ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------------------------------------------------- HOÀNG MINH HẠNH VẤN ĐỀ VI PHẠM ĐẠO ĐỨC BÁO CHÍ
CỦA NHÀ BÁO TRÊN BÁO MẠNG
ĐIỆN TỬ HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SỸ Chuyên ngành: Báo chí học Hà Nội, 2015
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------------------------------------- HOÀNG MINH HẠNH VẤN ĐỀ VI PHẠM ĐẠO ĐỨC BÁO CHÍ
CỦA NHÀ BÁO TRÊN BÁO MẠNG
ĐIỆN TỬ HIỆN NAY
Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành: Báo chí học Mã số: 60320101 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS,TS. Đinh Văn Hƣờng Hà Nội, 2015
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Vấn đề vi phạm đạo đức báo chí của nhà
báo trên báo mạng điện tử hiện nay” là công trình nghiên cứu của cá nhân
tôi dƣới sự hƣớng dẫn khoa học của PGS,TS. Đinh Văn Hƣờng. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chƣa từng đƣợc công bố trong bất
kỳ công trình khoa học nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ trong việc thực hiện luận văn
này đã đƣợc cảm ơn và những thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã đƣợc
chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả
Hoàng Minh Hạnh
3
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện luận văn “Vấn đề vi phạm đạo đức báo chí
của nhà báo trên báo mạng điện tử hiện nay”, tôi đã nhận đƣợc rất nhiều sự
giúp đỡ quý báu từ các thầy cô bộ môn Báo chí học – Trƣờng Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tôi xin trân trọng cảm ơn BGH Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
cùng tập thể thầy cô giáo bộ môn Báo chí học đã hết sức tạo điều kiện cho tôi
thực hiện luận văn của mình.
Đặc biệt, tôi xin chân thành cám ơn PGS,TS. Đinh Văn Hƣờng, ngƣời
đã luôn tận tình chia sẻ những hiểu biết, kiến thức và kinh nghiệm để giúp tôi
định hƣớng đƣợc đƣờng đi, thực hiện luận văn một cách tốt nhất.
Tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã luôn ở bên, động viên, giúp đỡ tôi
trong thời gian vừa qua.
Mặc dù bản thân đã có nhiều cố gắng, song chắc chắn luận văn không
tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất hy vọng nhận đƣợc những ý kiến góp ý từ
thầy cô, bạn bè, những phóng viên, nhà báo, những nhà nghiên cứu hoặc
ngƣời quan tâm đến vấn đề này để có thể hoàn thiện và phát triển đề tài ở cấp
độ cao hơn.
Hà Nội, ngày tháng năm 2015 Tác giả Hoàng Minh Hạnh
4
DANH MỤC BẢNG, BIỂU TRONG LUẬN VĂN
Trang
Hình 2.1: Biểu đồ sử dụng cụm từ “cán chết” và “tử vong” 55
Hình 2.2. Biểu đồ đưa tin về bà Tưng 57
Hình 2.3. Giao diện chuyên trang Tấm Gương báo Tiền phong 59
Hình 2.4. Giao diện trang chủ báo Thanh Niên 60
Hình 2.5. Ảnh chụp giao diện kết quả tìm kiếm google về lá thư gửi 66
bố nơi đảo xa
5
DANH MỤC VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
TÊN BÁO VnExpress Vietnamnet Dân trí Tuổi Trẻ Thanh Niên Pháp luật TP.HCM Lao động Ngƣời lao động Kiến thức Zing Báo Đất Việt Gia đình Việt Nam Ngôi sao VTC Năng lƣợng mới VOV An Ninh Thủ Đô Giáo dục Dân Việt Đời sống pháp luật Công an nhân dân Infonet Thế giới vi tính Phụ nữ Việt Nam Kinh doanh & Pháp luật Sức khỏe Đời sống Gia đình Việt Nam Phụ nữ Today TÊN MIỀN VnExpress.net Vietnamnet.vn Dantri.com.vn Tuoitre.vn www.thanhnien.com.vn phapluattp.vn Laodong.com.vn Nld.com.vn Kienthuc.net.vn News.zing.vn Baodatviet.vn www.giadinhvn.vn Ngoisao.net Vtc.vn petrotimes.vn vov.vn anninhthudo.vn giaoduc.net.vn Danviet.vn www.doisongphapluat.com cand.com.vn Infonet.vn www.pcworld.com.vn http://www.phunuvietnam.com.vn/ kinhdoanhnet.vn suckhoedoisong.vn www.giadinhvn.vn phunutoday.vn
6
MỤC LỤC
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 9
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ................................................ 11
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 15
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu ................................................................ 15
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu: .............................................. 16
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài: .................................................... 16
7. Cấu trúc của luận văn: ............................................................................... 17
Chƣơng 1: QUAN NIỆM VỀ ĐẠO ĐỨC NHÀ BÁO VÀ LÝ LUẬN
CHUNG VỀ BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ .......................................................... 18
1.1. Quan niệm về đạo đức nhà báo ............................................................... 18
1.2. Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật .................................................. 28
1.3. Những yêu cầu về đạo đức nhà báo ở Việt Nam .................................... 33
1.4. Về Báo mạng điện tử............................................................................... 40
1.5. Những vấn đề đạo đức nghề nghiệp của nhà báo trên Báo mạng điện
tử......................................................................................................................41
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 .................................................................................. 54
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ VI PHẠM ĐẠO ĐỨC NHÀ BÁO
TRÊN BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ HIỆN NAY ............................................... 56
2.1 Những biểu hiện vi phạm đạo đức nghề nghiệp của nhà báo trên báo
mạng điện tử hiện nay ..................................................................................... 56
7
2.2. Nguyên nhân hiện tƣợng vi phạm đạo đức của nhà báo trên báo mạng
điện tử hiện nay ............................................................................................... 85
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 .................................................................................. 97
Chƣơng 3: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ ĐỂ KHẮC PHỤC
TÌNH TRẠNG VI PHẠM ĐẠO ĐỨC CỦA NHÀ BÁO TRÊN BÁO
MẠNG ĐIỆN TỬ. ......................................................................................... 98
3.1. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nƣớc về báo chí ...................................... 98
3.2. Nâng cao trình độ đội ngũ lãnh đạo, quản lý báo chí. ............................ 105
3.3. Nâng cao trình độ đội ngũ phóng viên/ biên tập viên ............................. 107
3.4. Nâng cao văn hóa tiếp nhận và tham gia cho công chúng ...................... 118
KẾT LUẬN .................................................................................................. 121
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 124
8
MỞ ĐẦU
1. L do chọn ề tài
Nghề nghiệp nào cũng cần có những quy định, những chuẩn mực riêng
trong hoạt động của mình và nghề làm báo cũng không phải là một ngoại lệ.
Thật khó hình dung nổi nếu nhƣ đời sống xã hội, nhất là một xã hội văn minh,
lại thiếu đi hoạt động của phƣơng tiện thông tin đại chúng. Tính từ khi tờ báo
đầu tiên ra đời (năm 1690), trong bốn thế kỷ tồn tại, báo chí đã trở thành
phƣơng tiện, đồng thời trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu đƣợc của
con ngƣời. Nói cách khác, báo chí đã tự xác định cho mình những chức năng
to lớn phục vụ con ngƣời và phục vụ cho sự tồn tại, phát triển xã hội loài
ngƣời. Ngƣợc lại, con ngƣời càng phát triển, xã hội càng phát triển, càng đòi
hỏi nhiều hơn và tạo ra những khả năng mới, kỳ diệu cho việc thu nhận,
chuyển tải và tái hiện thông tin - tức là cho hoạt động báo chí. Hoạt động báo
chí thuộc về hoạt động chính trị - xã hội liên quan mật thiết đến tƣ tƣởng,
tình cảm của con ngƣời. Ở đó, dù khách quan đến mức nào, ngƣời làm báo
cũng bộc lộ cách nhìn, thái độ, phƣơng pháp tiếp cận và sự bình giá của mình
đối với những gì đang diễn ra trong cuộc sống. Và bằng tầm ảnh hƣởng rộng
lớn của mình, có thể hiểu rằng báo chí góp phần định hƣớng cho sự hình
thành tƣ tƣởng của mỗi ngƣời và sự thống nhất cao trên phạm vi toàn xã hội.
Tìm hiểu, nghiên cứu về đạo đức nhà báo không chỉ cần thiết cho những
ngƣời làm báo chí, truyền thông mà ngay cả đối với những ngƣời tiếp nhận
thông tin điều này cũng vô cùng cần thiết bởi trong xu hƣớng phát triển của
báo chí hiện đại, ranh giới giữa nhà báo và công chúng tiếp nhận đang ngày
càng đƣợc rút ngắn, xóa nhòa.
Trong những thập kỷ gần đây, bƣớc nhảy vọt của kỹ thuật truyền thông
là một trong những hiện tƣợng gây tác động mạnh mẽ đến đời sống xã hội,
9
làm thay đổi bản chất xã hội cũng nhƣ đời sống tâm lý, các chuẩn mực văn
hóa và thói quen của con ngƣời. Sự ra đời và phát triển của Internet đã tạo
tiền đề cho sự ra đời và phát triển của báo mạng điện tử - loại hình báo chí
mới mẻ với những đặc điểm không một loại hình báo chí nào cạnh tranh đƣợc
nhƣ khả năng đa phƣơng tiện (multimedia), tính tƣơng tác cao, khả năng
truyền tải thông tin không hạn chế, tính thời sự và phi định kì khiến cho thông
tin trên báo mạng điện tử là thông tin sống động nhất, nóng nhất, tƣơi mới
nhất vì có thể cập nhật từng giờ, từng phút, thậm chí từng giây. Nhƣng đi kèm
với những tiện ích đó, vấn đề đạo đức báo chí trong môi trƣờng truyền thông
kỹ thuật số lại càng trở thành một vấn đề thời sự nóng bỏng hiện nay. Những
khối lƣợng thông tin lớn đƣợc chuyển tải tin tức từng giây, từng phút trên các
trang báo mạng, trang thông tin điện tử khiến con ngƣời không còn đủ khả
năng kiểm soát thông tin. Hiện tƣợng vi phạm đạo đức nhà báo trên báo mạng
điện tử đang xuất hiện ngày càng nhiều hơn và trở thành nỗi lo của nhiều
ngƣời có trách nhiệm và dƣ luận xã hội.
Trong một vài năm trở lại đây, sự phát triển mạnh mẽ của Công nghệ
thông tin, đặc biệt là sự xuất hiện của Mạng xã hội đã đẩy các trang báo điện
tử ở Việt Nam vào một cuộc đua khốc liệt trong việc truyền tải thông tin. Chỉ
với một chiếc điện thoại thông minh có khả năng truy cập Internet và một
trang cá nhân trên mạng xã hội, bất cứ công dân nào cũng có thể trở thành
ngƣời đƣa tin. Đối với hoạt động báo chí, sự xuất hiện của Mạng xã hội giống
nhƣ con dao hai lƣỡi, và trong cuộc đua khốc liệt để truyền tải thông tin ấy, đã
không ít ngƣời làm báo phạm phải sai lầm khi lạm dụng mạng xã hội mà đánh
mất đi lƣơng tâm nghề nghiệp của ngƣời cầm bút. Luận văn tập trung nghiên
cứu chủ yếu vào sự sa sút về mặt chất lƣợng của báo mạng điện tử hiện nay,
mà một trong những nguyên nhân chủ yếu là do vi phạm đạo đức nghề nghiệp
10
của các nhà báo, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục, hạn chế và
giảm thiểu tối đa hiện tƣợng này.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan ến ề tài
2.1. Trên thế giới
Báo chí xuất hiện trên thế giới từ đầu thế kỷ 17. Trải qua quá trình phát
triển vài trăm năm, vấn đề đạo đức, nghề nghiệp của nhà báo luôn đƣợc quan
tâm. Đã có rất nhiều cuốn sác đề cập hoặc nghiên cứu vấn đề này một cách hệ
thống và bài bản. Tiêu biểu phải kể đến những cuốn nhƣ:
+ The Elements of Journalism (Những yếu tố của nghề báo) của tác giả
Bill Kovach & Tom Rosenstiel. Với lời đề tựa: “Điều mà những ngƣời làm
báo nên biết và công chúng nên đòi hỏi”, hai tác giả, bằng ngòi bút sắc sảo
phân tích nền báo chí Mỹ: điểm mạnh và điểm yếu. Các tác giả cũng dành
nhiều trang để nêu những nguyên tắc căn bản của nghề báo trong đó nguyên
tắc tôn trọng sự thật đƣợc đặt lên hàng đầu.
+ The Principles of Multimedia Journalism (Những nguyên tắc của báo
chí đa phƣơng tiện). Tác giả Richard Hernandez và Jeremy Rue đều là những
nhà báo giàu kinh nghiệm. Hai tác giả đã hệ thống hóa, phân loại các đặc tính
của tác phẩm báo chí trên nền tảng kĩ thuật số. Bằng cách đó, các tác giả đã
tạo cơ hội cho các sinh viên báo chí và các chuyên gia một cách để hiểu về
tầm quan trọng trong việc dàn dựng câu chuyện trong một kỷ nguyên hội tụ.
+ Gatekeeping in Transition (Kiểm duyệt báo chí). Tác giả: Tim P.Vos,
Francois Heinderyckx. Báo chí đang thay đổi từng ngày: từ cách sản xuất, loại
hình, phƣơng tiện lẫn các kênh chuyển tải. Với những thực tế thay đổi đó,
việc kiểm duyệt báo chí có thay đổi gì không? Cuốn sách trả lời câu hỏi đó.
11
+ Ethics for Digital Journalists (Đạo đức cho Nhà báo kỹ thuật số). Tác
giả Lawrie Zion, David Craig. Sự phát triển mạnh mẽ của báo mạng điện tử
đã dẫn đến những sự phức tạp trong đạo đức nghề nghiệp của báo chí. Trong
khi những nguyên tắc đạo đức truyền thống không thay đổi nhiều thì việc áp
dụng nó lên một nền tảng điện tử lại đầy khó khăn và thách thức. Trong cuốn
Ethics for Digital Journalists, hai tác giả đã phỏng vấn những nhà báo kinh
nghiệm và các học giả nghiên cứu về báo chí nhằm đƣa ra những cách thực
hành tích cực nhất cho báo chí kỹ thuật số.
+ Journalism Ethics: Arguments and Cases for the 21st Century (Đạo
đức báo chí: Lý luận và Dẫn chứng cho thế kỷ 21 ). Tác giả: Roger Patching,
Martin Hirst. Cuốn sách đề cập cả lý thuyết và thực hành của đạo đức báo chí.
+ Explorations in Global Media Ethics (Khám phá đạo đức truyền
thông thế giới). Tác giả: Muhammad Ayish, Shakuntala Rao. Cuốn sách đƣợc
xuất bản trong series Nghiên cứu về báo chí.
