intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP TẠI NGÂN HÀNG PETROLIMEX CHI NHÁNH GIA LÂM – HÀ NỘI

Chia sẻ: Ly Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:56

138
lượt xem
27
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu là xu thế tất yếu khách quan,không thể đảo ngược và ngày càng gia tăng,nhất là dịch vụ,trong đó đặc biệt là dịch vụ ngân hàng phục vụ đắc lực cho quá trình phát triển mạnh mẽ đầu tư và thương mại trên thế giới. Là một nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế chung của thời đại.Do hệ thống ngân hàng quốc gia còn non yếu chưa phát...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP TẠI NGÂN HÀNG PETROLIMEX CHI NHÁNH GIA LÂM – HÀ NỘI

  1. LUẬN VĂN: PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP TẠI NGÂN HÀNG PETROLIMEX CHI NHÁNH GIA LÂM – HÀ NỘI
  2. LỜI MỞ ĐẦU Hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu là xu thế tất yếu khách quan,không thể đảo ngược và ngày càng gia tăng,nhất là dịch vụ,trong đó đặc biệt là dịch vụ ngân hàng phục vụ đắc lực cho quá trình phát triển mạnh mẽ đầu tư và thương mại trên thế giới. Là một nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế chung của thời đại.Do hệ thống ngân hàng quốc gia còn non yếu chưa phát triển,Việt Nam cần đưa ra những giải pháp thích hợp về mở cửa,hội nhập quốc tế trong hoạt động ngân hàng. Trong quá trình thực tập tại ngân hàng Petrolimex em được tìm hiểu về các dịch vụ ngân hàng và một số giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng.Đề tài của em là :“PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP TẠI NGÂN HÀNG PETROLIMEX CHI NHÁNH GIA LÂM – HÀ NỘI”. Đề tài của em gồm 3 phần: +Chương I:Lý luận về phát triển dịch vụ ngân hang của ngân hang thương mại trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế +Chương II:Thực trạng phát triển dịch vụ ngân hang Petrolimex chi nhánh Gia Lâm trong những năm gần đây +Chương III:Một số giải pháp phát triển dịch vụ ngân hang tại ngân hang Petrolimex chi nhánh Gia Lâm trong điều kiện hội nhập
  3. CHƯƠNG I:LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 1.1.Tổng quan về ngân hàng thương mại và dịch vụ ngân hàng 1.1.1. Một số vấn đề về ngân hàng thương mại 1.1.1.1.Khái niệm và sự ra đời ngân hàng thương mại a. Khái niệm Có nhiều khái niệm khác nhau về ngân hàng thương mại xét trên các giác độ tiếp cận khác nhau.Sau đây là một số khái niệm dựa trên các giác độ tiếp cận. Khi tiếp cận ngân hàng trên giác độ những loại hình dịch vụ mà nó cung cấp thì ngân hàng được hiểu là:các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất đặc biệt là tín dụng,tiết kiệm,dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Theo luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi:Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dùng thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cung cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. b. Sự ra đời ngân hàng thương mại: Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hoá.Khởi đầu là nghiệp vụ đổi tiền và đúc tiền của các thợ vàng.Qúa trình lưu thông đồng tiền riêng của mỗi quốc gia,vùng lãnh thổ kết hợp với mua bán,trao đổi giữa các vùng nảy sinh nhu cầu đúc và đổi tiền tại các cửa khẩu hoặc trung tâm thương mại.Người làm nghề đúc ,đổi tiền,thực hiện kinh doanh tiền tệ bằng cách đổi ngoại tệ lấy bản tệ và ngược lại.Lợi nhuận thu được từ chênh lệch giá mua,bán. Người làm nghề đổi tiền thường là người giàu,trước đó có thể đã làm nghề cho vay nặng lãi.Với yêu cầu đảm bảo an toàn cho tiền cho vay nên họ thường có két tốt để cất giữ.Do yêu cầu cất trữ tiền của các lãnh chúa,nhà buôn…nhiều người làm nghề đổi tiền thực hiện luôn cả nghiệp vụ cất trữ hộ.Thực hiện cất trữ hộ làm tăng thu nhập,tăng
  4. khả năng đa dạng các loại tiền,tăng quy mô tài sản của người kinh doanh tiền tệ.Việc cất trữ hộ nhiều người khác là điều kiện để thực hiện thanh toán hộ và thanh toán không dùng tiền mặt.Như thế không chỉ tiết kiệm được thời gian mà còn tiết kiệm chi phí cho những người muốn giao dịch.Với những ưu điểm của mình thanh toán không dùng tiền mặt đã thu hút các thương gia gửi tiền nhiều hơn. Trong điều kiện lưu thông tiền kim loại,các chủ cửa hàng vàng bạc vừa đổi tiền,thanh toán hộ,vừa đúc tiền.Những ngân hàng loại này được gọi là ngân hàng của những thợ vàng. Nghề ngân hàng cũng được bắt đầu từ người cho vay nặng lãi.Một số người cho vay nặng lãi thực hiện cả nghiệp vụ đổi tiền,giữ hộ và thanh toán hộ. Những người kinh doanh tiền tệ đầu tiên đã dùng vốn tự có để cho vay,nhưng với điều đó không đã nhanh chóng được thay đổi.Từ hoạt động thực tiễn,các chủ ngân hàng đã nhận thấy thường xuyên có người gửi tiền vào và có người lấy tiền ra,song tất cả người gửi tiền không rút tiền cùng một lúc nên đã tạo ra số dư thường xuyên ở ngân hàng.Do tính chất vô danh của tiền,chủ ngân hàng có thể sử dụng tạm thời một phần tiền gửi của khách để cho vay.Hoạt động cho vay tạo nên lợi nhuận lớn cho ngân hàng,do vậy các ngân hàng đều tìm cách mở rộng thu hút tiền gửi để cho vay bằng cách trả lãi cho người gửi tiền.Bằng cách cung cấp các tiện ích khác nhau mà ngân hàng huy động được ngày càng nhiều tiền gửi,là điều kiện để mở rộng cho vay và hạ lãi suất cho vay. Như vậy hình thức đầu tiên của ngân hàng là ngân hàng của những thợ vàng hoặc ngân hàng của những kẻ cho vay nặng lãi,thực hiện cho vay với các cá nhân,chủ yếu là những người giàu:quan lại,địa chủ…nhằm mục đích phục vụ tiêu dùng.Nhiều chủ ngân hàng lớn còn mở rộng cho vay đối với vua chúa,nhằm tài trợ một phần nhu cầu chi tiêu cho chiến tranh.Hình thức cho vay chủ yếu là thấu chi tức là cho phép khách hàng chi nhiều hơn số tiền gửi tại ngân hàng,một hình thức cho vay có nhiều rủi ro.Do lợi nhuận từ cho vay rất cao,nhiều chủ ngân hàng đã lạm dụng ưu thế của chứng chỉ tiền gửi khống để cho vay.Thực trạng này đã đẩy nhiều ngân hàng đến chỗ mất khả năng thanh toán và phá sản.
