BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ---ooOoo---
LÂM HUỲNH PHƯƠNG
ẢẢNNHH HHƯƯỞỞNNGG CCỦỦAA VVIIỆỆCC LLUUÂÂNN CCHHUUYYỂỂNN
KKIIỂỂMM TTOOÁÁNN VVIIÊÊNN ĐĐẾẾNN CCHHẤẤTT LLƯƯỢỢNNGG HHOOẠẠTT ĐĐỘỘNNGG KKIIỂỂMM TTOOÁÁNN BBÁÁOO CCÁÁOO TTÀÀII CCHHÍÍNNHH
TTẠẠII VVIIỆỆTT NNAAMM
Chuyên ngành: Kế toán
Mã số : 60.34.30
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. HỒ CHÍ MINH - 2012
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ---ooOoo---
LÂM HUỲNH PHƯƠNG
ẢẢNNHH HHƯƯỞỞNNGG CCỦỦAA VVIIỆỆCC LLUUÂÂNN CCHHUUYYỂỂNN
KKIIỂỂMM TTOOÁÁNN VVIIÊÊNN ĐĐẾẾNN CCHHẤẤTT LLƯƯỢỢNNGG HHOOẠẠTT
ĐĐỘỘNNGG KKIIỂỂMM TTOOÁÁNN BBÁÁOO CCÁÁOO TTÀÀII CCHHÍÍNNHH
TTẠẠII VVIIỆỆTT NNAAMM
Chuyên ngành: Kế toán
Mã số : 60.34.30
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
\
TP. HỒ CHÍ MINH - 2012
Người hướng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN ANH HIỀN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013
LỜI CAM ĐOAN
-----☼☼۩☼☼-----
Tôi xin cam đoan đề tài này dựa trên quá trình nghiên cứu trung thực và nghiêm túc dưới
sự cố vấn của người hướng dẫn khoa học. Đây là đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế, chuyên
ngành Kế toán – Kiểm toán. Luận văn này chưa được ai công bố dưới bất kỳ hình thức
nào và tất cả các nguồn tài liệu tham khảo đều được trích dẫn đầy đủ.
TPHCM, ngày 19 tháng 6 năm 2013
Tác giả
Lâm Huỳnh Phương
MỤC LỤC
-----☼☼۩☼☼-----
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VỀ ĐẾ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Dẫn nhập ...................................................................................................................... 5
1.2. Giới thiệu đề tài nghiên cứu ........................................................................................ 9
1.2.1. Tổng quan thị trường kiểm toán Việt Nam ....................................................... 9
1.2.2. Quy định về luân chuyển kiểm toán viên tại Việt Nam ..................................... 10
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1. Tổng quan về chất lượng kiểm toán ............................................................................ 14
2.1.1. Một số định nghĩa về chất lượng kiểm toán ...................................................... 14
2.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán ............................................. 17
2.2. Phương pháp định lượng chất lượng kiểm toán ......................................................... 19
2.2.1. Các khoản dồn tích trong lợi nhuận và thước đo chất lượng kiểm toán ............ 19
2.2.2. Sự điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý và trách nhiệm của kiểm toán viên .... 20
2.2.3. Mô hình định lượng chất lượng kiểm toán ........................................................ 26
2.3. Các nghiên cứu có liên quan đến đề tài....................................................................... 33
2.3.1. Các nghiên cứu ủng hộ việc luân chuyển kiểm toán viên bắt buộc .................... 35
2.3.2. Các nghiên cứu không ủng hộ việc luân chuyển kiểm toán viên bắt buộc ......... 37
CHƯƠNG 3: MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM
3.1. Mô hình nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu ...................................................... 42
3.1.1. Mô hình nghiên cứu ......................................................................................... 42
3.1.2. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 43
3.2. Phương pháp chọn mẫu và mô tả mẫu ....................................................................... 45
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Phân tích sơ bộ kết quả nghiên cứu thông qua bảng thống kê mô tả các biến ......... 47
4.2. Kết quả phân tích tương quan và hồi quy tuyến tính đơn biến ................................. 50
4.3. Phân tích kết quả hồi quy tuyến tính đa biến ............................................................. 52
4.4. Một số nghiên cứu bổ sung về chất lượng kiểm toán ................................................. 55
4.4.1. Nghiên cứu mối quan hệ giữa nhiệm kỳ kiểm toán viên với chất lượng
kiểm toán khi phân biệt dấu của DA ..................................................................................... 55
4.4.2. Nghiên cứu mối quan hệ giữa việc luân chuyển công ty kiểm toán và chất
lượng kiểm toán .................................................................................................................... 56
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ VÀ NHỮNG HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI
5.1. Kết luận và kiến nghị ................................................................................................... 57
5.2. Những đóng góp và hạn chế của đề tài ....................................................................... 59
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Danh sách 39 công ty trong mẫu nghiên cứu
Phụ lục 2: Kết quả thống kê mô tả các biến và bảng tần số hai biến APT và AFT
Phụ lục 3: Kết quả kiểm định Lavene về sự khác nhau của các giá trị trung bình
Phụ lục 4: Kết quả phân tích tương quan và hồi quy tuyến tính giữa hai biến APT và DA
Phụ lục 5: Kết quả hồi quy tuyến tính đa biến
Phụ lục 6: Kết quả hồi quy tuyến tính đa biến khi APT có giá trị nhỏ hơn hay bằng 3
Phụ lục 7: Kết quả hồi quy tuyến tính đa biến khi APT có giá trị nhỏ hơn hay bằng 5
Phụ lục 8: Kết quả hồi quy tuyến tính đa biến khi DA dương
Phụ lục 9: Kết quả hồi quy tuyến tính đa biến khi DA âm
Phụ lục 10: Kết quả hồi quy tuyến tính đa biến khi thêm biến AFT vào phương trình
nghiên cứu
DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ
-----☼☼۩☼☼-----
Bảng 1.1: Quy định về luân chuyển kiểm toán viên và luân chuyển công ty kiểm toán
DANH MỤC CÁC BẢNG
tại một số quốc gia châu Á.
Bảng 4.1:Bảng kết quả thống kê mô tả các biến nghiên cứu trong phương trình
Bảng 4.2:Giá trị trung bình của biến APT ứng với từng năm
Bảng 4.3: Bảng kết quả kiểm định Lavene về sự khác biệt của giá trị trung bình
Bảng 4.4: Bảng kết quả phân tích tương quan giữa APT và DA
Bảng 4.5: Bảng kết quả hồi quy tuyến tính đơn biến giữa APT và DA
Bảng 4.6: Bảng kết quả hồi quy tuyến tính đa biến
Bảng 4.7: Bảng kết quả hồi quy tuyến tính với hai biến APT3 và APT5
Bảng 4.8: Bảng kết quả hồi quy tuyến tính đa biến khi phân biệt dấu của DA
Bảng 4.9: Bảng kết quả hồi quy tuyến tính đa biến khi thêm biến AFT
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 4.1: Biểu đồ thể hiện sự biến thiên của giá trị DA trung bình qua các năm
MỞ ĐẦU
-----☼☼۩☼☼-----
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động kiểm toán đã có một quá trình hình thành và phát triển lâu dài. Quá
trình này gắn liền với quá trình phát triển kinh tế của xã hội loài người. Và để phục
vụ cho nhu cầu khá đa dạng từ phía người sử dụng, các loại hình kiểm toán khác
nhau cũng từng bước được hình thành, trong đó có hoạt động kiểm toán báo cáo tài
chính. Với vai trò nhằm cung cấp một sự đảm bảo về sự trung thực, hợp lý của báo
cáo tài chính, hoạt động kiểm toán độc lập đã góp một phần không nhỏ đảm bảo thị
trường tài chính phát triển một cách lành mạnh, đặc biệt trong bối cảnh các thị
trường chứng khoán phát triển mạnh mẽ trên thế giới như hiện nay.
Tại Việt Nam trong những năm gần đây, thị trường chứng khoán cũng đã hình
thành và phát triển.Và một trong những điều kiện đảm bảo cho thị trường này hoạt
động ổn định và trở thành một kênh cung cấp vốn hữu ích cho doanh nghiệp đó là
các thông tin tài chính được công bố phải minh bạch. Tuy nhiên, do có sự xung đột
lợi ích giữa nhà quản trị và chủ sở hữu doanh nghiệp cũng như các bên thứ ba mà
các thông tin này có thể bị bóp méo theo những mục đích mà nhà quản trị mong
muốn. Do đó, ngành kiểm toán báo cáo tài chính với vai trò đặc biệt của mình góp
phần giải quyết những xung đột lợi ích trên và đảm bảo các thông tin công bố phản
ánh đúng thực chất tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Chất lượng dịch vụ kiểm toán phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng phần lớn tùy
thuộc vào trình độ chuyên môn và tính độc lập của kiểm toán viên. Nếu như những
yêu cầu về trình độ có thể đạt được thông qua quá trình đào tạo và tích lũy kinh
nghiệm làm việc thì tính độc lập của kiểm toán viên là một vấn đề khá nhạy cảm.
1
Nó tùy thuộc vào tính cách cũng như ý thức của từng kiểm toán viên trước yêu cầu
về đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm đối với toàn xã hội. Và vấn đề này đã trở
nên nóng bỏng hơn do sự phá sản một trong các tập đoàn hàng đầu trên thế giới là
ENRON, trong đó có liên quan đến sai phạm nguyên tắc độc lập, khách quan của
công ty kiểm toán Authur Andersen, một trong số các BIG5 lúc bấy giờ.
Từ đây, nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam đã đưa ra nhiều quy
định nhằm tăng cường tính độc lập của kiểm toán viên cũng như công ty kiểm toán,
trong đó có quy định về việc luân chuyển bắt buộc kiểm toán viên sau một khoảng
thời gian nhất định. Tuy nhiên, vấn đề này vẫn còn gây ra nhiều tranh luận giữa việc
nên hay không nên đưa ra quy định này và thời hạn luân chuyển là bao nhiêu năm là
hợp lý. Vì vậy, nhằm kiểm định tính hữu hiệu của quy định này có thực sự làm gia
tăng chất lượng kiểm toán tại Việt Nam hay không, tác giả đã chọn thực hiện đề tài:
“Ảnh hưởng của việc luân chuyển kiểm toán viên đến chất lượng báo cáo tài chính
tại Việt Nam.”
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là xác định mối quan hệ giữa việc luân chuyển
kiểm toán viên đến chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính. Qua đó xem xét những
quy định hiện hành về việc luân chuyển này có thực sự làm gia tăng chất lượng
kiểm toán hay không và đưa ra các khuyến nghị trong việc xây dựng và sửa đổi các
văn bản quy phạm pháp luật về vấn đề này trong tương lai.
2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chất lượng kiếm toán báo cáo tài chính và
ảnh hưởng của yếu tố nhiệm kỳ kiểm toán viên đến chất lượng kiểm toán. Do hạn
chế về khả năng tiếp cận nguồn tài liệu của các doanh nghiệp nên phạm vi nghiên
cứu chỉ bao gồm các công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán, bởi vì
báo cáo tài chính và báo cáo kiểm toán của các công ty này được công bố định kỳ
và đầy đủ theo luật.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp kế thừa kinh nghiệm được thực hiện theo phương thức tìm hiểu và
hệ thống hóa các kết quả nghiên cứu trước đây về vấn đề này tại Việt Nam cũng
như trên thế giới.
- Phương pháp phân tích định lượng như thống kê mô tả, phân tích tương quan, hồi
quy tuyến tính… nhằm định lượng chất lượng kiểm toán và xem xét mối quan hệ
giữa nhiệm kỳ kiểm toán viên và chất lượng kiểm toán.
5. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, bố cục của đề tài gồm có 5 chương:
Chương 1: Giới thiệu về đề tài nghiên cứu
Chương 2: Tổng quan cơ sở lý thuyết
Chương 3: Mô hình nghiên cứu thực nghiệm
Chương 4: Kết quả nghiên cứu
Chương 5: Kết luận, kiến nghị và những giới hạn của đề tài
3
6. Những đóng góp của đề tài
► Về mặt lý luận
- Hệ thống hóa và trình bày các kết quả nghiên cứu trước đây về vấn đề này tại Việt
Nam cũng như trên thế giới.
- Xác định hành vi điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý và tổng hợp một số biện
pháp mà họ có thể sử dụng để điều chỉnh lợi nhuận trong kỳ của doanh nghiệp.
- Giới thiệu phương pháp định lượng chất lượng kiểm toán thông qua các khoản dồn
tích (accrual earnings management), một trong những phương pháp đã được sử
dụng trên thế giới để phát hiện hành vi điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý và đo
lường gián tiếp chất lượng kiểm toán.
► Về mặt thực tiễn
Thông qua kết quả nghiên cứu, tác giả đánh giá tính hữu hiệu của quy định hiện
hành về việc luân chuyển kiểm toán viên trong việc tăng cường sự độc lập và nâng
cao chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính tại Việt Nam. Từ đó đưa các kiến nghị
cho các nhà lập pháp về vấn đề này trong tương lai. Bên cạnh đó, một phần kết quả
nghiên cứu cũng cho thấy những rủi ro kiểm toán mà các công ty kiểm toán phải
gặp trong việc kiểm toán cho khách hàng năm đầu tiên.Vì vậy, tác giả cũng đưa ra
một số kiến nghị về kiểm soát chất lượng dịch vụ đối với Hiệp Hội Kiểm Toán Viên
Hành Nghề Việt Nam (VACPA) và các công ty kiểm toán nhằm gia tăng chất lượng
kiểm toán báo cáo tài chính tại Việt Nam.
4
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Dẫn nhập
Sự sụp đổ của các tập đoàn công nghiệp hàng đầu của Mỹ như ENRON,
WORLDCOM… trong những năm đầu thế kỷ 21 đã gây chấn động dư luận Hoa Kỳ và
thế giới. Qua những sự kiện này, nhiều bài học quý giá đã được rút ra liên quan đến
lĩnh vực kế toán, quản trị công ty và đặc biệt là kiểm toán. Nhiều nhà phân tích cho
rằng những sự đổ vỡ bất ngờ này đã xảy ra xuất phát từ việc các kiểm toán viên đã
không hoàn thành tốt công việc của mình trong việc phát hiện các gian lận sai sót
trọng yếu trên báo cáo tài chính của công ty và báo cáo chúng với cổ đông và các bên
liên quan. Mặt khác, họ lại còn có quan hệ khá mật thiết với khách hàng của mình,vừa
cung cấp dịch vụ tư vấn vừa thực hiện dịch vụ kiểm toán. Rất nhiều các biện pháp đã
được đưa ra nhằm khắc phục, ngăn chặn các sai phạm đó và đảm bảo chúng sẽ không
lặp lại trong tương lai. Trong số đó có quy định về bắt buộc luân chuyển kiểm toán
viên định kỳ nhằm tăng cường tính độc lập, khách quan trong dịch vụ kiểm toán độc
lập, qua đó nâng cao chất lượng kiểm toán.
Xung quanh vấn đề này đã có rất nhiều cuộc tranh luận đã diễn ra giữa các nhà
lập pháp, các học giả nghiên cứu, nhà quản lý cũng như các kiểm toán viên đang trực
tiếp hành nghề.
Nhóm ủng hộ (thường là các nhà lập pháp) thì cho rằng quy định này sẽ đảm
bảo sự độc lập của kiểm toán viên và mục tiêu kiểm toán. Theo họ, khi mối quan hệ
giữa các kiểm toán viên với khách hàng trở nên gắn bó lâu dài thì sự khách quan trong
các xét đoán của kiểm toán viên sẽ giảm xuống, một phần là do có sự thỏa hiệp với
khách hàng để giữ chân họ trong thời gian lâu dài. Ngoài ra, khi được giao kiểm toán
cho một công ty trong một thời gian dài, kiểm toán viên thường rơi vào tư tưởng “lối
mòn” do làm mãi các thủ tục quen thuộc và dễ mắc sai lầm do sự chủ quan, không duy
5
trì được tính hoài nghi nghề nghiệp. Bằng cách luân chuyển bắt buộc, kiểm toán viên
sẽ có cơ hội đối mặt với những thử thách mới. Qua đó, họ cũng có cái nhìn mới mẻ
hơn về khách hàng và sẽ tìm thấy những gian lận sai sót mà có thể nhóm kiểm toán
trước không phát hiện được. Vì vậy, các nhà lập pháp thường cho rằng việc luân
chuyển kiểm toán viên sẽ làm tăng chất lượng kiểm toán.
Tuy nhiên, các học giả trong ngành lại cho thấy một sự thật trái ngược. Bằng
các nghiên cứu lý thuyết cũng như thực nghiệm, họ cho rằng việc luân chuyển kiểm
toán cả ở cấp độ công ty và cấp độ kiểm toán viên sẽ chỉ gây ra sự tốn kém không cần
thiết khi các công ty kiểm toán phải thực hiện kiểm toán năm đầu tiên cho khách hàng.
Mặt khác, sự phụ thuộc quá nhiều của kiểm toán viên vào báo cáo kỳ trước cũng như
những ước tính chủ quan của ban giám đốc trong những năm đầu sẽ làm gia tăng rủi ro
kiểm toán chứ không làm tăng chất lượng kiểm toán như mong đợi. Bên cạnh đó, việc
thiếu kiến thức chuyên biệt về ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh cũng như tình hình
hoạt động của khách hàng trong năm đầu kiểm toán sẽ gây ra không ít khó khăn cho
kiểm toán viên; và sau khi họ đã nắm bắt rõ tất cả các rủi ro kinh doanh của khách
hàng thì họ lại phải bị luân chuyển; và quy trình trên lại tiếp tục. Vì vậy, khi nhiệm kỳ
kiểm toán viên dài sẽ tạo ra thuận lợi cho kiểm toán viên do họ đã hiểu rõ về khách
hàng của mình qua đó giúp việc kiểm toán dễ dàng hơn chứ không ảnh hưởng gì đến
tính độc lập. Nhóm phản đối còn cho rằng khi nhiệm kỳ kiểm toán bị cố định theo luật,
chất lượng kiểm toán còn có thể bị giảm đi do các công ty kiểm toán muốn giữ chân
khách hàng đủ lâu để họ bù đắp các chi phí đã bỏ ra trong năm đầu tiên vì vậy sẽ xuất
hiện nguy cơ thông đồng với khách hàng. Các nhà quản trị công ty cũng không ủng hộ
quy định này khi cho rằng họ phải mất quá nhiều thời gian và chi phí trong việc lựa
chọn công ty kiểm toán mới và giúp đỡ các kiểm toán viên hiểu rõ về đặc điểm hoạt
động của họ trong khi lợi ích tăng thêm lại không có.
6
Mặc dù các cuộc tranh luận vẫn còn đang tiếp tục diễn ra và chưa có hồi kết,
nhiều nước trên thế giới đã áp dụng quy định luân chuyển kiểm toán viên bắt buộc.
Các quy định nghề nghiệp ở Mỹ khuyến nghị nhóm kiểm toán viên cho một công ty
nên được thay thế sau mỗi 7 năm. Và sau đó đạo luật Saxbanes-Oxley (2002) đã đưa ra
quy định bắt buộc luân chuyển sau mỗi 5 năm. Còn tại Anh, kể từ tháng 11 năm 2003
nhiệm kỳ tối đa của các kiểm toán viên đã bị rút ngắn từ 7 năm xuống còn 5 năm. Các
quy định tương tự cũng được áp dụng tại Hà Lan và Đức. Ở Nhật, các kiểm toán viên
bị pháp luật nghiêm cấm thực hiện kiểm toán cho cùng một công ty niêm yết 7 năm
liên tiếp.
Còn về vấn đề luân chuyển ở cấp độ công ty, một số nước cũng đã có những
quy định bắt buộc. Có thể kể đến đó là Italia và Brazil, những nước đã ban hành luật
về luân chuyển công ty kiểm toán đối với các công ty niêm yết. Một số nước châu Á
cũng có những điều luật tương tự như: Hàn Quốc đối với các công ty trên sàn chứng
khoán (nhiệm kỳ tối đa là 6 năm); Singapore đối với các nhân hàng thương mại (tối đa
5 năm); và Ấn Độ đối với ngân hàng, công ty bảo hiểm và tất cả các tập đoàn nhà
nước (tối đa 4 năm). Bảng (1.1) trình bày tóm tắt quy định về luân chuyển kiểm toán
tại một số quốc gia châu Á.
