BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
----------------------------------
TRẦN THỊ KIM DUNG
ẢNH HƯỞNG CỦA THẬN TRỌNG KẾ TOÁN ĐẾN GIÁ
TRỊ THÍCH HỢP CỦA THÔNG TIN TRÊN BÁO CÁO TÀI CHÍNH –
BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP
NHỎ VÀ VỪA TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP.Hồ Chí Minh – Năm 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
----------------------------------
TRẦN THỊ KIM DUNG
ẢNH HƯỞNG CỦA THẬN TRỌNG KẾ TOÁN ĐẾN GIÁ TRỊ
THÍCH HỢP CỦA THÔNG TIN TRÊN BÁO CÁO TÀI
CHÍNH – BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM ĐỐI VỚI CÁC
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành : Kế toán (hướng Nghiên cứu)
Mã số : 8340301
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS MAI THỊ HOÀNG MINH
TP.Hồ Chí Minh – Năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu do chính tác giả thực hiện. Các số liệu
trong luận văn là trung thực. Kết quả luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
Tất cả những phần kế thừa, tài liệu tham khảo đã được tác giả trích dẫn đầy đủ và
ghi nguồn cụ thể trong danh mục tài liệu tham khảo.
Hồ Chí Minh, ngày......tháng......năm 2020
Tác giả
Tràn Thị Kim Dung
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1. Các biến trong mô hình đo lường giá trị thích hợp thông tin
Bảng 3.2. Các biến trong mô hình đo lường thận trọng kế toán
Bảng 3.3. Mẫu nghiên cứu
Bảng 3.4. Số lượng và tỷ lệ các công ty thuộc mẫu nghiên cứu theo ngành nghề
Bảng 4.1. Kết quả thống kê mô tả
Bảng 4.2. Kết quả kiểm định R2 và R2 hiệu chỉnh
Bảng 4.3. Kết quả đo lường thận trọng kế toán giai đoạn 2014-2018
Bảng 4.4. Kết quả mô hình hồi quy kết hợp đo lường giá trị thích hợp thông tin
theo Ohlson (1995)
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 3.1. Quy trình nghiên cứu
DANH MỤC BẢNG VIẾT TẮT
DNNVV DNNVV
Sàn giao dịch chứng khoán SGDCK
Báo cáo tài chính BCTC
Doanh nghiệp DN
Trách nhiệm hữu hạn TNHH
Cổ phần CP
Thành phố Hồ Chí Minh TP.HCM
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................... 2
DANH MỤC BẢNG ...................................................................................................... 4
DANH MỤC HÌNH VẼ ................................................................................................. 5
DANH MỤC BẢNG VIẾT TẮT .................................................................................. 6
Tóm tắt: ........................................................................................................................ 10
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu ...................................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................ 3
2.1. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................... -3
2.2. Câu hỏi nghiên cứu ...................................................................................... 3
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu................................................... 4
3.1. Về đối tượng nghiên cứu .............................................................................. 4
3.2. Về phạm vi nghiên cứu ................................................................................ 4
4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 4
5. Đóng góp của đề tài .............................................................................................. 4
6. Kết cấu của luận văn ............................................................................................ 5
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU .................................................... 6
1.1. Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến ảnh hưởng của thận trọng kế toán
đến giá trị thích hợp thông tin trên báo cáo tài chính .......................................... 6
1.1.1. Các nghiên cứu trên thế giới .................................................................... 6
1.1.2. Các nghiên cứu tại Việt Nam .................................................................... 8
1.2. Khe hổng nghiên cứu ...................................................................................... 10
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ............................................................................................ 12
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT ........................................................................... 13
2.1. Các khái niệm có liên quan ............................................................................ 13
2.1.1. Giá trị thích hợp thông tin kế toán trên BCTC ...................................... 13
2.1.1.1. Định nghĩa ......................................................................................... 13
2.1.1.2. Các mô hình đo lường giá trị thích hợp thông tin trên BCTC .......... 14
2.1.2. Thận trọng kế toán .................................................................................. 16
2.1.2.1. Định nghĩa ......................................................................................... 16
2.1.2.2. Các mô hình đo lường thận trọng kế toán ......................................... 22
2.2. Phân loại các hình thức thận trọng kế toán .................................................. 27
2.3. Ảnh hưởng của thận trọng kế toán lên báo cáo tài chính ........................... 28
2.3.1. Các thuộc tính thời gian của thu nhập ................................................... 29
2.3.2. Dồn tích .................................................................................................... 30
2.3.3. Hành vi quản trị thu nhập ...................................................................... 31
2.4. Lý thuyết nền tảng liên quan ......................................................................... 32
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ............................................................................................ 35
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ....................................................... 36
3.1. Phương pháp nghiên cứu và quy trình nghiên cứu ..................................... 36
3.1.1. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 36
3.1.2. Quy trình nghiên cứu .............................................................................. 38
3.2. Mô hình hồi quy và đo lường các biến trong mô hình ................................. 42
3.2.1. Mô hình hồi quy đo lường giá trị thích hợp thông tin ........................ 42
3.2.2. Mô hình hồi quy đo lường thận trọng kế toán. ................................... 44
3.3. Giả thuyết nghiên cứu đề xuất .................................................................... 46
3.4. Thiết kế nghiên cứu ......................................................................................... 51
3.4.1. Mẫu nghiên cứu .................................................................................... 51
3.4.2. Mô tả mẫu nghiên cứu ......................................................................... 54
3.4.3. Thu thập dữ liệu .................................................................................... 55
3.4.4. Quy trình phân tích dữ liệu .................................................................. 56
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ............................................................................................ 58
CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN ...................................... 59
4.1. Phân tích thống kê mô tả ................................................................................ 59
4.2. Kiểm định hệ số R bình phương (R Square) và R bình phương hiệu chỉnh
(Adjusted R Square) .............................................................................................. 60
4.3. Mô hình hồi quy kết hợp đo lường thận trọng kế toán. .............................. 62
4.4. Mô hình hồi quy kết hợp đo lường giá trị thích hợp thông tin và ảnh hưởng
của thận trọng kế toán đến giá trị thích hợp thông tin ...................................... 64
4.5. Bàn luận kết quả nghiên cứu ......................................................................... 67
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4 ............................................................................................ 68
CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ HÀM Ý CHÍNH SÁCH .......................... 69
5.1. Kết luận chung ................................................................................................ 69
5.2. Một số hàm ý chính sách ................................................................................ 70
5.2.1. Đối với cơ quan quản lý Nhà nước ......................................................... 70
5.2.2. Đối với các DNNVV ................................................................................ 71
5.2.3. Đối với nhà đầu tư, chủ nợ ..................................................................... 72
5.3. Hạn chế đề tài nghiên cứu .............................................................................. 72
5.4. Định hướng nghiên cứu trong tương lai ....................................................... 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 74
Tóm tắt:
Đề tài nhằm mục tiêu xác định chiều tác động của thận trọng kế toán đến giá trị
thích hợp của thông tin trên báo cáo tài chính, kiểm tra mức độ thận trọng kế toán giai
đoạn 2014 - 2018 ở các công ty có quy mô nhỏ và vừa ở Việt Nam. Tác giả sử dụng
phương pháp nghiên cứu định lượng và điều tra dữ liệu đồng thời tiến hành thu thập báo
cáo tài chính của các DNNVV tại Việt Nam từ 2009 – 2018. Dựa trên các công trình
nghiên cứu trước đây, tác giả tổng hợp lại các mô hình đo lường thận trọng kế toán, giá
trị thông tin và tác động của thận trọng kế toán đến giá trị thông tin và áp dụng mô hình
thích hợp có thể đo lường tại Việt Nam. Tác giả sử dụng các phương pháp thống kê, tổng
hợp, so sánh và phân tích các số liệu thu thập được từ quá trình tổng hợp các chỉ số trên
báo cáo tài chính. Thông qua việc kiểm định các giả thuyết đề xuất, nghiên cứu đo lường
được mức độ thận trọng kế toán của các công ty có quy mô nhỏ và vừa tại Việt Nam và
đo lường giá trị thông tin kế toán trên từng nhóm thuộc mẫu nghiên cứu dựa trên mức độ
thận trọng cao, trung bình hay thấp. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ tuyến tính
giữa ảnh hưởng của thận trọng kế toán đến giá trị thông tin trên báo cáo tài chính. Đồng
thời dựa trên mô hình đo lường thận trọng kế toán do Beaver và Ryan (2000) đề xuất và
mô hình giá trị thích hợp thông tin do Ohlson (1995) xây dựng, tác giả sử dụng mô hình
hồi quy kết hợp (OLS) đo lường thận trọng kế toán và giá trị thích hợp thông tin trên báo cáo
tài chính cho thấy các biến trong mô hình với mẫu nghiên cứu của tác giả đều có ý nghĩa thống
kê.
Từ khóa: thận trọng kế toán, giá trị thông tin kế toán, chất lượng báo cáo tài chính.
Abstract:
The thesis aims at determining the impact of accounting conservatism on the
financial statements information value, checking the level of accounting conservatism in
the period of 2014 - 2018 in small and medium-sized companies in Vietnam. We uses
quantitative research methods and collects financial statements of small and medium-
sized enterprises in Vietnam in the period of 2009-2018. Based on previous studies, we
summarizes accounting conservatism measurement models, information values and the
impact of accounting conservatism on information values and applying appropriate
models that can measure in Vietnam. We uses statistical methods, synthesizing,
comparing and analyzing the data collected from the process of sumarizing the financial
statements. By examining the proposed hypotheses, the study measures the accounting
conservatism of small and medium-sized companies in Vietnam and measures the value
of accounting information on each group of the research sample that was based on high,
medium or low level of conservatism. The research results show a linear relationship
between the influences of accounting conservatism on the financial statements
information value. Based on the accounting conservatism measurement model was
proposed by Beaver and Ryan (2000) and the and the value of accounting information
measurement model was developed by Ohlson (1995), the author used the combined
regression model (OLS) to measure the accounting conservatism and the value of
accounting information on the financial statements, shows that the variables in the model
with the author's research sample are statistically significant.
Keywords: accounting conservatism, accounting information value, financial
statements quality
1
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Tính đến hiện nay, Việt Nam có gần 517.900 doanh nghiệp, trong đó DNNVV
chiếm khoảng 98 % (Tổng cục Thống kê, 2018). Vai trò của DNNVV ngày càng quan
trọng trong việc phát triển kinh tế và xã hội của các địa phương. Theo Nguyễn Bích Ngọc
(2018) “nhận định “thông tin kế toán DNNVV cung cấp thường xuyên được sử dụng
cho việc ra quyết định” không nhận được tỷ lệ đồng thuận cao. Điều này cũng phản
ánh đúng thực trạng hiện nay dường như BCTC của DNNVV chưa được coi là kênh
thông tin chính, là cơ sở đáng tin cậy để ra các quyết định kinh tế”. Mặt khác, các cơ sở,
nguyên tắc kế toán tại Việt Nam được quy chiếu vào chế độ kế toán quốc gia. Tức là, nhà
nước có vai trò kiểm soát kế toán về phương pháp đo lường, đánh giá, soạn thảo và trình
bày báo cáo và do đó việc soạn thảo, ban hành các chuẩn mực kế toán và các hướng dẫn
thực hiện phải do các cơ quan nhà nước thực hiện và được đặt trong các bộ luật hoặc các
văn bản pháp lý dưới luật (Võ Văn Nhị và Lê Hoàng Phúc, 2011).
Một số nhà nghiên cứu tại Việt Nam cho rằng thông tin thể hiện trên báo cáo tài
chính của các doanh nghiệp là chưa thích hợp khi so với các thị trường hiệu quả của các
quốc gia trên thế giới. Cụ thể, Việt Nam là quốc gia theo hướng điển luật (code law) khác
với các nước theo hướng thông luật (common law), tức là sự bảo vệ quyền lợi của chủ
đầu tư và yêu cầu tính minh bạch của thông tin thấp hơn (Võ Văn Nhị và Lê Hoàng Phúc,
2011). Việt Nam là quốc gia mà việc ghi chép kế toán và hệ thống báo cáo kế toán phải
tuân thủ các cơ sở, nguyên tắc kế toán và các cơ sở nguyên tắc này được quy chiếu vào
chế độ kế toán quốc gia. Điều đó khẳng định vai trò kiểm soát kế toán về phương pháp đo
lường, đánh giá, soạn thảo và trình bày báo cáo của nhà nước là tối thượng. Vì vậy việc
soạn thảo, ban hành các chuẩn mực kế toán và các hướng dẫn thực hiện phải do các cơ
quan nhà nước thực hiện và được đặt trong các bộ luật hoặc các văn bản pháp lý dưới luật
(Võ Văn Nhị và Lê Hoàng Phúc, 2011). Từ đó cho thấy Chế độ kế toán Việt Nam với hệ
thống tài khoản kế toán và các mẫu biểu, báo cáo kế toán đã hướng đến xem trọng
phương pháp ghi chép, lập các bút toán định khoản, và làm cho phương pháp kế toán chịu
2
ảnh hưởng nặng nề của các quy định pháp luật nhất là về thuế, …1.Thêm vào đó, VAS
với các ước tính kế toán ít hơn và thận trọng hơn làm hạn chế những yếu tố không chắc
chắn, tuy nhiên điều này làm giảm sự phù hợp của thông tin trên báo cáo tài chính
(Nguyễn Đăng Huy, 2017). Chính các quy định về kế toán thường được xây dựng trên
các nguyên tắc thận trọng, cứng nhắc kết hợp cùng bản chất phản ánh các nghiệp vụ kinh
tế đã xảy ra trong quá khứ của các thông tin trên báo cáo tài chính khiến người sử dụng
thông tin gặp nhiều khó khăn khi dự đoán tương lai của doanh nghiệp phục vụ mục đích
đầu tư. Một số nghiên cứu trên thế giới cũng kết luận rằng sự thận trọng trong kế toán
tăng lên là một nguyên nhân có thể giải thích cho sự giảm xuống của giá trị thích hợp
thông tin kế toán (Lev và Zarowin, 1999; Francis và Schipper, 1999; Core và cộng sự,
2003). Ngược lại, một số nghiên cứu không tìm thấy mối quan hệ giữa thận trọng kế toán
và giá trị thích hợp của thông tin (Balachandran và Mohanra, 2011).
Quay trở lại thực trạng ở Việt Nam, trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2005, Bộ Tài
chính đã ban hành 26 Chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) trên cơ sở hệ thống chuẩn
mực kế toán quốc tế. Sau hơn 10 năm áp dụng, VAS đã góp phần to lớn trong việc nâng
cao tính minh bạch, trung thực của báo cáo tài chính để cung cấp những thông tin chất
lượng cho người sử dụng. Tuy nhiên do DNNVV phải nộp BCTC và tờ khai thuế cho
cơ quan thuế nên lập BCTC ở DNNVV là nhằm tuân thủ quy định này. Như vậy,
BCTC của DNNVV với bản chất là đầu ra của hệ thống thông tin kế toán, cung cấp thông
tin cho những người có quan hệ lợi ích với doanh nghiệp trong việc ra các quyết định
kinh tế, chủ yếu bao gồm cơ quan thuế và ngân hàng. Và ²“Chuẩn mực kế toán được soạn
thảo và ban hành để thống nhất các hoạt động kế toán trong một phạm vi quốc gia, trong
một khu vực hay trên toàn cầu, giúp nhà đầu tư, công ty đưa ra các quyết định kinh doanh
1http://ifrsvietnam.vn/tin-tuc/hoi-nghi-hoi-thao-1/ky-nang-kien-thucnguoi-lam-cong-
tac-ke-toan-can-duoc-trang-bi-de-dap-ung-yeu-cau-doi-moi-ke-toan-tai-viet-nam-220.html
²http://tapchicongthuong.vn/bai-viet/su-can-thiet-cua-chuan-muc-ke-toan-voi-nen-kinh-
te-48398.htm
và đầu tư kịp thời, đúng đắn.”. Hơn thế nữa ngay tại chuẩn mực kế toán Việt Nam số 01
3
“CHUẨN MỰC CHUNG” (Ban hành và công bố theo Quyết định số 165/2002/QĐ-BTC
ngày 31 tháng 12 năm 2002 của Bộ trưởng Bộ Tài chính), đã nhìn nhận thận trọng là một
trong các nguyên tắc kế toán cơ bản với nội dung: “Thận trọng là việc xem xét, cân nhắc,
phán đoán cần thiết để lập các ước tính kế toán trong các điều kiện không chắc chắn”
Rõ ràng rằng, việc tăng tính thuyết phục cho các thông tin trên báo cáo tài chính
của các DNNVV trong khuôn khổ của Hệ thống Chuẩn mực kế toán Việt Nam với quy
định: “Thân trọng kế toán là một trong những nguyên tắc kế toán cơ bản” cho thấy có
một mối liên hệ giữa nguyên tắc thận trọng với các thông tin trên báo cáo tài chính.
Chính vì vậy, tác giả đã chọn đề tài “Ảnh hưởng của thận trọng kế toán đến giá trị thích
hợp thông tin trên báo cáo tài chính – Bằng chứng thực nghiệm tại các DNNVV trên địa
bàn TP.HCM”. Đây là vấn đề mang tính thời sự nhằm cải thiện chất lượng thông tin tài
chính của các DNNVV để tăng tính kiểm soát của nhà nước và đáp ứng được nhu cầu của
các DNNVV - doanh nghiệp có tỷ trọng 98% trên tổng số doanh nghiệp của cả nước -
nhằm tiếp cận được các nguồn vốn trên thị trường trong nước và quốc tế đồng thời thúc
đẩy thị trường vốn phát triển trên phạm vi quốc tế.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
a. Mục tiêu nghiên cứu chung
Xác định và phân tích tác động của thận trọng kế toán đến giá trị thích hợp của
thông tin trên báo cáo tài chính với các DNNVV ở TP.HCM – Việt Nam giai đoạn 2014-
2018.
b. Mục tiêu nghiên cứu cụ thể
- Xác định chiều tác động của thận trọng kế toán đến giá trị thích hợp của thông
tin trên báo cáo tài chính.
- Kiểm tra mức độ thận trọng kế toán giai đoạn 2014-2016 và giai đoạn 2017-2018
có sự khác biệt hay không.
2.2. Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu của luận văn đặt ra trong phần mục tiêu nghiên cứu, nội
dung chính của luận văn cần phải trả lời được các câu hỏi sau:
4
- Tác động của thận trọng kế toán đến giá trị thích hợp của thông tin trên báo cáo
tài chính là mối quan hệ cùng chiều, ngược chiều hay không có mối quan hệ?
- Mức độ thận trọng kế toán giai đoạn 2014-2016 có cao hơn giai đoạn 2017-2018
hay không?
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1. Về đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thận trọng kế toán, giá trị thích hợp của
thông tin trên báo cáo tài chính và tác động của thận trọng kế toán đến giá trị thích hợp
của thông tin trên báo cáo tài chính của các DNNVV giai đoạn 2014–2018 trên địa bàn
TP.HCM tại Việt Nam.
3.2. Về phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là đo lường thận trọng kế toán, giá trị thích hợp
của thông tin trên báo cáo tài chính và phân tích tác động của thận trọng kế toán đến giá
trị thích hợp của thông tin đối với các DNNVV trên địa bàn TP.HCM tại Việt Nam, giai
đoạn từ năm 2014-2018.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng và điều tra số liệu đồng thời
tiến hành thu thập báo cáo tài chính và dữ liệu thị trường của các công ty có quy mô nhỏ
và vừa trên địa bàn TP.HCM tại Việt Nam giai đoạn 2014-2018. Dựa trên các công trình
nghiên cứu trước đây, tác giả tổng hợp lại các mô hình đo lường thận trọng kế toán, giá
trị thích hợp của thông tin kế toán và tác động của thận trọng kế toán đến giá trị thích hợp
của thông tin kế toán và áp dụng mô hình thích hợp có thể đo lường tại Việt Nam cũng
như phù hợp với điều kiện nghiên cứu. Luận văn còn sử dụng các phương pháp thống kê,
tổng hợp, so sánh và phân tích các số liệu thu thập được từ quá trình tổng hợp các chỉ số
trên báo cáo tài chính và dữ liệu thị trường.
5. Đóng góp của đề tài
Đứng trước sự hoài nghi của các đối tượng sử dung thông tin kế toán trong phạm
vi DNNVV và việc đề cao tính thận trọng kế toán trong hạch toán có làm giảm đi giá tri
thông tin. Chủ đề nghiên cứu về thận trọng kế toán tác động đến giá trị thông tin đã được
5
rất nhiều học giả trên thế giới quan tâm. Ở Việt Nam chưa có nhiều nghiên cứu bàn về
vấn đề này đặc biệt đối với DNNVV. Một loại hình có đóng góp rất lớn trong phát triển
kinh tế tại Việt Nam nhưng theo Nguyễn Bích Ngọc (2018) thì BCTC của DNNVV ở
Việt Nam cung cấp thông tin không hữu ích cho việc ra quyết định. Do vậy nghiên
cứu đóng góp thêm góc nhìn cho các đối tượng sử dung BCTC của DNNVV.
- Ngoài ra, dựa trên kết quả đo lường thận trọng kế toán và giá trị thích hợp của
thông tin cũng như tác động của thận trọng kế toán đến giá trị thích hợp của thông tin đối
với các công ty có quy mô nhỏ và vừa trên địa bàn TP.HCM tại Việt Nam, kết quả nghiên
cứu là cơ sở khoa học hữu ích cho các đối tượng sử dụng thông tin trên báo cáo tài chính
tham khảo. Ngoài ra, đây cũng là nghiên cứu thực nghiệm giúp các nhà đầu tư, chủ nợ có
cái nhìn khách quan hơn khi tiếp cận báo cáo tài chính của các DNNVV trong việc sử
dụng các thông tin trên báo cáo tài chính nhằm đưa ra các quyết định đầu tư và cho vay.
Đồng thời các nhà lập pháp tại Việt Nam có cơ sở để hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về
chuẩn mực báo cáo tài chính tại Việt Nam cho các đối tượng là các DNNVV – một loại
hình doanh nghiệp có số lượng và tỷ lệ lớn nhất Việt Nam giai đoạn hiện nay.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, bố cục của luận văn thạc sĩ có kết cấu gồm năm chương như
sau:
Chương 1. Tổng quan các nghiên cứu trước đây liên quan đến tác động của thận
trọng kế toán đến giá trị thích hợp của thông tin trên báo cáo tài chính
Chương 2. Cơ sở lý thuyết
Chương 3. Phương pháp nghiên cứu
Chương 4. Kết quả nghiên cứu và bàn luận
Chương 5. Kết luận và một số hàm ý chính sách
6
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU
Với mục đích tìm ra khe hổng nghiên cứu của luận văn, trong nội dung chương 1
tác giả thực hiện tổng quan các nghiên cứu trước đây liên quan đến tác động của thận
trọng kế toán đến giá trị thích hợp thông tin.
1.1. Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến ảnh hưởng của thận trọng kế
toán đến giá trị thích hợp thông tin trên báo cáo tài chính
Nhiều nhà khoa học đã chỉ ra rằng có sự đánh đổi giữa thận trọng kế toán và giá trị
thích hợp thông tin trên báo cáo tài chính. Theo nghiên cứu của Lev và Zarowin (1999)
về xem xét mối liên hệ giữa chủ nghĩa thận trọng và giá trị liên quan của thông tin kế
toán trong giai đoạn 1975 đến 2004. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng nếu nguyên tắc
thận trọng kế toán càng cao thì sẽ dẫn đến giá trị thích hợp thông tin bị giảm xuống. Theo
nghiên cứu của Francis và Schipper (1999) về dấu hiệu và mức độ thay đổi trong thu
nhập giữa nhóm công ty có tính thận trọng cao và nhóm công ty có tính thận trọng thấp.
Kết quả cho thấy nhóm công ty có tính thận trọng cao có thu nhập thấp hơn nhóm công ty
có tính thận trọng thấp.
Mặt khác, nhiều nhà nghiên cứu chứng minh rằng không có sự đánh đổi giữa thận
trọng kế toán và giá trị thích hợp thông tin trên báo cáo tài chính. Watt (2003) nhận định
rằng yêu cầu về tính thận trọng hạn chế khả năng cung cấp các thông tin không được đo
lường một cách đáng tin cậy, nên thận trọng kế toán càng tăng có thể liên quan đến sự tự
tăng lên trong tính thích hợp của giá trị thông tin trên báo cáo tài chính.
1.1.1. Các nghiên cứu trên thế giới
Theo nghiên cứu của Balachandran và Mohanram (2004) về việc xem xét mối liên
hệ giữa tính thận trọng và giá trị thích hợp của thông tin kế toán. Hai nhà nghiên cứu đã
đánh giá chủ nghĩa thận trọng là xu hướng làm giảm trong giá trị sổ sách và tính kịp thời
của thu nhập bằng cách sử dụng các phương pháp được phát triển trong Penman và
Zhang (2002) và Basu (1997). Họ xem xét mối quan hệ giữa các biện pháp thận trọng và
giá trị liên quan của kế toán, ở cấp độ ngành, trong khoảng thời gian ba mươi năm từ
1975-2004. Họ không tìm thấy bằng chứng cho thấy sự thận trọng ngày càng tăng có liên
quan đến sự việc giảm giá trị sổ sách kế toán theo thời gian. Trên thực tế, họ tìm thấy
7
bằng chứng cho thấy việc tăng tính thận trọng vô điều kiện có liên quan đến việc tăng giá
trị sổ sách kế toán. Hơn nữa, các ngành công nghiệp với chủ nghĩa thận trọng vô điều
kiện khiến cho giá trị sổ sách bị ghi nhận giảm đáng kể so với giá trị thực tế. Kết hợp lại
với nhau, những phát hiện của họ giới hạn tính hợp lý của việc quy kết sự giảm giá trị
liên quan đến việc tăng tính thận trọng trong kế toán.
