hoạt động sàng lọc, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật... đối với đảng viên. Đây
là căn cứ không thể thiếu để làm tốt CTPTĐV mới. Tiêu chuẩn đảng viên là một trong
những vấn đề cơ bản, trung tâm của lý luận và thực tiễn xây dựng Đảng.
Xét duyệt quần chúng vào Đảng, bất kỳ ở đối tượng nào tổ chức đảng đều phải
căn cứ vào tiêu chuẩn của Điều lệ Đảng đã qui định. Tiêu chuẩn chính là thước đo đánh
giá, là chuẩn mực xác định người được xem xét để kết nạp vào Đảng đã xứng đáng
chưa. Đối với thanh niên nói chung, thanh niên trên địa bàn phường ở Đà Nẵng nói
riêng là một đối tượng xã hội đặc thù, nên khi kết nạp họ vào Đảng lại càng cần phải
căn cứ vào tiêu chuẩn đảng viên; quán triệt tiêu chuẩn đó một cách cụ thể, vận dụng một
cách linh hoạt phù hợp với thực tế phấn đấu, rèn luyện, tu dưỡng của họ. Bởi vì, đối với
thanh niên trên địa bàn phường mà áp dụng tiêu chuẩn kết nạp nguyên xi như thanh niên
sinh viên, thanh niên công nhân, thanh niên trong lực lượng vũ trang thì không thể nào
thực hiện được. Cho nên cần phải tính đến phương án "linh hoạt", "chiếu cố", nhưng
cũng chỉ chiếu cố về yếu tố trình độ học vấn trước mắt, còn các yếu tố khác vẫn phải áp
dụng như tiêu chuẩn Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII) xác định. Các tổ chức Đảng
cần phải quán triệt rằng vận dụng linh hoạt, chiếu cố về trình độ học vấn hiện tại chứ
không phải là tùy tiện, hạ thấp tiêu chuẩn, chiếu cố để chạy theo số lượng, cốt kết nạp
được nhiều thanh niên vào Đảng. Điều đó sẽ nguy hiểm vì, vừa không làm tăng sức
mạnh của tổ chức Đảng, vừa làm suy giảm chất lượng, giá trị xã hội, uy tín của người
đảng viên và của Đảng. Mặt khác, dễ dẫn tới sự thỏa mãn, tâm lý chủ quan của đối
tượng chuẩn bị vào Đảng hoặc khi đã đứng trong hàng ngũ của Đảng họ sẽ không tiếp
tục duy trì lòng nhiệt tình, ý chí phấn đấu nữa.
Thực tế CTPTĐV trong thanh niên của các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng đòi hỏi
mỗi đảng viên và tập thể chi bộ ở thái độ nghiêm túc, khách quan, khoa học khi xem xét,
đánh giá thanh niên, xây dựng tiêu chuẩn đảng viên - thanh niên cho Đảng bộ mình. Mỗi
đảng viên cần phải phát huy tính Đảng của mình trong việc xem xét kết nạp quần chúng
thanh niên vào Đảng. Không nể nang, né tránh theo kiểu không biểu quyết thì sợ mất
lòng, mất danh hiệu thi đua của chi bộ mà góp ý đánh giá thì chẳng có gì nổi bật, không
đáng để biểu quyết đồng ý. Thực tiễn cho thấy, chỉ cần mỗi đảng viên nể nang một chút,
mỗi chi bộ dễ dãi một chút sẽ dẫn tới hậu quả có những đoàn viên thanh niên không đủ tiêu
chuẩn vẫn được đứng vào hàng ngũ của Đảng, làm sa sút chất lượng ĐNĐV của Đảng.
Phải "đặc biệt coi trọng chất lượng, không chạy theo số lượng. Không đặc biệt coi trọng
chất lượng khi kết nạp người vào Đảng thì việc phát triển Đảng sẽ trở thành con dao hai
lưỡi" [24, tr. 37]. Ngược lại, cũng không nên cứng nhắc, tuyệt đối hóa tiêu chuẩn đảng
viên theo quan niệm cá nhân sẽ gây khó khăn hoặc làm nhụt chí, cản trở sự phấn đấu
của những thanh niên tốt, có động cơ đúng đắn, mục đích trong sáng, lành mạnh. Hai
khuynh hướng nói trên hoặc khắt khe, hẹp hòi, hoặc dễ dãi, tùy tiện đều không tốt, làm
ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và lòng tin của quần chúng thanh niên khi thể hiện tình
cảm hay chủ động đến với Đảng.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương khóa VII: "Về một số
nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng" đã xác định tiêu chuẩn đảng viên như sau:
Đảng viên cần phải là người có giác ngộ chính trị, trung thành với
mục tiêu, lý tưởng XHCN; đặt lợi ích của Tổ quốc và nhân dân lên trên lợi ích
cá nhân; có đạo đức và lối sống lành mạnh, gắn bó với quần chúng; gương
mẫu và phấn đấu trở thành người sản xuất, công tác và quản lý giỏi, hoàn
thành nhiệm vụ được giao; chấp hành đúng Điều lệ và pháp luật Nhà nước;
thường xuyên học tập nâng cao trình độ nhận thức và năng lực công tác, có ý
thức tổ chức kỷ luật, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng [4, tr. 37].
Đây là tiêu chuẩn chung, là cơ sở để các tổ chức Đảng xây dựng tiêu chuẩn
đảng viên cho phù hợp với nhiệm vụ chức năng của mình. Vấn đề cụ thể hóa tiêu chuẩn
đảng viên trong độ tuổi thanh niên của các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng tác giả luận văn
xin đề xuất như sau:
Thứ nhất: Đảng viên thanh niên phải là người có giác ngộ lý tưởng chính trị,
trung thành với mục đích lý tưởng XHCN, đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên
trên lợi ích cá nhân.
Đây là tiêu chuẩn hàng đầu của người đảng viên, là tiêu chí đầu tiên để phân
biệt đảng viên với quần chúng. Gia nhập Đảng là việc làm tự giác, sinh hoạt Đảng là
sinh hoạt với những người có chung lý tưởng, chung chí hướng phấn đấu. Thanh niên
nào sống không có lý tưởng chính trị, không có mục đích chiến đấu rõ ràng, không tán
thành với lý tưởng xây dựng CNXH, chủ nghĩa cộng sản thì không thể đứng vào hàng
ngũ của Đảng. Vào Đảng là để phấn đấu suốt đời cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng, kiên
trì với mục tiêu đó, kiên quyết đấu tranh với những gì đi ngược lại mục tiêu chung của
Đảng.
Trong bối cảnh hiện nay, tình hình quốc tế đang có nhiều diễn biến khôn lường,
đất nước ta cũng đứng trước những khó khăn, thử thách mới rất phức tạp, đòi hỏi đảng
viên trong độ tuổi thanh niên phải tỉnh táo về chính trị, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh
đạo của ĐCSVN, không chấp nhận đa nguyên, đa đảng, kiên định con đường đi lên
CNXH, đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất nước, phấn đấu vì mục tiêu như Đại hội IX đã
đề ra. Đối với đảng viên trong độ tuổi thanh niên sự giác ngộ chính trị còn phải được
biểu hiện rõ ở chỗ: luôn có ý thức học tập, nắm vững đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, nêu cao vai trò đảng viên trẻ, thực hiện tốt nghĩa vụ công dân,
lời nói đi đôi với việc làm, gương mẫu, xung kích, sáng tạo trong lao động sản xuất,
công tác và học tập; thể hiện thái độ đúng đắn, tích cực rèn luyện trong thực tiễn đấu
tranh để tích lũy kinh nghiệm, vốn sống và hình thành bản lĩnh chính trị, không rơi vào
chủ nghĩa kinh nghiệm cũng như tình trạng tách rời lý luận với thực tiễn.
Ngay từ đầu trong quá trình giáo dục, bồi dưỡng giúp đỡ thanh niên tìm hiểu về
Đảng và phấn đấu trở thành đảng viên, tổ chức Đảng phải cho thanh niên biết rõ những
tiêu chuẩn mà họ cần đạt tới. Có thể coi những tiêu chuẩn đó như một sự định hướng giá
trị để vươn tới, noi theo. Tự bản thân thanh niên có thể tự đánh giá bản thân mình và
căn cứ vào tiêu chuẩn đó, tự xác định xem mình đã xứng đáng để được công nhận đảng
viên hay chưa? ý nghĩa của việc làm đó nhằm phát triển năng lực tự đánh giá, tự phê
bình của người chuẩn bị gia nhập Đảng, đồng thời thúc đẩy nhanh sự trưởng thành nhân
cách của thanh niên. Trong việc tự đánh giá, tổ chức Đảng và đảng viên cần giúp cho thanh
niên có thái độ, yêu cầu cao và nghiêm khắc với bản thân, khiêm tốn, tự tin, không mặc
cảm, nhưng cũng không chủ quan, kiêu ngạo.
Khi đề cập đến lập trường giai cấp và bản lĩnh chính trị trong hệ tiêu chuẩn
đảng viên trong độ tuổi thanh niên hiện nay, dưới góc nhìn thực tiễn ở các Đảng bộ
phường ở Đà Nẵng, tác giả luận văn thấy nổi lên ba vấn đề cần xem xét, giải quyết:
Một là, vấn đề động cơ vào Đảng. Đây là vấn đề hệ trọng. Bởi vì, động cơ đúng
đắn, trong sáng là tiền đề, là điều kiện giúp cho thanh niên phấn đấu vào Đảng; có niềm
tin sâu sắc, có ý thức phấn đấu bền bỉ, có ý chí quyết tâm cao vượt qua mọi khó khăn,
thử thách để đạt tới mục tiêu. Ngược lại, sự mờ ám trong động cơ vào Đảng là điểm
khởi đầu của những lệch lạc về chuẩn mực, lẽ sống sau này. Thực tế cho thấy những
thanh niên có động cơ phấn đấu đúng đắn sẽ xác định được vào Đảng là tiếp tục rèn
luyện trở thành người cộng sản chân chính, cống hiến khả năng, sức lực của mình cho
Đảng cho nhân dân và có sự biểu hiện nhất quán giữa lời nói đi đôi với việc làm, giữa
nhận thức và hành động. Những thanh niên có động cơ không đúng (đây là vấn đề phức
tạp) thì thường nhận thấy và có biểu hiện ở sự tách rời giữa lời nói và việc làm hoặc mỗi
việc làm thường ẩn giấu những toan tính cá nhân, thiếu tính kiên định, bền bỉ trong
những khó khăn thử thách. Kinh nghiệm cho thấy rằng, những người có động cơ không
đúng đắn, vào Đảng cốt để tìm kiếm quyền lợi, danh vọng, địa vị cá nhân, để có cơ hội,
điều kiện thăng tiến, thành đạt cho riêng mình thì sớm muộn cũng bộc lộ khi đụng chạm
tới những tình huống, những thử thách giữa mối quan hệ con người - công việc và tổ
chức.