7
Tên quốc gia Bangladesh Luân chuyển công ty kiểm toán bắt buộc Sau mỗi 3 năm đối với các công ty niêm yết Luân chuyển kiểm toán viên bắt buộc Sau mỗi 3 năm đối với các công ty niêm yết
Sau mỗi 5 năm đối với các công ty niêm yết
Trung Quốc Sau mỗi 5 năm đối với các
công ty nhà nước Hồng Kông Không quy định
Sau mỗi 5 năm đối với các công ty niêm yết Sau mỗi 4 năm đối với các ngân hàng, công ty bảo hiểm và công ty nhà nước Sau mỗi 3 năm đối với tất cả công ty
Ấn Độ
Sau mỗi 4 năm đối với ngân hàng,công ty bảo hiểm và công ty nhà nước Sau mỗi 5 năm đối với tất cả công ty Không quy định
Indonesia
Không quy định
Nhật
Malaysia
Sau mỗi 5 năm đối với các công ty niêm yết Không quy định
Pakistan
Phillipines
Sau mỗi 5 năm đối với các ngân hàng
Sau mỗi 7 năm đối với các công ty niêm yết Sau mỗi 5 năm đối với các công ty niêm yết Sau mỗi 5 năm đối với các công ty niêm yết Sau mỗi 5 năm đối với các công ty niêm yết và ngân hàng Sau mỗi 5 năm đối với các công ty niêm yết
Không quy định
Singapore
Srilanka
Sau mỗi 5 năm đối với các công ty niêm yết Sau mỗi 6 năm đối với các công ty niêm yết KSE hoặc KOSDAQ ngoại trừ các công ty nước ngoài và các công ty niêm yết trên thị trường quốc tế
Sau mỗi 6 năm đối với các công ty niêm yết KSE hoặc KOSDAQ ngoại trừ các công ty nước ngoài và các công ty niêm yết trên thị trường quốc tế Không quy định
Hàn Quốc
Sau mỗi 5 năm đối với các công ty niêm yết
Đài Loan
Sau mỗi 5 năm đối với các công ty niêm yết
Sau mỗi 5 năm đối với các công ty niêm yết
Thái Lan
số quốc gia châu Á. (Nguồn: Siregar S. V. và cộng sự (2012). Audit tenure,audit rotation and
audit quality:The case of Indonesia, Asia Journal of Business and Accounting,5(1),2012.)[38]
Bảng 1.1: Quy định về luân chuyển kiểm toán viên và luân chuyển công ty kiểm toán tại một
8
1.2. Giới thiệu đề tài nghiên cứu
1.2.1. Tổng quan thị trường kiểm toán Việt Nam
Lịch sử hình thành và phát triển của nghề nghiệp kiểm toán Việt Nam trải qua
nhiều giai đoạn khác nhau. Mãi cho đến trước thập niên 90 của thế kỷ 20, hoạt động
kiểm toán chủ yếu do nhà nước tiến hành thông qua công tác kiểm tra kế toán. Tuy
nhiên với nhu cầu phát triển của xã hội và quá trình hội nhập với kinh tế thế giới, hoạt
động kiểm toán độc lập tại Việt Nam được tái lập với sự ra đời của công ty Kiểm Toán
Việt Nam (VACO) vào tháng 5/1991. Sau hơn 20 năm hình thành và phát triển, ngành
kiểm toán Việt Nam đã từng bước được thể chế hóa bằng các văn bản pháp luật và có
những bước tiến nhất định cả về lượng lẫn về chất. Số lượng công ty kiểm toán và số
người được cấp chứng chỉ hành nghề liên tục tăng qua các năm. Theo báo cáo tổng
hợp của VACPA, tính đến ngày 20/3/2012, Việt Nam đã có 152 công ty kiểm toán
đăng ký hành nghề với hơn 2400 người đã được cấp chứng chỉ kiểm toán viên. Về
công tác kiểm soát chất lượng hoạt động, bộ tài chính cũng đã ban hành hệ thống
chuẩn mực kiểm toán mới cập nhật theo chuẩn mực quốc tế, qua đó tạo ra cơ sở để
đánh giá và nâng cao chất lượng dịch vụ kiểm toán nói chung và hoạt động kiểm toán
độc lập báo cáo tài chính nói riêng. Luật Kiểm toán độc lập (2011) được quốc hội
thông qua và có hiệu lực từ ngày 1/1/2012 cũng tạo ra một nền tảng pháp lý vững chắc
giúp cho nghề nghiệp kiểm toán phát triển.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, ngành kiểm toán nước ta vẫn tồn
tại nhiều vấn đề có nguy cơ đe dọa chất lượng kiểm toán. Về số lượng kiểm toán viên
dù có xu hướng tăng qua các năm nhưng chỉ có hơn 50% trong số này hiện đang đăng
ký hành nghề kiểm toán (theo báo cáo tổng hợp của VACPA năm 2011). Điều này dẫn
đến sự thiếu hụt kiểm toán viên tại các công ty kiểm toán quy mô trung bình và nhỏ, tỉ
lệ kiểm toán viên trên nhân viên chuyên nghiệp thấp và có tình trạng kiêm nhiệm của
9
kiểm toán viên tại nhiều công ty kiểm toán khác nhau. Số lượng công ty kiểm toán
thành lập tuy nhiều nhưng phần lớn trong số đó là các công ty có quy mô trung bình và
nhỏ. Với nguồn lực về tài chính cũng như nhân sự hạn hẹp, việc kiểm soát chất lượng
kiểm toán tại các công ty này vẫn còn nhiều hạn chế từ việc thiếu hụt nhân sự có trình
độ cao cho đến vấn đề đào tạo nhân viên cũng như xây dựng và thực hiện các thủ tục
kiểm soát chất lượng. Bên cạnh đó, một thực tế hiện nay là có sự cạnh tranh về giá phí
kiểm toán giữa các công ty, có thể dẫn đến việc cạnh tranh không lành mạnh. Do phải
giảm mức phí kiểm toán, các công ty này có thể bỏ bớt các thủ tục kiểm toán quan
trọng nhằm đạt mục tiêu lợi nhuận và phát hành các báo cáo kiểm toán khi chưa thu
thập đủ bằng chứng. Các công ty càng nhỏ thì càng có xu hướng hạ thấp mức phí kiểm
toán. Trong một thị trường cạnh tranh như vậy, bản thân các công ty kiểm toán luôn có
động cơ giữ chân khách hàng cũ thông qua việc trở nên quá “thân thiết” với doanh
nghiệp và những yêu cầu về tính độc lập, khách quan có thể bị vi phạm. Và điều này
lại càng đáng lo ngại hơn khi theo thống kê của VACPA, các công ty có quy mô nhỏ
này chiếm tỉ trọng lớn (2/3 tổng số công ty kiểm toán) và cung cấp dịch vụ cho gần
70% số lượng khách hàng. Với tất cả các vấn đề nêu trên cho thấy rằng chất lượng
kiểm toán hiện nay đang là một vấn đề thời sự. Chất lượng kiểm toán không cao sẽ gây
ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế, đặc biệt là sự ổn định của thị trường chứng khoán Việt
Nam.
1.2.2. Quy định về việc luân chuyển kiểm toán viên tại Việt Nam
Cũng như tại nhiều quốc gia trên thế giới, bên cạnh các giải pháp nâng cao chất
lượng kiểm toán thông qua việc ban hành các cơ chế kiểm soát chất lượng, các nhà lập
pháp nước ta cũng ban hành các quy định nhằm tăng cường tính độc lập của kiểm toán
viên, trong số đó có quy định về việc luân chuyển kiểm toán viên bắt buộc. Văn bản
10
quy phạm pháp luật đầu tiên có thể kể đến là nghị định 105/2004/NĐ-CP của chính
phủ. Tại chương 1, điều 6 quy định về trách nhiệm của đơn vị được kiểm toán có ghi:
“Trường hợp ký hợp đồng kiểm toán với một doanh nghiệp kiểm toán từ 3 năm liên tục
trở lên thì phải yêu cầu doanh nghiệp kiểm toán thay đổi kiểm toán viên hành nghề và
người chịu trách nhiệm ký tên trên báo cáo kiểm toán”. Kế đến trong thông tư
64/2004/TT-BTC do bộ tài chính ban hành nhằm hướng dẫn thực hiện một số điều
trong nghị định 105/2004/NĐ-CP trong phần quy định chung có nêu yêu cầu thay đổi
kiểm toán viên hành nghề và người chịu trách nhiệm ký báo cáo kiểm toán. Cụ thể
chương 1 mục 2 của thông tư này có quy định như sau:
“ 2.1.Trường hợp đơn vị được kiểm toán ký hợp đồng kiểm toán với một doanh
nghiệp kiểm toán từ 3 năm liên tục trở lên, tính từ ngày Nghị định số 105/2004/NĐ-CP
có hiệu lực thì cứ sau 3 năm phải yêu cầu doanh nghiệp kiểm toán thay đổi:
a) Kiểm toán viên hành nghề chịu trách nhiệm kiểm toán và ký tên trên báo cáo
kiểm toán;
b) Người chịu trách nhiệm ký báo cáo kiểm toán là Giám đốc (hoặc người được
uỷ quyền) của doanh nghiệp (hoặc chi nhánh doanh nghiệp) kiểm toán.
2.2. Trường hợp Ban Giám đốc doanh nghiệp kiểm toán hoặc lãnh đạo chi
nhánh doanh nghiệp kiểm toán chỉ có một người là kiểm toán viên hành nghề thì đơn
vị được kiểm toán chỉ được ký hợp đồng kiểm toán với doanh nghiệp kiểm toán hoặc
chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán đó nhiều nhất là 3 năm liên tục tính từ ngày Nghị
định số 105/2004/NĐ-CP có hiệu lực và từ năm thứ 4 trở đi phải chuyển sang ký hợp
đồng kiểm toán với doanh nghiệp kiểm toán khác.
Yêu cầu doanh nghiệp kiểm toán thay đổi kiểm toán viên hành nghề và người
chịu trách nhiệm ký báo cáo kiểm toán phải được ghi rõ trong hợp đồng kiểm toán.”
11
Ngoài ra nhằm tăng cường tính độc lập khách quan của kiểm toán viên mà đặc
biệt là các kiểm toán viên cho các công ty niêm yết, luật kiểm toán độc lập (2011)
cũng có quy định tại điều 58 như sau : “Doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh
nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam không được bố trí kiểm toán viên hành
nghề thực hiện kiểm toán cho một đơn vị có lợi ích công chúng trong năm (05) năm tài
chính liên tục.”
Và gần đây nhất trong nghị định 17/2012/NĐ-CP do chính phủ ban hành ngày
13/3/2012 hướng dẫn việc thi hành luật kiểm toán độc lập cũng có quy định tại mục 5
điều 16 về báo cáo kiểm toán: “Kiểm toán viên hành nghề không được ký báo cáo kiểm
toán cho một đơn vị kiểm toán quá ba (03) năm liên tục.”
Qua các văn bản quy phạm pháp luật trên có thể thấy rằng tuy chưa có quy định
về luân chuyển kiểm toán ở cấp độ công ty nhưng vấn đề luân chuyển kiểm toán viên
bắt buộc ở Việt Nam đã được quy định. Tuy nhiên trên thực tế, do những nguyên nhân
khách quan cũng như chủ quan từ phía doanh nghiệp kiểm toán nên việc thực hiện
luân chuyển này được thực hiện chưa đầy đủ. Trong nghiên cứu của tác giả Trần
Khánh Lâm (2011) dựa trên các biên bản về kết quả kiểm tra hoạt động kiểm soát chất
lượng năm 2009 của các công ty kiểm toán được thực hiện bởi Bộ Tài Chính và
VACPA cho thấy các công ty kiểm toán quy mô lớn thực hiện việc luân chuyển kiểm
toán viên khá chặt chẽ. Trong khi đó, công ty có quy mô nhỏ và trung bình chiếm phần
lớn trong mẫu nghiên cứu thực hiện việc luân chuyển kiểm toán viên không đầy đủ và
có sự chênh lệch lớn giữa các công ty. Nguyên nhân là do nguồn nhân lực của họ yếu
kém hơn so với các công ty quy mô lớn. Tóm lại, kết quả cho thấy trên thực tế các
công ty kiểm toán quy mô vừa và nhỏ thường không có sự luân chuyển kiểm toán viên
phụ trách thực hiện kiểm toán. Theo tác giả, nguyên nhân chủ quan là do các công ty
này muốn cắt giảm chi phí kiểm toán và đồng thời cũng tạo sự “thân quen” với khách
hàng nhằm duy trì hợp đồng kiểm toán cho các năm tiếp theo. Nguyên nhân khách
12
quan thường là do các công ty này không đủ số lượng kiểm toán viên để luân phiên
thực hiện kiểm toán. Đó cũng chính là một trong những lý do khiến chất lượng kiểm
toán trong nhóm công ty này không cao. Ngoài ra có thể thấy rằng một nguyên nhân
quan trọng nữa khiến việc luân chuyển này không được thực hiện đầy đủ là do chưa có
chế tài xử phạt các công ty kiểm toán vi phạm dù luật kiểm toán độc lập đã ra đời
nhưng việc đưa luật vào thực tế còn phải chờ các thông tư hướng dẫn việc thực hiện và
chế tài phù hợp. Mặt khác, với vai trò kiểm soát chất lượng, Bộ Tài Chính và VACPA
trong công tác kiểm tra của mình về vấn đề luân chuyển này cũng chỉ dừng lại ở việc
nhắc nhở và khuyến nghị các doanh nghiệp kiểm toán mở sổ theo dõi hợp đồng và sổ
theo dõi báo cáo kiểm toán đã phát hành để làm cơ sở luân chuyển kiểm toán viên
chính theo quy định.
Tóm lại, tại Việt Nam, một nước có nền tài chính khá non trẻ so với các nước
trong khu vực, việc luân chuyển kiểm toán viên chịu trách nhiệm ký báo cáo kiểm toán
đã được quy định trong các văn bản luật. Tuy nhiên trên thực tế, do chưa có chế tài xử
phạt nên việc luân chuyển này chỉ mang tính tự giác từ phía các công ty kiểm toán và
đơn vị được kiểm toán. Từ đó nảy sinh nguy cơ đe dọa đến tính độc lập của kiểm toán
viên cũng như chất lượng kiểm toán.
Từ những vấn đề trên, đề tài này được thực hiện nhằm nghiên cứu mối quan hệ
giữa việc luân chuyển kiểm toán viên với chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính tại
Việt Nam nhằm xem xét tính hợp lý của các quy định về luân chuyển kiểm toán viên
hiện nay, đồng thời giải thích cơ sở khoa học của những quy định này. Qua đó, đề tài
góp phần hoàn thiện khung pháp lý về luân chuyển kiểm toán viên tại Việt Nam và là
một tài liệu tham khảo hữu ích cho các công ty kiểm toán, sinh viên chuyên ngành kế
toán kiểm toán cũng như các nhà lập pháp về vấn đề này.
13
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1.Tổng quan về Chất lượng kiểm toán và các yếu tố ảnh hưởng
2.1.1. Một số định nghĩa về chất lượng kiểm toán
Chất lượng kiểm toán được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Theo đoạn
09 chuẩn mực kiểm toán Việt Nam VSA 220 trước đây ban hành kèm theo Quyết định
số 28/2003/QĐ-BTC ngày 14/3/2003 thì “chất lượng kiểm toán là mức độ thỏa mãn
của các đối tượng sử dụng kết quả kiểm toán về tính khách quan và độ tin cậy vào ý
kiến của kiểm toán viên, đồng thời thỏa mãn mong muốn của các đối tượng được kiểm
toán về những ý kiến đóng góp của kiểm toán viên nhằm nâng cao hiệu quả kinh
doanh trong một khoảng thời gian định trước với giá phí hợp lý.”
Trong khi đó, hệ thống chuẩn mực kiểm toán mới ban hành kèm theo thông tư
số 214/2012/TT-BTC ngày 6/12/2012 thì không đưa ra định nghĩa cụ thể về chất lượng
kiểm toán nhưng theo đoạn 06 Chuẩn mực kiểm soát chất lượng số 220 về kiểm soát
chất lượng hoạt động kiểm toán có xác định “mục tiêu của kiểm toán viên và doanh
nghiệp kiểm toán là thực hiện các thủ tục kiểm soát chất lượng ở cấp độ từng cuộc
kiểm toán nhằm cung cấp cho kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán sự đảm bảo
hợp lý rằng: (a ) Cuộc kiểm toán đã tuân thủ các chuẩn mực nghề nghiệp, pháp luật
và các quy định có liên quan; (b) Báo cáo được doanh nghiệp kiểm toán phát hành là
phù hợp với hoàn cảnh cụ thể”.[7]
Khác với các sản phẩm của nghề nghiệp khác, chất lượng sản phẩm kiểm toán
không dễ dàng quan sát hay kiểm tra nhưng người sử dụng dịch vụ lại cần biết các yếu
tố tạo nên chất lượng kiểm toán để họ có thể lựa chọn và tin tưởng vào sản phẩm dịch
vụ mà họ đang sử dụng. Ngược lại, đối với người cung cấp dịch vụ kiểm toán (bao
gồm các công ty kiểm toán và các kiểm toán viên) cũng rất cần biết những yêu cầu về
14
chất lượng từ phía xã hội để họ có thể cung cấp dịch vụ phù hợp và dần thu hẹp
khoảng cách giữa sự mong đợi của công chúng với khả năng thực hiện của kiểm toán
viên. Do đó, nhu cầu về đo lường chất lượng kiểm toán cũng như đo lường sự thỏa
mãn của người sử dụng báo cáo kiểm toán trở nên vô cùng cấp thiết để qua đó đánh
giá chất lượng báo cáo tài chính.
Xuất phát từ thực tế trên, những công trình nghiên cứu trên thế giới cũng đã đưa
ra nhiều cách tiếp cận về chất lượng kiểm toán cả định tính lẫn định lượng. Theo
Krishman và Schauer (2001) chất lượng kiểm toán được hiểu là mức độ công ty kiểm
toán tuân thủ các chuẩn mực nghề nghiệp trong suốt quá trình thực hiện kiểm toán
[35]. Quan điểm này cho rằng các chuẩn mực kiểm toán hiện hành là một thước đo
hoàn hảo cho chất lượng kiểm toán. Khi các kiểm toán viên càng tuân thủ các chuẩn
mực thì chất lượng kiểm toán càng cao. Tuy nhiên, các quan điểm phản đối cho rằng
định nghĩa này quá thiên về mặt định tính. Mặt khác, người sử dụng lẫn đơn vị được
kiểm toán khó có thể giám sát việc tuân thủ mực của các kiểm toán viên và nếu như
các kiểm toán viên thực sự đã tuân thủ chuẩn mực thì bản thân chuẩn mực cũng chưa
thực sự hoàn hảo khi đuợc áp dụng trong nhiều tình huống thực tế.
Một số nhà nghiên cứu khác như DeAngelo (1981) cho rằng chất lượng kiểm
toán được xem xét dựa trên hai khía cạnh đó là : (a) khả năng kiểm toán viên phát hiện
ra các khiếm khuyết trong hệ thống kế toán của khách hàng và (b) báo cáo các khiếm
khuyết này [17]. Định nghĩa này tuy khá rõ ràng về mặt lý thuyết nhưng quá nhấn
mạnh đến tính kiểm tra trong công việc kiểm toán mà quên rằng mục tiêu của kiểm
toán không chỉ dừng lại ở việc kiểm tra và phát hiện các sai sót mà còn phải trợ giúp
doanh nghiệp cải thiện hệ thống kiểm soát nội bộ (thông qua thư quản lý) và sửa chữa
những sai sót trên báo cáo tài chính của khách hàng. Và khi các gian lận sai sót này
không được sửa chữa thì các kiểm toán viên mới có trách nhiệm trình bày trên báo cáo
kiểm toán.
