BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………
BỘ NỘI VỤ ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
PHAN THỊ NGÂN
ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƢA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC TẠI HUYỆN
LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO …………/…………
BỘ NỘI VỤ ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
PHAN THỊ NGÂN
ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH
ĐƢA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC TẠI HUYỆN
LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Mã số: 8 38 01 02 NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐINH VĂN MINH
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng kết quả nghiên cứu trong luận là hoàn toàn trung
thực và không trùng lắp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này!
Tác giả luận văn
Phan Thị Ngân
LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện và hoàn thành đề tài nghiên cứu khoa học này, em đã nhận
được sự hỗ trợ, giúp đỡ cũng như là quan tâm, động viên từ các thầy cô, bạn
học và gia đình. Nghiên cứu khoa học cũng được hoàn thành dựa trên sự tham
khảo, học tập kinh nghiệm từ các kết quả nghiên cứu liên quan, các sách, báo
chuyên ngành của nhiều tác giả ở các trường Đại học.
Trước hết, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy Đinh Văn Minh –
người trực tiếp hướng dẫn khoa học đã luôn dành nhiều thời gian, công sức
hướng dẫn em trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu và hoàn thành đề tài
nghiên cứu khoa học.
Em xin trân trọng cám ơn Ban giám hiệu Trường học viện hành chính
Quốc gia cùng toàn thể các thầy cô giáo công tác trong trường đã tận tình
truyền đạt những kiến thức quý báu, giúp đỡ em trong quá trình học tập và
nghiên cứu.
Tuy có nhiều cố gắng, nhưng trong đề tài nghiên cứu khoa học này
không tránh khỏi những thiếu sót. Em kính mong Quý thầy cô, các chuyên
gia, những người quan tâm đến đề tài, đồng nghiệp, gia đình và bạn bè tiếp
tục có những ý kiến đóng góp, giúp đỡ để đề tài được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cám ơn!
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 26 tháng 8 năm 2019
Tác giả
Phan Thị Ngân
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ
DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƢA VÀO CƠ SỞ CAI
NGHIỆN BẮT BUỘC .................................................................................... 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ..................................................... 7
1.1.1. Khái niệm biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc ............................................................................................................ 7
1.1.2. Đặc điểm biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc ............................................................................................................ 8
1.1.3. Nguyên tắc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc ........................................................................................... 9
1.2. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc ....................................................................................... 12
1.3. Đối tƣợng, thời hiệu, thời hạn, thẩm quyền áp dụng biện pháp
xử lý hành chính đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ................................. 13
1.3.1. Đối tượng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc ......................................................................................... 13
1.3.2. Thời hiệu, thời hạn áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc ............................................................................... 16
1.3.3. Thẩm quyền quyết áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc ............................................................................... 18
1.4. Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đƣa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc ............................................................................. 21
1.5. Các yếu tố ảnh hƣởng đến việc áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc .................................................... 30
Tiểu kết chƣơng 1 ................................................................................. 32
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ
HÀNH CHÍNH ĐƢA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC TẠI
HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI. ........................................... 33
2.1. Khái quát chung về tình hình nghiện ma túy tại huyện Long
Thành ............................................................................................................. 33
2.2. Thực tiễn áp dụng biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành ..................................................... .36
2.2.1.Thực trạng lập hồ sơ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. ........................................................................ 36
2.2.2. Trong giai đoạn xem xét hồ sơ và đề nghị áp dụng biện pháp xử
lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. .......................................... 42
2.2.3. Trong giai đoạn ban hành quyết định áp dụng ......................... 47
2.3. Đánh giá chung về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đƣa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai. ......... 52
2.3.1. Kết quả đạt được trong quá trình áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai 52
2.3.2. Khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân của những khó khăn
vướng mắc trong quá trình áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai ........................... .56
Tiểu kết chƣơng 2 ................................................................................. 66
CHƢƠNG 3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VÀ BẢO ĐẢM ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH
ĐƢA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC TẠI HUYỆN LONG
THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI ....................................................................... 67
3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm áp dụng biện pháp
xử lý hành chính đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ................................. 67
3.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc .................................................... 68
3.2.1. Quy định để xác định thống nhất “nơi cư trú”, vấn đề liên quan
đối tượng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc ................................................................................................................ 68
3.2.2. Hoàn thiện hệ thống biểu mẫu sử dụng trong áp dụng biện pháp
xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ...................................... 72
3.2.3. Quy định bổ sung về thủ tục, trình tự xác định tình trạng nghiện
........................................................................................................................ 73
3.2.4. Quy định rút gọn trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ....................................................... .74
3.2.5. Nhóm giải pháp khác ................................................................ 75
3.3. Các giải pháp bảo đảm áp dụng biện pháp đƣa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành ...................................................... 75
3.3.1. Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc áp dụng biện pháp
xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ...................................... 75
3.3.2. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và xử lý các hành vi vi
phạm trong quá trình áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc ............................................................................................... 76
3.3.3. Nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ trong quá trình áp dụng
biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ..................... 77
3.3.4. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nâng cao nhận thức
của người dân về công tác cai nghiện ma túy ................................................. 78
3.3.5. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan trong quá trình áp dụng
biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ..................... 79
Tiểu kết chƣơng 3 ................................................................................. 80
Kết luận ................................................................................................ 81
Tài liệu tham khảo ................................................................................ 82
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
XLVPHC: xử lý vi phạm hành chính
UBND: Ủy ban nhân dân
TAND: Tòa án nhân dân
DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ
Số hiệu đồ thị Tên đồ thị Trang
1 Thống kê tình hình áp dụng biện pháp xử lý 34
hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc trong cả nước của Bộ Tư pháp
2 Thống kê lập hồ sơ cai nghiện công an 37
huyện Long Thành
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ma túy là hiểm họa khôn lường của toàn nhân loại, là nguyên nhân dẫn
đến tội phạm, tệ nạn xã hội và lây nhiễm HIV/AIDS, số người nghiện ma túy
ngày càng tăng theo sự tăng trưởng của nền kinh tế. Trong những năm gần
đây cả thế giới chung tay vào công cuộc phòng, chống ma túy; Ở nước ta,
cuộc chiến chống ma túy cũng đã được Đảng và nhà nước tiến hành trong
nhiều năm bằng những biện pháp khác nhau và cũng đã đạt được những thành
tựu nhất định, tuy nhiên, trong sự phát triển của nền kinh tế vấn nạn ma túy
diễn biến rất phức tạp, số lượng người nghiện ma túy còn cao. Để hạn chế
những ảnh hưởng của ma túy đến cuộc sống, xã hội thì những người nghiện
ma túy sau khi được cai nghiện tại cộng đồng, gia đình hoặc người nghiện ma
túy không có nơi cư trú ổn định sẽ được đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Theo thống kê đến tháng 12/2017 cả nước có trên 222.000 người nghiện ma
túy có hồ sơ quản lý (tăng gần 12.000 người so với cùng kỳ năm 2016); trong
đó, trên 67,5% người đang sinh sống ngoài xã hội; 13,5% người trong cơ sở
cai nghiện, 19% người đang trong trại tạm giam, tạm giữ, cơ sở giáo dục,
trường giáo dưỡng. Theo báo cáo của Cục Phòng chống tệ nạn xã hội tại tổ
chức Hội thảo báo chí “Tư vấn, điều trị cai nghiện ma túy trong tình hình
mới” ngày 15 tháng 6 năm 2018 thì đến tháng 6 năm 2018, cả nước còn 120
cơ sở cai nghiện giảm được 25 cơ sở so với năm 2014 với tổng số người đang
được điều trị cai nghiện tại các cơ sở là 34.620 học viên mặc dù giảm về cơ
sở nhưng số người nghiện vẫn tăng chứ không giảm.
Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là một trong bốn biện pháp
xử lý vi phạm hành chính được quy định trong Luật xử lý vi phạm hành
chính, được áp dụng với người nghiện ma túy. Mục đích của biện pháp này là
bắt buộc cai nghiện, để chữa bệnh giúp người bị nghiện lao động, học nghề,
học văn hóa dưới sự quản lý của cơ sở cai nghiện bắt buộc, giúp họ sớm gia
1
nhập cộng đồng và có thể sử dụng những nghề được học để phát triển bản
thân. Biện pháp này suy cho cùng có bản chất là hạn chế quyền tự do của
công dân do Tòa án nhân dân cấp huyện, cụ thể là một Thẩm phán xem xét ra
quyết định. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng biện pháp xử lý hành chính này
trong thời gian qua còn tồn tại vướng mắc, thiếu sót trong quá trình lập hồ sơ,
xem xét, áp dụng, một mặt các văn bản áp dụng còn nhiều bất cập chưa sát
với tình hình thực tế của mỗi địa phương, mặt khác tình hình người nghiện và
đặc điểm của mỗi địa phương khác nhau nên việc thực hiện pháp luật về biện
pháp này còn gặp nhiều vướng mắc.
Xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn cũng như hiệu quả của việc áp dụng
các biện pháp xử lý vi phạm hành chính thì việc tăng cường nghiên cứu lý
luận và thực tiễn áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc để hạn chế các thiếu sót là hết sức cần thiết. Do đó, tác giả
chọn đề tài “Áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai” để làm luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
là vấn đề không chỉ Đảng, Nhà nước mà cả xã hội quan tâm. Cũng đã có một
số công trình khoa học về đề tài này. Khi tham khảo nội dung các công trình
khoa học, bài nghiên cứu liên quan tác giả luận văn nhận thấy người viết chủ
yếu đang trao đổi vướng mắc, điều luật áp dụng chứ chưa phân tích sâu về
bản chất của vấn đề. Có luận văn thạc sĩ đã nghiên cứu về biện pháp này,
cũng đã phân tích nguyên nhân, thực trạng và có những kiến nghị, giải pháp,
tuy nhiên để đáp ứng nhu cầu cải cách tư pháp hiện nay và nhằm đi sâu
nghiên cứu hơn nữa để đánh giá hoàn thiện và đưa vào áp dụng một cách có
hiệu quả biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời gian tới. Liên
quan đến đề tài này có một số công trình nghiên cứu nổi bật sau:
2
Luận văn thạc sĩ “Biện pháp đưa ngư ời nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” (năm 2017) của tác giải Lê Thị Lan
Phương, bảo vệ thành công tại Học viện khoa học xã hội. Đây là đề tài có tính
khái quát cao, Đà Nẵng và đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả thực
hiện các biện với luận văn này tác giải đã phân tích được bản chất của vấn đề
áp dụng biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ thực
tiễn Thành phố Đà Nẵng. Tuy nhiên, chưa đi sâu vào nghiên cứu những
vướng mắc về quy định pháp luật khi các cơ quan thực hiện hoạt động áp
dụng pháp luật đối với biện pháp trên.
Luận văn thạc sĩ “Từ biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa
bệnh đến biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc”năm 2004 của tác giả
Phạm Tiến Thành tại Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội. Với luận văn này
tác giả đã làm rõ được các biện pháp xử lý hành chính và sự cần thiết và
chuyển hóa như thế nào từ biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh sang đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc; tuy nhiên, nội dung của luận văn chưa nêu lên
được điểm nổi bật khi áp dụng biện pháp và việc áp dụng có phù hợp hay
không và các giải pháp để áp dụng biện pháp này có hiệu quả hơn.
Luận văn thạc sĩ “Đảm bảo quyền con người trong cơ sở cai nghiện bắt
buộc qua thực tiễn thành phố Hải Phòng” năm 2016 của tác giải Nguyễn
Quốc Hiệu tại Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội; Với luận văn này tác giả
đã đánh giá tổng quan về quyền con người trong cơ sở cai nghiện nhưng lại
chưa làm rõ quyền con người trong cơ sở cai nghiện bắt buộc bị vi phạm như
thế nào và vì sao việc đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thì quyền con
người sẽ bị hạn chế.
Luận văn thạc sĩ “Áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
tại tỉnh Sóc Trăng” năm 2018 của tác giả Lưu Hồng Ngọc Hiền tại Đại học
Luật Thành phố Hồ Chí Minh; đây là luận văn thuộc loại ứng dụng, tác giả đi
sâu vào phân tích các quy định và vướng mắc trong quá trình áp dụng biện
3
pháp này ở giai đoạn lập hồ sơ và xem xét hồ sơ; luận văn nghiên cứu về các
bất cập của quy định pháp luật nhưng lại chưa đi vào nghiên cứu các yếu tố
khác ảnh hưởng đến quá trình áp dụng biện pháp.
Ngoài ra, còn một số các đề tài và bài viết trên các tạp chí về vấn đề này.
Như vậy, chưa có công trình nghiên cứu nào về áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào cơ cở cai nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng
Nai. Đối với các công trình, bài viết đã được công bố, người viết đã tham
khảo được các vấn đề lý luận và thực tiễn để tiếp tục hoàn thiện trong đề tài
của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích
Khi nghiên cứu đề tài áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc phải nhận thức các vấn đề từ khía cạnh lý luận đến thực
tiễn từ đó mới có thể nhận thức đầy đủ yêu cầu đặt ra và định hướng việc
hoàn thiện. Luận văn nhằm đạt được mục đích sau:Trên cơ sở nghiên cứu làm
rõ vấn đề lý luận chung và thực tiễn của quá trình áp dụng biện pháp xử lý
hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, luận văn đề xuất các giải pháp
nhằm đảm bảo hiệu quả áp dụng biện pháp này.
- Nhiệm vụ
+ Nghiên cứu hệ thống và làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản, pháp luật
trong quá trình áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc.
+ Đánh giá thực trạng các quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng biện
pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại huyện Long
Thành.
+ Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp chung và riêng cho địa phương
để đảm bảo việc thực hiện pháp luật về biện pháp trên.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động áp dụng biện pháp xử lý hành chính
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Khảo sát thực tiễn việc áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng
Nai.
+ Về thời gian: Từ năm 2014 đến nay.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
- Phương pháp luận: Với phạm vi nghiên cứu như trên,việc nghiên cứu
và hoàn thành luận văn trước hết dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lê
Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà Nước, nghị
quyết của Bộ chính trị về cải cách tư pháp.
- Phương pháp nghiên cứu: Người viết sử dụng phương pháp nghiên
cứu như sau:
+Phương pháp phân tích tổng hợp
Phương pháp này được sử dụng hầu hết trong toàn bộ các chương của
luận văn và tập trung nhất trong chương 1 trong việc trình bày các khái niệm
cơ bản về áp dụng pháp luật đối với biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc.
+ Phương pháp so sánh, liệt kê được sử dụng làm sáng tỏ những khác
biệt của vấn đề từ đó rút ra được những ưu điểm, hạn chế, bất cập, phương
pháp này được sử dụng trong chương 2 nhằm khái quát hóa thực trạng pháp
luật về áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc.
+ Phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn: Được sử dụng trong việc
hoàn thiện khung pháp lý để việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc hiệu quả hơn, phương pháp này được sử dụng chủ
yếu ở chương 2.
5
+ Phương pháp phân tích vụ việc điển hình được sử dụng thông qua việc
đưa ra các vụ việc trên thực tế minh chứng cho việc áp dụng biện pháp đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thể hiện ở Chương 2 của luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về ý nghĩa lý luận: Luận văn làm rõ các vấn đề liên quan đến quá trình
áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại
huyện Long Thành thông qua việc dẫn chứng các quy phạm pháp luật hiện
hành quy định về biện pháp này, từ đó góp phần làm rõ lý luận khoa học cơ
sở pháp lý về biện pháp trên đồng thời có những đóng góp cụ thể góp một
phần nhỏ vào việc hoàn thiện về khoa học pháp lý chuyên ngành.
Về ý nghĩa thực tiễn: Luận văn cung cấp các luận điểm có giá trị tham
khảo trong việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định pháp luật để đảm
bảo việc áp dụng pháp luật đối với biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc hiệu quả hơn; đồng thời có thể làm tài liệu tham khảo cho
các đối tượng quan tâm đến Biện pháp trên.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý về áp dụng biện pháp đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Chương 2: Thực trạng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm áp
dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại huyện
Long Thành, tỉnh Đồng Nai.
6
CHƢƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ ÁP
DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƢA VÀO CƠ SỞ CAI
NGHIỆN BẮT BUỘC
1.1. Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
1.1.1. Khái niệm biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc.
Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là một trong bốn biện pháp
xử lý hành chính. Cùng với biện pháp giáo dục tại phường, xã, thị trấn; đưa
vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, biện pháp đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc được áp dụng đối với cá nhân vi phạm pháp luật về
an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà không phải là tội phạm [11, khoản 3 Điều
2].
Về mặt nội dung, biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được quy
định lần đầu tiên ở Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 (Điều 20
và Điều 24); tuy nhiên ở Pháp lệnh này và các văn bản pháp luật trước Luật
xử lý vi phạm hành chính năm 2012 biện pháp có tên là đưa vào cơ sở chữa
bệnh áp dụng với hai đối tượng là người nghiện ma túy và người bán dâm với
điều kiện về độ tuổi nhất định.
Về mặt hình thức, như trên đã trình bày trước Luật năm 2012, không sử
dụng tên gọi “đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc” mà sử dụng tên gọi “đưa
vào cơ sở chữa bệnh”. Đến Luật XLVPHC năm 2012, tên gọi “biện pháp đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc” được quy định chính thức tại Điều 95 “Đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là biện pháp xử lý hành chính áp dụng đối với
người có hành vi vi phạm quy định tại Điều 96 của Luật này để chữa bệnh,
lao động, học văn hóa, học nghề dưới sự quản lý của cơ sở cai nghiện bắt
buộc”. Như vậy, đối tượng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc chỉ còn là
người nghiện ma túy, còn người bán dâm không là đối tượng của biện pháp
7
này bởi lẽ mại dâm không còn được coi là “bệnh” mà là một vấn đề xã hội
nên chỉ là đối tượng của xử lý hành chính. Mục đích của biện pháp đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc là chữa bệnh, giáo dục tư tưởng cho người bị
nghiện nên biện pháp này có tính cưỡng chế chế cao khi nội dung của nó là
tước bỏ một số quyền nhân thân của người bị áp dụng trong một thời gian.
Người bị nghiện sẽ phải sinh sống, học tập, lao động, dưới sự quản lý nghiêm
ngặt, điều này đã hạn chế một phần quyền con người khi áp dụng biện pháp
nên biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được xem là biện pháp xử lý
hành chính nghiêm khắc nhất.
1.1.2. Đặc điểm biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc.
Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là một biện pháp xử lý
hành chính đặc biệt nhằm ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật; biện
pháp này có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là biện pháp có
tính cưỡng chế hành chính nhà nước; biện pháp này do cơ quan có thẩm
quyền thi hành bằng cưỡng chế nhà nước, từ giai đoạn lập hồ sơ đến giai đoạn
xem xét, đề nghị và giai đoạn áp dụng biện pháp trên là do các cơ quan có
thẩm quyền thực hiện như công an xã, phòng Lao động thương binh xã hội và
Tòa án nhân dân cấp huyện và chỉ có những cơ quan được pháp luật quy định
mới được quyền áp dụng biện pháp này. Biện pháp xử lý hành chính đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc có tính pháp lý, bởi lẽ nó được quy định trong các
văn bản pháp quy như Luật của Quốc hội, Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ
Quốc hội, Nghị định của Chính Phủ… Tính cưỡng chế còn được thể hiện ở
hiện ở chỗ biện pháp này mang tính bắt buộc thực hiện đối với người bị áp
dụng, đây cũng là biện pháp cưỡng chế mang tính nghiêm khắc nhất trong
bốn biện biện pháp xử lý hành chính vì nó hạn chế quyền tự do nhân thân của
người bị áp dụng trong một khoảng thời gian nhất định.
8
Thứ hai là biện pháp chỉ áp dụng đối với cá nhân; đối tượng bị áp dụng
biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là cá nhân
(người nghiện ma túy từ 18 tuổi trở lên và có điều kiện như Điều 96 Luật
2012), vì bản chất của biện pháp này là hạn chế quyền tự do của đối tượng
trong một thời gian nhất định. Biện pháp này chỉ áp dụng đối với cá nhân mà
không áp dụng đối với tổ chức như các biện pháp xử phạt hành chính. Một
lưu ý, đối với trường hợp cá nhân thì phải là công dân Việt Nam, còn người
nước ngoài vi phạm tại lãnh thổ Việt Nam thì theo quy định tại khoản 7 Điều
21 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2013 về quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng,
chống tệ nạn xã hội; cháy, phòng và chữa; phòng, chống bạo lực gia đình thì
tùy theo mức độ vi phạm có thể bị áp dụng hình thức xử phạt trục xuất khỏi
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thứ ba, đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là người nghiện ma túy; cụ thể là người nghiện
ma tuý từ đủ 18 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường,
thị trấn mà vẫn còn nghiện hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không
có nơi cư trú nhất định. Việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc đối với nhóm đối tượng trên là một giải pháp để phòng ngừa những
hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Thứ tư, trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp này rất chặt chẽ; bản chất của
biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là hạn chế quyền tự do của đối
tượng bị áp dụng cho nên đối với việc áp dụng biện pháp này về trình tự, thủ
tục đã được quy định tương đối chặt chẽ; điều này đảm bảo hạn chế vi phạm
các quyền con người trong quá trình áp dụng của các cơ quan có thẩm quyền.
1.1.3. Nguyên tắc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc.
9
Nguyên tắc là những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo làm nền tảng tư tưởng
cho tổ chức và hoạt động quản lý nhà nước. Về bản chất, biện pháp xử lý
hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là biện pháp cưỡng chế hành
chính đặc biệt, do vậy quá trình xem xét, áp dụng cần tuân thủ một số nguyên
tắc dưới đây:
Một là cá nhân chỉ bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc nếu thuộc đối tượng được quy định tại Điều 96 Luật
XLVPHC năm 2012. Điều này thể hiện chỉ khi một người có hành vi sử dụng
trái phép chất ma túy thỏa mãn các điều kiện được quy định tại Điều 96 thì
mới bị áp dụng biện pháp trên. Tuân thủ nguyên tắc này sẽ giúp các cơ quan
có thẩm quyền dễ dàng xác định được đối tượng áp dụng của biện pháp, hạn
chế sự tùy tiện áp dụng và hạn chế được việc xâm phạm các quyền cơ bản của
công dân.
