ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
NGUYỄN THỊ PHƢỢNG
SỬ DỤNG BẢO TÀNG ĐƢỜNG HỒ CHÍ MINH
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM THỜI KÌ 1954- 1975
Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRẦN HƢNG ĐẠO
HÀ ĐÔNG - HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM LỊCH SỬ
HÀ NỘI- 2017
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
NGUYỄN THỊ PHƢỢNG
SỬ DỤNG BẢO TÀNG ĐƢỜNG HỒ CHÍ MINH
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM THỜI KÌ 1954- 1975
Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRẦN HƢNG ĐẠO
HÀ ĐÔNG - HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM LỊCH SỬ
Chuyên ngành: LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MÔN LỊCH SỬ)
Mã số: 60 1401 11
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Hoàng Thanh Tú
HÀ NỘI- 2017
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn này, cho tôi xin tỏ lòng biết ơn chân thành
và sâu sắc nhất đến cô giáo: TS. Hoàng Thanh Tú- giảng viên trường Đại học
giáo dục- Đại học Quốc gia Hà Nội, người đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình chỉ
bảo và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình hoàn thành luận văn.
Đồng thời tôi xin chân thành cảm ơn tới Ban giám hiệu trường Đại học
Giáo dục- Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi được học tập và
nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban quản lý bảo tàng đường Hồ
Chí Minh cùng các thầy cô giáo, các em học sinh của trường THPT Trần
Hưng Đạo, THPT Lê Qúy Đôn, THPT Quang Trung (Hà Đông- Hà Nội) đã
giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình và bạn bè đã luôn động
viên, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu khoa học.
Hà Nội, ngày 20 tháng 10 năm 2017
Học viên
i
Nguyễn Thị Phượng
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DHLS Dạy học Lịch sử
GD - ĐT Giáo dục và đào tạo
GV Giáo viên
HS Học sinh
ii
THPT Trung học phổ thông
MỤC LỤC
Lời cảm ơn ......................................................................................................... i
Danh mục các chữ viết tắt ................................................................................. ii
Danh mục bảng.................................................................................................. v
Danh mục biểu đồ, hình ................................................................................... vi
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG
BẢO TÀNG ĐƢỜNG HỒ CHÍ MINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
VIỆT NAM Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG .......................... 10
1.1. Cơ sở lí luận ............................................................................................. 10
1.1.1. Quan niệm về sử dụng bảo tàng trong dạy học lịch sử ở trường phổ
thông ................................................................................................................ 10
1.1.2. Các loại bảo tàng ................................................................................... 15
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong
dạy học lịch sử ở trường phổ thông ................................................................ 17
1.1.4. Yêu cầu sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử. 25
1.2. Cơ sở thực tiễn ......................................................................................... 27
1.2.1. Thực trạng việc khai thác và sử dụng bảo tàng trong dạy học lịch sử
1.2.2. Thực trạng việc sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy và học
hiện nay ........................................................................................................... 27
Lịch sử Việt Nam thời kì 1954- 1975……………………………………….32
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ............................................................................... 42
CHƢƠNG 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP SỬ DỤNG BẢO TÀNG ĐƢỜNG HỒ
CHÍ MINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM THỜI KÌ 1954 –
1975 Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRẦN HƢNG ĐẠO - HÀ
iii
ĐÔNG- HÀ NỘI.THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM .............................................. 43
2.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung của phần lịch sử Việt Nam thời kì .................. 43
2.1.1. Vị trí và mục tiêu ................................................................................... 43
2.1.2. Nội dung cơ bản của lịch sử Việt Nam thời kì 1954 – 1975. ............ 45
2.2. Khảo sát nguồn tư liệu tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh có thể sử dụng
trong dạy học lịch sử Việt Nam thời kì 1954 - 1975. .................................... 47
2.3. Một số biện pháp sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy học
lịch sử Việt Nam thời kì 1954- 1975 ở trường THPT Trần Hưng Đạo- Hà
Đông- Hà Nội. ................................................................................................. 53
2.3.1.Bài học nội khóa. .................................................................................... 53
2.3.2. Hoạt động ngoại khóa ........................................................................... 70
2.4. Thực nghiệm sư phạm .............................................................................. 84
2.4.1. Mục đích, đối tượng thực nghiệm ......................................................... 84
2.4.2. Nội dung, phương pháp thực nghiệm....................................................84
2.4.3. Kết quả thực nghiệm ............................................................................. 85
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ............................................................................... 89
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................................... 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 92
iv
DANH MỤC PHỤ LỤC ................................................................................ 95
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Tổng hợp ý kiến GV và HS về hiệu quả sử dụng bảo tàng đường
Hồ Chí Minh trong DHLS............................................................................... 35
Bảng 1.2. Tổng hợp ý kiến GV và HS về hình thức hoạt động ngoại khóa tại
bảo tàng đường Hồ Chí Minh (%) .................................................................. 38
v
Bảng 2.1. Bảng tổng hợp kết quả điểm kiểm tra giữa lớp TN và lớp ĐC ...... 86
DANH MỤC BIỂU ĐỒ, HÌNH
Biểu đồ 1.1. Tổng hợp ý kiến GV và HS về sự cần thiết của việc sử dụng bảo
tàng trong DHLS ở trường phổ thông. .................................................................................... 34
Biểu đồ 1.2. Tổng hợp ý kiến GV và HS về sự quan tâm đối với bảo tàng
đường Hồ Chí Minh (%) ................................................................................................................. 37
Hình 2.1. Ngã ba Đồng Lộc ............................................................................ 55
Hình 2.2. Lính Mỹ chém giết dân ở Tây Ninh ................................................ 56
Hình 2.3. Tuổi 20 ở Trường Sơn ..................................................................... 57
Hình 2.4. Qua cầu treo .................................................................................... 58
Hình 2.5. Xe cơ giới chở hàng vào miền Nam ............................................... 59
Hình 2.6. Đường kín Trường Sơn ................................................................... 60
Hình 2.7. Giao liên gùi thồ .............................................................................. 65
Hình 2.8. Ngựa gùi hàng ................................................................................. 66
Hình 2.9. Voi gùi hàng .................................................................................... 66
Hình 2.10. Đôi dép cao su của anh hùng Nguyễn Viết Sinh .......................... 68
vi
Hình 2.11. Tuổi 20 ở Trường Sơn ................................................................... 69
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ và quá trình xây
dựng đất nước theo con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa, nước ta đã có
nhiều sự chuẩn bị và đầu tư vào các ngành: Kinh tế, văn hóa, xã hội… để chúng
ta vững vàng hơn, có thể sánh vai với các cường quốc năm châu. Giáo dục đào
tạo cũng luôn được quan tâm và được coi là quốc sách hàng đầu.
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay đòi hỏi giáo dục phổ thông
phải đào tạo những con người phát triển toàn diện, phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Yêu cầu này được cụ thể hóa trong Luật
giáo dục năm 2005, được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam khóa XI thông qua (sửa đổi, bổ sung năm 2010): "Mục tiêu giáo dục là
đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức
khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, hình thành bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công
dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" [15, tr.18]. Trong các nhà
trường phổ thông, mỗi bộ môn học đều có đặc trưng riêng và đều góp phần vào
việc thực hiện mục tiêu của giáo dục và đào tạo, môn Lịch sử cũng có một vị trí
rất quan trọng trong việc giáo dục đạo đức, hình thành nhân cách cho học sinh.
Trong dạy học Lịch sử, giáo viên sử dụng nhiều phương pháp để nâng
cao hiệu quả bài học, trong đó phương pháp trực quan góp phần quan trọng
tạo biểu tượng cho học sinh, cụ thể hóa các sự kiện và khắc phục tình trạng hiện
đại hóa lịch sử của học sinh. Để hiểu sâu, nhớ kỹ và nắm rõ các sự kiện lịch sử,
ngoài các tài liệu, kiến thức lịch sử trong sách giáo khoa thì có nhiều nguồn tài
liệu, hiện vật khác cũng rất phong phú, nhất là ở gần địa phương nơi các em học
tập, sinh sống như hệ thống bảo tàng, các di tích lịch sử - văn hóa…
Bên cạnh việc lưu giữ, trưng bày các hình ảnh, hiện vật lịch sử, bảo tàng
1
còn thực hiện chức năng tuyên truyền, giáo dục, khơi dậy tinh thần yêu nước và
lòng tự hào dân tộc cho khách tham quan. Ở Hà Nội có rất nhiều bảo tàng: Bảo
tàng Hồ Chí Minh, bảo tàng Lịch sử, bảo tàng Dân tộc học… mỗi bảo tàng đều
có những tư liệu đặc trưng và nội dung, ý nghĩa khác nhau. Trong đó, bảo tàng
đường Hồ Chí Minh là nơi trưng bày và lưu giữ nhiều tài liệu, hiện vật liên quan
đến một thời kì vô cùng hào hùng của lịch sử dân tộc. Bảo tàng đường Hồ Chí
Minh thuộc phường Yên Nghĩa, quận Hà Đông, Hà Nội là một công trình văn
hóa mang tính đặc thù của bộ đội Trường Sơn, nơi duy nhất ở Việt Nam lưu
giữ một con đường bằng bảo tàng riêng: Đường Trường Sơn - Đường Hồ Chí
Minh.
Nhà thơ Phạm Tiến Duật, một cựu chiến binh Trường Sơn, khi đến Bảo
tàng đã viết vào sổ cảm tưởng: “Không thể cho một dãy núi vào trong một
ngôi nhà. Nhưng ngôi nhà, Bảo tàng đường Hồ Chí Minh, đã chứa đựng tất cả
kim cương và quặng quý của dãy núi ấy”. Với những hiện vật quý giá gắn liền
với lịch sử của dân tộc cùng sự tâm huyết của đội ngũ cán bộ bảo tàng, mà từ
khi mở cửa đến nay, Bảo tàng đã trở thành một địa chỉ tham quan hấp dẫn với
du khách. Đồng thời, Bảo tàng cũng làm tròn trách nhiệm giáo dục truyền
thống lịch sử cho thế hệ trẻ Việt Nam
Việc khai thác và sử dụng bảo tàng trong dạy học nói chung và dạy học
lịch sử nói riêng đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, nghiên
cứu lý luận dạy học, giáo dục và giáo dục lịch sử và các nhà nghiên cứu lịch
sử, văn hóa. Cho đến nay đã có một số bài viết, công trình nghiên cứu đề cập
đến vấn đề này ở những khía cạnh, mức độ khác nhau nhưng chưa có công
trình nghiên cứu nào đưa bảo tàng đường Hồ Chí minh vào dạy học Lịch sử.
Vì vậy, việc chọn đề tài “Sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong
dạy học lịch sử Việt Nam thời kì 1954-1975 ở trường THPT Trần Hưng
Đạo-Hà Đông- Hà Nội” làm đề tài luận văn, sẽ có ý nghĩa về mặt khoa học,
bổ sung cho lý luận dạy học lịch sử, nhất là việc sử dụng bảo tàng trong dạy
học lịch sử, vừa có ý nghĩa thực tiễn, vừa góp phần nâng cao chất lượng dạy
2
học môn lịch sử hiện nay.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề sử dụng tư liệu của bảo tàng trong dạy học Lịch sử ở trường
THPT đã được các nhà giáo dục học, giáo dục Lịch sử quan tâm nghiên cứu.
Trong cuốn sách “Phương pháp dạy học lịch sử” do Phan Ngọc Liên chủ
biên (NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2010) đã nêu rõ vị trí và ý nghĩa của
hoạt động ngoại khóa; các hình thức tổ chức và cách tiến hành những hoạt
động
ngoại khóa trong dạy học Lịch sử, tác giả đã nhấn mạnh đến việc tổ chức
hoạt động tham quan bảo tàng, khu di tích lịch sử - văn hóa.
Trong cuốn sách“Phương pháp dạy học môn Lịch sử ở trường trung
học phổ thông” do Vũ Quang Hiển – Hoàng Thanh Tú chủ biên (NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2014) đã nêu những nét khái quát vị trí, nội dung, ý
nghĩa và các hình thức của hoạt động ngoại khóa Lịch sử. Bên cạnh đó tác giả
đề xuất các biện pháp và hình thức tiến hành dạy học và tổ chức hoạt động
ngoại khóa phù hợp tại bảo tàng cho HS ở trường THPT.
Trong cuốn sách “Các con đường , biện pháp nâng cao hiệu quả dạy
học lịch sử ở trường phổ thông” của tác giả Nguyễn Thị Côi (NXB Đại học
Sư phạm Hà Nội, 2006) đã nói đến vai trò, ý nghĩa của việc tổ chức tham
quan học tập tại bảo tàng, di tích lịch sử cho học sinh ở trường THPT. Tác giả
đã khẳng định, thông qua các hiện vật trưng bày giúp học sinh được trực quan
sinh động những sự kiện lịch sử giúp các em tạo được biểu tượng lịch sử cụ
thể và là chỗ dựa để hình thành các kết luận khái quát.
Trong cuốn “Rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ sư phạm môn Lịch sử” do
Nguyễn Thị Côi chủ biên (NXB Đại học Sư phạm, 2011) đề cập đến ý nghĩa
của hoạt động ngoại khóa, rèn luyện năng lực tổ chức và cách thức tiến hành
tổ chức hoạt động ngoại khóa.
Cuốn “Bảo tàng lịch sử, cách mạng trong dạy học lịch sử ở trường phổ
thông trung học” của tác giả Nguyễn Thị Côi, xuất bản năm 1998 đã trình bày
3
các vấn đề, như: Vai trò và ý nghĩa của bảo tàng lịch sử, cách mạng trong dạy
học lịch sử ở trường phổ thông trung học; Nội dung các vật trưng bày của bảo
tàng lịch sử, cách mạng và khả năng sử dụng trong dạy học lịch sử ở trường
phổ thông trung học; Các hình thức, phương pháp sử dụng tư liệu bảo tàng
trong dạy học lịch sử.
Cuốn sách “Bảo tàng, di tích khơi nguồn cảm hứng dạy và học lịch sử
cho học sinh phổ thông” của tác giả Nguyễn Kim Thành (chủ biên) NXBGD
Việt Nam, 2014, đã nêu mối quan hệ giữa bảo tàng, di tích và nhà trường
trong việc dạy và học lịch sử cho học sinh phổ thông. Tác giả còn đề xuất các
hình thức dạy và học lịch sử cho học sinh tại bảo tàng đặc biệt giới thiệu câu
lạc bộ “Em yêu lịch sử” tại bảo tàng lịch sử Quốc gia cũng như tại nhiều bảo
tàng, di tích khác trong cả nước.
Tạp chí Di sản Văn hóa số 3 năm 2012, ThS. Nguyễn Kim Thành với
đề tài: “Các bảo tàng tại Hà Nội với việc nâng cao chất lượng dạy và học
môn Lịch sử trong các trường phổ thông” tác giả đã nêu rõ mối quan hệ giữa
bảo tàng với quá trình dạy học Lịch sử. Tác giả đi sâu phân tích việc tổ chức
các hoạt động của một số bảo tàng tại Hà Nội để việc dạy học Lịch sử
ở trường phổ thông đạt được hiệu quả cao hơn như tổ chức tham quan bảo
tàng, bảo tàng phối hợp với nhà trường trình bày lưu động, bảo tàng tích cực
tổ chức các hình thức câu lạc bộ, phòng khám phá để thu hút học sinh đến
tham gia.
Tạp chí Giáo dục và xã hội số 29 năm 2013, tác giả Hoàng Thanh Tú,
Chu Ngọc Quỳnh với bài “Xây dựng chương trình hoạt động ngoại khóa môn
lịch sử tại bảo tàng dân tộc học Việt Nam” đã nêu vai trò, ý nghĩa của bảo
tàng Dân tộc học Việt Nam trong dạy học lịch sử, nêu thực trạng tổ chức hoạt
động ngoại khóa, qui trình xây dựng chương trình hoạt động ngoại khóa lịch
sử tại bảo tàng DTHVN.
Tạp chí Dạy và học ngày nay số 2 năm 2017, tác giả Bùi Hà Thanh với
đề tài “Quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp” đã vạch rõ cách thức,
4
kế hoạch, sự chuẩn bị cho các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục số 10, năm 1997, đồng tác giả Nguyễn
Thị Côi - Nguyễn Văn Phong, trường Đại học Sư Phạm Hà Nội với đề tài: "Khai
thác và sử dụng tài liệu của bảo tàng, nhà truyền thống vào dạy học Lịch sử dân
tộc ở trường phổ thông" đã khái quát các hình thức, phương pháp khai thác,
sử dụng tư liệu của bảo tàng Lịch sử nói chung, nhà truyền thống nói riêng vào
dạy học Lịch sử. Cụ thể là giáo viên có thể tổ chức đưa học sinh đi tham quan
bảo tàng; giáo viên khai thác và sử dụng tư liệu để dạy học bài Lịch sử nội
khóa tại bảo tàng hoặc ở trường phổ thông; khai thác và sử dụng tư liệu để tổ
chức các triển lãm, ra báo học tập nhân các ngày lễ lớn của đất nước.
Kỉ yếu Hội thảo Khoa học Quốc gia về dạy học lịch sử ở trường phổ
thông Việt Nam (NXB Giáo dục Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo - Hội
Khoa học Lịch sử Việt Nam), tác giả Trần Đức Minh với đề tài "Khai thác tư
liệu bảo tàng lịch sử, cách mạng trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông" đã
nhấn mạnh việc khai thác tư liệu bảo tàng lịch sử, cách mạng phục vụ cho dạy
học lịch sử nói chung và hoạt động ngoại khóa lịch sử nói riêng là một yêu cầu
cấp thiết trong việc đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử, nhằm phát huy
năng lực tư duy nhận thức, tính tích cực, độc lập sáng tạo và các kĩ năng cần
thiết của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn.
Kỉ yếu Hội thảo khoa học 2015 - Đại học Cần Thơ, tác giả Phạm Ngọc
Hòa - Tô Thị Thanh Thảo với bài “Sử dụng phương pháp dạy học tích cực
trong dạy học lịch sử ở trường THPT hiện nay” đã nêu thực trạng dạy học
lịch sử ở trường phổ thông hiện nay và phương pháp vận dụng một số phương
pháp dạy học tích cực trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông.
Luận văn “Sử dụng bảo tàng phòng không, không quân trong dạy học
Lịch sử Việt Nam (1954- 1975) ở trường trung học cơ sở tại Hà Nội” của
Vương Thị Ngà năm 2014 trường ĐHSP Hà Nội đã nêu các hình thức sử
dụng bảo tàng trong dạy học nội khóa và ngoại khóa trong dạy học Lịch sử.
Luận án “Sử dụng tư liệu lịch sử địa phương trong dạy học lịch sử Việt
5
Nam giai đoạn 1954-1975 ở trường THPT tỉnh Đồng Tháp” của Phạm Xuân
Vũ 2015 trường ĐHSP Hà Nội đã nêu được các biện pháp, cách thức sử dụng
tư liệu lịch sử trong dạy học ở trường THPT.
Thông qua tìm hiểu một số tài liệu có liên quan đến đề tài, chúng
tôi thấy rằng các tác giả đã đề cập đến vai trò, ý nghĩa của bảo tàng trong dạy
học Lịch sử; đánh giá được thực trạng sử dụng bảo tàng trong dạy học Lịch
sử; xác định yêu cầu cơ bản cũng như cách thức tiến hành sử dụng bảo tàng
để dạy học; cách thức sử dụng bảo tàng trong dạy học lịch sử; hoạt động
ngoại khóa lịch sử… Đây là nguồn tư liệu quí giá để tôi thực hiện đề tài với
mong muốn góp phần bổ sung nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho GV, HS
THPT. Tuy nhiên, chưa có một tác phẩm hay một công trình nghiên cứu nào
đề cập cụ thể đến việc sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy học
lịch sử Việt Nam thời kì 1954 - 1975 ở trường THPT.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Khai thác, sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử
Việt Nam thời kì 1954 - 1975, lớp 12- Trung học phổ thông.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Nghiên cứu của đề tài được giới hạn cho phần lịch sử
Việt Nam thời kì 1954 - 1975 lớp 12 - Trung học phổ thông.
- Về tổ chức dạy học: Tập trung vào bài nội khóa và hoạt động ngoại
khóa, trọng tâm là các bài nội khóa.
- Phạm vi điều tra khảo sát và thực nghiệm sư phạm được tiến hành tại
trường THPT Trần Hưng Đạo, THPT Quang Trung, THPT Lê Qúy Đôn - Hà
Đông - Hà Nội.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở khẳng định vai trò,ý nghĩa của việc sử dụng bảo tàng nói
6
chung trong dạy học lịch sử, đề tài nghiên cứu nhằm đề xuất ra các hình thức
tổ chức và biện pháp khai thác, sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong
dạy học lịch sử lớp 12 nhằm phát huy năng lực tư duy sáng tạo,tự học của học
sinh,đổi mới hình thức tổ chức dạy học góp phần nâng cao chất lượng dạy học
lịch sử ở trường THPT hiện nay.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận về việc khai thác, sử dụng bảo tàng trong dạy học
lịch sử Việt Nam ở trường THPT.
- Nghiên cứu nội dung chương trình sách giáo khoa lớp 12 phần Lịch
sử Việt Nam thời kì 1954-1975, các tài liệu lịch sử ở bảo tàng đường Hồ
Chí Minh và xác định những nội dung cần khai thác và sử dụng trong dạy
học lịch sử Việt Nam lớp 12.
- Khảo sát tình hình dạy học lịch sử Việt Nam lớp 12 - Trung học phổ
thông ở một số trường tại Hà Đông - Hà Nội, đặc biệt thực trạng của việc khai
thác sử dụng bảo tàng nói chung và bảo tàng đường Hồ Chí Minh nói riêng
trong dạy học lịch sử Việt Nam, từ đó phát hiện những khó khăn tồn tại cần
khắc phục và những ưu điểm cần phát huy.
- Đề xuất các hình thức biện pháp sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí
Minh trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 12 ở trường THPT.
- Thực nghiệm sư phạm các hình thức, biện pháp sử dụng trên làm cơ
sở cho việc rút ra những kết luận khoa học, những đề xuất kiến nghị nhằm
khai thác, sử dụng có hiệu quả bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy học
lịch sử dân tộc.
5. Giả thuyết nghiên cứu
Nếu giáo viên biết khai thác và sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh
một cách hợp lý theo những hình thức và biện pháp đề xuất của đề tài nghiên
cứu sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của bài học lịch sử, góp phần đổi mới hình
thức tổ chức dạy học, phương pháp dạy học lịch sử ở trường THPT.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
7
6.1. Cơ sở phương pháp luận
Cơ sở phương pháp luận của luận văn là dựa trên quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng
và Nhà nước ta về công tác giáo dục, nghiên cứu giáo dục, nghiên cứu lịch
sử, văn hóa, về khai thác và sử dụng bảo tàng trong dạy học lịch sử Việt Nam.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học giáo
dục sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Đọc, phân tích, tổng hợp về các tài
liệu, văn kiện của Đảng, tâm lý học, giáo dục học, lý luận dạy học bộ môn về
vấn đề sử dụng bảo tàng trong dạy học lịch sử ở trường THPT và các tài liệu
hiện vật của bảo tàng. Đọc các tài liệu về bảo tàng đường Hồ Chí Minh, nghiên
cứu chương trình, sách giáo khoa lịch sử (lớp 12, thời kì 1954 - 1975) và các tài
liệu liên quan khác.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+Phỏng vấn, điều tra thực trạng việc khai thác và sử dụng bảo tàng trong
dạy học lịch sử nói chung và việc khai thác sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí
Minh trong dạy học lịch sử Việt Nam (thời kì 1954 - 1975) nói riêng.
+Thực nghiệm sư phạm các hình thức biện pháp, sử dụng bảo tàng
đường Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 12 để minh chứng
cho tính đúng đắn, khả thi của các biện pháp sư phạm đã đề ra.
7. Dự kiến đóng góp của luận văn
- Khẳng định vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc sử dụng bảo tàng
đường Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử Việt Nam thời kì 1954 - 1975.
- Đánh giá thực trạng việc việc sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh
trong dạy học lịch sử ở trường THPT.
- Đề xuất một số biện pháp để sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh
trong dạy học lịch sử Việt Nam thời kì 1954 – 1975 ở trường THPT một cách
8
hiệu quả.
8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa khoa học: làm phong phú thêm lí luận PPDHLS nói chung và
vấn đề sử dụng Bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử ở trường
THPT nói riêng.
- Ý nghĩa thực tiễn: là nguồn tài liệu tham khảo cho sinh viên các
trường Cao đẳng, Đại học Sư phạm; GV môn Lịch sử ở trường THPT.
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
đề tài luận văn bao gồm hai chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng bảo tàng đường
Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử Việt Nam ở trường THPT.
Chương 2: Một số biện pháp sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh
trong dạy học lịch sử Việt Nam thời kì 1954 – 1975 ở trường THPT Trần
9
Hưng Đạo- Hà Đông- Hà Nội. Thực nghiệm sư phạm.
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG
BẢO TÀNG ĐƢỜNG HỒ CHÍ MINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
VIỆT NAM Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Quan niệm về sử dụng bảo tàng trong dạy học lịch sử ở
trường phổ thông
Trong lịch sử phát triển văn hóa nhân loại, bảo tàng ra đời như một loại
thiết chế văn hóa được hiểu một cách phổ biến là nơi lưu giữ các giá trị vật
chất và tinh thần tiêu biểu thuộc về quá khứ của một lĩnh vực, một nền văn
hóa cộng đồng, rộng hơn là của nhân loại. Vì thế, khi nhắc đến bảo tàng, công
chúng thường nghĩ tới một địa điểm không chỉ có kiến trúc đẹp, mà còn là nơi
trưng bày, đưa tới nhiều điều thú vị. Trên thế giới, bảo tàng là một loại hình
văn hóa được đặc biệt chú trọng phát triển nhằm quảng bá lịch sử - văn hóa
vốn là niềm tự hào của mỗi quốc gia.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về bảo tàng.
“Bảo tàng là cơ quan sưu tầm, giám định và trưng bày các tài liệu,
hiện vật có tính chất nguyên gốc, đầu tiên của tri thức về lịch sử phát triển của
xã hội và tự nhiên, về lịch sử của cuộc đấu tranh cách mạng.” [5, tr.8].
“Bảo tàng là cơ sưu tầm, thu thập, gìn giữ, nghiên cứu, trưng bày và giới
thiệu những hiện vật lịch sử của nền văn hóa tinh thần và vật chất.” [11, tr.15].
Theo Luật Di sản văn hóa ban hành năm 2009, ghi rõ: “Bảo tàng là
nơi bảo quản và trưng bày các sưu tập về lịch sử, tự nhiên, xã hội nhằm phục
vụ nhu cầu nghiên cứu, giáo dục, tham quan và hưởng thụ văn hóa của nhân
dân” [16, tr. 42].
Tại các bảo tàng có những tài liệu, hiện vật gốc, những sa bàn, tranh
10
ảnh minh họa, sơ đồ được trưng bày một cách có hệ thống. Tất cả những tài liệu,
hiện vật đó được trưng bày ở bảo tàng góp phần quan trọng trong việc hình
thành, bổ sung kiến thức lịch sử cho HS. Bảo tàng "là một trung tâm thông
tin, có lượng thông tin nguyên gốc, chính xác, phong phú, dễ tiếp cận và được
nhận thức bằng phương tiện trực quan, sinh động" [25, tr.173].
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, quá trình nhận thức của con người bao
giờ cũng đi từ hình ảnh cụ thể, trực tiếp đến trừu tượng, từ đơn giản đến khái
quát. Qúa trình nhận thức tuân theo các qui luật. Một qui luật được phản ánh
trong công thức nổi tiếng của Lênin “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng của
sự nhận thức chân lý, nhận thức hiện thực khách quan”. Đặc điểm cơ bản của
việc học lịch sử là học sinh không trực tiếp quan sát các sự kiện lịch sử như
nó đã từng diễn ra, do đó phương tiện trực quan rất quan trọng và có ý nghĩa
trong dạy học lịch sử.
Khi học sinh được đến bảo tàng, được nhìn thấy các tư liệu, hiện vật ở
bảo tàng, đặc biệt là các tư liệu, hiện vật gốc, HS sẽ có được những biểu
tượng cụ thể về những sự kiện lịch sử đã diễn ra và hiểu lịch sử một cách sống
động nhất. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc khắc sâu kiến thức lịch
sử, giáo dục đạo đức, tư tưởng, tình cảm cho HS. Qua đó, HS cũng được rèn
luyện các kĩ năng thực hành bộ môn lịch sử : kĩ năng quan sát, miêu tả, thuyết
trình… và biết rút ra kết luận về bản chất của các sự kiện, hiện tượng lịch sử.