15
Còn Theo Jackson, Moldrich, & Roebuck (2008), chất lượng kiểm toán được
thể hiện ở hai hình thức là “chất lượng thực” (actual quality) và “chất lượng về mặt
cảm nhận” (perceived quality) [27]. Theo đó, chất lượng thực thể hiện mức độ tin cậy
của báo cáo tài chính khi kiểm toán viên phát hiện được các sai sót trọng yếu trên báo
cáo tài chính và rủi ro kiểm toán được giảm thiểu tối đa (chất lượng kiểm toán được
đảm bảo khi kiểm toán viên có đầy đủ trình độ nghiệp vụ). Còn “chất lượng về mặt
cảm nhận” thể hiện mức độ tin tưởng của các người sử dụng báo cáo tài chính đối với
chất lượng của các báo cáo và hiệu quả của cuộc kiểm toán (chủ yếu vấn đề chất lượng
ở đây liên quan đến uy tín nghề nghiệp của các công ty kiểm toán trên thị trường cũng
như sự độc lập của kiểm toán viên đối với khách hàng).
Và khi đứng dưới góc nhìn của nhà đầu tư, người ta đã đưa ra một số quan điểm
khác về chất lượng kiểm toán, theo đó chất lượng kiểm toán được thể hiện qua sự
trung thực của thông tin tài chính được trình bày trên báo cáo tài chính sau khi kiểm
toán. Trách nhiệm của kiểm toán viên là phải làm giảm các sai sót và nâng cao độ
trung thực của dữ liệu kế toán (Beatty, 1989)[10]. Định nghĩa này quan tâm đến kết
quả của dịch vụ kiểm toán đó là sự trung thực của báo cáo tài chính. Theo đó, tác giả
cho rằng báo cáo tài chính là một kết quả tổng hợp của doanh nghiệp báo cáo lẫn các
kiểm toán viên. Khi thông tin trên báo cáo tài chính không trung thực hợp lý thì chất
lượng kiểm toán đã không được đảm bảo cho dù kiểm toán viên đã hoàn toàn tuân thủ
chuẩn mực.
Trong nghiên cứu này, tác giả chủ yếu dựa trên quan điểm của De Angelo
(1981) và Beatty (1989) về chất lượng kiểm toán do định nghĩa này hướng đến kết quả
cuối cùng của công việc kiểm toán mang đến cho người sử dụng đó chính là các thông
tin trên báo cáo tài chính. Qua đó, người đọc cũng như các nhà nghiên cứu có thể đánh
giá chất lượng kiểm toán dựa trên chất lượng của thông tin trên báo cáo tài chính và
xây dựng các mô hình định lượng chất lượng kiểm toán một cách gián tiếp dựa trên độ
16
tin cậy của thông tin tài chính. Ngoài ra, chất lượng kiểm toán có thể xem xét dựa trên
hai khía cạnh là khả năng phát hiện ra gian lận, sai sót của kiểm toán viên (thể hiện
trình độ nghiệp vụ của kiểm toán viên) và khả năng họ trình bày các gian lận sai sót
này (thể hiện tính độc lập khách quan của kiểm toán viên). Do đó, đối với những quy
định chỉ nhằm tăng cường tính độc lập của kiểm toán viên (như quy định luân chuyển
kiểm toán viên chẳng hạn) thì ta cần phải xem xét liệu chúng có làm ảnh hưởng đến
khả năng phát hiện ra các gian lận sai sót hay không. Nếu các quy định này khiến kiểm
toán viên gặp khó khăn trong công việc kiểm toán của mình, làm gia tăng rủi ro kiểm
toán thì chúng cần được điều chỉnh sao cho vừa tăng cường tính độc lập nhưng cũng
không gây khó khăn cho kiểm toán viên, qua đó vừa đảm bảo tính độc lập nhưng
không làm giảm chất lượng kiểm toán.
2.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán
Cũng như bao ngành nghề dịch vụ khác, trong lĩnh vực kiểm toán, để đạt được
chất lượng sản phẩm của kiểm toán phải thỏa mãn các đối tượng sử dụng. Tuy nhiên,
đối tượng sử dụng báo cáo kiểm toán khá rộng. Khởi nguồn cơ bản và sâu xa của nghề
nghiệp kiểm toán là sự xung đột lợi ích giữa người cung cấp và người sử dụng thông
tin tài chính. Trong những thời kỳ đầu, kiểm toán ra đời nhằm thẩm tra về tính chính
xác của các thông tin tài chính, chủ yếu phát triển kiểm toán tuân thủ giúp bảo vệ
quyền lợi của chủ sở hữu và nhà nước. Nhiệm vụ hàng đầu của kiểm toán viên là phát
hiện những gian lận sai sót của nhà quản lý, đối tượng sử dụng kết quả kiểm toán lúc
này là chủ sở hữu và các cơ quan nhà nước.
Đến đầu thế kỷ 20, nền kinh tế thế giới phát triển mạnh mẽ với sự xuất hiện của
hàng triệu nhà đầu tư chứng khoán. Vì thế trong khi mục đích kiểm toán nhà nước và
kiểm toán nội bộ không có sự thay đổi đáng kể, kiểm toán độc lập báo cáo tài chính từ
17
mục đích phát hiện sai phạm đã chuyển sang mục đích mới là nhận xét về mức độ
trung thực và hợp lý của báo cáo tài chính. Lúc này, kết quả kiểm toán chủ yếu phục
vụ cho các bên thứ ba để giúp họ đánh giá về độ tin cậy của báo cáo tài chính.
Do đó dù đối tượng sử dụng kết quả kiểm toán khá rộng nhưng ta có thể chia ra
làm 2 nhóm chính là: (1) người quản lý và (2) cổ đông và các bên liên quan. Đối với
các công ty không phải là công ty đại chúng, người sử dụng chủ yếu là nhà quản lý và
các cổ đông. Tuy nhiên, đối với các công ty đại chúng được niêm yết trên thị trường,
nhóm nguời sử dụng còn bao gồm cả các bên thứ ba (nhà đầu tư, các định chế tài chính
trung gian…). Do thông tin trên báo cáo tài chính của các công ty này có ảnh hưởng
lớn đến nhóm người rộng rãi trong xã hội như vậy nên hầu hết các quốc gia trên thế
giới đều yêu cầu các công ty này phải được kiểm toán hàng năm. Do đó, khi nghiên
cứu về chất lượng kiểm toán, các nhà nghiên cứu phân tích và xem xét chủ yếu dưới
góc nhìn của công chúng và xã hội.
Do việc đánh giá chất lượng kiểm toán đối với công chúng là rất khó khăn nên
người ta thường đánh giá chất lượng kiểm toán thông qua các yếu tố có liên quan đến
chất lượng kiểm toán. Theo luận án tiến sĩ của Trần Khánh Lâm (2011) về “Xây dựng
cơ chế kiểm soát chất lượng cho hoạt động kiểm toán ở Việt Nam”[4], tác giả đã thu
thập và tổng hợp kết quả từ rất nhiều nghiên cứu khác nhau trên thế giới qua đó đưa ra
7 yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán bao gồm:
1) Quy mô công ty kiểm toán
2) Mức độ chuyên sâu trong từng lĩnh vực của kiểm toán viên
3) Nhiệm kỳ kiểm toán viên
4) Giá phí kiểm toán
5) Phạm vi dịch vụ phi kiểm toán cung cấp
18
6) Phương pháp luận kiểm toán và tính cách của kiểm toán viên
7) Kiểm soát chất lượng dịch cụ cung cấp
Trong nghiên cứu này của mình, tôi tiếp tục kế thừa và nghiên cứu sâu hơn về
mặt định lượng ảnh hưởng của nhiệm kỳ kiểm toán viên đến chất lượng kiểm toán.
Qua đó cung cấp bằng chứng cho thấy yếu tố nhiệm kỳ kiểm toán viên có ảnh hưởng
đến chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập báo cáo tài chính tại Việt Nam.
2.2. Phương pháp định lượng chất lượng kiểm toán
2.2.1.Các khoản dồn tích trong lợi nhuận và thước đo chất lượng kiểm toán
Trong các nghiên cứu trước đây về chất lượng kiểm toán, các học giả thế giới
đã đưa ra nhiều mô hình định lượng khác nhau, có thể kể đến như: hệ số tương quan
đối với lợi nhuận (ERC_earnings response coefficients) (Ghost & Moon, 2005)[22]
hay sự vi phạm giả định hoạt động liên tục (Knechel và Anne Vansraalen, 2007)[33]
và các khoản dồn tích (Chen, 2004)[12]. Trong nghiên cứu này tôi sử dụng các khoản
dồn tích (accruals) để đánh giá về mặt định lượng chất lượng kiểm toán báo cáo tài
chính vì những lý do sau đây:
Trước hết, mô hình nghiên cứu này đã được nhiều học giả gần đây sử dụng khi
nghiên cứu chất lượng kiểm toán. Theo đó, các khoản dồn tích ở đây muốn đề cập tới
các khoản dồn tích trong lợi nhuận trên báo cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Với giả định là vấn đề mà nhà đầu tư cũng như các cổ đông khi sử dụng báo cáo tài
chính quan tâm nhất đó là lợi nhuận trong kỳ của doang nghiệp. Các cổ đông và hội
đồng quản trị trong bất kỳ công ty nào cũng có kế hoạch dự toán về lợi nhuận kỳ vọng
mà nhà quản trị phải đạt được vào cuối kỳ kế toán, vì vậy thông tin lợi nhuận là một
trong những thước đo trách nhiệm quản lý quan trọng. Còn đối với các nhà đầu tư cổ
phiếu thì xem lợi nhuận là một thông tin tín hiệu quan trọng về tình hình kinh doanh
19
của doanh nghiệp hiện tại và là thông số quan trọng trong việc đánh giá khả năng tạo
ra lợi nhuận trong tương lai, họ dựa vào đó đưa ra quyết định có đầu tư vào cổ phiếu
của một công ty hay không. Với tất cả những nguyên nhân trên đã tạo ra động cơ để
nhà quản trị công ty có những khoản điều chỉnh mang tính chủ quan đến lợi nhuận
nhằm thỏa mãn những yêu cầu từ phía cổ đông và nâng cao vị thế trên thị trường
chứng khoán. Các nghiên cứu trước đây trên thế giới như: Krishman (2002)[34], Lobo
& Zhou (2001)[36], Kashnik (1996)[30] cũng cho thấy luôn luôn tồn tại nguy cơ các
nhà quản trị công ty “điều chỉnh lợi nhuận” (Earnings management) trong quá trình
điều hành của mình. Khi công ty làm ăn phát đạt các nhà quản trị có xu hướng giấu bớt
lợi nhuận khi tiến hành lập dự phòng cho các loại tài sản hay các khoản đầu tư không
phù hợp với chuẩn mực cũng như nhu cầu khách quan từ thị trường (đặc biệt trong lĩnh
vực ngân hàng và tài chính). Và sau đó khi công ty làm ăn thua lỗ, các khoản dự phòng
này được hoàn nhập và do đó tạo ra một khoản lãi giả thể hiện trên báo cáo tài chính
dẫn đến chất lượng thông tin về lợi nhuận bị bóp méo không còn hữu ích trong việc ra
quyết định. Các nhà đầu tư cũng như cổ đông chắc chắn không thể biết được các
nghiệp vụ này vì nó thuộc nội bộ doanh nghiệp và thông tin trình bày trên báo cáo tài
chính cũng không được đề cập đến.
2.2.2. Sự điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản trị và trách nhiệm của kiểm
toán viên
Theo tiến sĩ Đường Nguyễn Hưng (2012), “hành vi điều chỉnh lợi nhuận là việc
nhà quản lý sử dụng các đánh giá chủ quan của mình trong quá trình lập và công bố
báo cáo tài chính và quá trình thực hiện các nghiệp vụ kinh tế để thay đổi báo cáo tài
chính nhằm đánh lừa các bên có liên quan nhất định, hoặc nhằm thay đổi các kết quả
của các hợp đồng mà có điều khoản ràng buộc dựa trên số liệu kế toán.”[3]
20
Các đánh giá của nhà quản lý được thể hiện cụ thể trong việc lựa chọn các
chính sách kế toán và thực hiện các ước tính kế toán trong quá trình thực hiện công tác
kế toán, lập và công bố báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Họ thường sử dụng các
đánh giá chủ quan của mình trong việc thực hiện các ước tính về các sự kiện kinh tế
tương lai được phản ánh trong báo cáo tài chính của doanh nghiệp, chẳng hạn ước tính
về thời gian sử dụng kinh tế của tài sản cố định, tổn thất có thể của các khoản phải thu
không thu hồi được, hoặc tổn thất từ việc giảm giá của hàng tồn kho. Cùng với việc
thực hiện nhiều ước tính, nhà quản lý cũng phải sử dụng đánh giá chủ quan của mình
để quyết định việc lựa chọn các chính sách kế toán. Cùng xử lý một vấn đề của một
đối tượng kế toán, họ có thể nhiều lựa chọn khác nhau, chẳng hạn, việc lựa chọn giữa
phương pháp khấu hao bình quân hay khấu hao nhanh, giữa phương pháp nhập trước -
xuất trước hay phương pháp nhập sau - xuất trước hay phương pháp bình quân gia
quyền trong tính giá xuất kho hàng tồn kho.
Một trong những phương pháp mà nhà quản trị thường sử dụng đó là lợi dụng
nguyên tắc cơ sở kế toán dồn tích. Cơ sở kế toán dồn tích là một trong các nguyên tắc
kế toán cơ bản nhất chi phối các phương pháp kế toán cụ thể trong kế toán doanh
nghiệp. Theo đó, mọi giao dịch kinh tế liên quan đến tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn
chủ sở hữu, doanh thu và chi phí được ghi nhận tại thời điểm phát sinh giao dịch,
không quan tâm đến thời điểm thực tế thu hoặc chi tiền (Chuẩn mực kế toán số 01,
2002). Vì việc ghi nhận doanh thu và chi phí có ảnh hưởng quyết định đến báo cáo lợi
nhuận của doanh nghiệp trong một kỳ, cơ sở kế toán dồn tích được xem là một nguyên
tắc chính yếu đối với việc xác định lợi nhuận của doanh nghiệp. Từ đó, báo cáo tài
chính nói chung và báo cáo kết quả kinh doanh nói riêng được lập trên cơ sở dồn tích
phản ánh đầy đủ các giao dịch kinh tế trong kỳ và từ đó, tình trạng tài sản, nguồn vốn
của doanh nghiệp được phản ánh một cách đầy đủ, hợp lý. Hơn nữa, do không có sự
trùng hợp giữa lượng tiền thu vào và doanh thu trong kỳ và tồn tại chênh lệch giữa chi
21
phí ghi nhận và lượng tiền chi ra trong một kỳ, kế toán theo cơ sở dồn tích cho phép
theo dõi các giao dịch kéo dài qua các kỳ khác nhau như: nợ phải thu, nợ phải trả,
khấu hao, dự phòng…
Và tiến sĩ Nguyễn Công Phương (2010)[5] trên một bài viết đăng trên tạp chí
kế toán đã tổng hợp một số phương án có thể được nhà quản trị vận dụng để điều
chỉnh thông tin lợi nhuận như sau:
(1) Lựa chọn phương pháp kế toán:
Lựa chọn phương pháp kế toán có ảnh hưởng đến thời điểm ghi nhận doanh thu
và chi phí (và kết quả là ảnh hưởng đến thời điểm ghi nhận lợi nhuận). Lựa chọn một
(hoặc một số) phương pháp kế toán cho phép ghi nhận doanh thu sớm hơn và chuyển
dịch ghi nhận chi phí về sau sẽ làm tăng lợi nhuận báo cáo trong kỳ và ngược lại.
Trong chế độ kế toán doanh nghiệp, tồn tại một số phương pháp có thể được vận dụng
để ghi nhận doanh thu, chi phí. Chẳng hạn, doanh nghiệp có thể vận dụng phương
pháp phần trăm hoàn thành để ghi nhận doanh thu và chi phí trong hoạt động cung cấp
dịch vụ và hợp đồng xây dựng. Phương pháp này cho phép doanh nghiệp ghi nhận
mức doanh thu lớn hơn hoặc nhỏ hơn thực tế theo tỷ lệ ước tính tiến độ thực hiện hợp
đồng; Phương pháp xác định giá trị hàng tồn kho (bình quân, nhập trước - xuất trước,
nhập sau - xuất trước, đích danh) ảnh hưởng đến ghi nhận giá vốn hàng bán trong kỳ,
và từ đó, ảnh hưởng đến lợi nhuận báo cáo trong kỳ; lựa chọn phương pháp khấu hao
tài sản cố định. Mỗi một phương pháp khấu hao (đường thẳng, tỷ lệ sử dụng, số dư
giảm dần có điều chỉnh) cho chi phí khấu hao khác nhau. Cần lưu ý rằng, phạm vi của
lựa chọn này khá hạn chế.
22
(2) Vận dụng các phương pháp kế toán:
Chế độ kế toán cũng cho phép doanh nghiệp được phép vận dụng các phương
pháp kế toán thông qua việc lựa chọn thời điểm ghi nhận chi phí. Nhà quản trị quyết
định chuyển dịch về sau (hoặc ghi nhận sớm hơn) một số loại chi phí sẽ làm giảm
(hoặc tăng) chi phí của niên độ hiện hành. Các loại chi phí có thể chuyển dịch thời
điểm ghi nhận bao gồm: Chi phí bảo hiểm hỏa hoạn, giá trị công cụ, dụng cụ phân bổ
nhiều kỳ, chi phí sửa chữa lớn tài sản cố định, chi phí quảng cáo, chi phí bảo hành sản
phẩm. Những loại chi phí này có thể được ghi nhận vào niên độ phát sinh hoặc phân
bổ cho một số kỳ (dựa vào nguyên tắc phù hợp).
(3) Lựa chọn thời điểm vận dụng các phương pháp kế toán và các ước tính các
khoản chi phí, doanh thu:
Nhà quản trị doanh nghiệp có thể lựa chọn thời điểm và cách thức ghi nhận các
sự kiện có liên quan đến chỉ tiêu lợi nhuận trong kỳ. Chẳng hạn, thời điểm và mức dự
phòng cần lập của hàng tồn kho, chứng khoán và phải thu khó đòi; thời điểm các
khoản dự phòng này được hoàn nhập hay xóa sổ và mức hoàn nhập. Doanh nghiệp
cũng có thể ước tính (trích trước) một số chi phí như chi phí bảo hành sản phẩm, chi
phí bảo hành công trình xây lắp, ước tính tỷ lệ hoàn thành hợp đồng xây lắp và cung
cấp dịch vụ để ghi nhận doanh thu và chi phí. Ước tính thời gian sử dụng hữu ích của
tài sản cố định cũng có thể được thực hiện để điều chỉnh chi phí khấu hao (mặc dù
phạm vi không lớn).
(4) Lựa chọn thời điểm đầu tư hay thanh lý tài sản cố định:
Lựa chọn thời điểm mua hay thanh lý, nhượng bán tài sản cố định cũng có ảnh
hưởng đến lợi nhuận kế toán. Nhà quản trị có thể quyết định khi nào và mức độ các
chi phí quảng cáo, chi phí sửa chữa, nâng cấp cải tạo tài sản cố định được chi ra. Nhà
23
quản trị cũng có thể quyết định thời điểm thanh lý, nhượng bán tài sản cố định để đẩy
nhanh hoặc làm chậm lại việc ghi nhận lợi nhuận hay thua lỗ hoạt động khác. Đẩy
nhanh hay làm chậm lại việc gửi hàng cho khách hàng vào thời điểm gần cuối niên độ
cũng có ảnh hưởng đến chỉ tiêu lợi nhuận báo cáo trong kỳ.
(5) Tăng doanh thu thông qua các chính sách giá và tín dụng:
Một biện pháp các doanh nghiệp thường sử dụng để tăng lợi nhuận khi thấy có
nguy cơ không đạt kế hoạch đặt ra là giảm giá bán hoặc nới lỏng các điều kiện tín
dụng nhằm tăng lượng hàng bán ra trong những tháng cuối năm tài chính. Và tăng giá
bán sản phẩm vào đầu năm sau.
(6) Cắt giảm chi phí hữu ích:
Cắt giảm chi phí hữu ích như chi phí nghiên cứu và phát triển (R&D), chi phí
quảng cáo, chi phí duy tu, bảo dưỡng thiết bị cũng là cũng là một cách có thể làm tăng
lợi nhuận. Tuy nhiên, vì các chi phí này có vai trò cực kỳ quan trọng đối với sự phát
triển của công ty về lâu dài, nên sử dụng giải pháp này cũng đồng nghĩa với việc hy
sinh các khoản lợi nhuận tiềm năng trong tương lai.