Vấn đề động cơ vào Đảng vừa là vấn đề thuộc về thái độ chính trị, vừa là vấn đề
thuộc về nhận thức, đạo đức, lẽ sống. Đánh giá và thử thách động cơ vào Đảng không
chỉ căn cứ vào nhận thức và lời nói mà phải căn cứ vào việc làm, vào hành động, vào
quan hệ ứng xử, lối sống trong cả một quá trình. Trong bối cảnh hiện nay, không được
đơn giản hóa mà đòi hỏi người đảng viên được phân công giúp đỡ đối tượng và tập thể
chi bộ phải theo dõi, đánh giá, giúp đỡ một cách đúng đắn, nghiêm túc, thiết thực thông
qua những thử thách thực tế. Để có nhận thức mới về tiêu chuẩn đảng viên trong độ tuổi
thanh niên cho các Đảng bộ chi bộ phường ở Đà Nẵng, theo tác giả luận văn, việc giáo
dục động cơ vào Đảng cần phải tăng cường những biện pháp như: quan tâm hơn nữa
công tác giáo dục bồi dưỡng tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng cho đoàn
viên thanh niên; có kế hoạch chủ động đưa đoàn viên thanh niên tham gia tích cực vào
hoạt động thực tiễn, qua đó mà giác ngộ các chi bộ phải luôn sâu sát thanh niên, thông
qua tổ chức Đoàn để phát hiện chính xác, kịp thời những đoàn viên có nguyện vọng và
động cơ phấn đấu tốt, đưa vào nguồn; tổ chức Đoàn các cấp phải thường xuyên tuyên
truyền, bồi dưỡng về Đảng cho đoàn viên thanh niên.
Hai là, vấn đề đảng viên trong độ tuổi thanh niên có tín ngưỡng tôn giáo. Vấn
đề này Lênin đã từng viết rằng: "Nếu có một linh mục nào lại cùng đi với chúng ta để cùng
hoạt động chính trị, tận tâm làm tròn nhiệm vụ của mình trong Đảng và không chống lại
cương lĩnh của Đảng, thì chúng ta có thể kết nạp người ấy vào hàng ngũ Đảng dân chủ -
xã hội" [13, tr. 519]. Ngược lại, "nếu giả sử có một linh mục nào đã vào đảng dân chủ -
xã hội rồi, mà lại tiến hành việc tuyên truyền tích cực cho những quan niệm tôn giáo ở
trong nội bộ đảng ấy, coi đó là công tác chủ yếu và gần như là công tác duy nhất của
mình, thì đảng nhất thiết phải khai trừ linh mục ấy ra khỏi hàng ngũ của đảng" [13, tr.
520]. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã trả lời khi có người hỏi: Một người công giáo có
thể vào Đảng Lao động được không? "Có. Người tôn giáo nào nào vào cũng được, miễn
là trung thành, hăng hái làm nhiệm vụ, giữ đúng kỷ luật của Đảng" [19, tr. 115].
Bước vào thời kỳ đổi mới, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII) đã qui định:
Đảng viên là người xuất thân có tín ngưỡng tôn giáo cần phải tham gia sinh hoạt tín
ngưỡng, tôn giáo để liên hệ, gần gũi với quần chúng và tuyên truyền, vận động quần
chúng làm cách mạng. Chủ trương đó cũng đã được Ban Tổ chức Trung ương Đảng
hướng dẫn, cụ thể hóa.
Như vậy, vấn đề đảng viên là người xuất thân có tín ngưỡng tôn giáo đã được
qui định có nguyên tắc chặt chẽ và phù hợp với thực tế hiện nay. Do đó, việc phát triển
đảng viên trong độ tuổi thanh niên của các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng phải tuân thủ
đầy đủ các qui định về tiêu chuẩn, thủ tục theo qui định của Điều lệ Đảng và hướng dẫn
của Trung ương. Đảng viên trong độ tuổi thanh niên là người có đạo phải được giáo
dục, học tập để có kiến thức cơ bản về mọi mặt, đặc biệt là thế giới quan duy vật, và tư
tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng tôn giáo; phải thấu triệt và trung thành với tôn chỉ,
mục đích, đường lối chính trị của Đảng; nắm vững và vận dụng đúng quan điểm, chủ
trương, chính sách của Đảng nói chung và đối với tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng; có niềm
tin vào thế giới tâm linh, được tham gia các sinh hoạt, tôn giáo tối thiểu cần thiết, nhưng
không được sa vào mê tín, dị đoan; phải thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ, quyền hạn
đảng viên và tổ chức kỷ luật của Đảng. Đảng viên trong độ tuổi thanh niên là người xuất
thân có tín ngưỡng tôn giáo không được nói và làm trái Điều lệ Đảng, cương lĩnh,
đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng; tiết lộ các bí mật của Đảng; biến tổ chức và
cơ quan Đảng, Nhà nước thành nơi sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo; theo đuôi những
quần chúng lạc hậu cả về tư tưởng, chính trị, xã hội và tín ngưỡng, tôn giáo.
Trên đây là những nguyên tắc, những qui định bắt buộc đối với đảng viên -
thanh niên xuất thân có tín ngưỡng tôn giáo, các cấp ủy, chi bộ có thể vận dụng phù hợp
cho từng đối tượng và thực tế nhưng không được xa rời những nguyên tắc, qui định
trên.
Ba là, vấn đề lịch sử chính trị của gia đình có liên quan tới chế độ cũ. Nguyên tắc,
thủ tục là một trong những khâu của việc phát triển đảng viên. Sai lầm trong nguyên tắc
sẽ để lại hậu quả nghiêm trọng. Nguyên tắc ở đây xuyên thấu vào các khâu: đảm bảo
tiêu chuẩn người vào Đảng, xác minh lịch sử chính trị, qui trình thủ tục xét đơn và
người xin vào Đảng và của những người giới thiệu... Việc đảm bảo tiêu chuẩn những điều
cấm do Trung ương qui định nhằm bảo vệ sự trong sạch về chính trị, tăng cường bản
chất giai cấp công nhân của Đảng, ngăn ngừa những kẻ cơ hội về chính trị chui sâu, leo
cao vào bộ máy của Đảng. Điều đó rất đúng, trong trong thực tiễn ở các phường ở Đà
Nẵng hiện nay đặt ra nhiều vấn đề phải nghiên cứu. Bởi, có rất nhiều quần chúng thanh
niên có giác ngộ chính trị, có năng lực với tâm huyết mong muốn được đứng vào hàng
ngũ của Đảng để cống hiến nhiều hơn cho Đảng, nhưng vì lịch sử chính trị của gia đình
có liên đới đến chế độ cũ, nên chưa kết nạp được. Hầu hết các Đảng bộ phường ở Đà
Nẵng đều vướng vấn đề này và đề nghị Trung ương cần làm rõ hơn để có cơ sở vận
dụng phù hợp. Chẳng hạn, vấn đề xác định có nợ máu với cách mạng hay không?
Những người trực tiếp cầm súng theo địch để chống lại chế độ ta, còn những kẻ ném đá
giấu tay thì sao? Những người bị xúi giục, bị áp lực của kẻ địch phải làm theo? Những
người chỉ vì bồng bột, cảm tính mà phụ họa thì xử lý thế nào?... Do đó, theo tác giả luận
văn, về phía Trung ương cần phải tiếp tục lượng hóa một cách cụ thể để phân định mối
quan hệ giữa quần chúng thanh niên với người thân trong gia đình như ông bà, cha mẹ,
anh chị em ruột hay cháu, chắt..., nếu là quan hệ trực tiếp cha - con thì khác... Hiện nay
ở Đà Nẵng rất lúng túng vấn đề này. Nguyên tắc trong CTPTĐV là chưa rõ về lịch sử
chính trị thì chưa kết nạp, phạm một trong các điều cấm thì cũng không kết nạp. Những
trường hợp có nghi vấn về lịch sử chính trị thì các tổ chức Đảng phải làm tốt công tác
thẩm tra xác minh, hết sức cẩn trọng, không vội vã để tránh sự nhầm lẫn.
Thứ hai: Đảng viên trong độ tuổi thanh niên phải là người có tính tổ chức kỷ
luật cao, có ý thức trách nhiệm chăm lo xây dựng nội bộ Đảng, giữ gìn sự đoàn kết
thống nhất của Đảng trên cơ sở thực hiện đúng các nguyên tắc của Đảng, nhất là nguyên
tắc tập trung dân chủ, thường xuyên tự phê bình và phê bình.
Sức mạnh của Đảng là ở tính thống nhất: thống nhất quan điểm, ý chí, hành
động. Sự thống nhất đó dựa trên cương lĩnh, đường lối, các nguyên tắc tổ chức và sinh
hoạt Đảng. Vì vậy, tất cả mọi đảng viên dù ở cương vị nào đều phải tôn trọng và chấp
hành đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Đảng viên trong độ tuổi thanh niên có trách
nhiệm tham gia thảo luận các vấn đề thuộc về đường lối, chủ trương của Đảng, có
quyền chất vấn, tranh luận một cách thẳng thắn, chú ý lắng nghe và tôn trọng ý kiến của
người khác để xây dựng nghị quyết. Khi đã thành quyết định của tập thể thì phải nghiêm
túc chấp hành, nếu còn ý kiến khác thì được bảo lưu hoặc trình bày, báo cáo lên theo
đúng qui định của Điều lệ Đảng.
Đoàn kết là yêu cầu tối quan trọng của Đảng ta. Đảng viên trong độ tuổi thanh
niên phải giữ gìn, vun đắp mối đoàn kết đó trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, điều lệ, đường lối và các nguyên tắc tổ chức của Đảng;
lợi ích chung của dân tộc, của nhân dân; thường xuyên tự phê bình và phê bình; giữ gìn,
bảo vệ tình đồng chí thân thiết giữa những người cùng chung lý tưởng; thực hiện quyền
bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của mọi đảng viên và tự giác tôn trọng tập thể.
Trong điều kiện hiện nay, còn nhiều yếu tố tác động, thử thách đến sự đoàn kết
trong Đảng. Vì vậy, đảng viên trong độ tuổi thanh niên phải thực hành thường xuyên và
đúng đắn việc tự phê bình và phê bình. Trong mỗi công việc và sinh hoạt hàng ngày
đảng viên phải tự kiểm điểm, tự đánh giá, đối chiếu với yêu cầu, nhiệm vụ và tiêu chuẩn
đảng viên của mình, để từ đó tự điều chỉnh hành vi của mình. Khi vấp phải khuyết điểm
phải thành khẩn báo cáo với tổ chức Đảng để tiếp thu sự góp ý phê bình của cấp ủy,
đảng viên khác và của quần chúng. Đồng thời đảng viên trong độ tuổi thanh niên phải
tích cực theo dõi hoạt động của đồng chí mình, của cấp ủy, lắng nghe ý kiến phản ánh
của quần chúng về các đảng viên khác để đóng góp, phê bình kịp thời, chân tình trên cơ
sở tôn trọng lẫn nhau, vừa kiên quyết đấu tranh, vừa biết chờ đợi, có lòng vị tha, lễ
phép, tình đồng chí thân ái. Mọi biểu hiện che giấu khuyết điểm của bản thân và đồng
chí mình, tìm cách lẩn tránh phê bình hoặc lợi dụng phê bình để vu cáo, mất đoàn kết
nội bộ đều trái với tiêu chuẩn đảng viên cộng sản.