Vậy việc sử dụng bảo tàng (bao gồm cả không gian bảo tàng và các hình ảnh,
tư liệu, hiện vật của bảo tàng) và khai thác các tư liệu hiện vật của bảo tàng trong dạy
học lịch sử là một phương tiện trực quan có giá trị trong giảng dạy, cung cấp nguồn
kiến thức phong phú cho học sinh mà trong một tiết học giáo viên không thể cung cấp
hết. Bên cạnh đó còn “giúp giáo viên lịch sử biết cách sưu tầm, bổ sung, làm giàu vốn
đồ dùng dạy học và kiến thức lịch sử cho mình. Điều này đặc biệt bổ ích đối với
những trường phổ thông xa trung tâm thành phố, không có bảo tàng” [5, tr.20].
11
Hệ thống bảo tàng ở nước ta khá phong phú, gồm hơn 120 bảo tàng
với nhiều bảo tàng có quy mô quốc gia như Bảo tàng Lịch sử quân đội, Bảo
tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam… được bảo
đảm về nội dung trưng bày, từ hiện vật đến sử liệu. Đó là nguồn tư liệu vô
cùng chân thực và quí giá trong dạy học lịch sử ở các trường phổ thông.
Trong sự nghiệp văn hóa - giáo dục của nước ta, các hoạt động bảo
tàng, di tích có vị trí hết sức quan trọng, đã được Đảng và nhà nước ta khẳng
định: “Bảo tàng, di tích là một thiết chế văn hóa không thể thiếu được trong
xã hội hiện tại cũng như mai sau”. Hiện nay, bảo tàng có hai chức năng đó là
chức năng nghiên cứu (sưu tầm, trưng bày, giới thiệu về lịch sử - văn hóa của
dân tộc) và chức năng giáo dục (cho công chúng, nhất là với các thế hệ học
sinh còn đang ngồi trên ghế nhà trường về tình yêu quê hương đất nước, lòng
tự hào dân tộc và những lý tưởng, khát khao).
Hai chức năng này có mối quan hệ biện chứng, thực hiện tốt cả hai
chức năng trên thì bảo tàng mới đáp ứng được nhiệm vụ do xã hội đặt ra.
Thứ nhất, chức năng nghiên cứu khoa học của bảo tàng: mọi hoạt
động trong công tác nghiên cứu khoa học của Bảo tàng đều phải xoay quanh
các hiện vật gốc phù hợp với từng loại hình của bảo tàng. Đó là trọng tâm, là
cơ sở của mọi công tác nghiên cứu khoa học của bảo tàng. Hay nói cách khác,
chức năng này được biểu hiện ở hai hoạt động sau:
- Những hoạt động nghiên cứu khoa học nhằm không ngừng bổ sung
cho khâu bảo quản cơ sở của Bảo tàng, di tích có giá trị tiêu biểu về các mặt
lịch sử, khoa học, thẩm mỹ.
- Những hoạt động có liên quan tới việc chỉnh lý, hệ thống hóa và bảo
quản một cách khoa học các di tích của Bảo tàng nhằm biến các di tích đó
thành nguồn tư liệu đáng tin cậy phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học
của các ngành khác. Đồng thời nâng cao trình độ văn hóa của đông đảo quần
chúng nhân dân.
12
Thứ hai, chức năng giáo dục của Bảo tàng: Trong cuốn sách “Bảo
tàng, di tích nơi khơi nguồn cảm hứng dạy và học lịch sử cho học sinh phổ
thông” của tác giả Nguyễn Thị Kim Thành (chủ biên) đã đề cập tới chức năng
giáo dục của bảo tàng: “Bảo tàng là cơ quan giáo dục công cộng,là nơi lưu
giữ các kí ức của các dân tộc, các nền văn hóa. Bảo tàng còn là cơ quan văn
hóa - giáo dục thực hiện chức năng giáo dục và tuyên truyền,bảo tàng đã,
đang và sẽ góp phần giáo dục nhằm nâng cao dân trí, tăng cường sự hiểu
biết, khơi dậy niềm tự hào về truyền thống yêu nước, giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc và xây dựng đất nước giàu đẹp. Cùng với các nhà văn hóa, câu lạc
bộ, thư viện, rạp chiếu phim và các khu vui chơi giải trí khác, bảo tàng thuộc
hệ thống giáo dục cho học sinh ngoài nhà trường, có chức năng giáo dục
quan trọng nhằm góp phần hoàn thiện nhân cách con người” [tr. 13]. Thông
qua các tư liệu và hiện vật gốc được trưng bày ở bảo tàng nhằm gợi dậy
những tư tưởng, tình cảm tốt đẹp cho người xem chứ không phải thông qua
sách vở. Bảo tàng thực hiện chức năng giáo dục khoa học của mình bằng cách
tuyên truyền, phổ biến kiến thức và thông qua các hoạt động của mình, Bảo
tàng giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, cần phải “đánh
thức” các tài liệu, hiện vật để chúng có tác dụng giáo dục tới học sinh.
Với chức năng như trên, Bảo tàng có các nhiệm vụ:
+ Tiến hành công tác nghiên cứu khoa học.
+ Tiến hành thu thập các tài liệu, hiện vật gốc phù hợp với các loại
hình Bảo tàng.
+ Công tác kiểm kê giám định một cách có khoa học các hiện vật của
Bảo tàng.
+ Công tác bảo quản hiện vật của Bảo tàng.
+ Công tác trưng bày của bảo tàng.
+ Công tác tuyên truyền, giáo dục và là tài liệu quan trọng, cần thiết
13
phục vụ cho các bài học lịch sử.
Rõ ràng là, trong thời đại ngày nay, sự phát triển nhanh chóng, mạnh
mẽ của các phương tiện thông tin đại chúng đã mang lại vô vàn những hình
thức truyền tin, phổ biến tri thức hết sức nhanh nhạy, tiện ích và đầy hấp dẫn,
nhưng các bảo tàng, với vai trò là một thiết chế văn hoá đặc thù, vẫn không hề
suy giảm khả năng đưa lại cho công chúng những thông tin, những tri thức
chân thực, đáng tin cậy và lý thú từ các sưu tập hiện vật gốc vốn thấm đượm
và phản ánh sâu sắc trí tuệ và tài năng, tinh thần và tình cảm của các thế hệ
người Việt Nam, của hồn thiêng sông núi và dân tộc. Theo đó, nhiệm vụ giáo
dục khoa học cho học sinh phổ thông sẽ luôn là một trong những nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu của các bảo tàng Việt Nam hiện nay.
Để cho hoạt động và chức năng của bảo tàng được phát huy tối đa, các
bảo tàng đã có nhiều cố gắng tạo sự quan tâm và hấp dẫn cho người tham
quan, học tập:
- Tạo lập không gian văn hóa hấp dẫn, thu hút học sinh, đưa bảo tàng
thực sự trở thành “một học đường” giảng dạy trực quan.
- Vừa tham quan bảo tàng vừa được trực tiếp tiếp xúc, trao đổi và giao
lưu với các nhân chứng lịch sử (người thực việc thực).
- Tổ chức chương trình giáo dục cho học sinh theo chuyên đề trưng bày
của bảo tàng.
- Xây dựng các phòng, các khu vực khám phá tìm hiểu, nghiên cứu
riêng cho học sinh.
- Xây dựng các bộ triển lãm lưu động để đưa hiện vật tới các nhà
trường phục vụ học sinh, đặc biệt là các đối tượng học sinh ở vùng sâu, vùng
xa, vùng đồng bào dân tộc ít người.
- Tổ chức các cuộc thi, các hoạt động truyền thống, hoạt động ngoại
khoá cho học sinh phổ thông tại bảo tàng.
- Sử dụng nội dung trưng bày của bảo tàng trong việc dạy và học lịch sử,
14
giúp cho các em hiểu bài một cách sâu sắc và thích thú hơn với môn lịch sử.
- Cung cấp các tài liệu, số liệu, ảnh nhằm bổ sung hoặc minh hoạ cho
các bài giảng trong sách giáo khoa, qua đó, giúp giáo viên dạy môn lịch sử
các trường phổ thông có thêm giáo cụ trực quan sinh động cho bài giảng.
- Tranh thủ tối đa mọi khả năng của các phương tiện thông tin đại
chúng trong việc quảng bá, tiếp thị về nội dung bảo tàng.
- Đưa bảo tàng đến với trường học là xu hướng tiếp cận mới cần được
phát huy, để gắn kết bảo tàng với nhà trường, chủ yếu là giáo viên, và hệ
thống cộng tác viên là những người dạy lịch sử ở các trường phổ thông, đưa
nội dung tham quan bảo tàng vào chương trình giáo dục ngoài nhà trường của
ngành giáo dục, qua đó tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh được
phát huy cao độ.
Bảo tàng, với tư cách là một thiết chế văn hóa và giáo dục, không thể
chỉ đơn thuần cung cấp cho xã hội những bài “thuyết minh” như hơn bốn
mươi năm về trước mà phải có sự thay đổi trong nhận thức và hành động
nhằm đảm bảo chức năng giáo dục, mang lại lợi ích cho cộng đồng và phù
hợp với sự phát triển của xã hội.
Sử dụng bảo tàng nói chung và bảo tàng đường Hồ Chí Minh nói riêng
trong dạy học Lịch sử ở trường phổ thông là một hình thức để nâng cao hiệu
quả bài học, là phương tiện trực quan có giá trị trong giảng dạy, cung cấp
nguồn kiến thức phong phú cho học sinh.
1.1.2. Các loại bảo tàng
Theo tác giả Nguyễn Thị Côi trong cuốn “Bảo tàng Lịch sử, cách
mạng trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông” đã phân ra thành 6 loại Bảo
tàng:
Một là, các bảo tàng lịch sử, như: Bảo tàng Cách mạng Việt Nam
(nay là bảo tàng lịch sử Quốc gia), Bảo tàng Quân đội, Bảo tàng Hồ Chí
Minh... Các loại bảo tàng này chiếm vị trí rất quan trọng trong toàn bộ hệ
15
thống bảo tàng Việt Nam.
Những hiện vật được trưng bày trong các bảo tàng này phản ánh về
đời sống văn hóa vật chất, tinh thần của con người Việt Nam từ khi hình
thành đến nay.
Hai là, các bảo tàng nghệ thuật nhằm sưu tầm , bảo quản, nghiên cứu
những tác phẩm nghệ thuật của nhiều thời đại khác nhau vào mục đích khoa
học và giáo dục thẩm mĩ cho quần chúng.
Ba là, các bảo tàng chuyên ngành như: Bảo tàng phụ nữ, Bảo tàng
dân tộc học, Bảo tàng Không quân, Bảo tàng Văn học... những bảo tàng này
chiếm một số lượng nhất định trong toàn bộ hệ thống bảo tàng. Nhiệm vụ
chính là sưu tầm, bảo quản, nghiên cứu các hiện vật gốc của một ngành khoa
học nhất định để nói lên sự phát triển, phục vụ cho công tác khoa học của
chính bản thân ngành đó và phục vụ quần chúng nhân dân.
Bốn là, Bảo tàng lịch sử tự nhiên gồm các bảo tàng cùng loại hình với
các ngành khoa học. Đối tượng nghiên cứu là các mặt khác nhau của thế giới
tự nhiên, như Bảo tàng động vật học, Bảo tàng thực vật học, Bảo tàng hải
dương học...
Năm là, các bảo tàng lưu niệm nhằm lưu giữ lại trong quần chúng
nhân dân những sự kiện, những nhân vật lịch sử lớn, quan trọng trên mọi mặt
của đời sống xã hội, chính trị, quân sự, văn học, nghệ thuật... Loại bảo tàng
này giới thiệu một cách hệ thống diễn biến những sự kiện, hoạt động của các
nhân vật lịch sử. Ví như, bảo tàng ở di tích lịch sử nhà tù Hỏa Lò, nhà số 5
Hàm Long, 48 Hàng Ngang (Hà Nội), di tích Kim Liên (Nghệ An), Pác Bó
(Cao Bằng), Tân Trào (Tuyên Quang)...
Sáu là, các bảo tàng ở địa phương: cũng là cơ quan thực hiện chức
năng nghiên cứu khoa học và giáo dục ở mức độ nhất định, chủ yếu là sưu
tầm, bảo quản, nghiên cứu và trưng bày những tài liệu, hiện vật về văn hóa
vật chất, tinh thần cũng như tự nhiên của địa phương đó. Hiện nay, các loại
bảo tàng này và các nhà lưu niệm, truyền thống của địa phương đang phát
16
triển rất mạnh mẽ ở các địa phương trong nước. [tr.10-11].
Những bảo tàng, nhà lưu niệm địa phương có vai trò quan trọng trong
việc giáo dục truyền thống của địa phương, của dân tộc cho đông đảo quần
chúng nhân dân.
Bảo tàng Đường Hồ Chí Minh thuộc loại hình lịch sử quân sự. Bảo
tàng là nơi gìn giữ, bảo quản các tài liệu, hiện vật, quí hiếm để giới thiệu về
những chiến công anh hùng, sự hi sinh của bộ đội Trường Sơn và tình đoàn
kết keo sơn chiến đấu của anh em ba nước Đông Dương trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước. Bảo tàng đường Hồ Chí Minh cách trung tâm Hà
Nội khoảng 16km, thuộc quận Hà Đông. Bảo tàng được khởi công xây dựng
vào tháng 12/1996, khánh thành và đưa vào sử dụng ngày 14/4/1999 nhân dịp
kỉ niệm 40 năm ngày mở đường Hồ Chí Minh- ngày truyền thống bộ đội
Trường Sơn anh hùng.
Với phương pháp trưng bày hết sức ấn tượng cùng với 15.000 hiện vật
gốc gắn liền với lịch sử của dân tộc cùng sự tâm huyết của đội ngũ cán bộ bảo
tàng, mà từ khi mở cửa đến nay, Bảo tàng đã trở thành một địa chỉ tham quan
hấp dẫn với du khách. Đồng thời, Bảo tàng cũng làm tròn trách nhiệm giáo
dục truyền thống lịch sử, ý thức dân tộc cho thế hệ trẻ Việt Nam.
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh
trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông
1.1.3.1. Vai trò
Bảo tàng đường Hồ Chí Minh cũng giống như nhiều bảo tàng khác luôn
có những đóng góp nhất định trong việc giáo dục học sinh và góp phần làm
phong phú hơn lịch sử của nhân loại.
Thứ nhất, đưa bảo tàng vào dạy học lịch sử trong trường phổ thông
nhằm thực hiện phương châm giáo dục của Đảng.
Trong luật giáo dục (2005) các mục tiêu, nguyên tắc giáo dục của Đảng
đã được thể chế hóa, làm rõ: “Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn
17
diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với
lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành, bồi dưỡng nhân
cách, phẩm chất và năng lực công dân đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ
quốc.” [15, tr. 8]. Do đó các môn học trong nhà trường ngoài cung cấp tri
thức, kĩ năng cho học sinh cần phải góp phần đào tạo, bồi dưỡng và giáo dục
thế hệ trẻ.
Học bộ môn lịch sử trong đó có sử dụng hiệu quả nguồn tư liệu của bảo
tàng sẽ góp phần không nhỏ vào việc thực hiện mục tiêu giáo dục của Đảng
đã đề ra.
Thứ hai, sử dụng bảo tàng trong dạy học lịch sử Việt Nam là nguồn tài
liệu quí giá ngoài sách giáo khoa, góp phần bổ sung kiến thức, làm phong phú
hơn cho nội dung bài học lịch sử. Đặc trưng của dạy học lịch sử là “học sinh
không thể trực quan sinh động được các sự kiện (kể cả sự kiện đang xảy ra
ngoài tầm mắt các em) không thể tái diễn lại lịch sử trong phòng thí nghiệm
(dù trong điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển, các nhà nghiên cứu cũng chỉ
dựng lại một phần của sự kiện)” [13, tr.127]. Với nội dung trình bày trong
SGK học sinh chưa có được cái nhìn đầy đủ, khái quát về sự kiện lịch sử hay
sự phát triển của lịch sử dân tộc. Do đó, sử dụng bảo tàng trong dạy học lịch
sử Việt Nam sẽ giúp các em có cái nhìn đầy đủ và khái quát và toàn diện hơn
những vấn đề lịch sử, điều đó sẽ tạo nên sự hứng thú, tìm tòi, khơi dậy niềm
tự hào cho học sinh.
Thứ ba, sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử
cũng là một biện pháp nâng cao chất lượng bộ môn trong thực trạng dạy và
học môn lịch sử hiện nay. Học sinh được học tập tại bảo tàng, được xem các
tư liệu, hiện vật tại bảo tàng đưa vào bài học lịch sử sẽ làm các em có kiến
thức phong phú, chân thực hơn và hiểu được những đóng góp, hi sinh lớn lao
của các thế hệ cha anh cho dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ đầy
gian khổ trên tuyến đường Trường Sơn huyền thoại. Bên cạnh đó, HS được
tham quan, học tại bảo tàng, được hoạt động qua các trò chơi sẽ tạo cho các
18
em sự hứng thú, tiếp cận lịch sử vừa chân thực vừa không khô khan .Với các
tư liệu được cung cấp, phân tích lồng ghép trong các bài học sẽ tạo cho các
em sự yêu thích và hứng thú với bộ môn lịch sử. Qua đó cũng tạo động lực
học tập và trách nhiệm của các em trong hiện tại và tương lai.
1.1.3.2. Ý nghĩa
Cung cấp kiến thức lịch sử:
Bảo tàng đường Hồ Chí Minh trưng bày hơn 2.000 hiện vật khác nhau
về thời kì “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước ” của đoàn 559 anh hùng bao
gồm cả tư liệu hiện vật trong nhà và ngoài trời. Mỗi tư tư liệu,hiện vật của
bảo tàng đều liên quan tới những vấn đề lịch sử của thời kì chống Mĩ (1954 -
1975). Học sinh được học trên lớp và được bổ sung kiến thức tại bảo tàng sẽ
làm cho học sinh có một cái nhìn sâu sắc hơn về sự kiện lịch sử.
Ví dụ, khi học bài 21 “ Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu
tranh chống đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở Miền Nam (1954 - 1965)”
(SGK Lịch sử lớp 12) phần “Chiến tranh đặc biệt” GV nên kết hợp với chủ đề
1 trưng bày của bảo tàng (Thành lập Đoàn 559). Bước đầu tổ chức và phát
triển tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh, góp phần
đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ - Ngụy (1959-1964). Đây
là chủ đề mở đầu giới thiệu sự ra đời của Đoàn 559 trên tuyến đường chi viện
chiến lược Trường Sơn với khẩu hiệu “Đi không để dấu, nấu không để khói,
nói không thành tiếng” với phương thức vận chuyển vác bằng vai, thồ bằng
ngựa, voi và bằng xe đạp của bộ đội Trường Sơn. Chủ đề trưng bày này của
bảo tàng đã bổ sung thêm kiến thức cho học sinh về con đường chi viện của
miền Bắc cho tiền tuyến miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ. Học sinh sẽ
được mở rộng kiến thức về cuộc chiến tranh của đế quốc Mỹ bằng mọi cách
ngăn chặn sự chi viện của hậu phương với tiền tuyến khi thực hiện tinh thần
khẩu hiệu “Mở đường mà tiến, đánh địch mà đi” của cán bộ, chiến sĩ Trường
Sơn cũng như tinh thần dũng cảm, ngoan cường, ý chí quyết chiến, quyết
19
thắng đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ.
Ví dụ dạy bài 22: “ Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống đế
quốc Mỹ xâm lược. Nhân dân miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất (1965 -
1973)” (SGK Lịch sử lớp 12) phần “Chiến lược chiến tranh cục bộ”,trong
phòng trưng bày “Trường Sơn - nơi thử nghiệm chiến tranh điện tử của Mỹ”
học sinh sẽ được hiểu rõ hơn cuộc chiến tranh ác liệt của dân tộc ta khi phải
chống lại một siêu cường về kinh tế và quân sự như đế quốc Mỹ. Mô hình
“Cây nhiệt đới”, Mỹ đã sử dụng hệ thống điều khiển máy bay hiện đại để
hòng ngăn chặn con đường chi viện của ta. Để tăng cường khả năng ngăn
chặn các đoàn vận tải trên các tuyến đường Trường Sơn, quân đội Mỹ sử
dụng các máy bay vận tải như АС-119, АС-47, АС-130 trang bị một hệ thống
tác chiến điện tử rất hiện đại, hoạt động hiệu quả trong môi trường thiếu ánh
sáng và nhiễu loạn bởi các vụ nổ. Đó là các hệ thống TV quang học điện tử
nhạy sáng hoạt động trong điều kiện ánh sáng mờ, hệ thống radar và video
quan sát hồng ngoại FLIR vùng bán cầu phía trước của máy bay, hệ thống
"Black Crow" (quạ đen) phát hiện sự đột biến của từ trường (khi động cơ khởi
động và nổ máy, có hiện tượng đánh lửa ở bugi).
Ví dụ, ảnh “Đường 20 Quyết Thắng”: tuyến đường vượt đỉnh Trường
Sơn nối hậu phương với tiền tuyến, trên tuyến đường này có 3 trọng điểm
ATP, túc cua chữ A, ngầm TaLê đèo Phu-la-nhích. Năm 1966, để mở được
con đường này bộ đội Trường Sơn phải chọc thủng dãy núi hơn 100km. Và
hoàn thiện trong vòng chưa đầy 3 tháng. Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận xét
“ Con đường này là con đường kì công, kì tích, kì quan, là con đường huyết
mạch từ Đông sang Tây”. Ngay từ khi con đường mới được mở xong kẻ địch
đã phát hiện và liên tục đánh phá ngày đêm với đủ loại, đủ kiểu máy bay,kể cả
siêu pháo đài bay B52. Có ngày chỉ ở một trọng điểm đã bị chúng đánh 38
trận, chúng đánh từ bom nổ ngay đến bom chờ nổ, từ trường, bom bi, bom lá
và cả cây nhiệt đới. Ở cua chữ A, có đợt chúng tập trung B52 đánh phá 32
20
trận liên tiếp, có trận chúng trút một lúc hàng trăm tấn bom, làm cho hàng
chục kilomet vuông đang xanh tươi biến thành một vùng đỏ quạch, trơ trụi,
không một bụi cây, ngọn cỏ nào sống sót. Đất đã bị cày xới, nghiền nát thành
bột, lội bộ ngập đến nửa ống chân.
Phát triển kĩ năng:
Trong quá trình tìm hiểu và khai thác các tư liệu hiện vật ở bảo tàng
đường Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử ngoài việc góp phần hình thành
kiến thức lịch sử, giáo dục tư tưởng, đạo đức, còn góp phần rèn luyện kỹ
năng, phát triển các năng lực tư duy độc lập và sáng tạo của học sinh.
Sử dụng các tư liệu hiện vật ở bảo tàng trong dạy học lịch sử Việt Nam
góp phần rèn luyện cho học sinh thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp, so
sánh, khái quát hóa, trừu tượng hóa. Việc sử dụng tài liệu, hiện vật ở bảo tàng
trong dạy học lịch sử không dừng lại ở việc minh họa, tạo biểu tượng lịch sử mà
còn từng bước hình thành khái niệm giúp học sinh nắm vững đặc trưng bản chất,
mối liên hệ giữa các sự kiện lịch sử, rút ra bài học, quy luật lịch sử…
Qua tham quan bảo tàng kết hợp với hướng dẫn viên của bảo tàng,học
sinh được rèn luyện kĩ năng quan sát dựa trên các nguồn tư liệu được trưng bày
trong bảo tàng. Trên cơ sở đó, học sinh cũng được phát triển kĩ năng tưởng
tượng và diễn đạt trôi chảy, logic các vấn đề liên quan đến bài học lịch sử.
Ví dụ: Khi giáo viên giới thiệu hình ảnh “Đường ống dẫn dầu” được
bắt đầu từ biên giới Việt - Trung kéo dài đến miền Đông Nam Bộ, học sinh
được quan sát và trình bày những hiểu biết của mình về đường ống dẫn dầu
này. Đó là một dòng chảy huyền thoại được xây dựng nên bằng quyết tâm,
lòng dũng cảm, trí thông minh và cả sự hy sinh của cán bộ chiến sĩ ngành
xăng dầu Quân đội nhân dân Việt Nam. Có thể nói rằng đường ống xăng dầu
vào Nam là kỳ tích của cả dân tộc góp phần "đánh Mỹ và thắng Mỹ".
Đây cũng là con đường đầy huyền thoại mà người Mỹ không thể nào
biết rõ, bởi họ không thể nào tưởng tượng được rằng trong điều kiện kỹ thuật
21
của Việt Nam, lại bị bom đạn đánh phá liên tục bất cứ ở điểm nào mà Việt
Nam vẫn hình thành được một đường ống dẫn xăng dầu dài hàng nghìn
kilomet, lại còn nối với nhiều cảng nhỏ để tiếp nhận dầu từ các tàu biển...
Tuy nhiên, không chỉ người Mỹ, mà cả những nước bạn của Việt Nam
như Liên Xô, Trung Quốc, những người đã trực tiếp viện trợ và giúp đỡ cả
xăng dầu và vật tư cũng không hình dung Việt Nam có thể làm được một hệ
thống đường ống dẫn xăng dầu như thế. “Lần đầu tiên trong lịch sử chiến
tranh ở Việt Nam,tuyến đường ống dẫn xăng dầu từ hậu phương lớn vượt
Trường Sơn vào đến tuyến chiến lược tạo nên một nhân tố mới cực kì quan
trọng cho vận chuyển cơ giới với qui mô lớn” [19, tr. 37].
Trên cơ sở đó, bồi dưỡng cho các em lòng tự hào, ngưỡng mộ tài trí
cũng như công sức của bộ đội Trường Sơn và tình yêu quê hương, trách
nhiệm đối với xã hội.
Sử dụng các tư liệu, hiện vật ở bảo tàng trong dạy học lịch sử còn giúp
HS phát triển các năng lực tri giác, như quan sát, hình dung, tưởng tượng về
các sự kiện lịch sử một cách sinh động, cụ thể.
Ví dụ: Học sinh được tham quan các hiện vật trưng bày ngoài trời như
các loại xe, máy, phương tiện vận chuyển, đảm bảo giao thông,vũ khí chiến
đấu của bộ đội Trường Sơn đã sử dụng để bảo vệ tuyến đường. Hay xem
“Hầm chỉ huy Sở tiền phương của Bộ Tư lệnh Đoàn 559”, “cầu treo”, “phà
qua sông”… các em có thể thuyết trình nêu lên những khó khăn của bộ đội
Trường Sơn khi phải chống lại một đế quốc sừng sỏ trên thế giới với sức
mạnh về tài chính và quân sự.
Giáo dục tư tưởng,thái độ cho học sinh
Trong cuốn sách “Bảo tàng, di tích nơi khơi nguồn cảm hứng dạy và
học lịch sử cho học sinh phổ thông”, tác giả Nguyễn Thị Kim Thành đã nêu
lên chức năng giáo dục của bảo tàng: “Bảo tàng là cơ quan giáo dục công
cộng, là nơi lưu giữ những kí ức của các dân tộc, các nền văn hóa. Bảo tàng
22
còn là cơ quan văn hóa- giáo dục thực hiện chức năng giáo dục và tuyên
truyền, bảo tàng đã, đang và sẽ góp phần giáo dục làm nâng cao dân trí, tăng
cường sự hiểu biết, khơi dậy niềm tự hào về truyền thống yêu nước, giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc và xây dựng đất nước giàu đẹp. Cùng với các nhà văn
hóa, câu lạc bộ, thư viện, rạp hát, rạp chiếu phim và các khu vui chơi giải trí
khác, bảo tàng thuộc hệ thống giáo dục cho học sinh ngoài nhà trường, có
chức năng giáo dục quan trọng nhằm góp phần hoàn thiện nhân cách con
người” [tr.13].
Bảo tàng đường Hồ Chí Minh có rất nhiều hình ảnh cũng như hiện vật
chứa đựng nhiều cảm xúc với người tham quan và đặc biệt có tính giáo dục
cao đối với các thế hệ học sinh khi đến thăm bảo tàng.
Hình ảnh “Thùng phuy - hầm di động” là dụng cụ tự làm bằng vỏ phuy
xăng được bao quanh bên ngoài một lớp tre nứa của chiến sĩ D24 công binh
BT26 Đoàn 571 BTL 559, là phương tiện giúp bộ đội Trường Sơn tránh bị sát
thương khi tháo dỡ bom bi và các loại bom sát thương trong những năm 1968
đến năm 1972. Học sinh sẽ có một sự trân trọng, cảm phục trước sự sáng tạo
của bộ đội ta chống lại các loại vũ khí tối tân của kẻ thù.