Để tiếp tục phát triển nghiên cứu của mình, Balachandran và Mohanram đã tiếp
tục thực hiện trên mẫu bao gồm các công ty trong bộ dữ liệu công nghiệp hàng năm của
Compustat trong giai đoạn 30 năm từ 1975 đến 2004,. và để ước tính các xu hướng cụ thể
của công ty có tính thận trọng, họ yêu cầu các biện pháp thận trọng phải áp dụng trong ít
nhất hai năm. Nhóm tác giả sau đó thực hiện đồng thời hồi quy hàm xu hướng giá trị
thích hợp của thông tin trên từng nhóm đã phân chia căn cứ theo mức độ và sự tăng
trưởng thận trọng kế toán và cho rằng, khi hệ số biến thiên của biến độc lập và biến phụ
thuộc của hàm hồi quy giá trị thích hợp theo thời gian tăng lên sẽ khiến cho hệ số điều
chỉnh R2 tăng lên một cách máy móc (mechanical increase). Nó khiến sự giảm xuống
thực sự trong giá trị thích hợp của thông tin bị che giấu. Do đó, theo Balachandran và
Mohanram (2011), mô hình hồi quy xu hướng giá trị thích hợp của thông tin được bổ
sung thêm hai biến độc lập là hệ số biến thiên của biến giá cổ phiếu 3 tháng sau kết thúc
niên độ tài chính và biến giá trị sổ sách của một cổ phiếu trong mô hình giá khi ước
lượng giá trị thích hợp của thông tin (mô hình Ohlson, 1995). Hàm hồi quy xu hướng giá
trị thích hợp điều chỉnh là:
VALRELj = αj + βj x YEAR + γ1j x BUBBLE + e
Theo nghiên cứu của Kousenidis và cộng sự (2009), họ xem xét ảnh hưởng của
báo cáo có tính thận trọng đến mức độ phù hợp của thu nhập kế toán của các công ty Hy
Lạp trong giai đoạn từ 1989 đến 2003. Kết quả của bài báo chỉ ra rằng tính thận trọng là
một đặc điểm nổi bật của hệ thống kế toán Hy Lạp. Hơn nữa, kết quả cho thấy mức độ
thận trọng đã tăng lên sau cuộc khủng hoảng thị trường năm 1999 được áp đặt bởi các cơ
quan thị trường trong giai đoạn hậu khủng hoảng. Cuối cùng, kết quả cho thấy có mối
liên hệ phi tuyến tính giữa thận trọng kế toán và giá trị thu nhập. Cụ thể, giá trị thu nhập
tăng dần khi dịch chuyển từ công ty có tính thận trọng thấp, đến tính thận trọng trung
8
bình và cuối cùng là tính thận trọng cao. Nhìn chung, kết quả của bài báo này dựa trên
nền tảng lý thuyết của Watts (2003a). Một mặt, họ có một số lập luận ủng hộ chủ nghĩa
thận trọng kế toán, nhưng mặt khác, họ lại nghi ngờ về việc thực hiện báo cáo thận trọng
quá mức có phải là một nguyên nhân của sự biến dạng của mối quan hệ lợi nhuận - lợi
nhuận.
1.1.2. Các nghiên cứu tại Việt Nam
Nghị định 39/2018/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 11/3/2018.quy định chi tiết các tiêu
chí xác định DNNVV theo từng lĩnh vực. Cụ thể, trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ;
DNNVV được phân theo quy mô bao gồm:
Một là, doanh nghiệp siêu nhỏ có số lao động tham gia BHXH bình quân năm
không quá 10 người và tổng doanh thu của năm không quá 10 tỷ hoặc tổng nguồn vốn
không quá 3 tỷ (trước đây không phân loại dựa vào vốn).
Hai là, doanh nghiệp nhỏ có số lao động tham gia BHXH bình quân năm không
quá 50 người và tổng doanh thu của năm không quá 100 tỷ hoặc tổng nguồn vốn không
quá 50 tỷ (trước đây là 10 tỷ trở xuống).
Ba là, doanh nghiệp vừa có số lao động tham gia BHXH bình quân năm không quá
100 người và tổng doanh thu của năm không quá 300 tỷ hoặc tổng nguồn vốn không quá
100 tỷ.
Ngoài ra điều kiện niêm yết chứng khoán tại sàn giao dịch chứng khoán được quy
định tại Điều 54 Nghị định 58/2012/NĐ-CP ngày 20/07/2012 của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chứng khoán và Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật chứng khoán, cụ thể như sau:
- Vốn điều lệ: từ 30 tỷ đồng trở lên
- Thời gian hoạt động: ít nhất 1 năm hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần
- Kết quả kinh doanh: (i) Tỷ lệ ROE năm liền trước năm đăng ký niêm yết không
thấp hơn 5%; (ii) Không có các khoản nợ phải trả quá hạn trên một năm; (iii)
Không có lỗ lũy kế đến thời điểm niêm yết; (iv) Tuân thủ quy định của pháp
luật về báo cáo tài chính
9
- Tính đại chúng: tối thiểu 15% cổ phần có quyền biểu quyết của công ty do ít
nhất 100 cổ đông không phải cổ đông lớn nắm giữ
- Cá nhân, tổ chức có đại diện sở hữu là TVHĐQT, GĐ (TGĐ), PGĐ (PTGĐ),
BKS, KTT và cổ đông lớn là người có liên quan của TVHĐQT, GĐ (TGĐ),
PGĐ (PTGĐ), BKS, KTT
- Hồ sơ đăng ký niêm yết cổ phiếu
Như vậy đối chiếu giữa tiêu chí về DNNVV theo Nghị định 39/2018/NĐ-CP và
điều kiện niêm yết chứng khoán tại SGDCK được quy định tại Điều 54 Nghị định
58/2012/NĐ-CP cho thấy không có vùng cấm đối với các DNNVV khi niêm yết trên sàn
chứng khoán. Ngoài ra chế độ kế toán quy định cho các DNNVV là thông tư
133/2016/TT-BTC ngày 26/8/2016 về hướng dẫn chế độ kế toán DNNVV do Bộ Tài
Chính ban hành có hiệu lực áp dụng cho năm tài chính bắt đầu hoặc sau ngày 01/01/2017
và thay thế toàn bộ chế độ kế toán DNNVV ban hành theo Quyết định số 48/2006/QĐ-
BTC ngày 14/09/2006 và Thông tư số 138/2011/TT-BTC ngày 04/10/2011, nhưng không
bao gồm việc cấm các DNNVV áp dụng thông tư 200/2014/TT-BTC ngày 22/12/2014 về
hướng dẫn chế độ kế toán doanh nghiệp do Bộ Tài Chính ban hành có hiệu lực từ ngày
05/02/2015 và áp dụng cho năm tài chính bắt đầu hoặc sau ngày 01/01/2015 và thay thế
toàn bộ chế độ kế toán doanh nghiệp ban hành theo Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC và
thông tư số 244/2009/TT-BTC chỉ rõ về phạm vi điều chỉnh trong điều 2.
Với lập luận không có vùng cấm đối với DNNVV mang loại hình công ty cổ phần
niêm yết trên sàn chứng khoán. Và trong phạm vi của đề tài nghiên cứu này, kiểm định
trên mẫu nghiên cứu là các DNNVV trên địa bàn TP.HCM không phân biệt việc áp dụng
chế độ kế toán theo khung pháp lý nào và loại trừ các doanh nghiệp siêu nhỏ, tác giả vẫn
chưa tìm thấy được nghiên cứu nào tại Việt Nam chỉ ra mối quan hệ giữa thận trọng kế
toán và giá trị thích hợp của thông tin kế toán đối với các DNNVV, Vì vậy tác giả sẽ sử
dụng nghiên cứu của các học giả có thực hiện nghiên cứu riêng về giá trị thích hợp của
thông tin kế toán đối với các doanh nghiệp niêm yết cổ phiếu trên sàn chứng khoán. Cụ
thể, khi thực hiện đo lường giá trị thích hợp của thông tin trên báo cáo tài chính đối với
các công ty phi tài chính niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM (HOSE) giai
10
đoạn 2003-2007. Nguyễn Việt Dũng (2009) đã sử dụng mô hình của Ohlson (1995) và
phương pháp điều chỉnh giá của Aboody và cộng sự (2002) với 306 quan sát của 135
công ty niêm yết đại diện cho 90% số công ty niêm yết trên sàn HOSE tính đến cuối năm
2007 trên dữ liệu bảng không cân bằng. Cho kết quả nghiên cứu có tương quan thuận
giữa giá trị sổ sách và thu nhập trên mỗi cổ phiếu (biến độc lập) với giá cổ phiếu (biến
phụ thuộc) ở mức ý nghĩa 1% tại ngày kết thúc niên độ tài chính. Mức giải thích của biến
độc lập đến biến phụ thuộc với hệ số điều chỉnh R2 đo được là 48%. Và khi giá cổ phiếu
được điều chỉnh bằng giá tại thời điểm 3 tháng sau khi kết thúc niên độ tài chính thì đo
được là 51%. Trương Đông Lộc và Nguyễn Minh Nhật (2016) thực hiện nghiên cứu ảnh
hưởng của thông tin kế toán đến giá cổ phiếu trong giai đoạn 2008-2013 cho 102 công ty
niêm yết trên HOSE. Nghiên cứu của họ dựa trên nền tảng là mô hình giá của Ohlson
(1995). Họ sử dụng hai mô hình hiệu ứng cố định và hiệu ứng ngẫu nhiên cùng kiểm định
Hausman để xác định mô hình nào phù hợp hơn nhằm ước lượng mức độ ảnh hưởng của
thông tin kế toán đễn giá cổ phiếu. Kết quả của nghiên cứu cũng tương đồng với nghiên
cứu của Nguyễn Việt Dũng (2009) đều ghi nhận giá cổ phiếu tại thời điểm kết thúc niên
độ và giá cổ phiếu tại thời điểm kết thúc niên độ được điều chỉnh cho biến động giá trong
khoảng thời gian 1 tháng, 3 tháng và 6 tháng trong tương lai cho thấy thu nhập trên mỗi
cổ phiếu và giá trị sổ sách của mỗi cổ phiếu đều có tương quan thuận với giá cổ phiếu.
Tuy nhiên mức độ giải thích của mô hình cao hơn (trên 70%) tức thông tin kế toán phản
ánh vào giá chứng khoán nhanh hơn do sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt
Nam cũng như khung pháp lý cho việc trình bày và công bố thông tin ngày càng hoàn
thiện theo lý giải của nhóm tác giả.
1.2. Khe hổng nghiên cứu
Ở phần 1.1, tác giả đã trình bày tổng quan các khái niệm của thận trọng kế toán
theo quan điểm của các học giả trên thế giới và ở Việt Nam. đồng thời thông qua các
nghiên cứu trước đây liên quan đến ảnh hưởng của thận trọng kế toán đến giá trị thích
hợp thông tin trên báo cáo tài chính,cho thấy có tồn tại ảnh hưởng của thận trọng kế toán
đến giá trị thích hợp thông tin trên BCTC. Đây cũng là một chủ đề thu hút được sự quan
tâm của nhiều học giả trên thế giới cũng như những luồng quan điểm trái chiều liên quan
11
đến mối quan hệ này. Ngược lại, tại Việt Nam, trong phạm vi nghiên cứu của mình, hầu
như các công trình thực hiện tại Việt Nam mới chỉ dừng lại ở việc thực hiện đo lường ảnh
hưởng của thông tin trên báo cáo tài chính đến giá cổ phiếu liên quan đều là các loại hình
công ty vừa và lớn có niêm yết trên sàn chứng khoán mà chưa có nghiên cứu nào xem xét
liệu thận trọng kế toán có phải là một nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi của giá trị thích
hợp thông tin hay không và hơn nữa là trong phạm vi của các DNNVV. Mặt khác,
phương pháp nghiên cứu của các học giả về ảnh hưởng của thận trọng kế toán đến giá trị
thích hợp của thông tin mới chỉ dừng lại ở việc đo lường giá trị thích hợp của thông tin
theo năm chứ chưa tính toán được theo từng năm và theo từng quan sát của mẫu nghiên
cứu. Thêm vào đó, các nghiên cứu cũng chưa chỉ ra được mối quan hệ giữa mức độ thận
trọng và giá trị thích thông tin dưới dạng một mô hình hồi quy trên phạm vi một quốc gia,
mà các nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc phân chia mẫu dữ liệu dựa vào mức độ thận trọng
kế toán và tập trung đo lường giá trị thích hợp của thông tin thông qua hệ số điều chỉnh
R2 trên từng nhóm mẫu. Song song đó, các nghiên cứu còn xem xét rằng giá trị thích hợp
của thông tin có xu hướng giảm hay tăng trong thời gian nghiên cứu bằng việc tiến hành
hồi quy giá trị thích hợp của thông tin theo thời gian cho từng nhóm phân loại theo mức
thận trọng kế toán . Bằng việc dựa trên các nghiên cứu trước đây ở góc độ sử dụng thang
đo thận trọng kế toán theo từng công ty, mẫu nghiên cứu dược chia nhỏ theo mức độ thận
trọng kế toán và giá trị thích hợp thông tin được đo lường theo năm và theo từng nhóm đã
phân chia trên bộ dữ liệu các DNNVV ở TP.HCM giai đoạn 2014-2018.
12
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Nội dung của chương 1 đã nêu được về tổng quan các nghiên cứu trước đây có liên
quan đến mức độ ảnh hưởng của thận trọng kế toán đến giá trị thích hợp thông tin trên
BCTC ở phạm vi thế giới và Việt Nam. Trên thực tế đề tài nghiên cứu về xem xét ảnh
hưởng của thận trọng kế toán đến giá trị thích hợp của thông tin là một vấn đề được sự
quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu với những quan điểm không đồng nhất. Có nghiên
cứu cho rằng, mức độ thận trọng kế toán tăng lên đã bóp méo giá trị thích hợp thông tin.
Và ngược lại, nhiều quan điểm phát biểu không có mối quan hệ tuyến tính giữa thận
trọng kế toán và giá trị thích hợp thông tin, hay sự tăng lên của thận trọng kế toán không
liên quan đến sự sụt giảm của giá trị thông tin. Quay trở lại Việt Nam, các nghiên cứu lại
quan tâm đến góc nhìn về giá trị thích hợp thông tin kế toán đến giá cổ phiếu. Dựa trên
lập luận Việt Nam là một quốc gia theo hướng điển luật và hạch toán kế toán chịu sự ảnh
hưởng nặng nề của pháp luật thuế cho phép tác giả xây dựng các giả thuyết nhằm kiểm
định về sự tồn tại của thận trọng kế toán trong mẫu nghiên cứu và xác định ảnh hưởng
của nó đến giá trị thích hợp thông tin đối với các công ty thuộc loại hình DNNVV trên
địa bàn TP.HCM tại Việt nam giai đoạn 2014-2018. Ở chương tiếp theo, tác giả tiếp tục
trình bày cụ thể về cơ sở lý thuyết được sử dụng trong luận văn.
13
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1. Các khái niệm có liên quan
2.1.1. Giá trị thích hợp thông tin kế toán trên BCTC
2.1.1.1. Định nghĩa
Theo khuôn mẫu kế toán thì thích hợp (relevant) là một trong hai đặc điểm cơ bản
về chất lượng của thông tin hữu ích trên BCTC, nó bao gồm tính thích hợp và tính trình
bày hợp lý của thông tin BCTC xét về bản chất. Ngoài ra, thông tin hữu ích trên BCTC
còn thể hiện ở bốn nhận diện khác là: (i) có thể so sánh; (ii) Có thể kiểm chứng; (iii) tính
kịp thời và (iv) dễ hiểu.
Vì BCTC mang thông tin kế toán – tài chính của doanh nghiệp, với mục đích
chính là cho phép các bên liên quan đưa ra quyết định đầu tư. Theo Omokhudu và Ibadin
(2015), báo cáo tài chính chứa thông tin tài chính doanh nghiệp hỗ trợ cung cấp thông tin
trong việc ra quyết định đầu tư. Do đó, điều này đặt ra sự bắt buộc phải đảm bảo độ tin
cậy về nội dung thông tin. Độ tin cậy của báo cáo tài chính dựa trên giá trị liên quan của
thông tin kế toán. Tuy nhiên, theo Francis và Schipper (1999), khả năng nắm bắt thông
tin báo cáo tài chính hoặc tóm tắt thông tin ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp chính là
việc xác định mức độ phù hợp về giá trị thông tin. Nhưng khi, các con số kế toán mất đi
sự liên quan đến giá trị của nó chính là khi có các yếu tố ảnh hưởng từ bên ngoài, đặc biệt
vào thời điểm bất ổn tài chính như khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Trong điều kiện thị trường có nhiều biến động và không thể dự đoán trước số liệu
tài chính của doanh nghiệp trong thời kỳ khó khăn về tài chính, thì việc xem xét liệu rằng
báo cáo tài chính có giữ được giá trị của nó trong mối quan với một cuộc khủng hoảng tài
chính hay không là điều cần thiết. Nhiều nghiên cứu tập trung vào tác động của cuộc
khủng hoảng 2008 đối với Hoa Kỳ, các nước láng giềng và Trung Đông (Beltratti, Spear,
& Szabo, 2013; Devalle, 2012; Tahat & Alhadab, 2017) và tác động của năm 1997 khủng
hoảng tài chính châu Á đến các khu vực ở Đông Á, các nghiên cứu xem xét ảnh hưởng
của cuộc suy thoái lớn năm 2008 đến các nước Đông Á đã chỉ ra rằng việc thanh lý hoặc
trải qua sáp nhập và mua lại trong một cuộc khủng hoảng tài chính đã diễn ra ở hàng
ngàn công ty. Và các công ty đã có những tác động nhằm giảm thiểu mức độ liên quan
14
của giá trị thích hợp thông tin kế toán để có thể đứng được trong giai đoạn khủng hoảng
tài chính (Tahat & Alhadab, 2017). Mối quan hệ này đã làm dấy lên mối quan tâm về
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu (GFC) cùng với khả năng phục hồi của Châu Á có
thể ảnh hưởng đến mức độ phù hợp của thông tin.
2.1.1.2. Các mô hình đo lường giá trị thích hợp thông tin trên BCTC
Trong phần này, tác giả liệt kê một số mô hình đo lường giá trị thích hợp của
thông tin kế toán đã được các nhà nghiên cứu trên thế giới phát triển. Với lập luận được
giải thích trong chương 3 về phương pháp nghiên cứu khi đề tài nghiên cứu thực nghiệm
ở phạm vi DNNVV, nhằm giúp đề tài tiếp cận với các nghiên cứu ở góc nhìn giá cổ phiếu
được điều chỉnh theo giá trị thị trường của vốn chủ giúp cho nghiên cứu của tác giả tiệm
cận gần hơn với khung pháp lý của đề tài.
a. Mô hình giá của Ohlson (1995) (price value relevance)
Thông tin kế toán và giá trị thị trường của doanh nghiệp có mối quan hệ hay
không là câu hỏi được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Nghiên cứu của Ohlson (1995)
được xem là nghiên cứu nền tảng trong việc xây dựng cơ sở lý thuyết để giải thích cho
mối quan hệ giữa các loại thông tin kế toán và giá trị thị trường của doanh nghiệp. Mô
hình của Ohlson (1995) được phát triển dựa trên mô hình lợi nhuận thặng dư (Residual
income model – RIM) do Preinreich (1938) đề xuất. Theo mô hình lợi nhuận thặng dư
này, giá trị thị trường của doanh nghiệp bao gồm: giá trị sổ sách và tổng giá trị hiện tại
của các dòng lợi nhuận thặng dư tương lai của công ty. Sau đó, Ohlson đã lập một giả
thiết quan trọng liên quan đến chuỗi thời gian của dòng lợi nhuận thặng dư, rằng cấu trúc
chuỗi thời gian của dòng lợi nhuận thặng dư phải tuyến tính và cố định. Việc kết hợp như
trên do Ohlson (1995) đề xuất đã cho phép Ohlson rút ra được mô hình thể hiện mối quan
hệ giữa giá trị thị trường của doanh nghiệp và các thông tin kế toán trên báo cáo của
doanh nghiệp. Giá trị thích hợp của thông tin kế toán được đo lường bằng hệ số R2 hiệu
chỉnh của mô hình hồi quy, được tác giả biểu diễn như sau:
Pit = β0 + β1BVit + β2EPSit + εit
Trong đó:
15
Pit = giá trị thị trường của một đơn vị vốn chủ công ty i 3 tháng sau khi kết thúc
niên độ tài chính năm t.
BVit = giá trị sổ sách của của một đơn vị vốn chủ công ty i năm t
EPSit = lợi nhuận trên một đơn vị vốn chủ công ty i năm t
Theo mô hình này, mối quan hệ giữa giá trị thị trường của doanh nghiệp và hai
thông tin kế toán trên báo cáo tài chính là: một là lợi nhuận, hai là giá trị sổ sách, chỉ hiệu
quả khi giá trị thị trường phản ánh chính xác giá trị thực của nó. Ngoài ra, giá trị thị
trường của doanh nghiệp còn phụ thuộc vào các thông tin khác chưa hoặc không được
phản ánh trong báo cáo tài chính vào thời điểm đó.
b. Mô hình tỷ suất sinh lợi của Easton & Harris (1991) (return value
relevance)
Để xem xét tỉ lệ giữa mức thu nhập chia cho giá trị thị trường của doanh nghiệp có
phù hợp để xem xét làm nền tảng cho các quyết định của nhà đầu tư hay không, Easton
và Harris (1991) đã sử dụng mô hình định giá giá trị sổ sách dựa trên ý tưởng cho rằng
giá trị sổ sách và giá trị thị trường là cả hai biến số đều cho thấy mức độ an toàn cao của
vốn chủ sở hữu. Các biến liên quan lần lượt là tỷ lệ giữa thu nhập và giá trị thị trường của
doanh thu và lợi nhuận thị trường (Rjt) (Easton và Harris, 1991). Cho dù các mô hình
định giá do Easton và Harris (1991) nghiên cứu đã chỉ ra mức độ phù hợp tiềm năng giữa
mức thu nhập hiện tại và giá trị thị trường của doanh nghiệp, nhưng chúng không loại trừ
mức độ liên quan của thay đổi trong thu nhập chia cho giá trị thị trường của doanh nghiệp
đó.Vì vậy, họ cũng đã xem xét và kiểm tra mức độ liên quan của thay đổi trong biến thu
nhập (A/Pt-1) trong việc giải thích lợi nhuận của doanh nghiệp, trong khi mục tiêu chính
của nghiên cứu thực nghiệm của họ là đánh giá mức độ phù hợp của biến số mức thu
nhập (At/ Pt1)Ở phương diện lý thuyết, Easton và Harris (1991) đã phát triển và kiểm tra
thực nghiệm ba mô hình định giá chính thức khác nhau: mô hình mức độ, mô hình thay
đổi và mô hình bao gồm sự kết hợp của cả hai quan điểm định giá trước đó và sử dụng
phương pháp hồi quy để phát hiện mối liên hệ giữa thu nhập và lợi nhuận. Giá trị thích
hợp của thông tin kế toán được đo lường bằng hệ số R2 hiệu chỉnh của mô hình hồi quy.
Mô hình được xây dựng bởi Easton & Harris (1991) và được biểu diễn như sau:
16
Retit = β0 + β1 + β2
+ εit
Trong đó:
Retit = lợi nhuận của vốn chủ công ty i năm t (stock return)
EPSit = lợi nhuận trên đơn vị vốn chủ công ty i năm t
EPSit = chênh lệch lợi nhuận trên đơn vị vốn chủ công ty i năm t so với năm t-1
Pi,t-1 = giá trị thị trường của đơn vị vốn chủ công ty i năm t-1
2.1.2. Thận trọng kế toán
2.1.2.1. Định nghĩa
Thận trọng kế toán được mô tả là “sự dự đoán không bao gồm các khoản có lợi
cho doanh nghiệp, nhưng bao gồm tất cả các khoản lỗ và rủi ro có thể xảy ra” (Bliss
1924). Ceteris paribus đã cho thấy “các tin tức xấu về Google 199 được phát hiện ra
nhanh chóng hơn các tin tức tốt trong báo cáo thu nhập của họ”. Trong một bài báo khác,
để kiểm tra giả thuyết về tính kịp thời không đối xứng này bằng cách hồi quy thu nhập
hàng năm trên lợi nhuận tại thời điểm đương thời bằng cách sử dụng lợi nhuận chứng
khoán hàng năm dương (âm) làm đại diện cho tin tức tốt (xấu). Basu (1997) đã nhận thấy
rằng độ nhạy của thu nhập đối với lợi nhuận âm cao hơn đáng kể so với lợi nhuận dương.
Nghĩa là, khi thông tin được truyền tải bởi một sự kiện kinh tế hoặc cú sốc sẽ được ghi lại
trong thu nhập kế toán định kỳ - sớm hơn nếu nó truyền tải tin xấu và chậm hơn nếu nó
truyền tải tin tốt.
Cho đến thời điểm hiện nay, nguyên tắc thận trọng trong kế toán vẫn còn là một
nguyên tắc gây nhiều tranh cãi. Theo German Accounting, Haller (2003, p.92) chỉ ra
rằng: nguyên tắc thận trọng kế toán không phải là một nguyên tắc phụ như ở Mỹ hay ở
Anh, mà là một nguyên tắc quan trọng của kế toán nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ nợ.
Ở Mỹ, mặc dù nguyên tắc thận trọng kế toán là nguyên tắc có ảnh hưởng nhiều
nhất trong lịch sử (Sterling, 1967), nhưng nó vẫn gặp nhiều sự phản đối. Theo
Hendriksen (1982, p.83): nguyên tắc thận trọng kế toán là một nguyên tắc không hiệu quả
để đánh giá sự không chắc chắn của doanh thu và nợ, và trong trường hợp xấu nhất, nó có
thể gây ra sự biến đổi hoàn toàn về mặt ý nghĩa của dữ liệu kế toán.