Thứ ba: Đảng viên trong độ tuổi thanh niên phải là người có kiến thức, năng
lực, lao động giỏi, trung thực và tận tụy, trực tiếp lao động một cách sáng tạo để thực
hiện công cuộc đổi mới đất nước.
Đảng cộng sản là đội tiên phong lãnh đạo, là trí tuệ, là danh dự và lương tâm
của thời đại. Mỗi đảng viên nói chung và đảng viên trong độ tuổi thanh niên nói riêng
phải là một chiến sĩ tiền phong, gương mẫu, tiêu biểu cho những tư cách đó của Đảng.
Làm người cộng sản trẻ tuổi trong giai đoạn đổi mới đất nước phải có học thức và phải
biết biến kiến thức, học vấn đó thành năng lực thực tế, thành phương pháp tư duy để đi
tới các hành vi sáng tạo; chứ không phải là năng lực thừa hành một cách lệ thuộc và thụ
động.
Con đường để đạt tới năng lực trí tuệ và hành động sáng tạo đối với đảng viên
trong độ tuổi thanh niên không thể không trau dồi học vấn, coi học tập là trách nhiệm
chính trị, nghĩa vụ đạo đức của mình. Thực tế trình độ học vấn, nghề nghiệp lao động
việc làm của thanh niên trên địa bàn phường ở Đà Nẵng hiện nay là lực cản nội tại làm
cho CTPTĐV của các Đảng bộ phường gặp khó khăn. Vì vậy tiêu chuẩn đảng viên
trong độ tuổi thanh niên về kiến thức, năng lực nên được cụ thể hóa thành từng đối
tượng cụ thể như: Đảng viên là cán bộ các cơ quan phường, đảng viên làm công tác
đảng, đoàn thể chuyên trách; đảng viên hoạt động trong lĩnh vực kinh tế ngoài quốc
doanh; đảng viên là giáo viên; đảng viên là cán bộ quản lý giáo dục... Nhưng nhìn
chung, tiêu chuẩn đảng viên thanh niên trên địa bàn dân cư phường ở Đà Nẵng phải là:
+ Phải có trình độ văn hóa trung học phổ thông trở lên.
+ Có trình độ sơ cấp lý luận chính trị trở lên.
+ Có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ tương ứng với công việc được giao.
+ Không thể là hộ đói, nghèo, con cái thất học.
Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII) nhấn mạnh: "Không đánh giá, sử dụng
cán bộ một cách cảm tính, chủ quan. Mọi phẩm giá và bằng cấp, danh hiệu và chức vụ,
tiềm năng và cống hiến đều phải được kiểm nghiệm qua hoạt động thực tiễn" [8, tr. 77].
Hiện nay, hầu hết các đảng viên của các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng đều qua
rèn luyện trưởng thành trong thực tiễn. Vì vậy, chất lượng đảng viên tương đối tốt.
Nhiều đảng viên mới, nhất là số kết nạp trong thanh niên còn thiếu rèn luyện trong thực
tiễn. Vì vậy, các cấp ủy, các cán bộ lãnh đạo cần có kế hoạch rèn luyện thực tế đối với
số đảng viên này.
Thứ tư: Đảng viên trong độ tuổi thanh niên phải là người có đạo đức, lối sống
lành mạnh, phải là tấm gương để quần chúng (nhất là quần chúng thanh niên) học tập,
noi theo.
Đảng viên trong độ tuổi thanh niên là những người còn trẻ tuổi, đang trong quá
trình rèn luyện để vào đời, làm việc và nhận trách nhiệm trước xã hội với tư cách là một
công dân. Họ trước hết phải là một đảng viên trong độ tuổi công dân trẻ có lòng yêu
nước sâu sắc, có đạo đức trong sáng, gương mẫu, có lý tưởng chính trị đúng đắn, có ý
thức tổ chức kỷ luật, tôn trọng pháp luật của Nhà nước, có thái độ tích cực ủng hộ công
cuộc đổi mới với sự nhất quán cao giữa lời nói và việc làm. Càng đi vào kinh tế thị
trường càng phải trau dồi đạo đức, nhân cách, lối sống, có đủ bản lĩnh vượt qua những
tiêu cực của kinh tế thị trường. Đạo đức của đảng viên trong độ tuổi thanh niên lúc này
là đạo đức hành động, đạo đức trong lao động, trong công việc, trong quan hệ với mọi
người trong đấu tranh khắc phục mọi tệ nạn để làm lành mạnh các quan hệ xã hội. Đạo
đức hành động đòi hỏi người đảng viên trong độ tuổi thanh niên phải có dũng khí trong
cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, độc đoán, chuyên quyền, quan liêu, ức hiếp,
xa rời quần chúng, bảo vệ sự thật, chân lý, lẽ phải và các giá trị tốt đẹp vì lợi ích của
nhân dân. Dũng khí đó phải được thể hiện trong đấu tranh bảo vệ sự trong sạch, vững
mạnh của Đảng, uy tín của Đảng đối với toàn xã hội, đồng thời còn biểu hiện trong đời
sống chính trị - xã hội, gắn liền với các sinh hoạt của nhân dân.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII) đã nêu cụ thể những đức tính
cần thiết của con người Việt Nam trong giai đoạn mới - đó là yêu cầu đối với mọi công
dân. Đảng viên trong độ tuổi thanh niên không những phải có đầy đủ các đức tính đó,
mà còn phải tiêu biểu, nêu gương đạo đức về tất cả các mặt ấy trước quần chúng, để bản
thân, phẩm chất, đạo đức của mình tạo nên sức cảm hóa mạnh mẽ đối với mọi người.
Nếu xem nhẹ một trong các yêu cầu đó thì mỗi đảng viên trong độ tuổi thanh niên thì
không thể hình thành được nhân cách con người mới XHCN, không thể rèn luyện được
phẩm chất của người cách mạng, không thể chiến thắng được chủ nghĩa cá nhân, không
thể có tác dụng nêu gương, thuyết phục quần chúng về đạo đức. Đối với tổ chức Đảng,
nếu kết nạp những người không đủ tiêu chuẩn về đạo đức vào Đảng thì không chỉ Đảng
mất cán bộ mà còn suy giảm uy tín và niềm tin trước quần chúng. Do vậy, bất luận
trong trường hợp nào cũng không được xem nhẹ tiêu chuẩn đạo đức khi xét kết nạp
đảng viên, cũng như phải thường xuyên giáo dục đạo đức, lối sống cho các đảng viên
trẻ để họ thể hiện được phẩm chất đạo đức của mình trong lao động, học tập, công tác
và trong cuộc sống thường ngày.
Thứ năm: Đảng viên trong độ tuổi thanh niên phải là chiến sĩ tiên phong trong
phong trào quần chúng, có khả năng lãnh đạo, giáo dục, thuyết phục quần chúng và
không ngừng quan hệ mật thiết với quần chúng, nhưng không mị dân hoặc theo đuôi
quần chúng.
Đối với đảng viên trong độ tuổi thanh niên, sự gắn bó với quần chúng không chỉ
là một tiêu chuẩn của nhân cách đảng viên, mà còn là sự thử thách đặc biệt thực chất giá
trị xã hội, năng lực hoạt động chính trị thực tiễn. Đồng thời, qua đó kiểm tra về động cơ
chính trị, về ý thức đạo đức, sự đánh giá về năng lực vận động quần chúng, về phương
pháp và phong cách làm việc của mỗi đảng viên. Đây là tiêu chuẩn có tính tổng hợp
cao, là sự chung đúc cả năng lực, đạo đức, vốn sống và kinh nghiệm mà người đảng
viên đạt được qua học tập, lao động, rèn luyện, giáo dục và tự giáo dục. Do đó, mỗi
đảng viên trẻ trở thành người cộng sản chân chính khi cùng sống và lao động trực tiếp
với các tầng lớp nhân dân.
Thứ sáu: Đảng viên trong độ tuổi thanh niên phải là người hoàn thành tốt các
nhiệm vụ được giao, có ý thức phấn đấu nâng cao năng lực công tác để đáp ứng yêu cầu
ngày càng tăng của nhiệm vụ cách mạng.
Hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH, cùng với các nước
trên thế giới bứt phá tiến vào thiên niên kỷ mới. Tình hình đó đòi hỏi đảng viên trong độ
tuổi thanh niên phải nỗ lực học tập để có tri thức mới, năng lực công tác mới, đáp ứng
đòi hỏi của cuộc sống. Học tập được coi như nhiệm vụ bắt buộc, cấp bách hàng đầu đối
với đảng viên hiện nay, lười học tập, lười suy nghĩ cũng là biểu hiện của sự suy thoái,
trái với yêu cầu tiêu chuẩn đảng viên.
Các tiêu chuẩn đảng viên trong độ tuổi thanh niên nêu trên có quan hệ chặt chẽ
với nhau, không thể xem nhẹ, châm chước mặt nào. Đạt tới các tiêu chuẩn đó là yêu cầu
bắt buộc đối với người xin vào Đảng, phấn đấu để giữ vững và nâng cao các tiêu chuẩn
trên là trách nhiệm của mọi đảng viên trong độ tuổi thanh niên sống trên địa bàn
phường.
3.2.3. Củng cố, kiện toàn, xây dựng các cấp ủy Đảng trong sạch, vững
mạnh thực sự là chủ thể phát triển đảng viên
Chất lượng lãnh đạo của các cấp ủy Đảng là một trong những nhân tố đặc biệt
quan trọng và có ý nghĩa quyết định tới năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ
phường.
Tinh thần các nghị quyết của Trung ương về xây dựng và chỉnh đốn Đảng gần
đây là làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh trên tất cả các mặt: chính trị, tư tưởng, đạo
đức và phương thức lãnh đạo. Do đó, chất lượng tổ chức và chất lượng con người lãnh
đạo phải gắn bó chặt chẽ, mật thiết, chi phối và thúc đẩy lẫn nhau. Hơn bất cứ tổ chức
nào, lĩnh vực nào, các Đảng bộ phường phải có sức chiến đấu đủ mạnh để cái đúng, cái
tích cực, cái tiên tiến, đổi mới và cách mạng phải là chủ đạo và chiếm ưu thế; đủ sức để
lãnh đạo và đủ sức để hạn chế xuống mức thấp nhất những tiêu cực đang thẩm thấu, tấn
công vào môi trường đô thị. Cuộc đấu tranh giữa cái tiến bộ, tích cực với cái tiêu cực,
lạc hậu là cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ và phức tạp. Trên địa bàn phường lực lượng
quan trọng, nhất là tổ chức Đảng mà đội ngũ bí thư, phó bí thư, cấp ủy viên là quyết
định.
Để củng cố, kiện toàn, xây dựng các cấp ủy trong sạch vững mạnh thực sự là
chủ thể phát triển đảng viên trong thanh niên của các Đảng bộ phường phải tập trung
vào những biện pháp như sau:
Một là, việc lựa chọn người vào cấp ủy phải có đủ tiêu chuẩn, phải thật sự tiêu
biểu cho trí tuệ, năng lực và phẩm chất của Đảng bộ. Phải coi trọng tiêu chuẩn, lấy tiêu
chuẩn là chính, nhưng khi nhấn mạnh tầm quan trọng của tiêu chuẩn không xem nhẹ cơ
cấu để đảm bảo cho cấp ủy đủ khả năng lãnh đạo các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, an
ninh quốc phòng trên địa bàn phường. Trên cơ sở tiêu chuẩn, cần chú ý đưa vào cấp ủy
những cán bộ, đảng viên trẻ trong các đoàn thể ở phường.
