BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

…………/…………

BỘ NỘI VỤ ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

PHAN THỊ NGÂN

ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƢA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC TẠI HUYỆN

LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2019

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO …………/…………

BỘ NỘI VỤ ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

PHAN THỊ NGÂN

ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH

ĐƢA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC TẠI HUYỆN

LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Mã số: 8 38 01 02 NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐINH VĂN MINH

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng kết quả nghiên cứu trong luận là hoàn toàn trung

thực và không trùng lắp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này!

Tác giả luận văn

Phan Thị Ngân

LỜI CẢM ƠN

Để thực hiện và hoàn thành đề tài nghiên cứu khoa học này, em đã nhận

được sự hỗ trợ, giúp đỡ cũng như là quan tâm, động viên từ các thầy cô, bạn

học và gia đình. Nghiên cứu khoa học cũng được hoàn thành dựa trên sự tham

khảo, học tập kinh nghiệm từ các kết quả nghiên cứu liên quan, các sách, báo

chuyên ngành của nhiều tác giả ở các trường Đại học.

Trước hết, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy Đinh Văn Minh –

người trực tiếp hướng dẫn khoa học đã luôn dành nhiều thời gian, công sức

hướng dẫn em trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu và hoàn thành đề tài

nghiên cứu khoa học.

Em xin trân trọng cám ơn Ban giám hiệu Trường học viện hành chính

Quốc gia cùng toàn thể các thầy cô giáo công tác trong trường đã tận tình

truyền đạt những kiến thức quý báu, giúp đỡ em trong quá trình học tập và

nghiên cứu.

Tuy có nhiều cố gắng, nhưng trong đề tài nghiên cứu khoa học này

không tránh khỏi những thiếu sót. Em kính mong Quý thầy cô, các chuyên

gia, những người quan tâm đến đề tài, đồng nghiệp, gia đình và bạn bè tiếp

tục có những ý kiến đóng góp, giúp đỡ để đề tài được hoàn thiện hơn.

Một lần nữa em xin chân thành cám ơn!

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 26 tháng 8 năm 2019

Tác giả

Phan Thị Ngân

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................. 1

CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ

DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƢA VÀO CƠ SỞ CAI

NGHIỆN BẮT BUỘC .................................................................................... 7

1.1. Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc áp dụng biện pháp xử lý hành

chính đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ..................................................... 7

1.1.1. Khái niệm biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc ............................................................................................................ 7

1.1.2. Đặc điểm biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc ............................................................................................................ 8

1.1.3. Nguyên tắc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc ........................................................................................... 9

1.2. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc ....................................................................................... 12

1.3. Đối tƣợng, thời hiệu, thời hạn, thẩm quyền áp dụng biện pháp

xử lý hành chính đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ................................. 13

1.3.1. Đối tượng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc ......................................................................................... 13

1.3.2. Thời hiệu, thời hạn áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc ............................................................................... 16

1.3.3. Thẩm quyền quyết áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc ............................................................................... 18

1.4. Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đƣa vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc ............................................................................. 21

1.5. Các yếu tố ảnh hƣởng đến việc áp dụng biện pháp xử lý hành

chính đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc .................................................... 30

Tiểu kết chƣơng 1 ................................................................................. 32

CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ

HÀNH CHÍNH ĐƢA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC TẠI

HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI. ........................................... 33

2.1. Khái quát chung về tình hình nghiện ma túy tại huyện Long

Thành ............................................................................................................. 33

2.2. Thực tiễn áp dụng biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành ..................................................... .36

2.2.1.Thực trạng lập hồ sơ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. ........................................................................ 36

2.2.2. Trong giai đoạn xem xét hồ sơ và đề nghị áp dụng biện pháp xử

lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. .......................................... 42

2.2.3. Trong giai đoạn ban hành quyết định áp dụng ......................... 47

2.3. Đánh giá chung về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đƣa

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai. ......... 52

2.3.1. Kết quả đạt được trong quá trình áp dụng biện pháp xử lý hành

chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai 52

2.3.2. Khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân của những khó khăn

vướng mắc trong quá trình áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai ........................... .56

Tiểu kết chƣơng 2 ................................................................................. 66

CHƢƠNG 3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP

LUẬT VÀ BẢO ĐẢM ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH

ĐƢA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC TẠI HUYỆN LONG

THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI ....................................................................... 67

3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm áp dụng biện pháp

xử lý hành chính đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ................................. 67

3.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về áp dụng biện pháp xử lý hành

chính đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc .................................................... 68

3.2.1. Quy định để xác định thống nhất “nơi cư trú”, vấn đề liên quan

đối tượng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc ................................................................................................................ 68

3.2.2. Hoàn thiện hệ thống biểu mẫu sử dụng trong áp dụng biện pháp

xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ...................................... 72

3.2.3. Quy định bổ sung về thủ tục, trình tự xác định tình trạng nghiện

........................................................................................................................ 73

3.2.4. Quy định rút gọn trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành

chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ....................................................... .74

3.2.5. Nhóm giải pháp khác ................................................................ 75

3.3. Các giải pháp bảo đảm áp dụng biện pháp đƣa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành ...................................................... 75

3.3.1. Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc áp dụng biện pháp

xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ...................................... 75

3.3.2. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và xử lý các hành vi vi

phạm trong quá trình áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc ............................................................................................... 76

3.3.3. Nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ trong quá trình áp dụng

biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ..................... 77

3.3.4. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nâng cao nhận thức

của người dân về công tác cai nghiện ma túy ................................................. 78

3.3.5. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan trong quá trình áp dụng

biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ..................... 79

Tiểu kết chƣơng 3 ................................................................................. 80

Kết luận ................................................................................................ 81

Tài liệu tham khảo ................................................................................ 82

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

XLVPHC: xử lý vi phạm hành chính

UBND: Ủy ban nhân dân

TAND: Tòa án nhân dân

DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ

Số hiệu đồ thị Tên đồ thị Trang

1 Thống kê tình hình áp dụng biện pháp xử lý 34

hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc trong cả nước của Bộ Tư pháp

2 Thống kê lập hồ sơ cai nghiện công an 37

huyện Long Thành

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Ma túy là hiểm họa khôn lường của toàn nhân loại, là nguyên nhân dẫn

đến tội phạm, tệ nạn xã hội và lây nhiễm HIV/AIDS, số người nghiện ma túy

ngày càng tăng theo sự tăng trưởng của nền kinh tế. Trong những năm gần

đây cả thế giới chung tay vào công cuộc phòng, chống ma túy; Ở nước ta,

cuộc chiến chống ma túy cũng đã được Đảng và nhà nước tiến hành trong

nhiều năm bằng những biện pháp khác nhau và cũng đã đạt được những thành

tựu nhất định, tuy nhiên, trong sự phát triển của nền kinh tế vấn nạn ma túy

diễn biến rất phức tạp, số lượng người nghiện ma túy còn cao. Để hạn chế

những ảnh hưởng của ma túy đến cuộc sống, xã hội thì những người nghiện

ma túy sau khi được cai nghiện tại cộng đồng, gia đình hoặc người nghiện ma

túy không có nơi cư trú ổn định sẽ được đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Theo thống kê đến tháng 12/2017 cả nước có trên 222.000 người nghiện ma

túy có hồ sơ quản lý (tăng gần 12.000 người so với cùng kỳ năm 2016); trong

đó, trên 67,5% người đang sinh sống ngoài xã hội; 13,5% người trong cơ sở

cai nghiện, 19% người đang trong trại tạm giam, tạm giữ, cơ sở giáo dục,

trường giáo dưỡng. Theo báo cáo của Cục Phòng chống tệ nạn xã hội tại tổ

chức Hội thảo báo chí “Tư vấn, điều trị cai nghiện ma túy trong tình hình

mới” ngày 15 tháng 6 năm 2018 thì đến tháng 6 năm 2018, cả nước còn 120

cơ sở cai nghiện giảm được 25 cơ sở so với năm 2014 với tổng số người đang

được điều trị cai nghiện tại các cơ sở là 34.620 học viên mặc dù giảm về cơ

sở nhưng số người nghiện vẫn tăng chứ không giảm.

Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là một trong bốn biện pháp

xử lý vi phạm hành chính được quy định trong Luật xử lý vi phạm hành

chính, được áp dụng với người nghiện ma túy. Mục đích của biện pháp này là

bắt buộc cai nghiện, để chữa bệnh giúp người bị nghiện lao động, học nghề,

học văn hóa dưới sự quản lý của cơ sở cai nghiện bắt buộc, giúp họ sớm gia

1

nhập cộng đồng và có thể sử dụng những nghề được học để phát triển bản

thân. Biện pháp này suy cho cùng có bản chất là hạn chế quyền tự do của

công dân do Tòa án nhân dân cấp huyện, cụ thể là một Thẩm phán xem xét ra

quyết định. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng biện pháp xử lý hành chính này

trong thời gian qua còn tồn tại vướng mắc, thiếu sót trong quá trình lập hồ sơ,

xem xét, áp dụng, một mặt các văn bản áp dụng còn nhiều bất cập chưa sát

với tình hình thực tế của mỗi địa phương, mặt khác tình hình người nghiện và

đặc điểm của mỗi địa phương khác nhau nên việc thực hiện pháp luật về biện

pháp này còn gặp nhiều vướng mắc.

Xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn cũng như hiệu quả của việc áp dụng

các biện pháp xử lý vi phạm hành chính thì việc tăng cường nghiên cứu lý

luận và thực tiễn áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc để hạn chế các thiếu sót là hết sức cần thiết. Do đó, tác giả

chọn đề tài “Áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai” để làm luận văn thạc sĩ.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

là vấn đề không chỉ Đảng, Nhà nước mà cả xã hội quan tâm. Cũng đã có một

số công trình khoa học về đề tài này. Khi tham khảo nội dung các công trình

khoa học, bài nghiên cứu liên quan tác giả luận văn nhận thấy người viết chủ

yếu đang trao đổi vướng mắc, điều luật áp dụng chứ chưa phân tích sâu về

bản chất của vấn đề. Có luận văn thạc sĩ đã nghiên cứu về biện pháp này,

cũng đã phân tích nguyên nhân, thực trạng và có những kiến nghị, giải pháp,

tuy nhiên để đáp ứng nhu cầu cải cách tư pháp hiện nay và nhằm đi sâu

nghiên cứu hơn nữa để đánh giá hoàn thiện và đưa vào áp dụng một cách có

hiệu quả biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời gian tới. Liên

quan đến đề tài này có một số công trình nghiên cứu nổi bật sau:

2

Luận văn thạc sĩ “Biện pháp đưa ngư ời nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” (năm 2017) của tác giải Lê Thị Lan

Phương, bảo vệ thành công tại Học viện khoa học xã hội. Đây là đề tài có tính

khái quát cao, Đà Nẵng và đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả thực

hiện các biện với luận văn này tác giải đã phân tích được bản chất của vấn đề

áp dụng biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ thực

tiễn Thành phố Đà Nẵng. Tuy nhiên, chưa đi sâu vào nghiên cứu những

vướng mắc về quy định pháp luật khi các cơ quan thực hiện hoạt động áp

dụng pháp luật đối với biện pháp trên.

Luận văn thạc sĩ “Từ biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa

bệnh đến biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc”năm 2004 của tác giả

Phạm Tiến Thành tại Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội. Với luận văn này

tác giả đã làm rõ được các biện pháp xử lý hành chính và sự cần thiết và

chuyển hóa như thế nào từ biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh sang đưa vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc; tuy nhiên, nội dung của luận văn chưa nêu lên

được điểm nổi bật khi áp dụng biện pháp và việc áp dụng có phù hợp hay

không và các giải pháp để áp dụng biện pháp này có hiệu quả hơn.

Luận văn thạc sĩ “Đảm bảo quyền con người trong cơ sở cai nghiện bắt

buộc qua thực tiễn thành phố Hải Phòng” năm 2016 của tác giải Nguyễn

Quốc Hiệu tại Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội; Với luận văn này tác giả

đã đánh giá tổng quan về quyền con người trong cơ sở cai nghiện nhưng lại

chưa làm rõ quyền con người trong cơ sở cai nghiện bắt buộc bị vi phạm như

thế nào và vì sao việc đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thì quyền con

người sẽ bị hạn chế.

Luận văn thạc sĩ “Áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

tại tỉnh Sóc Trăng” năm 2018 của tác giả Lưu Hồng Ngọc Hiền tại Đại học

Luật Thành phố Hồ Chí Minh; đây là luận văn thuộc loại ứng dụng, tác giả đi

sâu vào phân tích các quy định và vướng mắc trong quá trình áp dụng biện

3

pháp này ở giai đoạn lập hồ sơ và xem xét hồ sơ; luận văn nghiên cứu về các

bất cập của quy định pháp luật nhưng lại chưa đi vào nghiên cứu các yếu tố

khác ảnh hưởng đến quá trình áp dụng biện pháp.

Ngoài ra, còn một số các đề tài và bài viết trên các tạp chí về vấn đề này.

Như vậy, chưa có công trình nghiên cứu nào về áp dụng biện pháp xử lý hành

chính đưa vào cơ cở cai nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng

Nai. Đối với các công trình, bài viết đã được công bố, người viết đã tham

khảo được các vấn đề lý luận và thực tiễn để tiếp tục hoàn thiện trong đề tài

của mình.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

- Mục đích

Khi nghiên cứu đề tài áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc phải nhận thức các vấn đề từ khía cạnh lý luận đến thực

tiễn từ đó mới có thể nhận thức đầy đủ yêu cầu đặt ra và định hướng việc

hoàn thiện. Luận văn nhằm đạt được mục đích sau:Trên cơ sở nghiên cứu làm

rõ vấn đề lý luận chung và thực tiễn của quá trình áp dụng biện pháp xử lý

hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, luận văn đề xuất các giải pháp

nhằm đảm bảo hiệu quả áp dụng biện pháp này.

- Nhiệm vụ

+ Nghiên cứu hệ thống và làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản, pháp luật

trong quá trình áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc.

+ Đánh giá thực trạng các quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng biện

pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại huyện Long

Thành.

+ Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp chung và riêng cho địa phương

để đảm bảo việc thực hiện pháp luật về biện pháp trên.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4

- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động áp dụng biện pháp xử lý hành chính

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.

- Phạm vi nghiên cứu:

+ Về không gian: Khảo sát thực tiễn việc áp dụng biện pháp xử lý hành

chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng

Nai.

+ Về thời gian: Từ năm 2014 đến nay.

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn

- Phương pháp luận: Với phạm vi nghiên cứu như trên,việc nghiên cứu

và hoàn thành luận văn trước hết dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lê

Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà Nước, nghị

quyết của Bộ chính trị về cải cách tư pháp.

- Phương pháp nghiên cứu: Người viết sử dụng phương pháp nghiên

cứu như sau:

+Phương pháp phân tích tổng hợp

Phương pháp này được sử dụng hầu hết trong toàn bộ các chương của

luận văn và tập trung nhất trong chương 1 trong việc trình bày các khái niệm

cơ bản về áp dụng pháp luật đối với biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc.

+ Phương pháp so sánh, liệt kê được sử dụng làm sáng tỏ những khác

biệt của vấn đề từ đó rút ra được những ưu điểm, hạn chế, bất cập, phương

pháp này được sử dụng trong chương 2 nhằm khái quát hóa thực trạng pháp

luật về áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc.

+ Phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn: Được sử dụng trong việc

hoàn thiện khung pháp lý để việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc hiệu quả hơn, phương pháp này được sử dụng chủ

yếu ở chương 2.

5

+ Phương pháp phân tích vụ việc điển hình được sử dụng thông qua việc

đưa ra các vụ việc trên thực tế minh chứng cho việc áp dụng biện pháp đưa

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thể hiện ở Chương 2 của luận văn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Về ý nghĩa lý luận: Luận văn làm rõ các vấn đề liên quan đến quá trình

áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại

huyện Long Thành thông qua việc dẫn chứng các quy phạm pháp luật hiện

hành quy định về biện pháp này, từ đó góp phần làm rõ lý luận khoa học cơ

sở pháp lý về biện pháp trên đồng thời có những đóng góp cụ thể góp một

phần nhỏ vào việc hoàn thiện về khoa học pháp lý chuyên ngành.

Về ý nghĩa thực tiễn: Luận văn cung cấp các luận điểm có giá trị tham

khảo trong việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định pháp luật để đảm

bảo việc áp dụng pháp luật đối với biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc hiệu quả hơn; đồng thời có thể làm tài liệu tham khảo cho

các đối tượng quan tâm đến Biện pháp trên.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của

luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý về áp dụng biện pháp đưa

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Chương 2: Thực trạng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.

Chương 3: Quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm áp

dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại huyện

Long Thành, tỉnh Đồng Nai.

6

CHƢƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ ÁP

DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƢA VÀO CƠ SỞ CAI

NGHIỆN BẮT BUỘC

1.1. Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc áp dụng biện pháp xử lý hành

chính đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

1.1.1. Khái niệm biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc.

Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là một trong bốn biện pháp

xử lý hành chính. Cùng với biện pháp giáo dục tại phường, xã, thị trấn; đưa

vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, biện pháp đưa vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc được áp dụng đối với cá nhân vi phạm pháp luật về

an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà không phải là tội phạm [11, khoản 3 Điều

2].

Về mặt nội dung, biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được quy

định lần đầu tiên ở Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 (Điều 20

và Điều 24); tuy nhiên ở Pháp lệnh này và các văn bản pháp luật trước Luật

xử lý vi phạm hành chính năm 2012 biện pháp có tên là đưa vào cơ sở chữa

bệnh áp dụng với hai đối tượng là người nghiện ma túy và người bán dâm với

điều kiện về độ tuổi nhất định.

Về mặt hình thức, như trên đã trình bày trước Luật năm 2012, không sử

dụng tên gọi “đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc” mà sử dụng tên gọi “đưa

vào cơ sở chữa bệnh”. Đến Luật XLVPHC năm 2012, tên gọi “biện pháp đưa

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc” được quy định chính thức tại Điều 95 “Đưa

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là biện pháp xử lý hành chính áp dụng đối với

người có hành vi vi phạm quy định tại Điều 96 của Luật này để chữa bệnh,

lao động, học văn hóa, học nghề dưới sự quản lý của cơ sở cai nghiện bắt

buộc”. Như vậy, đối tượng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc chỉ còn là

người nghiện ma túy, còn người bán dâm không là đối tượng của biện pháp

7

này bởi lẽ mại dâm không còn được coi là “bệnh” mà là một vấn đề xã hội

nên chỉ là đối tượng của xử lý hành chính. Mục đích của biện pháp đưa vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc là chữa bệnh, giáo dục tư tưởng cho người bị

nghiện nên biện pháp này có tính cưỡng chế chế cao khi nội dung của nó là

tước bỏ một số quyền nhân thân của người bị áp dụng trong một thời gian.

Người bị nghiện sẽ phải sinh sống, học tập, lao động, dưới sự quản lý nghiêm

ngặt, điều này đã hạn chế một phần quyền con người khi áp dụng biện pháp

nên biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được xem là biện pháp xử lý

hành chính nghiêm khắc nhất.

1.1.2. Đặc điểm biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc.

Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là một biện pháp xử lý

hành chính đặc biệt nhằm ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật; biện

pháp này có những đặc điểm sau:

Thứ nhất, biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là biện pháp có

tính cưỡng chế hành chính nhà nước; biện pháp này do cơ quan có thẩm

quyền thi hành bằng cưỡng chế nhà nước, từ giai đoạn lập hồ sơ đến giai đoạn

xem xét, đề nghị và giai đoạn áp dụng biện pháp trên là do các cơ quan có

thẩm quyền thực hiện như công an xã, phòng Lao động thương binh xã hội và

Tòa án nhân dân cấp huyện và chỉ có những cơ quan được pháp luật quy định

mới được quyền áp dụng biện pháp này. Biện pháp xử lý hành chính đưa vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc có tính pháp lý, bởi lẽ nó được quy định trong các

văn bản pháp quy như Luật của Quốc hội, Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ

Quốc hội, Nghị định của Chính Phủ… Tính cưỡng chế còn được thể hiện ở

hiện ở chỗ biện pháp này mang tính bắt buộc thực hiện đối với người bị áp

dụng, đây cũng là biện pháp cưỡng chế mang tính nghiêm khắc nhất trong

bốn biện biện pháp xử lý hành chính vì nó hạn chế quyền tự do nhân thân của

người bị áp dụng trong một khoảng thời gian nhất định.

8

Thứ hai là biện pháp chỉ áp dụng đối với cá nhân; đối tượng bị áp dụng

biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là cá nhân

(người nghiện ma túy từ 18 tuổi trở lên và có điều kiện như Điều 96 Luật

2012), vì bản chất của biện pháp này là hạn chế quyền tự do của đối tượng

trong một thời gian nhất định. Biện pháp này chỉ áp dụng đối với cá nhân mà

không áp dụng đối với tổ chức như các biện pháp xử phạt hành chính. Một

lưu ý, đối với trường hợp cá nhân thì phải là công dân Việt Nam, còn người

nước ngoài vi phạm tại lãnh thổ Việt Nam thì theo quy định tại khoản 7 Điều

21 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2013 về quy định xử

phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng,

chống tệ nạn xã hội; cháy, phòng và chữa; phòng, chống bạo lực gia đình thì

tùy theo mức độ vi phạm có thể bị áp dụng hình thức xử phạt trục xuất khỏi

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Thứ ba, đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là người nghiện ma túy; cụ thể là người nghiện

ma tuý từ đủ 18 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường,

thị trấn mà vẫn còn nghiện hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không

có nơi cư trú nhất định. Việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc đối với nhóm đối tượng trên là một giải pháp để phòng ngừa những

hành vi nguy hiểm cho xã hội.

Thứ tư, trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp này rất chặt chẽ; bản chất của

biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là hạn chế quyền tự do của đối

tượng bị áp dụng cho nên đối với việc áp dụng biện pháp này về trình tự, thủ

tục đã được quy định tương đối chặt chẽ; điều này đảm bảo hạn chế vi phạm

các quyền con người trong quá trình áp dụng của các cơ quan có thẩm quyền.