+ Principles of American Journalism: An Introduction (Những nguyên
tắc của Báo chí Mỹ: Phần giới thiệu). Tác giả: Stephanie Craft và Charles
N.Davis. Đây là cuốn sách giới thiệu cho các sinh viên báo chí giá trị cốt lõi
của báo chí và vai trò quan trọng của nó trong xã hội dân chủ.
+ The New Ethics of Journalism: A Guide for the 21st Century (Những
quy tắc đạo đức mới cho báo chí: Một sự chỉ đƣờng cho thế kỷ 21). Tác giả:
Kelly McBride và Tom Rosenstiel. Tác phẩm bao gồm các chƣơng thể hiện
quyền, trách nghiệm của các nhà báo (vd: giá trị, văn hóa đƣa tin), những bối
cảnh liên quan (chủ sở hữu, độc giả, kinh tế học, công dân) và những điểm áp
lực (sự chính xác, xung đột lợi ích, thành kiến, đƣa tin về những đối tƣợng dễ
bị tổn thƣơng).
12
Ở Việt Nam, một số nghiên cứu của các học giả ngƣời Nga đƣợc dịch
ra tiếng Việt phải kể đến: “Những vấn đề cơ bản của đạo đức nghề nghiệp
nhà báo” (G.V.Ladutina), “Cơ sở lý luận của báo chí” tập 2 (E.P.Prôkhôrốp),
“Cơ sở hoạt động sáng tạo của nhà báo” (G.V.Lazutina), “Nghiệp vụ báo chí
lý luận và thực tiễn” (V.V.Vôrôsilốp), “Báo chí hiện đại nước ngoài: Những
quy tắc và nghịch lý” (X.A.Mikhailốp), “Giao tiếp trên truyền hình trước ống
kính và sau ống kính camera” (X.A.Muratốp), “Báo chí điều tra”
(A.A.Chertƣchơnƣi), “Truyền thông, đạo đức nghề nghiệp với trẻ em” (Helena
Thorfinn)
2.2. Ở Việt Nam
Vấn đề đạo đức báo chí từ lâu đã đƣợc nhiều học giả quan tâm nghiên
cứu tại Việt Nam. Có thể kể đến một số cuốn sách tiêu biểu nhƣ: “Nghề báo
nghiệp văn” – tác giả Phan Quang, nhà xuất bản Thông tấn năm 2005, “Cẩm
nang đạo đức báo chí” – tác giả GS, TS Tạ Ngọc Tấn, PGS, TS Đinh Thị
Thúy Hằng, 2009, “Đạo đức về nghề nghiệp của nhà báo” – tác giả Nguyễn
Thị Trƣờng Giang, nhà xuất bản Chính trị - Hành chính năm 2011 , “Một số
nội dung cơ bản về nghiệp vụ báo chí xuất bản”, Nhiều tác giả, NXB Thông
tin và Truyền thông, 2012, Một số văn bản chỉ đạo và quản lý của Đảng, Nhà
nước về Hoạt động Báo chí, Bộ Thông tin và Truyền thông, NXB Thông tin
và Truyền thông, 2012, “Đạo đức Nghề Báo: Những vấn đề lý luận và thực
tiễn” – tác giả: PGS. TS Hoàng Đình Cúc, NXB Chính trị Quốc gia, “100 quy
tắc đạo đức nghề báo trên thế giới” – tác giả: TS.Nguyễn Thị Trƣờng Giang,
NXB Chính trị Quốc gia, 2014. Tuy nhiên ở các đầu sách này, vấn đề đạo đức
nhà báo đƣợc khái quát là một trong những yêu cầu trong hoạt động nghề
nghiệp của ngƣời làm báo.
13
Ngoài ra, một số Hội thảo khoa học trong nƣớc cũng có bàn về đạo đức
nghề nghiệp của nhà báo nhƣ:
+ Hội thảo "Trách nhiệm xã hội và đạo đức báo chí trong kỷ nguyên
kỹ thuật số" do Khoa Báo chí và Truyền thông (Trƣờng ĐH KHXH&NV,
ĐHQGHN) phối hợp với Viện KAS (CHLB Đức) tổ chức ngày
10/06/2015. Hội thảo là một trong những hoạt động thiết thực kỷ niệm 90
năm Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam.
+ Hội thảo "90 năm báo chí cách mạng Việt Nam: Truyền thống, bản
lĩnh và trách nhiệm" do Ban Tuyên giáo Trung ƣơng, Bộ Thông tin và Truyền
thông và Hội Nhà báo Việt Nam phối hợp tổ chức ngày 18/6/2015 tại Hà
Nội.
+ Hội thảo “Đạo đức báo chí trong khai thác và xử lý nguồn tin” do
Hội Nhà báo Khánh Hòa tổ chức ngày 26/09/2014.
+ Hội thảo “Đạo đức nghề báo trong bối cảnh toàn cầu hóa thông tin”
do Hội Nhà báo Việt Nam phối hợp với Viện KAS (Konrad Adenauer
Stiftung) tổ chức ngày 17/3/2014.
Kế thừa những cơ sở lý luận nền tảng, cập nhật thêm những kiến thức
mới về truyền thông hội tụ, về mạng xã hội, luận văn này tập trung đi sâu vào
một khía cạnh rõ ràng, nhất quán, trong một phạm vi nhất định, đó là Vấn đề
vi phạm đạo đức nhà báo trên báo mạng điện tử hiện nay – dựa trên việc khảo
sát phản ứng của một số báo mạng điện tử trong năm 2013 và 2014 trƣớc một
số hiện tƣợng truyền thông nổi cộm.
14
3. M c tiêu, nhiệm v nghiên cứu
3.1 M c tiêu nghiên cứu
Luận văn tập trung khảo sát, nghiên cứu, đánh giá thực trạng vấn đề
đạo đức nhà báo trên báo mạng điện tử hiện nay. Từ đó, đề xuất những giải
pháp để nâng cao đạo đức nghề nghiệp của ngƣời làm báo nói chung và báo
mạng điện tử nói riêng.
3.2 Nhiệm v nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích trên, luận văn tập trung nghiên cứu những nhiệm
vụ sau:
- Làm rõ những vấn đề liên quan đến cơ sở lý luận và thực tiễn của
đề tài.
- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng vi phạm đạo đức nghề
nghiệp của những ngƣời làm báo mạng điện tử ở Việt Nam hiện nay.
- Chỉ ra nguyên nhân và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao đạo
đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam nói chung, và đội ngũ làm báo mạng
điện tử nói riêng.
4. Đối tƣ ng, phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tƣ ng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của Luận văn là vấn đề vi phạm đạo đức báo chí
của nhà báo trên báo mạng điện tử hiện nay.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung khảo sát phản ứng của một số báo mạng có số lƣợng
độc giả lớn ở Việt Nam hiện nay với các vấn đề nổi bật trong giới truyền
thông trong năm 2013 và 2014.
15
5. Cơ sở l luận và phƣơng pháp nghiên cứu:
5.1 Cơ sở l luận
Đề tài đƣợc thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác–Lênin, tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đƣờng lối của Đảng và Nhà nƣớc Việt
Nam về công tác tƣ tƣởng và báo chí; lý luận báo chí về vai trò, chức năng và
nguyên tắc hoạt động của báo chí; chuẩn mực về đạo đức nghề nghiệp báo chí
và sự tác động qua lại giữa đạo đức và các hình thái ý thức xã hội khác.
5.2 Phƣơng pháp nghiên cứu c thể
Phƣơng pháp phân tích nội dung: Dùng để phân tích nội dung
các tác phẩm báo chí trên báo mạng điện tử (bao gồm cả những bài viết, hình
ảnh, những video clip hoặc những đoạn âm thanh) và những câu trả lời thu
đƣợc qua phỏng vấn sâu.
Phƣơng pháp phỏng vấn sâu: Đƣợc sử dụng dùng để phỏng
vấn một số phóng viên, biên tập viên, nhà quản lý báo chí, nghiên cứu báo
chí, công chúng nhằm thu thập ý kiến đánh giá của cá nhân về thực trạng đạo
đức nghề nghiệp của nhà báo hiện nay cũng nhƣ nhận thức của họ về vấn đề
này.
6. Ý nghĩa l luận và thực tiễn của ề tài:
6.1. Ý nghĩa l luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần đổi mới và làm phong phú
thêm lý luận báo chí, truyền thông hiện đại và thực tiễn của báo mạng điện tử
hiện đại và vấn đề vi phạm đạo đức của nhà báo trên báo mạng điện tử ở Việt
Nam hiện nay.
16
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn là một trong những cơ sở để các tổ
chức, cá nhân sau đây tham khảo và vận dụng:
Các cơ quan chỉ đạo và quản lý báo chí; -
- Các tòa soạn báo chí;
- Các cơ sở đào tạo báo chí;
- Các phóng viên, biên tập viên các cơ quan báo chí
- Những ai quan tâm lĩnh vực này
- Cho chính tác giả luận văn
7. Cấu trúc của luận văn:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Tài liệu tham khảo, luận văn
bao gồm 3 chƣơng, 14 tiết, 116 trang.
Nội dung của luận văn đƣợc trình bày theo thứ tự các chƣơng sau đây:
Chƣơng 1: Quan niệm về đạo đức nhà báo và lý luận chung về báo
mạng điện tử.
Chƣơng 2: Thực trạng vấn đề vi phạm đạo đức nhà báo trên báo mạng
điện tử hiện nay
Chƣơng 3: Bài học kinh nghiệm và đề xuất giải pháp, kiến nghị để
khắc phục vấn đề vi phạm đạo đức nghề nghiệp của nhà báo trên báo mạng
điện tử.
17
Chƣơng 1: QUAN NIỆM VỀ ĐẠO ĐỨC NHÀ BÁO VÀ LÝ LUẬN
CHUNG VỀ BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ
1.1. Quan niệm về ạo ức nhà báo
1.1.1 Khái niệm “đạo đức” và “đạo đức nghề nghiệp”
Có nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm “Đạo đức”. Theo định
nghĩa của sách giáo khoa Giáo dục công dân bậc Trung học phổ thông, “Đạo
đức là hệ thống các quy tắc chuẩn mực xã hội, mà nhờ đó con người tự giác
điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích của cộng đồng và của xã
hội. Mỗi giai đoạn lịch sử nhất định có những quan niệm về đạo đức khác
nhau”. Và cần phân biệt rất rõ khái niệm “đạo đức” và “pháp luật”. Dù cùng
có mục đích để điều chỉnh hành vi của con ngƣời, nhƣng đạo đức đƣợc thực
hiện dựa trên sự tự giác của con ngƣời với các chuẩn mực do xã hội đề ra, còn
pháp luật đƣợc thực thi một cách bắt buộc, theo những quy tắc, quy định bằng
văn bản chính thống do nhà nƣớc đề ra.
Tham khảo trên Bách khoa toàn thƣ mở Wikipedia, “ “Đạo đức” là
một hiện tượng xã hội phản ánh các mối quan hệ hiện thực bắt nguồn từ bản
thân cuộc sống của con người. Đạo đức là tập hợp những quan điểm của
một xã hội, của một tầng lớp xã hội, của một tập hợp người nhất định về thế
giới, về cách sống. Nhờ đó con người điều chỉnh hành vi của mình sao cho
phù hợp với lợi ích của cộng đồng xã hội.”.
Đứng trên khía cạnh khác, “Đạo đức” là một hình thái ý thức xã hội, là
tổng hợp các qui tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội nhờ nó con ngƣời tự
giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích và hạnh phúc
của con ngƣời, với tiến bộ xã hội trong quan hệ cá nhân - cá nhân và quan hệ
18
cá nhân –xã hội. Đạo đức là toàn bộ những qui tắc, chuẩn mực nhằm điều
chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con ngƣời với nhau trong quan hệ xã hội
và quan hệ với tự nhiên.
Theo giáo trình “Cơ sở lý luận báo chí truyền thông”, các tác giả Dƣơng Xuân
Sơn, Đinh Văn Hƣờng, Trần Quang thì: "Đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc
được xã hội thừa nhận, quy định hành vi của con người đối với nhau và đối với xã
hội. Các nguyên tắc đạo đức giống như những chiếc máy điều chỉnh hành vi của con
người, nhưng không mang tính chất cưỡng chế mà mang tính tự giác (...) Trên cơ sở
lí tưởng và trách nhiệm đạo đức đã hình thành nên quan niệm về lương tâm và lòng
tự trọng của nhà báo chuyên nghiệp. Đạo đức nghề nghiệp bao gồm các nguyên tắc
xử sự đúng đắn để ngăn ngừa những hành vi không đúng đắn. Căn cứ vào những
tiêu chuẩn đạo đức này và dựa vào tính chất của những hành vi, mỗi nhà báo sẽ phải
chịu đựng sự tự xỉ vả, xấu hổ, phải tự kết tội, hoặc được khích lệ, tự hào, phấn khởi
và hạnh phúc" – [19, tr. 252]
Đạo đức nghề nghiệp: là một bộ phận của đạo đức xã hội, là đạo đức cụ
thể trong đạo đức chung của xã hội. Đạo đức nghề nghiệp xuất hiện để là tên
gọi khoa học về cách sử dụng nghề nghiệp của con ngƣời (Déon: bổn phận
cần phải làm, logos: học thuyết - Déontologic đƣợc nhà triết học Anh Bentam
sử dụng có ý nghĩa là nghĩa vụ luận, đạo đức nghề nghiệp).
Đạo đức nghề nghiệp là những yêu cầu đạo đức đặc biệt, có liên quan
đến việc tiến hành một hoạt động nghề nghiệp nào đó; Là tổng hợp của các
quy tắc, các nguyên tắc chuẩn mực của 1 lĩnh vực nghề nghiệp trong đời
sống, nhờ đó mà mọi thành viên của lĩnh vực nghề nghiệp đó tự giác điều
chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích và sự tiến bộ của nó trong
mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với tập thể với xã hội,...
19
Tuân theo các tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp sẽ tạo điều kiện cho việc
nâng cao chất lƣợng lao động trong lĩnh vực nghề nghiệp.
Phẩm chất đạo đức cá nhân trong xã hội đều có nét chung, nhƣng đạo
đức trong lĩnh vực nghề nghiệp có những đặc thù và yêu cầu riêng biệt. Ví dụ
nhƣ:
Thầy thuốc phải có lòng trắc ẩn
Thầy giáo phải là ngƣời mô phạm
Nhà báo phải trung thực
Nhà chính trị phải có lòng nhân hậu đặc biệt với nhân dân....
1.1.2 Đạo đức nhà báo
Nghề báo tuy không có một bộ luật đạo đức nghề nghiệp riêng nhƣng
cũng có các văn bản bao gồm các quy tắc đạo đức hành nghề cho báo giới và
đƣợc các hội đoàn báo chí thông qua. “Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo là
những quy tắc, chuẩn mực quy định thái độ và hành vi ứng xử của nhà báo trong các
mối quan hệ nghề nghiệp”.