(7) Bán các khoản đầu tư hiệu quả
Ngoài trì hoãn thanh lý các khoản đầu tư không hiệu quả, công ty có thể bán
các khoản đầu tư sinh lời nhằm tăng thêm lợi nhuận cho năm hiện tại. Việc áp dụng
biện pháp trên có nghĩa là công ty tự nguyện bỏ qua tiềm năng sinh lời lớn từ các
khoản đầu tư này trong những năm tiếp theo để tăng lợi nhuận trong năm hiện tại.
Các phương án trên có thể được phân chia thành hai loại dựa trên thủ thuật mà
nhà quản trị sử dụng . Thứ nhất là việc điều chỉnh dựa trên các khoản dồn tích (accrual
24
earnings management) bao gồm: Ghi nhận doanh thu khi chưa đủ các điều kiện ghi
nhận, ghi khống doanh thu, các biện pháp nhằm điều chỉnh các khoản khấu hao, các
khoản dự phòng giảm giá tài sản, hay vốn hóa các khoản chi phí không đủ điều kiện,
trích trước các khoản chi phí không phù hợp… Thứ hai là quản trị lợi nhuận dựa trên
các giao dịch thực (real earnings management) bao gồm các biện pháp như: Tăng
doanh thu thông qua chính sách giá và tín dụng, cắt giảm các chi phí hữu ích hay lựa
chọn thời điểm đầu tư hoặc thanh lý tài sản cố định…Cả hai phương pháp này thường
được các nhà quản trị vận dụng tổng hợp để điều chỉnh lợi nhuận mục tiêu của một
hoặc một vài kỳ kế toán. Mức biến động lợi nhuận phụ thuộc vào giới hạn cho phép
(hay mức linh hoạt) của các phương pháp kế toán. Mặt khác, hướng điều chỉnh (tăng,
giảm) lợi nhuận không thể không có giới hạn vì việc điều chỉnh tăng doanh thu và
giảm chi phí trong một (hoặc một số kỳ) kỳ này sẽ làm giảm doanh thu và tăng chi phí
trong một vài kỳ kế tiếp sau đó (từ đó, số trung bình của toàn bộ số lợi nhuận điều
chỉnh trong một khoảng thời gian hữu hạn, thường là vài ba năm, phải bằng 0).
Vì vậy nhằm đảm bảo thông tin về lợi nhuận trong kỳ đáng tin cậy và có thể sử
dụng được, vai trò của kiểm toán viên ở đây là phải phát hiện và điều chỉnh tối thiểu
hóa các khoản điều chỉnh này (bao gồm các khoản doanh thu chưa đủ điều kiện ghi
nhận, các khoản dự phòng không hợp lý, các khoản chi phí không đủ điều kiện vốn
hóa….) trong quá trình kiểm toán của mình. Khi các kiểm toán viên để cho các khoản
điều chỉnh mang nặng tính chủ quan của nhà quản trị quá cao thì thông tin lợi nhuận
không còn giá trị sử dụng, do đó chất lượng kiểm toán không được đảm bảo.
25
2.2.3. Mô hình định lượng chất lượng kiểm toán
Dựa trên nguyên tắc cơ sở dồn tích trong kế toán, lợi nhuận trong kỳ của doanh
nghiệp có thể chia ra làm hai loại là “lợi nhuận bằng tiền” (cash earnings) và “lợi
nhuận dồn tích” (accrual earnings). Lợi nhuận bằng tiền hình thành từ các khoản
doanh thu và chi phí bằng tiền mặt mà doanh nghiệp đã thực thu thực chi trong kỳ.
Còn lợi nhuận dồn tích là lợi nhuận hình thành từ các khoản doanh thu chưa thu tiền
và các chi phí không phải chi bằng tiền của doanh nghiệp được tính trong kỳ được ghi
nhận theo nguyên tắc cơ sở dồn tích, cụ thể đó bằng các khoản doanh thu bán chịu cho
khách hàng trong kỳ trừ các khoản chi phí không phải chi trả bằng tiền như chi phí
phải trả, chi phí trích trước, các khoản dự phòng giảm giá tài sản cũng như các khoản
khấu hao tài sản cố định trong kỳ... Giả định đầu tiên trong mô hình định lượng là các
kiểm toán viên có thể kiểm tra tính có thực và độ tin cậy của các khoản lợi nhuận bằng
tiền một cách dễ dàng thông qua việc kiểm tra chọn mẫu các hóa đơn bán hàng, hóa
đơn giá trị gia tăng của các khoản chi phí, các loại chứng từ thanh toán cũng như chi
trả cho các khoản chi phí phát sinh trong kỳ. Vấn đề cần được làm rõ ở đây là lợi
nhuận dồn tích. Đây chính là các khoản lợi nhuận mà các nhà quản trị có thể thay đổi
khi sử dụng nguyên tắc cơ sở dồn tích trong kế toán. Trên lý thuyết, nguyên tắc cơ sở
dồn tích nhằm đảm bảo doanh nghiệp ghi nhận đầy đủ các khoản doanh thu cũng như
chi phí phát sinh cho dù đã thực sự chi trả bằng tiền hay chưa nhằm bảo đảm lợi nhuận
được phản ánh một cách trung thực và hợp lý. Tuy nhiên, như đã nói ở trên nguyên tắc
này có thể bị lợi dụng để thay đổi lợi nhuận thực của doanh nghiệp khi nhà quản trị ghi
nhận doanh thu khi nghiệp vụ bán hàng chưa được thực hiện đầy đủ và doanh thu chưa
đủ điều kiện ghi nhận theo chuẩn mực kế toán VAS 14 quy định. Các khoản dự phòng
và chi phí trích trước cũng vậy nhà quản trị có thể vận dụng những sơ hở trong các quy
định liên quan về lập dự phòng và trích trước chi phí nhằm gia tăng hay giảm bớt chi
phí trên kết quả kinh doanh.
26
Vì vậy, trong nghiên cứu này tôi đo lường chất lượng kiểm toán bằng chất
lượng thông tin lợi nhuận, mà cụ thể ở đây là các khoản dồn tích.
Tổng các khoản dồn tích trong lợi nhuận (total accrual earnings - TA) có thể
tính được bằng hai phương pháp
Theo phương pháp tiếp cận dựa trên bảng cân đối kế toán, TA được tính bằng
thay đổi trong vốn lưu động thuần giữa hai kỳ kế toán loại trừ thay đổi trong khoản
mục tiền và tương đương tiền (net noncash working capital) trừ cho chi phí khấu hao
trong kỳ. Theo đó:
TA = (∆∑Tài sản ngắn hạn - ∆Tiền) - (∆∑Nợ ngắn hạn - ∆Vay và Nợ ngắn hạn ) -
trong kỳ (1)
Theo phương pháp tiếp cận theo báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và báo
cáo lưu chuyển tiền tệ, TA được tính bằng cách lấy lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh
doanh trừ lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh.
TA = Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh – Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động
kinh doanh. (2)
Phương pháp tính thứ nhất xuất phát từ công thức tính trong mô hình nghiên
cứu nguyên gốc của giáo sư Jennifer Jones (1991) về việc liệu các nhà quản lý có làm
giảm bớt lợi nhuận thực tế để nhận được các khoản trợ cấp của chính phủ nhằm bảo hộ
ngành sản xuất trong nước, theo đó trong nghiên cứu của mình, bà quan tâm chủ yếu
đến các khoản dồn tích liên quan đến vốn lưu động (phải thu khách hàng, chi phí phải
trả)[29]. Đó là các khoản nhà quản lý dễ dàng sử dụng để điều chỉnh thông tin lợi
nhuận. Tuy nhiên, bà đã không tính chi phí dự phòng giảm giá tài sản dài hạn vào các
khoản dồn tích. Vì vậy, khi nghiên cứu về chất lượng kiểm toán, hầu hết các nhà
nghiên cứu đều sử dụng công thức tính thứ hai do nó tính luôn tất cả các khoản dự
27
phòng vào TA, do đó công thức (2) sẽ được sử dụng để tính TA vì sự phù hợp của nó
với mục tiêu nghiên cứu.
Vấn đề kế tiếp là ta không thể sử dụng TA làm thước đo chất lượng kiểm toán
một cách trực tiếp do trong đó có các khoản dồn tích phù hợp với tình hình kinh doanh
thực tế của công ty như các khoản bán chịu chưa thu tiền trong kỳ, các khoản dự
phòng giảm giá hàng tồn kho, chi phí lãi vay phải trích trước….Do đó, ta cần phải có
một mô hình để tách TA ra làm hai phần là: Non-discretionary accruals_NDA (các
khoản dồn tích không tự định) và Discretionay accruals_DA (các khoản dồn tích tự
định) hay còn gọi là các khoản dồn tích bất thường (abnormal accruals). Và DA mới
chính là thước đo phù hợp để đánh giá các nhà quản trị có điều chỉnh thông tin lợi
nhuận hay không và từ đó đánh giá chất lượng kiểm toán. Theo nguyên tắc chung là
khi DA mang giá trị dương quá cao (nguy cơ nhà quản trị thổi phồng lợi nhuận) hay
âm quá thấp (nguy cơ nhà quản trị che giấu lợi nhuận) đều cho thấy có sự điều chỉnh
chủ quan từ nhà quản lý và khi các kiểm toán viên để điều này xảy ra có nghĩa là chất
lượng kiểm toán giảm xuống.
Để ước tính giá trị của DA trong TA, các nhà nghiên cứu trên thế giới đã đưa ra
nhiều mô hình khác nhau, trong đó sáu mô hình nổi tiếng nhất là De Angelo model
(1985), Healy model (1986), Jones model (1991), Modified Jones model (1995),
Industry model (1995) và Cross-sectional Jones model (1994). Và cũng từ đó nhiều
nghiên cứu đã được thực hiện nhằm đo lường tính hữu hiệu và độ tin cậy trong việc
ước lượng của từng mô hình cũng như độ tin cậy của chúng như: Bartov và cộng sự
(2000) [9], Dechow và cộng sự (2009) [18]. Các kết luận của những nghiên cứu này
cho thấy mô hình Modified Jones (1995) mà Dechow, Sloan và Sweeney đưa ra sau
khi điều chỉnh những hạn chế của mô hình Jones (1991) có độ tin cậy cao nhất trong
số các mô hình nói trên. Vì vậy, để tiếp nối các nghiên cứu trước tôi cũng sử dụng mô
28
hình này để ước lượng DA. Theo đó, DA được tính bằng cách lấy TA trừ cho NDA
trong kỳ.
DA = TA – NDA
Trong đó:
TA : Tổng các khoản dồn tích (total accrual)
NDA: Các khoản dồn tích không tự định (non-discretionary accrual)
Kế đến là ước tính NDA, Jennifer Jones (1991) đã đưa ra một mô hình để ước
tính NDA dựa trên TA [29]. Theo đó, NDA được ước tính qua phương trình như sau:
NDAit/ At-1 = α(1/At-1 ) + β1(ΔREVit -ΔARit)/ At-1 + β2PPEit/ At-1 (2.1)
Với:
NDAit: Tổng các khoản dồn tích không tự định của công ty i năm t
At-1: Tổng tài sản của công ty i tại năm t-1
REVit : Chênh lệch trong doanh thu công ty i năm t so với năm t-1
ARit:Chênh lệch trong khoản mục phải thu khách hàng công ty i năm t so với năm t-1
PPEit: Tổng giá trị còn lại của tài sản cố định của công ty i tại năm t
Các hệ số α , β1, β2 được ước lượng bằng phương pháp bình phương bé nhất
(OLS) từ phương trình hồi quy sau:
(2.2)
TAit/ At-1 = α(1/At-1 ) + β1ΔREVit / At-1 + β2PPEit/ At-1 + ε
29
Trong đó:
TAit : Tổng các khoản dồn tích trong lợi nhuận của công ty i tại năm t
*ε : Sai số trong phương trình hồi quy (2.2) thể hiện phần dồn tích trong TA mà các
biến độc lập là REVit/ At-1 và PPEit/ At-1 không giải thích được (đó chính là tỉ lệ
DAit/At-1 mà ta cần tìm để đánh giá chất lượng kiểm toán)
Trong mô hình nguyên gốc, Jones (1991) đưa vào phương trình hồi quy (2.2)
hai biến là REV và PPE. Theo diễn giải của bà, giá trị REV thể hiện sự biến động
doanh thu thuần của doanh nghiệp trong kỳ kế toán, nó phản ánh tình hình và môi
trường hoạt động kinh doanh và là khoản mục mang tính khách quan không bị nhà
quản trị lợi dụng để điều chỉnh lợi nhuận trong kỳ. Còn giá trị tài sản cố định thể hiện
nguồn lực nội tại của đơn vị trong việc tạo ra doanh thu, đồng thời khoản mục chi phí
khấu hao là một khoản chi phí dồn tích không tự định lớn ảnh hưởng đến tổng lợi
nhuận trong kỳ. Tuy nhiên, ở mục chú giải số 31 tại trang 212 trong nghiên cứu của
mình, tác giả cũng có đề cập tới những hạn chế trong diễn giải của mình khi chọn
ΔREV làm biến nghiên cứu. Bà cho rằng, doanh thu thuần cũng có thể bị tác động
thông qua các khoản doanh thu bị ghi nhận không đúng niên độ và các khoản này có
thể là doanh thu khống của doanh nghiệp. Xuất phát từ hạn chế kể trên của mô hình
gốc, các nhà nghiên cứu sau này đưa thêm biến ΔAR vào phương trình (2.1) nhằm
loại bỏ ảnh hưởng của các khoản doanh thu dồn tích do sự tăng lên của khoản mục
phải thu khách hàng trong kỳ, qua đó giá trị doanh thu thuần tăng thêm phản ánh chính
xác hơn môi trường kinh doanh của doanh nghiệp trong năm đó. Các biến số trong
phương trình hồi quy sở dĩ đều được chia cho At-1 là do các biến trong mô hình bao
gồm: TAit , ΔREVit và PPEit đều là các con số tuyệt đối do đó không phù hợp để chạy
phương trình hồi quy nhằm ước tính DA vì mỗi công ty có quy mô vốn và doanh thu
khác nhau. Từ đó, tác giả chia hai vế của phương trình cho tổng tài sản năm trước của
30
chính công ty đó để có được các số liệu dạng tỉ lệ loại bỏ ảnh hưởng của sự khác nhau
về quy mô tài sản cũng như doanh thu làm mô hình không đáng tin cậy nữa. Các con
số tỉ lệ phản ánh rằng trong một năm tài chính, khi công ty có tỉ lệ tăng doanh thu trên
tổng tài sản (ΔREVit/ TAit) và tỉ lệ giá trị còn lại của tài sản cố định trên tổng tài sản
(PPEit/ TAit) như thế này thì sẽ có mức NDA/ TAit tương ứng cũng là một con số tỉ lệ.
Một vấn đề khác biệt nữa giữa mô hình gốc của Jones (1991) và mô hình
Modified Jones (1995) mà các nhà nghiên cứu đã và đang tiếp tục phát triển để nghiên
cứu việc điều chỉnh lợi nhuận là nghiên cứu ban đầu của bà, tác giả thực hiện chạy
phương trình hồi quy cho từng công ty để có được các hệ số α, β1, β2 (data-series
analysis). Phương pháp này được các nhà nghiên cứu sau này cho là có hạn chế trong
việc tính toán các khoản dồn tích bất thường mà từ đó nghiên cứu hành vi điều chỉnh
lợi nhuận của nhà quản lý. Và các nghiên cứu của Bartov và cộng sự (2000), Dechow
và cộng sự (2009) đã kết luận mô hình Modified Cross-sectional Jones có độ tin cậy
cao nhất trong việc ước lượng DA, theo đó để ước tính các hệ số trên dữ liệu của các
doanh nghiệp sẽ được chạy hồi quy theo từng năm theo dạng nghiên cứu cắt ngang
(cross-sectional analysis). Qua đó, ta có thể thấy được tác động của tình hình thị
trường lên doanh thu cũng như lợi nhuận của đơn vị, đồng thời có thể so sánh chất
lượng thông tin lợi nhuận của các công ty cùng ngành trong năm đó.
Phương trình (2.2) sẽ được hồi quy theo từng năm để có được các hệ số α, β1,
β2 cho mỗi năm. Từ các hệ số này, ta sẽ tính được tỉ số NDAit/At-1 bằng phương trình
(2.1) thể hiện các khoản dồn tích bình thường trong kỳ của doanh nghiệp.
Sau đó ta tính: DAit/At-1 = TAit/At-1 - NDAit/At-1
Khi tỉ số DAit/At-1 này dương quá cao (thổi phồng lợi nhuận) hay âm quá cao
(che giấu lợi nhuận) đều thể hiện rằng các khoản DA trong lợi nhuận lớn và chất lượng
kiểm toán giảm xuống.
31
Tuy nhiên, trên thực tế giá trị của DA của từng công ty có thể mang giá trị âm
hoặc dương tùy thuộc vào động cơ của nhà quản trị trong kỳ muốn thổi phồng (DA>0)
hay che giấu bớt lợi nhuận (DA<0) đã thực hiện thực tế trong kỳ. Do đó, giá trị
DAit/At-1 cũng có thể mang giá trị âm hoặc dương. Vì vậy, ta sẽ phải sử dụng giá trị
tuyệt đối của giá trị DAit/At-1 làm biến phụ thuộc trong phương trình hồi quy để đại
diện cho chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính của công ty tại năm nghiên cứu với kỳ
vọng rằng khi chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính của công ty càng tăng thì giá trị
này sẽ tiệm cận về giá trị 0 (tức là càng giảm xuống).
Ta ký hiệu giá trị tuyệt đối của giá trị DAit/At-1 là |DA|
32
2.3. Các nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Báo cáo tài chính của một doanh nghiệp trong một nền kinh tế hiện nay có thể
được rất nhiều đối tượng sử dụng, và lẽ dĩ nhiên người sử dụng cần có những thông tin
đáng tin cậy để giúp họ đánh giá về tình hình tài chính của đơn vị. Qua đó, đưa ra các
quyết định kinh tế. Tuy nhiên do nền kinh tế ngày càng phát triển đã tạo nên hệ quả là
khả năng nhận được các thông tin tài chính kém tin cậy sẽ tăng cao.
Rủi ro về thông tin xuất phát từ nhiều nguyên nhân, chẳng hạn như người sử
dụng khó khăn trong việc tiếp cận nguồn thông tin nội tại của đơn vị, động cơ của
người cung cấp thông tin (cụ thể là các nhà quản lý) muốn che giấu thông tin bất lợi
cho họ hay độ phức tạp cũng như số lượng thông tin phải xử lý trong bối cảnh hoạt
động kinh doanh ngày càng phức tạp như hiện nay.
Vì vậy, các cổ đông cũng như các bên thứ ba luôn mong muốn báo cáo tài
chính phải được kiểm toán bởi một công ty kiểm toán độc lập. Với những kỹ năng và
kinh nghiệm nghề nghiệp cùng với sự độc lập của mình, các kiểm toán viên sẽ cung
cấp sự đánh giá về độ tin cậy của báo cáo tài chính, đồng thời giúp tiết kiệm chi phí
kiểm tra kiểm soát cho số đông những người sử dụng.
Về mặt xã hội nói chung thì kiểm toán trở thành một công cụ bảo vệ sự ổn định
của nền kinh tế, đặc biệt là tại các quốc gia mà thị trường chứng khoán giữ một vai trò
quan trọng trong việc huy động vốn.
Kết quả kiểm toán thể hiện thông qua báo cáo kiểm toán được phát hành bên
cạnh việc phục vụ cho khách hàng (ở đây là chính bản thân đơn vị được kiểm toán và
các cổ đông hiện hữu) còn phải phục vụ cho đông đảo công chúng (các nhà đầu tư
tiềm năng, các chủ nợ, các đối tác của doanh nghiệp…). Do vậy, kiểm toán là một
nghề nghiệp đặc biệt, trong khi các ngành nghề dịch vụ khác lấy khách hàng làm đối
33
tượng phục vụ chủ yếu thì các kiểm toán viên độc lập cũng thu phí của khách hàng
nhưng lại phục vụ các đối tượng bên ngoài không trực tiếp điều hành doanh nghiệp.