1.1.3. Nguyên tắc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc.

9

Nguyên tắc là những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo làm nền tảng tư tưởng

cho tổ chức và hoạt động quản lý nhà nước. Về bản chất, biện pháp xử lý

hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là biện pháp cưỡng chế hành

chính đặc biệt, do vậy quá trình xem xét, áp dụng cần tuân thủ một số nguyên

tắc dưới đây:

Một là cá nhân chỉ bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc nếu thuộc đối tượng được quy định tại Điều 96 Luật

XLVPHC năm 2012. Điều này thể hiện chỉ khi một người có hành vi sử dụng

trái phép chất ma túy thỏa mãn các điều kiện được quy định tại Điều 96 thì

mới bị áp dụng biện pháp trên. Tuân thủ nguyên tắc này sẽ giúp các cơ quan

có thẩm quyền dễ dàng xác định được đối tượng áp dụng của biện pháp, hạn

chế sự tùy tiện áp dụng và hạn chế được việc xâm phạm các quyền cơ bản của

công dân.

Hai là áp dụng nhanh chóng, công khai, khách quan, đúng thẩm quyền,

đúng quy định của pháp luật; mục đích của nguyên tắc là để việc áp dụng biện

pháp một cách thống nhất, đúng trình tự thủ tục. Việc tuân thủ nguyên tắc này

sẽ giúp cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ việc nhanh chóng, tránh việc kéo

dài ảnh hưởng đến quyền lợi của công dân cũng như hạn chế tình trạng ban

hành quyết định không đúng, không có căn cứ pháp luật. Áp dụng biện pháp

xử lý hành chính được hiểu là toàn bộ quá trình lập hồ sơ, xem xét hồ sơ vụ

việc và ra quyết định áp dụng. Yêu cầu “nhanh chóng” đòi hỏi mọi hoạt động

từ lúc lập hồ sơ đến giai đoạn tư vấn, xem xét, đề nghị và áp dụng đều phải

tiến hành nhanh, trong hoặc trước thời hạn luật định; điều này đòi hỏi, mỗi

chủ thể với thẩm quyền riêng phải nhanh chóng hoàn thành được nhiệm vụ

được phân công. Yêu cầu “công khai” là việc đảm bảo cho quá trình xem xét,

áp dụng có của những người tham gia tiến hành việc xem xét, áp dụng và đối

tượng bị áp dụng; việc xác minh, thu thập chứng cứ phải tiến hành công khai.

Yêu cầu “khách quan” đòi hỏi các chứng cứ trong hồ sơ phải được xem xét

10

một cách toàn diện, đầy đủ; đồng thời việc áp dụng biện pháp phải trên cơ sở

vô tư, không thiên vị, không vì vụ lợi cá nhân. Đúng thẩm quyền là việc các

cơ quan đã được pháp luật quy định tham gia vào quá trình xây dựng hồ sơ và

áp dụng biện pháp thì chỉ được làm những gì pháp luật quy định về thẩm

quyền của mình. Bảo đảm công bằng là làm sao cho thời hạn đối tượng bị áp

dụng biện pháp phải tương xứng với tính chất, mức độ vi phạm. Đúng quy

định của pháp luật là việc xử lý đúng hành vi, áp dụng đúng quy định của

pháp luật và đúng trình tự thủ tục luật định. Đảm bảo được nguyên tắc này khi

áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là một nguyên tắc mang

tính “bắt buộc”, bởi lẽ bản chất của biện pháp này là hạn chế quyền tự do,

danh sự, nhân phẩm của công dân, vì thế, trong quá trình giải quyết đòi hỏi

các cơ quan chức năng phải thận trọng, khách quan, công bằng, phù hợp với

các chủ trương, chính sách cải cách của Đảng và Nhà nước; với luật pháp

quốc tế, đặc biệt là các công ước quốc tế về quyền con người.

Ba là, việc quyết định thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, nhân

thân người vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng. Nguyên tắc này

đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền phải đánh giá được tính chất, mức độ nguy

hiểm cho xã hội của hành vi mà đối tượng thực hiện, xác định hành vi ấy là vi

phạm hành chính hay hình sự để có chế tài xử lý, tránh gây oan sai. Đặc điểm

nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đều được quy định trong pháp

luật hành chính; những đặc điểm trên có ảnh hưởng đến khả năng cải tạo, giáo

dục, vì thế, khi áp dụng các cơ quan có thẩm quyền phải xem xét để áp dụng,

tránh tình trạng đối tượng có nhân thân tốt, vi phạm lần đầu lại được áp dụng

thời hạn như người có nhân thân xấu, có nhiều tình tiết tăng nặng.

Bốn là người có thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính có

trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính. Cá nhân bị áp dụng biện pháp

xử lý hành chính có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp

11

chứng minh mình không vi phạm hành chính. Trên thực tế, không ít những

trường hợp xem xét, quyết định áp dụng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

còn có sự chủ quan, áp đặt của chủ thể có thẩm quyền; việc xem xét thường

chủ yếu dựa vào hồ sơ, chứng cứ do cơ quan có thẩm quyền thu thập, xây

dựng. Tuy nhiên, trong trường hợp hồ sơ được xây dựng không đảm bảo tính

khách quan, công bằng, không có căn cứ pháp lý rõ ràng thì quyết định áp

dụng biện pháp của cơ quan có thẩm quyền (Tòa án) sẽ không đúng và xâm

phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Với nguyên tắc này, tính

dân chủ, bình đẳng trong mối quan hệ pháp luật giữa một bên là chủ thể nhân

danh Nhà nước, một bên là công dân có hành vi vi phạm. Trách nhiệm chứng

minh hành vi vi phạm thuộc về Nhà nước, tránh tình trạng các chủ thể có

thẩm quyền dùng quyền lực để áp đặt lên đối tượng.

1.2. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc.

Các biện pháp xử lý hành chính có vai trò rất to lớn trong việc giáo dục,

cảm hóa, chữa bệnh và tạo điều kiện cho người vi phạm pháp luật trở thành

công dân lương thiện, có ích cho xã hội, góp phần ổn định an ninh, trật tự, an

toàn xã hội.

Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có mục đích sau:

Thứ nhất, giáo dục tư tưởng người bị nghiện, chữa bệnh cho các đối

tượng để họ được lao động, học văn hóa trong cơ sở cai nghiện. Có thể nói

đây là mục đích quan trọng đầu tiên của biện pháp này; bắt nguồn từ tính

nhân đạo sâu sắc của pháp luật nước ta. Các đối tượng bị áp dụng biện pháp

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc sẽ được cai nghiện ma túy, được học văn

hóa và được giáo dục ý thức chấp hành pháp luật. Mục đích giáo dục còn ở

chỗ cảm hóa, giáo dục về đạo đức, tư tưởng, lối sống cũng như phục hồi sức

khỏe tạo điều kiện để họ trở thành công dân có ích và sớm tái hòa nhập cộng

đồng.

12

Thứ hai, nhằm trừng phạt đối với người vi phạm; bản chất của biện pháp

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là hạn chế quyền tự do cá nhân của đối

tượng bị áp dụng trong một thời gian nhất định. Vì thế, chủ thể bị nghiện thỏa

mãn các điều kiện tại Điều 96 Luật XLVPHC năm 2012 thì họ phải gánh chịu

hậu quả bất lợi là hạn chế một phần quyền tự do và chịu sự quản lý, giám sát

của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.

Thứ ba, nhằm mục đích phòng ngừa khả năng tái phạm ở các đối tượng

bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Đối với mục đích

phòng ngừa, ở đây tác giả đề cập đến cả mục đích phòng ngừa chung và

phòng ngừa riêng. Khi áp dụng biện pháp trên sẽ cách ly người vi phạm ra

khỏi xã hội một thời gian, sẽ tác động tới ý thức của những chủ thể khác trong

xã hội, răn đe các chủ thể khác khi có ý định thực hiện hành vi vi phạm; mặt

khác, đối với đối tượng bị áp dụng sẽ hạn chế được việc họ tái phạm vì đã bị

cách ly ra khỏi xã hội một thời gian và được giáo dục về ý thức chấp hành

pháp luật.

1.3. Đối tƣợng, thời hiệu, thời hạn, thẩm quyền áp dụng biện pháp

xử lý hành chính đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

1.3.1. Đối tượng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc.

Đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được

quy định cụ thể tại Điều 96 Luật năm 2012, Điều 3 Nghị định số

221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013. Như vậy, đối tượng áp dụng là người

nghiện ma túy thỏa mãn các điều kiện quy định. Theo đó, đối tượng áp dụng

biện pháp trên được phân thành hai nhóm sau:

Nhóm thứ nhất là người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên có nơi cư trú

ổn định, đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại phường, xã, thị trấn do nghiện

ma túy mà vẫn còn nghiện.

13

Nhóm thứ hai là người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên chưa bị áp

dụng biện pháp giáo dục tại phường, xã, thị trấn do nghiện ma túy nhưng

không có nơi cư trú ổn định.

Theo quy định tại Điều 1 Nghị định số 136/2016/NĐ-CP ngày 09/9/2016

thì đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được cụ

thể hóa hơn rất nhiều, nhằm tạo điều kiện cho quá trình áp dụng của cơ quan

có thẩm quyền, cụ thể như sau:

1. Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên, có nơi cư trú ổn định,

trong thời hạn 02 năm kể từ ngày chấp hành xong quyết định áp dụng biện

pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy hoặc trong thời hạn

01 năm kể từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định áp dụng biện pháp giáo

dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy mà vẫn còn nghiện.

2. Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên, có nơi cư trú ổn định, bị

chấm dứt thi hành quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma

túy.

3. Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên, không có nơi cư trú ổn

định.

Theo quy định tại khoản 16 Điều 2 Luật XLVPHC năm 2012 thì người

nghiện ma túy được hiểu là “người sử dụng chất ma túy, thuốc gây

nghiện,thuốc hướng thần và bị lệ thuộc vào các chất này”; còn theo Tổ chức y

tế thế giới (WHO), nghiện ma túy là tình trạng lệ thuộc về mặt tâm thần hoặc

thể chất hoặc cả hai khi một người sử dụng ma túy lặp đi lặp lại theo chu kỳ

hoăch dùng kéo dài liên tục kéo dài một thứ ma túy. Tình trạng lệ thuộc này

làm thay đổi cách cư xử, bắt buộc đương sự luôn cảm thấy bức bách phải

dùng ma túy để thoát khỏi sự vật vã, khó chịu do thiếu ma túy [5, tr 537]; điều

này có nghĩa, nghiện ma túy là một bệnh lý. Người nghiện trong xã hội thuộc

nhiều thành phần và nhiều độ tuổi khác nhau; tuy nhiên, người nghiện ma túy

là đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là những

14

người từ đủ 18 tuổi trở lên. Luật XLVPHC quy định thêm ngoài yếu tố về độ

tuổi phải dựa vào yếu tố đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị

trấn và có nơi cư trú ổn định; hoặc trường hợp chưa bị áp dụng biện pháp giáo

dục tại xã, phường, thị trấn nhưng không có nơi cư trú ổn định. Theo quy định

tại Nghị định 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 quy định chế độ áp dụng

biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc của Chính phủ thì “nơi

cư trú ổn định là nơi người vi phạm thường trú hoặc tạm trú, nhưng phải là

nơi người đó hiện đang thường xuyên sinh sống”. Nghị định 221/2013/NĐ-

CP đã xác định nơi cư trú ổn định phù hợp với Luật cư trú năm 2006, sửa đổi,

bổ sung năm 2013 là dựa vào hai tiêu chí: 1. Nơi đăng ký thường trú hoặc tạm

trú và 2. Nơi thường xuyên sinh sống. Như vậy, để được xem là có nơi cư trú

ổn định thì phải thỏa mãn cả hai điều kiện trên, nếu thiếu một trong hai thì

được xem như không có nơi cư trú ổn định dẫn đến việc có thể bị áp dụng

biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc mặc dù chưa bị áp dụng

biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.

Điều 96 Luật XLVPHC năm 2012 còn quy định những trường hợp

không áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với các

trường hợp sau đây:

Thứ nhất, người không có năng lực trách nhiệm hành chính;

Thứ hai, người đang mang thai có chứng nhận của bệnh viện;

Thứ ba, phụ nữ hoặc người duy nhất đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng

tuổi được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận.

Điều này thể hiện tính nhân văn và mục đích nhân đạo của pháp luật;

mặc dù, các đối tượng này không bị cách ly ra khỏi xã hội nhưng vẫn phải

chịu sự quản lý nghiêm ngặt của cơ quan có chức năng tại địa phương.

Ngoài ra, Điều 5 Nghị định 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 của

Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc quy định các trường hợp không lập hồ sơ đề nghị áp dụng

15

biện pháp trên, ngoài các trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 96 Luật

XLVPHC năm 2012 thì còn có các trường hợp sau:

1. Người đang tham gia chương trình cai nghiện ma túy tại cộng đồng

theo quy định tại khoản 3 Điều 16 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày

19/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành

Luật xử lý vi phạm hành chính.

2. Người đang tham gia điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện được quy

định tại khoản 2 Điều 3 Nghị định số 96/2012/NĐ-CP ngày 15/11/2012 của

Chính phủ quy định về điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc

thay thế.

Nhà nước luôn khuyến khích người nghiện cai nghiện tại gia đình hoặc

cộng đồng vì nếu cai nghiện tại đây giúp người nghiện có cảm giác gần gũi,

thường xuyên được động viên được động viên, hỗ trợ kịp thời khi người

nghiện lên cơn, giúp người nghiện có nghị lực để vượt qua; hoặc các trường

hợp đang được điều trị nghiện chất dạng thuộc phiện. Chính vì vậy, pháp luật

quy định không lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc đối với những đối tượng trên, nghĩa là không áp dụng biện pháp đối

với các đối tượng đã nêu. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp trên thực tế người

nghiện đã cai nghiện tại gia đình, cộng đồng nhưng vẫn còn nghiện, đối với

những trường hợp này các cơ quan có thẩm quyền vướng mắc, không biết xử

lý như thế nảo; vì thế, tại khoản 2 Điều 2 Nghị định 136/2016/NĐ-CP ngày

09 tháng 9 năm 2016 đã bãi bỏ quy định tại Điều 5 của Nghị định

221/2013/NĐ-CP.

1.3.2. Thời hiệu, thời hạn áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Thời hiệu, thời hạn là nội dung quan trọng trong pháp luật xử lý vi phạm

hành chính, là cơ sở pháp lý vững chắc bảo đảm công tác xử lý vi phạm hành

chính được tiến hành nhanh chóng, công minh, triệt để.

16

Với ý nghĩa đó, pháp luật xử lý vi phạm hành chính quy định về thời

hiệu, thời hạn của biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc như sau:

- Thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Thời hiệu là thời hạn do pháp luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó

chủ thể được miễn trừ thực hiện nghĩa vụ trách nhiệm hành chính [1, tr 23].

Thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được quy

định tại điểm d khoản 2 Điều 6 Luật XLVPHC năm 2012, theo đó, thời hiệu

áp dụng của biện pháp này là 03 tháng, kể từ ngày cá nhân thực hiện lần cuối

hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 96 luật này. Tuy nhiên, trong luật

lại không giải thích rõ là hành vi vi phạm gì. Để làm rõ vấn đề này, Điều 4

Nghị định 221/2013/NĐ-CP quy định “Thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc là 03 tháng, kể từ ngày cá nhân thực hiện hành vi

sử dụng ma túy trái phép lần cuối bị phát hiện và lập biên bản theo quy định

tại Điều 8 của Nghị định này”. Mặc dù, Nghị định 221/2013/NĐ-CP đã quy

định rõ hành vi vi phạm là hành vi sử dụng ma tuý trái phép nhưng vẫn chưa

chỉ ra được mốc cuối cùng của thời điểm 03 tháng quy định trong thời hiệu là

lúc nào. Để khắc phục vấn đề này, khoản 1 Điều 9 Nghị quyết số

04/2015/NQ-HĐTP ngày 24/12/2015 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân

dân Tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của pháp luật về xem xét,

quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân quy

định “ thời hiệu áp dụng biện pháp xử lý hành chính được tính từ ngày cá

nhân thực hiện hành vi vi phạm quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 92 hoặc

kể từ ngày cá nhân thực hiện lần cuối một trong những hành vi vi phạm quy

định tại khoản 4 Điều 92; khoản 1 Điều 94 hoặc khoản 1 Điều 96 của Luật xử

lý vi phạm hành chính cho đến ngày Tòa án ra quyết định áp dụng biện pháp

xử lý hành chính”. Việc quy định thời hiệu ngắn nhằm tránh kéo dài thời gian

xử lý vi phạm dẫn đến không đảm bảo được tính răn đe, giáo dục.

- Thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

17

Thời hạn là một khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến

một thời điểm khác [12, Điều 44]. Tại khoản 2 Điều 95 Luật XLVPHC năm

2012 quy định “Thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc là 12 đến 24 tháng”; việc quy định thời hạn áp dụng như trên là hoàn

toàn hợp lý, mặc dù, thực tế nhiều năm áp dụng cho thấy hiệu quả mà nó

mang lại chưa cao, bởi lẽ, việc đưa các đối tượng vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc góp phần ổn định an ninh, trật tự xã hội. Tuy nhiên, mục đích chữa

bệnh, giúp họ tái hòa nhập cộng đồng dễ hơn lại chưa đạt hiệu quả cao, tỷ lệ

tái nghiện sau khi đi cai nghiện còn cao, mặt khác, cơ sở vật chất, trang thiết

bị của các cơ sở cai nghiện còn hạn chế, chưa chú trọng đến các chương trình

tái hòa nhập cộng đồng nên áp dụng thời hạn trên là đủ sức răn đe, giáo dục

các đối tượng.

1.3.3. Thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Trong giai đoạn hội nhập và phát triển, việc quy định chế tài cho những

đối tượng có hành vi buôn bán, tàng trữ và những người nghiện ma túy được

cụ thể hóa rõ ràng. Việc phân định thẩm quyền xử lý của các cơ quan trong

quá trình áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc là một vấn đề hết sức quan trọng; các cơ quan có thực hiện đúng, đầy đủ

nhiệm vụ của mình trong một trình tự, thủ tục chung thì quyết định áp dụng

mới đúng quy định của pháp luật được. Thẩm quyền trong từng giai đoạn của

trự, thủ tục được cụ thể hóa như sau:

1.3.3.1. Thẩm quyền lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành

chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Thẩm quyền lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc được quy định tại Điều 103 Luật XLVPHC năm 2012, theo

đó, đối với người nghiện ma túy có nơi cư trú ổn định thì Chủ tịch Ủy ban

nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa

18

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Đối với những người nghiện ma túy không cư

trú tại nơi người đó có hành vi vi phạm pháp luật thì Chủ tịch ủy ban nhân

dân cấp xã phải xác minh; trường hợp xác định được nơi cư trú thì chuyển

người đó kèm theo biên bản vi phạm về địa phương để xử lý; trường hợp

không xác định được nơi cư trú của người đó thì lập hồ sơ để áp dụng biện

pháp trên. Công an xã giúp Chủ tịch thu thập tài liệu, lập hồ sơ.

Để tránh việc đối tượng bỏ trốn hoặc tiếp tục có hành vi vi phạm pháp

luật trong thời gian lập hồ sơ, Điều 131 Luật XLVPHC năm 2012 quy định

Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã nơi lập hồ sơ quyết định giao cho gia đình

hoặc tổ chức xã hội quản lý.

Quy định buộc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã xác minh nơi cư trú của

đối tượng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công tác xử lý, công tác quản lý

sau khi đối tượng chấp hành xong quyết định, giảm bớt gánh nặng cho ngân

sách của địa phương nơi đối tượng thực hiện hành vi vi phạm.

Trường hợp người nghiện ma túy vi phạm do cơ quan Công an cấp

huyện hoặc cơ quan cấp tỉnh trực tiếp phát hiện, điều tra, thụ lý trong các vụ

vi phạm pháp luật mà thuộc đối tượng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo

quy định tại Điều 96 của Luật này thì cơ quan Công an đang thụ lý vụ việc

tiến hành xác minh, thu thập tài liệu vầ lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp

cai nghiện bắt buộc đối với người đó [11, khoản 2 Điều 103]. Như vậy, ngoài

Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã thì cơ quan công an cấp huyện, công an cấp

tỉnh cũng có thẩm quyền lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc.

1.3.3.2. Thẩm quyền đề nghị xem xét, áp dụng biện pháp xử lý hành

chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Theo quy định của pháp luật xử lý vi phạm hành chính thì cơ quan có

thẩm quyền đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là

Phòng lao động - Thương binh và Xã hội cùng cấp.

19

Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị áp dụng

biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, Trưởng phòng tư pháp cấp

huyện có trách nhiệm kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ gửi Trưởng phòng lao

động thương binh xã hội. Việc kiểm tra phải có kết quả bằng văn bản lưu

trong hồ sơ.

Có ý kiến cho rằng Luật XLVPHC không quy định hồ sơ phải có ý kiến

của Ủy ban Mặt trận tổ quốc và các tổ chức xã hội cùng cấp có liên quan là

không đảm bảo tính pháp lý của hồ sơ dễ vi phạm quyền công dân. Tuy nhiên,

việc Luật XLVPHC không quy định hồ sơ phải có ý kiến của Ủy ban Mặt trận

tổ quốc và các tổ chức xã hội cùng cấp cũng có lý do vì trong thực tế, ý kiến

của các cơ quan này cũng chỉ được thu thập mang tính hình thức, chỉ để hồ sơ

đủ các loại giấy tờ theo quy định của pháp luật. Việc kiểm tra tính pháp lý

thuộc thẩm quyền của Trường phòng tư pháp cấp huyện, tất nhiên, việc kiểm

tra này nhiều khi cũng có sai sót nhưng không cần thiết “khai sinh” thêm một

số tổ chức có thẩm quyền kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ [6, tr 569-570].

Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị của Trưởng

phòng tư pháp, Trưởng phòng Lao động – Thương binh và xã hội phải có văn

bản đề nghị xem xét, áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Như vậy trách nhiệm của Trưởng phòng Lao động – Thương binh và xã hội

phải đối chiếu hồ sơ đề nghị với nội dung văn bản kiểm tra tính pháp lý để từ

đó đưa ra quyết định có hay không việc đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ

sở cai nghiện bắt buộc đối với người bị nghiện.

1.3.3.3. Thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Pháp luật xử lý hành chính quy định Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm

quyền quyết định áp dụng các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào

cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc [11, khoản 2 Điều

105]. Như vậy, thẩm quyền quyết định áp dụng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt

20

buộc thuộc về Tòa án nhân dân cấp huyện nơi cơ quan đề nghị có trụ sở. Việc

chuyển quyền quyết định đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ

Ủy ban nhân dân cấp huyện sang Tòa án nhân dân cấp huyện là một bước

chuyển cơ bản từ các quyết định mang tính thủ tục hành chính sang việc thụ

lý, xem xét và phán quyết của một cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Bằng

con đường “tư pháp hóa” việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc. Đây thực chất là quá trình chuyển từ cơ chế xử lý hành chính sang cơ

chế xử lý theo trình tự tố tụng. Với cơ chế này, người áp dụng biện pháp đưa

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có cơ hội để thực hiện quyền được tự bảo vệ

hoặc nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình [6, tr 572]. Hơn

nữa sự chuyển giao quyền đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ

Ủy ban nhân dân cấp huyện sang Tòa án nhân dân cấp huyện. Luật XLVPHC

năm 2012, đã nâng cao hơn việc bảo đảm quyền con người trong quá trình

xem xét, quyết định đưa hay không đưa một người nghiện ma túy vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc thông qua các bước thụ lý hồ sơ và họp xét quyết định

chính thức theo đề nghị của các cơ quan chức năng.

1.4. Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đƣa vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Trình tự là sự sắp xếp lần lượt, thứ tự trước sau theo diễn biến thời gian

rõ rành; thủ tục là những việc cụ thể phải làm theo một trật tự quy định, để

tiến hành một công việc có tính chất chính thức [4, tr531; 545]. Trình tự, thủ

tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là

hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền được thực hiện theo từng bước cụ

thể trong khoảng thời gian giới hạn được quy định trong các văn bản pháp

luật hiện hành.

Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

được thực hiện theo Điều 103, Điều 104 Luật XLVPHC năm 2012, Nghị định

số 221/2012/NĐ-CP quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa

21

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; Nghị định số 136/2016/NĐ-CP sửa đổi bổ

sung Nghị định số 221/2013/NĐ-CP; Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH13

ngày 20/01/2014 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định trình tự, thủ tục

xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân

dân.

Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

được chia làm ba giai đoạn, cụ thể như sau:

Giai đoạn 1. Giai đoạn lâp hồ sơ, như trên đã phân tích, chủ thể có thẩm

quyền lập hồ sơ và Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, công an xã có trách

nhiệm giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp thu thập các tài liệu và lập hồ

sơ đề nghị. Hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc gồm có:

1. Đối với người nghiện ma túy có nơi cư trú ổn định:

a) Bản tóm tắt lý lịch của người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc;

b) Bản tường trình của người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ

sở cai nghiện bắt buộc hoặc người đại diện hợp pháp của họ;

c) Biên bản vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma

túy hoặc phiếu xét nghiệm có kết quả dương tính với chất ma túy tại thời điểm

lập hồ sơ;

d) Bản sao giấy chứng nhận đã chấp hành xong quyết định giáo dục tại

xã, phường, thị trấn đối với trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 3 Nghị

định này hoặc bản sao Quyết định chấm dứt thi hành quyết định giáo dục tại

xã, phường, thị trấn đối với trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 3 Nghị

định này.

2. Đối với người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định:

a) Tài liệu quy định tại Điểm a, Điểm b, Điểm c Khoản 1 Điều này;

22

b) Phiếu trả lời kết quả của người có thẩm quyền quy định tại Khoản 1

Điều 10 Nghị định này về tình trạng nghiện ma túy hiện tại của người bị đề

nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;

c) Tài liệu xác định người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định [3,

Điều 1].

Đối với các tài liệu, chứng cứ cần thu thập trong hồ sơ, đáng chú ý là

phiếu kết quả xét nghiệm dương tính với chất ma túy tại thời điểm lập hồ sơ.

Theo quy định của pháp luật thì người có thẩm quyền xác định tình trạng

nghiện ma túy là bác sỹ, y sĩ, được cấp chứng nhận hoặc chứng chỉ tập huấn

về chẩn đoán, điều trị cắt cơn nghiện ma túy do các cơ quan, tổ chức được Bộ

Y tế giao tổ chức tập huấn và cấp chứng chỉ, đang làm việc tại: Các cơ sở y tế

quân y, y tế quân dân y; các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của ngành công an;

phòng y tế của cơ sở cai nghiện bắt buộc; phòng y tế của các cơ sở có chức

năng tiếp nhận, quản lý người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định,

trong thời gian lập hồ sơ để Tòa án nhân dân xem xét quyết định đưa vào cơ

sở cai nghiện bắt buộc; trạm y tế xã, phường, thị trấn; phòng khám đa khoa

khu vực; bệnh viện cấp huyện trở lên và bệnh viện thuộc các bộ, ngành khác.

Đây là nhóm người có nghĩa vụ phải xác định chính xác các đối tượng bị

nghiện và mức độ nghiện thông qua chuyên môn, nghiệp vụ đã đào tạo trước

đó. Người có thẩm quyền xác định người nghiện ma túy phải chịu trách

nhiệm về việc xác định của mình trước pháp luật.

Vấn đề xác định tình trạng nghiện ma túy là một trong những khó khăn

cần được khắc phục: Theo điểm b khoản 1 Điều 9 Nghị định số

221/2013/NĐ-CP quy định thành phần hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý

hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là phải có phiếu trả lời kết quả

của người có thẩm quyền về tình trạng nghiện ma túy tại thời điểm bị phát

hiện hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

23

Tại Điều 5 Thông tư liên tịch số 17/2015/TTLT-BYT-BLĐTBXH-BCA

của Bộ Y tế - Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội – Bộ Công an quy định

về quy trình xác định tình trạng nghiện ma túy, theo đó, người có thẩm quyền

thực hiện việc xác định tình trạng nghiện ma túy theo quy trình sau:

1. Tiếp nhận người cần xác định tình trạng nghiện ma túy và tài liệu quy

định tại Điều 4 Thông tư liên tịch này.

2. Tiến hành ngay việc xác định tình trạng nghiện ma túy

a) Tiêu chuẩn xác định nghiện ma túy nhóm Opiats

Người được xác định là nghiện ma túy nhóm Opiats thuộc một trong các

trường hợp sau đây:

- Xét nghiệm dương tính với ma túy nhóm Opiats và đã bị áp dụng biện

pháp xử lý hành chính về nghiện ma túy;

- Xét nghiệm dương tính với ma túy nhóm Opiats và đã bị xử phạt hành

chính về hành vi sử dụng ma túy từ 2 lần trở lên;

- Kết quả áp dụng nghiệm pháp Naloxone dương tính (+);

- Xét nghiệm dương tính với ma túy nhóm Opiats và có ít nhất 3 trong

12 triệu chứng của trạng thái cai (theo Phụ lục số 1 ban hành kèm theo Thông

tư liên tịch này).

b) Tiêu chuẩn xác định nghiện ma túy chất dạng Amphetamine

Người được xác định là nghiện ma túy tổng hợp chất dạng Amphetamine

khi có ít nhất 3 trong 6 triệu chứng sau trong 12 tháng vừa qua:

- Có sự thèm muốn mãnh liệt hoặc cảm giác bắt buộc phải sử dụng chất

dạng Amphetamine;

- Khó khăn trong việc kiểm soát các hành vi sử dụng chất dạng

Amphetamine như bắt đầu, chấm dứt hoặc mức độ sử dụng;

- Có trạng thái cai khi ngừng hoặc giảm sử dụng chất dạng

Amphetamine;

- Có hiện tượng tăng dung nạp với chất dạng Amphetamine;

24

- Ngày càng trở nên thờ ơ với các thú vui hoặc sở thích khác;

- Tiếp tục sử dụng chất dạng Amphetamine mặc dù biết rõ về các hậu

quả có hại.

Quá trình theo dõi để xác định tình trạng nghiện ma túy nhóm Opiats

được ghi chép vào phiếu theo dõi về xác định tình trạng nghiện ma túy nhóm

Opiats (các chất dạng thuốc phiện) quy định tại Phụ lục số 1 ban hành kèm

theo Thông tư liên tịch này.

Quá trình theo dõi để xác định tình trạng nghiện ma túy tổng hợp chất

dạng Amphetamine được ghi chép vào phiếu theo dõi về xác định tình trạng

nghiện ma túy tổng hợp chất dạng Amphetamine (ATS) quy định tại Phụ lục

số 2 ban hành kèm theo Thông tư liên tịch này.

3. Ghi kết quả xác định tình trạng nghiện vào Phiếu trả lời kết quả về xác

định tình trạng nghiện ma túy quy định tại Phụ lục số 3 ban hành kèm theo

Thông tư liên tịch này; đồng thời, ghi kết quả vào sổ khám bệnh của cơ sở xác

định tình trạng nghiện ma túy (lưu kết quả xác định tình trạng nghiện ma túy

theo quy định về lưu hồ sơ bệnh án ngoại trú).

Tuy nhiên, thực tế triển khai xác định tình trạng nghiện ở địa phương

cho thấy thông tư mới chỉ quy định được quy trình xác định tình trạng nghiện

đối với hai loại chất ma túy , đó là nhóm OPIATS (chất dạng thuốc phiện) và

ma túy tổng hợp chất dạng AMPHETAMIN (ATS). Đây chỉ là hai loại phổ

biến nhất, trong số rất nhiều loại chất ma túy hiện có trên thực tế. Nhiều loại

chất ma túy không thuộc nhóm OPIATS và nhóm ATS đã được sử dụng ở

nước ta song chưa có sinh phẩm xét nghiệm tìm chất này trong cơ thể người

như chất XRL-11 (Cỏ Mỹ) cũng như hướng dẫn xác định tình trạng nghiện.

Theo quy định tại Thông tư liên tịch số 17/2015/TTLT/BYT-BLĐTBXH-

BCA thì thời gian theo dõi để xác định tình trạng nghiện ma túy đối với nhóm

OPIATS (các chất dạng thuốc phiện) là 03 ngày, nhóm ma túy tổng hợp chất

dạng AMPHETAMINE là 05 ngày; nhưng Luật XLVPHC lại không có quy

25

định về việc tạm giữ người theo thủ tục hành chính trong trường hợp xác định

tình trạng nghiện ma túy nên không thể lưu giữ đối tượng bị đề nghị áp dụng;

Đối với trường hợp thẩm quyền lập hồ sơ đề nghị thuộc cơ quan Công an

cấp huyện hoặc cơ quan Công an cấp tỉnh thì cơ quan đó tiến hành lập biên

bản, xác minh, thu thập tài liệu và lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Hồ sơ đề nghị áp dụng tương tự như hồ sơ đề

nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thuộc thẩm quyền

của Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã.

Sau khi hoàn thành việc lập hồ sơ đề nghị, cơ quan đã lập hồ sơ phải

thông báo cho người bị đề nghị áp dụng hoặc người đại diện của họ về việc

lập hồ sơ. Những người này có quyền đọc hồ sơ và ghi chép các nội dung cần

thiết trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo. Sau khi người

bị áp dụng hoặc người đại diện hợp pháp của họ đọc xong hồ sơ thì hồ sơ

được gửi cho Trưởng phòng Tư pháp cấp huyện. Có thể nói đây là nội dung

rất quan trọng, thể hiện sự hợp lý phù hợp với nguyên tắc công khai, minh

bạch nhằm đảm bảo quyền lợi cho người bị đề nghị áp dụng để họ có những

chuẩn bị cần thiết để bảo vệ quyền lợi của mình trước các cơ quan có thẩm

quyền.

Giai đoạn 2. Giai đoạn xem xét hồ sơ và đề nghị áp dụng

Trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ từ cơ quan lập hồ

sơ đề nghị, Trưởng phòng tư pháp cấp huyện có trách nhiệm kiểm tra tính

pháp lý của hồ sơ. Việc kiểm tra phải được thể hiện bằng văn bản và lưu vào

hồ sơ.

Sau khi nhận được văn bản và hồ sơ từ Trưởng phòng tư pháp gửi qua,

trong thời hạn 07 ngày, Trưởng phòng Lao động-Thương binh và Xã hội đối

chiếu hồ sơ đề nghị theo quy định tại Điều 9 Nghị định này với nội dung văn

bản kiểm tra tính pháp lý của Trưởng phòng tư pháp cấp huyện [2, Điều 12].

26

Trường hợp hồ sơ đầy đủ thì đánh bút lục và lập thành hai bản, bản gốc

chuyển cho Tòa án nhân dân cấp huyện, bản sao lưu tại phòng Lao động –

Thương binh và Xã hội theo quy định của pháp luật về lưu trữ;

Trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ thì có văn bản đề nghị cơ quan lập hồ sơ

bổ sung, trong đó nêu rõ lý do và tài liệu cần bổ sung vào hồ sơ. Trong thời

hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu, cơ quan lập hồ

sơ phải bổ sung các tài liệu theo yêu cầu. Sau thời hạn trên, nếu hồ sơ không

được bổ sung, Trưởng phòng Lao động – Thương binh và xã hội trả lại hồ sơ

cho cơ quan lập hồ sơ đồng thời thông báo bằng văn bản cho Trưởng phòng

Tư pháp và người bị lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc.

Giai đoạn 3. Giai đoạn xem xét để ban hành quyết định áp dụng biện

pháp cai nghiện bắt buộc thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện.

Tòa án nhân dân thực hiện các trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp

dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy

định tại Luật XLVPHC năm 2012 và Pháp lệnh số 09/2013/UBTVQH13 ngày

10/02/2014 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ theo quy định tại

Điều 103 của Luật này, Trưởng phòng lao động – Thương binh và Xã hội cấp

huyện quyết định chuyển hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân cấp huyện áp dụng

biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ

thì phải giao cơ quan đã lập hồ sơ để tiếp tục thu thập thêm tài liệu chứng cứ

[11, khoản 1 Điều 104].

Khi nhận được hồ sơ cơ quan có thẩm quyền chuyển đến, Tòa án trong

thời hạn 01 ngày làm việc phải thụ lý và phân công một Thẩm phán giải

quyết; trường hợp hồ sơ không đủ tài liệu theo quy định của pháp luật thì Tòa

án trả lại hồ sơ và nêu rõ lý do. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án thụ

lý hồ sơ của cơ quan có thẩm quyền, Tòa án phải ra một trong các quyết định

27

quy định tại điểm h khoản 2 Điều 20 của Pháp lệnh này; đối với vụ việc phức

tạp, thời hạn này có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày [15, Điều 7], cụ thể

đó là các quyết định: quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp xử lý

hành chính hoặc đình chỉ, tạm đình chỉ việc xem xét, quyết định áp dụng biện

pháp xử lý hành chính nếu thuộc trường hợp quy định tại Điều 15 của Pháp

lệnh này.

Các trường hợp phải đình chỉ, tạm đình chỉ được quy định tại Điều 15

Pháp lệnh 09/2014/UBTVQH13, cụ thể như sau:

1. Thẩm phán quyết định đình chỉ việc xem xét, quyết định áp dụng biện

pháp xử lý hành chính khi có một trong các căn cứ sau đây:

a) Hết thời hiệu áp dụng biện pháp xử lý hành chính;

b) Người bị đề nghị đã chết;

c) Người bị đề nghị không thuộc đối tượng áp dụng biện pháp xử lý hành

chính quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 92, khoản 1 Điều 94 hoặc

khoản 1 Điều 96 của Luật xử lý vi phạm hành chính;

d) Người bị đề nghị thuộc trường hợp quy định tại khoản 5 Điều 92,

khoản 2 Điều 94 hoặc khoản 2 Điều 96 của Luật xử lý vi phạm hành chính;

đ) Cơ quan đề nghị rút đề nghị;

e) Người bị đề nghị đã có bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã có

hiệu lực pháp luật đối với hành vi bị đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành

chính;

g) Người bị đề nghị đang chấp hành hình phạt tù, đang chờ chấp hành

hình phạt tù hoặc hình phạt tử hình theo bản án, quyết định của Tòa án đã có

hiệu lực pháp luật.

2. Thẩm phán ra quyết định tạm đình chỉ việc xem xét, quyết định áp

dụng biện pháp xử lý hành chính khi có một trong các căn cứ sau đây:

28

a) Hành vi của người bị đề nghị có dấu hiệu tội phạm và Tòa án phải

chuyển hồ sơ cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự xem xét

hoặc người bị đề nghị đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi đó;

b) Khi phát sinh tình tiết mới về tình trạng sức khỏe, tâm thần của người

bị đề nghị và cần yêu cầu cơ quan đề nghị tiến hành trưng cầu giám định;

c) Người bị đề nghị đang bị bệnh hiểm nghèo có xác nhận của bệnh viện

từ cấp huyện trở lên.

Không thuộc một trong các trường hợp trên Thẩm phán ra quyết định

mở phiên họp. Như vậy, thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc bằng phiên họp giải quyết. Việc quy định Tòa án

phải mở phiên họp khi áp dụng biện pháp xử lý hành chính trên với sự tham

gia của các thành phần bắt buộc nhằm đảm bảo tính khách quan và yêu cầu về

tính “tư pháp hóa”. Sau khi nghiên cứu đầy đủ hồ sơ vụ việc, và các cơ quan

hữu quan đã bổ sung tài liệu chứng cứ. Thẩm phán được phân công giải quyết

vụ việc sẽ ra quyết định mở phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp

xử lý hành chính. Theo đó, trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày ra

quyết định mở phiên họp, Toà án phải mở phiên họp xem xét, quyết định áp

dụng biện pháp xử lý hành chính; trong trường hợp có lý do chính đáng thì

Toà án có thể mở phiên họp trong thời hạn 10 ngày. Trong thời hạn 01 ngày

làm việc, kể từ ngày kết thúc phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện

pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, Thẩm phán phải ban hành quyết định

về một trong các vấn đề sau đây: Áp dụng biện pháp xử lý hành chính theo đề

nghị của cơ quan lập hồ sơ đề nghị; không áp dụng biện pháp xử lý hành

chính; Yêu cầu thay đổi biện pháp xử lý hành chính; chuyển hồ sơ cho cơ

quan tiến hành tố tụng hình sự; đình chỉ, tạm đình chỉ việc xem xét, quyết

định áp dụng biện pháp xử lý hành chính. Các quyết định áp dụng, không áp

dụng, đình chỉ, tạm đình chỉ áp dụng biện pháp xử lý hành chính có hiệu lực

kể từ ngày hết thời hạn khiếu nại, kiến nghị.

29

1.5. Các yếu tố ảnh hƣởng đến việc áp dụng biện pháp xử lý hành

chính đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

1.5.1. Yếu tố pháp luật về xử lý hành chính và biện pháp đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc

Các quy định của pháp luật có ảnh hưởng rất lớn tới quá trình áp dụng

biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; là cơ sở để

thực hiện biện pháp này. Việc ban hành pháp luật, một mặt nhằm tạo hành

lang pháp lý cho các chủ thể được giao quyền thực hiện các biện pháp, mặt

khác nhằm răn đe, xử phạt các đối tượng trong khuôn khổ pháp luật quy định.

Khi pháp luật được ban hành rõ ràng, chặt chẽ thì các cơ quan được trao

quyền sẽ dễ dễ dàng áp dụng, không bị động, lúng túng.

Các chính sách phải được cụ thể hóa bằng pháp luật, bằng những văn

bản hành chính hợp pháp, mang tính bắt buộc, cưỡng chế nên phải đảm bảo

được độ chính xác tránh được tình trạng áp dụng “tùy tiện” của các cơ quan

có thẩm quyền.

Biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được xem

là một trong những “chính sách” được ưu tiên trong việc đẩy lùi tệ nạn ma

túy ngoài cộng đồng và để đảm bảo trật tự trị an xã hội. Quy định của pháp

luật về xử lý hành chính và biện pháp trên phải cụ thể , có văn bản hướng dẫn

rõ ràng, phù hợp với tình hình phát triển và tình hình nghiện ma túy của từng

địa phương đồng thời phải đảm bảo được sự thống nhất áp dụng trên phạm vi

toàn quốc. Như vậy mới đảm bảo được việc áp dụng biện pháp xử lý hành

chính đạt hiệu quả cao.

1.5.2. Yếu tố kinh tế

Điều kiện kinh tế có ảnh hưởng rất lớn tới quá trình xây dựng, mở rộng

các cơ sở điều trị nghiện và việc thực hiện thành công biện pháp đưa vào cơ

sở cai nghiện bắt buộc. Những biến đổi về mặt kinh tế như kinh tế tăng

trưởng nhanh trong xu thế hội nhập toàn cầu kéo theo việc các tệ nạn ngày

30

càng gia tăng; chính vì vậy pháp luật hành chính và áp dụng biện pháp xử lý

hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc cũng phải thay đổi cho phù hợp

đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.

Áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

là một quá trình mà khi thực hiện “tốn” rất nhiều ngân sách. Để việc cai

nghiện thành công phụ thuộc vào nhiều yếu tố như về cơ sở vật chất, chất

lượng, số lượng đội ngũ cán bộ cũng như thuốc men và cả ý chí của người

nghiện…. Trong quá trình cai nghiện, các học viên còn được học tập, dạy

nghề để khi tái hòa nhập cộng đồng người nghiện có thể tự làm để nuôi sống

bản thân mình. Vì thế, cần nguồn ngân sách lớn để tránh tình trạng các cơ sở

điều trị nghiện quá tải dẫn đến việc học viên trốn trại, đảm bảo ngân sách để

hoạt động.