  5. Sự sụp đổ của các ngân hàng gây khó khăn cho hoạt động thanh toán,ảnh hưởng xấu tới hoạt động buôn bán.Hơn nữa,lãi suất cao nên những nhà buôn không thể sử dụng nguồn vay này.Trước tình hình đó nhiều nhà buôn tự thành lập ngân hàng,gọi là ngân hàng thương mại.Như vậy ngân hàng thương mại được hình thành xuất phát từ sự vận động tư bản thương nghiệp,và gắn liền với quá trình luân chuyển của tư bản thương nghiệp.Ngân hàng thương mại cũng thực hiện các nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng như huy động tiền gửi,thanh toán,cất giữ hộ và cho vay.Tuy nhiên,điểm khác biệt giữa ngân hàng thương mại và ngân hàng thợ vàng trước đó là ngân hàng thương mại chủ yếu cho các nhà buôn vay dưới hình thức chiết khấu thương phiếu.Đây là các khoản cho vay ngắn hạn:dựa trên quá trình luân chuyển của hàng hoá với lãi suất phải thấp hơn lợi nhuận được tạo ra do sử dụng tiền vay.Để đảm bảo an toàn,ngân hàng thương mại ban đầu không cho vay đối với người tiêu dùng,không cho vay trung và dài hạn,không cho vay đối với nhà nước. Sự phá sản của nhiều ngân hàng thương mại đã gây tổn thất lớn nhất cho người gửi tiền là nguyên nhân dẫn đến hình thành ngân hàng tiền gửi.Ngân hàng này không cho vay,chỉ thực hiện giữ hộ,thanh toán hộ để lấy phí.Đồng thời tại mỗi nước,trong những điều kiện lịch sử cụ thể đã hình thành nên nhiều loại hình ngân hàng khác như ngân hàng tiết kiệm,ngân hàng phát triển,ngân hàng đầu tư,ngân hàng trung ương…tạo nên hệ thống ngân hàng.Trừ ngân hàng trung ương có chức năng xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia,các ngân hàng còn lại dù có một số nghiệp vụ khác nhau song đều chung đặc điểm là thự hiện kinh doanh tiền tệ. Cùng với sự phát triển kinh tế và công nghệ,hoạt động ngân hàng đã có những bước tiến rất nhanh.Trước hết đó là sự đa dạng các loại hình ngân hàng và các hoạt động ngân hàng.Từ các ngân hàng tư nhân,quá trình tích tụ và tập trung vốn trong ngân hàng đã dẫn đến hình thành ngân hàng cổ phần.Qúa trình gia tăng vai trò quản lí nhà nước đối với hoạt động ngân hàng đã tạo ra các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước,các ngân hàng liên doanh,các tập đoàn ngân hàng phát triển mạnh trong những năm cuối thế kỷ 20.Nhiều nghiệp vụ truyền thống vẫn được giữ vững bên cạnh các nghiệp vụ mới đang ngày càng phát triển.Ngân hàng thương mại từ chỗ chỉ cho vay ngắn hạn là chủ
  6. yếu đã mở rộng cho vay trung và dài hạn,cho vay để đầu tư vào bất động sản.Nhiều ngân hàng mở rộng cho vay tiêu dùng,kinh doanh chứng khoán,cho thuê…Các hình thức huy động cũng nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu khách hàng.Bên cạnh các hình thức huy động tiền gửi,các ngân hàng đã mở rộng các hình thức vay như vay ngân hàng trung ương,vay các ngân hàng khác.Công nghệ ngân hàng đang góp phần làm thay đổi các hoạt động cơ bản của ngân hàng.Thanh toán điện tử đang thay thế dần thanh toán thủ công,đẩy nhanh tốc độ,tính thuận tiện,an toàn trong thanh toán.Tiền giấy đang dần được thay thế và dịch vụ ngân hàng 24giờ,dịch vụ ngân hàng tại nhà đang tạo ra các tiện ích ngày càng lớn cho dân chúng. Qúa trình phát triển của các ngân hàng không những làm gia tăng số lượng các ngân hàng mà còn làm tăng quy mô của mỗi ngân hàng.Tích tụ và tập trung vốn đã tạo ra các công ty ngân hàng cực lớn với số vốn tự có hàng chục tỷ đô là mỹ,tổng tài sản hàng trăm tỷ đô la mỹ,đủ sức tài trợ cho những ngành công nghiệp và dịch vụ mũi nhọn toàn cầu. Qúa trình phát triển của ngân hàng đang tạo ra mối quan hệ rang buộc ngày càng chặt chẽ,sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng lớn giữa các ngân hàng.Các hoạt động ngân hàng xuyên quốc gia và đa quốc gia đã và đang thúc đẩy hình thành các hiệp hội,các tổ chức liên kết các ngân hàng nhằm tạo ra các chính sách chung,hoặc tương thích để kiểm soát chung,để kết nối và tạo ra sự thống nhất trong điều hành và vận hành hệ thống ngân hàng trong mỗi quốc gia,khu vực và quốc tế. Lịch sử phát triển của ngân hàng cũng đã chứng kiến nhiều khủng hoảng và hoảng loạn ngân hàng trong mỗi quốc gia,khu vực và thế giới,gây tổn thất lớn cho nền kinh tế và mất ổn định chính trị.Có thể nói,các vụ sụp đổ ngân hàng cũng là một khâu tất yếu trong tiến trình phát triển của ngân hàng.Các nhà quản lý đã và đang không ngừng cải tiến chính sách quản lý để hạn chế sự sụp đổ và mở đường cho sự phát triển của khu vực ngân hàng. 1.1.1.2.Các hoạt động cơ bản Hoạt động huy động vốn:
  7. Thứ nhất: Tiền gửi của ngân hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân hàng thương mại.Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động,nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách,bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp,các tổ chức của dân cư. +Tiền gửi thanh toán:đây là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gưỉ vào ngân hàng để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ.Trong phạm vi cho phép,các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng thực hiện.Nhìn chung lãi của khoản tiền này rất thấp. +Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp,các tổ chức xã hội Nhiều khoản thu bằng tiền của các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một thời gian xác định.Người gửi không được sử dụng các hình thức thanh toán đối với tiền gửi thanh toán để áp dụng đối với loại tiền gửi này.Nếu cần chi tiêu,người gửi phải đến ngân hàng rút tiền ra.Tuy không thuận lợi cho tiêu dùng bằng hình thức tiền gửi thanh toán,song tiền gửi có kì hạn được hưởng lãi suất cao hơn tuỳ theo độ dài kì hạn. +Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng.Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với ngân hàng,họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện các mục tiêu bảo toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm,đặc biệt nhu cầu bảo toàn.Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm,các ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt ở nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động,đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn. +Tiền gửi của các ngân hàng khác:nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác ngân hàng thương mại này có thể gửi tiền tại ngân hàng khác,Tuy nhiên quy mô nguồn này thường không lớn. Thứ hai: Nguồn đi vay: +Vay ngân hàng nhà nước:là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của ngân hàng thương mại.Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ,ngân hàng thương mại thường vay ngân hàng nhà nước.Hình thức cho vay chủ yếu của ngân hàng nhà
  8. nước là tái chiết khấu(hoặc tái cấp vốn).Các thương phiếu đã được ngân hàng thương mại chiết khấu(tái chiết khấu) trở thành tài sản của họ.Khi cần tiền,ngân hàng mang những thương phiếu này lên tái chiết khấu tại ngân hàng nhà nước. +Vay các tổ chức tín dụng:đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng.Vay mượn từ các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách và trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ ngân hàng nhà nước. +Vay trên thị trường vốn:ngân hàng vay mượn bằng cách phát hành các giấy nợ trên thị trường vốn.Rất nhiều ngân hàng thương mại thiếu nguồn tiền gửi trung và dài hạn dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu choa vay trung và dài hạn.Do vậy,các khoản vay trung và dài hạn nhằm bổ sung cho các nguồn tiền gửi,đáp ứng nhu cầu cho vay đầu tư trung và dài hạn Thứ ba: Các nguồn khác: +Nguồn uỷ thác +Nguồn trong thanh toán +Nguồn khác Hoạt động sử dụng vốn: Thứ nhất: Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn(hoặc một giấy nợ).Về mặt pháp lý thì ngân hàng không phải đã cho vay đối với chủ thương phiếu.Đây chỉ là hình thức trao đổi trái quyền.Tuy nhiên đối với ngân hàng,việc bỏ tiền túi ra hiện tại để thu về một khoản lớn hơn trong tương lai với lãi suất xác định trước được coi như là hoạt động tín dụng.Ngân hàng tuy ứng trước cho người bán,song thực chất là thay thế người mua trả tiền trước cho người bán. Thứ hai: Cho vay:là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
  9. Thứ ba: Bảo lãnh:là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng của mình.Mặc dù không phải xuất tiền ra,song ngân hàng đã cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi. Thứ tư: Cho thuê:là việc ngân hàng bỏ tiền ra mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những thoả thuận nhất định.Sau thời gian nhất định,khách hàng phải trả cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng. 1.2.1. Dịch vụ ngân hàng 1.2.1.1.Khái niệm dịch vụ ngân hàng Dịch vụ ngân hàng được hiểu là các nghiệp vụ ngân hàng về vốn,tiền tệ,thanh toán…mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng đáp ứng nhu cầu kinh doanh,sinh lời,sinh hoạt cuộc sống,cất trữ tài sản…và ngân hàng thu chênh lệch lãi suất,tỷ giá hay thu phí thông qua dịch vụ ấy. 1.2.1.2.Các loại dịch vụ của ngân hàng thương mại Ngày nay các ngân hàng chủ yếu hoạt động dưới hình thức ngân hàng đa năng đó là ngân hàng cung cấp mọi dịch vụ cho mọi đối