Hình ảnh “Tuổi 20 ở Trường Sơn” với những cô gái luôn nở nụ cười
trước mưa bom, bão đạn của giặc trên tuyến đường huyền thoại đã cho học
sinh có cái nhìn lạc quan trong chiến tranh, thấy được sự hi sinh của của các
nữ chiến sĩ Trường Sơn. “Họ là những thanh niên rất trẻ, tuổi từ 17, 18 đến
30, đa số là nữ thanh niên” [7, tr. 35] nhưng họ luôn sẵn sàng hi sinh tuổi
thanh xuân của mình cho tiền tuyến, cho thắng lợi của cuộc chiến tranh chính
nghĩa. Hiện vật “Đôi dép cao su” của anh hùng Nguyễn Viết Sinh, thuộc Binh
trạm 3- Đoàn 559 sử dụng trong những năm vận chuyển hàng từ 1961 đến
1967, tổng cộng chặng đường đi bằng chu vi vòng quanh trái đất.Với hình ảnh
và chú thích như vậy học sinh sẽ cảm thấy sự nỗ lực,kiên trì vượt qua gian
khó của người chiến sĩ trước sự đánh phá ác liệt của Mỹ vào tuyến đường
cũng không ngăn được sự khó khăn, gian khổ và bước chân người lính.
23
Khi xem và được nghe giới thiệu các hiện vật “Dao quắm, dao tông,
dao găm” được bộ đội Trường Sơn sử dụng chặt cây, làm lán trại, “Thuyền
thúng” đưa hàng qua sông, “Cào sắt”, “Bừa san mặt đường ” của công binh…
học sinh sẽ thấy rõ những khó khăn, thiếu thốn của bộ đội Trường Sơn khi
phải đối đầu với những vũ khí hiện đại của kẻ thù, điều đó càng làm tăng
thêm tình cảm mến yêu của các em đối với sự hi sinh của các thế hệ cha anh
đi trước. “Từ đại ngàn Trường Sơn, bằng những chiến công thầm lặng của
mình, cán bộ, chiến sĩ đoàn 559 đã viết lên màn dạo đầu của bản trường ca
hào hùng “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” [19, tr. 62].
Khi học bài 22 (LSVN lớp 12) phần “Chiến lược chiến tranh cục bộ”,
học sinh được xem hình ảnh “Lính Mỹ chém giết dân ở Tây Ninh trong một
trận càn năm 1967” và hình ảnh người lính Mỹ cười đắc chí khi xách mảnh
xác một chiến sĩ giải phóng Việt Nam, hai hình ảnh đó sẽ làm cho học sinh
càng tăng thêm lòng căm thù giặc sâu sắc và những tội ác của chúng. Qua đó
cũng giáo dục được học sinh sự yêu chuộng hòa bình và trân trọng cuộc sống
mình đang có.
Hiện nay, trước tình hình thế giới và trong nước có nhiều diễn biến
phức tạp,chứa đựng nhiều yếu tố khó lường,các kẻ thù bên ngoài đang tìm
mọi cách phá hoại sự nghiệp đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, nói xấu
chế độ,phủ nhận những thành quả cách mạng mà chúng ta giành được,xuyên
tạc lịch sử,hạ thấp uy tín của các vĩ nhân và anh hùng dân tộc, muốn thiết lập
chế độ mới tư bản chủ nghĩa, thì công tác giáo dục chính trị - tư tưởng, nhất là
giáo dục truyền thống lịch sử, đặc biệt là thế hệ trẻ, cụ thể là học sinh,sinh
viên rất được Đảng và Nhà nước ta coi trọng.
“Thông qua những hoạt động mang tính đặc thù của mình, bảo tàng, di
tích đã tác động vào quá trình nhận thức, giáo dục truyền thống lịch sử, khơi
dậy niềm tự hào dân tộc, hướng tới những giá trị chân - thiện - mĩ đích thực
24
cho học sinh, sinh viên và thanh niên Việt Nam hiện nay” [22, tr.25].
1.1.4. Yêu cầu sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy học
lịch sử.
Tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh có rất nhiều nguồn tài liệu được trưng
bày bao gồm: tư liệu, hiện vật, phim ảnh... Các tài liệu hiện vật là minh chứng cho
quá trình ra đời, chiến đấu và trưởng thành của bộ đội Trường Sơn anh hùng “xẻ dọc
Trường Sơn đi cứu nước”. Mặc dù các tư liệu đó đã được chọn lọc và sắp xếp
khoa học theo tiến trình phát triển của lịch sử nhưng chúng ta không thể sử
dụng tất cả vào bài học. Do đó,để đạt được hiệu quả cao đòi hỏi người thực
hiện phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau:
1.1.4.1. Đảm bảo mục tiêu bài học
Mục tiêu bài học lịch sử “ chính là cái đích phải đạt đến mức độ được quyết
định, là sự cam kết của thầy và trò trong dạy học. Mục tiêu được xác định đúng là cơ
sở để giáo viên lựa chọn tài liệu lịch sử của bài-những sự kiện lịch sử cụ thể, những
biểu tượng, khái niệm” [6, tr. 33-34]. GV lựa chọn đúng nội dung khi xác định được
mục tiêu bài học sẽ làm cho kiến thức được khắc sâu, bài dạy có trọng tâm, tránh sự
lan man. GV chọn lọc tư liệu bảo tàng phù hợp với kiến thức của bài học nội khóa sẽ
làm nổi bật nội dung, kiến thức lịch sử, phát huy tính tích cực, sáng tạo trong tư duy
của học sinh. Ví dụ mục tiêu bài học là giáo dục lòng yêu nước cho học sinh thì GV
nên đưa các hình ảnh “giao liên gùi thồ”, “Các chiến sĩ phá bom mìn” , “Tuổi 20 ở
Trường Sơn” … học sinh sẽ thấy được những gian khổ, hiểm nguy và sự anh dũng,
yêu đời của các chiến sĩ nơi chiến trường đầy mưa bom bão đạn của kẻ thù. Như vậy
sẽ làm nổi bật được mục tiêu bài học đã đề ra.
1.1.4.2. Đảm bảo tính vừa sức của học sinh
Khi đã xác định được mục tiêu bài học cần phải đạt tới, GV cần lựa chọn kiến
thức sao cho phù hợp, có tính toàn diện, không tham kiến thức hoặc kiến thức quá
cao siêu so với tầm hiểu biết của học sinh sẽ làm cho giờ học lịch sử thêm nặng nề
hơn. Hình ảnh, hiện vật đưa ra đa phần học sinh phải hiểu được sự gắn kết của nó với
25
bài học. “Đồ dùng trực quan có vai trò rất lớn trong việc giúp học sinh nhớ kĩ, hiểu
sâu những hình ảnh, những kiến thức lịch sử. Hình ảnh được giữ lại đặc biệt vững
chắc trong trí nhớ chúng ta là hình ảnh mà chúng ta thu được bằng trực quan”. Từ đó
“nhìn vào bất kì đồ dùng trực quan nào học sinh cũng thích nhận xét, phán đoán, hình
dung quá khứ lịch sử được phản ánh, minh họa như thế nào. HS suy nghĩ và tìm cách
diễn đạt bằng lời nói chính xác, có hình ảnh rõ ràng, cụ thể về bức tranh xã hội đã
qua” [14, tr. 44]. Đối với giờ ngoại khóa hay giờ học nội khóa, GV cùng giới thiệu
các hình ảnh, tư liệu, hiện vật của bảo tàng đối với nhưng mỗi đối tượng học sinh lại
có câu hỏi và cách khai thác khác nhau để đảm bảo học sinh đều hiểu và trả lời được
nội dung bài học.
1.1.4.3. Xây dựng kế hoạch sử dụng
Khi tìm hiểu, nắm vững đặc điểm các nguồn tư liệu của bảo tàng và sự liên
quan của các nguồn tư liệu đến bài học lịch sử, GV sẽ xây dựng kế hoạch để sử dụng
cho phù hợp với từng bài, từng đối tượng học sinh. Trong bài học nội khóa, GV
cần lên kế hoạch cụ thể, có mục tiêu, yêu cầu rõ ràng cho từng công việc,
từng bước tiến hành; phải chú ý những điều kiện cụ thể liên quan tới việc tổ
chức sử dụng Bảo tàng trong dạy học lịch sử sao cho phù hợp, ít tốn kém mà
lại có hiệu quả.
GV phải xác định được mức độ của việc khai thác các tư liệu của bảo
tàng sao cho phù hợp với điều kiện của trường mà mình dạy. Tạo được độ
mềm dẻo, phù hợp với từng đối tượng HS trong quá học tập.
Trong học ngoại khóa tại bảo tàng, GV cần lên kế hoạch trước về việc
liên hệ với nhân viên bảo tàng, cách tổ chức, điều kiện đi lại của học sinh, tài
liệu, tài chính… để đảm bảo học sinh có điều kiện tốt nhất khi được tham
quan, học tập tại bảo tàng.
1.1.4.4. Đảm bảo tính sáng tạo, phát huy tính tích cực của học sinh
Đê phát huy tính sáng tạo, tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử, trước
hết GV phải thay đổi cách dạy của mình. GV nên đưa ra các hình thức dạy học phong
26
phú hơn, kích thích sự tìm tòi, sáng tạo của học sinh. Chuyển từ cách dạy thụ động
sang lấy học sinh làm trung tâm, GV là người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn tạo nên sự
tương tác tích cực giữa người dạy và người học. GV đưa ra các tư liệu, hình ảnh về
bảo tàng đường Hồ Chí Minh cần có sự hướng dẫn cụ thể, đặt ra các câu hỏi, các tình
huống để học sinh là người giải quyết.
GV dựa vào các tư liệu, hiện vật của bảo tàng, tổ chức nhiều hoạt động học tập
để học sinh thể hiện khả năng của mình. Ví dụ GV cho học sinh đóng vai phóng viên
chiến trường ghi lại những khó khăn, ác liệt của con đường huyền thoại hoặc dựa trên
các tư liệu bảo tàng, hay cho học sinh làm hướng dẫn viên để thuyết trình một hiện
vật, một hình ảnh hay một tư liệu của bảo tàng.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Thực trạng việc khai thác và sử dụng bảo tàng trong dạy học
lịch sử hiện nay
Tại Việt Nam, hệ thống bảo tàng khá phong phú, đa dạng xét về cả số
lượng cũng như đề tài trưng bày. Điển hình là Bảo tàng Lịch sử Việt Nam,
Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Bảo tàng Dân tộc học
Được hiểu là một thiết chế văn hóa của đất nước, các bảo tàng ở Việt Nam đã có
những đóng góp tích cực vào sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn
hóa dân tộc. Mỗi bảo tàng đều có những đặc trưng riêng, hiện vật của các bảo
tàng cũng được trưng bày rất đa dạng, phục vụ cho những nhu cầu và mục
đích khác nhau của công chúng như học tập, tham quan, giải trí…Bảo tàng là
nơi lưu giữ các hiện vật, những minh chứng sinh động nhất. Tuy nhiên hiện
nay các nguồn tư liệu của bảo tàng chưa được khai thác đúng mức để phát
huy được những vai trò của nó.
Hướng dẫn viên tại bảo tàng chỉ cần học thuộc những “bản thuyết
minh” mà những nhà nghiên cứu cung cấp cho họ, hay những bài viết trên
trưng bày là có thể hoàn thành một cách xuất sắc nhiệm vụ “tuyên truyền” của
mình. Cũng chính vì quan niệm “tuyên truyền” chứ không phải “giáo dục”,
27
với tính chất công việc đơn điệu, thiếu đa dạng, những nhân viên Phòng
Tuyên truyền phần nhiều thiếu tính sư phạm và tính chuyên nghiệp của một
người làm công tác giáo dục. Điều đó cũng khiến cho nhà trường ít gắn với
bảo tàng vì ít thấy hiệu quả của mỗi chuyến tham quan, ít thấy lợi ích của việc
tham quan bảo tàng đối với các chương trình vốn đã quá nặng ở nhà trường.
Tuy nhiên, chúng ta không thể không ghi nhận những kết quả mang tính giáo
dục mà phương pháp “kinh điển” này mang lại. Đó là những tri thức, những
câu chuyện kể rất hay, rất cảm động và rất hấp dẫn mà nhiều thuyết minh viên
đã để lại trong lòng công chúng.
Trong giai đoạn mới này, công chúng không còn hoàn toàn “thụ động”
nữa mà muốn được trải nghiệm, được giao tiếp, được đối thoại... Với xu
hướng nhận thức mới, khái niệm “tuyên truyền” dần được thay thế bằng khái
niệm “giáo dục”, tức là thay đổi phương pháp, hình thức tiếp cận để bảo tàng
có thể có nhiều hoạt động mang tính giáo dục đa dạng và chất lượng cao hơn
nhằm thu hút khách đến với mình và đóng góp nhiều hơn cho xã hội.
Trong những năm qua, nhiều bảo tàng, di tích của đất nước nói chung
và Thủ đô Hà Nội nói riêng đã phối hợp cùng với các trường THPT và ngược
lại, đã có nhiều trường phối hợp với bảo tàng để tiến hành nhiều hình thức hoạt
động nhằm giáo dục, thu hút HS tham gia và yêu thích tìm hiểu lịch sử, tìm hiểu
văn hóa của dân tộc.
Trong quá trình dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng ở trường
phổ thông có nhiều hình thức tổ chức. Trong đó, hình thức lên lớp là hình
thức tổ chức dạy học cơ bản, song không phải là duy nhất. “Lên lớp có thể
được tiến hành ở lớp học, hoặc ở địa điểm khác: Phòng thí nghiệm, vườn
trường, tại thực địa, nhà bảo tàng. Bên cạnh hình thức lên lớp còn có các hình
thức dạy học khác như: Tham quan học tập và hoạt động ngoài lớp…” [6,
tr.31]. Một trong những hình thức khác đó là tham quan, học tập tại bảo tàng,
di tích.
Từ lớp 6 đến lớp 9, học sinh cũng đã tiếp nhận tri thức lịch sử thông
28
qua các môn học khác như Tiếng Việt, Đạo đức, Tự nhiên và Xã hội Từ
những kiến thức khái quát ban đầu, đến các cấp học cao hơn, học sinh sẽ được tiếp
cận với các bài học chi tiết, cụ thể về lịch sử Việt Nam và lịch sử thế giới.
Nhận thức rõ vai trò của mình trong việc góp phần nâng cao chất lượng dạy và
học môn Lịch sử ở nhà trường phổ thông, trong những năm qua các trường phổ
thông trên cả nước đã có sự liên kết chặt chẽ với các bảo tàng để tổ chức đưa
học sinh đến tham quan, học tập với nhiều loại hình khác nhau.
Ví dụ khi dạy các bài học liên quan đến thời kì chống Mỹ cứu nước của
dân tộc, GV đưa HS đến tham quan, học tập tại các phòng trưng bày có liên
quan đến nội dung bài học của một số bảo tàng như: Bảo tàng Lịch sử Quốc
gia, Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, Bảo tàng Phòng không Không quân,
Bảo tàng đường Hồ Chí Minh Khi học về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc giáo viên có thể đưa học sinh đến với Bảo tàng Hồ Chí
Minh để học sinh được hiểu nhiều hơn về cuộc đời và những hoạt động của
Bác, qua đó HS sẽ có cái nhìn bao quát,sâu rộng về Người.
Đối với sinh viên các trường cao đẳng, đại học thì việc học qua "kênh"
bảo tàng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Các môn Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư
tưởng Hồ Chí Minh và Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
trở nên gần gũi, thực tế hơn với những giờ học, buổi học tại bảo tàng. Như
vậy, việc đổi mới cách dạy và học lịch sử thông qua "kênh" bảo tàng đã tạo
hứng thú cho học sinh, sinh viên, các em học môn Lịch sử dễ dàng hơn, còn
giáo viên cũng sẽ có những giờ lên lớp sinh động, hữu ích và hiệu quả hơn.
Để hỗ trợ cho việc dạy và học môn Lịch sử của các em đạt kết quả tốt,
ngoài việc đưa học sinh đến tham quan bảo tàng, một số bảo tàng còn phối hợp
với nhà trường phổ thông trên địa bàn sở tại hoặc một số tỉnh tổ chức các cuộc
trưng bày lưu động nhằm giúp các em học sinh có thể tiếp xúc với các sự kiện,
nhân vật lịch sử một cách cụ thể thông qua các panô ảnh. Với những cuộc
trưng bày lưu động, triển lãm chuyên đề, tuy chưa được quy mô, nhưng bước
29
đầu đã giúp học sinh của nhiều trường được tiếp xúc, cảm nhận, quan sát và
thu nhận được những hình ảnh, hiện vật và nội dung các câu chuyện lịch sử. Có
thể nhắc tới những cuộc trưng bày lưu động tiêu biểu dưới đây:
Ngày 1/5/2007, Bảo tàng Cách mạng Việt Nam (nay là Bảo tàng Lịch
sử Quốc gia) phối hợp với Phòng Giáo dục huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc
xây dựng triển lãm ảnh "Phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam
1858 - 1954" và "Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1946 - 1954". Cũng
trong năm 2007, Bảo tàng Bảo tàng Lịch sử Quốc gia cho ra mắt Câu lạc bộ "Em
yêu Lịch sử" với mục đích góp phần bổ sung kiến thức, nâng cao hiệu quả học
môn Lịch sử cho học sinh khối phổ thông. Sau hơn 7 năm hoạt động, Câu lạc
bộ đã tổ chức được gần 100 buổi sinh hoạt, 3 buổi tổng kết dành cho học sinh
các khối (Tiểu học, THCS, THPT), 2 cuộc Hội nghị, Hội thảo và bước đầu
hướng đến sinh viên một số trường đại học, cao đẳng ở Hà Nội. Cùng với việc
xây dựng nội dung, chương trình hoạt động, Câu lạc bộ còn luôn quan tâm
đến trình độ từng cấp học và lứa tuổi để tổ chức những hoạt động chơi cho
phù hợp. Mặt khác, Ban Chủ nhiệm Câu lạc bộ và giáo viên dạy môn Lịch sử
ở các trường đã từng bước triển khai cụ thể các chương trình với nhiều hình
thức như: tham quan, khám phá các câu chuyện lịch sử thông qua những hiện
vật, tài liệu tiêu biểu tại bảo tàng; tổ chức các trò chơi "Nhận diện Lịch sử",
"Theo dòng Lịch sử" gắn với các nhân vật, sự kiện điển hình của dân tộc; tổ chức
cho giáo viên đi tham quan di tích lịch sử cách mạng. Những hoạt động của
Câu lạc bộ này đã lôi cuốn được sự quan tâm, chú ý của nhiều tổ chức giáo dục,
các cơ quan văn hóa và các bảo tàng quốc gia Việt Nam. Đặc biệt, mô hình này đã
nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình của các em học sinh, phụ huynh và giáo
viên dạy môn Lịch sửở nhà trường phổ thông trên địa bàn Hà Nội.
Ngày 20/3/2009, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia đã tổ chức cuộc triển lãm
chuyên đề "Lịch sử Cách mạng Việt Nam (1945 - 1954)" tại trường THPT
Nam Sách (Hải Dương).
Năm 2010 và 2011, nhân các sự kiện lớn của đất nước, chào mừng Đại
30
lễ1000 năm Thăng Long Hà Nội, Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ XI của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia tiếp tục mang bộ triển
lãm lưu động đi trưng bày tại các trường THPT của tỉnh Thái Bình, Hà Giang
như: THPT Nội trú, Ngọc Hà, Lê Hồng Phong, Bắc Quang, Lê Quý Đôn,
Nguyễn Đức Cảnh, Nguyễn Thái Bình, Nguyễn Công Trứ. Thông qua hình
thức trưng bày chuyên đề, các em học sinh đã hiểu và rất ấn tượng, xúc động
về những năm tháng khó khăn của đất nước. Việc làm này cũng tạo cơ hội cho
các em hiểu rõ hơn về lịch sử nước nhà, mở rộng thêm kiến thức cho bản thân,
học hỏi nhiều điều hay, biết trân trọng truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà cha
ông ta đã xây dựng nên.
Hướng tới kỉ niệm 65 năm ngày Toàn quốc kháng chiến (19/12/1946 -
19/12/2011), Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam phối hợp với trường THPT
Chu Văn An (Hà Nội) tổ chức triển lãm chuyên đề "Âm vang lời thề quyết tử"
từ ngày 1/11 đến 8/11/2011. Đây là một hoạt động có ý nghĩa giáo dục lòng
yêu nước, lòng tự hào dân tộc, yêu thích môn Lịch sử trong các em học sinh -
thế hệ tương lai của đất nước. Trong thời gian triển lãm, các lớp có tiết học môn
Lịch sử ở trường đều đến xem triển lãm, được nghe thuyết minh để các em hiểu
rõ và bổ trợ tốt hơn cho bài học trên lớp. Bảo tàng đã kết hợp cho các em xem
phim tư liệu về cuộc đấu tranh của nhân dân ta trong thời kì kháng chiến
chống thực dân Pháp, về truyền thống hào hùng của Quân đội nhân dân Việt
Nam nhằm tạo cho các em một không khí hứng khởi khi học môn Lịch sử.
Ngay trong ngày đầu tiên, triển lãm đã phục vụ 800 lượt học sinh. Theo lịch
ngoại khóa của nhà trường thì dự kiến tổng số học sinh đến tham quan, học tập
tại triển lãm sẽ lên đến 6000 lượt giáo viên và học sinh.
Ngày 6/12/2012,Bảo tàng lịch sử Quốc gia đã tổ chức buổi sinh hoạt
với chủ đề “Bầu trời Hà Nội - 12 ngày đêm” dành cho học sinh trường THPT
Trần Phú và THPT Thăng Long. Buổi sinh hoạt nhằm góp phần giáo dục tinh
thần yêu nước, giữ gìn và phát huy truyền thống hào hùng của thủ đô Hà Nội
trong 12 ngày đêm chiến đấu chống lại cuộc tập kích bằng chiến lược B52 của
31
Mỹ cuối năm 1972.
Qua các buổi triển lãm và sinh hoạt đã mang lại cho các em những giờ
học ngoại khóa bổ ích, ý nghĩa. Khi được hỏi, tất cả các học sinh đều có
chung mong muốn được học những giờ sử bổ ích, lí thú như vậy,do đó việc
học lịch sử không còn nặng nề về ngày tháng, sự kiện, không còn trìu tượng
như trong suy nghĩ của các em.
1.2.2. Thực trạng việc sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong
dạy và học Lịch sử Việt Nam thời kì 1954- 1975
1.2.2.1.Mục đích khảo sát
Sử dụng các tư liệu, hiện vật ở bảo tàng trong dạy học lịch sử đóng vai
trò quan trọng để học sinh có thể chiếm lĩnh tri thức mới, mở rộng hiểu biết về
lịch sử, nâng cao hiệu quả bài học lịch sử. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay,
việc sử dụng Bảo tàng nói chung, Bảo tàng đường Hồ Chí Minh nói riêng chưa
được phổ biến và chưa được quan tâm đúng mức, HS cũng chưa được tiếp xúc
học tập nhiều với các tư liệu ở Bảo tàng, chưa được học tập tại bảo tàng một
cách thường xuyên. Để làm sáng tỏ vấn đề này, chúng tôi đã tiến hành điều tra,
khảo sát thực tiễn ở một số trường trường THPT ở Hà Đông làm cơ sở cho
những kết luận và định hướng cho các biện pháp sư phạm trong đề tài nghiên
cứu của mình.
Việc điều tra, khảo sát được tiến hành ở các trường THPT khu vực Hà
Đông, nơi có điều kiện tham quan học tập tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh:
THPT Trần Hưng Đạo, THPT Lê Qúy Đôn, THPT Quang Trung.
Về phương pháp tiến hành điều tra bằng phiếu khảo sát lấy ý kiến của
200 học sinh lớp 12 và 14 giáo viên các trường ở địa bàn nêu trên.
1.2.2.2. Nội dung khảo sát
Nội dung điều tra, khảo sát tập trung vào các vấn đề cơ bản sau:
Đối với GV: Tìm hiểu quan niệm của GV về sử dụng bảo tàng trong dạy
học lịch sử, sự cần thiết sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy học
32
lịch sử, các cách thức GV đã hoặc dự kiến sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí
Minh trong dạy học ngoại khóa, nội khóa. Điều tra khảo sát còn tập trung vào
tìm hiểu sự quan tâm của GV với bảo tàng đường Hồ Chí Minh.Đánh giá hiệu
quả sử dụng các tư liệu, hiện vật tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy
học với các hình thức khác nhau. Đồng thời còn khảo sát những khó khăn,
thuận lợi và đề xuất của GV trong quá trình sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí
Minh trong dạy học Lịch sử. (Phụ lục 1).
Đối với HS: Nội dung điều tra, khảo sát tập trung vào mức độ cần thiết
của việc sử dụng bảo tàng trong dạy học lịch sử ở trường THPT, mức độ quan
tâm của HS về bảo tàng đường Hồ Chí Minh, các cách thức khai thác và mức
độ hiệu quả khi sử dụng bảo tàng đường HCM trong dạy học lịch sử. Bên
cạnh đó điều tra, khảo sát cũng tìm hiểu những khó khăn, thuận lợi mà các em
gặp phải khi tham gia học tập và tham quan tại bảo tàng. (Phụ lục 2)
1.2.2.3. Kết quả khảo sát
Với số lượng phiếu khảo sát của GV là 12, của HS là 200, sau khi đã tiến
hành khảo sát GV và HS ở ba trường THPT ở địa bàn quận Hà Đông - Hà Nội
(nơi gần bảo tàng đường Hồ Chí Minh), tổng hợp kết quả thu được,qua phân
tích chúng tôi khái quát như sau:
Thứ nhất, quan niệm của GV về sử dụng bảo tàng trong dạy học Lịch sử
và quan niệm của GV, HS về mức độ cần thiết khi sử dụng bảo tàng trong dạy
học lịch sử.
Nội dung khảo sát còn tập trung vào vấn đề sau:
- Quan niệm của GV về sử dụng bảo tàng trong dạy học Lịch sử.
- Sự cần thiết của việc sử dụng bảo tàng trong dạy học lịch sử ở trường
phổ thông (Rất cần thiết/ cần thiết/ không cần thiết).
- Mức độ hiệu quả của việc sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong
33
DHLS (Rất hiệu quả/ hiệu quả/ bình thường/ ít hiệu quả/ không hiệu quả).
100% GV của ba trường đều có quan niệm đúng về sử dụng bảo tàng
trong dạy học lịch sử “là phương tiện trực quan có giá trị trong giảng dạy,
cung cấp nguồn kiến thức phong phú cho học sinh”.
Kết quả cho thấy 41,7% GV cho rằng “rất cần thiết” và 58,3% cho
rằng “cần thiết” sử dụng bảo tàng trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông.
Đối với HS, các em đã đánh giá được mức độ cần thiết khi sử dụng bảo
tàng trong dạy học lịch sử như sau: Đa số HS đều cho rằng việc sử dụng bảo
tàng trong dạy học Lịch sử là cần thiết ( 72,5 %), rất cần thiết (24%) và 3,5%
cho rằng không cần thiết. Từ kết quả khảo sát, có thể thấy rằng đa số GV và HS
đều nhận thức được sự cần thiết của việc sử dụng bảo tàng trong dạy học lịch
sử.
Biểu đồ 1.1. Tổng hợp ý kiến GV và HS về sự cần thiết của việc sử dụng
bảo tàng trong DHLS ở trƣờng phổ thông.
Điều đó cũng được thể hiện trong việc đánh giá của các thầy, cô về
mức độ hiệu quả, hay nói cách khác là đánh giá về ý nghĩa của việc sử dụng
34
bảo tàng trong DHLS.
Bảng 1.1. Tổng hợp ý kiến GV và HS về hiệu quả sử dụng bảo tàng
đƣờng Hồ Chí Minh trong DHLS.