1.5.3. Yếu tố tâm lý xã hội

Các quy định của pháp luật về xử lý hành chính đưa ra nhằm tuyên

truyền, răn đe các đối tượng nghiện; đồng thời bảo vệ họ trước tác động của

dư luận. Tâm lý của một bộ phận người dân là e ngại, sợ tiếp xúc với người

nghiện, một bộ phận khác lại có thái độ phản ứng gay gắt với người nghiện

nên ảnh hưởng không nhỏ tới tâm lý của người nghiện và gia đình họ. Chính

vì vậy, các đối tượng nghiện và gia đình họ thường che dấu tình trạng nghiện,

xấu hổ không đi cai nghiện tại các trung tâm dẫn đến việc tình trạng nghiện

ngày càng nặng nề, ảnh hưởng tới tình hình trật tự, trị an tại địa phương.

Từ đó, mà pháp luật về xử lý hành chính có những quy định để khuyến

khích, tạo điều kiện cho nghiện cai nghiện. Việc tuyên truyền, giáo dục

khuyến khích việc đưa người nghiện đi cai nghiện cũng như tuyên truyền để

nhân dân chung tay vào công cuộc vận động người nghiện đi cai nghiện và

giúp đỡ người nghiện để họ tái hòa nhập cộng đồng.

31

Tiểu kết chƣơng 1

Biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có vai trò

quan trọng trong việc đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội và chữa bệnh

cho những người nghiện, giúp họ có thể tái hòa nhập cộng đồng dễ dàng hơn.

Việc hiểu rõ các vấn đề khái quát chung về áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc là làm rõ khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, thời hiệu, thời

hạn, thẩm quyền cũng như trình tự thủ tục áp dụng sẽ là tiền đề cho việc

nghiên cứu, hướng tới hoàn thiện hệ thống pháp luật về biện pháp.

32

CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ

HÀNH CHÍNH ĐƢA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC TẠI

HUYỆN LONG THÀNH THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI.

2.1. Khái quát chung về tình hình nghiện ma túy tại huyện Long

Thành, tỉnh Đồng Nai.

Long Thành là một huyện nằm ở phía nam tỉnh Đồng Nai, về mặt địa lý

huyện nằm ở vị trí trung tâm của vùng kinh tế động lực phía Nam gồm

TP.HCM, Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa-Vũng Tàu, cách Thành phố

60km, Biên Hòa 33km, Vũng Tàu 60km, Bình Dương 40km; phía đông giáp

huyện Cẩm Mỹ và thị xã Long Khánh; phía tây giáp huyện Nhơn Trạch và

quận 9 Thành phố Hồ Chí Minh; phía Bắc giáp thành phố Biên Hòa; phía

Nam giáp huyện Tân Thành (Bà Rịa - Vũng Tàu).

Với hệ thống đường cao tốc và các tuyến đường tỉnh đi qua địa bàn

huyện cùng với các tuyến đường huyện được đầu tư nâng cấp mở rộng và hạ

tầng khu trung tâm hành chính huyện được hoàn chỉnh theo đúng quy hoạch

được duyệt đã tạo thành mạng lưới giao thông đường bộ thuận lợi. Ngoài ra

sự phát triển đồng bộ gồm đường bộ - đường sắt - đường thủy - hàng không

gắn kết với các vùng là lợi thế và động lực thúc đẩy kinh tế trên địa bàn

huyện ngày càng phát triển [17]. Với điều kiện thuận lợi như trên, kinh tế trên

địa bàn huyện ngày càng phát triển kéo theo đó là sự gia tăng của các tệ nạn

xã hội và đáng chú ý nhất là tình trạng nghiện ma túy.

Nghiện ma túy là vấn đề nhức nhối không chỉ trên địa bàn huyện Long

Thành mà còn trên cả nước. Đảng và Nhà nước quan tâm, chỉ đạo các ngành,

các tỉnh thành trong cả nước triển khai đồng bộ các giải pháp và phòng, chống

ma túy trên cả 3 lĩnh vực “giảm cung, giảm cầu và giảm hại”, đã thu được

một số kết quả nhất định song chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế đặt ra. Tệ

nạn ma túy diễn biến ngày càng phức tạp, gia tăng về số lượng, tính chất, mức

độ ngày càng khó kiểm soát hơn. Số vụ cơ quan chức năng bắt giữ về sản

33

xuất, mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy năm sau luôn cao hơn năm

trước. Số người nghiện ma túy liên tục gia tăng: Năm 1995, cả nước có

68.227 người nghiện, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền núi phía Bắc nơi có

đồng bào tập trung trồng và hút thuốc phiện. Năm 2005, nghiện ma túy đã lan

rộng và xuất hiện trên cả nước với số lượng 12.228 người; năm2015 là

200.134 người; đến tháng 6 năm 2016 là 20.334 người; đến tháng 6 năm 2017

là 21.654 người. Nghiện ma túy xuất hiện ở mọi thành phần của xã hội, mọi

lứa tuổi, song chủ yếu ở lớp trẻ, theo khảo sát của Cục phòng chống tệ nạn xã

hội, 76% trong tổng số người nghiện có độ tuổi dưới 35 tuổi; 60% số người

nghiện sử dụng ma túy lần đầu dưới độ tuổi 25, trong đó có 8% sử dụng ma

túy lần đầu ở độ tuổi dưới 18 [14, tr 55]. Tổng số người bị áp dụng biện pháp

xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trên cả nước tăng qua

từng năm, cụ thể theo báo cáo của Bộ tư pháp về công tác thi hành pháp luật

20000

17181

18000

16000

15132

14115

13157

14000

12000

10000

8000

6000

4000

2000

1032

0

2014

2015

2016

2017

2018

về xử lý hành chính như sau:

Biểu đồ 1. Thống kê tình hình áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong cả nước.

34

Nhìn chung, tình hình nghiện ma túy hiện nay đang diễn biến khá phức

tạp, khó kiểm soát và gia tăng mạnh trên địa bàn cả nước. Tại huyện Long

Thành, tỉnh Đồng Nai cũng vậy, số người nghiện, sử dụng ma túy ở ngoài

cộng đồng còn nhiều. Nếu không nhanh chóng đưa các đối tượng này vào cơ

sở cai nghiện bắt buộc thì sẽ gây nên hậu quả khôn lường, ảnh hưởng đến trật

tự, trị an xã hội.

Nhận thấy đây là vấn đề rất nghiêm trọng, công an các xã, thị trấn trên

địa bàn tổ chức nhiều đợt ra quân tuyên truyền phòng, chống ma túy ở các

khu dân cư, trường học, trên địa bàn. Tuy nhiên, tỉ lệ người nghiện vẫn tăng

mạnh qua các năm, cụ thể, theo báo cáo số 27/2018/BC-CA của Công an

huyện Long Thành thể hiện: Tỷ lệ người nghiện năm 2018 tăng 7,3% so với

năm 2017 và tăng 36% so với năm 2014. Các đối tượng nghiện lợi dụng

khách sạn, nhà trọ, khu công nghiệp để mua bán và sử dụng ma túy diễn biến

phức tạp. Địa bàn sử dụng trái phép chất ma túy có xu hướng chuyển từ nơi

hoang vắng sang hoạt động trong các cơ sở lưu trú. Đa số người nghiện hoạt

động sử dụng trái phép chất ma túy nhiều lần ở nhiều địa bàn khác nhau.Địa

bàn phức tạp về tệ nạn ma túy thường là khu vực tập trung đông dân nhập cư,

có nhiều khu công nghiệp. Người sử dụng ma túy ngày càng trẻ hóa. Chất ma

túy được sử dụng trái phép có xu hướng chuyển dần từ heroin sang ma túy

tổng hợp. Hình thức sử dụng cũng chuyển từ việc tiêm chích sang hút, hít chất

ma túy. Các đối tượng sử dụng có xu hướng chuyển từ sử dụng cá nhân sang

sử dụng chung nhiều người với nhau. Nguy hiểm hơn là xuất hiện một số loại

ma túy mới, trong đó có loại ma túy không nằm trong danh mục các loại ma

túy do Chính phủ quy định tình trạng nghiện ma túy tổng hợp, nhất là ma túy

đá gia tăng do phần lớn thanh thiếu niên nhận thức sai lệch là sử dụng ma túy

đá và "cỏ Mỹ" không gây nghiện. Trong khi ma túy tổng hợp, nhất là ma túy

đá, thường tạo ra ảo giác mạnh và kéo dài, đối tượng sử dụng không kiểm

35

soát được nhận thức và hành vi, có nguy cơ dẫn đến vi phạm pháp luật, gây

hệ lụy lớn cho gia đình và xã hội.

Chính vì vậy, huyện Long Thành luôn quan tâm, chú trọng đến việc đưa

người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; trên địa bàn có một cơ sở điều trị

nghiện của Thành phố Hồ Chí Minh, còn các đối tượng nghiện trên địa bàn

sau khi có quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc sẽ được đưa vào cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đồng Nai,

có trụ sở tại xã Xuân Phú, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai. Người bị nghiện

sau khi đưa vào cơ sở điều trị nghiện được tổ chức điều trị cắt cơn giải độc

theo đúng phác đồ điều trị; được phân loại, bố trí vào từng khu ở phù hợp

như: khu dành riêng cho nữ, khu dành riêng cho cai nghiện tự nguyện, khu cai

nghiện lần đầu... Học viên được học văn hóa, học nghề được thăm gặp gia

đình, được xem xét giảm thời gian cai nghiện khi đạt kết quả phấn đấu rèn

luyện tốt.

2.2. Thực tiễn áp dụng biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành.

2.2.1. Thực trạng lập hồ sơ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Việc lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ

sở cai nghiện bắt buộc là nhiệm vụ của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã với

sự hỗ trợ của Công an xã. Tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, số người

nghiện theo thống kê của Công an huyện Long Thành năm 2016 là 555 người,

năm 2017 là 580 người và số người nghiện ngày càng gia tăng nhất là trong

độ tuổi thanh thiếu niên, những người không có nghề nghiệp ổn định; trong

đó trên 70% đối tượng nghiện trên địa bàn huyện sử dụng ma túy tổng hợp

bằng hình thức hút chủ yếu; tập trung ở các xã, thị trấn như thị trấn Long

Thành, xã An Phước, Phước Thái, Long Phước, Tân Hiệp; tuy nhiên, việc lập

36

hồ sơ đưa các đối tượng vào cơ sở cai nghiện bắt buộc lại chiếm tỷ lệ không

70

60

50

40

30

20

10

0

Xã An Phước Xã Phước

Xã Tân Hiệp

Thái

Xã Long Phước

Thị trấn Long Thành

2016 2017

cao, cụ thể:

Biểu đồ 2. Thống kê lập hồ sơ cai nghiện công an huyện Long Thành

Như vậy, Có thể nhận thấy thị trấn Long Thành là địa bàn có nhiều đối

tượng nghiện nhất.

Sỡ dĩ thị trấn Long Thành là địa bàn có nhiều người nghiện nhất vì đây

là khu hành chính tập trung dân cư và gần các cụm khu công nghiệp lân cận,

thu hút lượng dân nhập cư đông. Tại đây có nhiều nhà nghỉ, khách sạn giá rẻ

mọc lên, giao thông thuận lợi cho việc mua bán ma túy nên rất thuận tiện cho

các đối tượng thực hiện hành vi nghiện hút. Chính vì vậy mà đây là địa bàn có

tỉ lệ người nghiện nhiều và tăng theo từng năm.

Tiếp theo là xã Phước Thái, địa bàn có người nghiện chiếm thứ hai

trong toàn huyện, lại tiếp giáp với tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nên các đối tượng

tập trung đông tại đây.

Tiếp đến là xã Long Phước, An Phước, Tân Hiệp. Còn lại 10 xã theo

thống kê là không có người nghiện, tuy nhiên, đây chỉ là con số về mặt thống

kê, trên thực tế ở các địa bàn trên người nghiện ma túy vẫn ngày một gia tăng.

37

Đến năm 2018, cơ quan Công an lập hồ sơ đề nghị áp dụng đối với 106

đối tượng, trong khi, số người nghiện còn bên ngoài cộng đồng là 620 người

(theo báo cáo số 24/BC-CA ngày 02/01/2019 của Công an huyện Long Thành

về việc xử lý các đối tượng nghiện). Sáu tháng đầu năm 2019, mặc dù, số

lượng người nghiện vẫn tiếp tục tăng nhưng việc lập hồ sơ để áp dụng biện

pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc vẫn còn hạn chế.

Từ những số liệu đã được phân tích ở trên, ta có thể nhận thấy rằng:

- Cơ quan công an đã lập số lượng lớn đối với người bị nghiện cần được

đi cai nhưng chiếm tỷ lệ không cao trong tổng số người nghiện trên toàn

huyện năm 2016 là 182/555; năm 2017 là 222/580.

- Trên thực tế, số lượng người nghiện ngoài cộng đồng vẫn còn rất

nhiều, số lượng người nghiện chưa bị phát hiện vẫn còn nhiều. Số người bị cơ

quan công an lập hồ sơ chiếm tỉ lệ ít so với thực trạng ngoài xã hội.

- Người nghiện không ngừng tăng qua các năm và tập trung ở một số địa

bàn nhất định.

Đối với thời gian lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thì khoản 1 Điều 8 Nghị định

221/2013/NĐ-CP quy định về thời hạn xác định nơi cư trú của người bi phạm

với thời gian là tối đa 15 ngày. Tuy nhiên, thực tế Công an các xã thị trấn trên

địa bàn huyện không thực hiện đúng mà thường vi phạm thời hạn xác minh

nơi cư trú dẫn đến thời gian lập hồ sơ bị kéo dài.

Về xác định đối tượng nghiện vừa thuộc đối tượng bị áp dụng biện pháp

xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc mà có yếu tố “côn đồ hung hãn”, các cơ quan có thẩm quyền rất khó

xác định thế nào là “côn đồ hung hãn” nên cơ quan lập hồ sơ, cơ quan đề nghị

và cơ quan xem xét, áp dụng thường áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc đối với người bị đề nghị; cụ thể, theo báo cáo thống kê hàng

năm của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, năm 2016 (thời gian tính từ ngày

38

01/10/2015 đến hết ngày 30/9/2016), tổng số đối tượng bị áp dụng các biện

pháp xử lý hành chính là 1317, trong đó, đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là 1312, đối tượng bị áp dụng đưa vào cơ sở

giáo dục bắt buộc là 2, đưa vào trường giáo dưỡng là 03; năm 2018 (thời gian

tính từ ngày 01/10/2017 đến hết ngày 30/11/2018) thì tổng số đối tượng bị áp

dụng các biện pháp xử lý hành chính là 870, trong đó, đối tượng bị áp dụng

biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là 867, đối tượng bị áp dụng đưa

vào cơ sở giáo dục bắt buộc là 1, đưa vào trường giáo dưỡng là 02.

Về độ tuổi người nghiện ma túy đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc:

Khoản 1 Điều 96 Luật XLVPHC năm 2012 chỉ quy định áp dụng biện pháp

xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người nghiện từ

18 tuổi trở lên mà không có quy định về việc áp dụng biện pháp này đối

người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi. Nhưng trong xu thế phát

triển hiện nay, kéo theo hệ lụy là người nghiện ma túy và sử dụng ma túy

dưới 18 tuổi ngày càng nhiều và có xu hướng gia tăng; cụ thể, tuổi trung bình

sử dụng ma túy tại Hà Nội và Hải Phòng là 16, tại Thành phố Hồ Chí Minh là

17 tuổi, đáng chú ý có tới 30-40% vị thành niên từ 13 tuổi trở lên sử dụng ma

túy đá. Tại tỉnh Sóc Trăng số người nghiện mà sử dụng ma túy dưới 18 tuổi

chiếm tỷ lệ 10,44% so với tổng số của người nghiện và liên quan đến ma túy

[7, tr 14]. Còn tại tỉnh Đồng Nai, theo báo cáo thống kê này 30/12/2018 của

Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai, người nghiện ma túy, sử dụng ma túy dưới

18 tuổi chiếm tỷ lệ 11.48% trong tổng số người nghiện và liên quan đến ma

túy; trong đó, số người nghiện dưới 18 tuổi tại huyện Long Thành chiếm

7,4% trên tổng số người nghiện. Số đối tượng trên hiện đang ở cộng đồng và

chưa có biện pháp nào để quản lý, cai nghiện; điều đó, ảnh hưởng đến sức

khỏe, tinh thần và thể chất của đối tượng vị thành niên, mặt khác, lại ảnh

hưởng đến tâm lý của cộng đồng dân cư, bởi lẽ nghiện hay sử dụng ma túy sẽ

39

kéo theo nhiều tệ nạn khác xảy ra. Tuy nhiên, hiện nay các địa phương vẫn

chưa có chế tài áp dụng đối với những đối tượng này.

Về xác định tình trạng nghiện ma túy: Chính vì pháp luật chỉ quy định

quy trình xác định tình trạng nghiện đối với hai nhóm chất dạng thuốc phiện

OPIATS) và ma túy tổng hợp chất dạng AMPHETAMIN (ATS) nên có

những trường hợp khi bắt giữ được đối tượng có hành vi sử dụng trái phép

chất ma túy nhưng không nằm trong hai nhóm chất trên nên không có sinh

phẩm để xét nghiệm dẫn đến tình trạng cơ quan công an không tiến hành lập

được hồ sơ đối với các đối tượng đó. Đối với thời gian để xác định tình trạng

nghiện thì trên địa bàn huyện Long Thành thường tiếp nhận đối tượng và trả

kết quả là Phiếu trả lời kết quả về việc xác định tình trạng nghiện ma túy

trong cùng một ngày.

Thực tế cho thấy, ở mỗi địa phương khác nhau thì sẽ có cách xác định

tình trạng nghiện khác nhau. Tại Thành phố Hà Nội thì Ủy ban nhân dân

thành phố ban hành Quyết định số 7144/QĐ-UBND ngày 27/12/2014 ban

hành Quy chế về trình tự, thủ tục thẩm quyền tổ chức cai nghiện ma túy trên

địa bàn Thành phố Hà Nội; theo đó, đối với các đối tượng đã có hồ sơ quản lý

tại địa bà thành phố nếu có kết quả xét nghiệm dương tính với ma túy và hồ

sơ chỉ cần chưa quá 03 năm thì bị xác định là người nghiện ma túy. Tại thành

phố Đà Nẵng, Ủy ban nhân dân thành phố ban hành Quyết định số

28/2014/QĐ-UBND ngày 06/9/2014 ban hành Quy chế phối hợp lập hồ sơ và

tổ chức cai nghiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng; theo đó, đối với các đối

tượng đã có hồ sơ quản lý tại địa bàn thành phố nếu có kết quả xét nghiệm

dương tính với ma túy và hồ sơ chỉ cần chưa quá 04 năm thì bị xác định là

người nghiện ma túy. Ngoài ra, cả hai địa phương đều quy định cách xác định

nếu có kết quả xét nghiệm dương tính với ma túy và có bản khai báo của đối

tượng hoặc thân nhân gia đình thì được xác định là người nghiện ma túy. Còn

tại huyện Long Thành áp dụng theo Quy định số 08/2016/QĐ-UBND ngày 04

40

tháng 02 năm 2016 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai về việc ban hành Quy

chế phối hợp lập hồ sơ và tổ chức cai nghiện ma túy trên địa bàn tỉnh Đồng

Nai; theo đó, trên địa bàn tỉnh Đồng Nai việc xác định tình trạng nghiện thực

hiện theo Thông tư liên tịch số 17/2015/TTLT-BYT-BLĐTBXH-BCA ngày

09/7/2015.

Về thủ tục giao cho gia đình, tổ chức quản lý người bị đề nghị áp dụng

biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời gian làm thủ tục áp

dụng biện pháp theo quy định: Tại Điều 131 Luật XLVPHC năm 2012 quy

định giao cho gia đình, tổ chức quản lý người bị đề nghị áp dụng biện pháp

xử lý hành chính trong thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành

chính.

Quy định trên thể hiện tính nhân văn; tuy nhiên lại gây nên nhiều khó

khăn cho các địa phương. Trường hợp người bị đề nghị áp dụng biện pháp xử

lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có nơi cư trú ổn định thì Chủ

tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ra quyết định giao cho gia đình quản lý trong

thời gian làm thủ tục. Tại các địa phương và cụ thể là huyện Long Thành,

trong thời gian lập hồ sơ cũng đã tiến hành giao cho gia đình người bị đề nghị

về cho gia đình quản lý, nhưng cũng chính vì quy định này gây khó khăn rất

lớn cho các cơ quan có thẩm quyền, và kể cả gia đình của đối tượng; bởi lẽ

các đối tượng nghiện ma túy đều lệ thuộc nặng nề vào ma túy cả về tinh thần

lẫn thể chất, họ thường có thái bộ bất hợp tác, thậm chí chống đối quyết liệt

việc đưa vào cơ sở cại nghiện bắt buộc mà gia đình lại là nơi che chở, đùm

bọc họ nên gia đình rất khó quản lý. Hơn nữa, việc giao cho gia đình quản lý

trong trường hợp người bị đề nghị bỏ trốn khi cơ quan công an chưa ra thông

báo về việc lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ

sở cai nghiện bắt buộc và chưa tống đạt được cho người bị đề nghị để họ có

quyền đọc hồ sơ. Trường hợp này cơ quan Công an chưa biết xử lý như thế

nào.

41

Đối với trường hợp người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định,

pháp luật xử lý hành chính quy định giao cho các tổ chức xã hội quản lý trong

thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính.Tại Điều 14 Nghị

định số 221/2013/NĐ-CP quy định về điều kiện mà tổ chức xã hội phải đảm

bảo các điều kiện về cơ sở vật chất, nhân sự.Thực tế ở những thành phố lớn

có tiềm năng về kinh tế cũng không thể đáp ứng được các điều kiện như pháp

luật quy định cho tổ chức xã hội. Ở huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai thực tế

không có tổ chức xã hội đáp ứng được các điều kiện trên nên những trường

hợp bị đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ra quyết định đưa vào khu xã hội

của Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đồng Nai. Như vậy, vừa quản lý được

người nghiện, vừa giúp họ cắt cơn, giải độc, tư vấn tâm lý cho người nghiện.

