intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Phát triển đội ngũ lao động kỹ thuật ở thành phố Đà Nẵng Thực trạng và giải pháp

Chia sẻ: Buiduong_1 Buiduong_1 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:0

115
lượt xem
16
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cùng với các yếu tố quyết định sự phát triển của một nền kinh tế như: ý tưởng, áp dụng công nghệ cao, hạ tầng cơ sở hiện đại, vốn xã hội thì “vốn con người”, xét đến cùng là quyết định nhất, cách mạng nhất. Ở Việt Nam, Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã khẳng định: “con người và NNL là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ CNH, HĐH”, trong đó LĐKT là bộ phận quan trọng của NNL trở thành lực lượng tiên phong trong sự nghiệp đẩy mạnh...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Phát triển đội ngũ lao động kỹ thuật ở thành phố Đà Nẵng Thực trạng và giải pháp

  1. 1 Luận văn Phát triển đội ngũ lao động kỹ thuật ở thành phố Đà Nẵng - Thực trạng và giải pháp
  2. 2 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cùng với các yếu tố quyết định sự phát triển của một nền kinh tế như: ý tưởng, áp dụng công nghệ cao, hạ tầng cơ sở hiện đại, vốn x ã hội thì “vốn con người”, xét đến cùng là quyết định nhất, cách mạng nhất. Ở Việt Nam, Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã khẳng định: “con người và NNL là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ CNH, HĐH”, trong đó LĐKT là bộ phận quan trọng của NNL trở thành lực lượng tiên phong trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Phát triển đội ngũ LĐKT có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng trưởng kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trong xu thế hội nhập và phát triển. Đối với thành phố Đà Nẵng, Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 16 tháng 10 năm 2003 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Đ à Nẵng trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước đã xác định phương hướng phát triển thành phố đến năm 2020 là: “Xây dựng thành phố Đà N ẵng trở thành một trong những đô thị lớn của cả nước; là trung tâm KT - XH lớn của miền Trung với vai trò là trung tâm công nghiệp, thương mại, du lịch và dịch vụ; là thành phố cảng biển, đầu mối giao thông quan trọng về trung chuyển vận tải trong nước và quốc tế; trung tâm bưu chính - viễn thông, tài chính - ngân hàng; một trong những trung tâm văn hoá thể thao, giáo dục đào tạo và KH - CN của miền Trung; là địa bàn giữ vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng, an ninh của khu vực miền Trung và cả nước”. Để thực hiện mục tiêu đó, U ỷ ban nhân dân thành phố đã ban hành 12 chương trình hành động trên tất cả các lĩnh vực KT - XH, cải cách hành chính, an ninh, quốc phòng, xây dựng đảng... và đã tổ chức thực hiện bước đầu đạt được nhiều kết quả tốt. Tuy nhiên, phát triển đội ngũ LĐKT ở thành phố, chìa khoá của mọi vấn đề, đang là một thực tiễn cần được đầu tư nghiên cứu, giải quyết ở nhiều cấp độ khác nhau để góp phần trở thành một chương trình hành động mang tính quyết định, cùng với các giải pháp khác đưa thành
  3. 3 phố Đà Nẵng sớm hoàn thành nhiệm vụ trong sự nghiệp CNH, HĐH. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề “Phát triển đội ngũ lao động kỹ thuật ở thành phố Đà Nẵng - Thực trạng và giải pháp” là việc có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Vấn đề lao động là một trong những yếu tố và là nguồn lực cơ bản để tạo ra sự phát triển của đất nước, đặc biệt là phát triển và sử dụng đội ngũ LĐKT luôn được các nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này, trong đó cần kể đến những công trình sau đây: - Nhóm tác giả Đỗ Minh Cương và Mạc Văn Tiến với đề tài khoa học độc lập cấp nhà nước “Phát triển LĐKT ở Việt Nam giai đoạn 2001-2010”. - Nhóm tác giả Nguyễn Mậu Dựng và tập thể tác giả tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (phân viện Đà Nẵng, nay là Học viện Chính trị Khu vực 3) với đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ “Cơ cấu, chất lượng và xu hướng biến động của đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật vùng kinh tế trọng điểm miền Trung”. - Tác giả Vương Quốc Được với đề tài thạc sĩ “Xây dựng NNL cho CNH, HĐH thành phố Đà Nẵng”. - Tác giả Lê Ngọc Trà với đề tài cấp Sở “Quy hoạch tào tạo NNL tỉnh Bình Thuận giai đoạn 2002 -2010”. - Tác giả Nguyễn Đức Tĩnh với đề tài thạc sĩ “Hoàn thiện quản lý nhà nước về đào tạo nghề ở n ước ta hiện nay”. - Tác giả Phạm Kim Sơn với đề tài cấp thành phố “Chính sách phát triển nhân lực và thu hút nhân tài công nghệ thông tin thành phố Đà Nẵng”. - Tác giả Đỗ Thị Xuân Phương với luận án tiến sỹ kinh tế “Phát triển thị trường sức lao động giải quyết việc làm”. - Tác giả Nguyễn Hữu Chí với đề tài thạc sĩ “Những giải pháp về quản lý nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề trên địa bàn thành phố Hà Nội”. Ở nhiều góc độ, cấp độ nghiên cứu khác nhau, các công trình khoa học nêu trên đã làm rõ những yêu cầu về lý luận cũng như thực tiễn xoay quanh nội dung phát triển NNL.