tượng.Các ngân hàng này thường là ngân hàng lớn và với việc đa dạng này sẽ giúp ngân hàng tăng thu nhập,tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng và hạn chế,phân tán rủi ro cho ngân hàng.Trong khi mảng kinh doanh tiền tệ mang lại thu nhập cho ngân hàng dưới hình thức các khoản tiền lãi thì mảng dịch vụ lại mang đến thu nhập cho ngân hàng dưới dạng các khoản phí.Ngày nay tăng thu nhập cho ngân hàng dưới dạng phí càng chiếm tỷ trọng lớn do xã hội càng phát triển thì nhu cầu của con người về các loại dịch vụ cũng càng cao. Một số dịch vụ chủ yếu của ngân hàng thương mại như sau: 1.2.1.2.1..Dịch vụ thu chi hộ và chuyển tiền Trong điều kiện xã hội ngày càng phát triển,với yêu cầu xử lý công việc nhanh gọn,tiết kiệm thời gian thì ở các nước phát triển hầu hết mọi tổ chức và cá nhân đều có tài khoản ở các ngân hàng không chỉ gửi tiền mà còn thuận lợi cho việc thu chi,chuyển tiền.Quan hệ giữa các tổ chức với ngân hàng ngày càng được cải thiện,tăng cường và gắn bó.Ngân hàng dần trở thành thủ quỹ tin cậy của toàn dân.Cùng với sự tiến bộ của
  10. khoa học kĩ thuật và uy tín của ngân hàng các dịch vụ ngày càng thay đổi về chất và tạo cho ngân hàng những khoản thu không nhỏ. a) Dịch vụ chi trả hộ Cơ sở hình thành dịch vụ: +Từ phía khách hàng: Cùng với sự phát triển của nền kinh tế,xã hội thì nhu cầu của các đơn vị kinh tế là điều chuyển lượng tiền lớn nhằm phục vụ cho việc thanh toán…Để làm được điều này doanh nghiệp phải bỏ ra rất nhiều chi phí như bảo quản,kiểm tra,vận chuyển…Với phương châm tiết kiệm thời gian,chi phí cho các tổ chức có nhu cầu chuyển tiền các ngân hàng mở dịch vụ chi trả hộ.Khi các doanh nghiệp thực hiện thanh toán qua ngân hàng thì những chi phí giảm đi rất nhiều,doanh nghiệp còn giảm được chi phí quản lý quỹ tiền mặt hình thành trong quá trình kinh doanh.Trong môi trường trao đổi ngày nay khi các doanh nghiệp đều mở tài khoản tại ngân hàng thì việc sử dụng dịch vụ thanh toán hộ góp phần đẩy nhanh tốc độ thanh toán,tốc độ chu chuyển vốn và đẩy nhanh quá trình tái sản xuất đồng thời tránh được những phiền toái trong thanh toán cũng như rủi ro chiếm dụng vốn,nợ dây dưa,nhầm lẫn khi đếm tiền.Thanh toán qua ngân hàng mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt,tức là người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách hàng(còn được gọi là séc),khách hàng mang giấy đến ngân hàng sẽ nhận được tiền.Với tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt(an toàn,nhanh chóng,chính xác,tiết kiệm chi phí)đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho các doanh nhân.Khi ngân hàng mở chi nhánh,thanh toán qua ngân hàng được mở rộng phạm vi,càng tạo nhiều tiện ích cho các doanh nhân.Điều này cũng khuyến khích các doanh nhân gửi tiền vào ngân hàng để nhờ ngân hàng thanh toán hộ.Như vậy một dịch vụ mới,quan trọng nhất được phát triển đó là tài khoản tiền gửi giao dịch(demand deposit),cho phép người gửi tiền viết séc thanh toán cho việc mua hàng hoá và dịch vụ.Việc đưa ra loại tài khoản tiền gửi mới này được xem là một trong những bước đi quan trọng nhất trong công nghiệp ngân hàng. +Từ phía ngân hàng:Để ngân hàng thực hiện được nghiệp vụ chi trả hộ thì khách hàng phải gửi vào ngân hàng một lượng tiền.Ngân hàng thương mại với chức
  11. năng kinh doanh tiền tệ nên sau khi đã để lại một tỷ lệ dự trữ thì có thể cho vay số tiền trong tài khoản của khách hàng.Đây thực sự là nguồn vốn rẻ nhất mà ngân hàng có thể huy động được.Mặt khác các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp và nhiều cá nhân nên ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khách hàng.Do đó ngân hàng theo dõi các tài khoản của khách hàng,biết được tình hình hoạt động kinh doanh,đánh giá được chính xác khả năng tài chính của khách hàng,từ đó quyết định chấp nhận hay không chấp nhận khoản vay.Cùng với đó là ngân hàng có thể theo dõi quá trình giải ngân vốn,hoặc có kế hoạch đòi nợ hợp lý.Ngoài ra ngân hàng còn có thể thu phí qua dịch vụ này. Điều kiện thực hiện dịch vụ: +Để đảm bảo thực hiện chi trả qua ngân hàng các chủ tài khoản bên trả tiền bắt buộc phải có đủ tiền trên tài khoản,mọi trường hợp tài khoản không đủ tiền để thực hiện thanh toán đều là vi phạm pháp luật và phải bị xử lý. +Đối với ngân hàng:ngân hàng phải đảm bảo thanh toán thuận tiện kịp thời chính xác.Ngân hàng có trách nhiệm kiểm tra khả năng trả tiền của chủ tài khoản trước khi thực hiện việc thanh toán,được quyền từ chối thanh toán nếu tài khoản của bên trả tiền khônng đủ để thực