BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ---ooOoo---

LÂM HUỲNH PHƯƠNG

ẢẢNNHH HHƯƯỞỞNNGG CCỦỦAA VVIIỆỆCC LLUUÂÂNN CCHHUUYYỂỂNN

KKIIỂỂMM TTOOÁÁNN VVIIÊÊNN ĐĐẾẾNN CCHHẤẤTT LLƯƯỢỢNNGG HHOOẠẠTT ĐĐỘỘNNGG KKIIỂỂMM TTOOÁÁNN BBÁÁOO CCÁÁOO TTÀÀII CCHHÍÍNNHH

TTẠẠII VVIIỆỆTT NNAAMM

Chuyên ngành: Kế toán

Mã số : 60.34.30

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH - 2012

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ---ooOoo---

LÂM HUỲNH PHƯƠNG

ẢẢNNHH HHƯƯỞỞNNGG CCỦỦAA VVIIỆỆCC LLUUÂÂNN CCHHUUYYỂỂNN

KKIIỂỂMM TTOOÁÁNN VVIIÊÊNN ĐĐẾẾNN CCHHẤẤTT LLƯƯỢỢNNGG HHOOẠẠTT

ĐĐỘỘNNGG KKIIỂỂMM TTOOÁÁNN BBÁÁOO CCÁÁOO TTÀÀII CCHHÍÍNNHH

TTẠẠII VVIIỆỆTT NNAAMM

Chuyên ngành: Kế toán

Mã số : 60.34.30

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

\

TP. HỒ CHÍ MINH - 2012

Người hướng dẫn khoa học

TS. NGUYỄN ANH HIỀN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013

LỜI CAM ĐOAN

-----☼☼۩☼☼-----

Tôi xin cam đoan đề tài này dựa trên quá trình nghiên cứu trung thực và nghiêm túc dưới

sự cố vấn của người hướng dẫn khoa học. Đây là đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế, chuyên

ngành Kế toán – Kiểm toán. Luận văn này chưa được ai công bố dưới bất kỳ hình thức

nào và tất cả các nguồn tài liệu tham khảo đều được trích dẫn đầy đủ.

TPHCM, ngày 19 tháng 6 năm 2013

Tác giả

Lâm Huỳnh Phương

MỤC LỤC

-----☼☼۩☼☼-----

LỜI CAM ĐOAN

DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ

MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 1

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VỀ ĐẾ TÀI NGHIÊN CỨU

1.1. Dẫn nhập ...................................................................................................................... 5

1.2. Giới thiệu đề tài nghiên cứu ........................................................................................ 9

1.2.1. Tổng quan thị trường kiểm toán Việt Nam ....................................................... 9

1.2.2. Quy định về luân chuyển kiểm toán viên tại Việt Nam ..................................... 10

CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ THUYẾT

2.1. Tổng quan về chất lượng kiểm toán ............................................................................ 14

2.1.1. Một số định nghĩa về chất lượng kiểm toán ...................................................... 14

2.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán ............................................. 17

2.2. Phương pháp định lượng chất lượng kiểm toán ......................................................... 19

2.2.1. Các khoản dồn tích trong lợi nhuận và thước đo chất lượng kiểm toán ............ 19

2.2.2. Sự điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý và trách nhiệm của kiểm toán viên .... 20

2.2.3. Mô hình định lượng chất lượng kiểm toán ........................................................ 26

2.3. Các nghiên cứu có liên quan đến đề tài....................................................................... 33

2.3.1. Các nghiên cứu ủng hộ việc luân chuyển kiểm toán viên bắt buộc .................... 35

2.3.2. Các nghiên cứu không ủng hộ việc luân chuyển kiểm toán viên bắt buộc ......... 37

CHƯƠNG 3: MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM

3.1. Mô hình nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu ...................................................... 42

3.1.1. Mô hình nghiên cứu ......................................................................................... 42

3.1.2. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 43

3.2. Phương pháp chọn mẫu và mô tả mẫu ....................................................................... 45

CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

4.1. Phân tích sơ bộ kết quả nghiên cứu thông qua bảng thống kê mô tả các biến ......... 47

4.2. Kết quả phân tích tương quan và hồi quy tuyến tính đơn biến ................................. 50

4.3. Phân tích kết quả hồi quy tuyến tính đa biến ............................................................. 52

4.4. Một số nghiên cứu bổ sung về chất lượng kiểm toán ................................................. 55

4.4.1. Nghiên cứu mối quan hệ giữa nhiệm kỳ kiểm toán viên với chất lượng

kiểm toán khi phân biệt dấu của DA ..................................................................................... 55

4.4.2. Nghiên cứu mối quan hệ giữa việc luân chuyển công ty kiểm toán và chất

lượng kiểm toán .................................................................................................................... 56

CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ VÀ NHỮNG HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI

5.1. Kết luận và kiến nghị ................................................................................................... 57

5.2. Những đóng góp và hạn chế của đề tài ....................................................................... 59

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Danh sách 39 công ty trong mẫu nghiên cứu

Phụ lục 2: Kết quả thống kê mô tả các biến và bảng tần số hai biến APT và AFT

Phụ lục 3: Kết quả kiểm định Lavene về sự khác nhau của các giá trị trung bình

Phụ lục 4: Kết quả phân tích tương quan và hồi quy tuyến tính giữa hai biến APT và DA

Phụ lục 5: Kết quả hồi quy tuyến tính đa biến

Phụ lục 6: Kết quả hồi quy tuyến tính đa biến khi APT có giá trị nhỏ hơn hay bằng 3

Phụ lục 7: Kết quả hồi quy tuyến tính đa biến khi APT có giá trị nhỏ hơn hay bằng 5

Phụ lục 8: Kết quả hồi quy tuyến tính đa biến khi DA dương

Phụ lục 9: Kết quả hồi quy tuyến tính đa biến khi DA âm

Phụ lục 10: Kết quả hồi quy tuyến tính đa biến khi thêm biến AFT vào phương trình

nghiên cứu

DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ

-----☼☼۩☼☼-----

Bảng 1.1: Quy định về luân chuyển kiểm toán viên và luân chuyển công ty kiểm toán

DANH MỤC CÁC BẢNG

tại một số quốc gia châu Á.

Bảng 4.1:Bảng kết quả thống kê mô tả các biến nghiên cứu trong phương trình

Bảng 4.2:Giá trị trung bình của biến APT ứng với từng năm

Bảng 4.3: Bảng kết quả kiểm định Lavene về sự khác biệt của giá trị trung bình

Bảng 4.4: Bảng kết quả phân tích tương quan giữa APT và DA

Bảng 4.5: Bảng kết quả hồi quy tuyến tính đơn biến giữa APT và DA

Bảng 4.6: Bảng kết quả hồi quy tuyến tính đa biến

Bảng 4.7: Bảng kết quả hồi quy tuyến tính với hai biến APT3 và APT5

Bảng 4.8: Bảng kết quả hồi quy tuyến tính đa biến khi phân biệt dấu của DA

Bảng 4.9: Bảng kết quả hồi quy tuyến tính đa biến khi thêm biến AFT

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 4.1: Biểu đồ thể hiện sự biến thiên của giá trị DA trung bình qua các năm

MỞ ĐẦU

-----☼☼۩☼☼-----

1. Tính cấp thiết của đề tài

Hoạt động kiểm toán đã có một quá trình hình thành và phát triển lâu dài. Quá

trình này gắn liền với quá trình phát triển kinh tế của xã hội loài người. Và để phục

vụ cho nhu cầu khá đa dạng từ phía người sử dụng, các loại hình kiểm toán khác

nhau cũng từng bước được hình thành, trong đó có hoạt động kiểm toán báo cáo tài

chính. Với vai trò nhằm cung cấp một sự đảm bảo về sự trung thực, hợp lý của báo

cáo tài chính, hoạt động kiểm toán độc lập đã góp một phần không nhỏ đảm bảo thị

trường tài chính phát triển một cách lành mạnh, đặc biệt trong bối cảnh các thị

trường chứng khoán phát triển mạnh mẽ trên thế giới như hiện nay.

Tại Việt Nam trong những năm gần đây, thị trường chứng khoán cũng đã hình

thành và phát triển.Và một trong những điều kiện đảm bảo cho thị trường này hoạt

động ổn định và trở thành một kênh cung cấp vốn hữu ích cho doanh nghiệp đó là

các thông tin tài chính được công bố phải minh bạch. Tuy nhiên, do có sự xung đột

lợi ích giữa nhà quản trị và chủ sở hữu doanh nghiệp cũng như các bên thứ ba mà

các thông tin này có thể bị bóp méo theo những mục đích mà nhà quản trị mong

muốn. Do đó, ngành kiểm toán báo cáo tài chính với vai trò đặc biệt của mình góp

phần giải quyết những xung đột lợi ích trên và đảm bảo các thông tin công bố phản

ánh đúng thực chất tình hình tài chính của doanh nghiệp.

Chất lượng dịch vụ kiểm toán phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng phần lớn tùy

thuộc vào trình độ chuyên môn và tính độc lập của kiểm toán viên. Nếu như những

yêu cầu về trình độ có thể đạt được thông qua quá trình đào tạo và tích lũy kinh

nghiệm làm việc thì tính độc lập của kiểm toán viên là một vấn đề khá nhạy cảm.

1

Nó tùy thuộc vào tính cách cũng như ý thức của từng kiểm toán viên trước yêu cầu

về đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm đối với toàn xã hội. Và vấn đề này đã trở

nên nóng bỏng hơn do sự phá sản một trong các tập đoàn hàng đầu trên thế giới là

ENRON, trong đó có liên quan đến sai phạm nguyên tắc độc lập, khách quan của

công ty kiểm toán Authur Andersen, một trong số các BIG5 lúc bấy giờ.

Từ đây, nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam đã đưa ra nhiều quy

định nhằm tăng cường tính độc lập của kiểm toán viên cũng như công ty kiểm toán,

trong đó có quy định về việc luân chuyển bắt buộc kiểm toán viên sau một khoảng

thời gian nhất định. Tuy nhiên, vấn đề này vẫn còn gây ra nhiều tranh luận giữa việc

nên hay không nên đưa ra quy định này và thời hạn luân chuyển là bao nhiêu năm là

hợp lý. Vì vậy, nhằm kiểm định tính hữu hiệu của quy định này có thực sự làm gia

tăng chất lượng kiểm toán tại Việt Nam hay không, tác giả đã chọn thực hiện đề tài:

“Ảnh hưởng của việc luân chuyển kiểm toán viên đến chất lượng báo cáo tài chính

tại Việt Nam.”

2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là xác định mối quan hệ giữa việc luân chuyển

kiểm toán viên đến chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính. Qua đó xem xét những

quy định hiện hành về việc luân chuyển này có thực sự làm gia tăng chất lượng

kiểm toán hay không và đưa ra các khuyến nghị trong việc xây dựng và sửa đổi các

văn bản quy phạm pháp luật về vấn đề này trong tương lai.

2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chất lượng kiếm toán báo cáo tài chính và

ảnh hưởng của yếu tố nhiệm kỳ kiểm toán viên đến chất lượng kiểm toán. Do hạn

chế về khả năng tiếp cận nguồn tài liệu của các doanh nghiệp nên phạm vi nghiên

cứu chỉ bao gồm các công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán, bởi vì

báo cáo tài chính và báo cáo kiểm toán của các công ty này được công bố định kỳ

và đầy đủ theo luật.

4. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp kế thừa kinh nghiệm được thực hiện theo phương thức tìm hiểu và

hệ thống hóa các kết quả nghiên cứu trước đây về vấn đề này tại Việt Nam cũng

như trên thế giới.

- Phương pháp phân tích định lượng như thống kê mô tả, phân tích tương quan, hồi

quy tuyến tính… nhằm định lượng chất lượng kiểm toán và xem xét mối quan hệ

giữa nhiệm kỳ kiểm toán viên và chất lượng kiểm toán.

5. Bố cục của đề tài

Ngoài phần mở đầu, bố cục của đề tài gồm có 5 chương:

Chương 1: Giới thiệu về đề tài nghiên cứu

Chương 2: Tổng quan cơ sở lý thuyết

Chương 3: Mô hình nghiên cứu thực nghiệm

Chương 4: Kết quả nghiên cứu

Chương 5: Kết luận, kiến nghị và những giới hạn của đề tài

3

6. Những đóng góp của đề tài

► Về mặt lý luận

- Hệ thống hóa và trình bày các kết quả nghiên cứu trước đây về vấn đề này tại Việt

Nam cũng như trên thế giới.

- Xác định hành vi điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý và tổng hợp một số biện

pháp mà họ có thể sử dụng để điều chỉnh lợi nhuận trong kỳ của doanh nghiệp.

- Giới thiệu phương pháp định lượng chất lượng kiểm toán thông qua các khoản dồn

tích (accrual earnings management), một trong những phương pháp đã được sử

dụng trên thế giới để phát hiện hành vi điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý và đo

lường gián tiếp chất lượng kiểm toán.

► Về mặt thực tiễn

Thông qua kết quả nghiên cứu, tác giả đánh giá tính hữu hiệu của quy định hiện

hành về việc luân chuyển kiểm toán viên trong việc tăng cường sự độc lập và nâng

cao chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính tại Việt Nam. Từ đó đưa các kiến nghị

cho các nhà lập pháp về vấn đề này trong tương lai. Bên cạnh đó, một phần kết quả

nghiên cứu cũng cho thấy những rủi ro kiểm toán mà các công ty kiểm toán phải

gặp trong việc kiểm toán cho khách hàng năm đầu tiên.Vì vậy, tác giả cũng đưa ra

một số kiến nghị về kiểm soát chất lượng dịch vụ đối với Hiệp Hội Kiểm Toán Viên

Hành Nghề Việt Nam (VACPA) và các công ty kiểm toán nhằm gia tăng chất lượng

kiểm toán báo cáo tài chính tại Việt Nam.

4

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

1.1. Dẫn nhập

Sự sụp đổ của các tập đoàn công nghiệp hàng đầu của Mỹ như ENRON,

WORLDCOM… trong những năm đầu thế kỷ 21 đã gây chấn động dư luận Hoa Kỳ và

thế giới. Qua những sự kiện này, nhiều bài học quý giá đã được rút ra liên quan đến

lĩnh vực kế toán, quản trị công ty và đặc biệt là kiểm toán. Nhiều nhà phân tích cho

rằng những sự đổ vỡ bất ngờ này đã xảy ra xuất phát từ việc các kiểm toán viên đã

không hoàn thành tốt công việc của mình trong việc phát hiện các gian lận sai sót

trọng yếu trên báo cáo tài chính của công ty và báo cáo chúng với cổ đông và các bên

liên quan. Mặt khác, họ lại còn có quan hệ khá mật thiết với khách hàng của mình,vừa

cung cấp dịch vụ tư vấn vừa thực hiện dịch vụ kiểm toán. Rất nhiều các biện pháp đã

được đưa ra nhằm khắc phục, ngăn chặn các sai phạm đó và đảm bảo chúng sẽ không

lặp lại trong tương lai. Trong số đó có quy định về bắt buộc luân chuyển kiểm toán

viên định kỳ nhằm tăng cường tính độc lập, khách quan trong dịch vụ kiểm toán độc

lập, qua đó nâng cao chất lượng kiểm toán.

Xung quanh vấn đề này đã có rất nhiều cuộc tranh luận đã diễn ra giữa các nhà

lập pháp, các học giả nghiên cứu, nhà quản lý cũng như các kiểm toán viên đang trực

tiếp hành nghề.

Nhóm ủng hộ (thường là các nhà lập pháp) thì cho rằng quy định này sẽ đảm

bảo sự độc lập của kiểm toán viên và mục tiêu kiểm toán. Theo họ, khi mối quan hệ

giữa các kiểm toán viên với khách hàng trở nên gắn bó lâu dài thì sự khách quan trong

các xét đoán của kiểm toán viên sẽ giảm xuống, một phần là do có sự thỏa hiệp với

khách hàng để giữ chân họ trong thời gian lâu dài. Ngoài ra, khi được giao kiểm toán

cho một công ty trong một thời gian dài, kiểm toán viên thường rơi vào tư tưởng “lối

mòn” do làm mãi các thủ tục quen thuộc và dễ mắc sai lầm do sự chủ quan, không duy

5

trì được tính hoài nghi nghề nghiệp. Bằng cách luân chuyển bắt buộc, kiểm toán viên

sẽ có cơ hội đối mặt với những thử thách mới. Qua đó, họ cũng có cái nhìn mới mẻ

hơn về khách hàng và sẽ tìm thấy những gian lận sai sót mà có thể nhóm kiểm toán

trước không phát hiện được. Vì vậy, các nhà lập pháp thường cho rằng việc luân

chuyển kiểm toán viên sẽ làm tăng chất lượng kiểm toán.

Tuy nhiên, các học giả trong ngành lại cho thấy một sự thật trái ngược. Bằng

các nghiên cứu lý thuyết cũng như thực nghiệm, họ cho rằng việc luân chuyển kiểm

toán cả ở cấp độ công ty và cấp độ kiểm toán viên sẽ chỉ gây ra sự tốn kém không cần

thiết khi các công ty kiểm toán phải thực hiện kiểm toán năm đầu tiên cho khách hàng.

Mặt khác, sự phụ thuộc quá nhiều của kiểm toán viên vào báo cáo kỳ trước cũng như

những ước tính chủ quan của ban giám đốc trong những năm đầu sẽ làm gia tăng rủi ro

kiểm toán chứ không làm tăng chất lượng kiểm toán như mong đợi. Bên cạnh đó, việc

thiếu kiến thức chuyên biệt về ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh cũng như tình hình

hoạt động của khách hàng trong năm đầu kiểm toán sẽ gây ra không ít khó khăn cho

kiểm toán viên; và sau khi họ đã nắm bắt rõ tất cả các rủi ro kinh doanh của khách

hàng thì họ lại phải bị luân chuyển; và quy trình trên lại tiếp tục. Vì vậy, khi nhiệm kỳ

kiểm toán viên dài sẽ tạo ra thuận lợi cho kiểm toán viên do họ đã hiểu rõ về khách

hàng của mình qua đó giúp việc kiểm toán dễ dàng hơn chứ không ảnh hưởng gì đến

tính độc lập. Nhóm phản đối còn cho rằng khi nhiệm kỳ kiểm toán bị cố định theo luật,

chất lượng kiểm toán còn có thể bị giảm đi do các công ty kiểm toán muốn giữ chân

khách hàng đủ lâu để họ bù đắp các chi phí đã bỏ ra trong năm đầu tiên vì vậy sẽ xuất

hiện nguy cơ thông đồng với khách hàng. Các nhà quản trị công ty cũng không ủng hộ

quy định này khi cho rằng họ phải mất quá nhiều thời gian và chi phí trong việc lựa

chọn công ty kiểm toán mới và giúp đỡ các kiểm toán viên hiểu rõ về đặc điểm hoạt

động của họ trong khi lợi ích tăng thêm lại không có.

6

Mặc dù các cuộc tranh luận vẫn còn đang tiếp tục diễn ra và chưa có hồi kết,

nhiều nước trên thế giới đã áp dụng quy định luân chuyển kiểm toán viên bắt buộc.

Các quy định nghề nghiệp ở Mỹ khuyến nghị nhóm kiểm toán viên cho một công ty

nên được thay thế sau mỗi 7 năm. Và sau đó đạo luật Saxbanes-Oxley (2002) đã đưa ra

quy định bắt buộc luân chuyển sau mỗi 5 năm. Còn tại Anh, kể từ tháng 11 năm 2003

nhiệm kỳ tối đa của các kiểm toán viên đã bị rút ngắn từ 7 năm xuống còn 5 năm. Các

quy định tương tự cũng được áp dụng tại Hà Lan và Đức. Ở Nhật, các kiểm toán viên

bị pháp luật nghiêm cấm thực hiện kiểm toán cho cùng một công ty niêm yết 7 năm

liên tiếp.