Trước mỗi cuộc kiểm toán thì cổ đông có quyền biểu quyết thông qua việc lựa
chọn công ty kiểm toán và kiểm toán viên. Tuy nhiên, các nhà quản lý vẫn có ảnh
huởng đáng kể đến việc lựa chọn hay chấm dứt hợp đồng với công ty kiểm toán hay
kiểm toán viên chính thực hiện kiểm toán. Do đó, họ có thể gây áp lực lên các kiểm
toán viên bằng nhiều cách để tránh các báo cáo kiểm toán không chấp nhận hay chấp
nhận từng phần mang tính chất bất lợi. Bởi vì khi kiểm toán viên phát hành những báo
cáo như thế thì đó là một tín hiệu cho thấy các nhà quản lý đã thể hiện một bức tranh
lệch lạc về tình hình và vị thế tài chính của đơn vị dẫn đến giá trị kinh tế của đơn vị sẽ
sụt giảm trên thị trường. Hệ lụy từ việc này có thể khiến lợi ích của nhà quản lý (các
khoản lương thưởng hay giá trị cổ phần mà họ đang nắm giữ) giảm theo.
Do hoạt động trong một môi trường đặc biệt như vậy nên ngoài kiến thức
chuyên môn, nghề kiểm toán còn đòi hỏi tính độc lập rất cao, nhằm tạo ra uy tín nghề
nghiệp và gầy dựng lòng tin của thị trường. Tuy nhiên, kể từ sau các cuộc sụp đổ của
các tập đoàn lớn trên thế giới, lòng tin của công chúng đối với kiểm toán mà đặc biệt ở
đây là tính độc lập của kiểm toán viên đã bị sụt giảm khá nghiêm trọng. Các nhà lập
pháp trên toàn thế giới, mà khởi đầu là Mỹ, bắt đầu thực hiện các nghiên cứu thực
nghiệm và ban hành những quy định bắt buộc về luân chuyển kiểm toán viên bên cạnh
các quy định khác nhằm qua đó chấn chỉnh hoạt động kiểm toán độc lập tăng cường
tính độc lập của kiểm toán viên mà trước đó chất lượng của dịch vụ này chỉ do các
hiệp hội nghề nghiệp kiểm soát.
Kết quả từ các nghiên cứu này vẫn còn khá nhiều tranh cãi xung quanh việc nên
hay không nên áp dụng luân chuyển kiểm toán viên bắt buộc.
34
2.3.1. Các nghiên cứu ủng hộ việc luân chuyển kiểm toán viên bắt buộc
Nhóm ủng hộ bao gồm nghiên cứu của Dopuch và cộng sự (2001) tại Mỹ về
vấn đề luân chuyển bắt buộc kiểm toán viên đã cung cấp bằng chứng cho thấy việc
luân chuyển này giúp giảm bớt khả năng kiểm toán viên phát hành các báo cáo kiểm
toán không đáng tin cậy và theo chiều hướng có lợi cho nhà quản lý[20]. Còn
Gietzmann và Sen (2002) thực hiện những phân tích về sự đánh đổi giữa lợi ích và chi
phí của việc luân chuyển kiểm toán viên và đưa ra kết luận rằng trong một số hoàn
cảnh nhất định, luân chuyển kiểm toán là một quy định đúng đắn. Bởi vì ở những thị
trường mà các công ty kiểm toán ít có cơ hội tiếp cận khách hàng mới, việc bãi bỏ
quyền của nhà quản lý trong việc bổ nhiệm kiểm toán viên có thể giúp họ giảm bớt áp
lực từ khách hàng và tính độc lập được đảm bảo.[24]
Tại Úc, Carey và Simnett (2005) thực hiện nghiên cứu vấn đề này trong giai
đoạn từ năm 1987 đến năm 1993 thì kết luận rằng nhiệm kỳ kiểm toán càng dài sẽ làm
cản trở khả năng sáng tạo và tư duy đổi mới của kiểm toán viên do hiệu ứng “quá tự
mãn” (complacency effect) và hiệu ứng “quá quen thuộc” (familiar effect). Do đó, khả
năng xét đoán của kiểm toán viên về tính hoạt động liên tục của đơn vị giảm xuống,
dẫn tới nhiều công ty vi phạm giả định này, nhưng kiểm toán viên không có ý kiến
nhấn mạnh để cảnh báo nguời sử dụng BCTC.[39]
Nghiên cứu của Davis và cộng sự (2003) thì cho thấy nhiệm kỳ kiểm toán có
tương quan âm với chất lượng báo cáo kiểm toán. Nhiệm kỳ càng dài thì chất lượng
báo cáo kiểm toán càng giảm do nhà quản trị sẽ được linh động hơn trong sổ sách kế
toán và báo cáo lợi nhuận, từ đó họ dễ đạt mục tiêu lợi nhuận trong kỳ hơn những công
ty thực hiện luân chuyển kiểm toán viên.[16]
Các nghiên cứu gần đây tại châu Á có nghiên cứu của Kim và cộng sự (2004)
thực hiện ở Hàn Quốc, một môi trường đặc biệt đối với ngành kiểm toán. Trong khi ở
35
các nước khác việc luân chuyển kiểm toán mang tính bắt buộc nhưng nhà quản lý và
đơn vị kiểm toán vẫn có quyền lựa chọn công ty kiểm toán và kiểm toán viên mới. Tuy
nhiên, ở Hàn Quốc kể từ năm 1989, quy định mới về việc luân chuyển kiểm toán đã
được thông qua. Theo đó, các công ty niêm yết đang gặp khủng hoảng về mặt tài chính
(kết quả được đo lường bằng một loạt các chỉ số tài chính do chính phủ ban hành) sẽ
phải chấp nhận việc kiểm toán bắt buộc từ phía cơ quan chức năng, cụ thể ở đây là ủy
ban giám sát tài chính (Financial Supervisory Commission – FSC). Cơ quan này sẽ chỉ
định bắt buộc một kiểm toán viên độc lập để kiểm toán cho các công ty này. Các tác
giả sử dụng thước đo các khoản dồn tích để đánh giá chất lượng kiểm toán viên và họ
thấy rằng DA giảm dần qua các năm sau khi công ty chịu sự kiểm toán bắt buộc. Qua
đó cho thấy việc luân chuyển kiểm toán viên bắt buộc là cần thiết nhằm tăng cường
tính độc lập của kiểm toán viên. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng mẫu nghiên cứu mà
họ lựa chọn là các công ty đang gặp khó khăn về mặt tài chính do đó nguy cơ nhà quản
trị điều chỉnh thông tin lợi nhuận là khá cao; và kết quả này không thể áp dụng chung
cho cả thị trường trong đó bao gồm các công ty hoạt động lành mạnh.[31]
Tiếp tục nghiên cứu chi tiết hơn vấn đề này tại Hàn Quốc, Chung (2005) trong
luận án nghiên cứu của mình cũng đo lường chất lượng kiểm toán thông qua DA và
lấy mẫu nghiên cứu các công ty trong giai đoạn trước khi có quy định chỉ định kiểm
toán viên bắt buộc và sau khi có quy định đó. Kết quả cũng cho thấy: Đối với những
thị trường tài chính như ở Hàn Quốc, chính sách luân chuyển kiểm toán viên bắt buộc
giúp tăng cường tính độc lập và giúp họ hoàn thành tốt công việc mà không phải chịu
sự chi phối từ phía nhà quản lý.[15]
Chi, Huang, Liao và Yi (2009) xem xét quy định luân chuyển kiểm toán viên
bắt buộc tại Đài Loan. Các tác giả sử dụng cùng lúc hai thước đo DA và ERC để đo
chất lượng kiểm toán nhằm đối chiếu kết quả thu được. Mẫu nghiên cứu được lấy từ
năm 2004 khi mà quy định luân chuyển bắt buộc bắt đầu có hiệu lực. Từ các kết quả
36
nghiên cứu thực nghiệm của mình, các tác giả cho rằng luân chuyển kiểm toán viên
góp phần làm gia tăng chất lượng kiểm toán. Và bằng cách đo lường phản ứng của nhà
đầu tư về chất lượng kiểm toán thông qua ERC, các tác giả nhận thấy nhà đầu tư cảm
thấy kiểm toán viên độc lập hơn, do đó chất lượng kiểm toán cũng tăng lên. Tuy nhiên,
cần phải lưu ý rằng khi sử dụng DA làm thước đo, các tác giả chỉ so sánh DA của một
công ty năm 2004 với số liệu của năm 2003, tức là giai đoạn chuyển tiếp khi quy định
bắt đầu có hiệu lực. Do đó, kết quả có thể có sự khác biệt với các nghiên cứu khác tại
thị trường chứng khoán Đài Loan.[13]
Trên đây là một số nghiên cứu ủng hộ việc luân chuyển kiểm toán viên. Tuy
nhiên, bên cạnh đó cũng có khá nhiều nghiên cứu mà kết quả của các tác giả không
ủng hộ việc luân chuyển bắt buộc này.
2.3.2. Các nghiên cứu không ủng hộ việc luân chuyển
Khác với nghiên cứu của Chi và cộng sự (2009), Chen và cộng sự (2009) lấy
mẫu nghiên cứu tại Đài Loan giai đoạn 1990 đến 2001, một giai đoạn khá dài chưa có
quy định luân chuyển bắt buộc công ty kiểm toán và kiểm toán viên. Các tác giả thấy
rằng có một sự tương quan âm giữa nhiệm kỳ kiểm toán viên và tỉ lệ các khoản dồn
tích bất thường, tức là nhiệm kỳ kiểm toán viên dài chất lượng kiểm toán tăng. Từ đó,
các tác giả đưa ra quan ngại về tác dụng của quy định bắt buộc tại Đài Loan từ năm
2004. Tuy vậy, trong nghiên cứu này, các tác giả chỉ sử dụng giá trị tuyệt đối của DA
làm thước đo chất lượng kiểm toán và chưa thực hiện các nghiên cứu riêng và tách biệt
DA âm và DA dương. Bên cạnh đó, mẫu nghiên cứu cũng bỏ các quan sát trong năm
kiểm toán đầu tiên, giai đoạn mà nhiều nhà nghiên cứu cho rằng dễ xảy ra gian lận, sai
sót nhất trên báo cáo tài chính.[12]
Do nhận thấy những hạn chế từ nghiên cứu của Chen và cộng sự (2009) khi chỉ
sử dụng mỗi giá trị tuyệt đối của DA làm thước đo chất lượng kiểm toán nên Siregar
37
và các cộng sự (2012) đã tách biệt DA thành hai biến âm và dương để nghiên cứu sâu
hơn chất lượng kiểm toán tại Indonesia, nơi mà kiểm toán viên sau 5 năm phải thực
hiện luân chuyển kể từ năm 2002. Họ thực hiện hai nghiên cứu riêng lẻ cho hai giai
đoạn: Giai đoạn trước khi có quy định (1999-2001) và sau khi có quy định (2004-
2008). Họ bỏ qua hai năm 2002 và 2003 với lý do đây là hai năm đầu tiên quy định
mới đi vào thực tế nên tác động của nó đến chất lượng kiểm toán là chưa rõ ràng. Kết
quả thực nghiệm cho thấy với giai đoạn 1999-2001, nhiệm kỳ kiểm toán dài thì chất
lượng kiểm toán tăng (DA và nhiệm kỳ kiểm toán có tương quan âm) nhưng giai đoạn
sau khi có quy định, nhiệm kỳ kiểm toán viên dài thì chất lượng kiểm toán giảm. Kết
quả này được các tác giả giải thích rằng trong giai đoạn chất lượng kiểm toán luân
chuyển tự nguyện, tính độc lập không bị ảnh hưởng và chất lượng kiểm toán tăng. Sau
khi có quy định chất lượng kiểm toán lại giảm theo thời gian kiểm toán viên làm việc
với khách hàng. Kết quả có vẻ trái ngược này được giải thích có thể là do sự thực thi
luật pháp còn khá yếu kém tại Indonesia khi để các công ty kiểm toán đối phó với quy
định trên khi chỉ thực hiện luân chuyển về hình thức. Nhưng trên hết, các tác giả nhấn
mạnh chính phủ nên xem xét lại quy định trên và hãy để các công ty kiểm toán và đơn
vị thực hiện luân chuyển tự nguyện như lúc trước. Bên cạnh đó, họ cũng thấy một số
hạn chế trong nghiên cứu của mình như chỉ sử dụng một thước đo chất lượng kiểm
toán và chưa phân loại các công ty theo ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh.[38]
Cũng đứng trong nhóm phản đối việc luân chuyển kiểm toán viên bắt buộc,
Geiger và Raghunandan (2002) cho thấy kiểm toán viên dễ có những sai lầm trong
nhận định về tính hoạt động liên tục của công ty trong những năm đầu kiểm toán. Khi
các công ty đang gặp nguy cơ phá sản thay đổi kiểm toán viên, các kiểm toán viên mới
này do thiếu sự hiểu biết sâu sắc về đặc điểm hoạt động kinh doanh, tình hình thị
trường… nên dễ có những nhận định sai lầm và không phát hành các báo cáo kiểm
toán lưu ý người sử dụng về sự vi phạm giả định quan trọng này. Các kết luận của họ
38
không ủng hộ việc luân chuyển kiểm toán viên bắt buộc vì họ thấy rằng quy định này
gây khó khăn cho kiểm toán viên khiến họ dễ mắc phải sai lầm khi đưa ra ý kiến chấp
nhận toàn phần trong những năm đầu.[21]
Đồng quan điểm với Geiger và Raghunandan (2002), Carcello và Nagy (2004)
nghiên cứu các báo cáo tài chính gian lận đã bị phát hiện và các báo cáo kiểm toán
phát hành kèm theo để khảo sát về chất lượng kiểm toán. Hai tác giả thấy rằng các báo
cáo gian lận này thường xuất hiện nhiều hơn trong khoảng 3 năm đầu tiên trong nhiệm
kỳ. Và họ cũng không tìm được bằng chứng cho thấy khi nhiệm kỳ kiểm toán viên dài
thì các báo cáo tài chính gian lận này dễ phát hành hơn. Qua đó cho thấy tính độc lập
của kiểm toán viên không bị ảnh hưởng qua thời gian mà ngược lại còn giúp ngăn
chặn các báo cáo tài chính gian lận đến tay người sử dụng.[11]
Johnson và cộng sự (2002) cũng sử dụng DA làm thước đo chất lượng kiểm
toán. Các tác giả phân loại nhiệm kỳ kiểm toán ra thành ba loại: ngắn (2-3 năm), trung
bình (5-8 năm) và dài ( trên 9 năm). Qua đó, khi họ lấy DA của loại trung bình làm
mốc so sánh, các kết quả cho thấy khi nhiệm kỳ kiểm toán ngắn, DA cao hơn; trong
khi đối với loại dài thì DA và nhiệm kỳ kiểm toán không có ý nghĩa về mặt thống kê.
Qua đó, các tác giả kết luận rằng không có bằng chứng cho thấy nhiệm kỳ kiểm toán
dài làm giảm chất lượng thông tin lợi nhuận, bên cạnh đó cần tăng số năm bắt buộc
luân chuyển lên vì DA có xu hướng giảm xuống khi nhiệm kỳ kiểm toán tăng lên (ít
nhất là 8 năm).[28]
Myers và cộng sự (2003) nghiên cứu chất lượng kiểm toán thông qua hai thước
đo là TA và DA. Kết quả thực nghiệm cho thấy với cả hai thước đo này thì khi nhiệm
kỳ kiểm toán tăng lên, cả TA và DA đều giảm xuống. Và khi nhiệm kỳ càng dài thì
các khoản dồn tích này không dương quá cao và cũng không âm quá cao. Qua đó, các
tác giả nêu lên rằng khi kiểm toán viên cung cấp dịch vụ cho cùng một công ty trong
39
một khoản thời gian dài thì khả năng điều chỉnh thông tin lợi nhuận của nhà quản lý bị
hạn chế, làm gia tăng chất lượng báo cáo tài chính.[37]
Knechel và Vanstraelen (2006) để nghiên cứu thực nghiệm vấn đề này, họ thực
hiện thu thập dữ liệu nghiên cứu tại Bỉ, một môi trường đặc biệt so với phần còn lại
của Âu Châu. Điều đặc biệt thứ nhất là hầu hết các công ty tại Bỉ là tư nhân và thuộc
sở hữu bởi gia đình. Bên cạnh đó, pháp luật quy định về trách nhiệm của kiểm toán
viên trong việc xét đoán khả năng hoạt động liên tục còn khá lỏng lẻo do đó kiểm toán
viên không phải chịu áp lực về mặt pháp lý quá nhiều khi đưa ra ý kiến của mình trên
báo cáo kiểm toán. Với tất cả những lý do trên, hai tác giả cho rằng nếu như sự độc lập
của kiểm toán viên bị giảm sút khi nhiệm kỳ kiểm toán dài thì vấn đề này sẽ được thấy
rõ ràng nhất tại Bỉ. Tuy nhiên, khi xem xét các báo cáo tài chính và báo cáo kiểm toán
kèm theo của các công ty đang gặp áp lực tài chính, các tác giả cho thấy tính độc lập
của họ không giảm bớt theo thời gian và những kiểm toán viên làm việc lâu dài với
một công ty cũng không dự báo chính xác hơn các trường hợp công ty đang có nguy
cơ bị phá sản để lưu ý cho người sử dụng. Kết luận này một phần nào cho thấy nhiệm
kỳ kiểm toán không làm ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán.[33]
Một số nghiên cứu khác thì cho thấy mối quan hệ giữa nhiệm kỳ kiểm toán và
chất lượng kiểm toán thay đổi theo thời gian.
Knapp (1991) nghiên cứu cảm nhận của nhóm kiểm toán về chất lượng dịch vụ
mà họ cung cấp khi nhiệm kỳ kiểm toán dài thì chất lượng kiểm toán trong những năm
đầu có tương quan dương với nhiệm kỳ kiểm toán nhưng mối tương quan này lại trở
nên âm trong những năm sau đó. Ông giải thích kết quả này là do nhóm kiểm toán
chịu tác động của đường cong hiểu biết (learning curve) trong những năm đầu, khi
thực hiện kiểm toán nhiều năm liên tiếp cho cùng một khách hàng, kiểm toán viên sẽ
học hỏi thêm kinh nghiệm và hiểu biết rõ hơn về đặc điểm hoạt động cũng như môi
40
trường kinh doanh của công ty nên chất lượng kiểm toán tăng lên. Nhưng khi nhiệm
kỳ kiểm toán quá dài, họ chịu tác động của hiệu ứng quá tự mãn (over complacent)
nên chất lượng kiểm toán ngày càng đi xuống.[32]
Chi và Huang (2003) cũng thấy rằng ban đầu DA và nhiệm kỳ kiểm toán có
tương quan âm (tức là nhiệm kỳ kiểm toán tăng thì DA giảm và chất lượng kiểm toán
tăng). Nhưng khi khoảng thời gian vượt quá 5 năm, tương quan giữa DA và nhiệm kỳ
kiểm toán đổi chiều khiến chất lượng kiểm toán giảm xuống. Họ cũng giải thích kết
quả này bằng hiệu ứng hiểu biết trong những năm đầu và hiệu ứng quá quen thuộc
trong những năm sau đó khiến chất lượng giảm. Và họ cũng lưu ý rằng công ty kiểm
toán có vai trò quan trọng trong việc luân chuyển kiểm toán viên bằng các chính sách
giúp nhóm kiểm toán viên mới có thêm sự hiểu biết và kinh nghiệm được truyền lại từ
các kiểm toán viên tiền nhiệm. Từ đó, họ cho rằng quy định bắt buộc luân chuyển là
cần thiết nhưng chỉ nên dừng lại ở cấp độ kiểm toán viên, không áp dụng trên quy mô
công ty.[14]
Từ những kết quả nghiên cứu về vấn đề này như trên, ta thấy rằng các bằng
chứng cho thấy nhiệm kỳ kiểm toán dài làm giảm chất lượng kiểm toán là ít hơn so với
các nghiên cứu từ nhóm phản đối phản đối vấn đề này. Ngoài ra, một số tác giả còn
thấy giữa chúng có mối quan hệ phi tuyến (tức là trong những năm đầu chất lượng
kiểm toán tăng khi nhiệm kỳ kiểm toán tăng nhưng sau một khoảng thời gian nhất định
thì chất lượng kiểm toán giảm xuống). Từ đó có thể dự đoán rằng nhiệm kỳ kiểm toán
viên thực sự có quan hệ với chất lượng kiểm toán. Vì vậy, tác giả đưa ra giả thuyết
nghiên cứu như sau:
Ho: Giữa các khoản dồn tích bất thường |DA| và nhiệm kỳ kiểm toán không có
quan hệ tuyến tính với nhau.