  4. 4 Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu nêu trên còn đ ặt ra cho luận văn cần phải phát triển thêm một số vấn đề: - Về lý luận: Làm rõ thêm một số vấn đề liên quan về LĐKT, đặc trưng của LĐKT, phát triển LĐKT và yêu cầu phát triển LĐKT; LĐKT và nền kinh tế tri thức; đổi mới công tác quản lý nhà nước về đào tạo LĐKT trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. - Về thực trạng: Bổ sung phân tích, đánh giá thực trạng cung - cầu LĐKT, các yếu tố tác động đến phát triển LĐKT. - Về giải pháp: Bổ sung mô hình, cơ sở dự báo phát triển lao động kỹ thuật. Đề xuất thêm một số giải pháp phát triển LĐKT theo định hướng thị trường. 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 3.1. Mục đích Phân tích, đánh giá tình hình đào tạo, phát triển, sử dụng LĐKT, từ đó đề ra những giải pháp nhằm phát triển LĐKT của thành phố Đ à Nẵng đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH thành phố cũng như toàn vùng và của cả nước. Để đạt được mục đích trên, đề tài phải giải quyết các nhiệm vụ sau: 3.2. Nhiệm vụ - H ệ thống hóa những vấn đề lý luận về phát triển NNL nói chung và phát triển LĐKT nói riêng. - Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển LĐKT ở thành phố Đà Nẵng. - Đ ề xuất các giải pháp phát triển LĐKT ở thành phố Đà N ẵng đến năm 2010. Những kiến nghị với Đảng, Nhà nước, chính quyền thành phố trong việc phát triển LĐKT trên địa bàn. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu tập trung vào phát triển nhóm lao động có CMKT ở các cấp trình độ, hình thức đào tạo khác nhau, mang tính thực hành, được đào tạo trong hệ thống các cơ sở dạy nghề ở thành phố Đà Nẵng từ năm 2001 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài - N ền tảng là lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các Nghị quyết của Đảng về lao động, giáo dục, đào tạo, DN.
  5. 5 - Trên cơ sở các tài liệu thống kê, điều tra lao động - việc làm hàng năm, các báo cáo về phát triển LĐKT, các chính sách hiện có của Đảng, Nhà nước và chính quyền thành phố trong việc phát triển NNL nói chung, phát triển LĐKT nói riêng, luận văn sử dụng phương pháp chủ yếu là phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, đối chiếu. 6. Những đóng góp cơ bản của đề tài - Về mặt lý luận: Làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về đào tạo LĐKT; quan điểm của Đảng và Nhà nước trong đào tạo LĐKT; lý luận về LĐKT và nền kinh tế tri thức; đổi mới công tác quản lý nhà nước về đào tạo LĐKT trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. - Về thực tiễn: Đóng góp những giải pháp để phát triển LĐKT phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH thành phố Đ à Nẵng; luận văn làm rõ thêm xu hướng đào tạo LĐKT theo định hướng cầu thị trường. - Là tài liệu nghiên cứu, tham khảo về phát triển LĐKT để ngành Lao động-Thương binh và Xã hội giúp Uỷ ban nhân dân thành phố nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đạo tạo LĐKT, đảm bảo phát triển đội ngũ LĐKT phục vụ CNH, HĐH thành phố. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn đ ược kết cấu gồm 3 chương, 11 tiết. Chương 1: Những vấn đề cơ bản về LĐKT và vai trò của nó trong quá trình CNH, HĐH và hội nhập ở nước ta. Chương 2: Thực trạng đội ngũ LĐKT ở thành phố Đ à Nẵng. Chương 3: Phương hướng và những giải pháp chủ yếu để phát triển đội ngũ LĐKT ở thành phố Đ à Nẵng đến năm 2010.
  6. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LAO ĐỘNG KỸ THUẬT VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ VÀ HỘI NHẬP Ở NƯỚC TA 1.1. LAO ĐỘNG KỸ THUẬT VÀ PHÁT TRIỂN LAO ĐỘNG KỸ THUẬT TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ VÀ HỘI NHẬP Ở NƯỚC TA 1.1.1. Khái niệm và đặc trưng của lao động kỹ thuật Cho đến nay thuật ngữ “LĐKT” còn có những quan niệm khác nhau ở nhiều tài liệu trong thực tế. Để làm rõ khái niệm “LĐKT” cần tìm hiểu các khái niệm liên quan: Trong Từ điển Bách khoa Việt Nam khái niệm: “Lao động giản đơn là lao động không đòi hỏi phải đ ào tạo về chuyên môn cũng có thể thực hiện được một công việc nào đó” và “Lao động lành nghề là lao động có trình độ chuyên môn được đào tạo, huấn luyện hay qua tích luỹ kinh nghiệm trong thực tiễn để thực hiện công việc phức tạp mà lao động giản đơn không làm được” [50, tr.64]. C. Mác đưa ra thuật ngữ “Lao động phức tạp là bội số của lao động giản đơn”. Như vậy, LĐKT nằm trong thang, bậc nào từ lao động giản đơn - lao động lành nghề - lao động phức tạp trong các khái niệm nêu trên là vấn đề cần nghiên cứu, thống nhất. Trong điều tra lao động - việc làm thời điểm 01 tháng 7 hàng năm, do Bộ LĐ-TB&XH và Tổng cục Thống kê tổ chức từ năm 1996 đến nay và trong các báo cáo thống kê của nhà nước sử dụng chỉ tiêu “ lao động qua đ ào tạo” và “lao động qua đào tạo nghề”. Theo đó, “lao động qua đào tạo” là lao động CMKT, có giải tần rộng, được tính bao gồm lao động đ ược đ ào tạo từ sơ cấp/học nghề, công nhân kỹ thuật có bằng, không bằng trở lên đến đào tạo THCN, CĐ, ĐH và sau ĐH. Còn “lao động qua đào tạo nghề” là một bộ phận của “lao động qua đ ào tạo”, dùng đ ể thống kê, báo cáo lao đ ộng đ ược đào tạo, được cấp bằng nghề,