Hiệu quả
Rất hiệu
Bình
Ít hiệu
Không
quả
thƣờng
quả
hiệu quả
Tiêu chí
GV HS GV HS GV HS GV HS GV HS
Gây hứng thú học
66,7 41,5 25,0 45,0
8,3 13,5
0
0
0
0
tập cho HS
Giáo dục truyền
thống yêu nước
75,0 45,5 25,0 51,0
0
3,5
0
0
0
0
cho HS
Rèn các kĩ năng
41,7 13,5 25,0 46,5 33,3 26,5
0 13,5
0
0
thực hành cho HS
Khắc sâu kiến
thức, mở rộng
50,0 35,5 33,3 61,0 16,7
3,5
0
0
0
0
hiểu biết cho HS
Qua bảng số liệu trên cho thấy, đa số GV(66,7%) và HS (41,5%) cho
rằng sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh “rất hiệu quả” trong việc gây sự
hứng thú trong học tập bộ môn lịch sử, chỉ có (8,3%) GV và (13,5%). GV và
HS đều đánh giá việc sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong DHLS đã có
tác động lớn tới việc giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh (75,0 %),
HS (45,5%) cho là rất hiệu quả, các em trực tiếp được nhìn, được nghe và các
em cũng sẽ tự có những cảm nhận riêng. Tuy nhiên việc “rèn các kĩ năng thực
hành cho HS” thì sự chênh lệch nhau rất lớn giữa GV (41,7%) rất hiệu quả
và HS là (13,5%) và cũng có tới (13,5%) HS cho rằng ít hiệu quả. Do vậy
trong quá trình giảng dạy và hướng dẫn học sinh về kiến thức, GV cũng chưa
chú ý tới việc rèn các kĩ năng thực hành bộ môn cho học sinh.
Mức độ “Khắc sâu kiến thức,mở rộng hiểu biết cho HS” khi sử dụng
35
bảo tàng trong dạy học lịch sử là “rất hiệu quả” GV (50%), HS (35,5%),
“hiệu quả” GV (33,3%), HS (61%), mức độ “bình thường”GV (16,7%), HS
(3,5%).
Thứ hai, thực trạng sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong DHLS
ở trường THPT.
Nội dung điều tra khảo sát tập trung vào những vấn đề sau:
- Mức độ GV và HS quan tâm đến bảo tàng đường Hồ Chí Minh (Đã
từng đến/ chưa từng đến).
- Mức độ hứng thú cuả HS khi GV sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí
Minh trong DHLS (Rất hứng thú/ hứng thú/ bình thường/ không hứng thú).
- Các hình thức sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh và nhu cầu của
HS đối với các hình thức tổ chức hoạt động ngoại khóa Lịch sử tại Bảo tàng
đường Hồ Chí Minh.
Thông qua mức độ,tần suất của GV đến bảo tàng đường Hồ Chí Minh
thì 91,6 % GV “đã từng đến”, 8,4% “chưa từng đến” bảo tàng đường Hồ Chí
Minh và có 58,3% GV “đã sử dụng” bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong
những bài học có liên quan, 16,7% “thường xuyên sử dụng”, 8,3% “chưa sử
dụng”.
Điều đó cho thấy GV dạy môn lịch sử cũng đã biết đến bảo tàng đường
Hồ Chí Minh và đã sử dụng bảo tàng vào trong dạy học lịch sử. Tuy nhiên
mỗi GV lại có các cách thức sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh khác nhau,
chủ yếu GV cho HS “nghe hướng dẫn viên thuyết minh” (50%), “tham quan”
(33,4%), còn lại là các hoạt động khác như: Sưu tầm tư liệu bảo tàng, tổ chức
các trò chơi…Cách thức sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh còn chưa
phong phú, chưa tạo được sân chơi và chưa phát huy được khả năng sáng tạo,
sự hứng thú cho HS.
Đối với HS, mức độ quan tâm đối với bảo tàng đường Hồ Chí Minh
qua khảo sát đã thu được kết quả có 91,6% HS “đã từng đến” bảo tàng, chỉ có
36
8,4% HS “chưa từng đến”. Điều này cho thấy phần lớn HS khối 12 trong khu
vực ba trường khảo sát đều đã biết đến bảo tàng đường Hồ Chí Minh. Lí do là
bảo tàng gần nơi các em sinh sống và thường vào các dịp lễ lớn nhà trường,
đoàn thanh niên, các tổ bộ môn cũng thường xuyên cho các em đến đây để
tham quan và dâng hương. Trong số các em đã từng đến, các em chỉ dừng lại
ở việc tham quan và nghe hướng dẫn viên thuyết minh chứ cũng chưa có
những hình thức tổ chức học tập khác.
Biểu đồ 1.2. Tổng hợp ý kiến GV và HS về sự quan tâm đối với bảo tàng
đƣờng Hồ Chí Minh (%)
Đối với các hoạt động ngoại khóa Lịch sử tại bảo tàng, phần lớn GV
thấy phù hợp với hoạt động “cùng các bạn nghe HDV thuyết minh” (33,3%),
“Tham quan”(41,6%) “sưu tầm các tư liệu tại bảo tàng” (8,4% ), tổ chức trò
chơi (16,7% ). Lý giải thực trạng trên, các thầy cô cho biết chủ yếu chỉ tổ chức
ngoại khóa cho HS với hình thức tham quan và nghe hướng dẫn viên thuyết
minh, các hoạt động khác trong quá trình tổ chức công tác ngoại khóa cho HS
gặp rất nhiều khó khăn: Tốn khá nhiều thời gian, công sức và cần có sự cho
phép của nhà trường, sự phối hợp nhiệt tình của các thầy cô trong tổ bộ môn,
của phụ huynh HS. Vì vậy, để hoạt động này đem lại hiệu quả cao là một vấn
37
đề không đơn giản.
Về phía HS, khi được hỏi về các hình thức hoạt động ngoại khóa tại bảo
tàng đường Hồ Chí Minh mà em muốn tham gia, kết quả cho thấy đa số HS
thích tham quan (36,5%), tham gia các trò chơi (46%), “cùng các bạn nghe
HDV thuyết minh” (10,5%), “sưu tầm tư liệu bảo tàng” (7,0%). Những số liệu
trên cho thấy sự chênh lệch giữa lựa chọn của GV và HS khi tham gia hoạt
động ngoại khóa tại bảo tàng. Vậy để có một giờ học lịch sử trong một không
gian thoải mái, phát huy được tính sáng tạo qua các trò chơi, GV nên thiết kế
trò chơi phù hợp và có liên quan đến bài học lịch sử sẽ thu hút và tạo được sự
hứng thú cho học sinh.
Bảng 1.2. Tổng hợp ý kiến GV và HS về hình thức hoạt động ngoại khóa
tại bảo tàng đƣờng Hồ Chí Minh (%)
Hình thức hoạt động G. viên H. sinh
Cùng các bạn nghe HDV thuyết minh 33,3 10,5
Tham quan các tư liệu,hiện vật tại bảo tàng 41,6 36,5
Sưu tầm,tìm hiểu lịch sử thông qua các tư liệu,hiện vật 8,4 7,0
Tham gia các trò chơi tổ chức tại bảo tàng 16,7 46,0
Khảo sát về đánh giá mức độ hứng thú của HS đối với các cách thức sử
dụng bảo tàng vào dạy học nội khóa và ngoại khóa môn Lịch sử thì GV cho
rằng đa số HS “rất hứng thú” với các hoạt động “tham quan ” (66,7%), trải
nghiệm sáng tạo (41,7%), và tổ chức các trò chơi (41,7%), hoạt động nhóm
(16,7%), trao đổi thảo luận(8,3%) và dạy học dự án (8,3%). Bên cạnh đó, GV
cũng cho rằng HS hứng thú với các hình thức tham quan (33,3%), trải nghiệm
sáng tạo, tổ chức các trò chơi (58,3%), dạy học dự án (83,3%), hoạt động nhóm
(83,3%), trao đổi thảo luận (58,3%), có (33,4%) GV cho rằng hình thức trao
đổi thảo luận ở mức bình thường. Qua đó có thể thấy GV đã hiểu được tâm lí,
sở thích, hứng thú của HS khi tham gia các hoạt động tại bảo tàng đường Hồ
Chí Minh, trên cơ sở đó sẽ giúp cho GV đưa ra được những hình thức dạy học
38
phù hợp, thu hút HS tham gia.
Thứ ba, những thuận lợi, khó khăn và đề xuất của GV, HS khi sử dụng
bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy học Lịch sử.
Thông qua khảo sát điều tra, chúng tôi thấy có một số thuận lợi và khó
khăn đối với GV.
Về thuận lợi:
- Tư liệu bảo tàng phong phú, cung cấp cho GV nhiều kiến thức và có
phương pháp dạy học lịch sử phù hợp.
- Đội ngũ GV Lịch sử trẻ trung, nhiệt huyết, năng động, sáng tạo và
nắm bắt được tâm lý HS, đa số ý kiến GV và HS lựa chọn, đánh giá rằng các
trò chơi trải nghiệm tại bảo tàng là hoạt động thu hút được đông đảo HS tham
gia và phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của các em. Phát huy
phương pháp dạy học tích cực, lấy người học làm trung tâm, hiểu được nhu
cầu của người học cùng với sự sáng tạo của mình, chắc chắn các thầy cô giáo
sẽ là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp đổi mới giáo dục ở trường THPT.
- Có nhiều HS yêu thích và muốn tìm hiểu lịch sử, các em đã chủ động
chịu khó, có tư duy và khả năng sáng tạo trong môn học.
Về khó khăn:
GV cũng thấy có những khó khăn nhất định khi sử dụng bảo tàng
đường Hồ Chí Minh trong DHLS ở trường THPT như sau:
- Không có thời gian để sắp xếp, tổ chức các hoạt động học tập tại bảo
tàng một cách thường xuyên.
- GV còn lúng túng khi sử dụng các phương pháp để sử dụng bảo tàng
trong DHLS cho phù hợp. Vận dụng còn hạn chế, chưa tạo được sự hứng thú,
tích cực học tập cho HS.
- Khó tổ chức và quản lí HS ở một không gian rộng khi tổ chức hoạt
động ngoại khóa, kinh phí tổ chức cũng là sự cản trở đối với GV khi cho HS
tham gia hình thức học tập này.
Với những khó khăn nêu trên, GV có một số đề xuất để việc sử dụng
39
bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong DHLS có hiệu quả: Thường xuyên áp
dụng trong những bài học có liên quan, nhà trường cần hỗ trợ thêm kinh phí
cho hoạt động dạy học ngoại khóa và đầu tư trang thiết bị hiện đại để dạy học
có hiệu quả…
Đối với HS, khi được hỏi về những thuận lợi và khó khăn khi được GV
sử dụng bảo tàng trong DHLS, các em đã cho biết: Hàng năm nhà trường và
Đoàn thanh niên đều tổ chức tham quan tại bảo tàng nên HS có nhiều cơ hội
để tham gia các hoạt động cùng với các tài liệu phong phú của bảo tàng.
HS được học tập chủ động, sáng tạo và hứng thú hơn với các tư liệu
sống động, kích thích sự tò mò, say mê môn học. Bên cạnh đó, HS được sự
hướng dẫn rất nhiệt tình, có trình độ, có trách nhiệm của thầy cô dạy môn
Lịch sử. Môn học đã giúp các em mở rộng kiến thức, học lịch sử dễ dàng hơn
và rèn luyện được các kĩ năng học tập bộ môn.
Khó khăn mà HS gặp phải khi GV sử dụng bảo tàng trong DHLS:
Thời gian trên lớp (45 phút), không cho phép các em vừa học kiến thức
bài học, vừa tổ chức được các hình thức học tập khác.
Việc quản lí lớp rất khó khăn trong việc đi lại, tập hợp HS sau mỗi thời
gian giải lao hay sau mỗi hoạt động học tập.
Có nhiều ý kiến đề xuất rất tích cực từ phía HS qua phiếu khảo sát. HS
muốn được đi tham quan nhiều hơn, tổ chức nhiều trò chơi phong phú, sử
dụng bảo tàng hấp dẫn hơn trong bài học Lịch sử.
1.2.2.4. Một số đánh giá chung về việc sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí
Minh trong dạy học lịch sử.
Đa số GV được khảo sát đã có quan điểm nhận thức đúng đắn về vai trò,
ý nghĩa của việc sử dụng bảo tàng trong DHLS để nâng cao hiệu quả bài học
lịch sử và phát huy được tính tích cực, sáng tạo của học sinh, do đó đã có
nhiều GV cố gắng đưa nguồn tư liệu phong phú của bảo tàng vào dạy học
lịch sử nội khóa và sử dụng bảo tàng để dạy ngoại khóa, tạo động lực cho các
40
em có hứng thú và thêm yêu thích môn học của mình.
GV cũng đã đánh giá được mức độ hiệu quả việc sử dụng các hình ảnh,
hiện vật tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử và những hoạt
động ngoại khóa phù hợp có thể tổ chức tại bảo tàng. Tuy nhiên rất nhiều GV
còn lúng túng chưa biết cách sử dụng tư liệu bảo tàng vào bài học như thế nào
cho phù hợp, và mặc dù bảo tàng đường Hồ Chí Minh rất gần với địa điểm
một số trường nhưng GV cũng ít quan tâm để tổ chức dạy học hoặc cho học
sinh thăm quan tại bảo tàng để mở rộng kiến thức lịch sử, tổ chức các trò
chơi, các hoạt động trải nghiệm sáng tạo… Các em đều thấy rõ vai trò, hiệu
quả của việc sử dụng các tư liệu bảo tàng vào bài học lịch sử nhưng mới chỉ ở
khía cạnh khắc sâu kiến thức, mở rộng hiểu biết cho học sinh chứ chưa hướng
đến rèn các kĩ năng thực hành.
HS chưa có thói quen học tập tại bảo tàng với các hoạt động khác nhau
trong buổi ngoại khóa. Cách thức sử dụng bảo tàng của GV chưa được phong
phú, chưa có tính sáng tạo, chỉ dừng lại ở việc cho HS tham quan, nghe HDV
thuyết minh. Trong khi đó nhu cầu của các em khi đến bảo tàng rất thích tổ
chức các trò chơi, các hoạt động trải nghiệm sáng tạo,các em thích vận động
và sáng tạo nhiều hơn.
Từ việc tìm hiểu thực trạng việc khai thác và sử dụng tư liệu bảo tàng
đường Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử ở trường THPT Trần Hưng Đạo và
một số trường trong khu vực đều chưa có hiệu quả, do đó muốn sử dụng bảo
tàng có hiệu quả cần đưa ra các hình thức,phương pháp phù hợp. Đây chính là
cơ sở giúp tôi đi sâu giải quyết những nội dung cơ bản trong Chương 2: Một
số biện pháp sử dụng hiệu quả bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy học
41
lịch sử Việt Nam thời kì 1954 - 1975.
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1
Việc sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy học môn lịch sử
ở trường THPT được đánh giá là rất cần thiết trong việc đổi mới phương pháp
dạy học, cung cấp kiến thức, phát huy tính tích cực, sáng tạo và giáo dục học
sinh. Qua đó, học sinh có sự yêu thích, hứng thú với môn học và sự lựa chọn
trong tương lai.
Qua nghiên cứu lí luận và thực tiễn của đề tài đã cho thấy Bảo tàng
đường Hồ Chí Minh có ý nghĩa to lớn trong việc làm phong phú kiến thức lịch
sử, giáo dục các giá trị lịch sử văn hóa truyền thống của dân tộc cho HS; Bảo
tàng đường Hồ Chí Minh với nhiều nguồn tư liệu vô giá đã phục vụ cho GV và
HS tìm hiểu về chặng đường lịch sử gian khó nhưng hào hùng của dân tộc qua
con đường huyền thoại - đường Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, việc tham quan và sử
dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử vẫn còn hạn chế,
chưa thu hút được học sinh tham gia và còn nhiều khó khăn cần được giải
quyết cho phù hợp với việc học tập của học sinh.
Đó là những cơ sở để chúng tôi đề xuất các biện pháp sử dụng bảo tàng
đường Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử Việt Nam thời kì 1954 - 1975 ở
42
trường THPT.
CHƢƠNG 2
MỘT SỐ BIỆN PHÁP SỬ DỤNG BẢO TÀNG ĐƢỜNG HỒ CHÍ MINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM THỜI KÌ 1954 – 1975
Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRẦN HƢNG ĐẠO-
HÀ ĐÔNG- HÀ NỘI.THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM.
2.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung của phần lịch sử Việt Nam thời kì
1954-1975
2.1.1. Vị trí và mục tiêu
2.1.1.1. Vị trí
Lịch sử Việt Nam thời kì 1954 - 1974 thuộc chương IV “Việt Nam từ
năm 1954 đến năm 1975” nằm trong chương trình sách giáo khoa Lịch sử 12,
nhà xuất bản Giáo dục (2016). Đây là thời kì có vị trí quan trọng trong toàn
bộ tiến trình lịch sử Việt Nam, thời kì tiếp nối cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp của nhân dân ta giành thắng lợi (1946 - 1954), đưa lịch sử nước ta
chuyển sang thời kỳ mới với hai nhiệm vụ chiến lược cho hai miền: cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc; cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam. Đó là một quãng đường kéo dài trong suốt 20 gian khổ, trong đó
miền Bắc vừa sản xuất vừa chống lại sự phá hoại bằng không quân của Mỹ,
đồng thời giữ vững vai trò hậu phương cho tiền tuyến miền Nam. Nhân dân
cả hai miền đều trực tiếp tiến hành cuộc chiến tranh chống xâm lược của đế
quốc Mỹ và tay sai, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
tiến tới thống nhất đất nước, Bắc - Nam thu về một mối.
Nội dung của thời kì lịch sử này trong SGK đã được phân ra trong ba
bài học: Bài 21, 22 và bài 23. Khi phân tích nội dung từng bài trong chương
IV này chúng ta sẽ thấy rõ vị trí, ý nghĩa của giai đoạn lịch sử (1954-1975).
Từ đó, giúp học sinh nhận thức được cuộc đấu tranh gian khổ nhưng oanh liệt
của quân dân hai miền đất nước phải chống lại một đế quốc to lớn, sừng sỏ
43
trên thế giới như đế quốc Mỹ. Học Lịch sử Việt Nam giai đoạn này sẽ thấy
được bức tranh toàn cảnh tội ác của kẻ thù và cũng thấy những chiến công của
quân dân ta cùng với ý nghĩa lớn lao trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước của toàn dân tộc. Học sinh sẽ thấy được rõ vai trò lãnh đạo tài tình, sáng
suốt của Đảng, của Bác Hồ. Củng cố cho học sinh khái niệm: Cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân; chiến tranh nhân dân; bạo lực cách mạng… Từ đó giáo
dục tư tưởng, tình cảm, thái độ và phẩm chất đạo đức, niềm tin tưởng cho học
sinh vào sự lãnh đạo của Đảng.
2.1.1.1. Mục tiêu
- Về kiến thức:
+ Trình bày được tình hình nước ta sau hiệp định Giơnevơ năm 1954,
đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị khác
nhau. Trên cơ sở tình hình ở hai miền, Đảng ta đã vạch ra nhiệm vụ cách
mạng mỗi miền.
+ Nêu được âm mưu, thủ đoạn của Mỹ qua các chiến lược ở miền Nam
và chiến tranh phá hoại ra miền Bắc.
+ Đánh giá được tinh thần đấu tranh của nhân dân ta ở hai miền đất
nước chống lại các âm mưu, chiến lược của Mỹ làm nên chiến thắng cuối
cùng, thống nhất đất nước, Bắc - Nam thu về một mối.
+ Phân tích được mối quan hệ gắn bó của nhân dân miền Bắc với tiền
tuyến miền Nam và vai trò của Đảng với việc chỉ đạo kịp thời, sáng suốt là
nguyên nhân quyết định tới sự thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ.
- Về kĩ năng:
+ Phát triển kĩ năng nhận thức, đánh giá, so sánh các vấn đề, các sự
kiện lịch sử.
+ Quan sát, sử dụng bản đồ, tranh ảnh, lập niên biểu các sự kiện lịch sử.
+ Tự học, tự nghiên cứu, làm việc với nguồn sử liệu ngoài SGK.
+ Thuyết trình, giao tiếp, làm việc nhóm
44
- Về thái độ, tư tưởng, tình cảm:
+ Bồi dưỡng tình yêu quê hương, đất nước, tự hào về những thắng lợi
oanh liệt của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và sự
biết ơn với các anh hùng, liệt sĩ.
+ Lên án chiến tranh xâm lược phi nghĩa, yêu mến và bảo vệ nền hòa
bình của nhân loại.
+ Giáo dục niềm tin vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
+ Có thái độ tôn trọng, giữ gìn các di sản văn hóa lịch sử của dân tộc.
2.1.2. Nội dung cơ bản của lịch sử Việt Nam thời kì 1954 – 1975.
Nội dung cơ bản của lịch sử Việt Nam thời kì 1954- 1975 nằm trong
chương IV của SGK Lịch sử lớp 12 - chương trình chuẩn. Được chia làm 3
bài (bài 21, 22 và 23). Mỗi bài đều có một lượng kiến thức sâu, rộng giúp học
sinh có cái nhìn toàn diện về tình hình nước ta sau hiệp định Giơnevơ năm
1954 đến năm 1975 khi đất nước thống nhất hoàn toàn.
Sau hiệp định Giơnevơ năm 1954, đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm
hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau, Đảng đã đề ra nhiệm vụ
cho từng miền: Miền Bắc khôi phục kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội,
miền Nam tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất
đất nước.
Cách mạng miền Nam từ giữa năm 1954 chuyển từ đấu tranh vũ trang
sang đấu tranh chính trị chống Mỹ - Diệm, đòi thi hành hiệp định Giơnevơ
năm 1954, bảo vệ hòa bình, giữ gìn và phát triển lực lượng cách mạng.Từ
cách mạng dân chủ nhân dân đã phát triển lên khởi nghĩa đồng loạt trong
phong trào Đồng khởi (1959- 1960), và chiến tranh cách mạng từ năm 1961.
Từ năm 1961 đến 1975, trải qua các giai đoạn lịch sử, quân dân ta đã đánh
bại các kế hoạch chiến lược của 5 đời tổng thống Mỹ nối chân nhau thực
hiện.Năm 1961 - 1965: Với những chiến thắng mang nhiều dấu ấn như trận
45
Ấp Bắc, Bình Giã quân ta đánh bại chiến lược ”chiến tranh đặc biệt” của Mỹ.
Năm 1965 - 1968: Mỹ tiến hành chiến lược ” chiến tranh cục bộ”, với thắng
lợi ở trận Vạn Tường, hai mùa khô (1965 - 1966; 1966 - 1967) và đặc biệt là
cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân năm 1968 ta buộc Mỹ phải thất bại trong
chiến lược này và phải đàm phán với ta ở Pa-ri để bàn về chấm dứt chiến
tranh ở Việt Nam. Năm 1969 - 1973: Với sự kết hợp của ba nước Đông
Dương, ta đã giành thắng lợi trong chiến lược Việt Nam hóa và Đông Dương
hóa chiến tranh của Mỹ.Từ năm 1973 đến năm 1975: Hiệp định Pa-ri về Việt
Nam được kí kết, quân Mỹ cùng với đồng minh của Mỹ đã rút khỏi nước ta
làm so sánh lực lượng ở miền Nam có lợi cho cách mạng, quân dân miền
Nam đứng lên chống quân Ngụy và giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc tổng
tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975.
Nhiệm vụ của miền Bắc là khôi phục kinh tế, đưa miền Bắc đi lên chủ
nghĩa xã hội. Nhân dân miền Bắc đã hoàn thành cải cách ruộng đất, khôi phục
kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh (1954- 1957), cải tạo quan hệ sản xuất
và bước đầu phát triển kinh tế- xã hội (1958- 1960). “Miền Bắc- hậu phương
lớn của cả nước được xây dựng toàn diện,củng cố vững chắc kinh tế, xã hội
(1960- 1965) phát triển đã tạo điều kiện thuận lợi để Đảng và nhà nước ta
củng cố quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, đẩy mạnh chi
viện sức người, sức của cho cuộc kháng chiến ở miền Nam” [3, tr.102]. Khi
Mỹ mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại ra miền Bắc bằng không quân và hải
quân lần thứ nhất bắt đầu ngày 5/8/1964, chính thức ngày 7/2/1965 và lần thứ
hai bắt đầu từ ngày 6/4/1972, chính thức ngày 16/4/1972, nhân dân miền Bắc
vừa chắc tay súng vừa chắc tay cày đã đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá
hoại của Mỹ. Cùng với những chiến thắng lẫy lừng, miền Bắc còn vai trò hậu
phương rất lớn với tiền tuyến miền Nam và với nước bạn Lào, Campuchia,
cung cấp sức người sức của cho các chiến trường, là yếu tố quyết định tới
thắng lợi của miền Nam, thống nhất đất nước.
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cách mạng
46
Việt Nam chuyển sang thời kì cả nước đi lên CNXH.
“ Đối với dân tộc Việt Nam, cuộc chiến tranh chính nghĩa chống giặc
ngoại xâm là triền miên và ác liệt nhất. Đỉnh cao của sự ác liệt là chiến tranh
30 năm chống thực dân mới Mỹ xâm lược” [9, tr. 44]. Với những nội dung cơ
bản của lịch sử Việt Nam thời kì 1954- 1975 trong chương trình SGK lớp 12
là cơ sở để chúng tôi khai thác, lựa chọn những hình ảnh, hiện vật tiêu biểu
của bảo tàng đường Hồ Chí Minh cũng như đưa ra các hình thức tổ chức dạy
học cho phù hợp.
2.2. Khảo sát nguồn tƣ liệu tại bảo tàng đƣờng Hồ Chí Minh có thể
sử dụng trong dạy học lịch sử Việt Nam thời kì 1954 - 1975.
Bảo tàng đƣờng Hồ Chí Minh.
Cách trung tâm Hà Nội khoảng 16km, theo Quốc lộ 6 quận Hà Đông,
rẽ phải khoảng 500m là đến Bảo tàng đường Hồ Chí Minh. Công trình được
khởi công xây dựng vào tháng 12-1996 và cắt bǎng khánh thành vào ngày
14/4/1999, đúng vào dịp kỷ niệm 40 nǎm ngày ra đời của Đoàn 559. “Đoàn
được mang phiên hiệu Đoàn 559 và ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày bộ
đội chính trị và thường trực tổng quân ủy giao nhiệm vụ mở tuyến chiến lược
Trường Sơn được xác định là ngày truyền thống đoàn 559 - Bộ đội Trường
Sơn - Đường Hồ Chí Minh” [19, tr. 23] tên gọi của Binh đoàn Trường Sơn
anh hùng. “ Với đặc điểm địa lý Việt Nam chật hẹp, trải dài ven biển Đông,
đối phương ngăn chặn nên không dễ dàng vượt vào phía Nam. Duy nhất chỉ
có triền núi Trường Sơn hiểm trở kéo dài từ Bắc đến Nam, đối phương không
kiểm soát là một lợi thế cho sự chi viện. Tháng 5/1959, dưới sự chỉ đạo của
Trung ương Đảng, Bộ Quốc phòng thành lập đoàn vận tải quân sự 559 mở
đường chiến lược Trường Sơn - đường mòn Hồ Chí Minh để chi viên cho
chiến trường miền Nam. Đó là một tất yếu lịch sử.” [9, tr. 44]. Bảo tàng
đường Hồ Chí Minh là nơi gìn giữ, bảo quản tài liệu, hiện vật quý hiếm để
giới thiệu những sự tích anh hùng của bộ đội Trường Sơn với tình đoàn kết
47
keo sơn cùng chung chiến hào chiến đấu của ba dân tộc Việt Nam - Lào -
Campuchia trên con đường lịch sử: “Bảo tàng Đường Hồ Chí Minh là sự tiếp
nối của Bảo tàng Trường Sơn trước đây được thành lập năm 1968 tại Trường
Sơn. Lúc đó những cán bộ của Bảo tàng là những cán bộ, chiến sỹ làm công
tác tuyên huấn, chính trị đi tuyên truyền và sưu tập các hiện vật thời đó để tổ
chức lại thành các cuộc triển lãm, dần dần quy mô lớn và trở thành Bảo tàng
Trường Sơn. Bảo tàng này phục vụ đắc lực cho các cán bộ, chiến sỹ tiền
tuyến và động viên, khuyến khích cán bộ chiến sỹ chiến đấu trong thời kỳ
chiến tranh”.