Hai là áp dụng nhanh chóng, công khai, khách quan, đúng thẩm quyền,
đúng quy định của pháp luật; mục đích của nguyên tắc là để việc áp dụng biện
pháp một cách thống nhất, đúng trình tự thủ tục. Việc tuân thủ nguyên tắc này
sẽ giúp cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ việc nhanh chóng, tránh việc kéo
dài ảnh hưởng đến quyền lợi của công dân cũng như hạn chế tình trạng ban
hành quyết định không đúng, không có căn cứ pháp luật. Áp dụng biện pháp
xử lý hành chính được hiểu là toàn bộ quá trình lập hồ sơ, xem xét hồ sơ vụ
việc và ra quyết định áp dụng. Yêu cầu “nhanh chóng” đòi hỏi mọi hoạt động
từ lúc lập hồ sơ đến giai đoạn tư vấn, xem xét, đề nghị và áp dụng đều phải
tiến hành nhanh, trong hoặc trước thời hạn luật định; điều này đòi hỏi, mỗi
chủ thể với thẩm quyền riêng phải nhanh chóng hoàn thành được nhiệm vụ
được phân công. Yêu cầu “công khai” là việc đảm bảo cho quá trình xem xét,
áp dụng có của những người tham gia tiến hành việc xem xét, áp dụng và đối
tượng bị áp dụng; việc xác minh, thu thập chứng cứ phải tiến hành công khai.
Yêu cầu “khách quan” đòi hỏi các chứng cứ trong hồ sơ phải được xem xét
10
một cách toàn diện, đầy đủ; đồng thời việc áp dụng biện pháp phải trên cơ sở
vô tư, không thiên vị, không vì vụ lợi cá nhân. Đúng thẩm quyền là việc các
cơ quan đã được pháp luật quy định tham gia vào quá trình xây dựng hồ sơ và
áp dụng biện pháp thì chỉ được làm những gì pháp luật quy định về thẩm
quyền của mình. Bảo đảm công bằng là làm sao cho thời hạn đối tượng bị áp
dụng biện pháp phải tương xứng với tính chất, mức độ vi phạm. Đúng quy
định của pháp luật là việc xử lý đúng hành vi, áp dụng đúng quy định của
pháp luật và đúng trình tự thủ tục luật định. Đảm bảo được nguyên tắc này khi
áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là một nguyên tắc mang
tính “bắt buộc”, bởi lẽ bản chất của biện pháp này là hạn chế quyền tự do,
danh sự, nhân phẩm của công dân, vì thế, trong quá trình giải quyết đòi hỏi
các cơ quan chức năng phải thận trọng, khách quan, công bằng, phù hợp với
các chủ trương, chính sách cải cách của Đảng và Nhà nước; với luật pháp
quốc tế, đặc biệt là các công ước quốc tế về quyền con người.
Ba là, việc quyết định thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, nhân
thân người vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng. Nguyên tắc này
đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền phải đánh giá được tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi mà đối tượng thực hiện, xác định hành vi ấy là vi
phạm hành chính hay hình sự để có chế tài xử lý, tránh gây oan sai. Đặc điểm
nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đều được quy định trong pháp
luật hành chính; những đặc điểm trên có ảnh hưởng đến khả năng cải tạo, giáo
dục, vì thế, khi áp dụng các cơ quan có thẩm quyền phải xem xét để áp dụng,
tránh tình trạng đối tượng có nhân thân tốt, vi phạm lần đầu lại được áp dụng
thời hạn như người có nhân thân xấu, có nhiều tình tiết tăng nặng.
Bốn là người có thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính có
trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính. Cá nhân bị áp dụng biện pháp
xử lý hành chính có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp
11
chứng minh mình không vi phạm hành chính. Trên thực tế, không ít những
trường hợp xem xét, quyết định áp dụng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
còn có sự chủ quan, áp đặt của chủ thể có thẩm quyền; việc xem xét thường
chủ yếu dựa vào hồ sơ, chứng cứ do cơ quan có thẩm quyền thu thập, xây
dựng. Tuy nhiên, trong trường hợp hồ sơ được xây dựng không đảm bảo tính
khách quan, công bằng, không có căn cứ pháp lý rõ ràng thì quyết định áp
dụng biện pháp của cơ quan có thẩm quyền (Tòa án) sẽ không đúng và xâm
phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Với nguyên tắc này, tính
dân chủ, bình đẳng trong mối quan hệ pháp luật giữa một bên là chủ thể nhân
danh Nhà nước, một bên là công dân có hành vi vi phạm. Trách nhiệm chứng
minh hành vi vi phạm thuộc về Nhà nước, tránh tình trạng các chủ thể có
thẩm quyền dùng quyền lực để áp đặt lên đối tượng.
1.2. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc.
Các biện pháp xử lý hành chính có vai trò rất to lớn trong việc giáo dục,
cảm hóa, chữa bệnh và tạo điều kiện cho người vi phạm pháp luật trở thành
công dân lương thiện, có ích cho xã hội, góp phần ổn định an ninh, trật tự, an
toàn xã hội.
Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có mục đích sau:
Thứ nhất, giáo dục tư tưởng người bị nghiện, chữa bệnh cho các đối
tượng để họ được lao động, học văn hóa trong cơ sở cai nghiện. Có thể nói
đây là mục đích quan trọng đầu tiên của biện pháp này; bắt nguồn từ tính
nhân đạo sâu sắc của pháp luật nước ta. Các đối tượng bị áp dụng biện pháp
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc sẽ được cai nghiện ma túy, được học văn
hóa và được giáo dục ý thức chấp hành pháp luật. Mục đích giáo dục còn ở
chỗ cảm hóa, giáo dục về đạo đức, tư tưởng, lối sống cũng như phục hồi sức
khỏe tạo điều kiện để họ trở thành công dân có ích và sớm tái hòa nhập cộng
đồng.
12
Thứ hai, nhằm trừng phạt đối với người vi phạm; bản chất của biện pháp
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là hạn chế quyền tự do cá nhân của đối
tượng bị áp dụng trong một thời gian nhất định. Vì thế, chủ thể bị nghiện thỏa
mãn các điều kiện tại Điều 96 Luật XLVPHC năm 2012 thì họ phải gánh chịu
hậu quả bất lợi là hạn chế một phần quyền tự do và chịu sự quản lý, giám sát
của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
Thứ ba, nhằm mục đích phòng ngừa khả năng tái phạm ở các đối tượng
bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Đối với mục đích
phòng ngừa, ở đây tác giả đề cập đến cả mục đích phòng ngừa chung và
phòng ngừa riêng. Khi áp dụng biện pháp trên sẽ cách ly người vi phạm ra
khỏi xã hội một thời gian, sẽ tác động tới ý thức của những chủ thể khác trong
xã hội, răn đe các chủ thể khác khi có ý định thực hiện hành vi vi phạm; mặt
khác, đối với đối tượng bị áp dụng sẽ hạn chế được việc họ tái phạm vì đã bị
cách ly ra khỏi xã hội một thời gian và được giáo dục về ý thức chấp hành
pháp luật.
1.3. Đối tƣợng, thời hiệu, thời hạn, thẩm quyền áp dụng biện pháp
xử lý hành chính đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
1.3.1. Đối tượng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc.
Đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được
quy định cụ thể tại Điều 96 Luật năm 2012, Điều 3 Nghị định số
221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013. Như vậy, đối tượng áp dụng là người
nghiện ma túy thỏa mãn các điều kiện quy định. Theo đó, đối tượng áp dụng
biện pháp trên được phân thành hai nhóm sau:
Nhóm thứ nhất là người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên có nơi cư trú
ổn định, đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại phường, xã, thị trấn do nghiện
ma túy mà vẫn còn nghiện.
13
Nhóm thứ hai là người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên chưa bị áp
dụng biện pháp giáo dục tại phường, xã, thị trấn do nghiện ma túy nhưng
không có nơi cư trú ổn định.
Theo quy định tại Điều 1 Nghị định số 136/2016/NĐ-CP ngày 09/9/2016
thì đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được cụ
thể hóa hơn rất nhiều, nhằm tạo điều kiện cho quá trình áp dụng của cơ quan
có thẩm quyền, cụ thể như sau:
1. Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên, có nơi cư trú ổn định,
trong thời hạn 02 năm kể từ ngày chấp hành xong quyết định áp dụng biện
pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy hoặc trong thời hạn
01 năm kể từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định áp dụng biện pháp giáo
dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy mà vẫn còn nghiện.
2. Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên, có nơi cư trú ổn định, bị
chấm dứt thi hành quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma
túy.
3. Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên, không có nơi cư trú ổn
định.
Theo quy định tại khoản 16 Điều 2 Luật XLVPHC năm 2012 thì người
nghiện ma túy được hiểu là “người sử dụng chất ma túy, thuốc gây
nghiện,thuốc hướng thần và bị lệ thuộc vào các chất này”; còn theo Tổ chức y
tế thế giới (WHO), nghiện ma túy là tình trạng lệ thuộc về mặt tâm thần hoặc
thể chất hoặc cả hai khi một người sử dụng ma túy lặp đi lặp lại theo chu kỳ
hoăch dùng kéo dài liên tục kéo dài một thứ ma túy. Tình trạng lệ thuộc này
làm thay đổi cách cư xử, bắt buộc đương sự luôn cảm thấy bức bách phải
dùng ma túy để thoát khỏi sự vật vã, khó chịu do thiếu ma túy [5, tr 537]; điều
này có nghĩa, nghiện ma túy là một bệnh lý. Người nghiện trong xã hội thuộc
nhiều thành phần và nhiều độ tuổi khác nhau; tuy nhiên, người nghiện ma túy
là đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là những
14
người từ đủ 18 tuổi trở lên. Luật XLVPHC quy định thêm ngoài yếu tố về độ
tuổi phải dựa vào yếu tố đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị
trấn và có nơi cư trú ổn định; hoặc trường hợp chưa bị áp dụng biện pháp giáo
dục tại xã, phường, thị trấn nhưng không có nơi cư trú ổn định. Theo quy định
tại Nghị định 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 quy định chế độ áp dụng
biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc của Chính phủ thì “nơi
cư trú ổn định là nơi người vi phạm thường trú hoặc tạm trú, nhưng phải là
nơi người đó hiện đang thường xuyên sinh sống”. Nghị định 221/2013/NĐ-
CP đã xác định nơi cư trú ổn định phù hợp với Luật cư trú năm 2006, sửa đổi,
bổ sung năm 2013 là dựa vào hai tiêu chí: 1. Nơi đăng ký thường trú hoặc tạm
trú và 2. Nơi thường xuyên sinh sống. Như vậy, để được xem là có nơi cư trú
ổn định thì phải thỏa mãn cả hai điều kiện trên, nếu thiếu một trong hai thì
được xem như không có nơi cư trú ổn định dẫn đến việc có thể bị áp dụng
biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc mặc dù chưa bị áp dụng
biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Điều 96 Luật XLVPHC năm 2012 còn quy định những trường hợp
không áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với các
trường hợp sau đây:
Thứ nhất, người không có năng lực trách nhiệm hành chính;
Thứ hai, người đang mang thai có chứng nhận của bệnh viện;
Thứ ba, phụ nữ hoặc người duy nhất đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng
tuổi được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận.
Điều này thể hiện tính nhân văn và mục đích nhân đạo của pháp luật;
mặc dù, các đối tượng này không bị cách ly ra khỏi xã hội nhưng vẫn phải
chịu sự quản lý nghiêm ngặt của cơ quan có chức năng tại địa phương.
Ngoài ra, Điều 5 Nghị định 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 của
Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc quy định các trường hợp không lập hồ sơ đề nghị áp dụng
15
biện pháp trên, ngoài các trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 96 Luật
XLVPHC năm 2012 thì còn có các trường hợp sau:
1. Người đang tham gia chương trình cai nghiện ma túy tại cộng đồng
theo quy định tại khoản 3 Điều 16 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày
19/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành
Luật xử lý vi phạm hành chính.
2. Người đang tham gia điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện được quy
định tại khoản 2 Điều 3 Nghị định số 96/2012/NĐ-CP ngày 15/11/2012 của
Chính phủ quy định về điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc
thay thế.
Nhà nước luôn khuyến khích người nghiện cai nghiện tại gia đình hoặc
cộng đồng vì nếu cai nghiện tại đây giúp người nghiện có cảm giác gần gũi,
thường xuyên được động viên được động viên, hỗ trợ kịp thời khi người
nghiện lên cơn, giúp người nghiện có nghị lực để vượt qua; hoặc các trường
hợp đang được điều trị nghiện chất dạng thuộc phiện. Chính vì vậy, pháp luật
quy định không lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc đối với những đối tượng trên, nghĩa là không áp dụng biện pháp đối
với các đối tượng đã nêu. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp trên thực tế người
nghiện đã cai nghiện tại gia đình, cộng đồng nhưng vẫn còn nghiện, đối với
những trường hợp này các cơ quan có thẩm quyền vướng mắc, không biết xử
lý như thế nảo; vì thế, tại khoản 2 Điều 2 Nghị định 136/2016/NĐ-CP ngày
09 tháng 9 năm 2016 đã bãi bỏ quy định tại Điều 5 của Nghị định
221/2013/NĐ-CP.
1.3.2. Thời hiệu, thời hạn áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Thời hiệu, thời hạn là nội dung quan trọng trong pháp luật xử lý vi phạm
hành chính, là cơ sở pháp lý vững chắc bảo đảm công tác xử lý vi phạm hành
chính được tiến hành nhanh chóng, công minh, triệt để.
16
Với ý nghĩa đó, pháp luật xử lý vi phạm hành chính quy định về thời
hiệu, thời hạn của biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc như sau:
- Thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Thời hiệu là thời hạn do pháp luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó
chủ thể được miễn trừ thực hiện nghĩa vụ trách nhiệm hành chính [1, tr 23].
Thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được quy
định tại điểm d khoản 2 Điều 6 Luật XLVPHC năm 2012, theo đó, thời hiệu
áp dụng của biện pháp này là 03 tháng, kể từ ngày cá nhân thực hiện lần cuối
hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 96 luật này. Tuy nhiên, trong luật
lại không giải thích rõ là hành vi vi phạm gì. Để làm rõ vấn đề này, Điều 4
Nghị định 221/2013/NĐ-CP quy định “Thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc là 03 tháng, kể từ ngày cá nhân thực hiện hành vi
sử dụng ma túy trái phép lần cuối bị phát hiện và lập biên bản theo quy định
tại Điều 8 của Nghị định này”. Mặc dù, Nghị định 221/2013/NĐ-CP đã quy
định rõ hành vi vi phạm là hành vi sử dụng ma tuý trái phép nhưng vẫn chưa
chỉ ra được mốc cuối cùng của thời điểm 03 tháng quy định trong thời hiệu là
lúc nào. Để khắc phục vấn đề này, khoản 1 Điều 9 Nghị quyết số
04/2015/NQ-HĐTP ngày 24/12/2015 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân Tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của pháp luật về xem xét,
quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân quy
định “ thời hiệu áp dụng biện pháp xử lý hành chính được tính từ ngày cá
nhân thực hiện hành vi vi phạm quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 92 hoặc
kể từ ngày cá nhân thực hiện lần cuối một trong những hành vi vi phạm quy
định tại khoản 4 Điều 92; khoản 1 Điều 94 hoặc khoản 1 Điều 96 của Luật xử
lý vi phạm hành chính cho đến ngày Tòa án ra quyết định áp dụng biện pháp
xử lý hành chính”. Việc quy định thời hiệu ngắn nhằm tránh kéo dài thời gian
xử lý vi phạm dẫn đến không đảm bảo được tính răn đe, giáo dục.
- Thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
17
Thời hạn là một khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến
một thời điểm khác [12, Điều 44]. Tại khoản 2 Điều 95 Luật XLVPHC năm
2012 quy định “Thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc là 12 đến 24 tháng”; việc quy định thời hạn áp dụng như trên là hoàn
toàn hợp lý, mặc dù, thực tế nhiều năm áp dụng cho thấy hiệu quả mà nó
mang lại chưa cao, bởi lẽ, việc đưa các đối tượng vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc góp phần ổn định an ninh, trật tự xã hội. Tuy nhiên, mục đích chữa
bệnh, giúp họ tái hòa nhập cộng đồng dễ hơn lại chưa đạt hiệu quả cao, tỷ lệ
tái nghiện sau khi đi cai nghiện còn cao, mặt khác, cơ sở vật chất, trang thiết
bị của các cơ sở cai nghiện còn hạn chế, chưa chú trọng đến các chương trình
tái hòa nhập cộng đồng nên áp dụng thời hạn trên là đủ sức răn đe, giáo dục
các đối tượng.
1.3.3. Thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Trong giai đoạn hội nhập và phát triển, việc quy định chế tài cho những
đối tượng có hành vi buôn bán, tàng trữ và những người nghiện ma túy được
cụ thể hóa rõ ràng. Việc phân định thẩm quyền xử lý của các cơ quan trong
quá trình áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc là một vấn đề hết sức quan trọng; các cơ quan có thực hiện đúng, đầy đủ
nhiệm vụ của mình trong một trình tự, thủ tục chung thì quyết định áp dụng
mới đúng quy định của pháp luật được. Thẩm quyền trong từng giai đoạn của
trự, thủ tục được cụ thể hóa như sau:
1.3.3.1. Thẩm quyền lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Thẩm quyền lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc được quy định tại Điều 103 Luật XLVPHC năm 2012, theo
đó, đối với người nghiện ma túy có nơi cư trú ổn định thì Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa
18
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Đối với những người nghiện ma túy không cư
trú tại nơi người đó có hành vi vi phạm pháp luật thì Chủ tịch ủy ban nhân
dân cấp xã phải xác minh; trường hợp xác định được nơi cư trú thì chuyển
người đó kèm theo biên bản vi phạm về địa phương để xử lý; trường hợp
không xác định được nơi cư trú của người đó thì lập hồ sơ để áp dụng biện
pháp trên. Công an xã giúp Chủ tịch thu thập tài liệu, lập hồ sơ.
Để tránh việc đối tượng bỏ trốn hoặc tiếp tục có hành vi vi phạm pháp
luật trong thời gian lập hồ sơ, Điều 131 Luật XLVPHC năm 2012 quy định
Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã nơi lập hồ sơ quyết định giao cho gia đình
hoặc tổ chức xã hội quản lý.
Quy định buộc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã xác minh nơi cư trú của
đối tượng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công tác xử lý, công tác quản lý
sau khi đối tượng chấp hành xong quyết định, giảm bớt gánh nặng cho ngân
sách của địa phương nơi đối tượng thực hiện hành vi vi phạm.
Trường hợp người nghiện ma túy vi phạm do cơ quan Công an cấp
huyện hoặc cơ quan cấp tỉnh trực tiếp phát hiện, điều tra, thụ lý trong các vụ
vi phạm pháp luật mà thuộc đối tượng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo
quy định tại Điều 96 của Luật này thì cơ quan Công an đang thụ lý vụ việc
tiến hành xác minh, thu thập tài liệu vầ lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp
cai nghiện bắt buộc đối với người đó [11, khoản 2 Điều 103]. Như vậy, ngoài
Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã thì cơ quan công an cấp huyện, công an cấp
tỉnh cũng có thẩm quyền lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc.
1.3.3.2. Thẩm quyền đề nghị xem xét, áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Theo quy định của pháp luật xử lý vi phạm hành chính thì cơ quan có
thẩm quyền đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là
Phòng lao động - Thương binh và Xã hội cùng cấp.
19
Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị áp dụng
biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, Trưởng phòng tư pháp cấp
huyện có trách nhiệm kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ gửi Trưởng phòng lao
động thương binh xã hội. Việc kiểm tra phải có kết quả bằng văn bản lưu
trong hồ sơ.
Có ý kiến cho rằng Luật XLVPHC không quy định hồ sơ phải có ý kiến
của Ủy ban Mặt trận tổ quốc và các tổ chức xã hội cùng cấp có liên quan là
không đảm bảo tính pháp lý của hồ sơ dễ vi phạm quyền công dân. Tuy nhiên,
việc Luật XLVPHC không quy định hồ sơ phải có ý kiến của Ủy ban Mặt trận
tổ quốc và các tổ chức xã hội cùng cấp cũng có lý do vì trong thực tế, ý kiến
của các cơ quan này cũng chỉ được thu thập mang tính hình thức, chỉ để hồ sơ
đủ các loại giấy tờ theo quy định của pháp luật. Việc kiểm tra tính pháp lý
thuộc thẩm quyền của Trường phòng tư pháp cấp huyện, tất nhiên, việc kiểm
tra này nhiều khi cũng có sai sót nhưng không cần thiết “khai sinh” thêm một
số tổ chức có thẩm quyền kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ [6, tr 569-570].
Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị của Trưởng
phòng tư pháp, Trưởng phòng Lao động – Thương binh và xã hội phải có văn
bản đề nghị xem xét, áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Như vậy trách nhiệm của Trưởng phòng Lao động – Thương binh và xã hội
phải đối chiếu hồ sơ đề nghị với nội dung văn bản kiểm tra tính pháp lý để từ
đó đưa ra quyết định có hay không việc đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ
sở cai nghiện bắt buộc đối với người bị nghiện.
