ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

NGUYỄN THỊ PHƢỢNG

SỬ DỤNG BẢO TÀNG ĐƢỜNG HỒ CHÍ MINH

TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM THỜI KÌ 1954- 1975

Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRẦN HƢNG ĐẠO

HÀ ĐÔNG - HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM LỊCH SỬ

HÀ NỘI- 2017

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

NGUYỄN THỊ PHƢỢNG

SỬ DỤNG BẢO TÀNG ĐƢỜNG HỒ CHÍ MINH

TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM THỜI KÌ 1954- 1975

Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRẦN HƢNG ĐẠO

HÀ ĐÔNG - HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM LỊCH SỬ

Chuyên ngành: LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC

(BỘ MÔN LỊCH SỬ)

Mã số: 60 1401 11

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Hoàng Thanh Tú

HÀ NỘI- 2017

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành được luận văn này, cho tôi xin tỏ lòng biết ơn chân thành

và sâu sắc nhất đến cô giáo: TS. Hoàng Thanh Tú- giảng viên trường Đại học

giáo dục- Đại học Quốc gia Hà Nội, người đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình chỉ

bảo và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình hoàn thành luận văn.

Đồng thời tôi xin chân thành cảm ơn tới Ban giám hiệu trường Đại học

Giáo dục- Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi được học tập và

nghiên cứu.

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban quản lý bảo tàng đường Hồ

Chí Minh cùng các thầy cô giáo, các em học sinh của trường THPT Trần

Hưng Đạo, THPT Lê Qúy Đôn, THPT Quang Trung (Hà Đông- Hà Nội) đã

giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn.

Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình và bạn bè đã luôn động

viên, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu khoa học.

Hà Nội, ngày 20 tháng 10 năm 2017

Học viên

i

Nguyễn Thị Phượng

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

DHLS Dạy học Lịch sử

GD - ĐT Giáo dục và đào tạo

GV Giáo viên

HS Học sinh

ii

THPT Trung học phổ thông

MỤC LỤC

Lời cảm ơn ......................................................................................................... i

Danh mục các chữ viết tắt ................................................................................. ii

Danh mục bảng.................................................................................................. v

Danh mục biểu đồ, hình ................................................................................... vi

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG

BẢO TÀNG ĐƢỜNG HỒ CHÍ MINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ

VIỆT NAM Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG .......................... 10

1.1. Cơ sở lí luận ............................................................................................. 10

1.1.1. Quan niệm về sử dụng bảo tàng trong dạy học lịch sử ở trường phổ

thông ................................................................................................................ 10

1.1.2. Các loại bảo tàng ................................................................................... 15

1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong

dạy học lịch sử ở trường phổ thông ................................................................ 17

1.1.4. Yêu cầu sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử. 25

1.2. Cơ sở thực tiễn ......................................................................................... 27

1.2.1. Thực trạng việc khai thác và sử dụng bảo tàng trong dạy học lịch sử

1.2.2. Thực trạng việc sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy và học

hiện nay ........................................................................................................... 27

Lịch sử Việt Nam thời kì 1954- 1975……………………………………….32

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ............................................................................... 42

CHƢƠNG 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP SỬ DỤNG BẢO TÀNG ĐƢỜNG HỒ

CHÍ MINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM THỜI KÌ 1954 –

1975 Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRẦN HƢNG ĐẠO - HÀ

iii

ĐÔNG- HÀ NỘI.THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM .............................................. 43

2.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung của phần lịch sử Việt Nam thời kì .................. 43

2.1.1. Vị trí và mục tiêu ................................................................................... 43

2.1.2. Nội dung cơ bản của lịch sử Việt Nam thời kì 1954 – 1975. ............ 45

2.2. Khảo sát nguồn tư liệu tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh có thể sử dụng

trong dạy học lịch sử Việt Nam thời kì 1954 - 1975. .................................... 47

2.3. Một số biện pháp sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy học

lịch sử Việt Nam thời kì 1954- 1975 ở trường THPT Trần Hưng Đạo- Hà

Đông- Hà Nội. ................................................................................................. 53

2.3.1.Bài học nội khóa. .................................................................................... 53

2.3.2. Hoạt động ngoại khóa ........................................................................... 70

2.4. Thực nghiệm sư phạm .............................................................................. 84

2.4.1. Mục đích, đối tượng thực nghiệm ......................................................... 84

2.4.2. Nội dung, phương pháp thực nghiệm....................................................84

2.4.3. Kết quả thực nghiệm ............................................................................. 85

TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ............................................................................... 89

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................................... 90

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 92

iv

DANH MỤC PHỤ LỤC ................................................................................ 95

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1.1. Tổng hợp ý kiến GV và HS về hiệu quả sử dụng bảo tàng đường

Hồ Chí Minh trong DHLS............................................................................... 35

Bảng 1.2. Tổng hợp ý kiến GV và HS về hình thức hoạt động ngoại khóa tại

bảo tàng đường Hồ Chí Minh (%) .................................................................. 38

v

Bảng 2.1. Bảng tổng hợp kết quả điểm kiểm tra giữa lớp TN và lớp ĐC ...... 86

DANH MỤC BIỂU ĐỒ, HÌNH

Biểu đồ 1.1. Tổng hợp ý kiến GV và HS về sự cần thiết của việc sử dụng bảo

tàng trong DHLS ở trường phổ thông. .................................................................................... 34

Biểu đồ 1.2. Tổng hợp ý kiến GV và HS về sự quan tâm đối với bảo tàng

đường Hồ Chí Minh (%) ................................................................................................................. 37

Hình 2.1. Ngã ba Đồng Lộc ............................................................................ 55

Hình 2.2. Lính Mỹ chém giết dân ở Tây Ninh ................................................ 56

Hình 2.3. Tuổi 20 ở Trường Sơn ..................................................................... 57

Hình 2.4. Qua cầu treo .................................................................................... 58

Hình 2.5. Xe cơ giới chở hàng vào miền Nam ............................................... 59

Hình 2.6. Đường kín Trường Sơn ................................................................... 60

Hình 2.7. Giao liên gùi thồ .............................................................................. 65

Hình 2.8. Ngựa gùi hàng ................................................................................. 66

Hình 2.9. Voi gùi hàng .................................................................................... 66

Hình 2.10. Đôi dép cao su của anh hùng Nguyễn Viết Sinh .......................... 68

vi

Hình 2.11. Tuổi 20 ở Trường Sơn ................................................................... 69

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ và quá trình xây

dựng đất nước theo con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa, nước ta đã có

nhiều sự chuẩn bị và đầu tư vào các ngành: Kinh tế, văn hóa, xã hội… để chúng

ta vững vàng hơn, có thể sánh vai với các cường quốc năm châu. Giáo dục đào

tạo cũng luôn được quan tâm và được coi là quốc sách hàng đầu.

Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay đòi hỏi giáo dục phổ thông

phải đào tạo những con người phát triển toàn diện, phục vụ sự nghiệp công

nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Yêu cầu này được cụ thể hóa trong Luật

giáo dục năm 2005, được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt

Nam khóa XI thông qua (sửa đổi, bổ sung năm 2010): "Mục tiêu giáo dục là

đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức

khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ

nghĩa xã hội, hình thành bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công

dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" [15, tr.18]. Trong các nhà

trường phổ thông, mỗi bộ môn học đều có đặc trưng riêng và đều góp phần vào

việc thực hiện mục tiêu của giáo dục và đào tạo, môn Lịch sử cũng có một vị trí

rất quan trọng trong việc giáo dục đạo đức, hình thành nhân cách cho học sinh.

Trong dạy học Lịch sử, giáo viên sử dụng nhiều phương pháp để nâng

cao hiệu quả bài học, trong đó phương pháp trực quan góp phần quan trọng

tạo biểu tượng cho học sinh, cụ thể hóa các sự kiện và khắc phục tình trạng hiện

đại hóa lịch sử của học sinh. Để hiểu sâu, nhớ kỹ và nắm rõ các sự kiện lịch sử,

ngoài các tài liệu, kiến thức lịch sử trong sách giáo khoa thì có nhiều nguồn tài

liệu, hiện vật khác cũng rất phong phú, nhất là ở gần địa phương nơi các em học

tập, sinh sống như hệ thống bảo tàng, các di tích lịch sử - văn hóa…

Bên cạnh việc lưu giữ, trưng bày các hình ảnh, hiện vật lịch sử, bảo tàng

1

còn thực hiện chức năng tuyên truyền, giáo dục, khơi dậy tinh thần yêu nước và

lòng tự hào dân tộc cho khách tham quan. Ở Hà Nội có rất nhiều bảo tàng: Bảo

tàng Hồ Chí Minh, bảo tàng Lịch sử, bảo tàng Dân tộc học… mỗi bảo tàng đều

có những tư liệu đặc trưng và nội dung, ý nghĩa khác nhau. Trong đó, bảo tàng

đường Hồ Chí Minh là nơi trưng bày và lưu giữ nhiều tài liệu, hiện vật liên quan

đến một thời kì vô cùng hào hùng của lịch sử dân tộc. Bảo tàng đường Hồ Chí

Minh thuộc phường Yên Nghĩa, quận Hà Đông, Hà Nội là một công trình văn

hóa mang tính đặc thù của bộ đội Trường Sơn, nơi duy nhất ở Việt Nam lưu

giữ một con đường bằng bảo tàng riêng: Đường Trường Sơn - Đường Hồ Chí

Minh.

Nhà thơ Phạm Tiến Duật, một cựu chiến binh Trường Sơn, khi đến Bảo

tàng đã viết vào sổ cảm tưởng: “Không thể cho một dãy núi vào trong một

ngôi nhà. Nhưng ngôi nhà, Bảo tàng đường Hồ Chí Minh, đã chứa đựng tất cả

kim cương và quặng quý của dãy núi ấy”. Với những hiện vật quý giá gắn liền

với lịch sử của dân tộc cùng sự tâm huyết của đội ngũ cán bộ bảo tàng, mà từ

khi mở cửa đến nay, Bảo tàng đã trở thành một địa chỉ tham quan hấp dẫn với

du khách. Đồng thời, Bảo tàng cũng làm tròn trách nhiệm giáo dục truyền

thống lịch sử cho thế hệ trẻ Việt Nam

Việc khai thác và sử dụng bảo tàng trong dạy học nói chung và dạy học

lịch sử nói riêng đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, nghiên

cứu lý luận dạy học, giáo dục và giáo dục lịch sử và các nhà nghiên cứu lịch

sử, văn hóa. Cho đến nay đã có một số bài viết, công trình nghiên cứu đề cập

đến vấn đề này ở những khía cạnh, mức độ khác nhau nhưng chưa có công

trình nghiên cứu nào đưa bảo tàng đường Hồ Chí minh vào dạy học Lịch sử.

Vì vậy, việc chọn đề tài “Sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong

dạy học lịch sử Việt Nam thời kì 1954-1975 ở trường THPT Trần Hưng

Đạo-Hà Đông- Hà Nội” làm đề tài luận văn, sẽ có ý nghĩa về mặt khoa học,

bổ sung cho lý luận dạy học lịch sử, nhất là việc sử dụng bảo tàng trong dạy

học lịch sử, vừa có ý nghĩa thực tiễn, vừa góp phần nâng cao chất lượng dạy

2

học môn lịch sử hiện nay.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Vấn đề sử dụng tư liệu của bảo tàng trong dạy học Lịch sử ở trường

THPT đã được các nhà giáo dục học, giáo dục Lịch sử quan tâm nghiên cứu.

Trong cuốn sách “Phương pháp dạy học lịch sử” do Phan Ngọc Liên chủ

biên (NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2010) đã nêu rõ vị trí và ý nghĩa của

hoạt động ngoại khóa; các hình thức tổ chức và cách tiến hành những hoạt

động

ngoại khóa trong dạy học Lịch sử, tác giả đã nhấn mạnh đến việc tổ chức

hoạt động tham quan bảo tàng, khu di tích lịch sử - văn hóa.

Trong cuốn sách“Phương pháp dạy học môn Lịch sử ở trường trung

học phổ thông” do Vũ Quang Hiển – Hoàng Thanh Tú chủ biên (NXB Đại

học Quốc gia Hà Nội, 2014) đã nêu những nét khái quát vị trí, nội dung, ý

nghĩa và các hình thức của hoạt động ngoại khóa Lịch sử. Bên cạnh đó tác giả

đề xuất các biện pháp và hình thức tiến hành dạy học và tổ chức hoạt động

ngoại khóa phù hợp tại bảo tàng cho HS ở trường THPT.

Trong cuốn sách “Các con đường , biện pháp nâng cao hiệu quả dạy

học lịch sử ở trường phổ thông” của tác giả Nguyễn Thị Côi (NXB Đại học

Sư phạm Hà Nội, 2006) đã nói đến vai trò, ý nghĩa của việc tổ chức tham

quan học tập tại bảo tàng, di tích lịch sử cho học sinh ở trường THPT. Tác giả

đã khẳng định, thông qua các hiện vật trưng bày giúp học sinh được trực quan

sinh động những sự kiện lịch sử giúp các em tạo được biểu tượng lịch sử cụ

thể và là chỗ dựa để hình thành các kết luận khái quát.

Trong cuốn “Rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ sư phạm môn Lịch sử” do

Nguyễn Thị Côi chủ biên (NXB Đại học Sư phạm, 2011) đề cập đến ý nghĩa

của hoạt động ngoại khóa, rèn luyện năng lực tổ chức và cách thức tiến hành

tổ chức hoạt động ngoại khóa.

Cuốn “Bảo tàng lịch sử, cách mạng trong dạy học lịch sử ở trường phổ

thông trung học” của tác giả Nguyễn Thị Côi, xuất bản năm 1998 đã trình bày

3

các vấn đề, như: Vai trò và ý nghĩa của bảo tàng lịch sử, cách mạng trong dạy

học lịch sử ở trường phổ thông trung học; Nội dung các vật trưng bày của bảo

tàng lịch sử, cách mạng và khả năng sử dụng trong dạy học lịch sử ở trường

phổ thông trung học; Các hình thức, phương pháp sử dụng tư liệu bảo tàng

trong dạy học lịch sử.

Cuốn sách “Bảo tàng, di tích khơi nguồn cảm hứng dạy và học lịch sử

cho học sinh phổ thông” của tác giả Nguyễn Kim Thành (chủ biên) NXBGD

Việt Nam, 2014, đã nêu mối quan hệ giữa bảo tàng, di tích và nhà trường

trong việc dạy và học lịch sử cho học sinh phổ thông. Tác giả còn đề xuất các

hình thức dạy và học lịch sử cho học sinh tại bảo tàng đặc biệt giới thiệu câu

lạc bộ “Em yêu lịch sử” tại bảo tàng lịch sử Quốc gia cũng như tại nhiều bảo

tàng, di tích khác trong cả nước.

Tạp chí Di sản Văn hóa số 3 năm 2012, ThS. Nguyễn Kim Thành với

đề tài: “Các bảo tàng tại Hà Nội với việc nâng cao chất lượng dạy và học

môn Lịch sử trong các trường phổ thông” tác giả đã nêu rõ mối quan hệ giữa

bảo tàng với quá trình dạy học Lịch sử. Tác giả đi sâu phân tích việc tổ chức

các hoạt động của một số bảo tàng tại Hà Nội để việc dạy học Lịch sử

ở trường phổ thông đạt được hiệu quả cao hơn như tổ chức tham quan bảo

tàng, bảo tàng phối hợp với nhà trường trình bày lưu động, bảo tàng tích cực

tổ chức các hình thức câu lạc bộ, phòng khám phá để thu hút học sinh đến

tham gia.

Tạp chí Giáo dục và xã hội số 29 năm 2013, tác giả Hoàng Thanh Tú,

Chu Ngọc Quỳnh với bài “Xây dựng chương trình hoạt động ngoại khóa môn

lịch sử tại bảo tàng dân tộc học Việt Nam” đã nêu vai trò, ý nghĩa của bảo

tàng Dân tộc học Việt Nam trong dạy học lịch sử, nêu thực trạng tổ chức hoạt

động ngoại khóa, qui trình xây dựng chương trình hoạt động ngoại khóa lịch

sử tại bảo tàng DTHVN.

Tạp chí Dạy và học ngày nay số 2 năm 2017, tác giả Bùi Hà Thanh với

đề tài “Quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp” đã vạch rõ cách thức,

4

kế hoạch, sự chuẩn bị cho các hoạt động ngoài giờ lên lớp.

Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục số 10, năm 1997, đồng tác giả Nguyễn

Thị Côi - Nguyễn Văn Phong, trường Đại học Sư Phạm Hà Nội với đề tài: "Khai

thác và sử dụng tài liệu của bảo tàng, nhà truyền thống vào dạy học Lịch sử dân

tộc ở trường phổ thông" đã khái quát các hình thức, phương pháp khai thác,

sử dụng tư liệu của bảo tàng Lịch sử nói chung, nhà truyền thống nói riêng vào

dạy học Lịch sử. Cụ thể là giáo viên có thể tổ chức đưa học sinh đi tham quan

bảo tàng; giáo viên khai thác và sử dụng tư liệu để dạy học bài Lịch sử nội

khóa tại bảo tàng hoặc ở trường phổ thông; khai thác và sử dụng tư liệu để tổ

chức các triển lãm, ra báo học tập nhân các ngày lễ lớn của đất nước.

Kỉ yếu Hội thảo Khoa học Quốc gia về dạy học lịch sử ở trường phổ

thông Việt Nam (NXB Giáo dục Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo - Hội

Khoa học Lịch sử Việt Nam), tác giả Trần Đức Minh với đề tài "Khai thác tư

liệu bảo tàng lịch sử, cách mạng trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông" đã

nhấn mạnh việc khai thác tư liệu bảo tàng lịch sử, cách mạng phục vụ cho dạy

học lịch sử nói chung và hoạt động ngoại khóa lịch sử nói riêng là một yêu cầu

cấp thiết trong việc đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử, nhằm phát huy

năng lực tư duy nhận thức, tính tích cực, độc lập sáng tạo và các kĩ năng cần

thiết của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn.

Kỉ yếu Hội thảo khoa học 2015 - Đại học Cần Thơ, tác giả Phạm Ngọc

Hòa - Tô Thị Thanh Thảo với bài “Sử dụng phương pháp dạy học tích cực

trong dạy học lịch sử ở trường THPT hiện nay” đã nêu thực trạng dạy học

lịch sử ở trường phổ thông hiện nay và phương pháp vận dụng một số phương

pháp dạy học tích cực trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông.

Luận văn “Sử dụng bảo tàng phòng không, không quân trong dạy học

Lịch sử Việt Nam (1954- 1975) ở trường trung học cơ sở tại Hà Nội” của

Vương Thị Ngà năm 2014 trường ĐHSP Hà Nội đã nêu các hình thức sử

dụng bảo tàng trong dạy học nội khóa và ngoại khóa trong dạy học Lịch sử.

Luận án “Sử dụng tư liệu lịch sử địa phương trong dạy học lịch sử Việt

5

Nam giai đoạn 1954-1975 ở trường THPT tỉnh Đồng Tháp” của Phạm Xuân

Vũ 2015 trường ĐHSP Hà Nội đã nêu được các biện pháp, cách thức sử dụng

tư liệu lịch sử trong dạy học ở trường THPT.

Thông qua tìm hiểu một số tài liệu có liên quan đến đề tài, chúng

tôi thấy rằng các tác giả đã đề cập đến vai trò, ý nghĩa của bảo tàng trong dạy

học Lịch sử; đánh giá được thực trạng sử dụng bảo tàng trong dạy học Lịch

sử; xác định yêu cầu cơ bản cũng như cách thức tiến hành sử dụng bảo tàng

để dạy học; cách thức sử dụng bảo tàng trong dạy học lịch sử; hoạt động

ngoại khóa lịch sử… Đây là nguồn tư liệu quí giá để tôi thực hiện đề tài với

mong muốn góp phần bổ sung nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho GV, HS

THPT. Tuy nhiên, chưa có một tác phẩm hay một công trình nghiên cứu nào

đề cập cụ thể đến việc sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy học

lịch sử Việt Nam thời kì 1954 - 1975 ở trường THPT.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Khai thác, sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử

Việt Nam thời kì 1954 - 1975, lớp 12- Trung học phổ thông.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: Nghiên cứu của đề tài được giới hạn cho phần lịch sử

Việt Nam thời kì 1954 - 1975 lớp 12 - Trung học phổ thông.

- Về tổ chức dạy học: Tập trung vào bài nội khóa và hoạt động ngoại

khóa, trọng tâm là các bài nội khóa.

- Phạm vi điều tra khảo sát và thực nghiệm sư phạm được tiến hành tại

trường THPT Trần Hưng Đạo, THPT Quang Trung, THPT Lê Qúy Đôn - Hà

Đông - Hà Nội.

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở khẳng định vai trò,ý nghĩa của việc sử dụng bảo tàng nói

6

chung trong dạy học lịch sử, đề tài nghiên cứu nhằm đề xuất ra các hình thức

tổ chức và biện pháp khai thác, sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong

dạy học lịch sử lớp 12 nhằm phát huy năng lực tư duy sáng tạo,tự học của học

sinh,đổi mới hình thức tổ chức dạy học góp phần nâng cao chất lượng dạy học

lịch sử ở trường THPT hiện nay.

4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu lý luận về việc khai thác, sử dụng bảo tàng trong dạy học

lịch sử Việt Nam ở trường THPT.

- Nghiên cứu nội dung chương trình sách giáo khoa lớp 12 phần Lịch

sử Việt Nam thời kì 1954-1975, các tài liệu lịch sử ở bảo tàng đường Hồ

Chí Minh và xác định những nội dung cần khai thác và sử dụng trong dạy

học lịch sử Việt Nam lớp 12.

- Khảo sát tình hình dạy học lịch sử Việt Nam lớp 12 - Trung học phổ

thông ở một số trường tại Hà Đông - Hà Nội, đặc biệt thực trạng của việc khai

thác sử dụng bảo tàng nói chung và bảo tàng đường Hồ Chí Minh nói riêng

trong dạy học lịch sử Việt Nam, từ đó phát hiện những khó khăn tồn tại cần

khắc phục và những ưu điểm cần phát huy.

- Đề xuất các hình thức biện pháp sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí

Minh trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 12 ở trường THPT.

- Thực nghiệm sư phạm các hình thức, biện pháp sử dụng trên làm cơ

sở cho việc rút ra những kết luận khoa học, những đề xuất kiến nghị nhằm

khai thác, sử dụng có hiệu quả bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy học

lịch sử dân tộc.

5. Giả thuyết nghiên cứu

Nếu giáo viên biết khai thác và sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh

một cách hợp lý theo những hình thức và biện pháp đề xuất của đề tài nghiên

cứu sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của bài học lịch sử, góp phần đổi mới hình

thức tổ chức dạy học, phương pháp dạy học lịch sử ở trường THPT.

6. Phƣơng pháp nghiên cứu

7

6.1. Cơ sở phương pháp luận

Cơ sở phương pháp luận của luận văn là dựa trên quan điểm của chủ

nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng

và Nhà nước ta về công tác giáo dục, nghiên cứu giáo dục, nghiên cứu lịch

sử, văn hóa, về khai thác và sử dụng bảo tàng trong dạy học lịch sử Việt Nam.

6.2. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học giáo

dục sau đây:

- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Đọc, phân tích, tổng hợp về các tài

liệu, văn kiện của Đảng, tâm lý học, giáo dục học, lý luận dạy học bộ môn về

vấn đề sử dụng bảo tàng trong dạy học lịch sử ở trường THPT và các tài liệu

hiện vật của bảo tàng. Đọc các tài liệu về bảo tàng đường Hồ Chí Minh, nghiên

cứu chương trình, sách giáo khoa lịch sử (lớp 12, thời kì 1954 - 1975) và các tài

liệu liên quan khác.

- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:

+Phỏng vấn, điều tra thực trạng việc khai thác và sử dụng bảo tàng trong

dạy học lịch sử nói chung và việc khai thác sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí

Minh trong dạy học lịch sử Việt Nam (thời kì 1954 - 1975) nói riêng.

+Thực nghiệm sư phạm các hình thức biện pháp, sử dụng bảo tàng

đường Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 12 để minh chứng

cho tính đúng đắn, khả thi của các biện pháp sư phạm đã đề ra.

7. Dự kiến đóng góp của luận văn

- Khẳng định vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc sử dụng bảo tàng

đường Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử Việt Nam thời kì 1954 - 1975.

- Đánh giá thực trạng việc việc sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh

trong dạy học lịch sử ở trường THPT.

- Đề xuất một số biện pháp để sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh

trong dạy học lịch sử Việt Nam thời kì 1954 – 1975 ở trường THPT một cách

8

hiệu quả.

8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

- Ý nghĩa khoa học: làm phong phú thêm lí luận PPDHLS nói chung và

vấn đề sử dụng Bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử ở trường

THPT nói riêng.

- Ý nghĩa thực tiễn: là nguồn tài liệu tham khảo cho sinh viên các

trường Cao đẳng, Đại học Sư phạm; GV môn Lịch sử ở trường THPT.

9. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,

đề tài luận văn bao gồm hai chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng bảo tàng đường

Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử Việt Nam ở trường THPT.

Chương 2: Một số biện pháp sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh

trong dạy học lịch sử Việt Nam thời kì 1954 – 1975 ở trường THPT Trần

9

Hưng Đạo- Hà Đông- Hà Nội. Thực nghiệm sư phạm.

CHƢƠNG 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG

BẢO TÀNG ĐƢỜNG HỒ CHÍ MINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ

VIỆT NAM Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

1.1. Cơ sở lí luận

1.1.1. Quan niệm về sử dụng bảo tàng trong dạy học lịch sử ở

trường phổ thông

Trong lịch sử phát triển văn hóa nhân loại, bảo tàng ra đời như một loại

thiết chế văn hóa được hiểu một cách phổ biến là nơi lưu giữ các giá trị vật

chất và tinh thần tiêu biểu thuộc về quá khứ của một lĩnh vực, một nền văn

hóa cộng đồng, rộng hơn là của nhân loại. Vì thế, khi nhắc đến bảo tàng, công

chúng thường nghĩ tới một địa điểm không chỉ có kiến trúc đẹp, mà còn là nơi

trưng bày, đưa tới nhiều điều thú vị. Trên thế giới, bảo tàng là một loại hình

văn hóa được đặc biệt chú trọng phát triển nhằm quảng bá lịch sử - văn hóa

vốn là niềm tự hào của mỗi quốc gia.

Có nhiều định nghĩa khác nhau về bảo tàng.

“Bảo tàng là cơ quan sưu tầm, giám định và trưng bày các tài liệu,

hiện vật có tính chất nguyên gốc, đầu tiên của tri thức về lịch sử phát triển của

xã hội và tự nhiên, về lịch sử của cuộc đấu tranh cách mạng.” [5, tr.8].

“Bảo tàng là cơ sưu tầm, thu thập, gìn giữ, nghiên cứu, trưng bày và giới

thiệu những hiện vật lịch sử của nền văn hóa tinh thần và vật chất.” [11, tr.15].

Theo Luật Di sản văn hóa ban hành năm 2009, ghi rõ: “Bảo tàng là

nơi bảo quản và trưng bày các sưu tập về lịch sử, tự nhiên, xã hội nhằm phục

vụ nhu cầu nghiên cứu, giáo dục, tham quan và hưởng thụ văn hóa của nhân

dân” [16, tr. 42].

Tại các bảo tàng có những tài liệu, hiện vật gốc, những sa bàn, tranh

10

ảnh minh họa, sơ đồ được trưng bày một cách có hệ thống. Tất cả những tài liệu,

hiện vật đó được trưng bày ở bảo tàng góp phần quan trọng trong việc hình

thành, bổ sung kiến thức lịch sử cho HS. Bảo tàng "là một trung tâm thông

tin, có lượng thông tin nguyên gốc, chính xác, phong phú, dễ tiếp cận và được

nhận thức bằng phương tiện trực quan, sinh động" [25, tr.173].

Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, quá trình nhận thức của con người bao

giờ cũng đi từ hình ảnh cụ thể, trực tiếp đến trừu tượng, từ đơn giản đến khái

quát. Qúa trình nhận thức tuân theo các qui luật. Một qui luật được phản ánh

trong công thức nổi tiếng của Lênin “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu

tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng của

sự nhận thức chân lý, nhận thức hiện thực khách quan”. Đặc điểm cơ bản của

việc học lịch sử là học sinh không trực tiếp quan sát các sự kiện lịch sử như

nó đã từng diễn ra, do đó phương tiện trực quan rất quan trọng và có ý nghĩa

trong dạy học lịch sử.