  7. 7 chứng chỉ nghề ở hệ thống giáo dục nghề nghiệp trong hệ thống giáo dục quốc dân, mà giáo dục nghề nghiệp thì bao gồm đ ào tạo trung cấp chuyên nghiệp và DN [32, tr.2]. Như vậy, LĐKT gần đồng nghĩa với lao động qua đào tạo nghề. Nhưng trong nền kinh tế hiện đại, giáo dục nghề nghiệp còn phát triển đào tạo các cấp trình độ cao hơn như CĐ kỹ thuật, ĐH kỹ thuật mang tính thực hành và trong thực tế, công nhân kỹ thuật mặc d ù không có bằng nghề, chứng chỉ nghề nhưng lại có kỹ năng nghề nhất định và có kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh thì khái niệm “LĐKT” cũng cần mở rộng ra, nghiên cứu thống nhất trong hệ thống giáo dục quốc dân. Với cách tiếp cận mới hơn, nhóm tác giả Đỗ Minh Cương và Mạc Văn Tiến với đề tài khoa học độc lập cấp nhà nước “Phát triển LĐKT ở Việt Nam giai đoạn 2001-2010” khái niệm “LĐKT (theo nghĩa hẹp) là loại lao động được đào tạo, được cấp bằng hoặc chứng chỉ của các bậc đào tạo trong hệ thống giáo dục nghề nghiệp của hệ thống giáo dục quốc dân, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động và có kỹ năng hành nghề để thực hiện các công việc có độ phức tạp với các công nghệ khác nhau, phù hợp với ngành nghề ở các cấp trình độ khác nhau, trực tiếp tạo ra sản phẩm hàng hoá và dịch vụ phục vụ quốc kế dân sinh” [11, tr.21]. Với khái niệm này, LĐKT phải có hai điều kiện: - Điều kiện 1: Được cấp bằng hoặc chứng chỉ của các bậc đào tạo trong hệ thống giáo dục nghề nghiệp của hệ thống giáo dục quốc dân. - Điều kiện 2: Đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động và có kỹ năng hành nghề để thực hiện các công việc có độ phức tạp với các công nghệ khác nhau, phù hợp với ngành nghề ở các cấp trình độ khác nhau, trực tiếp tạo ra sản phẩm hàng hoá và dịch vụ phục vụ quốc kế dân sinh. Tuy nhiên, trong thực tế đời sống sản xuất kinh doanh vẫn tồn tại một đội ngũ lao động do nhiều nguyên nhân chưa đáp ứng điều kiện 1, nhưng do tích luỹ kinh nghiệm, họ có thể đáp ứng điều kiện 2. Nếu xem điều kiện 1 là thủ tục để có thể học thêm, được cấp bằng, chứng chỉ, thì khái niệm “LĐKT” có thể nghiên cứu mở rộng thêm cho cả đối tượng này.
  8. 8 Còn trong “Thuật ngữ LĐ-TB&XH” tiếp cận khái niệm “LĐKT” thực tế hơn. “LĐKT sản xuất kinh doanh là người lao động có trình độ kỹ năng và kỹ xảo nhất định thông qua đào tạo hoặc tích luỹ kinh nghiệm thực tế, đảm nhiệm đ ược những công việc phức tạp, đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật - công nghệ, có khả năng truyền nghề và DN” [4, tr.15]. Theo khái niệm này, những người có trình độ kỹ năng và kỹ xảo nhất định thông qua tích luỹ kinh nghiệm thực tế (không có bằng, chứng chỉ đào tạo) cũng thuộc nhóm LĐKT. Một điều dễ nhận ra trong khái niệm trên là đã tách bạch ra LĐKT và lao động quản lý. LĐKT đảm nhiệm những công việc phức tạp, đáp ứng yêu cầu kỹ thuật - công nghệ, không đề cập đến đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, quản lý. Do đó, cách tiếp cận thuật ngữ “LĐKT” này gần với thực tế thị trường lao động hơn, nếu xét ở vị trí của lao động trong quá trình sản xuất. Mặt khác, trong quản trị doanh nghiệp, để định mức hao phí thời gian lao động, thường phân chia lao động thành lao động công nghệ, lao động phụ trợ, phục vụ và lao động quản lý. Rõ ràng, LĐKT được xếp vào lao động công nghệ, là những lao động trực tiếp thực hiện nhiệm vụ sản xuất theo quy trình công nghệ nhằm làm biến đổi đối tượng lao động về các mặt hình dáng, kích thước, cơ lý hoá tính…để sản xuất sản phẩm. Đây là loại lao động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các doanh nghiệp và cũng đang cần thiết trong thị trường lao động. Như vậy, để tiếp cận với khái niệm “LĐKT” gần nhất vẫn phải gắn với yêu cầu thị trường lao động. Thị trường lao động chấp nhận thuật ngữ “LĐKT” ở góc độ vị trí của nó trong quá trình sản xuất, kinh doanh là loại lao động mang tính thực hành cao, mang tính “chiến đấu” hơn là “chỉ huy”, trực tiếp điều hành máy móc, thiết bị, công nghệ để tạo ra sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có ích cho xã hội. Từ những tìm hiểu, phân tích nêu trên và đồng ý với khái niệm của nhóm tác giả Đỗ Minh Cương và Mạc Văn Tiến, có thể nêu khái niệm LĐKT ở một góc độ khác như sau: “LĐKT là loại lao động được đào tạo và cấp bằng hoặc