1.3.3.3. Thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Pháp luật xử lý hành chính quy định Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm
quyền quyết định áp dụng các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào
cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc [11, khoản 2 Điều
105]. Như vậy, thẩm quyền quyết định áp dụng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
20
buộc thuộc về Tòa án nhân dân cấp huyện nơi cơ quan đề nghị có trụ sở. Việc
chuyển quyền quyết định đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ
Ủy ban nhân dân cấp huyện sang Tòa án nhân dân cấp huyện là một bước
chuyển cơ bản từ các quyết định mang tính thủ tục hành chính sang việc thụ
lý, xem xét và phán quyết của một cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Bằng
con đường “tư pháp hóa” việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc. Đây thực chất là quá trình chuyển từ cơ chế xử lý hành chính sang cơ
chế xử lý theo trình tự tố tụng. Với cơ chế này, người áp dụng biện pháp đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có cơ hội để thực hiện quyền được tự bảo vệ
hoặc nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình [6, tr 572]. Hơn
nữa sự chuyển giao quyền đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ
Ủy ban nhân dân cấp huyện sang Tòa án nhân dân cấp huyện. Luật XLVPHC
năm 2012, đã nâng cao hơn việc bảo đảm quyền con người trong quá trình
xem xét, quyết định đưa hay không đưa một người nghiện ma túy vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc thông qua các bước thụ lý hồ sơ và họp xét quyết định
chính thức theo đề nghị của các cơ quan chức năng.
1.4. Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đƣa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Trình tự là sự sắp xếp lần lượt, thứ tự trước sau theo diễn biến thời gian
rõ rành; thủ tục là những việc cụ thể phải làm theo một trật tự quy định, để
tiến hành một công việc có tính chất chính thức [4, tr531; 545]. Trình tự, thủ
tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là
hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền được thực hiện theo từng bước cụ
thể trong khoảng thời gian giới hạn được quy định trong các văn bản pháp
luật hiện hành.
Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
được thực hiện theo Điều 103, Điều 104 Luật XLVPHC năm 2012, Nghị định
số 221/2012/NĐ-CP quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa
21
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; Nghị định số 136/2016/NĐ-CP sửa đổi bổ
sung Nghị định số 221/2013/NĐ-CP; Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH13
ngày 20/01/2014 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định trình tự, thủ tục
xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân
dân.
Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
được chia làm ba giai đoạn, cụ thể như sau:
Giai đoạn 1. Giai đoạn lâp hồ sơ, như trên đã phân tích, chủ thể có thẩm
quyền lập hồ sơ và Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, công an xã có trách
nhiệm giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp thu thập các tài liệu và lập hồ
sơ đề nghị. Hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc gồm có:
1. Đối với người nghiện ma túy có nơi cư trú ổn định:
a) Bản tóm tắt lý lịch của người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc;
b) Bản tường trình của người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ
sở cai nghiện bắt buộc hoặc người đại diện hợp pháp của họ;
c) Biên bản vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma
túy hoặc phiếu xét nghiệm có kết quả dương tính với chất ma túy tại thời điểm
lập hồ sơ;
d) Bản sao giấy chứng nhận đã chấp hành xong quyết định giáo dục tại
xã, phường, thị trấn đối với trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 3 Nghị
định này hoặc bản sao Quyết định chấm dứt thi hành quyết định giáo dục tại
xã, phường, thị trấn đối với trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 3 Nghị
định này.
2. Đối với người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định:
a) Tài liệu quy định tại Điểm a, Điểm b, Điểm c Khoản 1 Điều này;
22
b) Phiếu trả lời kết quả của người có thẩm quyền quy định tại Khoản 1
Điều 10 Nghị định này về tình trạng nghiện ma túy hiện tại của người bị đề
nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;
c) Tài liệu xác định người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định [3,
Điều 1].
Đối với các tài liệu, chứng cứ cần thu thập trong hồ sơ, đáng chú ý là
phiếu kết quả xét nghiệm dương tính với chất ma túy tại thời điểm lập hồ sơ.
Theo quy định của pháp luật thì người có thẩm quyền xác định tình trạng
nghiện ma túy là bác sỹ, y sĩ, được cấp chứng nhận hoặc chứng chỉ tập huấn
về chẩn đoán, điều trị cắt cơn nghiện ma túy do các cơ quan, tổ chức được Bộ
Y tế giao tổ chức tập huấn và cấp chứng chỉ, đang làm việc tại: Các cơ sở y tế
quân y, y tế quân dân y; các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của ngành công an;
phòng y tế của cơ sở cai nghiện bắt buộc; phòng y tế của các cơ sở có chức
năng tiếp nhận, quản lý người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định,
trong thời gian lập hồ sơ để Tòa án nhân dân xem xét quyết định đưa vào cơ
sở cai nghiện bắt buộc; trạm y tế xã, phường, thị trấn; phòng khám đa khoa
khu vực; bệnh viện cấp huyện trở lên và bệnh viện thuộc các bộ, ngành khác.
Đây là nhóm người có nghĩa vụ phải xác định chính xác các đối tượng bị
nghiện và mức độ nghiện thông qua chuyên môn, nghiệp vụ đã đào tạo trước
đó. Người có thẩm quyền xác định người nghiện ma túy phải chịu trách
nhiệm về việc xác định của mình trước pháp luật.
Vấn đề xác định tình trạng nghiện ma túy là một trong những khó khăn
cần được khắc phục: Theo điểm b khoản 1 Điều 9 Nghị định số
221/2013/NĐ-CP quy định thành phần hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý
hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là phải có phiếu trả lời kết quả
của người có thẩm quyền về tình trạng nghiện ma túy tại thời điểm bị phát
hiện hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.
23
Tại Điều 5 Thông tư liên tịch số 17/2015/TTLT-BYT-BLĐTBXH-BCA
của Bộ Y tế - Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội – Bộ Công an quy định
về quy trình xác định tình trạng nghiện ma túy, theo đó, người có thẩm quyền
thực hiện việc xác định tình trạng nghiện ma túy theo quy trình sau:
1. Tiếp nhận người cần xác định tình trạng nghiện ma túy và tài liệu quy
định tại Điều 4 Thông tư liên tịch này.
2. Tiến hành ngay việc xác định tình trạng nghiện ma túy
a) Tiêu chuẩn xác định nghiện ma túy nhóm Opiats
Người được xác định là nghiện ma túy nhóm Opiats thuộc một trong các
trường hợp sau đây:
- Xét nghiệm dương tính với ma túy nhóm Opiats và đã bị áp dụng biện
pháp xử lý hành chính về nghiện ma túy;
- Xét nghiệm dương tính với ma túy nhóm Opiats và đã bị xử phạt hành
chính về hành vi sử dụng ma túy từ 2 lần trở lên;
- Kết quả áp dụng nghiệm pháp Naloxone dương tính (+);
- Xét nghiệm dương tính với ma túy nhóm Opiats và có ít nhất 3 trong
12 triệu chứng của trạng thái cai (theo Phụ lục số 1 ban hành kèm theo Thông
tư liên tịch này).
b) Tiêu chuẩn xác định nghiện ma túy chất dạng Amphetamine
Người được xác định là nghiện ma túy tổng hợp chất dạng Amphetamine
khi có ít nhất 3 trong 6 triệu chứng sau trong 12 tháng vừa qua:
- Có sự thèm muốn mãnh liệt hoặc cảm giác bắt buộc phải sử dụng chất
dạng Amphetamine;
- Khó khăn trong việc kiểm soát các hành vi sử dụng chất dạng
Amphetamine như bắt đầu, chấm dứt hoặc mức độ sử dụng;
- Có trạng thái cai khi ngừng hoặc giảm sử dụng chất dạng
Amphetamine;
- Có hiện tượng tăng dung nạp với chất dạng Amphetamine;
24
- Ngày càng trở nên thờ ơ với các thú vui hoặc sở thích khác;
- Tiếp tục sử dụng chất dạng Amphetamine mặc dù biết rõ về các hậu
quả có hại.
Quá trình theo dõi để xác định tình trạng nghiện ma túy nhóm Opiats
được ghi chép vào phiếu theo dõi về xác định tình trạng nghiện ma túy nhóm
Opiats (các chất dạng thuốc phiện) quy định tại Phụ lục số 1 ban hành kèm
theo Thông tư liên tịch này.
Quá trình theo dõi để xác định tình trạng nghiện ma túy tổng hợp chất
dạng Amphetamine được ghi chép vào phiếu theo dõi về xác định tình trạng
nghiện ma túy tổng hợp chất dạng Amphetamine (ATS) quy định tại Phụ lục
số 2 ban hành kèm theo Thông tư liên tịch này.
3. Ghi kết quả xác định tình trạng nghiện vào Phiếu trả lời kết quả về xác
định tình trạng nghiện ma túy quy định tại Phụ lục số 3 ban hành kèm theo
Thông tư liên tịch này; đồng thời, ghi kết quả vào sổ khám bệnh của cơ sở xác
định tình trạng nghiện ma túy (lưu kết quả xác định tình trạng nghiện ma túy
theo quy định về lưu hồ sơ bệnh án ngoại trú).
Tuy nhiên, thực tế triển khai xác định tình trạng nghiện ở địa phương
cho thấy thông tư mới chỉ quy định được quy trình xác định tình trạng nghiện
đối với hai loại chất ma túy , đó là nhóm OPIATS (chất dạng thuốc phiện) và
ma túy tổng hợp chất dạng AMPHETAMIN (ATS). Đây chỉ là hai loại phổ
biến nhất, trong số rất nhiều loại chất ma túy hiện có trên thực tế. Nhiều loại
chất ma túy không thuộc nhóm OPIATS và nhóm ATS đã được sử dụng ở
nước ta song chưa có sinh phẩm xét nghiệm tìm chất này trong cơ thể người
như chất XRL-11 (Cỏ Mỹ) cũng như hướng dẫn xác định tình trạng nghiện.
Theo quy định tại Thông tư liên tịch số 17/2015/TTLT/BYT-BLĐTBXH-
BCA thì thời gian theo dõi để xác định tình trạng nghiện ma túy đối với nhóm
OPIATS (các chất dạng thuốc phiện) là 03 ngày, nhóm ma túy tổng hợp chất
dạng AMPHETAMINE là 05 ngày; nhưng Luật XLVPHC lại không có quy
25
định về việc tạm giữ người theo thủ tục hành chính trong trường hợp xác định
tình trạng nghiện ma túy nên không thể lưu giữ đối tượng bị đề nghị áp dụng;
Đối với trường hợp thẩm quyền lập hồ sơ đề nghị thuộc cơ quan Công an
cấp huyện hoặc cơ quan Công an cấp tỉnh thì cơ quan đó tiến hành lập biên
bản, xác minh, thu thập tài liệu và lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Hồ sơ đề nghị áp dụng tương tự như hồ sơ đề
nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thuộc thẩm quyền
của Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã.
Sau khi hoàn thành việc lập hồ sơ đề nghị, cơ quan đã lập hồ sơ phải
thông báo cho người bị đề nghị áp dụng hoặc người đại diện của họ về việc
lập hồ sơ. Những người này có quyền đọc hồ sơ và ghi chép các nội dung cần
thiết trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo. Sau khi người
bị áp dụng hoặc người đại diện hợp pháp của họ đọc xong hồ sơ thì hồ sơ
được gửi cho Trưởng phòng Tư pháp cấp huyện. Có thể nói đây là nội dung
rất quan trọng, thể hiện sự hợp lý phù hợp với nguyên tắc công khai, minh
bạch nhằm đảm bảo quyền lợi cho người bị đề nghị áp dụng để họ có những
chuẩn bị cần thiết để bảo vệ quyền lợi của mình trước các cơ quan có thẩm
quyền.
Giai đoạn 2. Giai đoạn xem xét hồ sơ và đề nghị áp dụng
Trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ từ cơ quan lập hồ
sơ đề nghị, Trưởng phòng tư pháp cấp huyện có trách nhiệm kiểm tra tính
pháp lý của hồ sơ. Việc kiểm tra phải được thể hiện bằng văn bản và lưu vào
hồ sơ.
Sau khi nhận được văn bản và hồ sơ từ Trưởng phòng tư pháp gửi qua,
trong thời hạn 07 ngày, Trưởng phòng Lao động-Thương binh và Xã hội đối
chiếu hồ sơ đề nghị theo quy định tại Điều 9 Nghị định này với nội dung văn
bản kiểm tra tính pháp lý của Trưởng phòng tư pháp cấp huyện [2, Điều 12].
26
Trường hợp hồ sơ đầy đủ thì đánh bút lục và lập thành hai bản, bản gốc
chuyển cho Tòa án nhân dân cấp huyện, bản sao lưu tại phòng Lao động –
Thương binh và Xã hội theo quy định của pháp luật về lưu trữ;
Trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ thì có văn bản đề nghị cơ quan lập hồ sơ
bổ sung, trong đó nêu rõ lý do và tài liệu cần bổ sung vào hồ sơ. Trong thời
hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu, cơ quan lập hồ
sơ phải bổ sung các tài liệu theo yêu cầu. Sau thời hạn trên, nếu hồ sơ không
được bổ sung, Trưởng phòng Lao động – Thương binh và xã hội trả lại hồ sơ
cho cơ quan lập hồ sơ đồng thời thông báo bằng văn bản cho Trưởng phòng
Tư pháp và người bị lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc.
Giai đoạn 3. Giai đoạn xem xét để ban hành quyết định áp dụng biện
pháp cai nghiện bắt buộc thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện.
Tòa án nhân dân thực hiện các trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp
dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy
định tại Luật XLVPHC năm 2012 và Pháp lệnh số 09/2013/UBTVQH13 ngày
10/02/2014 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ theo quy định tại
Điều 103 của Luật này, Trưởng phòng lao động – Thương binh và Xã hội cấp
huyện quyết định chuyển hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân cấp huyện áp dụng
biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ
thì phải giao cơ quan đã lập hồ sơ để tiếp tục thu thập thêm tài liệu chứng cứ
[11, khoản 1 Điều 104].
Khi nhận được hồ sơ cơ quan có thẩm quyền chuyển đến, Tòa án trong
thời hạn 01 ngày làm việc phải thụ lý và phân công một Thẩm phán giải
quyết; trường hợp hồ sơ không đủ tài liệu theo quy định của pháp luật thì Tòa
án trả lại hồ sơ và nêu rõ lý do. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án thụ
lý hồ sơ của cơ quan có thẩm quyền, Tòa án phải ra một trong các quyết định
27
quy định tại điểm h khoản 2 Điều 20 của Pháp lệnh này; đối với vụ việc phức
tạp, thời hạn này có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày [15, Điều 7], cụ thể
đó là các quyết định: quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp xử lý
hành chính hoặc đình chỉ, tạm đình chỉ việc xem xét, quyết định áp dụng biện
pháp xử lý hành chính nếu thuộc trường hợp quy định tại Điều 15 của Pháp
lệnh này.
Các trường hợp phải đình chỉ, tạm đình chỉ được quy định tại Điều 15
Pháp lệnh 09/2014/UBTVQH13, cụ thể như sau:
1. Thẩm phán quyết định đình chỉ việc xem xét, quyết định áp dụng biện
pháp xử lý hành chính khi có một trong các căn cứ sau đây:
a) Hết thời hiệu áp dụng biện pháp xử lý hành chính;
b) Người bị đề nghị đã chết;
c) Người bị đề nghị không thuộc đối tượng áp dụng biện pháp xử lý hành
chính quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 92, khoản 1 Điều 94 hoặc
khoản 1 Điều 96 của Luật xử lý vi phạm hành chính;
d) Người bị đề nghị thuộc trường hợp quy định tại khoản 5 Điều 92,
khoản 2 Điều 94 hoặc khoản 2 Điều 96 của Luật xử lý vi phạm hành chính;
đ) Cơ quan đề nghị rút đề nghị;
e) Người bị đề nghị đã có bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật đối với hành vi bị đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành
chính;
g) Người bị đề nghị đang chấp hành hình phạt tù, đang chờ chấp hành
hình phạt tù hoặc hình phạt tử hình theo bản án, quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật.
2. Thẩm phán ra quyết định tạm đình chỉ việc xem xét, quyết định áp
dụng biện pháp xử lý hành chính khi có một trong các căn cứ sau đây:
28
a) Hành vi của người bị đề nghị có dấu hiệu tội phạm và Tòa án phải
chuyển hồ sơ cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự xem xét
hoặc người bị đề nghị đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi đó;
b) Khi phát sinh tình tiết mới về tình trạng sức khỏe, tâm thần của người
bị đề nghị và cần yêu cầu cơ quan đề nghị tiến hành trưng cầu giám định;
c) Người bị đề nghị đang bị bệnh hiểm nghèo có xác nhận của bệnh viện
từ cấp huyện trở lên.
Không thuộc một trong các trường hợp trên Thẩm phán ra quyết định
mở phiên họp. Như vậy, thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc bằng phiên họp giải quyết. Việc quy định Tòa án
phải mở phiên họp khi áp dụng biện pháp xử lý hành chính trên với sự tham
gia của các thành phần bắt buộc nhằm đảm bảo tính khách quan và yêu cầu về
tính “tư pháp hóa”. Sau khi nghiên cứu đầy đủ hồ sơ vụ việc, và các cơ quan
hữu quan đã bổ sung tài liệu chứng cứ. Thẩm phán được phân công giải quyết
vụ việc sẽ ra quyết định mở phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp
xử lý hành chính. Theo đó, trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày ra
quyết định mở phiên họp, Toà án phải mở phiên họp xem xét, quyết định áp
dụng biện pháp xử lý hành chính; trong trường hợp có lý do chính đáng thì
Toà án có thể mở phiên họp trong thời hạn 10 ngày. Trong thời hạn 01 ngày
làm việc, kể từ ngày kết thúc phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện
pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, Thẩm phán phải ban hành quyết định
về một trong các vấn đề sau đây: Áp dụng biện pháp xử lý hành chính theo đề
nghị của cơ quan lập hồ sơ đề nghị; không áp dụng biện pháp xử lý hành
chính; Yêu cầu thay đổi biện pháp xử lý hành chính; chuyển hồ sơ cho cơ
quan tiến hành tố tụng hình sự; đình chỉ, tạm đình chỉ việc xem xét, quyết
định áp dụng biện pháp xử lý hành chính. Các quyết định áp dụng, không áp
dụng, đình chỉ, tạm đình chỉ áp dụng biện pháp xử lý hành chính có hiệu lực
kể từ ngày hết thời hạn khiếu nại, kiến nghị.
29
1.5. Các yếu tố ảnh hƣởng đến việc áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
1.5.1. Yếu tố pháp luật về xử lý hành chính và biện pháp đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc
Các quy định của pháp luật có ảnh hưởng rất lớn tới quá trình áp dụng
biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; là cơ sở để
thực hiện biện pháp này. Việc ban hành pháp luật, một mặt nhằm tạo hành
lang pháp lý cho các chủ thể được giao quyền thực hiện các biện pháp, mặt
khác nhằm răn đe, xử phạt các đối tượng trong khuôn khổ pháp luật quy định.
Khi pháp luật được ban hành rõ ràng, chặt chẽ thì các cơ quan được trao
quyền sẽ dễ dễ dàng áp dụng, không bị động, lúng túng.
Các chính sách phải được cụ thể hóa bằng pháp luật, bằng những văn
bản hành chính hợp pháp, mang tính bắt buộc, cưỡng chế nên phải đảm bảo
được độ chính xác tránh được tình trạng áp dụng “tùy tiện” của các cơ quan
có thẩm quyền.
Biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được xem
là một trong những “chính sách” được ưu tiên trong việc đẩy lùi tệ nạn ma
túy ngoài cộng đồng và để đảm bảo trật tự trị an xã hội. Quy định của pháp
luật về xử lý hành chính và biện pháp trên phải cụ thể , có văn bản hướng dẫn
rõ ràng, phù hợp với tình hình phát triển và tình hình nghiện ma túy của từng
địa phương đồng thời phải đảm bảo được sự thống nhất áp dụng trên phạm vi
toàn quốc. Như vậy mới đảm bảo được việc áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đạt hiệu quả cao.
1.5.2. Yếu tố kinh tế
Điều kiện kinh tế có ảnh hưởng rất lớn tới quá trình xây dựng, mở rộng
các cơ sở điều trị nghiện và việc thực hiện thành công biện pháp đưa vào cơ
sở cai nghiện bắt buộc. Những biến đổi về mặt kinh tế như kinh tế tăng
trưởng nhanh trong xu thế hội nhập toàn cầu kéo theo việc các tệ nạn ngày
30
càng gia tăng; chính vì vậy pháp luật hành chính và áp dụng biện pháp xử lý
hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc cũng phải thay đổi cho phù hợp
đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.
Áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
là một quá trình mà khi thực hiện “tốn” rất nhiều ngân sách. Để việc cai
nghiện thành công phụ thuộc vào nhiều yếu tố như về cơ sở vật chất, chất
lượng, số lượng đội ngũ cán bộ cũng như thuốc men và cả ý chí của người
nghiện…. Trong quá trình cai nghiện, các học viên còn được học tập, dạy
nghề để khi tái hòa nhập cộng đồng người nghiện có thể tự làm để nuôi sống
bản thân mình. Vì thế, cần nguồn ngân sách lớn để tránh tình trạng các cơ sở
điều trị nghiện quá tải dẫn đến việc học viên trốn trại, đảm bảo ngân sách để
hoạt động.
1.5.3. Yếu tố tâm lý xã hội
Các quy định của pháp luật về xử lý hành chính đưa ra nhằm tuyên
truyền, răn đe các đối tượng nghiện; đồng thời bảo vệ họ trước tác động của
dư luận. Tâm lý của một bộ phận người dân là e ngại, sợ tiếp xúc với người
nghiện, một bộ phận khác lại có thái độ phản ứng gay gắt với người nghiện
nên ảnh hưởng không nhỏ tới tâm lý của người nghiện và gia đình họ. Chính
vì vậy, các đối tượng nghiện và gia đình họ thường che dấu tình trạng nghiện,
xấu hổ không đi cai nghiện tại các trung tâm dẫn đến việc tình trạng nghiện
ngày càng nặng nề, ảnh hưởng tới tình hình trật tự, trị an tại địa phương.