Các quy tắc này áp dụng trong nhiệm vụ của nhà báo (nghĩa vụ thông
tin, tôn trọng độc giả, lợi ích xã hội, quyền đƣợc biết) và quy định tính chính
đáng cũng nhƣ tính đáng tin cậy của nhiệm vụ báo chí (độc lập với các quyền
lực chính trị hoặc kinh tế, tôn trọng đời tƣ, bảo vệ nguồn cung cấp thông tin
v.v...).
Tóm lại, có thể nói quy tắc đạo đức hành nghề báo chí bao gồm toàn bộ
các tiêu chuẩn nghề nghiệp giám sát lƣơng tâm nghề nghiệp của một thông tin
viên (nhà báo). Các tiêu chuẩn này dựa trên 2 nguyên tắc căn bản: trách
nhiệm xã hội và sự thật thông tin.
20
Mặt khác, quy tắc đạo đức nghề còn góp phần giúp nhà báo tránh đƣợc
các ý đồ lũng đoạn thông tin, tuyên truyền, đánh bóng hay bóp méo thông tin.
Tuyên bố về các quyền và nghĩa vụ của nhà báo đƣợc thông qua năm 1971 ở
Munich có ý nghĩa phổ quát. Nó quy định "quyền tiếp cận thông tin, quyền tự
do ngôn luận và quyền chỉ trích là một trong các quyền tự do căn bản của
toàn thể nhân loại", và "trách nhiệm của nhà báo đối với công chúng được
đặt lên trên hết, cao hơn cả trách nhiệm đối với chủ bút và chính quyền Nhà
nước". Ngoài ra nó quy định các nghĩa vụ của nhà báo nhƣ nghĩa vụ tôn trọng
sự thật và đời tƣ cá nhân, nhất thiết chỉ đƣa các tin "có nguồn gốc rõ ràng",
nghĩa vụ "kiểm tra tất cả các thông tin tỏ ra thiếu chính xác", "không tiết lộ
nguồn tin lấy được một cách bí mật".
Nghị quyết 1003 năm 1993 của Hội đồng châu Âu về đạo đức nghề báo
đƣợc thông qua, nhƣng chỉ mang tính chất "khuyến nghị" đối với báo chí các
quốc gia thành viên chứ không bắt buộc.
- Lƣơng tâm: Yếu tố nội tâm tạo cho mỗi ngƣời khả năng tự đánh giá
hành vi của mình về mặt đạo đức, và do đó tự điều chỉnh mọi hành vi của
mình
- Trách nhiệm: Điều phải làm, phải gánh vác hoặc phải nhận lấy về
mình
Theo TS.Trƣơng Minh Tuấn- Thứ trƣởng Bộ Thông tin và Truyền
thông, không cứ là gì phải nghề báo mới đặt vấn đề về đạo đức, mà bất cứ
một nghề nào khác, chuyện đạo đức nghề nghiệp cũng phải đƣợc đặt ra, thậm
chí phải đƣợc đặt lên hàng đầu rồi mới nói đến chuyên môn nghiệp vụ của
ngƣời hàng nghề đó. Vì rằng không có đạo đức khi hành nghề thì khoảng cách
giữa việc hành nghề chính đáng với việc lợi dụng “nghề” để trục lợi hoặc làm
21
những việc bất chính chỉ là tơ tóc. Với nghề báo, do đặc thù của công việc,
câu chuyện về đạo đức lại càng đƣợc chú trọng và đặt lên hàng đầu.
Đạo đức của nhà báo không chỉ là sự dũng cảm, dám xông vào những
nơi nguy hiểm nhất để phanh phui những mặt trái của đời sống mà còn góp
phần trong việc “định hƣớng” dƣ luận, ngòi bút của nhà báo phải là mũi tên
dẫn đƣờng để mọi ngƣời cùng hƣớng thiện. Một nhà báo đƣợc gọi là “có đạo
đức” phải là ngƣời đồng hành cùng nhân dân mình, cùng dân tộc và đất nƣớc
mình, biết chia sẻ những vui, buồn, sƣớng, khổ với đồng bào mình trong cuộc
trƣờng chinh thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu để đến đích ấm no, hạnh phúc.
Đạo đức nhà báo không chỉ là việc đi đến tận cùng của nỗi oan khiên để tìm
ra lẽ phải, lẽ công bằng cho ngƣời bị oan khuất mà cái chính là, bằng ngòi bút
của mình, bằng sự trung thực và trách nhiệm của mình, nhà báo phải làm công
việc của một bác sĩ phẫu thuật, cắt bỏ vĩnh viễn những khối u có thể trở thành
“tiền lệ xấu”, có thể lây nhiễm thói hƣ cho cả cộng đồng.
“Một thông tin bị hiểu sai lệch hoặc bị nhà báo làm cho méo mó đi thì
hệ quả của nó không chỉ ảnh hưởng đến lợi ích của một cá nhân mà còn gây
hệ lụy cho cả cộng đồng. Ngược lại, một thông tin kịp thời, chính xác và
trung thực của nhà báo, với sự lan tỏa của nó sẽ có tác dụng tích cực đến cá
nhân, tập thể và đời sống toàn xã hội. Vì vậy, vấn đề đạo đức của nhà báo là
câu chuyện luôn được đề cao và coi trọng nhất là trong thời đại bùng nổ
thông tin.” [18,tr.15]
Đạo đức nghề báo chính là những nguyên tắc, những chuẩn mực đƣợc
hình thành trong các mối quan hệ ứng xử nghề nghiệp của nhà báo, đƣợc thể
chế hóa, đƣợc nhà báo và dƣ luận xã hội thừa nhận, trở thành những chuẩn
mực điều chỉnh hành vi của nhà báo trong hoạt động thực tiễn nghề
nghiệp.Trách nhiệm chính trị, trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm đạo đức trong
22
hoạt động nghề nghiệp của nhà báo là 3 mặt của một vấn đề, hòa quyện, liên
kết chặt chẽ, là điều kiện, là tiền đề của nhau, cùng hƣớng tới một mục tiêu
duy nhất là hoàn thành tốt trách nhiệm của nhà báo với sự phát triển của xã
hội, của đất nƣớc.
Đạo đức nghề báo cũng là một nội dung quan trọng của tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh, mang giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, góp phần to lớn vào việc
định hƣớng và đào tạo cho các thế hệ nhà báo Việt nam đủ đức và tài, trở
thành lực lƣợng xung kích trên mặt trận tƣ tƣởng, văn hóa của Đảng.Ngƣời là
tấm gƣơng sáng ngời về đạo đức của ngƣời làm báo.
Đạo đức cách mạng nói chung, đạo đức nghề báo nói riêng theo Hồ Chí
Minh đƣợc hiểu là phẩm chất tốt đẹp nhất, là gốc của mọi vấn đề trong cuộc
sống, là phƣơng tiện điều chỉnh các mối quan hệ xã hội của ngƣời làm báo,
mà phạm trù pháp luật không điều chỉnh đƣợc. Bởi, “Cũng như sông thì có
nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có
gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù
tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”(1). Đạo đức báo chí không
chỉ nằm trong phạm vi điều chỉnh thuộc các quy định của luật báo chí hiện
hành, mà còn là tâm thức và phƣơng châm hành nghề của tất cả những ngƣời
làm báo cách mạng. Thực hiện đúng quy định đạo đức nghề nghiệp, ngƣời
làm báo sẽ tránh đƣợc những tác động tiêu cực trong cơ chế thị trƣờng, giữ
vững lòng tin của nhân dân, của xã hội đối với lực lƣợng báo chí cách mạng
nói chung và đối với mỗi ngƣời làm báo nói riêng.
1.1.3 Vai trò của đạo đức nhà báo
Bản lĩnh chính trị của ngƣời làm báo đƣợc thể hiện ngay trong tác
phẩm báo chí. Qua tác phẩm báo chí, nhà báo bày tỏ quan điểm, thái độ với
các sự kiện xảy ra; đấu tranh với các quan điểm sai trái và các tƣ tƣởng thù
23
địch; lên án phê phán, các hiện tƣợng tiêu cực, các thói hƣ tật xấu; bảo vệ
quyền lợi chính đáng của nhân dân. Bản lĩnh chính trị của nhà báo còn đƣợc
thể hiện ở trình độ nhận thức chính trị-xã hội, qua học tập, rèn luyện thực tiễn
của nhà báo, đó là cái tâm, là phẩm chất chính trị của ngƣời làm báo. Cùng
với bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp là yêu cầu hết sức quan trọng với
ngƣời làm báo.
Đạo đức báo chí là đạo đức nghề nghiệp mang tính đặc thù do đặc
trƣng của nghề nghiệp báo chí quy định. Đạo đức nghề nghiệp báo chí đƣợc
thể hiện trong mối quan hệ giữa những ngƣời làm báo với nhau; giữa ngƣời
làm báo với các tổ chức, cá nhân liên quan đến nghề báo và đƣợc biểu hiện
qua hoạt động của nhà báo, đó là lƣơng tâm của nhà báo. Bên cạnh đó, lao
động sáng tạo của ngƣời làm báo là sự tái tạo lại hiện thực khách quan một
cách đúng đắn, chân thực nhƣng không phản ánh một cách thô thiển, máy
móc.
Trƣớc một sự kiện xảy ra nhà báo phải biết chắt lọc thông tin, tìm ra cái
bản chất nhất, mang tính định hƣớng dƣ luận, làm cho công chúng hiểu rõ vấn
đề. Sự sáng tạo không phải là sự thêm thắt, hƣ cấu, thêu dệt trong tác phẩm
của mình về sự kiện xảy ra nhằm mục đích cá nhân. Nếu nhƣ vậy nhà báo đã
tự đánh mất mình và vi phạm Luật Báo chí.
Đạo đức nhà báo không chỉ có ảnh hƣởng trực tiếp đến chất lƣợng tác
phẩm của nhà báo đó, mà còn tác động đến toàn xã hội nói chung và đội ngũ
báo chí nói riêng. Trong hơn mƣời năm qua, vấn để xuống cấp của đạo đức
báo chí trong cơ chế thị trƣờng đã là chủ đề của nhiều cuộc hội thảo do Hội
nhà báo Việt Nam phối hợp với các cơ quan chức năng tổ chức. Nhƣng dƣờng
nhƣ số lƣợng những vụ việc, những biểu hiện tiêu cực về đạo đức báo chí vẫn
không thuyên giảm mà đang có xu hƣớng tăng lên.
24
Trƣớc tiên hãy cùng trả lời câu hỏi: Vì sao với nghề báo, đạo đức nghề
nghiệp đƣợc đặc biệt coi trọng, đƣợc so sánh với nghề y, nghề luật, an ninh,
tòa án? Có ý kiến cho rằng vì đó là 5 nghề này có vị trí quan trọng đặc biệt và
mối quan hệ rộng rãi với nhiều ngƣời trong xã hội. Thế nhƣng nghề thực
phẩm, nghề nông hay rất nhiều nghề khác đều có mối quan hệ rất rộng với
ngƣời dân; thậm chí còn có tính toàn dân. Nhƣ vậy thì nghề giáo, nghề báo,
nghề y, nghề luật, an ninh, tòa án có gì khác biệt với phần lớn những nghề còn
lại? Có một sự khác biệt rất lớn về mối tƣơng quan của ngƣời làm nghề và đối
tƣợng phục vụ giữa 5 nghề này với những nghề còn lại. Nếu đặt lên bàn cân
một bên là ngƣời làm nghề và một bên là đối tƣợng phục vụ, thì với 5 nghề
vừa nêu, đối tƣợng phục vụ nhẹ cân hơn h n về vị thế. Dƣờng nhƣ ngƣời làm
nghề có quyền nhiều hơn đối tƣợng của mình. Ở thế yếu hơn, những ngƣời
đƣợc phục vụ khó có khả năng tự bảo vệ mình, họ phải trông chờ vào đạo đức
nghề nghiệp, vào lƣơng tâm của các nhà báo, cũng nhƣ các thẩm phán, bác sĩ,
điều tra viên. Những ngƣời đƣợc phục vụ mong muốn những ngƣời làm nghề
thận trọng và cân nhắc kỹ càng trƣớc mỗi một nhát dao mổ, một kết luận điều
tra, một bản án, một bài báo.
Các nƣớc phát triển trên Thế giới đều có những quy định rất khắt khe
về “đạo đức nhà báo”, thậm chí, ở một số tờ báo lớn còn có những quy định
riêng về đạo đức nghề nghiệp cho mỗi chức danh trong tòa soạn của mình. Ở
Nga, “Quy định về đạo đức nhà báo” đƣợc Hội đồng Nhà báo Nga thông qua
ngày 23/06/1994, tại Moscow với những hạng mục chi tiết về những quy tắc
mà nhà báo phải tuân thủ trong quá trình tác nghiệp nhƣ:
“Nhà báo phải tuân thủ chặt chẽ việc tách bạch các sự kiện, thông tin với
những ý kiến, phóng tác, và giả định có trong thông tin. Nhưng nhà báo cũng
không nhất thiết phải giữ tính trung lập công việc.
25
Khi tác nghiệp, lấy thông tin nhà báo nhất thiết không áp dụng phương
thức phạm luật, thiếu chân chính. Nhà báo phải hiểu và tôn trọng quyền cơ
bản và quyền pháp lý của con người được phép không đưa tin và không trả
lời câu hỏi, trong trường hợp những thông tin đó quy định rõ trong pháp luật.
Nhà báo phải coi các hành động sau đây là tội phạm báo chí nghiêm trọng,
bao gồm bóp méo sự thật có ác ý, vu cáo, lấy tiền để đưa tin sai sự thật, hoặc
giấu giếm thông tin đúng sự thật trong bất kỳ tình huống nào. Nói chung, nhà
báo không nên nhận trực tiếp hoặc gián tiếp bất kỳ khoản tiền thưởng, thù lao
từ đối tượng thứ ba để phát hành tài liệu hoặc phổ biến ý kiến của bên thứ ba.
Khi bị buộc tội đưa tin sai hoặc bóp méo sự thật, nhà báo phải cải chính,
trong trường hợp cần thiết phải xin lỗi trên phương tiện thông tin báo chí
hoặc phát thanh truyền hình mà anh ta đã đưa tin sai.”;
“Nhà báo không nên sử dụng thông tin bí mật phục vụ lợi ích riêng
hoặc lợi ích của gia đình.
Nhà báo phải tôn trọng và bảo vệ quyền lợi báo chí cho đồng nghiệp và
tuân thủ điều luật về cạnh tranh công bằng. Nhà báo nên tránh các tình
huống gây tổn hại cho lợi ích cá nhân và lợi ích nghề nghiệp của đồng
nghiệp, thông qua thỏa thuận hợp tác với những điều kiện thiếu thiện ý về vật
chất, địa vị xã hội, và đạo đức.