Điều 12 Điều lệ ĐCSVN, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX thông qua ngày
22-4-2001 qui định:
Cấp ủy viên phải có đủ tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, đạo đức
cách mạng, lối sống lành mạnh; chấp hành nghiêm chỉnh nguyên tắc tổ chức
và sinh hoạt Đảng và pháp luật của Nhà nước; có kiến thức và năng lực tham
gia lãnh đạo tập thể, hoàn thành
tốt nhiệm vụ được giao; đoàn kết nội bộ đảng viên, quần chúng tín nhiệm.
Trong tình hình hiện nay, tiêu chuẩn cấp ủy viên của các Đảng bộ phường cần
phải chú trọng:
- Về phẩm chất chính trị: Cấp ủy viên phải kiên định mục tiêu và con đường
XHCN, trung thành với Đảng, với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
chấp hành nghiêm túc tập trung dân chủ.
- Đạo đức và lối sống phải trong sáng, trung thực, không tham vọng cá nhân,
không cục bộ, không cơ hội, không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham
nhũng, chống lại mọi biểu hiện cơ hội.
Hai là, trên cơ sở nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Điều lệ Đảng và căn cứ
vào đặc điểm, vai trò chức năng nhiệm vụ của Đảng bộ, chi bộ phường đã được làm rõ
trong Qui định số 52QĐ/TW ngày 19-11-1992 của Ban bí thư mà các cấp ủy Đảng ở
phường cần xây dựng và thực hiện qui chế làm việc của mình. Trong đó, phải xác định
rõ chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ lãnh đạo, quyền hạn của tập thể cấp ủy trong hệ
thống chính trị ở phường và chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cấp ủy viên. Chỉ
có qui chế làm việc cụ thể, đúng đắn thì mới có cơ sở, chuẩn mực để cấp ủy đảm bảo
hoạt động thật sự khoa học và cách mạng, làm cho từng cấp ủy viên nắm vững và thực
hiện tốt chức trách của mình, đồng thời tham gia tổng kết công tác, bổ sung, hoàn thiện
hơn qui chế đó.
Ba là, phát huy dân chủ trong Đảng, bảo đảm cho mọi đảng viên và cấp ủy viên
trong Đảng bộ phường thực hiện quyền dân chủ. Khuyến khích mọi cấp ủy viên có
quyền và trách nhiệm phát biểu ý kiến, thẳng thắn tranh luận để góp phần làm sâu sắc
sáng tỏ những vấn đề thuộc về đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách, giải pháp
chủ yếu trong quá trình chuẩn bị ra quyết định và nghị quyết của cấp ủy trên cơ sở
nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng.
Bốn là, thực hành thường xuyên, nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình,
tăng cường đoàn kết thống nhất trong các cấp ủy Đảng. Ngoài việc tổ chức phê bình
theo định kỳ các cấp ủy phải thường xuyên, kịp thời phát hiện, xử lý dứt điểm những
tiêu cực xuất hiện trong đội ngũ cấp ủy. Đi đôi với biện pháp phòng ngừa tiêu cực để
làm trong sạch cấp ủy thì phải chăm lo bồi dưỡng nâng cao trình độ về mọi mặt cho
từng cấp ủy viên, nhất là lãnh đạo chủ chốt.
Năm là, muốn nâng cao năng lực lãnh đạo của các cấp ủy Đảng ở phường cần
phải đổi mới phong cách và lề lối làm việc của từng cấp ủy viên. Thiết thực nhất là xây
dựng chương trình hoạt động (toàn khóa, hàng năm, hàng quí, hàng tháng, hàng tuần)
của của cấp ủy để xác định nhiệm vụ trọng tâm và cấp bách cho từng thời gian. Cần duy
trì chế độ phân công cấp ủy viên, nhất là cấp ủy viên thường vụ phụ trách từng địa bàn,
từng lĩnh vực, theo định kỳ phải xuống cơ sở gặp gỡ và đối thoại với đảng viên và nhân
dân, qua đó mới có thể phát hiện những nhân tố mới tích cực, điển hình mới tiên tiến
góp phần nâng cao năng lực thực tiễn của cấp ủy.
3.2.4. Chủ động làm tốt và đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp giáo
dục, bồi dưỡng chính trị, tư tưởng, đạo đức cách mạng cho thanh niên trong tình
hình mới; thường xuyên lựa chọn đoàn viên ưu tú bổ sung vào diện đối tượng
Đảng
Qua thực tế việc giáo dục, bồi dưỡng chính trị, tư tưởng, đạo đức cách mạng
(gọi tắt là lý tưởng cách mạng) cho thanh niên trên địa bàn phường ở Đà Nẵng thời gian
qua cho thấy: Công tác giáo dục, tuyên truyền chưa góp phần tạo ra phong trào quần
chúng hành động cách mạng thực sự sôi nổi, mạnh mẽ và liên tục; việc triển khai 5 bài
học lý luận cho đoàn viên, thanh niên ở địa bàn phường là đúng, nhưng trong truyền
thụ, giáo dục còn nghèo nàn, khô cứng về nội dung, sáo mòn và đơn điệu về hình thức
và phương pháp, chưa phù hợp với đặc điểm, trình độ, tâm lý, nhu cầu, lợi ích của tuổi
trẻ. Đại bộ phận thanh niên trên địa bàn phường sống có lý tưởng đang cùng toàn dân
phấn đấu cho mục tiêu đổi mới, nhưng vẫn còn một bộ phận thanh niên còn mơ hồ về lý
tưởng, chưa xác định được mục đích sống, thiếu ý chí khắc phục khó khăn. Trước tình
hình như vậy, vấn đề chủ động nâng cao chất lượng và đổi mới nội dung phương pháp
giáo dục bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho thanh niên càng trở nên quan trọng, đòi hỏi
Đảng, Đoàn các cấp cũng như hệ thống tuyên truyền giáo dục phải có nhận thức sâu sắc,
thái độ tích cực, chủ động trong công tác này.
Về nội dung của giáo dục, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN cần phải tập trung vào các chủ đề:
+ Nhận thức về Đảng, về CNXH và sự lựa chọn con đường XHCN ở nước ta,
mục tiêu của sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo.
+ Về truyền thống văn hóa dân tộc, truyền thống cách mạng của Đảng nói
chung, Đảng bộ và nhân dân Đà Nẵng nói riêng.
+ Về chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa quốc tế gắn liền với nhận thức về thời đại.
+ Về ý thức chính trị, nghĩa vụ công dân, tình cảm cách mạng.
Lý tưởng cách mạng chính là sự phản ánh hiện thực cái ngày mai ấy trong đầu
óc con người. Đó là hình ảnh tương lai của cuộc sống hôm nay. Vì vậy, phải nhấn mạnh
rằng, việc giáo dục, bồi dưỡng, hướng dẫn cho thanh niên xây dựng lý tưởng, hoài bão
đúng đắn, phù hợp với yêu cầu của đổi mới và xu thế thời đại là việc làm có ý nghĩa to
lớn. Khi người thanh niên có lý tưởng "sẽ làm cho họ có thái độ tích cực trong nhận
thức, nồng nhiệt trong tình cảm, mãnh liệt trong ý chí, quyết tâm trong hành động" [25,
tr. 3].
Đối với thanh niên trên địa bàn phường ở Đà Nẵng cần phải cụ thể hóa nội dung
lý tưởng cách mạng trên như sau:
- Độc lập dân tộc trong giai đoạn hiện nay phải được nhận thức theo tinh thần
kế thừa và biện chứng. Bởi vì, xu thế hội nhập và hợp tác quốc tế đôi bên cùng có lợi là
xu hướng chung. Trong khi hòa bình và ổn định mới chỉ là nguyện vọng của loài người
tiến bộ, vì thế việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ vẫn là một nội dung chủ yếu, không thể
lơi là. Đối với thanh niên, tinh thần độc lập dân tộc phải được thể hiện rõ nét ở ý chí
vươn lên quyết không cam chịu đói nghèo; yêu nước ngày nay trước hết là yêu gia đình,
quê hương của mình, sẵn sàng đem tài năng và sức trẻ để phục vụ quê hương; giữ nước
trước hết phải giữ lấy bản thân mình không để sa vào cạm bẫy của âm mưu "diễn biến
hòa bình", vào các tệ nạn xã hội đang có chiều hướng gia tăng, và các trạng thái cực
đoan do cơ chế thị trường tác động.
- Dân chủ trong thời kỳ CNH,HĐH đất nước phải gắn liền với lợi ích. Thanh
niên muốn làm chủ (tự nhiên, xã hội và bản thân) thì trước hết phải đánh giá đúng giá trị
sức lao động và làm chủ sức lao động của mình. Đây là điều rất khó, nhưng phải làm vì
"nếu tách khỏi lợi ích thì mọi thứ dân chủ sẽ trở nên hình thức " (C.Mác). Đây là tiền đề
để thanh niên lựa chọn nghề nghiệp, việc làm, vừa bảo đảm lợi ích cho mình vừa giúp
ích cho xã hội. Hơn nữa, trong bối cảnh hiện nay, do quản lý nhà nước ở cấp phường
còn thiếu chặt chẽ, nên dân chủ phải gắn liền với pháp luật và kỷ cương với qui ước của
khu dân phố, để không có đất cho những thứ luật như "luật giang hồ", "luật rừng"... tồn
tại.
- Thực hiện công bằng xã hội phải được thiết lập ngay trong từng bước tăng
trưởng kinh tế. Toàn thể nhân dân lao động, trong đó có thanh niên phải được thụ hưởng
thành quả của đổi mới. Đảng, Nhà nước, các đoàn thể phải vừa khuyến khích làm giàu
chính đáng, hợp pháp vừa phải chăm lo xóa đói, giảm nghèo, đào tạo nghề, giải quyết
việc làm cho thanh niên; đặt trọng tâm vào việc chăm lo, bồi dưỡng, phát huy nhân tố
con người, xem con người là động lực to lớn nhất; phải làm cho thanh niên hiểu được
rằng, thực hiện công bằng xã hội không có nghĩa là cào bằng, chia đều của cải bất chấp
năng suất, chất lượng và hiệu quả, mà thực hiện công bằng xã hội chính là tạo sự công
bằng về cơ hội giáo dục cơ bản, đào tạo nghề, chăm sóc sức khỏe, hưởng thụ các thành
tựu văn hóa, cơ hội để có việc làm, cơ hội để tự tạo việc làm phù hợp với năng lực, sở
trường, điều kiện từng người.