hiện và không chịu liên đới về những hậu quả có thể xảy ra.Nếu do thiếu sót chủ quan của mình trong quá trình thanh toán,gây thiệt hại cho khách hàng,ngân hàng phải bồi thường vật chất. Các loại dịch vụ chi trả hộ: -Thanh toán bằng séc: +Séc chuyển khoản:là giấy uỷ nhiệm lập trên mẫu in sẵn đặc biệt của ngân hàng,do chủ tài khoản phát hành,giao trực tiếp cho đơn vị thụ hưởng,để thanh toán tiền hàng,dịch vụ ngay sau khi nhận được hàng hoá hoặc dịch vụ cung ứng.Séc chuyển khoản chỉ được áp dụng thanh toán trong phạm vi giữa các ngân hàng có tài khoản ở cùng một ngân hàng,hoặc khác ngân hàng nhưng các ngân hàng đó có tham gia thanh toán bù trừ trực tiếp với nhau. +Séc bảo chi:là tờ séc chuyển khoản thông thường nhưng được ngân hàng phục vụ đơn vị phát hành séc bảo đảm chi trả bằng cách trích trước số tiền ghi trên tờ séc từ tài
  12. khoản tiền gửi(hoặc cho vay)của bên trả tiền đưa vào một tài khoản riêng(tiền gửi séc bảo chi và sổ séc định mức),được ngân hàng làm thủ tục bảo chi và đóng dấu”bảo chi”trên tờ séc trước khi giao cho khách hàng. Séc bảo chi dùng trong các đơn vị là khách hàng thuộc hệ thống kho bạc nhà nước và khách hàng của ngân hàng trong trường hợp bên bán yêu cầu hoặc theo quyết định xử phạt của ngân hàng đối với các chủ tài khoản vi phạm phát hành séc quá số dư theo quy định. Séc bảo chi được áp dụng thanh toán giữa các khách hàng cùng mở tài khoản tại một ngân hàng hoặc khác ngân hàng có tham gia thanh toán bù trừ trực tiếp với nhau,trường hợp thanh toán khác ngân hàng không tham gia thanh toán bù trừ trực tiếp(ngoài tỉnh) chỉ áp dụng trong cùng hệ thống ngân hàng.Thời hạn có hiệu lực tối đa là 15ngày kể từ ngày bảo chi séc. +Sổ séc định mức được dùng để trả tiền mua hàng,trả cước phí vận tải,cước phí bưu điện có tính thường xuyên,hoặc theo quyết định xử phạt của ngân hàng. Sổ séc định mức được áp dụng thanh toán trong tỉnh,trường hợp ngoài tỉnh chỉ được áp dụng trong cùng một hệ thống ngân hàng. Mức tối thiểu sổ séc định mức là 20 triệu đồng. Mỗi séc định mức chỉ thanh toán với một khách hàng hoặc một số khách hàng thuộc cùng một đơn vị chủ quản. Muốn séc định mức chỉ thanh toán với một khách hàng hoặc một số khách hàng cùng đơn vị chủ quản. -Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi: +Uỷ nhiệm chi là lệnh chi tiền đựơc chủ tài khoản lập theo mẫu của ngân hàng ấn hành,yêu cầu ngân hàng phục vụ mình(nơi mở tài khoản tiền gửi) trích tài khoản của mình để chi trả cho bên thụ hưởng. Uỷ nhiệm chi được dùng để thanh toán chuyển khoản về các khoản trả tiền hàng,dịch vụ hoặc chuyển vốn trong cùng hệ thống hoặc khác hệ thống ngân hàng trong cùng tỉnh và ngoài tỉnh.
  13. Trong vòng một ngày làm việc,ngân hàng phục vụ đơn vị trả tiền phải hoàn tất lệnh chi đó hoặc từ chối thực hiện nếu tài khoản của đơn vị không đủ tiền hoặc lệnh chi lập không hợp lệ.Ngân hàng phục vụ đơn vị thụ hưởng phải ghi có ngay vào tài khoản và báo cho đơn vị biết sau khi nhận được chứng từ hợp lệ. +Séc chuyển tiền: Chuyển tiền khác địa phương có thể thực hiện bằng séc chuyển tiền trong trường hợp khách hàng có yêu cầu cần thiết cấp bách.Séc chuyển tiền phải do ngân hàng phục vụ đơn vị có yêu cầu chuyển tiền phát hành và trao cho khách hàng sau khi đã ghi nợ vào tài khoản của đơn vị xin chuyển tiền.Thời hạn hiệu lực của tờ séc chuyển tiền là 30 ngày kể từ ngày phát hành séc.Séc chuyển tiển có thể sử dụng để chuyển khoản hoặc lĩnh tiền mặt tại ngân hàng trả tiền. b)Dịch vụ thu hộ Cơ sở hình thành: +Từ phía khách hàng:trong quan hệ mua bán hàng hoá có những lúc hàng hoá đã trao nhưng chưa thanh toán tiền mặt ngay.Khoản thanh toán có thể được chuyển thông qua hệ thống ngân hàng mà bên mua và bên bán có tài khoản. +Từ phí ngân hàng:Giữa các ngân hàng thường có mối quan hệ giao dịch với nhau.Việc thu hộ các doanh nghiệp không những giúp ngân hàng có thể tận dụng được khoản vốn mà còn giúp ngân hàng thu được một khoản phí thông qua việc thực hiện dịch vụ thu hộ. Thanh toán bằng UNT: -Được áp dụng thanh toán cùng địa phương hoặc khác địa phương trong hệ thống và ngoài hệ thống về những khoản tiền hàng đã giao dịch hoặc dịch vụ đã cung ứng mà 2 bên mua bán đã thống nhất thoả thuận dùng hình thức thanh toán này với những điều kiện thanh toán cụ thể đã ghi trong hơp đồng kinh tế hoặc đơn đặt hàng và đã được bên mua ký xác nhận trên các chứng từ thanh toán.Bên mua phải thông báo bằng văn bản cho ngân hàng phục vụ mình biết về thoả thuận dùng hình thức thanh toán uỷ nhiệm thu của đơn vị mình.