Nhà báo phải tôn trọng và kiên quyết bảo vệ quyền tác giả liên quan
đến bất kỳ loại hình hoạt động sáng tạo. Đạo văn là không thể chấp nhận. Sử
dụng tác phẩm của đồng nghiệp trong bất kỳ hình thức nào đều phải ghi rõ
tên tác giả.”
(Trích “Quy định về đạo đức nhà báo” – Hội đồng nhà báo Nga -
1994)
26
Ở Mỹ, dù báo chí đƣợc xem là độc lập và tự do báo chí đƣợc Hiến pháp
quy định, điều đó không có nghĩa là các cơ quan công quyền, các tổ chức tƣ
nhân hoặc cá nhân không tìm cách khuynh loát hoặc kiểm soát thông tin sẽ
đƣợc xuất bản.
Nhiều tờ báo ở Mỹ đƣa ra những quy tắc đạo đức chính thức hoặc
không chính thức, nhằm nói rõ với phóng viên những gì họ có thể hoặc không
thể nhận. Những quy tắc đó có ích, bởi vì nó giúp cân bằng quan hệ giữa
phóng viên với nguồn tin. Điển hình trong số đó là Quy định của Los Angeles
Times hay The Oregonian.
Ở Châu Á, các Quốc gia đi đầu trong việc quy định đạo đức nghề
nghiệp cho nhà báo có thể kể đến Hàn Quốc và Nhật Bản. Quy chuẩn đạo đức
báo chí Hàn Quốc ra đời năm 1986 do Hiệp hội Biên tập viên báo chí Hàn
Quốc gồm những biên tập viên các tờ báo hàng ngày và các cơ quan báo chí
trên toàn quốc và đã lập nên. Các nhà báo đã cam kết sẽ tuân thủ nghiêm ngặt
những quy chuẩn làm báo và đáp ứng kì vọng của nhân dân về báo chí tốt
đẹp. Không chỉ các biên tập biên mà tất cả những ai làm việc có liên quan đến
ngành báo sẽ tuân theo quy chuẩn này. Nhật Bản cũng có bộ “Quy tắc của
báo chí Nhật Bản” với những quy tắc dựa trên “quyền đƣợc biết thông tin của
công chúng”. Theo đó, “Quyền được biết thông tin của công chúng là một
nguyên tắc cơ bản để duy trì một xã hội dân chủ. Quyền này không thể được
đảm bảo nếu không có sự tồn tại của truyền thông, hoạt động với sự đảm bảo
quyền tự do ngôn luận, đồng thời cam kết hướng tới một tiêu chuẩn đạo đức
cao và không phụ thuộc vào bất kỳ thế lực nào. Các cơ quan báo chí quyết
tâm nắm giữ vai trò của họ như là những người tiên phong nhất trong lĩnh
vực này.”; “Tất cả những người tham gia vào công việc biên tập, xuất bản,
quảng cáo và phát hành nên ủng hộ quyền tự do ngôn luận. Bản thân họ cũng
27
nên có cung cách xử sự đúng đắn để đảm bảo họ hoàn thành đầy đủ trọng
trách này, và để nâng cao lòng tin của độc giả.”
Một vài dẫn chứng nhƣ trên để thấy đạo đức báo chí có vai trò vô cùng
quan trọng trong hoạt động báo chí, điều này đã đƣợc nhận thức từ rất lâu,
nhƣng luôn mang tính thời sự.
1.2. Mối quan hệ giữa ạo ức và pháp luật
Luật pháp là một hình thái ý thức xã hội, là hệ thống các nguyên tắc xử
sự mang tính chất bắt buộc chung, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và do
Nhà nƣớc ban hành để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội nhằm bảo vệ trật tự
kỷ cƣơng xã hội.
Đạo đức là 1 hình thái ý thức xã hội, bao gồm những quan điểm, quan
niệm, những nguyên tắc, chuẩn mực xã hội, nhờ đó con ngƣời tự nhận thức,
tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp trƣớc những lợi ích đặt ra.
1.2.1. Những điểm giống nhau
+ Đạo đức và Pháp luật đều là những quy tắc xử sự chung để hƣớng
dẫn cách xử sự cho mọi ngƣời trong xã hội. Căn cứ vào pháp luật, đạo đức,
các chủ thể sẽ biết mình đƣợc làm gì, không đƣợc làm gì và làm nhƣ thế nào
trong một hoàn cảnh, điều kiện nhất định.
+ Chúng là tiêu chuẩn để xác định giới hạn và đánh giá hành vi của con
ngƣời. Căn cứ vào quy định của pháp luật, các quy tắc đạo đức, có thể xác
định hành vi nào là hợp pháp, hành vi nào là trái pháp luật, hành vi nào là hợp
đạo đức, hành vi nào là trái đạo đức.
+ Đạo đức và pháp luật mang tính quy phạm phổ biến, chúng đều là
những khuôn mẫu chuẩn mực trong hành vi của con ngƣời. Chúng tác động
28
đến các cá nhân, tổ chức trong xã hội, tác động đến hầu hết các lĩnh vực trong
đời sống. Để có phạm vi ảnh hƣởng lớn nhƣ vậy, pháp luật và đạo đức phải có
sự phù hợp với các tiêu chuẩn nhất định
+ Pháp luật và đạo đức đều phản ánh sự tồn tại của xã hội trong những
giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử. Chúng là kết quả của quá trình nhận
thức đời sống của chính mình. Pháp luật và đạo đức đều nhận sự chi phối,
đồng thời tác động lại đời sống kinh tế xã hội.
+ Chúng đƣợc thực hiện nhiều lần trong thực tế cuộc sống vì chúng
đƣợc ban hành ra không phải để điều chỉnh một mối quan hệ xã hội cụ thể,
một trƣờng hợp cụ thể, mà để điều chỉnh một quan hệ xã hội chung, tức là
một trƣờng hợp khi điều kiện hoàn cảnh do chúng dự kiến xảy ra.
1.2.2. Những điểm khác nhau
Đạo Đức Pháp luật
Đạo đức hình thành một cách tự phát Pháp luật hình thành thông qua hoạt
do nhận thức của cá nhân và cộng động xây dựng pháp lý của nhà nƣớc.
đồng.
Đạo đức thể hiện qua dạng không Pháp luật biểu hiện rõ ràng dƣới dạng
thành văn (văn hóa, truyền miệng, hệ thống các văn bản quy phạm pháp
phong tục, tập quán..) và thành văn luật
(kinh, sách chính trị, tôn giáo, nghệ
thuật…)
Đạo đức có nguồn gốc giá trị lâu dài, Pháp luật là sự cƣỡng bức, tác động
khi con ngƣời ý thức hành vi, tự họ sẽ bên ngoài, dù muốn hay không ngƣời
29
điều chỉnh hành vi đó. Do sự điều đó cũng phải thay đổi hành vi của
chỉnh đó xuất phát tự thân chủ thể mình. Sự thay đổi này là không bền
nên hành vi đạo đức có tính bền vững vì nó có thể lập lại ở nơi này
vững. hoặc nơi khác khi thiếu bóng pháp
luật.
Đạo đức đƣợc đảm bảo bằng dƣ luận Pháp luật đƣợc đảm bảo bằng nhà
và lƣơng tâm con ngƣời. nƣớc thông qua các bộ máy cơ quan
nhƣ lập pháp, tƣ pháp, hành pháp,
cảnh sát…
Vi phạm đạo đức sẽ bị chính tòa án
Vi phạm pháp luật sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý. lƣơng tâm và dƣ luận lên án.
1.2.3. Pháp luật và Đạo đức có mối quan hệ qua lại mật thiết, ảnh
hưởng lẫn nhau
+ Đạo đức tác động đến việc hình thành các quy định trong hệ thống
pháp luật. Bất kì một hệ thống pháp luật nào cũng ra đời, tồn tại và phát triển
trên nền tảng đạo đức nhất định. Những quan điểm, quan niệm đạo đức đóng
vai trò là tiền đề tƣ tƣởng, chỉ đạo việc xây dựng pháp luật.
Sự tác động của đạo đức tới việc hình thành pháp luật diễn ra ở nhiều
cấp độ. Ở cấp thấp nhất, các quy phạm pháp luật đƣợc xây dựng không trái
với đạo đức xã hội. Ở cấp độ cao hơn thì các quy định đƣợc ban hành có sự
thống nhất, phù hợp với những quan niệm đạo đức. Ở cấp độ này thì đạo đức
đã ảnh hƣởng tới việc hình thành quy định trong hệ thống pháp luật nhƣ thừa
nhận một tập tục, tập quán đạo đức thành tập quán pháp/ hoặc giải quyết một
vấn đề, một vụ việc cụ thể dựa trên quan niệm đạo đức trở thành tiền lệ pháp.
30
Trong đạo đức xã hội, đạo đức của giai cấp thống trị có ảnh hƣởng đến
pháp luật mạnh mẽ nhất vì bộ máy nhà nƣớc đƣợc cấu thành trƣớc hết và chủ
yếu từ các thành viên trong giai cấp thống trị, hơn nữa giai cấp này còn có
tiềm lực về kinh tế, các công cụ tuyên truyền…Những chuẩn mực đạo đức
truyền thống cũng ảnh hƣởng mạnh mẽ tới pháp luật vì truyền thống làm nên
bản sắc dân tộc, truyền thống là cơ sở, động lực của phát triển.
+ Đạo đức tác động đến việc thực hiện pháp luật của các chủ thể. Sự
tác động này gồm 2 yếu tố: sự phù hợp của đạo đức với pháp luật và ý thức
đạo đức của mỗi chủ thể cá nhân trong xã hội.
Sự phù hợp của đạo đức và pháp luật ảnh hƣởng mạnh mẽ đến việc
thực hiện pháp luật. Nếu nhƣ pháp luật đƣợc xây dựng phù hợp với đạo đức
thì nó sẽ đƣợc công dân chấp hành nghiêm chỉnh và ngƣợc lại.
Ý thức đạo đức của cá nhân cũng ảnh hƣởng tới việc thực hiện pháp
luật. Những ngƣời có ý thức đạo đức cao luôn nghiêm chỉnh thực hiện pháp
luật. Những ngƣời có ý thức đạo đức thấp, sống trong môi trƣờng đạo đức
thấp thì dễ vi phạm pháp luật.
+ Pháp luật ghi nhận, củng cố, bảo vệ những quan điểm, quan niệm, tư
tưởng, chuẩn mực đạo đức của giai cấp thống trị, những giá trị đạo đức
truyền thống. Bằng cách này, pháp luật bảo đảm cho đạo đức trở thành phổ
biến hơn trên toàn xã hội, đồng thời góp phần hỗ trợ, bổ sung cho đạo đức,
đảm bảo cho chúng đƣợc thực hiện nghiêm chỉnh thông qua những biện pháp
tác động của nhà nƣớc.
+ Pháp luật giữ vai trò loại bỏ những quan điểm, tƣ tƣởng đạo đức lạc
hậu, phản tiến bộ trong đời sống xã hội, đồng thời ngăn chặn sự thoái hóa,
xuống cấp của đạo đức, ngăn chặn việc hình thành những quan điểm đạo đức
trái với thuần phong mĩ tục của dân tộc và tiến bộ xã hội.
1.2.4. Mối quan hệ giữa vi phạm đạo đức và vi phạm pháp luật
31
Luật học từ lâu đã đƣa ra khái niệm vi phạm pháp luật và cấu thành vi
phạm pháp luật. Theo đó, vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, xâm
phạm các quan hệ xã hội đƣợc pháp luật bảo vệ, do các chủ thể có năng lực
hành vi thực hiện một cách có lỗi: cố ý hoặc vô ý, gây hậu quả thiệt hại nhất
định cho xã hội.
Còn vi phạm đạo đức là gì? Cho đến nay chƣa có một định nghĩa nào
đƣợc thừa nhận về vi phạm đạo đức, về dấu hiệu của dạng vi phạm quy tắc xã
hội này. Bởi đối với ngƣời này, cộng đồng dân cƣ này, đây đƣợc coi là một
hành động phi đạo đức, nhƣng đối với ngƣời khác, một cộng đồng dân cƣ
khác, hành động ấy lại không có vấn đề gì.
Luật pháp đƣợc ghi lại bằng chƣơng, khoản, điều, mục rất rõ ràng.
Trong khi, không có văn bản nào ghi lại tất cả những quy tắc đạo đức cần
đƣợc tôn trọng và làm theo. Từ đó dẫn đến sự mơ hồ trong việc xác định thế
nào là vi phạm đạo đức.
Một câu hỏi đƣợc đặt ra là: mối quan hệ giữa vi phạm đạo đức và vi
phạm pháp luật nhƣ thế nào? Trên thực tế, đa số các vi phạm pháp luật đều có
liên quan đến vi phạm đạo đức. Tuy vậy không phải bất kì một trƣờng hợp vi
phạm đạo đức nào cũng là vi phạm pháp luật và không phải bất kì một vi
phạm pháp luật nào cũng là vi phạm đạo đức.
Những lời nói không trung thực, biểu hiện của lối sống buông thả, sự
lãnh đạm, ác cảm…nếu chƣa gây ra hậu quả nghiêm trọng, không có đầy đủ
các yếu tố cấu thành pháp luật thì không phải là vi phạm luật. Hỗn láo với cha
mẹ là vi phạm đạo đức nhƣng không vi phạm pháp luật. Lái xe tham gia giao
thông không mang giấy tờ, quên xi nhan… là vi phạm pháp luật nhƣng không
phải vi phạm đạo đức. Pháp luật nghiêm cấm không đƣợc kết hôn cận huyết
trong phạm vi ba đời nhƣng ở khía cạnh đạo đức ở xã hội Việt Nam thì cứ có
32
quan hệ họ hàng, dù là 5 đời hay 7 đời, vẫn đƣợc coi là không phù hợp đạo
đức.
Nhƣ vậy, ta có thể kết luật: đạo đức là một phạm trù rộng hơn pháp
luật. Để xác định một hành vi có vi phạm đạo đức hay không, chúng ta chỉ có
thể dựa một phần nhỏ ở việc hành vi đó có vi phạm pháp luật hay không. Sự
so sánh, đối chiếu cần đƣợc thực hiện một cách thận trọng và công tâm.
1.3. Những yêu cầu về ạo ức nhà báo ở Việt Nam
1.3.1. Đặc điểm của văn hóa báo chí Việt Nam
Theo PGS.TS Đặng Thị Thu Hƣơng (Đại học KHXH&NV- Đại học
Quốc gia Hà Nội), Văn hóa báo chí đƣợc chia làm 3 phần: Văn hóa của nền
báo chí, Văn hoá của cơ quan báo chí và Văn hóa của ngƣời làm báo.