Khi học sinh được đến bảo tàng, được nhìn thấy các tư liệu, hiện vật ở

bảo tàng, đặc biệt là các tư liệu, hiện vật gốc, HS sẽ có được những biểu

tượng cụ thể về những sự kiện lịch sử đã diễn ra và hiểu lịch sử một cách sống

động nhất. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc khắc sâu kiến thức lịch

sử, giáo dục đạo đức, tư tưởng, tình cảm cho HS. Qua đó, HS cũng được rèn

luyện các kĩ năng thực hành bộ môn lịch sử : kĩ năng quan sát, miêu tả, thuyết

trình… và biết rút ra kết luận về bản chất của các sự kiện, hiện tượng lịch sử.

Vậy việc sử dụng bảo tàng (bao gồm cả không gian bảo tàng và các hình ảnh,

tư liệu, hiện vật của bảo tàng) và khai thác các tư liệu hiện vật của bảo tàng trong dạy

học lịch sử là một phương tiện trực quan có giá trị trong giảng dạy, cung cấp nguồn

kiến thức phong phú cho học sinh mà trong một tiết học giáo viên không thể cung cấp

hết. Bên cạnh đó còn “giúp giáo viên lịch sử biết cách sưu tầm, bổ sung, làm giàu vốn

đồ dùng dạy học và kiến thức lịch sử cho mình. Điều này đặc biệt bổ ích đối với

những trường phổ thông xa trung tâm thành phố, không có bảo tàng” [5, tr.20].

11

Hệ thống bảo tàng ở nước ta khá phong phú, gồm hơn 120 bảo tàng

với nhiều bảo tàng có quy mô quốc gia như Bảo tàng Lịch sử quân đội, Bảo

tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam… được bảo

đảm về nội dung trưng bày, từ hiện vật đến sử liệu. Đó là nguồn tư liệu vô

cùng chân thực và quí giá trong dạy học lịch sử ở các trường phổ thông.

Trong sự nghiệp văn hóa - giáo dục của nước ta, các hoạt động bảo

tàng, di tích có vị trí hết sức quan trọng, đã được Đảng và nhà nước ta khẳng

định: “Bảo tàng, di tích là một thiết chế văn hóa không thể thiếu được trong

xã hội hiện tại cũng như mai sau”. Hiện nay, bảo tàng có hai chức năng đó là

chức năng nghiên cứu (sưu tầm, trưng bày, giới thiệu về lịch sử - văn hóa của

dân tộc) và chức năng giáo dục (cho công chúng, nhất là với các thế hệ học

sinh còn đang ngồi trên ghế nhà trường về tình yêu quê hương đất nước, lòng

tự hào dân tộc và những lý tưởng, khát khao).

Hai chức năng này có mối quan hệ biện chứng, thực hiện tốt cả hai

chức năng trên thì bảo tàng mới đáp ứng được nhiệm vụ do xã hội đặt ra.

Thứ nhất, chức năng nghiên cứu khoa học của bảo tàng: mọi hoạt

động trong công tác nghiên cứu khoa học của Bảo tàng đều phải xoay quanh

các hiện vật gốc phù hợp với từng loại hình của bảo tàng. Đó là trọng tâm, là

cơ sở của mọi công tác nghiên cứu khoa học của bảo tàng. Hay nói cách khác,

chức năng này được biểu hiện ở hai hoạt động sau:

- Những hoạt động nghiên cứu khoa học nhằm không ngừng bổ sung

cho khâu bảo quản cơ sở của Bảo tàng, di tích có giá trị tiêu biểu về các mặt

lịch sử, khoa học, thẩm mỹ.

- Những hoạt động có liên quan tới việc chỉnh lý, hệ thống hóa và bảo

quản một cách khoa học các di tích của Bảo tàng nhằm biến các di tích đó

thành nguồn tư liệu đáng tin cậy phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học

của các ngành khác. Đồng thời nâng cao trình độ văn hóa của đông đảo quần

chúng nhân dân.

12

Thứ hai, chức năng giáo dục của Bảo tàng: Trong cuốn sách “Bảo

tàng, di tích nơi khơi nguồn cảm hứng dạy và học lịch sử cho học sinh phổ

thông” của tác giả Nguyễn Thị Kim Thành (chủ biên) đã đề cập tới chức năng

giáo dục của bảo tàng: “Bảo tàng là cơ quan giáo dục công cộng,là nơi lưu

giữ các kí ức của các dân tộc, các nền văn hóa. Bảo tàng còn là cơ quan văn

hóa - giáo dục thực hiện chức năng giáo dục và tuyên truyền,bảo tàng đã,

đang và sẽ góp phần giáo dục nhằm nâng cao dân trí, tăng cường sự hiểu

biết, khơi dậy niềm tự hào về truyền thống yêu nước, giữ gìn bản sắc văn hóa

dân tộc và xây dựng đất nước giàu đẹp. Cùng với các nhà văn hóa, câu lạc

bộ, thư viện, rạp chiếu phim và các khu vui chơi giải trí khác, bảo tàng thuộc

hệ thống giáo dục cho học sinh ngoài nhà trường, có chức năng giáo dục

quan trọng nhằm góp phần hoàn thiện nhân cách con người” [tr. 13]. Thông

qua các tư liệu và hiện vật gốc được trưng bày ở bảo tàng nhằm gợi dậy

những tư tưởng, tình cảm tốt đẹp cho người xem chứ không phải thông qua

sách vở. Bảo tàng thực hiện chức năng giáo dục khoa học của mình bằng cách

tuyên truyền, phổ biến kiến thức và thông qua các hoạt động của mình, Bảo

tàng giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, cần phải “đánh

thức” các tài liệu, hiện vật để chúng có tác dụng giáo dục tới học sinh.

Với chức năng như trên, Bảo tàng có các nhiệm vụ:

+ Tiến hành công tác nghiên cứu khoa học.

+ Tiến hành thu thập các tài liệu, hiện vật gốc phù hợp với các loại

hình Bảo tàng.

+ Công tác kiểm kê giám định một cách có khoa học các hiện vật của

Bảo tàng.

+ Công tác bảo quản hiện vật của Bảo tàng.

+ Công tác trưng bày của bảo tàng.

+ Công tác tuyên truyền, giáo dục và là tài liệu quan trọng, cần thiết

13

phục vụ cho các bài học lịch sử.

Rõ ràng là, trong thời đại ngày nay, sự phát triển nhanh chóng, mạnh

mẽ của các phương tiện thông tin đại chúng đã mang lại vô vàn những hình

thức truyền tin, phổ biến tri thức hết sức nhanh nhạy, tiện ích và đầy hấp dẫn,

nhưng các bảo tàng, với vai trò là một thiết chế văn hoá đặc thù, vẫn không hề

suy giảm khả năng đưa lại cho công chúng những thông tin, những tri thức

chân thực, đáng tin cậy và lý thú từ các sưu tập hiện vật gốc vốn thấm đượm

và phản ánh sâu sắc trí tuệ và tài năng, tinh thần và tình cảm của các thế hệ

người Việt Nam, của hồn thiêng sông núi và dân tộc. Theo đó, nhiệm vụ giáo

dục khoa học cho học sinh phổ thông sẽ luôn là một trong những nhiệm vụ

quan trọng hàng đầu của các bảo tàng Việt Nam hiện nay.

Để cho hoạt động và chức năng của bảo tàng được phát huy tối đa, các

bảo tàng đã có nhiều cố gắng tạo sự quan tâm và hấp dẫn cho người tham

quan, học tập:

- Tạo lập không gian văn hóa hấp dẫn, thu hút học sinh, đưa bảo tàng

thực sự trở thành “một học đường” giảng dạy trực quan.

- Vừa tham quan bảo tàng vừa được trực tiếp tiếp xúc, trao đổi và giao

lưu với các nhân chứng lịch sử (người thực việc thực).

- Tổ chức chương trình giáo dục cho học sinh theo chuyên đề trưng bày

của bảo tàng.

- Xây dựng các phòng, các khu vực khám phá tìm hiểu, nghiên cứu

riêng cho học sinh.

- Xây dựng các bộ triển lãm lưu động để đưa hiện vật tới các nhà

trường phục vụ học sinh, đặc biệt là các đối tượng học sinh ở vùng sâu, vùng

xa, vùng đồng bào dân tộc ít người.

- Tổ chức các cuộc thi, các hoạt động truyền thống, hoạt động ngoại

khoá cho học sinh phổ thông tại bảo tàng.

- Sử dụng nội dung trưng bày của bảo tàng trong việc dạy và học lịch sử,

14

giúp cho các em hiểu bài một cách sâu sắc và thích thú hơn với môn lịch sử.

- Cung cấp các tài liệu, số liệu, ảnh nhằm bổ sung hoặc minh hoạ cho

các bài giảng trong sách giáo khoa, qua đó, giúp giáo viên dạy môn lịch sử

các trường phổ thông có thêm giáo cụ trực quan sinh động cho bài giảng.

- Tranh thủ tối đa mọi khả năng của các phương tiện thông tin đại

chúng trong việc quảng bá, tiếp thị về nội dung bảo tàng.

- Đưa bảo tàng đến với trường học là xu hướng tiếp cận mới cần được

phát huy, để gắn kết bảo tàng với nhà trường, chủ yếu là giáo viên, và hệ

thống cộng tác viên là những người dạy lịch sử ở các trường phổ thông, đưa

nội dung tham quan bảo tàng vào chương trình giáo dục ngoài nhà trường của

ngành giáo dục, qua đó tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh được

phát huy cao độ.

Bảo tàng, với tư cách là một thiết chế văn hóa và giáo dục, không thể

chỉ đơn thuần cung cấp cho xã hội những bài “thuyết minh” như hơn bốn

mươi năm về trước mà phải có sự thay đổi trong nhận thức và hành động

nhằm đảm bảo chức năng giáo dục, mang lại lợi ích cho cộng đồng và phù

hợp với sự phát triển của xã hội.

Sử dụng bảo tàng nói chung và bảo tàng đường Hồ Chí Minh nói riêng

trong dạy học Lịch sử ở trường phổ thông là một hình thức để nâng cao hiệu

quả bài học, là phương tiện trực quan có giá trị trong giảng dạy, cung cấp

nguồn kiến thức phong phú cho học sinh.

1.1.2. Các loại bảo tàng

Theo tác giả Nguyễn Thị Côi trong cuốn “Bảo tàng Lịch sử, cách

mạng trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông” đã phân ra thành 6 loại Bảo

tàng:

Một là, các bảo tàng lịch sử, như: Bảo tàng Cách mạng Việt Nam

(nay là bảo tàng lịch sử Quốc gia), Bảo tàng Quân đội, Bảo tàng Hồ Chí

Minh... Các loại bảo tàng này chiếm vị trí rất quan trọng trong toàn bộ hệ

15

thống bảo tàng Việt Nam.

Những hiện vật được trưng bày trong các bảo tàng này phản ánh về

đời sống văn hóa vật chất, tinh thần của con người Việt Nam từ khi hình

thành đến nay.

Hai là, các bảo tàng nghệ thuật nhằm sưu tầm , bảo quản, nghiên cứu

những tác phẩm nghệ thuật của nhiều thời đại khác nhau vào mục đích khoa

học và giáo dục thẩm mĩ cho quần chúng.

Ba là, các bảo tàng chuyên ngành như: Bảo tàng phụ nữ, Bảo tàng

dân tộc học, Bảo tàng Không quân, Bảo tàng Văn học... những bảo tàng này

chiếm một số lượng nhất định trong toàn bộ hệ thống bảo tàng. Nhiệm vụ

chính là sưu tầm, bảo quản, nghiên cứu các hiện vật gốc của một ngành khoa

học nhất định để nói lên sự phát triển, phục vụ cho công tác khoa học của

chính bản thân ngành đó và phục vụ quần chúng nhân dân.

Bốn là, Bảo tàng lịch sử tự nhiên gồm các bảo tàng cùng loại hình với

các ngành khoa học. Đối tượng nghiên cứu là các mặt khác nhau của thế giới

tự nhiên, như Bảo tàng động vật học, Bảo tàng thực vật học, Bảo tàng hải

dương học...

Năm là, các bảo tàng lưu niệm nhằm lưu giữ lại trong quần chúng

nhân dân những sự kiện, những nhân vật lịch sử lớn, quan trọng trên mọi mặt

của đời sống xã hội, chính trị, quân sự, văn học, nghệ thuật... Loại bảo tàng

này giới thiệu một cách hệ thống diễn biến những sự kiện, hoạt động của các

nhân vật lịch sử. Ví như, bảo tàng ở di tích lịch sử nhà tù Hỏa Lò, nhà số 5

Hàm Long, 48 Hàng Ngang (Hà Nội), di tích Kim Liên (Nghệ An), Pác Bó

(Cao Bằng), Tân Trào (Tuyên Quang)...

Sáu là, các bảo tàng ở địa phương: cũng là cơ quan thực hiện chức

năng nghiên cứu khoa học và giáo dục ở mức độ nhất định, chủ yếu là sưu

tầm, bảo quản, nghiên cứu và trưng bày những tài liệu, hiện vật về văn hóa

vật chất, tinh thần cũng như tự nhiên của địa phương đó. Hiện nay, các loại

bảo tàng này và các nhà lưu niệm, truyền thống của địa phương đang phát

16

triển rất mạnh mẽ ở các địa phương trong nước. [tr.10-11].

Những bảo tàng, nhà lưu niệm địa phương có vai trò quan trọng trong

việc giáo dục truyền thống của địa phương, của dân tộc cho đông đảo quần

chúng nhân dân.

Bảo tàng Đường Hồ Chí Minh thuộc loại hình lịch sử quân sự. Bảo

tàng là nơi gìn giữ, bảo quản các tài liệu, hiện vật, quí hiếm để giới thiệu về

những chiến công anh hùng, sự hi sinh của bộ đội Trường Sơn và tình đoàn

kết keo sơn chiến đấu của anh em ba nước Đông Dương trong cuộc kháng

chiến chống Mỹ cứu nước. Bảo tàng đường Hồ Chí Minh cách trung tâm Hà

Nội khoảng 16km, thuộc quận Hà Đông. Bảo tàng được khởi công xây dựng

vào tháng 12/1996, khánh thành và đưa vào sử dụng ngày 14/4/1999 nhân dịp

kỉ niệm 40 năm ngày mở đường Hồ Chí Minh- ngày truyền thống bộ đội

Trường Sơn anh hùng.

Với phương pháp trưng bày hết sức ấn tượng cùng với 15.000 hiện vật

gốc gắn liền với lịch sử của dân tộc cùng sự tâm huyết của đội ngũ cán bộ bảo

tàng, mà từ khi mở cửa đến nay, Bảo tàng đã trở thành một địa chỉ tham quan

hấp dẫn với du khách. Đồng thời, Bảo tàng cũng làm tròn trách nhiệm giáo

dục truyền thống lịch sử, ý thức dân tộc cho thế hệ trẻ Việt Nam.

1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh

trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông

1.1.3.1. Vai trò

Bảo tàng đường Hồ Chí Minh cũng giống như nhiều bảo tàng khác luôn

có những đóng góp nhất định trong việc giáo dục học sinh và góp phần làm

phong phú hơn lịch sử của nhân loại.

Thứ nhất, đưa bảo tàng vào dạy học lịch sử trong trường phổ thông

nhằm thực hiện phương châm giáo dục của Đảng.

Trong luật giáo dục (2005) các mục tiêu, nguyên tắc giáo dục của Đảng

đã được thể chế hóa, làm rõ: “Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn

17

diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với

lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành, bồi dưỡng nhân

cách, phẩm chất và năng lực công dân đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ

quốc.” [15, tr. 8]. Do đó các môn học trong nhà trường ngoài cung cấp tri

thức, kĩ năng cho học sinh cần phải góp phần đào tạo, bồi dưỡng và giáo dục

thế hệ trẻ.

Học bộ môn lịch sử trong đó có sử dụng hiệu quả nguồn tư liệu của bảo

tàng sẽ góp phần không nhỏ vào việc thực hiện mục tiêu giáo dục của Đảng

đã đề ra.

Thứ hai, sử dụng bảo tàng trong dạy học lịch sử Việt Nam là nguồn tài

liệu quí giá ngoài sách giáo khoa, góp phần bổ sung kiến thức, làm phong phú

hơn cho nội dung bài học lịch sử. Đặc trưng của dạy học lịch sử là “học sinh

không thể trực quan sinh động được các sự kiện (kể cả sự kiện đang xảy ra

ngoài tầm mắt các em) không thể tái diễn lại lịch sử trong phòng thí nghiệm

(dù trong điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển, các nhà nghiên cứu cũng chỉ

dựng lại một phần của sự kiện)” [13, tr.127]. Với nội dung trình bày trong

SGK học sinh chưa có được cái nhìn đầy đủ, khái quát về sự kiện lịch sử hay

sự phát triển của lịch sử dân tộc. Do đó, sử dụng bảo tàng trong dạy học lịch

sử Việt Nam sẽ giúp các em có cái nhìn đầy đủ và khái quát và toàn diện hơn

những vấn đề lịch sử, điều đó sẽ tạo nên sự hứng thú, tìm tòi, khơi dậy niềm

tự hào cho học sinh.

Thứ ba, sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử

cũng là một biện pháp nâng cao chất lượng bộ môn trong thực trạng dạy và

học môn lịch sử hiện nay. Học sinh được học tập tại bảo tàng, được xem các

tư liệu, hiện vật tại bảo tàng đưa vào bài học lịch sử sẽ làm các em có kiến

thức phong phú, chân thực hơn và hiểu được những đóng góp, hi sinh lớn lao

của các thế hệ cha anh cho dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ đầy

gian khổ trên tuyến đường Trường Sơn huyền thoại. Bên cạnh đó, HS được

tham quan, học tại bảo tàng, được hoạt động qua các trò chơi sẽ tạo cho các

18

em sự hứng thú, tiếp cận lịch sử vừa chân thực vừa không khô khan .Với các

tư liệu được cung cấp, phân tích lồng ghép trong các bài học sẽ tạo cho các

em sự yêu thích và hứng thú với bộ môn lịch sử. Qua đó cũng tạo động lực

học tập và trách nhiệm của các em trong hiện tại và tương lai.

1.1.3.2. Ý nghĩa

Cung cấp kiến thức lịch sử:

Bảo tàng đường Hồ Chí Minh trưng bày hơn 2.000 hiện vật khác nhau

về thời kì “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước ” của đoàn 559 anh hùng bao

gồm cả tư liệu hiện vật trong nhà và ngoài trời. Mỗi tư tư liệu,hiện vật của

bảo tàng đều liên quan tới những vấn đề lịch sử của thời kì chống Mĩ (1954 -

1975). Học sinh được học trên lớp và được bổ sung kiến thức tại bảo tàng sẽ

làm cho học sinh có một cái nhìn sâu sắc hơn về sự kiện lịch sử.

Ví dụ, khi học bài 21 “ Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu

tranh chống đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở Miền Nam (1954 - 1965)”

(SGK Lịch sử lớp 12) phần “Chiến tranh đặc biệt” GV nên kết hợp với chủ đề

1 trưng bày của bảo tàng (Thành lập Đoàn 559). Bước đầu tổ chức và phát

triển tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh, góp phần

đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ - Ngụy (1959-1964). Đây

là chủ đề mở đầu giới thiệu sự ra đời của Đoàn 559 trên tuyến đường chi viện

chiến lược Trường Sơn với khẩu hiệu “Đi không để dấu, nấu không để khói,

nói không thành tiếng” với phương thức vận chuyển vác bằng vai, thồ bằng

ngựa, voi và bằng xe đạp của bộ đội Trường Sơn. Chủ đề trưng bày này của

bảo tàng đã bổ sung thêm kiến thức cho học sinh về con đường chi viện của

miền Bắc cho tiền tuyến miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ. Học sinh sẽ

được mở rộng kiến thức về cuộc chiến tranh của đế quốc Mỹ bằng mọi cách

ngăn chặn sự chi viện của hậu phương với tiền tuyến khi thực hiện tinh thần

khẩu hiệu “Mở đường mà tiến, đánh địch mà đi” của cán bộ, chiến sĩ Trường

Sơn cũng như tinh thần dũng cảm, ngoan cường, ý chí quyết chiến, quyết

19

thắng đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ.

Ví dụ dạy bài 22: “ Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống đế

quốc Mỹ xâm lược. Nhân dân miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất (1965 -

1973)” (SGK Lịch sử lớp 12) phần “Chiến lược chiến tranh cục bộ”,trong

phòng trưng bày “Trường Sơn - nơi thử nghiệm chiến tranh điện tử của Mỹ”

học sinh sẽ được hiểu rõ hơn cuộc chiến tranh ác liệt của dân tộc ta khi phải

chống lại một siêu cường về kinh tế và quân sự như đế quốc Mỹ. Mô hình

“Cây nhiệt đới”, Mỹ đã sử dụng hệ thống điều khiển máy bay hiện đại để

hòng ngăn chặn con đường chi viện của ta. Để tăng cường khả năng ngăn

chặn các đoàn vận tải trên các tuyến đường Trường Sơn, quân đội Mỹ sử

dụng các máy bay vận tải như АС-119, АС-47, АС-130 trang bị một hệ thống

tác chiến điện tử rất hiện đại, hoạt động hiệu quả trong môi trường thiếu ánh

sáng và nhiễu loạn bởi các vụ nổ. Đó là các hệ thống TV quang học điện tử

nhạy sáng hoạt động trong điều kiện ánh sáng mờ, hệ thống radar và video

quan sát hồng ngoại FLIR vùng bán cầu phía trước của máy bay, hệ thống

"Black Crow" (quạ đen) phát hiện sự đột biến của từ trường (khi động cơ khởi

động và nổ máy, có hiện tượng đánh lửa ở bugi).

Ví dụ, ảnh “Đường 20 Quyết Thắng”: tuyến đường vượt đỉnh Trường

Sơn nối hậu phương với tiền tuyến, trên tuyến đường này có 3 trọng điểm

ATP, túc cua chữ A, ngầm TaLê đèo Phu-la-nhích. Năm 1966, để mở được

con đường này bộ đội Trường Sơn phải chọc thủng dãy núi hơn 100km. Và

hoàn thiện trong vòng chưa đầy 3 tháng. Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận xét

“ Con đường này là con đường kì công, kì tích, kì quan, là con đường huyết

mạch từ Đông sang Tây”. Ngay từ khi con đường mới được mở xong kẻ địch

đã phát hiện và liên tục đánh phá ngày đêm với đủ loại, đủ kiểu máy bay,kể cả

siêu pháo đài bay B52. Có ngày chỉ ở một trọng điểm đã bị chúng đánh 38

trận, chúng đánh từ bom nổ ngay đến bom chờ nổ, từ trường, bom bi, bom lá

và cả cây nhiệt đới. Ở cua chữ A, có đợt chúng tập trung B52 đánh phá 32

20

trận liên tiếp, có trận chúng trút một lúc hàng trăm tấn bom, làm cho hàng

chục kilomet vuông đang xanh tươi biến thành một vùng đỏ quạch, trơ trụi,

không một bụi cây, ngọn cỏ nào sống sót. Đất đã bị cày xới, nghiền nát thành

bột, lội bộ ngập đến nửa ống chân.

Phát triển kĩ năng:

Trong quá trình tìm hiểu và khai thác các tư liệu hiện vật ở bảo tàng

đường Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử ngoài việc góp phần hình thành

kiến thức lịch sử, giáo dục tư tưởng, đạo đức, còn góp phần rèn luyện kỹ

năng, phát triển các năng lực tư duy độc lập và sáng tạo của học sinh.

Sử dụng các tư liệu hiện vật ở bảo tàng trong dạy học lịch sử Việt Nam

góp phần rèn luyện cho học sinh thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp, so

sánh, khái quát hóa, trừu tượng hóa. Việc sử dụng tài liệu, hiện vật ở bảo tàng

trong dạy học lịch sử không dừng lại ở việc minh họa, tạo biểu tượng lịch sử mà

còn từng bước hình thành khái niệm giúp học sinh nắm vững đặc trưng bản chất,

mối liên hệ giữa các sự kiện lịch sử, rút ra bài học, quy luật lịch sử…

Qua tham quan bảo tàng kết hợp với hướng dẫn viên của bảo tàng,học

sinh được rèn luyện kĩ năng quan sát dựa trên các nguồn tư liệu được trưng bày

trong bảo tàng. Trên cơ sở đó, học sinh cũng được phát triển kĩ năng tưởng

tượng và diễn đạt trôi chảy, logic các vấn đề liên quan đến bài học lịch sử.

Ví dụ: Khi giáo viên giới thiệu hình ảnh “Đường ống dẫn dầu” được

bắt đầu từ biên giới Việt - Trung kéo dài đến miền Đông Nam Bộ, học sinh

được quan sát và trình bày những hiểu biết của mình về đường ống dẫn dầu

này. Đó là một dòng chảy huyền thoại được xây dựng nên bằng quyết tâm,

lòng dũng cảm, trí thông minh và cả sự hy sinh của cán bộ chiến sĩ ngành

xăng dầu Quân đội nhân dân Việt Nam. Có thể nói rằng đường ống xăng dầu

vào Nam là kỳ tích của cả dân tộc góp phần "đánh Mỹ và thắng Mỹ".

Đây cũng là con đường đầy huyền thoại mà người Mỹ không thể nào

biết rõ, bởi họ không thể nào tưởng tượng được rằng trong điều kiện kỹ thuật

21

của Việt Nam, lại bị bom đạn đánh phá liên tục bất cứ ở điểm nào mà Việt

Nam vẫn hình thành được một đường ống dẫn xăng dầu dài hàng nghìn

kilomet, lại còn nối với nhiều cảng nhỏ để tiếp nhận dầu từ các tàu biển...

Tuy nhiên, không chỉ người Mỹ, mà cả những nước bạn của Việt Nam

như Liên Xô, Trung Quốc, những người đã trực tiếp viện trợ và giúp đỡ cả

xăng dầu và vật tư cũng không hình dung Việt Nam có thể làm được một hệ

thống đường ống dẫn xăng dầu như thế. “Lần đầu tiên trong lịch sử chiến

tranh ở Việt Nam,tuyến đường ống dẫn xăng dầu từ hậu phương lớn vượt

Trường Sơn vào đến tuyến chiến lược tạo nên một nhân tố mới cực kì quan

trọng cho vận chuyển cơ giới với qui mô lớn” [19, tr. 37].

Trên cơ sở đó, bồi dưỡng cho các em lòng tự hào, ngưỡng mộ tài trí

cũng như công sức của bộ đội Trường Sơn và tình yêu quê hương, trách

nhiệm đối với xã hội.

Sử dụng các tư liệu, hiện vật ở bảo tàng trong dạy học lịch sử còn giúp

HS phát triển các năng lực tri giác, như quan sát, hình dung, tưởng tượng về

các sự kiện lịch sử một cách sinh động, cụ thể.

Ví dụ: Học sinh được tham quan các hiện vật trưng bày ngoài trời như

các loại xe, máy, phương tiện vận chuyển, đảm bảo giao thông,vũ khí chiến

đấu của bộ đội Trường Sơn đã sử dụng để bảo vệ tuyến đường. Hay xem

“Hầm chỉ huy Sở tiền phương của Bộ Tư lệnh Đoàn 559”, “cầu treo”, “phà

qua sông”… các em có thể thuyết trình nêu lên những khó khăn của bộ đội

Trường Sơn khi phải chống lại một đế quốc sừng sỏ trên thế giới với sức

mạnh về tài chính và quân sự.

Giáo dục tư tưởng,thái độ cho học sinh

Trong cuốn sách “Bảo tàng, di tích nơi khơi nguồn cảm hứng dạy và

học lịch sử cho học sinh phổ thông”, tác giả Nguyễn Thị Kim Thành đã nêu

lên chức năng giáo dục của bảo tàng: “Bảo tàng là cơ quan giáo dục công

cộng, là nơi lưu giữ những kí ức của các dân tộc, các nền văn hóa. Bảo tàng

22

còn là cơ quan văn hóa- giáo dục thực hiện chức năng giáo dục và tuyên

truyền, bảo tàng đã, đang và sẽ góp phần giáo dục làm nâng cao dân trí, tăng

cường sự hiểu biết, khơi dậy niềm tự hào về truyền thống yêu nước, giữ gìn

bản sắc văn hóa dân tộc và xây dựng đất nước giàu đẹp. Cùng với các nhà văn

hóa, câu lạc bộ, thư viện, rạp hát, rạp chiếu phim và các khu vui chơi giải trí

khác, bảo tàng thuộc hệ thống giáo dục cho học sinh ngoài nhà trường, có

chức năng giáo dục quan trọng nhằm góp phần hoàn thiện nhân cách con

người” [tr.13].

Bảo tàng đường Hồ Chí Minh có rất nhiều hình ảnh cũng như hiện vật

chứa đựng nhiều cảm xúc với người tham quan và đặc biệt có tính giáo dục

cao đối với các thế hệ học sinh khi đến thăm bảo tàng.