  14. - Sau khi đã giao hàng hoặc hoàn tất dịch vụ cung ứng,bên bán lập giấy uỷ nhiệm thu theo mẫu của ngân hàng ấn hành kèm theo hoá đơn,vận đơn gửi tới ngân hàng phục vụ mình yêu cầu thu hộ. Để thu nhanh tiền hàng hoặc dịch vụ theo giấy uỷ nhiệm thu,bên bán có thể ghi rõ trên giấy uỷ nhiệm thu yêu cầu ngân hàng bên mua chuyển tiền bằng điện và chịu chi phí điện báo. -Khi nhận đựơc giấy uỷ nhiệm thu,trong vòng một ngày làm việc ngân hàng bên mua trích tài khoản của bên mua trả ngay cho bên bán để hoàn tất việc thanh toán.Nếu tài khoản bên mua không có tiền chi trả thì bên mua bị phạt trả chậm.Mọi trường hợp tranh chấp về việc làm chứng từ khống,về sự thiếu khớp đúng giữa tiền đã trả với hàng hoá,dịch vụ nhận được,do 2 bên mua và bán tự giải quyểt. c.Dịch vụ chuyển tiền Đây thực chất là việc ngân hàng đứng ra nhận chuyển tiền từ người này,tổ chức này cho người khác,tổ chức khác. 1.2.1.2.2.Dịch vụ uỷ thác Cơ sở hình thành: -Từ phía khách hàng:Trong cuộc sống có rất nhiều việc mà một người cảm thấy một mình họ tự làm thì rất khó khăn và họ cần đến sự giúp đỡ của ngân hàng.Chẳng hạn một người chết đi và họ muốn ngân hàng đóng vai trò là người được uỷ thác trong di chúc,quản lý tài sản cho họ khi họ đã qua đời bằng cách công bố tài sản,bảo quản tài sản có giá…. -Từ phía ngân hàng:ngân hàng với đội ngũ nhân viên có tay nghề,năng động,nhiệt tình thì việc đứng ra làm dịch vụ uỷ thác không những là hợp lý mà còn giúp ngân hàng huy động được một nguồn vốn để cho vay. 1.2.1.2.3.Dịch vụ bảo lãnh Bảo lãnh của ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết.
  15. Bảo lãnh là hình thức tài trợ thông qua uy tín.Ngân hàng không phải xuất tiền ngay khi bảo lãnh,do vậy,bảo lãnh được coi như tài sản ngoại bảng.Tuy nhiên,khi khách hàng không thực hiện được cam kết,ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ chi trả cho bên thứ ba.Khoản chi trả này được xếp vào loại tài sản xấu trong nội bảng,cấu thành nợ quá hạn.Chính vì vậy,bảo lãnh cũng chứa đựng các rủi ro như một khoản cho vay và đòi hỏi ngân hàng phân tích khách hàng như khi cho vay. Bảo lãnh của ngân hàng tạo mối liên kết trách nhiệm tài chính và san sẻ rủi ro.Trách nhiệm tài chính trứơc hết thuộc về khách hàng,trách nhiệm của ngân hàng là thứ cấp khi khách hàng không thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba.Do mối liên hệ giữa ngân hàng với khách hàng có khả năng rang buộc khách hàng phải thực hiện các bên thứ ba khi tổn thất xảy ra. Ngân hàng cố gắng tìm kiếm các khoản thu từ bảo lãnh nhằm bù đắp chi phí.Phí bảo lãnh được tính theo tỷ lệ phần trăm trên số tiền bảo lãnh.Ngoài phí,ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng kí quỹ,tạo nguồn tiền thanh toán cho ngân hàng với mức lãi suất rất thấp.Bảo lãnh cũng góp phần mở rộng các dịch vụ khác như kinh doanh ngoại tệ,tư vấn,thanh toán… Các loại bảo lãnh:  Bảo lãnh đảm bảo dự thầu: Là cam kết của ngân hàng với chủ đầu tư(hay chủ thầu)về việc trả tiền phạt thay cho bên dự thầu nếu bên dự thầu vi phạm các quy định trong hợp đồng dự thầu. Trong hoạt động kinh tế,rất nhiều hoạt động được thực hiện thông qua đấu thầu như đấu thầu cung cấp thiết bị,xây dựng.Để tìm kiếm được các nhà thầu có đủ năng lực và hạn chế những rủi ro khi nhà thầu vi phạm các điều khoản tham gia dự thầu như trúng thầu song không thực hiện hợp đồng,không kê khai đúng các yêu cầu của chủ đầu tư…chủ đầu tư thường yêu cầu bên dự thầu phải kí quỹ(đặt cọc)dự thầu.Nếu vi phạm bên dự thầu sẽ bị mất tiền kí quỹ.Dó kí quỹ gây ra nhiều thủ tục phiền phức cho cả hai bên,đặc biệt làm đọng vốn của bên tham gia dự thầu,nhiều chủ thầu yêu cầu thay thế tiền kí quỹ bằng bảo lãnh của ngân hàng.  Bảo lãnh thực hiện hợp đồng:
  16. Là cam kết của ngân hàng về việc chi trả tổn thất hộ khách hàng nếu khách hàng không thực hiện đầy đủ hợp đồng như cam kết,gây tổn thất cho bên thứ ba. Các hợp đồng được bảo lãnh như hợp đồng cung cấp hàng hoá,xây dựng,thiết kế…Việc khách hàng vi phạm hợp đồng như cung cấp không đúng hạn,không đúng chất lượng cam kết…đều có thể gây tổn thất lớn cho bên thứ ba.Bảo lãnh của ngân hàng một mặt bù đắp một phần tổn thất cho bên thứ ba,mặt khác thúc đẩy khách hàng nghiêm chỉnh thực hiện hợp đồng.  Bảo lãnh đảm bảo hoàn trả tiền ứng trước: Nhiều người cung cấp yêu cầu khách hàng phải đặt trước một phần tiền trong giá trị hợp đồng cung cấp.Tiền đặt cọc vừa giúp bên cung cấp có một phần vốn để sản xuất kinh doanh,vừa có tác dụng rang buộc người mua hàng đã đặt.Tuy nhiên,đề phòng người cung cấp không cung ứng hàng đồng thời lại không trả tiền đặt cọc,bên mua yêu cầu bên cung cấp hàng phải có bảo lãnh của ngân hàng về việc trả tiền ứng trước.Vậy bảo lãnh bảo đảm trả tiền ứng trước là cam kết của ngân hàng về việc sẽ hoàn trả tiền ứng trước cho bên mua nếu bên cung cấp không trả.  