H1: Giữa các khoản dồn tích bất thường |DA| và nhiệm kỳ kiểm toán có quan
hệ tuyến tính với nhau.
41
CHƯƠNG 3: MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
3.1. Mô hình nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
3.1.1. Mô hình nghiên cứu
Tiếp nối các nghiên cứu trước đó về chất lượng kiểm toán như Chen và cộng sự
(2009); Myers và các cộng sự (2003); Siregar và cộng sự (2012), tôi sử dụng phương
trình nghiên cứu sau để xem xét mối quan hệ tuyến tính giữa chất lượng kiểm toán
BCTC (được đại diện bằng giá trị |DA| như giải thích ở trên) và các biến độc lập bên
cạnh biến đại diện cho nhiệm kỳ kiểm toán như: Loại kiểm toán viên (Big4 hoặc
không phải Big4), tỉ số nợ trên tổng tài sản của công ty trong năm đó, tốc độ tăng
trưởng về quy mô và dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh của công ty trong năm
nghiên cứu. Các biến này là các biến kiểm soát (controlling variables) được thêm vào
phương trình hồi quy nhằm gia tăng độ phù hợp của mô hình. Theo các nghiên cứu
trước đây thì các biến này đều có liên hệ tới các khoản lợi nhuận dồn tích. Cụ thể ở
đây biến BIG4 và CFO kỳ vọng sẽ có tương quan âm với |DA| (tức là khi được kiểm
toán bởi BIG4 hay CFO trong kỳ cao thì |DA| sẽ giảm), còn hai biến LEV và GROW
kỳ vọng sẽ có tương quan dương với |DA| (tức là công ty có đòn bẫy tài chính và tốc
độ tăng tài sản càng cao thì |DA| sẽ cao). Theo đó:
|DA|= α + β1APT + β2BIG4 + β3LEV + β4GROW + β5CFO + ε (3.1)
Với:
APT: Nhiệm kỳ kiểm toán viên (được đo lường bằng cách đếm số năm liên tiếp
một kiển toán viên thực hiện công việc kiểm toán cho một công ty)
BIG4: Biến giả (dummy variable) mang giá trị bằng 1 nếu công ty kiểm toán là
một trong các BIG4, nếu không phải thì bằng 0
42
LEV: Tỉ số nợ trên tổng tài sản (được tính bằng cách lấy tổng nợ phải trả chia
cho tổng tài sản trong kỳ)
GROW: Tốc độ tăng trưởng về quy mô của công ty (được tính bằng cách lấy
tổng tài sản năm t trừ tổng tài sản năm t-1 và chia lại cho tổng tài sản năm t-1)
CFO: Dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh của công ty trong năm t
So với các nghiên cứu trước, trong phương trình nghiên cứu này tác giả bỏ bớt
hai biến là SPEC (một biến giả mang giá trị bằng 1 khi công ty kiểm toán đương
nhiệm chiếm trên 10% thị phần kiểm toán và bằng 0 nếu không phải), SIZE (thể hiện
quy mô tổng tài sản của công ty). Lý do đầu tiên tác giả không sử dụng biến SPEC là
không thể thu thập được dữ liệu về vấn đề này tại Việt Nam và về vấn đề thị phần
kiểm toán vẫn còn nhiều tranh luận về cách tính (dựa trên doanh thu kiểm toán, số
lượng khách hàng, hay tổng nguồn vốn của công ty kiểm toán). Tác giả cũng không sử
dụng biến SIZE nhằm giảm bớt hiện tượng đa cộng tuyến khi chạy mô hình hồi quy đa
biến vì giá trị tổng tài sản công ty cũng được sử dụng để tính toán hai biến trong
phương trình là: tỉ số nợ trên tổng tài sản _biến LEV và tốc độ tăng trưởng tài sản_biến
GROW.
3.1.2. Phương pháp nghiên cứu
Các dữ liệu nghiên cứu trước hết được thu thập từ báo cáo tài chính của các
công ty trong mẫu và xử lý ban đầu bằng phần mềm EXCEL. Để tính toán tổng các
khoản dồn tích TA, số liệu sẽ được lấy từ báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và báo
cáo lưu chuyển tiền tệ bao gồm các mục:
- Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh (Mã số_MS 30) trên báo cáo kết quả
hoạt động kinh doanh
43
- Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh (MS 20) trên báo cáo lưu
chuyển tiền tệ
Các biến trong phương trình hồi quy (2.1) sẽ được lấy số liệu từ báo cáo kết quả
kinh doanh và bảng cân đối kế toán, bao gồm các mục:
- Doanh thu thuần từ bán hàng và cung cấp dịch vụ (MS 10) trên báo cáo kết
quả hoạt động kinh doanh
- Phải thu khách hàng (MS 131) trên bảng cân đối kế toán
- Tài sản cố định (MS 220) trên bảng cân đối kế toán
- Tổng cộng tài sản (MS 270) trên bảng cân đối kế toán.
Đối với phương trình (3.1), số liệu được lấy thêm từ mục: Nợ phải trả (MS 300)
trên bảng cân đối kế toán. Về tên kiểm toán viên phụ trách cũng như tên công ty kiểm
toán sẽ được lấy từ báo cáo kiểm toán kèm theo trong năm đó.
Sau khi tính toán, các giá trị của các biến nghiên cứu trong phương trình hồi
quy sẽ được sao chép sang phần mềm SPSS để phân tích thống kê mô tả và phân tích
tương quan, hồi quy tuyến tính.
Trước tiên, tác giả sẽ xem xét mối quan hệ đơn biến giữa |DA| và APT thông
qua ma trận hệ số tương quan giữa hai biến, lập biểu đồ phân tích xu hướng tương
quan.
Sau đó tác giả sẽ tính giá trị |DA| trung bình đối với mỗi giá trị của APT và
dùng kiểm định Lavene để kiểm định giả thuyết về sự khác biệt giữa hai giá trị trung
bình. Qua đó có được cái nhìn ban đầu về mối liên hệ giữa chất lượng kiểm toán và
nhiệm kỳ kiểm toán.
44
Kế tiếp tác giả sẽ chạy phương trình hồi quy đa biến (3.1) với các biến độc như
trên để có được các hệ số tương quan riêng phần của từng biến độc lập đối với |DA| và
mức ý nghĩa tương ứng thông qua giá trị p-value để xem các biến này (đặc biệt là biến
APT) có thực sự có mối liên hệ với |DA| hay không; và nếu có thì đó là quan hệ đồng
biến hay nghịch biến. Từ đó đưa ra các nhận xét và kết luận nghiên cứu.
Bên cạnh đó để xem xét thêm ảnh hưởng của nhiệm kỳ công ty kiểm toán tới
chất lượng kiểm toán, tác giả đưa thêm biến AFT đại diện cho nhiệm kỳ công ty kiểm
toán để đưa thêm vào phương trình trên để xem xét mối tương quan giữa |DA| và
nhiệm kỳ công ty kiểm toán trong bối cảnh các công ty kiểm toán đã thực hiện việc
luân chuyển kiểm toán viên.
Phương trình hồi quy lúc đó có dạng như sau:
|DA|= α + β1APT + β2BIG4 + β3LEV + β4GROW + β5CFO +β6AFT + ε (3.2)
3.2. Phương pháp chọn mẫu và mô tả mẫu
Với mục tiêu tính toán và ước tính DA cho từng công ty, tác giả đã thực hiện
việc lấy số liệu kế toán từ báo cáo tài chính năm và thu thập thông tin về kiểm toán
viên phụ trách kiểm toán trên báo cáo kiểm toán kèm theo của các công ty hiện đang
niêm yết trên thị trường chứng khoán TP HCM (HoSE) và thị trường chứng khoán Hà
Nội (HNX) từ năm 2000 đến năm 2012. Các công ty được lựa chọn là các công ty hoạt
động sản xuất kinh doanh, thương mại hoặc dịch vụ không phải là định chế tài chính
trung gian như: ngân hàng, công ty bảo hiểm hay công ty chứng khoán... Lý do là mô
hình nghiên cứu trên không dùng để nghiên cứu các khoản dồn tích tự định_DA tại các
ngân hàng hay các định chế tài chính kể trên vì đặc điểm hoạt động kinh doanh khác
nhau và không cùng áp dụng chung một chuẩn mực kế toán trong việc trình bày và
công bố các số liệu tài chính. Bên cạnh đó, do tính chất của vấn đề nghiên cứu cần một
45
khoản thời gian dài để kiểm chứng về hiệu quả của việc luân chuyển kiểm toán viên
nên các công ty được chọn có thời điểm lấy số liệu chậm nhất là năm 2007 (ngoại trừ
công ty cổ phần dược phẩm OPC có số liệu được lấy trong giai đoạn 2008-2012). Sau
khi xem xét loại bỏ các doanh nghiệp không phù hợp, tác giả thực hiện lấy mẫu 39
công ty đáp ứng đủ các điều kiện kể trên. Tác giả không lựa chọn các công ty chào bán
cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) sau năm 2007 do thiếu dữ liệu tài chính trước đó
và khoảng thời gian 2008 đến 2011 là quá ngắn để nghiên cứu về nhiệm kỳ kiểm toán.
Danh sách toàn bộ 39 công ty trong mẫu nghiên cứu và khoảng thời gian lấy số liệu
được trình bày ở phụ lục 1.
Với mỗi công ty được chọn, tác giả tiến hành thu thập các dữ liệu trên báo cáo
tài chính như đã trình bày ở mục trên. Mỗi chuỗi số liệu sẽ được tính toán bằng phần
mềm EXCEL để tính tổng lợi nhuận dồn tích (TA), từ đó tính toán thông qua mô hình
nghiên cứu nói trên để tính toán các khoản dồn tích bất thường (DA). Nhiệm kỳ kiểm
toán được hiểu là số năm liên tiếp một kiểm toán viên độc lập thực hiện kiểm toán cho
cùng một công ty. Mỗi chuỗi số liệu sau khi tính toán các giá trị cần thiết sẽ là một
quan sát để chạy phần mềm SPSS để tìm mối tương quan giữa nhiệm kỳ kiểm toán và
chất lượng kiểm toán. Do các công ty thực hiện chào bán cổ phiếu lần đầu ra công
chúng trong những năm khác nhau nên số quan sát của mỗi công ty cũng khác nhau,
dao động từ 5 đến 11 quan sát cho mỗi công ty. Tổng số quan sát là 279 quan sát.
Trong đó, 1 công ty có 11 quan sát, 2 công ty có 9 quan sát, 14 công ty có 8 quan sát,
10 công ty có 7 quan sát, 8 công ty có 6 quan sát và 4 công ty có 5 quan sát.
46
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Phân tích sơ bộ kết quả nghiên cứu thông qua bảng thống kê mô
tả các biến
Các biến nghiên cứu trong mô hình được xử lý bằng phần mềm SPSS để có
được bảng thống kê mô tả bên dưới. Các giá trị thống kê mô tả dung để phân tích bao
gồm: MIN (giá trị nhỏ nhất), MAX (giá trị lớn nhất), MEAN (giá trị trung bình), Độ
lệch chuẩn, Median (trung vị) và giá trị Mode.
BẢNG THỐNG KÊ MÔ TẢ CÁC BIẾN NGHIÊN CỨU
MIN MAX MEAN Median Mode
Độ lệch chuẩn
Biến nghiên cứu
DA 0,0043 1,6188 0,1484 0,1665
APT 1 6 1.87 1.121 2 1
AFT 1 8 2.93 1.792 3 1
BIG4 0 1 0,16 0.372
LEV 0,02 1,61 0.4 0,225
GROW -0.39 9,29 0,28 0,684
CFO -820515 5294567 92686,41 443765,3
Bảng 4.1: Bảng kết quả thống kê mô tả các biến nghiên cứu trong phương trình
47
Nhìn trên bảng tóm tắt các giá trị thống kê mô tả ở trên, ta thấy giá trị |DA|
giữa các công ty trong mẫu nghiên cứu có sự chênh lệch rất lớn. Cụ thể ở đây giá trị
Min là 0,0043; giá trị Max là 1,6188; giá trị trung bình Mean là 0,1484 và có độ lệch
chuẩn là 0,1665. Nguyên nhân của kết quả trên là do trên thị trường, tổng các khoản
dồn tích TA của các doanh nghiệp rất khác nhau. Có những doanh nghiệp chênh lệch
giữa lợi nhuận trước thuế thu nhập và dòng tiền thuần hoạt động kinh doanh rất nhỏ
(nguy cơ nhà quản trị điều chỉnh thông tin lợi nhuận thấp). Tuy nhiên cũng có những
doanh nghiệp báo cáo lợi nhuận trong kỳ rất cao trong khi dòng tiền thuần lại âm khá
lớn. Qua đó, chứng tỏ lợi nhuận trong kỳ của doanh nghiệp không xuất phát từ doanh
thu bằng tiền mặt mà chủ yếu là các khoản doanh thu dồn tích, dẫn đến TA của doanh
nghiệp trong năm đó rất cao và giá trị DA cũng cao tương ứng (giá trị Max bằng
1,6188 cho thấy các khoản lợi nhuận dồn tích của doanh nghiệp cao hơn gấp 1,6 lần
tổng tài sản).
Về biến APT có giá trị cao nhất là 6 năm, giá trị trung vị là 2 và giá trị Mode là
1. Qua đó cho thấy, các doanh nghiệp thay đổi kiểm toán viên khá thường xuyên.
Nguyên nhân đầu tiên là do mẫu nghiên cứu được lấy từ giai năm 2001 nhưng số
lượng công ty lên sàn giai đoạn này khá ít, phần lớn các quan sát nằm trong giai đoạn
từ năm 2004 trở đi, thời gian mà nghị định 105/2004/NĐ-CP của chính phủ và thông
tư 64/2004/TT-BTC có hiệu lực.Vì vậy, phần lớn các công ty kiểm toán phải tuân thủ
các quy định về luân chuyển kiểm toán viên sau mỗi 3 năm. Nguyên nhân thứ hai
không thể loại trừ đó là xuất phát từ ý muốn chủ quan của nhà quản trị doanh nghiệp
về vấn đề thay đổi kiểm toán viên và công ty kiểm toán đương nhiệm. Như đã trình
bày ở trên, các nhà quản lý có một quyền lực nhất định trong việc thay đổi và bổ
nhiệm kiểm toán viên mới cũng như thay đổi cả công ty kiểm toán. Động cơ của các
nhà quản lý có thể xuất phát từ những bất đồng với công ty kiểm toán hay kiểm toán
48
viên đương nhiệm; hoặc cũng có thể là do xung đột lợi ích giữa nhà quản lý và kiểm
toán viên; hoặc là về vấn đề giá phí kiểm toán.
Biến AFT thể hiện nhiệm kỳ công ty kiểm toán cũng cho thấy kết quả tương tự
biến APT (Min bằng 1 và Max bằng 8) khi giá trị có tần suất lớn nhất (mode) là 1, tuy
nhiên giá trị trung vị Median có giá trị là 3. Từ đó, ta có thể thấy các doanh nghiệp
thường thay đổi kiểm toán viên đương nhiệm hơn là thay đổi công ty kiểm toán.Vấn
đề này có thể được giải thích là do chi phí của việc luân chuyển ở mức độ công ty và
các công ty kiểm toán cũng có xu hướng muốn giữ chân khách hàng đồng thời vẫn
tuân thủ quy định của nghị định 105 và thông tư 64 trước đây về luân chuyển KTV bắt
buộc.
Biến giả BIG4 có giá trị trung bình tương đương 0.4 chứng tỏ phần lớn các
doanh nghiệp trong mẫu nghiên cứu (83,5%) chọn các công ty kiểm toán vừa và nhỏ
mà không chọn BIG4. Do các công ty này chấp nhận việc lựa chọn các công ty kiểm
toán phù hợp với tình hình và khả năng tài chính của mình, giảm chi phí kiểm toán và
vẫn đạt được mục tiêu kiểm toán ở mức chấp nhận được và đáp ứng quy định về công
bố thông tin đề ra trên thị trường chứng khoán. Mặt khác, tại các công ty quy mô vừa
và nhỏ, nhà quản trị dễ có cơ hội “thỏa thuận” về giá phí kiểm toán hơn và dễ gây áp
lực với các kiểm toán viên về chương trình, phạm vi và các thủ tục kiểm toán phải
thực hiện. Do đó, các nhà quản trị sẽ dễ dàng trong việc “điều chỉnh thông tin lợi
nhuận” hơn.
Các biến LEV, GROW cho thấy cơ cấu tài chính của doanh nghiệp và tốc độ
tăng trưởng về tổng tài sản của doanh nghiệp qua các năm. Hai biến này cũng có độ
lệch chuẩn lớn cho thấy sự khác biệt của từng doanh nghiệp trong việc lựa chọn cơ cấu
vốn cũng như tốc độ phát triển của doanh nghiệp qua các năm.
49
4.2. Kết quả phân tích tương quan và hồi quy tuyến tính đơn biến
Để phân tích tương quan giữa biến APT và DA, trước tiên tôi tính giá trị trung
bình của DA tương ứng với từng năm kiểm toán, kết quả được trình bày trong bảng
(4.2). Chúng ta thấy rằng giá trị trung bình của DA trong năm kiểm toán đầu tiên là
cao nhất (0,1753). Điều này cho thấy một thực tế là kiểm toán năm đầu tiên tạo ra
nhiều rủi ro cho kiểm toán viên khiến chất lượng kiểm toán không cao. Biểu đồ (4.1)
cho thấy biến thiên của giá trị trung bình DA. Ta thấy rằng DA có xu hướng giảm qua
các năm và chỉ tăng khi nhiệm kỳ kiểm toán bước sang năm thứ 6. Từ đó, kết quả này
chứng tỏ rằng khi nhiệm kỳ kiểm toán không vượt quá 5 năm liên tục thì giá trị DA
trung bình càng giảm xuống, chất lượng kiểm toán tăng lên khi thông tin lợi nhuận
được đảm bảo độ chính xác và đáng tin cậy hơn.
Nhiệm kỳ kiểm toán Năm 1 Năm 2 Năm 3 Năm 4 Năm 5 Năm 6
Giá trị trung bình DA 0,1753 0,1506 0,0838 0,0806 0,0751 1,544
Số lượng quan sát 138 78 38 15 6 4
Bảng 4.2:Giá trị trung bình của biến DA ứng với từng năm
Biểu đồ 4.1: Biểu đồ thể hiện sự biến thiên của giá trị DA trung bình qua các năm
50
Kiểm định Lavene về giả thuyết bằng nhau giữa hai giá trị trung bình tổng thể
cũng cho kết quả tương ứng thể hiện trong bảng (4.3). Khi giá trị trung bình của DA
năm đầu tiên và năm thứ hai cho kết quả có thể khẳng định sự khác biệt giữa hai giá trị
trung bình với mức ý nghĩa 0,1 (giá trị t = 2,09 và giá trị sig = 0,098). Tương tự, giá trị
trung bình của DA năm 2 và năm 3 cũng cho thấy có sự khác biệt với độ tin cậy cao
hơn 99% (giá trị t = 3,99; giá trị sig = 0,00). Kết quả kiểm định giữa các năm còn lại
không có ý nghĩa về mặt thống kê, nguyên nhân là do các năm sau đó số lượng quan
sát trong các năm có sự chênh lệch khá lớn nên không có ý nghĩa khi dùng kiểm định
Lavene.