17
Mặc dù có một thỏa thuận rộng rãi về nguyên tắc thận trọng trong việc lập báo cáo
tài chính nhưng lại không có định nghĩa toàn diện về khái niệm này. Tuy nhiên, hai đặc
điểm chính của nguyên tắc thận trọng đã được thừa nhận bởi đa số các học giả đó là: xu
hướng giảm giá trị sổ sách của vốn chủ sở hữu so với giá trị thị trường của nó; và xu
hướng phản ứng nhanh với các thông tin xấu và phản ứng chậm hay trì hoãn ghi nhận các
thông tin tốt. Nhìn chung, nguyên tắc thận trọng thường được sử dụng trong các báo cáo
đáng tin cậy về các sự kiện trong quá khứ. Theo thời gian, các chuẩn mực kế toán quốc tế
ngày càng hướng về việc dự đoán các sự kiện trong tương lai, đã chỉ ra rằng sự ra quyết
định chính là mục tiêu chính và duy nhất của kế toán (IASB framework; 2, 3 IASB,
2006a), và nguyên tắc thận trọng dường như đã trở thành nguyên tắc kế toán chủ đạo.
Trong khuôn khổ khái niệm IASB hiện tại từ năm 1989, thận trọng là một trong những
khái niệm liên quan đến độ tin cậy, mặc dù có những cảnh báo rằng điều này sẽ không
dẫn đến sự trình bày không chính xác về tài sản hoặc thu nhập (IASB framework, p.37).
Trong bài này, tác giả trình bày các định nghĩa về thận trọng kế toán dưới hai góc
nhìn: một là của một số tổ chức lập quy quốc tế và Việt Nam, hai là của các học giả trên
thế giới mà họ đã và đang nghiên cứu về nguyên tắc kế toán này.
a. Định nghĩa thận trọng kế toán theo quan điểm của các tổ chức lập quy
quốc tế và Việt Nam
* Theo quan điểm của Hội đồng chuẩn mực kế toán tài chính Hoa Kỳ
(Financial Accounting Standard Board – viết tắt FASB)
Theo FASB 1980, thận trọng kế toán là phản ứng thận trọng đối với các tình
huống không chắc chắn để đảm bảo rằng các tình huống chưa rõ ràng và các rủi ro tiềm
tàng của doanh nghiệp được xem xét một cách đầy đủ (SFAC 2). Và khi tồn tại một tình
huống chưa rõ ràng cần cố gắng xem xét một cách đầy đủ những vấn đề không chắc chắn
(Vũ Hữu Đức, 2010). Hoặc nếu hai phương pháp ước tính số tiền sẽ nhận được hoặc phải
chi trả trong tương lai có khả năng ngang nhau, thận trọng là việc lựa chọn phương pháp
ghi nhận tình huống xấu hơn. Song, nếu hai số tiền không ngang nhau thì thận trọng
không có nghĩa là chọn phương pháp ít lạc quan hơn. FASB 1980 – đoạn 95, thận trọng
không bao gồm hoãn việc ghi nhận thu nhập vượt quá thời điểm mà nó có đủ bằng chứng
18
đáng tin cậy và cũng không được dùng để biện minh cho việc ghi nhận một khoản lỗ khi
nó chưa có đủ bằng chứng đáng tin cậy. Ngoài ra, FASB cũng đề xuất việc thuyết minh
đầy đủ về những tình huống không chắc chắn để người sử dụng báo cáo tài chính có thể
có sự xét đoán riêng của mình (Vũ Hữu Đức, 2010).
* Theo quan điểm của Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (International
Accounting Standard Board – viết tắt IASB) và dự án hội tụ kế toán IASB-FASB
Thận trọng hỗ trợ cho tính trung lập – một trong hai đặc điểm chất lượng cơ bản
của thông tin hữu ích được IASB 2018 đề cập đến trong khuôn khổ lập và trình bày
BCTC. IASB định nghĩa thận trọng là mức chú ý trong việc xét đoán cần thiết trong các
ước tính dưới các điều kiện không chắc chắn, sao cho tài sản và thu nhập không bị khai
khống, nợ phải trả và chi phí không bị khai thiếu (IASB 1989, đoạn 37). Tuy nhiên, theo
Nguyễn Thục Anh (2017), cách hiểu về thận trọng theo quan điểm của IASB năm 1989
thể hiện một sự bất cân xứng trong xử lý và cung cấp thông tin vì chỉ cho phép ghi nhận
sự giảm xuống của giá trị tài sản thuần trong điều kiện không chắc chắn mà không cho
phép ghi nhận giá trị tài sản thuần tăng lên. Tác giả này cũng cho rằng nguyên nhân của
sự bất cân xứng này là để hạn chế xu hướng thông tin quá lạc quan về tình hình tài chính
của doanh nghiệp cũng như giúp cảnh báo sớm cho nhà đầu tư về những rủi ro mất vốn.
Trong quá khứ, thực tế khi áp dụng nguyên tắc thận trọng theo phiên bản của
IASB 1989, người sử dụng hiểu nguyên tắc này theo nhiều nghĩa khác nhau và dẫn đến
sự nhầm lẫn cho người sử dụng khi IASB loại bỏ nguyên tắc thận trọng trong phiên bản
2010. Vì vậy, trong đặc điểm về trình bày hợp lý thông tin kế toán ở IASB phiên bản
2018 nguyên tắc thận trọng kế toán được sử dụng trở lại nhằm hỗ trợ cho việc trình bày
hợp lý của thông tin kế toán. Cụ thể là:
Vào năm 2004, IASB và FASB bắt đầu thực hiện một dự án hội tụ kế toán
(IASBFASB Convergence Project) bao gồm một dự án về khuôn mẫu lý thuyết kế toán.
Dự án này nhằm mục đích tìm kiếm một khuôn mẫu lý thuyết kế toán đầy đủ hơn làm
nền tảng để hướng đến một hệ thống chuẩn mực kế toán chất lượng cao mang tính toàn
cầu (Vũ Hữu Đức, 2010). Kết quả là, IASB ban hành khuôn mẫu lý thuyết hiệu chỉnh bao
gồm hai chương với hai nội dung: mục đích của báo cáo tài chính và các đặc điểm chất
19
lượng của báo cáo tài chính. Tuy nhiên, trong khuôn mẫu này, khái niệm thận trọng đã
được loại bỏ khỏi các yêu cầu cơ bản của thông tin kế toán. Lý do loại bỏ được giải thích
là xuất phát từ sự mâu thuẫn với yêu cầu trung lập thuộc đặc điểm chất lượng cơ bản
“trình bày trung thực”.
Tuy nhiên thận trọng vẫn hiện diện rất nhiều trong quy định các chuẩn mực kế
toán quốc tế như quy định về trích lập dự phòng, kế toán tài sản và nợ tiềm tàng dẫn đến
sự không nhất quán giữa khuôn mẫu lập và trình bày BCTC và các chuẩn mực kế toán
(Nguyễn Thục Anh, 2017). Đến tháng 5/2015, IASB ban hành dự thảo sửa đổi khuôn
mẫu lý thuyết kế toán gồm 8 chương với mục đích cập nhật, bổ sung những khoảng trống
và làm sáng tỏ thêm những nội dung đã được đề cập trong khuôn mẫu hiện hành
(ED/2015/3). IASB đã đưa vào lại khái niệm thận trọng (được mô tả như một sự cẩn
trọng khi đưa ra phán quyết trong điều kiện không chắc chắn) trong dự thảo này và tin
rằng nguyên tắc thận trọng hỗ trợ cho tính trung lập trong đặc điểm trình bày hợp lý của
thông tin hữu ích (xem đoạn 2.18 và BC2.1-BC2.17). Việc thực hiện thận trọng kế toán
thể hiện là không được khai khống tài sản và thu nhập, và không được khai thiếu nợ phải
trả và chi phí trong xét đoán các ước tính dưới các điều kiện không chắc chắn. Tương tự,
việc thực hiện thận trọng kế toán không cho phép khai thiếu tài sản và thu nhập, hay khai
khống nợ phải trả và chi phí bởi lẽ các sai lệch này có thể dẫn đến tình trạng thu nhập bị
khai cao hoặc chi phí bị khai thấp trong các kỳ báo cáo tương lai. Nguyễn Thục Anh
(2017) cho rằng đây là một điểm thay đổi lớn trong cách hiểu về thận trọng, đảm bảo sự
cân xứng trong xử lý kế toán khi mà các điều kiện không chắc chắn thay đổi tác động
cùng chiều và ngược chiều đối với tài sản, nợ phải trả, doanh thu và chi phí của doanh
nghiệp. Đoạn BC2.4 dẫn một số quan điểm ủng hộ việc loại bỏ khái niệm thận trọng
trong khuôn mẫu lý thuyết kế toán ngoài lý do mâu thuẫn với yêu cầu trung lập đã được
trình bày. Đó là: (i) khái niệm thận trọng kế toán được hiểu theo nhiều cách khác nhau.
Vì vậy, việc loại bỏ khái niệm này trong khuôn mẫu kế toán có thể tránh được rủi về tính
không nhất quán trong thực hành kế toán của các đối tượng. (ii) các báo cáo tài chính
mang tính chủ quan cao hơn khi thực hiện thận trọng kế toán. Điều này có thể dẫn tới
việc đánh giá hiệu quả tài chính của một tổ chức trở nên khó khăn.
20
Tuy nhiên, khi loại bỏ nguyên tắc thận trọng trong IASB 2010 chẳng những không
giải quyết được sự hiểu khác nhau về thận trọng của người sử dụng nó, mà nó càng gây ra
sự nhầm lẫn cho người sử dụng. Chính vì thế trong phiên bản 2018, IASB đã sử dụng và
tin rằng nguyên tắc thận trọng hỗ trợ cho tính trung lập trong đặc điểm trình bày hợp lý
của thông tin hữu ích. Rất nhiều quan điểm ủng hộ cho việc đưa lại khái niệm thận
trọng vào khuôn mẫu lý thuyết kế toán từ những yêu cầu của thực tiễn chẳng hạn như:
yêu cầu phải giải thích được khái niệm thận trọng trong khuôn mẫu lý thuyết để có thể áp
dụng một cách nhất quán; hoặc yêu cầu về sự cần thiết để kháng cự lại sự sai lệch tự
nhiên của nhà quản lý theo hướng lạc quan, hoặc do nguyên tắc thận trọng có thể giải
quyết mối quan ngại của các nhà đầu tư về rủi ro giảm giá so với tiềm năng tăng
trưởng…
* Theo quan điểm của Hội đồng chuẩn mực kế toán Úc (Australian
Accounting Standard Board – viết tắt AASB)
AASB cho rằng thận trọng kế toán là khái niệm dẫn đến sai lệch có chủ đích cho
việc khai thấp doanh thu hoặc tài sản, và/hoặc công nhận tối đa chi phí và nợ phải trả
(SAC3, đoạn 26). Khái niệm này không đồng nhất với đặc điểm hỗ trợ của thông tin hữu
ích cụ thể là có thể kiểm chứng (Verifiability). Bởi vì rằng thận trọng kế toán theo AASB
làm cho thông tin hữu ích không thể kiểm chứng khi doanh thu và tài sản bị khai khống
hoặc khai thấp chi phí và nợ phải trả. Thêm vào đó sự sai lệch của thông tin có thể bắt
nguồn từ việc đánh giá thiên lệch thông tin tài chính với các mục đích gian lận hoặc cũng
có thể xuất phát từ quan điểm thận trọng sai lầm, kết quả là người lập báo cáo tài chính sẽ
chủ động trong công bố các thông tin được cung cấp ra ngoài và chiếm đoạt quyền của
người sử dụng thông tin để đưa ra quyết định của mình (SAC – đoạn 21).
* Theo quan điểm của Bộ Tài chính – Việt Nam được quy định trong chuẩn
mực kế toán và chế độ kế toán hiện hành.
Căn cứ theo chuẩn mực số 01 (VAS01) – Chuẩn mực chung được ban hành và
công bố theo quyết định số 165/2002/QĐ-BTC ngày 31/12/2002 của Bộ trưởng Bộ Tài
chính, thận trọng là một trong bảy nguyên tắc kế toán cơ bản được thừa nhận trong lĩnh
vực kế toán nhằm đảm bảo các yêu cầu cơ bản đối với kế toán nói chung và báo cáo tài
21
chính nói riêng. Cụ thể trong VAS01 – đoạn 8 có đề cập đến khái niệm về nguyên tắc
thận trọng và những đòi hỏi của nguyên tắc này. Cụ thể như sau:
“Thận trọng là việc xem xét, cân nhắc, phán đoán cần thiết để lập các ước tính kế
toán trong các điều kiện không chắc chắn. Nguyên tắc thận trọng đòi hỏi:
a) Phải lập các khoản dự phòng nhưng không lập quá lớn;
b) Không đánh giá cao hơn giá trị của các tài sản và các khoản thu nhập;
c) Không đánh giá thấp hơn giá trị của các khoản nợ phải trả và chi phí
d) Doanh thu và thu nhập chỉ được ghi nhận khi có bằng chứng chắc chắn về khả
năng thu được lợi ích kinh tế, còn chi phí phải được ghi nhận khi có bằng chứng về khả
năng phát sinh chi phí.”
Định nghĩa này phù hợp với khái niệm của IASB phiên bản 1989. Nguyễn Xuân
Hưng và cộng sự (2017), chỉ ra rằng tinh thần của nguyên tắc thận trọng được khái quát
là “khi có nhiều giải pháp được lựa chọn thì nên chọn giải pháp có ảnh hưởng ít nhất đến
sự gia tăng của vốn chủ sở hữu”, và đây là nguyên tắc quan trọng ảnh hưởng đến tình
hình tài chính và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp đồng thời khi tồn tại mâu thuẫn
giữa các nguyên tắc kế toán cơ bản thì thận trọng sẽ được ưu tiên lựa chọn.
Các tổ chức lập quy đều cho rằng thận trọng kế toán được áp dụng xuất phát từ
những sự kiện không chắc chắn và rủi ro phát sinh trong hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp nhưng lại không thể hiện được bản chất của các phản ứng mang tính cẩn trọng đó
(Givoly và Hayn, 2000). Vì vậy, nhiều học giả trên thế giới định nghĩa thận trọng kế toán
từ nhiều quan điểm khác nhau.
b. Định nghĩa thận trọng kế toán theo quan điểm của các nhà học giả trên thế
giới
Thân trọng kế toán là một nguyên tắc kế toán được rất nhiều học giả trên thé giới
quan tâm. Nó cũng là một vấn đề nghiên cứu có nhiều luồng quan điểm, tranh luận trái
ngược nhau trong giới học thuật.
Có khái niệm cho ràng thận trọng kế toán là việc xét đoán tất cả các thiệt hại
nhưng không bao gồm lợi nhuận – Bliss (1924).. Cũng có nhà nghiên cứu lại liên kết thận
trọng kế toán với mục tiêu của công ty và người sử dụng thông tin kế toán. Đó là quan
22
điểm trong nghiên cứu của Devine (1963), tác giả cho rằng thận trọng kế toán là một
nguyên tắc mà ở đó sự kỳ vọng về mục tiêu hoàn thành của công ty được đánh giá thấp
hơn so với các quy tắc đo lường thay thế và nguyên tắc báo cáo.
Ngoài ra một nguyên tắc mà ở đó tài sản nên được báo cáo giá trị thấp nhất trong
số các giá trị thay thế có thể và ngược lại với nợ phải trả nên được báo cáo giá trị cao
nhất trong số các giá trị thay thế có thể. Ngoài ra, doanh thu cần được ghi nhận trễ hơn,
và chi phí cần ghi nhận sớm hơn. Đó là quan điểm của Watts và Zimmerman (1986)
Nhiều phát biểu về thận trọng liên quan đến giá trị sổ sách và giá trị thị trường như
phát biểu của Feltham và Ohlson (1995) cho rằng thận trọng là chênh lệch tiệm cận giữa
giá trị sổ sách và giá trị thị trường.. Còn Penman và Zhang (2002) cho rằng một phương
pháp và ước tính kế toán mà ở đó giá trị sổ sách của tài sản thuần thấp hơn giá trị thị
trường của chúng thì chính là thận trọng kế toán. Quan điểm này cũng chính là quan điểm
của Beaver và Ryan (2005).
Tuy nhiên, khi Basu (1997) xem xét ảnh hưởng của thận trọng kế toán đến báo cáo
kết quả hoạt động kinh doanh đã đề xuất một định nghĩa mới về thận trọng kế toán và
thiết kế một mô hình để đo lường nó. Ông đã nhìn thận trọng kế toán dưới góc nhìn hoàn
toàn mới. Thận trọng kế toán theo Basu (1997) là một cách thức để nắm bắt khuynh
hướng của kế toán đòi hỏi phải có mức độ kiểm tra cao hơn (higher degree of
verification) trong việc ghi nhận tin tức tốt so với các thông tin xấu trên báo cáo tài chính.
Ông thực hiện ước tính hồi quy về thu nhập ròng hiện tại đối với lợi tức vốn chủ và kết
quả cho thấy thu nhập phản ứng lại lợi tức vốn chủ âm nhanh hơn lợi tức vốn chủ dương.
Do đó, ông giải thích thận trọng kế toán như sau: “thu nhập phản ánh tin xấu nhanh hơn
tin tốt”.
2.1.2.2. Các mô hình đo lường thận trọng kế toán
Dưới nhiều góc nhìn về thận trọng kế toán của các nhà nghiên cứu đã khiến cho
việc phát triển các mô hình đo lường thận trọng theo nhiều hướng khác nhau.Tuy nhiên
có thể phân loại thành ba mô hình sau: mô hình sử dụng tài sản ròng, mô hình thu nhập
và dồn tích, và mô hình mối quan hệ giữa thu nhập và lợi tức cổ phiếu. Điểm chung của
23
các mô hình đo lường thận trọng kế toán là chúng đều dựa vào ảnh hưởng của thận trọng
kế toán đối với thu nhập và các thông tin kế toán trên báo cáo của doanh nghiệp, đặc biệt
là tài sản ròng, thu nhập và dồn tích.
a. Mô hình tài sản ròng
Giá trị thị trường của tài sản và nợ phải trả bao gồm tài sản ròng thay đổi theo từng
thời kỳ nhưng tất cả những thay đổi này không được ghi lại trong báo cáo tài chính. Theo
tính thận trọng kế toán, việc tăng giá trị tài sản (lợi nhuận) không thể kiểm chứng được sẽ
không được ghi lại trong khi mức giảm giá trị tài sản lại được ghi lại. Kết quả là tài sản
ròng bị đánh giá thấp hơn giá trị thị trường. Các nhà nghiên cứu có được ước tính của
phần này bằng cách sử dụng các mô hình định giá cổ phiếu của công ty và (hoặc) tỷ lệ giá
trị sổ sách của công ty trên tài sản ròng so với giá trị vốn chủ sở.
Các mô hình định giá Feltham-Ohlson thường được sử dụng để ước tính mức độ
mất giá của tài sản ròng. Những mô hình này bao gồm các tham số phản ánh mức độ
thiếu tài sản hoạt động. Các mô hình gây ra sự thiếu hụt bằng cách giả định khấu hao kế
toán vượt quá khấu hao kinh tế. Ước tính tham số thận trọng được lấy từ ước tính mô
hình định giá và từ ước tính chuỗi thời gian về mối quan hệ giữa các biến kế toán là đầu
vào của mô hình định giá.
Ước tính mô hình định giá xuất phát từ hồi quy cắt ngang của giá trị thị trường của
doanh nghiệp đối với thu nhập, tài sản và đầu tư bất thường. Một ví dụ ước tính định giá
là Ahmed, Morton và Schaefer, phân tích hồi quy các lợi thế thương mại của các công ty
có các khoản thu nhập bất thường, tài sản hoạt động bị trì hoãn và đầu tư tại thời điểm đó
là đầu tư vào tài sản hoạt động. Trong phạm vi giá trị sổ sách của tài sản ròng bị đánh giá
thấp, lợi thế thương mại bị cường điệu hóa. Hệ số của tài sản hoạt động có độ trễ là tích
cực nếu thận trọng kế toán đánh giá thấp tài sản bị trì hoãn.
Ước tính tham số thận trọng kế toán chuỗi thời gian được lấy từ hồi quy chuỗi thời
gian của thu nhập bất thường trên thu nhập bất thường có độ trễ và giá trị sổ sách của tài
sản có độ trễ. Một lần nữa, hệ số tài sản hoạt động bị trễ là tích cực khi thận trọng kế toán
tồn tại. Để hiểu những dự đoán này, lưu ý rằng khấu hao càng nhiều thì càng vượt quá
các tài sản hoạt động bị trì hoãn để giải thích lợi nhuận cao hoặc thu nhập bất thường.
24
Theo các biện pháp thị trường, Beaver và Ryan đo lường tính thận trọng kế toán
bằng cách sử dụng tỷ lệ giá trị sổ sách trên giá trị thị trường dựa trên quan niệm rằng các
công ty sử dụng báo cáo kế toán có tính thận trọng thì tài sản ròng sẽ có giá trị thấp do đó
tỷ lệ giá trị sổ sách trên giá trị thị trường thấp. Sử dụng chuỗi thời gian gộp và dữ liệu cắt
ngang, họ lấy lại tỷ lệ theo giá trên thị trường theo từng năm và các biến của công ty và
trên lợi nhuận của cổ phiếu doanh nghiệp trong sáu năm hiện tại và trước đó. Hệ số ước
tính của một công cụ của công ty đo lường sự khác biệt giữa sổ sách của công ty và giá
trị thị trường của vốn chủ sở hữu. Hệ số càng thấp thì giá trị sổ sách của tài sản ròng càng
thấp và tính thận trọng kế toán của công ty càng cao.
Ngoài việc sử dụng tỷ lệ giá trị sổ sách trên giá trị thị trường một cách đơn lẻ,
Beaver và Ryan (2000) đo lường thận trọng kế toán bằng cách sử dụng mô hình hồi quy
tác động cố định giá trị sổ sách trên giá trị thị trường trên lợi nhuận cổ phiếu. Nhóm tác
giả phân chia tỷ lệ giá trị sổ sách trên giá trị thị trường thành 2 thành phần bao gồm: bộ
phận thiên lệch (bias component) và bộ phận trì hoàn/chậm trễ (lag component).
BTMt,i = αt + αi + + εt,i
Trong đó:
BTMt,i là tỷ số giá trị sổ sách/giá trị thị trường công ty i tại thời điểm t.
Rt-j,i là thu nhập hàng năm (annual raw return) công ty i tại thời điểm t-j
αt và αi lần lượt là ảnh hưởng cố định theo thời gian và công ty.
Bộ phận thiên lệch: Hệ số góc của biến Rt-j,i
Bộ phận trì hoàn/chậm trễ: αt và αi
b. Mô hình thu nhập và dồn tích
Thận trọng kế toán có nghĩa là lợi nhuận có xu hướng không được ghi nhận nhanh
chóng bằng rủi ro. Sự gia tăng không thể kiểm chứng về giá trị tài sản (lợi nhuận) không
được ghi nhận tại thời điểm chúng xảy ra. Trong khi đó, các khoản lỗ có cùng mức độ
xác minh như các khoản lãi không thể kiểm chứng được ghi nhận khi chúng xảy ra thay
vì trong tương lai khi dòng tiền giảm được thực hiện. Các công ty có thu nhập âm có
nhiều khả năng bị lỗ được ghi nhận vì trung bình các khoản lỗ không tái diễn trong các
25
giai đoạn trong tương lai, thu nhập âm và thu nhập giảm sẽ ít có khả năng tồn tại hơn so
với thu nhập dương và tăng thu nhập.
Sự không đối xứng lãi và lỗ tạo ra sự bất cân xứng trong các khoản dồn tích. Các
khoản lỗ có xu hướng được tích lũy hoàn toàn trong khi lợi nhuận thì không. Điều này
làm cho các khoản tích lũy có xu hướng bị tích lũy thiếu. Kết quả là tích lũy ròng định kỳ
âm và tích lũy âm được sử dụng như các biện pháp thận trọng. Ngoài ra, tính thận trọng
cho thấy các khoản lỗ, với việc vốn hóa các dòng chảy trong tương lai của họ, tạo ra
khoản tích lũy lớn hơn so với lợi nhuận. Điều này dự đoán các phân phối sai lệch của các
khoản tích lũy và thu nhập và cho thấy các ước tính về độ lệch âm của phân phối thu
nhập, thay đổi thu nhập và tích lũy là thước đo của tính thận trọng.
Về các mô hình thu nhập, các nghiên cứu trước cho rằng thay đổi thu nhập âm có
nhiều khả năng đảo ngược trong giai đoạn tiếp theo so với thay đổi thu nhập dương. Khi
xác nhận kết quả này, Basu hồi quy các thay đổi thu nhập, giảm phát theo giá đầu kỳ, trên
các thay đổi thu nhập bị giảm phát cho các mẫu thay đổi thu nhập dương và âm. Hệ số
thu nhập bị trễ ước tính cho thay đổi thu nhập dương khác biệt không đáng kể so với 0,
phù hợp với hệ số thu nhập dương cho thay đổi thu nhập âm là âm đáng kể, nhưng không
khác biệt đáng kể so với trừ đi, giá trị dự kiến khi thay đổi thu nhập âm hoàn toàn tạm
thời. Kết quả này phù hợp với giả thiết tính thận trọng kế toán gây ra thay đổi thu nhập
âm.