Còn về vấn đề luân chuyển ở cấp độ công ty, một số nước cũng đã có những

quy định bắt buộc. Có thể kể đến đó là Italia và Brazil, những nước đã ban hành luật

về luân chuyển công ty kiểm toán đối với các công ty niêm yết. Một số nước châu Á

cũng có những điều luật tương tự như: Hàn Quốc đối với các công ty trên sàn chứng

khoán (nhiệm kỳ tối đa là 6 năm); Singapore đối với các nhân hàng thương mại (tối đa

5 năm); và Ấn Độ đối với ngân hàng, công ty bảo hiểm và tất cả các tập đoàn nhà

nước (tối đa 4 năm). Bảng (1.1) trình bày tóm tắt quy định về luân chuyển kiểm toán

tại một số quốc gia châu Á.

7

Tên quốc gia Bangladesh Luân chuyển công ty kiểm toán bắt buộc Sau mỗi 3 năm đối với các công ty niêm yết Luân chuyển kiểm toán viên bắt buộc Sau mỗi 3 năm đối với các công ty niêm yết

Sau mỗi 5 năm đối với các công ty niêm yết

Trung Quốc Sau mỗi 5 năm đối với các

công ty nhà nước Hồng Kông Không quy định

Sau mỗi 5 năm đối với các công ty niêm yết Sau mỗi 4 năm đối với các ngân hàng, công ty bảo hiểm và công ty nhà nước Sau mỗi 3 năm đối với tất cả công ty

Ấn Độ

Sau mỗi 4 năm đối với ngân hàng,công ty bảo hiểm và công ty nhà nước Sau mỗi 5 năm đối với tất cả công ty Không quy định

Indonesia

Không quy định

Nhật

Malaysia

Sau mỗi 5 năm đối với các công ty niêm yết Không quy định

Pakistan

Phillipines

Sau mỗi 5 năm đối với các ngân hàng

Sau mỗi 7 năm đối với các công ty niêm yết Sau mỗi 5 năm đối với các công ty niêm yết Sau mỗi 5 năm đối với các công ty niêm yết Sau mỗi 5 năm đối với các công ty niêm yết và ngân hàng Sau mỗi 5 năm đối với các công ty niêm yết

Không quy định

Singapore

Srilanka

Sau mỗi 5 năm đối với các công ty niêm yết Sau mỗi 6 năm đối với các công ty niêm yết KSE hoặc KOSDAQ ngoại trừ các công ty nước ngoài và các công ty niêm yết trên thị trường quốc tế

Sau mỗi 6 năm đối với các công ty niêm yết KSE hoặc KOSDAQ ngoại trừ các công ty nước ngoài và các công ty niêm yết trên thị trường quốc tế Không quy định

Hàn Quốc

Sau mỗi 5 năm đối với các công ty niêm yết

Đài Loan

Sau mỗi 5 năm đối với các công ty niêm yết

Sau mỗi 5 năm đối với các công ty niêm yết

Thái Lan

số quốc gia châu Á. (Nguồn: Siregar S. V. và cộng sự (2012). Audit tenure,audit rotation and

audit quality:The case of Indonesia, Asia Journal of Business and Accounting,5(1),2012.)[38]

Bảng 1.1: Quy định về luân chuyển kiểm toán viên và luân chuyển công ty kiểm toán tại một

8

1.2. Giới thiệu đề tài nghiên cứu

1.2.1. Tổng quan thị trường kiểm toán Việt Nam

Lịch sử hình thành và phát triển của nghề nghiệp kiểm toán Việt Nam trải qua

nhiều giai đoạn khác nhau. Mãi cho đến trước thập niên 90 của thế kỷ 20, hoạt động

kiểm toán chủ yếu do nhà nước tiến hành thông qua công tác kiểm tra kế toán. Tuy

nhiên với nhu cầu phát triển của xã hội và quá trình hội nhập với kinh tế thế giới, hoạt

động kiểm toán độc lập tại Việt Nam được tái lập với sự ra đời của công ty Kiểm Toán

Việt Nam (VACO) vào tháng 5/1991. Sau hơn 20 năm hình thành và phát triển, ngành

kiểm toán Việt Nam đã từng bước được thể chế hóa bằng các văn bản pháp luật và có

những bước tiến nhất định cả về lượng lẫn về chất. Số lượng công ty kiểm toán và số

người được cấp chứng chỉ hành nghề liên tục tăng qua các năm. Theo báo cáo tổng

hợp của VACPA, tính đến ngày 20/3/2012, Việt Nam đã có 152 công ty kiểm toán

đăng ký hành nghề với hơn 2400 người đã được cấp chứng chỉ kiểm toán viên. Về

công tác kiểm soát chất lượng hoạt động, bộ tài chính cũng đã ban hành hệ thống

chuẩn mực kiểm toán mới cập nhật theo chuẩn mực quốc tế, qua đó tạo ra cơ sở để

đánh giá và nâng cao chất lượng dịch vụ kiểm toán nói chung và hoạt động kiểm toán

độc lập báo cáo tài chính nói riêng. Luật Kiểm toán độc lập (2011) được quốc hội

thông qua và có hiệu lực từ ngày 1/1/2012 cũng tạo ra một nền tảng pháp lý vững chắc

giúp cho nghề nghiệp kiểm toán phát triển.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, ngành kiểm toán nước ta vẫn tồn

tại nhiều vấn đề có nguy cơ đe dọa chất lượng kiểm toán. Về số lượng kiểm toán viên

dù có xu hướng tăng qua các năm nhưng chỉ có hơn 50% trong số này hiện đang đăng

ký hành nghề kiểm toán (theo báo cáo tổng hợp của VACPA năm 2011). Điều này dẫn

đến sự thiếu hụt kiểm toán viên tại các công ty kiểm toán quy mô trung bình và nhỏ, tỉ

lệ kiểm toán viên trên nhân viên chuyên nghiệp thấp và có tình trạng kiêm nhiệm của

9

kiểm toán viên tại nhiều công ty kiểm toán khác nhau. Số lượng công ty kiểm toán

thành lập tuy nhiều nhưng phần lớn trong số đó là các công ty có quy mô trung bình và

nhỏ. Với nguồn lực về tài chính cũng như nhân sự hạn hẹp, việc kiểm soát chất lượng

kiểm toán tại các công ty này vẫn còn nhiều hạn chế từ việc thiếu hụt nhân sự có trình

độ cao cho đến vấn đề đào tạo nhân viên cũng như xây dựng và thực hiện các thủ tục

kiểm soát chất lượng. Bên cạnh đó, một thực tế hiện nay là có sự cạnh tranh về giá phí

kiểm toán giữa các công ty, có thể dẫn đến việc cạnh tranh không lành mạnh. Do phải

giảm mức phí kiểm toán, các công ty này có thể bỏ bớt các thủ tục kiểm toán quan

trọng nhằm đạt mục tiêu lợi nhuận và phát hành các báo cáo kiểm toán khi chưa thu

thập đủ bằng chứng. Các công ty càng nhỏ thì càng có xu hướng hạ thấp mức phí kiểm

toán. Trong một thị trường cạnh tranh như vậy, bản thân các công ty kiểm toán luôn có

động cơ giữ chân khách hàng cũ thông qua việc trở nên quá “thân thiết” với doanh

nghiệp và những yêu cầu về tính độc lập, khách quan có thể bị vi phạm. Và điều này

lại càng đáng lo ngại hơn khi theo thống kê của VACPA, các công ty có quy mô nhỏ

này chiếm tỉ trọng lớn (2/3 tổng số công ty kiểm toán) và cung cấp dịch vụ cho gần

70% số lượng khách hàng. Với tất cả các vấn đề nêu trên cho thấy rằng chất lượng

kiểm toán hiện nay đang là một vấn đề thời sự. Chất lượng kiểm toán không cao sẽ gây

ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế, đặc biệt là sự ổn định của thị trường chứng khoán Việt

Nam.

1.2.2. Quy định về việc luân chuyển kiểm toán viên tại Việt Nam

Cũng như tại nhiều quốc gia trên thế giới, bên cạnh các giải pháp nâng cao chất

lượng kiểm toán thông qua việc ban hành các cơ chế kiểm soát chất lượng, các nhà lập

pháp nước ta cũng ban hành các quy định nhằm tăng cường tính độc lập của kiểm toán

viên, trong số đó có quy định về việc luân chuyển kiểm toán viên bắt buộc. Văn bản

10

quy phạm pháp luật đầu tiên có thể kể đến là nghị định 105/2004/NĐ-CP của chính

phủ. Tại chương 1, điều 6 quy định về trách nhiệm của đơn vị được kiểm toán có ghi:

“Trường hợp ký hợp đồng kiểm toán với một doanh nghiệp kiểm toán từ 3 năm liên tục

trở lên thì phải yêu cầu doanh nghiệp kiểm toán thay đổi kiểm toán viên hành nghề và

người chịu trách nhiệm ký tên trên báo cáo kiểm toán”. Kế đến trong thông tư

64/2004/TT-BTC do bộ tài chính ban hành nhằm hướng dẫn thực hiện một số điều

trong nghị định 105/2004/NĐ-CP trong phần quy định chung có nêu yêu cầu thay đổi

kiểm toán viên hành nghề và người chịu trách nhiệm ký báo cáo kiểm toán. Cụ thể

chương 1 mục 2 của thông tư này có quy định như sau:

“ 2.1.Trường hợp đơn vị được kiểm toán ký hợp đồng kiểm toán với một doanh

nghiệp kiểm toán từ 3 năm liên tục trở lên, tính từ ngày Nghị định số 105/2004/NĐ-CP

có hiệu lực thì cứ sau 3 năm phải yêu cầu doanh nghiệp kiểm toán thay đổi:

a) Kiểm toán viên hành nghề chịu trách nhiệm kiểm toán và ký tên trên báo cáo

kiểm toán;

b) Người chịu trách nhiệm ký báo cáo kiểm toán là Giám đốc (hoặc người được

uỷ quyền) của doanh nghiệp (hoặc chi nhánh doanh nghiệp) kiểm toán.

2.2. Trường hợp Ban Giám đốc doanh nghiệp kiểm toán hoặc lãnh đạo chi

nhánh doanh nghiệp kiểm toán chỉ có một người là kiểm toán viên hành nghề thì đơn

vị được kiểm toán chỉ được ký hợp đồng kiểm toán với doanh nghiệp kiểm toán hoặc

chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán đó nhiều nhất là 3 năm liên tục tính từ ngày Nghị

định số 105/2004/NĐ-CP có hiệu lực và từ năm thứ 4 trở đi phải chuyển sang ký hợp

đồng kiểm toán với doanh nghiệp kiểm toán khác.

Yêu cầu doanh nghiệp kiểm toán thay đổi kiểm toán viên hành nghề và người

chịu trách nhiệm ký báo cáo kiểm toán phải được ghi rõ trong hợp đồng kiểm toán.”

11

Ngoài ra nhằm tăng cường tính độc lập khách quan của kiểm toán viên mà đặc

biệt là các kiểm toán viên cho các công ty niêm yết, luật kiểm toán độc lập (2011)

cũng có quy định tại điều 58 như sau : “Doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh

nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam không được bố trí kiểm toán viên hành

nghề thực hiện kiểm toán cho một đơn vị có lợi ích công chúng trong năm (05) năm tài

chính liên tục.”

Và gần đây nhất trong nghị định 17/2012/NĐ-CP do chính phủ ban hành ngày

13/3/2012 hướng dẫn việc thi hành luật kiểm toán độc lập cũng có quy định tại mục 5

điều 16 về báo cáo kiểm toán: “Kiểm toán viên hành nghề không được ký báo cáo kiểm

toán cho một đơn vị kiểm toán quá ba (03) năm liên tục.”

Qua các văn bản quy phạm pháp luật trên có thể thấy rằng tuy chưa có quy định

về luân chuyển kiểm toán ở cấp độ công ty nhưng vấn đề luân chuyển kiểm toán viên

bắt buộc ở Việt Nam đã được quy định. Tuy nhiên trên thực tế, do những nguyên nhân

khách quan cũng như chủ quan từ phía doanh nghiệp kiểm toán nên việc thực hiện

luân chuyển này được thực hiện chưa đầy đủ. Trong nghiên cứu của tác giả Trần

Khánh Lâm (2011) dựa trên các biên bản về kết quả kiểm tra hoạt động kiểm soát chất

lượng năm 2009 của các công ty kiểm toán được thực hiện bởi Bộ Tài Chính và

VACPA cho thấy các công ty kiểm toán quy mô lớn thực hiện việc luân chuyển kiểm

toán viên khá chặt chẽ. Trong khi đó, công ty có quy mô nhỏ và trung bình chiếm phần

lớn trong mẫu nghiên cứu thực hiện việc luân chuyển kiểm toán viên không đầy đủ và

có sự chênh lệch lớn giữa các công ty. Nguyên nhân là do nguồn nhân lực của họ yếu

kém hơn so với các công ty quy mô lớn. Tóm lại, kết quả cho thấy trên thực tế các

công ty kiểm toán quy mô vừa và nhỏ thường không có sự luân chuyển kiểm toán viên

phụ trách thực hiện kiểm toán. Theo tác giả, nguyên nhân chủ quan là do các công ty

này muốn cắt giảm chi phí kiểm toán và đồng thời cũng tạo sự “thân quen” với khách

hàng nhằm duy trì hợp đồng kiểm toán cho các năm tiếp theo. Nguyên nhân khách

12

quan thường là do các công ty này không đủ số lượng kiểm toán viên để luân phiên

thực hiện kiểm toán. Đó cũng chính là một trong những lý do khiến chất lượng kiểm

toán trong nhóm công ty này không cao. Ngoài ra có thể thấy rằng một nguyên nhân

quan trọng nữa khiến việc luân chuyển này không được thực hiện đầy đủ là do chưa có

chế tài xử phạt các công ty kiểm toán vi phạm dù luật kiểm toán độc lập đã ra đời

nhưng việc đưa luật vào thực tế còn phải chờ các thông tư hướng dẫn việc thực hiện và

chế tài phù hợp. Mặt khác, với vai trò kiểm soát chất lượng, Bộ Tài Chính và VACPA

trong công tác kiểm tra của mình về vấn đề luân chuyển này cũng chỉ dừng lại ở việc

nhắc nhở và khuyến nghị các doanh nghiệp kiểm toán mở sổ theo dõi hợp đồng và sổ

theo dõi báo cáo kiểm toán đã phát hành để làm cơ sở luân chuyển kiểm toán viên

chính theo quy định.

Tóm lại, tại Việt Nam, một nước có nền tài chính khá non trẻ so với các nước

trong khu vực, việc luân chuyển kiểm toán viên chịu trách nhiệm ký báo cáo kiểm toán

đã được quy định trong các văn bản luật. Tuy nhiên trên thực tế, do chưa có chế tài xử

phạt nên việc luân chuyển này chỉ mang tính tự giác từ phía các công ty kiểm toán và

đơn vị được kiểm toán. Từ đó nảy sinh nguy cơ đe dọa đến tính độc lập của kiểm toán

viên cũng như chất lượng kiểm toán.

Từ những vấn đề trên, đề tài này được thực hiện nhằm nghiên cứu mối quan hệ

giữa việc luân chuyển kiểm toán viên với chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính tại

Việt Nam nhằm xem xét tính hợp lý của các quy định về luân chuyển kiểm toán viên

hiện nay, đồng thời giải thích cơ sở khoa học của những quy định này. Qua đó, đề tài

góp phần hoàn thiện khung pháp lý về luân chuyển kiểm toán viên tại Việt Nam và là

một tài liệu tham khảo hữu ích cho các công ty kiểm toán, sinh viên chuyên ngành kế

toán kiểm toán cũng như các nhà lập pháp về vấn đề này.

13

CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ THUYẾT

2.1.Tổng quan về Chất lượng kiểm toán và các yếu tố ảnh hưởng

2.1.1. Một số định nghĩa về chất lượng kiểm toán

Chất lượng kiểm toán được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Theo đoạn

09 chuẩn mực kiểm toán Việt Nam VSA 220 trước đây ban hành kèm theo Quyết định

số 28/2003/QĐ-BTC ngày 14/3/2003 thì “chất lượng kiểm toán là mức độ thỏa mãn

của các đối tượng sử dụng kết quả kiểm toán về tính khách quan và độ tin cậy vào ý

kiến của kiểm toán viên, đồng thời thỏa mãn mong muốn của các đối tượng được kiểm

toán về những ý kiến đóng góp của kiểm toán viên nhằm nâng cao hiệu quả kinh

doanh trong một khoảng thời gian định trước với giá phí hợp lý.”

Trong khi đó, hệ thống chuẩn mực kiểm toán mới ban hành kèm theo thông tư

số 214/2012/TT-BTC ngày 6/12/2012 thì không đưa ra định nghĩa cụ thể về chất lượng

kiểm toán nhưng theo đoạn 06 Chuẩn mực kiểm soát chất lượng số 220 về kiểm soát

chất lượng hoạt động kiểm toán có xác định “mục tiêu của kiểm toán viên và doanh

nghiệp kiểm toán là thực hiện các thủ tục kiểm soát chất lượng ở cấp độ từng cuộc

kiểm toán nhằm cung cấp cho kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán sự đảm bảo

hợp lý rằng: (a ) Cuộc kiểm toán đã tuân thủ các chuẩn mực nghề nghiệp, pháp luật

và các quy định có liên quan; (b) Báo cáo được doanh nghiệp kiểm toán phát hành là

phù hợp với hoàn cảnh cụ thể”.[7]

Khác với các sản phẩm của nghề nghiệp khác, chất lượng sản phẩm kiểm toán

không dễ dàng quan sát hay kiểm tra nhưng người sử dụng dịch vụ lại cần biết các yếu

tố tạo nên chất lượng kiểm toán để họ có thể lựa chọn và tin tưởng vào sản phẩm dịch

vụ mà họ đang sử dụng. Ngược lại, đối với người cung cấp dịch vụ kiểm toán (bao

gồm các công ty kiểm toán và các kiểm toán viên) cũng rất cần biết những yêu cầu về

14

chất lượng từ phía xã hội để họ có thể cung cấp dịch vụ phù hợp và dần thu hẹp

khoảng cách giữa sự mong đợi của công chúng với khả năng thực hiện của kiểm toán

viên. Do đó, nhu cầu về đo lường chất lượng kiểm toán cũng như đo lường sự thỏa

mãn của người sử dụng báo cáo kiểm toán trở nên vô cùng cấp thiết để qua đó đánh

giá chất lượng báo cáo tài chính.

Xuất phát từ thực tế trên, những công trình nghiên cứu trên thế giới cũng đã đưa

ra nhiều cách tiếp cận về chất lượng kiểm toán cả định tính lẫn định lượng. Theo

Krishman và Schauer (2001) chất lượng kiểm toán được hiểu là mức độ công ty kiểm

toán tuân thủ các chuẩn mực nghề nghiệp trong suốt quá trình thực hiện kiểm toán

[35]. Quan điểm này cho rằng các chuẩn mực kiểm toán hiện hành là một thước đo

hoàn hảo cho chất lượng kiểm toán. Khi các kiểm toán viên càng tuân thủ các chuẩn

mực thì chất lượng kiểm toán càng cao. Tuy nhiên, các quan điểm phản đối cho rằng

định nghĩa này quá thiên về mặt định tính. Mặt khác, người sử dụng lẫn đơn vị được

kiểm toán khó có thể giám sát việc tuân thủ mực của các kiểm toán viên và nếu như

các kiểm toán viên thực sự đã tuân thủ chuẩn mực thì bản thân chuẩn mực cũng chưa

thực sự hoàn hảo khi đuợc áp dụng trong nhiều tình huống thực tế.

Một số nhà nghiên cứu khác như DeAngelo (1981) cho rằng chất lượng kiểm

toán được xem xét dựa trên hai khía cạnh đó là : (a) khả năng kiểm toán viên phát hiện

ra các khiếm khuyết trong hệ thống kế toán của khách hàng và (b) báo cáo các khiếm

khuyết này [17]. Định nghĩa này tuy khá rõ ràng về mặt lý thuyết nhưng quá nhấn

mạnh đến tính kiểm tra trong công việc kiểm toán mà quên rằng mục tiêu của kiểm

toán không chỉ dừng lại ở việc kiểm tra và phát hiện các sai sót mà còn phải trợ giúp

doanh nghiệp cải thiện hệ thống kiểm soát nội bộ (thông qua thư quản lý) và sửa chữa

những sai sót trên báo cáo tài chính của khách hàng. Và khi các gian lận sai sót này

không được sửa chữa thì các kiểm toán viên mới có trách nhiệm trình bày trên báo cáo

kiểm toán.