Từ đó, mà pháp luật về xử lý hành chính có những quy định để khuyến
khích, tạo điều kiện cho nghiện cai nghiện. Việc tuyên truyền, giáo dục
khuyến khích việc đưa người nghiện đi cai nghiện cũng như tuyên truyền để
nhân dân chung tay vào công cuộc vận động người nghiện đi cai nghiện và
giúp đỡ người nghiện để họ tái hòa nhập cộng đồng.
31
Tiểu kết chƣơng 1
Biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có vai trò
quan trọng trong việc đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội và chữa bệnh
cho những người nghiện, giúp họ có thể tái hòa nhập cộng đồng dễ dàng hơn.
Việc hiểu rõ các vấn đề khái quát chung về áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc là làm rõ khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, thời hiệu, thời
hạn, thẩm quyền cũng như trình tự thủ tục áp dụng sẽ là tiền đề cho việc
nghiên cứu, hướng tới hoàn thiện hệ thống pháp luật về biện pháp.
32
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ
HÀNH CHÍNH ĐƢA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC TẠI
HUYỆN LONG THÀNH THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI.
2.1. Khái quát chung về tình hình nghiện ma túy tại huyện Long
Thành, tỉnh Đồng Nai.
Long Thành là một huyện nằm ở phía nam tỉnh Đồng Nai, về mặt địa lý
huyện nằm ở vị trí trung tâm của vùng kinh tế động lực phía Nam gồm
TP.HCM, Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa-Vũng Tàu, cách Thành phố
60km, Biên Hòa 33km, Vũng Tàu 60km, Bình Dương 40km; phía đông giáp
huyện Cẩm Mỹ và thị xã Long Khánh; phía tây giáp huyện Nhơn Trạch và
quận 9 Thành phố Hồ Chí Minh; phía Bắc giáp thành phố Biên Hòa; phía
Nam giáp huyện Tân Thành (Bà Rịa - Vũng Tàu).
Với hệ thống đường cao tốc và các tuyến đường tỉnh đi qua địa bàn
huyện cùng với các tuyến đường huyện được đầu tư nâng cấp mở rộng và hạ
tầng khu trung tâm hành chính huyện được hoàn chỉnh theo đúng quy hoạch
được duyệt đã tạo thành mạng lưới giao thông đường bộ thuận lợi. Ngoài ra
sự phát triển đồng bộ gồm đường bộ - đường sắt - đường thủy - hàng không
gắn kết với các vùng là lợi thế và động lực thúc đẩy kinh tế trên địa bàn
huyện ngày càng phát triển [17]. Với điều kiện thuận lợi như trên, kinh tế trên
địa bàn huyện ngày càng phát triển kéo theo đó là sự gia tăng của các tệ nạn
xã hội và đáng chú ý nhất là tình trạng nghiện ma túy.
Nghiện ma túy là vấn đề nhức nhối không chỉ trên địa bàn huyện Long
Thành mà còn trên cả nước. Đảng và Nhà nước quan tâm, chỉ đạo các ngành,
các tỉnh thành trong cả nước triển khai đồng bộ các giải pháp và phòng, chống
ma túy trên cả 3 lĩnh vực “giảm cung, giảm cầu và giảm hại”, đã thu được
một số kết quả nhất định song chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế đặt ra. Tệ
nạn ma túy diễn biến ngày càng phức tạp, gia tăng về số lượng, tính chất, mức
độ ngày càng khó kiểm soát hơn. Số vụ cơ quan chức năng bắt giữ về sản
33
xuất, mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy năm sau luôn cao hơn năm
trước. Số người nghiện ma túy liên tục gia tăng: Năm 1995, cả nước có
68.227 người nghiện, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền núi phía Bắc nơi có
đồng bào tập trung trồng và hút thuốc phiện. Năm 2005, nghiện ma túy đã lan
rộng và xuất hiện trên cả nước với số lượng 12.228 người; năm2015 là
200.134 người; đến tháng 6 năm 2016 là 20.334 người; đến tháng 6 năm 2017
là 21.654 người. Nghiện ma túy xuất hiện ở mọi thành phần của xã hội, mọi
lứa tuổi, song chủ yếu ở lớp trẻ, theo khảo sát của Cục phòng chống tệ nạn xã
hội, 76% trong tổng số người nghiện có độ tuổi dưới 35 tuổi; 60% số người
nghiện sử dụng ma túy lần đầu dưới độ tuổi 25, trong đó có 8% sử dụng ma
túy lần đầu ở độ tuổi dưới 18 [14, tr 55]. Tổng số người bị áp dụng biện pháp
xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trên cả nước tăng qua
từng năm, cụ thể theo báo cáo của Bộ tư pháp về công tác thi hành pháp luật
20000
17181
18000
16000
15132
14115
13157
14000
12000
10000
8000
6000
4000
2000
1032
0
2014
2015
2016
2017
2018
về xử lý hành chính như sau:
Biểu đồ 1. Thống kê tình hình áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong cả nước.
34
Nhìn chung, tình hình nghiện ma túy hiện nay đang diễn biến khá phức
tạp, khó kiểm soát và gia tăng mạnh trên địa bàn cả nước. Tại huyện Long
Thành, tỉnh Đồng Nai cũng vậy, số người nghiện, sử dụng ma túy ở ngoài
cộng đồng còn nhiều. Nếu không nhanh chóng đưa các đối tượng này vào cơ
sở cai nghiện bắt buộc thì sẽ gây nên hậu quả khôn lường, ảnh hưởng đến trật
tự, trị an xã hội.
Nhận thấy đây là vấn đề rất nghiêm trọng, công an các xã, thị trấn trên
địa bàn tổ chức nhiều đợt ra quân tuyên truyền phòng, chống ma túy ở các
khu dân cư, trường học, trên địa bàn. Tuy nhiên, tỉ lệ người nghiện vẫn tăng
mạnh qua các năm, cụ thể, theo báo cáo số 27/2018/BC-CA của Công an
huyện Long Thành thể hiện: Tỷ lệ người nghiện năm 2018 tăng 7,3% so với
năm 2017 và tăng 36% so với năm 2014. Các đối tượng nghiện lợi dụng
khách sạn, nhà trọ, khu công nghiệp để mua bán và sử dụng ma túy diễn biến
phức tạp. Địa bàn sử dụng trái phép chất ma túy có xu hướng chuyển từ nơi
hoang vắng sang hoạt động trong các cơ sở lưu trú. Đa số người nghiện hoạt
động sử dụng trái phép chất ma túy nhiều lần ở nhiều địa bàn khác nhau.Địa
bàn phức tạp về tệ nạn ma túy thường là khu vực tập trung đông dân nhập cư,
có nhiều khu công nghiệp. Người sử dụng ma túy ngày càng trẻ hóa. Chất ma
túy được sử dụng trái phép có xu hướng chuyển dần từ heroin sang ma túy
tổng hợp. Hình thức sử dụng cũng chuyển từ việc tiêm chích sang hút, hít chất
ma túy. Các đối tượng sử dụng có xu hướng chuyển từ sử dụng cá nhân sang
sử dụng chung nhiều người với nhau. Nguy hiểm hơn là xuất hiện một số loại
ma túy mới, trong đó có loại ma túy không nằm trong danh mục các loại ma
túy do Chính phủ quy định tình trạng nghiện ma túy tổng hợp, nhất là ma túy
đá gia tăng do phần lớn thanh thiếu niên nhận thức sai lệch là sử dụng ma túy
đá và "cỏ Mỹ" không gây nghiện. Trong khi ma túy tổng hợp, nhất là ma túy
đá, thường tạo ra ảo giác mạnh và kéo dài, đối tượng sử dụng không kiểm
35
soát được nhận thức và hành vi, có nguy cơ dẫn đến vi phạm pháp luật, gây
hệ lụy lớn cho gia đình và xã hội.
Chính vì vậy, huyện Long Thành luôn quan tâm, chú trọng đến việc đưa
người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; trên địa bàn có một cơ sở điều trị
nghiện của Thành phố Hồ Chí Minh, còn các đối tượng nghiện trên địa bàn
sau khi có quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc sẽ được đưa vào cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đồng Nai,
có trụ sở tại xã Xuân Phú, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai. Người bị nghiện
sau khi đưa vào cơ sở điều trị nghiện được tổ chức điều trị cắt cơn giải độc
theo đúng phác đồ điều trị; được phân loại, bố trí vào từng khu ở phù hợp
như: khu dành riêng cho nữ, khu dành riêng cho cai nghiện tự nguyện, khu cai
nghiện lần đầu... Học viên được học văn hóa, học nghề được thăm gặp gia
đình, được xem xét giảm thời gian cai nghiện khi đạt kết quả phấn đấu rèn
luyện tốt.
2.2. Thực tiễn áp dụng biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành.
2.2.1. Thực trạng lập hồ sơ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Việc lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ
sở cai nghiện bắt buộc là nhiệm vụ của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã với
sự hỗ trợ của Công an xã. Tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, số người
nghiện theo thống kê của Công an huyện Long Thành năm 2016 là 555 người,
năm 2017 là 580 người và số người nghiện ngày càng gia tăng nhất là trong
độ tuổi thanh thiếu niên, những người không có nghề nghiệp ổn định; trong
đó trên 70% đối tượng nghiện trên địa bàn huyện sử dụng ma túy tổng hợp
bằng hình thức hút chủ yếu; tập trung ở các xã, thị trấn như thị trấn Long
Thành, xã An Phước, Phước Thái, Long Phước, Tân Hiệp; tuy nhiên, việc lập
36
hồ sơ đưa các đối tượng vào cơ sở cai nghiện bắt buộc lại chiếm tỷ lệ không
70
60
50
40
30
20
10
0
Xã An Phước Xã Phước
Xã Tân Hiệp
Thái
Xã Long Phước
Thị trấn Long Thành
2016 2017
cao, cụ thể:
Biểu đồ 2. Thống kê lập hồ sơ cai nghiện công an huyện Long Thành
Như vậy, Có thể nhận thấy thị trấn Long Thành là địa bàn có nhiều đối
tượng nghiện nhất.
Sỡ dĩ thị trấn Long Thành là địa bàn có nhiều người nghiện nhất vì đây
là khu hành chính tập trung dân cư và gần các cụm khu công nghiệp lân cận,
thu hút lượng dân nhập cư đông. Tại đây có nhiều nhà nghỉ, khách sạn giá rẻ
mọc lên, giao thông thuận lợi cho việc mua bán ma túy nên rất thuận tiện cho
các đối tượng thực hiện hành vi nghiện hút. Chính vì vậy mà đây là địa bàn có
tỉ lệ người nghiện nhiều và tăng theo từng năm.
Tiếp theo là xã Phước Thái, địa bàn có người nghiện chiếm thứ hai
trong toàn huyện, lại tiếp giáp với tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nên các đối tượng
tập trung đông tại đây.
Tiếp đến là xã Long Phước, An Phước, Tân Hiệp. Còn lại 10 xã theo
thống kê là không có người nghiện, tuy nhiên, đây chỉ là con số về mặt thống
kê, trên thực tế ở các địa bàn trên người nghiện ma túy vẫn ngày một gia tăng.
37
Đến năm 2018, cơ quan Công an lập hồ sơ đề nghị áp dụng đối với 106
đối tượng, trong khi, số người nghiện còn bên ngoài cộng đồng là 620 người
(theo báo cáo số 24/BC-CA ngày 02/01/2019 của Công an huyện Long Thành
về việc xử lý các đối tượng nghiện). Sáu tháng đầu năm 2019, mặc dù, số
lượng người nghiện vẫn tiếp tục tăng nhưng việc lập hồ sơ để áp dụng biện
pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc vẫn còn hạn chế.
Từ những số liệu đã được phân tích ở trên, ta có thể nhận thấy rằng:
- Cơ quan công an đã lập số lượng lớn đối với người bị nghiện cần được
đi cai nhưng chiếm tỷ lệ không cao trong tổng số người nghiện trên toàn
huyện năm 2016 là 182/555; năm 2017 là 222/580.
- Trên thực tế, số lượng người nghiện ngoài cộng đồng vẫn còn rất
nhiều, số lượng người nghiện chưa bị phát hiện vẫn còn nhiều. Số người bị cơ
quan công an lập hồ sơ chiếm tỉ lệ ít so với thực trạng ngoài xã hội.
- Người nghiện không ngừng tăng qua các năm và tập trung ở một số địa
bàn nhất định.
Đối với thời gian lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thì khoản 1 Điều 8 Nghị định
221/2013/NĐ-CP quy định về thời hạn xác định nơi cư trú của người bi phạm
với thời gian là tối đa 15 ngày. Tuy nhiên, thực tế Công an các xã thị trấn trên
địa bàn huyện không thực hiện đúng mà thường vi phạm thời hạn xác minh
nơi cư trú dẫn đến thời gian lập hồ sơ bị kéo dài.
Về xác định đối tượng nghiện vừa thuộc đối tượng bị áp dụng biện pháp
xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc mà có yếu tố “côn đồ hung hãn”, các cơ quan có thẩm quyền rất khó
xác định thế nào là “côn đồ hung hãn” nên cơ quan lập hồ sơ, cơ quan đề nghị
và cơ quan xem xét, áp dụng thường áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc đối với người bị đề nghị; cụ thể, theo báo cáo thống kê hàng
năm của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, năm 2016 (thời gian tính từ ngày
38
01/10/2015 đến hết ngày 30/9/2016), tổng số đối tượng bị áp dụng các biện
pháp xử lý hành chính là 1317, trong đó, đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là 1312, đối tượng bị áp dụng đưa vào cơ sở
giáo dục bắt buộc là 2, đưa vào trường giáo dưỡng là 03; năm 2018 (thời gian
tính từ ngày 01/10/2017 đến hết ngày 30/11/2018) thì tổng số đối tượng bị áp
dụng các biện pháp xử lý hành chính là 870, trong đó, đối tượng bị áp dụng
biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là 867, đối tượng bị áp dụng đưa
vào cơ sở giáo dục bắt buộc là 1, đưa vào trường giáo dưỡng là 02.
Về độ tuổi người nghiện ma túy đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc:
Khoản 1 Điều 96 Luật XLVPHC năm 2012 chỉ quy định áp dụng biện pháp
xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người nghiện từ
18 tuổi trở lên mà không có quy định về việc áp dụng biện pháp này đối
người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi. Nhưng trong xu thế phát
triển hiện nay, kéo theo hệ lụy là người nghiện ma túy và sử dụng ma túy
dưới 18 tuổi ngày càng nhiều và có xu hướng gia tăng; cụ thể, tuổi trung bình
sử dụng ma túy tại Hà Nội và Hải Phòng là 16, tại Thành phố Hồ Chí Minh là
17 tuổi, đáng chú ý có tới 30-40% vị thành niên từ 13 tuổi trở lên sử dụng ma
túy đá. Tại tỉnh Sóc Trăng số người nghiện mà sử dụng ma túy dưới 18 tuổi
chiếm tỷ lệ 10,44% so với tổng số của người nghiện và liên quan đến ma túy
[7, tr 14]. Còn tại tỉnh Đồng Nai, theo báo cáo thống kê này 30/12/2018 của
Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai, người nghiện ma túy, sử dụng ma túy dưới
18 tuổi chiếm tỷ lệ 11.48% trong tổng số người nghiện và liên quan đến ma
túy; trong đó, số người nghiện dưới 18 tuổi tại huyện Long Thành chiếm
7,4% trên tổng số người nghiện. Số đối tượng trên hiện đang ở cộng đồng và
chưa có biện pháp nào để quản lý, cai nghiện; điều đó, ảnh hưởng đến sức
khỏe, tinh thần và thể chất của đối tượng vị thành niên, mặt khác, lại ảnh
hưởng đến tâm lý của cộng đồng dân cư, bởi lẽ nghiện hay sử dụng ma túy sẽ
39
kéo theo nhiều tệ nạn khác xảy ra. Tuy nhiên, hiện nay các địa phương vẫn
chưa có chế tài áp dụng đối với những đối tượng này.
Về xác định tình trạng nghiện ma túy: Chính vì pháp luật chỉ quy định
quy trình xác định tình trạng nghiện đối với hai nhóm chất dạng thuốc phiện
OPIATS) và ma túy tổng hợp chất dạng AMPHETAMIN (ATS) nên có
những trường hợp khi bắt giữ được đối tượng có hành vi sử dụng trái phép
chất ma túy nhưng không nằm trong hai nhóm chất trên nên không có sinh
phẩm để xét nghiệm dẫn đến tình trạng cơ quan công an không tiến hành lập
được hồ sơ đối với các đối tượng đó. Đối với thời gian để xác định tình trạng
nghiện thì trên địa bàn huyện Long Thành thường tiếp nhận đối tượng và trả
kết quả là Phiếu trả lời kết quả về việc xác định tình trạng nghiện ma túy
trong cùng một ngày.
Thực tế cho thấy, ở mỗi địa phương khác nhau thì sẽ có cách xác định
tình trạng nghiện khác nhau. Tại Thành phố Hà Nội thì Ủy ban nhân dân
thành phố ban hành Quyết định số 7144/QĐ-UBND ngày 27/12/2014 ban
hành Quy chế về trình tự, thủ tục thẩm quyền tổ chức cai nghiện ma túy trên
địa bàn Thành phố Hà Nội; theo đó, đối với các đối tượng đã có hồ sơ quản lý
tại địa bà thành phố nếu có kết quả xét nghiệm dương tính với ma túy và hồ
sơ chỉ cần chưa quá 03 năm thì bị xác định là người nghiện ma túy. Tại thành
phố Đà Nẵng, Ủy ban nhân dân thành phố ban hành Quyết định số
28/2014/QĐ-UBND ngày 06/9/2014 ban hành Quy chế phối hợp lập hồ sơ và
tổ chức cai nghiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng; theo đó, đối với các đối
tượng đã có hồ sơ quản lý tại địa bàn thành phố nếu có kết quả xét nghiệm
dương tính với ma túy và hồ sơ chỉ cần chưa quá 04 năm thì bị xác định là
người nghiện ma túy. Ngoài ra, cả hai địa phương đều quy định cách xác định
nếu có kết quả xét nghiệm dương tính với ma túy và có bản khai báo của đối
tượng hoặc thân nhân gia đình thì được xác định là người nghiện ma túy. Còn
tại huyện Long Thành áp dụng theo Quy định số 08/2016/QĐ-UBND ngày 04
40
tháng 02 năm 2016 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai về việc ban hành Quy
chế phối hợp lập hồ sơ và tổ chức cai nghiện ma túy trên địa bàn tỉnh Đồng
Nai; theo đó, trên địa bàn tỉnh Đồng Nai việc xác định tình trạng nghiện thực
hiện theo Thông tư liên tịch số 17/2015/TTLT-BYT-BLĐTBXH-BCA ngày
09/7/2015.
Về thủ tục giao cho gia đình, tổ chức quản lý người bị đề nghị áp dụng
biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời gian làm thủ tục áp
dụng biện pháp theo quy định: Tại Điều 131 Luật XLVPHC năm 2012 quy
định giao cho gia đình, tổ chức quản lý người bị đề nghị áp dụng biện pháp
xử lý hành chính trong thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành
chính.
Quy định trên thể hiện tính nhân văn; tuy nhiên lại gây nên nhiều khó
khăn cho các địa phương. Trường hợp người bị đề nghị áp dụng biện pháp xử
lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có nơi cư trú ổn định thì Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ra quyết định giao cho gia đình quản lý trong
thời gian làm thủ tục. Tại các địa phương và cụ thể là huyện Long Thành,
trong thời gian lập hồ sơ cũng đã tiến hành giao cho gia đình người bị đề nghị
về cho gia đình quản lý, nhưng cũng chính vì quy định này gây khó khăn rất
lớn cho các cơ quan có thẩm quyền, và kể cả gia đình của đối tượng; bởi lẽ
các đối tượng nghiện ma túy đều lệ thuộc nặng nề vào ma túy cả về tinh thần
lẫn thể chất, họ thường có thái bộ bất hợp tác, thậm chí chống đối quyết liệt
việc đưa vào cơ sở cại nghiện bắt buộc mà gia đình lại là nơi che chở, đùm
bọc họ nên gia đình rất khó quản lý. Hơn nữa, việc giao cho gia đình quản lý
trong trường hợp người bị đề nghị bỏ trốn khi cơ quan công an chưa ra thông
báo về việc lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ
sở cai nghiện bắt buộc và chưa tống đạt được cho người bị đề nghị để họ có
quyền đọc hồ sơ. Trường hợp này cơ quan Công an chưa biết xử lý như thế
nào.
41
Đối với trường hợp người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định,
pháp luật xử lý hành chính quy định giao cho các tổ chức xã hội quản lý trong
thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính.Tại Điều 14 Nghị
định số 221/2013/NĐ-CP quy định về điều kiện mà tổ chức xã hội phải đảm
bảo các điều kiện về cơ sở vật chất, nhân sự.Thực tế ở những thành phố lớn
có tiềm năng về kinh tế cũng không thể đáp ứng được các điều kiện như pháp
luật quy định cho tổ chức xã hội. Ở huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai thực tế
không có tổ chức xã hội đáp ứng được các điều kiện trên nên những trường
hợp bị đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ra quyết định đưa vào khu xã hội
của Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đồng Nai. Như vậy, vừa quản lý được
người nghiện, vừa giúp họ cắt cơn, giải độc, tư vấn tâm lý cho người nghiện.
2.2.2. Trong giai đoạn xem xét hồ sơ và đề nghị áp dụng biện pháp xử
lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Đề nghị áp dụng cai nghiện đối với người nghiện thuộc thẩm quyền của
ngành lao động thương binh xã hội. Cho đến nay, ngoài các nhiệm vụ được
giao, ngành đã phát huy và hoàn thành tốt vai trò của mình trong công cuộc
giảm thiểu số người nghiện ngoài cộng đồng từ việc đề nghị áp dụng các biện
pháp cai nghiện qua việc theo dõi sát sao các đối tượng bị nghiện, cai nghiện,
tái nghiện trong các trung tâm, trong cơ sở giáo dục giáo dưỡng, tại gia đình
và cộng đồng. Có thể thấy đây là hoạt động mang tính chất thường xuyên và
kiểm tra liên tục.