Về các mô hình tích lũy, Givolyn và Hayn lưu ý rằng tính thận trọng làm giảm thu
nhập được báo cáo tích lũy theo thời gian. Họ cho rằng dấu hiệu và mức độ tích lũy theo
thời gian là các biện pháp của thận trọng. Đối với các công ty ở trạng thái ổn định không
có tăng trưởng và kế toán trung lập, thu nhập hội tụ vào dòng tiền và tích lũy định kỳ hội
tụ về 0. Một ưu thế nhất quán của các khoản tích lũy âm giữa các công ty trong một thời
gian dài khi các yếu tố khác không đổi là một dấu hiệu của thận trọng kế toán, trong khi
tốc độ tích lũy của các khoản tích lũy âm là một dấu hiệu cho thấy sự thay đổi về mức độ
thận trọng theo thời gian.
Phù hợp với tính thận trọng kế toán, Givoly và Hayn phát hiện ra rằng sự phân
phối lợi nhuận trên tài sản, cho dù xuất phát từ chuỗi thời gian của các công ty riêng lẻ
26
hoặc mặt cắt ngang trong các năm của doanh nghiệp, bị lệch trong phần lớn thời gian họ
kiểm tra. Họ cũng phát hiện ra rằng các khoản tích lũy trong giai đoạn, ngoài khấu hao,
cộng dồn với số tiền âm bằng 16% thu nhập tích lũy so với cùng kỳ. Sự tích lũy này phù
hợp với thời điểm của sự gia tăng lớn trong chủ nghĩa thận trọng được quan sát trong
bằng chứng chuỗi thời gian về mối quan hệ giữa lợi nhuận và lợi nhuận cổ phiếu.
c. Mô hình mối quan hệ giữa thu nhập và lợi tức cổ phiếu
Giá thị trường của doanh nghiệp có xu hướng thay đổi giá trị tài sản tại thời điểm
những thay đổi đó xảy ra cho dù những thay đổi đó có nghĩa là thua lỗ hoặc đạt được giá
trị tài sản, điều này có nghĩa là lợi nhuận cổ phiếu có xu hướng kịp thời. Vì tính thận
trọng kế toán dự đoán rằng các khoản lỗ kế toán được ghi nhận kịp thời nhưng lợi nhuận
thì không, nên tổn thất kế toán được dự đoán là tương đương với lợi nhuận cổ phiếu hơn
là lợi nhuận kế toán. Basu dự đoán rằng lợi nhuận cổ phiếu và thu nhập có xu hướng phản
ánh các khoản lỗ trong cùng kỳ, nhưng lợi nhuận chứng khoán phản ánh lợi nhuận sớm
hơn thu nhập. Để cung cấp các ước tính về biện pháp của mình, Basu hồi quy thu nhập
hàng năm trên lợi nhuận chứng khoán cùng năm. Ông dự đoán hệ số lợi nhuận cổ phiếu
cao hơn so với một mẫu các công ty có lợi nhuận dương. Sử dụng dữ liệu của Hoa Kỳ,
Basu phát hiện ra kết quả phù hợp với dự đoán của mình. Sử dụng các biến thể của
phương pháp này, nhiều nghiên cứu khác sao chép kết quả, bao gồm cả Ball et al. và
Holthausen và Watts.
Giá trị doanh nghiệp được định nghĩa là tổng giá trị của cổ phiếu của công ty và số
liệu kế toán là giá trị có liên quan nếu họ có thể nắm bắt thông tin ảnh hưởng đến giá trị
của cổ phiếu của công ty. Tuy nhiên, các công ty và các tài sản khác được định giá khác
nhau tùy thuộc vào bối cảnh. Runsten định nghĩa ba khái niệm giá trị: giá trị kinh tế, giá
trị thị trường và giá trị kế toán. Giá trị kinh tế đề cập đến khái niệm rằng giá trị của bất kỳ
tài sản nào bằng với dòng tiền trong tương lai có thể thu được từ tài sản. Khái niệm giá trị
này phù hợp với mô hình dòng tiền chiết khấu, trong đó nêu rõ rằng giá trị của một tài
sản bằng với tất cả các dòng tiền trong tương lai được chiết khấu theo giá trị hiện tại. Giá
trị thị trường là giá trị của một công ty trên thị trường chứng khoán và dựa trên niềm tin
đồng thuận thương mại và nhà đầu tư về giá trị doanh nghiệp. Theo Runsten, thông tin
27
thường được coi là cơ sở để các nhà đầu tư tin tưởng và kỳ vọng về giá trị thị trường
được hình thành. Ông lập luận rằng quan sát giá cổ phiếu có thể được xem là thước đo
đánh giá của thị trường về yêu cầu bồi thường đối với các công ty tạo ra giá trị tương lai.
Do đó, ông kết luận rằng giá cổ phiếu đóng vai trò là chỉ số của thị trường kỳ vọng về sự
thành công trong tương lai của công ty. Giá trị kế toán đề cập đến giá trị sổ sách của vốn
chủ sở hữu được tìm thấy trong bảng cân đối kế toán. Mặc dù thông tin thường được coi
là cơ sở để các nhà đầu tư tin tưởng và kỳ vọng về giá trị thị trường được hình thành
nhưng giá trị kế toán là kết quả của một thủ tục đo lường tương ứng với các quy định và
luật kế toán. Kế toán tạo ra một mô tả của công ty trong một nỗ lực để đo lường và mô tả
tình hình tài chính và hiệu suất của nó. Theo Runsten, có thể đạt được sự tương ứng chặt
chẽ giữa giá trị sổ sách vốn chủ sở hữu và giá trị thị trường nếu thông tin kế toán chuyển
tải một mô tả tốt về giá trị của công ty. Ông lập luận rằng cả ba khái niệm giá trị thậm chí
có thể trùng khớp, cung cấp một loạt các giả định mạnh mẽ. Tuy nhiên, trong thực tế,
điều này không khả thi lắm. Thay vì các hệ thống riêng biệt tạo ra các mô tả giống hệt
nhau, một loại mô tả trong thực tế có thể tạo điều kiện cho hoạt động của một mô hình
khác. Ví dụ, đầu ra của quy trình kế toán có thể được sử dụng làm đầu vào trong quy
trình định giá. Các khái niệm khác nhau về giá trị có ý nghĩa đối với kế toán, mục tiêu
của nó là cung cấp thông tin về tình hình tài chính và hiệu quả hoạt động của các công ty,
cũng như liên quan đến giá trị thích hợp của thông tin kế toán. Nếu kế toán cung cấp một
mô tả kém về công ty, giá trị liên quan của thông tin đó có thể sẽ thấp.
2.2. Phân loại các hình thức thận trọng kế toán
Vào tháng 3 năm 2018, IASB đã ban hành phiên bản mới nhất của khuôn mẫu lý
thuyết kế toán thay thế cho phiên bản năm 2010 và có hiệu lực tại ngày 1 tháng 1 năm
2020. Trong phiên bản này IASB tin rằng nguyên tắc thận trọng hỗ trợ cho tính trung lập
(trong đặc điểm trình bày hợp lý của thông tin hữu ích) và đưa ra định nghĩa cho rằng
thận trọng là mức độ cẩn thận khi thực hiện các xét đoán trong điều kiện không chắc
chắn.
28
Từ sau nghiên cứu của Basu (1997), rất nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới phân
loại thận trọng kế toán để thực hiện các nghiên cứu tiếp theo. Beaver và Ryan (2005)
phân loại thận trọng kế toán thành thận trọng không có điều kiện (unconditional
conservatism) và thận trọng có điều kiện (conditional conservatism). Tác giả nhận định
rằng cả thận trọng có điều kiện và không có điều kiện đều ghi nhận các thông tin xấu một
cách kịp thời hơn so với thông tin tốt. Các ví dụ về thận trọng kế toán không điều kiện
bao gồm chi phí cho hầu hết các tài sản vô hình được phát triển nội bộ, khấu hao tài sản,
máy móc, thiết bị cao hơn mức khấu hao kinh tế (hay còn gọi là khấu hao nhanh); Trong
khi đó các chi phí về nghiên cứu phát triển, dự phòng tổn thất,.. là các ví dụ về thận trọng
kế toán có điều kiện.
- Thận trọng kế toán có nghĩa là giá trị sổ sách bị ghi giảm giá trị trong điều kiện
thị trường có thông tin xấu, nhưng không được ghi tăng giá trị khi gặp thông tin tốt.
Thận trọng kế toán đòi hỏi những khoản lỗ kinh tế phải được công nhận một cách kịp
thời hơn so với lợi ích kinh tế. . Ngoài ra, Qiang (2007) cung cấp bằng chứng thực
nghiệm rằng hai loại thận trọng kế toán có điều kiện và không điều kiện có quan hệ
ngược chiều với nhau và đóng vai trò khác nhau trong các doanh nghiệp. Cả hai loại thận
trọng kế toán đều dẫn đến giá trị sổ sách của tài sản thuần bị khai thấp hơn so với giá trị
thị trường của nó (Kabir và Laswad, 2014).
2.3. Ảnh hưởng của thận trọng kế toán lên báo cáo tài chính
Tất cả các hình thức thận trọng kế toán đều dẫn đến việc đánh giá thấp giá trị sổ
sách kế toán so với giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu. Do đó, thận trọng kế toán nói
chung sẽ dẫn đến tài sản và doanh thu bị đánh giá thấp và/hoặc nợ phải trả và chi phí bị
đánh giá cao. Tuy nhiên, vấn đề chính trong nghiên cứu ảnh hưởng của thận trọng kế toán
tới báo cáo tài chính là cách nó ảnh hưởng đến chỉ tiêu thu nhập. Dechow et al. (2010)
xem xét và tóm tắt các tài liệu về chỉ tiêu thu nhập trên báo cáo tài chính. Mặc dù họ lưu
ý rằng không có định nghĩa thống nhất về chất lượng thu nhập nhưng họ tóm tắt các nhân
tố thường được sử dụng để đánh giá chất lượng thu nhập thành ba nhóm sau: (1) nhân tố
thuộc tính thời gian của thu nhập, bao gồm tính bền vững và khả năng dự đoán thu nhập,
(2) nhân tố dồn tích và (3) nhân tố hành vi quản trị thu nhập.
29
2.3.1. Các thuộc tính thời gian của thu nhập
Chủ nghĩa thận trọng sẽ ghi nhận kịp thời tin xấu và ghi nhận trễ tin tốt, thường
biểu hiện dưới dạng ghi giảm giá trị sổ sách kế toán. Trong giai đoạn có tin tức xấu, thu
nhập thường sẽ bị ghi nhận thấp hơn giá trị thực tế.
Nghiên cứu về tác động của chủ nghĩa thận trọng đối với các thuộc tính chuỗi thời
gian của thu nhập luôn thấy rằng tính thận trọng làm giảm tính bền vững và khả năng dự
đoán thu nhập. Dichev và Tang (2008) và Chen và cộng sự (2013) cung cấp bằng chứng
cho thấy chủ nghĩa thận trọng có điều kiện làm thu nhập bị biến động nhiều và giảm tính
ổn định thu nhập. Dichev và Tang (2008) cho rằng mối tương quan đồng biến giữa doanh
thu hiện tại và chi phí trong quá khứ phù hợp với việc ghi nhận các khoản lỗ trong thời
điểm thích hợp. Chen và cộng sự (2013), thấy rằng chủ nghĩa thận trọng có tác động tiêu
cực đến thu nhập dẫn đến thu nhập bị đánh giá thấp hơn giá trị thực tế.
Kim và Kross (2005), Bandyopadhyay và cộng sự (2010) cung cấp bằng chứng
cho thấy chủ nghĩa thận trọng làm giảm khả năng dự đoán thu nhập trong tương lai
nhưng tăng khả năng dự đoán dòng tiền hoạt động trong tương lai. Kim và Kross (2005)
thấy rằng khả năng dự đoán dòng tiền hoạt động trong tương lai tăng trong giai đoạn áp
dụng tính thận trọng, và dự đoán dòng tiền hoạt động trong tương lai giảm trong giai
đoạn không áp dụng hay giảm sự ứng dụng của tính thận trọng kế toán. Mở rộng hơn,
Kim và Kross (2005), Bandyopadhyay và cộng sự (2010) thấy rằng chủ nghĩa thận trọng
có ảnh hưởng tích cực với khả năng dự đoán của dòng tiền trong tương lai và ảnh hưởng
tiêu cực đến khả năng dự đoán thu nhập trong tương lai. Các nghiên cứu này cho thấy
rằng nhận định tin tức xấu một cách kịp thời có liên quan đến sự biến động tạm thời của
thu nhập, làm cho thu nhập mang tính ít quản trị hơn và có thể dự đoán được.
Tác động của chủ nghĩa thận trọng đối với sự quản trị và dự đoán thu nhập phụ
thuộc vào thực tiễn của tính thận trọng được sử dụng. Ví dụ: khấu hao nhanh có thể dẫn
đến thu nhập ít liên tục hơn so với phương pháp đường thẳng. Chi phí khấu hao vượt mức
được ghi nhận trước trong thời gian sử dụng tài sản cố định sẽ không được vào cuối vòng
đời sử dụng tài sản cố định, làm giảm sự tồn tại của chi phí khấu hao này.
30
Tập trung vào một số phương pháp thận trọng khác, Penman và Zhang (2002)
nhận thấy rằng chi phí cho nghiên cứu và phát triển (R&D), chi phí quảng cáo và phương
pháp tính giá hàng xuất kho theo LIFO có ảnh hưởng đến thu nhập khi các phương pháp
này biến động nhất thời. Ví dụ, việc giảm tạm thời chi phí R&D làm tăng thu nhập trong
thời kỳ này. Tuy nhiên, thu nhập trở lại mức bình thường khi hoạt động R&D bình
thường trở lại, Penman và Zhang (2002) nhận thấy rằng chủ nghĩa thận trọng tạo ra các
khoản dự trữ ẩn có thể được giải phóng thành thu nhập, gây ra sự biến dạng tạm thời về
hiệu suất hoạt động. Điều này có thể làm sai lệch nghiêm trọng trong trường hợp là việc
giảm chi phí R&D có thể làm giảm doanh thu trong tương lai. Nhìn chung, nghiên cứu
cho thấy rằng chủ nghĩa thận trọng ảnh hưởng xấu đến chất lượng thu nhập bằng cách
giảm sự ổn định và khả năng dự đoán thu nhập.
2.3.2. Dồn tích
Thu nhập dồn tích thường được đề cập là có chất lượng thấp hơn phần thu nhập
tiền mặt vì các khoản thu nhập dồn tích dựa trên nguyên tắc ghi nhận dự thu - dự chi
(Dechow và Dichev, 2002) và phần thu nhập dồn tích đã được tìm thấy là ít tồn tại hơn
phần thu nhập tiền mặt (Sloan, 1996). Sự thận trọng ảnh hưởng đến chất lượng thu nhập
trong bối cảnh này phụ thuộc vào cách tăng hoặc giảm số tiền thu nhập dồn tích so với
thu nhập bằng tiền mặt. Như đã lưu ý ở trên, chủ nghĩa thận trọng được đặc trưng bởi
việc ghi giảm tài sản trong các giai đoạn tin tức xấu và tài sản được hoãn lại trong các
giai đoạn tin tức tốt. Vì việc ghi giảm thường không xảy ra trong cùng thời gian với dòng
tiền liên quan, nên chúng hầu như luôn là một phần của thu nhập dồn tích. Ngược lại, lợi
nhuận thường được hoãn lại cho đến khi chúng được nhận ra hoặc có thể thực hiện được,
điều này có khả năng làm tăng phần tiền mặt của thu nhập để được công nhận. Do đó,
chủ nghĩa thận trọng có điều kiện có khả năng làm tăng mức độ thu nhập tích lũy trong
thời kỳ tin tức xấu nhưng làm giảm mức độ thu nhập tích lũy trong thời kỳ tin tức tốt.
Ngoài ra, kết quả của các nghiên cứu liên quan đến tính chất chuỗi thời gian của
thu nhập có liên quan đến mối quan hệ giữa tính thận trọng và thành phần dồn tích của
thu nhập. Nói cách khác, sự khác biệt về tính liên tục và dự đoán thu nhập có thể là kết
quả của sự khác biệt trong thành phần dồn tích của thu nhập.
31
Phương pháp duy nhất của chủ nghĩa thận trọng có khả năng ảnh hưởng đến phần
thu nhập dồn tích là sử dụng các phương pháp khấu hao nhanh và kế toán LIFO cho hàng
tồn kho. Như đã lưu ý ở trên, phần khấu hao vượt mức trong thời gian đầu sử dụng tài sản
cố định sẽ không tồn tại trong các giai đoạn sau và như đã lưu ý trong Penman và Zhang
(2002), phương pháp kế toán LIFO có thể giải phóng giá trị hàng tồn kho vào thu nhập
dồn tích và giảm thu nhập lũy kế. Ngoài ra, khấu hao nhanh có thể dẫn đến lỗi đo lường
lớn hơn trong giá trị sổ sách của tài sản khấu hao, điều này có thể dẫn đến tổn thất nhất
thời trong lợi nhuận khi xử lý tài sản.
2.3.3. Hành vi quản trị thu nhập
Khía cạnh thứ ba của chất lượng thông tin thu nhập trên báo cáo tài chính mà tác
giả xem xét là quản trị thu nhập. Quản trị thu nhập thường được định nghĩa là quản lý các
con số kế toán có chủ đích để đạt được các mục tiêu thu nhập trong chiến lược của nhà
quản lý. Mặc dù có nhiều nghiên cứu về quản trị thu nhập, nhưng một số nghiên cứu điều
tra ảnh hưởng của tính thận trọng kế toán đối với sự xuất hiện của quản trị thu nhập. Một
câu hỏi nghiên cứu là: làm thế nào để các chính sách kế toán thận trọng tác động đến sự
phổ biến của quản trị thu nhập? Trong bài luận văn này, tác giả xem xét rằng bất kỳ giảm
giá trị trong báo cáo kế toán chính là thận trọng kế toán, bao gồm cả giảm cơ hội quản trị
thu nhập.
Do sự không chắc chắn của các sự kiện và tin tức, các nhà quản lý không thể dựa
vào các luật và chuẩn mực kế toán trong một giai đoạn nhất định xảy ra các sự kiện và tin
tức đó để đáp ứng các mục tiêu thu nhập kỳ vọng. Việc ghi lại tin tức xấu có thể được sử
dụng để ghi giảm thu nhập mong đợi, nhưng tác giả chưa tìm được bằng chứng thực
nghiệm nào ủng hộ khẳng định đó.
Mặt khác, tính thận trọng có khả năng tạo điều kiện quản trị thu nhập thông qua
việc tích lũy các khoản dự trữ trên bảng cân đối kế toán và nó có thể được giải phóng
thành thu nhập khi cần đạt được thu nhập kỳ vọng. Dự trữ được tích lũy thông qua chủ
nghĩa thận trọng qua nhiều kỳ kế toán. Trong trường hợp này, quản trị thu nhập thực sự là
cơ hội khai thác tính thận trọng kế toán để đạt được mục tiêu thu nhập trong giai đoạn
tương lai. Jackson và Liu (2010) tìm thấy bằng chứng cho rằng chủ nghĩa thận trọng có
32
ảnh hưởng quản trị thu nhập trong việc lập dự phòng khoản phải thu khó đòi. Hai tác giả
này thấy rằng việc lập dự phòng các khoản phải thu khó đòi làm giảm giá trị trong tương
lai và như vậy tính thận trọng có liên quan đến việc sử dụng chi phí nợ xấu để đáp ứng
các mục tiêu phân tích EPS. Nói cách khác, các khoản dự phòng được ước tính thận trọng
sẽ giải phóng vào thu nhập bằng cách giảm chi phí nợ xấu để đáp ứng các mục tiêu thu
nhập.
Nghiên cứu của Penman và Zhang (2002) đã nêu trên cung cấp bằng chứng bổ
sung rằng khoản dự phòng có thể được giải phóng vào thu nhập. Mặc dù họ không thảo
luận về quản trị thu nhập, nhưng khoản dự phòng của chi phí R&D, chi phí quảng cáo và
LIFO có thể được giải phóng thành thu nhập bằng cách thao túng hoạt động của công ty.
Hình thức quản lý thu nhập này được gọi là quản lý thu nhập thực tế. Trong trường hợp
này, việc quản lý thận trọng đối với chi phí R&D, quảng cáo và hàng tồn kho LIFO thực
sự có thể tạo thuận lợi cho việc sử dụng quản trị thu nhập thực tế để đáp ứng các mục tiêu
thu nhập.
2.4. Lý thuyết nền tảng liên quan
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả nhận định rằng để giải thích tác
động của thận trọng kế toán đến giá trị thích hợp thông tin các học giả trên thế giới không
đưa ra một lý thuyết nền tảng cụ thể để giải quyết vấn đề. Thay vào đó, họ chỉ đề cập đến
lý thuyết kế toán giải thích cho việc áp dụng kế toán thận trọng. Do đó, trong nội dung
phần này, tác giả trình bày về lý thuyết nền tảng được sử dụng trong các nghiên cứu về
thận trọng kế toán nhằm giải thích về sự hiện diện hoặc không hiện diện của thận trọng
kế toán trong dữ liệu nghiên cứu tại Việt Nam sẽ được trình bày cụ thể trong phần 3.3 về
giả thuyết nghiên cứu được đề xuất. Một lý thuyết nền tảng được nhiều tác giả sử dụng
trong nghiên cứu của mình về thận trọng kế toán là lý thuyết ủy nhiệm (Agency cost). Lý
thuyết này đầu tiên do Ross (1973) đề xuất và tiếp đó được phát triển bởi Jensen &
Meckling (1976). Lý thuyết này tập trung đề cập đến mối quan hệ giữa bên ủy nhiệm
(principals) và bên được ủy nhiệm (agents).
Theo đó, bên ủy nhiệm sẽ chỉ định bên được ủy nhiệm thực hiện thay cho họ một
số dịch vụ, trong đó bao gồm một mức độ thẩm quyền ra quyết định cho bên được ủy
33
nhiệm (bao gồm cả việc trao thẩm quyền để ra quyết định định đoạt tài sản của công ty).
Bên được ủy nhiệm được kỳ vọng sẽ đem lại lợi ích tối đa cho bên ủy nhiệm, tuy nhiên
cả hai bên đều theo đuổi những lợi ích riêng cho bên mình. Điều này cũng có nghĩa là tồn
tại sự mâu thuẫn giữa hai bên ủy nhiệm và được ủy nhiệm, từ đó phát sinh một khoản chi
phí ủy nhiệm (agency cost) mà hai bên phải gánh chịu.
Mối quan hệ này được thể hiện qua hai trường hợp: (1) mối quan hệ giữa cổ đông
(người sở hữu phần vốn của doanh nghiệp) và Ban giám đốc (người trực tiếp điều hành
mọi hoạt động của doanh nghiệp, và (2) mối quan hệ giữa chủ nợ và công ty sử dụng vốn
vay.
(1) Trong mối quan hệ giữa cổ đông và Ban giám đốc luôn tồn tại sự tách biệt giữa
quyền sở hữu và quyền điều hành. Theo đó, các cổ đông của công ty sẽ tiến hành bổ
nhiệm các nhà quản lý để điều hành mọi hoạt động hàng ngày nhằm thực hiện công việc
quản lý công ty thay cho họ. Tuy nhiên trong mối quan hệ này, cả hai bên đều mong
muốn tối đa hóa lợi ích của mình. Cụ thể, các cổ đông mong muốn tối đa hóa giá trị công
ty, đạt mức tăng trưởng ổn định trong dài hạn. Bên cạnh đó, các nhà quản lý lại theo đuổi
những mục đích riêng của họ và có thể những mục đích này không phù hợp, nhất quán
với mục đích mà các cổ đông đã đưa ra. Xung đột giữa hai bên sẽ phát sinh khi xuất hiện
tình trạng thông tin bất cân xứng (information asymmetry) giữa nhà quản lý công ty và
các cổ đông. Cả hai bên đều tồn tại những lợi ích khác nhau và vấn đề này cần được giải
quyết bằng cách sử dụng các cơ chế thích hợp để có thể hạn chế sự phân hóa lợi ích giữa
các bên, thông qua thiết lập những cơ chế đãi ngộ thích hợp cho các nhà quản trị, và thiết
lập cơ chế giám sát hiệu quả để hạn chế những hành vi không bình thường, tư lợi của
người quản lý công ty.
(2) Trong mối quan hệ giữa chủ nợ và chủ sở hữu của công ty vay nợ, chủ nợ
không trực tiếp sử dụng vốn để đầu tư, kinh doanh để kiếm lời. Thay vào đó, họ kinh
doanh quyền sử dụng vốn, tức trao quyền sử dụng vốn cho công ty sử dụng vốn, thu lãi
và thu hồi lại vốn sau thời hạn sử dụng vốn vay. Vũ Hữu Đức (2010) đã dẫn lại các kết
quả nghiên cứu của Smith và các tác giả (1979) về một số trường hợp phát sinh mâu
thuẫn giữa hai bên như sau: (a) công ty vay nợ trả cổ tức cho các cổ đông cao hơn cho
34
các chủ sở hữu, làm cho các tài sản đảm bảo thanh toán cho chủ nợ bị giảm, từ đó ảnh
hưởng đến các chỉ số tài chính liên quan đến thanh toán nợ; (b) việc sử dụng vốn vay vào
các dự án có rủi ro quá cao, trong khi hợp đồng tín dụng đã được ký kết trước đó với một
mức lãi suất cố định chỉ giúp đem lại lợi ích cao hơn cho bên đi vay, khi dự án gặp rủi ro
hoặc có biến cố xấu, chủ nợ có nguy cơ không thể thu hồi vốn gốc và lãi như đã thỏa
thuận trong khi nếu dự án tốt, mức lợi nhuận cao chủ nợ cũng không được hưởng một
mức lãi cao hơn; (c) việc tăng nợ vay trong cơ cấu vốn của công ty có thể giúp tăng suất
sinh lời trên vốn chủ sở hữu cũng như tận dụng được lá chắn thuế từ lãi vay. Tuy nhiên,
sử dụng nợ vay cao góp phần làm cơ cấu nguồn vốn của công ty rủi ro hơn. Ngoài ra, các
chủ nợ cũng có nguy cơ gặp rủi ro cao hơn khi công ty không có khả năng hoàn trả vốn
vay và lãi vay.