Năm
1
2
3
4
5
6
0,1753
0,1506
0,0838
0,0806 0,0751
1,544
Mean
0,2467
0,6683
0,0032
0.0054
-0,0792
Chênh lệch
0,21
0,39
-0,74
Giá trị t
2,09
3,99
0,70
0,51
Giá trị sig (2 chiều) 0,098(*) 0,00(***) 0,83
Bảng 4.3: Bảng kết quả kiểm định Lavene về sự khác biệt của giá trị trung bình
Phân tích tương quan giữa hai biến DA và APT thông qua hệ số tương quan
Pearson một lần nữa cho thấy có sự tương quan nghịch khá rõ giữa hai biến khi hệ số r
bằng -0,182 với độ tin cậy 99%.
DA APT Biến nghiên cứu
DA 1 -0,182 (**) Hệ số tương quan
Pearson APT -0,182 (**) 1
** Sự tương quan giữa hai biến nghiên cứu có ý nghĩa về mặt thống kê với mức ý nghĩa 0.01( 2 chiều)
0,002 Số lượng quan sát 279 Giá trị Sig(2 chiều)
Bảng 4.4: Kết quả phân tích tương quan giữa APT và DA
51
Kết quả hồi quy tuyến tính đơn biến được trình bày trong bảng (4.5), ta thấy hệ
số hồi quy giữa hai biến là -0,027 và kiểm định về ý nghĩa của hệ số hồi quy cho ra kết
quả giá trị sig bằng 0,002; tức là mối liên hệ này có độ tin cậy 99% . Từ đó, ta có thể
diễn dịch kết quả này như sau khi nhiệm kỳ kiểm toán viên tăng thêm 1 năm thì các
khoản dồn tích bất thường tại doanh nghiệp giảm đi 2,7% trên tổng giá trị tài sản năm
trước. Tuy nhiên, kết quả hồi quy đơn có thể không chính xác vì đã bỏ qua ảnh hưởng
của các biến độc lập khác mà theo các nghiên cứu trước cũng có ảnh hưởng đến biến
DA. Do đó, mô hình hồi quy tuyến tính đa biến được sử dụng và thêm vào các biến
độc lập khác như BIG4, LEV và GROW và CFO.
Coefficientsa
Unstandardized Coefficients
B
Standardized Coefficients Beta
t
Sig.
Model 1
(Constant) APT
.199 -.027
Std. Error .019 .009
-.182
10.393 -3.074
.000 .002
a.
Dependent Variable: DA
Bảng 4.5: Kết quả hồi quy tuyến tính đơn biến giữa APT và DA
4.3. Phân tích kết quả hồi quy tuyến tính đa biến
Kết quả hồi quy tuyến tính đa biến được trình bày trong bảng (4.6). Theo đó,
mô hình hồi quy này giải thích được 7,4% biến động của biến phụ thuộc DA (Adjusted R2 = 0,074). Giá trị F-stat bằng 5,419 và giá trị p-value bằng 0,000 cho thấy mô hình
có độ tin cậy khá cao. Nguyên nhân mô hình chỉ giải thích được 7,4% sự thay đổi của
DA là do biến DA đại diện cho chất lượng thông tin lợi nhuận từ đó đo lường chất
lượng kiểm toán. Và như đã đề cập ở trên chất lượng kiểm toán bị ảnh hưởng bởi
nhiều nhân tố mà nhiệm kỳ kiểm toán nói riêng chỉ là một trong số các nhân tố đó. Vì
vậy, không thể kỳ vọng mô hình có thể giải thích được toàn bộ sự thay đổi của DA.
52
Về giá trị và dấu của các hệ số hồi quy riêng phần, ta thấy rằng hệ số các biến
APT, BIG4, GROW và CFO có dấu tương đồng với kỳ vọng về mối tương quan giữa
các biến. Tuy nhiên, chỉ có hai biến APT và GROW có ý nghĩa về mặt thống kê, các
biến còn lại không có ý nghĩa vì giá trị p-value lớn hơn 0,05. Biến APT có hệ số hồi
quy là -0,028 và giá trị p-value là 0,002. Qua đó cho thấy giả thuyết nghiên cứu Ho bị
bác bỏ, giữa biến APT và DA thực sự có quan hệ tuyến tính với độ tin cậy 99%. Và
mối tương quan này là tương quan nghịch, tức là khi nhiệm kỳ kiểm toán tăng thêm 1
năm, giá trị DA sẽ giảm xuống 2,8% so với tổng tài sản năm trước. Biến GROW có hệ
số tương quan là +0,052, độ tin cậy cũng cao 99%. Kết quả này phù hợp với các kết
quả nghiên cứu trước đó, có nghĩa là khi công ty có tốc độ phát triển (được đo lường
bằng tốc độ tăng trưởng tổng tài sản năm nay so với năm trước) càng cao thì các khoản
dồn tích bất thường trong lợi nhuận sẽ càng cao và ngược lại.
Hệ số Giá trị p-value
Biến nghiên cứu Tương quan mong đợi tương quan kiểm định t
+/- -0,028 -3,161 0,002 (***) APT
- -0,039 -1,375 0.17 BIG4
+ -0,041 -0,937 0,35 LEV
+ 0,052 3,637 0,000 (***) GROW
- -0,00018 -0,764 0,45 CFO
0,074 R2 có điều chỉnh
5,419 Giá trị F-stat
0,000 (***) p-value
Bảng 4.6: Kết quả hồi quy tuyến tính đa biến
53
Ngoài ra, để chắc chắn hơn về mối liên hệ giữa nhiệm kỳ kiểm toán và chất
lượng kiểm toán, đồng thời kiểm chứng khoảng thời gian quy định luân chuyển 3 năm
là quá ngắn, tôi sẽ trích lọc các quan sát đã thu thập và thay đổi biến APT lần lượt
bằng biến APT3 và APT5. Trong đó, APT3 là biến đại diện cho các quan sát có APT
nhỏ hơn hay bằng 3; còn APT5 là biến đại diện cho các quan sát có APT nhỏ hơn hay
bằng 5 để lần lượt chạy phương trình hồi quy (3.1). Kết quả thể hiện mối tương quan
giữa APT3 và APT5 với DA được trình bày tóm tắt trong bảng (4.7). Các biến còn lại
như: BIG4, LEV, GROW, CFO cơ bản có hệ số hồi quy tương đương với kết quả
trong bảng (4.6). Hệ số hồi quy của biến APT3 và APT5 lần lượt là -0,041 và -0,035
với độ tin cậy 99%. Vì vậy, ta thấy rõ ràng rằng việc quy định nhiệm kỳ kiểm toán
viên tối đa 3 năm là chưa phù hợp. Kết quả cho thấy ngay cả khi nhiệm kỳ kiểm toán
tăng lên 5 năm thì DA cũng vẫn còn xu hướng giảm tức chất lượng kiểm toán đang
tăng lên. Do số quan sát trong năm kiểm toán thứ 6 khá ít (4 quan sát) nên cũng chưa
thể kết luận về chất lượng kiểm toán được.
Giá trị p-value
Số quan sát Tương quan mong đợi Hệ số hồi quy kiểm định t
Biến nghiên cứu
253 - -0,041 -2,86 0,005 (***) APT3
275 - -0,035 -3,6 0,000 (***) APT5
Bảng 4.7: Bảng kết quả hồi quy tuyến tính với hai biến APT3 và APT5
54
4.4. Một số nghiên cứu bổ sung về chất lượng kiểm toán
4.4.1. Nghiên cứu mối quan hệ giữa nhiệm kỳ kiểm toán viên với chất
lượng kiểm toán khi phân biệt dấu của DA
Với các kết quả như trên ta thấy khi kiểm toán viên thực hiện việc kiểm toán
cho một khách hàng trong một khoảng thời gian sẽ làm giảm bớt việc điều chỉnh lợi
nhuận của nhà quản lý doanh nghiệp. Và để kiểm chứng rõ hơn vấn đề này, tôi tiến
hành phân loại nguồn dữ liệu ra thành hai phần dựa trên dấu của giá trị DA. Số quan
sát có giá trị DA dương thể hiện động cơ nhà quản trị muốn khai khống lợi nhuận, và
số quan sát có DA âm thể hiện rằng nhà quản trị muốn che giấu bớt lợi nhuận để
chuyển sang kỳ kế toán sau. Lúc này, tôi sử dụng biến APT_P cho các quan sát có DA
dương và biến APT_N cho các quan sát có DA âm. Kết quả hồi quy tuyến tính thể
hiện mối quan hệ của biến APT_P và APT_N với DA được tóm tắt trong bảng (4.8).
Giá trị p-value
Biến nghiên cứu Số quan sát Tương quan mong đợi Hệ số hồi quy kiểm định t
APT_P 106 - -0,06 -2,63 0,01 (***)
APT_N 173 - -0,01 -1,69 0,094(*)
Bảng 4.8: Bảng kết quả hồi quy tuyến tính đa biến khi phân biệt dấu của DA
Kết quả trên cho thấy nhiệm kỳ kiểm toán dài giúp kiểm toán viên kiểm soát
được sự điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản trị thông qua hai hệ số đều âm và có ý
nghĩa. Trong đó, biến APT_P có độ tin cậy cao hơn (99%) biến APT_N và giá trị tuyệt
đối của hệ số hồi quy này cũng lớn hơn (0,06). Qua đó, ta có thể kết luận rằng nhiệm
kỳ kiểm toán dài giúp kiểm toán viên dễ phát hiện và điều chỉnh những khoản dồn tích
làm tăng khống lợi nhuận của doanh nghiệp giúp thông tin lợi nhuận không bị phóng
đại và đáng tin cậy hơn.
55
4.4.2. Nghiên cứu mối quan hệ giữa việc luân chuyển công ty kiểm toán và
chất lượng kiểm toán
Nhằm mục đích kiểm tra xem việc luân chuyển kiểm toán ở mức độ công ty có
ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán hay không, tác giả thêm vào phương trình hồi
quy (3.1) biến AFT thể hiện nhiệm kỳ công ty kiểm toán (được đo bằng số năm liên
tiếp một công ty kiểm toán thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính cho khách hàng). Kết
quả thể hiện ở bảng (4.9).
Coefficientsa
Unstandardized Coefficients
Standardized Coefficients Beta
B
Sig.
Model 1
(Constant) APT AFT BIG4 LEV GROW CFO
.201 -.031 .005 -.041 -.040 .053 -1.5E-008
Std. Error .031 .010 .006 .028 .044 .014 .000
t 6.571 -3.252 .907 -1.466 -.903 3.726 -.648
.000 .001 .365 .144 .367 .000 .518
-.212 .059 -.092 -.054 .219 -.041
a.
Dependent Variable: DA
Bảng 4.9: Bảng kết quả hồi quy tuyến tính đa biến khi thêm biến AFT
Ta thấy hai biến có ý nghĩa lúc đầu là APT và GROW vẫn có ý nghĩa thống kê
rất cao. Biến AFT có hệ số hồi quy là +0,005 nhưng không có ý nghĩa. Do đó, có thể
kết luận giữa biến AFT và biến DA không có quan hệ với nhau. Hay nói cách khác,
nhiệm kỳ công ty kiểm toán không có quan hệ với chất lượng kiểm toán.
56
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN KIẾN NGHỊ VÀ NHỮNG
GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI
5.1. Kết luận và kiến nghị
Kiểm toán độc lập báo cáo tài chính đang ngày càng trở nên phổ biến tại các
nền kinh tế phát triển. Với những lợi ích mang lại cho thị trường tài chính thông qua
việc đảm bảo sự minh bạch thông tin công bố, ngành kiểm toán sẽ ngày càng phát triển
phát triển hơn nữa trong tương lai thông qua việc nâng cao tính chuyên nghiệp, đa
dạng hóa các dịch vụ cung cấp để phù hợp hơn nữa với nhu cầu người sử dụng. Tại
Việt Nam, một nền kinh tế đang trong tiến trình hội nhập, quá trình phát triển này là tất
yếu và phù hợp với xu hướng hiện nay trên thế giới. Chính vì lẽ đó, việc kiểm soát
chất lượng hoạt động kiểm toán nói chung và hoạt động kiểm toán báo cáo tài chính
nói riêng là một vấn đề thời sự đang đặt ra cho các nhà quản lý tại Việt Nam. Mặc dù
chất lượng kiểm toán phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng phần lớn tùy thuộc vào trình
độ chuyên môn và sự độc lập khách quan của các kiểm toán viên đang trực tiếp hành
nghề. Và một trong những quy định đã được đưa ra nhằm tăng cường sự độc lập của
các kiểm toán viên là quy định về việc luân chuyển kiểm toán viên bắt buộc sau một
khoảng thời gian nhất định.
Trong lúc các quy định bắt buộc về luân chuyển kiểm toán ở mức độ công ty
vẫn còn đang được tiếp tục tranh luận thì vấn đề luân chuyển kiểm toán viên đã được
áp dụng tại nhiều quốc gia với phạm vi áp dụng và thời gian luân chuyển khác nhau.
Các nghiên cứu trên thế giới về quy định này cũng khá đa dạng về phương pháp
nghiên cứu, cách tiếp cận vần đề cũng như kết quả nghiên cứu. Trong số đó, khá nhiều
nghiên cứu không ủng hộ quan điểm cho rằng: Luân chuyển kiểm toán viên bắt buộc
làm gia tăng chất lượng kiểm toán. Tuy nhiên cũng không ít nghiên cứu ủng hộ quy
57
định này và xem nó như một chính sách hữu hiệu để gia tăng chất lượng kiểm toán.
Trong nghiên cứu thực nghiệm này tại thị trường Việt Nam sử dụng thước đo các
khoản dồn tích bất thường DA, tác giả thấy rằng giữa nhiệm kỳ kiểm toán và chất
lượng kiểm toán có mối quan hệ tuyến tính với nhau (ít nhất là trong vòng 5 năm đầu).
Khi nhiệm kỳ kiểm toán càng dài thì chất lượng kiểm toán càng cao.
Với các bằng chứng thu thập được cùng với kết quả nghiên cứu của đề tài cho
thấy quy định về luân chuyển kiểm toán viên ở Việt Nam là có cơ sở khoa học và phù
hợp với quy định tại nhiều quốc gia trong khu vực cũng như trên thế giới.Tuy nhiên,
đối với quy định tại mục 5 điều 36 trong nghị định 17/2012/NĐ-CP về nhiệm kỳ kiểm
toán viên tối đa là 3 năm là không phù hợp so với kết quả trong nghiên cứu này. Qua
đó, tác giả kiến nghị sắp tới khi ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật kiểm
toán độc lập Chính phủ, Bộ Tài chính cần thay đổi điều 36 trong nghị định 17/2012
bằng cách nâng thời hạn tối đa phải thay đổi kiểm toán viên lên 5 năm thay vì 3 năm
như hiện nay. Bởi lẽ, quy định về nhiệm kỳ kiểm toán viên của nghị định 17/2012/
NĐ-CP có thể một phần nào đó làm gia tăng tính độc lập của các kiểm toán viên
nhưng lại khiến họ phải gặp rủi ro cao trong nghề nghiệp khi làm lãng phí những kinh
nghiệm thực tế, những hiểu biết sâu sắc về tình hình và đặc điểm kinh doanh của
doanh nghiệp hiện tại; đồng thời họ lại gặp khó khăn trong việc tìm hiểu một khách
hàng mới để lập kế hoạch kiểm toán năm đầu tiên (trong đó thường phát hành báo cáo
loại trừ những ảnh hưởng của số dư đầu kỳ) khiến số liệu trên báo cáo tài chính không
còn trung thực, hợp lý nữa. Do đó, quy định này thực sự đã làm giảm chứ không làm
tăng chất lượng kiểm toán như mong đợi, tăng thêm chi phí xã hội mà lợi ích mang lại
thì không rõ ràng.
Về vấn đề luân chuyển kiểm toán ở mức độ công ty, kết quả của nghiên cứu này
cho thấy không có mối liên hệ tuyến tính rõ ràng giữa nhiệm kỳ kiểm toán và kiểm
toán viên. Qua đó có thể kết luận rằng không có bằng chứng cho thấy nhiệm kỳ công
ty kiểm toán dài sẽ làm giảm chất lượng kiểm toán.
58
5.2. Một số hạn chế và đóng góp của đề tài
Bên cạnh một số kết luận được rút ra, nghiên cứu này vẫn còn một số hạn chế
như sau:
Thứ nhất là trong nghiên cứu này, tác giả chỉ sử dụng một thước đo là các
khoản dồn tích để đánh giá chất lượng kiểm toán đứng ở góc độ nhà đầu tư và các bên
thứ ba cần những thông tin đáng tin cậy trên báo cáo tài chính. Việc chỉ sử dụng một
thước đo trong một chừng mực nào đó có thể không khách quan khi không đối chiếu
được kết quả với các thước đo chất lượng kiểm toán khác.
Thứ hai là về mẫu nghiên cứu, do bị giới hạn về thời gian thực hiện đề tài cũng
như những giới hạn về nguồn dữ liệu phù hợp để nghiên cứu vấn đề này nên mẫu
nghiên cứu tương đối nhỏ và có thể không đại diện hết cho toàn bộ thị trường chứng
khoán Việt Nam.
Cuối cùng là về mô hình định lượng sự quản trị lợi nhuận bằng mô hình
Modified Cross-sectional Jones model (1995), mô hình này đã được sử dụng khá rộng
rãi trên thế giới để nghiên cứu chất lượng kiểm toán. Tuy nhiên, vẫn còn có nhiều quan
điểm khác nhau về các biến số trong phương trình hồi quy và phương pháp chạy mô
hình (như nhóm các công ty theo ngành nghề, theo năm tài chính hay theo hiệu suất sử
dụng tài sản_ROA….). Các nghiên cứu sau này có thể sử dụng các phương pháp và
mô hình khác để kiểm chứng kết quả.
Một số đóng góp của nghiên cứu này có thể kể đến như sau. Thứ nhất, nghiên
cứu cung cấp bằng chứng làm cơ sở cho việc quy định luân chuyển kiểm toán viên ở
các văn bản hướng dẫn Luật Kiểm toán độc lập ở Việt Nam. Đồng thời, nghiên cứu
này giới thiệu một phương pháp đo lường việc điều chỉnh thông tin lợi nhuận của nhà
quản trị trên báo cáo tài chính. Bên cạnh đó, nhằm mục đích gia tăng chất lượng kiểm
toán báo cáo tài chính tại Việt Nam, thì các cơ quan hữu quan như Vụ Chế Độ Kế
Toán và Kiểm Toán cũng như Hiệp Hội Kiểm Toán Viên Hành Nghề (VACPA) cần
59
tăng cường phối hợp công tác kiểm tra, kiểm soát chất lượng kiểm toán từ bên ngoài,
đặc biệt cần chú trọng đến những hợp đồng kiểm toán năm đầu tiên.
Đối với việc kiểm soát chất lượng từ bên trong, các công ty kiểm toán cần thận
trọng hơn trong việc tiếp nhận khách hàng mới, tăng cường công tác đào tạo, huấn
luyện đội ngũ nhân viên nhằm nâng cao trình độ kiểm toán viên; đồng thời có những
chính sách khuyến khích việc chia sẻ những kinh nghiệm, những hiểu biết từ những
kiểm toán viên tiền nhiệm cho nhóm kiểm toán viên mới nhằm mục tiêu vừa có thể
tăng cường sự độc lập nhưng vẫn đảm bảo kiểm toán viên mới có được những hiểu
biết cần thiết về khách hàng để cuộc kiểm toán đạt được chất lượng mong muốn. Cuối
cùng, kết quả nghiên cứu này hi vọng đóng góp một phần nhỏ bé nào đó về quan điểm
không ủng hộ quy định luân chuyển kiểm toán viên bắt buộc với nhiệm kỳ quá ngắn,
kết quả này cũng tương đồng với nhiều nghiên cứu trước đây trên thế giới.
60
TÀI LIỆU THAM KHẢO
-----☼☼۩☼☼-----
TIẾNG VIỆT:
1. Bộ Tài Chính. Hệ thống Chuẩn mực kế toán Việt Nam.
2. Bộ Tài Chính. Hệ thống Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam.
3. Đường Nguyễn Hưng (2013) Hành vi quản trị lợi nhuận đối với thông tin lợi nhuận
công bố trên báo cáo tài chính, Tạp chí kế toán và kiểm toán.
http://www.vacpa.org.vn/index.php?o=modules&n=forum&f=forum_detail&idforum
=714&page=2
4. Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc, (2008). Phân tích dữ liệu nghiên cứu với
SPSS. TP HCM: Nhà xuất bản Hồng Đức.