  9. 9 chứng chỉ một nghề nào đó ở các trình độ đào tạo trong hệ thống dạy nghề của hệ thống giáo dục quốc dân hoặc tích luỹ kinh nghiệm thực tế, có kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, có đạo đức, lương tâm ngh ề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp, có sức khoẻ, mà thị trường lao động cần nó chủ yếu là để trực tiếp điều hành máy móc, thiết bị, công nghệ có độ phức tạp khác nhau để tạo ra sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có ích cho xã hội”. Thuật ngữ LĐKT theo cách hiểu này cũng rất phù hợp với Quyết định số 201/2001/QĐ-TTG ngày 28 tháng 12 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010, Quyết định số 48/2002/QĐ-TTg ngày 11 tháng 4 năm 2002 của Thủ tướng Chính phủ về việc quy hoạch mạng lưới trường DN giai đoạn 2002-2010 và Luật Giáo dục năm 2005. Theo đó, chủ trương “hình thành hệ thống đ ào tạo kỹ thuật thực hành đáp ứng nhu cầu phát triển KT - XH, trong đó chú trọng phát triển đào tạo nghề ngắn hạn và đào tạo công nhân kỹ thuật, kỹ thuật viên, nhân viên nghiệp vụ có trình độ cao” và “mở rộng đ ào tạo công nhân kỹ thuật, kỹ thuật viên và nhân viên nghiệp vụ theo nhiều trình độ; liên thông giữa các ngành nghề, các trình độ đào tạo nghề và với các trình đ ộ đ ào tạo khác trong hệ thống giáo dục quốc dân”. Ngoài ra, có thể tìm hiểu các khái niệm liên quan trong sơ đồ 1.1. - Lao động chuyên môn: Là loại lao động được đào tạo và cấp bằng một ngành chuyên môn nào đó trong phân hệ giáo dục ĐH và sau ĐH của hệ thống giáo dục quốc dân, có năng lực nghiên cứu, sáng tạo, giải quyết những vấn đề KH - CN ở trình độ cao, mà thị trường lao động cần họ chủ yếu là đ ảm nhiệm những công việc quản lý, những công việc rất phức tạp, những hoạt động đảm bảo quá trình sản xuất liên tục và hiệu quả (lao động gián tiếp). Họ là những người quản lý, nghiên cứu, chuyên gia…, được đào tạo mang tính hàn lâm, coi trọng lý thuyết và có khả năng chuyển sang làm các công việc của LĐKT thì phải bổ sung hoặc nâng cao kỹ năng thực hành qua chương trình đào tạo liên thông.
  10. 10 Sơ đồ 1.1: Phân loại LLLĐ LLLĐ Lao động không CMKT Lao động chuyên môn LĐKT (thực hành) ( hàn lâm) (giản đơn) LĐKT LĐKT (chưa bằng/chứng chỉ) (có bằng/chứng chỉ) Thị Dạy nghề trường lao động (lao Sơ cấp nghề động trực tiếp Trung cấp nghề SXKD) CĐ nghề - D ạy nghề (đ ào tạo nghề): Hiện nay, trong tất cả các văn bản pháp quy của nhà nước, thuật ngữ “DN” hoặc “đào tạo nghề” được dùng rất phổ biến, đã có truyền thống, điều này cũng phù hợp với tình hình thực tế đất nước, xã hội đòi hỏi cần phải nhấn mạnh vai trò to lớn của đào tạo nghề nghiệp, trước yêu cầu đào tạo NNL trực tiếp lao động sản xuất có tay nghề, đáp ứng yêu cầu phát triển KT - XH. Hơn nữa, cụm từ “đào tạo nghề” thực chất là viết gọn của cụm từ “giáo dục kỹ thuật và DN" đã được sử dụng ở nền giáo dục nước nhà từ lâu đời và rất quen thuộc với nhà giáo trong hệ thống giáo dục. Mới đây, thuật ngữ “DN” theo Điều 5, Luật DN được khái niệm là “ho ạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho
  11. 11 người học nghề để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khoá học”. Còn thuật ngữ “đào tạo LĐKT” tuy mới xuất hiện cách đây khoảng 5 năm, nhưng ngày càng làm sáng tỏ hơn chiến lược phát triển giáo dục nghề nghiệp trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập, phát triển kinh tế tri thức. Trong trường hợp còn sử dụng thuật ngữ “DN” hoặc “đào tạo nghề” thì phải hiểu với nội dung mới, đó là “đào tạo LĐKT” trong hệ thống đào tạo kỹ thuật thực hành [11, tr.29]. Như vậy, theo các cách tiếp cận và phân tích nêu trên, LĐKT được “nhận dạng” bởi một số đặc trưng cơ bản: Thứ nhất, được đ ào tạo và cấp bằng hoặc chứng chỉ trong phân hệ giáo dục nghề nghiệp của hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất. Thực chất đây là đặc trưng điều kiện để được gọi là LĐKT. Vấn đề đặt ra là trong hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất cần phải phân hệ và có chức năng, nhiệm vụ rõ ràng cho từng phân hệ. Phân hệ giáo dục nghề nghiệp chủ yếu là đào tạo LĐKT thực hành ở nhiều cấp trình đ ộ, có thể bao gồm cả ĐH kỹ thuật, công nghệ, đ ào tạo ra những kỹ sư thực hành. Mặt khác, bằng cấp, chứng chỉ của LĐKT phải được công nhận, đánh giá bởi hệ thống tiêu chuẩn kỹ năng nghề chuyên nghiệp, có giá trị sử dụng trong phạm vi to àn quốc, khu vực và thế giới trong xu thế hội nhập kinh tế sâu hơn hiện nay. Thứ hai, có kiến thức, kỹ năng thực hành kỹ thuật, nghề nghiệp. Đây là đặc trưng cơ bản của LĐKT và cũng là điều kiện cần để LĐKT có thể tìm được việc làm phù hợp trong thị trường lao động. Các doanh nghiệp tuyển dụng LĐKT vào làm việc không chỉ biết nghề, mà đòi hỏi LĐKT phải có kỹ năng nghề, thực hành, điều khiển máy móc, thiết bị, công nghệ ở mức độ phức tạp khác nhau trong doanh nghiệp, mà không phải đào tạo lại quá lâu, gây lãng phí cho doanh nghiệp và xã hội. Thứ ba, Có khả năng, năng lực thích ứng với sự biến đổi nhanh chóng của công nghệ trong thị trường lao động. Trong thực tế đời sống xã hội, sự