Hình ảnh “Thùng phuy - hầm di động” là dụng cụ tự làm bằng vỏ phuy

xăng được bao quanh bên ngoài một lớp tre nứa của chiến sĩ D24 công binh

BT26 Đoàn 571 BTL 559, là phương tiện giúp bộ đội Trường Sơn tránh bị sát

thương khi tháo dỡ bom bi và các loại bom sát thương trong những năm 1968

đến năm 1972. Học sinh sẽ có một sự trân trọng, cảm phục trước sự sáng tạo

của bộ đội ta chống lại các loại vũ khí tối tân của kẻ thù.

Hình ảnh “Tuổi 20 ở Trường Sơn” với những cô gái luôn nở nụ cười

trước mưa bom, bão đạn của giặc trên tuyến đường huyền thoại đã cho học

sinh có cái nhìn lạc quan trong chiến tranh, thấy được sự hi sinh của của các

nữ chiến sĩ Trường Sơn. “Họ là những thanh niên rất trẻ, tuổi từ 17, 18 đến

30, đa số là nữ thanh niên” [7, tr. 35] nhưng họ luôn sẵn sàng hi sinh tuổi

thanh xuân của mình cho tiền tuyến, cho thắng lợi của cuộc chiến tranh chính

nghĩa. Hiện vật “Đôi dép cao su” của anh hùng Nguyễn Viết Sinh, thuộc Binh

trạm 3- Đoàn 559 sử dụng trong những năm vận chuyển hàng từ 1961 đến

1967, tổng cộng chặng đường đi bằng chu vi vòng quanh trái đất.Với hình ảnh

và chú thích như vậy học sinh sẽ cảm thấy sự nỗ lực,kiên trì vượt qua gian

khó của người chiến sĩ trước sự đánh phá ác liệt của Mỹ vào tuyến đường

cũng không ngăn được sự khó khăn, gian khổ và bước chân người lính.

23

Khi xem và được nghe giới thiệu các hiện vật “Dao quắm, dao tông,

dao găm” được bộ đội Trường Sơn sử dụng chặt cây, làm lán trại, “Thuyền

thúng” đưa hàng qua sông, “Cào sắt”, “Bừa san mặt đường ” của công binh…

học sinh sẽ thấy rõ những khó khăn, thiếu thốn của bộ đội Trường Sơn khi

phải đối đầu với những vũ khí hiện đại của kẻ thù, điều đó càng làm tăng

thêm tình cảm mến yêu của các em đối với sự hi sinh của các thế hệ cha anh

đi trước. “Từ đại ngàn Trường Sơn, bằng những chiến công thầm lặng của

mình, cán bộ, chiến sĩ đoàn 559 đã viết lên màn dạo đầu của bản trường ca

hào hùng “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” [19, tr. 62].

Khi học bài 22 (LSVN lớp 12) phần “Chiến lược chiến tranh cục bộ”,

học sinh được xem hình ảnh “Lính Mỹ chém giết dân ở Tây Ninh trong một

trận càn năm 1967” và hình ảnh người lính Mỹ cười đắc chí khi xách mảnh

xác một chiến sĩ giải phóng Việt Nam, hai hình ảnh đó sẽ làm cho học sinh

càng tăng thêm lòng căm thù giặc sâu sắc và những tội ác của chúng. Qua đó

cũng giáo dục được học sinh sự yêu chuộng hòa bình và trân trọng cuộc sống

mình đang có.

Hiện nay, trước tình hình thế giới và trong nước có nhiều diễn biến

phức tạp,chứa đựng nhiều yếu tố khó lường,các kẻ thù bên ngoài đang tìm

mọi cách phá hoại sự nghiệp đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, nói xấu

chế độ,phủ nhận những thành quả cách mạng mà chúng ta giành được,xuyên

tạc lịch sử,hạ thấp uy tín của các vĩ nhân và anh hùng dân tộc, muốn thiết lập

chế độ mới tư bản chủ nghĩa, thì công tác giáo dục chính trị - tư tưởng, nhất là

giáo dục truyền thống lịch sử, đặc biệt là thế hệ trẻ, cụ thể là học sinh,sinh

viên rất được Đảng và Nhà nước ta coi trọng.

“Thông qua những hoạt động mang tính đặc thù của mình, bảo tàng, di

tích đã tác động vào quá trình nhận thức, giáo dục truyền thống lịch sử, khơi

dậy niềm tự hào dân tộc, hướng tới những giá trị chân - thiện - mĩ đích thực

24

cho học sinh, sinh viên và thanh niên Việt Nam hiện nay” [22, tr.25].

1.1.4. Yêu cầu sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy học

lịch sử.

Tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh có rất nhiều nguồn tài liệu được trưng

bày bao gồm: tư liệu, hiện vật, phim ảnh... Các tài liệu hiện vật là minh chứng cho

quá trình ra đời, chiến đấu và trưởng thành của bộ đội Trường Sơn anh hùng “xẻ dọc

Trường Sơn đi cứu nước”. Mặc dù các tư liệu đó đã được chọn lọc và sắp xếp

khoa học theo tiến trình phát triển của lịch sử nhưng chúng ta không thể sử

dụng tất cả vào bài học. Do đó,để đạt được hiệu quả cao đòi hỏi người thực

hiện phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau:

1.1.4.1. Đảm bảo mục tiêu bài học

Mục tiêu bài học lịch sử “ chính là cái đích phải đạt đến mức độ được quyết

định, là sự cam kết của thầy và trò trong dạy học. Mục tiêu được xác định đúng là cơ

sở để giáo viên lựa chọn tài liệu lịch sử của bài-những sự kiện lịch sử cụ thể, những

biểu tượng, khái niệm” [6, tr. 33-34]. GV lựa chọn đúng nội dung khi xác định được

mục tiêu bài học sẽ làm cho kiến thức được khắc sâu, bài dạy có trọng tâm, tránh sự

lan man. GV chọn lọc tư liệu bảo tàng phù hợp với kiến thức của bài học nội khóa sẽ

làm nổi bật nội dung, kiến thức lịch sử, phát huy tính tích cực, sáng tạo trong tư duy

của học sinh. Ví dụ mục tiêu bài học là giáo dục lòng yêu nước cho học sinh thì GV

nên đưa các hình ảnh “giao liên gùi thồ”, “Các chiến sĩ phá bom mìn” , “Tuổi 20 ở

Trường Sơn” … học sinh sẽ thấy được những gian khổ, hiểm nguy và sự anh dũng,

yêu đời của các chiến sĩ nơi chiến trường đầy mưa bom bão đạn của kẻ thù. Như vậy

sẽ làm nổi bật được mục tiêu bài học đã đề ra.

1.1.4.2. Đảm bảo tính vừa sức của học sinh

Khi đã xác định được mục tiêu bài học cần phải đạt tới, GV cần lựa chọn kiến

thức sao cho phù hợp, có tính toàn diện, không tham kiến thức hoặc kiến thức quá

cao siêu so với tầm hiểu biết của học sinh sẽ làm cho giờ học lịch sử thêm nặng nề

hơn. Hình ảnh, hiện vật đưa ra đa phần học sinh phải hiểu được sự gắn kết của nó với

25

bài học. “Đồ dùng trực quan có vai trò rất lớn trong việc giúp học sinh nhớ kĩ, hiểu

sâu những hình ảnh, những kiến thức lịch sử. Hình ảnh được giữ lại đặc biệt vững

chắc trong trí nhớ chúng ta là hình ảnh mà chúng ta thu được bằng trực quan”. Từ đó

“nhìn vào bất kì đồ dùng trực quan nào học sinh cũng thích nhận xét, phán đoán, hình

dung quá khứ lịch sử được phản ánh, minh họa như thế nào. HS suy nghĩ và tìm cách

diễn đạt bằng lời nói chính xác, có hình ảnh rõ ràng, cụ thể về bức tranh xã hội đã

qua” [14, tr. 44]. Đối với giờ ngoại khóa hay giờ học nội khóa, GV cùng giới thiệu

các hình ảnh, tư liệu, hiện vật của bảo tàng đối với nhưng mỗi đối tượng học sinh lại

có câu hỏi và cách khai thác khác nhau để đảm bảo học sinh đều hiểu và trả lời được

nội dung bài học.

1.1.4.3. Xây dựng kế hoạch sử dụng

Khi tìm hiểu, nắm vững đặc điểm các nguồn tư liệu của bảo tàng và sự liên

quan của các nguồn tư liệu đến bài học lịch sử, GV sẽ xây dựng kế hoạch để sử dụng

cho phù hợp với từng bài, từng đối tượng học sinh. Trong bài học nội khóa, GV

cần lên kế hoạch cụ thể, có mục tiêu, yêu cầu rõ ràng cho từng công việc,

từng bước tiến hành; phải chú ý những điều kiện cụ thể liên quan tới việc tổ

chức sử dụng Bảo tàng trong dạy học lịch sử sao cho phù hợp, ít tốn kém mà

lại có hiệu quả.

GV phải xác định được mức độ của việc khai thác các tư liệu của bảo

tàng sao cho phù hợp với điều kiện của trường mà mình dạy. Tạo được độ

mềm dẻo, phù hợp với từng đối tượng HS trong quá học tập.

Trong học ngoại khóa tại bảo tàng, GV cần lên kế hoạch trước về việc

liên hệ với nhân viên bảo tàng, cách tổ chức, điều kiện đi lại của học sinh, tài

liệu, tài chính… để đảm bảo học sinh có điều kiện tốt nhất khi được tham

quan, học tập tại bảo tàng.

1.1.4.4. Đảm bảo tính sáng tạo, phát huy tính tích cực của học sinh

Đê phát huy tính sáng tạo, tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử, trước

hết GV phải thay đổi cách dạy của mình. GV nên đưa ra các hình thức dạy học phong

26

phú hơn, kích thích sự tìm tòi, sáng tạo của học sinh. Chuyển từ cách dạy thụ động

sang lấy học sinh làm trung tâm, GV là người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn tạo nên sự

tương tác tích cực giữa người dạy và người học. GV đưa ra các tư liệu, hình ảnh về

bảo tàng đường Hồ Chí Minh cần có sự hướng dẫn cụ thể, đặt ra các câu hỏi, các tình

huống để học sinh là người giải quyết.

GV dựa vào các tư liệu, hiện vật của bảo tàng, tổ chức nhiều hoạt động học tập

để học sinh thể hiện khả năng của mình. Ví dụ GV cho học sinh đóng vai phóng viên

chiến trường ghi lại những khó khăn, ác liệt của con đường huyền thoại hoặc dựa trên

các tư liệu bảo tàng, hay cho học sinh làm hướng dẫn viên để thuyết trình một hiện

vật, một hình ảnh hay một tư liệu của bảo tàng.

1.2. Cơ sở thực tiễn

1.2.1. Thực trạng việc khai thác và sử dụng bảo tàng trong dạy học

lịch sử hiện nay

Tại Việt Nam, hệ thống bảo tàng khá phong phú, đa dạng xét về cả số

lượng cũng như đề tài trưng bày. Điển hình là Bảo tàng Lịch sử Việt Nam,

Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Bảo tàng Dân tộc học

Được hiểu là một thiết chế văn hóa của đất nước, các bảo tàng ở Việt Nam đã có

những đóng góp tích cực vào sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn

hóa dân tộc. Mỗi bảo tàng đều có những đặc trưng riêng, hiện vật của các bảo

tàng cũng được trưng bày rất đa dạng, phục vụ cho những nhu cầu và mục

đích khác nhau của công chúng như học tập, tham quan, giải trí…Bảo tàng là

nơi lưu giữ các hiện vật, những minh chứng sinh động nhất. Tuy nhiên hiện

nay các nguồn tư liệu của bảo tàng chưa được khai thác đúng mức để phát

huy được những vai trò của nó.

Hướng dẫn viên tại bảo tàng chỉ cần học thuộc những “bản thuyết

minh” mà những nhà nghiên cứu cung cấp cho họ, hay những bài viết trên

trưng bày là có thể hoàn thành một cách xuất sắc nhiệm vụ “tuyên truyền” của

mình. Cũng chính vì quan niệm “tuyên truyền” chứ không phải “giáo dục”,

27

với tính chất công việc đơn điệu, thiếu đa dạng, những nhân viên Phòng

Tuyên truyền phần nhiều thiếu tính sư phạm và tính chuyên nghiệp của một

người làm công tác giáo dục. Điều đó cũng khiến cho nhà trường ít gắn với

bảo tàng vì ít thấy hiệu quả của mỗi chuyến tham quan, ít thấy lợi ích của việc

tham quan bảo tàng đối với các chương trình vốn đã quá nặng ở nhà trường.

Tuy nhiên, chúng ta không thể không ghi nhận những kết quả mang tính giáo

dục mà phương pháp “kinh điển” này mang lại. Đó là những tri thức, những

câu chuyện kể rất hay, rất cảm động và rất hấp dẫn mà nhiều thuyết minh viên

đã để lại trong lòng công chúng.

Trong giai đoạn mới này, công chúng không còn hoàn toàn “thụ động”

nữa mà muốn được trải nghiệm, được giao tiếp, được đối thoại... Với xu

hướng nhận thức mới, khái niệm “tuyên truyền” dần được thay thế bằng khái

niệm “giáo dục”, tức là thay đổi phương pháp, hình thức tiếp cận để bảo tàng

có thể có nhiều hoạt động mang tính giáo dục đa dạng và chất lượng cao hơn

nhằm thu hút khách đến với mình và đóng góp nhiều hơn cho xã hội.

Trong những năm qua, nhiều bảo tàng, di tích của đất nước nói chung

và Thủ đô Hà Nội nói riêng đã phối hợp cùng với các trường THPT và ngược

lại, đã có nhiều trường phối hợp với bảo tàng để tiến hành nhiều hình thức hoạt

động nhằm giáo dục, thu hút HS tham gia và yêu thích tìm hiểu lịch sử, tìm hiểu

văn hóa của dân tộc.

Trong quá trình dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng ở trường

phổ thông có nhiều hình thức tổ chức. Trong đó, hình thức lên lớp là hình

thức tổ chức dạy học cơ bản, song không phải là duy nhất. “Lên lớp có thể

được tiến hành ở lớp học, hoặc ở địa điểm khác: Phòng thí nghiệm, vườn

trường, tại thực địa, nhà bảo tàng. Bên cạnh hình thức lên lớp còn có các hình

thức dạy học khác như: Tham quan học tập và hoạt động ngoài lớp…” [6,

tr.31]. Một trong những hình thức khác đó là tham quan, học tập tại bảo tàng,

di tích.

Từ lớp 6 đến lớp 9, học sinh cũng đã tiếp nhận tri thức lịch sử thông

28

qua các môn học khác như Tiếng Việt, Đạo đức, Tự nhiên và Xã hội Từ

những kiến thức khái quát ban đầu, đến các cấp học cao hơn, học sinh sẽ được tiếp

cận với các bài học chi tiết, cụ thể về lịch sử Việt Nam và lịch sử thế giới.

Nhận thức rõ vai trò của mình trong việc góp phần nâng cao chất lượng dạy và

học môn Lịch sử ở nhà trường phổ thông, trong những năm qua các trường phổ

thông trên cả nước đã có sự liên kết chặt chẽ với các bảo tàng để tổ chức đưa

học sinh đến tham quan, học tập với nhiều loại hình khác nhau.

Ví dụ khi dạy các bài học liên quan đến thời kì chống Mỹ cứu nước của

dân tộc, GV đưa HS đến tham quan, học tập tại các phòng trưng bày có liên

quan đến nội dung bài học của một số bảo tàng như: Bảo tàng Lịch sử Quốc

gia, Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, Bảo tàng Phòng không Không quân,

Bảo tàng đường Hồ Chí Minh Khi học về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của

lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc giáo viên có thể đưa học sinh đến với Bảo tàng Hồ Chí

Minh để học sinh được hiểu nhiều hơn về cuộc đời và những hoạt động của

Bác, qua đó HS sẽ có cái nhìn bao quát,sâu rộng về Người.

Đối với sinh viên các trường cao đẳng, đại học thì việc học qua "kênh"

bảo tàng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Các môn Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư

tưởng Hồ Chí Minh và Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam đã

trở nên gần gũi, thực tế hơn với những giờ học, buổi học tại bảo tàng. Như

vậy, việc đổi mới cách dạy và học lịch sử thông qua "kênh" bảo tàng đã tạo

hứng thú cho học sinh, sinh viên, các em học môn Lịch sử dễ dàng hơn, còn

giáo viên cũng sẽ có những giờ lên lớp sinh động, hữu ích và hiệu quả hơn.

Để hỗ trợ cho việc dạy và học môn Lịch sử của các em đạt kết quả tốt,

ngoài việc đưa học sinh đến tham quan bảo tàng, một số bảo tàng còn phối hợp

với nhà trường phổ thông trên địa bàn sở tại hoặc một số tỉnh tổ chức các cuộc

trưng bày lưu động nhằm giúp các em học sinh có thể tiếp xúc với các sự kiện,

nhân vật lịch sử một cách cụ thể thông qua các panô ảnh. Với những cuộc

trưng bày lưu động, triển lãm chuyên đề, tuy chưa được quy mô, nhưng bước

29

đầu đã giúp học sinh của nhiều trường được tiếp xúc, cảm nhận, quan sát và

thu nhận được những hình ảnh, hiện vật và nội dung các câu chuyện lịch sử. Có

thể nhắc tới những cuộc trưng bày lưu động tiêu biểu dưới đây:

Ngày 1/5/2007, Bảo tàng Cách mạng Việt Nam (nay là Bảo tàng Lịch

sử Quốc gia) phối hợp với Phòng Giáo dục huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc

xây dựng triển lãm ảnh "Phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam

1858 - 1954" và "Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1946 - 1954". Cũng

trong năm 2007, Bảo tàng Bảo tàng Lịch sử Quốc gia cho ra mắt Câu lạc bộ "Em

yêu Lịch sử" với mục đích góp phần bổ sung kiến thức, nâng cao hiệu quả học

môn Lịch sử cho học sinh khối phổ thông. Sau hơn 7 năm hoạt động, Câu lạc

bộ đã tổ chức được gần 100 buổi sinh hoạt, 3 buổi tổng kết dành cho học sinh

các khối (Tiểu học, THCS, THPT), 2 cuộc Hội nghị, Hội thảo và bước đầu

hướng đến sinh viên một số trường đại học, cao đẳng ở Hà Nội. Cùng với việc

xây dựng nội dung, chương trình hoạt động, Câu lạc bộ còn luôn quan tâm

đến trình độ từng cấp học và lứa tuổi để tổ chức những hoạt động chơi cho

phù hợp. Mặt khác, Ban Chủ nhiệm Câu lạc bộ và giáo viên dạy môn Lịch sử

ở các trường đã từng bước triển khai cụ thể các chương trình với nhiều hình

thức như: tham quan, khám phá các câu chuyện lịch sử thông qua những hiện

vật, tài liệu tiêu biểu tại bảo tàng; tổ chức các trò chơi "Nhận diện Lịch sử",

"Theo dòng Lịch sử" gắn với các nhân vật, sự kiện điển hình của dân tộc; tổ chức

cho giáo viên đi tham quan di tích lịch sử cách mạng. Những hoạt động của

Câu lạc bộ này đã lôi cuốn được sự quan tâm, chú ý của nhiều tổ chức giáo dục,

các cơ quan văn hóa và các bảo tàng quốc gia Việt Nam. Đặc biệt, mô hình này đã

nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình của các em học sinh, phụ huynh và giáo

viên dạy môn Lịch sửở nhà trường phổ thông trên địa bàn Hà Nội.

Ngày 20/3/2009, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia đã tổ chức cuộc triển lãm

chuyên đề "Lịch sử Cách mạng Việt Nam (1945 - 1954)" tại trường THPT

Nam Sách (Hải Dương).

Năm 2010 và 2011, nhân các sự kiện lớn của đất nước, chào mừng Đại

30

lễ1000 năm Thăng Long Hà Nội, Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ XI của

Đảng Cộng sản Việt Nam, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia tiếp tục mang bộ triển

lãm lưu động đi trưng bày tại các trường THPT của tỉnh Thái Bình, Hà Giang

như: THPT Nội trú, Ngọc Hà, Lê Hồng Phong, Bắc Quang, Lê Quý Đôn,

Nguyễn Đức Cảnh, Nguyễn Thái Bình, Nguyễn Công Trứ. Thông qua hình

thức trưng bày chuyên đề, các em học sinh đã hiểu và rất ấn tượng, xúc động

về những năm tháng khó khăn của đất nước. Việc làm này cũng tạo cơ hội cho

các em hiểu rõ hơn về lịch sử nước nhà, mở rộng thêm kiến thức cho bản thân,

học hỏi nhiều điều hay, biết trân trọng truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà cha

ông ta đã xây dựng nên.

Hướng tới kỉ niệm 65 năm ngày Toàn quốc kháng chiến (19/12/1946 -

19/12/2011), Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam phối hợp với trường THPT

Chu Văn An (Hà Nội) tổ chức triển lãm chuyên đề "Âm vang lời thề quyết tử"

từ ngày 1/11 đến 8/11/2011. Đây là một hoạt động có ý nghĩa giáo dục lòng

yêu nước, lòng tự hào dân tộc, yêu thích môn Lịch sử trong các em học sinh -

thế hệ tương lai của đất nước. Trong thời gian triển lãm, các lớp có tiết học môn

Lịch sử ở trường đều đến xem triển lãm, được nghe thuyết minh để các em hiểu

rõ và bổ trợ tốt hơn cho bài học trên lớp. Bảo tàng đã kết hợp cho các em xem

phim tư liệu về cuộc đấu tranh của nhân dân ta trong thời kì kháng chiến

chống thực dân Pháp, về truyền thống hào hùng của Quân đội nhân dân Việt

Nam nhằm tạo cho các em một không khí hứng khởi khi học môn Lịch sử.

Ngay trong ngày đầu tiên, triển lãm đã phục vụ 800 lượt học sinh. Theo lịch

ngoại khóa của nhà trường thì dự kiến tổng số học sinh đến tham quan, học tập

tại triển lãm sẽ lên đến 6000 lượt giáo viên và học sinh.

Ngày 6/12/2012,Bảo tàng lịch sử Quốc gia đã tổ chức buổi sinh hoạt

với chủ đề “Bầu trời Hà Nội - 12 ngày đêm” dành cho học sinh trường THPT

Trần Phú và THPT Thăng Long. Buổi sinh hoạt nhằm góp phần giáo dục tinh

thần yêu nước, giữ gìn và phát huy truyền thống hào hùng của thủ đô Hà Nội

trong 12 ngày đêm chiến đấu chống lại cuộc tập kích bằng chiến lược B52 của

31

Mỹ cuối năm 1972.

Qua các buổi triển lãm và sinh hoạt đã mang lại cho các em những giờ

học ngoại khóa bổ ích, ý nghĩa. Khi được hỏi, tất cả các học sinh đều có

chung mong muốn được học những giờ sử bổ ích, lí thú như vậy,do đó việc

học lịch sử không còn nặng nề về ngày tháng, sự kiện, không còn trìu tượng

như trong suy nghĩ của các em.

1.2.2. Thực trạng việc sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong

dạy và học Lịch sử Việt Nam thời kì 1954- 1975

1.2.2.1.Mục đích khảo sát

Sử dụng các tư liệu, hiện vật ở bảo tàng trong dạy học lịch sử đóng vai

trò quan trọng để học sinh có thể chiếm lĩnh tri thức mới, mở rộng hiểu biết về

lịch sử, nâng cao hiệu quả bài học lịch sử. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay,

việc sử dụng Bảo tàng nói chung, Bảo tàng đường Hồ Chí Minh nói riêng chưa

được phổ biến và chưa được quan tâm đúng mức, HS cũng chưa được tiếp xúc

học tập nhiều với các tư liệu ở Bảo tàng, chưa được học tập tại bảo tàng một

cách thường xuyên. Để làm sáng tỏ vấn đề này, chúng tôi đã tiến hành điều tra,

khảo sát thực tiễn ở một số trường trường THPT ở Hà Đông làm cơ sở cho

những kết luận và định hướng cho các biện pháp sư phạm trong đề tài nghiên

cứu của mình.

Việc điều tra, khảo sát được tiến hành ở các trường THPT khu vực Hà

Đông, nơi có điều kiện tham quan học tập tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh:

THPT Trần Hưng Đạo, THPT Lê Qúy Đôn, THPT Quang Trung.

Về phương pháp tiến hành điều tra bằng phiếu khảo sát lấy ý kiến của

200 học sinh lớp 12 và 14 giáo viên các trường ở địa bàn nêu trên.

1.2.2.2. Nội dung khảo sát

Nội dung điều tra, khảo sát tập trung vào các vấn đề cơ bản sau:

Đối với GV: Tìm hiểu quan niệm của GV về sử dụng bảo tàng trong dạy

học lịch sử, sự cần thiết sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy học

32

lịch sử, các cách thức GV đã hoặc dự kiến sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí

Minh trong dạy học ngoại khóa, nội khóa. Điều tra khảo sát còn tập trung vào

tìm hiểu sự quan tâm của GV với bảo tàng đường Hồ Chí Minh.Đánh giá hiệu

quả sử dụng các tư liệu, hiện vật tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy

học với các hình thức khác nhau. Đồng thời còn khảo sát những khó khăn,

thuận lợi và đề xuất của GV trong quá trình sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí

Minh trong dạy học Lịch sử. (Phụ lục 1).

Đối với HS: Nội dung điều tra, khảo sát tập trung vào mức độ cần thiết

của việc sử dụng bảo tàng trong dạy học lịch sử ở trường THPT, mức độ quan

tâm của HS về bảo tàng đường Hồ Chí Minh, các cách thức khai thác và mức

độ hiệu quả khi sử dụng bảo tàng đường HCM trong dạy học lịch sử. Bên

cạnh đó điều tra, khảo sát cũng tìm hiểu những khó khăn, thuận lợi mà các em

gặp phải khi tham gia học tập và tham quan tại bảo tàng. (Phụ lục 2)

1.2.2.3. Kết quả khảo sát

Với số lượng phiếu khảo sát của GV là 12, của HS là 200, sau khi đã tiến

hành khảo sát GV và HS ở ba trường THPT ở địa bàn quận Hà Đông - Hà Nội

(nơi gần bảo tàng đường Hồ Chí Minh), tổng hợp kết quả thu được,qua phân

tích chúng tôi khái quát như sau:

Thứ nhất, quan niệm của GV về sử dụng bảo tàng trong dạy học Lịch sử

và quan niệm của GV, HS về mức độ cần thiết khi sử dụng bảo tàng trong dạy

học lịch sử.

Nội dung khảo sát còn tập trung vào vấn đề sau:

- Quan niệm của GV về sử dụng bảo tàng trong dạy học Lịch sử.

- Sự cần thiết của việc sử dụng bảo tàng trong dạy học lịch sử ở trường

phổ thông (Rất cần thiết/ cần thiết/ không cần thiết).

- Mức độ hiệu quả của việc sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong

33

DHLS (Rất hiệu quả/ hiệu quả/ bình thường/ ít hiệu quả/ không hiệu quả).

100% GV của ba trường đều có quan niệm đúng về sử dụng bảo tàng

trong dạy học lịch sử “là phương tiện trực quan có giá trị trong giảng dạy,

cung cấp nguồn kiến thức phong phú cho học sinh”.

Kết quả cho thấy 41,7% GV cho rằng “rất cần thiết” và 58,3% cho

rằng “cần thiết” sử dụng bảo tàng trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông.

Đối với HS, các em đã đánh giá được mức độ cần thiết khi sử dụng bảo

tàng trong dạy học lịch sử như sau: Đa số HS đều cho rằng việc sử dụng bảo

tàng trong dạy học Lịch sử là cần thiết ( 72,5 %), rất cần thiết (24%) và 3,5%

cho rằng không cần thiết. Từ kết quả khảo sát, có thể thấy rằng đa số GV và HS

đều nhận thức được sự cần thiết của việc sử dụng bảo tàng trong dạy học lịch

sử.

Biểu đồ 1.1. Tổng hợp ý kiến GV và HS về sự cần thiết của việc sử dụng

bảo tàng trong DHLS ở trƣờng phổ thông.

Điều đó cũng được thể hiện trong việc đánh giá của các thầy, cô về

mức độ hiệu quả, hay nói cách khác là đánh giá về ý nghĩa của việc sử dụng

34

bảo tàng trong DHLS.

Bảng 1.1. Tổng hợp ý kiến GV và HS về hiệu quả sử dụng bảo tàng

đƣờng Hồ Chí Minh trong DHLS.