15

Còn Theo Jackson, Moldrich, & Roebuck (2008), chất lượng kiểm toán được

thể hiện ở hai hình thức là “chất lượng thực” (actual quality) và “chất lượng về mặt

cảm nhận” (perceived quality) [27]. Theo đó, chất lượng thực thể hiện mức độ tin cậy

của báo cáo tài chính khi kiểm toán viên phát hiện được các sai sót trọng yếu trên báo

cáo tài chính và rủi ro kiểm toán được giảm thiểu tối đa (chất lượng kiểm toán được

đảm bảo khi kiểm toán viên có đầy đủ trình độ nghiệp vụ). Còn “chất lượng về mặt

cảm nhận” thể hiện mức độ tin tưởng của các người sử dụng báo cáo tài chính đối với

chất lượng của các báo cáo và hiệu quả của cuộc kiểm toán (chủ yếu vấn đề chất lượng

ở đây liên quan đến uy tín nghề nghiệp của các công ty kiểm toán trên thị trường cũng

như sự độc lập của kiểm toán viên đối với khách hàng).

Và khi đứng dưới góc nhìn của nhà đầu tư, người ta đã đưa ra một số quan điểm

khác về chất lượng kiểm toán, theo đó chất lượng kiểm toán được thể hiện qua sự

trung thực của thông tin tài chính được trình bày trên báo cáo tài chính sau khi kiểm

toán. Trách nhiệm của kiểm toán viên là phải làm giảm các sai sót và nâng cao độ

trung thực của dữ liệu kế toán (Beatty, 1989)[10]. Định nghĩa này quan tâm đến kết

quả của dịch vụ kiểm toán đó là sự trung thực của báo cáo tài chính. Theo đó, tác giả

cho rằng báo cáo tài chính là một kết quả tổng hợp của doanh nghiệp báo cáo lẫn các

kiểm toán viên. Khi thông tin trên báo cáo tài chính không trung thực hợp lý thì chất

lượng kiểm toán đã không được đảm bảo cho dù kiểm toán viên đã hoàn toàn tuân thủ

chuẩn mực.

Trong nghiên cứu này, tác giả chủ yếu dựa trên quan điểm của De Angelo

(1981) và Beatty (1989) về chất lượng kiểm toán do định nghĩa này hướng đến kết quả

cuối cùng của công việc kiểm toán mang đến cho người sử dụng đó chính là các thông

tin trên báo cáo tài chính. Qua đó, người đọc cũng như các nhà nghiên cứu có thể đánh

giá chất lượng kiểm toán dựa trên chất lượng của thông tin trên báo cáo tài chính và

xây dựng các mô hình định lượng chất lượng kiểm toán một cách gián tiếp dựa trên độ

16

tin cậy của thông tin tài chính. Ngoài ra, chất lượng kiểm toán có thể xem xét dựa trên

hai khía cạnh là khả năng phát hiện ra gian lận, sai sót của kiểm toán viên (thể hiện

trình độ nghiệp vụ của kiểm toán viên) và khả năng họ trình bày các gian lận sai sót

này (thể hiện tính độc lập khách quan của kiểm toán viên). Do đó, đối với những quy

định chỉ nhằm tăng cường tính độc lập của kiểm toán viên (như quy định luân chuyển

kiểm toán viên chẳng hạn) thì ta cần phải xem xét liệu chúng có làm ảnh hưởng đến

khả năng phát hiện ra các gian lận sai sót hay không. Nếu các quy định này khiến kiểm

toán viên gặp khó khăn trong công việc kiểm toán của mình, làm gia tăng rủi ro kiểm

toán thì chúng cần được điều chỉnh sao cho vừa tăng cường tính độc lập nhưng cũng

không gây khó khăn cho kiểm toán viên, qua đó vừa đảm bảo tính độc lập nhưng

không làm giảm chất lượng kiểm toán.

2.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán

Cũng như bao ngành nghề dịch vụ khác, trong lĩnh vực kiểm toán, để đạt được

chất lượng sản phẩm của kiểm toán phải thỏa mãn các đối tượng sử dụng. Tuy nhiên,

đối tượng sử dụng báo cáo kiểm toán khá rộng. Khởi nguồn cơ bản và sâu xa của nghề

nghiệp kiểm toán là sự xung đột lợi ích giữa người cung cấp và người sử dụng thông

tin tài chính. Trong những thời kỳ đầu, kiểm toán ra đời nhằm thẩm tra về tính chính

xác của các thông tin tài chính, chủ yếu phát triển kiểm toán tuân thủ giúp bảo vệ

quyền lợi của chủ sở hữu và nhà nước. Nhiệm vụ hàng đầu của kiểm toán viên là phát

hiện những gian lận sai sót của nhà quản lý, đối tượng sử dụng kết quả kiểm toán lúc

này là chủ sở hữu và các cơ quan nhà nước.

Đến đầu thế kỷ 20, nền kinh tế thế giới phát triển mạnh mẽ với sự xuất hiện của

hàng triệu nhà đầu tư chứng khoán. Vì thế trong khi mục đích kiểm toán nhà nước và

kiểm toán nội bộ không có sự thay đổi đáng kể, kiểm toán độc lập báo cáo tài chính từ

17

mục đích phát hiện sai phạm đã chuyển sang mục đích mới là nhận xét về mức độ

trung thực và hợp lý của báo cáo tài chính. Lúc này, kết quả kiểm toán chủ yếu phục

vụ cho các bên thứ ba để giúp họ đánh giá về độ tin cậy của báo cáo tài chính.

Do đó dù đối tượng sử dụng kết quả kiểm toán khá rộng nhưng ta có thể chia ra

làm 2 nhóm chính là: (1) người quản lý và (2) cổ đông và các bên liên quan. Đối với

các công ty không phải là công ty đại chúng, người sử dụng chủ yếu là nhà quản lý và

các cổ đông. Tuy nhiên, đối với các công ty đại chúng được niêm yết trên thị trường,

nhóm nguời sử dụng còn bao gồm cả các bên thứ ba (nhà đầu tư, các định chế tài chính

trung gian…). Do thông tin trên báo cáo tài chính của các công ty này có ảnh hưởng

lớn đến nhóm người rộng rãi trong xã hội như vậy nên hầu hết các quốc gia trên thế

giới đều yêu cầu các công ty này phải được kiểm toán hàng năm. Do đó, khi nghiên

cứu về chất lượng kiểm toán, các nhà nghiên cứu phân tích và xem xét chủ yếu dưới

góc nhìn của công chúng và xã hội.

Do việc đánh giá chất lượng kiểm toán đối với công chúng là rất khó khăn nên

người ta thường đánh giá chất lượng kiểm toán thông qua các yếu tố có liên quan đến

chất lượng kiểm toán. Theo luận án tiến sĩ của Trần Khánh Lâm (2011) về “Xây dựng

cơ chế kiểm soát chất lượng cho hoạt động kiểm toán ở Việt Nam”[4], tác giả đã thu

thập và tổng hợp kết quả từ rất nhiều nghiên cứu khác nhau trên thế giới qua đó đưa ra

7 yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán bao gồm:

1) Quy mô công ty kiểm toán

2) Mức độ chuyên sâu trong từng lĩnh vực của kiểm toán viên

3) Nhiệm kỳ kiểm toán viên

4) Giá phí kiểm toán

5) Phạm vi dịch vụ phi kiểm toán cung cấp

18

6) Phương pháp luận kiểm toán và tính cách của kiểm toán viên

7) Kiểm soát chất lượng dịch cụ cung cấp

Trong nghiên cứu này của mình, tôi tiếp tục kế thừa và nghiên cứu sâu hơn về

mặt định lượng ảnh hưởng của nhiệm kỳ kiểm toán viên đến chất lượng kiểm toán.

Qua đó cung cấp bằng chứng cho thấy yếu tố nhiệm kỳ kiểm toán viên có ảnh hưởng

đến chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập báo cáo tài chính tại Việt Nam.

2.2. Phương pháp định lượng chất lượng kiểm toán

2.2.1.Các khoản dồn tích trong lợi nhuận và thước đo chất lượng kiểm toán

Trong các nghiên cứu trước đây về chất lượng kiểm toán, các học giả thế giới

đã đưa ra nhiều mô hình định lượng khác nhau, có thể kể đến như: hệ số tương quan

đối với lợi nhuận (ERC_earnings response coefficients) (Ghost & Moon, 2005)[22]

hay sự vi phạm giả định hoạt động liên tục (Knechel và Anne Vansraalen, 2007)[33]

và các khoản dồn tích (Chen, 2004)[12]. Trong nghiên cứu này tôi sử dụng các khoản

dồn tích (accruals) để đánh giá về mặt định lượng chất lượng kiểm toán báo cáo tài

chính vì những lý do sau đây:

Trước hết, mô hình nghiên cứu này đã được nhiều học giả gần đây sử dụng khi

nghiên cứu chất lượng kiểm toán. Theo đó, các khoản dồn tích ở đây muốn đề cập tới

các khoản dồn tích trong lợi nhuận trên báo cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.

Với giả định là vấn đề mà nhà đầu tư cũng như các cổ đông khi sử dụng báo cáo tài

chính quan tâm nhất đó là lợi nhuận trong kỳ của doang nghiệp. Các cổ đông và hội

đồng quản trị trong bất kỳ công ty nào cũng có kế hoạch dự toán về lợi nhuận kỳ vọng

mà nhà quản trị phải đạt được vào cuối kỳ kế toán, vì vậy thông tin lợi nhuận là một

trong những thước đo trách nhiệm quản lý quan trọng. Còn đối với các nhà đầu tư cổ

phiếu thì xem lợi nhuận là một thông tin tín hiệu quan trọng về tình hình kinh doanh

19

của doanh nghiệp hiện tại và là thông số quan trọng trong việc đánh giá khả năng tạo

ra lợi nhuận trong tương lai, họ dựa vào đó đưa ra quyết định có đầu tư vào cổ phiếu

của một công ty hay không. Với tất cả những nguyên nhân trên đã tạo ra động cơ để

nhà quản trị công ty có những khoản điều chỉnh mang tính chủ quan đến lợi nhuận

nhằm thỏa mãn những yêu cầu từ phía cổ đông và nâng cao vị thế trên thị trường

chứng khoán. Các nghiên cứu trước đây trên thế giới như: Krishman (2002)[34], Lobo

& Zhou (2001)[36], Kashnik (1996)[30] cũng cho thấy luôn luôn tồn tại nguy cơ các

nhà quản trị công ty “điều chỉnh lợi nhuận” (Earnings management) trong quá trình

điều hành của mình. Khi công ty làm ăn phát đạt các nhà quản trị có xu hướng giấu bớt

lợi nhuận khi tiến hành lập dự phòng cho các loại tài sản hay các khoản đầu tư không

phù hợp với chuẩn mực cũng như nhu cầu khách quan từ thị trường (đặc biệt trong lĩnh

vực ngân hàng và tài chính). Và sau đó khi công ty làm ăn thua lỗ, các khoản dự phòng

này được hoàn nhập và do đó tạo ra một khoản lãi giả thể hiện trên báo cáo tài chính

dẫn đến chất lượng thông tin về lợi nhuận bị bóp méo không còn hữu ích trong việc ra

quyết định. Các nhà đầu tư cũng như cổ đông chắc chắn không thể biết được các

nghiệp vụ này vì nó thuộc nội bộ doanh nghiệp và thông tin trình bày trên báo cáo tài

chính cũng không được đề cập đến.

2.2.2. Sự điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản trị và trách nhiệm của kiểm

toán viên

Theo tiến sĩ Đường Nguyễn Hưng (2012), “hành vi điều chỉnh lợi nhuận là việc

nhà quản lý sử dụng các đánh giá chủ quan của mình trong quá trình lập và công bố

báo cáo tài chính và quá trình thực hiện các nghiệp vụ kinh tế để thay đổi báo cáo tài

chính nhằm đánh lừa các bên có liên quan nhất định, hoặc nhằm thay đổi các kết quả

của các hợp đồng mà có điều khoản ràng buộc dựa trên số liệu kế toán.”[3]

20

Các đánh giá của nhà quản lý được thể hiện cụ thể trong việc lựa chọn các

chính sách kế toán và thực hiện các ước tính kế toán trong quá trình thực hiện công tác

kế toán, lập và công bố báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Họ thường sử dụng các

đánh giá chủ quan của mình trong việc thực hiện các ước tính về các sự kiện kinh tế

tương lai được phản ánh trong báo cáo tài chính của doanh nghiệp, chẳng hạn ước tính

về thời gian sử dụng kinh tế của tài sản cố định, tổn thất có thể của các khoản phải thu

không thu hồi được, hoặc tổn thất từ việc giảm giá của hàng tồn kho. Cùng với việc

thực hiện nhiều ước tính, nhà quản lý cũng phải sử dụng đánh giá chủ quan của mình

để quyết định việc lựa chọn các chính sách kế toán. Cùng xử lý một vấn đề của một

đối tượng kế toán, họ có thể nhiều lựa chọn khác nhau, chẳng hạn, việc lựa chọn giữa

phương pháp khấu hao bình quân hay khấu hao nhanh, giữa phương pháp nhập trước -

xuất trước hay phương pháp nhập sau - xuất trước hay phương pháp bình quân gia

quyền trong tính giá xuất kho hàng tồn kho.

Một trong những phương pháp mà nhà quản trị thường sử dụng đó là lợi dụng

nguyên tắc cơ sở kế toán dồn tích. Cơ sở kế toán dồn tích là một trong các nguyên tắc

kế toán cơ bản nhất chi phối các phương pháp kế toán cụ thể trong kế toán doanh

nghiệp. Theo đó, mọi giao dịch kinh tế liên quan đến tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn

chủ sở hữu, doanh thu và chi phí được ghi nhận tại thời điểm phát sinh giao dịch,

không quan tâm đến thời điểm thực tế thu hoặc chi tiền (Chuẩn mực kế toán số 01,

2002). Vì việc ghi nhận doanh thu và chi phí có ảnh hưởng quyết định đến báo cáo lợi

nhuận của doanh nghiệp trong một kỳ, cơ sở kế toán dồn tích được xem là một nguyên

tắc chính yếu đối với việc xác định lợi nhuận của doanh nghiệp. Từ đó, báo cáo tài

chính nói chung và báo cáo kết quả kinh doanh nói riêng được lập trên cơ sở dồn tích

phản ánh đầy đủ các giao dịch kinh tế trong kỳ và từ đó, tình trạng tài sản, nguồn vốn

của doanh nghiệp được phản ánh một cách đầy đủ, hợp lý. Hơn nữa, do không có sự

trùng hợp giữa lượng tiền thu vào và doanh thu trong kỳ và tồn tại chênh lệch giữa chi

21

phí ghi nhận và lượng tiền chi ra trong một kỳ, kế toán theo cơ sở dồn tích cho phép

theo dõi các giao dịch kéo dài qua các kỳ khác nhau như: nợ phải thu, nợ phải trả,

khấu hao, dự phòng…

Và tiến sĩ Nguyễn Công Phương (2010)[5] trên một bài viết đăng trên tạp chí

kế toán đã tổng hợp một số phương án có thể được nhà quản trị vận dụng để điều

chỉnh thông tin lợi nhuận như sau:

(1) Lựa chọn phương pháp kế toán:

Lựa chọn phương pháp kế toán có ảnh hưởng đến thời điểm ghi nhận doanh thu

và chi phí (và kết quả là ảnh hưởng đến thời điểm ghi nhận lợi nhuận). Lựa chọn một

(hoặc một số) phương pháp kế toán cho phép ghi nhận doanh thu sớm hơn và chuyển

dịch ghi nhận chi phí về sau sẽ làm tăng lợi nhuận báo cáo trong kỳ và ngược lại.

Trong chế độ kế toán doanh nghiệp, tồn tại một số phương pháp có thể được vận dụng

để ghi nhận doanh thu, chi phí. Chẳng hạn, doanh nghiệp có thể vận dụng phương

pháp phần trăm hoàn thành để ghi nhận doanh thu và chi phí trong hoạt động cung cấp

dịch vụ và hợp đồng xây dựng. Phương pháp này cho phép doanh nghiệp ghi nhận

mức doanh thu lớn hơn hoặc nhỏ hơn thực tế theo tỷ lệ ước tính tiến độ thực hiện hợp

đồng; Phương pháp xác định giá trị hàng tồn kho (bình quân, nhập trước - xuất trước,

nhập sau - xuất trước, đích danh) ảnh hưởng đến ghi nhận giá vốn hàng bán trong kỳ,

và từ đó, ảnh hưởng đến lợi nhuận báo cáo trong kỳ; lựa chọn phương pháp khấu hao

tài sản cố định. Mỗi một phương pháp khấu hao (đường thẳng, tỷ lệ sử dụng, số dư

giảm dần có điều chỉnh) cho chi phí khấu hao khác nhau. Cần lưu ý rằng, phạm vi của

lựa chọn này khá hạn chế.

22

(2) Vận dụng các phương pháp kế toán:

Chế độ kế toán cũng cho phép doanh nghiệp được phép vận dụng các phương

pháp kế toán thông qua việc lựa chọn thời điểm ghi nhận chi phí. Nhà quản trị quyết

định chuyển dịch về sau (hoặc ghi nhận sớm hơn) một số loại chi phí sẽ làm giảm

(hoặc tăng) chi phí của niên độ hiện hành. Các loại chi phí có thể chuyển dịch thời

điểm ghi nhận bao gồm: Chi phí bảo hiểm hỏa hoạn, giá trị công cụ, dụng cụ phân bổ

nhiều kỳ, chi phí sửa chữa lớn tài sản cố định, chi phí quảng cáo, chi phí bảo hành sản

phẩm. Những loại chi phí này có thể được ghi nhận vào niên độ phát sinh hoặc phân

bổ cho một số kỳ (dựa vào nguyên tắc phù hợp).

(3) Lựa chọn thời điểm vận dụng các phương pháp kế toán và các ước tính các

khoản chi phí, doanh thu:

Nhà quản trị doanh nghiệp có thể lựa chọn thời điểm và cách thức ghi nhận các

sự kiện có liên quan đến chỉ tiêu lợi nhuận trong kỳ. Chẳng hạn, thời điểm và mức dự

phòng cần lập của hàng tồn kho, chứng khoán và phải thu khó đòi; thời điểm các

khoản dự phòng này được hoàn nhập hay xóa sổ và mức hoàn nhập. Doanh nghiệp

cũng có thể ước tính (trích trước) một số chi phí như chi phí bảo hành sản phẩm, chi

phí bảo hành công trình xây lắp, ước tính tỷ lệ hoàn thành hợp đồng xây lắp và cung

cấp dịch vụ để ghi nhận doanh thu và chi phí. Ước tính thời gian sử dụng hữu ích của

tài sản cố định cũng có thể được thực hiện để điều chỉnh chi phí khấu hao (mặc dù

phạm vi không lớn).

(4) Lựa chọn thời điểm đầu tư hay thanh lý tài sản cố định:

Lựa chọn thời điểm mua hay thanh lý, nhượng bán tài sản cố định cũng có ảnh

hưởng đến lợi nhuận kế toán. Nhà quản trị có thể quyết định khi nào và mức độ các

chi phí quảng cáo, chi phí sửa chữa, nâng cấp cải tạo tài sản cố định được chi ra. Nhà

23

quản trị cũng có thể quyết định thời điểm thanh lý, nhượng bán tài sản cố định để đẩy

nhanh hoặc làm chậm lại việc ghi nhận lợi nhuận hay thua lỗ hoạt động khác. Đẩy

nhanh hay làm chậm lại việc gửi hàng cho khách hàng vào thời điểm gần cuối niên độ

cũng có ảnh hưởng đến chỉ tiêu lợi nhuận báo cáo trong kỳ.

(5) Tăng doanh thu thông qua các chính sách giá và tín dụng:

Một biện pháp các doanh nghiệp thường sử dụng để tăng lợi nhuận khi thấy có

nguy cơ không đạt kế hoạch đặt ra là giảm giá bán hoặc nới lỏng các điều kiện tín

dụng nhằm tăng lượng hàng bán ra trong những tháng cuối năm tài chính. Và tăng giá

bán sản phẩm vào đầu năm sau.