2.2.2. Trong giai đoạn xem xét hồ sơ và đề nghị áp dụng biện pháp xử

lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Đề nghị áp dụng cai nghiện đối với người nghiện thuộc thẩm quyền của

ngành lao động thương binh xã hội. Cho đến nay, ngoài các nhiệm vụ được

giao, ngành đã phát huy và hoàn thành tốt vai trò của mình trong công cuộc

giảm thiểu số người nghiện ngoài cộng đồng từ việc đề nghị áp dụng các biện

pháp cai nghiện qua việc theo dõi sát sao các đối tượng bị nghiện, cai nghiện,

tái nghiện trong các trung tâm, trong cơ sở giáo dục giáo dưỡng, tại gia đình

và cộng đồng. Có thể thấy đây là hoạt động mang tính chất thường xuyên và

kiểm tra liên tục.

Sau khi xem xét hồ sơ công an gửi qua, ngành Lao động-Thương binh-

Xã hội đã phối hợp với cơ quan chức năng kiểm tra lại và phân loại các đối

tượng cần đi cai nghiện bắt buộc hay áp dụng biện pháp cai nghiện theo các

hình thức khác mà pháp luật quy định.

Hiện nay Luật XLVPHC năm 2012 chỉ quy định các chức danh có thẩm

quyền xử phạt vi phạm hành chính được giao quyền cho cấp phó như Cưỡng

42

chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, quyền tạm giữ người

theo thủ tục hành chính; không quy định các chức danh có thẩm quyền trong

việc lập hồ sơ đề nghị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, trong đó có

biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được giao quyền cho cấp phó; vì

thế, trong thực tế áp dụng có khó khăn vướng mắc vì một số trường hợp

Trưởng phòng Lao động – Thương binh và Xã hội đi công tác hay nghỉ phép

dài ngày…. Không thể thực hiện thẩm quyền của mình trong thời hạn luật

định.Điều này dẫn đến việc cơ quan có thẩm quyền lúng túng, không biết xử

lý thế nào. Tại huyện Long Thành, trường hợp này cũng đã xảy ra, Phòng Lao

động – Thương binh và Xã hội huyện Long Thành giải quyết bằng cách đưa

Phó phòng ký rồi chuyển hồ sơ qua Tòa án huyện.

Theo quy định của pháp luật, việc thẩm định tính pháp lý của hồ sơ

thuộc thẩm quyền của Trưởng phòng Tư pháp và Trưởng phòng Lao động-

Thương binh và Xã hội đối chiếu hồ sơ đề nghị theo quy định tại Điều 9 Nghị

định 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013với nội dung văn bản kiểm tra tính

pháp lý của Trưởng phòng tư pháp cấp huyện và có quyền yêu cầu bổ sung tài

liệu, chứng cứ nếu không bổ sung được thì trả hồ sơ cho cơ quan lập hồ sơ đề

nghị. Tuy nhiên trên thực tế, Phòng Lao động Thương binh và Xã hội còn

“dựa” nhiều vào văn bản kiểm tra tính pháp lý của Phòng Tư pháp chứ chưa

thực hiện việc kiểm tra, đối chiếu sát sao dẫn đến một số hồ sơ khi chuyển

qua Tòa án sẽ bị trả lại hồ sơ. Cụ thể năm 2016, Tòa án nhân dân huyện Long

Thành trả 5 hồ sơ lại cho Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội; năm

2017 số lượng hồ sơ giảm xuống còn 2, năm 2018 giảm còn 1 hồ sơ và sáu

tháng đàu năm 2019 Tòa án nhân dân huyện Long Thành chưa trả hồ sơ nào

cho Phòng lao động – Thương binh và xã hội; cụ thể như sau:

Ví dụ 1. Ngày 14/7/2017, Phòng Lao động chuyển hồ sơ đề nghị áp dụng

biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với Lê

Xuân Đông. Ngày 15/7/2017, Tòa án nhân dân huyện Long Thành thụ lý hồ

43

sơ trên. Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ việc, Tòa án nhân dân huyện

Long Thành nhận thấy Thông báo số 06/TB-PTP ngày 15/6/2017 của Phòng

Tư pháp huyện Long Thành về việc kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ đề nghị

áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và Văn

bản số 301/LĐ-TBXH ngày 20/6/2017 của Phòng Lao động – Thương binh

và Xã hội huyện Long Thành về việc đề nghị xem xét áp dụng biện pháp xử

lý hành chính đưa Lê Xuân Đông vào Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đồng

Nai đều do cấp Phó Trưởng phòng ký và đóng dấu. Tuy nhiên, theo quy định

tại Điều 12 và Điều 13 của Nghị định số 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013

của Chính phủ quy định về chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thì “…Trưởng phòng Tư pháp cấp huyện có

trách nhiệm kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ. Kết quả kiểm tra phải được thể

hiện bằng văn bản và gửi Trưởng phòng Lao động – Thương binh và Xã

hội”và “2. Hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân cấp huyện xem xét áp dụng biện

pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc:… b) Văn bản đề nghị của Trưởng

phòng Lao động – Thương binh và Xã hội cấp huyện về việc xem xét áp dụng

biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc gửi cho Tòa án nhân dân cùng

cấp…”. Đồng thời, theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 5 của Thông tư

số 19/2015/TT-BTP ngày 28/12/2015 của Bộ Tư pháp thể hiện“…, Trưởng

phòng Tư pháp cấp huyện có trách nhiệm kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ đề

nghị…” và “3. Kết quả kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ đề nghị phải được thể

hiện bằng văn bản theo mẫu được ban hành kèm theo Thông tư này, có chữ ký

của người có thẩm quyền kiểm tra và được đóng dấu của Phòng Tư pháp...”.

Mặt khác, theo hướng dẫn tại Văn bản số 225/LĐ-TBXH ngày 10/5/2017 của

Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội về việc tiếp tục hướng dẫn Quy

trình lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa người nghiện

ma túy vào Cơ sở điều trị nghiện tỉnh Đồng Nai thì người có thẩm quyền ký

44

đối với 02 văn bản nêu trên là Trưởng phòng Tư pháp và Trưởng phòng Lao

động –Thương binh và Xã hội.

Ngoài ra, hồ sơ đề nghị chưa đáp ứng đầy đủ tài liệu theo quy định pháp

luật như sau:

+ Tại bản tóm tắt lý lịch có ghi “3. Sinh năm 1999…”. Tuy nhiên, theo

quy định tại khoản 1 Điều 96 của Luật Xử lý vi phạm hành chính thì đối

tượng bị đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai

nghiện phải từ đủ 18 tuổi trở lên nên cần ghi rõ ngày, tháng, năm sinh của Lê

Xuân Đông để xác định Đông đã đủ 18 tuổi.

+ Tại bản tóm tắt lý lịch có ghi “17. Thời điểm chích ma túy lần đầu (ghi

tháng, năm): 01/6/2017” nhưng tại “15. Hình thức sử dụng ma túy (nuốt,

chích, hít): hít” có sự mâu thuẫn. Mặt khác, cần có sự thống nhất trong việc

áp dụng biểu mẫu trong việc thực hiện hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý

hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc giữa Thông tư số 14/2014/TT-

BLĐTBXH ngày 12/6/2014 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và

Quyết định số 23/2016/QĐ-UBND ngày 05/4/2016 của Ủy ban nhân dân tỉnh

Đồng Nai.

Từ những nhận định trên Tòa án đã ra Thông báo số 01/TB.TA ngày

26/6/2017 trả hồ sơ cho Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội huyện

Long Thành.

Cùng thời điểm với hồ sơ trên Tòa án nhân dân ra Thông báo số

02/TB.TA ngày 26/6/2017 về việc trả hồ sơ cho Phòng Lao động – Thương

binh và Xã hội huyện Long Thành đối với hồ sơ Trần Ngọc Phú.

Ngoài những lý do về thẩm quyền như ở ví dụ 1 thì đối với hồ sơ này

còn có thêm một số nhận định để Tòa án trả hồ sơ như:

+ Tại mục 17 của bản tóm tắt lý lịch có ghi thời điểm sử dụng ma túy

gần nhất: 14/5/2017. Tuy nhiên, theo bản tường trình, biên bản ghi lời khai

của Trần Ngọc Phú, biên bản xét nghiệm chất ma túy và biên bản vi phạm

45

hành chính về việc sử dụng trái phép chất ma túy đều thể hiện thời điểm Phúc

sử dụng ma túy gần nhất là vào lúc 01 giờ ngày 15/5/2017.

+ Tại Phiếu xác minh tình trạng cư trú có thể hiện Phúc bị xử phạt tù 02

lần vào năm 2005 và năm 2016 và 01 lần bị đưa đi cai nghiện ma túy bắt buộc

tại Bố Lá vào năm 2012. Tuy nhiên, hồ sơ chỉ cung cấp 01 bản phô tô giấy

chứng nhận chấp hành xong án phạt tù số 515/GCN ngày 23/3/2016 ngoài ra

không có tài liệu thể hiện việc Phúc bị xử phạt tù năm 2005 đã được xóa án

tích hay chưa và cũng chưa cung cấp được giấy chứng nhận chấp hành xong

quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện Bố Lá năm 2012.

+ Tại biên bản ghi lời khai và bản tường trình thể hiện Phúc sinh ngày

15/11/1986 tại Bến Tre. Tuy nhiên, tại biên bản vi phạm hành chính có ghi

“…nguyên quán: Đồng Nai”và tại phiếu xác minh tình trạng cư trú có ghi

“…6. Nơi sinh: Tiền Giang. 7. Nguyên quán: Tiền Giang…” là có sự mâu

thuẫn.

Những thiếu sót được nêu ra trong những Thông báo trả hồ sơ phần lớn

là những thiếu sót từ giai đoạn lập hồ sơ đề nghị của Công an cấp xã; giai

đoạn kiểm tra tính pháp lý của Phòng Tư pháp và đối chiếu, kiểm tra của

Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội cần được chú trọng hơn để tránh

những trường hợp bị Tòa án trả hồ sơ làm mất thời gian.

Trong năm 2014, Phòng Lao đông – Thươn binh và xã hội có văn bản đề

nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

đối với 01 đối tượng, năm 2015 đề nghị áp dụng với 4 đối tượng, năm 2016

đề nghị áp dụng 182 đối tượng, năm 2017 đề nghị áp dụng đối với 202 đối

tượng, năm 2018 đề nghị áp dụng đối với 94 đối tượng, sáu tháng đầu năm

2019 đề nghị áp dụng đối với 62 đối tượng (theo báo cáo tống kết số

09/BC.TA ngày 12 tháng 7 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Long

Thành). Như vậy, có thể thấy số lượng hồ sơ Phòng Lao động Thương binh

và Xã hội chuyển qua Tòa án huyện tăng từng năm; tuy nhiên, do vụ việc học

46

viên trốn khỏi Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đồng Nai nên việc lập hồ sơ

đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc bị hạn chế. Các đối tượng chủ yếu sẽ được quản lý tại địa phương, chỉ

một số trường hợp gặp khó khăn nhất định trong việc quản lý mới lập hồ sơ

đề nghị áp dụng.

2.2.3. Trong giai đoạn ban hành quyết định áp dụng.

Mặc dù, biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Luật

XLVPHC đã có hiệu lực pháp luật từ 01/01/2014. Tuy nhiên, thực tiễn áp

dụng các quy định của pháp luật về biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc vẫn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, dẫn đến việc đưa đối tượng

nghiện ma túy vào Cơ sở điều trị nghiện ma túy vẫn chưa được thực hiện.

Theo báo cáo tổng kết hàng năm của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, năm

2014 (tính theo thời gian là năm thi đua của ngành Tòa án từ tháng 10 năm

2013 đến 30 tháng 9 năm 2014) toàn tỉnh Đồng Nai áp dụng biện pháp xử lý

hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với 02 đối tượng, trong đó

thành phố Biên Hòa 1, huyện Long Thành 1 đối tượng. Năm 2015, tỉnh Đồng

Nai đưa được 10 đối tượng vào Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đồng Nai;

trong thành phố Biên Hòa 5 đối tượng, Long Thành 4 đối tượng, thị xã Long

Khánh 01 đối tượng.

Qua hai năm thực hiện việc đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc do những vướng mắc mà toàn tỉnh Đồng Nai áp dụng biện pháp xử lý

hành chính trên với tỷ lệ rất thấp; trong khi số người nghiện bên ngoài đang

ngày một tăng, điều này không đáp ứng được yêu cầu phòng, chống các tệ

nạn xảy ra trên địa bàn.

Năm 2016 là năm thứ 3 Tòa án là cơ quan có thẩm quyền thụ lý, xem

xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc nên toàn tỉnh Đồng Nai đã thụ lý và đưa 1.312 đối tượng vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc; trong đó, bị đình chỉ 15 vụ, huyện Long Thành đưa được

47

182 đối tượng vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Mặc dù có kiếu nại nhưng con

số đó là không nhiều và có 02 vụ của Tòa án nhân dân huyện Long Thành bị

hủy do có nhiều lỗi chủ quan trong đó. Có thể nhận thấy số người nghiện bị

áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc năm 2016, tăng đột biến

so với năm 2014, năm 2015. Trong năm 2016, Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng

Nai đã ban hành Quyết định số 23/2016/QĐ-UBND ngày 05/4/2016 về ban

hành biểu mẫu trong công tác lập hồ sơ và tổ chức cai nghiện ma túy trên địa

bàn tỉnh Đồng Nai nên các cơ quan áp dụng pháp luật thống nhất được các

vướng mắc trong tỉnh nên số lượng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tăng so với các năm trước.

Năm 2017, số lượng đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc giảm nhanh so với năm 2016, toàn tỉnh

Đồng Nai áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với 425

đối tượng, trong đó huyện Long Thành là 202 đối tượng. Sở dĩ, số lượng áp

dụngbiện pháp xử lý hành chính của toàn tỉnh giảm là do sự việc học viên

trốn khỏi Trung tâm cai nghiện tỉnh Đồng Nai (nay là cơ sở điều trị nghiện

ma túy tỉnh Đồng Nai) ngày 23/10/2016 gần 600 học viên và ngày 06/11/2016

là gần 200 học viên, vì thế, Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai đã ra thông báo

cho các cấp cơ sở tạm dừng việc lập hồ sơ đối với các đối tượng nghiện. Tiếp

đó ngày 08/11/2016 Ủy ban nhân dân huyện Long Thành ra Thông báo số

174/UBND-NC ngày 08/11/2016 về việc tạm dừng đưa đối tượng nghiện ma

túy vào Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh.Tuy nhiên, số lượng người nghiện

bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc vẫn tăng là do số

lượng hồ sơ chuyển qua Tòa án thụ lý đầu tháng 10 đến tháng 11 rất nhiều

nên sau khi có thông báo tạm dừng huyện Long Thành vẫn phải tiếp tục đưa

các đối tượng đã lập hồ sơ xong vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Năm 2018, tỉnh Đồng Nai áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với 868 đối tượng. Qua sự việc học viên trốn

48

trại năm 2016 thì đến nay mặc dù chưa khuyến khích việc đưa các đối tượng

nghiện vào cơ sở điều trị nghiện nhưng Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai đã

cho phép lập hồ sơ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đối với các đối tượng.

Trong năm 2018, huyện Long Thành đã đưa được 94 đối tượng đi cai nghiện

bắt buộc; con số này thấp hơn so với những năm trước và chưa đáp ứng

đượcyêu cầu quản lý ở địa phương trong khi số người nghiện ngày càng tăng.

Qua những phân tích trên có thể nhận thấy: Tòa án huyện đã nhanh

chóng tiếp nhận hồ sơ gửi qua, xem xét và nhanh chóng ban hành quyết định

áp dụng các biện pháp cai nghiện đối với người bị nghiện.

Tuy có đình chỉ một vài vụ vì một số lý do nhưng 100% hồ sơ đề nghị áp

dụng được gửi qua đều giải quyết triệt để và không tồn đọng. Số lượng đối

tượng được Tòa án quyết định áp dụng đưa đi cai nghiện trong những năm

qua tăng rất nhiều. Điều này chỉ phản ánh tình trạng nghiện trên địa bàn mà

còn phản ánh được sự nỗ lực không ngừng của cơ quan trong việc quyết tâm

giải quyết triệt để số người nghiện trên địa bàn tỉnh Đồng Nai nhằm ngăn

chặn, răn đe, và hạn chế số lượng người nghiện và tái nghiện tại các địa

phương trong tỉnh.

Trong năm 2016, do có những sai sót khi xác định về “nơi cư trú ổn

định” mà có 01 quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc của Tòa án nhân dân huyện Long Thành bị Tòa án nhân

dân tỉnh Đồng Nai hủy; cụ thể như sau:

Ngày 02 tháng 6 năm 2016, Vũ Đình Tuân sử dụng ma túy trái phép thì

bị Công an thị trấn Long Thành phát hiện, ngày 03/6/2016 Trạm y tế thị trấn

Long Thành có Phiếu trả lời kết quả về việc xác định tình trạng nghiện ma

túy kết luận Vũ Đình Tuân có nghiện ma túy. Qua các tài liệu chứng cứ khác

có trong hồ sơ vụ việc ngày 27/7/2016, Tòa án nhân dân ra Quyết định áp

dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với

Vũ Đình Tuân, thời hạn 12 tháng. Ngày 28/7/2016, đại diện theo ủy quyền của

49

ông Tuân - Ông Trần Phạm Ảnh nộp đơn khiếu nại Quyết định số176/QĐ-TA

ngày 27/7/2016 của Tòa án nhân dân huyện Long Thành với lý do:

+ Ông Tuân có nơi cư trú ổn định và được chính quyền địa phương xác

nhận theo đúng quy định của pháp luật.

+ Không có cơ sở, căn cứ để xác định tình trạng nghiện của ông Tuân theo

quy định về thẩm quyền và quy trình xác định tình trạng nghiện ma túy tại

Thông tư liên tịch số 17/2015/TTLT-BYT-BLĐTBXH-BCA ngày 09/7/2015.

Ngày 19/8/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai ban hành Quyết định số

05/QĐ.TA hủy Quyết định số 176/QĐ.TA của Tòa án nhân dân huyện Long

Thành với những nhận định sau:

“Qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ thì:

Ngày 03/6/2016, tại phiếu trả lời kết quả xác định tình trạng nghiện ma túy,

Bác sỹ của Trạm y tế thị trấn Long Thành đã kết luận ông Tuân có nghiện ma

túy (loại ma túy sử dụng là hàng đá). Người xác định tình trạng nghiện ma túy là

người có thẩm quyền theo quy định tại khoản 2 Điều 7, Điều 10 Quyết định số

08/2016/QĐ-UBND ngày 04/02/2016 của UBND tỉnh Đồng Nai.

Theo hồ sơ do phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Long

Thành cung cấp thì chưa xác định được ông Vũ Đình Tuân có tiền án, tiền sự

hay không. Tại biên bản xác minh ngày 29/6/2016 tại công an xã Minh Tân,

huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng thì xác định ông Vũ Đình Tuân có

đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa phương nhưng thường xuyên bỏ địa phương

sống lang thang, hiện nay làm gì, ở đâu địa phương không rõ.

Người đại diện theo ủy quyền của ông Tuân cung cấp đơn xin xác nhận và

giấy cam kết ngày 27/6/2016 của bà Vũ Thị Bé (cô ruột của ông Tuân) được

Công an xã Minh Tân, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xác định: Ông

Vũ Đình Tuân có đăng ký hộ khẩu thường trú, thường xuyên sinh sống ổn định

tại địa phương cũng như việc ông Tuân có Hợp đồng lao động số

50

15/2016/HĐLĐ với Công ty TNHH Trường Quang Dũng, có trụ sở tại số 8/45,

Chợ Hàng, phường Dư Hàng Kênh, Quận Lê Chân, Thành phố Hải Phòng.

Các tài liệu trên mâu thuẫn với nhau về việc xác định tình trạng cư trú của

người bị đề nghị. Ngày 11/7/2016, TAND huyện Long Thành đã ban hành Công

văn số 959/CV-TA yêu cầu cơ quan đề nghị là Phòng Lao động – Thương binh

và Xã hội huyện Long Thành làm rõ về tình trạng cư trú của ông Tuân. Tuy

nhiên cơ quan đề nghị không thực hiện yêu cầu trên.

Như vậy, với các tài liệu có trong hồ sơ thì chưa đủ căn cứ xác định ông

Tuân là người không có nơi cư trú ổn định theo quy định tại khoản 1 Điều 4

Quyết định số 08/2016/QĐ-UBND ngày 04/2/2016 của UBND tỉnh Đồng Nai.

Từ phân tích trên, chưa đủ cơ sở xác định ông Vũ Đình Tuân thuộc đối

tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định tại

khoản 2 Điều 3 nghị định 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 của Chính Phủ;

khoản 1 Điều 96 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.

Khiếu nại của ông Tuân có cơ sở nên được chấp nhận”.

Có thể thấy, việc xác định đúng đắn “nơi cư trú ổn định” của người nghiện

là một trong những vấn đề phức tạp nhất trong quá trình áp dụng biện pháp xử lý

hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; ngoài ra, sự phối hợp giữa các cơ

quan cũng là một trong những vấn đề cần được xem xét. Việc xác định “nơi cư

trú ổn định” không chỉ khó khăn cho cơ quan áp dụng pháp luật mà còn ảnh

hưởng trực tiếp đến người bị đề nghị. Qua vụ việc trên, đặt ra cho cơ quan áp

dụng pháp luật trong quá trình xem xét, áp dụng biện pháp xử lý hành chính phải

cẩn trọng trong việc xem xét hồ sơ, tránh trường hợp làm ảnh hưởng đến quyền

lợi của người bị đề nghị. Những khó khăn ở giai đoạn lập hồ sơ, đề nghị ảnh

hưởng rất lớn tới gai đoạn xem xét, áp dụng biện pháp xử lý hành chính điển

hình như việc xác định tình trạng nghiện nếu không được thực hiện hoặc thực

hiện không đầy đủ thủ tục, kết quả xác định tình trạng nghiện “sơ sài” không chỉ

dẫn đến hậu quả là gây khó khăn cho Tòa án nhân dân cấp huyện trong việc xem

51

xét, quyết định thời hạn phù hợp để áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc mà còn dẫn đến việc khiếu nại về thủ tục, thẩm quyền

như ví dụ đã nêu dẫn đến có một số Quyết định có thể bị hủy do chưa thực hiện

đúng.