Khi áp dụng kế toán thận trọng, lợi nhuận hàm chứa tin xấu theo một cơ chế kịp
thời hơn so với tin tốt. Cũng có thể giải thích rằng kế toán được phép ghi nhận các khoản
chi phí khi có bằng chứng có khả năng xảy ra (như trích lập dự phòng, trích trước chi phí
phải trả, đánh giá lại giá trị tài sản…) trong khi kế toán chỉ được ghi nhận lợi ích khi có
bằng chứng chắc chắn xảy ra, Do đó, kế toán thận trọng được coi là một trong những kỹ
thuật làm giảm chi phí ủy nhiệm và bảo vệ lợi ích cho cổ đông của công ty, hạn chế sự
phân hóa lợi ích giữa cổ đông và Ban giám đốc (LaFond và Roychowdury, 2008). Thêm
vào đó trên thị trường chứng khoán giá trị thị trường của doanh nghiệp được ghi nhận
trên cơ sở giá trị vốn hóa thị trường của doanh nghiệp. Hiện tượng này xảy ra có nguồn
gốc xuất phát từ sự bất cân xứng thông tin giữa nhà quản trị doanh nghiệp và nhà đầu tư.
Nhà đầu tư/chủ nợ thường quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu của doanh
nghiệp (ROE) để đánh giá giá trị doanh nghiệp (giá cổ phiếu/giá thị trường của vốn chủ)
mà không có đầy đủ thông tin về hoạt động của doanh nghiệp (Nguyễn Thị Bích Thủy –
2018). Ngoài ra, tình trạng bất cân xứng thông tin giữa chủ nợ và cổ đông cũng khiến cho
các chủ nợ yêu cầu áp dụng kế toán thận trọng để có các thông tin xấu liên quan đến công
ty một cách kịp thời và có những phản ứng phù hợp để bảo vệ lợi ích của mình (Watts,
2003a; Basu, 1997)
35
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Nội dung chương 2 của luận văn đã trình bày các định nghĩa về giá trị thích hợp
thông tin, thận trọng kế toán dưới quan điểm của các tổ chức lập quy trên thế giới cũng
như do các học giả đã và đang xây dựng và phát triển. Ngoài ra, tác giả cũng đã nêu lên
một số khái quát chính về các hình thức của thận trọng kế toán dưới góc nhìn của Hội
đồng chuẩn mực kế toán quốc tế và của các học giả trên thế giới. Ngoài ra, tác giả đã trình
bày lý thuyết nền tảng liên quan được sử dụng để giải thích cho việc áp dụng nguyên tắc
thận trọng. Theo đó, áp dụng nguyên tắc thận trọng là một trong những kỹ thuật làm giảm
chi phí ủy nhiệm và bảo vệ lợi ích cho chủ sở hữu của công ty. Liên quan đến việc giải
thích tác động của thận trọng kế toán đến giá trị thích hợp của thông tin, các học giả trên
thế giới không trình bày cụ thể một lý thuyết nào để giải quyết vấn đề này. Thay vào đó,
các học giả chỉ trình bày bản chất thận trọng của hệ thống kế toán quốc gia và ảnh hưởng
của nó đến tính thích hợp của thông tin trên báo cáo tài chính được cung cấp cho các đối
tượng sử dụng. Trên cơ sỏ đó luận văn xem xét ảnh hưởng của thận trọng kế toán tới báo
cáo tài chính là cách nó ảnh hưởng đến chỉ tiêu thu nhập và trình bày tóm tắt các nhân tố
thường được sử dụng để đánh giá chất lượng thu nhập thành ba nhóm sau: (1) nhân tố
thuộc tính thời gian của thu nhập, bao gồm tính bền vững và khả năng dự đoán thu nhập,
(2) nhân tố dồn tích và (3) nhân tố hành vi quản trị thu nhập.
Trong nội dung chương tiếp theo, tác giả tiếp tục trình bày cụ thể về phương pháp
nghiên cứu được thực hiện trong luận văn.
36
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Phương pháp nghiên cứu và quy trình nghiên cứu
3.1.1. Phương pháp nghiên cứu
Theo (Nguyễn Đình Thọ, 2013) ba phương pháp thường được sử dụng trong
nghiên cứu khoa học đó là: phương pháp định tính, phương pháp định lượng và phương
pháp hỗn hợp. Luân văn này của tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng kết
hợp với điều tra số liệu, Đây là phương pháp thường gắn với việc kiểm định (lý thuyết)
dựa vào quy trình suy diễn (Nguyễn Đình Thọ, 2013). Nghiên cứu định lượng là nghiên
cứu sử dụng các phương pháp khác nhau (chủ yếu là thống kê) để lượng hóa, đo lường,
phản ánh và diễn giải các mối quan hệ giữa các nhân tố (các biến) với nhau. Tác giả dựa
trên mẫu dữ liệu, và dùng phương pháp định lượng để đo lường các biến trong mô hình
của luận văn; và dựa trên kết quả nghiên cứu để suy diễn ra mối quan hệ giữa các biến
dựa trên cơ sở lý thuyết nền và các giả thuyết đã xây dựng.
Điều 111 Luật Doanh nghiệp, vốn điều lệ công ty cổ phần là tổng giá trị mệnh giá
cổ phần đã bán các loại. Tại thời điểm đăng ký thành lập doanh nghiệp, vốn điều lệ của
công ty cổ phần là tổng giá trị mệnh giá cổ phần các loại đã được đăng ký mua và được
ghi trong Điều lệ công ty. Đối chiếu khoản 2 Điều 10 Luật chứng khoán 2006, mệnh giá
cổ phiếu, chứng chỉ quỹ chào bán lần đầu ra công chúng là mười nghìn đồng Việt Nam.
Do đó, thông thường các công ty cổ phần thường để mệnh giá cổ phần là 10.000 đồng/cổ
phần, vì đây cũng là mệnh giá tối thiểu để chào bán cổ phần lần đầu ra công chúng.
Luật DN 2014 quy định vốn điều lệ Đối với công ty TNHH từ hai thành viên trở
lên vốn góp bị chi phối bởi Điều 48: “Vốn điều lệ của công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên khi đăng ký doanh nghiệp là tổng giá trị phần vốn góp các thành viên
cam kết góp vào công ty” và Điều 47: “Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở
lên không được quyền phát hành cổ phần”.
Đối với Công ty TNHH một thành viên vốn góp được căn cứ điều 73 Luật DN
2014 như sau: “Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên không được quyền phát
hành cổ phần”; và thủ tục góp vốn trong công ty TNHH 1 thành viên căn cứ điều 74 Luật
37
DN 2014 quy định: “Vốn điều lệ của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên tại thời
điểm đăng ký doanh nghiệp là tổng giá trị tài sản do chủ sở hữu cam kết góp và ghi trong
Điều lệ công ty”.
Đối với loại hình DNTN Theo quy định tại Luật DN 2014 việc góp vốn điều lệ
thành lập DNTN của chủ doanh nghiệp có thể thay đổi sau khi thành lập. Và trong đó có
quy định tại Điều 183. (i) Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ
và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp;
(ii) Chủ DNTN hoàn toàn phải chịu trách nhiệm vô hạn bằng tài sản của công ty và của
cá nhân mặc dù không đóng góp vào công ty.
Như vậy Luật DN 2014 quy định về vốn góp đối với các loại hình DN đều thể
hiện vốn góp của cổ đông (Công ty cổ phần), thành viên góp vốn (công ty TNHH) và chủ
DN (DNTN) là cổ phần hay phần vốn góp đăng ký và chỉ cho phép công ty cổ phần phát
hành cổ phần còn các loại hình khác thì không.
Việc áp dụng định tính trong nghiên cứu Bởi vì việc sử dụng phạm vi nghiên cứu
là các DNNVV trên địa bàn TP.HCM (không bao gồm các doanh nghiệp siêu nhỏ) và
không hạn chế mẫu nghiên cứu áp dụng Thông tư 200/2014/TT-BTC hay Thông tư
133/2016/TT-BTC trong việc lập và trình bày BCTC nhưng không bao gồm các công ty
niêm yết. Vì vậy, để tính được các chỉ tiêu như giá trị thị trường của vốn chủ để xác định
các biến BTM (mô hình Beaver và Ryan (2000)) hay biến Pit (mô hình Ohlson (1995)),
tác giả sử dụng phương pháp xác định giá trị thị trường của vốn chủ bằng phương pháp
nhân, qua đó có thể ước tính định giá công ty qua số liệu về tổng giá trị tài sản của công ty
(bao gồm giá trị của tất cả hàng tồn kho hiện tại và các cổ phần khác) và biên lợi nhuận.
Các giá trị này thường có sẵn trên báo cáo tài chính của công ty đại chúng. Tuy nhiên, đối
với mẫu nghiên của mình là DNNVV không niêm yết trên sàn chứng khoán, tác giả đã sử
dụng định tính thông qua điều tra kế toán để được cho phép truy cập vào thông tin quản
trị để có được các dữ liệu chi tiết về tài sản của mẫu nghiên cứu. Trên cơ sở phương pháp
tài sản trong định giá doanh nghiệp là phương pháp ước tính giá trị của doanh nghiệp dựa
trên giá trị thị trường của tổng tài sản của doanh nghiệp với công thức tính:
Giá trị thị trường của doanh nghiệp được tính toán dựa trên bảng cân đối tài sản
38
của doanh nghiệp và giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu được tính như sau:
VE = VA – VD
Trong đó:
VE: Giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu
VA: Giá trị thị trường của toàn bộ tài sản
VD: Giá trị thị trường của nợ phải trả
Để tính giá trị thị trường của tài sản tác giả sử dụng dữ liệu thô do công ty cung
cấp về chi tiết tài sản và báo cáo chi tiết nợ phải trả được thu thập từ báo cáo quản trị của
DN đối chiếu với thông tin trên BCTC (bản cung cấp cho cơ quan thuế) làm căn cứ để
xác định giá thị trường của một đơn vị vốn chủ (lấy đơn vị vốn chủ bằng với mệnh giá cổ
phần theo quy định của Luật DN).
Song song đó, tác giả cũng sử dụng phương pháp định lượng trong nghiên cứu của
mình. Đây là phương pháp nghiên cứu gắn liền với việc kiểm định các lý thuyết khoa học
thông qua thực tế dựa vào quy trình suy diễn. Quy trình nghiên cứu của luận văn được bắt
đầu từ việc xác định khe hổng nghiên cứu sau khi tổng hợp các nghiên cứu trước đây liên
quan đến ảnh hưởng của thận trọng kế toán đến giá trị thích hợp thông tin và đề ra câu
hỏi nghiên cứu cần phải trả lời trong nghiên cứu của mình. Sau đó, dựa trên các lý thuyết
nền để xây dựng giả thuyết nghiên cứu và xác định mô hình. Cuối cùng, tác giả tiến hành
thu thập dữ liệu của các DN trên địa bàn TPHCM tại Việt Nam giai đoạn 2014-2018 để
kiểm định các giả thuyết mà nghiên cứu đặt ra.
3.1.2. Quy trình nghiên cứu
- Đầu tiên: Tác giả xem xét, tập hợp các nghiên cứu trước đây có liên quan đến
mô hình đo lường thận trọng kế toán, giá trị thích hợp của thông tin đồng thời thu thập
các nghiên cứu về đề tài ảnh hưởng của thận trọng kế toán đến giá
trị thích hợp của thông tin và cơ sở lý thuyết liên quan. Trên cơ sở đó tác giả trình bày
khe hổng nghiên cứu, đưa ra câu hỏi nghiên cứu đồng thời đề xuất các giả thuyết nghiên
cứu cần phải giải quyết khi xem xét ảnh hưởng của các biến trong mô hình cần kiểm định
khi thực hiện nghiên cứu tại Việt Nam.
39
- Tiếp theo với mục tiêu xác định các biến của mô hình đo lường mức độ thận
trọng kế toán và giá trị thích hợp thông tin, tác giả đã tiến hành thu thập các dữ liệu phù
hợp với mô hình đã phát triển thông qua các biến dựa trên số liệu báo cáo tài chính từ
năm 2009 đến 2018 và các số liệu điều tra của các DNNVV trên địa bàn TP.HCM.
- Sau đó thông qua thực hiện phân tích hồi quy tác giả kiểm tra đối với các giả
định về tính phù hợp (không vi phạm), trình bày kết quả nghiên cứu và bàn luận. Cụ thể
tác giả giải quyết các công việc sau đây:
+ Đo lường mức độ thận trọng kế toán theo mô hình hồi quy kết hợp (OLS) trên
ba giai đoạn: 2014-2018, 2014-2016 và 2017-2018.
+ Đo lường mức độ thận trọng kế toán của từng công ty trong mẫu nghiên cứu và
chia thành ba nhóm dựa trên mức độ thận trọng kế toán đã đo lường. Theo Balachandran
và Mohanram (2004), Kousenidis và cộng sự (2009), mẫu nghiên cứu được chia thành ba
nhóm có mức độ thận trọng tăng dần từ thấp, trung bình đến cao. Trong đó, 30% số công
ty thuộc mẫu có mức độ thận trọng thấp nhất và đặt tên là Con1; 30% số công ty thuộc
mẫu có mức độ thận trọng cao nhất và đặt tên là Con3. Và 40% còn lại là Con2 có mức
độ thận trọng kế toán trung bình. Sau đó, trên cở sở ba giai đoạn đã được xác định là
2014-2018, 2014-2016 và 2017-2018, tác giả tiến hành đo lường mức độ thận trọng của
ba nhóm Con1, Con2, Con3; mục đích xem xét sự khác biệt mức độ thận trọng của ba
nhóm trong cả ba giai
+ Dựa vào ba giai đoạn: 2014-2018, 2014-2016 và 2017-2018, tác giả tiến hành đo
lường giá trị thích hợp thông tin trên BCTC bằng mô hình hồi quy kết hợp (OLS)..
+ Tương tự với việc xem xét đo lường thận trọng kế toán của ba nhóm Con1,
Con2 và Con3 trên ba giai đoạn 2014-2018, 2014-2016 và 2017-2018, tác giả tiến hành
đo lường giá trị thích hợp thông tin; mục đích để xem xét ở các mẫu nghiên cứu được
sắp xếp theo tự tự tăng dần về thận trọng kế toán ở ba giai đoạn thì những công ty có mức
độ thận trọng kế toán thấp sẽ phản ánh giá trị thích hợp thông tin trên BCTC như thế nào;
để từ đó đưa ra nhận xét về ảnh hưởng của thận trọng kế toán đến giá trị thích hợp thông
tin.
40
- Cuối cùng với kết quả nghiên cứu, tác giả trình bày một số hàm ý chính sách
được căn cứ vào kết quả nghiên cứu đồng thời luận bàn về ảnh hưởng của thận trọng kế
toán đến giá trị thích hợp của thông tin, và có một số kiến nghị cho các đối tượng bên
ngoài và bên trong khi sử dụng BCTC của các DNNVV.
Quy trình nghiên cứu được minh họa bằng hình vẽ dưới đây:
41
42
3.2. Mô hình hồi quy và đo lường các biến trong mô hình
Nội dung chính của chương này là phần trình bày các mô hình hồi quy dùng để đo
lường giá trị thích hợp của thông tin, thận trọng kế toán và phương pháp dùng để đo
lường các biến của các mô hình được tác giả sử dụng trong luận văn.
Ở phần quy trình nghiên cứu (mục 3.1.2), tác giả đã chỉ ra rằng để kiểm định các
giả thuyết đặt ra trong nghiên cứu tác giả tiến hành đo lường thận trọng kế toán theo giai
đoạn và trên mỗi công ty, mẫu nghiên cứu sau đó được chia thành 3 nhóm với mức thận
trọng thấp, trung bình và cao. Ngoài ra, để xem xét ảnh hưởng của thận trọng kế toán đến
giá trị thích hợp thông tin, luận văn tiến hành đo lường giá trị thích hợp thông tin trên lần
lượt 3 nhóm mẫu đã phân chia theo mức độ thận trọng cao, trung bình hay thấp. ,.
3.2.1. Mô hình hồi quy đo lường giá trị thích hợp thông tin
Để đo lường giá trị thích hợp thông tin kế toán, luận văn sử dụng mô hình giá của
Ohlson (1995)
Pit = β0 + β1BVit + β2EPSit + εit
Lấy quan điểm của Francis và Schipper (1999), Barth và cộng sự (2001), Brown
(2006), Hellström (2006) về giá trị thích hợp của thông tin nghĩa là khả năng để số liệu kế
toán có thể trình bày khái quát thông tin cơ bản của giá thị trường của vốn chủ. Nên phần
lớn các học giả khi phát triển mô hình đo lường đều dựa trên hệ số xác định hiệu chỉnh
R2 để đo lường giá trị thích hợp của thông tin kế toán, R2 là hệ số giúp đo lường tỷ lệ
phần trăm của biến thiên được giải thích trong biến phụ thuộc bởi biến độc lập mà có tính
đến mối liên hệ giữa cỡ mẫu và số biến độc lập trong mô hình hồi quy bội (Hoàng Trọng
và Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2011). Với cách giải thích này, hệ số xác định hiệu chỉnh
R2 là một cách đo lường giá trị thích hợp thông tin logic và hợp lý. Cụ thể, trong mô hình
giá của Ohlson (1995) xây dựng, dựa vào hệ số điều chỉnh R2 chúng ta có thể phát biểu
rằng số liệu kế toán giải thích được bao nhiêu phần trăm sự biến thiên của giá chứng
khoán hoặc lợi nhuận trên một cổ phiếu. Nếu hệ số R2 càng lớn chứng tỏ giá trị thích hợp
của thông tin kế toán càng cao và ngược lại.
Như đã trình phần 3.1 về phương pháp nghiên cứu, trong phạm vi nghiên cứu của
43
mình là các DNNVV trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, trong tiêu chí về
các loại hình DN đối với DNNVV theo Nghị định 39/2018/NĐ-CP thì ngoài loại hình
Công ty Cổ phần, DNNVV còn bao gồm nhiều loại hình khác như Công ty TNHH,
DNTN…. Trong khi đó, Nghị định 58/2012/NĐ-CP ngày 20/07/2012 của Chính phủ quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chứng khoán và Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật chứng khoán, thì chỉ những Công ty cổ phần mới được
niêm yết trên sàn chứng khoán (Thời gian hoạt động: ít nhất 1 năm hoạt động dưới hình
thức công ty cổ phần). Đồng thời mẫu nghiên cứu của tác giả là các DNNVV trên địa bàn
TP.HCM không niêm yết trên sàn chứng khoán, Vì vậy khi áp dụng mô hình của Ohlson
(1995), các biến của mô hình được tác giả vận dụng vào giá trị thị trường của vốn chủ
Chúng ta biết rằng giá đóng cửa của một cổ phiếu (closing price) là giá thị trường
của cổ phiếu đó vào thời điểm đóng cửa một phiên giao dịch trên một thị trường chứng
khoán cụ thể. Cổ phiếu lại được xác định là giấy chứng nhận số tiền nhà đầu tư đóng góp
vào công ty phát hành, hay nói cách khác là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc
bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó
(https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%95_phi%E1%BA%BFu). Như vậy giá đóng
cửa của cổ phiếu của một công ty chính là giá trị của phần vốn góp trên sổ sách ở ngoài
thi trường mua bán. Điều 111 Luật DN 2014, không quy định mệnh giá cổ phàn, song đối
chiếu khoản 2 Điều 10 Luật chứng khoán 2006, mệnh giá cổ phiếu, chứng chỉ quỹ chào
bán lần đầu ra công chúng là mười nghìn đồng Việt Nam. Do đó, thông thường các công
ty cổ phần thường để mệnh giá cổ phần là 10.000 đồng/cổ phần, vì đây cũng là mệnh giá
tối thiểu để chào bán cổ phần lần đầu ra công chúng. Với lập luận này, tác giả đã sử dụng
công thức tính giá trị thị trường của vốn chủ thay cho cách tính giá đóng cửa cổ phiếu
cho phù hợp với đề tài nghiên cứu của mình.
Ngoài ra Luật DN 2014 quy định với các loại hình khác ngoài công ty cổ phần chỉ
không cho phép phát hành cổ phần. Vì vậy để phù hợp với mô hình và mẫu nghiên cứu,
luận văn chia nhỏ vốn góp của mẫu nghiên cứu thành nhiều phần bằng nhau, mỗi phần
bằng với mệnh giá thông thường của cổ phiếu là 10.000 vnđ, và tính toán các biến của
mô hình trên đơn vị vốn chủ là 10.000 vnđ
44
Vận dụng công thức tính giá trị thị trường của vốn chủ ở 3.1.1; Tác giả đưa ra
bảng tóm tắt các biến trong mô hình Ohlson (1995) như sau:
Bảng 3.1. Các biến trong mô hình đo lường giá trị thích hợp thông tin
Tên các chỉ tiêu Ký hiệu
Pit Tên mô hình Ohlson (1995) Giá 1 đơn vị thị trường vốn chủ
BVit Ohlson (1995)
Giá trị sổ sách của một đơn vị vốn chủ
EPSit Ohlson (1995)
Thu nhập trên một đơn vị vốn chủ
Cách đo lường Giá trị thị trường của một đơn vị vốn chủ của công ty i năm t vào ngày 31/03 (Vốn CSH - Tài sản vô hình)/ Tổng khối lượng đơn vị vốn chủ Lợi nhuận sau thuế chia cho chủ sở hữu vốn/Tổng khối lượng đơn vị vốn chủ bình quân trên sổ sách.
3.2.2. Mô hình hồi quy đo lường thận trọng kế toán.
Bản chất của phương pháp này đó là kế toán được phép ghi nhận các khoản chi phí
khi có bằng chứng có khả năng xảy ra (như trích lập dự phòng, trích trước chi phí phải
trả, đánh giá lại giá trị tài sản…), do đó giá trị ghi sổ của vốn chủ sở hữu có thể bị đánh
giá thấp hơn giá trị thị trường của nó. Trong đó giá trị thị trường được ghi nhận trên sơ sở
giá trị vốn hóa thị trường của doanh nghiệp. Hiện trượng này xảy ra có nguồn gốc xuất
phát từ sự bất cân xứng thông tin giữa nhà quản trị doanh nghiệp và nhà đầu tư. Nhà đầu
tư thường quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp (ROE) để
đánh giá giá trị doanh nghiệp mà không có đầy đủ thông tin về hoạt động của doanh
nghiệp. Beaver và Ryan (2000) phát triển việc sử dụng tỷ lệ giá trị sổ sách trên giá trị thị
trường của vốn chủ sở hữu (BTM) như là phương pháp đo lường thận trọng kế toán của
doanh nghiệp. Do tỷ suất sinh lời của vốn chủ sở hữu (ROE) được đánh giá trên cơ sở
thông tin các năm trước của doanh nghiệp, do đó trong mô hình hồi quy ước lượng mức
độ thận trọng kế toán của các doanh nghiệp, Beaver và Ryan (2000) đã phân tách tỷ lệ
BTM thành 2 thành phần: thành phần độ lệch và thành phần độ trễ. Beaver và Ryan
(2000) cho rằng thành phần độ lệch của BTM được xem như là một chỉ số đo lường việc
45
thực hiện nguyên tắc thận trọng của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Beaver và Ryan (2000)
phân tích hồi quy giữa BTM và ROE với độ trễ 6 năm bằng phương pháp hồi quy dữ liệu
mang ảnh hưởng cố định. (Nguyễn Thị Bích Thủy – 2018).
Để đo lường thận trọng kế toán theo từng công ty, tác giả sử dụng mô hình Beaver
và Ryan (2000) thông qua kỹ thuật hồi quy tuyến tính từng phần:
BTMt,i = αt + αi + βjRt-j,i + εt,I
Thận trọng kế toán được đo lường thông qua hệ số hồi quy βj với mô hình của
Beaver và Ryan (2000). Nếu hệ số βj mang dấu âm (-), có ý nghĩa thống kê và trị tuyệt đối
càng nhỏ thì mức độ thận trọng kế toán càng cao và ngược lại. Tác giả sử dụng mô hình
này làm thang đo thận trọng kế toán trong phạm vi nghiên cứu của luận văn. Nó được
giới thiệu đầu tiên bởi Feltham và Ohlson (1995), sau đó được phát triển bởi Zhang
(2000), Beaver và Ryan (2000). Theo đó, trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, một
hệ thống kế toán thực hiện nguyên tắc thận trọng sẽ có xu hướng làm giảm giá trị ghi sổ
một cách tương đối so với giá trị thị trường của nó. Do đó, tỷ lệ giữa giá trị thị trường và
giá trị ghi sổ (BTM) có xu hướng thay đổi cùng với sự thay đổi của nguyên tắc thận trọng
kế toán. Từ tỷ lệ BTM, Beaver và Ryan (2000) đã phát triển BTM như một công cụ đo
lường việc thực hiện nguyên tắc thận trọng trong doanh nghiệp.
Ngoài ra, trong khi xem xét tác động của thận trọng kế toán đến giá trị thích hợp
của thông tin, mẫu nghiên cứu được phân chia thành ba nhóm dựa trên mức độ thận trọng
kế toán cao, trung bình hay thấp sau khi tính toán cho từng công ty trong cả giai đoạn
2014-2018, 2014-2016 và 2017-2018 nên mô hình Beaver và Ryan (2000) được lựa chọn
là phù hợp.