(6) Cắt giảm chi phí hữu ích:

Cắt giảm chi phí hữu ích như chi phí nghiên cứu và phát triển (R&D), chi phí

quảng cáo, chi phí duy tu, bảo dưỡng thiết bị cũng là cũng là một cách có thể làm tăng

lợi nhuận. Tuy nhiên, vì các chi phí này có vai trò cực kỳ quan trọng đối với sự phát

triển của công ty về lâu dài, nên sử dụng giải pháp này cũng đồng nghĩa với việc hy

sinh các khoản lợi nhuận tiềm năng trong tương lai.

(7) Bán các khoản đầu tư hiệu quả

Ngoài trì hoãn thanh lý các khoản đầu tư không hiệu quả, công ty có thể bán

các khoản đầu tư sinh lời nhằm tăng thêm lợi nhuận cho năm hiện tại. Việc áp dụng

biện pháp trên có nghĩa là công ty tự nguyện bỏ qua tiềm năng sinh lời lớn từ các

khoản đầu tư này trong những năm tiếp theo để tăng lợi nhuận trong năm hiện tại.

Các phương án trên có thể được phân chia thành hai loại dựa trên thủ thuật mà

nhà quản trị sử dụng . Thứ nhất là việc điều chỉnh dựa trên các khoản dồn tích (accrual

24

earnings management) bao gồm: Ghi nhận doanh thu khi chưa đủ các điều kiện ghi

nhận, ghi khống doanh thu, các biện pháp nhằm điều chỉnh các khoản khấu hao, các

khoản dự phòng giảm giá tài sản, hay vốn hóa các khoản chi phí không đủ điều kiện,

trích trước các khoản chi phí không phù hợp… Thứ hai là quản trị lợi nhuận dựa trên

các giao dịch thực (real earnings management) bao gồm các biện pháp như: Tăng

doanh thu thông qua chính sách giá và tín dụng, cắt giảm các chi phí hữu ích hay lựa

chọn thời điểm đầu tư hoặc thanh lý tài sản cố định…Cả hai phương pháp này thường

được các nhà quản trị vận dụng tổng hợp để điều chỉnh lợi nhuận mục tiêu của một

hoặc một vài kỳ kế toán. Mức biến động lợi nhuận phụ thuộc vào giới hạn cho phép

(hay mức linh hoạt) của các phương pháp kế toán. Mặt khác, hướng điều chỉnh (tăng,

giảm) lợi nhuận không thể không có giới hạn vì việc điều chỉnh tăng doanh thu và

giảm chi phí trong một (hoặc một số kỳ) kỳ này sẽ làm giảm doanh thu và tăng chi phí

trong một vài kỳ kế tiếp sau đó (từ đó, số trung bình của toàn bộ số lợi nhuận điều

chỉnh trong một khoảng thời gian hữu hạn, thường là vài ba năm, phải bằng 0).

Vì vậy nhằm đảm bảo thông tin về lợi nhuận trong kỳ đáng tin cậy và có thể sử

dụng được, vai trò của kiểm toán viên ở đây là phải phát hiện và điều chỉnh tối thiểu

hóa các khoản điều chỉnh này (bao gồm các khoản doanh thu chưa đủ điều kiện ghi

nhận, các khoản dự phòng không hợp lý, các khoản chi phí không đủ điều kiện vốn

hóa….) trong quá trình kiểm toán của mình. Khi các kiểm toán viên để cho các khoản

điều chỉnh mang nặng tính chủ quan của nhà quản trị quá cao thì thông tin lợi nhuận

không còn giá trị sử dụng, do đó chất lượng kiểm toán không được đảm bảo.

25

2.2.3. Mô hình định lượng chất lượng kiểm toán

Dựa trên nguyên tắc cơ sở dồn tích trong kế toán, lợi nhuận trong kỳ của doanh

nghiệp có thể chia ra làm hai loại là “lợi nhuận bằng tiền” (cash earnings) và “lợi

nhuận dồn tích” (accrual earnings). Lợi nhuận bằng tiền hình thành từ các khoản

doanh thu và chi phí bằng tiền mặt mà doanh nghiệp đã thực thu thực chi trong kỳ.

Còn lợi nhuận dồn tích là lợi nhuận hình thành từ các khoản doanh thu chưa thu tiền

và các chi phí không phải chi bằng tiền của doanh nghiệp được tính trong kỳ được ghi

nhận theo nguyên tắc cơ sở dồn tích, cụ thể đó bằng các khoản doanh thu bán chịu cho

khách hàng trong kỳ trừ các khoản chi phí không phải chi trả bằng tiền như chi phí

phải trả, chi phí trích trước, các khoản dự phòng giảm giá tài sản cũng như các khoản

khấu hao tài sản cố định trong kỳ... Giả định đầu tiên trong mô hình định lượng là các

kiểm toán viên có thể kiểm tra tính có thực và độ tin cậy của các khoản lợi nhuận bằng

tiền một cách dễ dàng thông qua việc kiểm tra chọn mẫu các hóa đơn bán hàng, hóa

đơn giá trị gia tăng của các khoản chi phí, các loại chứng từ thanh toán cũng như chi

trả cho các khoản chi phí phát sinh trong kỳ. Vấn đề cần được làm rõ ở đây là lợi

nhuận dồn tích. Đây chính là các khoản lợi nhuận mà các nhà quản trị có thể thay đổi

khi sử dụng nguyên tắc cơ sở dồn tích trong kế toán. Trên lý thuyết, nguyên tắc cơ sở

dồn tích nhằm đảm bảo doanh nghiệp ghi nhận đầy đủ các khoản doanh thu cũng như

chi phí phát sinh cho dù đã thực sự chi trả bằng tiền hay chưa nhằm bảo đảm lợi nhuận

được phản ánh một cách trung thực và hợp lý. Tuy nhiên, như đã nói ở trên nguyên tắc

này có thể bị lợi dụng để thay đổi lợi nhuận thực của doanh nghiệp khi nhà quản trị ghi

nhận doanh thu khi nghiệp vụ bán hàng chưa được thực hiện đầy đủ và doanh thu chưa

đủ điều kiện ghi nhận theo chuẩn mực kế toán VAS 14 quy định. Các khoản dự phòng

và chi phí trích trước cũng vậy nhà quản trị có thể vận dụng những sơ hở trong các quy

định liên quan về lập dự phòng và trích trước chi phí nhằm gia tăng hay giảm bớt chi

phí trên kết quả kinh doanh.

26

Vì vậy, trong nghiên cứu này tôi đo lường chất lượng kiểm toán bằng chất

lượng thông tin lợi nhuận, mà cụ thể ở đây là các khoản dồn tích.

Tổng các khoản dồn tích trong lợi nhuận (total accrual earnings - TA) có thể

tính được bằng hai phương pháp

Theo phương pháp tiếp cận dựa trên bảng cân đối kế toán, TA được tính bằng

thay đổi trong vốn lưu động thuần giữa hai kỳ kế toán loại trừ thay đổi trong khoản

mục tiền và tương đương tiền (net noncash working capital) trừ cho chi phí khấu hao

trong kỳ. Theo đó:

TA = (∆∑Tài sản ngắn hạn - ∆Tiền) - (∆∑Nợ ngắn hạn - ∆Vay và Nợ ngắn hạn ) -

trong kỳ (1)

Theo phương pháp tiếp cận theo báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và báo

cáo lưu chuyển tiền tệ, TA được tính bằng cách lấy lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh

doanh trừ lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh.

TA = Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh – Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động

kinh doanh. (2)

Phương pháp tính thứ nhất xuất phát từ công thức tính trong mô hình nghiên

cứu nguyên gốc của giáo sư Jennifer Jones (1991) về việc liệu các nhà quản lý có làm

giảm bớt lợi nhuận thực tế để nhận được các khoản trợ cấp của chính phủ nhằm bảo hộ

ngành sản xuất trong nước, theo đó trong nghiên cứu của mình, bà quan tâm chủ yếu

đến các khoản dồn tích liên quan đến vốn lưu động (phải thu khách hàng, chi phí phải

trả)[29]. Đó là các khoản nhà quản lý dễ dàng sử dụng để điều chỉnh thông tin lợi

nhuận. Tuy nhiên, bà đã không tính chi phí dự phòng giảm giá tài sản dài hạn vào các

khoản dồn tích. Vì vậy, khi nghiên cứu về chất lượng kiểm toán, hầu hết các nhà

nghiên cứu đều sử dụng công thức tính thứ hai do nó tính luôn tất cả các khoản dự

27

phòng vào TA, do đó công thức (2) sẽ được sử dụng để tính TA vì sự phù hợp của nó

với mục tiêu nghiên cứu.

Vấn đề kế tiếp là ta không thể sử dụng TA làm thước đo chất lượng kiểm toán

một cách trực tiếp do trong đó có các khoản dồn tích phù hợp với tình hình kinh doanh

thực tế của công ty như các khoản bán chịu chưa thu tiền trong kỳ, các khoản dự

phòng giảm giá hàng tồn kho, chi phí lãi vay phải trích trước….Do đó, ta cần phải có

một mô hình để tách TA ra làm hai phần là: Non-discretionary accruals_NDA (các

khoản dồn tích không tự định) và Discretionay accruals_DA (các khoản dồn tích tự

định) hay còn gọi là các khoản dồn tích bất thường (abnormal accruals). Và DA mới

chính là thước đo phù hợp để đánh giá các nhà quản trị có điều chỉnh thông tin lợi

nhuận hay không và từ đó đánh giá chất lượng kiểm toán. Theo nguyên tắc chung là

khi DA mang giá trị dương quá cao (nguy cơ nhà quản trị thổi phồng lợi nhuận) hay

âm quá thấp (nguy cơ nhà quản trị che giấu lợi nhuận) đều cho thấy có sự điều chỉnh

chủ quan từ nhà quản lý và khi các kiểm toán viên để điều này xảy ra có nghĩa là chất

lượng kiểm toán giảm xuống.

Để ước tính giá trị của DA trong TA, các nhà nghiên cứu trên thế giới đã đưa ra

nhiều mô hình khác nhau, trong đó sáu mô hình nổi tiếng nhất là De Angelo model

(1985), Healy model (1986), Jones model (1991), Modified Jones model (1995),

Industry model (1995) và Cross-sectional Jones model (1994). Và cũng từ đó nhiều

nghiên cứu đã được thực hiện nhằm đo lường tính hữu hiệu và độ tin cậy trong việc

ước lượng của từng mô hình cũng như độ tin cậy của chúng như: Bartov và cộng sự

(2000) [9], Dechow và cộng sự (2009) [18]. Các kết luận của những nghiên cứu này

cho thấy mô hình Modified Jones (1995) mà Dechow, Sloan và Sweeney đưa ra sau

khi điều chỉnh những hạn chế của mô hình Jones (1991) có độ tin cậy cao nhất trong

số các mô hình nói trên. Vì vậy, để tiếp nối các nghiên cứu trước tôi cũng sử dụng mô

28

hình này để ước lượng DA. Theo đó, DA được tính bằng cách lấy TA trừ cho NDA

trong kỳ.

DA = TA – NDA

Trong đó:

TA : Tổng các khoản dồn tích (total accrual)

NDA: Các khoản dồn tích không tự định (non-discretionary accrual)

Kế đến là ước tính NDA, Jennifer Jones (1991) đã đưa ra một mô hình để ước

tính NDA dựa trên TA [29]. Theo đó, NDA được ước tính qua phương trình như sau:

NDAit/ At-1 = α(1/At-1 ) + β1(ΔREVit -ΔARit)/ At-1 + β2PPEit/ At-1 (2.1)

Với:

NDAit: Tổng các khoản dồn tích không tự định của công ty i năm t

At-1: Tổng tài sản của công ty i tại năm t-1

REVit : Chênh lệch trong doanh thu công ty i năm t so với năm t-1

ARit:Chênh lệch trong khoản mục phải thu khách hàng công ty i năm t so với năm t-1

PPEit: Tổng giá trị còn lại của tài sản cố định của công ty i tại năm t

Các hệ số α , β1, β2 được ước lượng bằng phương pháp bình phương bé nhất

(OLS) từ phương trình hồi quy sau:

(2.2)

TAit/ At-1 = α(1/At-1 ) + β1ΔREVit / At-1 + β2PPEit/ At-1 + ε

29

Trong đó:

TAit : Tổng các khoản dồn tích trong lợi nhuận của công ty i tại năm t

*ε : Sai số trong phương trình hồi quy (2.2) thể hiện phần dồn tích trong TA mà các

biến độc lập là REVit/ At-1 và PPEit/ At-1 không giải thích được (đó chính là tỉ lệ

DAit/At-1 mà ta cần tìm để đánh giá chất lượng kiểm toán)

Trong mô hình nguyên gốc, Jones (1991) đưa vào phương trình hồi quy (2.2)

hai biến là REV và PPE. Theo diễn giải của bà, giá trị REV thể hiện sự biến động

doanh thu thuần của doanh nghiệp trong kỳ kế toán, nó phản ánh tình hình và môi

trường hoạt động kinh doanh và là khoản mục mang tính khách quan không bị nhà

quản trị lợi dụng để điều chỉnh lợi nhuận trong kỳ. Còn giá trị tài sản cố định thể hiện

nguồn lực nội tại của đơn vị trong việc tạo ra doanh thu, đồng thời khoản mục chi phí

khấu hao là một khoản chi phí dồn tích không tự định lớn ảnh hưởng đến tổng lợi

nhuận trong kỳ. Tuy nhiên, ở mục chú giải số 31 tại trang 212 trong nghiên cứu của

mình, tác giả cũng có đề cập tới những hạn chế trong diễn giải của mình khi chọn

ΔREV làm biến nghiên cứu. Bà cho rằng, doanh thu thuần cũng có thể bị tác động

thông qua các khoản doanh thu bị ghi nhận không đúng niên độ và các khoản này có

thể là doanh thu khống của doanh nghiệp. Xuất phát từ hạn chế kể trên của mô hình

gốc, các nhà nghiên cứu sau này đưa thêm biến ΔAR vào phương trình (2.1) nhằm

loại bỏ ảnh hưởng của các khoản doanh thu dồn tích do sự tăng lên của khoản mục

phải thu khách hàng trong kỳ, qua đó giá trị doanh thu thuần tăng thêm phản ánh chính

xác hơn môi trường kinh doanh của doanh nghiệp trong năm đó. Các biến số trong

phương trình hồi quy sở dĩ đều được chia cho At-1 là do các biến trong mô hình bao

gồm: TAit , ΔREVit và PPEit đều là các con số tuyệt đối do đó không phù hợp để chạy

phương trình hồi quy nhằm ước tính DA vì mỗi công ty có quy mô vốn và doanh thu

khác nhau. Từ đó, tác giả chia hai vế của phương trình cho tổng tài sản năm trước của

30

chính công ty đó để có được các số liệu dạng tỉ lệ loại bỏ ảnh hưởng của sự khác nhau

về quy mô tài sản cũng như doanh thu làm mô hình không đáng tin cậy nữa. Các con

số tỉ lệ phản ánh rằng trong một năm tài chính, khi công ty có tỉ lệ tăng doanh thu trên

tổng tài sản (ΔREVit/ TAit) và tỉ lệ giá trị còn lại của tài sản cố định trên tổng tài sản

(PPEit/ TAit) như thế này thì sẽ có mức NDA/ TAit tương ứng cũng là một con số tỉ lệ.

Một vấn đề khác biệt nữa giữa mô hình gốc của Jones (1991) và mô hình

Modified Jones (1995) mà các nhà nghiên cứu đã và đang tiếp tục phát triển để nghiên

cứu việc điều chỉnh lợi nhuận là nghiên cứu ban đầu của bà, tác giả thực hiện chạy

phương trình hồi quy cho từng công ty để có được các hệ số α, β1, β2 (data-series

analysis). Phương pháp này được các nhà nghiên cứu sau này cho là có hạn chế trong

việc tính toán các khoản dồn tích bất thường mà từ đó nghiên cứu hành vi điều chỉnh

lợi nhuận của nhà quản lý. Và các nghiên cứu của Bartov và cộng sự (2000), Dechow

và cộng sự (2009) đã kết luận mô hình Modified Cross-sectional Jones có độ tin cậy

cao nhất trong việc ước lượng DA, theo đó để ước tính các hệ số trên dữ liệu của các

doanh nghiệp sẽ được chạy hồi quy theo từng năm theo dạng nghiên cứu cắt ngang

(cross-sectional analysis). Qua đó, ta có thể thấy được tác động của tình hình thị

trường lên doanh thu cũng như lợi nhuận của đơn vị, đồng thời có thể so sánh chất

lượng thông tin lợi nhuận của các công ty cùng ngành trong năm đó.

Phương trình (2.2) sẽ được hồi quy theo từng năm để có được các hệ số α, β1,

β2 cho mỗi năm. Từ các hệ số này, ta sẽ tính được tỉ số NDAit/At-1 bằng phương trình

(2.1) thể hiện các khoản dồn tích bình thường trong kỳ của doanh nghiệp.

Sau đó ta tính: DAit/At-1 = TAit/At-1 - NDAit/At-1

Khi tỉ số DAit/At-1 này dương quá cao (thổi phồng lợi nhuận) hay âm quá cao

(che giấu lợi nhuận) đều thể hiện rằng các khoản DA trong lợi nhuận lớn và chất lượng

kiểm toán giảm xuống.

31

Tuy nhiên, trên thực tế giá trị của DA của từng công ty có thể mang giá trị âm

hoặc dương tùy thuộc vào động cơ của nhà quản trị trong kỳ muốn thổi phồng (DA>0)

hay che giấu bớt lợi nhuận (DA<0) đã thực hiện thực tế trong kỳ. Do đó, giá trị

DAit/At-1 cũng có thể mang giá trị âm hoặc dương. Vì vậy, ta sẽ phải sử dụng giá trị

tuyệt đối của giá trị DAit/At-1 làm biến phụ thuộc trong phương trình hồi quy để đại

diện cho chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính của công ty tại năm nghiên cứu với kỳ

vọng rằng khi chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính của công ty càng tăng thì giá trị

này sẽ tiệm cận về giá trị 0 (tức là càng giảm xuống).

Ta ký hiệu giá trị tuyệt đối của giá trị DAit/At-1 là |DA|

32

2.3. Các nghiên cứu có liên quan đến đề tài

Báo cáo tài chính của một doanh nghiệp trong một nền kinh tế hiện nay có thể

được rất nhiều đối tượng sử dụng, và lẽ dĩ nhiên người sử dụng cần có những thông tin

đáng tin cậy để giúp họ đánh giá về tình hình tài chính của đơn vị. Qua đó, đưa ra các

quyết định kinh tế. Tuy nhiên do nền kinh tế ngày càng phát triển đã tạo nên hệ quả là

khả năng nhận được các thông tin tài chính kém tin cậy sẽ tăng cao.

Rủi ro về thông tin xuất phát từ nhiều nguyên nhân, chẳng hạn như người sử

dụng khó khăn trong việc tiếp cận nguồn thông tin nội tại của đơn vị, động cơ của

người cung cấp thông tin (cụ thể là các nhà quản lý) muốn che giấu thông tin bất lợi

cho họ hay độ phức tạp cũng như số lượng thông tin phải xử lý trong bối cảnh hoạt

động kinh doanh ngày càng phức tạp như hiện nay.

Vì vậy, các cổ đông cũng như các bên thứ ba luôn mong muốn báo cáo tài

chính phải được kiểm toán bởi một công ty kiểm toán độc lập. Với những kỹ năng và

kinh nghiệm nghề nghiệp cùng với sự độc lập của mình, các kiểm toán viên sẽ cung

cấp sự đánh giá về độ tin cậy của báo cáo tài chính, đồng thời giúp tiết kiệm chi phí

kiểm tra kiểm soát cho số đông những người sử dụng.

Về mặt xã hội nói chung thì kiểm toán trở thành một công cụ bảo vệ sự ổn định

của nền kinh tế, đặc biệt là tại các quốc gia mà thị trường chứng khoán giữ một vai trò

quan trọng trong việc huy động vốn.

Kết quả kiểm toán thể hiện thông qua báo cáo kiểm toán được phát hành bên

cạnh việc phục vụ cho khách hàng (ở đây là chính bản thân đơn vị được kiểm toán và

các cổ đông hiện hữu) còn phải phục vụ cho đông đảo công chúng (các nhà đầu tư

tiềm năng, các chủ nợ, các đối tác của doanh nghiệp…). Do vậy, kiểm toán là một

nghề nghiệp đặc biệt, trong khi các ngành nghề dịch vụ khác lấy khách hàng làm đối

33

tượng phục vụ chủ yếu thì các kiểm toán viên độc lập cũng thu phí của khách hàng

nhưng lại phục vụ các đối tượng bên ngoài không trực tiếp điều hành doanh nghiệp.