Ở mỗi giai đoạn trong toàn bộ quá trình áp dụng biện pháp xử lý hành

chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trên địa bàn huyện Long Thành đều có

những khó khăn vướng mắc riêng. Trong những năm qua việc áp dụng biện

pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trên địa bàn chưa đáp ứng được yêu cầu

đấu tranh phòng, chống tệ nạn xã hội trong khi số người nghiện bên ngoài còn

nhiều.

2.3. Đánh giá chung về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đƣa

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.

Trong những năm qua, việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ

sở cai nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai cũng đã đạt được

những thành tựu nhất định. Bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, Long

Thành đã và đang nỗ lực để khắc phục những hạn chế để việc áp dụng biện pháp

xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được thực hiện triệt để hơn,

góp phần củng cố và đảm bảo trật tự trị an trên địa bàn.

2.3.1. Kết quả đạt được trong quá trình áp dụng biện pháp xử lý hành

chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng

Nai.

Áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại

huyện Thành trong những năm qua đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận

như sau:

Thứ nhất, trong quá trình phát hiện và lập hồ sơ đề nghị, việc áp dụng biện

pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc cơ bản được thực hiện

đúng theo quy trình pháp luật quy định; không bỏ qua giai đoạn nào nên các đối

tượng nghiện sau khi bị phát hiện nếu có đủ điều kiện sẽ bị lập thủ tục để áp

52

dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Trong quá trình tiếp nhận và

xử lý hồ sơ các cơ quan có thẩm quyền gặp không ít khó khăn, vướng mắc trong

việc giải quyết các vấn đề liên quan đến việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc nhưng nếu không giải quyết kịp thời thì số người nghiện trên

địa bàn sẽ càng ngày gia tăng và làm ảnh hưởng đến an ninh của địa bàn và cuộc

sống của người dân. Trước tình hình đó, Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai đã ban

hành Quyết định số 08/2016/QĐ- UBND ngày 04/02/2016 về việc thực hiện

Quy chế phối hợp lập hồ sơ và tổ chức cai nghiện ma túy trên địa bàn tỉnh

Đồng Nai; theo đó, nội dung quy chế là phải “Rút ngắn thời gian, quy trình

lập, thẩm định hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc nhưng vẫn phải đảm bảo đúng các quy định của pháp luật về biện pháp

xử lý hành chính”. Dựa vào đó, tại huyện Long Thành đa số các hồ sơ đều

được lập và xử lý với thời gian ngắn hơn nhiều so với quy định của Nghị định

221/2013/NĐ-CP. Việc xác định tình trạng nghiện ma túy không mất nhiều

thời gian chỉ cần có kết quả xét nghiệm dương tính với ma túy. Việc cho đối

tượng bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc xác

nhận đã đọc hồ sơ là cơ quan có thẩm quyền có thể chuyển qua các giai đoạn

khác mà không cần chờ hết thời gian 05 ngày.

Thứ hai, với số lượng người nghiện đông và tình hình nghiện diễn biến

phức tạp nên Ủy ban nhân dân huyện Long Thành đã kịp thời dựa vào Quy

chế phối hợp lập hồ sơ và tổ chức cai nghiện ma túy trên địa bàn tỉnh Đồng

Nai để ban hành Quy chế phối hợp giữa cơ quan Công an, Phòng Lao động

Thương Binh và Xã hội và Tòa án huyện để rút ngắn thời gian trong việc đưa

người nghiện và cơ sở cai nghiện bắt buộc mà không vi phạm pháp luật trong

thời gian đợi Tòa án ban hành quyết định mà không vi phạm pháp luật. Theo

đó, Công an xã và Phòng tư pháp, Phòng Lao động Thương binh xã hội có

trách nhiệm thống nhất trong việc lập hồ sơ, đảm bảo đúng quy trình để tránh

trường hợp trả hồ sơ dẫn đến kéo dài thời gian. Khi hồ sơ đã chuyển quan Tòa

53

thì trong vòng mười ngày kể từ ngày thụ lý Tòa án huyện phải ban hành quyết

định áp dụng hay không áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc. Chính vì vậy, trong những năm qua, số lượng hồ sơ đề

nghị áp dụng biện pháp trên bị Tòa án trả hồ sơ ngày càng giảm.

Đối với các đối tượng khôg có nơi cư trú ổn định, các cơ quan có thẩm

quyền chủ động đưa đối tượng vào khu xã hội tại Cơ sở cai nghiện ma túy

tỉnh Đồng Nai để quản lý dễ dàng hơn, tránh trường hợp bỏ trốn. Khu xã hội

này có đầy đủ chức năng về y tế, trang thiết bị, chế độ hỗ trợ cho người bị

quản lý và đội ngũ cán bộ.

Thứ ba, việc phối hợp và tổ chức cai nghiện ma túy trên địa bàn huyện

bước đầu đã có kết quả tích cực. Các hình thức cai nghiện đa dạng hơn tại

trung tâm, gia đình và tại cộng đồng. Theo thống kê của Công an huyện Long

Thành thì số người đăng ký cai nghiện tự nguyện tăng theo từng năm. Mặc dù

số người nghiện ngoài cộng đồng vẫn tăng nhưng tỷ lệ tăng giữa các năm đã

giảm. Công tác giúp người nghiện tái hòa nhập cộng đồng cũng được chú

trọng, tỷ lệ người nghiện tái nghiện giảm dần.

Thứ tư, số người được đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc năm sau cao

hơn năm trước cũng đã góp một phần không nhỏ vào mục tiêu phòng, chống

tệ nạn xã hội trên địa bàn huyện. Ngay sau khi phát hiện đối tượng nghiện hút

ma túy và hoàn tất lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc, cơ quan Công an (cơ quan lập hồ sơ) cho người nghiện bị đề

nghị hoặc người đại diện hợp pháp của họ đọc và ký vào thông báo về việc bị

lập hồ sơ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Đồng thời,

làm việc với người thân trong gia đình của người bị đề nghị theo 2 hướng:

nếu gia đình cam kết có đủ điều kiện và quản lý được người nghiện trong thời

gian cho bảo lãnh thì tiến hành cho gia đình bảo lãnh; nếu gia đình không có

điều kiện quản lý đối tượng hoặc có đơn từ chối tiếp nhận thì chuyển người

đó vào cơ sở quản lý lưu trú tạm thời.

54

Để đạt được kết quả như trên phải đề cập đến các lý do sau:

Một là, hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện hơn, các văn bản hướng

dẫn liên quan bước đầu được quy định rõ ràng, phân định rõ thẩm quyền cho

các cơ quan.

Hai là, công tác, lãnh đạo chỉ đạo của cấp Đảng ủy đã vào cuộc kịp thời

cùng với sự quan tâm của các cấp chính quyền trong việc áp dụng biện pháp

xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nên những giải pháp để

đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được thực hiện nhanhh

chóng, linh hoạt khắc phục những bất cập từ các văn bản hướng dẫn, bước

đầu đã đạt kết quả nhất định. Công tác cai nghiện được sự đồng lòng tham gia

của hệ thống chính trị và của cả cộng đồng trên địa bàn huyện Long Thành.

Ba là, các cơ quan được giao nhiệm vụ trong quá trình áp dụng biện

pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trên địa bàn huyện

đã chủ động phối hợp với nhau để hoàn thành nhiệm vụ và tránh trườn trường

hợp thời gian lập hồ sơ, xem xét, áo dụng biện pháp bị kéo dài ra. Tuy cò gặp

nhiều trở ngại, vướng mắc nhưng các cơ quan đã phối hợp để cùng nhau giải

quyết vấn đề. Trong những năm qua, huyện Long Thành thường xuyên tổ

chức những cuộc họp rút kinh nghiệm khi có vướng mắc trong quá trình áp

dụng Luật xử lý vi phạm hành chính và Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH13

ngày 20 tháng 01 năm 2014 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; hàng quý (ba

tháng một lần) huyện Long Thành luôn có những cuộc họp liên ngành giữa

các cơ quan để có những giải pháp hoàn thiện hơn công tác áp dụng biện pháp

xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Bốn là, các cấp chính quyền trên địa bàn huyện Long Thành chú trọng

đến công tác nâng cao năng lực chuyên môn cho cán bộ phụ trách công tác áp

dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Ngoài

các đợt tập huấn do Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai tổ chức, Ủy ban nhân dân

huyện Long Thành còn kết hợp với các cơ quan khác trong huyện tổ chức các

55

buổi tập huấn để giải đáp những vướng mắc trong quá trình áp dụng biện

pháp, tìm cách giải quyết theo hướng linh động cho phù hợp với tình hình trên

địa bàn. Ngoài ra, để đảm bảo thuận lợi cho quá trình xem xét, áp dụng biện

pháp đối với các đối tượng có những hành vi chống đối, không hợp tác mà đã

bị đưa vào Khu xã hội, Tòa án nhân dân huyện Long Thành mở phiên họp xét

ngay tại Khu xã hội của Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đồng Nai.

2.3.2. Khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân của những khó khăn

vướng mắc trong quá trình áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ

sở cai nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.

Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình áp dụng biện pháp xử lý

hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành, tỉnh

Đồng Nai vẫn còn những khó khăn, vướng mắc sau:

Thứ nhất, Việc xác định nơi cư trú và tình trạng nghiện của các đối

tượng gặp rất nhiều khó khăn; các đối tượng có hành vi sử dụng ma túy dưới

18 tuổi rất nhiều nhưng lại không nằm trong các đối tượng được quy định để

áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Trên

địa bàn huyện Long Thành các đối tượng nghiện ma túy phần lớn là người

nhập cư vào làm việc tại địa phương, họ không có đăng ký tạm trú, tạm vắng

tại địa phương. Hơn nữa, các đối tượng này thường xuyên di chuyển từ địa

bàn này qua địa bàn khác nên việc xác định nơi cư trú gặp rất nhiều khó khăn.

Mặt khác, việc xác định tình trạng nghiện cũng gặp không ít vướng mắc khi

một số dạng chất ma túy như cần sa, Cocaine chưa được hướng dẫn quy trình

xác định tình trạng nghiện; một số chất ma túy mới như Cỏ Mỹ lại chưa có

sinh phẩm xét nghiệm để phát hiện người sử dụng chất này dẫn đến không xử

lý được hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Thứ hai, về đối tượng nghiện ma túy đã được cai nghiện tại cộng đồng,

tại gia đình mà vẫn còn nghiện, đối tượng nghiện ma túy dưới 18 tuổi trên địa

bàn huyện có số lượng đông nhưng pháp luật không quy định họ là đối tượng

56

áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nên

gây ra khó khăn trong công tác quản lý ở địa phương.

Thứ ba, đội ngũ cán bộ được phân công thực hiện nhiệm vụ trong quá

trình áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ ở cai nghiện bắt buộc

trên địa bàn huyện còn thiếu; ở các đơn vụ chưa có cán bộ chuyên trách mà

còn kiêm nhiệm nhiều công tác khác; các cán bộ hầu hết chưa qua đào tạo về

nghiệp vụ, thiếu kinh nghiệm. Đối với Công an xã là lực lượng có vai trò

chính trong việc lập hồ sơ thì trình độ chuyên môn chưa cao, không được đào

tạo bài bản nên gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình áp dụng biện pháp.

Thứ tư, về cơ sở vật chất, kinh phí phục vụ cho quá trình áp dụng biện

pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc còn nhiều hạn chế.

Ở địa phương chưa có tổ chức xã hội đủ điều kiện theo quy định để quản lý

người nghiện trong thời gian chờ làm thủ tục áp dụng biện pháp.

Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc trên:

Một là các quy định của pháp luật về áp dụng biện pháp xử lý hành

chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc không rõ ràng, cụ thể như sau:

- Về biểu mẫu trong quá trình áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa

vào cơ sở cai nghiện băt buộc: Đối với các biểu mẫu trong công tác lập hồ sơ

và thi hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

thì Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban hành Thông tư số 14/2014/TT-

BLĐTBXH ngày 12 tháng 6 năm 2014 và phụ lục đính kèm có các biểu mẫu

cụ thể; Tuy nhiên, việc áp dụng giữa các địa phương còn chưa thống nhất.

Ngày 07 tháng 02 năm 2018, Bộ công an ban hành Thông tư số 05/2018/TT-

BCA về thu thập tài liệu, lập hồ sơ đề nghi áp dụng biện pháp xử lý hành

chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, trong đó đính kèm các biểu mẫu về

lập hồ sơ. Như vậy, biểu mẫu mà các cơ quan ban hành có sự khác nhau, khi

đó, cơ quan lập hồ sơ sẽ áp dụng biểu mẫu của Bộ Lao động – Thương binh

và Xã hội hay của Bộ Công an. Sự không thống nhất trong việc áp dụng biểu

57

mẫu dẫn đến mỗi địa phương sẽ có những biểu mẫu khác nhau. Hơn nữa, để

áp dụng biện này pháp luật nước ta có một hệ thống các văn bản vô cùng đồ

sộ, do nhiều cơ quan ban hành nên tăng tính phức tạp của hệ thống văn bản và

trong nhiều trường hợp lại quy định chồng chéo nhau. Mặt khác, hoạt động

lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc lại

hoàn toàn do cơ quan Công an cấp xã thực hiện (đây là lực lượng không chính

quy, không được đào tạo bài bản trừ Công an các phường và thị trấn). Do đó,

dẫn đến tình trạng người áp dụng pháp luật không biết hết được các văn bản

hoặc có văn bản nhưng không hiểu hết các quy định và dẫn đến việc vận dụng

các quy định của pháp luật còn lúng túng, chưa chính xác. Thực tế thời gian

qua đã chứng minh nhiều địa phương không thể áp dụng được biện pháp đưa

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc mặc dù số lượng đối tượng đủ điều kiện áp

dụng các biện pháp này là rất nhiều [13, tr 31, 32].

- Về xác định đối tượng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ

sở cai nghiện bắt buộc: Luật XLVPHC năm 2012 quy định về đối tượng bị áp

dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, tuy

nhiên, quy định trên vẫn chưa đầy đủ và gây khó khăn cho quá trình áp dụng

biện pháp, cụ thể như sau:

Thứ nhất, về đối tượng đã được cai nghiện tại gia đình, cộng đồng mà

vẫn còn nghiện

Theo Điều 28 Luật Phòng chống ma túy năm 2000 sửa đổi, bổ sung năm

2008 quy định “Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên đã được cai nghiện

tại gia đình, cộng đồng hoặc đã được giáo dục nhiều lần tại xã, phường, thị

trấn mà vẫn còn nghiện hoặc không có nơi cư trú nhất định phải được đưa vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc”, trong khi đó, Luật XLVPHC năm 2012 không quy

định đối tượng đã được cai nghiện tại gia đình, cộng đồng mà vẫn còn nghiện

sẽ bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Nghiện ma túy

được xem là một tình trạng bệnh lý. Để thoát khỏi tình trạng nghiện, người

58

nghiện ma túy buộc phải cai nghiện, Luật Phòng chống ma túy quy định hai

phương pháp cai nghiện là cai nghiện tự nguyện và cai nghiện bắt buộc. Nhà

nước khuyến khích người nghiện tự nguyện cai nghiện, khuyến khích cai

nghiện tại gia đình và tại cộng đồng, bởi suy cho cùng, cai nghiện thực chất là

quá trình “điều trị nghiện” kiên trì và công phu. Điều quan trọng trong quá

trình cai nghiện là ý chí cá nhân và sự trợ giúp của gia đình, cộng đồng để

người bệnh có thể cắt cơn, phục hồi ngay trong môi trường sống quen thuộc

của mình. Tuy nhiên, không phải người nghiện ma túy nào cũng sẵn sàng cai

nghiện công khai tại gia đình và tại cộng đồng. Có trường hợp, mặc dù đối

tượng đã tham gia các chương trình cai nghiện tại gia đình và cộng đồng mà

vẫn còn nghiện thì vẫn có thể áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ

sở cai nghiện bắt buộc [8, tr 45].

Qua theo dõi công tác thi hành pháp luật về xử lý hành chính, thấy rằng,

hầu hết các địa phương đều tạm dừng, không áp dụng duy định của Luật

phòng, chống ma túy mà áp dụng các quy định của Luật XLVPHC năm 2012

để xử lý trường hợp người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên đã được cai

nghiện tại gia đình, cộng đồng mà vẫn còn nghiện [14, tr32]. Các đối tượng

này vừa phải chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại

phường, xã, thị trấn và được cấp Giấy chứng nhận đã chấp hành xong quyết

định áp dụng biện pháp giáo dục tại phường, xã, thị trấn do nghiện ma túy của

Chủ tịch UBND cấp xã theo quy định tại điểm đ khoản 1 điều 9 Nghị định

221/2013/NĐ-CP, vừa hoàn thành chương trình cai nghiện ma túy tại gia đình

hoặc cộng đồng theo quy định pháp luật về phòng, chống ma túy và được cấp

Giấy xác nhận hết thời gian cai nghiện ma túy tại gia đình hoặc cai nghiện ma

túy tại cộng đồng của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã theo quy định tại

điểm e khoản 1 Điều 9 Nghị định 221/2013/NĐ-CP thì mới bị áp dụng biện

pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Điều này xuất phát từ quy định về

việc áp dụng đồng thời áp dụng biện pháp cai nghiện tại gia đình, tại cộng

59

đồng trong quá trình bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại

phường, xã, thị trấn và không áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc đối với người đang tham gia các chương trình cai nghiện ma túy tại cộng

đồng. Cho đến nay thì ngoài Luật phòng chống ma túy hiện hành quy định về

trường hợp người nghiện ma túy đã được cai nghiện tại gia đình hoặc cộng

đồng mà vẫn còn nghiện phải được đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thì

không có văn bản nào khác quy định, điều này gây khó khăn cho việc áp dụng

pháp luật ở các địa phương.

Thứ hai, về đối tượng nghiện ma túy thuộc loại “côn đồ hung hãn”

Điều 118 Luật XLVPHC năm 2012 quy định “1. Trường hợp người thực

hiện hành vi vi phạm pháp luật vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục

bắt buộc vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thì áp dụng

biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

2. Trường hợp người nghiện ma túy thuộc loại côn đồ hung hãn thì áp

dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc. Cơ sở giáo dục bắt buộc

thực hiện việc cai nghiện cho đối tượng này”

Qua quy định trên cho thấy, yếu tố nhân thân là điều kiện quyết định họ

sẽ bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính nào khi vừa thuộc đối tượng bị áp

dụng biện pháp đưa vào cơ sở của nghiện bắt buộc, vừa thuộc đối tượng bị áp

dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc; yếu tố nhân thân ấy chính là

yếu tố “côn đồ hung hãn”. Tuy nhiên, thuật ngữ “côn đồ hung hãn” không

được quy định rõ ràng, tại Luật XLVPHC năm 2012 và các văn bản liên quan

đến việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đều không giải thích về thuật

ngữ này. Tham khảo các văn bản pháp luật có liên quan cũng không giải thích

về thuật ngữ “côn đồ hung hãn” mà chỉ có khái niệm về cụm từ “côn đồ”. Tại

Công văn số 38/NCPL ngày 06/01/1976 và Kết luận của Chánh án Tòa án

nhân dân tối cao tại Hội nghị tổng kết công tác ngành năm 1995, đã giải thích

về tình tiết “có tính chất côn đồ” như sau: Khái niệm côn đồ được hiểu là

60

những hành động của những tên coi thường pháp luật, luôn luôn phá rối trật

tự trị an, sẵn sàng dùng vũ lực, thích (hay) dùng vũ lực để uy hiếp người khác

phải khuất phục mình, vô cớ hoặc chỉ vì một duyên cớ nhỏ nhặt là đâm chém

hoặc thậm chí giết người. Hành động của chúng thường là xâm phạm sức

khỏe tính mạng, danh dự người khác, gây gổ hành hung người khác một cách

vô cớ hoặc vì một duyên cớ nhỏ nhặt.

Còn theo từ điển tiếng việt của Viện ngôn ngữ học, “côn đồ” có nghĩa là

“kẻ chuyên gây sự, hành hung” [16, tr 275]; theo đó, thuật ngữ “côn đồ” chỉ

chủ thể chứ không phải chỉ hành vi của chủ thể. Vì thế, cần phân biệt rõ giữa

“côn đồ” với tính chất là thuộc tính của hành vi vi phạm với “côn đồ” chỉ một

người xem thường pháp luật. Như vậy, nếu xem xét trên các góc độ thì thuật

ngữ “côn đồ hung hãn” tại Điều 118 Luật XLPHC năm 2012 dùng để chỉ một

người xem thường pháp luật. Do đó, một người vừa thuộc đối tượng đưa vào

cơ sở giáo dục bắt buộc, vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc thì việc chọn lựa áp dụng biện pháp xử lý hành chính nào phải căn cứ

vào nhân thân của người nghiện ma túy bao gồm: quá khứ của họ, tính cách,

thái độ xử sự của họ trong cuộc sống hàng ngày… Nếu xác định được đối

tượng là người xem thường pháp luật thì đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc,

ngược lại, nếu đó không phải là người xem thường pháp luật thì đưa vào cơ

sở cai nghiện bắt buộc. Tuy nhiên, cách giải thích như trên chỉ mang tính ý

nghĩa về mặt học thuật, nghiên cứu chứ không phải giải thích chính thức của

Tòa án nhân dân Tối cao nên không mang tính khuôn mẫu [6, tr 613]. Các cơ

quan có thẩm quyền trong việc lập hồ sơ, đề nghị và xem xét, áp dụng biện

pháp xử lý hành chính rất cần sự giải thích mang tính chính thức từ các cơ

quan có thẩm quyền về thuật ngữ “côn đồ hung hãn” để thống nhất áp dụng

pháp luật.