  12. 12 phát triển, biến đổi mạnh mẽ của KH - CN và ứng dụng rộng rãi nó đ ã cho ra đời nhiều sản phẩm có giá trị, suy cho đến cùng, nhân tố giữ vai trò quyết định là trình độ, năng lực của con người, trong đó đội ngũ LĐKT phải là lực lượng “xung kích”, đón đầu sự biến đổi đó. Thứ tư, Có thể học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề ở các trình độ cao hơn bằng chính sách học liên thông. LĐKT có thể nâng cao trình độ từ bán lành nghề, đến lành nghề và trình độ cao hoặc có thể bổ sung những phần chưa học để liên thông với phân hệ giáo dục ĐH và trên ĐH trong hệ thống giáo dục quốc dân. 1.1.2. Khái niệm và nội dung phát triển lao động kỹ thuật Như trên đã phân tích, LĐKT là bộ phận quan trọng của NNL. Phát triển LĐKT chính là phát triển NNL ở giai đoạn người lao động trưởng thành. Phát triển NNL là khái niệm rộng. Theo cách hiểu của các nhà kinh tế, là phát triển tổng thể tiềm năng của con người, bao gồm cả giai đoạn giáo dục, đào tạo cho con người chưa trưởng thành và đã trưởng thành. LĐKT là bộ phận của NNL, phát triển đội ngũ LĐKT chỉ giới hạn ở giai đoạn đã trưởng thành, bao gồm cả đ ào tạo mới và đào tạo lại đội ngũ LĐKT theo hướng thực hành, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động. Nhóm tác giả Đỗ Minh Cương và Mạc Văn Tiến quan niệm: “Phát triển LĐKT là quá trình làm biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu LĐKT ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của thị trường lao động và của nền KT - XH trong quá trình CNH, HĐH”[11, tr.37]. Để phát triển LĐKT đáp ứng thị trường lao động hiện nay, một mặt phải nâng cao tính năng động xã hội của nó, mặt khác thông qua chính sách, cơ chế và giải pháp, biện pháp của nhà nước và cộng đồng xã hội để không ngừng giải phóng tiềm năng vô tận của LĐKT, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội. Như vậy, khi xem xét quá trình phát triển LĐKT phải được xem xét trong mối quan hệ không thể tách rời với quá trình đào tạo, phân bố, sử dụng hiệu quả và cả quản lý LĐKT.
  13. 13 “Phát triển LĐKT là quá trình làm biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu LĐKT gắn với phân bố và sử dụng có hiệu quả đội ngũ này trong thị trường, đáp ứng yêu cầu của nền KT - XH trong quá trình CNH, HĐH đất nước và hội nhập nền kinh tế quốc tế”. Phát triển LĐKT phải tác động vào các yếu tố hợp thành của LĐKT, làm cho nó biến đổi theo hướng ngày càng đáp ứng tốt nhất yêu cầu của quá trình phát triển KT - XH. Các yếu tố chủ yếu bao gồm: Số lượng, chất lượng, cơ cấu, phân bố và sử dụng LĐKT. Thứ nhất, phát triển về số lượng LĐKT. Đây là nội dung rất quan trọng của phát triển LĐKT trong điều kiện của nước ta tỷ lệ lao động qua đào tạo trong LLLĐ đạt thấp, quy mô đào tạo nhỏ. Việt Nam hiện đang thiếu trầm trọng đội ngũ cán bộ chuyên môn, quản lý cung cấp cho các khu công nghiệp, khu chế xuất trong các vùng trọng điểm (chỉ đáp ứng khoảng 5-10% ), đặc biệt là đội ngũ công nhân lành nghề chưa thoả mãn yêu cầu (đáp ứng khoảng 30-40%) [9, tr.43]. Rõ ràng, nước ta đang “thiếu thầy, thiếu thợ”. Phát triển về số lượng LĐKT ở Việt Nam hiện nay, một mặt phải tăng nhanh đ ội ngũ LĐKT bán lành nghề, lành nghề để cung cấp cho các ngành nghề đang sử dụng công nghệ sử dụng nhiều lao động, mặt khác phải tăng nhanh đội ngũ LĐKT có trình độ cao (nhân viên, kỹ thuật viên tin học, mạng, công nghệ hoá dầu, công nghệ sinh học, vật liệu mới…) để đáp ứng đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước. Thứ hai, phát triển về chất lượng LĐKT. Đây là nội dung đáng quan tâm của phát triển LĐKT hiện nay. Chất lượng giáo dục và đào tạo nói chung, đào tạo LĐKT nói riêng còn nhiều hạn chế. “Phát triển giáo dục nghề nghiệp và giáo dục ĐH chưa cân đối với giáo dục THPT. Đào tạo nghề còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng” [19, tr.170-171]. Trong thực tế, lao động qua đ ào tạo ở các trường DN, về cơ b ản chưa đáp ứng, thoã mãn yêu cầu của các nhà doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong các khu công nghiệp, khu chế xuất.