Trước mỗi cuộc kiểm toán thì cổ đông có quyền biểu quyết thông qua việc lựa

chọn công ty kiểm toán và kiểm toán viên. Tuy nhiên, các nhà quản lý vẫn có ảnh

huởng đáng kể đến việc lựa chọn hay chấm dứt hợp đồng với công ty kiểm toán hay

kiểm toán viên chính thực hiện kiểm toán. Do đó, họ có thể gây áp lực lên các kiểm

toán viên bằng nhiều cách để tránh các báo cáo kiểm toán không chấp nhận hay chấp

nhận từng phần mang tính chất bất lợi. Bởi vì khi kiểm toán viên phát hành những báo

cáo như thế thì đó là một tín hiệu cho thấy các nhà quản lý đã thể hiện một bức tranh

lệch lạc về tình hình và vị thế tài chính của đơn vị dẫn đến giá trị kinh tế của đơn vị sẽ

sụt giảm trên thị trường. Hệ lụy từ việc này có thể khiến lợi ích của nhà quản lý (các

khoản lương thưởng hay giá trị cổ phần mà họ đang nắm giữ) giảm theo.

Do hoạt động trong một môi trường đặc biệt như vậy nên ngoài kiến thức

chuyên môn, nghề kiểm toán còn đòi hỏi tính độc lập rất cao, nhằm tạo ra uy tín nghề

nghiệp và gầy dựng lòng tin của thị trường. Tuy nhiên, kể từ sau các cuộc sụp đổ của

các tập đoàn lớn trên thế giới, lòng tin của công chúng đối với kiểm toán mà đặc biệt ở

đây là tính độc lập của kiểm toán viên đã bị sụt giảm khá nghiêm trọng. Các nhà lập

pháp trên toàn thế giới, mà khởi đầu là Mỹ, bắt đầu thực hiện các nghiên cứu thực

nghiệm và ban hành những quy định bắt buộc về luân chuyển kiểm toán viên bên cạnh

các quy định khác nhằm qua đó chấn chỉnh hoạt động kiểm toán độc lập tăng cường

tính độc lập của kiểm toán viên mà trước đó chất lượng của dịch vụ này chỉ do các

hiệp hội nghề nghiệp kiểm soát.

Kết quả từ các nghiên cứu này vẫn còn khá nhiều tranh cãi xung quanh việc nên

hay không nên áp dụng luân chuyển kiểm toán viên bắt buộc.

34

2.3.1. Các nghiên cứu ủng hộ việc luân chuyển kiểm toán viên bắt buộc

Nhóm ủng hộ bao gồm nghiên cứu của Dopuch và cộng sự (2001) tại Mỹ về

vấn đề luân chuyển bắt buộc kiểm toán viên đã cung cấp bằng chứng cho thấy việc

luân chuyển này giúp giảm bớt khả năng kiểm toán viên phát hành các báo cáo kiểm

toán không đáng tin cậy và theo chiều hướng có lợi cho nhà quản lý[20]. Còn

Gietzmann và Sen (2002) thực hiện những phân tích về sự đánh đổi giữa lợi ích và chi

phí của việc luân chuyển kiểm toán viên và đưa ra kết luận rằng trong một số hoàn

cảnh nhất định, luân chuyển kiểm toán là một quy định đúng đắn. Bởi vì ở những thị

trường mà các công ty kiểm toán ít có cơ hội tiếp cận khách hàng mới, việc bãi bỏ

quyền của nhà quản lý trong việc bổ nhiệm kiểm toán viên có thể giúp họ giảm bớt áp

lực từ khách hàng và tính độc lập được đảm bảo.[24]

Tại Úc, Carey và Simnett (2005) thực hiện nghiên cứu vấn đề này trong giai

đoạn từ năm 1987 đến năm 1993 thì kết luận rằng nhiệm kỳ kiểm toán càng dài sẽ làm

cản trở khả năng sáng tạo và tư duy đổi mới của kiểm toán viên do hiệu ứng “quá tự

mãn” (complacency effect) và hiệu ứng “quá quen thuộc” (familiar effect). Do đó, khả

năng xét đoán của kiểm toán viên về tính hoạt động liên tục của đơn vị giảm xuống,

dẫn tới nhiều công ty vi phạm giả định này, nhưng kiểm toán viên không có ý kiến

nhấn mạnh để cảnh báo nguời sử dụng BCTC.[39]

Nghiên cứu của Davis và cộng sự (2003) thì cho thấy nhiệm kỳ kiểm toán có

tương quan âm với chất lượng báo cáo kiểm toán. Nhiệm kỳ càng dài thì chất lượng

báo cáo kiểm toán càng giảm do nhà quản trị sẽ được linh động hơn trong sổ sách kế

toán và báo cáo lợi nhuận, từ đó họ dễ đạt mục tiêu lợi nhuận trong kỳ hơn những công

ty thực hiện luân chuyển kiểm toán viên.[16]

Các nghiên cứu gần đây tại châu Á có nghiên cứu của Kim và cộng sự (2004)

thực hiện ở Hàn Quốc, một môi trường đặc biệt đối với ngành kiểm toán. Trong khi ở

35

các nước khác việc luân chuyển kiểm toán mang tính bắt buộc nhưng nhà quản lý và

đơn vị kiểm toán vẫn có quyền lựa chọn công ty kiểm toán và kiểm toán viên mới. Tuy

nhiên, ở Hàn Quốc kể từ năm 1989, quy định mới về việc luân chuyển kiểm toán đã

được thông qua. Theo đó, các công ty niêm yết đang gặp khủng hoảng về mặt tài chính

(kết quả được đo lường bằng một loạt các chỉ số tài chính do chính phủ ban hành) sẽ

phải chấp nhận việc kiểm toán bắt buộc từ phía cơ quan chức năng, cụ thể ở đây là ủy

ban giám sát tài chính (Financial Supervisory Commission – FSC). Cơ quan này sẽ chỉ

định bắt buộc một kiểm toán viên độc lập để kiểm toán cho các công ty này. Các tác

giả sử dụng thước đo các khoản dồn tích để đánh giá chất lượng kiểm toán viên và họ

thấy rằng DA giảm dần qua các năm sau khi công ty chịu sự kiểm toán bắt buộc. Qua

đó cho thấy việc luân chuyển kiểm toán viên bắt buộc là cần thiết nhằm tăng cường

tính độc lập của kiểm toán viên. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng mẫu nghiên cứu mà

họ lựa chọn là các công ty đang gặp khó khăn về mặt tài chính do đó nguy cơ nhà quản

trị điều chỉnh thông tin lợi nhuận là khá cao; và kết quả này không thể áp dụng chung

cho cả thị trường trong đó bao gồm các công ty hoạt động lành mạnh.[31]

Tiếp tục nghiên cứu chi tiết hơn vấn đề này tại Hàn Quốc, Chung (2005) trong

luận án nghiên cứu của mình cũng đo lường chất lượng kiểm toán thông qua DA và

lấy mẫu nghiên cứu các công ty trong giai đoạn trước khi có quy định chỉ định kiểm

toán viên bắt buộc và sau khi có quy định đó. Kết quả cũng cho thấy: Đối với những

thị trường tài chính như ở Hàn Quốc, chính sách luân chuyển kiểm toán viên bắt buộc

giúp tăng cường tính độc lập và giúp họ hoàn thành tốt công việc mà không phải chịu

sự chi phối từ phía nhà quản lý.[15]

Chi, Huang, Liao và Yi (2009) xem xét quy định luân chuyển kiểm toán viên

bắt buộc tại Đài Loan. Các tác giả sử dụng cùng lúc hai thước đo DA và ERC để đo

chất lượng kiểm toán nhằm đối chiếu kết quả thu được. Mẫu nghiên cứu được lấy từ

năm 2004 khi mà quy định luân chuyển bắt buộc bắt đầu có hiệu lực. Từ các kết quả

36

nghiên cứu thực nghiệm của mình, các tác giả cho rằng luân chuyển kiểm toán viên

góp phần làm gia tăng chất lượng kiểm toán. Và bằng cách đo lường phản ứng của nhà

đầu tư về chất lượng kiểm toán thông qua ERC, các tác giả nhận thấy nhà đầu tư cảm

thấy kiểm toán viên độc lập hơn, do đó chất lượng kiểm toán cũng tăng lên. Tuy nhiên,

cần phải lưu ý rằng khi sử dụng DA làm thước đo, các tác giả chỉ so sánh DA của một

công ty năm 2004 với số liệu của năm 2003, tức là giai đoạn chuyển tiếp khi quy định

bắt đầu có hiệu lực. Do đó, kết quả có thể có sự khác biệt với các nghiên cứu khác tại

thị trường chứng khoán Đài Loan.[13]

Trên đây là một số nghiên cứu ủng hộ việc luân chuyển kiểm toán viên. Tuy

nhiên, bên cạnh đó cũng có khá nhiều nghiên cứu mà kết quả của các tác giả không

ủng hộ việc luân chuyển bắt buộc này.

2.3.2. Các nghiên cứu không ủng hộ việc luân chuyển

Khác với nghiên cứu của Chi và cộng sự (2009), Chen và cộng sự (2009) lấy

mẫu nghiên cứu tại Đài Loan giai đoạn 1990 đến 2001, một giai đoạn khá dài chưa có

quy định luân chuyển bắt buộc công ty kiểm toán và kiểm toán viên. Các tác giả thấy

rằng có một sự tương quan âm giữa nhiệm kỳ kiểm toán viên và tỉ lệ các khoản dồn

tích bất thường, tức là nhiệm kỳ kiểm toán viên dài chất lượng kiểm toán tăng. Từ đó,

các tác giả đưa ra quan ngại về tác dụng của quy định bắt buộc tại Đài Loan từ năm

2004. Tuy vậy, trong nghiên cứu này, các tác giả chỉ sử dụng giá trị tuyệt đối của DA

làm thước đo chất lượng kiểm toán và chưa thực hiện các nghiên cứu riêng và tách biệt

DA âm và DA dương. Bên cạnh đó, mẫu nghiên cứu cũng bỏ các quan sát trong năm

kiểm toán đầu tiên, giai đoạn mà nhiều nhà nghiên cứu cho rằng dễ xảy ra gian lận, sai

sót nhất trên báo cáo tài chính.[12]

Do nhận thấy những hạn chế từ nghiên cứu của Chen và cộng sự (2009) khi chỉ

sử dụng mỗi giá trị tuyệt đối của DA làm thước đo chất lượng kiểm toán nên Siregar

37

và các cộng sự (2012) đã tách biệt DA thành hai biến âm và dương để nghiên cứu sâu

hơn chất lượng kiểm toán tại Indonesia, nơi mà kiểm toán viên sau 5 năm phải thực

hiện luân chuyển kể từ năm 2002. Họ thực hiện hai nghiên cứu riêng lẻ cho hai giai

đoạn: Giai đoạn trước khi có quy định (1999-2001) và sau khi có quy định (2004-

2008). Họ bỏ qua hai năm 2002 và 2003 với lý do đây là hai năm đầu tiên quy định

mới đi vào thực tế nên tác động của nó đến chất lượng kiểm toán là chưa rõ ràng. Kết

quả thực nghiệm cho thấy với giai đoạn 1999-2001, nhiệm kỳ kiểm toán dài thì chất

lượng kiểm toán tăng (DA và nhiệm kỳ kiểm toán có tương quan âm) nhưng giai đoạn

sau khi có quy định, nhiệm kỳ kiểm toán viên dài thì chất lượng kiểm toán giảm. Kết

quả này được các tác giả giải thích rằng trong giai đoạn chất lượng kiểm toán luân

chuyển tự nguyện, tính độc lập không bị ảnh hưởng và chất lượng kiểm toán tăng. Sau

khi có quy định chất lượng kiểm toán lại giảm theo thời gian kiểm toán viên làm việc

với khách hàng. Kết quả có vẻ trái ngược này được giải thích có thể là do sự thực thi

luật pháp còn khá yếu kém tại Indonesia khi để các công ty kiểm toán đối phó với quy

định trên khi chỉ thực hiện luân chuyển về hình thức. Nhưng trên hết, các tác giả nhấn

mạnh chính phủ nên xem xét lại quy định trên và hãy để các công ty kiểm toán và đơn

vị thực hiện luân chuyển tự nguyện như lúc trước. Bên cạnh đó, họ cũng thấy một số

hạn chế trong nghiên cứu của mình như chỉ sử dụng một thước đo chất lượng kiểm

toán và chưa phân loại các công ty theo ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh.[38]

Cũng đứng trong nhóm phản đối việc luân chuyển kiểm toán viên bắt buộc,

Geiger và Raghunandan (2002) cho thấy kiểm toán viên dễ có những sai lầm trong

nhận định về tính hoạt động liên tục của công ty trong những năm đầu kiểm toán. Khi

các công ty đang gặp nguy cơ phá sản thay đổi kiểm toán viên, các kiểm toán viên mới

này do thiếu sự hiểu biết sâu sắc về đặc điểm hoạt động kinh doanh, tình hình thị

trường… nên dễ có những nhận định sai lầm và không phát hành các báo cáo kiểm

toán lưu ý người sử dụng về sự vi phạm giả định quan trọng này. Các kết luận của họ

38

không ủng hộ việc luân chuyển kiểm toán viên bắt buộc vì họ thấy rằng quy định này

gây khó khăn cho kiểm toán viên khiến họ dễ mắc phải sai lầm khi đưa ra ý kiến chấp

nhận toàn phần trong những năm đầu.[21]

Đồng quan điểm với Geiger và Raghunandan (2002), Carcello và Nagy (2004)

nghiên cứu các báo cáo tài chính gian lận đã bị phát hiện và các báo cáo kiểm toán

phát hành kèm theo để khảo sát về chất lượng kiểm toán. Hai tác giả thấy rằng các báo

cáo gian lận này thường xuất hiện nhiều hơn trong khoảng 3 năm đầu tiên trong nhiệm

kỳ. Và họ cũng không tìm được bằng chứng cho thấy khi nhiệm kỳ kiểm toán viên dài

thì các báo cáo tài chính gian lận này dễ phát hành hơn. Qua đó cho thấy tính độc lập

của kiểm toán viên không bị ảnh hưởng qua thời gian mà ngược lại còn giúp ngăn

chặn các báo cáo tài chính gian lận đến tay người sử dụng.[11]

Johnson và cộng sự (2002) cũng sử dụng DA làm thước đo chất lượng kiểm

toán. Các tác giả phân loại nhiệm kỳ kiểm toán ra thành ba loại: ngắn (2-3 năm), trung

bình (5-8 năm) và dài ( trên 9 năm). Qua đó, khi họ lấy DA của loại trung bình làm

mốc so sánh, các kết quả cho thấy khi nhiệm kỳ kiểm toán ngắn, DA cao hơn; trong

khi đối với loại dài thì DA và nhiệm kỳ kiểm toán không có ý nghĩa về mặt thống kê.

Qua đó, các tác giả kết luận rằng không có bằng chứng cho thấy nhiệm kỳ kiểm toán

dài làm giảm chất lượng thông tin lợi nhuận, bên cạnh đó cần tăng số năm bắt buộc

luân chuyển lên vì DA có xu hướng giảm xuống khi nhiệm kỳ kiểm toán tăng lên (ít

nhất là 8 năm).[28]

Myers và cộng sự (2003) nghiên cứu chất lượng kiểm toán thông qua hai thước

đo là TA và DA. Kết quả thực nghiệm cho thấy với cả hai thước đo này thì khi nhiệm

kỳ kiểm toán tăng lên, cả TA và DA đều giảm xuống. Và khi nhiệm kỳ càng dài thì

các khoản dồn tích này không dương quá cao và cũng không âm quá cao. Qua đó, các

tác giả nêu lên rằng khi kiểm toán viên cung cấp dịch vụ cho cùng một công ty trong

39

một khoản thời gian dài thì khả năng điều chỉnh thông tin lợi nhuận của nhà quản lý bị

hạn chế, làm gia tăng chất lượng báo cáo tài chính.[37]

Knechel và Vanstraelen (2006) để nghiên cứu thực nghiệm vấn đề này, họ thực

hiện thu thập dữ liệu nghiên cứu tại Bỉ, một môi trường đặc biệt so với phần còn lại

của Âu Châu. Điều đặc biệt thứ nhất là hầu hết các công ty tại Bỉ là tư nhân và thuộc

sở hữu bởi gia đình. Bên cạnh đó, pháp luật quy định về trách nhiệm của kiểm toán

viên trong việc xét đoán khả năng hoạt động liên tục còn khá lỏng lẻo do đó kiểm toán

viên không phải chịu áp lực về mặt pháp lý quá nhiều khi đưa ra ý kiến của mình trên

báo cáo kiểm toán. Với tất cả những lý do trên, hai tác giả cho rằng nếu như sự độc lập

của kiểm toán viên bị giảm sút khi nhiệm kỳ kiểm toán dài thì vấn đề này sẽ được thấy

rõ ràng nhất tại Bỉ. Tuy nhiên, khi xem xét các báo cáo tài chính và báo cáo kiểm toán

kèm theo của các công ty đang gặp áp lực tài chính, các tác giả cho thấy tính độc lập

của họ không giảm bớt theo thời gian và những kiểm toán viên làm việc lâu dài với

một công ty cũng không dự báo chính xác hơn các trường hợp công ty đang có nguy

cơ bị phá sản để lưu ý cho người sử dụng. Kết luận này một phần nào cho thấy nhiệm

kỳ kiểm toán không làm ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán.[33]

Một số nghiên cứu khác thì cho thấy mối quan hệ giữa nhiệm kỳ kiểm toán và

chất lượng kiểm toán thay đổi theo thời gian.

Knapp (1991) nghiên cứu cảm nhận của nhóm kiểm toán về chất lượng dịch vụ

mà họ cung cấp khi nhiệm kỳ kiểm toán dài thì chất lượng kiểm toán trong những năm

đầu có tương quan dương với nhiệm kỳ kiểm toán nhưng mối tương quan này lại trở

nên âm trong những năm sau đó. Ông giải thích kết quả này là do nhóm kiểm toán

chịu tác động của đường cong hiểu biết (learning curve) trong những năm đầu, khi

thực hiện kiểm toán nhiều năm liên tiếp cho cùng một khách hàng, kiểm toán viên sẽ

học hỏi thêm kinh nghiệm và hiểu biết rõ hơn về đặc điểm hoạt động cũng như môi

40

trường kinh doanh của công ty nên chất lượng kiểm toán tăng lên. Nhưng khi nhiệm

kỳ kiểm toán quá dài, họ chịu tác động của hiệu ứng quá tự mãn (over complacent)

nên chất lượng kiểm toán ngày càng đi xuống.[32]

Chi và Huang (2003) cũng thấy rằng ban đầu DA và nhiệm kỳ kiểm toán có

tương quan âm (tức là nhiệm kỳ kiểm toán tăng thì DA giảm và chất lượng kiểm toán

tăng). Nhưng khi khoảng thời gian vượt quá 5 năm, tương quan giữa DA và nhiệm kỳ

kiểm toán đổi chiều khiến chất lượng kiểm toán giảm xuống. Họ cũng giải thích kết

quả này bằng hiệu ứng hiểu biết trong những năm đầu và hiệu ứng quá quen thuộc

trong những năm sau đó khiến chất lượng giảm. Và họ cũng lưu ý rằng công ty kiểm

toán có vai trò quan trọng trong việc luân chuyển kiểm toán viên bằng các chính sách

giúp nhóm kiểm toán viên mới có thêm sự hiểu biết và kinh nghiệm được truyền lại từ

các kiểm toán viên tiền nhiệm. Từ đó, họ cho rằng quy định bắt buộc luân chuyển là

cần thiết nhưng chỉ nên dừng lại ở cấp độ kiểm toán viên, không áp dụng trên quy mô

công ty.[14]

Từ những kết quả nghiên cứu về vấn đề này như trên, ta thấy rằng các bằng

chứng cho thấy nhiệm kỳ kiểm toán dài làm giảm chất lượng kiểm toán là ít hơn so với

các nghiên cứu từ nhóm phản đối phản đối vấn đề này. Ngoài ra, một số tác giả còn

thấy giữa chúng có mối quan hệ phi tuyến (tức là trong những năm đầu chất lượng

kiểm toán tăng khi nhiệm kỳ kiểm toán tăng nhưng sau một khoảng thời gian nhất định

thì chất lượng kiểm toán giảm xuống). Từ đó có thể dự đoán rằng nhiệm kỳ kiểm toán

viên thực sự có quan hệ với chất lượng kiểm toán. Vì vậy, tác giả đưa ra giả thuyết

nghiên cứu như sau:

Ho: Giữa các khoản dồn tích bất thường |DA| và nhiệm kỳ kiểm toán không có

quan hệ tuyến tính với nhau.