Bảo lãnh bảo đảm hoàn trả vốn vay: Nhiều tổ chức tín dụng khi cho vay đòi hỏi phải có tài sản đảm bảo hoặc bằng hàng hoá,chứng khoán,bất động sản,hoặc bảo lãnh của người thứ ba…Nhà nước,doanh nghiệp,tổ chức tín dụng có nhu cầu vay vốn bằng cách phát hành trái phiếu.Tuy nhiên,nếu uy tín của người vay trên thị trường đó chưa cao,việc phát hành sẽ rất khó khăn.Bảo lãnh đảm bảo hoàn trả vốn vay là cam kết của ngân hàng đối với người cho vay về việc sẽ trả gốc và lãi đúng hạn nếu khách hàng không trả được.  Bảo lãnh đảm bảo thanh toán: Là cam kết của ngân hàng về việc sẽ thanh toán tiền theo đúng hợp đồng thanh toán cho người thụ hưởng nếu khách hàng của ngân hàng không thanh toán đủ. 1.2.Hội nhập kinh tế quốc tế và tác động của nó đến sự phát triển của dịch vụ ngân hàng 1.2.1. Hội nhập kinh tế quốc tế và nội dung hội nhập kinh tế quốc tế
  17. Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình các quốc gia thực hiện mô hình kinh tế mở,tự nguyện tham gia vào các định chế kinh tế về tài chính quốc tế,thực hiện thuận lợi hoá và tự do hoá thương mại,đầu tư và các hoạt động kinh tế đối ngoại khác.Vai trò của nhà nước trong thương mại quốc tế là tạo lập môi trường pháp lý,có chính sách kích thích sản xuất,nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường quốc tế,các hiệp ước,định chế. Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế: - Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm giải quyết 5 vấn đề chủ yếu : đàm phán cắt giảm thuế quan; giảm, loại bỏ hàng rào phi thuế quan; giảm bớt các hạn chế đối với dịch vụ; giảm bớt các trở ngại đối với đầu tư quốc tế, điều chỉnh các chính sách thương mại khác. - Đàm phán cắt giảm thuế quan, tiến tới ràng buọc thuế quan thực hiện thuế suất bằng không đối với hàng hoá xuất, nhập khẩu. - Giảm thiểu, tiến tới loại bỏ những hàng rào phi thuế quan gây cản trở đối với thương mại. - Giảm thiểu các hạn chế đối với thương mại dịch vụ, tức là tự do hoá việc cung cấp và kinh doanh các hình thức dịch vụ. - Giảm thiểu các hạn chế đối với đầu tư để mở đường cho tự do hoá thương mại hơn nữa. - Mở rộng thị trường xuất khẩu hiện nay là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của thương mại Việt Nam và của các doanh nghiệp Việt Nam. - Về cơ cấu hàng xuất khẩu : Vấn đề giá trị gia tăng hàng xuất khẩu Việt Nam, hình thành các thương hiệu Việt Nam, đầu tư sản xuất nguyên liệu để có giá trị gia tăng nhiều hơn - phải đặt trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế thế giới tính đến phân công lao động khu vực và thế giới, cần lựa chọn mặt hàng gắn với lợi thế cạnh tranh của đất nước (giá cả thấp, chất lượng tốt, thị trường tiêu thụ). - Gia nhập AFTA và APEC suôn sẻ.
  18. - Năm 1992, ta nối quan hệ với IMF, WB và ADB, tháng 7/1995 gia nhập ASEAN, năm 1996 tham gia AFTA, tháng 3/1996 sáng lập viên ASEM, tháng 11/1998 thành viên APEC, tháng 12/1994 gửi đơn xin gia nhập WTO. 1.2.2.Yêu cầu của WTO,hiệp định thương mại Việt-Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng 1.2.2.1.Yêu cầu của WTO Hiệp định chung về thương mại dịch vụ(GATS) là một bộ phận không thể tách rời hệ thống pháp lý của WTO,là văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động thương mại dịch vụ giữa các nước thành viên WTO.GATS bao gồm hai loại quy định.Loại thứ nhất là các quy định chung áp dụng cho tất cả các ngành dịch vụ(đãi ngộ tối huệ quốc,minh bạch) và một số quy định khác chỉ áp dụng đối với các cam kết cụ thể(Điều XI “Thanh toán và chuyển tiền”).Loại thứ hai là các cam kết cụ thể thông qua đàm phán được liệt kê trong danh mục cam kết của mỗi nước-là một bộ phận không thể tách rời của GATS.Nói một cách khác,các nghĩa vụ của GATS có thể được phân theo hai nhóm:các nghĩa vụ chung áp dụng cho tất cả các nước thành viên và nghĩa vụ thực hiện cam kết về tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia trong các ngành và phân ngành của mỗi nước.Cụ thể,khi Việt Nam trở thành thành viên WTO ,ngành ngân hàng sẽ phải tuân thủ những nghĩa vụ gì trong GATS? Đãi ngộ tối huệ quốc(MFN)là nghĩa vụ chung bắt buộc trong GATS.Theo nguyên tắc MFN,Việt Nam có nghĩa vụ đối xử như nhau với tất cả các nước hoặc nếu Việt Nam dành ưu đãi cho một nước thì phải dành ưu đãi đó cho tất cả các nước thành viên,trừ khi Việt Nam có những miễn trừ MFN được nêu trong danh mục cam kết của mình khi gia nhập WTO.Như vậy,các ưu đãi áp dụng hạn chế trên cơ sở song phương sẽ được dành cho tất cả các nước thành viên WTO.Chẳng hạn,khi Việt Nam dành ưu đãi cho Hoa Kỳ trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng theo Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ thì Việt Nam cũng phải dành những ưu đãi tương tự trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng cho tất cả các nước thành viên còn lại trong WTO. Giống như đãi ngộ tối huệ quốc,minh bạch là nghĩa vụ chung bắt buộc trong GATS và được áp dụng cho tất cả các lĩnh vực.Theo quy định,Việt Nam có nghĩa vụ công bố ngay các biện pháp áp dụng trong tất cả các lĩnh vực cam kết.ít nhất mỗi năm