  14. 14 Phát triển về chất lượng LĐKT không phải đơn thuần là không ngừng nâng cao kỹ năng, khả năng hành nghề của người lao động ở các trình độ tương ứng độ phức tạp công việc trong đời sống sản xuất xã hội mà còn phải trau dồi đạo đức nghề nghiệp, tác phong, kỷ luật lao động. Học một nghề ra thực hành được nghề đó trong thị trường lao động đã khó, nhưng hiểu về nghề đó, say mê nó thì càng khó hơn. Phát triển về chất lượng LĐKT còn phải gắn chặt hệ thống chuẩn mực, đánh giá của thế giới. Chất lượng ở đây phải mang tính “sánh vai” cùng với lực lượng LĐKT của khu vực và thế giới và tất nhiên hệ thống văn bằng, chứng chỉ của LĐKT trong nước phải được công nhận ở cấp quốc gia và thế giới. Thứ ba, biến đổi về cơ cấu LĐKT. Sự biến đổi cơ cấu LĐKT gắn liền với chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động. Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, vùng kinh tế đặt ra áp lực chuyển đổi cơ cấu LĐKT cho hợp lý. Nghiên cứu biến đổi cơ cấu LĐKT ở Việt Nam hiện nay trong bối cảnh cuộc cách mạng KH - CN bùng nổ, quá trình toàn cầu hoá diễn ra với tốc độ nhanh chưa từng thấy, đất nước lại đứng trước yêu cầu phải rút ngắn quá trình CNH, HĐH, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, vấn đề đặt ra hình thành cơ cấu LĐKT phải thật hợp lý, phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển KT - XH từng thời kỳ đất nước. Mặt khác, xem xét biến đổi cơ cấu LĐKT trong phát triển đội ngũ LĐKT còn phải gắn với phân bố LĐKT cho từng ngành, nghề, vùng kinh tế, mọi sự phân bố không hợp lý đội ngũ LĐKT, gây ra dư thừa ngành này, thiếu hụt LĐKT ngành khác sẽ không mang lại hiệu quả KT - XH lớn nhất và gây lãng phí cho xã hội. Thực trạng đối với nước ta, đội ngũ lao động CMKT hiện phân bố còn bất hợp lý giữa các cấp, ngành, vùng kinh tế, nông thôn, thành thị. Đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật lại phân bố không đồng đều, phần lớn làm việc ở các cơ quan trung ương (94,4%); trong các doanh nghiệp số lao động có trình độ CĐ trở lên chỉ chiếm 32% (trong khi đó ở Hàn Quốc là 48%, Nhật Bản
  15. 15 64,4%, Thái Lan 58,2%). Riêng lao động ở nông thôn chiếm 71% cả nước, nhưng chỉ có 10% qua đào tạo, trong đó đào tạo nghề chỉ có 0,44%. LLLĐ khoa học kỹ thuật được đào tạo cho ngành nông nghiệp thì 89,9% làm việc ở cơ quan trung ương, cấp tỉnh chỉ có 8,9%, còn cấp huyện 1,8%, ở cấp xã và cơ sở hầu như không có. Ngành luyện kim hơn 32% công nhân không có tay nghề chuyên môn, ngành xây dựng có tới 63%, hơn 11% chỉ có tay nghề bậc 1 và bậc 2. Số công nhân học hết tiểu học là 12,72%, hết THCS là 39,51%, hết THPT là 30,75%. Số nhân viên đã tốt nghiệp ĐH chỉ chiếm 10,18% [9, tr.44-45]. Với chất lượng lao động và phân bố như vậy, Việt Nam khó có thể áp dụng thành công những tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh. Thứ tư, sử dụng hiệu quả LĐKT. Hiệu quả của việc sử dụng LĐKT phải được thể hiện trước hết trong việc giải quyết một cách hài hoà m ối quan hệ về cung - cầu lao động trong các ngành, lĩnh vực sản xuất KT-XH. Có thể coi đây là vấn đề có tính then chốt trong tổ chức, quản lý và sử dụng LĐKT. Hiệu quả của việc sử dụng LĐKT còn đồng nghĩa với việc phải tạo ra được một tỷ lệ nhất định về lực lượng LĐKT tương ứng với từng ngành, lĩnh vực để có thể đáp ứng được với tính chất và yêu cầu về LĐKT trong từng ngành và lĩnh vực đó. Tuỳ vào tính chất công việc của từng ngành, lĩnh vực mà yêu cầu về tỷ lệ lực lượng LĐKT có thể cao thấp khác nhau. Nhìn chung trong xu thế phát triển của các ngành KT-XH hiện nay, để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động thì yêu cầu về một đội ngũ những người lao động có CMKT ngày càng cao có thể đáp ứng được các yêu cầu của công việc trong tất cả các ngành nghề, lĩnh vực KT-XH đang đ ặt ra hết sức bức thiết. Hiệu quả sử dụng LĐKT còn phụ thuộc vào việc bố trí, sử dụng LĐKT. Thực chất của bố trí, sử dụng LĐKT là quá trình tổ chức, sắp xếp lại lực lượng LĐKT một cách hợp lý, tạo điều kiện cho người lao động phát huy được trình độ chuyên môn và năng lực sáng tạo của mình trong quá trình sản xuất. Ở đây vấn đề cần lưu ý là phải căn cứ vào công việc để xếp người, tức là
  16. 16 phải trên cơ sở yêu cầu của công việc để tìm người bố trí, sắp xếp. Người có đào tạo ở chuyên ngành nào phải đ ược làm đúng chuyên ngành được đào tạo, người có trình độ tay nghề cao được làm việc ở những khâu, những công đoạn phức tạp, người có trình độ lao động thấp sẽ nhận đ ược khoản thù lao tương xứng với công sức mình bỏ ra. Điều đó không những góp phần vào việc nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, m à quan trọng là khuyến khích người lao động có ý thức nâng cao trình độ, người đ ược đào tạo có điều kiện cống hiến, thể hiện năng lực của mình trong quá trình sản xuất. Nói tới vấn đề hiệu quả sử dụng LĐKT còn phải nói tới các chế độ, chính sách đối với người lao động. Bởi, thông qua chế độ, chính sách đối với người lao động nếu đặt ra một cách phù hợp, kịp thời sẽ tạo ra khả năng có thể khai thác tính tích cực, năng động, sáng tạo đối với từng người lao động trong từng cương vị của mình. Chế độ, chính sách đối với người lao động được thể hiện ra trên nhiều phương diện như chính