H1: Giữa các khoản dồn tích bất thường |DA| và nhiệm kỳ kiểm toán có quan

hệ tuyến tính với nhau.

41

CHƯƠNG 3: MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU

3.1. Mô hình nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu

3.1.1. Mô hình nghiên cứu

Tiếp nối các nghiên cứu trước đó về chất lượng kiểm toán như Chen và cộng sự

(2009); Myers và các cộng sự (2003); Siregar và cộng sự (2012), tôi sử dụng phương

trình nghiên cứu sau để xem xét mối quan hệ tuyến tính giữa chất lượng kiểm toán

BCTC (được đại diện bằng giá trị |DA| như giải thích ở trên) và các biến độc lập bên

cạnh biến đại diện cho nhiệm kỳ kiểm toán như: Loại kiểm toán viên (Big4 hoặc

không phải Big4), tỉ số nợ trên tổng tài sản của công ty trong năm đó, tốc độ tăng

trưởng về quy mô và dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh của công ty trong năm

nghiên cứu. Các biến này là các biến kiểm soát (controlling variables) được thêm vào

phương trình hồi quy nhằm gia tăng độ phù hợp của mô hình. Theo các nghiên cứu

trước đây thì các biến này đều có liên hệ tới các khoản lợi nhuận dồn tích. Cụ thể ở

đây biến BIG4 và CFO kỳ vọng sẽ có tương quan âm với |DA| (tức là khi được kiểm

toán bởi BIG4 hay CFO trong kỳ cao thì |DA| sẽ giảm), còn hai biến LEV và GROW

kỳ vọng sẽ có tương quan dương với |DA| (tức là công ty có đòn bẫy tài chính và tốc

độ tăng tài sản càng cao thì |DA| sẽ cao). Theo đó:

|DA|= α + β1APT + β2BIG4 + β3LEV + β4GROW + β5CFO + ε (3.1)

Với:

APT: Nhiệm kỳ kiểm toán viên (được đo lường bằng cách đếm số năm liên tiếp

một kiển toán viên thực hiện công việc kiểm toán cho một công ty)

BIG4: Biến giả (dummy variable) mang giá trị bằng 1 nếu công ty kiểm toán là

một trong các BIG4, nếu không phải thì bằng 0

42

LEV: Tỉ số nợ trên tổng tài sản (được tính bằng cách lấy tổng nợ phải trả chia

cho tổng tài sản trong kỳ)

GROW: Tốc độ tăng trưởng về quy mô của công ty (được tính bằng cách lấy

tổng tài sản năm t trừ tổng tài sản năm t-1 và chia lại cho tổng tài sản năm t-1)

CFO: Dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh của công ty trong năm t

So với các nghiên cứu trước, trong phương trình nghiên cứu này tác giả bỏ bớt

hai biến là SPEC (một biến giả mang giá trị bằng 1 khi công ty kiểm toán đương

nhiệm chiếm trên 10% thị phần kiểm toán và bằng 0 nếu không phải), SIZE (thể hiện

quy mô tổng tài sản của công ty). Lý do đầu tiên tác giả không sử dụng biến SPEC là

không thể thu thập được dữ liệu về vấn đề này tại Việt Nam và về vấn đề thị phần

kiểm toán vẫn còn nhiều tranh luận về cách tính (dựa trên doanh thu kiểm toán, số

lượng khách hàng, hay tổng nguồn vốn của công ty kiểm toán). Tác giả cũng không sử

dụng biến SIZE nhằm giảm bớt hiện tượng đa cộng tuyến khi chạy mô hình hồi quy đa

biến vì giá trị tổng tài sản công ty cũng được sử dụng để tính toán hai biến trong

phương trình là: tỉ số nợ trên tổng tài sản _biến LEV và tốc độ tăng trưởng tài sản_biến

GROW.

3.1.2. Phương pháp nghiên cứu

Các dữ liệu nghiên cứu trước hết được thu thập từ báo cáo tài chính của các

công ty trong mẫu và xử lý ban đầu bằng phần mềm EXCEL. Để tính toán tổng các

khoản dồn tích TA, số liệu sẽ được lấy từ báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và báo

cáo lưu chuyển tiền tệ bao gồm các mục:

- Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh (Mã số_MS 30) trên báo cáo kết quả

hoạt động kinh doanh

43

- Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh (MS 20) trên báo cáo lưu

chuyển tiền tệ

Các biến trong phương trình hồi quy (2.1) sẽ được lấy số liệu từ báo cáo kết quả

kinh doanh và bảng cân đối kế toán, bao gồm các mục:

- Doanh thu thuần từ bán hàng và cung cấp dịch vụ (MS 10) trên báo cáo kết

quả hoạt động kinh doanh

- Phải thu khách hàng (MS 131) trên bảng cân đối kế toán

- Tài sản cố định (MS 220) trên bảng cân đối kế toán

- Tổng cộng tài sản (MS 270) trên bảng cân đối kế toán.

Đối với phương trình (3.1), số liệu được lấy thêm từ mục: Nợ phải trả (MS 300)

trên bảng cân đối kế toán. Về tên kiểm toán viên phụ trách cũng như tên công ty kiểm

toán sẽ được lấy từ báo cáo kiểm toán kèm theo trong năm đó.

Sau khi tính toán, các giá trị của các biến nghiên cứu trong phương trình hồi

quy sẽ được sao chép sang phần mềm SPSS để phân tích thống kê mô tả và phân tích

tương quan, hồi quy tuyến tính.

Trước tiên, tác giả sẽ xem xét mối quan hệ đơn biến giữa |DA| và APT thông

qua ma trận hệ số tương quan giữa hai biến, lập biểu đồ phân tích xu hướng tương

quan.

Sau đó tác giả sẽ tính giá trị |DA| trung bình đối với mỗi giá trị của APT và

dùng kiểm định Lavene để kiểm định giả thuyết về sự khác biệt giữa hai giá trị trung

bình. Qua đó có được cái nhìn ban đầu về mối liên hệ giữa chất lượng kiểm toán và

nhiệm kỳ kiểm toán.

44

Kế tiếp tác giả sẽ chạy phương trình hồi quy đa biến (3.1) với các biến độc như

trên để có được các hệ số tương quan riêng phần của từng biến độc lập đối với |DA| và

mức ý nghĩa tương ứng thông qua giá trị p-value để xem các biến này (đặc biệt là biến

APT) có thực sự có mối liên hệ với |DA| hay không; và nếu có thì đó là quan hệ đồng

biến hay nghịch biến. Từ đó đưa ra các nhận xét và kết luận nghiên cứu.

Bên cạnh đó để xem xét thêm ảnh hưởng của nhiệm kỳ công ty kiểm toán tới

chất lượng kiểm toán, tác giả đưa thêm biến AFT đại diện cho nhiệm kỳ công ty kiểm

toán để đưa thêm vào phương trình trên để xem xét mối tương quan giữa |DA| và

nhiệm kỳ công ty kiểm toán trong bối cảnh các công ty kiểm toán đã thực hiện việc

luân chuyển kiểm toán viên.

Phương trình hồi quy lúc đó có dạng như sau:

|DA|= α + β1APT + β2BIG4 + β3LEV + β4GROW + β5CFO +β6AFT + ε (3.2)

3.2. Phương pháp chọn mẫu và mô tả mẫu

Với mục tiêu tính toán và ước tính DA cho từng công ty, tác giả đã thực hiện

việc lấy số liệu kế toán từ báo cáo tài chính năm và thu thập thông tin về kiểm toán

viên phụ trách kiểm toán trên báo cáo kiểm toán kèm theo của các công ty hiện đang

niêm yết trên thị trường chứng khoán TP HCM (HoSE) và thị trường chứng khoán Hà

Nội (HNX) từ năm 2000 đến năm 2012. Các công ty được lựa chọn là các công ty hoạt

động sản xuất kinh doanh, thương mại hoặc dịch vụ không phải là định chế tài chính

trung gian như: ngân hàng, công ty bảo hiểm hay công ty chứng khoán... Lý do là mô

hình nghiên cứu trên không dùng để nghiên cứu các khoản dồn tích tự định_DA tại các

ngân hàng hay các định chế tài chính kể trên vì đặc điểm hoạt động kinh doanh khác

nhau và không cùng áp dụng chung một chuẩn mực kế toán trong việc trình bày và

công bố các số liệu tài chính. Bên cạnh đó, do tính chất của vấn đề nghiên cứu cần một

45

khoản thời gian dài để kiểm chứng về hiệu quả của việc luân chuyển kiểm toán viên

nên các công ty được chọn có thời điểm lấy số liệu chậm nhất là năm 2007 (ngoại trừ

công ty cổ phần dược phẩm OPC có số liệu được lấy trong giai đoạn 2008-2012). Sau

khi xem xét loại bỏ các doanh nghiệp không phù hợp, tác giả thực hiện lấy mẫu 39

công ty đáp ứng đủ các điều kiện kể trên. Tác giả không lựa chọn các công ty chào bán

cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) sau năm 2007 do thiếu dữ liệu tài chính trước đó

và khoảng thời gian 2008 đến 2011 là quá ngắn để nghiên cứu về nhiệm kỳ kiểm toán.

Danh sách toàn bộ 39 công ty trong mẫu nghiên cứu và khoảng thời gian lấy số liệu

được trình bày ở phụ lục 1.

Với mỗi công ty được chọn, tác giả tiến hành thu thập các dữ liệu trên báo cáo

tài chính như đã trình bày ở mục trên. Mỗi chuỗi số liệu sẽ được tính toán bằng phần

mềm EXCEL để tính tổng lợi nhuận dồn tích (TA), từ đó tính toán thông qua mô hình

nghiên cứu nói trên để tính toán các khoản dồn tích bất thường (DA). Nhiệm kỳ kiểm

toán được hiểu là số năm liên tiếp một kiểm toán viên độc lập thực hiện kiểm toán cho

cùng một công ty. Mỗi chuỗi số liệu sau khi tính toán các giá trị cần thiết sẽ là một

quan sát để chạy phần mềm SPSS để tìm mối tương quan giữa nhiệm kỳ kiểm toán và

chất lượng kiểm toán. Do các công ty thực hiện chào bán cổ phiếu lần đầu ra công

chúng trong những năm khác nhau nên số quan sát của mỗi công ty cũng khác nhau,

dao động từ 5 đến 11 quan sát cho mỗi công ty. Tổng số quan sát là 279 quan sát.

Trong đó, 1 công ty có 11 quan sát, 2 công ty có 9 quan sát, 14 công ty có 8 quan sát,

10 công ty có 7 quan sát, 8 công ty có 6 quan sát và 4 công ty có 5 quan sát.

46

CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

4.1. Phân tích sơ bộ kết quả nghiên cứu thông qua bảng thống kê mô

tả các biến

Các biến nghiên cứu trong mô hình được xử lý bằng phần mềm SPSS để có

được bảng thống kê mô tả bên dưới. Các giá trị thống kê mô tả dung để phân tích bao

gồm: MIN (giá trị nhỏ nhất), MAX (giá trị lớn nhất), MEAN (giá trị trung bình), Độ

lệch chuẩn, Median (trung vị) và giá trị Mode.

BẢNG THỐNG KÊ MÔ TẢ CÁC BIẾN NGHIÊN CỨU

MIN MAX MEAN Median Mode

Độ lệch chuẩn

Biến nghiên cứu

DA 0,0043 1,6188 0,1484 0,1665

APT 1 6 1.87 1.121 2 1

AFT 1 8 2.93 1.792 3 1

BIG4 0 1 0,16 0.372

LEV 0,02 1,61 0.4 0,225

GROW -0.39 9,29 0,28 0,684

CFO -820515 5294567 92686,41 443765,3

Bảng 4.1: Bảng kết quả thống kê mô tả các biến nghiên cứu trong phương trình

47

Nhìn trên bảng tóm tắt các giá trị thống kê mô tả ở trên, ta thấy giá trị |DA|

giữa các công ty trong mẫu nghiên cứu có sự chênh lệch rất lớn. Cụ thể ở đây giá trị

Min là 0,0043; giá trị Max là 1,6188; giá trị trung bình Mean là 0,1484 và có độ lệch

chuẩn là 0,1665. Nguyên nhân của kết quả trên là do trên thị trường, tổng các khoản

dồn tích TA của các doanh nghiệp rất khác nhau. Có những doanh nghiệp chênh lệch

giữa lợi nhuận trước thuế thu nhập và dòng tiền thuần hoạt động kinh doanh rất nhỏ

(nguy cơ nhà quản trị điều chỉnh thông tin lợi nhuận thấp). Tuy nhiên cũng có những

doanh nghiệp báo cáo lợi nhuận trong kỳ rất cao trong khi dòng tiền thuần lại âm khá

lớn. Qua đó, chứng tỏ lợi nhuận trong kỳ của doanh nghiệp không xuất phát từ doanh

thu bằng tiền mặt mà chủ yếu là các khoản doanh thu dồn tích, dẫn đến TA của doanh

nghiệp trong năm đó rất cao và giá trị DA cũng cao tương ứng (giá trị Max bằng

1,6188 cho thấy các khoản lợi nhuận dồn tích của doanh nghiệp cao hơn gấp 1,6 lần

tổng tài sản).

Về biến APT có giá trị cao nhất là 6 năm, giá trị trung vị là 2 và giá trị Mode là

1. Qua đó cho thấy, các doanh nghiệp thay đổi kiểm toán viên khá thường xuyên.

Nguyên nhân đầu tiên là do mẫu nghiên cứu được lấy từ giai năm 2001 nhưng số

lượng công ty lên sàn giai đoạn này khá ít, phần lớn các quan sát nằm trong giai đoạn

từ năm 2004 trở đi, thời gian mà nghị định 105/2004/NĐ-CP của chính phủ và thông

tư 64/2004/TT-BTC có hiệu lực.Vì vậy, phần lớn các công ty kiểm toán phải tuân thủ

các quy định về luân chuyển kiểm toán viên sau mỗi 3 năm. Nguyên nhân thứ hai

không thể loại trừ đó là xuất phát từ ý muốn chủ quan của nhà quản trị doanh nghiệp

về vấn đề thay đổi kiểm toán viên và công ty kiểm toán đương nhiệm. Như đã trình

bày ở trên, các nhà quản lý có một quyền lực nhất định trong việc thay đổi và bổ

nhiệm kiểm toán viên mới cũng như thay đổi cả công ty kiểm toán. Động cơ của các

nhà quản lý có thể xuất phát từ những bất đồng với công ty kiểm toán hay kiểm toán

48

viên đương nhiệm; hoặc cũng có thể là do xung đột lợi ích giữa nhà quản lý và kiểm

toán viên; hoặc là về vấn đề giá phí kiểm toán.

Biến AFT thể hiện nhiệm kỳ công ty kiểm toán cũng cho thấy kết quả tương tự

biến APT (Min bằng 1 và Max bằng 8) khi giá trị có tần suất lớn nhất (mode) là 1, tuy

nhiên giá trị trung vị Median có giá trị là 3. Từ đó, ta có thể thấy các doanh nghiệp

thường thay đổi kiểm toán viên đương nhiệm hơn là thay đổi công ty kiểm toán.Vấn

đề này có thể được giải thích là do chi phí của việc luân chuyển ở mức độ công ty và

các công ty kiểm toán cũng có xu hướng muốn giữ chân khách hàng đồng thời vẫn

tuân thủ quy định của nghị định 105 và thông tư 64 trước đây về luân chuyển KTV bắt

buộc.

Biến giả BIG4 có giá trị trung bình tương đương 0.4 chứng tỏ phần lớn các

doanh nghiệp trong mẫu nghiên cứu (83,5%) chọn các công ty kiểm toán vừa và nhỏ

mà không chọn BIG4. Do các công ty này chấp nhận việc lựa chọn các công ty kiểm

toán phù hợp với tình hình và khả năng tài chính của mình, giảm chi phí kiểm toán và

vẫn đạt được mục tiêu kiểm toán ở mức chấp nhận được và đáp ứng quy định về công

bố thông tin đề ra trên thị trường chứng khoán. Mặt khác, tại các công ty quy mô vừa

và nhỏ, nhà quản trị dễ có cơ hội “thỏa thuận” về giá phí kiểm toán hơn và dễ gây áp

lực với các kiểm toán viên về chương trình, phạm vi và các thủ tục kiểm toán phải

thực hiện. Do đó, các nhà quản trị sẽ dễ dàng trong việc “điều chỉnh thông tin lợi

nhuận” hơn.

Các biến LEV, GROW cho thấy cơ cấu tài chính của doanh nghiệp và tốc độ

tăng trưởng về tổng tài sản của doanh nghiệp qua các năm. Hai biến này cũng có độ

lệch chuẩn lớn cho thấy sự khác biệt của từng doanh nghiệp trong việc lựa chọn cơ cấu

vốn cũng như tốc độ phát triển của doanh nghiệp qua các năm.

49

4.2. Kết quả phân tích tương quan và hồi quy tuyến tính đơn biến

Để phân tích tương quan giữa biến APT và DA, trước tiên tôi tính giá trị trung

bình của DA tương ứng với từng năm kiểm toán, kết quả được trình bày trong bảng

(4.2). Chúng ta thấy rằng giá trị trung bình của DA trong năm kiểm toán đầu tiên là

cao nhất (0,1753). Điều này cho thấy một thực tế là kiểm toán năm đầu tiên tạo ra

nhiều rủi ro cho kiểm toán viên khiến chất lượng kiểm toán không cao. Biểu đồ (4.1)

cho thấy biến thiên của giá trị trung bình DA. Ta thấy rằng DA có xu hướng giảm qua

các năm và chỉ tăng khi nhiệm kỳ kiểm toán bước sang năm thứ 6. Từ đó, kết quả này

chứng tỏ rằng khi nhiệm kỳ kiểm toán không vượt quá 5 năm liên tục thì giá trị DA

trung bình càng giảm xuống, chất lượng kiểm toán tăng lên khi thông tin lợi nhuận

được đảm bảo độ chính xác và đáng tin cậy hơn.

Nhiệm kỳ kiểm toán Năm 1 Năm 2 Năm 3 Năm 4 Năm 5 Năm 6

Giá trị trung bình DA 0,1753 0,1506 0,0838 0,0806 0,0751 1,544

Số lượng quan sát 138 78 38 15 6 4

Bảng 4.2:Giá trị trung bình của biến DA ứng với từng năm

Biểu đồ 4.1: Biểu đồ thể hiện sự biến thiên của giá trị DA trung bình qua các năm

50

Kiểm định Lavene về giả thuyết bằng nhau giữa hai giá trị trung bình tổng thể

cũng cho kết quả tương ứng thể hiện trong bảng (4.3). Khi giá trị trung bình của DA

năm đầu tiên và năm thứ hai cho kết quả có thể khẳng định sự khác biệt giữa hai giá trị

trung bình với mức ý nghĩa 0,1 (giá trị t = 2,09 và giá trị sig = 0,098). Tương tự, giá trị

trung bình của DA năm 2 và năm 3 cũng cho thấy có sự khác biệt với độ tin cậy cao

hơn 99% (giá trị t = 3,99; giá trị sig = 0,00). Kết quả kiểm định giữa các năm còn lại

không có ý nghĩa về mặt thống kê, nguyên nhân là do các năm sau đó số lượng quan

sát trong các năm có sự chênh lệch khá lớn nên không có ý nghĩa khi dùng kiểm định

Lavene.