Văn hóa báo chí của nền báo chí đƣợc thể hiện trên cơ sở hệ thống các
nguyên tắc về vai trò, chức năng của báo chí trong đời sống xã hội, về trách
nhiệm, quy chuẩn của báo chí, cũng nhƣ thực tiễn các đóng góp của báo chí
đối với xã hội. Báo chí Việt Nam là nền báo chí Cách mạng, là tiếng nói của
Đảng, Nhà nƣớc, của các tổ chức xã hội, và là diễn đàn của quần chúng nhân
dân. Báo chí Việt Nam trong những năm qua không ngừng đƣợc nâng cao
chất lƣợng về nội dung và hình thức, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu
thông tin của nhân dân. Các cơ quan báo chí nƣớc ta đã thực hiện tốt nhiệm
vụ chính trị của mình, thực hiện đúng sự lãnh đạo, chỉ đạo, định hƣớng thông
tin của Đảng, Nhà nƣớc, thông tin nhanh nhạy, đầy đủ, toàn diện về diễn biến
của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội…
Mỗi cơ quan báo chí chỉ có một văn hoá riêng trong cách điều hành, tổ
chức, chọn lựa và chuyển tải tin tức, và vì vậy, mặc dù cùng chia sẻ chung
một nền văn hoá báo chí, nhƣng mỗi cơ quan báo chí lại có những đặc điểm
33
văn hoá khác nhau. Đối với mỗi cơ quan báo chí, chất lƣợng văn hoá thể hiện
ở năng lực định hƣớng giá trị hay mục đích của cơ quan báo chí; năng lực tổ
chức điều hành, phân công nhân sự phù hợp với nội dung, chuyên trang,
chuyên mục; trình độ biên tập của các biên tập viên, trình độ duyệt bài của
các cấp quản lý, trình độ và kỹ năng trình bày ấn phẩm…
Văn hoá của ngƣời làm báo: Xã hội càng phát triển, đời sống con ngƣời
đƣợc nâng cao, nhu cầu đƣợc thông tin cũng ngày càng lớn hơn. Trong một
thế giới ph ng, thông tin không có biên giới quốc gia. Khái niệm báo chí và
ngƣời làm báo trong thời đại bùng nổ thông tin cũng đã thay đổi theo hƣớng
mở rộng biên độ. Tuy nhiên ngƣời làm báo có văn hoá phải là ngƣời có
chuyên nghiệp vụ tinh thông, có đạo đức nghề nghiệp trong sáng, có lập
trƣờng, bản lĩnh chính trị vững vàng và có năng lực văn hoá tốt. Điểm quan
trọng trong văn hoá của ngƣời làm báo là hàm lƣợng văn hoá trong sản phẩm
báo chí.
1.3.2. Những yêu cầu chung về đạo đức nhà báo ở Việt Nam
Những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp tồn tại không chỉ
trong ý thức của các nhà báo, trong các tác phẩm báo chí mà còn đƣợc thể
hiện cụ thể trong những tình huống, những mối quan hệ thƣờng gặp của hoạt
động thực tiễn báo chí. Các mối quan hệ đƣợc phân loại thành ba nhóm:
(1) Nhóm các mối quan hệ nền tảng (nhà báo với Tổ quốc, đất nƣớc;
nhà báo với nhân dân; nhà báo với Đảng cộng sản),
(2) Nhóm các mối quan hệ trong môi trƣờng xã hội (nhà báo với công
chúng; nhà báo với nguồn tin; nhà báo với nhân vật trong tác phẩm),
34
(3) Nhóm các mối quan hệ nghề nghiệp (nhà báo với ban biên tập; nhà
báo với đồng nghiệp trong và ngoài toà soạn; nhà báo với cộng tác viên, thông
tin viên).
Trong Luật Báo chí Việt Nam hiện nay chƣa có một mục riêng dành
cho đạo đức báo chí, tuy nhiên, tại Đại hội lần 8, Hội Nhà báo Việt Nam đã
thông qua văn bản “9 điều quy định về đạo đức nghề nghiệp của ngƣời làm
báo Việt Nam”. Theo đó, ngƣời làm báo tự nguyện thực hiện những quy định
về đạo đức nghề nghiệp sau đây:
1. Tuyệt đối trung thành với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Xã
hội chủ nghĩa
2. Luôn gắn bó với nhân dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân
3. Hành nghề trung thực, chính xác và khách quan
4. Sống lành mạnh, trong sáng, không lợi dụng nghề nghiệp để vụ lợi
và làm trái pháp luật
5. Gương mẫu chấp hành pháp luật, làm tròn nghĩa vụ công dân, làm
tốt trách nhiệm xã hội
6. Bảo vệ bí mật quốc gia, nguồn tin và giữ bí mật cho người cung cấp
thông tin.
7. Tôn trọng, đoàn kết, hợp tác, giúp đỡ đồng nghiệp trong hoạt động
nghề nghiệp
8. Thường xuyên học tập, nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, nghiệp
vụ, khiêm tốn cầu tiến bộ
9. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời tiếp thu có
chọn lọc các nền văn hóa khác
35
Các tác giả Tạ Ngọc Tấn, Đinh Thị Thúy Hằng trong cuốn Cẩm nang
đạo đức báo chí – Trung tâm bồi dƣỡng nghiệp vụ, Hội nhà báo Việt Nam đã
phân tích, diễn giải 9 quy định đó nhƣ sau:
Nhà báo phải trung thành với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam Xã hội chủ nghĩa dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhà báo phải quan tâm và bảo vệ lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia, lợi ích của
đa số nhân dân. Khi thông tin phải đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, phục vụ
phát triển, vì mục tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh.
Nhà báo không đƣợc xúc phạm nhân phẩm con ngƣời bằng cách
chuyển tải thông tin dƣới hình thức từ ngữ và hình ảnh không phù hợp. Nhà
báo không đƣợc hăm dọa, quấy rối hoặc đeo bám dai d ng.
Nhà báo cần tôn trọng danh dự và cuộc sống riêng tƣ của tất cả mọi ngƣời.
Không đƣợc xâm phạm, điều tra đời tƣ một khi không đƣợc chấp thuận, bao
gồm chụp ảnh tài sản và thu thập thông tin bằng các thiết bị nghe lén.
Khi đƣa tin về các vụ tai nạn hoặc thảm họa, nhà báo phải đồng cảm với sự
đau khổ của nạn nhân và xúc cảm của gia đình họ. Nhà báo phải luôn nhớ
rằng công việc cứu trợ đƣợc ƣu tiên cao hơn quyền đƣợc thông tin của công
chúng. Nhà báo không đƣợc mô tả quá kỹ hoặc cung cấp nhiều hình ảnh về
thảm họa, tai nạn hoặc bạo lực, vì điều đó có thể gây tổn thƣơng tới ngƣời
thân của họ hoặc đụng chạm tới sự nhạy cảm của công chúng.
Khi đƣa tin, nhà báo nên tránh ám chỉ một cách định kiến, miệt thị về chủng
tộc, màu da, tôn giáo, giới tính, khuynh hƣớng tình dục, bệnh tật cũng nhƣ sự
khiếm khuyết về thể xác, tinh thần của con ngƣời. Nhà báo cần quan tâm tới
lợi ích công chúng, nhƣ bảo vệ sức khỏe và sự an toàn của công chúng; giúp
36
tìm, ngăn chặn và phát hiện tội phạm nghiêm trọng, các vụ bê bối và lạm
dụng quyền lực; bảo vệ công chúng khỏi nguy cơ bị lừa gạt.
Nhà báo thông tin phải đảm bảo chính xác, trung thực, khách quan,
không đƣa những thông tin gây hiểu nhầm hoặc bị bóp méo. Không đăng tin
đồn khi chƣa đƣợc kiểm chứng. Không đƣợc viện cớ vì lợi ích chính đáng của
công chúng đƣa tin giật gân, câu khách.
Phải đăng ở vị trí phù hợp tin cải chính những thông tin đã đƣa sai, kèm
theo lời xin lỗi của Ban biên tập. Nhà báo phải dành cho ngƣời bị hại cơ hội
phản hồi.
Khi thu thập thông tin, nhà báo phải xƣng danh. Nếu cần ẩn danh hoặc
sử dụng các biện pháp khai thác thông tin bí mật thì phải thận trọng, tránh vi
phạm pháp luật.
Nhà báo phải rành mạch giữa tin tức và ý kiến riêng (tin tức là thông tin
về các sự kiện và các số liệu, còn ý kiến riêng là để truyền đạt ý nghĩ, ý tƣởng,
niềm tin hoặc sự phán xét của nhà báo). Nhà báo không đƣợc đƣa định kiến
khi đƣa tin và bình luận.
Nhà báo không đƣợc đạo tin. Mỗi khi dùng tƣ liệu của đồng nghiệp
phải ghi rõ tên của tác giả. Các nhà báo viết trên mạng xã hội cần thận trọng
khi viết những nội dung liên quan đến các thông tin khai thác đƣợc khi tác
nghiệp. Nhà báo hết sức tránh tình trạng đăng tải các thông tin mà họ thu thập
nhƣng không đƣợc cơ quan báo chí chấp thuận trên các mạng xã hội cá nhân
của mình.
Nhà báo cần nhớ rằng uy tín của cơ quan báo chí mình đang công tác
có thể bị giảm sút khi các quan điểm của cá nhân của nhà báo đƣợc đƣa lên
37
các mạng xã hội. Trƣớc khi lập các tài khoản cá nhân trên mạng xã hội, nhà
báo cần báo cáo ngƣời phụ trách mình.
Nhà báo không đƣợc lạm dụng nghề để làm việc nhƣ một nhân viên
quảng cáo, không đƣợc nhận trực tiếp hoặc gián tiếp tiền báo đáp từ những
ngƣời muốn quảng cáo và không đƣợc tham gia quảng cáo trá hình.
Nhà báo không đƣợc gây sức ép hoặc gợi ý đổi chác vật chất để moi thông
tin. Trong trƣờng hợp cần phải chi tiền để có đƣợc thông tin mà công chúng
có quyền đƣợc biết thì trong bài viết của mình phải công khai việc này.
Nhà báo không đƣợc nhận bất kỳ quà tặng có giá trị hoặc bất kỳ ƣu đãi nào, vì
điều đó có thể tác động tới hoạt động báo chí của nhà báo, nhất là liên quan
tới việc có cho đăng hay giấu thông tin đã thu thập đƣợc.
Nếu đƣợc tài trợ để thực hiện chuyến đi công tác ở nƣớc ngoài thì các cơ quan
báo chí cần phải đăng thông tin cho công chúng biết cơ quan nào. Nhà báo
cần thông tin cho Ban biên tập khi viết về những cổ phiếu hoặc mã chứng
khoán mà họ biết rằng họ và gia đình họ có lợi ích tài chính lớn trong đó.
Nhà báo cần tách bạch nội dung thông tin báo chí với thông tin tiếp thị, quảng
cáo và tài trợ.
Nhà báo phải nghiên cứu am tƣờng pháp luật, làm việc và viết theo quy
định của pháp luật. Để làm tốt nghĩa vụ công dân, trách nhiệm xã hội, khi đƣa
tin về tội phạm, nhà báo không đƣợc nêu danh tính trẻ em dƣới 18 tuổi trong
các vụ tội phạm hình sự dù đó là nạn nhân, nhân chứng hay bị cáo. Khi đƣa
tin về tội phạm hình sự vị thành niên hoặc các phiên tòa xét xử ngƣời vị thành
niên, nhà báo phải thận trọng, hãy nghĩ tới tƣơng lai của họ. Nhà báo phải
luôn tôn trọng giả định vô tội và không đƣợc “kết tội” trƣớc khi tòa tuyên án.
Nhà báo không đƣa tin về các vấn đề y tế một cách giật gân, vì điều đó
có thể dẫn tới những hy vọng hoặc cảm giác sợ hãi vô căn cứ cho ngƣời đọc.
38
Khi thông tin về phát kiến nghiên cứu khoa học nhà báo cần nói rõ kết quả đó
của giai đoạn nào.
Nhà báo phải tuân thủ chế độ bí mật thông tin, nhất là những thông tin
mang tính bí mật quốc gia.
Nhà báo không đƣợc tiết lộ danh tính ngƣời cung cấp thông tin, trừ phi
họ cho phép hoặc theo quy định của pháp luật.
Nhà báo phải cho ngƣời đƣợc phỏng vấn biết thông tin họ cung cấp sẽ
đƣợc đăng tải ở đâu và trong hoàn cảnh nào.
Nhà báo không đƣợc biến những cuộc trò chuyện thông thƣờng hoặc
các cuộc nói chuyện qua điện thoại thành những bài phỏng vấn mà ngƣời nói
chuyện không biết đó là cuộc phỏng vấn.
Nhà báo làm công việc thu thập thông tin phải theo quy định của pháp
luật, phải có trách nhiệm và tôn trọng độc giả, khán giả, thính giả và ngƣời
xem tin trên mạng.
Các nhà báo phải tôn trọng nhau, không nên chèn ép gây khó cho đồng
nghiệp, tránh các hành vi, ngôn ngữ bạo lực, tránh quấy rối đồng nghiệp.
Các nhà báo cần giúp đỡ nhau trong hoạt động nghiệp vụ; không vì cạnh tranh
thông tin hoặc vì lợi ích cục bộ của cơ quan báo chí của mình mà cản trở hoạt
động tác nghiệp của đồng nghiệp khác. Sẵn sàng hỗ trợ đồng nghiệp bảo vệ
quyền hành nghề hợp pháp của nhà báo.
Nhà báo cần không ngừng nâng cao trình độ chính trị, khiêm tốn học
hỏi, trau dồi chuyên môn, nghiệp vụ trong thực tiễn công tác, trong cuộc sống
và giữa các đồng nghiệp. Nhà báo nên nhớ rằng trình độ chính trị, chuyên
môn, nghiệp vụ của ngƣời làm báo sẽ tạo ra các tác phẩm báo chí có thể dẫn
đến những tác động xã hội khác nhau.
39
Nhà báo đòi hỏi thƣờng xuyên trau dồi và tuân thủ các quy tắc đạo đức
của ngƣời làm báo để nâng cao chất lƣợng tác phẩm của mình và vì lợi ích
của công chúng.
Nhà báo phải giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam,
bảo đảm sự trong sáng của tiếng Việt. Đồng thời tôn trọng tập quán, truyền
thống của các cộng đồng, không đƣa những thông tin xúc phạm các phong
tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp của các cộng đồng địa phƣơng.
Theo đó, đi ngƣợc, làm trái với những chuẩn mực cơ bản bên trên,
nghĩa là ngƣời làm báo đã vi phạm đạo đức báo chí. Mức độ vi phạm khác
nhau ở từng trƣờng hợp sẽ có những cách thức xử lý khác nhau. Tuy nhiên,
với sự bùng nổ của Internet, sự ra đời của mạng xã hội và cuộc cạnh tranh
khốc liệt của thông tin đã khiến cho báo mạng điện tử trở thành môi trƣờng dễ
khiến cho ngƣời làm báo sa ngã nhất.
1.4. Về Báo mạng iện tử
Báo mạng điện tử là phƣơng tiện truyền thông đại chúng ra đời muộn
hơn truyền hình, báo in, phát thanh. Trƣớc đây, khi một sự kiện xảy ra thì
“phát thanh đƣa tin, truyền hình minh hoạ, báo in minh hoạ và giải thích”.