sách về tiền lương, các chế độ quyền lợi được hưởng (cả về vật chất và tinh thần) của người lao động. Để phát huy tối đa động lực tích cực trong các hoạt động của người lao động đối với công việc, đòi hỏi các chế độ, chính sách này phải được ban hành đầy đủ, kịp thời, đảm bảo giải quyết hài hoà về mối quan hệ giữa khả năng cống hiến và các quyền lợi chính đáng được hưởng thụ của người lao động. Sử d ụng có hiệu quả LĐKT đòi hỏi phải tạo lập thị trường lao động để mọi người có cơ hội lựa chọn việc làm đúng với năng lực, sở trường của mình. Nhờ có thị trường lao động mà cung - cầu về LĐKT có điều kiện gặp nhau. Thông qua thị trường lao động, người sở hữu sức lao động có thể bán nó đúng giá trị như nó vốn có, ngược lại người bỏ tiền thuê sức lao động cũng có thể thuê được sức lao động phù hợp với nhu cầu và khả năng của mình. Thông qua thị trường lao động, các nhu cầu về cung - cầu LĐKT được đáp ứng tối đa, mọi sự giao dịch, trao đổi sức lao động không đúng với giá trị vừa chậm đáp ứng vừa gây lãng phí đều đ ược loại trừ.
  17. 17 Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường hiện nay, để dụng hiệu quả nguồn LĐKT còn nhất thiết phải tạo lập được hệ thống các thiết bị, các phương tiện lao động (nhà xưởng, máy móc, công nghệ, các trang thiết bị và các phương tiện bảo hộ lao động…) tương ứng để có thể khai thác hết khả năng và năng lực của từng người lao động. Thực tế ở nước ta hiện nay nói chung và thành phố Đà Nẵng nói riêng cho thấy việc tạo lập môi trường sản xuất hiện đại (quá trình sản xuất với sự hỗ trợ của hệ thống các phương tiện máy móc, trang thiết bị hiện đại) có một ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc tạo ra năng suất, chất lượng, hiệu quả trong sử dụng LĐKT. Bởi nhờ có công nghệ máy móc hiện đại đã góp phần làm cho năng suất lao động hiện có của người lao động được tăng lên, các trang thiết bị, các phương tiện bảo hộ lao động phù hợp sẽ làm cho quá trình lao động của người lao động trở nên an toàn hơn, tránh được sự rủi ro không cần thiết ảnh hưởng tiêu cực tới quá trình lao động. Chính vì vậy để đảm bảo tính hiệu quả cho quá trình sử dụng nguồn LĐKT thì việc đầu tư các phương tiện, máy móc, trang thiết bị, tạo môi trường sản xuất, kinh doanh hiện đại trong điều kiện hiện nay là hết sức cần thiết. 1.1.3. Vai trò của lao động kỹ thuật và phát triển lao động kỹ thuật trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập CNH, HĐH ở nước ta là “quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các ho ạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý KT - XH từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại tạo ra năng suất lao động x ã hội cao” [29, tr.502]. LĐKT là là lực lượng to lớn, xung kích của NNL, là nhân tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất trong quá trình đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Để thực hiện mục tiêu đ ến năm 2020, nước ta cơ bản sẽ trở thành một nước công nghiệp thì phải phát huy, huy động mọi nguồn lực, trong đó nguồn lực con người, đặc biệt là NNL chất lượng cao mà đội ngũ LĐKT là lực lượng đại diện cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu và tư duy đóng một vai trò hết sức to lớn.
  18. 18 Đối với các nước đang phát triển như đất nước ta, muốn rút ngắn quá trình CNH, HĐH phải xem giải pháp phát triển đội ngũ LĐKT là giải pháp mang tính đột phá, đặc biệt trong điều kiện các nguồn lực khác như nguồn lực tài chính còn hạn hẹp. Vị trí, vai trò của LĐKT được thể hiện ở tất cả các mặt, lĩnh vực, các quan hệ trong đời sống KT - XH, an ninh, quốc phòng của quốc gia, đặc biệt có vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng hiện đại, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trong bối cảnh của toàn cầu hoá kinh tế và của nền kinh tế tri thức. Thứ nhất, LĐKT với tăng trưởng kinh tế. Bài toán tăng trưởng kinh tế của bất cứ một quốc gia nào, dù nước đó giàu hay nghèo cũng đều được giải đáp bằng việc phát huy, sử dụng có hiệu quả bốn thông số, đó là NNL, nguồn tài nguyên thiên nhiên, vốn và công nghệ. Tuỳ theo điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia, sử dụng, phát huy định lượng, tỷ trọng và định tính các nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế ở mỗi quốc gia là rất khác nhau và trình độ kết hợp chúng hiệu quả cũng đem lại kết quả tăng trưởng kinh tế khác nhau. Nhiều nhà kinh tế cho rằng, “ vốn, nguyên vật liệu, công nghệ - đều có thể mua hoặc vay được trong nền kinh tế thế giới. Một nước có thể mua những thiết bị thông tin viễn thông, máy tính, máy phát điện và máy bay chiến đấu hiện đại nhất. Thế nhưng những hàng hoá vốn này chỉ có thể đ ược sử dụng và duy trì hữu hiệu bởi những người công nhân có kỹ năng và được đào tạo. Trình độ văn hoá, sức khoẻ, kỷ luật được nâng cao và gần đây nhất là khả năng sử dụng máy tính đã làm cho năng suất lao động tăng thêm rất nhiều” [42, tr.311-312]. Nhiều nước phát triển trong khu vực và các nước ASEAN trong thập niên cuối của thế kỷ 20 đ ã trở thành những “con rồng”, “con hổ”, thực chất là các quốc gia đó đã biết điều chỉnh chiến lược tăng trưởng theo hướng khai thác tối đa nguồn lực con người và coi đào tạo NNL là quốc sách hàng đầu.