Đến với Bảo tàng, sẽ tận mắt thấy những hiện vật vô cùng quý báu gợi
nhớ về tuyến vận tải chi viện chiến lược trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Công trình văn hóa mang tính đặc thù của bộ đội Trường Sơn có khuôn viên
rộng 17.000m2, nhà trưng bày 3 tầng diện tích 28.000m2. Ngay cửa vào khu
trưng bày là phòng khánh tiết, có tượng bác bằng đồng cùng hình tượng các
lực lượng bộ đội Trường Sơn với đủ các binh chủng hợp thành như: Công
binh, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến… và bức phù điêu bằng
đồng thể hiện tình đoàn kết của nhân dân ba nước Đông Dương. Tiếp đó là
các gian trưng bày hiện vật tái hiện quá trình hình thành và phát triển của
tuyến vận tải chi viện chiến lược từ thời kỳ vận tải bằng gùi "đi không dấu,
nấu không khói, nói không tiếng" đến thời kỳ mở đường ô tô ngang dọc
Trường Sơn, lấy vận tải cơ giới là chính mà báo chí phương Tây lúc đó gọi là
"trận đồ bát quái xuyên rừng rậm". Cùng gian trưng bày còn có các hình ảnh
chân thực về những hoạt động của bộ đội Trường Sơn cùng những kỷ vật, vật
dụng của các chiến sĩ đang được Bảo tàng lưu giữ, phát huy như: Đôi dép cao
su, túi đựng cơm, áo bạt, ba lô đựng xăng, xẻng, cáng thương binh, thuyền
thúng, hầm di động… Sức thu hút của Bảo tàng Đường Hồ Chí Minh chính là
tái hiện sinh động, khoa học về những sáng tạo độc đáo, những chiến công và
sự hy sinh anh dũng của bộ đội Trường Sơn. Ở đây ta gặp lại những địa danh
một thời là trọng điểm ác liệt như: Chà Là, Mụ Giạ, cua chữ A, Phu La Nhích,
48
Ta Lê… thể hiện trên sa bàn khá lớn.
Phía cuối của phòng trưng bày tầng 1 là phòng chiến tranh điện tử. Từ
năm 1959 đến năm 1975, trong 16 năm quân đội Mỹ đã dội hơn 4 triệu tấn
bom đạn xuống con đường này. Mỹ đã sử dụng các loại máy bay hiện đại, các
loại bom mìn để tiêu diệt bộ đội Trường Sơn, để phá hoại đường, đèo, đường
dây thông tin, đường ống xăng dầu của ta.
Đặc biệt, Bảo tàng còn xây dựng mô phỏng một con “đường kín”
(đường K), để chống lại chiến tranh điện tử của kẻ thù. Đường kín là một
trong những kỳ tích của quân đội Việt Nam và thể hiện ý chí, sự thông minh
của bộ đội Trường Sơn, xây dựng đường kín là dựa vào rừng già vì phương
thức vận chuyển của bộ đội ta là ban đêm. Khi có công nghệ laze thì không
quân Mỹ dùng nó để phát hiện xe của quân đội đi trong đêm. Vì thế Bộ đội
Trường Sơn mới nghĩ ra đường kín để cho xe chạy ban ngày. Ở những chỗ có
cây to thì vít cành xuống cho kín, khi chỗ cây thưa thì trồng thêm cây và treo
các giò phong lan để làm giàn che kín đường. Bộ đội Trường Sơn đã làm
được hơn 3.000km đường kín. Đây là một biện pháp mà chưa có một cuộc
chiến tranh của thế giới làm ra, góp phần đắc lực cho quân đội VN vận
chuyển hàng hóa bằng cơ giới phục vụ có chiến trường miền Nam.
“Nhiều sử gia, tướng lĩnh nước ngoài so sánh đường Trường Sơn với
những con đường nổi tiếng trong lịch sử như con đường vượt dãy Pyrenne
vào giai đoạn trước công nguyên khi tướng Haniban mang quân đi đánh La
Mã, con đường 10 ngàn cây số mà hoàng đế Alecxandre đi chinh phục Ấn Độ
đã phải vượt qua hoặc con đường bão tuyết qua dãy núi Anpe khi tiến vào
Italia caue 43.000 quân dưới trướng Napoleon” [17, tr.55].
Tầng 2 là phòng trưng bày sa bàn thế trận Trường Sơn, kết hợp với
phim tư liệu dài 20 phút cùng hiệu ứng ánh sáng, người xem sẽ hiểu rõ hơn
về vị trí, địa điểm quan trọng của tuyến đường với 5 trục dọc và 21 trục ngang
49
và các điểm nối từ Đông Trường Sơn sang Tây Trường Sơn.
Bên phải bảo tàng là nơi giới thiệu các loại xe, máy, phương tiện vận
chuyển, đảm bảo giao thông, vũ khí chiến đấucủa bộ Trường Sơn đã sử dụng
để bảo vệ tuyến đường. “Việc xuất hiện cả trung đoàn ô tô vận tải hàng trăm
chiếc vượt đường rừng dã chiến thọc sâu vào Bạc gây xúc động mạnh với mỗi
người lính Trường Sơn. Đồng bào các dân tộc ở Mường Nòong, Tà Ôi hết
sức ngỡ ngàng, kéo nhau ra xem “máy bay chạy dưới đất”. Trong đoàn vận tải
ô tô 265 nhập tuyến thắng lợi đánh dấu bước phát triển mới về tổ chức lực
lượng của tuyến vận tải quân sự chiến lược 559”. [17, tr. 62].
Phía sau bảo tàng là hầm chỉ huy Sở tiền phương của bộ tư lệnh đoàn
559 và khu tưởng niệm gần 20.000 anh hùng liệt sỹ đã hi sinh trên tuyến
đường này.Tuyến đường mà theo quan điểm của chính giới quân sự Mỹ thì
“ định mệnh mọi học thuyết chiến tranh của Mỹ ở miền Nam luôn tùy thuộc
vào khả năng có ngăn chặn con đường này hay không?” [9, tr. 45].
Người xem đến bảo tàng cũng chỉ biết về khó khăn, gian khổ qua lời kể
và hiện vật…nhưng đều cảm nhận được sự cống hiến, ý chí, nghị lực của bộ
đội Trường Sơn ngày ấy. Từ các Cựu chiến binh, sinh viên, học sinh đến
khách nước ngoài đều nói rằng tình cảm, ấn tượng về Bộ đội Trường Sơn đầy
ắp khi đến bảo tàng đường Hồ Chí Minh. Họ nói rằng trước khi đến đây, họ
đã tìm hiểu rất kỹ về Trường Sơn nhưng khi đến bảo tàng, họ đều nói rằng tất
cả như một huyền thoại. Đối với du khách quốc tế, Trường Sơn không chỉ là
một con đường, một huyền thoại mà còn là một đề tài nghiên cứu, để suy
ngẫm và học hỏi. Con đường Trường Sơn trải đầy thử thách. Dù gian khổ, hy
sinh, đèo cao, vực sâu nhưng lòng người không nản, bước chân không lùi, tất
cả vì độc lập, tự do cho Tổ quốc. Đúng như nhà thơ Tố Hữu đã viết: "Trường
Sơn đông nắng, tây mưa, ai chưa đến đó như chưa rõ mình".Tình cảm mà họ
50
dành cho bộ đội Trường Sơn thật sự lớn lao.
Các nguồn tƣ liệu cần có thể sử dụng trong dạy học lịch sử Việt
Nam thời kì 1954-1975 :
Nội dung bài học/ Bài / Chủ đề Tƣ liệu bảo tàng Chủ đề
Bài 21. Xây dựng - Chiến lược chiến - Ảnh: Giao liên gùi thồ
CNXH ở miền Bắc, tranh đặc biệt ở miền - Ảnh: Ngựa gùi hàng
đấu tranh chống đế Nam - Ảnh: Voi gùi hàng
quốc Mỹ và chính - Ảnh: Ngã ba Đồng Lộc
quyền Sài Gòn ở - Mô hình: Cây nhiệt đới miền Nam (1954-
1965)
Bài 22. Nhân dân - Chiến lược chiến - Ảnh: Giao liên gùi thồ
hai miền trực tiếp tranh cục bộ - Ảnh: Ngựa gùi hàng
chiến đấu chống đế - Cuộc tổng tiến công - Ảnh: Voi gùi hàng
quốc Mĩ xâm lược. và nổi dậy Xuân Mậu - Ảnh: Lính Mĩ chém giết dân
Nhân dân miền Bắc Thân 1968 ở Tây Ninh (1967)
vừa chiến đấu vừa - Miền Bắc làm nghĩa - Ảnh: Đường 20 Quyết thắng sản xuất (1965- vụ hậu phương - Ảnh: Qua cầu treo 1973) - Chiến lược Việt - Ảnh: Tuổi 20 ở Trường Sơn
Nam hóa chiến tranh - Ảnh: Đại đội vận tải nữ và Đông Dương hóa - Hiện vật: Đôi dép cao su chiến tranh
- Ảnh: Cô gái Pako tải đạn
- Ảnh: Ngã ba Đồng Lộc
- Ảnh: TS nơi sử dụng chiến
51
tranh điện tử
Bài 23. Khôi phục - Miền Bắc chi viện - Ảnh: Đường kín Trường Sơn
và phát triển kinh cho miền Nam - Ảnh: Các loại xe trưng bày
tế-xã hội ở miền - Ảnh: Sự ủng hộ của quốc tế
Bắc,giải phóng đối với Việt Nam trên đường
hoàn toàn miền Hồ Chí Minh
Nam (1973-1975)
Chủ đề: Các chiến - Chiến lược chiến - Ảnh: Khẩu hiệu của chiến sĩ
lược chiến tranh tranh đặc biệt Trường Sơn
của Mĩ ở Việt Nam - Chiến lược chiến - Ảnh: Các chiến sĩ phá bom
từ 1961 đến 1972 tranh cục bộ mìn
- Chiến lược Việt - Ảnh: TS nơi sử dụng chiến
Nam hóa chiến tranh tranh điện tử
và Đông Dương hóa - Ảnh: Đường 20 Quyết thắng
chiến tranh - Ảnh: Ngã ba Đồng Lộc
- Ảnh: Tuổi 20 ở Trường Sơn
- Ảnh: Đại đội vận tải nữ
Chủ đề: Hậu - Chiến lược chiến - Ảnh: Giao liên gùi,thồ
phương miền Bắc tranh đặc biệt - Ảnh: Đoàn vận tải bằng voi
trong kháng chiến - Chiến lược chiến - Ảnh: Thuyền thúng
chống Mĩ tranh cục bộ - Hiện vật: Bừa san mặt đường
- Chiến lược Việt - Hiện vật: Cáng thương binh
Nam hóa chiến tranh - Ảnh: Đường kín Trường Sơn
52
và Đông Dương hóa - Ảnh: Xe vận tải chiến tranh
2.3. Một số biện pháp sử dụng bảo tàng đƣờng Hồ Chí Minh trong
dạy học lịch sử Việt Nam thời kì 1954- 1975 ở trƣờng THPT Trần Hƣng
Đạo- Hà Đông- Hà Nội.
Trong quá trình đổi mới phương pháp dạy và học môn lịch sử ở trường
phổ thông hiện nay có nhiều hình thức tổ chức dạy học. Tùy vào điều kiện
nhà trường và đối tượng học sinh, GV có thể lựa chọn hình thức dạy học cho
phù hợp như dạy học trên lớp, dạy học ngoài lớp và dạy học ngoại khóa.
Đối với trường THPT Trần Hưng Đạo - Hà Đông - Hà Nội, là trường
đạt chuẩn Quốc gia, giáo viên nhiệt tình, tâm huyết, chuyên môn tốt. Cơ sở
vật chất của nhà trường khá hoàn thiện, 25/32 lớp có hệ thống máy chiếu, đây
là một trong những điều kiện rất thuận lợi cho GV trong công tác giảng dạy.
Tuy nhiên học sinh có điểm chuẩn đầu vào thấp hơn so với các trường trên
cùng địa bàn quận Hà Đông nên số học sinh học tập tốt chỉ ở những lớp đầu
cao (A1, A2, A3, A4) và những em chọn thi khối C, còn lại đa số các em chưa
tự giác trong học tập. Dựa vào đặc điểm của học sinh trong trường, chúng tôi
đưa ra các biện pháp phù hợp để sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong
dạy học Lịch sử đạt được hiệu quả cao.
Với đề tài này, chúng tôi đề xuất một số biện pháp sử dụng bảo tàng
đường Hồ Chí Minh trong bài nội khóa và hoạt động ngoại khóa cho HS.
2.3.1.Bài học nội khóa.
2.3.1.1. Khai thác và sử dụng tranh ảnh, hiện vật của bảo tàng đường
Hồ Chí Minh như một nguồn tư liệu trực quan.
Hiện nay, ngoài nguồn thông tin từ sách vở, bài giảng của thầy cô giáo
trên lớp, học sinh con tiếp nhận tri thức từ nhiều nguồn thông tin khác nhau
như sách, báo, tạp chí... Do đó, học sinh ngày càng có nhiều kiến thức sâu
rộng hơn so với các thế hệ cùng tuổi trước đó.Nhưng ngoài nguồn thông tin
và hiểu biết của các em thu được ngoài nhà trường không hoàn toàn đúng.
53
Chính vì vậy các em cần phải được hướng dẫn để có khả năng phân biệt chỗ
đúng, sai của những thông tin đó. Phương tiện trực quan nói chung và tư liệu
ở bảo tàng nói riêng sẽ góp phần bồi dưỡng khả năng này cho học sinh. “Việc
khai thác, sử dụng tư liệu của bảo tàng đảm bảo cho quá trình nhận thức của
học sinh diễn ra hợp với quy luật nhận thức và đảm bảo nguyên tắc trực quan
trong học tập lịch sử. Vì vậy, đây là công cụ cần thiết, quan trọng, là nguồn
kiến thức vô giá trong học tập. Ở đây không chỉ dùng lời nói để miêu tả sự
kiện lịch sử một cách đầy đủ, nguyên vẹn, mà phải tạo biểu tượng cụ thể sinh
động qua hiện vật” [5, tr.15]. Để khai thác tư liệu tại bảo tàng đường Hồ Chí
Minh để đưa vào dạy học lịch sử thời kì 1954 - 1975 giáo viên cần lựa chọn
nội dung phù hợp tư liệu để khác thác tư liệu bảo tàng một cách có hiệu quả
nhất.
Ví dụ: Khi dạy bài 21: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu
tranh chống đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở Miền Nam” (1954 -
1965), trong mục “chiến lược chiến tranh đặc biệt” (1965 - 1968) ở miền
Nam, GV giới thiệu hình ảnh “Giao liên gùi thồ”, “Ngựa gùi hàng”, “Voi gùi
hàng” hình ảnh đoàn ngựa thồ vượt sông Sê Băng Hiêng (Lào) vòng qua đất bạn
để vượt Trường Sơn rồi lại vòng núi Đông Trường Sơn năm 1962. Đoàn vận tải
hàng bằng voi thồ của Trung đoàn 70, từ làng Ho (Tây Quảng Bình) vận chuyển
vào các trạm 1, 2, 3, 4, 5... Bắc đường số 9 tháng 4 năm 1961.
Qua những hình ảnh trên chúng ta thấy được sự khó khăn của bộ đội
Trường Sơn những ngày đầu vận chuyển hàng hóa, vũ khí vào chiến trường miền
Nam. Thấy được sự nỗ lực của bộ đội ta để vượt qua được con đường đầy gam go
và nguy hiểm.
Khi nói về sự ác liệt của chiến tranh, GV đưa ra hình ảnh “Ngã ba Đồng
54
Lộc” và đặt câu hỏi cho học sinh.
Hình 2.1. Ngã ba Đồng Lộc
(Nguồn: Chụp tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh- Hà Đông- Hà Nội)
1. Em biết gì qua bức ảnh tư liệu trên?
2. Qua bức ảnh, em thấy cuộc chiến tranh diễn ra như thế nào?
Sau đó GV có thể cung cấp thêm tư liệu về ”Ngã ba Đồng Lộc”
- Ngã ba Đồng Lộc (Hà Tĩnh): Ngã ba Đồng Lộc nằm trên đường
Trường Sơn, thuộc địa phận Đồng Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh. Ngã ba Đồng Lộc
nằm gọn trong một thung lũng hình tam giác, hai bên đồi núi trọc, giữa là con
đường độc đạo, mặt đường giống như một lòng máng, bom địch thả xuống bên
nào đất đá cũng lǎn xuống đường làm cản trở giao thông. Tất cả mọi con đường
từ Bắc vào Nam đều phải đi qua ngã ba Đồng Lộc. Đây được xem như cổ họng,
vượt qua được sẽ phân tán toả ra nhiều tuyến đường khác nhau đi vào Nam.
Chính vì sự hiểm yếu và quan trọng đó mà không quân Mỹ liên tục
đánh phá Đồng Lộc nhằm cắt đứt huyết mạch giao thông của quân, dân ta chi
viện cho chiến trường miền Nam. Con đường độc đạo này đã được mệnh
danh là “tọa độ chết”. Người ta đã thống kê rằng, mỗi mét vuông đất nơi đây
đã gánh 3 quả bom tấn. Chỉ tính riêng 240 ngày đêm từ tháng 3 đến tháng
55
10/1968, không quân địch đã trút xuống đây 48.600 quả bom các loại.
Tiểu đội 4 thuộc Đại đội 552, Tổng đội TNXP 55 Hà Tĩnh gồm 10 cô
gái còn rất trẻ tuổi từ 17 đến 24 do chị Võ Thị Tần làm Tiểu đội trưởng là
đơn vị làm việc thường trực tại Ngã ba Đồng Lộc, chịu trách nhiệm san lấp
hố bom ở đoạn đường này để không đứt mạch giao thông nối hậu phương với
tiền tuyến. Bình thường, tiểu đội hoạt động về đêm để lấp hố bom mà máy bay
đã bắn phá vào ban ngày.
Với khẩu hiệu “máu có thể chảy, tim có thể ngừng nhưng mạch máu
giao thông không bao giờ tắt”, mưa bom, bão đạn không làm khuất phục ý
chí anh hùng của lực lượng thanh niên xung phong.
(Nguồn: http://phunuvietnam.vn/kho-bau/huyen-thoai-10-co-gai-nga-
ba-dong-loc-post13787.html)
Khi dạy bài 22: “Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống đế quốc
Mỹ xâm lược. Nhân dân miền Bắc vừa chiến đấu, vừa sản xuất” (1965 -
1973) phần “chiến lược chiến tranh cục bộ”, nói về âm mưu và hành động
của Mỹ, GV đưa ra hình ảnh “Lính Mỹ chém giết dân ở Tây Ninh (1967)” để
học sinh hiểu rõ sự tàn ác, dã man của kẻ thù đối với nhân dân miền Nam. Đó
cũng là nguyên nhân để nhân dân miền Nam nổi dậy đấu tranh chống chiến
lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ.
Hình 2.2. Lính Mỹ chém giết dân ở Tây Ninh (1967)
56
(Nguồn: Chụp tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh- Hà Đông- Hà Nội)
Khi dạy mục I, phần 2: Chiến đấu chống chiến lược chiến tranh cục bộ
của Mỹ, GV giới thiệu hình ảnh “Tuổi 20 ở Trường Sơn” và “Qua cầu treo”
cho học sinh hiểu rõ hơn về tinh thần chiến đấu của quân dân ta chống lại
chiến lược “Chiến tranh cục bộ ” của Mỹ.
Hình 2.3. Tuổi 20 ở Trường Sơn
(Nguồn: Chụp tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh- Hà Đông- Hà Nội)
GV đưa hình ảnh và đặt câu hỏi:
1. Em cảm nhận như thế nào về tinh thần chiến đấu của các cô gái
Trường Sơn qua bức ảnh trên?
Sau đó GV cho học sinh hiểu rõ thêm về hình ảnh “Tuổi 20 ở Trường
Sơn” Hình ảnh “Tuổi 20 ở Trường Sơn” với những cô gái luôn nở nụ cười
trước mưa bom, bão đạn của giặc trên tuyến đường huyền thoại đã cho học
sinh có cái nhìn lạc quan trong chiến tranh, thấy được sự hi sinh của của các
nữ chiến sĩ Trường Sơn. “Họ là những thanh niên rất trẻ, tuổi từ 17, 18 đến
30, đa số là nữ thanh niên” nhưng họ luôn sẵn sàng hi sinh tuổi thanh xuân
của mình cho tiền tuyến, cho thắng lợi của cuộc chiến tranh chính nghĩa.Cuộc
sống của người lính Trường Sơn với bao khó khăn, gian khổ nhưng càng khó
57
khăn, càng gian khổ, ý chí quật khởi quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ ngày càng
cao. Điều đó thể hiện rất rõ qua nụ cười rất rạng rỡ, hồn nhiên của các cô gái
thanh niên xung phong. Có lẽ, chính cái khát khao giải phóng đã trở thành sức
mạnh của dân tộc Việt. Con đường Trường Sơn đã trở thành huyền thoại về ý
chí quyết tâm, sức mạnh của dân tộc làm cho cả thế giới phải khâm phục, kẻ
thù cũng phải khiếp sợ.
Hình ảnh “Qua cầu treo” lại là một khía cạnh khác để GV khai thác cho
học sinh hiểu rõ hơn về những khó khăn của bộ đội Trường Sơn khi phải
chống lại những vũ khí tối tân, hiện đại của Mỹ trong cuộc chiến tranh đầy ác
liệt.
Hình 2.4. Qua cầu treo
(Nguồn: Chụp tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh- Hà Đông- Hà Nội)
Cầu treo bắc qua sông Talê- Đường 20, do tiểu đoàn công binh 23 anh
hùng xây dựng. Cầu có thể tải trọng 2 xe/lượt, được thiết kế bởi mố cầu cơ
động. Khi bị oanh tạc, công binh cất đầu cầu tại bờ sông,cầu đã tồn tại ở trọng
điểm này 4 năm, đảm bảo an toàn cho hàng ngàn chuyến xe chở hàng ra mặt
trận. Khi đi qua cầu treo, người lái xe cũng phải thật gan dạ và anh dũng thì
mới có thế cho xe và hàng qua được vì sự dập dềnh và chênh vênh của cầu sẽ
58
làm cho cả người và xe có thể bị hất xuống sông bất cứ lúc nào. Cứ 13 xe đi
qua thì có 9 xe bị hất xuống sông nhưng điều đó không cản được những dòng
xe, không cản được lòng người chiến sĩ đưa hàng ra mặt trận phục vụ cho
chiến đấu.
Dạy phần II, mục 2: Vai trò của hậu phương miền Bắc từ 1965 đến
1968.Trong giai đoạn đối mặt với những khó khăn của chiến lược chiến tranh
cục bộ khi Mỹ leo thang bắn phá ra miền Bắc nhưng nhân dân miền Bắc vẫn
thực hiện tốt nghĩa vụ hậu phương. Cùng với tuyến đường vận chuyển trên
biển, trong vòng 4 năm (1965 - 1968) “miền Bắc đã đưa vào miền Nam hơn
30 vạn cán bộ, bộ đội tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu, xây dựng kinh
tế, văn hóa tại các vùng giải phóng, cùng hàng chục vạn tấn vũ khí, đạn dược,
quân trang, quân dụng, xăng dầu, lương thực, thực phẩm, thuốc men và nhiều
vật dụng khác. Tính chung, sức người, sức của từ miền Bắc chuyển vào miền
Nam trong 4 năm đã tăng gấp 10 lần so với giai đoạn trước” [2, tr. 180].
Để có được những chuyến hàng vào tiền tuyến, ngoài phương thức gùi
thồ, ngựa thồ, voi thồ thời kỳ đầu thì ở thời kì này đã sử dụng các loại xe cơ giới.
Hình 2.5. Xe cơ giới chở hàng vào miền Nam
59
(Nguồn: Chụp tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh- Hà Đông- Hà Nội)
GV giới thiệu với học sinh đây là phương tiện để đưa hàng hóa vào
chiến trường miền Nam qua đường Trường Sơn, hiện nay xe được bảo quản
làm hiện vật chiến tranh tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh.
Khi dạy bài 23: “Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở miền Bắc,
giải phóng hoàn toàn miền Nam” (1973- 1975), phần IV, mục 2: Miền Bắc
vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa sản xuất và làm nghĩa vụ hậu
phương, GV đưa hình ảnh “Đường kín Trường Sơn” và hỏi học sinh:
Hình 2.6. Đường kín Trường Sơn
(Nguồn: Chụp tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh- Hà Đông- Hà Nội)
1. Em biết gì về con đường này?
2. Con đường này có vai trò như thế nào trong việc chống lại máy bay
60
của Mỹ?
Tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh đã mô phỏng hệ thống đường kín
(Tuyến đường K), là một công trình sáng tạo to lớn, là một trong những kì
tích của nhân dân hai nước Việt - Lào, là biểu tượng ý chí quyết thắng, thông
minh, dũng cảm của quân dân ta trong chiến tranh ngăn chặn và chống ngăn
chặn. Là một nỗ lực khi chuyển phương thức vận tải từ chạy đêm sang chạy
ngày nhằm tránh sự săn lùng của kỹ thuật laze mà không quân Mỹ sử dụng
bằng máy bay AC130E. Đường kín được xây dựng chủ yếu dựa vào rừng già
tập trung trên đất bạn Lào. Những cành cây to vít vào nhau thành dàn ngụy
trang che kín đường đi, cây thưa phải trồng thêm hoặc thay thế cành cây khô,
treo cả những cây phong lan rừng để phủ kín đường. Từ năm 1971 đến năm
1973, bộ đội Trường Sơn đã xây dựng 1.100 km đường kín, đã tạo ra bước
ngoặt lớn của cuộc chiến tranh chi viện cho chiến dịch Hồ Chí Minh.
"Suốt 16 năm chiến đấu ác liệt, gian khổ, cán bộ, chiến sĩ Bộ đội
Trường Sơn-đường Hồ Chí Minh - luôn luôn nắm vững tư tưởng cách mạng
tiến công, chủ động, sáng tạo, mưu trí, dũng cảm, không hề chùn bước trước
bất cứ khó khăn, gian khổ, ác liệt nào. Cả Trường Sơn sáng ngời chủ nghĩa anh
hùng cách mạng. Lực lượng nào, đơn vị nào cũng có những sự tích anh hùng.
Cung đường nào, địa điểm nào cũng là mảnh đất thiêng rực lửa. Bộ đội đường
Hồ Chí Minh đã thắng địch và "thắng trời" làm nên con đường huyền thoại -
đường Hồ Chí Minh-con đường đi tới độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc”.
(http://www.qdnd.vn/phong-su-dieu-tra/dieu-tra/duong-truong-son-
con-duong-huyen-thoai-478434)
Suốt 16 năm (1959 - 1975), đường Trường Sơn luôn luôn trở thành
trọng điểm ngăn chặn quyết liệt của địch. Trường Sơn là chiến trường thực
nghiệm chiến lược "Chiến tranh ngăn chặn", "Chiến tranh bóp nghẹt" bằng
các thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt và các loại vũ khí, thiết bị tối tân, hiện đại của
nền khoa học công nghệ của đế quốc Mỹ. Núi rừng Trường Sơn luôn luôn
rung chuyển, bị cày đi xới lại bởi hơn 4 triệu tấn bom đạn, chất độc hóa học
61
của địch trút xuống, gây nhiều tổn thất về người, phương tiện vật chất và môi
trường sinh thái trên tuyến đường Hồ Chí Minh. Hơn 20.000 cán bộ, chiến sĩ
đã anh dũng hy sinh, hơn 32.000 cán bộ, chiến sĩ bị thương và hàng vạn người
mang thương tích hoặc nhiễm chất độc màu da cam… 14.500 xe máy, 703
súng pháo và hơn 90.000 tấn hàng hóa bị phá hỏng. Với những hy sinh vô bờ
bến ấy, bộ đội đường Trường Sơn-đường Hồ Chí Minh đã lập nên kỳ tích anh
hùng, làm nên con đường huyền thoại, góp phần to lớn vào sự toàn thắng của
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc, giải phóng hoàn toàn
miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Hiện nay, trong văn bia Nghĩa trang Liệt sĩ Trường Sơn khắc đậm
những dòng chữ: "Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng sự đóng góp của Bộ đội
đường Hồ Chí Minh, thanh niên xung phong và dân công hỏa tuyến vào công
cuộc chi viện cho các chiến trường sẽ mãi mãi ghi vào trang sử oanh liệt của
dân tộc ta, của quân đội ta như một thiên anh hùng ca bất diệt..."
(http://www.qdnd.vn/phong-su-dieu-tra/dieu-tra/duong-truong-son-con-
duong-huyen-thoai-478434
2.3.1.2. Xây dựng và sử dụng “bảo tàng ảo” về đường Hồ Chí Minh
trong bài học trên lớp.
Dạy học trực quan được gọi là “nguyên tắc vàng ngọc” trong dạy học ở
trường phổ thông. Vì thế các môn môn thường khai thác các loại đồ dùng dạy
học, phương tiện dạy học để học sinh có nhận thức một cách hiệu quả
nhất.Các bộ môn khoa học tự nhiên thì có phòng thực hành, phòng thí nghiệm
để nghiên cứu và học tập thì bộ môn lịch sử cũng tìm đến các bảo tàng, hiện
vật, di tích lịch sử để tham gia học tập. Đó là cách học hữu hiệu và thiết thực
nhất cho việc học tập lịch sử ở trường phổ thông.