- Phát triển văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, kết hợp với
tiếp thu văn hóa nhân loại. Đây là nội dung quan trọng của giáo dục lý tưởng cách mạng
cho thế hệ trẻ hiện nay. Với tư cách là nền tảng tinh thần của xã hội mới, văn hóa bao
gồm những thành tố: tri thức và kinh nghiệm mà cả dân tộc đã tích lũy được qua hàng
ngàn năm; sức sống, sức sáng tạo đảm bảo cho dân tộc ta tồn tại và phát triển; những
phẩm chất những tính cách, khuynh hướng cơ bản thể hiện sức mạnh tiềm tàng và sáng
tạo của văn hóa dân tộc; hệ giá trị và truyền thống của dân tộc, của Đảng ta. Cốt lõi của
các giá trị văn hóa - đó là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Với tư cách
là động lực của sự phát triển, văn hóa khơi dậy và nhân lên mọi tiềm năng sáng tạo của
con người, đặc biệt là thế hệ trẻ. Do đó, phải sớm hình thành trong thế hệ trẻ một ý thức
chính trị, văn hóa chính trị. Tức là trang bị cho thanh niên cách nhìn nhận, đánh giá các
yếu tố của văn hóa trong đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và của
Đoàn thanh niên. Từ đó mới có thể hình thành nên văn hóa trong sản xuất, kinh doanh,
văn hóa trong quản lý chỉ đạo, lãnh đạo, văn hóa giao tiếp, sinh hoạt, tiêu dùng, văn hóa
trong giao lưu hội nhập quốc tế, văn hóa sinh thái... trong tầng lớp thanh niên.
- Hướng thanh niên tới những phẩm chất của người lao động như: giỏi chuyên
môn, thạo việc, sáng tạo; thẳng thắn, trung thực; sống và làm việc theo pháp luật; quí
trọng, tiết kiệm trong tiêu dùng; có tư duy kinh tế, tiếp cận khoa học công nghệ mới; có
kỹ năng giao tiếp xã hội; tự giác, khiêm tốn, cầu tiến bộ, có bản lĩnh; có ý thức thi đua,
hợp tác và có khả năng thích ứng nhanh với môi trường, điều kiện mới.
Đối với những đoàn viên ưu tú, tiên tiến, có cảm tình Đảng phải nâng mô hình
nhân cách đó lên ở nấc cao hơn để bồi dưỡng, giáo dục và kết nạp họ vào Đảng. Mô
hình nhân cách đó có thể là: Năng động sáng tạo trong lập thân, lập nghiệp; biết làm
giàu chính đáng, có lợi cho mình, cho xã hội mà không làm hại người khác; nhạy cảm
trước những vấn đề chính trị, lời nói đi đôi với việc làm, biết hy sinh lợi ích cá nhân vì
nghĩa lớn của dân tộc; trọng chân lý, trọng lẽ phải, hiểu biết, tin cậy và dựa hẳn vào lớp
trẻ; có tình thương với những người lao động chân chính, căm ghét và kiên quyết đấu
tranh với những kẻ tham nhũng, cơ hội đang làm hoặc có nguy cơ làm tổn hại đến thanh
danh, uy tín của Đảng...
Năm nội dung cơ bản của lý tưởng cách mạng nêu trên cần phải giáo dục,
truyền thụ cho thanh niên đã tính đến bối cảnh, điều kiện và đặc thù của thanh niên trên
địa bàn phường ở Đà Nẵng. Qua thực tế công tác thanh niên cho thấy, việc giáo dục lý
tưởng cách mạng hiện nay không thể áp đặt một cách máy móc, xơ cứng, trừu tượng,
mơ hồ mà phải xuất phát từ nhu cầu chính đáng của thanh niên. Vì vậy, các cấp ủy
Đảng, Đoàn thanh niên, Hội thanh niên và các lực lượng tham gia phải kịp thời định
hướng cho các nhu cầu mới đối với thế hệ trẻ, để có một thế hệ tiêu biểu, gánh vác sự
nghiệp đổi mới hiện tại và những năm tiếp theo đó là:
+ Nhu cầu sống có hoài bão, quyết không cam chịu nghèo nàn, quyết đưa dân
tộc Việt Nam sánh vai với các nước tiên tiến trên thế giới.
+ Nhu cầu sáng tạo. Đây là bản chất của tuổi trẻ, nhưng sáng tạo phải đúng
hướng, tức là đưa cái đúng, cái tốt, cái đẹp vào cuộc sống lao động, sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ, học tập, công tác, hoạt động xã hội, hoạt động cá nhân... có như vậy nhu
cầu sáng tạo mới trở thành động lực trực tiếp để thực hiện lý tưởng cách mạng của
thanh niên.
+ Nhu cầu nâng cao trí tuệ, nghề nghiệp, việc làm phải trở thành phương châm
hoạt động của tuổi trẻ trong những năm tới.
+ Nhu cầu về tình cảm, tình bạn, tình yêu là đặc thù của lớp trẻ, nên phải hướng
tới những tình cảm đạo đức mới, thẩm mỹ mới trên cơ sở kế thừa những truyền thống
đạo lý của cha anh. Đây là công việc khó khăn trong điều kiện hiện nay, nhưng không
thể lơi là.
+ Nhu cầu tự khẳng định mình thông qua hoạt động xã hội và giao tiếp. Một xã
hội, một đô thị lành mạnh là tạo những điều kiện thuận lợi nhất để lớp trẻ tự khẳng định
năng lực sở trường qua giao tiếp và hoạt động trong gia đình, trong nhóm bạn bè, trong
tập thể, trong cộng đồng dân cư, trong xã hội... một cách có văn hóa (suy nghĩ, nói năng
và hành vi).
+ Nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm của xã hội (cả vật chất và tinh thần). Định
hướng nhu cầu này nên lưu ý mối quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa nguyện
vọng chủ quan và điều kiện khách quan.
Hình thức, phương pháp đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển tải những
nội dung giáo dục và tác động tới tư tưởng của thanh niên. Để triển khai một cách có
hiệu quả nhiệm vụ và nội dung giáo dục trên, phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực
lượng làm công tác tư tưởng, phải đổi mới phương pháp và hình thức giáo dục, truyền
thụ một cách phù hợp, cuốn hút thanh niên. Để thanh niên có điều kiện, cơ hội cảm
nhận trực tiếp các vấn đề thực tiễn cuộc sống, được chủ động tìm hiểu, được tôn trọng,
không áp đặt; được dân chủ và bình đẳng trong tranh luận, đối thoại để tìm hiểu sự thật.
Tạo cho họ tâm thế và vị thế của chủ thể làm chủ, làm cho tự bản thân họ nảy nở nhu
cầu về chính trị tư tưởng. Chỉ có như vậy công tác giáo dục chính trị tư tưởng mới thực
sự có ý nghĩa đối với họ.
Những hình thức, phương pháp cụ thể:
Thứ nhất, giáo dục gia đình. Bất cứ xã hội nào và trong thời gian nào, gia đình
cũng là yếu tố đầu tiên tác động vào thanh niên. Bởi, gia đình là tế bào lành mạnh của
xã hội, là tổ ấm của mỗi người. Gia đình đóng vai trò hết sức quan trọng đối với việc
giáo dục thanh niên trưởng thành và các thành viên trong gia đình luôn là tấm gương
gần gũi nhất đối với thanh niên. Những định hướng trong cuộc sống của thanh niên bắt
đầu từ định hướng trong gia đình. Các bậc phụ huynh có vai trò quyết định trong quá
trình hình thành nhân cách cho lớp trẻ. Do vậy, giáo dục gia đình cần hướng vào các
trọng điểm:
+ Sự gương mẫu của ông, bà, cha, mẹ đối với con cháu mình trong lao động,
sản xuất, kinh doanh, học tập, công tác, đối nhân xử thế, vui chơi giải trí.
+ Hướng dẫn và tìm cách đáp ứng các nhu cầu chính đáng hợp lý của con cháu
mình.
+ Xây dựng, bảo vệ nếp sống gia phong, phát huy truyền thống vốn có của gia
đình, họ hàng, tạo bầu không khí hòa thuận, cởi mở, quan tâm đến từng thành viên khi
có thuận lợi cũng như gặp khó khăn; động viên kịp thời những thành quả của con cháu,
uốn nắn kịp thời những hành vi lệch chuẩn dù là nhỏ nhất. Các bậc cha mẹ phải coi sự
tiến bộ, trưởng thành của con cái là niềm hạnh phúc lớn nhất của mình.
Thực tế hiện nay cho thấy rằng, chỉ có xây dựng gia đình êm ấm, hạnh phúc
mới tạo ra được môi trường văn hóa lành mạnh cho thanh niên nhận thức được hài hòa
mối quan hệ giữa gia đình và xã hội, giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa quyền lợi và
nghĩa vụ của thanh niên đối với sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Thứ hai, giáo dục thông qua dư luận xã hội. Đây là một biện pháp quan trọng để
định hướng các giá trị cho thanh niên, để thanh niên điều chỉnh các hành vi lệch chuẩn về
đạo đức, lối sống, nếp sống. Các hình thức này có thể thông qua những người lớn tuổi có
uy tín trong cộng đồng như các vị lão thành cách mạng, cựu chiến binh, cán bộ về hưu, hội
người cao tuổi, các thủ lĩnh thanh niên, giáo dục bằng các qui ước của khu tập thể, tổ dân
phố, tổ hòa giải... Riêng biện pháp này thời gian qua một số phường ở Đà Nẵng làm tương
đối tốt và được đánh giá là có hiệu quả thiết thực. Ví như: thanh niên phấn đấu tốt được tổ
dân phố nêu gương trước cuộc họp tổ, thanh niên lên đường nhập ngũ tổ dân phố mời đến
trao quà, dặn dò...; còn những thanh niên hư hỏng, quậy phá tổ dân phố cũng họp mời cả
cha mẹ đến kiểm điểm và giao nhiệm vụ giáo dục cụ thể. Đây là cách làm hay cần được giữ
vững, phát huy và nhân rộng.
Thứ ba, sử dụng hợp lý các phương tiện thông tin đại chúng vào việc định
hướng giá trị và giác ngộ lý tưởng cách mạng cho thanh niên. Cần phải tăng thời lượng,
số lượng và chất lượng những bài viết, buổi phát thanh, phát hình xung quanh vấn đề
thanh niên, giảm bớt các tiết mục ít mang tính giáo dục như tranh, truyện, quảng cáo,
phim bạo lực, kích dâm, tiêu xài hoang phí, thực dụng. Tăng cường những chuyên mục
như nêu gương người tốt, việc tốt, các mô hình làm kinh tế giỏi, nhất là những đảng
viên cộng sản bình thường nhưng vượt mọi khó khăn vươn lên trong cuộc sống, có uy
tín và được dư luận xã hội quan tâm. Đồng thời, từng bước hoàn thiện kỹ năng, nghiệp
vụ của đội ngũ phát thanh viên, dẫn chương trình địa phương theo hướng trẻ, đẹp, thông
minh, có sức hấp dẫn để lôi cuốn lớp trẻ.
Thứ tư, giáo dục chính trị, tư tưởng thông qua các loại hình văn hóa, văn học,
nghệ thuật cùng với các thiết chế văn hóa. Việc làm này được thông qua nhà văn hóa
thanh niên, các câu lạc bộ, các diễn đàn thanh niên, các hình thức giao lưu văn hóa của
thanh niên để phục vụ cho công tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Gắn việc học tập 5 bài
học lý luận chính trị với các cuộc thi hát dân ca, thi tìm hiểu xã hội, hái hoa dân chủ, đố
vui...; chú trọng tổ chức các điểm văn hóa theo cụm dân cư, văn hóa quần chúng. Một
trong những cách làm hiệu quả là tận dụng các buổi biểu diễn nghệ thuật để tuyên
truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng cho thanh niên trên địa bàn dân cư.