5. Khoa kế toán kiểm toán - Bộ môn kiểm toán - Trường đại học kinh tế TPHCM (2007).
Kiểm toán (tái bản lần thứ 5), Nhà xuất bản Lao động xã hội.
6. Nguyễn Công Phương (2010). Kế toán theo cơ sở dồn tích và kế toán theo cơ sở
tiền.Tạp chí kế toán số 77
http://www.tapchiketoan.com/ke-toan/ke-toan-tong-hop/ke-toan-theo-co-so-don-tich-
va-quan-tri-loi-nhuan-cua-doanh-n-6.html
7. Trần Khánh Lâm (2011). Xây dựng cơ chế kiểm soát chất lượng cho hoạt động kiểm
toán hoạt động tại Việt Nam, luận án tiến sĩ, Trường đại học kinh tế TPHCM.
8. VACPA, Báo cáo tổng kết hoạt động năm 2011 và phương hướng hoạt động năm
2012 của các công ty kiểm toán.
TIẾNG ANH:
9. Bartov,E., Gul,F.A., & Tsui,J.S.L. (2000). Discretionary accruals and audit
qualifications. The ninth Annual Conference on Financial Economics and Accouting.
The University of Rochester.
10. Beatty, R. P. (1989). Auditor reputation and the pricing of initial public offerings.
Accounting Review, 693-709.
11. Carcello,T.V. & Nagy,A.L. (2004). Audit firm tenure and fraudulent financial
reporting. Auditing: A Journal of Pratice and Theory, 23(2), 55-69.
12. Chen,C.,Y., Lin,C.J. & Lin,Y.C. (2004). Audit partner tenure, audit firm tenure and
discretionary accruals: Does long auditor tenure impair earnings quality?.
Contemporary Accounting Research, 25,415-445.
13. Chi,W., Huang,H., Lian,Y. & Xie,H. (2009). Mandatory Audit-Partner Rotation,
Audit Quality and Market Perception: Evidence from Taiwan.Contemporary
Accounting Research, 26, 359-391.
14. Chi,H. & Huang,H. (2003). Discretioary Accruals,audit firm tenure and audit partner
tenure: An empirical case in Taiwan. Journal of Contemporary Accouting and
Economics, 1(1), 65-92.
15. Chung,H. (2004). Selective mandatory auditor rotation and audit quality: An
empirical investigation of auditor designation policy in Korea. Doctoral’s
dissertation. Purdue University, West Lafayette Indiana, US.
16. Davis,L.R., Soo,B. & Trompeter,G. (2003). Audit tenure, auditor independence, and
earnings management. Working paper. Boston College.
17. DeAngelo,L.(1981). Auditor size and audit quality. Journal of Accounting and
Economics, 113-127.
18. Dechow, P. & Schrand, C. &Ge W. (2009). Understanding earning quality: A review of the
proxies, their determinants and their consequences. Center for Accounting Research,
University of Notre Dame.
19. Dechow,P.M., Sloan,R.G. & Sweeney,A.P.(1995). Detecting earnings management.
The Accounting Review, 70(2), 193-225.
20. Dopuch,N., King,R.R., & Schwartz, R. (2001). An experimental investigation of
retention and rotation requirements. Journal of Accounting Research, 39(1), 93-117.
21. Geiger,M. & Raghunandan,K. (2002). Auditor tenure and audit quality. Auditing: A
Journal of Practice and Theory ,21(March): 187-196.
22. Ghosh, A. & Moon,D. (2005). Auditor Tenure and Perceptions of Audit Quality. The
Accounting Review, 80(2), 585-612
23. Ghosh,A. & Moon,D. (2003). Does auditor tenure impair audit quality. Working
paper, The Securities and Exchange Commission
24. Gietzmann,M. & Sen,P.K. (2002). Improving auditor independence through
selsective mandatory rotation. International Journal of Auditting, 6, 183-210.
25. Hamilton,J.M, Ruddock,C., Stokes,D. &Taylor,S. ( 2005). Audit Partner Rotation,
Earnings Quality and Earnings Conservatism. University of New South Wales. SSRN
Electronic Journal, pp.1–42..
26. Healy,P. (1985). The effect of bonus schemes on accounting decision. Journal of
Accounting and Economics, 7, 85-107.
27. Jackson, A.B., Moldrich, M. & Roebuck, P., (2008). Mandatory Audit Firm Rotation
and Audit Quality. Managerial Auditting Journal, 3(5): 420-437.
28. Johnson,V.E., Khurana,I.K. & Reynold,J.K. (2002). Audit firm tenure and the quality
of financial reporting. Contemporary Accounting ,19(Winter): 637-660.
29. Jones J.J.(1991). Earnings management during import relief investigations. Journal of
Accounting Research, 29(Autumn): 193-228.
30. Kasznik, R. (1996). On the association between voluntary disclosure and earnings
management. Journal of Accounting Research, 37, 57-81.
31. Kim,J.B., Min,C.K. & Yi,C.H. (2004). Auditor designation,auditor independence and
earnings management: Evidence from Korea. Working paper. The Hong Kong
Polytechnic University.
32. Knapp, M. C. (1991). Factors that audit committee members use as surrogates for
audit quality. Auditing: A Journal of Practice and Theory, 10(1), 35-52.
33. Knechel, W. R., Vanstraelen, A. (2007). The relationship between auditor tenure and
audit quality implied by going concern opinion. Auditting: A Journal of Practice and
Theory, 26(1):113-131.
34. Krishman,G.,V. (2002) Audit quality and the pricing of discretionary accrual. The city
University of Hong Kong.
35. Krishnan,J., & Schauer,P.C. (2001). Differences in quality among audit firms.
Journal of Accountancy, 192(1), 85.
36. Lobo, G.,J., & Zhou J. ( 2001). Disclosure Quality and Earnings Management. Asia-
Pacific Journal of Accounting and Economics, 8(1), 1-20.
37. Myers,J.N., Myers,L.A. & Omer,T.C.(2003). Exploring the term of the auditor –
client relationship and the quality of earnings: A case for mandatory auditor rotation.
The Accounting Review ,78 (July): 779-799.
38. Siregar,S.,V., Amarullah, F., Wibowo, A. & Anggranita, V. (2012). Auditor tenure,
auditor rotation and audit quality: The case of Indonesia. Asian Journal of Business
and Accounting, 5(1), 55-74.
39. Simnett,R & Carey,B. (2005). Audit partner tenure and audit quality. Accounting
Review, forthcoming.
PHỤ LỤC 1
------☼☼۩☼☼ ------
DANH SÁCH 39 CÔNG TY TRONG MẪU NGHIÊN CỨU
STT Mã CK Tên công ty Năm lấy mẫu
BBC Công ty cổ phần Bibica 2001-2011 1
AGF Công ty cổ phần xuất nhập khẩu thủy sản An Giang 2003-2011 2
BT6 Công ty cổ phần bê tông 6 2004-2011 3
GIL 2007-2011 4
Công ty cổ phần sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu Bình Thạnh
GMD Công ty cổ phần Gemadept 2004-2011 5
HAS Công ty cổ phần Hacisco 2004-2011 6
HAP Công ty cổ phần tập đoàn Hapaco 2004-2011 7
MHC Công ty cổ phần hàng hải Hà Nội 2004-2011 8
REE Công ty cổ phần cơ điện lạnh REE 2004-2011 9
SAM Công ty cổ phần đầu tư phát triển Sacom 2005-2011 10
2004-2011 11 SAV Công ty cổ phần hợp tác kinh tế và xuất nhập khẩu
SAVIMEX
SFC Công ty cổ phần nhiên liệu Sài Gòn 2005-2011 12
TMS Công ty cổ phần Transimex-Saigon 2004-2011 13
TNA Công ty cổ phần thương mại xuất nhập khẩu Thiên 2005-2011 14
Nam
TYA Công ty cổ phần dây và cáp điện TAYA Việt Nam 2006-2011 15
VNM Công ty cổ phần sữa Việt Nam Vinamilk 2005-2012 16
VPK Công ty cổ phần bao bì dầu thực vật 17 2006-2011
VIS Công ty cổ phần thép Việt Ý 18 2006-2012
VSH Công ty cổ phần thủy điện Vĩnh Sơn-Sông Hinh 19 2005-2011
BMC Công ty cổ phần khoáng sản Bình Định 20 2004-2011
BMP Công ty cổ phần nhựa Bình Minh 21 2006-2011
CII Công ty cổ phần đầu tư hạ tầng kỹ thuật TPHCM 22 2006-2012
CAN Công ty cổ phần đồ hộp Hạ Long 23 2006-2011
DHA Công ty cổ phần Hóa An 24 2004-2011
KDC Công ty cổ phần Kinh Đô 25 2005-2011
PMS / Công ty cổ phần cơ khí xăng dầu 26 2005-2011
SGH Công ty cổ phần khách sạn Sài Gòn 27 2006-2011
TRI Công ty cổ phần nước giải khát Sài Gòn TRIBECO 28 2004-2009
ALP Công ty cổ phần đầu tư Alphanam 29 2007-2011
RAL Công ty cổ phần bóng đèn phích nước Rạng Đông 30 2006-2011
TAC Công ty cổ phần dầu thực vật Tường An 31 2006-2011
TCR Công ty cổ phần công nghiệp gốm sứ Taicera 32 2007-2011
OPC Công ty cổ phần dược phẩm OPC 33 2008-2012
KHA Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Khành Hội 34 2004-2012
LAF Công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An 35 2005-2012
SSC Công ty cổ phần giống cây trồng miền Nam 36 2005-2012
VTB Công ty cổ phần Viettronics Tân Bình 37 2006-2012
ABT Công ty cổ phần xuất nhập khẩu thủy sản Bến Tre 38 2006-2012
BHS Công ty cổ phần đường Biên Hòa 39 2004-2011
PHỤ LỤC 2
-----☼☼۩☼☼-----
KẾT QUẢ THỐNG KÊ MÔ TẢ CÁC BIẾN NGHIÊN CỨU VÀ
BẢNG TẦN SỐ HAI BIẾN APT VÀ AFT
Descriptive Statistics
Mean
Statistic .148402 1.87 2.93 .16 .4011 .2787
Minimum Maximum Statistic Statistic 1.6188 .0043 6 1 8 1 1 0 1.61 .02 9.29 -.39 5294567 -820515
Std. Error .0099709 .067 .107 .022 .01345 .04092 92686.41 26567.534
Std. Deviation Statistic .1665475 1.121 1.792 .372 .22458 .68352 443765.3
Variance Statistic .028 1.257 3.211 .138 .050 .467 2E+011
DA APT AFT BIG4 LEV GROW CFO Valid N (listwise)
N Statistic 279 279 279 279 279 279 279 279
Statistics
APT
AFT
Valid
N Mean Std. Error of Mean Median Mode Std. Deviation
279 1.87 .067 2.00 1 1.121
279 2.93 .107 3.00 1 1.792
PHỤ LỤC 3
-----☼☼۩☼☼-----
KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH LAVENE VỀ SỰ KHÁC NHAU CỦA CÁC GIÁ TRỊ TRUNG BÌNH
*Năm 1 và năm 2
Group Statistics
N
DA
APT 1 2
138 78
Mean .175311 .150637
Std. Deviation .2065902 .1261936
Std. Error Mean .0175861 .0142886
Independent Samples Test
Levene's Test for Equality of Variances
t-test for Equality of Means
F
Sig.
t
df
Sig. (2-tailed)
Mean Difference
DA
.520
.472
.958
214
.339
.0246737
2.089
212.679
.098
.0246737
Equal variances assumed Equal variances not assumed
*Năm 2 và năm 3
Group Statistics
N
DA
APT 2 3
78 38
Mean .150637 .083808
Std. Deviation .1261936 .0539334
Std. Error Mean .0142886 .0087492
Independent Samples Test
Levene's Test for Equality of Variances
t-test for Equality of Means
F
Sig.
t
df
Sig. (2-tailed)
Mean Difference
DA
10.144
.002
3.123
114
.002
.0668293
3.989
112.618
.000
.0668293
Equal variances assumed Equal variances not assumed
PHỤ LỤC 4
-----☼☼۩☼☼-----
KẾT QUẢ PHÂN TÍCH TƯƠNG QUAN VÀ HỒI QUY TUYẾN TÍNH GIỮA HAI BIẾN APT VÀ DA
Correlations
DA
APT
DA
1
APT
-.182** .002 279 1
Pearson Correlation Sig. (2-tailed) N Pearson Correlation Sig. (2-tailed) N
279 -.182** .002 279
279
**.
Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).
Model Summary
R
Model 1
.182a
R Square .033
Adjusted R Square .029
Std. Error of the Estimate .1640731
a.
Predictors: (Constant), APT
ANOVAb
df
Sig.
Model 1
F 9.448
.002a
Mean Square .254 .027
Regression Residual Total
Sum of Squares .254 7.457 7.711
1 277 278
a.
Predictors: (Constant), APT
b.
Dependent Variable: DA
Coefficientsa
Unstandardized Coefficients
B
Standardized Coefficients Beta
t
Sig.
Model 1
(Constant) APT
.199 -.027
Std. Error .019 .009
-.182
10.393 -3.074
.000 .002
a.
Dependent Variable: DA
PHỤ LỤC 5
-----☼☼۩☼☼-----
KẾT QUẢ HỒI QUY TUYẾN TÍNH ĐA BIẾN
Model Summary
R
Model 1
.300a
R Square .090
Adjusted R Square .074
Std. Error of the Estimate .16066
a.
Predictors: (Constant), CFO, GROW, APT, LEV, BIG4
ANOVAb
Sig.
df
Model 1
F 5.419
.000a
Mean Square .140 .026
Regression Residual Total
Sum of Squares .699 7.047 7.746
5 273 278
a.
Predictors: (Constant), CFO, GROW, APT, LEV, BIG4
b.
Dependent Variable: DA
Coefficientsa
Unstandardized Coefficients
Standardized Coefficients Beta
B
Sig.
Model 1
(Constant) APT BIG4 LEV GROW CFO
.210 -.028 -.039 -.041 .052 -1.8E-008
Std. Error .028 .009 .028 .044 .014 .000
t 7.396 -3.161 -1.375 -.937 3.637 -.764
.000 .002 .170 .350 .000 .445
-.187 -.087 -.055 .212 -.048
a.
Dependent Variable: DA
PHỤ LỤC 6
-----☼☼۩☼☼-----
KẾT QUẢ HỒI QUY TUYẾN TÍNH
KHI BIẾN APT CÓ GIÁ TRỊ NHỎ HƠN HAY BẰNG 3
Model Summary
R
Model 1
.303a
R Square .092
Adjusted R Square .074
Std. Error of the Estimate .16496
a.
Predictors: (Constant), CFO, APT, GROW, LEV, BIG4
ANOVAb
df
Sig.
Model 1
F 5.022
.000a
Mean Square .137 .027
Regression Residual Total
Sum of Squares .683 6.748 7.432
5 248 253
a.
Predictors: (Constant), CFO, APT, GROW, LEV, BIG4
b.
Dependent Variable: DA
Coefficientsa
Unstandardized Coefficients
Standardized Coefficients Beta
B
Sig.
Model 1
(Constant) APT BIG4 LEV GROW CFO
.235 -.041 -.037 -.052 .052 -3.3E-008
Std. Error .034 .014 .030 .047 .015 .000
t 6.901 -2.863 -1.225 -1.093 3.499 -.950
.000 .005 .222 .276 .001 .343
-.176 -.081 -.068 .214 -.063
a.
Dependent Variable: DA
PHỤ LỤC 7
-----☼☼۩☼☼-----
KẾT QUẢ HỒI QUY TUYẾN TÍNH
KHI BIẾN APT CÓ GIÁ TRỊ NHỎ HƠN HAY BẰNG 5
Model Summary
R
Model 1
.319a
R Square .102
Adjusted R Square .085
Std. Error of the Estimate .15905
a.
Predictors: (Constant), CFO, GROW, APT, LEV, BIG4
ANOVAb
df
Sig.
Model 1
F 6.087
.000a
Mean Square .154 .025
Regression Residual Total
Sum of Squares .770 6.805 7.575
5 269 274
a.
Predictors: (Constant), CFO, GROW, APT, LEV, BIG4
b.
Dependent Variable: DA
Coefficientsa
Unstandardized Coefficients
Standardized Coefficients Beta
B
Sig.
Model 1
(Constant) APT BIG4 LEV GROW CFO
.222 -.035 -.041 -.041 .052 -1.6E-008
Std. Error .029 .010 .028 .044 .014 .000
t 7.701 -3.595 -1.471 -.946 3.693 -.674
.000 .000 .142 .345 .000 .501
-.213 -.093 -.056 .215 -.043
a.
Dependent Variable: DA
PHỤ LỤC 8
-----☼☼۩☼☼-----
KẾT QUẢ HỒI QUY TUYẾN TÍNH KHI DA DƯƠNG
Model Summary
R
Model 1
.359a
R Square .129
Adjusted R Square .086
Std. Error of the Estimate .22904
a.
Predictors: (Constant), CFO, GROW, APT, LEV, BIG4
ANOVAb
df
Sig.
Model 1
F 2.967
.015a
Mean Square .156 .052
Regression Residual Total
Sum of Squares .778 5.246 6.024
5 100 105
a.
Predictors: (Constant), CFO, GROW, APT, LEV, BIG4
b.
Dependent Variable: DA
Coefficientsa
Unstandardized Coefficients
Standardized Coefficients Beta
B
Sig.
Model 1
(Constant) APT BIG4 LEV GROW CFO
.358 -.060 -.067 -.169 .045 -4.4E-008
Std. Error .069 .023 .060 .099 .022 .000
t 5.149 -2.637 -1.112 -1.695 2.005 -.660
.000 .010 .269 .093 .048 .511
-.258 -.110 -.166 .191 -.066
a.
Dependent Variable: DA
PHỤ LỤC 9
-----☼☼۩☼☼-----
KẾT QUẢ HỒI QUY TUYẾN TÍNH KHI DA ÂM
Model Summary
R
Model 1
.184a
R Square .034
Adjusted R Square .005
Std. Error of the Estimate .08974
a.
Predictors: (Constant), CFO, APT, GROW, LEV, BIG4
ANOVAb
df
Sig.
Model 1
F 1.168
.327a
Mean Square .009 .008
Regression Residual Total
Sum of Squares .047 1.345 1.392
5 167 172
a.
Predictors: (Constant), CFO, APT, GROW, LEV, BIG4
b.
Dependent Variable: DA
Coefficientsa
Unstandardized Coefficients
Standardized Coefficients Beta
B
Sig.
Model 1
(Constant) APT BIG4 LEV GROW CFO
.138 -.010 -.022 .011 .031 -6.6E-009
Std. Error .020 .006 .021 .032 .025 .000
t 7.015 -1.685 -1.039 .329 1.244 -.424
.000 .094 .300 .742 .215 .672
-.130 -.088 .025 .095 -.036
a.
Dependent Variable: DA
PHỤ LỤC 10
-----☼☼۩☼☼-----
KẾT QUẢ HỒI QUY TUYẾN TÍNH
KHI ĐƯA THÊM BIẾN AFT VÀO PHƯƠNG TRÌNH
Model Summary
R
Model 1
.306a
R Square .094
Adjusted R Square .074
Std. Error of the Estimate .1602860
a.
Predictors: (Constant), CFO, GROW, APT, LEV, BIG4, AFT
ANOVAb
df
Sig.
Model 1
F 4.691
.000a
Mean Square .121 .026
Regression Residual Total
Sum of Squares .723 6.988 7.711
6 272 278
a.
Predictors: (Constant), CFO, GROW, APT, LEV, BIG4, AFT
b.
Dependent Variable: DA
Coefficientsa
Unstandardized Coefficients
Standardized Coefficients Beta
B
Sig.
Model 1
(Constant) APT AFT BIG4 LEV GROW CFO
.201 -.031 .005 -.041 -.040 .053 -1.5E-008
Std. Error .031 .010 .006 .028 .044 .014 .000
t 6.571 -3.252 .907 -1.466 -.903 3.726 -.648
.000 .001 .365 .144 .367 .000 .518
-.212 .059 -.092 -.054 .219 -.041
a.
Dependent Variable: DA