  19. 19 Đối với nước ta, tăng trưởng kinh tế có ý nghĩa cực kỳ to lớn, là điều kiện đi đầu cho việc chống tụt hậu về kinh tế, rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất nước. Đại hội Đảng to àn quốc lần thứ X khẳng định: “Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được b ước chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá và tinh thần của nhân dân. Đẩy mạnh CNH, HĐH và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năn 2020” [19, tr.185-186]. Song, trong chiến lược tăng trưởng kinh tế, không đ ược xem nhẹ các nguồn lực vật chất khác mà phải lồng ghép để đạt đ ược hiệu quả cao nhất. Đây là bài toán kinh tế vĩ mô cần giải quyết, nhất là trong điều kiện cụ thể của nước ta, lao động dư thừa lớn, buộc phải cân nhắc lựa chọn công nghệ hợp lý. Áp dụng công nghệ cao để đẩy nhanh quá trình tăng trưởng và phát triển, nhưng cũng đồng nghĩa với việc nhiều người sẽ không có việc làm do có máy móc, công nghệ tự động thay thế, hệ số co giãn về việc làm do tăng 1% GDP đến mức tiềm năng trong điều kiện áp dụng công nghệ hiện đại thì việc làm sẽ giảm. Chính vì vậy, phát triển đội ngũ LĐKT ở nước ta phải đồng thời phát triển nhanh đội ngũ LĐKT ở trình độ cao và đội ngũ LĐKT bán lành nghề, lành nghề để cung cấp cho các ngành kinh tế áp dụng dụng công nghệ sử dụng nhiều lao động. Thứ hai, LĐKT với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động. Cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động có mối quan hệ biện chứng với nhau. Cơ cấu kinh tế luôn ở trạng thái động, hình thành, biến đổi rất khách quan theo yêu cầu của thị trường, thuộc quyền định đoạt của các chủ thể đầu tư, kinh doanh, sản xuất trực tiếp và đặc biệt chịu sự tác động mạnh của áp dụng công nghệ mới. Chính vì vậy, cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh hơn cơ cấu lao động, thị trường lao động cần loại lao động nào, số lượng, chất lượng, cơ cấu đ ào tạo, tay nghề ra sao trong một thời gian đều do xu hướng chuyển dịch
  20. 20 cơ cấu kinh tế quyết định và chi phối, không phải do bất cứ một mệnh lệnh hành chính nào từ phía nhà nước. Tuy nhiên, chuyển dịch cơ cấu kinh tế không thể nhanh và bền vững được theo hướng CNH, HĐH và hội nhập một khi cơ cấu lao động quá lạc hậu và không phù hợp, đây chính là lực cản lớn nhất trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đẩy nhanh việc chuyển dịch cơ cấu lao động, mặt khác chuyển dịch cơ cấu lao động tạo điều kiện và tiền đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế để phát huy tiềm năng, thế mạnh của từng ngành, từng vùng, từng thành phần kinh tế trong sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta với một tư duy mới là nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, lựa chọn những ngành hàng, những sản phẩm và dịch vụ có thể tạo ra bước đột phá trong tốc độ phát triển nền kinh tế, mà ở đó LĐKT là bộ phận của cơ cấu lao động, là lực lượng nòng cốt, tiên phong; phát triển đ ội ngũ LĐKT là điều kiện, tiền đề để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế tổng thể. Với ý nghĩa đó, đội ngũ LĐKT có vai trò hết sức to lớn với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Sự thiếu hụt về số lượng, chất lượng, cơ cấu lao động, bao gồm cả lao động chuyên môn, lao động quản lý, nhà nghiên cứu, các chuyên gia và đặc biệt là đội ngũ LĐKT có trình độ cao là một cản trở lớn đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế . Thành tựu 20 năm đổi mới đất nước vừa qua là đáng ghi nhận và tự hào, tuy nhiên “cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm”, “tỷ trọng ngành dịch vụ trong GDP còn thấp”, “các vùng kinh tế trọng điểm chưa phát huy được các thế mạnh”, “các thành phần kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng” [19, tr.164-165]. “Năng lực cạnh tranh của từng sản phẩm, của doanh nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế…vẫn còn khá thấp so với các nước trong khu vực và thế giới…chính vì chi phí sản xuất (bao gồm chi phí vật chất và chi phí quản lý và d ịch vụ) cho một chu trình sản xuất một sản phẩm còn khá cao; bên cạnh đó, chất lượng lao động và năng suất lao động thấp” [38, tr.173].
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1