Hiệu quả

Rất hiệu

Bình

Ít hiệu

Không

quả

thƣờng

quả

hiệu quả

Tiêu chí

GV HS GV HS GV HS GV HS GV HS

Gây hứng thú học

66,7 41,5 25,0 45,0

8,3 13,5

0

0

0

0

tập cho HS

Giáo dục truyền

thống yêu nước

75,0 45,5 25,0 51,0

0

3,5

0

0

0

0

cho HS

Rèn các kĩ năng

41,7 13,5 25,0 46,5 33,3 26,5

0 13,5

0

0

thực hành cho HS

Khắc sâu kiến

thức, mở rộng

50,0 35,5 33,3 61,0 16,7

3,5

0

0

0

0

hiểu biết cho HS

Qua bảng số liệu trên cho thấy, đa số GV(66,7%) và HS (41,5%) cho

rằng sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh “rất hiệu quả” trong việc gây sự

hứng thú trong học tập bộ môn lịch sử, chỉ có (8,3%) GV và (13,5%). GV và

HS đều đánh giá việc sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong DHLS đã có

tác động lớn tới việc giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh (75,0 %),

HS (45,5%) cho là rất hiệu quả, các em trực tiếp được nhìn, được nghe và các

em cũng sẽ tự có những cảm nhận riêng. Tuy nhiên việc “rèn các kĩ năng thực

hành cho HS” thì sự chênh lệch nhau rất lớn giữa GV (41,7%) rất hiệu quả

và HS là (13,5%) và cũng có tới (13,5%) HS cho rằng ít hiệu quả. Do vậy

trong quá trình giảng dạy và hướng dẫn học sinh về kiến thức, GV cũng chưa

chú ý tới việc rèn các kĩ năng thực hành bộ môn cho học sinh.

Mức độ “Khắc sâu kiến thức,mở rộng hiểu biết cho HS” khi sử dụng

35

bảo tàng trong dạy học lịch sử là “rất hiệu quả” GV (50%), HS (35,5%),

“hiệu quả” GV (33,3%), HS (61%), mức độ “bình thường”GV (16,7%), HS

(3,5%).

Thứ hai, thực trạng sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong DHLS

ở trường THPT.

Nội dung điều tra khảo sát tập trung vào những vấn đề sau:

- Mức độ GV và HS quan tâm đến bảo tàng đường Hồ Chí Minh (Đã

từng đến/ chưa từng đến).

- Mức độ hứng thú cuả HS khi GV sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí

Minh trong DHLS (Rất hứng thú/ hứng thú/ bình thường/ không hứng thú).

- Các hình thức sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh và nhu cầu của

HS đối với các hình thức tổ chức hoạt động ngoại khóa Lịch sử tại Bảo tàng

đường Hồ Chí Minh.

Thông qua mức độ,tần suất của GV đến bảo tàng đường Hồ Chí Minh

thì 91,6 % GV “đã từng đến”, 8,4% “chưa từng đến” bảo tàng đường Hồ Chí

Minh và có 58,3% GV “đã sử dụng” bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong

những bài học có liên quan, 16,7% “thường xuyên sử dụng”, 8,3% “chưa sử

dụng”.

Điều đó cho thấy GV dạy môn lịch sử cũng đã biết đến bảo tàng đường

Hồ Chí Minh và đã sử dụng bảo tàng vào trong dạy học lịch sử. Tuy nhiên

mỗi GV lại có các cách thức sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh khác nhau,

chủ yếu GV cho HS “nghe hướng dẫn viên thuyết minh” (50%), “tham quan”

(33,4%), còn lại là các hoạt động khác như: Sưu tầm tư liệu bảo tàng, tổ chức

các trò chơi…Cách thức sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh còn chưa

phong phú, chưa tạo được sân chơi và chưa phát huy được khả năng sáng tạo,

sự hứng thú cho HS.

Đối với HS, mức độ quan tâm đối với bảo tàng đường Hồ Chí Minh

qua khảo sát đã thu được kết quả có 91,6% HS “đã từng đến” bảo tàng, chỉ có

36

8,4% HS “chưa từng đến”. Điều này cho thấy phần lớn HS khối 12 trong khu

vực ba trường khảo sát đều đã biết đến bảo tàng đường Hồ Chí Minh. Lí do là

bảo tàng gần nơi các em sinh sống và thường vào các dịp lễ lớn nhà trường,

đoàn thanh niên, các tổ bộ môn cũng thường xuyên cho các em đến đây để

tham quan và dâng hương. Trong số các em đã từng đến, các em chỉ dừng lại

ở việc tham quan và nghe hướng dẫn viên thuyết minh chứ cũng chưa có

những hình thức tổ chức học tập khác.

Biểu đồ 1.2. Tổng hợp ý kiến GV và HS về sự quan tâm đối với bảo tàng

đƣờng Hồ Chí Minh (%)

Đối với các hoạt động ngoại khóa Lịch sử tại bảo tàng, phần lớn GV

thấy phù hợp với hoạt động “cùng các bạn nghe HDV thuyết minh” (33,3%),

“Tham quan”(41,6%) “sưu tầm các tư liệu tại bảo tàng” (8,4% ), tổ chức trò

chơi (16,7% ). Lý giải thực trạng trên, các thầy cô cho biết chủ yếu chỉ tổ chức

ngoại khóa cho HS với hình thức tham quan và nghe hướng dẫn viên thuyết

minh, các hoạt động khác trong quá trình tổ chức công tác ngoại khóa cho HS

gặp rất nhiều khó khăn: Tốn khá nhiều thời gian, công sức và cần có sự cho

phép của nhà trường, sự phối hợp nhiệt tình của các thầy cô trong tổ bộ môn,

của phụ huynh HS. Vì vậy, để hoạt động này đem lại hiệu quả cao là một vấn

37

đề không đơn giản.

Về phía HS, khi được hỏi về các hình thức hoạt động ngoại khóa tại bảo

tàng đường Hồ Chí Minh mà em muốn tham gia, kết quả cho thấy đa số HS

thích tham quan (36,5%), tham gia các trò chơi (46%), “cùng các bạn nghe

HDV thuyết minh” (10,5%), “sưu tầm tư liệu bảo tàng” (7,0%). Những số liệu

trên cho thấy sự chênh lệch giữa lựa chọn của GV và HS khi tham gia hoạt

động ngoại khóa tại bảo tàng. Vậy để có một giờ học lịch sử trong một không

gian thoải mái, phát huy được tính sáng tạo qua các trò chơi, GV nên thiết kế

trò chơi phù hợp và có liên quan đến bài học lịch sử sẽ thu hút và tạo được sự

hứng thú cho học sinh.

Bảng 1.2. Tổng hợp ý kiến GV và HS về hình thức hoạt động ngoại khóa

tại bảo tàng đƣờng Hồ Chí Minh (%)

Hình thức hoạt động G. viên H. sinh

Cùng các bạn nghe HDV thuyết minh 33,3 10,5

Tham quan các tư liệu,hiện vật tại bảo tàng 41,6 36,5

Sưu tầm,tìm hiểu lịch sử thông qua các tư liệu,hiện vật 8,4 7,0

Tham gia các trò chơi tổ chức tại bảo tàng 16,7 46,0

Khảo sát về đánh giá mức độ hứng thú của HS đối với các cách thức sử

dụng bảo tàng vào dạy học nội khóa và ngoại khóa môn Lịch sử thì GV cho

rằng đa số HS “rất hứng thú” với các hoạt động “tham quan ” (66,7%), trải

nghiệm sáng tạo (41,7%), và tổ chức các trò chơi (41,7%), hoạt động nhóm

(16,7%), trao đổi thảo luận(8,3%) và dạy học dự án (8,3%). Bên cạnh đó, GV

cũng cho rằng HS hứng thú với các hình thức tham quan (33,3%), trải nghiệm

sáng tạo, tổ chức các trò chơi (58,3%), dạy học dự án (83,3%), hoạt động nhóm

(83,3%), trao đổi thảo luận (58,3%), có (33,4%) GV cho rằng hình thức trao

đổi thảo luận ở mức bình thường. Qua đó có thể thấy GV đã hiểu được tâm lí,

sở thích, hứng thú của HS khi tham gia các hoạt động tại bảo tàng đường Hồ

Chí Minh, trên cơ sở đó sẽ giúp cho GV đưa ra được những hình thức dạy học

38

phù hợp, thu hút HS tham gia.

Thứ ba, những thuận lợi, khó khăn và đề xuất của GV, HS khi sử dụng

bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy học Lịch sử.

Thông qua khảo sát điều tra, chúng tôi thấy có một số thuận lợi và khó

khăn đối với GV.

Về thuận lợi:

- Tư liệu bảo tàng phong phú, cung cấp cho GV nhiều kiến thức và có

phương pháp dạy học lịch sử phù hợp.

- Đội ngũ GV Lịch sử trẻ trung, nhiệt huyết, năng động, sáng tạo và

nắm bắt được tâm lý HS, đa số ý kiến GV và HS lựa chọn, đánh giá rằng các

trò chơi trải nghiệm tại bảo tàng là hoạt động thu hút được đông đảo HS tham

gia và phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của các em. Phát huy

phương pháp dạy học tích cực, lấy người học làm trung tâm, hiểu được nhu

cầu của người học cùng với sự sáng tạo của mình, chắc chắn các thầy cô giáo

sẽ là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp đổi mới giáo dục ở trường THPT.

- Có nhiều HS yêu thích và muốn tìm hiểu lịch sử, các em đã chủ động

chịu khó, có tư duy và khả năng sáng tạo trong môn học.

Về khó khăn:

GV cũng thấy có những khó khăn nhất định khi sử dụng bảo tàng

đường Hồ Chí Minh trong DHLS ở trường THPT như sau:

- Không có thời gian để sắp xếp, tổ chức các hoạt động học tập tại bảo

tàng một cách thường xuyên.

- GV còn lúng túng khi sử dụng các phương pháp để sử dụng bảo tàng

trong DHLS cho phù hợp. Vận dụng còn hạn chế, chưa tạo được sự hứng thú,

tích cực học tập cho HS.

- Khó tổ chức và quản lí HS ở một không gian rộng khi tổ chức hoạt

động ngoại khóa, kinh phí tổ chức cũng là sự cản trở đối với GV khi cho HS

tham gia hình thức học tập này.

Với những khó khăn nêu trên, GV có một số đề xuất để việc sử dụng

39

bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong DHLS có hiệu quả: Thường xuyên áp

dụng trong những bài học có liên quan, nhà trường cần hỗ trợ thêm kinh phí

cho hoạt động dạy học ngoại khóa và đầu tư trang thiết bị hiện đại để dạy học

có hiệu quả…

Đối với HS, khi được hỏi về những thuận lợi và khó khăn khi được GV

sử dụng bảo tàng trong DHLS, các em đã cho biết: Hàng năm nhà trường và

Đoàn thanh niên đều tổ chức tham quan tại bảo tàng nên HS có nhiều cơ hội

để tham gia các hoạt động cùng với các tài liệu phong phú của bảo tàng.

HS được học tập chủ động, sáng tạo và hứng thú hơn với các tư liệu

sống động, kích thích sự tò mò, say mê môn học. Bên cạnh đó, HS được sự

hướng dẫn rất nhiệt tình, có trình độ, có trách nhiệm của thầy cô dạy môn

Lịch sử. Môn học đã giúp các em mở rộng kiến thức, học lịch sử dễ dàng hơn

và rèn luyện được các kĩ năng học tập bộ môn.

Khó khăn mà HS gặp phải khi GV sử dụng bảo tàng trong DHLS:

Thời gian trên lớp (45 phút), không cho phép các em vừa học kiến thức

bài học, vừa tổ chức được các hình thức học tập khác.

Việc quản lí lớp rất khó khăn trong việc đi lại, tập hợp HS sau mỗi thời

gian giải lao hay sau mỗi hoạt động học tập.

Có nhiều ý kiến đề xuất rất tích cực từ phía HS qua phiếu khảo sát. HS

muốn được đi tham quan nhiều hơn, tổ chức nhiều trò chơi phong phú, sử

dụng bảo tàng hấp dẫn hơn trong bài học Lịch sử.

1.2.2.4. Một số đánh giá chung về việc sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí

Minh trong dạy học lịch sử.

Đa số GV được khảo sát đã có quan điểm nhận thức đúng đắn về vai trò,

ý nghĩa của việc sử dụng bảo tàng trong DHLS để nâng cao hiệu quả bài học

lịch sử và phát huy được tính tích cực, sáng tạo của học sinh, do đó đã có

nhiều GV cố gắng đưa nguồn tư liệu phong phú của bảo tàng vào dạy học

lịch sử nội khóa và sử dụng bảo tàng để dạy ngoại khóa, tạo động lực cho các

40

em có hứng thú và thêm yêu thích môn học của mình.

GV cũng đã đánh giá được mức độ hiệu quả việc sử dụng các hình ảnh,

hiện vật tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử và những hoạt

động ngoại khóa phù hợp có thể tổ chức tại bảo tàng. Tuy nhiên rất nhiều GV

còn lúng túng chưa biết cách sử dụng tư liệu bảo tàng vào bài học như thế nào

cho phù hợp, và mặc dù bảo tàng đường Hồ Chí Minh rất gần với địa điểm

một số trường nhưng GV cũng ít quan tâm để tổ chức dạy học hoặc cho học

sinh thăm quan tại bảo tàng để mở rộng kiến thức lịch sử, tổ chức các trò

chơi, các hoạt động trải nghiệm sáng tạo… Các em đều thấy rõ vai trò, hiệu

quả của việc sử dụng các tư liệu bảo tàng vào bài học lịch sử nhưng mới chỉ ở

khía cạnh khắc sâu kiến thức, mở rộng hiểu biết cho học sinh chứ chưa hướng

đến rèn các kĩ năng thực hành.

HS chưa có thói quen học tập tại bảo tàng với các hoạt động khác nhau

trong buổi ngoại khóa. Cách thức sử dụng bảo tàng của GV chưa được phong

phú, chưa có tính sáng tạo, chỉ dừng lại ở việc cho HS tham quan, nghe HDV

thuyết minh. Trong khi đó nhu cầu của các em khi đến bảo tàng rất thích tổ

chức các trò chơi, các hoạt động trải nghiệm sáng tạo,các em thích vận động

và sáng tạo nhiều hơn.

Từ việc tìm hiểu thực trạng việc khai thác và sử dụng tư liệu bảo tàng

đường Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử ở trường THPT Trần Hưng Đạo và

một số trường trong khu vực đều chưa có hiệu quả, do đó muốn sử dụng bảo

tàng có hiệu quả cần đưa ra các hình thức,phương pháp phù hợp. Đây chính là

cơ sở giúp tôi đi sâu giải quyết những nội dung cơ bản trong Chương 2: Một

số biện pháp sử dụng hiệu quả bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy học

41

lịch sử Việt Nam thời kì 1954 - 1975.

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1

Việc sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy học môn lịch sử

ở trường THPT được đánh giá là rất cần thiết trong việc đổi mới phương pháp

dạy học, cung cấp kiến thức, phát huy tính tích cực, sáng tạo và giáo dục học

sinh. Qua đó, học sinh có sự yêu thích, hứng thú với môn học và sự lựa chọn

trong tương lai.

Qua nghiên cứu lí luận và thực tiễn của đề tài đã cho thấy Bảo tàng

đường Hồ Chí Minh có ý nghĩa to lớn trong việc làm phong phú kiến thức lịch

sử, giáo dục các giá trị lịch sử văn hóa truyền thống của dân tộc cho HS; Bảo

tàng đường Hồ Chí Minh với nhiều nguồn tư liệu vô giá đã phục vụ cho GV và

HS tìm hiểu về chặng đường lịch sử gian khó nhưng hào hùng của dân tộc qua

con đường huyền thoại - đường Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, việc tham quan và sử

dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử vẫn còn hạn chế,

chưa thu hút được học sinh tham gia và còn nhiều khó khăn cần được giải

quyết cho phù hợp với việc học tập của học sinh.

Đó là những cơ sở để chúng tôi đề xuất các biện pháp sử dụng bảo tàng

đường Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử Việt Nam thời kì 1954 - 1975 ở

42

trường THPT.

CHƢƠNG 2

MỘT SỐ BIỆN PHÁP SỬ DỤNG BẢO TÀNG ĐƢỜNG HỒ CHÍ MINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM THỜI KÌ 1954 – 1975

Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRẦN HƢNG ĐẠO-

HÀ ĐÔNG- HÀ NỘI.THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM.

2.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung của phần lịch sử Việt Nam thời kì

1954-1975

2.1.1. Vị trí và mục tiêu

2.1.1.1. Vị trí

Lịch sử Việt Nam thời kì 1954 - 1974 thuộc chương IV “Việt Nam từ

năm 1954 đến năm 1975” nằm trong chương trình sách giáo khoa Lịch sử 12,

nhà xuất bản Giáo dục (2016). Đây là thời kì có vị trí quan trọng trong toàn

bộ tiến trình lịch sử Việt Nam, thời kì tiếp nối cuộc kháng chiến chống thực

dân Pháp của nhân dân ta giành thắng lợi (1946 - 1954), đưa lịch sử nước ta

chuyển sang thời kỳ mới với hai nhiệm vụ chiến lược cho hai miền: cách

mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc; cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở

miền Nam. Đó là một quãng đường kéo dài trong suốt 20 gian khổ, trong đó

miền Bắc vừa sản xuất vừa chống lại sự phá hoại bằng không quân của Mỹ,

đồng thời giữ vững vai trò hậu phương cho tiền tuyến miền Nam. Nhân dân

cả hai miền đều trực tiếp tiến hành cuộc chiến tranh chống xâm lược của đế

quốc Mỹ và tay sai, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,

tiến tới thống nhất đất nước, Bắc - Nam thu về một mối.

Nội dung của thời kì lịch sử này trong SGK đã được phân ra trong ba

bài học: Bài 21, 22 và bài 23. Khi phân tích nội dung từng bài trong chương

IV này chúng ta sẽ thấy rõ vị trí, ý nghĩa của giai đoạn lịch sử (1954-1975).

Từ đó, giúp học sinh nhận thức được cuộc đấu tranh gian khổ nhưng oanh liệt

của quân dân hai miền đất nước phải chống lại một đế quốc to lớn, sừng sỏ

43

trên thế giới như đế quốc Mỹ. Học Lịch sử Việt Nam giai đoạn này sẽ thấy

được bức tranh toàn cảnh tội ác của kẻ thù và cũng thấy những chiến công của

quân dân ta cùng với ý nghĩa lớn lao trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu

nước của toàn dân tộc. Học sinh sẽ thấy được rõ vai trò lãnh đạo tài tình, sáng

suốt của Đảng, của Bác Hồ. Củng cố cho học sinh khái niệm: Cách mạng dân

tộc dân chủ nhân dân; chiến tranh nhân dân; bạo lực cách mạng… Từ đó giáo

dục tư tưởng, tình cảm, thái độ và phẩm chất đạo đức, niềm tin tưởng cho học

sinh vào sự lãnh đạo của Đảng.

2.1.1.1. Mục tiêu

- Về kiến thức:

+ Trình bày được tình hình nước ta sau hiệp định Giơnevơ năm 1954,

đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị khác

nhau. Trên cơ sở tình hình ở hai miền, Đảng ta đã vạch ra nhiệm vụ cách

mạng mỗi miền.

+ Nêu được âm mưu, thủ đoạn của Mỹ qua các chiến lược ở miền Nam

và chiến tranh phá hoại ra miền Bắc.

+ Đánh giá được tinh thần đấu tranh của nhân dân ta ở hai miền đất

nước chống lại các âm mưu, chiến lược của Mỹ làm nên chiến thắng cuối

cùng, thống nhất đất nước, Bắc - Nam thu về một mối.

+ Phân tích được mối quan hệ gắn bó của nhân dân miền Bắc với tiền

tuyến miền Nam và vai trò của Đảng với việc chỉ đạo kịp thời, sáng suốt là

nguyên nhân quyết định tới sự thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ.

- Về kĩ năng:

+ Phát triển kĩ năng nhận thức, đánh giá, so sánh các vấn đề, các sự

kiện lịch sử.

+ Quan sát, sử dụng bản đồ, tranh ảnh, lập niên biểu các sự kiện lịch sử.

+ Tự học, tự nghiên cứu, làm việc với nguồn sử liệu ngoài SGK.

+ Thuyết trình, giao tiếp, làm việc nhóm

44

- Về thái độ, tư tưởng, tình cảm:

+ Bồi dưỡng tình yêu quê hương, đất nước, tự hào về những thắng lợi

oanh liệt của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và sự

biết ơn với các anh hùng, liệt sĩ.

+ Lên án chiến tranh xâm lược phi nghĩa, yêu mến và bảo vệ nền hòa

bình của nhân loại.

+ Giáo dục niềm tin vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng trong sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

+ Có thái độ tôn trọng, giữ gìn các di sản văn hóa lịch sử của dân tộc.

2.1.2. Nội dung cơ bản của lịch sử Việt Nam thời kì 1954 – 1975.

Nội dung cơ bản của lịch sử Việt Nam thời kì 1954- 1975 nằm trong

chương IV của SGK Lịch sử lớp 12 - chương trình chuẩn. Được chia làm 3

bài (bài 21, 22 và 23). Mỗi bài đều có một lượng kiến thức sâu, rộng giúp học

sinh có cái nhìn toàn diện về tình hình nước ta sau hiệp định Giơnevơ năm

1954 đến năm 1975 khi đất nước thống nhất hoàn toàn.

Sau hiệp định Giơnevơ năm 1954, đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm

hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau, Đảng đã đề ra nhiệm vụ

cho từng miền: Miền Bắc khôi phục kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội,

miền Nam tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất

đất nước.

Cách mạng miền Nam từ giữa năm 1954 chuyển từ đấu tranh vũ trang

sang đấu tranh chính trị chống Mỹ - Diệm, đòi thi hành hiệp định Giơnevơ

năm 1954, bảo vệ hòa bình, giữ gìn và phát triển lực lượng cách mạng.Từ

cách mạng dân chủ nhân dân đã phát triển lên khởi nghĩa đồng loạt trong

phong trào Đồng khởi (1959- 1960), và chiến tranh cách mạng từ năm 1961.

Từ năm 1961 đến 1975, trải qua các giai đoạn lịch sử, quân dân ta đã đánh

bại các kế hoạch chiến lược của 5 đời tổng thống Mỹ nối chân nhau thực

hiện.Năm 1961 - 1965: Với những chiến thắng mang nhiều dấu ấn như trận

45

Ấp Bắc, Bình Giã quân ta đánh bại chiến lược ”chiến tranh đặc biệt” của Mỹ.

Năm 1965 - 1968: Mỹ tiến hành chiến lược ” chiến tranh cục bộ”, với thắng

lợi ở trận Vạn Tường, hai mùa khô (1965 - 1966; 1966 - 1967) và đặc biệt là

cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân năm 1968 ta buộc Mỹ phải thất bại trong

chiến lược này và phải đàm phán với ta ở Pa-ri để bàn về chấm dứt chiến

tranh ở Việt Nam. Năm 1969 - 1973: Với sự kết hợp của ba nước Đông

Dương, ta đã giành thắng lợi trong chiến lược Việt Nam hóa và Đông Dương

hóa chiến tranh của Mỹ.Từ năm 1973 đến năm 1975: Hiệp định Pa-ri về Việt

Nam được kí kết, quân Mỹ cùng với đồng minh của Mỹ đã rút khỏi nước ta

làm so sánh lực lượng ở miền Nam có lợi cho cách mạng, quân dân miền

Nam đứng lên chống quân Ngụy và giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc tổng

tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975.

Nhiệm vụ của miền Bắc là khôi phục kinh tế, đưa miền Bắc đi lên chủ

nghĩa xã hội. Nhân dân miền Bắc đã hoàn thành cải cách ruộng đất, khôi phục

kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh (1954- 1957), cải tạo quan hệ sản xuất

và bước đầu phát triển kinh tế- xã hội (1958- 1960). “Miền Bắc- hậu phương

lớn của cả nước được xây dựng toàn diện,củng cố vững chắc kinh tế, xã hội

(1960- 1965) phát triển đã tạo điều kiện thuận lợi để Đảng và nhà nước ta

củng cố quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, đẩy mạnh chi

viện sức người, sức của cho cuộc kháng chiến ở miền Nam” [3, tr.102]. Khi

Mỹ mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại ra miền Bắc bằng không quân và hải

quân lần thứ nhất bắt đầu ngày 5/8/1964, chính thức ngày 7/2/1965 và lần thứ

hai bắt đầu từ ngày 6/4/1972, chính thức ngày 16/4/1972, nhân dân miền Bắc

vừa chắc tay súng vừa chắc tay cày đã đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá

hoại của Mỹ. Cùng với những chiến thắng lẫy lừng, miền Bắc còn vai trò hậu

phương rất lớn với tiền tuyến miền Nam và với nước bạn Lào, Campuchia,

cung cấp sức người sức của cho các chiến trường, là yếu tố quyết định tới

thắng lợi của miền Nam, thống nhất đất nước.

Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cách mạng

46

Việt Nam chuyển sang thời kì cả nước đi lên CNXH.

“ Đối với dân tộc Việt Nam, cuộc chiến tranh chính nghĩa chống giặc

ngoại xâm là triền miên và ác liệt nhất. Đỉnh cao của sự ác liệt là chiến tranh

30 năm chống thực dân mới Mỹ xâm lược” [9, tr. 44]. Với những nội dung cơ

bản của lịch sử Việt Nam thời kì 1954- 1975 trong chương trình SGK lớp 12

là cơ sở để chúng tôi khai thác, lựa chọn những hình ảnh, hiện vật tiêu biểu

của bảo tàng đường Hồ Chí Minh cũng như đưa ra các hình thức tổ chức dạy

học cho phù hợp.

2.2. Khảo sát nguồn tƣ liệu tại bảo tàng đƣờng Hồ Chí Minh có thể

sử dụng trong dạy học lịch sử Việt Nam thời kì 1954 - 1975.

Bảo tàng đƣờng Hồ Chí Minh.

Cách trung tâm Hà Nội khoảng 16km, theo Quốc lộ 6 quận Hà Đông,

rẽ phải khoảng 500m là đến Bảo tàng đường Hồ Chí Minh. Công trình được

khởi công xây dựng vào tháng 12-1996 và cắt bǎng khánh thành vào ngày

14/4/1999, đúng vào dịp kỷ niệm 40 nǎm ngày ra đời của Đoàn 559. “Đoàn

được mang phiên hiệu Đoàn 559 và ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày bộ

đội chính trị và thường trực tổng quân ủy giao nhiệm vụ mở tuyến chiến lược

Trường Sơn được xác định là ngày truyền thống đoàn 559 - Bộ đội Trường

Sơn - Đường Hồ Chí Minh” [19, tr. 23] tên gọi của Binh đoàn Trường Sơn

anh hùng. “ Với đặc điểm địa lý Việt Nam chật hẹp, trải dài ven biển Đông,

đối phương ngăn chặn nên không dễ dàng vượt vào phía Nam. Duy nhất chỉ

có triền núi Trường Sơn hiểm trở kéo dài từ Bắc đến Nam, đối phương không

kiểm soát là một lợi thế cho sự chi viện. Tháng 5/1959, dưới sự chỉ đạo của

Trung ương Đảng, Bộ Quốc phòng thành lập đoàn vận tải quân sự 559 mở

đường chiến lược Trường Sơn - đường mòn Hồ Chí Minh để chi viên cho

chiến trường miền Nam. Đó là một tất yếu lịch sử.” [9, tr. 44]. Bảo tàng

đường Hồ Chí Minh là nơi gìn giữ, bảo quản tài liệu, hiện vật quý hiếm để

giới thiệu những sự tích anh hùng của bộ đội Trường Sơn với tình đoàn kết

47

keo sơn cùng chung chiến hào chiến đấu của ba dân tộc Việt Nam - Lào -

Campuchia trên con đường lịch sử: “Bảo tàng Đường Hồ Chí Minh là sự tiếp

nối của Bảo tàng Trường Sơn trước đây được thành lập năm 1968 tại Trường

Sơn. Lúc đó những cán bộ của Bảo tàng là những cán bộ, chiến sỹ làm công

tác tuyên huấn, chính trị đi tuyên truyền và sưu tập các hiện vật thời đó để tổ

chức lại thành các cuộc triển lãm, dần dần quy mô lớn và trở thành Bảo tàng

Trường Sơn. Bảo tàng này phục vụ đắc lực cho các cán bộ, chiến sỹ tiền

tuyến và động viên, khuyến khích cán bộ chiến sỹ chiến đấu trong thời kỳ

chiến tranh”.