Sau khi xem xét hồ sơ công an gửi qua, ngành Lao động-Thương binh-
Xã hội đã phối hợp với cơ quan chức năng kiểm tra lại và phân loại các đối
tượng cần đi cai nghiện bắt buộc hay áp dụng biện pháp cai nghiện theo các
hình thức khác mà pháp luật quy định.
Hiện nay Luật XLVPHC năm 2012 chỉ quy định các chức danh có thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính được giao quyền cho cấp phó như Cưỡng
42
chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, quyền tạm giữ người
theo thủ tục hành chính; không quy định các chức danh có thẩm quyền trong
việc lập hồ sơ đề nghị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, trong đó có
biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được giao quyền cho cấp phó; vì
thế, trong thực tế áp dụng có khó khăn vướng mắc vì một số trường hợp
Trưởng phòng Lao động – Thương binh và Xã hội đi công tác hay nghỉ phép
dài ngày…. Không thể thực hiện thẩm quyền của mình trong thời hạn luật
định.Điều này dẫn đến việc cơ quan có thẩm quyền lúng túng, không biết xử
lý thế nào. Tại huyện Long Thành, trường hợp này cũng đã xảy ra, Phòng Lao
động – Thương binh và Xã hội huyện Long Thành giải quyết bằng cách đưa
Phó phòng ký rồi chuyển hồ sơ qua Tòa án huyện.
Theo quy định của pháp luật, việc thẩm định tính pháp lý của hồ sơ
thuộc thẩm quyền của Trưởng phòng Tư pháp và Trưởng phòng Lao động-
Thương binh và Xã hội đối chiếu hồ sơ đề nghị theo quy định tại Điều 9 Nghị
định 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013với nội dung văn bản kiểm tra tính
pháp lý của Trưởng phòng tư pháp cấp huyện và có quyền yêu cầu bổ sung tài
liệu, chứng cứ nếu không bổ sung được thì trả hồ sơ cho cơ quan lập hồ sơ đề
nghị. Tuy nhiên trên thực tế, Phòng Lao động Thương binh và Xã hội còn
“dựa” nhiều vào văn bản kiểm tra tính pháp lý của Phòng Tư pháp chứ chưa
thực hiện việc kiểm tra, đối chiếu sát sao dẫn đến một số hồ sơ khi chuyển
qua Tòa án sẽ bị trả lại hồ sơ. Cụ thể năm 2016, Tòa án nhân dân huyện Long
Thành trả 5 hồ sơ lại cho Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội; năm
2017 số lượng hồ sơ giảm xuống còn 2, năm 2018 giảm còn 1 hồ sơ và sáu
tháng đàu năm 2019 Tòa án nhân dân huyện Long Thành chưa trả hồ sơ nào
cho Phòng lao động – Thương binh và xã hội; cụ thể như sau:
Ví dụ 1. Ngày 14/7/2017, Phòng Lao động chuyển hồ sơ đề nghị áp dụng
biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với Lê
Xuân Đông. Ngày 15/7/2017, Tòa án nhân dân huyện Long Thành thụ lý hồ
43
sơ trên. Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ việc, Tòa án nhân dân huyện
Long Thành nhận thấy Thông báo số 06/TB-PTP ngày 15/6/2017 của Phòng
Tư pháp huyện Long Thành về việc kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ đề nghị
áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và Văn
bản số 301/LĐ-TBXH ngày 20/6/2017 của Phòng Lao động – Thương binh
và Xã hội huyện Long Thành về việc đề nghị xem xét áp dụng biện pháp xử
lý hành chính đưa Lê Xuân Đông vào Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đồng
Nai đều do cấp Phó Trưởng phòng ký và đóng dấu. Tuy nhiên, theo quy định
tại Điều 12 và Điều 13 của Nghị định số 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013
của Chính phủ quy định về chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thì “…Trưởng phòng Tư pháp cấp huyện có
trách nhiệm kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ. Kết quả kiểm tra phải được thể
hiện bằng văn bản và gửi Trưởng phòng Lao động – Thương binh và Xã
hội”và “2. Hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân cấp huyện xem xét áp dụng biện
pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc:… b) Văn bản đề nghị của Trưởng
phòng Lao động – Thương binh và Xã hội cấp huyện về việc xem xét áp dụng
biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc gửi cho Tòa án nhân dân cùng
cấp…”. Đồng thời, theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 5 của Thông tư
số 19/2015/TT-BTP ngày 28/12/2015 của Bộ Tư pháp thể hiện“…, Trưởng
phòng Tư pháp cấp huyện có trách nhiệm kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ đề
nghị…” và “3. Kết quả kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ đề nghị phải được thể
hiện bằng văn bản theo mẫu được ban hành kèm theo Thông tư này, có chữ ký
của người có thẩm quyền kiểm tra và được đóng dấu của Phòng Tư pháp...”.
Mặt khác, theo hướng dẫn tại Văn bản số 225/LĐ-TBXH ngày 10/5/2017 của
Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội về việc tiếp tục hướng dẫn Quy
trình lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa người nghiện
ma túy vào Cơ sở điều trị nghiện tỉnh Đồng Nai thì người có thẩm quyền ký
44
đối với 02 văn bản nêu trên là Trưởng phòng Tư pháp và Trưởng phòng Lao
động –Thương binh và Xã hội.
Ngoài ra, hồ sơ đề nghị chưa đáp ứng đầy đủ tài liệu theo quy định pháp
luật như sau:
+ Tại bản tóm tắt lý lịch có ghi “3. Sinh năm 1999…”. Tuy nhiên, theo
quy định tại khoản 1 Điều 96 của Luật Xử lý vi phạm hành chính thì đối
tượng bị đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai
nghiện phải từ đủ 18 tuổi trở lên nên cần ghi rõ ngày, tháng, năm sinh của Lê
Xuân Đông để xác định Đông đã đủ 18 tuổi.
+ Tại bản tóm tắt lý lịch có ghi “17. Thời điểm chích ma túy lần đầu (ghi
tháng, năm): 01/6/2017” nhưng tại “15. Hình thức sử dụng ma túy (nuốt,
chích, hít): hít” có sự mâu thuẫn. Mặt khác, cần có sự thống nhất trong việc
áp dụng biểu mẫu trong việc thực hiện hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý
hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc giữa Thông tư số 14/2014/TT-
BLĐTBXH ngày 12/6/2014 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và
Quyết định số 23/2016/QĐ-UBND ngày 05/4/2016 của Ủy ban nhân dân tỉnh
Đồng Nai.
Từ những nhận định trên Tòa án đã ra Thông báo số 01/TB.TA ngày
26/6/2017 trả hồ sơ cho Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội huyện
Long Thành.
Cùng thời điểm với hồ sơ trên Tòa án nhân dân ra Thông báo số
02/TB.TA ngày 26/6/2017 về việc trả hồ sơ cho Phòng Lao động – Thương
binh và Xã hội huyện Long Thành đối với hồ sơ Trần Ngọc Phú.
Ngoài những lý do về thẩm quyền như ở ví dụ 1 thì đối với hồ sơ này
còn có thêm một số nhận định để Tòa án trả hồ sơ như:
+ Tại mục 17 của bản tóm tắt lý lịch có ghi thời điểm sử dụng ma túy
gần nhất: 14/5/2017. Tuy nhiên, theo bản tường trình, biên bản ghi lời khai
của Trần Ngọc Phú, biên bản xét nghiệm chất ma túy và biên bản vi phạm
45
hành chính về việc sử dụng trái phép chất ma túy đều thể hiện thời điểm Phúc
sử dụng ma túy gần nhất là vào lúc 01 giờ ngày 15/5/2017.
+ Tại Phiếu xác minh tình trạng cư trú có thể hiện Phúc bị xử phạt tù 02
lần vào năm 2005 và năm 2016 và 01 lần bị đưa đi cai nghiện ma túy bắt buộc
tại Bố Lá vào năm 2012. Tuy nhiên, hồ sơ chỉ cung cấp 01 bản phô tô giấy
chứng nhận chấp hành xong án phạt tù số 515/GCN ngày 23/3/2016 ngoài ra
không có tài liệu thể hiện việc Phúc bị xử phạt tù năm 2005 đã được xóa án
tích hay chưa và cũng chưa cung cấp được giấy chứng nhận chấp hành xong
quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện Bố Lá năm 2012.
+ Tại biên bản ghi lời khai và bản tường trình thể hiện Phúc sinh ngày
15/11/1986 tại Bến Tre. Tuy nhiên, tại biên bản vi phạm hành chính có ghi
“…nguyên quán: Đồng Nai”và tại phiếu xác minh tình trạng cư trú có ghi
“…6. Nơi sinh: Tiền Giang. 7. Nguyên quán: Tiền Giang…” là có sự mâu
thuẫn.
Những thiếu sót được nêu ra trong những Thông báo trả hồ sơ phần lớn
là những thiếu sót từ giai đoạn lập hồ sơ đề nghị của Công an cấp xã; giai
đoạn kiểm tra tính pháp lý của Phòng Tư pháp và đối chiếu, kiểm tra của
Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội cần được chú trọng hơn để tránh
những trường hợp bị Tòa án trả hồ sơ làm mất thời gian.
Trong năm 2014, Phòng Lao đông – Thươn binh và xã hội có văn bản đề
nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
đối với 01 đối tượng, năm 2015 đề nghị áp dụng với 4 đối tượng, năm 2016
đề nghị áp dụng 182 đối tượng, năm 2017 đề nghị áp dụng đối với 202 đối
tượng, năm 2018 đề nghị áp dụng đối với 94 đối tượng, sáu tháng đầu năm
2019 đề nghị áp dụng đối với 62 đối tượng (theo báo cáo tống kết số
09/BC.TA ngày 12 tháng 7 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Long
Thành). Như vậy, có thể thấy số lượng hồ sơ Phòng Lao động Thương binh
và Xã hội chuyển qua Tòa án huyện tăng từng năm; tuy nhiên, do vụ việc học
46
viên trốn khỏi Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đồng Nai nên việc lập hồ sơ
đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc bị hạn chế. Các đối tượng chủ yếu sẽ được quản lý tại địa phương, chỉ
một số trường hợp gặp khó khăn nhất định trong việc quản lý mới lập hồ sơ
đề nghị áp dụng.
2.2.3. Trong giai đoạn ban hành quyết định áp dụng.
Mặc dù, biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Luật
XLVPHC đã có hiệu lực pháp luật từ 01/01/2014. Tuy nhiên, thực tiễn áp
dụng các quy định của pháp luật về biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc vẫn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, dẫn đến việc đưa đối tượng
nghiện ma túy vào Cơ sở điều trị nghiện ma túy vẫn chưa được thực hiện.
Theo báo cáo tổng kết hàng năm của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, năm
2014 (tính theo thời gian là năm thi đua của ngành Tòa án từ tháng 10 năm
2013 đến 30 tháng 9 năm 2014) toàn tỉnh Đồng Nai áp dụng biện pháp xử lý
hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với 02 đối tượng, trong đó
thành phố Biên Hòa 1, huyện Long Thành 1 đối tượng. Năm 2015, tỉnh Đồng
Nai đưa được 10 đối tượng vào Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đồng Nai;
trong thành phố Biên Hòa 5 đối tượng, Long Thành 4 đối tượng, thị xã Long
Khánh 01 đối tượng.
Qua hai năm thực hiện việc đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc do những vướng mắc mà toàn tỉnh Đồng Nai áp dụng biện pháp xử lý
hành chính trên với tỷ lệ rất thấp; trong khi số người nghiện bên ngoài đang
ngày một tăng, điều này không đáp ứng được yêu cầu phòng, chống các tệ
nạn xảy ra trên địa bàn.
Năm 2016 là năm thứ 3 Tòa án là cơ quan có thẩm quyền thụ lý, xem
xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc nên toàn tỉnh Đồng Nai đã thụ lý và đưa 1.312 đối tượng vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc; trong đó, bị đình chỉ 15 vụ, huyện Long Thành đưa được
47
182 đối tượng vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Mặc dù có kiếu nại nhưng con
số đó là không nhiều và có 02 vụ của Tòa án nhân dân huyện Long Thành bị
hủy do có nhiều lỗi chủ quan trong đó. Có thể nhận thấy số người nghiện bị
áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc năm 2016, tăng đột biến
so với năm 2014, năm 2015. Trong năm 2016, Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng
Nai đã ban hành Quyết định số 23/2016/QĐ-UBND ngày 05/4/2016 về ban
hành biểu mẫu trong công tác lập hồ sơ và tổ chức cai nghiện ma túy trên địa
bàn tỉnh Đồng Nai nên các cơ quan áp dụng pháp luật thống nhất được các
vướng mắc trong tỉnh nên số lượng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tăng so với các năm trước.
Năm 2017, số lượng đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc giảm nhanh so với năm 2016, toàn tỉnh
Đồng Nai áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với 425
đối tượng, trong đó huyện Long Thành là 202 đối tượng. Sở dĩ, số lượng áp
dụngbiện pháp xử lý hành chính của toàn tỉnh giảm là do sự việc học viên
trốn khỏi Trung tâm cai nghiện tỉnh Đồng Nai (nay là cơ sở điều trị nghiện
ma túy tỉnh Đồng Nai) ngày 23/10/2016 gần 600 học viên và ngày 06/11/2016
là gần 200 học viên, vì thế, Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai đã ra thông báo
cho các cấp cơ sở tạm dừng việc lập hồ sơ đối với các đối tượng nghiện. Tiếp
đó ngày 08/11/2016 Ủy ban nhân dân huyện Long Thành ra Thông báo số
174/UBND-NC ngày 08/11/2016 về việc tạm dừng đưa đối tượng nghiện ma
túy vào Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh.Tuy nhiên, số lượng người nghiện
bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc vẫn tăng là do số
lượng hồ sơ chuyển qua Tòa án thụ lý đầu tháng 10 đến tháng 11 rất nhiều
nên sau khi có thông báo tạm dừng huyện Long Thành vẫn phải tiếp tục đưa
các đối tượng đã lập hồ sơ xong vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Năm 2018, tỉnh Đồng Nai áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với 868 đối tượng. Qua sự việc học viên trốn
48
trại năm 2016 thì đến nay mặc dù chưa khuyến khích việc đưa các đối tượng
nghiện vào cơ sở điều trị nghiện nhưng Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai đã
cho phép lập hồ sơ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đối với các đối tượng.
Trong năm 2018, huyện Long Thành đã đưa được 94 đối tượng đi cai nghiện
bắt buộc; con số này thấp hơn so với những năm trước và chưa đáp ứng
đượcyêu cầu quản lý ở địa phương trong khi số người nghiện ngày càng tăng.
Qua những phân tích trên có thể nhận thấy: Tòa án huyện đã nhanh
chóng tiếp nhận hồ sơ gửi qua, xem xét và nhanh chóng ban hành quyết định
áp dụng các biện pháp cai nghiện đối với người bị nghiện.
Tuy có đình chỉ một vài vụ vì một số lý do nhưng 100% hồ sơ đề nghị áp
dụng được gửi qua đều giải quyết triệt để và không tồn đọng. Số lượng đối
tượng được Tòa án quyết định áp dụng đưa đi cai nghiện trong những năm
qua tăng rất nhiều. Điều này chỉ phản ánh tình trạng nghiện trên địa bàn mà
còn phản ánh được sự nỗ lực không ngừng của cơ quan trong việc quyết tâm
giải quyết triệt để số người nghiện trên địa bàn tỉnh Đồng Nai nhằm ngăn
chặn, răn đe, và hạn chế số lượng người nghiện và tái nghiện tại các địa
phương trong tỉnh.
Trong năm 2016, do có những sai sót khi xác định về “nơi cư trú ổn
định” mà có 01 quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc của Tòa án nhân dân huyện Long Thành bị Tòa án nhân
dân tỉnh Đồng Nai hủy; cụ thể như sau:
Ngày 02 tháng 6 năm 2016, Vũ Đình Tuân sử dụng ma túy trái phép thì
bị Công an thị trấn Long Thành phát hiện, ngày 03/6/2016 Trạm y tế thị trấn
Long Thành có Phiếu trả lời kết quả về việc xác định tình trạng nghiện ma
túy kết luận Vũ Đình Tuân có nghiện ma túy. Qua các tài liệu chứng cứ khác
có trong hồ sơ vụ việc ngày 27/7/2016, Tòa án nhân dân ra Quyết định áp
dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với
Vũ Đình Tuân, thời hạn 12 tháng. Ngày 28/7/2016, đại diện theo ủy quyền của
49
ông Tuân - Ông Trần Phạm Ảnh nộp đơn khiếu nại Quyết định số176/QĐ-TA
ngày 27/7/2016 của Tòa án nhân dân huyện Long Thành với lý do:
+ Ông Tuân có nơi cư trú ổn định và được chính quyền địa phương xác
nhận theo đúng quy định của pháp luật.
+ Không có cơ sở, căn cứ để xác định tình trạng nghiện của ông Tuân theo
quy định về thẩm quyền và quy trình xác định tình trạng nghiện ma túy tại
Thông tư liên tịch số 17/2015/TTLT-BYT-BLĐTBXH-BCA ngày 09/7/2015.
Ngày 19/8/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai ban hành Quyết định số
05/QĐ.TA hủy Quyết định số 176/QĐ.TA của Tòa án nhân dân huyện Long
Thành với những nhận định sau:
“Qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ thì:
Ngày 03/6/2016, tại phiếu trả lời kết quả xác định tình trạng nghiện ma túy,
Bác sỹ của Trạm y tế thị trấn Long Thành đã kết luận ông Tuân có nghiện ma
túy (loại ma túy sử dụng là hàng đá). Người xác định tình trạng nghiện ma túy là
người có thẩm quyền theo quy định tại khoản 2 Điều 7, Điều 10 Quyết định số
08/2016/QĐ-UBND ngày 04/02/2016 của UBND tỉnh Đồng Nai.
Theo hồ sơ do phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Long
Thành cung cấp thì chưa xác định được ông Vũ Đình Tuân có tiền án, tiền sự
hay không. Tại biên bản xác minh ngày 29/6/2016 tại công an xã Minh Tân,
huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng thì xác định ông Vũ Đình Tuân có
đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa phương nhưng thường xuyên bỏ địa phương
sống lang thang, hiện nay làm gì, ở đâu địa phương không rõ.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Tuân cung cấp đơn xin xác nhận và
giấy cam kết ngày 27/6/2016 của bà Vũ Thị Bé (cô ruột của ông Tuân) được
Công an xã Minh Tân, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xác định: Ông
Vũ Đình Tuân có đăng ký hộ khẩu thường trú, thường xuyên sinh sống ổn định
tại địa phương cũng như việc ông Tuân có Hợp đồng lao động số
50
15/2016/HĐLĐ với Công ty TNHH Trường Quang Dũng, có trụ sở tại số 8/45,
Chợ Hàng, phường Dư Hàng Kênh, Quận Lê Chân, Thành phố Hải Phòng.
Các tài liệu trên mâu thuẫn với nhau về việc xác định tình trạng cư trú của
người bị đề nghị. Ngày 11/7/2016, TAND huyện Long Thành đã ban hành Công
văn số 959/CV-TA yêu cầu cơ quan đề nghị là Phòng Lao động – Thương binh
và Xã hội huyện Long Thành làm rõ về tình trạng cư trú của ông Tuân. Tuy
nhiên cơ quan đề nghị không thực hiện yêu cầu trên.
Như vậy, với các tài liệu có trong hồ sơ thì chưa đủ căn cứ xác định ông
Tuân là người không có nơi cư trú ổn định theo quy định tại khoản 1 Điều 4
Quyết định số 08/2016/QĐ-UBND ngày 04/2/2016 của UBND tỉnh Đồng Nai.
Từ phân tích trên, chưa đủ cơ sở xác định ông Vũ Đình Tuân thuộc đối
tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định tại
khoản 2 Điều 3 nghị định 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 của Chính Phủ;
khoản 1 Điều 96 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
Khiếu nại của ông Tuân có cơ sở nên được chấp nhận”.
Có thể thấy, việc xác định đúng đắn “nơi cư trú ổn định” của người nghiện
là một trong những vấn đề phức tạp nhất trong quá trình áp dụng biện pháp xử lý
hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; ngoài ra, sự phối hợp giữa các cơ
quan cũng là một trong những vấn đề cần được xem xét. Việc xác định “nơi cư
trú ổn định” không chỉ khó khăn cho cơ quan áp dụng pháp luật mà còn ảnh
hưởng trực tiếp đến người bị đề nghị. Qua vụ việc trên, đặt ra cho cơ quan áp
dụng pháp luật trong quá trình xem xét, áp dụng biện pháp xử lý hành chính phải
cẩn trọng trong việc xem xét hồ sơ, tránh trường hợp làm ảnh hưởng đến quyền
lợi của người bị đề nghị. Những khó khăn ở giai đoạn lập hồ sơ, đề nghị ảnh
hưởng rất lớn tới gai đoạn xem xét, áp dụng biện pháp xử lý hành chính điển
hình như việc xác định tình trạng nghiện nếu không được thực hiện hoặc thực
hiện không đầy đủ thủ tục, kết quả xác định tình trạng nghiện “sơ sài” không chỉ
dẫn đến hậu quả là gây khó khăn cho Tòa án nhân dân cấp huyện trong việc xem
51
xét, quyết định thời hạn phù hợp để áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc mà còn dẫn đến việc khiếu nại về thủ tục, thẩm quyền
như ví dụ đã nêu dẫn đến có một số Quyết định có thể bị hủy do chưa thực hiện
đúng.