Năm

1

2

3

4

5

6

0,1753

0,1506

0,0838

0,0806 0,0751

1,544

Mean

0,2467

0,6683

0,0032

0.0054

-0,0792

Chênh lệch

0,21

0,39

-0,74

Giá trị t

2,09

3,99

0,70

0,51

Giá trị sig (2 chiều) 0,098(*) 0,00(***) 0,83

Bảng 4.3: Bảng kết quả kiểm định Lavene về sự khác biệt của giá trị trung bình

Phân tích tương quan giữa hai biến DA và APT thông qua hệ số tương quan

Pearson một lần nữa cho thấy có sự tương quan nghịch khá rõ giữa hai biến khi hệ số r

bằng -0,182 với độ tin cậy 99%.

DA APT Biến nghiên cứu

DA 1 -0,182 (**) Hệ số tương quan

Pearson APT -0,182 (**) 1

** Sự tương quan giữa hai biến nghiên cứu có ý nghĩa về mặt thống kê với mức ý nghĩa 0.01( 2 chiều)

0,002 Số lượng quan sát 279 Giá trị Sig(2 chiều)

Bảng 4.4: Kết quả phân tích tương quan giữa APT và DA

51

Kết quả hồi quy tuyến tính đơn biến được trình bày trong bảng (4.5), ta thấy hệ

số hồi quy giữa hai biến là -0,027 và kiểm định về ý nghĩa của hệ số hồi quy cho ra kết

quả giá trị sig bằng 0,002; tức là mối liên hệ này có độ tin cậy 99% . Từ đó, ta có thể

diễn dịch kết quả này như sau khi nhiệm kỳ kiểm toán viên tăng thêm 1 năm thì các

khoản dồn tích bất thường tại doanh nghiệp giảm đi 2,7% trên tổng giá trị tài sản năm

trước. Tuy nhiên, kết quả hồi quy đơn có thể không chính xác vì đã bỏ qua ảnh hưởng

của các biến độc lập khác mà theo các nghiên cứu trước cũng có ảnh hưởng đến biến

DA. Do đó, mô hình hồi quy tuyến tính đa biến được sử dụng và thêm vào các biến

độc lập khác như BIG4, LEV và GROW và CFO.

Coefficientsa

Unstandardized Coefficients

B

Standardized Coefficients Beta

t

Sig.

Model 1

(Constant) APT

.199 -.027

Std. Error .019 .009

-.182

10.393 -3.074

.000 .002

a.

Dependent Variable: DA

Bảng 4.5: Kết quả hồi quy tuyến tính đơn biến giữa APT và DA

4.3. Phân tích kết quả hồi quy tuyến tính đa biến

Kết quả hồi quy tuyến tính đa biến được trình bày trong bảng (4.6). Theo đó,

mô hình hồi quy này giải thích được 7,4% biến động của biến phụ thuộc DA (Adjusted R2 = 0,074). Giá trị F-stat bằng 5,419 và giá trị p-value bằng 0,000 cho thấy mô hình

có độ tin cậy khá cao. Nguyên nhân mô hình chỉ giải thích được 7,4% sự thay đổi của

DA là do biến DA đại diện cho chất lượng thông tin lợi nhuận từ đó đo lường chất

lượng kiểm toán. Và như đã đề cập ở trên chất lượng kiểm toán bị ảnh hưởng bởi

nhiều nhân tố mà nhiệm kỳ kiểm toán nói riêng chỉ là một trong số các nhân tố đó. Vì

vậy, không thể kỳ vọng mô hình có thể giải thích được toàn bộ sự thay đổi của DA.

52

Về giá trị và dấu của các hệ số hồi quy riêng phần, ta thấy rằng hệ số các biến

APT, BIG4, GROW và CFO có dấu tương đồng với kỳ vọng về mối tương quan giữa

các biến. Tuy nhiên, chỉ có hai biến APT và GROW có ý nghĩa về mặt thống kê, các

biến còn lại không có ý nghĩa vì giá trị p-value lớn hơn 0,05. Biến APT có hệ số hồi

quy là -0,028 và giá trị p-value là 0,002. Qua đó cho thấy giả thuyết nghiên cứu Ho bị

bác bỏ, giữa biến APT và DA thực sự có quan hệ tuyến tính với độ tin cậy 99%. Và

mối tương quan này là tương quan nghịch, tức là khi nhiệm kỳ kiểm toán tăng thêm 1

năm, giá trị DA sẽ giảm xuống 2,8% so với tổng tài sản năm trước. Biến GROW có hệ

số tương quan là +0,052, độ tin cậy cũng cao 99%. Kết quả này phù hợp với các kết

quả nghiên cứu trước đó, có nghĩa là khi công ty có tốc độ phát triển (được đo lường

bằng tốc độ tăng trưởng tổng tài sản năm nay so với năm trước) càng cao thì các khoản

dồn tích bất thường trong lợi nhuận sẽ càng cao và ngược lại.

Hệ số Giá trị p-value

Biến nghiên cứu Tương quan mong đợi tương quan kiểm định t

+/- -0,028 -3,161 0,002 (***) APT

- -0,039 -1,375 0.17 BIG4

+ -0,041 -0,937 0,35 LEV

+ 0,052 3,637 0,000 (***) GROW

- -0,00018 -0,764 0,45 CFO

0,074 R2 có điều chỉnh

5,419 Giá trị F-stat

0,000 (***) p-value

Bảng 4.6: Kết quả hồi quy tuyến tính đa biến

53

Ngoài ra, để chắc chắn hơn về mối liên hệ giữa nhiệm kỳ kiểm toán và chất

lượng kiểm toán, đồng thời kiểm chứng khoảng thời gian quy định luân chuyển 3 năm

là quá ngắn, tôi sẽ trích lọc các quan sát đã thu thập và thay đổi biến APT lần lượt

bằng biến APT3 và APT5. Trong đó, APT3 là biến đại diện cho các quan sát có APT

nhỏ hơn hay bằng 3; còn APT5 là biến đại diện cho các quan sát có APT nhỏ hơn hay

bằng 5 để lần lượt chạy phương trình hồi quy (3.1). Kết quả thể hiện mối tương quan

giữa APT3 và APT5 với DA được trình bày tóm tắt trong bảng (4.7). Các biến còn lại

như: BIG4, LEV, GROW, CFO cơ bản có hệ số hồi quy tương đương với kết quả

trong bảng (4.6). Hệ số hồi quy của biến APT3 và APT5 lần lượt là -0,041 và -0,035

với độ tin cậy 99%. Vì vậy, ta thấy rõ ràng rằng việc quy định nhiệm kỳ kiểm toán

viên tối đa 3 năm là chưa phù hợp. Kết quả cho thấy ngay cả khi nhiệm kỳ kiểm toán

tăng lên 5 năm thì DA cũng vẫn còn xu hướng giảm tức chất lượng kiểm toán đang

tăng lên. Do số quan sát trong năm kiểm toán thứ 6 khá ít (4 quan sát) nên cũng chưa

thể kết luận về chất lượng kiểm toán được.

Giá trị p-value

Số quan sát Tương quan mong đợi Hệ số hồi quy kiểm định t

Biến nghiên cứu

253 - -0,041 -2,86 0,005 (***) APT3

275 - -0,035 -3,6 0,000 (***) APT5

Bảng 4.7: Bảng kết quả hồi quy tuyến tính với hai biến APT3 và APT5

54

4.4. Một số nghiên cứu bổ sung về chất lượng kiểm toán

4.4.1. Nghiên cứu mối quan hệ giữa nhiệm kỳ kiểm toán viên với chất

lượng kiểm toán khi phân biệt dấu của DA

Với các kết quả như trên ta thấy khi kiểm toán viên thực hiện việc kiểm toán

cho một khách hàng trong một khoảng thời gian sẽ làm giảm bớt việc điều chỉnh lợi

nhuận của nhà quản lý doanh nghiệp. Và để kiểm chứng rõ hơn vấn đề này, tôi tiến

hành phân loại nguồn dữ liệu ra thành hai phần dựa trên dấu của giá trị DA. Số quan

sát có giá trị DA dương thể hiện động cơ nhà quản trị muốn khai khống lợi nhuận, và

số quan sát có DA âm thể hiện rằng nhà quản trị muốn che giấu bớt lợi nhuận để

chuyển sang kỳ kế toán sau. Lúc này, tôi sử dụng biến APT_P cho các quan sát có DA

dương và biến APT_N cho các quan sát có DA âm. Kết quả hồi quy tuyến tính thể

hiện mối quan hệ của biến APT_P và APT_N với DA được tóm tắt trong bảng (4.8).

Giá trị p-value

Biến nghiên cứu Số quan sát Tương quan mong đợi Hệ số hồi quy kiểm định t

APT_P 106 - -0,06 -2,63 0,01 (***)

APT_N 173 - -0,01 -1,69 0,094(*)

Bảng 4.8: Bảng kết quả hồi quy tuyến tính đa biến khi phân biệt dấu của DA

Kết quả trên cho thấy nhiệm kỳ kiểm toán dài giúp kiểm toán viên kiểm soát

được sự điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản trị thông qua hai hệ số đều âm và có ý

nghĩa. Trong đó, biến APT_P có độ tin cậy cao hơn (99%) biến APT_N và giá trị tuyệt

đối của hệ số hồi quy này cũng lớn hơn (0,06). Qua đó, ta có thể kết luận rằng nhiệm

kỳ kiểm toán dài giúp kiểm toán viên dễ phát hiện và điều chỉnh những khoản dồn tích

làm tăng khống lợi nhuận của doanh nghiệp giúp thông tin lợi nhuận không bị phóng

đại và đáng tin cậy hơn.

55

4.4.2. Nghiên cứu mối quan hệ giữa việc luân chuyển công ty kiểm toán và

chất lượng kiểm toán

Nhằm mục đích kiểm tra xem việc luân chuyển kiểm toán ở mức độ công ty có

ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán hay không, tác giả thêm vào phương trình hồi

quy (3.1) biến AFT thể hiện nhiệm kỳ công ty kiểm toán (được đo bằng số năm liên

tiếp một công ty kiểm toán thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính cho khách hàng). Kết

quả thể hiện ở bảng (4.9).

Coefficientsa

Unstandardized Coefficients

Standardized Coefficients Beta

B

Sig.

Model 1

(Constant) APT AFT BIG4 LEV GROW CFO

.201 -.031 .005 -.041 -.040 .053 -1.5E-008

Std. Error .031 .010 .006 .028 .044 .014 .000

t 6.571 -3.252 .907 -1.466 -.903 3.726 -.648

.000 .001 .365 .144 .367 .000 .518

-.212 .059 -.092 -.054 .219 -.041

a.

Dependent Variable: DA

Bảng 4.9: Bảng kết quả hồi quy tuyến tính đa biến khi thêm biến AFT

Ta thấy hai biến có ý nghĩa lúc đầu là APT và GROW vẫn có ý nghĩa thống kê

rất cao. Biến AFT có hệ số hồi quy là +0,005 nhưng không có ý nghĩa. Do đó, có thể

kết luận giữa biến AFT và biến DA không có quan hệ với nhau. Hay nói cách khác,

nhiệm kỳ công ty kiểm toán không có quan hệ với chất lượng kiểm toán.

56

CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN KIẾN NGHỊ VÀ NHỮNG

GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI

5.1. Kết luận và kiến nghị

Kiểm toán độc lập báo cáo tài chính đang ngày càng trở nên phổ biến tại các

nền kinh tế phát triển. Với những lợi ích mang lại cho thị trường tài chính thông qua

việc đảm bảo sự minh bạch thông tin công bố, ngành kiểm toán sẽ ngày càng phát triển

phát triển hơn nữa trong tương lai thông qua việc nâng cao tính chuyên nghiệp, đa

dạng hóa các dịch vụ cung cấp để phù hợp hơn nữa với nhu cầu người sử dụng. Tại

Việt Nam, một nền kinh tế đang trong tiến trình hội nhập, quá trình phát triển này là tất

yếu và phù hợp với xu hướng hiện nay trên thế giới. Chính vì lẽ đó, việc kiểm soát

chất lượng hoạt động kiểm toán nói chung và hoạt động kiểm toán báo cáo tài chính

nói riêng là một vấn đề thời sự đang đặt ra cho các nhà quản lý tại Việt Nam. Mặc dù

chất lượng kiểm toán phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng phần lớn tùy thuộc vào trình

độ chuyên môn và sự độc lập khách quan của các kiểm toán viên đang trực tiếp hành

nghề. Và một trong những quy định đã được đưa ra nhằm tăng cường sự độc lập của

các kiểm toán viên là quy định về việc luân chuyển kiểm toán viên bắt buộc sau một

khoảng thời gian nhất định.

Trong lúc các quy định bắt buộc về luân chuyển kiểm toán ở mức độ công ty

vẫn còn đang được tiếp tục tranh luận thì vấn đề luân chuyển kiểm toán viên đã được

áp dụng tại nhiều quốc gia với phạm vi áp dụng và thời gian luân chuyển khác nhau.

Các nghiên cứu trên thế giới về quy định này cũng khá đa dạng về phương pháp

nghiên cứu, cách tiếp cận vần đề cũng như kết quả nghiên cứu. Trong số đó, khá nhiều

nghiên cứu không ủng hộ quan điểm cho rằng: Luân chuyển kiểm toán viên bắt buộc

làm gia tăng chất lượng kiểm toán. Tuy nhiên cũng không ít nghiên cứu ủng hộ quy

57

định này và xem nó như một chính sách hữu hiệu để gia tăng chất lượng kiểm toán.

Trong nghiên cứu thực nghiệm này tại thị trường Việt Nam sử dụng thước đo các

khoản dồn tích bất thường DA, tác giả thấy rằng giữa nhiệm kỳ kiểm toán và chất

lượng kiểm toán có mối quan hệ tuyến tính với nhau (ít nhất là trong vòng 5 năm đầu).

Khi nhiệm kỳ kiểm toán càng dài thì chất lượng kiểm toán càng cao.

Với các bằng chứng thu thập được cùng với kết quả nghiên cứu của đề tài cho

thấy quy định về luân chuyển kiểm toán viên ở Việt Nam là có cơ sở khoa học và phù

hợp với quy định tại nhiều quốc gia trong khu vực cũng như trên thế giới.Tuy nhiên,

đối với quy định tại mục 5 điều 36 trong nghị định 17/2012/NĐ-CP về nhiệm kỳ kiểm

toán viên tối đa là 3 năm là không phù hợp so với kết quả trong nghiên cứu này. Qua

đó, tác giả kiến nghị sắp tới khi ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật kiểm

toán độc lập Chính phủ, Bộ Tài chính cần thay đổi điều 36 trong nghị định 17/2012

bằng cách nâng thời hạn tối đa phải thay đổi kiểm toán viên lên 5 năm thay vì 3 năm

như hiện nay. Bởi lẽ, quy định về nhiệm kỳ kiểm toán viên của nghị định 17/2012/

NĐ-CP có thể một phần nào đó làm gia tăng tính độc lập của các kiểm toán viên

nhưng lại khiến họ phải gặp rủi ro cao trong nghề nghiệp khi làm lãng phí những kinh

nghiệm thực tế, những hiểu biết sâu sắc về tình hình và đặc điểm kinh doanh của

doanh nghiệp hiện tại; đồng thời họ lại gặp khó khăn trong việc tìm hiểu một khách

hàng mới để lập kế hoạch kiểm toán năm đầu tiên (trong đó thường phát hành báo cáo

loại trừ những ảnh hưởng của số dư đầu kỳ) khiến số liệu trên báo cáo tài chính không

còn trung thực, hợp lý nữa. Do đó, quy định này thực sự đã làm giảm chứ không làm

tăng chất lượng kiểm toán như mong đợi, tăng thêm chi phí xã hội mà lợi ích mang lại

thì không rõ ràng.

Về vấn đề luân chuyển kiểm toán ở mức độ công ty, kết quả của nghiên cứu này

cho thấy không có mối liên hệ tuyến tính rõ ràng giữa nhiệm kỳ kiểm toán và kiểm

toán viên. Qua đó có thể kết luận rằng không có bằng chứng cho thấy nhiệm kỳ công

ty kiểm toán dài sẽ làm giảm chất lượng kiểm toán.

58

5.2. Một số hạn chế và đóng góp của đề tài

Bên cạnh một số kết luận được rút ra, nghiên cứu này vẫn còn một số hạn chế

như sau:

Thứ nhất là trong nghiên cứu này, tác giả chỉ sử dụng một thước đo là các

khoản dồn tích để đánh giá chất lượng kiểm toán đứng ở góc độ nhà đầu tư và các bên

thứ ba cần những thông tin đáng tin cậy trên báo cáo tài chính. Việc chỉ sử dụng một

thước đo trong một chừng mực nào đó có thể không khách quan khi không đối chiếu

được kết quả với các thước đo chất lượng kiểm toán khác.

Thứ hai là về mẫu nghiên cứu, do bị giới hạn về thời gian thực hiện đề tài cũng

như những giới hạn về nguồn dữ liệu phù hợp để nghiên cứu vấn đề này nên mẫu

nghiên cứu tương đối nhỏ và có thể không đại diện hết cho toàn bộ thị trường chứng

khoán Việt Nam.

Cuối cùng là về mô hình định lượng sự quản trị lợi nhuận bằng mô hình

Modified Cross-sectional Jones model (1995), mô hình này đã được sử dụng khá rộng

rãi trên thế giới để nghiên cứu chất lượng kiểm toán. Tuy nhiên, vẫn còn có nhiều quan

điểm khác nhau về các biến số trong phương trình hồi quy và phương pháp chạy mô

hình (như nhóm các công ty theo ngành nghề, theo năm tài chính hay theo hiệu suất sử

dụng tài sản_ROA….). Các nghiên cứu sau này có thể sử dụng các phương pháp và

mô hình khác để kiểm chứng kết quả.

Một số đóng góp của nghiên cứu này có thể kể đến như sau. Thứ nhất, nghiên

cứu cung cấp bằng chứng làm cơ sở cho việc quy định luân chuyển kiểm toán viên ở

các văn bản hướng dẫn Luật Kiểm toán độc lập ở Việt Nam. Đồng thời, nghiên cứu

này giới thiệu một phương pháp đo lường việc điều chỉnh thông tin lợi nhuận của nhà

quản trị trên báo cáo tài chính. Bên cạnh đó, nhằm mục đích gia tăng chất lượng kiểm

toán báo cáo tài chính tại Việt Nam, thì các cơ quan hữu quan như Vụ Chế Độ Kế

Toán và Kiểm Toán cũng như Hiệp Hội Kiểm Toán Viên Hành Nghề (VACPA) cần

59

tăng cường phối hợp công tác kiểm tra, kiểm soát chất lượng kiểm toán từ bên ngoài,

đặc biệt cần chú trọng đến những hợp đồng kiểm toán năm đầu tiên.

Đối với việc kiểm soát chất lượng từ bên trong, các công ty kiểm toán cần thận

trọng hơn trong việc tiếp nhận khách hàng mới, tăng cường công tác đào tạo, huấn

luyện đội ngũ nhân viên nhằm nâng cao trình độ kiểm toán viên; đồng thời có những

chính sách khuyến khích việc chia sẻ những kinh nghiệm, những hiểu biết từ những

kiểm toán viên tiền nhiệm cho nhóm kiểm toán viên mới nhằm mục tiêu vừa có thể

tăng cường sự độc lập nhưng vẫn đảm bảo kiểm toán viên mới có được những hiểu

biết cần thiết về khách hàng để cuộc kiểm toán đạt được chất lượng mong muốn. Cuối

cùng, kết quả nghiên cứu này hi vọng đóng góp một phần nhỏ bé nào đó về quan điểm

không ủng hộ quy định luân chuyển kiểm toán viên bắt buộc với nhiệm kỳ quá ngắn,

kết quả này cũng tương đồng với nhiều nghiên cứu trước đây trên thế giới.

60

TÀI LIỆU THAM KHẢO

-----☼☼۩☼☼-----

TIẾNG VIỆT:

1. Bộ Tài Chính. Hệ thống Chuẩn mực kế toán Việt Nam.

2. Bộ Tài Chính. Hệ thống Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam.

3. Đường Nguyễn Hưng (2013) Hành vi quản trị lợi nhuận đối với thông tin lợi nhuận

công bố trên báo cáo tài chính, Tạp chí kế toán và kiểm toán.

http://www.vacpa.org.vn/index.php?o=modules&n=forum&f=forum_detail&idforum

=714&page=2

4. Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc, (2008). Phân tích dữ liệu nghiên cứu với

SPSS. TP HCM: Nhà xuất bản Hồng Đức.