  19. một lần các nước thành viên có nghĩa vụ thông báo cho hội đồng Thương mại dịch vụ về việc về việc ban hành hoặc bất kỳ sửa đổi nào trong cam kết cụ thể theo GATS.Các nước thành viên phải trả lời không chậm trễ tất cả các yêu cầu của bất kỳ một thành viên nào khác về những thông tin cụ thể liên quan tới các biện pháp được áp dụng.Trong lĩnh vực dịch vụ,ngân hàng,Ngân hàng nhà nước có nghĩa vụ thông báo và cung cấp thông tin liên quan về các quy định pháp luật ngân hàng hiện hành và việc sửa đổi,bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản pháp luật ngân hàng.Để có thể trao đổi giữa các nước thành viên,Việt Nam sẽ thành lập một Trung tâm vấn tin nhằm đáp ứng yêu cầu thông tin của các thành viên khác.Hiện nay,uỷ ban hợp tác Kinh tế quốc tế đang là cơ quan đầu mối tạm đảm nhiệm vai trò này.Đối với Việt Nam hiện nay,việc thành lập một cơ quan đầu mối để tiếp nhận và trả lời các yêu cầu của tổ chức và cá nhân nước ngoài về hướng dẫn,giải đáp pháp luật Việt Nam là yêu cầu cấp bách cần thực hiện,và việc thành lập nhóm chuyên gia liên ngành trong lĩnh vực pháp luật kinh tế quốc tế để hỗ trợ cho việc thực thi các hiệp định của WTO và các hiệp định kinh tế quốc tế khác là hết sức cần thiết. Theo nguyên tắc đãi ngộ quốc gia,Việt Nam có nghĩa vụ đối xử như nhau giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp nước ngoài.Cụ thể,trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng,nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng và dịch vụ ngân hàng nước ngoài được hưởng những ưu đãi ngang bằng với nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng và dịch vụ ngân hàng của Việt Nam hoặc các tổ chức tín dụng nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam sẽ không bị phân biệt đối xử so với các tổ chức tín dụng trong nước.Chẳng hạn như các ngân hàng thương mại trong nước được phép đặt máy rút tiền tự động ở ngoài trụ sở chính thì các chi nhánh ngân hàng nước ngoài cũng được phép làm như vậy.Trong thương mại dịch vụ,các nước thành viên thường quan tâm nhiều hơn tới đãi ngộ quốc gia,bởi lẽ trong thương mại dịch vụ,bên cạnh sự di chuyển dịch vụ còn có sự di chuyển của nhà cung cấp dịch vụ vào Việt Nam. Theo nguyên tắc tiếp cận thị trường,Việt Nam sẽ phải loại bỏ dần các biện pháp hạn chế về số lượng nhà cung cấp dịch vụ,về tổng giá trị các giao dịch trong dịch vụ hoặc về tổng số lượng sản phẩm dịch vụ,hạn chế về tổng số thể nhân có thể được tuyển
  20. dụng,các biện pháp hạn chế về loại hình pháp nhân hoạt động trong từng lĩnh vực dịch vụ,và hạn chế tỷ lệ vốn góp của bên nước ngoài.Ví dụ,các hạn chế vế số lượng nhà cung cấp dịch vụ như việc cấp phép thành lập một chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải dựa trên cơ sở kiểm tra về nhu cầu kinh tế,các hạn ngạch được đặt ra hàng năm đối với những người nước ngoài làm việc trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng… Liên quan tới lĩnh vực dịch vụ ngân hàng,các nước thành viên phải thực hiện nghĩa vụ”Thanh toán và chuyển tiền”(Điều XI của GATS).Theo quy định tại Điều XI,các nước thành viên không được áp dụng các hạn chế đối với chuyển khoản và thanh toán quốc tế trong các giao dịch vãng lai liên quan đến các cam kết cụ thể của GATS.Ngoại trừ trường hợp cán cân thanh toán gặp khó khăn thì khi đó một số hạn chế sẽ được áp dụng mang tính tạm thời và căn cứ vào các điều kiện cụ thể.Theo phần ghi chú số 8 thuộc Điều XVI”Tiếp cận thị trường”của GATS,khi Việt Nam cam kết tiếp cận thị trường đối với cung cấp dịch vụ theo phương thức cung cấp qua biên giới và nếu di chuyển vốn qua biên giới là một phần thiết yếu của dịch vụ này thì Việt Nam sẽ cam kết cho phép sự di chuyển vốn này,và khi Việt Nam cam kết tiếp cận thị trường đối với cung cấp dịch vụ theo phương thức hiện diện thương mại,Việt Nam cho phép chuyển khoản vốn liên quan vào lãnh thổ của mình.Ngoài ra,khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO,Việt Nam sẽ phải tuân thủ nhiều nghĩa vụ khác được quy định trong các điều khoản của GATS,chẳng hạn như quy định về thông lệ kinh doanh(Điều IX)quy định về thừa nhận lẫn nhau(Điều VII)… 1.2.1.2.Yêu cầu của hiệp định thương mại Việt -Mỹ Hiệp định thương mại gồm 4 phần:tiếp cận thị trường,thương mại dịch vụ,quyền sở hữư trí tuệ và đầu tư. Trong lĩnh vực dịch vụ,Việt Nam cam kết tuân thủ các quy định của WTO về tối huệ quốc,đối xư quốc gia và các nguyên tắc trong pháp luật quốc gia.Bên cạnh đó,Việt Nam đồng ý cho phép các công ty và các cá nhân Mỹ đầu tư vào các thị trường của một loạt các lĩnh vực,bao gồm kế toán,quảng cáo,ngân hàng,máy tính,phân phối,giáo dục,bảo hiểm,luật và viễn thông.Hầu hết các cam kết về lĩnh vực đó có lộ trình thực hiện sau 3 đến 5 năm kể từ khi hiệp định có hiệu lực.Cam kết của Việt Nam trong 3 lĩnh
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2