Ở mỗi giai đoạn trong toàn bộ quá trình áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trên địa bàn huyện Long Thành đều có
những khó khăn vướng mắc riêng. Trong những năm qua việc áp dụng biện
pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trên địa bàn chưa đáp ứng được yêu cầu
đấu tranh phòng, chống tệ nạn xã hội trong khi số người nghiện bên ngoài còn
nhiều.
2.3. Đánh giá chung về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đƣa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.
Trong những năm qua, việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ
sở cai nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai cũng đã đạt được
những thành tựu nhất định. Bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, Long
Thành đã và đang nỗ lực để khắc phục những hạn chế để việc áp dụng biện pháp
xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được thực hiện triệt để hơn,
góp phần củng cố và đảm bảo trật tự trị an trên địa bàn.
2.3.1. Kết quả đạt được trong quá trình áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng
Nai.
Áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại
huyện Thành trong những năm qua đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận
như sau:
Thứ nhất, trong quá trình phát hiện và lập hồ sơ đề nghị, việc áp dụng biện
pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc cơ bản được thực hiện
đúng theo quy trình pháp luật quy định; không bỏ qua giai đoạn nào nên các đối
tượng nghiện sau khi bị phát hiện nếu có đủ điều kiện sẽ bị lập thủ tục để áp
52
dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Trong quá trình tiếp nhận và
xử lý hồ sơ các cơ quan có thẩm quyền gặp không ít khó khăn, vướng mắc trong
việc giải quyết các vấn đề liên quan đến việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc nhưng nếu không giải quyết kịp thời thì số người nghiện trên
địa bàn sẽ càng ngày gia tăng và làm ảnh hưởng đến an ninh của địa bàn và cuộc
sống của người dân. Trước tình hình đó, Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai đã ban
hành Quyết định số 08/2016/QĐ- UBND ngày 04/02/2016 về việc thực hiện
Quy chế phối hợp lập hồ sơ và tổ chức cai nghiện ma túy trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai; theo đó, nội dung quy chế là phải “Rút ngắn thời gian, quy trình
lập, thẩm định hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc nhưng vẫn phải đảm bảo đúng các quy định của pháp luật về biện pháp
xử lý hành chính”. Dựa vào đó, tại huyện Long Thành đa số các hồ sơ đều
được lập và xử lý với thời gian ngắn hơn nhiều so với quy định của Nghị định
221/2013/NĐ-CP. Việc xác định tình trạng nghiện ma túy không mất nhiều
thời gian chỉ cần có kết quả xét nghiệm dương tính với ma túy. Việc cho đối
tượng bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc xác
nhận đã đọc hồ sơ là cơ quan có thẩm quyền có thể chuyển qua các giai đoạn
khác mà không cần chờ hết thời gian 05 ngày.
Thứ hai, với số lượng người nghiện đông và tình hình nghiện diễn biến
phức tạp nên Ủy ban nhân dân huyện Long Thành đã kịp thời dựa vào Quy
chế phối hợp lập hồ sơ và tổ chức cai nghiện ma túy trên địa bàn tỉnh Đồng
Nai để ban hành Quy chế phối hợp giữa cơ quan Công an, Phòng Lao động
Thương Binh và Xã hội và Tòa án huyện để rút ngắn thời gian trong việc đưa
người nghiện và cơ sở cai nghiện bắt buộc mà không vi phạm pháp luật trong
thời gian đợi Tòa án ban hành quyết định mà không vi phạm pháp luật. Theo
đó, Công an xã và Phòng tư pháp, Phòng Lao động Thương binh xã hội có
trách nhiệm thống nhất trong việc lập hồ sơ, đảm bảo đúng quy trình để tránh
trường hợp trả hồ sơ dẫn đến kéo dài thời gian. Khi hồ sơ đã chuyển quan Tòa
53
thì trong vòng mười ngày kể từ ngày thụ lý Tòa án huyện phải ban hành quyết
định áp dụng hay không áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc. Chính vì vậy, trong những năm qua, số lượng hồ sơ đề
nghị áp dụng biện pháp trên bị Tòa án trả hồ sơ ngày càng giảm.
Đối với các đối tượng khôg có nơi cư trú ổn định, các cơ quan có thẩm
quyền chủ động đưa đối tượng vào khu xã hội tại Cơ sở cai nghiện ma túy
tỉnh Đồng Nai để quản lý dễ dàng hơn, tránh trường hợp bỏ trốn. Khu xã hội
này có đầy đủ chức năng về y tế, trang thiết bị, chế độ hỗ trợ cho người bị
quản lý và đội ngũ cán bộ.
Thứ ba, việc phối hợp và tổ chức cai nghiện ma túy trên địa bàn huyện
bước đầu đã có kết quả tích cực. Các hình thức cai nghiện đa dạng hơn tại
trung tâm, gia đình và tại cộng đồng. Theo thống kê của Công an huyện Long
Thành thì số người đăng ký cai nghiện tự nguyện tăng theo từng năm. Mặc dù
số người nghiện ngoài cộng đồng vẫn tăng nhưng tỷ lệ tăng giữa các năm đã
giảm. Công tác giúp người nghiện tái hòa nhập cộng đồng cũng được chú
trọng, tỷ lệ người nghiện tái nghiện giảm dần.
Thứ tư, số người được đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc năm sau cao
hơn năm trước cũng đã góp một phần không nhỏ vào mục tiêu phòng, chống
tệ nạn xã hội trên địa bàn huyện. Ngay sau khi phát hiện đối tượng nghiện hút
ma túy và hoàn tất lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc, cơ quan Công an (cơ quan lập hồ sơ) cho người nghiện bị đề
nghị hoặc người đại diện hợp pháp của họ đọc và ký vào thông báo về việc bị
lập hồ sơ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Đồng thời,
làm việc với người thân trong gia đình của người bị đề nghị theo 2 hướng:
nếu gia đình cam kết có đủ điều kiện và quản lý được người nghiện trong thời
gian cho bảo lãnh thì tiến hành cho gia đình bảo lãnh; nếu gia đình không có
điều kiện quản lý đối tượng hoặc có đơn từ chối tiếp nhận thì chuyển người
đó vào cơ sở quản lý lưu trú tạm thời.
54
Để đạt được kết quả như trên phải đề cập đến các lý do sau:
Một là, hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện hơn, các văn bản hướng
dẫn liên quan bước đầu được quy định rõ ràng, phân định rõ thẩm quyền cho
các cơ quan.
Hai là, công tác, lãnh đạo chỉ đạo của cấp Đảng ủy đã vào cuộc kịp thời
cùng với sự quan tâm của các cấp chính quyền trong việc áp dụng biện pháp
xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nên những giải pháp để
đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được thực hiện nhanhh
chóng, linh hoạt khắc phục những bất cập từ các văn bản hướng dẫn, bước
đầu đã đạt kết quả nhất định. Công tác cai nghiện được sự đồng lòng tham gia
của hệ thống chính trị và của cả cộng đồng trên địa bàn huyện Long Thành.
Ba là, các cơ quan được giao nhiệm vụ trong quá trình áp dụng biện
pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trên địa bàn huyện
đã chủ động phối hợp với nhau để hoàn thành nhiệm vụ và tránh trườn trường
hợp thời gian lập hồ sơ, xem xét, áo dụng biện pháp bị kéo dài ra. Tuy cò gặp
nhiều trở ngại, vướng mắc nhưng các cơ quan đã phối hợp để cùng nhau giải
quyết vấn đề. Trong những năm qua, huyện Long Thành thường xuyên tổ
chức những cuộc họp rút kinh nghiệm khi có vướng mắc trong quá trình áp
dụng Luật xử lý vi phạm hành chính và Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH13
ngày 20 tháng 01 năm 2014 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; hàng quý (ba
tháng một lần) huyện Long Thành luôn có những cuộc họp liên ngành giữa
các cơ quan để có những giải pháp hoàn thiện hơn công tác áp dụng biện pháp
xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Bốn là, các cấp chính quyền trên địa bàn huyện Long Thành chú trọng
đến công tác nâng cao năng lực chuyên môn cho cán bộ phụ trách công tác áp
dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Ngoài
các đợt tập huấn do Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai tổ chức, Ủy ban nhân dân
huyện Long Thành còn kết hợp với các cơ quan khác trong huyện tổ chức các
55
buổi tập huấn để giải đáp những vướng mắc trong quá trình áp dụng biện
pháp, tìm cách giải quyết theo hướng linh động cho phù hợp với tình hình trên
địa bàn. Ngoài ra, để đảm bảo thuận lợi cho quá trình xem xét, áp dụng biện
pháp đối với các đối tượng có những hành vi chống đối, không hợp tác mà đã
bị đưa vào Khu xã hội, Tòa án nhân dân huyện Long Thành mở phiên họp xét
ngay tại Khu xã hội của Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đồng Nai.
2.3.2. Khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân của những khó khăn
vướng mắc trong quá trình áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ
sở cai nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.
Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình áp dụng biện pháp xử lý
hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành, tỉnh
Đồng Nai vẫn còn những khó khăn, vướng mắc sau:
Thứ nhất, Việc xác định nơi cư trú và tình trạng nghiện của các đối
tượng gặp rất nhiều khó khăn; các đối tượng có hành vi sử dụng ma túy dưới
18 tuổi rất nhiều nhưng lại không nằm trong các đối tượng được quy định để
áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Trên
địa bàn huyện Long Thành các đối tượng nghiện ma túy phần lớn là người
nhập cư vào làm việc tại địa phương, họ không có đăng ký tạm trú, tạm vắng
tại địa phương. Hơn nữa, các đối tượng này thường xuyên di chuyển từ địa
bàn này qua địa bàn khác nên việc xác định nơi cư trú gặp rất nhiều khó khăn.
Mặt khác, việc xác định tình trạng nghiện cũng gặp không ít vướng mắc khi
một số dạng chất ma túy như cần sa, Cocaine chưa được hướng dẫn quy trình
xác định tình trạng nghiện; một số chất ma túy mới như Cỏ Mỹ lại chưa có
sinh phẩm xét nghiệm để phát hiện người sử dụng chất này dẫn đến không xử
lý được hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.
Thứ hai, về đối tượng nghiện ma túy đã được cai nghiện tại cộng đồng,
tại gia đình mà vẫn còn nghiện, đối tượng nghiện ma túy dưới 18 tuổi trên địa
bàn huyện có số lượng đông nhưng pháp luật không quy định họ là đối tượng
56
áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nên
gây ra khó khăn trong công tác quản lý ở địa phương.
Thứ ba, đội ngũ cán bộ được phân công thực hiện nhiệm vụ trong quá
trình áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ ở cai nghiện bắt buộc
trên địa bàn huyện còn thiếu; ở các đơn vụ chưa có cán bộ chuyên trách mà
còn kiêm nhiệm nhiều công tác khác; các cán bộ hầu hết chưa qua đào tạo về
nghiệp vụ, thiếu kinh nghiệm. Đối với Công an xã là lực lượng có vai trò
chính trong việc lập hồ sơ thì trình độ chuyên môn chưa cao, không được đào
tạo bài bản nên gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình áp dụng biện pháp.
Thứ tư, về cơ sở vật chất, kinh phí phục vụ cho quá trình áp dụng biện
pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc còn nhiều hạn chế.
Ở địa phương chưa có tổ chức xã hội đủ điều kiện theo quy định để quản lý
người nghiện trong thời gian chờ làm thủ tục áp dụng biện pháp.
Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc trên:
Một là các quy định của pháp luật về áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc không rõ ràng, cụ thể như sau:
- Về biểu mẫu trong quá trình áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa
vào cơ sở cai nghiện băt buộc: Đối với các biểu mẫu trong công tác lập hồ sơ
và thi hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
thì Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban hành Thông tư số 14/2014/TT-
BLĐTBXH ngày 12 tháng 6 năm 2014 và phụ lục đính kèm có các biểu mẫu
cụ thể; Tuy nhiên, việc áp dụng giữa các địa phương còn chưa thống nhất.
Ngày 07 tháng 02 năm 2018, Bộ công an ban hành Thông tư số 05/2018/TT-
BCA về thu thập tài liệu, lập hồ sơ đề nghi áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, trong đó đính kèm các biểu mẫu về
lập hồ sơ. Như vậy, biểu mẫu mà các cơ quan ban hành có sự khác nhau, khi
đó, cơ quan lập hồ sơ sẽ áp dụng biểu mẫu của Bộ Lao động – Thương binh
và Xã hội hay của Bộ Công an. Sự không thống nhất trong việc áp dụng biểu
57
mẫu dẫn đến mỗi địa phương sẽ có những biểu mẫu khác nhau. Hơn nữa, để
áp dụng biện này pháp luật nước ta có một hệ thống các văn bản vô cùng đồ
sộ, do nhiều cơ quan ban hành nên tăng tính phức tạp của hệ thống văn bản và
trong nhiều trường hợp lại quy định chồng chéo nhau. Mặt khác, hoạt động
lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc lại
hoàn toàn do cơ quan Công an cấp xã thực hiện (đây là lực lượng không chính
quy, không được đào tạo bài bản trừ Công an các phường và thị trấn). Do đó,
dẫn đến tình trạng người áp dụng pháp luật không biết hết được các văn bản
hoặc có văn bản nhưng không hiểu hết các quy định và dẫn đến việc vận dụng
các quy định của pháp luật còn lúng túng, chưa chính xác. Thực tế thời gian
qua đã chứng minh nhiều địa phương không thể áp dụng được biện pháp đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc mặc dù số lượng đối tượng đủ điều kiện áp
dụng các biện pháp này là rất nhiều [13, tr 31, 32].
- Về xác định đối tượng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ
sở cai nghiện bắt buộc: Luật XLVPHC năm 2012 quy định về đối tượng bị áp
dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, tuy
nhiên, quy định trên vẫn chưa đầy đủ và gây khó khăn cho quá trình áp dụng
biện pháp, cụ thể như sau:
Thứ nhất, về đối tượng đã được cai nghiện tại gia đình, cộng đồng mà
vẫn còn nghiện
Theo Điều 28 Luật Phòng chống ma túy năm 2000 sửa đổi, bổ sung năm
2008 quy định “Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên đã được cai nghiện
tại gia đình, cộng đồng hoặc đã được giáo dục nhiều lần tại xã, phường, thị
trấn mà vẫn còn nghiện hoặc không có nơi cư trú nhất định phải được đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc”, trong khi đó, Luật XLVPHC năm 2012 không quy
định đối tượng đã được cai nghiện tại gia đình, cộng đồng mà vẫn còn nghiện
sẽ bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Nghiện ma túy
được xem là một tình trạng bệnh lý. Để thoát khỏi tình trạng nghiện, người
58
nghiện ma túy buộc phải cai nghiện, Luật Phòng chống ma túy quy định hai
phương pháp cai nghiện là cai nghiện tự nguyện và cai nghiện bắt buộc. Nhà
nước khuyến khích người nghiện tự nguyện cai nghiện, khuyến khích cai
nghiện tại gia đình và tại cộng đồng, bởi suy cho cùng, cai nghiện thực chất là
quá trình “điều trị nghiện” kiên trì và công phu. Điều quan trọng trong quá
trình cai nghiện là ý chí cá nhân và sự trợ giúp của gia đình, cộng đồng để
người bệnh có thể cắt cơn, phục hồi ngay trong môi trường sống quen thuộc
của mình. Tuy nhiên, không phải người nghiện ma túy nào cũng sẵn sàng cai
nghiện công khai tại gia đình và tại cộng đồng. Có trường hợp, mặc dù đối
tượng đã tham gia các chương trình cai nghiện tại gia đình và cộng đồng mà
vẫn còn nghiện thì vẫn có thể áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ
sở cai nghiện bắt buộc [8, tr 45].
Qua theo dõi công tác thi hành pháp luật về xử lý hành chính, thấy rằng,
hầu hết các địa phương đều tạm dừng, không áp dụng duy định của Luật
phòng, chống ma túy mà áp dụng các quy định của Luật XLVPHC năm 2012
để xử lý trường hợp người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên đã được cai
nghiện tại gia đình, cộng đồng mà vẫn còn nghiện [14, tr32]. Các đối tượng
này vừa phải chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại
phường, xã, thị trấn và được cấp Giấy chứng nhận đã chấp hành xong quyết
định áp dụng biện pháp giáo dục tại phường, xã, thị trấn do nghiện ma túy của
Chủ tịch UBND cấp xã theo quy định tại điểm đ khoản 1 điều 9 Nghị định
221/2013/NĐ-CP, vừa hoàn thành chương trình cai nghiện ma túy tại gia đình
hoặc cộng đồng theo quy định pháp luật về phòng, chống ma túy và được cấp
Giấy xác nhận hết thời gian cai nghiện ma túy tại gia đình hoặc cai nghiện ma
túy tại cộng đồng của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã theo quy định tại
điểm e khoản 1 Điều 9 Nghị định 221/2013/NĐ-CP thì mới bị áp dụng biện
pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Điều này xuất phát từ quy định về
việc áp dụng đồng thời áp dụng biện pháp cai nghiện tại gia đình, tại cộng
59
đồng trong quá trình bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại
phường, xã, thị trấn và không áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc đối với người đang tham gia các chương trình cai nghiện ma túy tại cộng
đồng. Cho đến nay thì ngoài Luật phòng chống ma túy hiện hành quy định về
trường hợp người nghiện ma túy đã được cai nghiện tại gia đình hoặc cộng
đồng mà vẫn còn nghiện phải được đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thì
không có văn bản nào khác quy định, điều này gây khó khăn cho việc áp dụng
pháp luật ở các địa phương.
Thứ hai, về đối tượng nghiện ma túy thuộc loại “côn đồ hung hãn”
Điều 118 Luật XLVPHC năm 2012 quy định “1. Trường hợp người thực
hiện hành vi vi phạm pháp luật vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục
bắt buộc vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thì áp dụng
biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
2. Trường hợp người nghiện ma túy thuộc loại côn đồ hung hãn thì áp
dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc. Cơ sở giáo dục bắt buộc
thực hiện việc cai nghiện cho đối tượng này”
Qua quy định trên cho thấy, yếu tố nhân thân là điều kiện quyết định họ
sẽ bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính nào khi vừa thuộc đối tượng bị áp
dụng biện pháp đưa vào cơ sở của nghiện bắt buộc, vừa thuộc đối tượng bị áp
dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc; yếu tố nhân thân ấy chính là
yếu tố “côn đồ hung hãn”. Tuy nhiên, thuật ngữ “côn đồ hung hãn” không
được quy định rõ ràng, tại Luật XLVPHC năm 2012 và các văn bản liên quan
đến việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đều không giải thích về thuật
ngữ này. Tham khảo các văn bản pháp luật có liên quan cũng không giải thích
về thuật ngữ “côn đồ hung hãn” mà chỉ có khái niệm về cụm từ “côn đồ”. Tại
Công văn số 38/NCPL ngày 06/01/1976 và Kết luận của Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao tại Hội nghị tổng kết công tác ngành năm 1995, đã giải thích
về tình tiết “có tính chất côn đồ” như sau: Khái niệm côn đồ được hiểu là
60
những hành động của những tên coi thường pháp luật, luôn luôn phá rối trật
tự trị an, sẵn sàng dùng vũ lực, thích (hay) dùng vũ lực để uy hiếp người khác
phải khuất phục mình, vô cớ hoặc chỉ vì một duyên cớ nhỏ nhặt là đâm chém
hoặc thậm chí giết người. Hành động của chúng thường là xâm phạm sức
khỏe tính mạng, danh dự người khác, gây gổ hành hung người khác một cách
vô cớ hoặc vì một duyên cớ nhỏ nhặt.
Còn theo từ điển tiếng việt của Viện ngôn ngữ học, “côn đồ” có nghĩa là
“kẻ chuyên gây sự, hành hung” [16, tr 275]; theo đó, thuật ngữ “côn đồ” chỉ
chủ thể chứ không phải chỉ hành vi của chủ thể. Vì thế, cần phân biệt rõ giữa
“côn đồ” với tính chất là thuộc tính của hành vi vi phạm với “côn đồ” chỉ một
người xem thường pháp luật. Như vậy, nếu xem xét trên các góc độ thì thuật
ngữ “côn đồ hung hãn” tại Điều 118 Luật XLPHC năm 2012 dùng để chỉ một
người xem thường pháp luật. Do đó, một người vừa thuộc đối tượng đưa vào
cơ sở giáo dục bắt buộc, vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc thì việc chọn lựa áp dụng biện pháp xử lý hành chính nào phải căn cứ
vào nhân thân của người nghiện ma túy bao gồm: quá khứ của họ, tính cách,
thái độ xử sự của họ trong cuộc sống hàng ngày… Nếu xác định được đối
tượng là người xem thường pháp luật thì đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc,
ngược lại, nếu đó không phải là người xem thường pháp luật thì đưa vào cơ
sở cai nghiện bắt buộc. Tuy nhiên, cách giải thích như trên chỉ mang tính ý
nghĩa về mặt học thuật, nghiên cứu chứ không phải giải thích chính thức của
Tòa án nhân dân Tối cao nên không mang tính khuôn mẫu [6, tr 613]. Các cơ
quan có thẩm quyền trong việc lập hồ sơ, đề nghị và xem xét, áp dụng biện
pháp xử lý hành chính rất cần sự giải thích mang tính chính thức từ các cơ
quan có thẩm quyền về thuật ngữ “côn đồ hung hãn” để thống nhất áp dụng
pháp luật.
- Về độ tuổi áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc: Luật xử lý vi phạm hành chính quy định áp dụng biện pháp
61
xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện băt buộc Trong khi đó khoản 1
Điều 29 Luật phòng, chống ma túy năm 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2008 quy
định “Người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi đã được cai nghiện
tại gia đình, cộng đồng hoặc đã được giáo dục nhiều lần tại phường, xã, thị
trấn mà vẫn còn nghiện hoặc không có nơi cư trú nhất định thì được đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc dành riêng cho họ”. Theo quy định này thì người từ
đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buôc và phải là cơ sở dành riêng cho họ. Tuy nhiên, việc cai
nghiện ma túy tại Cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với những đối tượng người
chưa thành niên trên trong trường hợp này không bị coi là áp dụng biện pháp
xử lý hành chính (khoản 3 Điều 29 Luật phòng, chống ma túy); nhưng Luật
phòng, chống ma túy lại không quy định trình tự, thủ tục đưa các đối tượng
này vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nên nếu áp dụng các chủ thể có thẩm quyền
cũng không biết phải thực hiện theo thủ tục nào.