Thứ năm, đổi mới hoạt động tuyên truyền, cổ động chính trị. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã giải thích một cách rõ ràng, dễ hiểu là: tuyên truyền là đem một việc gì nói cho
dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu không đạt được mục tiêu đó thì tuyên truyền
thất bại. Đối với thanh niên trên địa bàn dân cư phường thì cách tuyên truyền, cổ động
chính trị thuyết phục nhất vẫn là thông qua bằng chứng thực tiễn sinh động. Khơi dậy
các phong trào cách mạng như: Tổ chức, du khảo, tìm địa chỉ đỏ, thăm tặng quà, giúp
đỡ các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, gia đình thương binh, liệt sĩ, gặp gỡ các "người con
hiếu thảo", bảo vệ môi trường, giữ gìn an ninh, trật tự... của thanh niên, từ đó lấy thanh
niên để giáo dục thanh niên. Cổ vũ những mô hình làm ăn có hiệu quả, những điển hình
tiên tiến và nhân rộng các điển hình, mô hình đó, tạo dư luận xã hội rộng rãi ủng hộ cái
hay, cái tiến bộ, phản đối cái dở, cái xấu, cái ác.
Để tuyên truyền, cổ động có hiệu quả, thiết yếu phải xây dựng đội ngũ báo cáo
viên, tuyên truyền viên các cấp (đặc biệt chú trọng cấp phường) có chất lượng, có bản lĩnh
chính trị, có kiến thức, có kỹ năng truyền cảm, thuyết phục công chúng. Ngoài ra, phải
thực hiện nhất quán phương châm "toàn Đảng làm công tác tư tưởng", tức mỗi cán bộ,
đảng viên từ bí thư đến đảng viên thường là một tuyên truyền viên tích cực.
Như các phần trên đã trình bày, quan điểm của tác giả luận văn đối với thanh
niên ngày nay là không thể giáo dục, tuyên truyền các quan điểm chính trị, đạo đức, lối
sống một cách trực diện, áp đặt, nhất là đối tượng thanh niên trên địa bàn phường, mà
phải thông qua nhiều nội dung, hình thức, phương pháp cụ thể, thiết thực sinh động, phù
hợp với nhận thức, nhu cầu của họ. Chính vì vậy, một mặt, công tác chính trị tư tưởng
phải đi đôi với sự gương mẫu trong lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo của Đảng, chính quyền,
đoàn thể ở các cấp; nhất quán giữa chủ trương với biện pháp chỉ đạo, giữa nói và làm,
gương mẫu trong tư cách cá nhân và trách nhiệm đối với công việc..., có như vậy những
điều nói ra, những lời giải thích, những vấn đề nêu lên mới dễ dàng được lớp trẻ lắng
nghe, chấp nhận và tự giác thực hiện. Mặt khác, công tác chính trị, tư tưởng phải đi đôi
với việc đổi mới chính sách và thực hiện nghiêm túc chính sách. Nhất là những chính
sách có liên quan đến thanh niên và những người hoạt động chính trị - xã hội ở cơ sở.
Bởi đây là "tương lai" của nước nhà và "rường cột" của hệ thống chính trị XHCN.
Không đổi mới chính sách thì công tác tư tưởng, chính trị sẽ bị vô hiệu hóa. Hãy luôn
nhớ lời dạy của Lênin rằng, mỗi một chính sách tác động đến số phận của hàng triệu
con người.
3.2.5. Kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức Đoàn thanh
niên cộng sản Hồ Chí Minh trong tham gia xây dựng phát triển Đảng. Đồng thời
nêu cao trách nhiệm của các tổ chức khác đối với thanh niên
Công tác Đoàn và phong trào thanh niên thành phố trong những năm tới sẽ đặt
ra những đòi hỏi hết sức gay gắt. Đó là chất lượng và tính chiều sâu của phong trào, tính
đa dạng và phong phú của các loại hình, các đội hình tập hợp thanh niên của Đoàn; đội
ngũ cán bộ phải được đào tạo một cách có hệ thống, nâng cao trình độ thiết kế nội dung
và hình thức hoạt động thu hút đông đảo thanh niên đến với Đoàn; xây dựng bản lĩnh
chính trị vững vàng, chủ động đối phó với âm mưu "diễn biến hòa bình", sự lợi dụng
của tôn giáo, của các thế lực thù địch tranh giành ảnh hưởng với Đoàn và công tác tập
hợp thanh niên.
Để xây dựng tổ chức Đoàn phường vững mạnh về mọi mặt để Đoàn tích cực
tham gia xây dựng Đảng cần phải tập trung vào các biện pháp sau đây:
Một là, xây dựng đội ngũ cán bộ đoàn vững mạnh
Đoàn phường ở Đà Nẵng có hai cấp: cấp chi đoàn và Đoàn phường (cấp chi
đoàn được lập theo khối phố). Với một tổ chức mà đa số cán bộ đoàn là kiêm nhiệm và
luôn luôn biến động (67,55%), hầu hết ở độ tuổi từ 21-25 tuổi (49,5%), một bộ phận
trình độ học vấn thấp do điều kiện học tập, hoàn cảnh gia đình khó khăn chưa thể tiếp
tục nâng cao. Vì vậy, muốn có đội ngũ cán bộ đoàn phường vững mạnh phải làm tốt
những việc sau:
- Xây dựng tiêu chuẩn cán bộ đoàn phường
Các chức danh cần được xác định tiêu chuẩn bao gồm: Bí thư, phó bí thư, ủy
viên thường vụ, ủy viên ban chấp hành. Các chức danh đó phải đảm bảo các tiêu chuẩn:
+ Có phẩm chất chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt, có ý thức tổ
chức kỷ luật, sống trung thực, lành mạnh.
+ Có năng lực công tác và khả năng vận động thanh niên, có khả năng tiếp thu
và cụ thể hóa các chủ trương của Đảng, của Đoàn cấp trên và tổ chức thực hiện tốt các
công việc của Đoàn trong từng lĩnh vực công tác.
+ Nhiệt tình, có trách nhiệm đối với công tác thanh niên, cùng nghĩ, cùng làm
với thanh niên và được đoàn viên thanh niên tại địa phương tín nhiệm.
+ Có trình độ học vấn phổ thông trung học trở lên.
- Xác định đối tượng để lựa chọn cán bộ đoàn
Do đặc thù công tác đoàn ở phường, nên đối tượng cần tập trung phát hiện để
đưa vào nguồn dự bị là những cán bộ trưởng thành từ thực tiễn hoạt động thanh thiếu
niên. Việc xác định đối tượng phải chủ yếu là qua hoạt động thực tiễn ở cơ sở, qua các
hội thi, các cuộc liên hoan, tuyên dương điển hình của Đoàn - Hội...
- Đào tạo đội ngũ cán bộ Đoàn
Để khắc phục tình trạng huấn luyện dàn trải, thiếu tập trung thì việc đào tạo cán
bộ Đoàn nhất thiết phải theo chức danh đã xác định. Kiên trì nâng cao trình độ lý luận
chính trị và nghiệp vụ công tác thanh vận để họ từng bước đáp ứng nhu cầu công tác.
Đối với bí thư chi đoàn, phải phấn đấu trang bị sơ cấp chính trị và các nghiệp vụ hoạt
động Đoàn. Bí thư đoàn phường phải được trang bị trung cấp chính trị và trung cấp
thanh vận. Có như vậy đội ngũ này mới thật sự vững về kiến thức bên cạnh những kinh
nghiệm tích lũy từ phong trào. Ngoài ra, để tổ chức Đoàn làm tốt công tác xây dựng
Đảng thì phải bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ Đoàn những hiểu biết cơ bản về Đảng, về
công tác xây dựng Đảng. Đoàn phường phải chăm lo, chủ động xây dựng đội ngũ cán
bộ của mình, đồng thời phải tham mưu, yêu cầu Đảng bộ, chi bộ phường quan tâm chỉ
đạo, giúp đỡ Đoàn trong nhiệm vụ này.
- Đầu tư, thực hiện các chế độ chính sách đối với đội ngũ cán bộ Đoàn ở
phường
Được biết, thành đoàn Đà Nẵng đã có ý tưởng xây dựng đề án đào tạo 500 cán
bộ đoàn cơ sở đạt trình độ trung cấp chính trị, 200 cán bộ đoàn chuyên trách đạt trình độ
cao cấp, cử nhân chính trị. Đây là việc làm tốt, phù hợp với nguyện vọng của đội ngũ
cán bộ Đoàn. Vì vậy, cần phải tiếp tục thúc tiến thực hiện trên cơ sở tham mưu với
thành ủy về việc xây dựng quĩ đạo tạo và các chế độ chính sách cần thiết.
Hiện tại chính sách đãi ngộ về vật chất, tinh thần, tiền thưởng nhân dịp ngày lễ
tết, phụ cấp trách nhiệm chỉ là một phần rất nhỏ trong thu nhập của cán bộ Đoàn, nhưng
có ý nghĩa động viên cổ vũ rất to lớn. Vì vậy, các cấp lãnh đạo có thể tạo công ăn việc
làm chính đáng cho đội ngũ cán bộ đoàn có thu nhập thỏa đáng, để họ yên tâm công tác.
Hàng năm, bằng các nguồn lực có được, quận đoàn nên tổ chức cho cán bộ Đoàn, Hội
xuất sắc đi tham quan dã ngoại, biểu dương, khen thưởng kịp thời những cán bộ Đoàn,
Hội có nhiều thành tích đóng góp cho công tác Đoàn, Hội và phong trào thanh thiếu
niên ở cơ sở.
- Xây dựng các chi đoàn ở khối phố vững mạnh
Chi đoàn là nơi trực tiếp quản lý, giáo dục và rèn luyện công tác của đoàn viên;
là nơi phản ánh mọi tâm tư nguyện vọng, kinh nghiệm của đoàn viên; là nơi tổ chức
hoạt động, đồng thời là nơi đáp ứng và bảo vệ lợi ích của đoàn viên thanh niên. Hoạt
động của tổ chức Đoàn chủ yếu được tiến hành ở cấp chi đoàn. Nhưng trong thực tế
hiện nay cấp chi đoàn ở các phường, nhất là ở khu vực dân cư hoạt động yếu, không
sinh hoạt, không hoạt động được. Vì vậy, để các chi đoàn phường vững mạnh, trở lại vị
trí xứng đáng của nó cần phải có sự đầu tư, hợp tác từ nhiều phía.
Trước hết, Đoàn cấp trên phải nhận thức được rằng, hoạt động của chi đoàn là
hoạt động cơ bản, quan trọng nhất của hoạt động đoàn, tất cả phải tập trung cho chi
đoàn. Do đó, nhiệm vụ cơ bản của đoàn phường, quận đoàn là phục vụ và phối hợp cho
hoạt động của chi đoàn bằng cách vạch phương hướng, nội dung, chương trình, kế
hoạch cho chi đoàn; xây dựng đội ngũ, chỉ đạo, hỗ trợ, kiểm tra hoạt động của chi đoàn.