- Về độ tuổi áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc: Luật xử lý vi phạm hành chính quy định áp dụng biện pháp

61

xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện băt buộc Trong khi đó khoản 1

Điều 29 Luật phòng, chống ma túy năm 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2008 quy

định “Người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi đã được cai nghiện

tại gia đình, cộng đồng hoặc đã được giáo dục nhiều lần tại phường, xã, thị

trấn mà vẫn còn nghiện hoặc không có nơi cư trú nhất định thì được đưa vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc dành riêng cho họ”. Theo quy định này thì người từ

đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buôc và phải là cơ sở dành riêng cho họ. Tuy nhiên, việc cai

nghiện ma túy tại Cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với những đối tượng người

chưa thành niên trên trong trường hợp này không bị coi là áp dụng biện pháp

xử lý hành chính (khoản 3 Điều 29 Luật phòng, chống ma túy); nhưng Luật

phòng, chống ma túy lại không quy định trình tự, thủ tục đưa các đối tượng

này vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nên nếu áp dụng các chủ thể có thẩm quyền

cũng không biết phải thực hiện theo thủ tục nào.

Hiện nay, do có sự không thống nhất trong các quy định tại các văn bản

quy phạm pháp luật nêu trên nên các địa phương rất lúng túng trong việc xử

lý đối tượng người nghiện ma túy từ đủ 12 đến dưới 18 tuổi, trong khi đây là

nhóm đối tượng lẽ ra phải được quan tâm đặc biệt hơn, cần được cắt cơn, giải

độc, tư vấn tâm lý, chữa bệnh kịp thời, nếu để đến 6 năm sau mới áp dụng

biện pháp xử lý hành chính đối với người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi tại thời

điểm bị nghiện thì tính trạng nghiện của đối tượng sẽ ngày càng nặng, khó

chữa trị hơn.

- Về xác định “nơi cư trú ổn định” của người bị đề nghị áp dụng biện

pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc: Theo quy định tại Điều 96 Luật

XLVPHC, việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc đối với nghiện ma túy có nơi cư trú ổn định và người nghiện ma túy

không có nới cư trú ổn định có sự khác biệt. Nếu đối tượng nghiện ma túy

không có nơi cư tú ổn định thì sẽ bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai

62

nghiện bắt buộc, không qua biện pháp áp dụng biện pháp xử lý hành chính

giáo dục tại phường, xã, thị trấn. Sở dĩ, không thể áp dụng biện pháp giáo dục

tại phường, xã, thị trấn đối với người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn

định là vì theo quy định tại Điều 89 Luật XLVPHC năm 2012, biện pháp này

chỉ áp dụng với người có nơi cư trú ổn định nhằm giáo dục, quản lý họ tại nơi

cư tú trong trường hợp nhận thấy không cần thiết phải cách ly họ ra khỏi cộng

đồng. Chính vì thế, việc xác định nơi cư trú ổn định của người nghiện ma túy

là hết sức cần thiết.

Khoản 1 Điều 2 Nghị định số 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 của

Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc quy định “nơi cư trú ổn định là nơi người vi phạm thường

trú hoặc tạm trú nhưng phải là nơi người đó hiện đang thường xuyên sinh

sống”. Như vậy, một công dân muốn được xác định có “nơi cư trú ổn định”

thì phải thỏa mãn đồng thời cả hai điều kiện: có đăng ký thường trú hoặc tạm

trú; đang thường xuyên sinh sống tại nơi đăng ký thường trú hoặc tạm trú.

Nếu thiếu một trong hai điều kiện thì xem như không có “nơi cư trú ổn định”.

Việc xác định nơi cư trú ổn định trên thực tiễn vẫn còn gặp rất nhiều khó

khăn, vướng mắc.

Điều 12 Luật Cư trú quy định “Nơi cư trú của công dân là chỗ ở hợp

pháp mà người đó thường xuyên sinh sống. Nơi cư trú của công dân là nơi

thường trú hoặc tạm trú”. Như vậy, theo Luật Cư trú, nơi thường trú là nơi

công dân sinh sống thường xuyên, ổn định, không có thời hạn tại một chỗ ở

nhất định và đã đăng ký thường trú, còn nơi tạm trú là nơi công dân sinh sống

ngoài nơi đăng ký thường trú và đã đăng ký tạm trú. Trường hợp không xác

định được nơi cư trú theo quy định nêu trên thì nơi cư trú của công dân là nơi

người đó đang sinh sống và có xác nhận của Công an xã, phường, thị trấn.

Luật cư trú và cá văn bản hướng dẫn thi hành quy định công dân có nghĩa vụ

đăng ký thường trú hoặc đăng ký tạm trú để quản lý nhân khẩu. Trên thực tế,

63

có những trường hợp công dân không đăng ký thường trú, tạm trú, Luật cư trú

đã dành giải pháp là xác định nơi cư trú là nơi người đó đang sinh sống và có

xác nhận của Công an, xã, phường, thị trấn. Trong khi đó Luật XLVPHC và

các văn bản hướng dẫn thi hành lại quy định để xác định nơi cư trú là nơi họ

đăng ký thường trú hoặc tạm trú. Điều này dẫn tới một thực tế là người

nghiện ma túy mặc dù có chỗ ở và sinh sống lâu dài tại đó nhưng lại được

xem là không có nơi cư trú ổn định vì chưa thực hiện thủ tục đăng ký thường

trú hoặc tạm trú, vì thế mà bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ

sở cai nghiện bắt buộc ngay.

Đồng thời, quy định của pháp luật về nơi thường xuyên sinh sống của

đối tượng để áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc không rõ

ràng, cụ thể [9, tr 22]. Luật XLVPHC và các văn bản có liên quan xác định,

nơi cư trú là nơi đăng ký thường trú hoặc tạm trú và nơi thường xuyên sinh

sống. Nhưng lại không có một văn bản nào đề cập đến việc như thế nào là nơi

thường xuyên sinh sống. Chính vì thế, việc áp dụng pháp luật trong trường

hợp này không thống nhất giữa các địa phương, việc xác định người nghiện

có thường xuyên sinh sống tại nơi thường trú hoặc tạm trú hay không phụ

thuộc vào ý chí chủ quan của chủ thể tiến hành xác nhận chứ không có tiêu

chí cụ thể nào.

Hiện nay, trên thực tế việc xác định nơi cư trú ổn định của đối tượng bị

áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc vẫn còn gặp rất nhiều

khó khăn. Cách áp dụng pháp luật khác nhau giữa từng địa phương, do cách

hiểu khác nhau như thế nào là thường xuyên sinh sống. Hơn nữa các quy định

của pháp luật về việc xác định nơi cư trú ổn định chưa cụ thể, rõ ràng, dẫn

đến tình trạng lúng túng trong việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Đây cũng là một trong những nguyên nhân

khiến thời gian lập hồ sơ bị kéo dài.

64

Hai là về yếu tố kinh tế, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai là một huyện có

nền kinh tế đang trên đà phát triển; tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể, diện tích

rộng, dân cư tập trung ở một số vùng nhất định, nhiều dân tộc sinh sống trên địa

bàn nền kinh tế giữa các xã trong huyện có sự phát triển không đồng nhất. Công

tác áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc mặc

dù đã được huyện nhà quan tâm, chú trọng nhưng ngân sách lại không nhiều gây

khó khăn rất lớn trong quá trình áp dụng. Ở các trạm y tế cấp xã trong huyện có

chức năng cắt cơn, giải độc nhưng lại không đủ điều kiện về cơ sở vật chất để

thực hiện nhiệm vụ; cho nên, trong thời gian xây dựng, hoàn thiện hồ sơ đề nghị

áp dụng biện pháp xử lý hành chính, người nghiện được đưa vào khu xã hội của

Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đồng Nai; một phần gây khó khăn cho công

tác tống đạt các văn bản tố tụng của các cơ quan, mặt khác, số lượng người

nghiện quá đông dẫn đến tình trạng khó quản lý dẫn đến tình trạng “quá tải” nên

học viên trốn trại.

Ba là về yếu tố tâm lý xã hội, dân số trên địa bàn huyện Long Thành sống

thành từng nhóm ở từng vùng cách xa nhau, do địa bàn huyện rộng và có dân tộc

thiểu số sinh sống nên rất khó khăn trong công tác tuyên truyền về tác hại của

ma túy và việc cần thiết phải đưa người nghiện đi cai nghiện. Tâm lý chung là

người nghiện còn che dấu tình trạng nghiện, gia đình người nghiện còn “bao

che” cho người nghiện vì tâm lý xấu hổ, không muốn mọi người biết con, em

mình bị nghiện. Số người nghiện bên ngoài còn đông và số người nghiện chưa bị

phát hiện chắc rằng sẽ còn đông hơn rất nhiều vì tâm lý của người dân hiện nay.

Trong những năm qua, công tác vận động nhân dân, giáo dục ý thức, tuyên

truyền phổ biến pháp luật ngày càng được chú trọng, cụ thể: Năm 2018, công

tác tuyên truyền phòng chống ma túy, mại dâm, phòng chống HIV/AIDS và tệ

nạn xã hội đã được các ban ngành, đoàn thể của huyện Long Thành tập trung

triển khai sâu rộng đến các cấp, các ngành, đoàn thể, các tổ chức chính trị, xã

65

hội, các trường học, công nhân lao động và trên toàn địa bàn dân cư với nhiều

hình thức và nội dung phong phú, đa dạng.

Với những nỗ lực trên của các cơ quan chức năng trên địa bàn huyện,

bước đầu đã nhận được sự hưởng ứng từ nhân dân khi có một số trường hợp

tự nguyện trình báo tình trạng nghiện để có thể cai nghiện.

Tiểu kết chƣơng 2

Việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc trên địa bàn huyện Long Thành trong những năm trong những năm qua

được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật và nhanh chóng. Tuy nhiên,

tình hình tội phạm và tệ nạn ma túy trên địa bàn vẫn còn diễn biến khá phức

tạp. Thực tế áp dụng vẫn còn gặp nhiều vướng mắc do các quy định của pháp

luật còn mâu thuẫn, quy định chồng chéo nhau hay chưa quy định cụ thể, rõ

ràng dẫn đến tình trạng các địa phương có cách áp dụng khác nhau và các yếu

tố về kinh tế, tâm lý xã hội cũng ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình áp dụng

biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.Từ đó, cần có

những giải pháp để việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc trên cả nước và trên địa bàn huyện được hoàn thiện hơn.

66

CHƢƠNG 3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP

LUẬT VÀ BẢO ĐẢM ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH

ĐƢA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC TẠI HUYỆN LONG

THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI

3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm áp dụng biện pháp

xử lý hành chính đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là một

trong những chính sách nhân đạo của nhà nước trong việc giúp người nghiện

trở lại với cuộc sống bình thường. Các đối tượng bị nghiện được cai miễn phí

mà không phải chịu bất kì một chi phí phát sinh nào, trong quá trình cai

nghiện, người nghiện còn được học, giáo dục, được dạy nghề để đảm bảo cho

cuộc sống sau này khi cai nghiện thành công. Để thực hiện được chương trình

cai nghiện mang đậm tính nhân văn nói trên đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng

nghỉ của cả một hệ thống chính trị, đề ra nhiều phương án, giải pháp cũng như

nhiều phương pháp cai nghiện cụ thể, áp dụng với từng đối tượng để tránh

trường hợp họ tái nghiện trở lại. Trong những năm gần đây, số trường hợp bị

áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ngày càng tăng nhưng

vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phòng, chống tệ nạn xã hội; số người nghiện

bên ngoài vẫn ngày càng tăng mà những khó khăn vướng mắc khi áp dụng

pháp luật lại ảnh hưởng lớn tới quá trình xem xét áp dụng biện pháp xử lý

hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Để hoàn thiện áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc cần

thực hiện dựa trên những quan điểm sau:

Một là việc đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện là nhiệm vụ chung

của toàn xã hội, chính vì vậy, cần có sự chung tay, giúp sức của cả cộng đồng.

Các địa phương cần bám sát vào tình hình thực tiễn để có những chủ trương,

chính sách phù hợp. Nhà nước cần ban hành quy chế phối hợp giữa các ban

ngành, tổ chức chính trị - xã hội, trong đó đề cao vai trò của tổ chức Đoàn

67

Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, hội Liên hiệp phụ nữ là những tổ chức

gần với quần chúng nhân dân nên việc vận động sẽ dễ dàng hơn; gần gũi nên

việc tuyên truyền các chủ trương, chính sách của nhà nước nhận được sự đồng

tình hơn của quần chúng. Bên cạnh sự phối hợp, tham gia của hệ thống chính

trị thì cần phải chú trọng đào tạo, tập huấn, thi hành pháp luật cho những

người được giao quyền thực hiện cũng như cần sự giúp sức, đồng lòng từ cá

nhân, tổ chức, tập thể thì việc đưa người đi cai mới hiệu quả và triệt để.

Hai là phải thực hiện đồng bộ các giải pháp hoàn thiện áp dụng biện

pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Việc đề ra các giải pháp để hoàn thiện áp dụng biện pháp xử lý hành

chính là điều rất cần thiết, việc thực hiện đồng bộ được các giải pháp đã đề ra

cũng là yêu cầu cốt lõi được đặt ra. Việc thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp

khác nhau các đối tượng được hướng tới có thể tiếp cận và lĩnh hội được

nhiều kiến thức cơ bản về tác hại của ma túy.

Ba là từ những kết quả đã đạt được của những năm trước để rút ra được

những kinh nghiệm

quý báu trong tư duy để giải quyết công việc một cách nhanh chóng, kịp

thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện các biện pháp đưa

người nghiện đi cai tại cơ sở cai nghiện bắt buộc. Ngoài ra, việc đổi mới nhận

thức trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo cần được chú trọng. Phải xem việc áp

dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là trách

nhiệm của nhà nước nên cần được quan tâm để tác này ngày càng thực hiện

có hiệu quả.

3.2. Hoàn thiện pháp luật về áp dụng biện pháp xử lý hành chính

đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

3.2.1 Quy định để xác định thống nhất “nơi cư trú”, vấn đề liên quan

đối tượng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc.

68

Thứ nhất, về xác định nơi cư trú ổn định

Như đã phân tích việc xác định “nơi cư trú ổn định” của người nghiện là

một vấn đề phức tạp do các văn bản quy phạm pháp luật có những quy định

khác nhau. Vì thế, cần phải quy định để xác định thống nhất về nơi cư trú theo

hướng:

Sửa đổi, bổ sung tiêu chí “nơi cư trú ổn định” trong Nghị định số

221/2013/NĐ-CP theo hướng để phù hợp hơn với các quy định của Luật cư

trú; bởi lẽ, luật cư trú là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất điều chỉnh về vấn

đề cư trú của mọi công dân nên những quy định liên quan đến vấn đề cư trú

trong các văn bản pháp luật khác cần phải được thống nhất theo tinh thần của

Luật cư trú. Theo đó, Điều 40 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “Nơi cư trú

của cá nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống. Trường hợp không xác

định được nơi cư trú của cá nhân theo quy định tại khoản 1 điều này thì nơi cư

trú là nơi người đó đang sinh sống”. Do đó, quy định về “nơi cư trú ổn định”

theo Khoản 1 Điều 2 Nghị định số 221/2013/NĐ-CP cần được sửa đổi, bổ

sung như sau: “Nơi cư trú ổn định là nơi người vi phạm thường trú hoặc tạm

trú, trường hợp chưa thực hiện đăng ký thường trú hoặc đăng ký tạm trú thì

nơi cư trú là nơi người đó đang sinh sống theo xác nhận của công an xã,

phường, thị trấn nhưng phải là nơi người đó hiện đang thường xuyên sinh

sống”.

Tuy nhiên để quy định về “nơi cư trú ổn định” được thống nhất áp dụng

trên thực tế thì Nghị định số 221/2013/NĐ-CP cần quy định bổ sung về việc

giải thích thuật ngữ “thường xuyên sinh sống”. Cụ thể Điều 30 Luật Cư trú

quy định “Trường hợp người đã đăng ký tạm trú nhưng không sinh sống, làm

việc, lao động, học tập từ sáu tháng trở lên tại địa phương đã đăng ký tạm trú

thì cơ quan đã cấp sổ tạm trú phải xóa tên người đó trong sổ tạm trú”. Quy

định của Luật cư trú mặc dù không trực tiếp giải thích cụ thể thế nào là

thường xuyên sinh sống nhưng lại gián tiếp thừa nhận tiêu chí để coi một

69

người thường xuyên sinh sống tại nơi họ đang sống phải có thời gian sống ở

đó từ sáu tháng trở lên. Cho nên Nghị định 221/2013/NĐ-CP có thể quy định

như sau “Nơi người vi phạm thường xuyên sinh sống là nơi người đó đã cư

trú liên tục từ sáu tháng trở lên tính đến thời điểm bị phát hiện sử dụng trái

phép chất ma túy”. Việc quy định “cư trú liên tục từ sáu tháng trở lên” là hợp

lý và phù hợp với tinh thần của Luật Cư trú.

Thứ hai, về xác định đối tượng áp dụng của biện pháp đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc

Một là cần bổ sung thêm đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành

chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại khoản 1 Điều 96 Luật XLVPHC

năm 2012 đó là người đã từng cai nghiện tại gia đình, cai nghiện tại cộng

đồng nhưng vẫn còn nghiện, cụ thể như sau: “Đối tượng áp dụng biện pháp

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở

lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà vẫn còn

nghiện hoặc đã cai nghiện tại gia đình, cai nghiện tại cộng đồng mà vẫn còn

nghiện hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú ổn

định”.

Quy định như vậy sẽ đáp ứng được yêu cầu phòng, chống tệ nạn xã hội

cũng như yêu cầu quản lý các đối tượng nghiện của các địa phương, bởi lẽ

nếu không áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc đối với những đối tượng này địa phương sẽ rất khó kiểm soát tình hình

nghiện.

Hai là cần ban hành Nghị quyết quy định về đối tượng nghiện ma túy

thuộc loại côn đồ, hung hãn. Như trên đã phân tích, trong Luật XLVPHC và

các văn bản pháp luật hành chính có liên quan đều không giải thích thế nào là

“côn đồ hung hãn” mà theo điểm b khoản 2 Điều 22 Luật Tổ chức Tòa án

nhân dân năm 2014 quy định “Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

ban hành nghị quyết hướng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật”;

70

cho nên, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cần ban hành Nghị

quyết để hướng dẫn thế nào là “côn đồ hung hãn” nhằm tạo hành lang pháp

lý cho việc thống nhất áp dụng pháp luật ở các Tòa án nhân dân cấp quận,

huyện.

Ba là cần mở rộng độ tuổi của đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành

chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Theo tác giả, Luật XLVPHC năm

2012 nên có sự điều chỉnh về độ tuổi và đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc; cụ thể là bổ sung đối tượng áp dụng biện pháp xử

lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người từ đủ 14 tuổi

trở lên. Đối chiếu với các quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ

sung năm 2017 thì người từ đủ 14 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự

đối với tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy, việc mở rộng

đối tượng bị áp dụng biện pháp hành chính đối với người từ đủ 14 tuổi về mặt

pháp lý là phù hợp, đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống tư pháp đối với người

chưa thành niên, về mặt thực tiễn thì đảm bảo được yêu cầu phòng, chống tệ

nạn xã hội. Mặc dù, trong giai đoạn hiện nay, các cơ sở cai nghiện ma túy

chưa đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn như về cơ sở vật chất, trang thiết bị,

chất lượng điều trị, tình trạng quá tải xảy ra ở nhiều nơi như Đồng Nai, Bình

Dương...Tuy nhiên, việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc đối với người nghiện ma túy từ đủ 14 tuổi đến dưới 18

tuổi là điều cần thiết và để phù hợp với đặc điểm thể chất và tâm sinh lý của

người chưa thành niên,tác giả kiến nghị nên xây dựng khu riêng biệt dành cho

độ tuổi dưới 18 trong các Cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc.

Đối với người từ đủ 12 đến dưới 14 tuổi, Luật Phòng, chống ma túy có

quy định việc đưa đối tượng này vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhưng đây

không phải là biện pháp xử lý hành chính. Tuy nhiên, thực tế cho thấy những

đối tượng này còn quá nhỏ, nhưng để họ sống ngoài cộng đồng mà không

được sự quản lý chặt chẽ thì tình trạng nghiện sẽ càng nặng hơn. Do vậy, tác

71

giả kiến nghị, ngoài khu dành cho người nghiện từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi, thì

trong các cơ sở cai nghiện bắt buộc xây dựng thêm khu vực dành cho người

từ đủ 12 đến dưới 14 tuổi bị nghiện. Và phải quy định rõ trình tự, thủ tục đưa

người từ đủ 12 đến dưới 14 tuổi đi cai nghiện.

3.2.2. Hoàn thiện hệ thống biểu mẫu sử dụng trong áp dụng biện pháp

xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Đối với các biểu mẫu trong việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp

xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Tòa án nhân dân thì đã

thống nhất thực hiện theo Nghị quyết số 04/2015/NQ-HĐTP ngày 24 tháng

12 năm 2015 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Đối với các biểu mẫu trong giai đoạn lập hồ sơ đề nghị, đề nghị áp dụng

biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc mặc dù đã có Thông tư số

14/2014/TT-BLĐTBXH ngày 12 tháng 6 năm 2014 của Bộ Lao động –

Thương binh và Xã hội; Thông tư số 05/2018/TT-BCA ngày 07/02/2018 của

Bộ Công an; tuy nhiên, các địa phương vẫn ban hành các biểu mẫu khác nhau

để áp dụng. Cho nên cần xác định rõ việc sử dụng biểu mẫu trong giai đoạn

lập hồ sơ đề nghị tránh tình trạng áp dụng khác nhau. Việc ban hành các biểu

mẫu về thu thập tài liệu, lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có thể theo hướng sau:

Thứ nhất, Bộ Công an đã ban hành Thông tư số 05/2018/TT-BCA ngày

07/02/2018 có đính kèm các biểu mẫu sử dụng trong việc thu thập tài liệu, lập

hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc; vì thế, các địa phương cần ban hành Quy chế phối hợp lập hồ sơ và

tổ chức cai nghiện trên địa bàn để thống nhất áp dụng theo biểu mẫu Thông tư

số 05/2018/TT-BCA.

Thứ hai, Thống nhất sử dụng các biểu mẫu theo Thông tư 14/2014/TT-

BLĐTBXH ngày 12/6/2014 trên cơ sở sửa đổi bổ sung quy định các biểu mẫu

về việc thu thập tài liệu, lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính

72

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và bổ sung quy định “các địa phương áp

dụng thống nhất các biểu mẫu theo Thông tư này”.