Bảng 3.2. Các biến trong mô hình đo lường thận trọng kế toán
Tên các chỉ tiêu Ký hiệu Cách đo lường
Tên mô hình Beaver và Ryan (2000) Tỷ lệ giữa giá trị thị trường và giá trị ghi sổ BTMt,i Tỷ lệ giữa giá trị ghi sổ và giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp i tại thời điểm cuối năm t
46
ROE Rt-j,i Beaver và Ryan (2000) Tỷ suất sinh lời của vốn chủ sở hữu (ROE) trung bình của 6 năm trước
3.3. Giả thuyết nghiên cứu đề xuất
Trên cở sở nền tảng là lý thuyết ủy nhiệm, đồng thời dựa trên các nghiên cứu về
đo lường thận trọng kế toán, giá trị thích hợp thông tin cũng như các nghiên cứu chiều tác
động hoặc (và) mức độ tác động của thận trọng kế toán đến giá trị thích hợp thông tin,
đồng thời xem xét mẫu nghiên cứu của luận văn là các DNNVV không bao gồm doanh
nghiệp siêu nhỏ, không loại trừ cho tất cả các loại hình doanh nghiệp và không hạn chế
việc áp dụng chế độ kế toán cho mẫu nghiên cứu, tác giả đưa ra các giả thuyết nghiên cứu
như sau.
Một là, hệ thống kế toán tại Việt Nam như đã bàn luận là mang tính thận trọng
cao. Điều này thể hiện ngay tại chuẩn mực đầu tiên của hệ thống chuẩn mực kế toán Việt
Nam đã định nghĩa về thận trọng kế toán; đồng thời ở Việt Nam việc soạn thảo, ban hành
và hướng dẫn các pháp luật về kế toán đều được các cơ quan Nhà nước thực hiện. Song
song đó với mẫu nghiên cứu không bao gồm các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán
thì các đối tượng bên ngoài tiếp cận thông tin trên BCTC chủ yếu là cơ quan thuế và phục
vụ cho mục đích khai và nộp thuế của DN. Vì vậy pháp luật thuế ảnh hưởng rất lớn đến
công tác đo lường và ghi sổ kế đoán. Đặc biệt, đối tượng DNNVV với sự tiếp cận khá
hạn chế đối với các chuẩn mực kế toán, các nhà điều hành thường chỉ sử dụng BCTC cho
mục đích xác định nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp đối với ngân sách nhà nước và cung
cấp thông tin cho các chủ nợ, chứ không có mục đích cho kiểm tra, giám sát tình hình
hoạt động kinh doanh và hỗ trợ ra quyết định. Song song đó, một hệ thống tài khoản kế
toán thống nhất cộng với việc tuân thủ nguyên tắc giá gốc trong việc lập và trình bày báo
cáo tài chính cũng ảnh hưởng đến mức độ thận trọng kế toán tại Việt Nam. Trên cơ sở đó,
tác giả đề xuất các giả thuyết nghiên cứu:
H1: Có hay không sự hiện diện của thận trọng kế toán trong dữ liệu nghiên
cứu.
47
Giả thuyết H1 được chấp nhận khi mô hình đo lường thận trọng kế toán có ý nghĩa
thông kê. Ngược lại, nếu không có ý nghĩa thống kê thì không thể kết luận về sự hiện
diện của thận trọng kế toán đối với các DNNVV trên địa bàn TP.HCM giai đoạn 2014-
2018.
Hai là, Dechow et al. (2010) xem xét và tóm tắt các tài liệu về chỉ tiêu thu nhập
trên báo cáo tài chính. Và cho rằng cả ba nhóm nhân tố để đánh giá chất lượng thu nhập:
(1) nhân tố thuộc tính thời gian của thu nhập, bao gồm tính bền vững và khả năng dự
đoán thu nhập, (2) nhân tố dồn tích và (3) nhân tố hành vi quản trị thu nhập, đều có tác
động bởi chủ nghĩa thận trọng. Watts (2003b) cho rằng thận trọng kế toán giúp thu nhập
(earnings) duy trì mối quan hệ với giá cả (prices) bằng cách làm giảm các sai số đo lường
trong thu nhập. Tuy nhiên, theo Nguyễn Đăng Huy (2017) thi thận trọng kế toán bóp
méo tính thích hợp của thông tin. Hay nói cách khác, mức độ thận trọng kế toán càng cao
thì giá trị thông tin kế toán càng thấp và ngược lại. Do vậy, tác giả đề xuất giả thuyết
nghiên cứu sau để xem xét mối quan hệ giữa thận trọng kế toán và giá trị thích hợp của
thông tin,:
H2: Thận trọng kế toán khiến lợi nhuận kế toán phản ánh nhũng thông tin xấu
nhanh hơn những thông tin tốt, hay mức độ thận trọng kế toán càng cao thì tính thích
hợp của thông tin càng thấp
Basu (1997) và Watts (2003a) định nghĩa thận trọng kế toán là những yêu cầu xác
minh không cân xứng về lợi ích và tổn thất. Quy ước này của thận trọng kế toán được
phản ánh trong chuẩn mực BCTC (SFAS) khoản 5 “Dự phòng trong kế toán”. Chuẩn
mực này yêu cầu ghi nhận dự phòng tổn thất khi chúng có khả năng xảy ra với giá trị có
thể được ước tính hợp lý.Tuy nhiên, lợi ích chưa chắc chắn không được phép ghi nhận dù
nó có thể xảy ra và có thể ước tính một cách hợp lý. Do vậy, lợi nhuận phản ánh những
thông tin xấu nhanh hơn là thông tin tốt.
Ở giả thuyết này tác giả sử dụng hệ số xác định hiệu chỉnh R2 để đo lường giá trị
thích hợp của thông tin kế toán, R2 là hệ số giúp đo lường tỷ lệ phần trăm của biến thiên
được giải thích trong biến phụ thuộc bởi biến độc lập mà có tính đến mối liên hệ giữa cỡ
48
mẫu và số biến độc lập trong mô hình hồi quy bội (Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng
Ngọc, 2011). Như vậy, hệ số xác định hiệu chỉnh R2 càng cao chứng tỏ giá trị thích hợp
thông tin càng logic và hợp lý.
Xây dựng giả thuyết H2 với hệ số điều chỉnh R2 của mô hình Ohlson (1995) và hệ
số góc đối với các công ty có mức độ thận trọng kế toán cao (Con3) sẽ thấp hơn so với
nhóm có mức độ trung bình (Con2) và thấp (Con1). (Cách thức phân chia các nhóm đã
được trình bày cụ thể trong phần 3.1.2). Hay nói cách khác R2 và hệ số góc càng thấp thì
tính thích hợp giá thông tin trên báo cáo càng thấp, và điều này nếu xảy ra khi đo lường
mẫu ở ba nhóm theo mức độ thận trọng kế toán tăng dần mà hệ số điều chỉnh R2 và hệ số
góc thấp dần thì H2 được chấp nhận. Ngược lại nó sẽ bị phủ nhận.
Ngoài ra, khi dùng R2 để đo lường mức độ giá trị thích hợp thông tin kế toán theo
cấp đô tăng dần của thận trọng kế toán, tác giả cũng đồng thời xác định chiều tác động
của ảnh hưởng thận trọng kế toán lên giá trị thích hợp thông tin vì các lý do sau đây: (i)
R2 là hệ số dùng phản ánh cho mức độ giải thích của các biến độc lập đối với biến phụ
thuộc, nghĩa là trong mô hình Ohlson (1995) R2 càng cao thì mức độ giải thích của biến
độc lập BVit và EPSit cho biến phụ thuộc Pit càng cao. Điều này diễn ra chứng tỏ giá trị
thông tin kế toán trên mẫu phân tích càng cao; (ii) Khi áp dụng mô hình Ohlson (1995) để
đo lường trên các mẫu nghiên cứu đã được phân chia theo mức độ tăng dần của thận
trọng kế toán và đọc kết quả để xác định rằng liệu có tồn tại một mức độ gía trị thông tin
kế toán cao hơn trong các công ty có mức độ kế toán thấp hơn hoặc ngược lại hoặc không
có một ý nghĩa so sánh. (iii) Và với kết quả đó, nghiên cứu sẽ xác định có ảnh hưởng (R2
tăng dần/giảm dần trên các nhóm mức độ thận trọng kế toán thấp/cao) hay ngược lại là
không có ảnh hưởng của thận trọng kế toán đến giá trị thích hợp thông tin kế toán.
.Ba là, Theo nhận định của (Nguyễn Thị Hường, 2016 – Tạp chí Tài chính): Các
quy định về kế toán và thuế ở Việt Nam rất tổng quát, vì thế ngay cả trong thực tiễn và
trong khuôn khổ pháp luật thì mối quan hệ giữa kế toán và chính sách thuế có xu hướng
tiệm cận và mô hình đồng nhất được áp dụng để đánh giá mối quan hệ này. Hay nói cách
khác sự thống nhất giữa chính sách thuế và kế toán trong hệ thống pháp luật cũng như
49
quan điểm của người làm kế toán đã và đang tồn tại trong thực tế tại các DN nhất là đối
với DNNVV tại Việt Nam. Tuy nhiên, cũng theo nhận định của (Nguyễn Thị Hường,
2016 – Tạp chí Tài chính) thì xu hướng đánh giá mối quan hệ giữa kế toán và chính sách
thuế dựa trên cả hai mô hình đồng nhất và tách biệt. Ví như thông tư 133/2016/TT-BTC
ngày 26/8/2016 về hướng dẫn chế độ kế toán DNNVV do Bộ Tài Chính ban hành có hiệu
lực áp dụng cho năm tài chính bắt đầu hoặc sau ngày 01/01/2017 và thay thế toàn bộ chế
độ kế toán DNNVV ban hành theo Quyết định số 48/2006/QĐ-BTC ngày 14/09/2006 và
Thông tư số 138/2011/TT-BTC ngày 04/10/211 chỉ rõ về phạm vi điều chỉnh trong điều
1. Cụ thể là, thông tư 133 nhấn mạnh về việc hướng dẫn việc ghi sổ kế toán, lập và trình
bày Báo cáo tài chính của DNNVV, và không áp dụng cho việc xác định nghĩa vụ thuế
của doanh nghiệp đối với ngân sách Nhà nước. Đây là một điểm đổi mới liên quan đến sự
tách biệt kế toán và thuế được nhấn mạnh trong thông tư 133 áp dụng cho DNNVV. Do
đó, tác giả lấy thời điểm hiệu lực của thông tư 133 làm mốc phân chia mẫu thành 2 giai
đoạn là từ năm 2014-2016 và từ năm 2017-2018. Với phạm vi điều chỉnh được trình bày
rõ trong thông tư nhấn mạnh mục đích của việc lập và trình bày báo cáo tài chính không
đồng nhất với mục đích về nghĩa vụ thuế. Ngoài ra, các nguyên tắc kế toán tại Thông tư
133 để ghi nhận doanh thu, chi phí, vốn góp của chủ sở hữu và các khoản thuế phải nộp
được ghi nhận khá thận trọng. Cụ thể, thông tư yêu cầu:
Về vốn chủ sở hữu được định nghĩa là phần tài sản thuần của doanh nghiệp còn lại
thuộc sở của chủ sở hữu/cổ đông. Nó được ghi nhận trên nguyên tắc thực góp hoặc
nguyên tắc giá trị hợp lý đối với các khoản vốn góp phi tiền tệ. Ngoài ra việc phân chia
lợi nhuận chỉ được thực hiện trên lợi nhuân sau thuế. Như vậy ở đây nguyên tắc giá trị
hợp lý được ưu tiên áp dụng nếu xảy ra xung đột với nguyên tắc thận trọng.
Về doanh thu và chi phí Thông tư 133 định nghĩa doanh thu là khoản lợi ích kinh
tế thu được làm tăng vốn chủ sở hữu ngoại trừ phần vốn góp thêm của các cổ đông, nó
thể hiện là một phần của khoản lợi nhuận sau thuế trên báo cáo tài chính. Doanh thu phải
được ghi nhận trên nguyên tắc phù hợp giữa doanh thu và chi phí tạo ra doanh thu hay
nói đúng hơn là doanh thu và chi phí tạo ra doanh thu phải được ghi nhận đồng thời. Còn
ngược lại chi phí là những khoản làm giảm lợi ích kinh tế được ghi nhận tại thời điểm
50
giao dịch phát sinh và được ghi nhận dựa trên nguyên tắc thận trọng. Mặc dù doanh thu
được ghi nhận dựa trên nguyên tắc phù hợp và chi phí được ghi nhận dựa trên nguyên tắc
thận trọng. Nhưng Thông tư này cũng xác định trong trường hợp có sự mâu thuẫn giữa
nguyên tắc phù hợp và nguyên tắc thận trọng thì yêu cầu xét vào bản chất giao dịch để
phản ánh một cách trung thực, hợp lý. Nguyên tắc cho thấy Thông tư đã đề cao nguyên
tắc phù hợp trong việc ghi nhân doanh thu và chi phí hơn là nguyên tắc thận trọng.
Liên quan đến chi phí được trừ theo quy định của Luật thuế TNDN: Điểm 4 –
Điều 59 – Thông tư 133 cũng quy định: “Các khoản chi phí không được coi là chi phí
được trừ theo quy định của Luật thuế TNDN nhưng có đầy đủ hóa đơn chứng từ và đã
hạch toán đúng theo Chế độ kế toán thì không được ghi giảm chi phí kế toán mà chỉ điều
chỉnh trong quyết toán thuế TNDN để làm tăng số thuế TNDN” – Điểm này có thể giải
thích các tài khoản về thuế thu nhập hoãn lại có trong Thông tư số 200/2014/TT-BTC
ngày 22/12/2014 nhưng không có trong Thông tư 133/2016/TT-BTC ngày 26/08/2016 như:
Tài khoản “Tài sản thuế thu nhập hoãn lại”; Tài khoản “Thuế thu nhập hoãn lại phải trả”;….
Như vậy với tính đề cao nguyên tắc phù hợp/nguyên tắc giá trị hợp lý để giải quyết
xung đột với nguyên tắc thận trọng khi xảy ra mâu thuẫn trong hạch toán kế toán; cùng với
việc không sử dụng các tài khoản về thuế thu nhập hoãn lại – Thông tư 133/2016/TT-BTC
đã làm giảm đi nguyên tắc thận trọng kế toán trong việc lập và trình bày các thông tin trên
BCTC. Điều đó cho phép tác giả kỳ vọng rằng mức độ thận trọng kế toán giai đoạn 2017-
2018 sẽ thấp hơn giai đoạn 2014-2016. Do đó, luận văn thực hiện kiểm định giả thuyết:
H3: So sánh thận trọng kế toán giai đoạn 2014-2016 và giai đoạn 2017-2018.
Giả thuyết được kiểm định để làm nổi bật có sự khác biệt tăng lên hay giảm đi của
mức độ thận trọng kế toán trước và sau khi Thông tư 133 đi vào thực tiễn – Thông tư
được đánh giá cho sự minh chứng của một chính sách kế toán tách rời với chính sách
thuế. Ở đó thận trọng kế toán không còn được ưu tiên khi giải quyết các mâu thuẫn trong
hạch toán kế toán mà là tính phù hợp được thay thế để sử dụng.
Để kiểm định giả thuyết này, mẫu nghiên cứu được chia thành hai giai đoạn là
trước và sau năm 2016. Theo đó, thận trọng kế toán được tính toán riêng biệt cho giai
đoạn 2014-2016 và 2017-2018. Như vậy, ta có:
51
Giai đoạn 2014-2016 có: BTMt,i = αt + αi + βjRt-j,i + εt,I (1)
Giai đoạn 2017-2018 có: BTMt,i = αt + αi + βjRt-j,i + εt,I (2)
Rt-j,i < αt + αi (1) - αt + αi (2)
Βj (1) – βj (2) (3)
Điều đó có nghĩa sau khi xác định thận trọng kế toán cho từng giai đoạn ta sẽ tính
được constan (αt + αi) và hệ số góc βj cho từng giai đoạn. Trên cơ sở đó,xem xét chỉ tiêu
βjRt-j,i của 500 quan sát; Nếu số lượng các chỉ tiêu βjRt-j,i có đáp ứng điều kiện (3) nêu
trên thì phát biểu H3 là đúng và ngược lại.
(Lưu ý rằng Việc dẫn giải Thông tư 133/2016/TT-BTC của tác giả không nhằm
hạn chế mẫu nghiên cứu của mình (như đã trình bày 1.1.2. Các nghiên cứu tại Việt Nam)
cho các DNNVV áp dụng Thông tư 133 mà chỉ nhằm mục đích xác định tiêu chí lựa chọn
điểm chia giai đoạn để so sánh tính thận trọng kế toán trong nghiên cứu của mình; đó là
thời điểm Thông tư 133 có hiệu lực thi hành).
3.4. Thiết kế nghiên cứu
3.4.1. Mẫu nghiên cứu
Theo số liệu được công bố tại Đại hội khóa II nhiệm kỳ 2018 – 2023 do Hiệp hội
DNNVV khu vực phía Nam (ASMES) tổ chức tại TP.HCM vào tháng 12/2018 thì cộng
đồng DNNVV đang giữ ngôi đầu bảng, chiếm tới 97% tổng số doanh nghiệp đang hoạt
động tại Việt Nam, 4 trong đó doanh nghiệp siêu nhỏ chiếm tỷ trọng >70% trên tổng số
DNNVV; đóng góp tới 45% GDP, 31% vào tổng ngân sách và thu hút hơn 5 triệu lao
động. Tính đến tháng 12/2018, cả nước có gần 600.000 doanh nghiệp và TP.HCM chiếm
50% trong số đó và bình quân mỗi năm số lượng doanh nghiệp phát triển tăng 13 – 15%.
Trong năm 2018, đã có gần 4.000 hộ cá thể đã chuyển đổi lên doanh nghiệp để hoạt động
theo Luật Doanh nghiệp nhờ những chính sách vĩ mô của Trung ương, trong đó có những
chính sách đặc thù của TP.HCM. ³Trong luận văn, tác giả sử dụng phương pháp chọn
mẫu phi ngẫu nhiên (phương pháp chọn mẫu thuận tiện). Dữ liệu được sử dụng trong
phạm vi nghiên cứu của luận văn bao gồm báo cáo tài chính cho các năm tài chính từ
2009-2018 của các DNNVV trên địa bàn TP.HCM đáp ứng điều kiện của Điều 2 Thông
tư 133/2016/TT-BTC, hoặc Điều 1 Thông tư 200/2014/TT-BTC và không bao gồm các
52
công ty thuộc ngành tài chính, do các quy định liên quan đến việc lập và trình bày báo cáo
tài chính không đồng nhất với các công ty còn lại thuộc mẫu nghiên cứu.
Ngoài ra, các công ty được lựa chọn để thu thập dữ liệu có kỳ kế toán từ 01/01 đến
31/12 theo năm dương lịch và không thay đổi kỳ kế toán trong suốt thời gian nghiên cứu.
Sau khi loại bỏ các công ty thuộc nhóm ngành tài chính,; cũng như không đủ dữ liệu liên
tục trong 10 năm từ năm 2009-2018. mẫu nghiên cứu bao gồm 1.000 bản báo cáo tài
chính của 100 công ty. Mỗi công ty có 10 bản báo cáo tài chính cho 10 năm tài chính từ 2009-
2018, phục vụ cho để tài nghiên cứu của tác giả trong giao đoạn 2014-2018. Điều này
phù hợp với mô hình Beaver và Ryan (2000) là mô hình đo lường thận trọng kế toán có
biến ROE được tính giá trị trung bình của 6 năm trước nên các công ty phải có ít nhất đầy
đủ dữ liệu để tính toán cho 6 năm trước để kiểm định cho năm nghiên cứu. Vì vậy, để
đảm bảo yêu cầu này cũng như thuận tiện cho việc tính toán, tác giả đã lựa chọn các công
ty có đầy đủ dữ liệu tính toán trong vòng 10 năm. Cuối cùng, luận văn sử dụng mẫu bao
gồm 100 DNNVV trên địa bàn TP.HCM để làm cơ sở dữ liệu cho nghiên cứu của mình
cho mỗi năm thuộc giai đoạn 2009-2018. 5Việc xác định cỡ mẫu tác giả sử dụng công
thức tính cỡ mẫu nghiên cứu trong nghiên cứu khoa học dùng trong “Trường hợp tổng
thể nhỏ và biết được tổng thể”.
n = N 1 + N(e)2 Trong đó:
n = là cỡ mẫu
N = số lượng tổng thể = 517.900 DNNVV
e = độ lệch chuẩn với mong muốn là 5%
Như vậy cỡ mẫu nghiên cứu là 400 mẫu. Trên cơ sở đó, tác giả sử dụng 500 quan
sát là 500 bộ BCTC của DNNVV tương ứng với 100 DN và mỗi DN tương ứng 5 bộ
BCTC giai doạn 2014 -2018. Mặt khác, khi triển khai mô hình Beaver và Ryan (2000) để
đo lường mức độ thận trọng kế toán, biến Rt-j,i là tỷ suất sinh lời của vốn chủ sở hữu
(ROE) trung bình của 6 năm trước. Do vậy, dù luận văn chỉ xem xét giai đoạn từ 2014 –
53
2018, nhưng dữ liệu nghiên cứu phải mở rộng BCTC từ 2009 - 2018; nghĩa là DNNVV
trong mẫu nghiên cứu của tác giả là những DN được xác định có thêm tiêu chí là hoạt
động liên tục và có BCTC trong 10 năm từ 2009 đến 2018. Tuy nhiên, BCTC của mẫu
nghiên cứu giai đoạn 2009 đến 2014 chỉ nhằm phục vụ cho việc tính ROE trung bình của
6 năm phục vụ cho mô hình đo lường thận trọng kế toán.
³http://thuonggiaonline.vn/doanh-nghiep-nho-va-vua-chiem-den-97-doanh-nghiep-ca-
4http://www.pso.hochiminhcity.gov.vn/web/guest/ketquadieutra;jsessionid=7BA59B3AD
nuoc-20418.htm
20BE349CD840C2BDF37E1EC?p_p_id=EXT_ARTICLEVIEW&p_p_lifecycle=0&p_p
_state=normal&p_p_col_id=column-
top&p_p_col_pos=2&p_p_col_count=3&_EXT_ARTICLEVIEW_struts_action=%2Fext
%2Farticleview%2Fview&_EXT_ARTICLEVIEW_groupId=18&_EXT_ARTICLEVIE
W_articleId=1890638&_EXT_ARTICLEVIEW_version=1.0&_EXT_ARTICLEVIEW_i
=1&_EXT_ARTICLEVIEW_curValue=1&_EXT_ARTICLEVIEW_redirect=%2Fweb%
5http://sotaynghiencuusinhvien.blogspot.com/2015/04/phuong-phap-xac-inh-co-mau.html
2Fguest%2Fketquadieutra
54
Bảng 3.3. Mẫu nghiên cứu
Tiêu chí chọn mẫu Số công ty
Số doanh nghiệp trên cả nước tính đến tháng 12/2018 519.700
Số doanh nghiệp trên địa bàn TP.HCM tính đến tháng 12/2018 259.850 (50%/cả nước)
Số DNNNV trên địa bàn TP.HCM tính đến tháng 12/2018 254.653 (98%/Tổng DN)
Số DN siêu nhỏ trên địa bàn TP.HCM tính đến tháng 12/2018 178.257 (70%/DNNVV)
Số DN nhỏ và vừa trên địa bàn TP.HCM tính đến tháng 12/2018 76.396
100 Mẫu nghiên cứu cho 1 năm
1.000 Mẫu nghiên cứu cho 10 năm
3.4.2. Mô tả mẫu nghiên cứu
Bảng 3.4. Số lượng và tỷ lệ các công ty thuộc mẫu nghiên cứu theo ngành
nghề
55
STT Tên ngành Mã ngành Tỷ lệ Số lượng
1 Khai khoáng 2 Công nghiệp chế biến, chế tạo 3 2 25 12 2% 25% 12% B C D Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí
4 Xây dựng 5 Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, 23 14 23% 14% F G xe máy và xe có động cơ khác
6 Vận tải kho bãi 7 Dịch vụ lưu trú và ăn uống 8 Thông tin và truyền thông 9 Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ Cộng 6 6 8 4 100 H I J N
6% 6% 8% 4% 100% (Căn cứ PHỤ LỤC I (Ban hành kèm theo Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ngày 06 tháng
7 năm 2018 của Thủ tướng Chính phủ)
Sau khi loại bỏ các công ty thuộc nhóm ngành tài chính và các công ty không đủ
dữ liệu để tính toán các biến độc lập và biến phụ thuộc trong các mô hình đo lường thận
trọng kế toán và giá trị thích hợp thông tin cũng như không đủ dữ liệu liên tục trong 10
năm từ năm 2009-2018, mẫu nghiên cứu cuối cùng bao gồm 100 công ty thuộc cho mỗi
năm hình thành nên dữ liệu bảng.
Dựa trên hệ thống ngành nghề kinh tế Việt Nam theo PHỤ LỤC I (Ban hành kèm
theo Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ngày 06 tháng 7 năm 2018 của Thủ tướng Chính
phủ)mẫu nghiên cứu của tác giả được chia làm 9 ngành nghề được trình bày trong bảng
3.4.3. Thu thập dữ liệu
Tác giả tiến hành thu thập dữ liệu và tổng hợp trên dữ liệu bảng bao gồm các biến
độc lập và biến phụ thuộc của hai mô hình Beaver và Ryan (2000) & mô hình Ohlson
(1995) dựa trên số liệu của báo cáo tài chính từ 2009-2018 của 100 công ty là các
DNNVV trên địa bàn TP.HCM; đồng thời điều tra số liệu chi tiết về tài sản và nợ phải trả
trên báo cáo quản tri tương ứng với BCTC. Dựa trên dữ liệu bảng có được từ thống kê số
liệu kết hợp tính toán các chỉ tiêu trong mô hình nghiên cứu, tác giả phân chia mẫu
56
nghiên cứu trên dữ liệu bảng thành ba nhóm theo mức độ thận trọng kế toán và hai giai
đoạn 1 và 2 lần lượt là 2014-2016 và 2017-2018. Sau đó dùng phương pháp hồi quy kết
hợp OLS để kiểm định các giả thuyết của nghiên cứu.