Đến với Bảo tàng, sẽ tận mắt thấy những hiện vật vô cùng quý báu gợi

nhớ về tuyến vận tải chi viện chiến lược trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Công trình văn hóa mang tính đặc thù của bộ đội Trường Sơn có khuôn viên

rộng 17.000m2, nhà trưng bày 3 tầng diện tích 28.000m2. Ngay cửa vào khu

trưng bày là phòng khánh tiết, có tượng bác bằng đồng cùng hình tượng các

lực lượng bộ đội Trường Sơn với đủ các binh chủng hợp thành như: Công

binh, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến… và bức phù điêu bằng

đồng thể hiện tình đoàn kết của nhân dân ba nước Đông Dương. Tiếp đó là

các gian trưng bày hiện vật tái hiện quá trình hình thành và phát triển của

tuyến vận tải chi viện chiến lược từ thời kỳ vận tải bằng gùi "đi không dấu,

nấu không khói, nói không tiếng" đến thời kỳ mở đường ô tô ngang dọc

Trường Sơn, lấy vận tải cơ giới là chính mà báo chí phương Tây lúc đó gọi là

"trận đồ bát quái xuyên rừng rậm". Cùng gian trưng bày còn có các hình ảnh

chân thực về những hoạt động của bộ đội Trường Sơn cùng những kỷ vật, vật

dụng của các chiến sĩ đang được Bảo tàng lưu giữ, phát huy như: Đôi dép cao

su, túi đựng cơm, áo bạt, ba lô đựng xăng, xẻng, cáng thương binh, thuyền

thúng, hầm di động… Sức thu hút của Bảo tàng Đường Hồ Chí Minh chính là

tái hiện sinh động, khoa học về những sáng tạo độc đáo, những chiến công và

sự hy sinh anh dũng của bộ đội Trường Sơn. Ở đây ta gặp lại những địa danh

một thời là trọng điểm ác liệt như: Chà Là, Mụ Giạ, cua chữ A, Phu La Nhích,

48

Ta Lê… thể hiện trên sa bàn khá lớn.

Phía cuối của phòng trưng bày tầng 1 là phòng chiến tranh điện tử. Từ

năm 1959 đến năm 1975, trong 16 năm quân đội Mỹ đã dội hơn 4 triệu tấn

bom đạn xuống con đường này. Mỹ đã sử dụng các loại máy bay hiện đại, các

loại bom mìn để tiêu diệt bộ đội Trường Sơn, để phá hoại đường, đèo, đường

dây thông tin, đường ống xăng dầu của ta.

Đặc biệt, Bảo tàng còn xây dựng mô phỏng một con “đường kín”

(đường K), để chống lại chiến tranh điện tử của kẻ thù. Đường kín là một

trong những kỳ tích của quân đội Việt Nam và thể hiện ý chí, sự thông minh

của bộ đội Trường Sơn, xây dựng đường kín là dựa vào rừng già vì phương

thức vận chuyển của bộ đội ta là ban đêm. Khi có công nghệ laze thì không

quân Mỹ dùng nó để phát hiện xe của quân đội đi trong đêm. Vì thế Bộ đội

Trường Sơn mới nghĩ ra đường kín để cho xe chạy ban ngày. Ở những chỗ có

cây to thì vít cành xuống cho kín, khi chỗ cây thưa thì trồng thêm cây và treo

các giò phong lan để làm giàn che kín đường. Bộ đội Trường Sơn đã làm

được hơn 3.000km đường kín. Đây là một biện pháp mà chưa có một cuộc

chiến tranh của thế giới làm ra, góp phần đắc lực cho quân đội VN vận

chuyển hàng hóa bằng cơ giới phục vụ có chiến trường miền Nam.

“Nhiều sử gia, tướng lĩnh nước ngoài so sánh đường Trường Sơn với

những con đường nổi tiếng trong lịch sử như con đường vượt dãy Pyrenne

vào giai đoạn trước công nguyên khi tướng Haniban mang quân đi đánh La

Mã, con đường 10 ngàn cây số mà hoàng đế Alecxandre đi chinh phục Ấn Độ

đã phải vượt qua hoặc con đường bão tuyết qua dãy núi Anpe khi tiến vào

Italia caue 43.000 quân dưới trướng Napoleon” [17, tr.55].

Tầng 2 là phòng trưng bày sa bàn thế trận Trường Sơn, kết hợp với

phim tư liệu dài 20 phút cùng hiệu ứng ánh sáng, người xem sẽ hiểu rõ hơn

về vị trí, địa điểm quan trọng của tuyến đường với 5 trục dọc và 21 trục ngang

49

và các điểm nối từ Đông Trường Sơn sang Tây Trường Sơn.

Bên phải bảo tàng là nơi giới thiệu các loại xe, máy, phương tiện vận

chuyển, đảm bảo giao thông, vũ khí chiến đấucủa bộ Trường Sơn đã sử dụng

để bảo vệ tuyến đường. “Việc xuất hiện cả trung đoàn ô tô vận tải hàng trăm

chiếc vượt đường rừng dã chiến thọc sâu vào Bạc gây xúc động mạnh với mỗi

người lính Trường Sơn. Đồng bào các dân tộc ở Mường Nòong, Tà Ôi hết

sức ngỡ ngàng, kéo nhau ra xem “máy bay chạy dưới đất”. Trong đoàn vận tải

ô tô 265 nhập tuyến thắng lợi đánh dấu bước phát triển mới về tổ chức lực

lượng của tuyến vận tải quân sự chiến lược 559”. [17, tr. 62].

Phía sau bảo tàng là hầm chỉ huy Sở tiền phương của bộ tư lệnh đoàn

559 và khu tưởng niệm gần 20.000 anh hùng liệt sỹ đã hi sinh trên tuyến

đường này.Tuyến đường mà theo quan điểm của chính giới quân sự Mỹ thì

“ định mệnh mọi học thuyết chiến tranh của Mỹ ở miền Nam luôn tùy thuộc

vào khả năng có ngăn chặn con đường này hay không?” [9, tr. 45].

Người xem đến bảo tàng cũng chỉ biết về khó khăn, gian khổ qua lời kể

và hiện vật…nhưng đều cảm nhận được sự cống hiến, ý chí, nghị lực của bộ

đội Trường Sơn ngày ấy. Từ các Cựu chiến binh, sinh viên, học sinh đến

khách nước ngoài đều nói rằng tình cảm, ấn tượng về Bộ đội Trường Sơn đầy

ắp khi đến bảo tàng đường Hồ Chí Minh. Họ nói rằng trước khi đến đây, họ

đã tìm hiểu rất kỹ về Trường Sơn nhưng khi đến bảo tàng, họ đều nói rằng tất

cả như một huyền thoại. Đối với du khách quốc tế, Trường Sơn không chỉ là

một con đường, một huyền thoại mà còn là một đề tài nghiên cứu, để suy

ngẫm và học hỏi. Con đường Trường Sơn trải đầy thử thách. Dù gian khổ, hy

sinh, đèo cao, vực sâu nhưng lòng người không nản, bước chân không lùi, tất

cả vì độc lập, tự do cho Tổ quốc. Đúng như nhà thơ Tố Hữu đã viết: "Trường

Sơn đông nắng, tây mưa, ai chưa đến đó như chưa rõ mình".Tình cảm mà họ

50

dành cho bộ đội Trường Sơn thật sự lớn lao.

Các nguồn tƣ liệu cần có thể sử dụng trong dạy học lịch sử Việt

Nam thời kì 1954-1975 :

Nội dung bài học/ Bài / Chủ đề Tƣ liệu bảo tàng Chủ đề

Bài 21. Xây dựng - Chiến lược chiến - Ảnh: Giao liên gùi thồ

CNXH ở miền Bắc, tranh đặc biệt ở miền - Ảnh: Ngựa gùi hàng

đấu tranh chống đế Nam - Ảnh: Voi gùi hàng

quốc Mỹ và chính - Ảnh: Ngã ba Đồng Lộc

quyền Sài Gòn ở - Mô hình: Cây nhiệt đới miền Nam (1954-

1965)

Bài 22. Nhân dân - Chiến lược chiến - Ảnh: Giao liên gùi thồ

hai miền trực tiếp tranh cục bộ - Ảnh: Ngựa gùi hàng

chiến đấu chống đế - Cuộc tổng tiến công - Ảnh: Voi gùi hàng

quốc Mĩ xâm lược. và nổi dậy Xuân Mậu - Ảnh: Lính Mĩ chém giết dân

Nhân dân miền Bắc Thân 1968 ở Tây Ninh (1967)

vừa chiến đấu vừa - Miền Bắc làm nghĩa - Ảnh: Đường 20 Quyết thắng sản xuất (1965- vụ hậu phương - Ảnh: Qua cầu treo 1973) - Chiến lược Việt - Ảnh: Tuổi 20 ở Trường Sơn

Nam hóa chiến tranh - Ảnh: Đại đội vận tải nữ và Đông Dương hóa - Hiện vật: Đôi dép cao su chiến tranh

- Ảnh: Cô gái Pako tải đạn

- Ảnh: Ngã ba Đồng Lộc

- Ảnh: TS nơi sử dụng chiến

51

tranh điện tử

Bài 23. Khôi phục - Miền Bắc chi viện - Ảnh: Đường kín Trường Sơn

và phát triển kinh cho miền Nam - Ảnh: Các loại xe trưng bày

tế-xã hội ở miền - Ảnh: Sự ủng hộ của quốc tế

Bắc,giải phóng đối với Việt Nam trên đường

hoàn toàn miền Hồ Chí Minh

Nam (1973-1975)

Chủ đề: Các chiến - Chiến lược chiến - Ảnh: Khẩu hiệu của chiến sĩ

lược chiến tranh tranh đặc biệt Trường Sơn

của Mĩ ở Việt Nam - Chiến lược chiến - Ảnh: Các chiến sĩ phá bom

từ 1961 đến 1972 tranh cục bộ mìn

- Chiến lược Việt - Ảnh: TS nơi sử dụng chiến

Nam hóa chiến tranh tranh điện tử

và Đông Dương hóa - Ảnh: Đường 20 Quyết thắng

chiến tranh - Ảnh: Ngã ba Đồng Lộc

- Ảnh: Tuổi 20 ở Trường Sơn

- Ảnh: Đại đội vận tải nữ

Chủ đề: Hậu - Chiến lược chiến - Ảnh: Giao liên gùi,thồ

phương miền Bắc tranh đặc biệt - Ảnh: Đoàn vận tải bằng voi

trong kháng chiến - Chiến lược chiến - Ảnh: Thuyền thúng

chống Mĩ tranh cục bộ - Hiện vật: Bừa san mặt đường

- Chiến lược Việt - Hiện vật: Cáng thương binh

Nam hóa chiến tranh - Ảnh: Đường kín Trường Sơn

52

và Đông Dương hóa - Ảnh: Xe vận tải chiến tranh

2.3. Một số biện pháp sử dụng bảo tàng đƣờng Hồ Chí Minh trong

dạy học lịch sử Việt Nam thời kì 1954- 1975 ở trƣờng THPT Trần Hƣng

Đạo- Hà Đông- Hà Nội.

Trong quá trình đổi mới phương pháp dạy và học môn lịch sử ở trường

phổ thông hiện nay có nhiều hình thức tổ chức dạy học. Tùy vào điều kiện

nhà trường và đối tượng học sinh, GV có thể lựa chọn hình thức dạy học cho

phù hợp như dạy học trên lớp, dạy học ngoài lớp và dạy học ngoại khóa.

Đối với trường THPT Trần Hưng Đạo - Hà Đông - Hà Nội, là trường

đạt chuẩn Quốc gia, giáo viên nhiệt tình, tâm huyết, chuyên môn tốt. Cơ sở

vật chất của nhà trường khá hoàn thiện, 25/32 lớp có hệ thống máy chiếu, đây

là một trong những điều kiện rất thuận lợi cho GV trong công tác giảng dạy.

Tuy nhiên học sinh có điểm chuẩn đầu vào thấp hơn so với các trường trên

cùng địa bàn quận Hà Đông nên số học sinh học tập tốt chỉ ở những lớp đầu

cao (A1, A2, A3, A4) và những em chọn thi khối C, còn lại đa số các em chưa

tự giác trong học tập. Dựa vào đặc điểm của học sinh trong trường, chúng tôi

đưa ra các biện pháp phù hợp để sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong

dạy học Lịch sử đạt được hiệu quả cao.

Với đề tài này, chúng tôi đề xuất một số biện pháp sử dụng bảo tàng

đường Hồ Chí Minh trong bài nội khóa và hoạt động ngoại khóa cho HS.

2.3.1.Bài học nội khóa.

2.3.1.1. Khai thác và sử dụng tranh ảnh, hiện vật của bảo tàng đường

Hồ Chí Minh như một nguồn tư liệu trực quan.

Hiện nay, ngoài nguồn thông tin từ sách vở, bài giảng của thầy cô giáo

trên lớp, học sinh con tiếp nhận tri thức từ nhiều nguồn thông tin khác nhau

như sách, báo, tạp chí... Do đó, học sinh ngày càng có nhiều kiến thức sâu

rộng hơn so với các thế hệ cùng tuổi trước đó.Nhưng ngoài nguồn thông tin

và hiểu biết của các em thu được ngoài nhà trường không hoàn toàn đúng.

53

Chính vì vậy các em cần phải được hướng dẫn để có khả năng phân biệt chỗ

đúng, sai của những thông tin đó. Phương tiện trực quan nói chung và tư liệu

ở bảo tàng nói riêng sẽ góp phần bồi dưỡng khả năng này cho học sinh. “Việc

khai thác, sử dụng tư liệu của bảo tàng đảm bảo cho quá trình nhận thức của

học sinh diễn ra hợp với quy luật nhận thức và đảm bảo nguyên tắc trực quan

trong học tập lịch sử. Vì vậy, đây là công cụ cần thiết, quan trọng, là nguồn

kiến thức vô giá trong học tập. Ở đây không chỉ dùng lời nói để miêu tả sự

kiện lịch sử một cách đầy đủ, nguyên vẹn, mà phải tạo biểu tượng cụ thể sinh

động qua hiện vật” [5, tr.15]. Để khai thác tư liệu tại bảo tàng đường Hồ Chí

Minh để đưa vào dạy học lịch sử thời kì 1954 - 1975 giáo viên cần lựa chọn

nội dung phù hợp tư liệu để khác thác tư liệu bảo tàng một cách có hiệu quả

nhất.

Ví dụ: Khi dạy bài 21: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu

tranh chống đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở Miền Nam” (1954 -

1965), trong mục “chiến lược chiến tranh đặc biệt” (1965 - 1968) ở miền

Nam, GV giới thiệu hình ảnh “Giao liên gùi thồ”, “Ngựa gùi hàng”, “Voi gùi

hàng” hình ảnh đoàn ngựa thồ vượt sông Sê Băng Hiêng (Lào) vòng qua đất bạn

để vượt Trường Sơn rồi lại vòng núi Đông Trường Sơn năm 1962. Đoàn vận tải

hàng bằng voi thồ của Trung đoàn 70, từ làng Ho (Tây Quảng Bình) vận chuyển

vào các trạm 1, 2, 3, 4, 5... Bắc đường số 9 tháng 4 năm 1961.

Qua những hình ảnh trên chúng ta thấy được sự khó khăn của bộ đội

Trường Sơn những ngày đầu vận chuyển hàng hóa, vũ khí vào chiến trường miền

Nam. Thấy được sự nỗ lực của bộ đội ta để vượt qua được con đường đầy gam go

và nguy hiểm.

Khi nói về sự ác liệt của chiến tranh, GV đưa ra hình ảnh “Ngã ba Đồng

54

Lộc” và đặt câu hỏi cho học sinh.

Hình 2.1. Ngã ba Đồng Lộc

(Nguồn: Chụp tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh- Hà Đông- Hà Nội)

1. Em biết gì qua bức ảnh tư liệu trên?

2. Qua bức ảnh, em thấy cuộc chiến tranh diễn ra như thế nào?

Sau đó GV có thể cung cấp thêm tư liệu về ”Ngã ba Đồng Lộc”

- Ngã ba Đồng Lộc (Hà Tĩnh): Ngã ba Đồng Lộc nằm trên đường

Trường Sơn, thuộc địa phận Đồng Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh. Ngã ba Đồng Lộc

nằm gọn trong một thung lũng hình tam giác, hai bên đồi núi trọc, giữa là con

đường độc đạo, mặt đường giống như một lòng máng, bom địch thả xuống bên

nào đất đá cũng lǎn xuống đường làm cản trở giao thông. Tất cả mọi con đường

từ Bắc vào Nam đều phải đi qua ngã ba Đồng Lộc. Đây được xem như cổ họng,

vượt qua được sẽ phân tán toả ra nhiều tuyến đường khác nhau đi vào Nam.

Chính vì sự hiểm yếu và quan trọng đó mà không quân Mỹ liên tục

đánh phá Đồng Lộc nhằm cắt đứt huyết mạch giao thông của quân, dân ta chi

viện cho chiến trường miền Nam. Con đường độc đạo này đã được mệnh

danh là “tọa độ chết”. Người ta đã thống kê rằng, mỗi mét vuông đất nơi đây

đã gánh 3 quả bom tấn. Chỉ tính riêng 240 ngày đêm từ tháng 3 đến tháng

55

10/1968, không quân địch đã trút xuống đây 48.600 quả bom các loại.

Tiểu đội 4 thuộc Đại đội 552, Tổng đội TNXP 55 Hà Tĩnh gồm 10 cô

gái còn rất trẻ tuổi từ 17 đến 24 do chị Võ Thị Tần làm Tiểu đội trưởng là

đơn vị làm việc thường trực tại Ngã ba Đồng Lộc, chịu trách nhiệm san lấp

hố bom ở đoạn đường này để không đứt mạch giao thông nối hậu phương với

tiền tuyến. Bình thường, tiểu đội hoạt động về đêm để lấp hố bom mà máy bay

đã bắn phá vào ban ngày.

Với khẩu hiệu “máu có thể chảy, tim có thể ngừng nhưng mạch máu

giao thông không bao giờ tắt”, mưa bom, bão đạn không làm khuất phục ý

chí anh hùng của lực lượng thanh niên xung phong.

(Nguồn: http://phunuvietnam.vn/kho-bau/huyen-thoai-10-co-gai-nga-

ba-dong-loc-post13787.html)

Khi dạy bài 22: “Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống đế quốc

Mỹ xâm lược. Nhân dân miền Bắc vừa chiến đấu, vừa sản xuất” (1965 -

1973) phần “chiến lược chiến tranh cục bộ”, nói về âm mưu và hành động

của Mỹ, GV đưa ra hình ảnh “Lính Mỹ chém giết dân ở Tây Ninh (1967)” để

học sinh hiểu rõ sự tàn ác, dã man của kẻ thù đối với nhân dân miền Nam. Đó

cũng là nguyên nhân để nhân dân miền Nam nổi dậy đấu tranh chống chiến

lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ.

Hình 2.2. Lính Mỹ chém giết dân ở Tây Ninh (1967)

56

(Nguồn: Chụp tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh- Hà Đông- Hà Nội)

Khi dạy mục I, phần 2: Chiến đấu chống chiến lược chiến tranh cục bộ

của Mỹ, GV giới thiệu hình ảnh “Tuổi 20 ở Trường Sơn” và “Qua cầu treo”

cho học sinh hiểu rõ hơn về tinh thần chiến đấu của quân dân ta chống lại

chiến lược “Chiến tranh cục bộ ” của Mỹ.

Hình 2.3. Tuổi 20 ở Trường Sơn

(Nguồn: Chụp tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh- Hà Đông- Hà Nội)

GV đưa hình ảnh và đặt câu hỏi:

1. Em cảm nhận như thế nào về tinh thần chiến đấu của các cô gái

Trường Sơn qua bức ảnh trên?

Sau đó GV cho học sinh hiểu rõ thêm về hình ảnh “Tuổi 20 ở Trường

Sơn” Hình ảnh “Tuổi 20 ở Trường Sơn” với những cô gái luôn nở nụ cười

trước mưa bom, bão đạn của giặc trên tuyến đường huyền thoại đã cho học

sinh có cái nhìn lạc quan trong chiến tranh, thấy được sự hi sinh của của các

nữ chiến sĩ Trường Sơn. “Họ là những thanh niên rất trẻ, tuổi từ 17, 18 đến

30, đa số là nữ thanh niên” nhưng họ luôn sẵn sàng hi sinh tuổi thanh xuân

của mình cho tiền tuyến, cho thắng lợi của cuộc chiến tranh chính nghĩa.Cuộc

sống của người lính Trường Sơn với bao khó khăn, gian khổ nhưng càng khó

57

khăn, càng gian khổ, ý chí quật khởi quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ ngày càng

cao. Điều đó thể hiện rất rõ qua nụ cười rất rạng rỡ, hồn nhiên của các cô gái

thanh niên xung phong. Có lẽ, chính cái khát khao giải phóng đã trở thành sức

mạnh của dân tộc Việt. Con đường Trường Sơn đã trở thành huyền thoại về ý

chí quyết tâm, sức mạnh của dân tộc làm cho cả thế giới phải khâm phục, kẻ

thù cũng phải khiếp sợ.

Hình ảnh “Qua cầu treo” lại là một khía cạnh khác để GV khai thác cho

học sinh hiểu rõ hơn về những khó khăn của bộ đội Trường Sơn khi phải

chống lại những vũ khí tối tân, hiện đại của Mỹ trong cuộc chiến tranh đầy ác

liệt.

Hình 2.4. Qua cầu treo

(Nguồn: Chụp tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh- Hà Đông- Hà Nội)

Cầu treo bắc qua sông Talê- Đường 20, do tiểu đoàn công binh 23 anh

hùng xây dựng. Cầu có thể tải trọng 2 xe/lượt, được thiết kế bởi mố cầu cơ

động. Khi bị oanh tạc, công binh cất đầu cầu tại bờ sông,cầu đã tồn tại ở trọng

điểm này 4 năm, đảm bảo an toàn cho hàng ngàn chuyến xe chở hàng ra mặt

trận. Khi đi qua cầu treo, người lái xe cũng phải thật gan dạ và anh dũng thì

mới có thế cho xe và hàng qua được vì sự dập dềnh và chênh vênh của cầu sẽ

58

làm cho cả người và xe có thể bị hất xuống sông bất cứ lúc nào. Cứ 13 xe đi

qua thì có 9 xe bị hất xuống sông nhưng điều đó không cản được những dòng

xe, không cản được lòng người chiến sĩ đưa hàng ra mặt trận phục vụ cho

chiến đấu.

Dạy phần II, mục 2: Vai trò của hậu phương miền Bắc từ 1965 đến

1968.Trong giai đoạn đối mặt với những khó khăn của chiến lược chiến tranh

cục bộ khi Mỹ leo thang bắn phá ra miền Bắc nhưng nhân dân miền Bắc vẫn

thực hiện tốt nghĩa vụ hậu phương. Cùng với tuyến đường vận chuyển trên

biển, trong vòng 4 năm (1965 - 1968) “miền Bắc đã đưa vào miền Nam hơn

30 vạn cán bộ, bộ đội tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu, xây dựng kinh

tế, văn hóa tại các vùng giải phóng, cùng hàng chục vạn tấn vũ khí, đạn dược,

quân trang, quân dụng, xăng dầu, lương thực, thực phẩm, thuốc men và nhiều

vật dụng khác. Tính chung, sức người, sức của từ miền Bắc chuyển vào miền

Nam trong 4 năm đã tăng gấp 10 lần so với giai đoạn trước” [2, tr. 180].

Để có được những chuyến hàng vào tiền tuyến, ngoài phương thức gùi

thồ, ngựa thồ, voi thồ thời kỳ đầu thì ở thời kì này đã sử dụng các loại xe cơ giới.

Hình 2.5. Xe cơ giới chở hàng vào miền Nam

59

(Nguồn: Chụp tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh- Hà Đông- Hà Nội)

GV giới thiệu với học sinh đây là phương tiện để đưa hàng hóa vào

chiến trường miền Nam qua đường Trường Sơn, hiện nay xe được bảo quản

làm hiện vật chiến tranh tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh.

Khi dạy bài 23: “Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở miền Bắc,

giải phóng hoàn toàn miền Nam” (1973- 1975), phần IV, mục 2: Miền Bắc

vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa sản xuất và làm nghĩa vụ hậu

phương, GV đưa hình ảnh “Đường kín Trường Sơn” và hỏi học sinh:

Hình 2.6. Đường kín Trường Sơn

(Nguồn: Chụp tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh- Hà Đông- Hà Nội)

1. Em biết gì về con đường này?

2. Con đường này có vai trò như thế nào trong việc chống lại máy bay

60

của Mỹ?

Tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh đã mô phỏng hệ thống đường kín

(Tuyến đường K), là một công trình sáng tạo to lớn, là một trong những kì

tích của nhân dân hai nước Việt - Lào, là biểu tượng ý chí quyết thắng, thông

minh, dũng cảm của quân dân ta trong chiến tranh ngăn chặn và chống ngăn

chặn. Là một nỗ lực khi chuyển phương thức vận tải từ chạy đêm sang chạy

ngày nhằm tránh sự săn lùng của kỹ thuật laze mà không quân Mỹ sử dụng

bằng máy bay AC130E. Đường kín được xây dựng chủ yếu dựa vào rừng già

tập trung trên đất bạn Lào. Những cành cây to vít vào nhau thành dàn ngụy

trang che kín đường đi, cây thưa phải trồng thêm hoặc thay thế cành cây khô,

treo cả những cây phong lan rừng để phủ kín đường. Từ năm 1971 đến năm

1973, bộ đội Trường Sơn đã xây dựng 1.100 km đường kín, đã tạo ra bước

ngoặt lớn của cuộc chiến tranh chi viện cho chiến dịch Hồ Chí Minh.

"Suốt 16 năm chiến đấu ác liệt, gian khổ, cán bộ, chiến sĩ Bộ đội

Trường Sơn-đường Hồ Chí Minh - luôn luôn nắm vững tư tưởng cách mạng

tiến công, chủ động, sáng tạo, mưu trí, dũng cảm, không hề chùn bước trước

bất cứ khó khăn, gian khổ, ác liệt nào. Cả Trường Sơn sáng ngời chủ nghĩa anh

hùng cách mạng. Lực lượng nào, đơn vị nào cũng có những sự tích anh hùng.

Cung đường nào, địa điểm nào cũng là mảnh đất thiêng rực lửa. Bộ đội đường

Hồ Chí Minh đã thắng địch và "thắng trời" làm nên con đường huyền thoại -

đường Hồ Chí Minh-con đường đi tới độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc”.

(http://www.qdnd.vn/phong-su-dieu-tra/dieu-tra/duong-truong-son-

con-duong-huyen-thoai-478434)

Suốt 16 năm (1959 - 1975), đường Trường Sơn luôn luôn trở thành

trọng điểm ngăn chặn quyết liệt của địch. Trường Sơn là chiến trường thực

nghiệm chiến lược "Chiến tranh ngăn chặn", "Chiến tranh bóp nghẹt" bằng

các thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt và các loại vũ khí, thiết bị tối tân, hiện đại của

nền khoa học công nghệ của đế quốc Mỹ. Núi rừng Trường Sơn luôn luôn

rung chuyển, bị cày đi xới lại bởi hơn 4 triệu tấn bom đạn, chất độc hóa học

61

của địch trút xuống, gây nhiều tổn thất về người, phương tiện vật chất và môi

trường sinh thái trên tuyến đường Hồ Chí Minh. Hơn 20.000 cán bộ, chiến sĩ

đã anh dũng hy sinh, hơn 32.000 cán bộ, chiến sĩ bị thương và hàng vạn người

mang thương tích hoặc nhiễm chất độc màu da cam… 14.500 xe máy, 703

súng pháo và hơn 90.000 tấn hàng hóa bị phá hỏng. Với những hy sinh vô bờ

bến ấy, bộ đội đường Trường Sơn-đường Hồ Chí Minh đã lập nên kỳ tích anh

hùng, làm nên con đường huyền thoại, góp phần to lớn vào sự toàn thắng của

cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc, giải phóng hoàn toàn

miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Hiện nay, trong văn bia Nghĩa trang Liệt sĩ Trường Sơn khắc đậm

những dòng chữ: "Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng sự đóng góp của Bộ đội

đường Hồ Chí Minh, thanh niên xung phong và dân công hỏa tuyến vào công

cuộc chi viện cho các chiến trường sẽ mãi mãi ghi vào trang sử oanh liệt của

dân tộc ta, của quân đội ta như một thiên anh hùng ca bất diệt..."

(http://www.qdnd.vn/phong-su-dieu-tra/dieu-tra/duong-truong-son-con-

duong-huyen-thoai-478434

2.3.1.2. Xây dựng và sử dụng “bảo tàng ảo” về đường Hồ Chí Minh

trong bài học trên lớp.

Dạy học trực quan được gọi là “nguyên tắc vàng ngọc” trong dạy học ở

trường phổ thông. Vì thế các môn môn thường khai thác các loại đồ dùng dạy

học, phương tiện dạy học để học sinh có nhận thức một cách hiệu quả

nhất.Các bộ môn khoa học tự nhiên thì có phòng thực hành, phòng thí nghiệm

để nghiên cứu và học tập thì bộ môn lịch sử cũng tìm đến các bảo tàng, hiện

vật, di tích lịch sử để tham gia học tập. Đó là cách học hữu hiệu và thiết thực

nhất cho việc học tập lịch sử ở trường phổ thông.