Hiện nay, do có sự không thống nhất trong các quy định tại các văn bản
quy phạm pháp luật nêu trên nên các địa phương rất lúng túng trong việc xử
lý đối tượng người nghiện ma túy từ đủ 12 đến dưới 18 tuổi, trong khi đây là
nhóm đối tượng lẽ ra phải được quan tâm đặc biệt hơn, cần được cắt cơn, giải
độc, tư vấn tâm lý, chữa bệnh kịp thời, nếu để đến 6 năm sau mới áp dụng
biện pháp xử lý hành chính đối với người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi tại thời
điểm bị nghiện thì tính trạng nghiện của đối tượng sẽ ngày càng nặng, khó
chữa trị hơn.
- Về xác định “nơi cư trú ổn định” của người bị đề nghị áp dụng biện
pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc: Theo quy định tại Điều 96 Luật
XLVPHC, việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc đối với nghiện ma túy có nơi cư trú ổn định và người nghiện ma túy
không có nới cư trú ổn định có sự khác biệt. Nếu đối tượng nghiện ma túy
không có nơi cư tú ổn định thì sẽ bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai
62
nghiện bắt buộc, không qua biện pháp áp dụng biện pháp xử lý hành chính
giáo dục tại phường, xã, thị trấn. Sở dĩ, không thể áp dụng biện pháp giáo dục
tại phường, xã, thị trấn đối với người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn
định là vì theo quy định tại Điều 89 Luật XLVPHC năm 2012, biện pháp này
chỉ áp dụng với người có nơi cư trú ổn định nhằm giáo dục, quản lý họ tại nơi
cư tú trong trường hợp nhận thấy không cần thiết phải cách ly họ ra khỏi cộng
đồng. Chính vì thế, việc xác định nơi cư trú ổn định của người nghiện ma túy
là hết sức cần thiết.
Khoản 1 Điều 2 Nghị định số 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 của
Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc quy định “nơi cư trú ổn định là nơi người vi phạm thường
trú hoặc tạm trú nhưng phải là nơi người đó hiện đang thường xuyên sinh
sống”. Như vậy, một công dân muốn được xác định có “nơi cư trú ổn định”
thì phải thỏa mãn đồng thời cả hai điều kiện: có đăng ký thường trú hoặc tạm
trú; đang thường xuyên sinh sống tại nơi đăng ký thường trú hoặc tạm trú.
Nếu thiếu một trong hai điều kiện thì xem như không có “nơi cư trú ổn định”.
Việc xác định nơi cư trú ổn định trên thực tiễn vẫn còn gặp rất nhiều khó
khăn, vướng mắc.
Điều 12 Luật Cư trú quy định “Nơi cư trú của công dân là chỗ ở hợp
pháp mà người đó thường xuyên sinh sống. Nơi cư trú của công dân là nơi
thường trú hoặc tạm trú”. Như vậy, theo Luật Cư trú, nơi thường trú là nơi
công dân sinh sống thường xuyên, ổn định, không có thời hạn tại một chỗ ở
nhất định và đã đăng ký thường trú, còn nơi tạm trú là nơi công dân sinh sống
ngoài nơi đăng ký thường trú và đã đăng ký tạm trú. Trường hợp không xác
định được nơi cư trú theo quy định nêu trên thì nơi cư trú của công dân là nơi
người đó đang sinh sống và có xác nhận của Công an xã, phường, thị trấn.
Luật cư trú và cá văn bản hướng dẫn thi hành quy định công dân có nghĩa vụ
đăng ký thường trú hoặc đăng ký tạm trú để quản lý nhân khẩu. Trên thực tế,
63
có những trường hợp công dân không đăng ký thường trú, tạm trú, Luật cư trú
đã dành giải pháp là xác định nơi cư trú là nơi người đó đang sinh sống và có
xác nhận của Công an, xã, phường, thị trấn. Trong khi đó Luật XLVPHC và
các văn bản hướng dẫn thi hành lại quy định để xác định nơi cư trú là nơi họ
đăng ký thường trú hoặc tạm trú. Điều này dẫn tới một thực tế là người
nghiện ma túy mặc dù có chỗ ở và sinh sống lâu dài tại đó nhưng lại được
xem là không có nơi cư trú ổn định vì chưa thực hiện thủ tục đăng ký thường
trú hoặc tạm trú, vì thế mà bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ
sở cai nghiện bắt buộc ngay.
Đồng thời, quy định của pháp luật về nơi thường xuyên sinh sống của
đối tượng để áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc không rõ
ràng, cụ thể [9, tr 22]. Luật XLVPHC và các văn bản có liên quan xác định,
nơi cư trú là nơi đăng ký thường trú hoặc tạm trú và nơi thường xuyên sinh
sống. Nhưng lại không có một văn bản nào đề cập đến việc như thế nào là nơi
thường xuyên sinh sống. Chính vì thế, việc áp dụng pháp luật trong trường
hợp này không thống nhất giữa các địa phương, việc xác định người nghiện
có thường xuyên sinh sống tại nơi thường trú hoặc tạm trú hay không phụ
thuộc vào ý chí chủ quan của chủ thể tiến hành xác nhận chứ không có tiêu
chí cụ thể nào.
Hiện nay, trên thực tế việc xác định nơi cư trú ổn định của đối tượng bị
áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc vẫn còn gặp rất nhiều
khó khăn. Cách áp dụng pháp luật khác nhau giữa từng địa phương, do cách
hiểu khác nhau như thế nào là thường xuyên sinh sống. Hơn nữa các quy định
của pháp luật về việc xác định nơi cư trú ổn định chưa cụ thể, rõ ràng, dẫn
đến tình trạng lúng túng trong việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Đây cũng là một trong những nguyên nhân
khiến thời gian lập hồ sơ bị kéo dài.
64
Hai là về yếu tố kinh tế, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai là một huyện có
nền kinh tế đang trên đà phát triển; tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể, diện tích
rộng, dân cư tập trung ở một số vùng nhất định, nhiều dân tộc sinh sống trên địa
bàn nền kinh tế giữa các xã trong huyện có sự phát triển không đồng nhất. Công
tác áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc mặc
dù đã được huyện nhà quan tâm, chú trọng nhưng ngân sách lại không nhiều gây
khó khăn rất lớn trong quá trình áp dụng. Ở các trạm y tế cấp xã trong huyện có
chức năng cắt cơn, giải độc nhưng lại không đủ điều kiện về cơ sở vật chất để
thực hiện nhiệm vụ; cho nên, trong thời gian xây dựng, hoàn thiện hồ sơ đề nghị
áp dụng biện pháp xử lý hành chính, người nghiện được đưa vào khu xã hội của
Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đồng Nai; một phần gây khó khăn cho công
tác tống đạt các văn bản tố tụng của các cơ quan, mặt khác, số lượng người
nghiện quá đông dẫn đến tình trạng khó quản lý dẫn đến tình trạng “quá tải” nên
học viên trốn trại.
Ba là về yếu tố tâm lý xã hội, dân số trên địa bàn huyện Long Thành sống
thành từng nhóm ở từng vùng cách xa nhau, do địa bàn huyện rộng và có dân tộc
thiểu số sinh sống nên rất khó khăn trong công tác tuyên truyền về tác hại của
ma túy và việc cần thiết phải đưa người nghiện đi cai nghiện. Tâm lý chung là
người nghiện còn che dấu tình trạng nghiện, gia đình người nghiện còn “bao
che” cho người nghiện vì tâm lý xấu hổ, không muốn mọi người biết con, em
mình bị nghiện. Số người nghiện bên ngoài còn đông và số người nghiện chưa bị
phát hiện chắc rằng sẽ còn đông hơn rất nhiều vì tâm lý của người dân hiện nay.
Trong những năm qua, công tác vận động nhân dân, giáo dục ý thức, tuyên
truyền phổ biến pháp luật ngày càng được chú trọng, cụ thể: Năm 2018, công
tác tuyên truyền phòng chống ma túy, mại dâm, phòng chống HIV/AIDS và tệ
nạn xã hội đã được các ban ngành, đoàn thể của huyện Long Thành tập trung
triển khai sâu rộng đến các cấp, các ngành, đoàn thể, các tổ chức chính trị, xã
65
hội, các trường học, công nhân lao động và trên toàn địa bàn dân cư với nhiều
hình thức và nội dung phong phú, đa dạng.
Với những nỗ lực trên của các cơ quan chức năng trên địa bàn huyện,
bước đầu đã nhận được sự hưởng ứng từ nhân dân khi có một số trường hợp
tự nguyện trình báo tình trạng nghiện để có thể cai nghiện.
Tiểu kết chƣơng 2
Việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc trên địa bàn huyện Long Thành trong những năm trong những năm qua
được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật và nhanh chóng. Tuy nhiên,
tình hình tội phạm và tệ nạn ma túy trên địa bàn vẫn còn diễn biến khá phức
tạp. Thực tế áp dụng vẫn còn gặp nhiều vướng mắc do các quy định của pháp
luật còn mâu thuẫn, quy định chồng chéo nhau hay chưa quy định cụ thể, rõ
ràng dẫn đến tình trạng các địa phương có cách áp dụng khác nhau và các yếu
tố về kinh tế, tâm lý xã hội cũng ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình áp dụng
biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.Từ đó, cần có
những giải pháp để việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc trên cả nước và trên địa bàn huyện được hoàn thiện hơn.
66
CHƢƠNG 3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VÀ BẢO ĐẢM ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH
ĐƢA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC TẠI HUYỆN LONG
THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI
3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm áp dụng biện pháp
xử lý hành chính đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là một
trong những chính sách nhân đạo của nhà nước trong việc giúp người nghiện
trở lại với cuộc sống bình thường. Các đối tượng bị nghiện được cai miễn phí
mà không phải chịu bất kì một chi phí phát sinh nào, trong quá trình cai
nghiện, người nghiện còn được học, giáo dục, được dạy nghề để đảm bảo cho
cuộc sống sau này khi cai nghiện thành công. Để thực hiện được chương trình
cai nghiện mang đậm tính nhân văn nói trên đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng
nghỉ của cả một hệ thống chính trị, đề ra nhiều phương án, giải pháp cũng như
nhiều phương pháp cai nghiện cụ thể, áp dụng với từng đối tượng để tránh
trường hợp họ tái nghiện trở lại. Trong những năm gần đây, số trường hợp bị
áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ngày càng tăng nhưng
vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phòng, chống tệ nạn xã hội; số người nghiện
bên ngoài vẫn ngày càng tăng mà những khó khăn vướng mắc khi áp dụng
pháp luật lại ảnh hưởng lớn tới quá trình xem xét áp dụng biện pháp xử lý
hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Để hoàn thiện áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc cần
thực hiện dựa trên những quan điểm sau:
Một là việc đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện là nhiệm vụ chung
của toàn xã hội, chính vì vậy, cần có sự chung tay, giúp sức của cả cộng đồng.
Các địa phương cần bám sát vào tình hình thực tiễn để có những chủ trương,
chính sách phù hợp. Nhà nước cần ban hành quy chế phối hợp giữa các ban
ngành, tổ chức chính trị - xã hội, trong đó đề cao vai trò của tổ chức Đoàn
67
Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, hội Liên hiệp phụ nữ là những tổ chức
gần với quần chúng nhân dân nên việc vận động sẽ dễ dàng hơn; gần gũi nên
việc tuyên truyền các chủ trương, chính sách của nhà nước nhận được sự đồng
tình hơn của quần chúng. Bên cạnh sự phối hợp, tham gia của hệ thống chính
trị thì cần phải chú trọng đào tạo, tập huấn, thi hành pháp luật cho những
người được giao quyền thực hiện cũng như cần sự giúp sức, đồng lòng từ cá
nhân, tổ chức, tập thể thì việc đưa người đi cai mới hiệu quả và triệt để.
Hai là phải thực hiện đồng bộ các giải pháp hoàn thiện áp dụng biện
pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Việc đề ra các giải pháp để hoàn thiện áp dụng biện pháp xử lý hành
chính là điều rất cần thiết, việc thực hiện đồng bộ được các giải pháp đã đề ra
cũng là yêu cầu cốt lõi được đặt ra. Việc thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp
khác nhau các đối tượng được hướng tới có thể tiếp cận và lĩnh hội được
nhiều kiến thức cơ bản về tác hại của ma túy.
Ba là từ những kết quả đã đạt được của những năm trước để rút ra được
những kinh nghiệm
quý báu trong tư duy để giải quyết công việc một cách nhanh chóng, kịp
thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện các biện pháp đưa
người nghiện đi cai tại cơ sở cai nghiện bắt buộc. Ngoài ra, việc đổi mới nhận
thức trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo cần được chú trọng. Phải xem việc áp
dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là trách
nhiệm của nhà nước nên cần được quan tâm để tác này ngày càng thực hiện
có hiệu quả.
3.2. Hoàn thiện pháp luật về áp dụng biện pháp xử lý hành chính
đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
3.2.1 Quy định để xác định thống nhất “nơi cư trú”, vấn đề liên quan
đối tượng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc.
68
Thứ nhất, về xác định nơi cư trú ổn định
Như đã phân tích việc xác định “nơi cư trú ổn định” của người nghiện là
một vấn đề phức tạp do các văn bản quy phạm pháp luật có những quy định
khác nhau. Vì thế, cần phải quy định để xác định thống nhất về nơi cư trú theo
hướng:
Sửa đổi, bổ sung tiêu chí “nơi cư trú ổn định” trong Nghị định số
221/2013/NĐ-CP theo hướng để phù hợp hơn với các quy định của Luật cư
trú; bởi lẽ, luật cư trú là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất điều chỉnh về vấn
đề cư trú của mọi công dân nên những quy định liên quan đến vấn đề cư trú
trong các văn bản pháp luật khác cần phải được thống nhất theo tinh thần của
Luật cư trú. Theo đó, Điều 40 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “Nơi cư trú
của cá nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống. Trường hợp không xác
định được nơi cư trú của cá nhân theo quy định tại khoản 1 điều này thì nơi cư
trú là nơi người đó đang sinh sống”. Do đó, quy định về “nơi cư trú ổn định”
theo Khoản 1 Điều 2 Nghị định số 221/2013/NĐ-CP cần được sửa đổi, bổ
sung như sau: “Nơi cư trú ổn định là nơi người vi phạm thường trú hoặc tạm
trú, trường hợp chưa thực hiện đăng ký thường trú hoặc đăng ký tạm trú thì
nơi cư trú là nơi người đó đang sinh sống theo xác nhận của công an xã,
phường, thị trấn nhưng phải là nơi người đó hiện đang thường xuyên sinh
sống”.
Tuy nhiên để quy định về “nơi cư trú ổn định” được thống nhất áp dụng
trên thực tế thì Nghị định số 221/2013/NĐ-CP cần quy định bổ sung về việc
giải thích thuật ngữ “thường xuyên sinh sống”. Cụ thể Điều 30 Luật Cư trú
quy định “Trường hợp người đã đăng ký tạm trú nhưng không sinh sống, làm
việc, lao động, học tập từ sáu tháng trở lên tại địa phương đã đăng ký tạm trú
thì cơ quan đã cấp sổ tạm trú phải xóa tên người đó trong sổ tạm trú”. Quy
định của Luật cư trú mặc dù không trực tiếp giải thích cụ thể thế nào là
thường xuyên sinh sống nhưng lại gián tiếp thừa nhận tiêu chí để coi một
69
người thường xuyên sinh sống tại nơi họ đang sống phải có thời gian sống ở
đó từ sáu tháng trở lên. Cho nên Nghị định 221/2013/NĐ-CP có thể quy định
như sau “Nơi người vi phạm thường xuyên sinh sống là nơi người đó đã cư
trú liên tục từ sáu tháng trở lên tính đến thời điểm bị phát hiện sử dụng trái
phép chất ma túy”. Việc quy định “cư trú liên tục từ sáu tháng trở lên” là hợp
lý và phù hợp với tinh thần của Luật Cư trú.
Thứ hai, về xác định đối tượng áp dụng của biện pháp đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc
Một là cần bổ sung thêm đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại khoản 1 Điều 96 Luật XLVPHC
năm 2012 đó là người đã từng cai nghiện tại gia đình, cai nghiện tại cộng
đồng nhưng vẫn còn nghiện, cụ thể như sau: “Đối tượng áp dụng biện pháp
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở
lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà vẫn còn
nghiện hoặc đã cai nghiện tại gia đình, cai nghiện tại cộng đồng mà vẫn còn
nghiện hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú ổn
định”.
Quy định như vậy sẽ đáp ứng được yêu cầu phòng, chống tệ nạn xã hội
cũng như yêu cầu quản lý các đối tượng nghiện của các địa phương, bởi lẽ
nếu không áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc đối với những đối tượng này địa phương sẽ rất khó kiểm soát tình hình
nghiện.
Hai là cần ban hành Nghị quyết quy định về đối tượng nghiện ma túy
thuộc loại côn đồ, hung hãn. Như trên đã phân tích, trong Luật XLVPHC và
các văn bản pháp luật hành chính có liên quan đều không giải thích thế nào là
“côn đồ hung hãn” mà theo điểm b khoản 2 Điều 22 Luật Tổ chức Tòa án
nhân dân năm 2014 quy định “Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
ban hành nghị quyết hướng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật”;
70
cho nên, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cần ban hành Nghị
quyết để hướng dẫn thế nào là “côn đồ hung hãn” nhằm tạo hành lang pháp
lý cho việc thống nhất áp dụng pháp luật ở các Tòa án nhân dân cấp quận,
huyện.
Ba là cần mở rộng độ tuổi của đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Theo tác giả, Luật XLVPHC năm
2012 nên có sự điều chỉnh về độ tuổi và đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc; cụ thể là bổ sung đối tượng áp dụng biện pháp xử
lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người từ đủ 14 tuổi
trở lên. Đối chiếu với các quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ
sung năm 2017 thì người từ đủ 14 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự
đối với tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy, việc mở rộng
đối tượng bị áp dụng biện pháp hành chính đối với người từ đủ 14 tuổi về mặt
pháp lý là phù hợp, đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống tư pháp đối với người
chưa thành niên, về mặt thực tiễn thì đảm bảo được yêu cầu phòng, chống tệ
nạn xã hội. Mặc dù, trong giai đoạn hiện nay, các cơ sở cai nghiện ma túy
chưa đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn như về cơ sở vật chất, trang thiết bị,
chất lượng điều trị, tình trạng quá tải xảy ra ở nhiều nơi như Đồng Nai, Bình
Dương...Tuy nhiên, việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc đối với người nghiện ma túy từ đủ 14 tuổi đến dưới 18
tuổi là điều cần thiết và để phù hợp với đặc điểm thể chất và tâm sinh lý của
người chưa thành niên,tác giả kiến nghị nên xây dựng khu riêng biệt dành cho
độ tuổi dưới 18 trong các Cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc.
Đối với người từ đủ 12 đến dưới 14 tuổi, Luật Phòng, chống ma túy có
quy định việc đưa đối tượng này vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhưng đây
không phải là biện pháp xử lý hành chính. Tuy nhiên, thực tế cho thấy những
đối tượng này còn quá nhỏ, nhưng để họ sống ngoài cộng đồng mà không
được sự quản lý chặt chẽ thì tình trạng nghiện sẽ càng nặng hơn. Do vậy, tác
71
giả kiến nghị, ngoài khu dành cho người nghiện từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi, thì
trong các cơ sở cai nghiện bắt buộc xây dựng thêm khu vực dành cho người
từ đủ 12 đến dưới 14 tuổi bị nghiện. Và phải quy định rõ trình tự, thủ tục đưa
người từ đủ 12 đến dưới 14 tuổi đi cai nghiện.
3.2.2. Hoàn thiện hệ thống biểu mẫu sử dụng trong áp dụng biện pháp
xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Đối với các biểu mẫu trong việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp
xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Tòa án nhân dân thì đã
thống nhất thực hiện theo Nghị quyết số 04/2015/NQ-HĐTP ngày 24 tháng
12 năm 2015 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Đối với các biểu mẫu trong giai đoạn lập hồ sơ đề nghị, đề nghị áp dụng
biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc mặc dù đã có Thông tư số
14/2014/TT-BLĐTBXH ngày 12 tháng 6 năm 2014 của Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội; Thông tư số 05/2018/TT-BCA ngày 07/02/2018 của
Bộ Công an; tuy nhiên, các địa phương vẫn ban hành các biểu mẫu khác nhau
để áp dụng. Cho nên cần xác định rõ việc sử dụng biểu mẫu trong giai đoạn
lập hồ sơ đề nghị tránh tình trạng áp dụng khác nhau. Việc ban hành các biểu
mẫu về thu thập tài liệu, lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có thể theo hướng sau:
Thứ nhất, Bộ Công an đã ban hành Thông tư số 05/2018/TT-BCA ngày
07/02/2018 có đính kèm các biểu mẫu sử dụng trong việc thu thập tài liệu, lập
hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc; vì thế, các địa phương cần ban hành Quy chế phối hợp lập hồ sơ và
tổ chức cai nghiện trên địa bàn để thống nhất áp dụng theo biểu mẫu Thông tư
số 05/2018/TT-BCA.
Thứ hai, Thống nhất sử dụng các biểu mẫu theo Thông tư 14/2014/TT-
BLĐTBXH ngày 12/6/2014 trên cơ sở sửa đổi bổ sung quy định các biểu mẫu
về việc thu thập tài liệu, lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính
72
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và bổ sung quy định “các địa phương áp
dụng thống nhất các biểu mẫu theo Thông tư này”.