Nhƣng giờ đây báo mạng điện tử có thể đảm đƣơng nhiệm vụ của cả phát
thanh, truyền hình lẫn báo in một cách dễ dàng. Báo mạng điện tử trở thành
kênh truyền thông vô cùng hiệu quả, đặt các phƣơng tiện truyền thông đại
chúng truyền thống vào một cuộc đua quyết liệt. Bản thân nó mang trong
mình sức mạnh của phƣơng tiện truyền thông đại chúng truyền thống, nhƣng
do kết hợp với mạng máy tính mà nó có nhiều điểm ƣu việt riêng nhƣ khả
năng tƣơng tác; khả năng đa phƣơng tiện; tính thời sự; khả năng lƣu giữ, tìm
kiếm và truy xuất thông tin nhanh nhất...
40
Tuy nhiên, cùng với những ƣu việt trên của báo mạng điện tử, thì vấn
đề bảo đảm an toàn thông tin và chính xác thông tin trên báo mạng điện tử là
mối lo hàng đầu. Là bộ phận quan trọng của internet, lại phát hành một bản
cho triệu triệu ngƣời đọc, do đó vấn đề thông tin trên bao mạng điện tử là hết
sức quan trọng.
Mặt khác, báo mạng điện tử đang phải chạy đua thông tin với nhau nhất
là về khả năng nhanh nhất, nóng nhất…do vậy, có hiện tƣợng nhiều thông tin
đƣa không chính xác, chụp mũ, làm công chúng hoang mang. Bên cạnh đó,
thông tin trên báo chí trực tuyến còn phải đƣơng đầu với sự xâm nhập của các
nguồn thông tin xấu, thông tin không lành mạnh vốn đầy rẫy trên mạng
internet. Báo mạng điện tử vẫn phải đứng trong cuộc chạy đua gay gắt với
các phƣơng tiện truyền thông đại chúng khác, và có nhiều nguy cơ bị chia sẻ
công chúng. Chính vì vậy, báo mạng điện tử mặc dù có nhiều ƣu thế hơn h n
nhƣng cũng phải không ngừng nâng cao chất lƣợng thông tin, đảm bảo thông
tin chính xác đến hàng triệu triệu công chúng là yêu cầu cần thiết.
1.4.1. Sự ra đời và phát triển của báo mạng điện tử ở Việt Nam
Việt Nam hoà mạng internet vào năm 1997, cho đến nay, sau gần 20
năm, mật độ internet nƣớc ta ngày càng tăng đáng kể. Trong điều kiện thuận
lợi đó, báo mạng điện tử Việt Nam ra đời và có những bƣớc phát triển bắt kịp
thế giới. Tháng 2/1998 tờ Quê Hƣơng – cơ quan của Uỷ Ban về ngƣời Việt
Nam ở nƣớc ngoài đƣợc đƣa lên mạng internet, trở thành tờ báo điện tử đầu
tiên ở Việt Nam. Sự kiện có ý nghĩa mở đƣờng này đƣợc ghi nhận nhƣ một
dấu ấn quan trọng trong lịch sử báo chí nƣớc ta. Từ đây các phƣơng tiện
truyền thông đại chúng của nƣớc ta có thêm một thành viên mới, hiện đại và
rất hữu ích trong khả năng truyền thông in đến công chúng và thông tin đói
ngoại.
41
Báo Nhân Dân, cơ quan trung ƣơng của Đảng Cộng sản Việt Nam,
tiếng nói của Đảng, Nhà nƣớc và nhân dân Việt Nam, là một trong những tờ
đi tiên phong trong việc ứng dụng những tiến bộ của khoa học, công nghệ
Internet để thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền, đặc biệt là tuyên truyền đối
ngoại. Ngày 21/6/1998, Nhân Dân điện tử (Tiếng Việt) ra đời tại địa chỉ:
www.nhandan.org.vn (thử nghiệm 2 ngày/lần). Chƣa đầy 1 năm sau, ngày
11/3/1999, báo chính thức cập nhật, thay đổi hằng ngày. Từ ngày 2/9/200,
Nhân Dân điện tử có thêm phiên bản tiếng Anh phát hành 1 ngày/lần.
Ngày 19/12/1997, mạng thông tin trực tuyến VNN ra đời với mục đích
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của công chúng. Đây là bƣớc chuẩn bị quan
trọng cho ngày 2/9/2001, trang chủ: www.vnn.vn lần đầu tiên ra mắt công
chúng mang tên VASC ORIENT trên nền mạng VNN. VASC ORIENT phát
triển theo hƣớng thời sự, chuyên sâu, công chúng có thể thảo luận, trao đổi
trực tiếp về mọi vấn đề trong và ngoài nƣớc. Đó chính là tiền thân của tờ
Vietnamnet.vn hiện tại.
Báo Lao Động cũng đã rất nhanh nhạy khi cho ra mắt tờ báo điện tử
của riêng mình với địa chỉ: www.laodong.com.vn. Trải qua gần 3 năm hoạt
động, nó đƣợc đánh giá là một trong những tờ báo trực tuyến hàng đầu của
Việt Nam với lƣợt ngƣời truy cập lên đến 180 triệu (tháng 3/2002).
Ngày 26/2/2002, Công ty Đầu tƣ và phát triển công nghệ (FPT) đã
chính thức đƣa lên mạng tờ VNEXPRESS với địa chỉ: www.vnexpress.net.
Với mong muốn trở thành một website thông tin hữu ích cho độc giả, hoạt
động trên nguyên tắc: thông tin phải nhanh, trung thực, khách quan. Hiện nay,
VnExpress.net đƣợc coi là website báo trực tuyến hàng đầu ở Việt Nam.
Theo Trung tâm internet VN (VNNIC), tính đến cuối năm 2014, cả
nƣớc có 36 triệu/93 triệu ngƣời sử dụng internet, tƣơng ứng với 38% số dân,
42
đứng thứ 8 ở châu Á và thứ 20 thế giới. Chỉ tính 14 năm qua, từ năm 2001
đến 2014, số lƣợng ngƣời sử dụng internet tăng trung bình mỗi năm khoảng
12 - 15%. Trong số hơn 36 triệu ngƣời VN sử dụng internet, có gần 20 triệu
khách hàng của Google, hơn 15 triệu của Yahoo!, có 26 triệu khách của
Facebook, đều tăng rất cao so với con số dự báo cách đây 4 - 5 năm.
Cả nƣớc có trên 90 cơ quan báo chí điện tử, 207 trang tin của cơ quan
báo chí và trên 1.525 trang thông tin điện tử tổng hợp. 63/63 tỉnh, thành phố,
22/22 bộ, ngành đã có cổng thông tin điện tử hoặc trang tin điện tử. Có 16 nhà
đăng ký tên miền VN, 98 nhà đăng ký tên miền quốc tế và hơn 20 doanh
nghiệp đang cung cấp dịch vụ hosting tại VN. Con số thống kê nêu trên cho
thấy, tốc độ ứng dụng công nghệ thông tin của ta đƣợc thực hiện khá tốt, kết
quả rất đáng khích lệ, góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới, nâng cao dân
trí, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc và hội nhập quốc tế.
1.4.2. Phân biệt Báo mạng điện tử, Trang tin điện tử và Mạng xã hội
Hiện nay, ở Việt Nam, không chỉ công chúng mà ngay cả những ngƣời
hoạt động trong lĩnh vực báo chí, truyền thông cũng đang có nhiều nhầm lẫn
giữa các loại hình: báo mạng điện tử, trang tin điện tử và mạng xã hội.
Để phân biệt rõ ba loại hình này, chúng ta cần định nghĩa chính xác nhƣ
sau:
Theo Luật báo chí năm 1999, báo điện tử là loại hình báo chí đƣợc thực
hiện trên hệ thống máy tính. Nghị định 97/2008 bổ sung thêm rằng, một tờ
báo điện tử chính thống phải có giấy phép theo Luật Báo chí, xuất bản theo
Luật Xuất bản.
Trang thông tin điện tử (website) là hệ thống thông tin dùng để thiết lập
một hoặc nhiều trang thông tin đƣợc trình bày dƣới dạng ký hiệu, số, chữ viết,
hình ảnh, âm thanh và các dạng thông tin khác phục vụ cho việc cung cấp và
43
sử dụng thông tin trên Internet. Trong khi báo điện tử hội đủ các yếu tố đƣợc
cấp phép hoạt động của một tờ báo điện tử, thì Trang tin điện tử đa phần đƣợc
lấy thông tin từ báo in đăng lại.
Mạng xã hội (social network) là hệ thống thông tin cung cấp cho cộng
đồng ngƣời sử dụng mạng các dịch vụ lƣu trữ, cung cấp, sử dụng, tìm kiếm,
chia sẻ và trao đổi thông tin với nhau, bao gồm dịch vụ tạo trang thông tin
điện tử cá nhân, diễn đàn (forum), trò chuyện (chat) trực tuyến, chia sẻ âm
thanh, hình ảnh và các hình thức dịch vụ tƣơng tự khác (Trích Nghị định
72/2013/NĐ-CP về Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin
trên mạng.
Theo Báo cáo tháng 12/2014 của Bộ Thông tin và Truyền thông, tính
đến hết ngày 10 tháng 12 năm 2014, cả nƣớc có 98 báo, tạp chí điện tử (trong
đó trong năm 2013 cấp mới 19 báo, tạp chí điện tử). Trong đó có 72 báo điện
tử, 19 tạp chí điện tử; 72 báo, tạp chí điện tử của cơ quan báo chí in và 19
báo, tạp chí điện tử độc lập. Số lƣợng trang thông tin điện tử tổng hợp của các
cơ quan báo báo chí là: 265. Số lƣợng trang thông tin điện tử tổng hợp là
1.525 trang; 420 mạng xã hội; gần 18.000 nhà báo đƣợc cấp thẻ và khoảng
5.000 phóng viên đang hoạt động báo chí nhƣng chƣa đủ điều kiện cấp thẻ
nhà báo.
1.5. Những vấn ề ạo ức nghề nghiệp của nhà báo trên Báo mạng
iện tử
1.5.1. Tích cực
+ Trung thành với lợi ích của đất nước, nhân dân
Cùng với sự phát triển về kinh tế, xã hội của đất nƣớc là sự phát triển,
đi lên của báo chí và đội ngũ những ngƣời làm báo nói chung và những ngƣời
44
làm báo điện tử nói riêng. Trong tất cả các thành tự về mọi mặt của đất nƣớc
đều ghi nhận sự đóng góp của những ngƣời làm báo. Báo điện tử với sự
nhanh nhạy trong cách tiếp cận vấn đề, xử lý thông tin và lợi thế về công nghệ
đã trở thành phƣơng tiện truyền tải những thông tin nhanh nhất về các vấn đề
của đất nƣớc và ngƣời dân từ kinh tế, chính trị, ngoại giao…đến an sinh xã
hội, sinh hoạt hàng ngày của nhân dân.
Với bản lĩnh chính trị vững vàng, sự kiên định, trung thành với lý
tƣởng của Đảng, của nhà nƣớc, những ngƣời làm báo mạng điện tử đã cùng
với đồng nghiệp của mình tích cực tham gia và công cuộc xây dựng, bảo vệ
Tổ quốc, tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lê nin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, đƣờng
lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nƣớc, cổ vũ các phong trào cách
mạng của quần chúng nhân dân.
Sự kiện nổi bật nhất về mặt chính trị, quân sự, thu hút sự chú ý, theo
dõi và thảo luận của công chúng trong năm 2013 chính là sự kiện Trung Quốc
hạ đặt trái phép dàn khoan HD981 xuống thềm lục địa của Việt Nam. Bắt đầu
từ ngày 01/05/2014, Trung Quốc với lực lƣợng hộ tống mạnh mẽ của hàng
trăm tàu trong đó có cả tàu chiến và máy bay quân sự đã đƣa và đặt trái phép
giàn khoan dầu khí Hải Dƣơng-981 (Haiyang Shiyou-981) vào hoạt động sâu
trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ở Biển
Đông. Đây đƣợc đánh giá là hành động ngang nhiên xâm phạm chủ quyền
lãnh thổ của Việt Nam, vi phạm các quy ƣớc quốc tế về vấn đề Biển Đông,
ảnh hƣởng nghiêm trọng đến an ninh, hòa bình của Việt Nam. Ngay từ thời
điểm Trung Quốc bắt đầu có những hành động khiêu khích ngoài biển Đông,
khi lực lƣợng cảnh sát biển bắt đầu cùng với ngƣ dân các tỉnh ven biển miền
Trung quyết tâm bám biển, kiên quyết bảo vệ chủ quyền của Việt Nam, cũng
là lúc các nhà báo vào cuộc. 75 ngày đêm Trung Quốc gây hấn trên Biển
45
Đông là 75 ngày đêm dƣ luận trong nƣớc và quốc tế sục sôi lòng căm phẫn.
Và không thể thống kê hết đƣợc có bao nhiêu bài báo tƣờng thuật, phỏng vấn,
bao nhiêu phóng viên, nhà báo đã ngày đêm miệt mài bám sự kiện để đƣa đến
cho độc giả những tin tức cập nhật nhất về tình hình ngoài biển khơi, về diễn
biến đối ngoại của lãnh đạo Đảng và nhà nƣớc ta, về tình hình dƣ luận quốc
tế, về hoạt động biểu tình, phản đối của cộng đồng ngƣời Việt trong nƣớc, ở
nƣớc ngoài và cả bạn bè quốc tế. Đặc biệt, trong các loại hình báo chí, báo
mạng điện tử đã phát huy đƣợc hết những lợi thế của mình để cung cấp những
thông tin nhanh nhất, chính xác nhất, nóng hổi nhất, đã tạo ra sự lan tỏa mạnh
mẽ nhờ công nghệ, đã tận dụng đƣợc hết sức mạnh của truyền thông xã hội để
góp phần vào sự nghiệp đấu tranh bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền biển
đảo và hòa bình dân tộc. Không có một đầu báo nào nằm ngoài sự kiện, với
lƣợng tin bài cập nhật ở mức kỷ lục. Tất cả các trang báo mạng điện tử lớn
nhƣ VnExpress.net, VietnamNet.vn, Dantri.com.vn, Tuoitre.vn,
www.thanhnien.com.vn… đều lập riêng chuyên mục về biển Đông và các
diễn đàn để ngƣời đọc có thể cùng vào trao đổi, bình luận theo dòng sự kiện.
Hàng loạt báo mạng điện tử và trang tin điện tử thay banner, đổi giao diện
trang chủ là hình ảnh của lá cờ Tổ quốc.