Ngày nay, với sự phát triển của công nghệ thông tin (CNTT) và truyền
thông, hoạt động giáo dục cũng có những biến đổi so với trước, nhiều giáo
viên đã biết cách áp dụng CNTT vào giảng dạy để nâng cao hiệu quả bài học
và phát huy tính sáng tạo của học sinh, trong đó có việc sử dụng bảo tàng ảo
62
vào dạy học lịch sử ở trường phổ thông.
“Bảo tàng ảo có nhiều tên gọi và quan niệm khác nhau như “bảo tàng
điện tử” (electronic museum), “bảo tàng kĩ thuật số” (digiial museum), “bảo
tàng mạng” (web museum)... tất cả những thuật ngữ này đều có chung một
nội hàm về loại hình bảo tàng được số hóa, ghi lại bằng kĩ thuật số và được
tiếp cận thông qua thông tin điện tử ” [18, tr. 51].
Như vậy có thể hiểu một cách tương đối bảo tàng ảo dựa trên bảo tàng
thật và được hiện đại hóa và thay đổi cách trưng bày năng động biến hóa theo
chủ đề và tự người xem có thể tổ chức lại trưng bày theo ý của mình.
Ở các trường THPT hiện nay chưa có đủ điều kiện về cơ sở vật chất, kinh
phí, phương tiện đi lại và thời gian để tổ chức cho học sinh tới học tập tại bảo
tàng, do đó xây dựng bảo tàng ảo trong các giờ học nội khóa cũng là điều cần
thiết đối với GV và HS trong giờ học lịch sử. Xây dựng bảo tàng ảo nhưng được
giá trị thật, hình ảnh hiện vật được nhìn từ mọi góc độ, âm thanh và ánh sáng do
người thiết kế chủ động chọn lựa cho phù hợp nội dung cần trình bày.
Trưng bày ảo cho phép tạo mối liên kết chặt chẽ và đa dạng hơn giữa
hiện vật với hoàn cảnh lịch sử hay môi trường sinh thái, nhờ vậy hiện vật cung
cấp nhiều loại thông tin hơn giúp người xem hình dung, trải nghiệm và tái tạo lại
những giai đoạn lịch sử văn hóa theo điều kiện không gian và thời gian.
Ví dụ: Sử dụng tư liệu bảo tàng đường Hồ Chí Minh xây dựng bảo tàng
ảo cho bài 22 “Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm
lược.Nhân dân miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất (1965-1973)”). Các
bước thực hiện như sau:
- Bước 1: Lập kế hoạch dạy học
- Bước 2: Tìm hiểu, lựa chọn tư liệu bảo tàng đường Hồ Chí Minh có
liên quan đến bài học.
- Bước 3: Đến bảo tàng chụp ảnh, tìm hiểu thông tin về ảnh và hiện vật
đã lựa chọn.
- Bước 4: Xây dựng bảo tàng ảo bằng phần mềm Photo3D Album theo
63
nội dung bài học.
I. Mục tiêu dạy học:
1. Về kiến thức.
- Trình bày âm mưu, thủ đoạn cũng như hành động của đế quốc Mĩ ở
Việt Nam và trên toàn cõi Đông Dương thông qua các chiến lược “Chiến
tranh cục bộ”, “Việt Nam hóa chiến tranh” -“Đông Dương hóa chiến tranh”.
- Nêu được những thắng lợi quyết định của quân dân ta trên cả hai miền
đất nước chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam
hóa chiến tranh”.
- Đánh giá được vai trò của hậu phương miền Bắc với tiền tuyến miền Nam.
- Phân tích được nội dung và ý nghĩa của Hiệp định Pari năm 1973 về
chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.
2. Về kĩ năng.
- Kĩ năng sử dụng công nghệ thông tin.
- Kĩ năng quan sát.
- Kĩ năng thuyết trình, làm việc nhóm, tổng hợp.
3. Về thái độ
- Lên án những tội ác của đế quốc Mĩ và chính quyền tay sai trong cuộc
chiến tranh xâm lược của Mĩ ở hai miền đất nước Việt Nam.
- Bồi dưỡng tinh thần yêu nước, đoàn kết dân tộc,hỗ trợ của hậu
phương miền Bắc cho tiền tuyến miền Nam.
- Nêu cao tinh thần đoàn kết, liên minh chiến đấu của ba dân tộc trên
bán đảo Đông Dương trong cuộc chiến tranh chống đế quốc Mĩ xâm lược…
II. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh:
1. Chuẩn bị của giáo viên.
- Lập kế hoạch và phân công nhiệm vụ cho học sinh.
- Hướng dẫn HS tìm tư liệu bảo tàng đường Hồ Chí Minh liên quan
đến bài 22.
64
- Đến bảo tàng ghi hình, chụp ảnh, tìm hiểu thông tin về tư liệu.
- Xây dựng bảo tàng ảo theo nội dung bài học
2. Chuẩn bị của học sinh.
- Lập kế hoạch và phân công cho các thành viên trong nhóm chuẩn bị.
- Tìm hiểu nguồn tư liệu, hiện vật của tàng đường Hồ Chí Minh và thông
tin trên các tư liệu khác.
III. Thực hiện:
- GV thực hiện theo trình tự bài học lịch sử trên lớp.
- GV kết hợp cho HS xem bảo tàng ảo với các hình ảnh, tư liệu :
1. Giao liên gùi thồ
2. Ngựa gùi hàng
3. Voi gùi hàng
4. Đôi dép cao su của anh hùng Nguyễn Viết Sinh
5. Tuổi 20 ở Trường Sơn.
- GV sử dụng bảo tàng ảo không có thuyết minh và gọi học sinh tự lên trình
bày theo cách của mình đã được chuẩn bị.
- GV nhận xét, mở rộng kiến thức thông qua hình ảnh HS vừa giới thiệu .
Hình 2.7. Giao liên gùi thồ.
65
(Nguồn: Chụp tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh- Hà Đông- Hà Nội)
Hình 2.8. Ngựa gùi hàng.
(Nguồn: Chụp tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh- Hà Đông- Hà Nội)
Hình 2.9. Voi gùi hàng.
66
(Nguồn: Chụp tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh- Hà Đông- Hà Nội)
“Ngày 19/5/1959”, tổng quân ủy Trung ương họp đoàn quân sự
đặc biệt giao nhiệm vụ “mở đường xuyên Trường Sơn vào miền Nam,
vận tải chi viện cho cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng”. Nhiệm vụ
quan trọng này được giao cho thượng tá Võ Bẩm. Lực lượng mở đường
ban đầu gồm 1 tiểu đoàn giao liên 440 người làm nhiệm vụ đưa đón cán
bộ, dẫn quân, chuyển công văn tài liệu và gùi hàng từ miền Bắc vào
miền Nam và từ Nam ra Bắc mang phiên hiệu Đoàn 559.
Ngày 19/5/1959, đường Hồ Chí Minh chính thức được triển khai.
Hàng và người đi miền Nam (B) xuất phát từ nhiều địa điểm khác nhau.
Thời gian đầu, đường đi hoàn toàn là những đường chưa có lối,
phải rẽ núi, băng rừng mở đường mà đi, nhưng vẫn phải đảm bảo nguyên
tắc bí mật “đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng”, “gặp địch
không đánh, gặp dân cũng tránh” để tránh bị lộ và bị địch phát hiện.
Phương tiện đi lại là đi bộ mang vác, gùi hàng trên vai. Mỗi chuyến từ
25 đến 30 người. ” [20, tr. 670].
Đoàn thồ hàng còn sử dụng cả ngựa thồ, hình ảnh đoàn ngựa thồ
vượt sông Sê Băng Hiêng (Lào) vòng qua đất bạn để vượt Trường Sơn
rồi lại vòng núi Đông Trường Sơn năm 1962. Đoàn vận tải hàng bằng
voi thồ của Trung đoàn 70, từ làng Ho (Tây Quảng Bình) vận chuyển
vào các trạm 1, 2, 3, 4, 5...Bắc đường số 9 tháng 4 năm 1961.
Qua những hình ảnh trên chúng ta thấy được sự khó khăn của bộ
đội Trường Sơn những ngày đầu vận chuyển hàng hóa, vũ khí vào chiến
trường miền Nam. Thấy được sự nỗ lực của bộ đội ta để vượt qua được
67
con đường đầy gam go và nguy hiểm.
Hình 2.10. Đôi dép cao su của anh hùng Nguyễn Viết Sinh.
(Nguồn: Chụp tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh- Hà Đông- Hà Nội)
Hiện vật “Đôi dép cao su” trưng bày tại bảo tàng của anh hùng Nguyễn
Viết Sinh, thuộc Binh trạm 3- Đoàn 559 sử dụng trong những năm vận
chuyển hàng từ 1961 đến 1967.
Sinh ra ở miền quê nghèo xã Xuân Hòa, huyện Nam Đàn (Nghệ An), từ
nhỏ, Nguyễn Viết Sinh (sinh năm 1940) đã thấm nhuần tinh thần cách mạng
và nung nấu ý chí đánh giặc, bảo vệ độc lập tự do của Tổ quốc. Năm 1961,
hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng, chàng thanh niên đã hăng hái lên đường
nhập ngũ. Ngày ấy, khi đang cày ruộng thì nghe đài phát thanh của xã tuyển
quân vào một đơn vị đặc biệt, ông đã lập tức xin đăng ký tòng quân.
Ông từ biệt gia đình để lên đường vào quân ngũ. Gần một ngày đêm
ngồi trên chiếc xe phủ bạt kín mít, ông và đồng đội đặt chân đến làng Ho,
thuộc địa bàn xã Kim Thủy, huyện Lệ Thủy (Quảng Bình). Ông được bổ sung
vào Tiểu đoàn bộ binh 301, nhận nhiệm vụ tải hàng vào chiến trường miền
Nam. Thời điểm ấy, quân ta vừa tiến vào Nam vừa mở đường, bởi vậy các
phương tiện vận tải cơ giới không có. Vấn đề đặt ra lúc này là để vận chuyển
súng đạn, thực phẩm tiếp viện cho miền Nam chỉ có một cách là gùi thồ bằng
68
sức người. Người chiến sỹ giao liên phải băng rừng vượt suối hàng trăm km
mới có thể chi viện kịp thời cho tiền tuyến. Hình ảnh cho chúng ta cảm nhận
được sự nỗ lực,kiên trì vượt qua gian khó của người chiến sĩ trước sự đánh
phá ác liệt của đế quốc Mỹ vào tuyến đường cũng không ngăn được bước
chân người lính. Nguyễn Viết Sinh có lẽ là nhân vật minh họa rõ nhất quyết
tâm của người tải hàng với mỗi lần gùi được 45-50kg. Trong vòng bốn năm
với 1.089 ngày làm việc, anh đã mang được hơn 55 tấn hàng trên lưng và đi
qua quãng đường có tổng chiều dài 41.025km - tương đương một vòng Trái
đất theo đường xích đạo và mang theo một lượng hàng bằng với trọng lượng
cơ thể”. http://www.nguoiduatin.vn
Hình 2.11. Tuổi 20 ở Trường Sơn.
(Nguồn: Chụp tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh- Hà Đông- Hà Nội)
Hình ảnh “Tuổi 20 ở Trường Sơn” với những cô gái luôn nở nụ cười
trước mưa bom, bão đạn của giặc trên tuyến đường huyền thoại đã cho học
sinh có cái nhìn lạc quan trong chiến tranh,thấy được sự hi sinh của của các
nữ chiến sĩ Trường Sơn. “Họ là những thanh niên rất trẻ,tuổi từ 17, 18 đến 30,
đa số là nữ thanh niên” nhưng họ luôn sẵn sàng hi sinh tuổi thanh xuân của
69
mình cho tiền tuyến, cho thắng lợi của cuộc chiến tranh chính nghĩa.
Tuổi hai mươi nguyện hiến non sông
Đường trăm trận sá gì sống chết
Tỏ cùng trời đất tấm trung can
Giải với non sông bầu nhiệt huyết...
Tuổi chẳng thọ nhưng huân công mãi mãi trường tồn/
Thân dù tan mà khí phách đời đời bất diệt”.
http://baohatinh.vn
Hình ảnh của các cô luôn còn mãi trong sự trường tồn của dân tộc, để
các cô vẫn luôn mãi mãi tuổi 20.
IV. Kết thúc bài học:
- GV sơ kết bài học.
- GV giao bài tập cho học sinh (tìm hiểu thêm 5 tư liệu bảo tàng đường
Hồ Chí Minh) và hướng dẫn cách làm bảo tàng ảo theo chủ đề hoặc theo nội
dung bài học.
2.3.2. Hoạt động ngoại khóa
2.3.2.1. Tổ chức tham quan tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh.
Tham quan là một trong những hình thức của hoạt động ngoại khóa.
“ Hoạt động ngoại khóa trong dạy học lịch sử làm phong phú kiến thức, giáo
dục tình cảm, đạo đức, phẩm chất học sinh, giáo dục tinh thần tập thể, ý thức
cộng đồng trách nhiệm, yêu thích lao động, rèn luyện tính kỉ luật và tinh thần
tương thân tương ái.” [11, tr.178].
Trong học tập môn Lịch sử ở trường phổ thông, tham quan tại bảo tàng
là một hình thức được nhiều GV và HS lựa chọn, “hoạt động tham quan ngoại
khóa sẽ bổ trợ kiến thức lịch sử cho học sinh về truyền thống văn hóa, lịch sử
của dân tộc và mỗi địa phương. Qua đó nâng cao ý thức bảo tồn và phát huy
các giá trị truyền thống dân tộc” [11, tr.181]. Để tổ chức được các buổi tham
70
quan tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh đạt kết quả cao, trước hết GV cần đi
tiền trạm để tìm hiểu các tư liệu, hiện vật và các thông tin về bảo tàng để lên ý
tưởng cho các hoạt động tại buổi tham quan.Bên cạnh đó, GV cũng hướng
dẫn học sinh tìm hiểu về nội dung bài học có liên quan đến bảo tàng đường
Hồ Chí Minh, hướng dẫn học sinh cách thức tìm hiểu tư liệu, hiện vật, tranh
ảnh và cách ghi chép cho khoa học. GV lên ý tưởng để tổ chức nhiều hoạt
động phong phú trong buổi tham quan sẽ khiến cho HS không cảm thấy nhàm
chán, ngược lại sẽ phát huy được sự hứng thú, tính chủ động, sáng tạo và các
năng khiếu khác của HS.
Ví dụ: Chương trình ngoại khóa “ Trường Sơn- nơi ấy đừng quên”
Chủ đề: Các chiến lược chiến tranh của Mĩ ở Việt Nam từ 1961 đến
1972
I. Mục tiêu.
Kết thúc hoạt động ngoại khóa này, HS có khả năng:
1. Về kiến thức:
- Nêu được những nét khái quát về ba chiến lược chiến tranh của Mỹ từ
năm 1961 đến 1964: Chiến tranh đặc biệt, Chiến tranh cục bộ, Việt Nam hóa
và Đông Dương hóa chiến tranh.
- Hiểu được sự ác liệt của chiến tranh mà Mỹ đã tiến hành ở Việt Nam
và mở rộng qui mô ra ba nước Đông Dương.
- Đánh giá được vai trò hậu phương của nhân dân miền Bắc và những
hi sinh gian khổ, những đóng góp của bộ đội Trường Sơn cho cuộc chiến
tranh giành thắng lợi.
2. Về kĩ năng:
- Đọc và khai thác thông tin từ các tư liệu, hiện vật của bảo tàng đường
Hồ Chí Minh.
- Quan sát hiện vật.
71
- Làm việc nhóm, tham gia các hoạt động tập thể.
3. Về thái độ:
- Nâng cao ý thức giữ gìn và bảo vệ di tích lịch sử tại địa phương.
- Bồi dưỡng lòng yêu nước, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và ý chí
quyết tâm đánh bại âm mưu xâm lược của chủ nghĩa đế quốc.
- Gắn liền tình cảm ruột thịt Bắc - Nam.
II. Cơ cấu tổ chức.
1. Đối tượng tham gia
- HS lớp 12 THPT
- Số lượng: 40 HS 2. Thời gian tổ chức (dự kiến).
- Thời gian: 120 phút.
- Ngày... tháng... năm...
III. Chuẩn bị của GV và HS.
1. Chuẩn bị của GV:
- Lên kế hoạch và đề xuất với nhà trường về tổ chức tham quan tại bảo
tàng đường Hồ Chí Minh cho HS.
- Liên hệ với Ban quản lý bảo tàng để trình bày mục đích, yêu cầu và
nội dung buổi tham quan.
- Thành lập Ban giám khảo gồm mỗi đội 1 người và GV môn Lịch sử.
- Giao nhiệm vụ chuẩn bị cho HS: Đọc trước tài liệu của bảo tàng,
chuẩn bị đồ dùng để tham gia các trò chơi.
2. Chuẩn bị của HS:
- Đọc các tài liệu về bảo tàng đường Hồ Chí Minh theo yêu cầu của GV
qua trang website : http://www.btlsqsvn.org.vn
- Chuẩn bị giấy, bút, ghế ngồi cho Ban giám khảo.
IV. Nội dung hoạt động.
1. Hoạt động 1: Tham quan bảo tàng
72
- Thời gian: 30 phút
- Mục đích: Quan sát các hiện vật được trưng bày tại bảo tàng đường
Hồ Chí Minh.
- Hình thức: HS tham quan ở phòng trưng bày tầng 1 (phần : “Đông
Trường Sơn thuở ban đầu”; phần: “Đi lên theo bước phát triển của cách mạng
Việt Nam”; phần: Đỉnh cao của chiến lược ngăn chặn và chống ngăn chặn”;
phần: “ Trường Sơn nơi thử nghiệm chiến tranh điện tử của Mỹ”). Tầng 2
(phần: “Hoàn thiện thế trận Trường Sơn”; phần: “Sa bàn thế trận Trường
Sơn”)
2. Hoạt động 2: Trò chơi “Nhận diện hiện vật”.
- Thời gian: 30 phút (gồm 28 phút cho 4 đội, 2 phút tập hợp lớp và
công bố luật chơi)
- Mục đích: HS ghi nhớ một số hiện vật của bộ đội Trường Sơn trong
lao động và trong chiến đấu
- Hình thức: Chia lớp thành 4 nhóm, mỗi nhóm 10 HS, các HS trong
nhóm cùng thực hiện nhiệm vụ được giao.
+ Luật chơi:
Mỗi HS trong nhóm nhận được 1 phiếu học tập, trên phiếu là 10 hình
ảnh về các hiện vật được trưng bày tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh, không
có phần ghi chú hiện vật.
Yêu cầu các nhóm phải đi tìm hiện vật và ghi đúng tên và thông tin của
hiện vật vào phiếu đã phát.
Mỗi nhóm có 7 phút để thực hiện, lần lượt mỗi nhóm tự phân công
nhau để hoàn thành công việc.
Cách tính điểm như sau: Đối với 1 hiện vật/10 HS ghi đúng tên và
thông tin của hiện vật sẽ giành được 10 điểm, mỗi thành viên ghi sai hoặc
không ghi sẽ bị trừ 1 điểm của hiện vật đó.
Phiếu học tập (Phụ lục 3)
73
3. Hoạt động 3: Trò chơi “Truyền tin Trường Sơn”.
- Thời gian: 22 phút (gồm 20 phút cho 4 đội, 2 phút tập hợp lớp và
công bố luật chơi).
- Mục đích: HS hiểu một số hoạt động của bộ đội Trường Sơn trên
tuyến đường đầy ác liệt.
- Hình thức: Chia lớp thành 4 nhóm, mỗi nhóm 10 HS, các HS trong
nhóm cùng thực hiện nhiệm vụ được giao.
+ Luật chơi:
Mỗi nhóm cử ra 1 đội trưởng và 1 đội phó, đội trưởng sẽ nhận 1 thông
tin từ Ban giám khảo và có thời gian 1 phút để ghi nhớ. Hết thời gian 1 phút,
đội trưởng sẽ nói thầm vào tai cho thành viên thứ 2 trong nhóm, người thứ 2
sẽ truyền tải cho người thứ 3 và lần lượt truyền đến đội phó đứng cuối
cùng.Đội phó sẽ viết lại câu mình được nghe cho Ban giám khảo.
Mỗi nhóm có 5 phút để thực hiện truyền tin, nhóm nào truyền nhanh
nhất và chính xác nhất được 50 điểm.
Nội dung các thông tin cho 4 đội như sau:
- Đội 1: Đường Trường Sơn là con đường của ý chí quyết thắng, lòng
dũng cảm, khí phách anh hùng của dân tộc Việt Nam.
- Đội 2: Hầm di động là phương tiện giúp bộ đội Trường Sơn tránh bị
sát thương khi đi tháo dỡ bom mìn, là sự sáng tạo của bộ đội ta chống lại vũ
khí tối tân của kẻ thù.
- Đội 3: Trường Sơn - nơi thử nghiệm chiến tranh điện tử của đế quốc
Mỹ, chúng đã dội hơn 4 triệu tấn bom đạn xuống tuyến đường này.
- Đội 4: Hệ thống đường chiến lược Trường Sơn dài 20.000km (cả hệ
thống dọc và ngang), xuyên qua 3 nước Đông Dương.
4. Hoạt động 4: Thuyết trình “Cảm xúc Trường Sơn”.
- Thời gian: 38 phút (gồm 15 phút xem phim, 12 phút trình bày cho 4
74
đội và 1 phút công bố tiêu chí).
- Mục đích: HS hiểu được ý nghĩa của hoạt động tham quan tại bảo
tàng , hiểu được vai trò của đường Trường Sơn và có được những tình cảm,
thái độ với bộ đội ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
- Hình thức: Chia lớp thành 4 nhóm, mỗi nhóm cử 1 HS thuyết trình.
Các nhóm được xem tư liệu về đường Trường Sơn tại tầng 2 của bảo tàng
Mỗi nhóm có 3 phút để thuyết trình nêu nên những hiểu biết, cảm xúc,
suy nghĩ của mình về đường Trường Sơn.
- Cách tính điểm:
+ Trình bày đúng hiểu biết được 5 điểm.
+ Trình bày lưu loát, rõ ràng được 5 điểm.
+ Trình bày có cảm xúc được 5 điểm.
+ Trình bày đúng thời gian được 5 điểm.
2.3.2.2. Tổ chức trải nghiệm sáng tạo tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh.
Theo dự thảo chương trình giáo dục phổ thông năm 2017 của Bộ Giáo
dục và Đào tạo thì: “Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo dục,
trong đó học sinh dựa trên sự tổng hợp kiến thức của nhiều lĩnh vực giáo dục
và nhóm kỹ năng khác nhau để trải nghiệm thực tiễn đời sống nhà trường, gia
đình và tham gia hoạt động phục vụ cộng đồng dưới sự hướng dẫn và tổ chức
của nhà giáo dục, qua đó hình thành những phẩm chất chủ yếu, năng lực
chung và một số năng lực thành phần đặc thù của hoạt động này: Năng lực
thiết kế và tổ chức hoạt động; năng lực thích ứng với sự biến động của nghề
nghiệp và cuộc sống”. (tr.25)
Còn quan điểm riêng của tác giả Chu Cẩm Thơ (giám đốc nghiên cứu
và phát triển Chương trình toán Pomah): “Trải nghiệm sáng tạo không thể
tách rời môn học cụ thể. Vì bản chất của trải nghiệm sáng tạo là sự vận dụng
nội dung môn học để thực hành, vận dụng giải quyết các vấn đề khác nhau
75
trong cuộc sống. Vì thế, trải nghiệm sáng tạo đưa về các môn học thì hợp lý”.
“Theo Unesco: “ giáo dục trải nghiệm là một phạm trù bao gồm nhiều
phương pháp, trong đó người dạy cùng người học tham gia trải nghiệm thực
tế, sau đó phản ánh, tổng kết lại để tăng cường hiểu biết, phát triển khả năng,
định hình các giá trị sống và phát triển tiềm năng bản thân, tiến tới đóng góp
tích cực cho cộng đồng và xã hội ” [1, tr. 62].
Do đó trải nghiệm sáng tạo sẽ có ở nhiều môn học khác nhau và tạo cho
HS có nhiều kĩ năng,hình thành phẩm chất, có nhiều trải nghiệm thực tế thông
qua các hoạt động tập thể, dự án học tập, hoạt động xã hội... HS sẽ là người
vừa tham gia, vừa tự tổ chức thiết kế hoạt động của mình để khám phá,để
sáng tạo, để tổ chức cuộc sống có kế hoạch hơn. Qua hoạt động trải nghiệm
sáng tạo, HS cũng định hướng được nghề nghiệp cho mình, rèn luyện được
phẩm chất và năng lực để thích ứng với sự nghiệp trong tương lai.
Để tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo tại bảo tàng đường Hồ Chí
Minh nhằm giúp học sinh hình thành những năng lực trên, GV cần có sự kết
hợp các phương pháp, hình thức tổ chức sáng tạo, phong phú như: tham quan,
tổ chức các hội thi, đóng vai nhân viên bảo tàng, đóng vai phóng viên chiến
trường, đóng vai chiến sĩ Trường Sơn...
Cụ thể, hoạt động trải nghiệm sáng tạo tại bảo tàng đường Hồ Chí
Minh được thực hiện như sau:
Ví dụ: Chương trình ngoại khóa “Miền Nam gọi, miền Bắc trả lời”.
Chủ đề: Hậu phương miền Bắc trong trong kháng chiến chống Mỹ.
I. Mục tiêu.
Kết thúc hoạt động ngoại khóa này, HS có khả năng:
1. Về kiến thức:
- Trình bày được những khó khăn của nhân dân miền Bắc trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
76
- Hiểu được sự ác liệt của chiến tranh trên tuyến đường Trường Sơn.
- Đánh giá được vai trò hậu phương của nhân dân miền Bắc với tiền
tuyến miền Nam.
2. Về kĩ năng:
- Đọc và khai thác thông tin từ các tư liệu, hiện vật của bảo tàng đường
Hồ Chí Minh.
- Làm việc nhóm, tham gia các hoạt động tập thể.
- Biết cách chơi các trò chơi vận động.
3. Về thái độ:
- Trân trọng tình cảm của hậu phương miền Bắc với tiền tuyến miền
Nam.
- Yêu thích các hoạt động tập thể, gắn kết bạn bè.
II. Cơ cấu tổ chức.
1. Đối tượng tham gia.
- HS lớp 12 THPT
- Số lượng: 40 HS (chia làm 2 đội).
2. Thời gian tổ chức (dự kiến).
- Thời gian: 120 phút
- Ngày... tháng... năm...
III. Chuẩn bị của GV và HS.
1. Chuẩn bị của GV.
- Lên kế hoạch và đề xuất với nhà trường về tổ chức tham quan tại bảo
tàng đường Hồ Chí Minh cho HS.
- Liên hệ với Ban quản lý bảo tàng để trình bày mục đích, yêu cầu và
nội dung buổi tham quan.
- Tìm hiểu những nội dung trưng bày tại bảo tàng có liên quan đến chủ
77
đề.
- Giao nhiệm vụ chuẩn bị cho HS: Đọc trước tài liệu của bảo tàng,
chuẩn bị các tiết mục văn nghệ, đồ dùng để tham gia các trò chơi.
2. Chuẩn bị của HS.
- Đọc các tài liệu về bảo tàng đường Hồ Chí Minh theo yêu cầu của GV
qua trang website: http://www.btlsqsvn.org.vn
- Các đội chuẩn bị 1 bao bố và 5 balo đựng đồ (mỗi balo nặng khoảng
2 kg)
IV. Nội dung hoạt động.
1. Hoạt động 1: Tham quan bảo tàng
- Thời gian: 30 phút.
- Mục đích: Quan sát các địa điểm trọng yếu trên đường Trường Sơn
(đường Hồ Chí Minh ) và cách thức vận chuyển lương thực, thực phẩm vào
chiến trường qua con đường này.
- Hình thức: HS tham quan ở phòng trưng bày tầng 1 (phần : “Đông
Trường Sơn thuở ban đầu”; phần: “Đi lên theo bước phát triển của cách mạng
Việt Nam”; Tầng 2 (phần: “Sa bàn thế trận Trường Sơn”).
2. Hoạt động 2: Phần thi “Chào hỏi”.
- Thời gian: 10 phút (mỗi đội 5 phút).
- Mục đích: HS rèn luyện được sự tự tin, kĩ năng thuyết trình, kĩ năng
làm việc nhóm.
- Hình thức: Chia lớp thành 2 đội, mỗi đội 1 HS đại diện bốc thăm và
suy nghĩ (2 phút), trình bày trong thời gian 3 phút.
- Yêu cầu : Trình bày tự tin, nội dung hợp chủ đề, hấp dẫn, lưu loát, rõ
ràng.
- GV làm giám khảo
3. Hoạt động 3: Phần thi “Tài năng”.
78
- Thời gian: 25 phút.