Ngày nay, với sự phát triển của công nghệ thông tin (CNTT) và truyền

thông, hoạt động giáo dục cũng có những biến đổi so với trước, nhiều giáo

viên đã biết cách áp dụng CNTT vào giảng dạy để nâng cao hiệu quả bài học

và phát huy tính sáng tạo của học sinh, trong đó có việc sử dụng bảo tàng ảo

62

vào dạy học lịch sử ở trường phổ thông.

“Bảo tàng ảo có nhiều tên gọi và quan niệm khác nhau như “bảo tàng

điện tử” (electronic museum), “bảo tàng kĩ thuật số” (digiial museum), “bảo

tàng mạng” (web museum)... tất cả những thuật ngữ này đều có chung một

nội hàm về loại hình bảo tàng được số hóa, ghi lại bằng kĩ thuật số và được

tiếp cận thông qua thông tin điện tử ” [18, tr. 51].

Như vậy có thể hiểu một cách tương đối bảo tàng ảo dựa trên bảo tàng

thật và được hiện đại hóa và thay đổi cách trưng bày năng động biến hóa theo

chủ đề và tự người xem có thể tổ chức lại trưng bày theo ý của mình.

Ở các trường THPT hiện nay chưa có đủ điều kiện về cơ sở vật chất, kinh

phí, phương tiện đi lại và thời gian để tổ chức cho học sinh tới học tập tại bảo

tàng, do đó xây dựng bảo tàng ảo trong các giờ học nội khóa cũng là điều cần

thiết đối với GV và HS trong giờ học lịch sử. Xây dựng bảo tàng ảo nhưng được

giá trị thật, hình ảnh hiện vật được nhìn từ mọi góc độ, âm thanh và ánh sáng do

người thiết kế chủ động chọn lựa cho phù hợp nội dung cần trình bày.

Trưng bày ảo cho phép tạo mối liên kết chặt chẽ và đa dạng hơn giữa

hiện vật với hoàn cảnh lịch sử hay môi trường sinh thái, nhờ vậy hiện vật cung

cấp nhiều loại thông tin hơn giúp người xem hình dung, trải nghiệm và tái tạo lại

những giai đoạn lịch sử văn hóa theo điều kiện không gian và thời gian.

Ví dụ: Sử dụng tư liệu bảo tàng đường Hồ Chí Minh xây dựng bảo tàng

ảo cho bài 22 “Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm

lược.Nhân dân miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất (1965-1973)”). Các

bước thực hiện như sau:

- Bước 1: Lập kế hoạch dạy học

- Bước 2: Tìm hiểu, lựa chọn tư liệu bảo tàng đường Hồ Chí Minh có

liên quan đến bài học.

- Bước 3: Đến bảo tàng chụp ảnh, tìm hiểu thông tin về ảnh và hiện vật

đã lựa chọn.

- Bước 4: Xây dựng bảo tàng ảo bằng phần mềm Photo3D Album theo

63

nội dung bài học.

I. Mục tiêu dạy học:

1. Về kiến thức.

- Trình bày âm mưu, thủ đoạn cũng như hành động của đế quốc Mĩ ở

Việt Nam và trên toàn cõi Đông Dương thông qua các chiến lược “Chiến

tranh cục bộ”, “Việt Nam hóa chiến tranh” -“Đông Dương hóa chiến tranh”.

- Nêu được những thắng lợi quyết định của quân dân ta trên cả hai miền

đất nước chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam

hóa chiến tranh”.

- Đánh giá được vai trò của hậu phương miền Bắc với tiền tuyến miền Nam.

- Phân tích được nội dung và ý nghĩa của Hiệp định Pari năm 1973 về

chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.

2. Về kĩ năng.

- Kĩ năng sử dụng công nghệ thông tin.

- Kĩ năng quan sát.

- Kĩ năng thuyết trình, làm việc nhóm, tổng hợp.

3. Về thái độ

- Lên án những tội ác của đế quốc Mĩ và chính quyền tay sai trong cuộc

chiến tranh xâm lược của Mĩ ở hai miền đất nước Việt Nam.

- Bồi dưỡng tinh thần yêu nước, đoàn kết dân tộc,hỗ trợ của hậu

phương miền Bắc cho tiền tuyến miền Nam.

- Nêu cao tinh thần đoàn kết, liên minh chiến đấu của ba dân tộc trên

bán đảo Đông Dương trong cuộc chiến tranh chống đế quốc Mĩ xâm lược…

II. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh:

1. Chuẩn bị của giáo viên.

- Lập kế hoạch và phân công nhiệm vụ cho học sinh.

- Hướng dẫn HS tìm tư liệu bảo tàng đường Hồ Chí Minh liên quan

đến bài 22.

64

- Đến bảo tàng ghi hình, chụp ảnh, tìm hiểu thông tin về tư liệu.

- Xây dựng bảo tàng ảo theo nội dung bài học

2. Chuẩn bị của học sinh.

- Lập kế hoạch và phân công cho các thành viên trong nhóm chuẩn bị.

- Tìm hiểu nguồn tư liệu, hiện vật của tàng đường Hồ Chí Minh và thông

tin trên các tư liệu khác.

III. Thực hiện:

- GV thực hiện theo trình tự bài học lịch sử trên lớp.

- GV kết hợp cho HS xem bảo tàng ảo với các hình ảnh, tư liệu :

1. Giao liên gùi thồ

2. Ngựa gùi hàng

3. Voi gùi hàng

4. Đôi dép cao su của anh hùng Nguyễn Viết Sinh

5. Tuổi 20 ở Trường Sơn.

- GV sử dụng bảo tàng ảo không có thuyết minh và gọi học sinh tự lên trình

bày theo cách của mình đã được chuẩn bị.

- GV nhận xét, mở rộng kiến thức thông qua hình ảnh HS vừa giới thiệu .

Hình 2.7. Giao liên gùi thồ.

65

(Nguồn: Chụp tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh- Hà Đông- Hà Nội)

Hình 2.8. Ngựa gùi hàng.

(Nguồn: Chụp tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh- Hà Đông- Hà Nội)

Hình 2.9. Voi gùi hàng.

66

(Nguồn: Chụp tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh- Hà Đông- Hà Nội)

“Ngày 19/5/1959”, tổng quân ủy Trung ương họp đoàn quân sự

đặc biệt giao nhiệm vụ “mở đường xuyên Trường Sơn vào miền Nam,

vận tải chi viện cho cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng”. Nhiệm vụ

quan trọng này được giao cho thượng tá Võ Bẩm. Lực lượng mở đường

ban đầu gồm 1 tiểu đoàn giao liên 440 người làm nhiệm vụ đưa đón cán

bộ, dẫn quân, chuyển công văn tài liệu và gùi hàng từ miền Bắc vào

miền Nam và từ Nam ra Bắc mang phiên hiệu Đoàn 559.

Ngày 19/5/1959, đường Hồ Chí Minh chính thức được triển khai.

Hàng và người đi miền Nam (B) xuất phát từ nhiều địa điểm khác nhau.

Thời gian đầu, đường đi hoàn toàn là những đường chưa có lối,

phải rẽ núi, băng rừng mở đường mà đi, nhưng vẫn phải đảm bảo nguyên

tắc bí mật “đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng”, “gặp địch

không đánh, gặp dân cũng tránh” để tránh bị lộ và bị địch phát hiện.

Phương tiện đi lại là đi bộ mang vác, gùi hàng trên vai. Mỗi chuyến từ

25 đến 30 người. ” [20, tr. 670].

Đoàn thồ hàng còn sử dụng cả ngựa thồ, hình ảnh đoàn ngựa thồ

vượt sông Sê Băng Hiêng (Lào) vòng qua đất bạn để vượt Trường Sơn

rồi lại vòng núi Đông Trường Sơn năm 1962. Đoàn vận tải hàng bằng

voi thồ của Trung đoàn 70, từ làng Ho (Tây Quảng Bình) vận chuyển

vào các trạm 1, 2, 3, 4, 5...Bắc đường số 9 tháng 4 năm 1961.

Qua những hình ảnh trên chúng ta thấy được sự khó khăn của bộ

đội Trường Sơn những ngày đầu vận chuyển hàng hóa, vũ khí vào chiến

trường miền Nam. Thấy được sự nỗ lực của bộ đội ta để vượt qua được

67

con đường đầy gam go và nguy hiểm.

Hình 2.10. Đôi dép cao su của anh hùng Nguyễn Viết Sinh.

(Nguồn: Chụp tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh- Hà Đông- Hà Nội)

Hiện vật “Đôi dép cao su” trưng bày tại bảo tàng của anh hùng Nguyễn

Viết Sinh, thuộc Binh trạm 3- Đoàn 559 sử dụng trong những năm vận

chuyển hàng từ 1961 đến 1967.

Sinh ra ở miền quê nghèo xã Xuân Hòa, huyện Nam Đàn (Nghệ An), từ

nhỏ, Nguyễn Viết Sinh (sinh năm 1940) đã thấm nhuần tinh thần cách mạng

và nung nấu ý chí đánh giặc, bảo vệ độc lập tự do của Tổ quốc. Năm 1961,

hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng, chàng thanh niên đã hăng hái lên đường

nhập ngũ. Ngày ấy, khi đang cày ruộng thì nghe đài phát thanh của xã tuyển

quân vào một đơn vị đặc biệt, ông đã lập tức xin đăng ký tòng quân.

Ông từ biệt gia đình để lên đường vào quân ngũ. Gần một ngày đêm

ngồi trên chiếc xe phủ bạt kín mít, ông và đồng đội đặt chân đến làng Ho,

thuộc địa bàn xã Kim Thủy, huyện Lệ Thủy (Quảng Bình). Ông được bổ sung

vào Tiểu đoàn bộ binh 301, nhận nhiệm vụ tải hàng vào chiến trường miền

Nam. Thời điểm ấy, quân ta vừa tiến vào Nam vừa mở đường, bởi vậy các

phương tiện vận tải cơ giới không có. Vấn đề đặt ra lúc này là để vận chuyển

súng đạn, thực phẩm tiếp viện cho miền Nam chỉ có một cách là gùi thồ bằng

68

sức người. Người chiến sỹ giao liên phải băng rừng vượt suối hàng trăm km

mới có thể chi viện kịp thời cho tiền tuyến. Hình ảnh cho chúng ta cảm nhận

được sự nỗ lực,kiên trì vượt qua gian khó của người chiến sĩ trước sự đánh

phá ác liệt của đế quốc Mỹ vào tuyến đường cũng không ngăn được bước

chân người lính. Nguyễn Viết Sinh có lẽ là nhân vật minh họa rõ nhất quyết

tâm của người tải hàng với mỗi lần gùi được 45-50kg. Trong vòng bốn năm

với 1.089 ngày làm việc, anh đã mang được hơn 55 tấn hàng trên lưng và đi

qua quãng đường có tổng chiều dài 41.025km - tương đương một vòng Trái

đất theo đường xích đạo và mang theo một lượng hàng bằng với trọng lượng

cơ thể”. http://www.nguoiduatin.vn

Hình 2.11. Tuổi 20 ở Trường Sơn.

(Nguồn: Chụp tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh- Hà Đông- Hà Nội)

Hình ảnh “Tuổi 20 ở Trường Sơn” với những cô gái luôn nở nụ cười

trước mưa bom, bão đạn của giặc trên tuyến đường huyền thoại đã cho học

sinh có cái nhìn lạc quan trong chiến tranh,thấy được sự hi sinh của của các

nữ chiến sĩ Trường Sơn. “Họ là những thanh niên rất trẻ,tuổi từ 17, 18 đến 30,

đa số là nữ thanh niên” nhưng họ luôn sẵn sàng hi sinh tuổi thanh xuân của

69

mình cho tiền tuyến, cho thắng lợi của cuộc chiến tranh chính nghĩa.

Tuổi hai mươi nguyện hiến non sông

Đường trăm trận sá gì sống chết

Tỏ cùng trời đất tấm trung can

Giải với non sông bầu nhiệt huyết...

Tuổi chẳng thọ nhưng huân công mãi mãi trường tồn/

Thân dù tan mà khí phách đời đời bất diệt”.

http://baohatinh.vn

Hình ảnh của các cô luôn còn mãi trong sự trường tồn của dân tộc, để

các cô vẫn luôn mãi mãi tuổi 20.

IV. Kết thúc bài học:

- GV sơ kết bài học.

- GV giao bài tập cho học sinh (tìm hiểu thêm 5 tư liệu bảo tàng đường

Hồ Chí Minh) và hướng dẫn cách làm bảo tàng ảo theo chủ đề hoặc theo nội

dung bài học.

2.3.2. Hoạt động ngoại khóa

2.3.2.1. Tổ chức tham quan tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh.

Tham quan là một trong những hình thức của hoạt động ngoại khóa.

“ Hoạt động ngoại khóa trong dạy học lịch sử làm phong phú kiến thức, giáo

dục tình cảm, đạo đức, phẩm chất học sinh, giáo dục tinh thần tập thể, ý thức

cộng đồng trách nhiệm, yêu thích lao động, rèn luyện tính kỉ luật và tinh thần

tương thân tương ái.” [11, tr.178].

Trong học tập môn Lịch sử ở trường phổ thông, tham quan tại bảo tàng

là một hình thức được nhiều GV và HS lựa chọn, “hoạt động tham quan ngoại

khóa sẽ bổ trợ kiến thức lịch sử cho học sinh về truyền thống văn hóa, lịch sử

của dân tộc và mỗi địa phương. Qua đó nâng cao ý thức bảo tồn và phát huy

các giá trị truyền thống dân tộc” [11, tr.181]. Để tổ chức được các buổi tham

70

quan tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh đạt kết quả cao, trước hết GV cần đi

tiền trạm để tìm hiểu các tư liệu, hiện vật và các thông tin về bảo tàng để lên ý

tưởng cho các hoạt động tại buổi tham quan.Bên cạnh đó, GV cũng hướng

dẫn học sinh tìm hiểu về nội dung bài học có liên quan đến bảo tàng đường

Hồ Chí Minh, hướng dẫn học sinh cách thức tìm hiểu tư liệu, hiện vật, tranh

ảnh và cách ghi chép cho khoa học. GV lên ý tưởng để tổ chức nhiều hoạt

động phong phú trong buổi tham quan sẽ khiến cho HS không cảm thấy nhàm

chán, ngược lại sẽ phát huy được sự hứng thú, tính chủ động, sáng tạo và các

năng khiếu khác của HS.

Ví dụ: Chương trình ngoại khóa “ Trường Sơn- nơi ấy đừng quên”

Chủ đề: Các chiến lược chiến tranh của Mĩ ở Việt Nam từ 1961 đến

1972

I. Mục tiêu.

Kết thúc hoạt động ngoại khóa này, HS có khả năng:

1. Về kiến thức:

- Nêu được những nét khái quát về ba chiến lược chiến tranh của Mỹ từ

năm 1961 đến 1964: Chiến tranh đặc biệt, Chiến tranh cục bộ, Việt Nam hóa

và Đông Dương hóa chiến tranh.

- Hiểu được sự ác liệt của chiến tranh mà Mỹ đã tiến hành ở Việt Nam

và mở rộng qui mô ra ba nước Đông Dương.

- Đánh giá được vai trò hậu phương của nhân dân miền Bắc và những

hi sinh gian khổ, những đóng góp của bộ đội Trường Sơn cho cuộc chiến

tranh giành thắng lợi.

2. Về kĩ năng:

- Đọc và khai thác thông tin từ các tư liệu, hiện vật của bảo tàng đường

Hồ Chí Minh.

- Quan sát hiện vật.

71

- Làm việc nhóm, tham gia các hoạt động tập thể.

3. Về thái độ:

- Nâng cao ý thức giữ gìn và bảo vệ di tích lịch sử tại địa phương.

- Bồi dưỡng lòng yêu nước, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và ý chí

quyết tâm đánh bại âm mưu xâm lược của chủ nghĩa đế quốc.

- Gắn liền tình cảm ruột thịt Bắc - Nam.

II. Cơ cấu tổ chức.

1. Đối tượng tham gia

- HS lớp 12 THPT

- Số lượng: 40 HS 2. Thời gian tổ chức (dự kiến).

- Thời gian: 120 phút.

- Ngày... tháng... năm...

III. Chuẩn bị của GV và HS.

1. Chuẩn bị của GV:

- Lên kế hoạch và đề xuất với nhà trường về tổ chức tham quan tại bảo

tàng đường Hồ Chí Minh cho HS.

- Liên hệ với Ban quản lý bảo tàng để trình bày mục đích, yêu cầu và

nội dung buổi tham quan.

- Thành lập Ban giám khảo gồm mỗi đội 1 người và GV môn Lịch sử.

- Giao nhiệm vụ chuẩn bị cho HS: Đọc trước tài liệu của bảo tàng,

chuẩn bị đồ dùng để tham gia các trò chơi.

2. Chuẩn bị của HS:

- Đọc các tài liệu về bảo tàng đường Hồ Chí Minh theo yêu cầu của GV

qua trang website : http://www.btlsqsvn.org.vn

- Chuẩn bị giấy, bút, ghế ngồi cho Ban giám khảo.

IV. Nội dung hoạt động.

1. Hoạt động 1: Tham quan bảo tàng

72

- Thời gian: 30 phút

- Mục đích: Quan sát các hiện vật được trưng bày tại bảo tàng đường

Hồ Chí Minh.

- Hình thức: HS tham quan ở phòng trưng bày tầng 1 (phần : “Đông

Trường Sơn thuở ban đầu”; phần: “Đi lên theo bước phát triển của cách mạng

Việt Nam”; phần: Đỉnh cao của chiến lược ngăn chặn và chống ngăn chặn”;

phần: “ Trường Sơn nơi thử nghiệm chiến tranh điện tử của Mỹ”). Tầng 2

(phần: “Hoàn thiện thế trận Trường Sơn”; phần: “Sa bàn thế trận Trường

Sơn”)

2. Hoạt động 2: Trò chơi “Nhận diện hiện vật”.

- Thời gian: 30 phút (gồm 28 phút cho 4 đội, 2 phút tập hợp lớp và

công bố luật chơi)

- Mục đích: HS ghi nhớ một số hiện vật của bộ đội Trường Sơn trong

lao động và trong chiến đấu

- Hình thức: Chia lớp thành 4 nhóm, mỗi nhóm 10 HS, các HS trong

nhóm cùng thực hiện nhiệm vụ được giao.

+ Luật chơi:

Mỗi HS trong nhóm nhận được 1 phiếu học tập, trên phiếu là 10 hình

ảnh về các hiện vật được trưng bày tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh, không

có phần ghi chú hiện vật.

Yêu cầu các nhóm phải đi tìm hiện vật và ghi đúng tên và thông tin của

hiện vật vào phiếu đã phát.

Mỗi nhóm có 7 phút để thực hiện, lần lượt mỗi nhóm tự phân công

nhau để hoàn thành công việc.

Cách tính điểm như sau: Đối với 1 hiện vật/10 HS ghi đúng tên và

thông tin của hiện vật sẽ giành được 10 điểm, mỗi thành viên ghi sai hoặc

không ghi sẽ bị trừ 1 điểm của hiện vật đó.

Phiếu học tập (Phụ lục 3)

73

3. Hoạt động 3: Trò chơi “Truyền tin Trường Sơn”.

- Thời gian: 22 phút (gồm 20 phút cho 4 đội, 2 phút tập hợp lớp và

công bố luật chơi).

- Mục đích: HS hiểu một số hoạt động của bộ đội Trường Sơn trên

tuyến đường đầy ác liệt.

- Hình thức: Chia lớp thành 4 nhóm, mỗi nhóm 10 HS, các HS trong

nhóm cùng thực hiện nhiệm vụ được giao.

+ Luật chơi:

Mỗi nhóm cử ra 1 đội trưởng và 1 đội phó, đội trưởng sẽ nhận 1 thông

tin từ Ban giám khảo và có thời gian 1 phút để ghi nhớ. Hết thời gian 1 phút,

đội trưởng sẽ nói thầm vào tai cho thành viên thứ 2 trong nhóm, người thứ 2

sẽ truyền tải cho người thứ 3 và lần lượt truyền đến đội phó đứng cuối

cùng.Đội phó sẽ viết lại câu mình được nghe cho Ban giám khảo.

Mỗi nhóm có 5 phút để thực hiện truyền tin, nhóm nào truyền nhanh

nhất và chính xác nhất được 50 điểm.

Nội dung các thông tin cho 4 đội như sau:

- Đội 1: Đường Trường Sơn là con đường của ý chí quyết thắng, lòng

dũng cảm, khí phách anh hùng của dân tộc Việt Nam.

- Đội 2: Hầm di động là phương tiện giúp bộ đội Trường Sơn tránh bị

sát thương khi đi tháo dỡ bom mìn, là sự sáng tạo của bộ đội ta chống lại vũ

khí tối tân của kẻ thù.

- Đội 3: Trường Sơn - nơi thử nghiệm chiến tranh điện tử của đế quốc

Mỹ, chúng đã dội hơn 4 triệu tấn bom đạn xuống tuyến đường này.

- Đội 4: Hệ thống đường chiến lược Trường Sơn dài 20.000km (cả hệ

thống dọc và ngang), xuyên qua 3 nước Đông Dương.

4. Hoạt động 4: Thuyết trình “Cảm xúc Trường Sơn”.

- Thời gian: 38 phút (gồm 15 phút xem phim, 12 phút trình bày cho 4

74

đội và 1 phút công bố tiêu chí).

- Mục đích: HS hiểu được ý nghĩa của hoạt động tham quan tại bảo

tàng , hiểu được vai trò của đường Trường Sơn và có được những tình cảm,

thái độ với bộ đội ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

- Hình thức: Chia lớp thành 4 nhóm, mỗi nhóm cử 1 HS thuyết trình.

Các nhóm được xem tư liệu về đường Trường Sơn tại tầng 2 của bảo tàng

Mỗi nhóm có 3 phút để thuyết trình nêu nên những hiểu biết, cảm xúc,

suy nghĩ của mình về đường Trường Sơn.

- Cách tính điểm:

+ Trình bày đúng hiểu biết được 5 điểm.

+ Trình bày lưu loát, rõ ràng được 5 điểm.

+ Trình bày có cảm xúc được 5 điểm.

+ Trình bày đúng thời gian được 5 điểm.

2.3.2.2. Tổ chức trải nghiệm sáng tạo tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh.

Theo dự thảo chương trình giáo dục phổ thông năm 2017 của Bộ Giáo

dục và Đào tạo thì: “Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo dục,

trong đó học sinh dựa trên sự tổng hợp kiến thức của nhiều lĩnh vực giáo dục

và nhóm kỹ năng khác nhau để trải nghiệm thực tiễn đời sống nhà trường, gia

đình và tham gia hoạt động phục vụ cộng đồng dưới sự hướng dẫn và tổ chức

của nhà giáo dục, qua đó hình thành những phẩm chất chủ yếu, năng lực

chung và một số năng lực thành phần đặc thù của hoạt động này: Năng lực

thiết kế và tổ chức hoạt động; năng lực thích ứng với sự biến động của nghề

nghiệp và cuộc sống”. (tr.25)

Còn quan điểm riêng của tác giả Chu Cẩm Thơ (giám đốc nghiên cứu

và phát triển Chương trình toán Pomah): “Trải nghiệm sáng tạo không thể

tách rời môn học cụ thể. Vì bản chất của trải nghiệm sáng tạo là sự vận dụng

nội dung môn học để thực hành, vận dụng giải quyết các vấn đề khác nhau

75

trong cuộc sống. Vì thế, trải nghiệm sáng tạo đưa về các môn học thì hợp lý”.

“Theo Unesco: “ giáo dục trải nghiệm là một phạm trù bao gồm nhiều

phương pháp, trong đó người dạy cùng người học tham gia trải nghiệm thực

tế, sau đó phản ánh, tổng kết lại để tăng cường hiểu biết, phát triển khả năng,

định hình các giá trị sống và phát triển tiềm năng bản thân, tiến tới đóng góp

tích cực cho cộng đồng và xã hội ” [1, tr. 62].

Do đó trải nghiệm sáng tạo sẽ có ở nhiều môn học khác nhau và tạo cho

HS có nhiều kĩ năng,hình thành phẩm chất, có nhiều trải nghiệm thực tế thông

qua các hoạt động tập thể, dự án học tập, hoạt động xã hội... HS sẽ là người

vừa tham gia, vừa tự tổ chức thiết kế hoạt động của mình để khám phá,để

sáng tạo, để tổ chức cuộc sống có kế hoạch hơn. Qua hoạt động trải nghiệm

sáng tạo, HS cũng định hướng được nghề nghiệp cho mình, rèn luyện được

phẩm chất và năng lực để thích ứng với sự nghiệp trong tương lai.

Để tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo tại bảo tàng đường Hồ Chí

Minh nhằm giúp học sinh hình thành những năng lực trên, GV cần có sự kết

hợp các phương pháp, hình thức tổ chức sáng tạo, phong phú như: tham quan,

tổ chức các hội thi, đóng vai nhân viên bảo tàng, đóng vai phóng viên chiến

trường, đóng vai chiến sĩ Trường Sơn...

Cụ thể, hoạt động trải nghiệm sáng tạo tại bảo tàng đường Hồ Chí

Minh được thực hiện như sau:

Ví dụ: Chương trình ngoại khóa “Miền Nam gọi, miền Bắc trả lời”.

Chủ đề: Hậu phương miền Bắc trong trong kháng chiến chống Mỹ.

I. Mục tiêu.

Kết thúc hoạt động ngoại khóa này, HS có khả năng:

1. Về kiến thức:

- Trình bày được những khó khăn của nhân dân miền Bắc trong cuộc

kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

76

- Hiểu được sự ác liệt của chiến tranh trên tuyến đường Trường Sơn.

- Đánh giá được vai trò hậu phương của nhân dân miền Bắc với tiền

tuyến miền Nam.

2. Về kĩ năng:

- Đọc và khai thác thông tin từ các tư liệu, hiện vật của bảo tàng đường

Hồ Chí Minh.

- Làm việc nhóm, tham gia các hoạt động tập thể.

- Biết cách chơi các trò chơi vận động.

3. Về thái độ:

- Trân trọng tình cảm của hậu phương miền Bắc với tiền tuyến miền

Nam.

- Yêu thích các hoạt động tập thể, gắn kết bạn bè.

II. Cơ cấu tổ chức.

1. Đối tượng tham gia.

- HS lớp 12 THPT

- Số lượng: 40 HS (chia làm 2 đội).

2. Thời gian tổ chức (dự kiến).

- Thời gian: 120 phút

- Ngày... tháng... năm...

III. Chuẩn bị của GV và HS.

1. Chuẩn bị của GV.

- Lên kế hoạch và đề xuất với nhà trường về tổ chức tham quan tại bảo

tàng đường Hồ Chí Minh cho HS.

- Liên hệ với Ban quản lý bảo tàng để trình bày mục đích, yêu cầu và

nội dung buổi tham quan.

- Tìm hiểu những nội dung trưng bày tại bảo tàng có liên quan đến chủ

77

đề.

- Giao nhiệm vụ chuẩn bị cho HS: Đọc trước tài liệu của bảo tàng,

chuẩn bị các tiết mục văn nghệ, đồ dùng để tham gia các trò chơi.

2. Chuẩn bị của HS.

- Đọc các tài liệu về bảo tàng đường Hồ Chí Minh theo yêu cầu của GV

qua trang website: http://www.btlsqsvn.org.vn

- Các đội chuẩn bị 1 bao bố và 5 balo đựng đồ (mỗi balo nặng khoảng

2 kg)

IV. Nội dung hoạt động.

1. Hoạt động 1: Tham quan bảo tàng

- Thời gian: 30 phút.

- Mục đích: Quan sát các địa điểm trọng yếu trên đường Trường Sơn

(đường Hồ Chí Minh ) và cách thức vận chuyển lương thực, thực phẩm vào

chiến trường qua con đường này.

- Hình thức: HS tham quan ở phòng trưng bày tầng 1 (phần : “Đông

Trường Sơn thuở ban đầu”; phần: “Đi lên theo bước phát triển của cách mạng

Việt Nam”; Tầng 2 (phần: “Sa bàn thế trận Trường Sơn”).

2. Hoạt động 2: Phần thi “Chào hỏi”.

- Thời gian: 10 phút (mỗi đội 5 phút).

- Mục đích: HS rèn luyện được sự tự tin, kĩ năng thuyết trình, kĩ năng

làm việc nhóm.

- Hình thức: Chia lớp thành 2 đội, mỗi đội 1 HS đại diện bốc thăm và

suy nghĩ (2 phút), trình bày trong thời gian 3 phút.

- Yêu cầu : Trình bày tự tin, nội dung hợp chủ đề, hấp dẫn, lưu loát, rõ

ràng.