3.2.3. Quy định bổ sung về thủ tục, trình tự xác định tình trạng

nghiện.

Trong việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc, khó khăn lớn hiện nay là việc xác định tình trạng nghiện ma túy.

Việc xác định tình trạng nghiện ma túy hiện nay gặp rất nhiều khó khăn xuất

phát từ quy định pháp luật về trình tự, thủ tục và thời gian xác định tình trạng

nghiện, vì thế cần sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến việc xác định

tình trạng nghiện như sau:

Một là, bổ sung khoản 1 Điều 122 Luật XLVPHC năm 2012 theo hướng

quy định trường hợp áp dụng biện pháp tại giữ người theo thủ tục hành chính

để xác định tình trạng nghiện ma túy, thời gian tạm giữ tối đa là 05 ngày

nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và thống nhất với các quy định pháp luật

có liên quan.

Hai là, sửa đổi, bổ sung Điều 5 Thông tư số 17/2015/TTLT-BYT-BCA-

BLĐTBXH theo hướng đơn giản, dễ thực hiện, hướng dẫn xác định tình

trạng nghiện đối với các chất nghiện mới phát sinh ngoài nhóm OPIATS và

nhóm AMPHETAMINE, bổ sung thêm nhiều chất ma túy khác hiện được sử

dụng khá phổ biến ở nước ta song chưa được hướng dẫn xác định tình trạng

nghiện như Cần sa hay Cocaine. Một số loại ma túy mới như “Cỏ Mỹ” (LRX-

11), “Tem lưỡi” (LSD) được giới trẻ sử dụng nhiều ở các thành phố lớn song

chưa có sinh phẩm xét nghiệm để phát hiện người sử dụng chất này dẫn đến

không xử lý được hành vi sử dụng ma túy trái phép, cũng như không xác định

được tình trạng nghiện để áp dụng các biện pháp xử lý hành chính theo quy

định của pháp luật; cần phải có quy định cụ thể về cơ sở pháp lý, hình thức

đưa người có hành vi vi phạm đi xác định tình trạng nghiện ma túy; đồng thời

phải đầu tư cơ sở vật chất, quy định rõ lực lượng lượng nào đảm bảo an ninh

73

trật tự, quy định quyền và nghĩa vụ của người có hành vi vi phạm trong thời

gian tạm giữ để xác định tình trạng nghiện.

3.2.4. Quy định rút gọn trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành

chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Sửa đổi các quy định tại khoản 3 Điều 103 Luật XLPHC năm 2012 theo

hướng bỏ bớt khâu trung gian, giao cho Phòng Lao động –Thương binh và Xã

hội là cơ quan vừa kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ, vừa là cơ quan đề nghị áp

dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Đối với kiến nghị này thì

cần phải nâng cao trách nhiệm của Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội

khi là cơ quan “làm luôn cả phần việc của Phòng Tư pháp”; đồng thời rút

ngắn thời gian kiểm tra tính pháp lý và đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ

sở cai nghiện bắt buộc. Trước đây, hai giai đoạn này thời gian tối đa để

chuyển được hồ sơ qua Tòa án là 12 ngày, kiến nghị khi giao cho Phòng Lao

động – Thương binh và Xã hội làm cả hai công việc trên thì nên rút xuống

thời gian tối đa là 8 ngày phải chuyển hồ sơ qua Tòa án hoặc trả lại hồ sơ cho

cơ quan lập hồ sơ trong trường hợp có thiếu sót.

Bãi bỏ quy định Thông báo cho người bị đề nghị áp dụng hoặc người đại

diện của họ về việc lập hồ sơ. Bởi lẽ, tại Tòa án cấp huyện thì người bị đề

nghị cũng sẽ được tiếp cận với các tài liệu có trong hồ sơ và có quyền ý kiến,

quy định này sẽ vẫn đảm bảo cho người bị đề nghị được quyền tiếp cận thông

tin mà lại tránh được trường hợp người bị đề nghị bỏ trốn khỏi địa phương khi

nhận được Thông báo của cơ quan lập hồ sơ, gây khó khăn cho các cơ qua

khác trong quá trình xem xét, áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ

sở cai nghiện bắt buộc.

Việc sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện các quy định của pháp luật về biện

pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là một việc làm hết

sức cần thiết, để cho các quy định được áp dụng thống nhất, rõ ràng trên thực

tế.

74

3.2.5. Nhóm giải pháp khác.

Áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có ý nghĩa rất

quan trọng trong công tác phòng ngừa các tệ nạn xã hội. Để việc áp dụng biện

pháp trên được hiệu quả hơn, ngoài việc hoàn thiện các quy định của pháp

luật thì cần chú trọng vào các vấn đề sau:

Thứ nhất, trong những năm vừa qua tình trạng các cơ sở điều trị nghiện

trên cả nước xuống cấp, quá tải trong khi số học viên ngày càng gia tăng dẫn

đến tình trạng học viên trốn trại. Để giảm thilểu tình trạng này cần đầu tư, xây

dựng lại các cơ sở cai nghiện bắt buộc; khi cơ sở cai nghiện đáp ứng được các

yêu cầu về trang thiết bị, cơ sở vật chất, nguồn nhân lực ….thì sẽ không còn

tình trạng ở các địa phương phải hạn chế số lượng đối tượng bị đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc.

Thứ hai, các địa phương cần tăng cường công tác truyên truyền, phổ biến

các quy định của pháp luật cho người dân để pháp luật đi sâu vào cuộc sống.

Các chính sách của pháp luật hành chính về biện pháp đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc phải thường xuyên tuyên truyền cho nhân dân. Việc tuyên

truyền thực hiện qua các kênh thông tin gián tiếp như đài, báo….và trực tiếp

và tổ chức các cuộc thi, buổi nói chuyện hay cử từng nhóm về các vùng có

kinh tế khó khăn trên địa bàn để tiếp xúc và hỗ trợ họ trong việc tìm hiểu các

chính sách; bởi lẽ cộng đồng xã hội có vai trò quan trọng trong việc áp dụng

biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc cũng như hỗ trợ người nghiện

khi họ tái hòa nhập cộng đồng. Tuyên truyền để bãi bỏ đi tư tưởng kỳ thị, xa

lánh người nghiện, tư tưởng che dấu tình trạng nghiện của bản thân hay người

thân.

3.3. Các giải pháp bảo đảm áp dụng biện pháp đƣa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành.

3.3.1. Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc áp dụng biện pháp

xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

75

Để biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được

thực hiện nhanh gọn và có hiệu quả thì công tác lãnh đạo, chỉ đạo áp dụng

biện pháp này là một việc làm hết sức cần thiết. Chủ trương lãnh đạo của các

cấp chính quyền, cấp ủy trên địa bàn phải phù hợp với đường lối, chính sách

của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đồng thời phải phù hợp với tình hình thực

tế của địa phương để có những chỉ đạo đúng đắn. Công tác này đòi hỏi sự

chung sức, đồng lòng của cấp chính quyền, công an, Tòa án mà còn cần sự

giúp sức của các cơ quan khác trên địa bàn. Việc ban hành quy chế phối hợp

giữa các cơ quan Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai đã ban hành để áp dụng

chung cho các địa bàn trong tỉnh; nhưng để việc áp dụng biện pháp xử lý hành

chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đạt hiệu quả cơ quan có thẩm quyền

phải bám sát vào tình hình thực tế của địa phương, đưa ra đường lối phù hợp

để đồng thời giúp cho những người nghiện tái hòa nhập cộng đồng hơn.

Đối với các trường hợp pháp luật về xử lý hành chính không quy định

hoặc quy định chưa cụ thể, rõ ràng thì các cơ quan hữu quan phải có sự phối

hợp chặt chẽ, đề ra giải pháp để thống nhất giải quyết vấn đề. Phối hợp trong

công tác kiểm tra, rà soát phát hiện các đối tượng bị nghiện. Việc kiểm tra cần

huy động được sự tham gia của nhân dân trong huyện để đạt hiệu quả cao

hơn.

3.3.2. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và xử lý các hành vi vi

phạm trong quá trình áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc.

Hiện nay thẩm quyền xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành

chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc giao cho Tòa án nhân dân cấp huyện,

thẩm quyền lập hồ sơ được giao cho Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã với sự

hỗ trợ của Công an xã. Chính vì vậy, cấp chính quyền, cấp ủy ở địa phương

cần phải giám sát kiểm tra quá trình lập hồ sơ và đề nghị hơn để tránh được

những vi phạm của những người áp dụng pháp luật và những sai sót khi hồ sơ

76

đã chuyển qua Tòa án. Các cơ quan có liên quan có trách nhiệm phối hợp

trong việc phát hiện những thiếu sót và có giải pháp để tháo gỡ những sai sót,

vướng mắc đó.

Định kỳ tổ chức các cuộc họp liên ngành giữa chính quyền, cấp ủy ở địa

phương với Tòa án, Công an, Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội. Tại

huyện Long Thành hàng năm Ủy ban nhân dân huyện Long Thành đều tổ

chức cuộc họp đẻ báo cáo về kết quả công tác phòng, chống tệ nạn xã hội

trong năm và phương hướng cho những năm tới. Tuy nhiên, địa phương cần

có cuộc họp liên ngành định kỳ 3 tháng một lần để đánh giá những mặt đạt

được, những khó khăn trong quá trình thực hiện để kịp thời giải trình nguyên

nhân của những thiếu sót, vi phạm và có phương hướng khắc phục. Đối với

những trường hợp có vướng mắc như ở giai đoạn hạn chế đưa người nghiện

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thì cuộc họp liên ngành giữa các cơ quan để tìm

cách giải quyết các trường hợp hiện đã lập hồ sơ áp dụng biện pháp xử lý

hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc càng trở nên cần thiêt hơn.

Cấp ủy, cấp chính quyền ở địa phương cần kiểm tra đột xuất việc lập hồ

sơ ở cấp cơ sở để phát hiện ra những sai sót như chậm trễ về thời gian lập hồ

sơ để có biện pháp xử lý tánh những vi phạm khác.

3.3.3. Nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ trong quá trình áp dụng

biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Việc nâng cao năng lực cho đội ngũ cán công chức có trách nhiệm trong

việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là

điều hết sức cần thiết. Cán bộ là nhân tố quan trọng có vai trò chính trong việc

giáo dục, quản lý các đối tượng. Do đó, đội ngũ cán bộ phải đủ về số lượng,

chuyên môn, nghiệp vụ.

Đối với đội ngũ cán bộ giúp cho Chủ tịch ủy ban nhân dân lập hồ sơ đề

nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính là Công an xã, phường, thị trấn; do

ở trên địa bàn huyện, đội ngũ này đa phần không được đào tạo bài bản mà lại

77

là đội ngũ có vai trò quan trọng trong quá trình áp dụng biện pháp xử lý hành

chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Nếu hồ sơ được lập đầy đủ, hoàn

thiện thì các bước tiếp theo sẽ được thực hiện trôi chảy hơn. Việc tăng cường

đào tạo, bồi dưỡng cho công an xã, phường, thị trấn hết sức cần thiết.

Đối với các chức danh khác như Trưởng phòng tư pháp, Trưởng phòng

Lao động – Thương binh và Xã hội, Tòa án kiêm nhiệm nhiều công việc nên

không có thời gian nghiên cứu chuyên sâu về các quy định của pháp luật xử lý

hành chính; cho nên, cần phải bồi dưỡng các chuyên đề chuyên sâu về áp

dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Để nâng cao năng lực cho các chủ thể áp dụng pháp luật xử lý hành

chính cần thực hiện như sau:

Thứ nhất, Tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ về phòng,

chống ma túy, áp dụng các biện pháp xử lý hành chính ngắn hạn, dài hạn cho

cán bộ phụ trách công tác xử lý hành chính. Bồi dưỡng kỹ năng vận động,

giáo dục, quản lý, theo dõi đối tượng ma túy tại địa phương.

Thứ hai, cần phát huy vai trò tham mưu của lực lượng Công an trong

công tác tham mưu lập hồ sơ, tổ chức triển khai có hiệu quả chương trình, kế

hoạch phòng, chống ma túy trên địa bàn.

Thứ ba, trong xu thế tinh giảm biên chế hiện nay, việc bổ sung biên chế

để chuyên trách thực hiện công tác xử lý hành chính là rất khó khăn, vì thế

lãnh đạo huyện cần chú trọng xem xét giảm tải số lượng công việc giao cho

các chủ thể kiêm thêm mảng xử lý hành chính để đạt hiệu quả cao.

Thứ tư, cần nâng cao chế độ đãi ngộ đối với người làm công tác áp dụng

biện pháp xử lý hành chính để khuyến khích họ yên tâm công tác.

3.3.4. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nâng cao nhận thức

của người dân về công tác cai nghiện ma túy.

Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật để cho người dân

hiểu về tác hại của ma túy, pháp luật về xử lý hành chính; đặc biệt cần quan

78

tâm nhiều hơn tới lứa tuổi thanh, thiếu niên trên địa bàn để giảm số lượng

người chưa thành niên có hành vi vi phạm pháp luật.

Tổ chức các cuộc thi, các phiên tòa giả định tại các trường học về vấn đề

ma túy cũng như các buổi nói chuyện về việc áp dụng biện pháp xử lý hành

chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc để nâng cao nhận thức cho lứa tuổi

còn ngồi trên ghế nhà trường.

Với những người đang tự nguyện cai nghiện tại gia đình, huyện cần có

những phương án để đề cao trách nhiệm của gia đình; đồng thời khuyến khích

nhân dân đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện tự nguyện để đảm bảo về

mặt hiệu quả cũng như giảm khả năng tái nghiện.

Đối với Tòa án cấp huyện, tổ chức thường xuyên các phiên tòa hình sự

xét xử lưu động để tuyên truyền cho người dân địa phương biết về tác hại của

ma túy để từ đó hạn chế được tình trạng nghiện ma túy.

3.3.5. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan trong quá trình áp dụng

biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Các cơ quan hữu quan như Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội

huyện Long Thành, Trung tâm y tế huyện, đội phòng chống ma túy thuộc

công an huyện cần thường xuyên có kế hoạch rà soát, thống kê, quản lý người

nghiện để bám sát được tình hình thực tế của địa bàn nhằm có phương án để

quản lý các đối tượng nghiện.

Định kỳ hàng quý, hoặc khi có sự việc phát sinh cần họp liên hành giữa

các đơn vị là Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội, Công an, Viện kiểm

sát huyện và Tòa án nhân dân huyện Long Thành để cùng bàn bạc, tháo gỡ

những vấn đề vướng mắc trong quá trình lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Trong quá trình này, đòi hỏi các cơ quan

hữu quan phải có mối liên hệ chặt chẽ để vụ việc được giải quyết nhanh

chóng, tránh trường hợp chậm trễ gây ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp

của các đối tượng.

79

Tiểu kết chƣơng 3

Tệ nạn ma túy trong cả nước nói chung và tại địa bàn huyện Long Thành

nói riêng ngày càng diễn biến phức tạp hơn. Vì vậy, việc đề ra các giải pháp

để hoàn thiện áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc là điều cần thiết. Các giải pháp về hoàn thiện hệ thống pháp luật về

biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc phải được tiến hành đồng bộ với

giải pháp về tổ chức thực hiện. Việc tiến hành một cách có hiệu quả, đồng bộ

và khoa học các giải pháp này có ý nghĩa to lớn góp phần giải quyết kịp thời

những tệ nạn, nhức nhối trong đời sống xã hội, giữ gìn an ninh, trật tự; giúp

người nghiện trở thành ngời có ích cho xã hội và còn góp phần tích cực vào

công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm, bảo đảm quyền và lợi ích của công

dân và toàn xã hội.

80

KẾT LUẬN CHUNG

Ma túy luôn là mối hiểm họa khôn lường cho xã hội, người nghiện ma

túy luôn được Đảng, Nhà nước và cộng đồng xã hội quan tâm, khuyến khích

cai nghiện. Biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thể

hiện tinh thần nhân đạo, nhân văn cao cả và là một trong những quyết định

kịp thời, sáng suốt của Đảng và Nhà nước trong công tác đẩy lùi tội phạm

cũng như khám chữa bệnh cho các đối tượng bị nghiện. Nhận thức được vai

trò quan trọng và to lớn của biện pháp, luận văn đã đi sâu vào phân tích

những vấn đề lý luận và pháp lý về áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, nêu rõ bất cập của các quy định pháp luật hiện

nay có ảnh hưởng đến quá trình áp dụng biện pháp và phân tích vấn đề cụ thể

tại một địa phương cụ thể là huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai. Từ đó, nêu ra

các giải pháp để hoàn thiện áp dụng biện pháp xử lý hành chính trên theo

hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật và một số giải pháp cụ thể áp dụng trên

địa bàn huyện Long Thành.

Tại huyện Long Thành việc áp dụng biện pháp trên được chính quyền và

nhân dân xem trọng, là vùng có nền kinh tế đang trên đà phát triển cùng với

dự án Sân bay quốc tế Long Thành kéo theo số người nghiện ngày càng tăng.

Trong những năm qua, huyện đã thực hiện đúng theo đường lối chính sách

của Đảng, pháp luật của nhà nước trong công tác đưa người nghiện đi cai

nghiện. Tuy nhiên, số lượng người nghiện ngoài cộng đồng còn nhiều chính

vì vậy địa phương cần thực hiện đồng bộ các giải pháp để hoàn thiện áp dụng

biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

81

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Lâm Trâm Anh (2010), xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh

vực du lịch, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường đại học Luật Thành

phố Hồ Chí Minh.

2. Đào Thị Thu An (2011), Biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh trong sự

thảo luật xử lý vi phạm hành chính, Tạp chí nghiên cứ lập pháp số

20/2011.

3. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Thông tư 14/2014/TT-

BLĐTBXH, ngay2 12/6/2014 ban hành biểu mẫu về lập hồ sơ đề

nghị, thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và hướng dẫn xây dựng nội quy, quy

chế đối với học viên của cơ sở cai nghiện bắt buộc.

4. Bộ Y tế, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Công an (2015),

Thông tư liên tịch số 17/2015/TTLT-BYT-BLĐTBXH-BCA, ngày

9/7/2015 về quy định thẩm quyền, thủ tục và quy trình xác định tình

trạng nghiện ma túy.

5. Chính phủ (2013), Nghị định số 221 NĐ-CP/2013 Ngày 30 tháng 12

năm 2013 về quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính

đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

6. Chính phủ (2016), Nghị định số 136/2016/NĐ-CP, ngày 09/9/2016 về

sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số 221/2013/NĐ-CP ngày

30 tháng 12 năm 2013 quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành

chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

7. Nguyễn Thành Công (2003), Nghiên cứu các giải pháp nhằm nâng

cao hiệu quảquản lý cai nghiện ma túy và sau cai, Đề tài nghiên cứu

khoa học cấp thành phố,Hà Nội.

8. Trịnh Tất Đạt(2009), Từ điển tiếng việt, Nxb từ điển bách khoa.

82

9. Nguyễn Cảnh Hợp (Chủ biên) (2014) Bình luận khoa học về luật xử

lý vi phạm hành chính năm 2012,tập 1, Nhà xuất bản Đại học quốc

gia Thành phố Hồ Chí Minh.

10. Nguyễn Cảnh Hợp (Chủ biên) (2015) , Bình luận khoa học Luật xử

lý vi phạm hành chính năm 2012, tập 2, Nhà xuất bản Đại học quốc

gia Thành phố Hồ Chí Minh.

11. Lưu Hồng Ngọc Hiền (2018), Áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc tại tỉnh Sóc Trăng, Luận văn thạc sĩ luật học,

Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.

12. Nguyễn Quốc Hiệu (2016), Đảm bảo quyền con người trong cơ sở

cai nghiện bắt buộc qua thực tiễn thành phố Hải Phòng, Luận văn

thạc sĩ.

13. Cao Vũ Minh (2016), “Hoàn thiện quy định pháp luật về biện pháp

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc”, Tạp chí Luật học số 2.

14. Cao Vũ Minh, Nguyễn Nhật Khanh (2016), “Những bất cập trong

các quy định về biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và các

kiến nghị hoàn thiện”, Tạp chí nghiên cứu Lập pháp số 14.

15. Chu Văn Quang – Trần Quang Huân – Nguyễn Trọng Huy, Mất

nhiều thời gian đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc,

https://kiemsat.vn/mat-nhieu-thoi-gian-dua-nguoi-vao-co-so-cai-

nghien-bat-buoc-46818.html

16. Quốc hội (2012), Luật xử lý vi phạm hành chính 2012.

17. Quốc hội (2012), Luật Phòng chống ma túy năm 2000, sửa đổi, bổ

sung năm 2008.

18. Quốc hội (2012), Bộ luật Dân sự năm 2015.

19. Lưu Xuân Sang (2017), “Những vấn đề rút ra qua công tác kiểm sát

việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc”, Tạp chí Kiểm sát số 02.

83

20. Đặng Thanh Sơn (chủ nhiệm) cùng nhóm nghiên cứu (2009), Các

biện phápXLHC khác và việc bảo đảm quyền con người,Đề tài nghiên

cứu khoa học cấpBộ của Bộ Tư pháp.

21. Tài liệu Hội nghị tập huấn chuyên sâu về áp dụng biện pháp xử lý

hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Đồng Nai tháng 9

năm 2017.

22. Phạm Tiến Thành.(2014), Từ biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ

sở chữabệnh đến biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, Luận

văn thạc sĩ.

23. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2014) Pháp lệnh số

09/2014/UBTVQH13 ngày 20/01/2014 về trình tự, thủ tục xem xét,

quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân

dân.

24. Viện ngôn ngữ học - Hoàng Phê chủ biên (năm 2010), Từ điển Tiếng

việt, NXB Từ điển Bách Khoa.

25. https://vi.wikipedia.org/wiki/Long_Th%C3%A0nh?fbclid=IwAR1xz

P356k9kjGmQdgB9wewpC8DbqK-AsUu7ObxEafgXd_XXUkWLQ-

oEbLE, vị trí địa lý, tự nhiên của huyện Long Thành.

84