Đồng thời về phía các chi đoàn phải nghiêm túc thực hiện các qui định về hoạt động của
tổ chức đoàn cơ sở: đảm bảo sinh hoạt định kỳ hàng tháng với nội dung phong phú,
đóng đoàn phí theo đúng qui định, triển khai các hoạt động của chi đoàn, quản lý đoàn
viên, nắm bắt tư tưởng của đoàn viên để tự giải quyết hoặc phối hợp với đoàn cấp trên
giải quyết.
Thứ hai, ban chấp hành chi đoàn ở phường với nhiệm kỳ một năm là quá ngắn
(nhất là đối với các trường học). Thời gian đó không đủ để có phương án làm việc ăn ý
với nhau cũng như hoàn chỉnh nội dung, chương trình, kế hoạch hoạt động của chi đoàn.
Vì vậy, nên nghiên cứu về chế độ nhiệm kỳ của Ban chấp hành chi đoàn. Có thể là hai
năm, giữa nhiệm kỳ có tổ chức hội nghị chi đoàn để sơ kết, bổ sung nội dung, kế hoạch
công tác. Nếu thấy cần thiết có thể thay đổi ủy viên ban chấp hành.
Thứ ba, phải duy trì thường xuyên, cải tiến phương pháp, nội dung chế độ sinh
hoạt chi đoàn cho phù hợp và hấp dẫn với đối tượng thanh niên trên địa bàn phường.
Ngoài phổ biến, triển khai chương trình, kế hoạch của cấp trên đến toàn thể đoàn viên;
chi đoàn phải tạo điều kiện để mọi đoàn viên được phát biểu ý kiến, nguyện vọng của
mình, chú ý biểu dương người tốt, việc tốt, phê phán cái xấu một cách xác đáng, có
phương pháp; lồng ghép các chương trình văn nghệ, phổ biến kiến thức để giáo dục tư
tưởng, chính trị cho đoàn viên... làm thế nào để đoàn viên, thanh niên có hứng thú khi
tham gia sinh hoạt đoàn và muốn gắn bó với chi đoàn cho đến hết tuổi đoàn.
Tư tưởng về phát huy vai trò, tác dụng của Đoàn thanh niên cộng sản đối với
việc giáo dục, tập hợp, đoàn kết thế hệ trẻ đã được đề cập, nhấn mạnh trong nhiều phần
của luận văn. Tác giả luận văn muốn đề cập dưới góc độ vai trò của chi đoàn, đoàn
phường với CTPTĐV trong thanh niên trên địa bàn phường, có mấy điểm cần lưu ý sau
đây:
- Người vào Đảng đang ở tuổi thanh niên nhất thiết phải qua sự giới thiệu của
chi đoàn. Điều này được ghi trong Điều lệ Đảng. Đó là sự khẳng định vai trò, vị trí của
tổ chức Đoàn trong việc tham gia xây dựng Đảng. Bản thân tổ chức Đoàn và các đoàn
viên đã có vinh dự và trách nhiệm được Đảng ủy thác trong việc lựa chọn những đại
biểu ưu tú nhất của mình giới thiệu cho Đảng, để bổ sung lực lượng cho Đảng. Do đó,
đoàn phải luôn đề cao trách nhiệm chính trị của mình trước Đảng để làm tròn nhiệm vụ
cao quý đó một cách thường xuyên.
- Đoàn - thông qua Ban chấp hành chi đoàn, đoàn phường phải chủ động quan
hệ công tác với các cấp ủy để đặt vấn đề quan tâm giúp đỡ thanh niên vào Đảng. Phải có
chương trình, kế hoạch với những đề xuất, kiến nghị cụ thể thiết thực trong việc giáo
dục về Đảng cho đoàn viên thanh niên, lựa chọn cảm tình Đảng, đối tượng Đảng. Đặc
biệt khi xét kết nạp Đảng phải là kết quả của sự phối hợp các nỗ lực của Đoàn và của tổ
chức Đảng. Quan hệ công tác này ở phường nên xác định: Đoàn chủ động đề xuất, Đảng
tham khảo, thảo luận, bàn bạc với Đoàn trước khi quyết định theo trình tự, thủ tục.
- Việc tiếp tục giáo dục, rèn luyện, thử thách đảng viên mới để đảm bảo chất
lượng chuyển đảng viên từ dự bị lên chính thức không chỉ là trách nhiệm của chi bộ mà
còn là trách nhiệm của chi đoàn. Cần bảo đảm trong thực tế có một tiếng nói có tính
quyết định của tổ chức Đoàn khi xét duyệt thanh niên vào Đảng và chuyển thành đảng
viên chính thức. Chỉ có như vậy vai trò, vị thế, tác dụng thực tế của Đoàn ở phường mới
được khẳng định.
- Thông qua việc tổ chức có hiệu quả cuộc vận động "xây dựng tổ chức cơ sở
Đoàn vững mạnh", phát huy vai trò, chức năng của Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh mà tổ chức Đoàn phường triển khai 5 bài học lý luận chính trị cho đoàn viên
thanh niên, tuyên truyền về Đảng cho đoàn viên thanh niên, chú ý xây dựng động cơ,
nhu cầu phấn đấu vào Đảng, từ đó mà giới thiệu đoàn viên ưu tú cho Đảng.
Hai là, phát huy sức mạnh tổng hợp nêu cao trách nhiệm của các tổ chức
khác ở phường đối với công tác thanh niên
Tại Hội nghị BCHTW Đảng lần thứ 4 (khóa VII), đồng chí Đỗ Mười chỉ rõ:
"Công tác thanh niên không chỉ là việc của Đảng, của Đoàn mà còn là công việc của
Nhà nước, của mọi tổ chức, của xã hội và của từng gia đình..." [4, tr. 24]. Để làm tốt
công tác thanh niên trên địa bàn phường phải có sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các
tổ chức thanh niên với các tổ chức khác như: Chính quyền, nhà trường, Mặt trận Tổ
quốc, Hội cựu chiến binh, Hội phụ nữ và các ngành có liên quan. Sự phối kết hợp này
như thế nào cho có hiệu quả là câu hỏi không đơn giản, vì còn tùy thuộc vào kinh
nghiệm đã tích lũy được và thực tế công tác thanh niên, CTPTĐV trong thanh niên của
từng Đảng bộ phường ở Đà Nẵng. Vì vậy, tác giả luận văn chỉ có thể đề cập tới những
vấn đề chung có liên quan đến sự phối, kết hợp của các tổ chức trên.
- Cần tiếp tục quán triệt sâu sắc trong nhận thức về ý nghĩa, vị trí của CTPTĐV
trong thanh niên của các Đảng bộ phường. Sự chuyển biến này phải từ các cấp ủy Đảng,
chính quyền đến các tổ chức, đoàn thể có trên địa bàn phường. Đây là chủ trương lớn,
có tầm chiến lược về chính trị đối với sự phát triển chất lượng con người của thế hệ trẻ,
đối với sự tăng cường sức mạnh cho các Đảng bộ phường và tạo cơ sở xã hội bảo đảm
cho sự vững mạnh của hệ thống chính trị cơ sở.
- Chăm lo sự nghiệp giáo dục đào tạo theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ
2 Ban chấp hành trung ương Đảng (khóa VIII) và Luật giáo dục để tạo nguồn nhân lực trẻ
cho thành phố. Nâng cao chất lượng và mở rộng qui mô giáo dục - đào tạo; tăng cường
đào tạo công nhân kỹ thuật, hướng nghiệp dạy nghề, phổ cập nghề cho thanh niên. Phải
qui hoạch, bồi dưỡng, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ đoàn, tạo nguồn cán bộ để
bổ sung cho Đảng và chính quyền.
- Tập trung giải quyết những vấn đề cấp bách đối với thanh niên trên địa bàn
phường như giải quyết việc làm, dạy nghề, vay vốn sản xuất, thực hiện các chương trình
dự án phát triển kinh tế xã hội. Đảng ủy và ủy ban nhân dân các cấp cần nghiên cứu và
mạnh dạn giao cho Đoàn các dự án phù hợp để tạo việc làm cho lao động trẻ. Tạo điều
kiện hỗ trợ về địa điểm, vốn, cơ sở vật chất cho các trung tâm dịch vụ, giới thiệu việc
làm và dạy nghề theo hướng: Dịch vụ cung ứng lao động, tư vấn tuyên truyền hướng
nghiệp, dạy nghề và tổ chức dịch vụ. Mở rộng thêm các trung tâm dạy nghề, các trường
hướng nghiệp vừa học vừa làm ở các quận. Khuyến khích và tạo mọi điều kiện để thanh
niên làm giàu thông qua việc vay vốn xóa đói giảm nghèo, vốn giải quyết việc làm và
các nguồn vốn vay khác.
Giải quyết việc làm cho thanh niên trên địa bàn phường là vấn đề cần kíp đặt ra
đối với Đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn thể. Để thanh niên có việc làm, có thu
nhập thỏa đáng là cách quản lý tốt nhất và tránh được tình trạng "nhàn cư vi bất thiện"
của một số thanh niên hiện nay.
- Vận động đoàn viên thanh niên tham gia tốt chương trình thành phố "5
không": không có hộ đói, không có người mù chữ, không có người lang thang xin ăn,
không có người nghiện ma túy, không có giết người, cướp của. Tạo điều kiện để mỗi
một chi đoàn, chi hội đăng ký và đảm nhận giúp đỡ một thanh niên nghèo thoát nghèo;
vận động đoàn viên thanh niên từ độ tuổi 15-35 phải hoàn thành trung học phổ thông
vào năm 2007; phát động rộng rãi trong đoàn viên thanh niên thực hiện "không thử,
không giữ, không sử dụng ma túy"; phối hợp với công an quận, phường triển khai hòm
thư tố giác tội phạm trong các trường học và khu dân cư, thường xuyên tuyên truyền
luật phòng chống ma túy. Phối hợp với các phòng tư pháp quận tiếp tục hình thành câu
lạc bộ tuyên truyền pháp luật, học tập Bộ luật hình sự, Luật hôn nhân - gia đình, Luật
lao động... nhằm giúp đoàn viên thanh niên chấp hành đúng pháp luật. Cùng với các tổ
chức, các ngành chức năng phát động và thực hiện nếp sống văn minh đô thị, vệ sinh
môi trường, an toàn giao thông, phòng chống tội phạm, bảo vệ, tôn tạo và giữ gìn văn
hóa vật thể và phi vật thể trên địa bàn thành phố.
- Tăng cường trách nhiệm pháp lý của gia đình trong việc chăm sóc, giáo dục
thanh niên, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, Hội phụ nữ và các đoàn thể ở phường.
Khơi dậy sự quan tâm của cộng đồng dân cư, các bậc lão thành cách mạng, các cựu chiến
binh... có nhiệt tâm đối với tuổi trẻ. Tăng cường thông tin tuyên truyền trên các phương tiện
thông tin đại chúng để các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ngành, đoàn thể, và các lực lượng
xã hội rõ hơn về phong trào thanh niên, công tác thanh niên để có hướng phối hợp giúp đỡ.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng công tác thanh niên một khi được mỗi ngành, mỗi
cấp, mỗi tổ chức chính trị, xã hội quan tâm, coi là công việc của mình thì chắc chắn sẽ
đem lại kết quả tốt. Làm tốt công tác thanh niên là vấn đề mấu chốt để đẩy mạnh
CTPTĐV trong thanh niên không chỉ ở các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng mà còn có ý
nghĩa đối với toàn Đảng.