3.2.3. Quy định bổ sung về thủ tục, trình tự xác định tình trạng
nghiện.
Trong việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc, khó khăn lớn hiện nay là việc xác định tình trạng nghiện ma túy.
Việc xác định tình trạng nghiện ma túy hiện nay gặp rất nhiều khó khăn xuất
phát từ quy định pháp luật về trình tự, thủ tục và thời gian xác định tình trạng
nghiện, vì thế cần sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến việc xác định
tình trạng nghiện như sau:
Một là, bổ sung khoản 1 Điều 122 Luật XLVPHC năm 2012 theo hướng
quy định trường hợp áp dụng biện pháp tại giữ người theo thủ tục hành chính
để xác định tình trạng nghiện ma túy, thời gian tạm giữ tối đa là 05 ngày
nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và thống nhất với các quy định pháp luật
có liên quan.
Hai là, sửa đổi, bổ sung Điều 5 Thông tư số 17/2015/TTLT-BYT-BCA-
BLĐTBXH theo hướng đơn giản, dễ thực hiện, hướng dẫn xác định tình
trạng nghiện đối với các chất nghiện mới phát sinh ngoài nhóm OPIATS và
nhóm AMPHETAMINE, bổ sung thêm nhiều chất ma túy khác hiện được sử
dụng khá phổ biến ở nước ta song chưa được hướng dẫn xác định tình trạng
nghiện như Cần sa hay Cocaine. Một số loại ma túy mới như “Cỏ Mỹ” (LRX-
11), “Tem lưỡi” (LSD) được giới trẻ sử dụng nhiều ở các thành phố lớn song
chưa có sinh phẩm xét nghiệm để phát hiện người sử dụng chất này dẫn đến
không xử lý được hành vi sử dụng ma túy trái phép, cũng như không xác định
được tình trạng nghiện để áp dụng các biện pháp xử lý hành chính theo quy
định của pháp luật; cần phải có quy định cụ thể về cơ sở pháp lý, hình thức
đưa người có hành vi vi phạm đi xác định tình trạng nghiện ma túy; đồng thời
phải đầu tư cơ sở vật chất, quy định rõ lực lượng lượng nào đảm bảo an ninh
73
trật tự, quy định quyền và nghĩa vụ của người có hành vi vi phạm trong thời
gian tạm giữ để xác định tình trạng nghiện.
3.2.4. Quy định rút gọn trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Sửa đổi các quy định tại khoản 3 Điều 103 Luật XLPHC năm 2012 theo
hướng bỏ bớt khâu trung gian, giao cho Phòng Lao động –Thương binh và Xã
hội là cơ quan vừa kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ, vừa là cơ quan đề nghị áp
dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Đối với kiến nghị này thì
cần phải nâng cao trách nhiệm của Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội
khi là cơ quan “làm luôn cả phần việc của Phòng Tư pháp”; đồng thời rút
ngắn thời gian kiểm tra tính pháp lý và đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ
sở cai nghiện bắt buộc. Trước đây, hai giai đoạn này thời gian tối đa để
chuyển được hồ sơ qua Tòa án là 12 ngày, kiến nghị khi giao cho Phòng Lao
động – Thương binh và Xã hội làm cả hai công việc trên thì nên rút xuống
thời gian tối đa là 8 ngày phải chuyển hồ sơ qua Tòa án hoặc trả lại hồ sơ cho
cơ quan lập hồ sơ trong trường hợp có thiếu sót.
Bãi bỏ quy định Thông báo cho người bị đề nghị áp dụng hoặc người đại
diện của họ về việc lập hồ sơ. Bởi lẽ, tại Tòa án cấp huyện thì người bị đề
nghị cũng sẽ được tiếp cận với các tài liệu có trong hồ sơ và có quyền ý kiến,
quy định này sẽ vẫn đảm bảo cho người bị đề nghị được quyền tiếp cận thông
tin mà lại tránh được trường hợp người bị đề nghị bỏ trốn khỏi địa phương khi
nhận được Thông báo của cơ quan lập hồ sơ, gây khó khăn cho các cơ qua
khác trong quá trình xem xét, áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ
sở cai nghiện bắt buộc.
Việc sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện các quy định của pháp luật về biện
pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là một việc làm hết
sức cần thiết, để cho các quy định được áp dụng thống nhất, rõ ràng trên thực
tế.
74
3.2.5. Nhóm giải pháp khác.
Áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có ý nghĩa rất
quan trọng trong công tác phòng ngừa các tệ nạn xã hội. Để việc áp dụng biện
pháp trên được hiệu quả hơn, ngoài việc hoàn thiện các quy định của pháp
luật thì cần chú trọng vào các vấn đề sau:
Thứ nhất, trong những năm vừa qua tình trạng các cơ sở điều trị nghiện
trên cả nước xuống cấp, quá tải trong khi số học viên ngày càng gia tăng dẫn
đến tình trạng học viên trốn trại. Để giảm thilểu tình trạng này cần đầu tư, xây
dựng lại các cơ sở cai nghiện bắt buộc; khi cơ sở cai nghiện đáp ứng được các
yêu cầu về trang thiết bị, cơ sở vật chất, nguồn nhân lực ….thì sẽ không còn
tình trạng ở các địa phương phải hạn chế số lượng đối tượng bị đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc.
Thứ hai, các địa phương cần tăng cường công tác truyên truyền, phổ biến
các quy định của pháp luật cho người dân để pháp luật đi sâu vào cuộc sống.
Các chính sách của pháp luật hành chính về biện pháp đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc phải thường xuyên tuyên truyền cho nhân dân. Việc tuyên
truyền thực hiện qua các kênh thông tin gián tiếp như đài, báo….và trực tiếp
và tổ chức các cuộc thi, buổi nói chuyện hay cử từng nhóm về các vùng có
kinh tế khó khăn trên địa bàn để tiếp xúc và hỗ trợ họ trong việc tìm hiểu các
chính sách; bởi lẽ cộng đồng xã hội có vai trò quan trọng trong việc áp dụng
biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc cũng như hỗ trợ người nghiện
khi họ tái hòa nhập cộng đồng. Tuyên truyền để bãi bỏ đi tư tưởng kỳ thị, xa
lánh người nghiện, tư tưởng che dấu tình trạng nghiện của bản thân hay người
thân.
3.3. Các giải pháp bảo đảm áp dụng biện pháp đƣa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành.
3.3.1. Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc áp dụng biện pháp
xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
75
Để biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được
thực hiện nhanh gọn và có hiệu quả thì công tác lãnh đạo, chỉ đạo áp dụng
biện pháp này là một việc làm hết sức cần thiết. Chủ trương lãnh đạo của các
cấp chính quyền, cấp ủy trên địa bàn phải phù hợp với đường lối, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đồng thời phải phù hợp với tình hình thực
tế của địa phương để có những chỉ đạo đúng đắn. Công tác này đòi hỏi sự
chung sức, đồng lòng của cấp chính quyền, công an, Tòa án mà còn cần sự
giúp sức của các cơ quan khác trên địa bàn. Việc ban hành quy chế phối hợp
giữa các cơ quan Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai đã ban hành để áp dụng
chung cho các địa bàn trong tỉnh; nhưng để việc áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đạt hiệu quả cơ quan có thẩm quyền
phải bám sát vào tình hình thực tế của địa phương, đưa ra đường lối phù hợp
để đồng thời giúp cho những người nghiện tái hòa nhập cộng đồng hơn.
Đối với các trường hợp pháp luật về xử lý hành chính không quy định
hoặc quy định chưa cụ thể, rõ ràng thì các cơ quan hữu quan phải có sự phối
hợp chặt chẽ, đề ra giải pháp để thống nhất giải quyết vấn đề. Phối hợp trong
công tác kiểm tra, rà soát phát hiện các đối tượng bị nghiện. Việc kiểm tra cần
huy động được sự tham gia của nhân dân trong huyện để đạt hiệu quả cao
hơn.
3.3.2. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và xử lý các hành vi vi
phạm trong quá trình áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc.
Hiện nay thẩm quyền xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc giao cho Tòa án nhân dân cấp huyện,
thẩm quyền lập hồ sơ được giao cho Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã với sự
hỗ trợ của Công an xã. Chính vì vậy, cấp chính quyền, cấp ủy ở địa phương
cần phải giám sát kiểm tra quá trình lập hồ sơ và đề nghị hơn để tránh được
những vi phạm của những người áp dụng pháp luật và những sai sót khi hồ sơ
76
đã chuyển qua Tòa án. Các cơ quan có liên quan có trách nhiệm phối hợp
trong việc phát hiện những thiếu sót và có giải pháp để tháo gỡ những sai sót,
vướng mắc đó.
Định kỳ tổ chức các cuộc họp liên ngành giữa chính quyền, cấp ủy ở địa
phương với Tòa án, Công an, Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội. Tại
huyện Long Thành hàng năm Ủy ban nhân dân huyện Long Thành đều tổ
chức cuộc họp đẻ báo cáo về kết quả công tác phòng, chống tệ nạn xã hội
trong năm và phương hướng cho những năm tới. Tuy nhiên, địa phương cần
có cuộc họp liên ngành định kỳ 3 tháng một lần để đánh giá những mặt đạt
được, những khó khăn trong quá trình thực hiện để kịp thời giải trình nguyên
nhân của những thiếu sót, vi phạm và có phương hướng khắc phục. Đối với
những trường hợp có vướng mắc như ở giai đoạn hạn chế đưa người nghiện
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thì cuộc họp liên ngành giữa các cơ quan để tìm
cách giải quyết các trường hợp hiện đã lập hồ sơ áp dụng biện pháp xử lý
hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc càng trở nên cần thiêt hơn.
Cấp ủy, cấp chính quyền ở địa phương cần kiểm tra đột xuất việc lập hồ
sơ ở cấp cơ sở để phát hiện ra những sai sót như chậm trễ về thời gian lập hồ
sơ để có biện pháp xử lý tánh những vi phạm khác.
3.3.3. Nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ trong quá trình áp dụng
biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Việc nâng cao năng lực cho đội ngũ cán công chức có trách nhiệm trong
việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là
điều hết sức cần thiết. Cán bộ là nhân tố quan trọng có vai trò chính trong việc
giáo dục, quản lý các đối tượng. Do đó, đội ngũ cán bộ phải đủ về số lượng,
chuyên môn, nghiệp vụ.
Đối với đội ngũ cán bộ giúp cho Chủ tịch ủy ban nhân dân lập hồ sơ đề
nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính là Công an xã, phường, thị trấn; do
ở trên địa bàn huyện, đội ngũ này đa phần không được đào tạo bài bản mà lại
77
là đội ngũ có vai trò quan trọng trong quá trình áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Nếu hồ sơ được lập đầy đủ, hoàn
thiện thì các bước tiếp theo sẽ được thực hiện trôi chảy hơn. Việc tăng cường
đào tạo, bồi dưỡng cho công an xã, phường, thị trấn hết sức cần thiết.
Đối với các chức danh khác như Trưởng phòng tư pháp, Trưởng phòng
Lao động – Thương binh và Xã hội, Tòa án kiêm nhiệm nhiều công việc nên
không có thời gian nghiên cứu chuyên sâu về các quy định của pháp luật xử lý
hành chính; cho nên, cần phải bồi dưỡng các chuyên đề chuyên sâu về áp
dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Để nâng cao năng lực cho các chủ thể áp dụng pháp luật xử lý hành
chính cần thực hiện như sau:
Thứ nhất, Tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ về phòng,
chống ma túy, áp dụng các biện pháp xử lý hành chính ngắn hạn, dài hạn cho
cán bộ phụ trách công tác xử lý hành chính. Bồi dưỡng kỹ năng vận động,
giáo dục, quản lý, theo dõi đối tượng ma túy tại địa phương.
Thứ hai, cần phát huy vai trò tham mưu của lực lượng Công an trong
công tác tham mưu lập hồ sơ, tổ chức triển khai có hiệu quả chương trình, kế
hoạch phòng, chống ma túy trên địa bàn.
Thứ ba, trong xu thế tinh giảm biên chế hiện nay, việc bổ sung biên chế
để chuyên trách thực hiện công tác xử lý hành chính là rất khó khăn, vì thế
lãnh đạo huyện cần chú trọng xem xét giảm tải số lượng công việc giao cho
các chủ thể kiêm thêm mảng xử lý hành chính để đạt hiệu quả cao.
Thứ tư, cần nâng cao chế độ đãi ngộ đối với người làm công tác áp dụng
biện pháp xử lý hành chính để khuyến khích họ yên tâm công tác.
3.3.4. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nâng cao nhận thức
của người dân về công tác cai nghiện ma túy.
Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật để cho người dân
hiểu về tác hại của ma túy, pháp luật về xử lý hành chính; đặc biệt cần quan
78
tâm nhiều hơn tới lứa tuổi thanh, thiếu niên trên địa bàn để giảm số lượng
người chưa thành niên có hành vi vi phạm pháp luật.
Tổ chức các cuộc thi, các phiên tòa giả định tại các trường học về vấn đề
ma túy cũng như các buổi nói chuyện về việc áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc để nâng cao nhận thức cho lứa tuổi
còn ngồi trên ghế nhà trường.
Với những người đang tự nguyện cai nghiện tại gia đình, huyện cần có
những phương án để đề cao trách nhiệm của gia đình; đồng thời khuyến khích
nhân dân đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện tự nguyện để đảm bảo về
mặt hiệu quả cũng như giảm khả năng tái nghiện.
Đối với Tòa án cấp huyện, tổ chức thường xuyên các phiên tòa hình sự
xét xử lưu động để tuyên truyền cho người dân địa phương biết về tác hại của
ma túy để từ đó hạn chế được tình trạng nghiện ma túy.
3.3.5. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan trong quá trình áp dụng
biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Các cơ quan hữu quan như Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội
huyện Long Thành, Trung tâm y tế huyện, đội phòng chống ma túy thuộc
công an huyện cần thường xuyên có kế hoạch rà soát, thống kê, quản lý người
nghiện để bám sát được tình hình thực tế của địa bàn nhằm có phương án để
quản lý các đối tượng nghiện.
Định kỳ hàng quý, hoặc khi có sự việc phát sinh cần họp liên hành giữa
các đơn vị là Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội, Công an, Viện kiểm
sát huyện và Tòa án nhân dân huyện Long Thành để cùng bàn bạc, tháo gỡ
những vấn đề vướng mắc trong quá trình lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Trong quá trình này, đòi hỏi các cơ quan
hữu quan phải có mối liên hệ chặt chẽ để vụ việc được giải quyết nhanh
chóng, tránh trường hợp chậm trễ gây ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp
của các đối tượng.
79
Tiểu kết chƣơng 3
Tệ nạn ma túy trong cả nước nói chung và tại địa bàn huyện Long Thành
nói riêng ngày càng diễn biến phức tạp hơn. Vì vậy, việc đề ra các giải pháp
để hoàn thiện áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc là điều cần thiết. Các giải pháp về hoàn thiện hệ thống pháp luật về
biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc phải được tiến hành đồng bộ với
giải pháp về tổ chức thực hiện. Việc tiến hành một cách có hiệu quả, đồng bộ
và khoa học các giải pháp này có ý nghĩa to lớn góp phần giải quyết kịp thời
những tệ nạn, nhức nhối trong đời sống xã hội, giữ gìn an ninh, trật tự; giúp
người nghiện trở thành ngời có ích cho xã hội và còn góp phần tích cực vào
công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm, bảo đảm quyền và lợi ích của công
dân và toàn xã hội.
80
KẾT LUẬN CHUNG
Ma túy luôn là mối hiểm họa khôn lường cho xã hội, người nghiện ma
túy luôn được Đảng, Nhà nước và cộng đồng xã hội quan tâm, khuyến khích
cai nghiện. Biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thể
hiện tinh thần nhân đạo, nhân văn cao cả và là một trong những quyết định
kịp thời, sáng suốt của Đảng và Nhà nước trong công tác đẩy lùi tội phạm
cũng như khám chữa bệnh cho các đối tượng bị nghiện. Nhận thức được vai
trò quan trọng và to lớn của biện pháp, luận văn đã đi sâu vào phân tích
những vấn đề lý luận và pháp lý về áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, nêu rõ bất cập của các quy định pháp luật hiện
nay có ảnh hưởng đến quá trình áp dụng biện pháp và phân tích vấn đề cụ thể
tại một địa phương cụ thể là huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai. Từ đó, nêu ra
các giải pháp để hoàn thiện áp dụng biện pháp xử lý hành chính trên theo
hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật và một số giải pháp cụ thể áp dụng trên
địa bàn huyện Long Thành.
Tại huyện Long Thành việc áp dụng biện pháp trên được chính quyền và
nhân dân xem trọng, là vùng có nền kinh tế đang trên đà phát triển cùng với
dự án Sân bay quốc tế Long Thành kéo theo số người nghiện ngày càng tăng.
Trong những năm qua, huyện đã thực hiện đúng theo đường lối chính sách
của Đảng, pháp luật của nhà nước trong công tác đưa người nghiện đi cai
nghiện. Tuy nhiên, số lượng người nghiện ngoài cộng đồng còn nhiều chính
vì vậy địa phương cần thực hiện đồng bộ các giải pháp để hoàn thiện áp dụng
biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Lâm Trâm Anh (2010), xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực du lịch, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường đại học Luật Thành
phố Hồ Chí Minh.
2. Đào Thị Thu An (2011), Biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh trong sự
thảo luật xử lý vi phạm hành chính, Tạp chí nghiên cứ lập pháp số
20/2011.
3. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Thông tư 14/2014/TT-
BLĐTBXH, ngay2 12/6/2014 ban hành biểu mẫu về lập hồ sơ đề
nghị, thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và hướng dẫn xây dựng nội quy, quy
chế đối với học viên của cơ sở cai nghiện bắt buộc.
4. Bộ Y tế, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Công an (2015),
Thông tư liên tịch số 17/2015/TTLT-BYT-BLĐTBXH-BCA, ngày
9/7/2015 về quy định thẩm quyền, thủ tục và quy trình xác định tình
trạng nghiện ma túy.
5. Chính phủ (2013), Nghị định số 221 NĐ-CP/2013 Ngày 30 tháng 12
năm 2013 về quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính
đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
6. Chính phủ (2016), Nghị định số 136/2016/NĐ-CP, ngày 09/9/2016 về
sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số 221/2013/NĐ-CP ngày
30 tháng 12 năm 2013 quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
7. Nguyễn Thành Công (2003), Nghiên cứu các giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quảquản lý cai nghiện ma túy và sau cai, Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp thành phố,Hà Nội.
8. Trịnh Tất Đạt(2009), Từ điển tiếng việt, Nxb từ điển bách khoa.
82
9. Nguyễn Cảnh Hợp (Chủ biên) (2014) Bình luận khoa học về luật xử
lý vi phạm hành chính năm 2012,tập 1, Nhà xuất bản Đại học quốc
gia Thành phố Hồ Chí Minh.
10. Nguyễn Cảnh Hợp (Chủ biên) (2015) , Bình luận khoa học Luật xử
lý vi phạm hành chính năm 2012, tập 2, Nhà xuất bản Đại học quốc
gia Thành phố Hồ Chí Minh.
11. Lưu Hồng Ngọc Hiền (2018), Áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc tại tỉnh Sóc Trăng, Luận văn thạc sĩ luật học,
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
12. Nguyễn Quốc Hiệu (2016), Đảm bảo quyền con người trong cơ sở
cai nghiện bắt buộc qua thực tiễn thành phố Hải Phòng, Luận văn
thạc sĩ.
13. Cao Vũ Minh (2016), “Hoàn thiện quy định pháp luật về biện pháp
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc”, Tạp chí Luật học số 2.
14. Cao Vũ Minh, Nguyễn Nhật Khanh (2016), “Những bất cập trong
các quy định về biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và các
kiến nghị hoàn thiện”, Tạp chí nghiên cứu Lập pháp số 14.
15. Chu Văn Quang – Trần Quang Huân – Nguyễn Trọng Huy, Mất
nhiều thời gian đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc,
https://kiemsat.vn/mat-nhieu-thoi-gian-dua-nguoi-vao-co-so-cai-
nghien-bat-buoc-46818.html
16. Quốc hội (2012), Luật xử lý vi phạm hành chính 2012.
17. Quốc hội (2012), Luật Phòng chống ma túy năm 2000, sửa đổi, bổ
sung năm 2008.
18. Quốc hội (2012), Bộ luật Dân sự năm 2015.
19. Lưu Xuân Sang (2017), “Những vấn đề rút ra qua công tác kiểm sát
việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc”, Tạp chí Kiểm sát số 02.
83
20. Đặng Thanh Sơn (chủ nhiệm) cùng nhóm nghiên cứu (2009), Các
biện phápXLHC khác và việc bảo đảm quyền con người,Đề tài nghiên
cứu khoa học cấpBộ của Bộ Tư pháp.
21. Tài liệu Hội nghị tập huấn chuyên sâu về áp dụng biện pháp xử lý
hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Đồng Nai tháng 9
năm 2017.
22. Phạm Tiến Thành.(2014), Từ biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ
sở chữabệnh đến biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, Luận
văn thạc sĩ.
23. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2014) Pháp lệnh số
09/2014/UBTVQH13 ngày 20/01/2014 về trình tự, thủ tục xem xét,
quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân
dân.
24. Viện ngôn ngữ học - Hoàng Phê chủ biên (năm 2010), Từ điển Tiếng
việt, NXB Từ điển Bách Khoa.
25. https://vi.wikipedia.org/wiki/Long_Th%C3%A0nh?fbclid=IwAR1xz
P356k9kjGmQdgB9wewpC8DbqK-AsUu7ObxEafgXd_XXUkWLQ-
oEbLE, vị trí địa lý, tự nhiên của huyện Long Thành.