5. Khoa kế toán kiểm toán - Bộ môn kiểm toán - Trường đại học kinh tế TPHCM (2007).

Kiểm toán (tái bản lần thứ 5), Nhà xuất bản Lao động xã hội.

6. Nguyễn Công Phương (2010). Kế toán theo cơ sở dồn tích và kế toán theo cơ sở

tiền.Tạp chí kế toán số 77

http://www.tapchiketoan.com/ke-toan/ke-toan-tong-hop/ke-toan-theo-co-so-don-tich-

va-quan-tri-loi-nhuan-cua-doanh-n-6.html

7. Trần Khánh Lâm (2011). Xây dựng cơ chế kiểm soát chất lượng cho hoạt động kiểm

toán hoạt động tại Việt Nam, luận án tiến sĩ, Trường đại học kinh tế TPHCM.

8. VACPA, Báo cáo tổng kết hoạt động năm 2011 và phương hướng hoạt động năm

2012 của các công ty kiểm toán.

TIẾNG ANH:

9. Bartov,E., Gul,F.A., & Tsui,J.S.L. (2000). Discretionary accruals and audit

qualifications. The ninth Annual Conference on Financial Economics and Accouting.

The University of Rochester.

10. Beatty, R. P. (1989). Auditor reputation and the pricing of initial public offerings.

Accounting Review, 693-709.

11. Carcello,T.V. & Nagy,A.L. (2004). Audit firm tenure and fraudulent financial

reporting. Auditing: A Journal of Pratice and Theory, 23(2), 55-69.

12. Chen,C.,Y., Lin,C.J. & Lin,Y.C. (2004). Audit partner tenure, audit firm tenure and

discretionary accruals: Does long auditor tenure impair earnings quality?.

Contemporary Accounting Research, 25,415-445.

13. Chi,W., Huang,H., Lian,Y. & Xie,H. (2009). Mandatory Audit-Partner Rotation,

Audit Quality and Market Perception: Evidence from Taiwan.Contemporary

Accounting Research, 26, 359-391.

14. Chi,H. & Huang,H. (2003). Discretioary Accruals,audit firm tenure and audit partner

tenure: An empirical case in Taiwan. Journal of Contemporary Accouting and

Economics, 1(1), 65-92.

15. Chung,H. (2004). Selective mandatory auditor rotation and audit quality: An

empirical investigation of auditor designation policy in Korea. Doctoral’s

dissertation. Purdue University, West Lafayette Indiana, US.

16. Davis,L.R., Soo,B. & Trompeter,G. (2003). Audit tenure, auditor independence, and

earnings management. Working paper. Boston College.

17. DeAngelo,L.(1981). Auditor size and audit quality. Journal of Accounting and

Economics, 113-127.

18. Dechow, P. & Schrand, C. &Ge W. (2009). Understanding earning quality: A review of the

proxies, their determinants and their consequences. Center for Accounting Research,

University of Notre Dame.

19. Dechow,P.M., Sloan,R.G. & Sweeney,A.P.(1995). Detecting earnings management.

The Accounting Review, 70(2), 193-225.

20. Dopuch,N., King,R.R., & Schwartz, R. (2001). An experimental investigation of

retention and rotation requirements. Journal of Accounting Research, 39(1), 93-117.

21. Geiger,M. & Raghunandan,K. (2002). Auditor tenure and audit quality. Auditing: A

Journal of Practice and Theory ,21(March): 187-196.

22. Ghosh, A. & Moon,D. (2005). Auditor Tenure and Perceptions of Audit Quality. The

Accounting Review, 80(2), 585-612

23. Ghosh,A. & Moon,D. (2003). Does auditor tenure impair audit quality. Working

paper, The Securities and Exchange Commission

24. Gietzmann,M. & Sen,P.K. (2002). Improving auditor independence through

selsective mandatory rotation. International Journal of Auditting, 6, 183-210.

25. Hamilton,J.M, Ruddock,C., Stokes,D. &Taylor,S. ( 2005). Audit Partner Rotation,

Earnings Quality and Earnings Conservatism. University of New South Wales. SSRN

Electronic Journal, pp.1–42..

26. Healy,P. (1985). The effect of bonus schemes on accounting decision. Journal of

Accounting and Economics, 7, 85-107.

27. Jackson, A.B., Moldrich, M. & Roebuck, P., (2008). Mandatory Audit Firm Rotation

and Audit Quality. Managerial Auditting Journal, 3(5): 420-437.

28. Johnson,V.E., Khurana,I.K. & Reynold,J.K. (2002). Audit firm tenure and the quality

of financial reporting. Contemporary Accounting ,19(Winter): 637-660.

29. Jones J.J.(1991). Earnings management during import relief investigations. Journal of

Accounting Research, 29(Autumn): 193-228.

30. Kasznik, R. (1996). On the association between voluntary disclosure and earnings

management. Journal of Accounting Research, 37, 57-81.

31. Kim,J.B., Min,C.K. & Yi,C.H. (2004). Auditor designation,auditor independence and

earnings management: Evidence from Korea. Working paper. The Hong Kong

Polytechnic University.

32. Knapp, M. C. (1991). Factors that audit committee members use as surrogates for

audit quality. Auditing: A Journal of Practice and Theory, 10(1), 35-52.

33. Knechel, W. R., Vanstraelen, A. (2007). The relationship between auditor tenure and

audit quality implied by going concern opinion. Auditting: A Journal of Practice and

Theory, 26(1):113-131.

34. Krishman,G.,V. (2002) Audit quality and the pricing of discretionary accrual. The city

University of Hong Kong.

35. Krishnan,J., & Schauer,P.C. (2001). Differences in quality among audit firms.

Journal of Accountancy, 192(1), 85.

36. Lobo, G.,J., & Zhou J. ( 2001). Disclosure Quality and Earnings Management. Asia-

Pacific Journal of Accounting and Economics, 8(1), 1-20.

37. Myers,J.N., Myers,L.A. & Omer,T.C.(2003). Exploring the term of the auditor –

client relationship and the quality of earnings: A case for mandatory auditor rotation.

The Accounting Review ,78 (July): 779-799.

38. Siregar,S.,V., Amarullah, F., Wibowo, A. & Anggranita, V. (2012). Auditor tenure,

auditor rotation and audit quality: The case of Indonesia. Asian Journal of Business

and Accounting, 5(1), 55-74.

39. Simnett,R & Carey,B. (2005). Audit partner tenure and audit quality. Accounting

Review, forthcoming.

PHỤ LỤC 1

------☼☼۩☼☼ ------

DANH SÁCH 39 CÔNG TY TRONG MẪU NGHIÊN CỨU

STT Mã CK Tên công ty Năm lấy mẫu

BBC Công ty cổ phần Bibica 2001-2011 1

AGF Công ty cổ phần xuất nhập khẩu thủy sản An Giang 2003-2011 2

BT6 Công ty cổ phần bê tông 6 2004-2011 3

GIL 2007-2011 4

Công ty cổ phần sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu Bình Thạnh

GMD Công ty cổ phần Gemadept 2004-2011 5

HAS Công ty cổ phần Hacisco 2004-2011 6

HAP Công ty cổ phần tập đoàn Hapaco 2004-2011 7

MHC Công ty cổ phần hàng hải Hà Nội 2004-2011 8

REE Công ty cổ phần cơ điện lạnh REE 2004-2011 9

SAM Công ty cổ phần đầu tư phát triển Sacom 2005-2011 10

2004-2011 11 SAV Công ty cổ phần hợp tác kinh tế và xuất nhập khẩu

SAVIMEX

SFC Công ty cổ phần nhiên liệu Sài Gòn 2005-2011 12

TMS Công ty cổ phần Transimex-Saigon 2004-2011 13

TNA Công ty cổ phần thương mại xuất nhập khẩu Thiên 2005-2011 14

Nam

TYA Công ty cổ phần dây và cáp điện TAYA Việt Nam 2006-2011 15

VNM Công ty cổ phần sữa Việt Nam Vinamilk 2005-2012 16

VPK Công ty cổ phần bao bì dầu thực vật 17 2006-2011

VIS Công ty cổ phần thép Việt Ý 18 2006-2012

VSH Công ty cổ phần thủy điện Vĩnh Sơn-Sông Hinh 19 2005-2011

BMC Công ty cổ phần khoáng sản Bình Định 20 2004-2011

BMP Công ty cổ phần nhựa Bình Minh 21 2006-2011

CII Công ty cổ phần đầu tư hạ tầng kỹ thuật TPHCM 22 2006-2012

CAN Công ty cổ phần đồ hộp Hạ Long 23 2006-2011

DHA Công ty cổ phần Hóa An 24 2004-2011

KDC Công ty cổ phần Kinh Đô 25 2005-2011

PMS / Công ty cổ phần cơ khí xăng dầu 26 2005-2011

SGH Công ty cổ phần khách sạn Sài Gòn 27 2006-2011

TRI Công ty cổ phần nước giải khát Sài Gòn TRIBECO 28 2004-2009

ALP Công ty cổ phần đầu tư Alphanam 29 2007-2011

RAL Công ty cổ phần bóng đèn phích nước Rạng Đông 30 2006-2011

TAC Công ty cổ phần dầu thực vật Tường An 31 2006-2011

TCR Công ty cổ phần công nghiệp gốm sứ Taicera 32 2007-2011

OPC Công ty cổ phần dược phẩm OPC 33 2008-2012

KHA Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Khành Hội 34 2004-2012

LAF Công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An 35 2005-2012

SSC Công ty cổ phần giống cây trồng miền Nam 36 2005-2012

VTB Công ty cổ phần Viettronics Tân Bình 37 2006-2012

ABT Công ty cổ phần xuất nhập khẩu thủy sản Bến Tre 38 2006-2012

BHS Công ty cổ phần đường Biên Hòa 39 2004-2011

PHỤ LỤC 2

-----☼☼۩☼☼-----

KẾT QUẢ THỐNG KÊ MÔ TẢ CÁC BIẾN NGHIÊN CỨU VÀ

BẢNG TẦN SỐ HAI BIẾN APT VÀ AFT

Descriptive Statistics

Mean

Statistic .148402 1.87 2.93 .16 .4011 .2787

Minimum Maximum Statistic Statistic 1.6188 .0043 6 1 8 1 1 0 1.61 .02 9.29 -.39 5294567 -820515

Std. Error .0099709 .067 .107 .022 .01345 .04092 92686.41 26567.534

Std. Deviation Statistic .1665475 1.121 1.792 .372 .22458 .68352 443765.3

Variance Statistic .028 1.257 3.211 .138 .050 .467 2E+011

DA APT AFT BIG4 LEV GROW CFO Valid N (listwise)

N Statistic 279 279 279 279 279 279 279 279

Statistics

APT

AFT

Valid

N Mean Std. Error of Mean Median Mode Std. Deviation

279 1.87 .067 2.00 1 1.121

279 2.93 .107 3.00 1 1.792

PHỤ LỤC 3

-----☼☼۩☼☼-----

KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH LAVENE VỀ SỰ KHÁC NHAU CỦA CÁC GIÁ TRỊ TRUNG BÌNH

*Năm 1 và năm 2

Group Statistics

N

DA

APT 1 2

138 78

Mean .175311 .150637

Std. Deviation .2065902 .1261936

Std. Error Mean .0175861 .0142886

Independent Samples Test

Levene's Test for Equality of Variances

t-test for Equality of Means

F

Sig.

t

df

Sig. (2-tailed)

Mean Difference

DA

.520

.472

.958

214

.339

.0246737

2.089

212.679

.098

.0246737

Equal variances assumed Equal variances not assumed

*Năm 2 và năm 3

Group Statistics

N

DA

APT 2 3

78 38

Mean .150637 .083808

Std. Deviation .1261936 .0539334

Std. Error Mean .0142886 .0087492

Independent Samples Test

Levene's Test for Equality of Variances

t-test for Equality of Means

F

Sig.

t

df

Sig. (2-tailed)

Mean Difference

DA

10.144

.002

3.123

114

.002

.0668293

3.989

112.618

.000

.0668293

Equal variances assumed Equal variances not assumed

PHỤ LỤC 4

-----☼☼۩☼☼-----

KẾT QUẢ PHÂN TÍCH TƯƠNG QUAN VÀ HỒI QUY TUYẾN TÍNH GIỮA HAI BIẾN APT VÀ DA

Correlations

DA

APT

DA

1

APT

-.182** .002 279 1

Pearson Correlation Sig. (2-tailed) N Pearson Correlation Sig. (2-tailed) N

279 -.182** .002 279

279

**.

Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).

Model Summary

R

Model 1

.182a

R Square .033

Adjusted R Square .029

Std. Error of the Estimate .1640731

a.

Predictors: (Constant), APT

ANOVAb

df

Sig.

Model 1

F 9.448

.002a

Mean Square .254 .027

Regression Residual Total

Sum of Squares .254 7.457 7.711

1 277 278

a.

Predictors: (Constant), APT

b.

Dependent Variable: DA

Coefficientsa

Unstandardized Coefficients

B

Standardized Coefficients Beta

t

Sig.

Model 1

(Constant) APT

.199 -.027

Std. Error .019 .009

-.182

10.393 -3.074

.000 .002

a.

Dependent Variable: DA

PHỤ LỤC 5

-----☼☼۩☼☼-----

KẾT QUẢ HỒI QUY TUYẾN TÍNH ĐA BIẾN

Model Summary

R

Model 1

.300a

R Square .090

Adjusted R Square .074

Std. Error of the Estimate .16066

a.

Predictors: (Constant), CFO, GROW, APT, LEV, BIG4

ANOVAb

Sig.

df

Model 1

F 5.419

.000a

Mean Square .140 .026

Regression Residual Total

Sum of Squares .699 7.047 7.746

5 273 278

a.

Predictors: (Constant), CFO, GROW, APT, LEV, BIG4

b.

Dependent Variable: DA

Coefficientsa

Unstandardized Coefficients

Standardized Coefficients Beta

B

Sig.

Model 1

(Constant) APT BIG4 LEV GROW CFO

.210 -.028 -.039 -.041 .052 -1.8E-008

Std. Error .028 .009 .028 .044 .014 .000

t 7.396 -3.161 -1.375 -.937 3.637 -.764

.000 .002 .170 .350 .000 .445

-.187 -.087 -.055 .212 -.048

a.

Dependent Variable: DA

PHỤ LỤC 6

-----☼☼۩☼☼-----

KẾT QUẢ HỒI QUY TUYẾN TÍNH

KHI BIẾN APT CÓ GIÁ TRỊ NHỎ HƠN HAY BẰNG 3

Model Summary

R

Model 1

.303a

R Square .092

Adjusted R Square .074

Std. Error of the Estimate .16496

a.

Predictors: (Constant), CFO, APT, GROW, LEV, BIG4

ANOVAb

df

Sig.

Model 1

F 5.022

.000a

Mean Square .137 .027

Regression Residual Total

Sum of Squares .683 6.748 7.432

5 248 253

a.

Predictors: (Constant), CFO, APT, GROW, LEV, BIG4

b.

Dependent Variable: DA

Coefficientsa

Unstandardized Coefficients

Standardized Coefficients Beta

B

Sig.

Model 1

(Constant) APT BIG4 LEV GROW CFO

.235 -.041 -.037 -.052 .052 -3.3E-008

Std. Error .034 .014 .030 .047 .015 .000

t 6.901 -2.863 -1.225 -1.093 3.499 -.950

.000 .005 .222 .276 .001 .343

-.176 -.081 -.068 .214 -.063

a.

Dependent Variable: DA

PHỤ LỤC 7

-----☼☼۩☼☼-----

KẾT QUẢ HỒI QUY TUYẾN TÍNH

KHI BIẾN APT CÓ GIÁ TRỊ NHỎ HƠN HAY BẰNG 5

Model Summary

R

Model 1

.319a

R Square .102

Adjusted R Square .085

Std. Error of the Estimate .15905

a.

Predictors: (Constant), CFO, GROW, APT, LEV, BIG4

ANOVAb

df

Sig.

Model 1

F 6.087

.000a

Mean Square .154 .025

Regression Residual Total

Sum of Squares .770 6.805 7.575

5 269 274

a.

Predictors: (Constant), CFO, GROW, APT, LEV, BIG4

b.

Dependent Variable: DA

Coefficientsa

Unstandardized Coefficients

Standardized Coefficients Beta

B

Sig.

Model 1

(Constant) APT BIG4 LEV GROW CFO

.222 -.035 -.041 -.041 .052 -1.6E-008

Std. Error .029 .010 .028 .044 .014 .000

t 7.701 -3.595 -1.471 -.946 3.693 -.674

.000 .000 .142 .345 .000 .501

-.213 -.093 -.056 .215 -.043

a.

Dependent Variable: DA

PHỤ LỤC 8

-----☼☼۩☼☼-----

KẾT QUẢ HỒI QUY TUYẾN TÍNH KHI DA DƯƠNG

Model Summary

R

Model 1

.359a

R Square .129

Adjusted R Square .086

Std. Error of the Estimate .22904

a.

Predictors: (Constant), CFO, GROW, APT, LEV, BIG4

ANOVAb

df

Sig.

Model 1

F 2.967

.015a

Mean Square .156 .052

Regression Residual Total

Sum of Squares .778 5.246 6.024

5 100 105

a.

Predictors: (Constant), CFO, GROW, APT, LEV, BIG4

b.

Dependent Variable: DA

Coefficientsa

Unstandardized Coefficients

Standardized Coefficients Beta

B

Sig.

Model 1

(Constant) APT BIG4 LEV GROW CFO

.358 -.060 -.067 -.169 .045 -4.4E-008

Std. Error .069 .023 .060 .099 .022 .000

t 5.149 -2.637 -1.112 -1.695 2.005 -.660

.000 .010 .269 .093 .048 .511

-.258 -.110 -.166 .191 -.066

a.

Dependent Variable: DA

PHỤ LỤC 9

-----☼☼۩☼☼-----

KẾT QUẢ HỒI QUY TUYẾN TÍNH KHI DA ÂM

Model Summary

R

Model 1

.184a

R Square .034

Adjusted R Square .005

Std. Error of the Estimate .08974

a.

Predictors: (Constant), CFO, APT, GROW, LEV, BIG4

ANOVAb

df

Sig.

Model 1

F 1.168

.327a

Mean Square .009 .008

Regression Residual Total

Sum of Squares .047 1.345 1.392

5 167 172

a.

Predictors: (Constant), CFO, APT, GROW, LEV, BIG4

b.

Dependent Variable: DA

Coefficientsa

Unstandardized Coefficients

Standardized Coefficients Beta

B

Sig.

Model 1

(Constant) APT BIG4 LEV GROW CFO

.138 -.010 -.022 .011 .031 -6.6E-009

Std. Error .020 .006 .021 .032 .025 .000

t 7.015 -1.685 -1.039 .329 1.244 -.424

.000 .094 .300 .742 .215 .672

-.130 -.088 .025 .095 -.036

a.

Dependent Variable: DA

PHỤ LỤC 10

-----☼☼۩☼☼-----

KẾT QUẢ HỒI QUY TUYẾN TÍNH

KHI ĐƯA THÊM BIẾN AFT VÀO PHƯƠNG TRÌNH

Model Summary

R

Model 1

.306a

R Square .094

Adjusted R Square .074

Std. Error of the Estimate .1602860

a.

Predictors: (Constant), CFO, GROW, APT, LEV, BIG4, AFT

ANOVAb

df

Sig.

Model 1

F 4.691

.000a

Mean Square .121 .026

Regression Residual Total

Sum of Squares .723 6.988 7.711

6 272 278

a.

Predictors: (Constant), CFO, GROW, APT, LEV, BIG4, AFT

b.

Dependent Variable: DA

Coefficientsa

Unstandardized Coefficients

Standardized Coefficients Beta

B

Sig.

Model 1

(Constant) APT AFT BIG4 LEV GROW CFO

.201 -.031 .005 -.041 -.040 .053 -1.5E-008

Std. Error .031 .010 .006 .028 .044 .014 .000

t 6.571 -3.252 .907 -1.466 -.903 3.726 -.648

.000 .001 .365 .144 .367 .000 .518

-.212 .059 -.092 -.054 .219 -.041

a.

Dependent Variable: DA