3.4.4. Quy trình phân tích dữ liệu
a. Loại dữ liệu sử dụng trong nghiên cứu
Để xử lý các dữ liệu nhằm thực hiện mục tiêu nghiên cứu, tác giả phân tích tác
động của thận trọng kế toán đến giá trị thích hợp thông qua phần mềm SPSS và Excel
2017.
Luận văn sử dụng dữ liệu của 100 công ty là DNNVV trong giai đoạn 10 năm từ
2009-2018 hình thành nên dữ liệu bảng (panel data). Trong đó BCTC giai đoạn từ 2009 –
2014 dùng tính ROE trong mô hình Beaver và Ryan (2000).
Mẫu nghiên cứu trong luận văn bao gồm 100 công ty giới hạn trong phạm vi
DNNVV và không bao gồm DN siêu nhỏ và các doanh nghiệp thuộc ngành tài chính, với
mỗi công ty có 10 quan sát là 10 bộ BCTC trong 10 năm để tạo nên dữ liệu bảng cân
bằng với 1000 quan sát. Tác giả sử dụng hai bảng dữ liệu:
- Bảng dữ liệu bao gồm 1000 quan sát là BCTC của 100 công ty với mỗi công ty
là 10 quan sát tương ứng với 10 bô BCTC từ 2009-2018. Bảng dữ liệu này tác
giả liệt kê các chỉ tiêu dùng tính các biến thuộc giá trị sổ sách của mô hình.
(ROE, Giá trị sổ sách của vốn chủ)
- Bảng dữ liệu thứ hai là Bảng dữ liệu từ điều tra dữ liệu chi tiết tài sản và nợ
phải trả trên báo cáo quản trị tương ứng với BCTC của mẫu để tính toán chỉ tiêu
giá trị thị trường của vốn chủ. Tác giả thu thập số liệu chi tiết về toàn bộ tài sản
của 500 quan sát tính trên từng quan sát tương ứng với 100 công ty và mỗi công
ty với 5 bộ BCTC từ 2014-2018; và bằng cách dựa trên dữ liệu về chi tiết tài
sản và nợ phải trả để xác định chỉ tiêu giá trị thị trường của tài sản của DN.
Trên cơ sở đó tìm ra giá trị thị trường của vốn chủ trên từng quan sát để tính
toán các biến của hai mô hình có liên quan đến chỉ tiêu này là BTM và Pit.
Theo Baltagi (2005), sử dụng dữ liệu bảng trong nghiên cứu cho nhiều thông tin
57
hữu ích hơn, tính biến thiên nhiều hơn, giảm hiện tượng đa cộng tuyến giữa các biến và
hiệu quả cao hơn. Ngoài ra sử dụng dữ liệu bảng trong nghiên cứu còn có thể phát hiện
và đo lường tốt hơn các tác động mà ta không thể quan sát được trong dữ liệu chuỗi thời
gian hay dữ liệu chéo thuần túy.
b. Kiểm định mô hình hồi quy
Đề tài nghiên cứu của tác giả sử dụng bảng dữ liệu cùng với phương pháp định
lượng và phần mềm SPSS để đo lường giá trị thích hợp thông tin và mức độ thận trọng kế
toán theo mô hình hồi quy kết hợp (OLS). Nó thể hiên khi sig của kiểm định F < 5% sẽ
chứng tỏ biến độc lập có tác động đến biến phụ thuộc và có ý nghĩa thống kê. Đồng thời
F < 5% cũng khẳng định R2 khác không và khi đó R2 hiệu chỉnh phản ánh tỷ lệ mà biến
độc lập giải thích một tỷ lệ biến thiên của biến phụ thuộc.
58
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Luận văn sử dụng chương 3 để mô tả phương pháp nghiên cứu được tác giả sử
dụng trong luận văn của mình. Trong đó, tác giả phân tích chi tiết phương pháp nghiên
cứu định lượng và cách lập bảng dữ liệu thông qua việc tổng hợp các dữ liệu đã thu thâp
lên bảng dữ liệu nhằm tính toán ra các biến của mô hình nghiên cứu. Tác giả nêu rõ cách
thức chọn cỡ mẫu, phạm vi chọn mẫu, và mô tả chi tiết cách thức đo lường dựa trên các
lập luận để giải thích lý do lựa chọn cách thức của nghiên cứu trong việc đo lường các
biến trong mô hình xác định thận trọng kế toán và giá trị thích hợp thông tin. Với đề tài
nghiên cứu đã được xác định ngay từ phần mở đầu để xác định khe hổng nghiên cứu cùng
với với việc lấy mẫu nghiên cứu trong bối cảnh tại Việt Nam trong phạm vi các DNNVV
trên địa bàn TP.HCM, tác giả đã nêu ra ba giả thuyết để xác nhận có hay không sự hiện
hữu của thận trọng kế toán trong mẫu nghiên cứu và ảnh hưởng của nó đến giá trị thích
hợp thông tin đối với các DNNVV ở TP.HCM giai đoạn 2014-2018. Và hơn hết qua phần
trình bày của tác giả về sử dụng mô hình hồi quy kết hợp OLS nhằm mục đích thẩm định
ý nghĩa thống kê của các biến cũng như ý nghĩa của R2 và R2 hiệu chỉnh trong mô hình
hồi quy kết hợp (OLS) trước khi đọc kết quả của mô hình hồi quy vì các mô hình chỉ có ý
nghĩa giải thích khi các biến của mô hình có ý nghĩa thống kê. Chương tiếp theo sẽ là nội
dung thể hiện kết quả của các mô hình hồi quy kết hợp đo lường mức độ thận trọng kế
toán, giá trị thích hợp thông tin trên nhiều giai đoạn và trên từng nhóm công ty được phân
chia dựa trên mức độ thận trọng cao, trung bình hay thấp.
59
CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
4.1. Phân tích thống kê mô tả
Thống kê mô tả trong SPSS là phương pháp tổng hợp và xử lý dữ liệu để biến đổi
dữ liệu thành thông tin. Thể hiện qua việc biểu diễn dữ liệu thành các bảng biểu, đồ thị và
tổng hợp dữ liệu, tính các tham số mẫu như cỡ mẫu (N); trung bình mẫu (Mean), giá trị
nhỏ nhất (Minimum); giá trị lớn nhất (Maximum)…
Phân tích thống kê mô tả bằng phương pháp định lượng thông qua ứng dụng SPSS
cho kết quả Bảng 4.1. Và bảng này cho phép đọc được các đại lượng thống kê mô tả của
các biến: N, Minimum, Maximum, Mean và Std.Deviation
Bảng 4.1. Kết quả thống kê mô tả
Descriptive Statistics
N Minimum Maximum Mean Std. Deviation 6.01806 1476309
BTM ROE Valid N (listwise) 99.47 81.5235 4.2273 1.785668 70.00 1.6201 500 500 500
Descriptive Statistics
N Std. Deviation Mean
Minimum Maximum 8908.46375 15402.53620 12767.4030559 1780.04582786 500 500 909.73481099 -928.45000 2999.30870 1616.6163956 500 10129.03500 14894.18870 12113.1661874 1136.40931270 500 BV EPS Pit Valid N (listwise)
Bảng 4.1 bao gồm 2 bảng cho thấy kết quả của việc thực hiện thống kê mô tả các
biến độc lập và phụ thuộc trong các mô hình đo lường thận trọng kế toán của Beaver và
Ryan (2000) và mô hình giá trị thích hợp thông tin do Ohlson (1995) xây dựng. Theo kết
quả bảng 4.1, mức trung bình của thận trọng kế toán là 81.5235 trong đó công ty có tỷ lệ
này thấp nhất là 70 và cao nhất đạt 99.47. Về giá trị trung bình của ROE trong 6 năm, với
60
500 quan sát, mỗi quan sát tính bằng giá trị trung của 6 năm, chỉ tiêu này có giá trị trung
bình là 1.785668 và giá trị thấp nhất cũng như cao nhất lần lượt là -1.6201 và 4.2273.
Cũng vậy, kết quả thống kê mô tả mức trung bình của BV và EPS lần lượt là
12767.04582786 và 1616.6163956; trong khi công ty có các tỷ lệ này thấp nhất
8908.46375 và -928.45 và có mức cao nhất là 15402.53620 và 2999.30870.
Thống kê mô tả mô hình Ohlson (1995) cũng chỉ ra rằng giá trị trung bình là
12113.1661874 với giá trị cao nhất là 14894.18870 và giá thị bé nhất là 10129.035 là
thống kê mô tả biến Pit.
4.2. Kiểm định hệ số R bình phương (R Square) và R bình phương hiệu chỉnh
(Adjusted R Square)
Xuất phát từ ý tưởng là toàn bộ sự biến thiên của biến phụ thuộc được chia làm hai
phần: phần biến thiên do hồi quy và phần biến thiên không do hồi quy (còn gọi là phần
dư). Giá trị R bình phương dao động từ 0 đến 1. R bình phương càng gần 1 thì mô hình
đã xây dựng càng phù hợp với bộ dữ liệu dùng chạy hồi quy. R bình phương càng gần 0
thì mô hình đã xây dựng càng kém phù hợp với bộ dữ liệu dùng chạy hồi quy. Trường
hợp đặc biệt, phương trình hồi quy đơn biến (chỉ có 1 biến độc lập) thì R2 chính là bình
phương của hệ số tương quan giữa hai biến đó.
Như vậy, R bình phương là số tỷ lệ để phát biểu mô hình hồi quy tuyến tính này
phù hợp với tập dữ liệu ở mức R2. Nói cách khác, R2 biến thiên của biến phụ thuộc được
giải thích bởi các biến độc lập và phần còn lại là do sai số đo lường, do cách thu thập dữ
liệu, …
Ngoài R2, thì R2 hiệu chỉnh cũng dùng phát biểu như R2 nhưng nó không bao giờ
lớn hơn R2.
Bảng 4.2. Kết quả kiểm định R2 và R2 hiệu chỉnh
*Kiểm định R2 và R2 hiệu chỉnh mô hình Beaver và Ryan (2000)
Bảng này gồm ba bảng tương ứng với ba giai đoạn 2014-2018, 2014-2016, 2017-
2018
Model Summary
Model R R Square Adjusted R Square Std. Error of the Estimate
61
1 .332a .111 .109 5.68145
a. Predictors: (Constant), ROE
Model Summarya
Model 1 R .527b R Square Adjusted R Square Std. Error of the Estimate 4.99655 .275 .278
a. GIAIDOAN = 2014-2016 b. Predictors: (Constant), ROE
Model Summarya
Model 1 R .234b R Square Adjusted R Square Std. Error of the Estimate 6.01940 .050 .055
a. GIAIDOAN = 2017-2018 b. Predictors: (Constant), ROE Theo dữ liệu của bảng 4.2 thì R2 hiệu chỉnh của mô hình là 10,9% được giải thích
là có 10,9% biến thiên của biến phụ thuộc được giải thích bởi biến độc lập cho giai đoạn
2014-2018. Tỷ lệ này tăng lên ở giai đoạn 2014-2016 là 27,5% và giảm ở giai đoạn 2017-
2018 chỉ còn 5%.
Với kết quả đọc được trong mô hình đo lường thận trọng kế toán ở 3 giai đoạn:
2014-2018; 2014-2016 và 2017-2018, cho thấy mức độ giải thích bởi biến độc lập ROE
cho biến phụ thuộc BTM ở giai đoạn 2017-2018 giảm so với giai đoạn 2014-2016. Hay
có thể phát biểu rằng giai đoạn 2017-2018 thì biến phụ thuộc BTM chỉ còn được giải
thích bởi 5% của biến ROE, so với giai đoạn 2014-2016 là 27,5%. Và như vậy với phạm
vi mẫu nghiên cứu của luận văn, thì khi áp dụng mô hình nghiên cứu đo lường thận trọng
kế toán cho bộ dữ liệu giai đoạn 2017-2018 không còn phù hợp như giai đoạn 2014-2016.
*Kiểm định R2 và R2 hiệu chỉnh mô hình Ohlson (1995)
Bảng này cũng gồm ba bảng tương ứng với ba nhóm công ty phân theo mức độ
thận trọng kế toán Con1, Con2 và Con3.
Model Summaryb,c
Model R R Square Adjusted R Square Std. Error of the Estimate Durbin-Watson
62
1 .523a .273 1.671
.263 971.97628977
a. Predictors: (Constant), EPS, BV b. Con = 1 c. Dependent Variable: Pit
Model Summaryb,c
R Square Adjusted R Square
Model 1 R .574a .329 Std. Error of the Estimate Durbin-Watson 1.264
.322 944.61903804
a. Predictors: (Constant), EPS, BV b. Con = 2 c. Dependent Variable: Pit
Model Summaryb,c
Adjusted R Square R Square
Std. Error of the Estimate Durbin-Watson 1.799 Model 1 R .616a .380
.372 897.71289753 a. Predictors: (Constant), EPS, BV b. Con = 3 c. Dependent Variable: Pit
Cũng theo dữ liệu của 3 bảng trên thì R2 hiệu chỉnh của mô hình ở 3 nhóm Con1,
Con2 và Con3 lần lượt là là 26,3%, 32,2% và 37,2%; được giải thích là có 26,3% biến
thiên của biến phụ thuộc được giải thích bởi biến độc lập ở nhóm Con1. Tỷ lệ này tăng
dần lên ở nhóm Con2 và Con3 là 32,2% và 37,2%.
Kết quả đo lường cho thấy mức độ thận trọng kế toán càng cao thì mô hình đo
lường giá trị thông tin càng phù hợp với bộ dữ liệu. Hoặc có thể phát biểu mức độ thận
trọng kế toán càng cao thì giá trị thích hợp thông tin được giải thích bởi biến độc lập Pit,
BV và PES càng cao, điều này cho thấy mức độ thận trọng kế toán càng cao thì giá trị
thích hợp thông tin càng có tỷ lệ giải thích cao hơn.
4.3. Mô hình hồi quy kết hợp đo lường thận trọng kế toán.
Để đo lường thận trọng kế toán, luận văn sử dụng mô hình do Beaver và Ryan
(2000) đề xuất. Kết quả của mô hình hồi quy kết hợp (OLS) đo lường thận trọng kế toán ở
63
ba giai đoạn 2014-2018, 2014-2016, 2017-2018 sẽ giúp tác giả kiểm định giả thuyết H1 và
giả thuyết H3.
Bảng 4.3. Kết quả đo lường thận trọng kế toán giai đoạn 2014-2018
Bảng này gồm ba bảng tương ứng với ba giai đoạn 2014-2018, 2014-2016, 2017-
2018.
Coefficientsa
Model t Sig.
Std. Error Standardized Coefficients Beta
1 Unstandardized Coefficients B 105.723 -13.552 3.087 1.723 34.250 -7.866 .000 .000 -.332
(Constant) ROE a. Dependent Variable: BTM
Coefficientsa,b
Model t Sig.
Std. Error Standardized Coefficients Beta
1 Unstandardized Coefficients B 136.792 -31.293 5.219 2.924 26.209 -.527 -10.701 .000 .000
(Constant) ROE a. GIAIDOAN = 2014-2016 b. Dependent Variable: BTM
Coefficientsa,b
Model t Sig.
Std. Error Standardized Coefficients Beta
1 Unstandardized Coefficients B 95.202 -7.221 3.848 2.135 24.740 -3.382 .000 .001 -.234
(Constant) ROE a. GIAIDOAN = 2017-2018 b. Dependent Variable: BTM
Bảng 4.3 thể hiện kết quả của mô hình hồi quy kết hợp đo lường thận trọng kế
toán theo ba giai đoạn 2014-2018, 2014-2016, 2017-2018. Dựa vào kết quả bảng 4.3,
chúng ta có thể thấy giá trị hệ số βj của mô hình Beaver và Ryan (2000) tất cả các giai
đoạn đều mang dấu âm và có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 5%. Cụ thể, giá trị βj đo
64
lường thận trọng kế toán ở ba giai đoạn 2014-2018, 2014-2016, 2017-2018 lần lượt bằng
-13,552; -31,293 và -7,721. Như vậy có thể kết luận rằng, thận trọng kế toán được đo
lường bởi hệ số góc βj trong mô hình Beaver và Ryan (2000) hiện hữu trong dữ liệu
nghiên cứu hay giả thuyết H1 được chấp nhận với mức ý nghĩa 5%.
Với việc lựa chọn năm 2016 là thời điểm phân tách dữ liệu nghiên cứu để so sánh
mức độ thận trọng kế toán giai đoạn trước và sau 2016, kết quả ở bảng 4.4 có thể phát
biểu bằng mô hình tương ứng với ba giai đoạn 2014-2018, 2014-2016, 2017-2018 như
sau:
Giai đoạn 2014-2018: BTM = 105,723 – 13,552 ROE
Giai đoạn 2014-2016: BTM = 136,792 – 31,293 ROE
Giai đoạn 2017-2018: BTM = 95,202 – 7,721 ROE
Theo giả thuyết H3: Mức độ thận trọng kế toán giai đoạn 2014-2016 cao hơn giai
đoạn 2017-2018 thuộc điểm 3.3 về việc đề xuất các giả thuyết nghiên cứu ghi nhận nếu:
ROE < (136,792,-,95,202)/(31,293 – 7,721)
Hoặc ROE < 1.76438147 thì phát biểu H3 được chấp nhận.
Quay về bảng dữ liệu excel dùng hàm COUNTIF để đếm số lượng mẫu quan sát
thỏa mãn điều kiện trên, tác giả đếm được có 244 trên 500 quan sát có chỉ tiêu ROE
không thỏa điều kiện trên nên giả thuyết H3 không được chấp nhận. Hay nói cách khác
không có bằng chứng cho thấy mức độ thận trọng kế toán giai đoạn 2014-2016 cao hơn
giai đoạn 2017-2018.
4.4. Mô hình hồi quy đo lường giá trị thích hợp thông tin cũng như chiều tác
động của thận trọng kế toán đến giá trị thích hợp thông tin.
Để đo lường mức độ giá trị thích hợp thông tin kế toán theo cấp đô tăng dần của
thận trọng kế toán, đồng thời xác định chiều tác động của ảnh hưởng thận trọng kế toán
lên giá trị thích hợp thông tin tác giả sử dụng chỉ số R2 (như đã phân tích ở 3.3). Kết quả
đọc được sẽ xác định có ảnh hưởng hay không của thận trọng kế toán đến giá trị thích
hợp thông tin kế toán.
65
Việc đo lường giá trị thích hợp thông tin và ảnh hưởng của thận trọng kế toán đến
giá trị thích hợp của thông tin được thể hiện thông qua kết quả mô hình hồi quy kết hợp
do Ohlson (1995) phát triển.
Bảng 4.4 thể hiện kết quả mô hình hồi quy kết hợp đo lường giá trị thích hợp
thông tin theo Ohlson (1995). Để xem xét ảnh hưởng của thận trọng kế toán đến giá trị
thích hợp thông tin, tác giả tiến hành đo lường giá trị thích hợp thông tin trên lần lượt ba
nhóm theo mức độ thận trọng kế toán tăng dần Con1, Con2 và Con3.
Cụ thể, giá trị thích hợp thông tin đo lường bằng hệ số xác định điều chỉnh R2 của
mô hình Ohlson (1995) trên ba nhóm Con1, Con2 và Con3 lần lượt là 26.74%, 31.10%
và 52.23%. Tức là, thu nhập trên mỗi đơn vị vốn chủ và giá trị sổ sách của mỗi đơn vị
vốn chủ của công ty giải thích được 26.74%, 31.10% và 52.23% biến động giá trị thị
trường của 1 đơn vị vốn chủ tại thời điểm sau kết thúc niên độ 3 tháng. Hay nói cách
khác khi mức độ thận trọng tăng dần từ thấp đến cao, giá trị thích hợp của thông tin ngày
càng tăng. Giả thuyết H2 vì thế không được chấp nhận khi nhóm công ty có mức độ thận
trọng kế toán cao (Con3) có R2 cao hơn so với nhóm có mức độ trung bình (Con2) và
thấp (Con1).
Bảng 4.4. Kết quả mô hình hồi quy kết hợp đo lường giá trị thích hợp thông
tin theo Ohlson (1995)
Con1 9089.145 0.000 0.181 0.000 0.444 0.000 26.3% Con2 8835.802 0.000 0.194 0.000 0.499 0.000 32.2% Con3 8407.805 0.000 0.227 0.000 0.486 0.000 37.2%
β0 p-value Β1 p-value Β3 p-value R2 điều chỉnh
Tóm lại, khi kiểm tra về sự hiện hữu của thận trọng kế toán trong mẫu nghiên cứu
cho thấy các biến trong mô hình có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 5% nên cho phép
kết luận có sự hiện diện của thận trọng kế toán trong mẫu nghiên cứu. . Ngoài ra để tìm ra
66
giới hạn của ROE nhằm đảm bảo cho giả thuyết H3 được chấp nhận, tác giả tiến hành
xác lập mô hình đo lường thận trọng kế toán ở hai giai đoạn với hệ số góc βj và tính toán
cho kết quả ROE < 1.76438147. Sau đó quay lại dữ liệu bảng dùng hàm COUNTIF để
thống kê kiểm tra số lượng mẫu nghiên cứu có ROE phù hợp với giả thuyết H3, kết quả
cho thấy có tới 244/500 quan sát không đạt yêu cầu. Và như vậy chưa có bằng chứng để
chấp nhận giả thuyết H3.
Với giả thuyết H2 về thận trọng kế toán có khiến lợi nhuận kế toán phản ánh thông
tin xấu nhanh hơn thông tin tốt cho giá trị thị trường của vốn chủ hay mức độ thận trọng
kế toán tác động ngược chiều đến tính thích hợp của thông tin, tác giả tiến hành đo lường
giá trị thích hợp thông tin trên ba nhóm mẫu được phân loại dựa trên mức độ thận trọng
kế toán. Kết quả đã bác bỏ lập luận giả thuyết H2 khi hệ số xác định điều chỉnh R2 và hệ
số góc của mô hình Ohlson (1995) tăng khi mức độ thận trọng kế toán tăng dần từ thấp
đến cao. Như vậy trong phạm vi mẫu nghiên cứu và các kết quả thu được từ việc đo
lường các biến trong mô hình Ohlson (1995) đã cho thấy tồn tại một ảnh hưởng của thận
trọng kế toán lên giá trị thông tin thông qua hệ số R2, và một mối quan hệ tuyến tính đã
tồn tại giữa chúng.
67
4.5. Bàn luận kết quả nghiên cứu
Với kết quả nghiên cứu thu được trong nôi dung 4.4 đã cho thấy thận trọng kế toán
trong mô hình Beaver và Ryan (2000) có hiện hữu trong dữ liệu nghiên cứu thông qua kết
quả thống kê mô tả các biến trong hai mô hình đều có ý nghĩa thống kê. Tham khảo từ
nghiên cứu của Kousenidis và cộng sự (2009) thực hiện tại Hy Lạp cho thấy có sự đồng
nhất với luận văn. Có thể lập luận rằng với hệ thống kế toán của cả hai nước đều là những
quốc gia có cấu trúc luật pháp là luật riêng thì hệ thống kế toán đều mang tính thận trọng.
Đồng thời khi đo lường mức độ thận trọng kế toán trong hai giai đoạn trước và sau năm
2016 để xác định giai đoạn nào có mức độ cao hơn nhằm xác định với sự thay đổi tư duy
của các nhà lập pháp về kế toán liệu có làm thay đổi tư duy của các nhà quản trị điều
hành DNNVV về áp dụng thận trọng kế toán trong hạch toán và trình bày thông tin ké
toán, và thời điểm năm 2016 được lựa chọn để xem xét riêng mức độ thận trọng kế toán
của mẫu nghiên cứu trước và sau thời điểm này khi thông tư 133/2016/TT-BTC với sự
nhấn mạnh mục đích tách biệt giữa kế toán và thuế có hiệu lực và tinh thần tôn trọng tính
phù hợp hoặc giá trị hợp lý khi giải quyết mâu thuẫn với tính thận trọng hoặc giá gốc.
Chưa có bằng chứng cho thấy giá trị thận trọng kế toán giai đoạn 2014-2016 cao hơn giai
đoạn 2017-2018. Điều này cũng được hiểu rằng chưa có ảnh hưởng đáng kể của pháp luật
kế toán đến tư duy của các nhà điều hành DNNVV. Kết quả này phù hợp với thực tế của
việc công bố thông tin ở các DNNVV trong giai đoạn hiện nay, khi thông tin kế toán của
đối tượng này chỉ nhằm phục vụ cho cơ quan thuế để đảm bảo thu ngân sách chứ chưa có
các chế tài đủ mạnh về công bố thông tin kế toán cho các đối tượng ngoài DN như các
công ty niêm yết trên sàn chứng khoán.
Cũng như kết quả kiểm định giả thuyết H3 nêu trên, kết quả về ảnh hưởng của
thận trọng kế toán đến giá trị thích hợp thông tin theo mô hình Ohlson (1995) đã chỉ ra
rằng mức độ thận trọng kế toán và giá trị thích hợp của thông tin là cùng chiều. Hay nói
cách khác, tồn tại mối quan hệ tuyến tính giữa ảnh hưởng của thận trọng kế toán đến giá
trị thích hợp thông tin. Kết quả này trái với lập luận của Nguyễn Đăng Huy (2017) cho
rằng tính thận trọng kế toán bóp méo tính thích hợp của thông tin trên BCTC.