- GV làm giám khảo

3. Hoạt động 3: Phần thi “Tài năng”.

78

- Thời gian: 25 phút.

- Mục đích: giới thiệu cho HS một số ca khúc về Trường Sơn, về cuộc

chiến đầy hào hùng của dân tộc ta trong thời kì 1954 - 1975.

- Hình thức: Chia lớp thành 2 đội, mỗi đội 3 HS.

+ Luật thi:

Mỗi đội cử ra 1 HS hát 1 bài hát về Trường Sơn, hát xong đến bạn của

đội 2 và quay vòng.

Đội nào không hát được thì đội cổ vũ đếm từ 1 đến 5 và chuyển tiếp

đến khi hết thời gian 25 phút,

- Tiêu chí: Hát đúng chủ đề, hát hay, nhiều bài.

4. Hoạt động 4: Phần thi “Ai nhanh ai đúng”.

- Thời gian: 25 phút

- Mục đích: giới thiệu cho HS biết được các địa điểm trọng yếu của

tuyến đường Trường Sơn và rèn luyện sự nhanh nhẹn, khéo léo của HS qua

trò chơi.

- Hình thức: Chia lớp thành 2 đội, mỗi đội cử 5 HS tham gia trò chơi.

- Cách chơi:

Mỗi đội có 1 bảng ở phía trước ghi tên 20 địa điểm khác nhau trên

tuyến đường Trường Sơn.

Tại vạch xuất phát, mỗi đội có danh sách 10 điểm trọng yếu của đường

Trường Sơn.

Nhiệm vụ của 2 đội là cùng di chuyển nhanh (nhảy bao bố) đến bảng

đó và gắn cờ (nhỏ) lên 1 trong 10 điểm được ghi trong danh sách.

Bạn này xong sẽ lần lượt đến bạn khác trong đội cho đến hết thời gian.

- Tiêu chí: Di chuyển nhanh, cắm được nhiều cờ và đúng.

5. Hoạt động 5. Phần thi “Trải nghiệm chiến trường”.

- Thời gian: 30 phút.

79

- Mục đích: HS hiểu được sự khó khăn của bộ đội Trường Sơn khi vận

chuyển hàng hóa, lương thực ra chiến trường và rèn luyện sự nhanh nhẹn,

khéo léo của HS qua trò chơi.

- Hình thức: Chia lớp thành 2 đội, mỗi đội cử 10 HS tham gia trò chơi.

- Cách chơi:

Mỗi đội có 15 phút để thực hiện trò chơi.Các đội tự chọn 2 HS vào 1

cặp quay lưng vào nhau với balo đựng đồ ở giữa, các cặp sẽ di chuyển từ

điểm xuất phát cho tới đích trong thời gian nhanh nhất và quay lại đến lượt

các cặp khác.

- Tiêu chí: Nhanh, vận chuyển được nhiều balo đựng đồ về đích.

V. Kết thúc hoạt động.

- Dựa vào tổng số điểm sẽ trao giải nhất, nhì cho 2 đội.

- HS về nhà làm bài thu hoạch : “Hãy viết những hiểu biết của mình về

một trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn mà em cho là ấn tượng nhất”.

2.3.2.3. Tổ chức trò chơi tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh.

Qua thực tiễn khảo sát cho thấy đa số HS thích hoạt động tổ chức trò

chơi tại bảo tàng. Với hoạt động này các em không bị gò bó mà được thể hiện

mình. Đối với quá trình dạy học lịch sử, tổ chức trò chơi cũng là một phương

pháp giáo dục giúp học sinh rèn luyện các giác quan, khéo léo hơn, nhanh

nhẹn hơn và tự tin hơn.Ngoài ra trò chơi còn giúp các em có khả năng quan

sát, phản ứng nhanh, chủ động và đoàn kết.Trò chơi là một phương tiện giáo

dục giải trí, giúp HS được rèn luyện, phấn khích, thích thú và vì thế bài học

lịch sử sẽ đạt hiệu quả hơn.

Theo nhu cầu của HS, các trò chơi được tổ chức tại bảo tàng đường Hồ

Chí Minh được thực hiện như sau:

Chương trình “Mãi mãi tuổi hai mươi”.

Chủ đề: Đường Trường Sơn trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

I. Mục tiêu.

80

Kết thúc hoạt động ngoại khóa này, HS có khả năng:

1. Về kiến thức:

- Hiểu được những khó khăn của bộ đội Trường Sơn và sự ác liệt của

chiến tranh trên tuyến đường này.

- Đánh giá được vai trò của đường Trường Sơn trong kháng chiến

chống Mỹ.

2. Về kĩ năng:

- Đọc và khai thác thông tin từ các tư liệu, hiện vật của bảo tàng đường

Hồ Chí Minh và các tài liệu có liên quan.

- Rèn kĩ năng đóng vai, làm việc nhóm, tham gia các hoạt động tập thể,

tổ chức sự kiện.

- Biết cách chơi các trò chơi vận động.

3. Về thái độ:

- Trân trọng những con người đã làm nên lịch sử, hiểu được giá trị của

cuộc sống.

- Học sinh có ý thức giữ gìn và bảo vệ các bảo tàng, di tích lịch sử.

II. Cơ cấu tổ chức.

1. Đối tượng tham gia.

- HS lớp 12 THPT.

- Số lượng: 40 HS (chia làm 2 đội).

2. Thời gian tổ chức (dự kiến).

- Thời gian: 120 phút.

- Ngày... tháng... năm...

III. Chuẩn bị của GV và HS.

1. Chuẩn bị của GV.

- Lên kế hoạch và đề xuất với nhà trường về tổ chức tham quan tại bảo

tàng đường Hồ Chí Minh cho HS.

- Liên hệ với Ban quản lý bảo tàng để trình bày mục đích, yêu cầu và

81

nội dung buổi ngoại khóa.

- Tìm hiểu những nội dung trưng bày tại bảo tàng có liên quan đến chủ đề.

- Giao nhiệm vụ chuẩn bị cho HS: Đọc trước tài liệu của bảo tàng,

chuẩn bị nội dung để tham gia các trò chơi.

2. Chuẩn bị của HS.

- Đọc các tài liệu về bảo tàng đường Hồ Chí Minh theo yêu cầu của GV

qua trang website : http://www.btlsqsvn.org.vn

- Các đội chuẩn cờ bị cờ nhỏ, ba lô và túi bóng đựng 3 lít nước.

IV. Nội dung hoạt động.

1. Hoạt động 1: Trò chơi “Đoán tên hiện vật”.

- Thời gian: 30 phút.

- Mục đích: HS biết được các hiện vật đã được sử dụng để mở đường

và phục vụ cho công tác di chuyển, vận chuyển trên tuyến đường Trường Sơn.

- Hình thức: HS được chia làm 2 đội, xếp thành 2 hàng dọc, mỗi đội 5

HS.

Mỗi hiện vật là một gợi ý, lần lượt mỗi người trong đội trả lời nhanh

nhất và đúng sẽ được cộng 10 điểm cho mỗi hiện vật.Trả lời đến gợi ý thứ 2

bị trừ 5 điểm.

2. Hoạt động 2: Đóng vai hướng dẫn viên bảo tàng.

- Thời gian: 30 phút.

- Mục đích: Cho HS hiểu biết thêm về cách thức vận chuyển hàng của

bộ đội Trường Sơn.

Rèn luyện sự tự tin, kĩ năng thuyết trình.

- Hình thức: Chia lớp thành 2 đội và làm theo yêu cầu của GV

Yêu cầu 1: Hãy kể tên 3 cách thức để vận chuyển hàng của bộ đội qua

đường Trường Sơn? (HS có thể kể: dùng ngựa, dùng gùi, dùng xe thồ).

Yêu cầu 2: HS bốc thăm 1 trong 3 hiện vật và giới thiệu về hiện vật đó,

82

trình bày tự tin, đúng chủ đề, hấp dẫn, lưu loát, rõ ràng.

- GV làm giám khảo.

3. Hoạt động 3: Tập làm chiến sĩ.

- Thời gian: 30 phút.

- Mục đích: cho HS hiểu thêm về những khó khăn của bộ đội Trường

Sơn khi vận chuyển xăng dầu qua tuyến đường này.

- Hình thức: Chia lớp thành 2 đội, mỗi đội 5 chiến sĩ tham gia.

- Cách chơi: Các chiến sĩ đeo ba lô (mỗi ba lô đựng 3 lít nước đã được

chuẩn bị) và di chuyển từ vạch xuất phát qua các chướng ngại vật (bao cát,

cành cây, ghế...) để lấy lá cờ mang về đích, cắm cờ vào giỏ quà và nhận được

1 câu hỏi để trả lời. Mỗi đội có 15 phút thực hiện.

- Tiêu chí: Nhanh, không chạm vật cản, trả lời đúng câu hỏi.

4. Hoạt động 4: Trò chơi “Tiếp sức về nguồn”.

- Thời gian: 30 phút.

- Mục đích: giới thiệu cho HS biết được các địa điểm trọng yếu của

tuyến đường Trường Sơn.

- Hình thức: Chia lớp thành 2 đội, mỗi đội cử 2 HS tham gia trò chơi.

- Cách chơi:

Trên màn hình ghi tên 10 địa điểm khác nhau trên tuyến đường Trường Sơn.

Một HS quay lên màn hình và 1 HS quay xuống màn hình, HS quay lên

sẽ nhìn từng địa danh và gợi ý cho HS đứng dưới trả lời trong thời gian 15

phút cho mỗi đội.

Mỗi câu trả lời đúng được 10 điểm.

- Tiêu chí: trả lời đúng câu hỏi, đúng thời gian, không gợi ý bằng tiếng

Anh, tiếng lóng.

V. Kết thúc hoạt động.

- Dựa vào tổng số điểm sẽ trao giải nhất, nhì cho 2 đội.

- HS về nhà làm bài thu hoạch: “Hãy giới thiệu về một hiện vật tại bảo

83

tàng đường Trường Sơn mà em cho là ấn tượng nhất”.

2.4. Thực nghiệm sƣ phạm

2.4.1. Mục đích, đối tượng thực nghiệm

Mục đích thực nghiệm:

Thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm nghiệm, đánh giá và khẳng định

được tính khả thi của các đề xuất về nội dung, biện pháp thực hiện đề tài “Sử

dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử Việt Nam thời kì

1954- 1975”.

Trong khi chúng tôi đang thực hiện đề tài thì bảo tàng đường Hồ Chí

Minh vẫn trong quá trình sửa chữa và đóng cửa tạm dừng hoạt động đến

tháng 12/2017 mới mở cửa, do đó chúng tôi chỉ thực nghiệm được bài nội

khóa.

Đối tượng thực nghiệm:

Quá trình thực nghiệm được tiến hành tại trường THPT Trần Hưng Đạo

- Hà Đông - Hà Nội.

Lớp được chọn thực nghiệm là lớp 12a6 (34 học sinh), lớp đối chứng là

12a3 (35 học sinh).

Lớp thực nghiệm và lớp đối chứng được lựa chọn theo nguyên tắc: Sĩ

số gần tương đồng nhau, kết quả học tập chênh lệch không đáng kể.

2.4.2. Nội dung, phương pháp thực nghiệm

Nội dung thực nghiệm:

Chúng tôi đã tiến hành thực nghiệm bài 22: “Nhân dân hai miền trực

tiếp chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược.Nhân dân miền Bắc vừa chiến đấu

vừa sản xuất (1965-1973).Tiết 2- Lớp 12 chương trình chuẩn.

Để thực nghiệm thành công và thu được kết quả chính xác, chúng tôi đã

đảm bảo mục tiêu bài học, chia thời gian và nội dung kiến thức đúng với phân

phối chương trình quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Việc thực nghiệm

84

được tiến hành qua 1 tiết học/ lớp.

Phương pháp thực nghiệm:

Chuẩn bị giáo án theo 2 kiểu như sau:

Kiểu 1: Lớp 12a6

- Xây dựng giáo án thực nghiệm.

- GV sử dụng tranh ảnh của bảo tàng đường Hồ Chí Minh có liên quan

đến bài học, xây dựng bảo tàng ảo.

- Máy tính kết nối với máy chiếu và màn hình.

Kiểu 2: Lớp 12a3

Giáo án soạn giảng bình thường, không sử dụng bảo tàng đường Hồ

Chí Minh trong dạy học lịch sử.

Sau khi tiến hành thực nghiệm, chúng tôi đã kiểm tra hoạt động nhận

thức của học sinh lớp thực nghiệm và lớp đối chứng. Hai lớp cùng trả lời

phiếu thăm dò ý kiến học sinh sau giờ học.(Phụ lục 4) và làm bài kiểm tra

nhanh gồm 5 câu hỏi trắc nghiệm, 1 câu hỏi tự luận (Phụ lục 5). Tiêu chí đánh

giá là thang điểm 10.

- Từ điểm 9 đến 10 (giỏi): Bài làm đủ số câu, đúng kiến thức, hiểu

được nội dung và ý nghĩa bức ảnh.

- Từ điểm 7 đến 8 (khá): Bài làm đúng số câu nhưng một số câu trả lời

chưa đúng, nêu được nội dung bức ảnh.

- Từ điểm 5 đến 6 (trung bình): bài có số câu trả lời ít hơn so với bài

đạt điểm 7-8, kiến thức nắm chưa sâu.

- Từ điểm 3 đến 4 (yếu): Bài có số câu trả lời đúng dưới 50% số lượng

câu hỏi.

85

2.4.3. Kết quả thực nghiệm

Bảng 2.1. Bảng tổng hợp kết quả điểm kiểm tra giữa lớp TN và lớp ĐC

Điểm Điểm Khá Điểm TB Điểm Yếu, Giỏi Lớp kém <5 7-8 5-6 9-10

Số lượng 14 10 4 6 Lớp TN

(34hs) Tỉ lệ % 17,6% 41,2% 29,4% 11,8%

Số lượng 6 16 11 2 Lớp ĐC

(35hs) Tỉ lệ % 5,7% 17,2% 45,7% 31,4%

Qua bảng 2.1, dựa trên các kết quả thực nghiệm sư phạm đã thông qua

việc xử lí số liệu thu được, chúng tôi nhận thấy: chất lượng học tập của học

sinh lớp thực nghiệm luôn cao hơn học sinh lớp đối chứng. Cụ thể:

Ở lớp thực nghiệm12a6, GV đã sử dụng tư liệu bảo tàng đường Hồ Chí

Minh vào dạy học, học sinh rất hứng thú theo dõi và phát biểu. Tổng số bài

kiểm tra GV thu được là 34 bài, trong đó số bài đạt điểm giỏi là 6 (chiếm

17,6%), điểm khá là 14 (chiếm 41,2%), điểm trung bình là 10 (chiếm 29,4%),

điểm yếu là 4 (chiếm 11,8%).

Ở lớp đối chứng 12a3, GV dạy theo phương pháp truyền thống, đưa ra

nội dung kiến thức trong bài và yêu cầu học sinh phát biểu rồi ghi chép do đó

chưa tạo ra sự hứng thú,chủ động cho học sinh. Tổng số bài kiểm tra thu về

là 35, trong đó bài đạt điểm giỏi là 2 (chiếm 5,7%), điểm khá là 6 (chiếm

17,2%), điểm trung bình là 16 (chiếm 45,7%), điểm yếu là 11 (chiếm 31,4%).

Đa số học sinh lớp thực nghiệm nắm chắc kiến thức hơn so với lớp đối

chứng, tỉ lệ học sinh đạt điểm giỏi ở lớp thực nghiệm chiếm 17,6 % (cao hơn

lớp đối chứng 11,9%).Tỉ lệ điểm yếu của học sinh lớp đối chứng cao hơn lớp

thực nghiệm là 20%.

Qua phân tích các số liệu từ phiếu thông tin của học sinh sau giờ dạy

86

thực nghiệm, chúng tôi thu được kết quả như sau:

Về mức độ hứng thú của học sinh và kết quả của giờ học:

Đa số HS đều rất hăng hái xây dựng bài, hứng thú với bài học, 82% HS

hiểu bài học, 85% HS đã được mở rộng thêm kiến thức có liên quan đến bài

học và thấy hấp dẫn qua cách mở rộng kiến thức về đường Trường Sơn của

giáo viên.

Về mục tiêu học tập và kĩ năng:

Khi GV sử dụng tư liệu bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong bài học, có

46% HS đã đạt được mục tiêu trang bị thêm những kiến thức về đường

Trường Sơn, về sự ác liệt của chiến tranh và những khó khăn của nhân dân

hai miền đất nước khi phải chống lại một đế quốc sừng sỏ nhất trên thế giới.

55,8% học sinh cho rằng được rèn luyện kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng

thuyết trình.

Thông qua bài học,với các phương pháp giáo viên sử dụng,70,5% cho

rằng GV sử dụng phương pháp trực quan hiệu quả nhất, qua những hình ảnh

GV cung cấp và hướng dẫn học sinh khai thác, học sinh đã có thêm những

đánh giá, nhận xét về tinh thần chiến đấu của quân dân ta, một thời “Xẻ dọc

Trường Sơn đi cứu nước”, thấy được mối quan hệ gắn bó ruột thịt giữa hậu

phương và tiền tuyến trong việc chống lại các chiến lược chiến tranh của đế

quốc Mỹ.

Về thái độ:

67,6% HS cho rằng đã khơi dậy lòng yêu nước và tự hào dân tộc khi

được GV mở rộng thêm kiến thức ngoài sách giáo khoa, được nhìn và khai

thác các tranh ảnh của bảo tàng đường Hồ Chí Minh có liên quan đến bài học.

Như vậy, thông qua tiết học Lịch sử có sử dụng tư liệu bảo tàng đường

Hồ Chí Minh đã giúp HS biết thêm nhiều nguồn tài liệu chưa được biết đến

hoặc chưa được đề cập trong sách giáo khoa. Với nhận thức đúng đắn và đạt

được các mục tiêu bài học đề ra đã mở rộng sự hiểu biết , sự hứng thú cho học

sinh làm cho các em yêu thích môn học, qua đó đã khơi dậy lòng yêu nước và

87

tự hào dân tộc cho học sinh. Các em cũng mong muốn được mở rộng thêm

các kiến thức ngoài sách giáo khoa, được nghe GV kể các câu chuyện lịch sử

và xem video có liên quan đến bài học.

Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực nghiệm chúng tôi cũng thấy

một số bất cập như sau:

- Bài học dài, có nhiều nội dung nên thời gian không đủ để khai thác

triệt để các loại ảnh và hiện vật của bảo tàng đường Hồ Chí Minh.

- Học sinh chưa tự tin và chưa có nhiều sự tìm tòi khi trả lời các câu hỏi

thông qua các hình ảnh mà giáo viên đưa ra.

Để khắc phục tình trạng này, chúng tôi đã đưa ra một số giải pháp giúp

cho việc áp dụng đề tài vào giảng dạy được tốt hơn:

- Tạo hứng thú cho học sinh trong mỗi giờ học lịch sử.

- Cần hướng dẫn cho học sinh có sự chuẩn bị tốt về tư liệu.

- Kiểm tra đánh giá sau giờ học.

Qua kết quả thực nghiệm trên, chúng tôi khẳng định: Trong quá trình

dạy học Lịch sử, GV chỉ dựa vào kiến thức sách giáo khoa là chưa đủ. Việc

sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh vào bài học một cách phù hợp sẽ là một

trong những biện pháp tốt để giúp GV nâng cao được hiệu quả bài học và giúp

học sinh hứng thú hơn với môn học. Bài học lịch sử sẽ bớt nặng nề, học sinh

thích thú với những kiến thức được mở rộng, tiếp cận được những nguồn tư liệu

88

bảo tàng chưa biết đến nhưng đã được GV chia sẻ, khai thác trong giờ học.

TIỂU KẾT CHƢƠNG 2

Trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu nội dung, cấu trúc chương trình lịch sử

lớp 12 (Phần lịch sử Việt nam thời kì 1954 - 1975) cùng với việc đánh giá

thực trạng sử dụng bảo tàng nói chung và Bảo tàng đường Hồ Chí Minh nói

riêng trong dạy học Lịch sử, chúng tôi đã tiến hành đề xuất các biện pháp sử

dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh để dạy bài nội khóa và tổ chức một số

hoạt động ngoại khóa nhằm nâng cao hiệu quả dạy học Lịch sử cho HS ở

trường THPT hiện nay.

Để đánh giá được tính khả thi và những thuận lợi, khó khăn khi triển

khai các biện pháp đề xuất trong đề tài vào thực tiễn dạy học Lịch sử ở trường

THPT, chúng tôi tiến hành thực nghiệm sư phạm, đánh giá, phân tích kết quả

thực nghiệm. Thông qua kết quả thực nghiệm, phần nào khẳng định được tính

khả thi hiệu quả mà trong nội dung luận văn đã đề xuất.

Đề tài phù hợp mục tiêu dạy học lịch sử, với khả năng tổ chức của GV và

khả năng thực hiện của HS mặc dù trong thực tế vẫn còn khó khăn. Những đề

xuất về hoạt động ngoại khóa phù hợp hơn khi triển khai ở các trường THPT

89

trên địa bàn Quận Hà Đông - Hà Nội.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở rút ra một số kết luận như sau

1.Bảo tàng là nơi bổ sung nguồn kiến thức lịch sử vô cùng phong phú,

đa dạng. Thông qua các tư liệu, hiện vật, không gian của bảo tàng sẽ có tác

dụng nâng cao việc giáo dục đạo đức, mở rộng kiến thức và rèn luyện cho học

sinh các kĩ năng học tập.Bảo tàng còn là nơi khơi nguồn cảm hứng trong dạy

và học lịch sử ở các trường phổ thông . Sử dụng bảo tàng trong dạy học Lịch

sử rất cần thiết và cũng là một biện pháp để góp phần đổi mới phương pháp,

nâng cao hiệu quả bài học.

2. Bảo tàng đường Hồ Chí Minh với nhiều nguồn tư liệu phong phú,

liên quan nhiều tới lịch sử dân tộc thời kì 1954 - 1975. Do đó, đòi hỏi giáo

viên cần phải có sự lựa chọn các nguồn tư liệu liên quan đến nội dung bài học

(chủ đề), phù hợp với đối tượng học sinh để thiết kế bài dạy, lựa chọn phương

pháp dạy học.Trong luận văn đã đưa ra các đề xuất dạy học trong các bài nội

khóa (xây dựng bảo tàng ảo, sử dụng trong các bài học có liên quan) và hoạt

động ngoại khóa (tham quan, tổ chức trò chơi, trải nghiệm sáng tạo) có sử

dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh.

3. Qua kết quả thực nghiệm đã cho thấy tính hiệu quả bước đầu của

việc sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử Việt Nam.

Giáo viên cần kết hợp và vận dụng linh hoạt với các phương pháp dạy học

khác sẽ góp phần nâng cao chất lượng bộ môn.

Từ kết quả nghiên cứu và mong muốn các biện pháp được đề xuất trong

luận văn có thể thực hiện được trong thực tế dạy học Lịch sử, chúng tôi xin

đưa ra một số khuyến nghị sau:

1. Đối với bảo tàng đường Hồ Chí Minh.

Để thu hút được GV và HS các trường THPT quan tâm tìm hiểu, tham

90

quan, học tập, bảo tàng nên sửa sang thêm về sơ sở vật chất, có kế hoạch tổ

chức các chương trình, sự kiện bổ ích, phù hợp với học sinh (1 năm/2 lần),

xây dựng phòng khám phá trong bảo tàng và giảm phí vé vào cửa cho đối tượng

HS.

Cần phối hợp với các nhà trường để tổ chức các buổi trưng bày lưu động để tăng

cường công tác giáo dục cho học sinh.

2. Đối với Bộ giáo dục- đào tạo

Các hình ảnh trong sách giáo khoa hiện nay còn ít, chủ yếu là ảnh đen

trắng, chưa có tính thẩm mĩ, không nhấn mạnh được nội dung và trọng tâm

bài học. Do đó, cần đa dạng hơn các hình ảnh lịch sử, hiện vật lịch sử, nhân

vật lịch sử để tác động tới trực quan của học sinh, qua đó học sinh có thể hiểu

về lịch sử, phân tích, đánh giá… tạo sự chủ động, tích cực trong học tập cho

học sinh.

3. Đối với nhà trường

Ban giám hiệu nhà trường cần tạo điều kiện về sơ sở vật chất, kinh phí

cho giáo viên và học sinh: Máy chiếu, máy tính, máy ảnh, phòng học bộ

môn… để giáo viên dễ dàng thực hiện kế hoạch bài dạy đã đề ra.

4. Đối với giáo viên

Giáo viên bộ môn Lịch sử cần tự tin, mạnh dạn đổi mới phương pháp

dạy học, kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học cho phù hợp với nội

dung bài và đối tượng học sinh. Qua mỗi bài dạy lịch sử, giáo viên cần tạo

được cảm hứng cho học sinh để học sinh thêm hiểu, thêm yêu bộ môn của

mình, như vậy cũng là một cách để giáo viên tạo được sự hứng thú cho học

91

sinh với môn học.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT

1. Đặng Văn Bài (2017), “Mấy suy nghĩ về hoạt động giáo dục trải

nghiệm tại bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam” Tạp chí Di sản văn

hóa (2).tr.62.

Bộ giáo dục và đào tạo (2016), SGK Lịch sử 12 2.

Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2015), Lịch sử 3.

kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954- 1975), NXB Chính trị Quốc

gia.

4. Nguyễn Thị Côi (chủ biên ) ( 2011), Rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ sư

phạm môn Lịch sử, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

5. Nguyễn Thị Côi (1998), Bảo tàng Lịch sử, cách mạng trong dạy học

lịch sử ở trường Phổ thông trung học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội

6. Nguyễn Thị Côi (2008), Các con đường,biện pháp nâng cao hiệu quả dạy

học LS ở trường phổ thông, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

7. Nguyễn Văn Đệ (2016), Thanh niên xung phong phục vụ giao thông

vận tải thời chống Mỹ ,Nxb Giao thông vận tải

8. Lê Mậu Hãn (chủ biên) ( 2014), Đại cương lịch sử Việt Nam tập 3,

Nxb Giáo dục Việt Nam

9. Hoàng Huân (2015), Một góc nhìn chiến tranh, Nxb Hà Nội

10. Phạm Ngọc Hòa - Tô Thị Thanh Thảo (2015),“Sử dụng phương pháp

dạy học tích cực trong dạy học lịch sử ở trường THPT hiện nay”, Kỉ

yếu Hội thảo khoa học - Đại học Cần Thơ.

11. Vũ Quang Hiển – Hoàng Thanh Tú (chủ biên) (2014), Phương pháp

dạy học môn Lịch sử ở trường trung học phổ thông,, Nxb Đại học

92

Quốc gia Hà Nội

12. Phan Ngọc Liên (1996), Thuật ngữ khái niệm lịch sử phổ thông, Nxb

Đại học Quốc gia Hà Nội.

13. Phan Ngọc Liên – Trần Văn Trị (1998), Phương pháp dạy học lịch

sử (Tái bản lần thứ nhất) có sửa chữa bổ sung, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

14. Phan Ngọc Liên (chủ biên) (2009), Phương pháp dạy học lịch sử- Tập 2,

Nxb Đại học Sư Phạm Hà Nội.

15. Luật giáo dục , 2005, Nxb Chính trị Quốc gia.

16. Luật di sản Văn hóa (2009), Nxb Chính trị Quốc gia.

17. Nguyễn Phƣơng Nam (2016), Về các tổng thống Mỹ trong chiến tranh

xâm lược Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia

18. Mai Văn Nam (2012), “Bước đầu nghiên cứu xây dựng bảo tàng ảo

nhằm vận dụng vào dạy học lịch sử ở trường phổ thông” Tạp chí giáo

dục (293). tr. 51- 53.

19. Quân đội nhân dân Việt Nam- Tổng cục chính trị (2009), Tài liệu

tuyên truyền 50 năm ngày mở đường Hồ Chí Minh, ngày truyền thống

bộ đội Trường Sơn, Nxb Quân đội nhân dân.

20. Viện hàn lâm khoa học Việt Nam (2014), Lịch sử Việt Nam thường

thức, tập 2, Nxb giáo dục Việt Nam.

21. Trịnh Đình Tùng (chủ biên) (2010), Dạy học theo chuẩn kiến thức kĩ

năng môn Lịch sử, Nxb Đại học Sư phạm.

22. Nguyễn Thị Kim Thành (2014), Bảo tàng, di tích nơi khơi nguồn cảm

hứng dạy và học Lịch sử cho học sinh phổ thông, Nxb Giáo dục Việt

Nam.

23. Bùi Hà Thanh (2017), “Quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp”

93

Tạp chí dạy và học ngày nay (2). tr. 27.