- Mục đích: giới thiệu cho HS một số ca khúc về Trường Sơn, về cuộc
chiến đầy hào hùng của dân tộc ta trong thời kì 1954 - 1975.
- Hình thức: Chia lớp thành 2 đội, mỗi đội 3 HS.
+ Luật thi:
Mỗi đội cử ra 1 HS hát 1 bài hát về Trường Sơn, hát xong đến bạn của
đội 2 và quay vòng.
Đội nào không hát được thì đội cổ vũ đếm từ 1 đến 5 và chuyển tiếp
đến khi hết thời gian 25 phút,
- Tiêu chí: Hát đúng chủ đề, hát hay, nhiều bài.
4. Hoạt động 4: Phần thi “Ai nhanh ai đúng”.
- Thời gian: 25 phút
- Mục đích: giới thiệu cho HS biết được các địa điểm trọng yếu của
tuyến đường Trường Sơn và rèn luyện sự nhanh nhẹn, khéo léo của HS qua
trò chơi.
- Hình thức: Chia lớp thành 2 đội, mỗi đội cử 5 HS tham gia trò chơi.
- Cách chơi:
Mỗi đội có 1 bảng ở phía trước ghi tên 20 địa điểm khác nhau trên
tuyến đường Trường Sơn.
Tại vạch xuất phát, mỗi đội có danh sách 10 điểm trọng yếu của đường
Trường Sơn.
Nhiệm vụ của 2 đội là cùng di chuyển nhanh (nhảy bao bố) đến bảng
đó và gắn cờ (nhỏ) lên 1 trong 10 điểm được ghi trong danh sách.
Bạn này xong sẽ lần lượt đến bạn khác trong đội cho đến hết thời gian.
- Tiêu chí: Di chuyển nhanh, cắm được nhiều cờ và đúng.
5. Hoạt động 5. Phần thi “Trải nghiệm chiến trường”.
- Thời gian: 30 phút.
79
- Mục đích: HS hiểu được sự khó khăn của bộ đội Trường Sơn khi vận
chuyển hàng hóa, lương thực ra chiến trường và rèn luyện sự nhanh nhẹn,
khéo léo của HS qua trò chơi.
- Hình thức: Chia lớp thành 2 đội, mỗi đội cử 10 HS tham gia trò chơi.
- Cách chơi:
Mỗi đội có 15 phút để thực hiện trò chơi.Các đội tự chọn 2 HS vào 1
cặp quay lưng vào nhau với balo đựng đồ ở giữa, các cặp sẽ di chuyển từ
điểm xuất phát cho tới đích trong thời gian nhanh nhất và quay lại đến lượt
các cặp khác.
- Tiêu chí: Nhanh, vận chuyển được nhiều balo đựng đồ về đích.
V. Kết thúc hoạt động.
- Dựa vào tổng số điểm sẽ trao giải nhất, nhì cho 2 đội.
- HS về nhà làm bài thu hoạch : “Hãy viết những hiểu biết của mình về
một trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn mà em cho là ấn tượng nhất”.
2.3.2.3. Tổ chức trò chơi tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh.
Qua thực tiễn khảo sát cho thấy đa số HS thích hoạt động tổ chức trò
chơi tại bảo tàng. Với hoạt động này các em không bị gò bó mà được thể hiện
mình. Đối với quá trình dạy học lịch sử, tổ chức trò chơi cũng là một phương
pháp giáo dục giúp học sinh rèn luyện các giác quan, khéo léo hơn, nhanh
nhẹn hơn và tự tin hơn.Ngoài ra trò chơi còn giúp các em có khả năng quan
sát, phản ứng nhanh, chủ động và đoàn kết.Trò chơi là một phương tiện giáo
dục giải trí, giúp HS được rèn luyện, phấn khích, thích thú và vì thế bài học
lịch sử sẽ đạt hiệu quả hơn.
Theo nhu cầu của HS, các trò chơi được tổ chức tại bảo tàng đường Hồ
Chí Minh được thực hiện như sau:
Chương trình “Mãi mãi tuổi hai mươi”.
Chủ đề: Đường Trường Sơn trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
I. Mục tiêu.
80
Kết thúc hoạt động ngoại khóa này, HS có khả năng:
1. Về kiến thức:
- Hiểu được những khó khăn của bộ đội Trường Sơn và sự ác liệt của
chiến tranh trên tuyến đường này.
- Đánh giá được vai trò của đường Trường Sơn trong kháng chiến
chống Mỹ.
2. Về kĩ năng:
- Đọc và khai thác thông tin từ các tư liệu, hiện vật của bảo tàng đường
Hồ Chí Minh và các tài liệu có liên quan.
- Rèn kĩ năng đóng vai, làm việc nhóm, tham gia các hoạt động tập thể,
tổ chức sự kiện.
- Biết cách chơi các trò chơi vận động.
3. Về thái độ:
- Trân trọng những con người đã làm nên lịch sử, hiểu được giá trị của
cuộc sống.
- Học sinh có ý thức giữ gìn và bảo vệ các bảo tàng, di tích lịch sử.
II. Cơ cấu tổ chức.
1. Đối tượng tham gia.
- HS lớp 12 THPT.
- Số lượng: 40 HS (chia làm 2 đội).
2. Thời gian tổ chức (dự kiến).
- Thời gian: 120 phút.
- Ngày... tháng... năm...
III. Chuẩn bị của GV và HS.
1. Chuẩn bị của GV.
- Lên kế hoạch và đề xuất với nhà trường về tổ chức tham quan tại bảo
tàng đường Hồ Chí Minh cho HS.
- Liên hệ với Ban quản lý bảo tàng để trình bày mục đích, yêu cầu và
81
nội dung buổi ngoại khóa.
- Tìm hiểu những nội dung trưng bày tại bảo tàng có liên quan đến chủ đề.
- Giao nhiệm vụ chuẩn bị cho HS: Đọc trước tài liệu của bảo tàng,
chuẩn bị nội dung để tham gia các trò chơi.
2. Chuẩn bị của HS.
- Đọc các tài liệu về bảo tàng đường Hồ Chí Minh theo yêu cầu của GV
qua trang website : http://www.btlsqsvn.org.vn
- Các đội chuẩn cờ bị cờ nhỏ, ba lô và túi bóng đựng 3 lít nước.
IV. Nội dung hoạt động.
1. Hoạt động 1: Trò chơi “Đoán tên hiện vật”.
- Thời gian: 30 phút.
- Mục đích: HS biết được các hiện vật đã được sử dụng để mở đường
và phục vụ cho công tác di chuyển, vận chuyển trên tuyến đường Trường Sơn.
- Hình thức: HS được chia làm 2 đội, xếp thành 2 hàng dọc, mỗi đội 5
HS.
Mỗi hiện vật là một gợi ý, lần lượt mỗi người trong đội trả lời nhanh
nhất và đúng sẽ được cộng 10 điểm cho mỗi hiện vật.Trả lời đến gợi ý thứ 2
bị trừ 5 điểm.
2. Hoạt động 2: Đóng vai hướng dẫn viên bảo tàng.
- Thời gian: 30 phút.
- Mục đích: Cho HS hiểu biết thêm về cách thức vận chuyển hàng của
bộ đội Trường Sơn.
Rèn luyện sự tự tin, kĩ năng thuyết trình.
- Hình thức: Chia lớp thành 2 đội và làm theo yêu cầu của GV
Yêu cầu 1: Hãy kể tên 3 cách thức để vận chuyển hàng của bộ đội qua
đường Trường Sơn? (HS có thể kể: dùng ngựa, dùng gùi, dùng xe thồ).
Yêu cầu 2: HS bốc thăm 1 trong 3 hiện vật và giới thiệu về hiện vật đó,
82
trình bày tự tin, đúng chủ đề, hấp dẫn, lưu loát, rõ ràng.
- GV làm giám khảo.
3. Hoạt động 3: Tập làm chiến sĩ.
- Thời gian: 30 phút.
- Mục đích: cho HS hiểu thêm về những khó khăn của bộ đội Trường
Sơn khi vận chuyển xăng dầu qua tuyến đường này.
- Hình thức: Chia lớp thành 2 đội, mỗi đội 5 chiến sĩ tham gia.
- Cách chơi: Các chiến sĩ đeo ba lô (mỗi ba lô đựng 3 lít nước đã được
chuẩn bị) và di chuyển từ vạch xuất phát qua các chướng ngại vật (bao cát,
cành cây, ghế...) để lấy lá cờ mang về đích, cắm cờ vào giỏ quà và nhận được
1 câu hỏi để trả lời. Mỗi đội có 15 phút thực hiện.
- Tiêu chí: Nhanh, không chạm vật cản, trả lời đúng câu hỏi.
4. Hoạt động 4: Trò chơi “Tiếp sức về nguồn”.
- Thời gian: 30 phút.
- Mục đích: giới thiệu cho HS biết được các địa điểm trọng yếu của
tuyến đường Trường Sơn.
- Hình thức: Chia lớp thành 2 đội, mỗi đội cử 2 HS tham gia trò chơi.
- Cách chơi:
Trên màn hình ghi tên 10 địa điểm khác nhau trên tuyến đường Trường Sơn.
Một HS quay lên màn hình và 1 HS quay xuống màn hình, HS quay lên
sẽ nhìn từng địa danh và gợi ý cho HS đứng dưới trả lời trong thời gian 15
phút cho mỗi đội.
Mỗi câu trả lời đúng được 10 điểm.
- Tiêu chí: trả lời đúng câu hỏi, đúng thời gian, không gợi ý bằng tiếng
Anh, tiếng lóng.
V. Kết thúc hoạt động.
- Dựa vào tổng số điểm sẽ trao giải nhất, nhì cho 2 đội.
- HS về nhà làm bài thu hoạch: “Hãy giới thiệu về một hiện vật tại bảo
83
tàng đường Trường Sơn mà em cho là ấn tượng nhất”.
2.4. Thực nghiệm sƣ phạm
2.4.1. Mục đích, đối tượng thực nghiệm
Mục đích thực nghiệm:
Thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm nghiệm, đánh giá và khẳng định
được tính khả thi của các đề xuất về nội dung, biện pháp thực hiện đề tài “Sử
dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử Việt Nam thời kì
1954- 1975”.
Trong khi chúng tôi đang thực hiện đề tài thì bảo tàng đường Hồ Chí
Minh vẫn trong quá trình sửa chữa và đóng cửa tạm dừng hoạt động đến
tháng 12/2017 mới mở cửa, do đó chúng tôi chỉ thực nghiệm được bài nội
khóa.
Đối tượng thực nghiệm:
Quá trình thực nghiệm được tiến hành tại trường THPT Trần Hưng Đạo
- Hà Đông - Hà Nội.
Lớp được chọn thực nghiệm là lớp 12a6 (34 học sinh), lớp đối chứng là
12a3 (35 học sinh).
Lớp thực nghiệm và lớp đối chứng được lựa chọn theo nguyên tắc: Sĩ
số gần tương đồng nhau, kết quả học tập chênh lệch không đáng kể.
2.4.2. Nội dung, phương pháp thực nghiệm
Nội dung thực nghiệm:
Chúng tôi đã tiến hành thực nghiệm bài 22: “Nhân dân hai miền trực
tiếp chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược.Nhân dân miền Bắc vừa chiến đấu
vừa sản xuất (1965-1973).Tiết 2- Lớp 12 chương trình chuẩn.
Để thực nghiệm thành công và thu được kết quả chính xác, chúng tôi đã
đảm bảo mục tiêu bài học, chia thời gian và nội dung kiến thức đúng với phân
phối chương trình quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Việc thực nghiệm
84
được tiến hành qua 1 tiết học/ lớp.
Phương pháp thực nghiệm:
Chuẩn bị giáo án theo 2 kiểu như sau:
Kiểu 1: Lớp 12a6
- Xây dựng giáo án thực nghiệm.
- GV sử dụng tranh ảnh của bảo tàng đường Hồ Chí Minh có liên quan
đến bài học, xây dựng bảo tàng ảo.
- Máy tính kết nối với máy chiếu và màn hình.
Kiểu 2: Lớp 12a3
Giáo án soạn giảng bình thường, không sử dụng bảo tàng đường Hồ
Chí Minh trong dạy học lịch sử.
Sau khi tiến hành thực nghiệm, chúng tôi đã kiểm tra hoạt động nhận
thức của học sinh lớp thực nghiệm và lớp đối chứng. Hai lớp cùng trả lời
phiếu thăm dò ý kiến học sinh sau giờ học.(Phụ lục 4) và làm bài kiểm tra
nhanh gồm 5 câu hỏi trắc nghiệm, 1 câu hỏi tự luận (Phụ lục 5). Tiêu chí đánh
giá là thang điểm 10.
- Từ điểm 9 đến 10 (giỏi): Bài làm đủ số câu, đúng kiến thức, hiểu
được nội dung và ý nghĩa bức ảnh.
- Từ điểm 7 đến 8 (khá): Bài làm đúng số câu nhưng một số câu trả lời
chưa đúng, nêu được nội dung bức ảnh.
- Từ điểm 5 đến 6 (trung bình): bài có số câu trả lời ít hơn so với bài
đạt điểm 7-8, kiến thức nắm chưa sâu.
- Từ điểm 3 đến 4 (yếu): Bài có số câu trả lời đúng dưới 50% số lượng
câu hỏi.
85
2.4.3. Kết quả thực nghiệm
Bảng 2.1. Bảng tổng hợp kết quả điểm kiểm tra giữa lớp TN và lớp ĐC
Điểm Điểm Khá Điểm TB Điểm Yếu, Giỏi Lớp kém <5 7-8 5-6 9-10
Số lượng 14 10 4 6 Lớp TN
(34hs) Tỉ lệ % 17,6% 41,2% 29,4% 11,8%
Số lượng 6 16 11 2 Lớp ĐC
(35hs) Tỉ lệ % 5,7% 17,2% 45,7% 31,4%
Qua bảng 2.1, dựa trên các kết quả thực nghiệm sư phạm đã thông qua
việc xử lí số liệu thu được, chúng tôi nhận thấy: chất lượng học tập của học
sinh lớp thực nghiệm luôn cao hơn học sinh lớp đối chứng. Cụ thể:
Ở lớp thực nghiệm12a6, GV đã sử dụng tư liệu bảo tàng đường Hồ Chí
Minh vào dạy học, học sinh rất hứng thú theo dõi và phát biểu. Tổng số bài
kiểm tra GV thu được là 34 bài, trong đó số bài đạt điểm giỏi là 6 (chiếm
17,6%), điểm khá là 14 (chiếm 41,2%), điểm trung bình là 10 (chiếm 29,4%),
điểm yếu là 4 (chiếm 11,8%).
Ở lớp đối chứng 12a3, GV dạy theo phương pháp truyền thống, đưa ra
nội dung kiến thức trong bài và yêu cầu học sinh phát biểu rồi ghi chép do đó
chưa tạo ra sự hứng thú,chủ động cho học sinh. Tổng số bài kiểm tra thu về
là 35, trong đó bài đạt điểm giỏi là 2 (chiếm 5,7%), điểm khá là 6 (chiếm
17,2%), điểm trung bình là 16 (chiếm 45,7%), điểm yếu là 11 (chiếm 31,4%).
Đa số học sinh lớp thực nghiệm nắm chắc kiến thức hơn so với lớp đối
chứng, tỉ lệ học sinh đạt điểm giỏi ở lớp thực nghiệm chiếm 17,6 % (cao hơn
lớp đối chứng 11,9%).Tỉ lệ điểm yếu của học sinh lớp đối chứng cao hơn lớp
thực nghiệm là 20%.
Qua phân tích các số liệu từ phiếu thông tin của học sinh sau giờ dạy
86
thực nghiệm, chúng tôi thu được kết quả như sau:
Về mức độ hứng thú của học sinh và kết quả của giờ học:
Đa số HS đều rất hăng hái xây dựng bài, hứng thú với bài học, 82% HS
hiểu bài học, 85% HS đã được mở rộng thêm kiến thức có liên quan đến bài
học và thấy hấp dẫn qua cách mở rộng kiến thức về đường Trường Sơn của
giáo viên.
Về mục tiêu học tập và kĩ năng:
Khi GV sử dụng tư liệu bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong bài học, có
46% HS đã đạt được mục tiêu trang bị thêm những kiến thức về đường
Trường Sơn, về sự ác liệt của chiến tranh và những khó khăn của nhân dân
hai miền đất nước khi phải chống lại một đế quốc sừng sỏ nhất trên thế giới.
55,8% học sinh cho rằng được rèn luyện kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng
thuyết trình.
Thông qua bài học,với các phương pháp giáo viên sử dụng,70,5% cho
rằng GV sử dụng phương pháp trực quan hiệu quả nhất, qua những hình ảnh
GV cung cấp và hướng dẫn học sinh khai thác, học sinh đã có thêm những
đánh giá, nhận xét về tinh thần chiến đấu của quân dân ta, một thời “Xẻ dọc
Trường Sơn đi cứu nước”, thấy được mối quan hệ gắn bó ruột thịt giữa hậu
phương và tiền tuyến trong việc chống lại các chiến lược chiến tranh của đế
quốc Mỹ.
Về thái độ:
67,6% HS cho rằng đã khơi dậy lòng yêu nước và tự hào dân tộc khi
được GV mở rộng thêm kiến thức ngoài sách giáo khoa, được nhìn và khai
thác các tranh ảnh của bảo tàng đường Hồ Chí Minh có liên quan đến bài học.
Như vậy, thông qua tiết học Lịch sử có sử dụng tư liệu bảo tàng đường
Hồ Chí Minh đã giúp HS biết thêm nhiều nguồn tài liệu chưa được biết đến
hoặc chưa được đề cập trong sách giáo khoa. Với nhận thức đúng đắn và đạt
được các mục tiêu bài học đề ra đã mở rộng sự hiểu biết , sự hứng thú cho học
sinh làm cho các em yêu thích môn học, qua đó đã khơi dậy lòng yêu nước và
87
tự hào dân tộc cho học sinh. Các em cũng mong muốn được mở rộng thêm
các kiến thức ngoài sách giáo khoa, được nghe GV kể các câu chuyện lịch sử
và xem video có liên quan đến bài học.
Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực nghiệm chúng tôi cũng thấy
một số bất cập như sau:
- Bài học dài, có nhiều nội dung nên thời gian không đủ để khai thác
triệt để các loại ảnh và hiện vật của bảo tàng đường Hồ Chí Minh.
- Học sinh chưa tự tin và chưa có nhiều sự tìm tòi khi trả lời các câu hỏi
thông qua các hình ảnh mà giáo viên đưa ra.
Để khắc phục tình trạng này, chúng tôi đã đưa ra một số giải pháp giúp
cho việc áp dụng đề tài vào giảng dạy được tốt hơn:
- Tạo hứng thú cho học sinh trong mỗi giờ học lịch sử.
- Cần hướng dẫn cho học sinh có sự chuẩn bị tốt về tư liệu.
- Kiểm tra đánh giá sau giờ học.
Qua kết quả thực nghiệm trên, chúng tôi khẳng định: Trong quá trình
dạy học Lịch sử, GV chỉ dựa vào kiến thức sách giáo khoa là chưa đủ. Việc
sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh vào bài học một cách phù hợp sẽ là một
trong những biện pháp tốt để giúp GV nâng cao được hiệu quả bài học và giúp
học sinh hứng thú hơn với môn học. Bài học lịch sử sẽ bớt nặng nề, học sinh
thích thú với những kiến thức được mở rộng, tiếp cận được những nguồn tư liệu
88
bảo tàng chưa biết đến nhưng đã được GV chia sẻ, khai thác trong giờ học.
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2
Trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu nội dung, cấu trúc chương trình lịch sử
lớp 12 (Phần lịch sử Việt nam thời kì 1954 - 1975) cùng với việc đánh giá
thực trạng sử dụng bảo tàng nói chung và Bảo tàng đường Hồ Chí Minh nói
riêng trong dạy học Lịch sử, chúng tôi đã tiến hành đề xuất các biện pháp sử
dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh để dạy bài nội khóa và tổ chức một số
hoạt động ngoại khóa nhằm nâng cao hiệu quả dạy học Lịch sử cho HS ở
trường THPT hiện nay.
Để đánh giá được tính khả thi và những thuận lợi, khó khăn khi triển
khai các biện pháp đề xuất trong đề tài vào thực tiễn dạy học Lịch sử ở trường
THPT, chúng tôi tiến hành thực nghiệm sư phạm, đánh giá, phân tích kết quả
thực nghiệm. Thông qua kết quả thực nghiệm, phần nào khẳng định được tính
khả thi hiệu quả mà trong nội dung luận văn đã đề xuất.
Đề tài phù hợp mục tiêu dạy học lịch sử, với khả năng tổ chức của GV và
khả năng thực hiện của HS mặc dù trong thực tế vẫn còn khó khăn. Những đề
xuất về hoạt động ngoại khóa phù hợp hơn khi triển khai ở các trường THPT
89
trên địa bàn Quận Hà Đông - Hà Nội.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở rút ra một số kết luận như sau
1.Bảo tàng là nơi bổ sung nguồn kiến thức lịch sử vô cùng phong phú,
đa dạng. Thông qua các tư liệu, hiện vật, không gian của bảo tàng sẽ có tác
dụng nâng cao việc giáo dục đạo đức, mở rộng kiến thức và rèn luyện cho học
sinh các kĩ năng học tập.Bảo tàng còn là nơi khơi nguồn cảm hứng trong dạy
và học lịch sử ở các trường phổ thông . Sử dụng bảo tàng trong dạy học Lịch
sử rất cần thiết và cũng là một biện pháp để góp phần đổi mới phương pháp,
nâng cao hiệu quả bài học.
2. Bảo tàng đường Hồ Chí Minh với nhiều nguồn tư liệu phong phú,
liên quan nhiều tới lịch sử dân tộc thời kì 1954 - 1975. Do đó, đòi hỏi giáo
viên cần phải có sự lựa chọn các nguồn tư liệu liên quan đến nội dung bài học
(chủ đề), phù hợp với đối tượng học sinh để thiết kế bài dạy, lựa chọn phương
pháp dạy học.Trong luận văn đã đưa ra các đề xuất dạy học trong các bài nội
khóa (xây dựng bảo tàng ảo, sử dụng trong các bài học có liên quan) và hoạt
động ngoại khóa (tham quan, tổ chức trò chơi, trải nghiệm sáng tạo) có sử
dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh.
3. Qua kết quả thực nghiệm đã cho thấy tính hiệu quả bước đầu của
việc sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử Việt Nam.
Giáo viên cần kết hợp và vận dụng linh hoạt với các phương pháp dạy học
khác sẽ góp phần nâng cao chất lượng bộ môn.
Từ kết quả nghiên cứu và mong muốn các biện pháp được đề xuất trong
luận văn có thể thực hiện được trong thực tế dạy học Lịch sử, chúng tôi xin
đưa ra một số khuyến nghị sau:
1. Đối với bảo tàng đường Hồ Chí Minh.
Để thu hút được GV và HS các trường THPT quan tâm tìm hiểu, tham
90
quan, học tập, bảo tàng nên sửa sang thêm về sơ sở vật chất, có kế hoạch tổ
chức các chương trình, sự kiện bổ ích, phù hợp với học sinh (1 năm/2 lần),
xây dựng phòng khám phá trong bảo tàng và giảm phí vé vào cửa cho đối tượng
HS.
Cần phối hợp với các nhà trường để tổ chức các buổi trưng bày lưu động để tăng
cường công tác giáo dục cho học sinh.
2. Đối với Bộ giáo dục- đào tạo
Các hình ảnh trong sách giáo khoa hiện nay còn ít, chủ yếu là ảnh đen
trắng, chưa có tính thẩm mĩ, không nhấn mạnh được nội dung và trọng tâm
bài học. Do đó, cần đa dạng hơn các hình ảnh lịch sử, hiện vật lịch sử, nhân
vật lịch sử để tác động tới trực quan của học sinh, qua đó học sinh có thể hiểu
về lịch sử, phân tích, đánh giá… tạo sự chủ động, tích cực trong học tập cho
học sinh.
3. Đối với nhà trường
Ban giám hiệu nhà trường cần tạo điều kiện về sơ sở vật chất, kinh phí
cho giáo viên và học sinh: Máy chiếu, máy tính, máy ảnh, phòng học bộ
môn… để giáo viên dễ dàng thực hiện kế hoạch bài dạy đã đề ra.
4. Đối với giáo viên
Giáo viên bộ môn Lịch sử cần tự tin, mạnh dạn đổi mới phương pháp
dạy học, kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học cho phù hợp với nội
dung bài và đối tượng học sinh. Qua mỗi bài dạy lịch sử, giáo viên cần tạo
được cảm hứng cho học sinh để học sinh thêm hiểu, thêm yêu bộ môn của
mình, như vậy cũng là một cách để giáo viên tạo được sự hứng thú cho học
91
sinh với môn học.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Đặng Văn Bài (2017), “Mấy suy nghĩ về hoạt động giáo dục trải
nghiệm tại bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam” Tạp chí Di sản văn
hóa (2).tr.62.
Bộ giáo dục và đào tạo (2016), SGK Lịch sử 12 2.
Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2015), Lịch sử 3.
kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954- 1975), NXB Chính trị Quốc
gia.
4. Nguyễn Thị Côi (chủ biên ) ( 2011), Rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ sư
phạm môn Lịch sử, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
5. Nguyễn Thị Côi (1998), Bảo tàng Lịch sử, cách mạng trong dạy học
lịch sử ở trường Phổ thông trung học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội
6. Nguyễn Thị Côi (2008), Các con đường,biện pháp nâng cao hiệu quả dạy
học LS ở trường phổ thông, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
7. Nguyễn Văn Đệ (2016), Thanh niên xung phong phục vụ giao thông
vận tải thời chống Mỹ ,Nxb Giao thông vận tải
8. Lê Mậu Hãn (chủ biên) ( 2014), Đại cương lịch sử Việt Nam tập 3,
Nxb Giáo dục Việt Nam
9. Hoàng Huân (2015), Một góc nhìn chiến tranh, Nxb Hà Nội
10. Phạm Ngọc Hòa - Tô Thị Thanh Thảo (2015),“Sử dụng phương pháp
dạy học tích cực trong dạy học lịch sử ở trường THPT hiện nay”, Kỉ
yếu Hội thảo khoa học - Đại học Cần Thơ.
11. Vũ Quang Hiển – Hoàng Thanh Tú (chủ biên) (2014), Phương pháp
dạy học môn Lịch sử ở trường trung học phổ thông,, Nxb Đại học
92
Quốc gia Hà Nội
12. Phan Ngọc Liên (1996), Thuật ngữ khái niệm lịch sử phổ thông, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội.
13. Phan Ngọc Liên – Trần Văn Trị (1998), Phương pháp dạy học lịch
sử (Tái bản lần thứ nhất) có sửa chữa bổ sung, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
14. Phan Ngọc Liên (chủ biên) (2009), Phương pháp dạy học lịch sử- Tập 2,
Nxb Đại học Sư Phạm Hà Nội.
15. Luật giáo dục , 2005, Nxb Chính trị Quốc gia.
16. Luật di sản Văn hóa (2009), Nxb Chính trị Quốc gia.
17. Nguyễn Phƣơng Nam (2016), Về các tổng thống Mỹ trong chiến tranh
xâm lược Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia
18. Mai Văn Nam (2012), “Bước đầu nghiên cứu xây dựng bảo tàng ảo
nhằm vận dụng vào dạy học lịch sử ở trường phổ thông” Tạp chí giáo
dục (293). tr. 51- 53.
19. Quân đội nhân dân Việt Nam- Tổng cục chính trị (2009), Tài liệu
tuyên truyền 50 năm ngày mở đường Hồ Chí Minh, ngày truyền thống
bộ đội Trường Sơn, Nxb Quân đội nhân dân.
20. Viện hàn lâm khoa học Việt Nam (2014), Lịch sử Việt Nam thường
thức, tập 2, Nxb giáo dục Việt Nam.
21. Trịnh Đình Tùng (chủ biên) (2010), Dạy học theo chuẩn kiến thức kĩ
năng môn Lịch sử, Nxb Đại học Sư phạm.
22. Nguyễn Thị Kim Thành (2014), Bảo tàng, di tích nơi khơi nguồn cảm
hứng dạy và học Lịch sử cho học sinh phổ thông, Nxb Giáo dục Việt
Nam.
23. Bùi Hà Thanh (2017), “Quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp”
93
Tạp chí dạy và học ngày nay (2). tr. 27.
24. Hoàng Thanh Tú, Chu Ngọc Quỳnh (2013), “Xây dựng chương trình
hoạt động ngoại khóa môn lịch sử tại bảo tàng dân tộc học Việt Nam”
Tạp chí giáo dục và xã hội (29). tr. 13- 16.
25. Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Văn Phúc,(2012) “Định hướng nhiệm vụ
nhận thức trong dạy học Lịch sử ở trường THPT nhằm kích thích hứng
thú học tập cho học sinh”. Kỉ yếu Hội thảo Khoa học Quốc gia về dạy
học Lịch sử ở trường phổ thông Việt Nam, NXB Giáo dục Việt Nam, Bộ
Giáo dục và Đào tạo - Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam. tr.173.
26. Phạm Bá Toàn (2008), Cuộc chiến trên chiến trường Trường Sơn-
đường Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Mỹ, Nxb Quân đội nhân
dân.
27. Trƣờng Đại học Văn hóa Hà Nội (1990), Cơ sở bảo tàng học.
28. Phạm Xuân Vũ (2015), “Sử dụng tư liệu lịch sử địa phương trong dạy
học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954-1975 ở trường THPT tỉnh Đồng
Tháp”, Luận án trường ĐHSP Hà Nội.
NGUỒN INTERNET
29. http://baohatinh.vn/xa-hoi/huyen-thoai-truong-son-bai-2-con-duong-
30.
cua-lua-tuoi-20/69458.htm, cập nhật ngày 26/7/2017.
http://www.btlsqsvn.org.vn/tabid/89/post/311/BAO-TANG-DUONG-
HO-CHI-MINH.aspx, cập nhật ngày 26/7/2017.
31. http://www.nguoiduatin.vn/nguoi-anh-hung-vac-dan-di-bo-mot-vong-
trai-dat-a46933.html), cập nhật ngày 17/8/2017.
32. http://www.qdnd.vn/phong-su-dieu-tra/dieu-tra/duong-truong-son-con-
duong-huyen-thoai-478434 ngày 30/9/2017, cập nhật ngày 16/8/2017.
33. http://phunuvietnam.vn/kho-bau/huyen-thoai-10-co-gai-nga-ba-dong-
94
loc-post13787.html, cập nhật ngày 12/ 8/2017
DANH MỤC PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Phiếu khảo sát ý kiến giáo viên
Phụ lục 2: Phiếu khảo sát ý kiến học sinh
Phụ lục 3: Giáo án thực nghiệm
Phụ lục 4: Phiếu khảo sát sau giờ thực nghiệm
Phụ lục 5: Bài kiểm tra sau giờ thực nghiệm
Phụ lục 6: Ảnh chụp tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh.
95
Phụ lục 1:
PHIẾU KHẢO SÁT GIÁO VIÊN
Câu 1:Thầy (cô) quan niệm nhƣ thế nào về sử dụng bảo tàng trong dạy
học lịch sử?
Là phương tiện trực quan có giá trị trong giảng dạy, cung cấp nguồn
kiến thức phong phú cho học sinh.
Là cách khai thác các tư liệu, hiện vật của bảo tàng vào bài học lịch sử.
Là cách rèn luyện các kĩ năng cho học sinh.
Câu 2: Theo thầy (cô) việc sử dụng bảo tàng trong dạy học lịch sử có cần
thiết không?
Rất cần thiết
Cần thiết
Không cần thiết
Câu 3: Thầy (cô) đã từng đến bảo tàng đƣờng Hồ Chí Minh Chƣa?
Đã từng đến
Chưa từng đến
Câu 4: Thầy (cô) đã sử dụng bảo tàng đƣờng Hồ Chí Minh trong dạy học
lịch sử chƣa?
Thường xuyên sử dụng trong những bài học có liên quan
Sử dụng một vài lần trong hoạt động ngoại khóa
Chưa sử dụng
(Nếu có, thầy (cô) đã từng sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí Minh theo
cách thức nào dưới đây?)
Trao đổi, thảo luận
Hoạt động nhóm
96
Giải quyết tình huống
Tham quan
Sưu tầm tư liệu bảo tàng
Nghe hướng dẫn viên thuyết minh
Tổ chức trò chơi
Câu 5: Theo thầy (cô), những hoạt động ngoại khóa nào phù hợp với học
sinh để tổ chức tại bảo tàng đƣờng Hồ Chí Minh?
(Đánh dấu x vào những hoạt động mà thầy (cô) cho là phù hợp)
Hoạt động Ý kiến
5.1. Cùng các bạn nghe HDV thuyết minh
5.2. Tham quan các tư liệu, hiện vật tại bảo tàng
5.3. Sưu tầm,tìm hiểu lịch sử thông qua các tư liệu,hiện vật
5.4. Tham gia các trò chơi tổ chức tại bảo tàng
Câu 6: Thầy (cô) hãy đánh giá về mức độ hứng thú của HS khi GV sử
dụng bảo tàng trong dạy học lịch sử?
Rất hứng Hứng Bình Không Mức độ / hình thức thú thú thƣờng hứng thú
Trao đổi thảo luận
Hoạt động nhóm
Dạy học dự án
Tham quan
Sáng tạo, trải nghiệm
97
Tổ chức trò chơi
Phụ lục 2:
PHIẾU KHẢO SÁT HỌC SINH
Câu 1: Theo em, việc sử dụng bảo tàng trong dạy học Lịch sử ở trƣờng
phổ thông có cần thiết không?
Rất cần thiết
Cần thiết
Không cần thiết
Câu 2: Ở trƣờng, thầy (cô) dạy môn Lịch sử của các em có sử dụng bảo
tàng trong dạy học lịch sử không?
Thường xuyên
Thỉnh thoảng
Rất ít
Không bao giờ
Câu 3: Em đã từng đến bảo tàng đƣờng Hồ Chí Minh chƣa?
Đã từng đến
Chưa từng đến
Câu 4: Thầy (cô) dạy môn Lịch sử của em đã sử dụng bảo tàng đƣờng
HCM trong dạy học lịch sử chƣa?
Thường xuyên sử dụng trong những bài học có liên quan
Sử dụng một vài lần trong hoạt động ngoại khóa
Chưa sử dụng lần nào
( Nếu có, thầy (cô) của em đã từng sử dụng bảo tàng đường Hồ Chí
Minh theo những cách thức nào dưới đây ?)
Trao đổi, thảo luận
98
Hoạt động nhóm
Giải quyết tình huống
Tham quan
Sưu tầm tư liệu bảo tàng
Nghe hướng dẫn viên thuyết minh
Tổ chức trò chơi
Câu 5: Nếu đƣợc tham gia hoạt động ngoại khóa tại bảo tàng đƣờng Hồ
Chí Minh, em muốn tham gia những hoạt động nào?
(Đánh dấu x vào những hoạt động em muốn tham gia)
Hoạt động Ý kiến
5.1. Cùng các bạn nghe HDV thuyết minh
5.2. Tham quan các tư liệu,hiện vật tại bảo tàng
5.3. Sưu tầm,tìm hiểu lịch sử thông qua các tư liệu,hiện vật
5.4. Tham gia các trò chơi tổ chức tại bảo tàng
Câu 6: Em đánh giá nhƣ thế nào về mức độ hiệu quả khi sử dụng bảo
tàng đƣờng HCM trong dạy học lịch sử?
Mức độ
Tiêu chí
Rất
Ít
Hiệu
Bình
Không
quả
thƣờng
hiệu quả
hiệu quả
hiệu quả
Gây hứng thú học tập cho HS
Giáo dục truyền thống yêu
nước cho HS
Rèn các kĩ năng thực hành
cho HS
Khắc sâu kiến thức,mở rộng
hiểu biết cho HS
99
Câu 7: Em sẽ gặp những thuận lợi và khó khăn nào khi GV sử dụng bảo
tàng đƣờng Hồ Chí Minh trong dạy học Lịch sử?
(Em hãy đánh dấu x vào những thuận lợi, khó khăn khi triển khai)
Thuận lợi Nguồn tài liệu bảo tàng phong phú
Học sinh học tập chủ động
Giáo viên nhiệt huyết
Được nhà trường tạo điều kiện
Khó khăn Tài liệu bảo tàng còn hạn chế
Thời gian trên lớp không cho phép
Chưa có thói quen học tập tại bảo tàng
Ổn định tổ chức lớp tại bảo tàng
Kinh phí
Câu 8: Ý kiến đề xuất của em để việc sử dụng bảo tàng đƣờng Hồ Chí
100
Minh trong DHLS đạt hiệu quả hơn.
Phụ lục 3:
GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM
Bài 22: Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống đế quốc Mỹ
xâm lƣợc. Nhân dân miền Bắc vừa chiến đấu, vừa sản xuất (1965 – 1973)
(Tiết 2)
I. Mục tiêu
Học xong bài này, học sinh cần:
1. Kiến thức
- Trình bày được âm mưu, thủ đoạn cũng như hành động của đế quốc
Mĩ ở Việt Nam và trên toàn cõi Đông Dương thông qua các chiến lược
“Chiến tranh cục bộ”, “Việt Nam hóa chiến tranh” -“Đông Dương hóa chiến
tranh”.
- Nêu được những thắng lợi quyết định của quân dân ta trên cả hai miền
đất nước chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam
hóa chiến tranh”.
- Đánh giá được vai trò của hậu phương miền Bắc với tiền tuyến miền
Nam.
- Phân tích được nội dung và ý nghĩa của Hiệp định Pari năm 1973 về
chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.
2. Kĩ năng
- Kĩ năng sử dụng CNTT
- Quan sát
- Thuyết trình, diễn đạt, làm việc nhóm
- Tự học, tự nghiên cứu, làm việc với nguồn sử liệu ngoài SGK.
3. Thái độ, tƣ tƣởng
- Lên án những tội ác của đế quốc Mĩ và chính quyền tay sai trong cuộc
101
chiến tranh xâm lược của Mĩ ở hai miền đất nước Việt Nam.
- Bồi dưỡng tinh thần yêu nước, đoàn kết dân tộc,hỗ trợ của hậu
phương miền Bắc cho tiền tuyến miền Nam.
- Nêu cao tinh thần đoàn kết, liên minh chiến đấu của ba dân tộc trên
bán đảo Đông Dương trong cuộc chiến tranh chống đế quốc Mĩ xâm lược…
II. Chuẩn bị đồ dùng, thiết bị, tƣ liệu.
- Lược đồ trận Vạn Tường.
- Tranh ảnh, tư liệu về hậu phương miền Bắc, đường Trường Sơn.
- Máy tính, máy chiếu.
III. Gợi ý tiến trình và phƣơng pháp tổ chức dạy học.
1. Ổn định lớp học
2. Kiểm tra bài cũ
GV có thể kiểm tra bài cũ bằng cách mở các ô chữ theo gợi ý để HS trả
lời nhanh các câu hỏi cho các từ khóa trên màn hình PPT.
- Năm 1961-1965 Mỹ tiến hành chiến lược nào ở miền Nam Việt
Nam?
Chiến lược chiến tranh đặc biệt
- Lực lượng nào là chủ yếu trong chiến lược chiến tranh đặc biệt của
Mỹ ở Miền Nam?
Quân đội tay sai, cố vấn Mĩ.
- Mĩ đã sử dụng những chiến thuật nào trong chiến lược chiến tranh đặc
biệt ?
Trực thăng vận, thiết xa vận.
- Thắng lợi nào mở đầu chống chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của
quân dân miền Nam ?
Thắng lợi Ấp Bắc (Mĩ Tho) năm 1963.
102
GV giới thiệu khái quát nội dung của bài học cũ để vào bài học mới.
3. Bài mới
Hoạt động dạy - học của thầy, trò Chuẩn kiến thức
(Kiến thức cần đạt)
I. Chiến đấu chống chiến
lƣợc “Chiến tranh cục
bộ” của Mĩ ở miền Nam
(1965 – 1968). Hoạt động 1: Tìm hiểu chiến lƣợc “Chiến
tranh cục bộ” của Mĩ ở miền Nam (1965 –
1. Chiến lƣợc “Chiến 1968).
tranh cục bộ” của Mĩ ở GV nêu câu hỏi và hướng dẫn HS tìm hiểu SGK
miền Nam để trả lời: Vì sao đến năm 1965, Mĩ lại chuyển
* Hoàn cảnh: sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”?
Bị thất bại trong chiến lược HS: Tìm hiểu SGK, trao đổi và trả lời
“Chiến tranh đặc biệt”, GV: Nhận xét, giải thích và chốt ý.
năm 1965 Mĩ chuyển sang
chiến lược “Chiến tranh
cục bộ” ở miền Nam và
mở rộng chiến tranh phá
hoại miền Bắc.
GV cần giúp HS tái hiện lại kiến thức của bài cũ
về những thắng lợi của nhân dân miền Nam
chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh đặc
biệt” của Mĩ: chiến thắng Ấp Bắc (ngày
2/1/1963); phong trào chống, phá bình định và
103
chiến thắng Bình Giã. Những thắng lợi này đã
làm thay đổi tương quan lực lượng có lợi cho
cách mạng miền Nam, buộc Mĩ thay đổi chiến
lược chiến tranh.
GV định nghĩa khái niệm chiến lược “Chiến
tranh cục bộ”, giúp HS hiểu được bản chất của
khái niệm (những yếu tố tạo thành gồm có: quân
đội Mĩ, quân đội đồng minh của Mĩ và quân đội
Sài Gòn được Mĩ trang bị các phương tiện kĩ
thuật chiến tranh hiện đại), đồng thời so sánh
với chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” mà Mĩ đã
* Âm mưu: Tạo ưu thế về sử dụng trước đó.
binh lực và hỏa lực để áp HS: Lắng nghe và ghi bài.
đảo quân chủ lực của ta, GV hướng dẫn HS tìm hiểu âm mưu của Mĩ
giành lại thế chủ động trên trong chiến lược này.
chiến trường. GV cho HS xem phim tư liệu
Mĩ đổ quân vào Đà Nẵng (3/1965) và hình ảnh
Mĩ – Ngụy mở cuộc hành quân “tìm diệt” vào
vùng “đất thành Việt cộng”, giúp HS hiểu rõ về
thủ đoạn, hành động của Mĩ, quy mô và tính
chất ác liệt của chiến lược “Chiến tranh cục bộ”
(Mĩ mở rộng đánh phá hai miền Nam – Bắc,
đánh cả trên bộ, trên không và trên biển, nên cả
nước có chiến tranh, cùng kháng chiến chống
Mĩ cứu nước).
HS: Dựa vào phim tư liệu, SGK để trả lời câu
hỏi:
104
Để tiến hành chiến lược chiến tranh cục bộ, Mĩ
đã thực hiện những thủ đoạn và hành động gì? * Thủ đoạn và hành động:
GV: Nhận xét, chốt ý - Mở cuộc hành quân “tìm
diệt” vào “vùng đất
thánh” của Việt cộng ở
Vạn Tường (Quảng Ngãi).
- Mở hai cuộc phản công
mùa khô 1965 – 1966 và
1966 – 1967.
- Dùng không quân và hải
quân đánh phá miền Bắc.
2. Chiến đấu chống chiến
lƣợc “Chiến tranh cục
bộ” của Mĩ.
Hoạt động 2: Tìm hiểu cuộc chiến đấu chống
chiến lƣợc “Chiến tranh cục bộ” của Mĩ.
Học sinh cần hiểu rõ những khó khăn của ta
trong chiến đấu chống lại chiến lược “Chiến
tranh cục bộ” của Mĩ.
105
(Ảnh chụp tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh)
GV đưa ra bức ảnh 1 “Qua cầu treo”, yêu cầu
học sinh quan sát và trả lời câu hỏi:
Em thấy bộ đội Trường Sơn gặp những khó
khăn gì khi lái xe qua cầu treo?
HS quan sát , trả lời. GV có thể mở rộng kiến
thức để HS hiểu hơn về những khó khăn của
chiến sĩ lái xe vận chuyển hàng vào chiến
trường miền Nam.
Tiếp theo, GV đưa hình ảnh 2 “Tuổi 20 ở
Trường Sơn” và đặt câu hỏi:
Em cảm nhận như thế nào về tinh thần chiến
đấu của các cô gái tuổi đôi mươi ở Trường
Sơn?
(Ảnh chụp tại bảo tàng đường Hồ Chí Minh)
Từ 2 bức ảnh trên, HS có thể thấy được những
khó khăn, nguy hiểm của bộ ta ở chiến trường
chống lại các chiến lược chiến tranh của Mĩ trên
tuyến đường Trường Sơn huyền thoại. Bên cạnh
đó là sự lạc quan qua nụ cười của các cô gái
106
thanh niên xung phong vượt qua khó khăn quyết
tâm đánh Mĩ. * Thắng lợi về quân sự:
Với tinh thần và ý chí đó, ta đã giành nhiều - Tháng 8/1965, quân ta
thắng lợi về quân sự, chính trị. giành thắng lợi lớn ở Núi
Thành (Quảng Nam) và GV cho HS theo dõi đoạn phim tư liệu, kết hợp
Vạn Tường (Quảng Ngãi) trình bày trên bản đồ; cuộc phản công mùa khô
lần thứ nhất 1965 – 1966, Mĩ – Ngụy tập trung
“tìm diệt” .
Quân ta đánh bại các cuộc hành quân “tìm diệt”
và “bình định” của Mĩ – Ngụy đánh vào miền
Đông Nam Bộ, Liên khu V và Bắc Tây Ninh,
làm thất bại âm mưu tiêu diệt quân chủ lực và - Thắng lợi trong hai mùa cơ quan đầu não của ta, bước đầu làm phá sản khô chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mĩ. 1965 – 1966 và 1966 –
1967
* Thắng lợi về đấu tranh
chính trị, chống phá bình
định:
- Phong trào chống bình
Trong cuộc đấu tranh chính trị, chống phá bình định, phá “ấp chiến lược”
định, GV hướng dẫn HS quan sát Hình 70 và 71 diễn ra trên toàn miền Nam
trong SGK để cụ thể hóa sự kiện. - Các vùng giải phóng
được mở rộng, Mặt trận
Dân tộc giải phóng miền
Nam Việt Nam ngày càng
có uy tín
3. Cuộc Tổng tiến công và
107
nổi dậy Xuân Mậu Thân
1968.
Hoạt động : Sau khi HS tìm hiểu hoàn cảnh và (Phần hoàn cảnh, diễn biến
diễn biến, GV nêu câu hỏi để HS suy nghĩ: GV hướng dẫn HS đọc
SGK) Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân
1968 có ý nghĩa như thế nào? * Ý nghĩa:
HS: Suy nghĩ, trao đổi và trả lời - Làm lung lay ý chí xâm
lược của Mĩ, buộc Mĩ phải GV: Nhận xét và kết luận:
tuyên bố “phi Mĩ hóa”
chiến tranh.
- Mĩ phải chấm dứt không
điều kiện chiến tranh phá
hoại miền Bắc, chấp nhận
đàm phán tại Pari.
Cuộc Tổng tiến công đã đạt được mục đích của
108
ta đề ra là tiêu diệt được một bộ phận lớn quân Mĩ thừa nhận sự thất bại Mĩ, đồng minh và chính quyền ngụy. trong chiến lược “Chiến Sau cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân, Mĩ tranh cục bộ”. phải chấm dứt không điều kiện chiến tranh phá II. Miền Bắc vừa chiến hoại miền Bắc (vào ngày 1/11/1968) và phải đấu chống chiến tranh chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán ở Pari để bàn phá hoại lần thứ nhất của về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Mĩ, vừa sản xuất và làm Cuộc Tổng tiến công đã làm lung lay ý chí nghĩa vụ hậu phƣơng xâm lược của quân Mĩ, buộc Mĩ phải “phi Mĩ (1965 – 1968) hóa” chiến tranh xâm lược, thừa nhận sự thất 1. Mĩ tiến hành chiến bại của mình trong chiến lược “Chiến tranh cục tranh bằng không quân bộ”. và hải quân phá hoại
Hoạt động: Tìm hiểu về chiến tranh phá hoại miền Bắc
miền Bắc lần thứ nhất và vai trò của hậu * Hành động của Mĩ
phƣơng miền Bắc (1965- 1968)
GV trình bày nêu vấn đề:
Trong khi ở miền Nam những năm 1965-1967,
Mĩ đẩy mạnh các cuộc hành quân “tìm diệt” và
“bình định” thì ở miền Bắc những năm 1965 –
1968, Mĩ mở rộng chiến tranh phá hoại bằng
không quân và hải quân. Vậy để đánh phá miền
Bắc,Mĩ đã có những hành động gì?
HS: Tìm hiểu SGK, suy nghĩ và trả lời
GV: Nhận xét, chốt ý và cho HS theo dõi đoạn
phim tư liệu về sự kiện “Vịnh Bắc Bộ” (nguồn
từ đĩa CD Những điều chưa được biết đến về
chiến tranh Việt Nam của Đài truyền hình VN). - 8/1964: dựng lên sự kiện
“Vịnh Bắc Bộ” và cho máy Nếu không có điều kiện, GV có thể lược thuật
bay bắn phá 1 số nơi ở cho HS về sự kiện này:
miền Bắc.
- Ngày 7/2/1964, Mĩ chính
thức gây ra cuộc chiến
tranh bằng không quân và
hải quân phá hoại miền
Bắc lần thứ nhất.
Cuối cùng, GV cho HS thấy rõ âm mưu và thủ
đoạn của Mĩ trong cuộc chiến tranh phá hoại
miền Bắc.
*Âm mưu HS: Theo dõi và ghi ý chính
109
- Phá tiềm lực kinh tế, quốc
phòng và ngăn cản công
cuộc xây dựng CNXH ở
miền Bắc.
- Ngăn sự chi viện của của
miền Bắc cho miền Nam.
- Uy hiếp tinh thần và ý chí
của nhân dân hai miền đất
nước.
2. Miền Bắc vừa chiến GV sử dụng “bảo tàng ảo” thông qua các hình đấu, vừa chống chiến ảnh không có thuyết minh và cho HS lên trình tranh phá hoại, vừa sản bày theo cách của mình. xuất và làm nghĩa vụ hậu
Hình ảnh: Giao liên gùi thồ phƣơng
Hình ảnh: Ngựa gùi hàng (Theo giảm tải của Bộ GD-
Hình ảnh: Voi gùi hàng ĐT, phần này GV chỉ cho
Hình ảnh: Tuổi 20 ở Trường Sơn HS tìm hiểu về vai trò hậu
phương) Hình ảnh: Đường 20 Quyết thắng
Hiện vật: Đôi dép cao su của anh hùng Nguyễn
Viết Sinh.
Yêu cầu HS:
- Hiểu rõ nội dung tranh ảnh.
- Nêu được vai trò và sự nỗ lực của nhân dân
miền Bắc với tiền tuyến miền Nam.
- Giới thiệu được đường Hồ Chí Minh trên bộ.
- Trình bày được kết quả: Từ năm 1965 đến năm
1968, miền Bắc đã đưa vào miền Nam 30 vạn * Nghĩa vụ hậu phương
110
cán bộ, bộ đội…cùng hàng chục vạn tấn vũ khí, Từ năm 1965 đến năm
đạn dược, lương thực. Khối lượng tăng gấp 10 1968, miền Bắc đã đưa vào
lần so với trước. miền Nam 30 vạn cán bộ,
bộ đội…cùng hàng chục
vạn tấn vũ khí, đạn dược,
lương thực. Khối lượng
tăng gấp 10 lần so với
trước.
VI. Củng cố, dặn dò
1. Củng cố
GV tổ chức cho HS củng cố kiến thức ngay tại lớp, kiểm tra việc ghi
nhớ kiến thức cơ bản của các em.
2. Bài tập về nhà
- Xem lại kiến thức đã học và lập niên biểu những thắng lợi lớn của
nhân dân hai miền Nam – Bắc chiến đấu chống chiến tranh xâm lược của Mĩ
(1961 – 1968).
- Lập bảng so sánh về những điểm giống nhau và khác nhau giữa chiến
lược “Chiến tranh đặc biệt” (1961 – 1965) “Chiến tranh cục bộ” (1965 –
1968) của Mĩ theo bảng cho sẵn dưới đây:
Những điểm
Những điểm khác nhau
giống nhau
“Chiến tranh đặc biệt”
“Chiến tranh cục bộ”
111
Phụ lục 4:
PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN HỌC SINH
(Sau giờ dạy thực nghiệm)
Xin em vui lòng cho biết ý kiến của mình sau khi học bài 22 – Nhân
dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lƣợc. Nhân dân
miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất (1965 – 1973) (Tiết 2).
(Đánh dấu x vào ô , với những câu hỏi có nhiều phương án trả lời và
ghi rõ câu trả lời tại những câu hỏi có dòng để trống).
Họ và tên……………………………lớp………………………………
1. Tiết học hôm nay em có hiểu bài không?
Rất hiểu Hiểu
Bình thường Không hiểu
2. Em thấy bài học hấp dẫn nhất ở điểm nào?
Học sinh tích cực, chủ động
Cách GV mở rộng kiến thức có liên quan đến bài học
Hệ thống câu hỏi trong bài
Cách tổ chức hoạt động nhóm.
3. Em cảm nhận nhƣ thế nào khi giáo viên mở rộng thêm kiến thức có
liên quan đến bài học ?
Có thêm kiến thức và thông tin về đường Trường Sơn
Dễ hiểu hơn trong SGK.
Bình thường, em có thể tự đọc thêm.
Khô khan, khó hiểu.
4. Sau tiết học em đã đạt đƣợc những mục tiêu học tập nào dƣới đây?
112
Hiểu rõ sự ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
Được rèn luyện kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng thuyết trình.
Khơi dậy lòng yêu nước và tự hào dân tộc.
Không đạt được mục tiêu học tập nào.
5. Em thấy phƣơng pháp nào đƣợc giáo viên sử dụng hiệu quả nhất trong
giờ học?
Phương pháp vấn đáp
Phương pháp thuyết trình
Phương pháp làm việc nhóm
Phương pháp trực quan (Sử dụng hình ảnh, tư liệu bảo tàng minh họa)
6. Những đề xuất của em để bài học đạt hiệu quả cao?
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
113
Cảm ơn các em !
Phụ lục 5:
ĐỀ KIỂM TRA SAU GIỜ THỰC NGHIỆM
Môn : Lịch sử. Thời gian (15 phút)
Phần I: Trắc nghiệm (5 điểm)
(Khoanh tròn 1 đáp án đúng cho mỗi câu sau)
Câu 1: Nhiệm vụ cơ bản của miền Bắc trong thời kì 1965- 1968 ?
A. Chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.
B. Đảm bảo giao thông vận tải phục vụ chiến đấu, sản xuất và đời sống.
C. Vừa chiến đấu, vừa sản xuất và thực hiện nghĩa vụ hậu phương.
D. Hỗ trợ cho cuộc chiến đấu của nhân dân miền Nam.
Câu 2: Tuyến đường vận chuyển chiến lược Bắc- Nam trên bộ có tên gọi là:
A. Đường mòn Hồ Chí Minh. B. Đường 559.
C. Đường Trường Sơn. D. Cả ba phương án trên.
Câu 3: Lực lƣợng nào là chủ yếu để Mỹ tiến hành chiến tranh trong
chiến lƣợc “Chiến tranh cục bộ” ?
A. Quân đội Mỹ.
B. Quân đội Sài Gòn.
C. Quân đội Mỹ và đồng minh.
D. Quân đội Mỹ, đồng minh của Mỹ và quân đội Sài Gòn.
Câu 4: Âm mƣu của Mỹ khi tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc lần
thứ nhất ?
A. Phá tiềm lực kinh tế, quốc phòng và công cuộc xây dựng CNXH của
miền Bắc.
B. Ngăn nguồn chi viện của miền Bắc cho tiền tuyến miền Nam.
C. Uy hiếp tinh thần và ý chí đấu tranh của nhân dân hai miền đất nước.
114
D. Cả ba đáp án trên.
Câu 5: Nhân dân miền Bắc thực hiện tốt nghĩa vụ hậu phƣơng có ý nghĩa
nhƣ thế nào ?
A. Đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ.
B. Buộc Mỹ phải kết thúc chiến tranh.
C. Đưa cuộc kháng chiến bước sang giai đoạn mới.
D. Đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ, đưa cuộc kháng
chiến bước sang giai đoạn mới.
Phần II: Tự luận (5 điểm)
Em hãy cho biết nội dung và ý
nghĩa của bức ảnh tư liệu “cáng
thương binh” được chụp tại bảo
tàng đường Hồ Chí Minh ?
115
( Tối đa 10 dòng)
Phụ lục 6:
HIỆN VẬT TẠI BẢO TÀNG ĐƢỜNG HỒ CHÍ MINH
Túi đựng cơm Hòn đá in dấu chân người
Đôi dép cao su Thuyền thúng
Bừa san mặt đường Cáng thương binh
116
Mảnh xác máy bay Balo đựng xăng
117
Hầm di động Xẻng công binh