68
.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4
Ở nội dung chương 4 tác giả đã trình bày được các nội dung bao gồm: (i) mô tả
mẫu nghiên cứu cả về số lượng và tỷ lệ theo ngành nghề, (ii) thực hiện thống kê mô tả
các biến của các mô hình đo lường thận trọng kế toán và giá trị thích hợp thông tin. (iii)
thực hiện việc mô tả kết quả kiểm định R2 và R2 hiệu chỉnh nhằm giải thích rằng tồn tại
một tỷ lệ giải thích của biến phụ thuộc bởi các biến độc lập ở cả ba nhóm mẫu trên cả ba
giai đoạn; Tuy nhiên kết quả này đi ngược với mong muốn khi tác giả xây dựng giả
thuyết H2 rằng tính thận trọng kế toán bóp méo giá trị thông tin bởi vì hệ số R2 tăng dần
ở nhóm mẫu có mức độ thận trọng kế toán từ thấp đến cao. (iv) Cuối cùng, tác giả sử
dụng các công cụ phân tích hỗ trợ của Microsoft Excel để tính toán các biến trong cả hai
mô hình đo lường thận trọng kế toán và giá trị thích hợp thông tin kế toán đối với các
DNNVV trên địa bàn TP.HCM. Kết quả có được sau khi chạy mô hình hồi quy kết hợp
OLS cho thấy thận trọng là một điểm đặc trưng của hệ thống kế toán Việt Nam thể hiện
qua các biến trong mô hình đều có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 5%. Kết quả thu
được từ đo lường mô hình của Ohlson (1995) với hệ số hiệu chỉnh R2 chứng minh ảnh
hưởng của thận trọng kế toán đến giá trị thích hợp thông tin. Cụ thể là, khi mức độ thận
trọng kế toán tăng lên thì mức độ giải thích của biến giá trị thị trường của vốn chủ (dùng
đo lường giá trị thích hợp của thông tin)bởi biến độc lập BV và PES càng cao, điều này
cho thấy mức độ thận trọng kế toán càng cao thì giá trị thích hợp thông tin càng có tỷ lệ
giải thích cao hơn. Hay nói cách khác mức độ thận trọng kế toán và giá trị thông tin là
quan hệ cùng chiều. Ngoài ra, sau khi thông tư 133/2016/TT- BTC có hiệu lực từ năm
2017, kết quả nghiên cứu cho thấy, không có bằng chứng cho sự gia tăng nhiều hơn về
mức độ thận trọng kế toán giai đoạn 2014-2016 cao hơn giai đoạn 2017-2018.
69
CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ HÀM Ý CHÍNH SÁCH
5.1. Kết luận chung
Trước hết, luận văn đã tổng hợp và hê thống lại các khái niệm cũng như các mô
hình đo lường thận trọng kế toán và giá trị thích hợp thông tin dựa trên các phát biểu của
các tổ chức điều hành quốc tế liên quan đến kế toán, của Bộ Tài chính Việt Nam và của
các nhà nghiên cứu trên thế giới cũng như ở Việt Nam.
Tiếp theo, tác giả tiến hành phân chia mẫu nghiên cứu theo mức độ thận trọng kế
toán và tách giai đoạn nghiên cứu thành hai giai đoạn lấy mốc phân chia là năm 2016.
Việc lựa chọn năm 2016 là điểm phân chia giai đoạn nghiên cứu để phân tích do đây là
thời điểm thông tư 133/2016/TT-BTC ngày 26/08/2016 về hướng dẫn chế độ kế toán
doanh nghiệp do Bộ Tài Chính ban hành có hiệu lực với điểm nhấn mạnh về sự tách biệt
giữa kế toán và thuế. Trên cơ sở đó tác giả tiến hành đo lường ảnh hưởng của thận trọng
kế toán đến giá trị thích hợp thông tin thông qua việc áp dụng mô hình hồi quy kết OLS,
Bằng việc xác định độ kiểm định Sig < 5% của mô hình Beaver và Ryan (2000), tác giả
kết luận rằng thận trọng là một đặc điểm của hệ thống kế toán Việt Nam thể hiện qua hệ
số kiểm định ở cả ba giai đoạn đều < 5%. Nó giải thích cho thực tế tại Việt Nam về các
đối tượng sử dụng thông tin kế toán của các DNNVV chủ yếu phục vụ cho mục đích thuế
và chưa có chế tài đối với trách nhiệm công bố thông tin của nhà quản tri DNNVV. Các
nhà lập quy về kế toán tại Việt Nam mà cụ thể là Bộ Tài chính khi ban hành các chế độ
chính sách kế toán cũng chưa có các quy định chặt chẽ để buộc các nhà điều hành
DNNVV có trách nhiệm công bố thông tin và chịu trách nhiệm về các thông tin công bố
như đối với các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán. Song song đó, luận văn sử dụng
mô hình đo lường giá trị thích hợp thông tin do Ohlson (1995) đề xuất để tính toán hệ số
xác định R2 hiệu chỉnh tương ứng với ba giai đoạn và trên 3 nhóm đã phân chia dựa trên
mức độ thận trọng thấp, trung bình hay cao. Hệ số xác định điều chỉnh R2 và hệ số góc
của mô hình càng tăng khi mức độ thận trọng kế toán tăng dần từ thấp đến cao. Kết quả
của nghiên cứu cho thấy mối quan hệ tuyến tính giữa ảnh hưởng của thận trọng kế toán
đến giá trị thích hợp thông tin hay mức độ thận trọng kế toán càng tăng thì giá trị thích
hợp của thông tin càng tăng. Tác giả cũng chưa tìm thấy bằng chứng nào cho thấy mức
70
độ thận trọng kế toán giai đoạn 2014-2016 cao hơn so với giai đoạn 2017-2018 mặc dù
đây là thời điểm xuất hiện đột giữa nó và các nguyên tắc phù hợp hay nguyên tắc giá trị
hợp lý.
5.2. Một số hàm ý chính sách
Đề tài nghiên cứu về ảnh hưởng của thận trọng kế toán đến giá trị thích hợp thông
tin bằng chứng thực nghiệm đối với các DNNVV trên địa bàn TP.HCM tại Việt Nam giai
đoạn 2014-2018 đã chứng minh có tồn tại một mối quan hệ giữa thận trọng kế toán và giá
trị thích hợp của thông tin kế toán. Nghiên cứu chỉ ra rằng, giá trị thích hợp của thông tin
tăng lên đối với các công ty có mức độ thận trọng kế toán cao. Điều đó cho thấy sự thay
đổi trong phiên bản 2018 của IASB là đưa ra định nghĩa thận trọng là mức độ cẩn thận
khi thực hiện các xét đoán trong các điều kiện không chắc chắn và tin rằng nguyên tắc
thận trọng là hỗ trợ cho tính trung lập (trong đặc điểm trình bày hợp lý) là cần thiết.
5.2.1. Đối với cơ quan quản lý Nhà nước
Mặc dù kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng trong phạm vi nghiên cứu là các DNNVV
thì mức độ thận trọng kế toán và giá trị thích hợp thông tin có mối quan hệ cùng chiều.
Điều đó cho thấy, thận trọng kế toán là cần thiết trọng việc lập và trình bày thông tin trên
BCTC. Tuy nhiên, việc kiểm soát cung cấp thông tin tài chính của các DNNVV hiện nay
mới chỉ dừng lại ở việc phục vụ cho các pháp lệnh về thuế để đảm bảo cho thu ngân sách,
chứ chưa có các quy định cứng rắn trong việc cung cấp thông tin tài chính cho các đối
tượng ngoài DN. Ngoài ra IASB cũng đã ban hành IFRS for SMEs trên nguyên tắc tôn
trọng giá trị hợp lý. Song song đó để tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNVV,
trong việc áp dụng và thực hiện chế độ kế toán DN, Bộ Tài chính đã ban hành TT
133/2016/TT-BTC, hướng dẫn chế độ kế toán dành riêng cho loại hình DNNVV nhưng
không hạn chế loại hình này áp dụng chế độ kế toán theo Thông tư 200/2015/TT-BTC,
trên cơ sở tôn trọng giá trị hợp lý trong giải quyết xung đột với giá trị gốc khi hạch toán
kế toán. Vì vậy, Nhà nước mà cụ thể là Bộ Tài chính nên có những tính toán thận trọng
trong việc áp dụng nguyên tắc thận trọng kế toán trong ban hành các chế độ kế toán nhất
là đối với loại hình DNNVV.
71
Kết quả nghiên cứu thông qua hệ số hiệu chỉnh R2 của các mô hình đo lường giá
trị thích hợp thông tin dù vẫn lớn hơn 0 nghĩa là vẫn đảm bảo cho sự giải thích biến phụ
thuộc bởi biến độc lập là có ý nghĩa nhưng ở mức thấp. Điều đó cho thấy tính thích hợp
của thông tin kế toán còn thấp, giá trị ghi sổ của vốn chủ chưa phản ánh hết giá trị thị
trường của nó dẫn đến thông tin kế toán trình bày giá trị tài sản thực của doanh nghiệp
trên báo cáo tài chính chưa được phản ánh đầy đủ. Xét rằng, Bộ Tài Chính cần đẩy mạnh
hoàn thiện lại 26 chuẩn mực kế toán Việt Nam thậm chí xây dựng riêng khung pháp lý
cho loại hình DNNVV trên cơ sở sửa đổi, bổ sung và cập nhật có chọn lọc những nội
dung mới của IFRS và có xét đến IFRS for SMEs, phù hợp với sự phát triển kinh tế và
trình độ quản lý của Việt Nam và có xem xét đến vai trò của các DNNVV trong phát
triển kinh tế địa phương cũng như trình độ quản lý và tư duy quản trị của các nhà điều
hành DNNVV. Từ đó, hoàn thiện dần chất lượng báo cáo tài chính của DNNVV bằng
việc đề cao trách nhiệm giải trình, trách nhiệm cung cấp thông tin kế toán cho đối tượng
ngoài DN, cung cấp cho người sử dụng báo cáo tài chính nhiều thông tin hữu ích nhằm
thúc đẩy sự liên thông với thị trường vốn của các DNNVV với các chủ nợ.
5.2.2. Đối với các DNNVV
Để tồn tại và phát triển vững chắc trong thời kỳ hội nhập, các DNNVV cần xác
định rõ vai trò và vị trí của mình trong phát triển kinh tế địa phương tiến đến phát triển và
hội nhập thế giới hướng tới toàn cầu hóa. Muốn vậy DN cần đảm bảo thực thi các chuẩn
mực kinh doanh nói chung và chuẩn mực về kế toán nói riêng, đảm bảo hạch toán kế toán
đầy đủ kịp thời để cung cấp thông tin thích hợp cho người dùng báo cáo bên ngoài. Cụ
thể DNNVV cần chú trọng trong công tác kế toán và lập báo cáo tài chính khi thị trường
xuất hiện các thông tin xấu nhưng cũng cần đảm bảo phản ánh trung thực hợp lý giá trị
tài sản của DN, nghĩa là các DNNVV cần tạo được sự cân xứng trong việc xử lý và cung
cấp thông tin trên cơ sở tuân thủ các quy định của Luật kế toán và các văn bản dưới luật.
Cụ thể, không khai khống thu nhập và tài sản, và ngược lại không khai thiếu nợ phải trả
và chi phí khi xét đoán các ước tính trong điều kiện không chắc chắn, nhằm cung cấp một
báo cáo kế toán trung thực hợp lý cho các đối tượng ngoài DN thúc đẩy ra quyết định của
72
chủ sở hữu, nhà đầu tư; cũng như quyết định cho vay của các chủ nợ thúc đẩy DNNVV
tiếp cận với nguồn vốn bên ngoài DN bao gồm nguồn vốn trong nước và quốc tế..
5.2.3. Đối với nhà đầu tư, chủ nợ
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng: Tồn tại thận trọng kế toán trong giá trị thích hợp
thông tin luôn là cần thiết đối với nhà đầu tư và chủ nợ. Nó làm giảm chi phí ủy nhiệm
trong mối quan hệ giữa nhà đầu tư với nhà quản trị; đồng thời hạn chế sự bất cân xứng
thông tin cho các chủ nợ nhằm hạn chế rủi ro trong việc thu hồi nợ gốc và lãi. Sự bất cân
xứng thông tin khiến cho thông tin về giá trị tài sản đã không còn được phản ánh trung
thực trên báo cáo tài chính. Điều này buộc các nhà đầu tư và chủ nợ cần phân tích báo
cáo tài chính trên nguyên tắc thận trọng để có thể đánh giá triển vọng kinh doanh của
doanh nghiệp và định giá doanh nghiệp, phục vụ việc ra quyết định đầu tư hoặc cho vay
của mình.
5.3. Hạn chế đề tài nghiên cứu
Luận văn với phạm vi nghiên cứu là các DNNVV nhưng chưa có sự phù hợp về
khung pháp lý của nghiên cứu với nghiên cứu thực nghiệm. Tác giả vẫn chưa đưa được
triệt để tổng quan nghiên cứu và cơ sở pháp lý cho loại hình DNNVV – có khung pháp lý
kế toán riêng theo tiêu chuẩn quốc tế như IFRS for SMEs - mà mới chỉ dừng lại ở tổng
quan và cơ sở lý thuyết cho các DN vừa và lớn.
Phạm vi hẹp đối với loại hình DNNVV trên địa bàn TP.HCM cũng là một hạn chế
của đề tài. Vì kết quả nghiên cứu không được phát biểu cho các tỉnh thành khác nói riêng
và cho Việt Nam nói chung.
Ngoài ra, phạm vi và phương pháp nghiên cứu định lượng kết hợp điều tra sử dụng
trong nghiên cứu để đo lường thận trọng kế toán và giá trị thích hợp thông tin cũng như
mối quan hệ giữa chúng trên nhiều giai đoạn khác nhau, nhóm khác nhau trong phạm vi
cỡ mẫu hẹp và giai đoạn nghiên cứu ngắn; nên kết quả đo lường chưa thật sự thuyết phục
và chỉ dừng lại ở kết luận, như phát biểu hệ số R2 cho thấy dù R2 là dương nhưng đang ở
gần giới hạn mức dưới (0) nên tính thuyết phục của kết quả nghiên cứu chưa cao.
5.4. Định hướng nghiên cứu trong tương lai
Hạn chế của đề tài đã chỉ ra rằng:
73
- Trong nghiên cứu của Kousenidis và cộng sự (2009), nhóm tác giả có sử dụng
ước lượng Pooled Common Correlated Effects (CCE) của Pesaran (2006) để kiểm soát
hai vấn đề phát sinh trong dữ liệu bảng là số lượng quan sát lớn và thời gian nghiên cứu
ngắn là tồn tại một phụ thuộc chéo và phương sai thay đổi. Vì vậy, tác giả sẽ giải quyết
mối quan hệ giữa hai biến thận trọng kế toán và giá trị thích hợp thông tin bằng kết quả từ
mô hình hồi quy kết hợp OLS và so sánh kết quả này với kết quả khi sử dụng ước lượng
Pooled Common Correlated Effects (CCE).
- Một nghiên cứu được đặt trong khung pháp lý kế toán riêng cho loại hình
DNNVV theo tiêu chuẩn quốc tế mà cụ thể là IFRS for SMEs sẽ được quán triệt cùng với
số lượng mẫu nghiên cứu sẽ được triển khai trên nhiều địa phương chứ không riêng địa
bàn TP.HCM. Đồng thời một phạm vi rộng hơn cho mẫu nghiên cứu với một giai đoạn
dài hơn bao gồm không hạn chế số lượng mẫu và địa bàn. Tác giả mong muốn có thể
thực hiện phân chia mẫu nghiên cứu theo nhiều tiêu chí khác nhau như tiêu chí phân loại
các công ty theo ngành sản xuất hoặc/và tiêu chí có tài sản liên quan đến đất đai hoặc/và
các tài sản vô hình khác để đo lường thận trọng kế toán và ảnh hưởng của nó đến giá trị
thích hợp của thông tin trên từng mẫu. Trên cơ sở đó so sánh kết quả giữa các mẫu để xác
định mức độ và chiều tác động của thận trọng kế toán đối với giá trị thông tin của nhóm
nào, giai đoạn nào cao hơn.
Cuối cùng, để khắc phục hạn chế của việc dùng hệ số R2 đo lường giá trị thông tin,
thì một nghiên cứu kết hợp nhiều mô hình đo lường giá trị thông tin sẽ được xem xét. Bởi
vì theo khuôn mẫu lý thuyết kế toán thì thông tin hữu ích bao gồm hai đặc điểm cơ bản là
thích hợp và trình bày hợp lý và bốn đặc điểm hỗ trợ là: có thể so sánh (comparability),
có thể kiểm chứng (verifiability), kịp thời (timeliness) và có thể hiểu được
(understandability). Do vậy các mô hình đo lường việc trình bày hợp lý của thông tin kế
toán sẽ được sử dụng đồng thời để cho ra kết quả có thể kiểm định giá trị của thông tin kế
toán.
74
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu Tiếng Việt:
Bộ Tài Chính, 2006, ‘Quyết định số 165/2002/QĐ-BTC Chuẩn mực kế toán Việt Nam số
01 – Chuẩn mực chung’.
Bộ Tài chính, 2014, ‘Thông tư số 200/2014/TT-BTC ngày 22/12/2014 Về hướng dẫn chế
độ kế toán doanh nghiệp’.
Bộ Tài chính, 2016, ‘Thông tư số 133/2016/TT-BTC ngày 26/08/2016 Về hướng dẫn chế
độ kế toán DNNVV’.
Huỳnh Đạt Hùng, Nguyễn Khánh Bình & Phạm Xuân Giang, 2013, ‘Kinh tế lượng’,
TP. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Phương Đông.
Quốc hội, 2014, “Luật số 68/2014/QH3 ngày 26/11/2014 Về Luật doanh nghiệp”.
Nguyễn Bích Ngọc, 2018, “Báo cáo tài chính của doanh nghiệp nhỏ và vừa – đối tượng
sử dụng và chất lượng thông tin trên báo cáo tài chính”, Tạp chí khoa học và đào tạo ngân
hàng, 192, 1-28
Nguyễn Thị Bích Thủy, 2018, “Nguyên tắc thận trọng kế toán – Nội dung và cách thức
đánh giá việc thực hiên tại các doanh nghiệp” http://khoakinhte.vinhuni.edu.vn/tuyen-
sinh
Nguyễn Thị Thùy Dung, 2017, “Ảnh hưởng của thận trọng kế toán đến giá trị thích hợp
của thông tin trên báo cáo tài chính – Bằng chứng thực nghiệm đối với các công ty niêm
yết trên thi trường chứng khoán Việt Nam”.
Nguyễn Việt Dũng, 2009, ‘Mối liên hệ giữa thông tin báo cáo tài chính và giá cổ phiếu:
Vận dụng linh hoạt lý thuyết hiện đại vào trường hợp Việt Nam’, Tạp chí nghiên cứu
kinh tế, 375, 18-32.
Trương Đông Lộc và Nguyễn Minh Nhật, 2016, ‘Ảnh hưởng của thông tin kế toán đến
giá của các cổ phiếu: Bằng chứng thực nghiệm từ Sở giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí
Minh’, Tạp chí khoa học Đại học Mở TP.HCM, số 4(49), trang 62-71.
Võ Văn Nhị và Lê Hoàng Phúc Sự, 2011, ‘Sự hoà hợp giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam
và chuẩn mực kế toán quốc tế - Thực trạng, nguyên nhân và định hướng phát triển’, Tạp
chí Kiểm toán, số 12, trang 29-36.
75
Vũ Hữu Đức, 2010, ‘Những vấn đề cơ bản của lý thuyết kế toán’, Hà Nội: Nhà xuất bản
Lao Động.
2. Tài liệu Tiếng Anh:
Accounting standards. (1990). Norwalk, Conn.: FASB.
Ahmed, A., Morton, R. and Schaefer, T. (1998). Accounting Conservatism and the
Valuation of Accounting Numbers: Evidence on the Feltham-Ohlson (1996)
Model. SSRN Electronic Journal.
Ahmed, A., Billings, B., Morton, R. and Stanford‐Harris, M. (2002). The Role of
Accounting Conservatism in Mitigating Bondholder‐Shareholder Conflicts over Dividend
Policy and in Reducing Debt Costs. The Accounting Review, 77(4), pp.867-890.
Ahmed, A. and Duellman, S. (2010). Evidence on the role of accounting conservatism in
monitoring managers’ investment decisions. Accounting & Finance, 51(3), pp.609-633.
Balachandran, S. and Mohanram, P. (2010). Is the decline in the value relevance of
accounting driven by increased conservatism?. Review of Accounting Studies, 16(2),
pp.272-301.
BANDYOPADHYAY, S., CHEN, C., HUANG, A. and JHA, R. (2010). Accounting
Conservatism and the Temporal Trends in Current Earnings’ Ability to Predict Future
Cash Flows versus Future Earnings: Evidence on the Trade-off between Relevance and
Reliability*. Contemporary Accounting Research, 27(2), pp.413-460.
Banker, R., Basu, S., Byzalov, D. and Chen, J. (2012). Asymmetric Timeliness of
Earnings: Conservatism or Sticky Costs?. SSRN Electronic Journal.
Basu, S. (1999). Discussion of International Differences in the Timeliness, Conservatism,
and Classification of Earnings. Journal of Accounting Research, 37, p.89.
Beaver, W. (1970). The Time Series Behavior of Earnings. Journal of Accounting
Research, 8, p.62.
Beaver, W. and Ryan, S. (2000). Biases and Lags in Book Value and Their Effects on the
Ability of the Book-to-Market Ratio to Predict Book Return on Equity. Journal of
Accounting Research, 38(1), p.127.
76
Chan, A., Lin, S. and Strong, N. (2009). Accounting conservatism and the cost of equity
capital: UK evidence. Managerial Finance, 35(4), pp.325-345.
Collins, D., Maydew, E. and Weiss, I. (1997). Changes in the value-relevance of earnings
and book values over the past forty years. Journal of Accounting and Economics, 24(1),
pp.39-67.
Crawley, M. (2012). Macroeconomic Consequences of Accounting: The Effect of
Accounting Conservatism on Macroeconomic Indicators and the Money Supply. SSRN
Electronic Journal.
Eames, M. and Glover, S. (2017). Earnings Predictability And Broker-Analysts’ Earnings
Forecast Bias. Journal of Applied Business Research (JABR), 33(6), pp.1285-1302.
Earl, J. (2002). Do Analysts and Auditors Use Information in Accruals?. CFA Digest,
32(3), pp.59-61.
Helbok, G. and Walker, M. (2004). On the nature and rationality of analysts' forecasts
under earnings conservatism. The British Accounting Review, 36(1), pp.45-77.
Hui, K., Matsunaga, S. and Morse, D. (2009). The impact of conservatism on
management earnings forecasts. Journal of Accounting and Economics, 47(3), pp.192-
207.
Holthausen, R. and Watts, R. (2000). The Relevance of the Value Relevance Literature
for Financial Accounting Standard Setting. SSRN Electronic Journal.
Kim, J. and Zhang, L. (2010). Does Accounting Conservatism Reduce Stock Price Crash
Risk? Firm-Level Evidence. SSRN Electronic Journal.
International Accounting Standards Board (IASB) 1989, Framework for the Preparation
and Presentation of Financial Statements, International Accounting Standards
Committee Foundation, London.
Kravet, T. (2012). Accounting Conservatism and Managerial Risk-Taking: Corporate
Acquisitions. SSRN Electronic Journal.
LaFond, R. and Watts, R. (2007). The Information Role of Conservatism. SSRN
Electronic Journal.
77
Li, X. (2015). Accounting Conservatism and the Cost of Capital: An International
Analysis. Journal of Business Finance & Accounting, 42(5-6), pp.555-582.
Leventis, S., Dimitropoulos, P. and Owusu-Ansah, S. (2013). Corporate Governance and
Accounting Conservatism: Evidence from the Banking Industry. Corporate Governance:
An International Review, 21(3), pp.264-286.
Miller, J. and Sedor, L. (2006). The Influence of Observed Stock Price Changes on
Analysts' Earnings Forecast Revisions: Experimental Evidence. SSRN Electronic
Journal.
Monahan, S. (2005). Conservatism, Growth and the Role of Accounting Numbers in the
Fundamental Analysis Process. Review of Accounting Studies, 10(2-3), pp.227-260.
Penman, S. and Zhang, X. (2000). Accounting Conservatism, the Quality of Earnings,
and Stock Returns. SSRN Electronic Journal.
Paek, W., Chen, L. and Sami, H. (2007). Accounting Conservatism, Earnings Persistence
and Pricing Multiples on Earnings. SSRN Electronic Journal.
Penman, S. and Zhang, X. (2000). Accounting Conservatism, the Quality of Earnings,
and Stock Returns. SSRN Electronic Journal.
Shroff, P., Venkataraman, R. and Zhang, S. (2012). The Conservatism Principle and the
Asymmetric Timeliness of Earnings: An Event-Based Approach*. Contemporary
Accounting Research, 30(1), pp.215-241.
Stankov, L. (2009). Conservatism and cognitive ability. Intelligence, 37(3), pp.294-304.
Mensah, Y., Song, X. and Ho, S. (2004). The Effect of Conservatism on Analysts'
Annual Earnings Forecast Accuracy and Dispersion. Journal of Accounting, Auditing &
Finance, 19(2), pp.159-183.
Watts, R. (2003). Conservatism in Accounting - Part I: Explanations and
Implications. SSRN Electronic Journal.
Zhang, J. (2005). The Contracting Benefits of Accounting Conservatism to Lenders and
Borrowers. SSRN Electronic Journal.