Một hoạt động báo chí đƣợc cộng đồng đánh giá rất cao là loạt bài ảnh
tƣờng thuật của nhóm phóng viên báo Tuổi trẻ Online trực tiếp từ điểm nóng
Hoàng Sa. Các phóng viên Hà Bình và Đông Hà của Tuổi trẻ Online đã không
ngần ngại lên tàu cùng với cảnh sát biển Việt Nam chiến đấu chống lại âm
mƣu xâm chiếm biển Đông của Trung Quốc. Nếu nhƣ các chiến sĩ của Quân
đội Nhân dân Việt Nam chiến đấu kiên cƣờng bằng vòi rồng, bằng kinh
nghiệm quân sự, thì các nhà báo, không chỉ có Hà Bình và Đông Hà, mà còn
có nhiều phóng viên của các báo, đài khác, chiến đấu bằng chính những tấm
ảnh, những dòng tin gửi về đất liền. Vũ khí của nhà báo bây giờ không còn là
46
“cây bút” thô sơ, mà là chiếc máy ảnh, chiếc máy tính xách tay, cổng usb kết
nối mạng 3G…để có thể đƣa sự thật ra ánh sáng.
Về đề tài, “Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trái phép”, có 141 bài viết
liên quan đã đƣợc đăng tải trên báo VnExpress, báo Thanh Niên Online có tất
cả 765 tin bài, Tiền Phong Online có 294 kết quả.
+ Phát hiện, biểu dương cái tốt và điển hình, nhân tố mới
Báo chí cần coi trọng việc phát hiện và đề cao các nhân tố mới, khuyến
khích các nhà báo tích cực cổ vũ, biểu dƣơng cái đúng, cái tốt, cái đẹp,
“ngƣời tốt, việc tốt”, điển hình tiên tiến làm cho cái chân, tiện, mỹ lan tỏa sâu
rộng trong đời sống xã hội chúng ta. Vì vậy, phát hiện và tôn vinh những
nhân tố mới, những gƣơng “ngƣời tốt việc tốt”, những điển hình tiên tiến là sứ
mệnh của báo chí cách mạng nói chung, và của báo mạng điện tử nói riêng.
Trên báo mạng điện tử hàng ngày, không khó để bắt gặp những bài viết chân
dung biểu dƣơng những con ngƣời có đóng góp tích cực cho xã hội. Đó có thể
là những con ngƣời tiêu biểu, điển hình nhƣ ngƣời chiến sĩ công an, anh bộ
đội Cụ Hồ, các lãnh đạo Trung ƣơng, địa phƣơng, nhƣng đó có thể là những
con ngƣời bình thƣờng nhƣng ngày ngày thầm lặng làm những công việc “phi
thƣờng” mà không phải ai cũng làm đƣợc. Đó là anh thợ sửa khóa 20 năm
tình nguyện dắt ngƣời già qua đƣờng ở Quảng Nam “ ần năm d t người
qua đường” – Báo cand.com.vn – ngày 08/04/2014); hay câu chuyện ông
Phạm Văn Lƣơng từ nhiều năm nay bơm vá, sửa xe miễn phí cho ngƣời
khuyết tật qua lại góc ngã tƣ Cống Quỳnh - Nguyễn Thị Minh Khai (Q.1,
Thành phố Hồ Chí Minh), đã có tác dụng xoa dịu sự phẫn nộ và cả nỗi hoang
mang của dƣ luận trƣớc hàng loạt những tin tức về “cƣớp, giết, hiếp” hàng
ngày (Sửa xe miễn phí giúp người nghèo khuyết tật – Báo Tuoitre.vn)…
Các cuộc thi viết về ngƣời tốt, việc tốt đƣợc tổ chức thƣờng xuyên trên các
47
báo khi xƣa, nay đƣợc sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, càng đƣợc nhân
rộng trên các báo mạng điện tử. Bạn đọc có thể trực tiếp chia sẻ những câu
chuyện về những tấm gƣơng sáng xung quanh mình để báo chí và dƣ luận kịp
thời phát hiện, biểu dƣơng, và noi gƣơng học tập.
+ Dũng cảm đấu tranh chống lại cái xấu
Đấu tranh chống lại cái xấu là sứ mệnh quan trọng của báo chí nói
chung, và với những ngƣời làm báo mạng điện tử, đó cũng là trách nhiệm
hàng đầu. Trong thời gian qua, rất nhiều các vụ việc tiêu cực, các tệ nạn của
xã hội đã đƣợc vạch trần, phanh phui nhờ loạt bài điều tra của các phóng viên
báo mạng điện tử. Điển hình là các bài viết về hành vi gian lận tại các cây
xăng nhƣ phóng sự: “Những cây xăng quyền lực trên quốc lộ ” - báo
phapluattp.vn– Tháng 06/2013.
Video clip “Bị đòn vì cự cãi cảnh sát giao thông” – đăng trên
www.thanhnien.com.vn tháng 07/2013 là videoclip do nhóm phóng viên báo
Thanh Niên thực hiện. Clip đƣợc thực hiện dựa trên đơn tố giác của ngƣời
dân về việc một số cảnh sát giao thông sử dụng những kẻ côn đồ để dằn mặt
những ngƣời tham gia giao thông “cứng đầu”. Điểm đáng chú ý nhất là các
phóng viên đã ghi hình đƣợc cảnh ngƣời dân bị côn đồ đánh đập dã man
nhƣng các cảnh sát giao thông đứng gần đó tỏ ra thờ ơ, không quan tâm,
không có biểu hiện can thiệp hay giúp đỡ ngƣời bị nạn. Đây cũng là dẫn
chứng cho mối quan hệ rất tốt giữa công chúng và phóng viên báo mạng điện
tử. Hiện nay, các công cụ kĩ thuật số giúp cho mọi ngƣời dân đều có thể trở
thành những “phóng viên hiện trƣờng” ghi nhận lại các sự việc bất cập xảy ra
trong xã hội. Tuy nhiên, nếu có tiếng nói của báo chí chính thống thì thông tin
sẽ có sức nặng hơn. Truyền hình với đặc thù của thể loại sẽ không thể đƣa
ngay một clip nhƣ trên lên song, báo in và báo phát thanh lại càng bị hạn chế,
48
còn với báo mạng điện tử, đó chính là lợi thế. Truyền thông đa phƣơng tiện
giúp báo mạng điện tử có thể đăng tải ngay lập tức thông tin tiêu cực trên,
kèm với clip minh họa để tăng độ sát thực. Tính lan tỏa cũng cao hơn do
ngƣời do sự hỗ trợ của các trang tin, mạng xã hội.
Tháng 08/2013, loạt bài “Vụ nhân bản phiếu xét nghiệm ở bệnh viện
Hoài Đức, Hà Nội” đƣợc đăng tải trên báo điện tử Laodong.com.vn. Sau khi
nhận đơn tố cáo của một nữ y sĩ, nhóm phóng viên báo Lao Động đã vào cuộc
xác minh, phanh phui thủ đoạn “nhân bản” khoảng 1.000 phiếu xét nghiệm để
chiếm đoạt trái phép tiền bảo hiểm y tế tại bệnh viện Hoài Đức. Kết quả của
loạt bài là những bệnh nhân của bệnh viện Hoài Đức đƣợc nhận những kết
quả xét nghiệm chính xác hơn, những kẻ phạm pháp phải ra toà lãnh án, quỹ
bảo hiểm y tế thu hồi đƣợc khoản trục lợi và những ngƣời dũng cảm đứng lên
tố cáo tình trạng tiêu cực đƣợc vinh danh.
+ Yêu nghề, lăn lộn trong thực tiễn
Một phần là do đặc thù của một trong những loại hình báo chí nhanh
gọn nhất khi tác nghiệp, nên có thể nói những ngƣời làm báo mạng điện tử
luôn là những ngƣời “đi đầu” trong việc tiếp cận thông tin, xử lý tình huống
tại hiện trƣờng cũng nhƣ truyền tải thông điệp tới độc giả một cách nhanh
nhất. Một sự việc chấn động dƣ luận cả nƣớc trong những tháng cuối năm
2013 chính là việc bạo hành trẻ em dã man của hai bảo mẫu tại Bình Dƣơng
đƣợc đƣa ra ánh sáng. Ban đầu, sự việc đƣợc phát hiện bởi một ngƣời thợ hồ,
nhƣng sau khi anh cung cấp clip bằng chứng cho Ủy ban Nhân dân phƣờng,
vì sợ bị trả thù, nên đã chuyển thông tin cho một cơ quan báo chí uy tín, đó
chính là báo Tuổi trẻ. Ngay sau khi nhận đƣợc nguồn tin, hai phóng viên của
báo Tuổi trẻ đã lập tức đƣợc cử đến hiện trƣờng, phối hợp cùng ngƣời cung
cấp nguồn tin tìm cách tiếp cận nhà trẻ và đặt máy quay. Sau đó, nhƣ mọi
49
ngƣời đã biết, clip “Bảo mẫu hành hạ trẻ dã man” đƣợc đăng tải trên báo
Tuoitre.vn vào ngày 07/12/2013 (http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-
hoi/20131217/xem-video-clip-day-doa-tre-mam-non/585764.html) đã nhƣ
một “quả bom” thông tin khiến dƣ luận cả nƣớc sục sôi, còn hai bảo mẫu đó
đã phải chịu trách nhiệm trƣớc pháp luật. Đánh giá về clip bảo mẫu hành hạ
trẻ, đại diện báo Tuổi trẻ cho rằng, đây là một clip điều tra đƣợc đánh giá cao.
Clip này là 1 trong những clip gây tiếng vang nhất và điều tra thành công
nhất. Từ trƣớc tới nay, báo Tuổi trẻ đã làm nhiều clip tƣơng tự nhƣ xăng rởm,
thực phẩm thối…
Đƣợc biết, trong quá trình trình tác nghiệp cho clip, phóng viên có tiếp
cận một số phụ huynh từ trƣớc đó để tìm hiểu thông tin nhƣng đến khi quay
thì chỉ có 2 phóng viên và ngƣời cung cấp nguồn tin tham gia.
Đây là là một trong rất nhiều các tấm gƣơng nhà báo lăn xả vào thực
tiễn và tâm huyết với nghề để có thể truyền đạt đƣợc những thông tin nhanh
nhất, chính xác nhất của muôn mặt đời sống xã hội đến với độc giả.
Sự lăn xả có đƣợc, cũng một phần do sợi dây liên kết với đồng nghiệp
và công chúng đƣợc kết nối chặt chẽ. Công chúng vừa là nguồn tin, vừa là đối
tƣợng khai thác, vừa là điểm tựa để phóng viên có thể an tâm tác nghiệp nơi
hiện trƣờng. Còn đồng nghiệp chính là đồng chí, là cộng sự, tƣơng tác với
nhau, hỗ trợ nhau khi tác nghiệp, nhƣng cũng là động lực giúp nhau mạnh mẽ
hơn trong cuộc đua thông tin, đặc biệt là thông tin trên báo mạng điện tử.
1.5.2. Tiêu cực
Báo mạng điện tử có tốc độ phát triển chóng mặt, kéo theo nhiều hệ lụy
đáng tiếc. Để câu view, nhiều nhà báo đã có biểu hiện vi phạm đạo đức báo
chí.
50
Các tờ báo chạy theo các đề tài giật gân câu khách nhƣ “cƣớp, giết,
hiếp” để thu hút độc giả. Nhằm tăng lƣợt ngƣời xem, các tờ báo sẵn sàng viết
về những đề tài kích động báo lực, hứng thú tình dục, tuyên truyền tƣ tƣởng
đồi trụy hoặc mê tín dị đoan một cách không chính xác.
Sau loạt bài về vụ bác sĩ thẩm mỹ viện Cát Tƣờng ở Hà Nội giết và
ném xác bệnh nhân xuống sống Hồng gây chú ý công luận, tin tức cập nhật về
các vụ thảm án giết ngƣời hàng loạt ở Bình Dƣơng, Nghệ An lần lƣợt xuất
hiện trên mặt các tờ báo trong nƣớc, với đầy đủ tình tiết và hình ảnh về hành
vi gây án đẫm máu giúp thu hút đông đảo số lƣợt ngƣời xem cho các trang
báo. Bộ Thông tin Truyền thông nói kiểu thông tin này “gây hoang mang dƣ
luận và cản trở quá trình điều tra, gây hiệu ứng xấu cho xã hội”.
Những bài báo viết về tệ nạn mại dâm hoặc những vụ hiếp dâm, xâm
hại tình dục đƣợc miêu tả tỉ mỉ chi tiết, sống động nhƣ thật khiến độc giả
hoang mang không biết đang đọc báo hay đọc truyện khiêu dâm rẻ tiền. Tin
tức về một ngôi sao lộ quần chip, ăn mặc hở hang, hoặc bồ bịch đánh ghen
luôn nằm trong trang nhất của nhiều tờ báo điện tử. Đời tƣ của ngƣời nổi
tiếng luôn đƣợc “tập trung khai thác tối đa” để khơi gợi sự tò mò vô bổ ở
ngƣời đọc.
Có những tờ báo còn làm h n những chuỗi phóng sự dài kì về những
ngôi làng ma ám, những vụ đầu thai hoặc tử vong hàng loạt do động đến long
mạch… Những bài báo này không có cơ sở khoa học, nhiều tình tiết hoang
đƣờng, gây sợ hãi hoang mang dƣ luận.
Do sức ép phải có tin bài nhanh, nhiều tờ báo mạng điện tử đã đƣa
những thông tin sai sự thật, thiếu chính xác. Chỉ cần một tin đồn thất thiệt, vu
vơ trên mạng xã hội, báo mạng điện tử đã vội đăng lại mà bỏ qua bƣớc xác
minh, kiểm chứng… Ngày 29/9 vừa qua, trên một số trang thông tin và báo
mạng đã xuất hiện nội dung về vụ việc Thẩm mỹ viện Kangnam lừa đảo
51
khách hàng, quảng cáo sai sự thật”. Thông tin này sau đó nhanh chóng đƣợc
lan truyền trên khắp các diễn đàn, mạng xã hội.
Nhận thấy sự bất thƣờng trong các hoạt động truyền thông, quảng cáo
này, cơ quan chức năng đã tập trung điều tra, xác minh làm rõ vụ việc. Bằng
các biện pháp nghiệp vụ, ngày 06/10, cơ quan điều tra đã làm rõ các đối tƣợng
lan truyền thông tin sai lệch trên lên mạng internet là một nhóm đối tƣợng –
Tự xƣng là một công ty truyền thông. Sau khi nhận đƣợc đơn đặt hàng của
một đơn vị- Là đối thủ cạnh tranh của TMV Kangnam, nhóm này đã sử dụng
những hiểu biết, lợi thế về các phƣơng tiện truyền thông để tung ra những tin
đồn thất thiệt, sai lệch, nói xấu nhằm hạ uy tín của đơn vị này.
Trong cuộc chạy đua tin tức, nếu không có sự cảnh giác cao độ và
nghiệp vụ vững vàng, các tờ báo mạng điện tử có thể bị dắt mũi, lợi dụng bởi
những đối tƣợng xấu có am hiểu rõ về cách thức hoạt động của truyền thông.