3.2.6. Tăng cường sự theo dõi, giúp đỡ của thành ủy, quận ủy và các cơ
quan, đơn vị trên địa bàn phường đối với công tác phát triển đảng viên trong
thanh niên
Phát triển Đảng trong thanh niên ở các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng là trách
nhiệm chính trị - xã hội của nhiều lực lượng, tổ chức, cơ quan, đoàn thể có liên quan
đến công tác đào tạo, giáo dục, sử dụng thanh niên. nói rộng ra, là trách nhiệm của toàn
xã hội, của tất cả những ai quan tâm tới sự phát triển và triển vọng của lớp trẻ.
Trong phạm vi một chi bộ khối phố, một Đảng bộ phường nếu độc lập tiến hành
công tác này sẽ gặp phải những khó khăn nhất định, kết quả thu được sẽ không cao.
Như các phần trên của luận văn đã trình bày (thực trạng, nguyên nhân), ở đây muốn
nhấn mạnh thực tế, CTPTĐV trong thanh niên ở các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng trong
thời gian qua cho thấy xuất hiện hai nguy cơ đáng báo động. Một là, không ít cấp ủy
chưa coi trọng đúng mức công tác tuyên truyền giáo dục quần chúng, nhất là quần
chúng thanh niên về Đảng; chưa gắn việc bồi dưỡng lý tưởng cách mạng với nhiệm vụ
rèn luyện, thử thách trong hoạt động thực tiễn, đã kết nạp vào Đảng một số người không
có động cơ đúng đắn. Hai là, một số cấp ủy Đảng lo chạy theo chỉ tiêu, hoàn thành kế
hoạch để đạt danh hiệu tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh nên xem nhẹ chất lượng,
nhiều trường hợp kết nạp không bảo đảm tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức, lịch sử
chính trị của người vào Đảng. Hậu quả là một số đảng viên dự bị đã không đủ điều kiện
để trở thành đảng viên chính thức.
Hai nguy cơ trên xuất hiện một phần do năng lực lãnh đạo, tổ chức thực tiễn của
nhiều cấp ủy dưới tầm so với nhiệm vụ mới đặt ra. Còn lại là thiếu sự theo dõi giúp đỡ
của các cấp ủy Đảng cấp trên. Vì vậy, để CTPTĐV trong thanh niên ở các Đảng bộ phường
ở Đà Nẵng đi đúng hướng đúng phương châm, đảm bảo cả về số lượng và chất lượng thì
nhất thiết phải có sự lãnh đạo, theo dõi, giúp đỡ của Thành ủy và Quận ủy. Theo tác giả
luận văn, sự theo dõi, giúp đỡ đó phải thể hiện ở những việc làm cụ thể như sau:
- Tập trung hơn nữa thời gian và sức lực vào công việc tổng kết thực tiễn công
tác phát triển Đảng nói chung và CTPTĐVtrong thanh niên ở các Đảng bộ phường nói
riêng. Bởi vì, ở đây đang gặp nhiều khó khăn cả trên phương diện lý luận và thực tiễn.
- Theo dõi, giúp đỡ, cải tiến việc ra nghị quyết của các chi bộ, Đảng bộ phường,
coi trọng việc lãnh đạo tổ chức thực hiện. Phải lãnh đạo hướng dẫn việc cụ thể hóa nghị
quyết của Đảng ủy, Thành ủy thành các chính sách, kế hoạch, qui chế, qui định của
Đảng bộ, chi bộ phường.
- Cải tiến việc triển khai học tập, quán triệt nghị quyết, bồi dưỡng đảng viên mới
và đối tượng Đảng sao cho thiết thực, hiệu quả, không tốn kém.
- Thực hiện nghiêm túc các chế độ kiểm tra để bảo đảm thực hiện tốt các nghị
quyết của Đảng, kịp thời phát hiện biểu dương những nhân tố mới, những việc làm tốt.
Đồng thời, uốn nắn những thiếu sót, lệch lạc trong CTPTĐV. Thời gian hợp lý nhất là
cứ 6 tháng một lần Thành ủy, Quận ủy tiến hành kiểm tra lại CTPTĐV cấp dưới, kịp
thời phát hiện những trường hợp phát triển không đúng đưa ra khỏi Đảng.
- Thành ủy, Quận ủy phải dành nhiều thời gian đi nghiên cứu khảo sát thực tế,
chú trọng sơ kết, tổng kết thực tiễn, hướng mạnh về cơ sở, chỉ đạo tại chỗ.
- Hiện đại hóa các phương tiện, điều kiện và công cụ phục vụ sự lãnh đạo của
Đảng bộ, chi bộ ở phường.
- Bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác Đảng hiện có đi đôi với bổ sung, tăng
cường cán bộ lãnh đạo cấp trên và các chuyên gia công tác Đảng xuống các đơn vị cơ
sở phường.
Tóm lại, phát triển kết quả nghiên cứu chương 1 và chương 2, chương 3 đã đưa
ra một hệ thống giải pháp nhằm tác động mạnh mẽ vào ba yếu tố vốn gắn bó chặt chẽ
với nhau trong CTPTĐV ở các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng đó là: Các đảng bộ, chi bộ
phường - chủ thể của CTPTĐV; thanh niên và phong trào thanh niên trên địa bàn dân cư
phường - đối tượng của CTPTĐV và các lực lượng khác tham gia có hiệu quả vào công
tác này. Sự tác động đồng bộ của hệ thống giải pháp trên sẽ tạo ra được kết quả mong
muốn là ngày càng có nhiều thanh niên được kết nạp vào Đảng, kết quả đó sẽ đáp ứng
yêu cầu của Đảng và thanh niên trên địa bàn phường ở Đà Nẵng.
Kết luận
Trong suốt quá trình phát triển của lịch sử nhân loại, vấn đề thanh niên đã được
tất cả các quốc gia, các thời đại coi là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt. Dưới sự lãnh
đạo của ĐCSVN, vị trí và vai trò to lớn của thanh niên Việt Nam đã được khẳng định và
phát huy trong đấu tranh giành độc lập, xây dựng CNXH cũng như trong công cuộc đổi
mới, CNH, HĐH đất nước hiện nay.
Là một bộ phận đặc thù, thanh niên trên địa bàn dân cư đô thị nói chung và ở
Đà Nẵng nói riêng là nguồn dự trữ đáng kể để bổ sung và làm tăng nhanh lực lượng lao
động của thành phố. Với sự nghiệp CNH, HĐH, thanh niên trên địa bàn dân cư là một
lực lượng nòng cốt trong việc tiếp thu khoa học, kỹ thuật, công nghệ mới áp dụng trực
tiếp vào sản xuất kinh doanh, buôn bán dịch vụ; là lớp người tiếp tục thực hiện nhiệm
vụ trọng đại và ước mơ cao đẹp của các thế hệ trước chưa có điều kiện hoàn thành, hoặc
chưa làm được. Mặc dầu còn nhiều khó khăn và hạn chế nhưng chúng ta có thể tin
tưởng vào thanh niên trên địa bàn dân cư trong sự nghiệp đổi mới.
Đẩy mạnh CTPTĐV trong thanh niên trên địa bàn dân cư của các Đảng bộ
phường ở Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Đó là sự tiếp
nối các thế hệ của Đảng, làm tăng thêm sinh lực, trí tuệ, sức trẻ cho Đảng, góp phần giải
quyết hai vấn đề bức xúc trong công tác xây dựng ĐNĐV của Đảng: trẻ hóa và hạ thấp
cơ cấu độ tuổi ĐNĐV ở các Đảng bộ phường, đáp ứng việc "xây dựng thành phố Đà
Nẵng giàu đẹp, văn minh, trở thành một trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học - công
nghệ của miền Trung và của cả nước, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp CNH,HĐH
đất nước theo định hướng XHCN,vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh" [3, tr. 8].
Bên cạnh những việc làm được trong CTPTĐV của các Đảng bộ phường ở Đà
Nẵng, vẫn còn những hạn chế cần khắc phục không chỉ đối với các cấp ủy Đảng, Đoàn
thanh niên mà còn cần có sự phối hợp đồng bộ, tích cực giữa các lực lượng của hệ thống
chính trị có trên địa bàn phường, cũng như sự quan tâm chỉ đạo, theo dõi của các cấp ủy
cấp trên. Đặc biệt là phát huy vai trò của Đoàn thanh niên và Hội liên hiệp thanh niên ở
phường trong việc tập hợp, rèn luyện, định hướng cho mỗi đoàn viên thanh niên trong
việc tìm kiếm việc làm, nâng cao tay nghề và phấn đấu trở thành đảng viên cộng sản.
Để làm tốt CTPTĐV trong thanh niên trên địa bàn dân cư của các Đảng bộ
phường ở Đà Nẵng cần phải tiến hành kịp thời, chặt chẽ các giải pháp: giải pháp nhận
thức, giải pháp giáo dục và giải pháp tổ chức thực hiện...
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Ban Dân vận Trung ương (2001), Đảng cộng sản Việt Nam với công tác vận động
thanh niên trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Ban Nghiên cứu Lịch sự Đảng Trung ương (1977), Văn kiện Đảng 1930-1945, Hà
Nội.
3. Đảng bộ thành phố Đà Nẵng (2001), Văn kiện Đại hội lần thứ XVIII Đảng bộ thành
phố Đà Nẵng, Lưu hành nội bộ.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1992), Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành
Trung ương khóa VII, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành
Trung ương khóa VII, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng Cộng sản Việt Nam toàn tập, tập
2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành
Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Ban chấp hành thành phố Đà Nẵng(2002),
Báo cáo của Ban chấp hành Thành đoàn Đà Nẵng khóa XIV tại Đại hội Đoàn
thành phố lần thứ XV.
10. Lê Văn Lý (chủ biên) (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
11. V.I.Lênin (1979), Toàn tập, tập 7, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
12. V.I.Lênin (1982), Toàn tập, tập 14, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
13. V.I.Lênin (1979), Toàn tập, tập 16, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
14. V.I.Lênin (1979), Toàn tập, tập 17, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
15. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
16. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
17. C.Mác và F.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 16, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Hồ Chí Minh (1998), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Đỗ Mười (1995), Lý tưởng thanh niên Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
23. Tô Huy Rứa, Trần Khắc Việt (đồng chủ biên) (2003), Làm người cộng sản trong
giai đoạn hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Mạch Quang Thắng (1996), "Làm trong sạch và nâng cao chất lượng đảng viên",
Thông tin khoa học chính trị, (1), tr. 37.
25. Nguyễn Hữu Thọ (1997), "Thanh niên với việc rèn luyện lý tưởng cách mạng", Báo
Nhân dân, (15436).
26. Nguyễn Thị Mỹ Trang (2001), Xây dựng đội ngũ đảng viên ở các trường đại học,
cao đẳng trên địa bàn Thành phố Hà Nội trong thời kỳ mới, Luận án tiến sĩ
xây dựng Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.