24. Hoàng Thanh Tú, Chu Ngọc Quỳnh (2013), “Xây dựng chương trình

hoạt động ngoại khóa môn lịch sử tại bảo tàng dân tộc học Việt Nam”

Tạp chí giáo dục và xã hội (29). tr. 13- 16.

25. Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Văn Phúc,(2012) “Định hướng nhiệm vụ

nhận thức trong dạy học Lịch sử ở trường THPT nhằm kích thích hứng

thú học tập cho học sinh”. Kỉ yếu Hội thảo Khoa học Quốc gia về dạy

học Lịch sử ở trường phổ thông Việt Nam, NXB Giáo dục Việt Nam, Bộ

Giáo dục và Đào tạo - Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam. tr.173.

26. Phạm Bá Toàn (2008), Cuộc chiến trên chiến trường Trường Sơn-

đường Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Mỹ, Nxb Quân đội nhân

dân.

27. Trƣờng Đại học Văn hóa Hà Nội (1990), Cơ sở bảo tàng học.

28. Phạm Xuân Vũ (2015), “Sử dụng tư liệu lịch sử địa phương trong dạy

học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954-1975 ở trường THPT tỉnh Đồng

Tháp”, Luận án trường ĐHSP Hà Nội.

NGUỒN INTERNET

29. http://baohatinh.vn/xa-hoi/huyen-thoai-truong-son-bai-2-con-duong-

30.

cua-lua-tuoi-20/69458.htm, cập nhật ngày 26/7/2017.

http://www.btlsqsvn.org.vn/tabid/89/post/311/BAO-TANG-DUONG-

HO-CHI-MINH.aspx, cập nhật ngày 26/7/2017.

31. http://www.nguoiduatin.vn/nguoi-anh-hung-vac-dan-di-bo-mot-vong-

trai-dat-a46933.html), cập nhật ngày 17/8/2017.

32. http://www.qdnd.vn/phong-su-dieu-tra/dieu-tra/duong-truong-son-con-

duong-huyen-thoai-478434 ngày 30/9/2017, cập nhật ngày 16/8/2017.

33. http://phunuvietnam.vn/kho-bau/huyen-thoai-10-co-gai-nga-ba-dong-

94

loc-post13787.html, cập nhật ngày 12/ 8/2017

DANH MỤC PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Phiếu khảo sát ý kiến giáo viên

Phụ lục 2: Phiếu khảo sát ý kiến học sinh

Phụ lục 3: Giáo án thực nghiệm

Phụ lục 4: Phiếu khảo sát sau giờ thực nghiệm

Phụ lục 5: Bài kiểm tra sau giờ thực nghiệm

Phụ lục 6: Ảnh chụp tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh.

95

Phụ lục 1:

PHIẾU KHẢO SÁT GIÁO VIÊN

Câu 1:Thầy (cô) quan niệm nhƣ thế nào về sử dụng bảo tàng trong dạy

học lịch sử?

 Là phương tiện trực quan có giá trị trong giảng dạy, cung cấp nguồn

kiến thức phong phú cho học sinh.

 Là cách khai thác các tư liệu, hiện vật của bảo tàng vào bài học lịch sử.

 Là cách rèn luyện các kĩ năng cho học sinh.

Câu 2: Theo thầy (cô) việc sử dụng bảo tàng trong dạy học lịch sử có cần

thiết không?

 Rất cần thiết

 Cần thiết

 Không cần thiết

Câu 3: Thầy (cô) đã từng đến bảo tàng đƣờng Hồ Chí Minh Chƣa?

 Đã từng đến

 Chưa từng đến

Câu 4: Thầy (cô) đã sử dụng bảo tàng đƣờng Hồ Chí Minh trong dạy học

lịch sử chƣa?

 Thường xuyên sử dụng trong những bài học có liên quan

 Sử dụng một vài lần trong hoạt động ngoại khóa

 Chưa sử dụng

(Nếu có, thầy (cô) đã từng sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh theo

cách thức nào dưới đây?)

 Trao đổi, thảo luận

 Hoạt động nhóm

96

 Giải quyết tình huống

 Tham quan

 Sưu tầm tư liệu bảo tàng

 Nghe hướng dẫn viên thuyết minh

 Tổ chức trò chơi

Câu 5: Theo thầy (cô), những hoạt động ngoại khóa nào phù hợp với học

sinh để tổ chức tại bảo tàng đƣờng Hồ Chí Minh?

(Đánh dấu x vào những hoạt động mà thầy (cô) cho là phù hợp)

Hoạt động Ý kiến

5.1. Cùng các bạn nghe HDV thuyết minh

5.2. Tham quan các tư liệu, hiện vật tại bảo tàng

5.3. Sưu tầm,tìm hiểu lịch sử thông qua các tư liệu,hiện vật

5.4. Tham gia các trò chơi tổ chức tại bảo tàng

Câu 6: Thầy (cô) hãy đánh giá về mức độ hứng thú của HS khi GV sử

dụng bảo tàng trong dạy học lịch sử?

Rất hứng Hứng Bình Không Mức độ / hình thức thú thú thƣờng hứng thú

Trao đổi thảo luận

Hoạt động nhóm

Dạy học dự án

Tham quan

Sáng tạo, trải nghiệm

97

Tổ chức trò chơi

Phụ lục 2:

PHIẾU KHẢO SÁT HỌC SINH

Câu 1: Theo em, việc sử dụng bảo tàng trong dạy học Lịch sử ở trƣờng

phổ thông có cần thiết không?

 Rất cần thiết

 Cần thiết

 Không cần thiết

Câu 2: Ở trƣờng, thầy (cô) dạy môn Lịch sử của các em có sử dụng bảo

tàng trong dạy học lịch sử không?

 Thường xuyên

 Thỉnh thoảng

 Rất ít

 Không bao giờ

Câu 3: Em đã từng đến bảo tàng đƣờng Hồ Chí Minh chƣa?

 Đã từng đến

 Chưa từng đến

Câu 4: Thầy (cô) dạy môn Lịch sử của em đã sử dụng bảo tàng đƣờng

HCM trong dạy học lịch sử chƣa?

 Thường xuyên sử dụng trong những bài học có liên quan

 Sử dụng một vài lần trong hoạt động ngoại khóa

 Chưa sử dụng lần nào

( Nếu có, thầy (cô) của em đã từng sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí

Minh theo những cách thức nào dưới đây ?)

 Trao đổi, thảo luận

98

 Hoạt động nhóm

 Giải quyết tình huống

 Tham quan

 Sưu tầm tư liệu bảo tàng

 Nghe hướng dẫn viên thuyết minh

 Tổ chức trò chơi

Câu 5: Nếu đƣợc tham gia hoạt động ngoại khóa tại bảo tàng đƣờng Hồ

Chí Minh, em muốn tham gia những hoạt động nào?

(Đánh dấu x vào những hoạt động em muốn tham gia)

Hoạt động Ý kiến

5.1. Cùng các bạn nghe HDV thuyết minh

5.2. Tham quan các tư liệu,hiện vật tại bảo tàng

5.3. Sưu tầm,tìm hiểu lịch sử thông qua các tư liệu,hiện vật

5.4. Tham gia các trò chơi tổ chức tại bảo tàng

Câu 6: Em đánh giá nhƣ thế nào về mức độ hiệu quả khi sử dụng bảo

tàng đƣờng HCM trong dạy học lịch sử?

Mức độ

Tiêu chí

Rất

Ít

Hiệu

Bình

Không

quả

thƣờng

hiệu quả

hiệu quả

hiệu quả

Gây hứng thú học tập cho HS

Giáo dục truyền thống yêu

nước cho HS

Rèn các kĩ năng thực hành

cho HS

Khắc sâu kiến thức,mở rộng

hiểu biết cho HS

99

Câu 7: Em sẽ gặp những thuận lợi và khó khăn nào khi GV sử dụng bảo

tàng đƣờng Hồ Chí Minh trong dạy học Lịch sử?

(Em hãy đánh dấu x vào những thuận lợi, khó khăn khi triển khai)

Thuận lợi Nguồn tài liệu bảo tàng phong phú

Học sinh học tập chủ động

Giáo viên nhiệt huyết

Được nhà trường tạo điều kiện

Khó khăn Tài liệu bảo tàng còn hạn chế

Thời gian trên lớp không cho phép

Chưa có thói quen học tập tại bảo tàng

Ổn định tổ chức lớp tại bảo tàng

Kinh phí

Câu 8: Ý kiến đề xuất của em để việc sử dụng bảo tàng đƣờng Hồ Chí

100

Minh trong DHLS đạt hiệu quả hơn.

Phụ lục 3:

GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM

Bài 22: Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống đế quốc Mỹ

xâm lƣợc. Nhân dân miền Bắc vừa chiến đấu, vừa sản xuất (1965 – 1973)

(Tiết 2)

I. Mục tiêu

Học xong bài này, học sinh cần:

1. Kiến thức

- Trình bày được âm mưu, thủ đoạn cũng như hành động của đế quốc

Mĩ ở Việt Nam và trên toàn cõi Đông Dương thông qua các chiến lược

“Chiến tranh cục bộ”, “Việt Nam hóa chiến tranh” -“Đông Dương hóa chiến

tranh”.

- Nêu được những thắng lợi quyết định của quân dân ta trên cả hai miền

đất nước chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam

hóa chiến tranh”.

- Đánh giá được vai trò của hậu phương miền Bắc với tiền tuyến miền

Nam.

- Phân tích được nội dung và ý nghĩa của Hiệp định Pari năm 1973 về

chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.

2. Kĩ năng

- Kĩ năng sử dụng CNTT

- Quan sát

- Thuyết trình, diễn đạt, làm việc nhóm

- Tự học, tự nghiên cứu, làm việc với nguồn sử liệu ngoài SGK.

3. Thái độ, tƣ tƣởng

- Lên án những tội ác của đế quốc Mĩ và chính quyền tay sai trong cuộc

101

chiến tranh xâm lược của Mĩ ở hai miền đất nước Việt Nam.

- Bồi dưỡng tinh thần yêu nước, đoàn kết dân tộc,hỗ trợ của hậu

phương miền Bắc cho tiền tuyến miền Nam.

- Nêu cao tinh thần đoàn kết, liên minh chiến đấu của ba dân tộc trên

bán đảo Đông Dương trong cuộc chiến tranh chống đế quốc Mĩ xâm lược…

II. Chuẩn bị đồ dùng, thiết bị, tƣ liệu.

- Lược đồ trận Vạn Tường.

- Tranh ảnh, tư liệu về hậu phương miền Bắc, đường Trường Sơn.

- Máy tính, máy chiếu.

III. Gợi ý tiến trình và phƣơng pháp tổ chức dạy học.

1. Ổn định lớp học

2. Kiểm tra bài cũ

GV có thể kiểm tra bài cũ bằng cách mở các ô chữ theo gợi ý để HS trả

lời nhanh các câu hỏi cho các từ khóa trên màn hình PPT.

- Năm 1961-1965 Mỹ tiến hành chiến lược nào ở miền Nam Việt

Nam?

Chiến lược chiến tranh đặc biệt

- Lực lượng nào là chủ yếu trong chiến lược chiến tranh đặc biệt của

Mỹ ở Miền Nam?

Quân đội tay sai, cố vấn Mĩ.

- Mĩ đã sử dụng những chiến thuật nào trong chiến lược chiến tranh đặc

biệt ?

Trực thăng vận, thiết xa vận.

- Thắng lợi nào mở đầu chống chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của

quân dân miền Nam ?

Thắng lợi Ấp Bắc (Mĩ Tho) năm 1963.

102

GV giới thiệu khái quát nội dung của bài học cũ để vào bài học mới.

3. Bài mới

Hoạt động dạy - học của thầy, trò Chuẩn kiến thức

(Kiến thức cần đạt)

I. Chiến đấu chống chiến

lƣợc “Chiến tranh cục

bộ” của Mĩ ở miền Nam

(1965 – 1968). Hoạt động 1: Tìm hiểu chiến lƣợc “Chiến

tranh cục bộ” của Mĩ ở miền Nam (1965 –

1. Chiến lƣợc “Chiến 1968).

tranh cục bộ” của Mĩ ở GV nêu câu hỏi và hướng dẫn HS tìm hiểu SGK

miền Nam để trả lời: Vì sao đến năm 1965, Mĩ lại chuyển

* Hoàn cảnh: sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”?

Bị thất bại trong chiến lược HS: Tìm hiểu SGK, trao đổi và trả lời

“Chiến tranh đặc biệt”, GV: Nhận xét, giải thích và chốt ý.

năm 1965 Mĩ chuyển sang

chiến lược “Chiến tranh

cục bộ” ở miền Nam và

mở rộng chiến tranh phá

hoại miền Bắc.

GV cần giúp HS tái hiện lại kiến thức của bài cũ

về những thắng lợi của nhân dân miền Nam

chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh đặc

biệt” của Mĩ: chiến thắng Ấp Bắc (ngày

2/1/1963); phong trào chống, phá bình định và

103

chiến thắng Bình Giã. Những thắng lợi này đã

làm thay đổi tương quan lực lượng có lợi cho

cách mạng miền Nam, buộc Mĩ thay đổi chiến

lược chiến tranh.

GV định nghĩa khái niệm chiến lược “Chiến

tranh cục bộ”, giúp HS hiểu được bản chất của

khái niệm (những yếu tố tạo thành gồm có: quân

đội Mĩ, quân đội đồng minh của Mĩ và quân đội

Sài Gòn được Mĩ trang bị các phương tiện kĩ

thuật chiến tranh hiện đại), đồng thời so sánh

với chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” mà Mĩ đã

* Âm mưu: Tạo ưu thế về sử dụng trước đó.

binh lực và hỏa lực để áp HS: Lắng nghe và ghi bài.

đảo quân chủ lực của ta, GV hướng dẫn HS tìm hiểu âm mưu của Mĩ

giành lại thế chủ động trên trong chiến lược này.

chiến trường. GV cho HS xem phim tư liệu

Mĩ đổ quân vào Đà Nẵng (3/1965) và hình ảnh

Mĩ – Ngụy mở cuộc hành quân “tìm diệt” vào

vùng “đất thành Việt cộng”, giúp HS hiểu rõ về

thủ đoạn, hành động của Mĩ, quy mô và tính

chất ác liệt của chiến lược “Chiến tranh cục bộ”

(Mĩ mở rộng đánh phá hai miền Nam – Bắc,

đánh cả trên bộ, trên không và trên biển, nên cả

nước có chiến tranh, cùng kháng chiến chống

Mĩ cứu nước).

HS: Dựa vào phim tư liệu, SGK để trả lời câu

hỏi:

104

Để tiến hành chiến lược chiến tranh cục bộ, Mĩ

đã thực hiện những thủ đoạn và hành động gì? * Thủ đoạn và hành động:

GV: Nhận xét, chốt ý - Mở cuộc hành quân “tìm

diệt” vào “vùng đất

thánh” của Việt cộng ở

Vạn Tường (Quảng Ngãi).

- Mở hai cuộc phản công

mùa khô 1965 – 1966 và

1966 – 1967.

- Dùng không quân và hải

quân đánh phá miền Bắc.

2. Chiến đấu chống chiến

lƣợc “Chiến tranh cục

bộ” của Mĩ.

Hoạt động 2: Tìm hiểu cuộc chiến đấu chống

chiến lƣợc “Chiến tranh cục bộ” của Mĩ.

Học sinh cần hiểu rõ những khó khăn của ta

trong chiến đấu chống lại chiến lược “Chiến

tranh cục bộ” của Mĩ.

105

(Ảnh chụp tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh)

GV đưa ra bức ảnh 1 “Qua cầu treo”, yêu cầu

học sinh quan sát và trả lời câu hỏi:

Em thấy bộ đội Trường Sơn gặp những khó

khăn gì khi lái xe qua cầu treo?

HS quan sát , trả lời. GV có thể mở rộng kiến

thức để HS hiểu hơn về những khó khăn của

chiến sĩ lái xe vận chuyển hàng vào chiến

trường miền Nam.

Tiếp theo, GV đưa hình ảnh 2 “Tuổi 20 ở

Trường Sơn” và đặt câu hỏi:

Em cảm nhận như thế nào về tinh thần chiến

đấu của các cô gái tuổi đôi mươi ở Trường

Sơn?

(Ảnh chụp tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh)

Từ 2 bức ảnh trên, HS có thể thấy được những

khó khăn, nguy hiểm của bộ ta ở chiến trường

chống lại các chiến lược chiến tranh của Mĩ trên

tuyến đường Trường Sơn huyền thoại. Bên cạnh

đó là sự lạc quan qua nụ cười của các cô gái

106

thanh niên xung phong vượt qua khó khăn quyết

tâm đánh Mĩ. * Thắng lợi về quân sự:

Với tinh thần và ý chí đó, ta đã giành nhiều - Tháng 8/1965, quân ta

thắng lợi về quân sự, chính trị. giành thắng lợi lớn ở Núi

Thành (Quảng Nam) và GV cho HS theo dõi đoạn phim tư liệu, kết hợp

Vạn Tường (Quảng Ngãi) trình bày trên bản đồ; cuộc phản công mùa khô

lần thứ nhất 1965 – 1966, Mĩ – Ngụy tập trung

“tìm diệt” .

Quân ta đánh bại các cuộc hành quân “tìm diệt”

và “bình định” của Mĩ – Ngụy đánh vào miền

Đông Nam Bộ, Liên khu V và Bắc Tây Ninh,

làm thất bại âm mưu tiêu diệt quân chủ lực và - Thắng lợi trong hai mùa cơ quan đầu não của ta, bước đầu làm phá sản khô chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mĩ. 1965 – 1966 và 1966 –

1967

* Thắng lợi về đấu tranh

chính trị, chống phá bình

định:

- Phong trào chống bình

Trong cuộc đấu tranh chính trị, chống phá bình định, phá “ấp chiến lược”

định, GV hướng dẫn HS quan sát Hình 70 và 71 diễn ra trên toàn miền Nam

trong SGK để cụ thể hóa sự kiện. - Các vùng giải phóng

được mở rộng, Mặt trận

Dân tộc giải phóng miền

Nam Việt Nam ngày càng

có uy tín

3. Cuộc Tổng tiến công và

107

nổi dậy Xuân Mậu Thân

1968.

Hoạt động : Sau khi HS tìm hiểu hoàn cảnh và (Phần hoàn cảnh, diễn biến

diễn biến, GV nêu câu hỏi để HS suy nghĩ: GV hướng dẫn HS đọc

SGK) Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân

1968 có ý nghĩa như thế nào? * Ý nghĩa:

HS: Suy nghĩ, trao đổi và trả lời - Làm lung lay ý chí xâm

lược của Mĩ, buộc Mĩ phải GV: Nhận xét và kết luận:

tuyên bố “phi Mĩ hóa”

chiến tranh.

- Mĩ phải chấm dứt không

điều kiện chiến tranh phá

hoại miền Bắc, chấp nhận

đàm phán tại Pari.

Cuộc Tổng tiến công đã đạt được mục đích của

108

ta đề ra là tiêu diệt được một bộ phận lớn quân  Mĩ thừa nhận sự thất bại Mĩ, đồng minh và chính quyền ngụy. trong chiến lược “Chiến Sau cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân, Mĩ tranh cục bộ”. phải chấm dứt không điều kiện chiến tranh phá II. Miền Bắc vừa chiến hoại miền Bắc (vào ngày 1/11/1968) và phải đấu chống chiến tranh chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán ở Pari để bàn phá hoại lần thứ nhất của về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Mĩ, vừa sản xuất và làm Cuộc Tổng tiến công đã làm lung lay ý chí nghĩa vụ hậu phƣơng xâm lược của quân Mĩ, buộc Mĩ phải “phi Mĩ (1965 – 1968) hóa” chiến tranh xâm lược, thừa nhận sự thất 1. Mĩ tiến hành chiến bại của mình trong chiến lược “Chiến tranh cục tranh bằng không quân bộ”. và hải quân phá hoại

Hoạt động: Tìm hiểu về chiến tranh phá hoại miền Bắc

miền Bắc lần thứ nhất và vai trò của hậu * Hành động của Mĩ

phƣơng miền Bắc (1965- 1968)

GV trình bày nêu vấn đề:

Trong khi ở miền Nam những năm 1965-1967,

Mĩ đẩy mạnh các cuộc hành quân “tìm diệt” và

“bình định” thì ở miền Bắc những năm 1965 –

1968, Mĩ mở rộng chiến tranh phá hoại bằng

không quân và hải quân. Vậy để đánh phá miền

Bắc,Mĩ đã có những hành động gì?

HS: Tìm hiểu SGK, suy nghĩ và trả lời

GV: Nhận xét, chốt ý và cho HS theo dõi đoạn

phim tư liệu về sự kiện “Vịnh Bắc Bộ” (nguồn

từ đĩa CD Những điều chưa được biết đến về

chiến tranh Việt Nam của Đài truyền hình VN). - 8/1964: dựng lên sự kiện

“Vịnh Bắc Bộ” và cho máy Nếu không có điều kiện, GV có thể lược thuật

bay bắn phá 1 số nơi ở cho HS về sự kiện này:

miền Bắc.

- Ngày 7/2/1964, Mĩ chính

thức gây ra cuộc chiến

tranh bằng không quân và

hải quân phá hoại miền

Bắc lần thứ nhất.

Cuối cùng, GV cho HS thấy rõ âm mưu và thủ

đoạn của Mĩ trong cuộc chiến tranh phá hoại

miền Bắc.

*Âm mưu HS: Theo dõi và ghi ý chính

109

- Phá tiềm lực kinh tế, quốc

phòng và ngăn cản công

cuộc xây dựng CNXH ở

miền Bắc.

- Ngăn sự chi viện của của

miền Bắc cho miền Nam.

- Uy hiếp tinh thần và ý chí

của nhân dân hai miền đất

nước.

2. Miền Bắc vừa chiến GV sử dụng “bảo tàng ảo” thông qua các hình đấu, vừa chống chiến ảnh không có thuyết minh và cho HS lên trình tranh phá hoại, vừa sản bày theo cách của mình. xuất và làm nghĩa vụ hậu

Hình ảnh: Giao liên gùi thồ phƣơng

Hình ảnh: Ngựa gùi hàng (Theo giảm tải của Bộ GD-

Hình ảnh: Voi gùi hàng ĐT, phần này GV chỉ cho

Hình ảnh: Tuổi 20 ở Trường Sơn HS tìm hiểu về vai trò hậu

phương) Hình ảnh: Đường 20 Quyết thắng

Hiện vật: Đôi dép cao su của anh hùng Nguyễn

Viết Sinh.

Yêu cầu HS:

- Hiểu rõ nội dung tranh ảnh.

- Nêu được vai trò và sự nỗ lực của nhân dân

miền Bắc với tiền tuyến miền Nam.

- Giới thiệu được đường Hồ Chí Minh trên bộ.

- Trình bày được kết quả: Từ năm 1965 đến năm

1968, miền Bắc đã đưa vào miền Nam 30 vạn * Nghĩa vụ hậu phương

110

cán bộ, bộ đội…cùng hàng chục vạn tấn vũ khí, Từ năm 1965 đến năm

đạn dược, lương thực. Khối lượng tăng gấp 10 1968, miền Bắc đã đưa vào

lần so với trước. miền Nam 30 vạn cán bộ,

bộ đội…cùng hàng chục

vạn tấn vũ khí, đạn dược,

lương thực. Khối lượng

tăng gấp 10 lần so với

trước.

VI. Củng cố, dặn dò

1. Củng cố

GV tổ chức cho HS củng cố kiến thức ngay tại lớp, kiểm tra việc ghi

nhớ kiến thức cơ bản của các em.

2. Bài tập về nhà

- Xem lại kiến thức đã học và lập niên biểu những thắng lợi lớn của

nhân dân hai miền Nam – Bắc chiến đấu chống chiến tranh xâm lược của Mĩ

(1961 – 1968).

- Lập bảng so sánh về những điểm giống nhau và khác nhau giữa chiến

lược “Chiến tranh đặc biệt” (1961 – 1965) “Chiến tranh cục bộ” (1965 –

1968) của Mĩ theo bảng cho sẵn dưới đây:

Những điểm

Những điểm khác nhau

giống nhau

“Chiến tranh đặc biệt”

“Chiến tranh cục bộ”

111

Phụ lục 4:

PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN HỌC SINH

(Sau giờ dạy thực nghiệm)

Xin em vui lòng cho biết ý kiến của mình sau khi học bài 22 – Nhân

dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lƣợc. Nhân dân

miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất (1965 – 1973) (Tiết 2).

(Đánh dấu x vào ô , với những câu hỏi có nhiều phương án trả lời và

ghi rõ câu trả lời tại những câu hỏi có dòng để trống).

Họ và tên……………………………lớp………………………………

1. Tiết học hôm nay em có hiểu bài không?

 Rất hiểu  Hiểu

 Bình thường  Không hiểu

2. Em thấy bài học hấp dẫn nhất ở điểm nào?

 Học sinh tích cực, chủ động

 Cách GV mở rộng kiến thức có liên quan đến bài học

 Hệ thống câu hỏi trong bài

 Cách tổ chức hoạt động nhóm.

3. Em cảm nhận nhƣ thế nào khi giáo viên mở rộng thêm kiến thức có

liên quan đến bài học ?

 Có thêm kiến thức và thông tin về đường Trường Sơn

 Dễ hiểu hơn trong SGK.

 Bình thường, em có thể tự đọc thêm.

 Khô khan, khó hiểu.

4. Sau tiết học em đã đạt đƣợc những mục tiêu học tập nào dƣới đây?

112

 Hiểu rõ sự ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước

 Được rèn luyện kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng thuyết trình.

 Khơi dậy lòng yêu nước và tự hào dân tộc.

 Không đạt được mục tiêu học tập nào.

5. Em thấy phƣơng pháp nào đƣợc giáo viên sử dụng hiệu quả nhất trong

giờ học?

 Phương pháp vấn đáp

 Phương pháp thuyết trình

 Phương pháp làm việc nhóm

 Phương pháp trực quan (Sử dụng hình ảnh, tư liệu bảo tàng minh họa)

6. Những đề xuất của em để bài học đạt hiệu quả cao?

…………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………

113

Cảm ơn các em !

Phụ lục 5:

ĐỀ KIỂM TRA SAU GIỜ THỰC NGHIỆM

Môn : Lịch sử. Thời gian (15 phút)

Phần I: Trắc nghiệm (5 điểm)

(Khoanh tròn 1 đáp án đúng cho mỗi câu sau)

Câu 1: Nhiệm vụ cơ bản của miền Bắc trong thời kì 1965- 1968 ?

A. Chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.

B. Đảm bảo giao thông vận tải phục vụ chiến đấu, sản xuất và đời sống.

C. Vừa chiến đấu, vừa sản xuất và thực hiện nghĩa vụ hậu phương.

D. Hỗ trợ cho cuộc chiến đấu của nhân dân miền Nam.

Câu 2: Tuyến đường vận chuyển chiến lược Bắc- Nam trên bộ có tên gọi là:

A. Đường mòn Hồ Chí Minh. B. Đường 559.

C. Đường Trường Sơn. D. Cả ba phương án trên.

Câu 3: Lực lƣợng nào là chủ yếu để Mỹ tiến hành chiến tranh trong

chiến lƣợc “Chiến tranh cục bộ” ?

A. Quân đội Mỹ.

B. Quân đội Sài Gòn.

C. Quân đội Mỹ và đồng minh.

D. Quân đội Mỹ, đồng minh của Mỹ và quân đội Sài Gòn.

Câu 4: Âm mƣu của Mỹ khi tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc lần

thứ nhất ?

A. Phá tiềm lực kinh tế, quốc phòng và công cuộc xây dựng CNXH của

miền Bắc.

B. Ngăn nguồn chi viện của miền Bắc cho tiền tuyến miền Nam.

C. Uy hiếp tinh thần và ý chí đấu tranh của nhân dân hai miền đất nước.

114

D. Cả ba đáp án trên.

Câu 5: Nhân dân miền Bắc thực hiện tốt nghĩa vụ hậu phƣơng có ý nghĩa

nhƣ thế nào ?

A. Đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ.

B. Buộc Mỹ phải kết thúc chiến tranh.

C. Đưa cuộc kháng chiến bước sang giai đoạn mới.

D. Đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ, đưa cuộc kháng

chiến bước sang giai đoạn mới.

Phần II: Tự luận (5 điểm)

Em hãy cho biết nội dung và ý

nghĩa của bức ảnh tư liệu “cáng

thương binh” được chụp tại bảo

tàng đường Hồ Chí Minh ?

115

( Tối đa 10 dòng)

Phụ lục 6:

HIỆN VẬT TẠI BẢO TÀNG ĐƢỜNG HỒ CHÍ MINH

Túi đựng cơm Hòn đá in dấu chân người

Đôi dép cao su Thuyền thúng

Bừa san mặt đường Cáng thương binh

116

Mảnh xác máy bay Balo đựng xăng

117

Hầm di động Xẻng công binh