Đặc biệt, một số tờ báo mạng đƣa tin sai sự thật, thiếu chính xác sau đó
bị phát hiện đã “lặng lẽ” xóa bài hoặc thay tít mà không đƣa ra lời đính chính
và xin lỗi với độc giả. Nếu nhƣ báo in khi gặp sự cố tƣơng tự, bắt buộc phải
đăng tin đính chính ở một góc nổi bật của tờ báo thì báo mạng điện tử với lợi
thế gỡ bài, chỉnh sửa nhanh chóng, đã bỏ qua bƣớc này. Cách chơi không đẹp
này của các tờ báo mạng điện tử dễ khiến công chúng hiểu sai, tin sai và cái
sai đó duy trì mãi vì không đƣợc thông báo lại.
Một “vấn nạn” nữa của báo mạng là tệ “đạo bài” “xào bài”. Chỉ với
thao tác “copy” và “paste” đơn giản, một phóng viên salon có thể ngồi nhà
cƣớp trắng trợn công sức của một phóng viên chân chính khác. Trò đạo bài,
xào tin đôi khi còn thô thiển, trơ trẽn đến mức…ch ng giống ai. Vì không có
chuyên môn hoặc vô trách nhiệm, những nhà báo salon này đã ăn cắp bài còn
gọt đầu, gọt đuôi, thêm thắt vô cớ để “giả tạo” bài báo đó là đứa con tinh thần
của mình. Nhiều trƣờng hợp các đoạn video, các hình ảnh đã đƣợc đóng dấu
52
logo kh ng định bản quyền, còn bị xóa rồi đóng dấu logo khác. Thậm chí một
số trang còn đóng dấu logo đè lên logo của tờ báo giữ bản quyền thông tin,
hình ảnh đó. Lại có nhiều trƣờng hợp, đội ngũ xào xáo viên này loại bỏ những
chi tiết mang tính tích cực của sự việc, rồi phịa ra nhiều tình tiết ly kỳ, theo
kiểu “vẽ rắn thêm chân”, cốt sao tạo ra những tít bài, những dòng giới thiệu
thật câu khách để thu hút lƣợng đọc, và đích cuối cùng là làm ra lợi nhuận từ
quảng cáo…
Đáng lên án nhất là những nhà báo đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của
mình để phục vụ cho mục đích cá nhân. Đơn giản nhất nhƣ việc vi phạm luật
giao thông, các nhà báo thƣờng chìa thẻ của mình ra để xin xỏ, lách luật.
Nhiều nhà báo kiếm cớ “xin vặt” các cơ sở, hoặc đe dọa để chạy một vài
quảng cáo. Một số nhà báo sẵn sàng nhận tiền, tài trợ từ những hot girl, hot
boy để viết bài lăng xê tên tuổi, quảng bá hình ảnh. Một số nhà báo “chơi
thân” với các doanh nghiệp, viết những bài pr, quảng cáo trá hình. Độc giả vì
tin tƣởng ngòi bút công tâm của nhà báo nên đã sử dụng những sản phẩm chất
lƣợng không xứng đáng với giá thành bỏ ra.
Cần phân biệt rõ hai cụm từ “kinh tế báo chí” và “viết bài vì mục đích
thƣơng mại”. Kinh tế báo chí là một khái niệm đƣợc dùng để chỉ khả năng
hạch toán thu chi, làm ra lợi nhuận của một tờ báo. Ở đây, báo chí đƣợc coi
nhƣ một lĩnh vực kinh doanh. Báo chí có thể làm ra lợi nhuận bằng cách bán
báo, bán quảng cáo, tổ chức sự kiện, cuộc thi...vv. Điều này không vi phạm
đến tôn chỉ mục đích của tờ báo và cũng không vi phạm đạo đức báo chí.
Viết bài vì mục đích thƣơng mại đƣợc hiểu là nhà báo đặt mục đích lợi
nhuận lên hàng đầu. Nhà báo sẵn sàng vi phạm pháp luật, vi phạm đạo
đức…để bẻ cong ngòi bút viết những bài báo không đúng sự thật, miễn đem
lại lợi ích kinh tế cho nhà báo. Những vấn đề trên sẽ đƣợc luận văn tập trung
làm rõ ở chƣơng 2.
53
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1
Những vấn đề cơ bản về lý luận nhƣ vấn đề đạo đức, đạo đức nghề
nghiệp, đạo đức báo chí, sơ lƣợc lịch sử của báo mạng điện tử thế giới và Việt
Nam… đã đƣợc trình bày trong chƣơng 1. Trên cơ sở nghiên cứu, tác giả luận
văn rút ra một số tiểu kết nhƣ sau:
- Đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc đƣợc xã hội thừa nhận,
quy định hành vi của con ngƣời đối với nhau và đối với xã hội. Đạo đức nghề
nghiệp là một bộ phận của đạo đức, là tổng hợp của các quy tắc, các nguyên
tắc chuẩn mực của 1 lĩnh vực nghề nghiệp trong đời sống.
- Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo là những quy tắc, chuẩn mực quy
định thái độ và hành vi ứng xử của nhà báo trong các mối quan hệ nghề
nghiệp và yếu tố vô cùng quan trọng đối với quá trình tác nghiệp của nhà báo.
- Đạo đức và pháp luật có mối quan hệ mật thiết, qua lại ảnh hƣởng
đến nhau. Đạo đức tác động đến việc hình thành các quy định trong hệ thống
pháp luật cũng nhƣ việc thực hiện pháp luật của các chủ thể. Pháp luật ghi
nhận, củng cố, bảo vệ những quan điểm, quan niệm, tƣ tƣởng, chuẩn mực đạo
đức của giai cấp thống trị, những giá trị đạo đức truyền thống.
- Đa số các vi phạm pháp luật đều có liên quan đến vi phạm đạo đức.
Tuy vậy không phải bất kì một trƣờng hợp vi phạm đạo đức nào cũng là vi
phạm pháp luật và không phải bất kì một vi phạm pháp luật nào cũng là vi
phạm đạo đức.
- Internet và sự ra đời của báo mạng điện tử đã làm nên một cuộc
cách mạng đối với hoạt động báo chí. Mặc dù mới xuất hiện chƣa đƣợc 20
năm, nhƣng báo mạng điện tử Việt Nam đã có những bƣớc phát triển vƣợt bậc
để bắt kịp thế giới.
54
- Những nội dung và yêu cầu đạo đức nghề nghiệp của ngƣời làm
báo Việt Nam đƣợc xác lập trên cơ sở thống nhất với báo chí thế giới và các
đặc thù riêng của văn hóa Việt Nam.
Nội dung của chƣơng 1 sẽ là nền tảng cho việc tiến hành khảo sát và
phân tích thực trạng vấn đề vi phạm đạo đức nhà báo trên báo mạng điện tử
Việt Nam hiện nay trong chƣơng 2. Đồng thời, cùng với thực trạng của vấn đề
đƣợc khảo sát trong chƣơng 2, đây sẽ là cơ sở để tác giả tìm ra nguyên nhân
và đƣa ra các giải pháp phù hợp nhằm khắc phục tình trạng vi phạm đạo đức
của nhà báo trên báo mạng điện tử thời gian tới đây.
55
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ VI PHẠM ĐẠO ĐỨC NHÀ BÁO
TRÊN BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ HIỆN NAY
2.1 Những biểu hiện vi phạm ạo ức nghề nghiệp của nhà báo
trên báo mạng iện tử hiện nay
Hoạt động báo chí là một hoạt động truyền thông đại chúng. Sản phẩm,
tác phẩm báo chí đƣợc tạo ra là để chuyển tải tới công chúng những thông tin
thời sự về các sự kiện, vấn đề, sự vật, hiện tƣợng, con ngƣời xảy ra hàng
ngày, hàng giờ trong đời sống xã hội. Đích hƣớng đến của một tác phẩm báo
chí là đem lại giá trị thông tin cho công chúng xã hội, do đó, đảm bảo tính
thông tin là chức năng quan trọng đầu tiên của một tác phẩm báo chí. Để đạt
đƣợc hiệu quả thông tin, một tác phẩm báo chí phải đạt các tiêu chí nhƣ: mới,
thời sự, cập nhật; chân thực, khách quan; có ý nghĩa xã hội, mang lại giá trị
giáo dục và nhân văn… Ngoài ra, tác phẩm báo chí còn phải đảm nhiệm các
chức năng xã hội khác nhƣ: định hƣớng dƣ luận xã hội; giám sát, quản lý và
phản biện xã hội; giáo dục và giải trí.
Các nhà báo chuyên nghiệp đều phải tuân thủ các bƣớc tiến hành cơ
bản trong quy trình sáng tạo một tác phẩm báo chí là: Nghiên cứu, thâm nhập
thực tiễn, phát hiện đề tài; Thu thập thông tin, dữ liệu; Thể hiện tác phẩm; Tự
biên tập tác phẩm; Tổ chức tác phẩm trên sản phẩm báo chí, phát tán thông
tin; Theo dõi, nắm bắt và xử lý thông tin phản hồi.
Khi sáng tạo tác phẩm báo chí, những yêu cầu về năng lực chuyên môn
của nhà báo luôn phải gắn với những chuẩn mực về đạo đức nghề nghiệp.
Điều này đƣợc thể hiện trong từng bƣớc tiến hành sáng tạo một tác phẩm báo
chí. Có nhƣ vậy, tác phẩm báo chí mới đem lại những giá trị đích thực cho
công chúng xã hội. Tuy nhiên, trong thực tế hoạt động báo chí hiện nay,
56
không phải lúc nào các nhà báo cũng thực hiện tốt đƣợc những yêu cầu này,
do đó đã làm ảnh hƣởng đến giá trị thông tin của các tác phẩm báo chí và lớn
hơn là làm mất niềm tin của công chúng đối với báo chí. Nguyên nhân chính
của vấn đề này, đó chính là sự vi phạm đạo đức nghề nghiệp của nhà báo ở
từng khâu trong quy trình sáng tạo tác phẩm báo chí.
2.1.1 Đăng tải quá nhiều các đề tài tiêu cực, thiếu tính thẩm mĩ và
giá trị nhân văn
2.1.1.1 Đề tài xã hội giật gân, câu khách
Báo chí có trách nhiệm phản ánh hiện thực xã hội. Thế nhƣng hiện thực
xã hội thì có muôn hình vạn trạng. Chọn đề tài gì, thể hiện ra sao đề vừa đáp
ứng đƣợc nhu cầu cập nhật thông tin của độc giả, vừa hấp dẫn, sáng tạo để
cạnh tranh với các báo đã khiến cho các trang báo mạng bị cuốn vào một
vòng xoáy mang tên “câu view”. (câu lƣợt xem). Lƣợt xem đƣợc tính bằng
một lần nhấp chuột vào để toàn bộ nội dung bài báo đƣợc hiển thị. Muốn làm
đƣợc nhƣ thế thì cần phải có một cách khai thác, cũng nhƣ một cái tít bài thật
“giật gân”.
Chạy theo tin nóng là yêu cầu thiết yếu để báo chí, nhất là báo mạng
tồn tại. Vì thế, cần làm rõ ranh giới giữa giật gân, câu khách với không giật
gân, không câu khách. Chƣa bao giờ mở báo mạng ra, ngƣời đọc lại thấy tràn
lan các thông tin về đánh ghen, tự sát, giết ngƣời, cƣớp của... đến thế. Cùng là
một tin tức đó, nếu chỉ là đƣa tin, phản ánh để ngƣời dân biết và phòng tránh
thì đó đúng là nhiệm vụ của báo chí. Nhƣng sai phạm lại ở chỗ, ngƣời làm
báo muốn “câu view” nên đã đặt những cái tít đầy giật gân, và đi sâu khai
thác những khía cạnh khác của câu chuyện. Điều đó không chỉ ảnh hƣởng đến
đối tƣợng của bài viết mà còn là một hành vi vi phạm đạo đức báo chí, nhƣng
lại càng ngày càng nhiều báo mắc phải.
57
Một sự việc xảy ra vào sáng 03/12/2013, tại Quận Phú Nhuận, Thành
phố Hồ Chí Minh, đó là vụ án Hà Xuân Hòa (30 tuổi, ngụ tỉnh Thừa Thiên -
Huế) đã dùng dao sát hại chị Hoàng Hƣơng Nhi (24 tuổi, cùng quê), sau đó tự
tử. Tuy nhiên, để thông tin về việc này, một loạt các báo điện tử đã đƣa tin
nhƣ sau:
- Tuổi Trẻ Online : “ iết bạn gái rồi tự sát”
(http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/20131203/giet-ban-gai-roi-tu-
sat/583382.html)
- Thanh Niên Online: “Vụ giết bạn gái rồi rạch bụng tự sát: Cả khu
phố bàng hoàng”
(http://www.thanhnien.com.vn/pages/20131203/giet-ban-gai-roi-rach-bung-
tu-sat.aspx)
- Ngƣời Lao Động Online: “TP HCM: C t cổ người tình rồi tự sát”
(http://nld.com.vn/phap-luat/tp-hcm-cat-co-nguoi-tinh-roi-tu-sat-
20131203112541598.htm)
- Công an Nhân dân Online: “TP HCM: hen tuông giết người yêu
rồi tự sát”
(http://www.cand.com.vn/vi-VN/xahoi/2013/12/216581.cand).
- Vietnamnet: “Nghi án bị phụ tình, giết người yêu rồi tự sát ?”
(http://vietnamnet.vn/vn/xa-hoi/152016/nghi-an-bi-phu-tinh--giet-nguoi-yeu-
roi-tu-sat-.html)
- VnExpress : “Cả khu phố náo loạn vì nghi án giết người yêu rồi
tự tử” (http://vnexpress.net/tin-tuc/phap-luat/ca-khu-pho-nao-loan-vi-nghi-an-
giet-nguoi-yeu-roi-tu-tu-2918410.html)
58
- Báo Đất Việt: “ iết bạn gái rồi tự sát qua lời kể nhân chứng”
(http://m.baodatviet.vn/video/giet-ban-gai-roi-tu-sat-qua-loi-ke-nhan-chung-
2361290/)
- Lao Động Online: “ hen tuông, nam thanh niên đâm chết người
yêu rồi tự sát” (http://laodong.com.vn/xa-hoi/ghen-tuong-nam-thanh-nien-
dam-chet-nguoi-yeu-roi-tu-sat-162268.bld))
- Petro Times: “Lời sau cùng đẫm nước m t của sát thủ giết người
yêu rồi tự sát” (http://petrotimes.vn/news/vn/phap-luat/loi-sau-cung-dam-
nuoc-mat-cua-sat-thu-giet-nguoi-yeu-roi-viet-facebook.html)
Chỉ một sự việc mang tính cá nhân, sự việc đã xảy ra và hung thủ đã bị
bắt, vậy có lý do gì để báo chí phải đƣa tin hàng loạt nhƣ trên? Chƣa kể cách
giật tít đều có các “từ khóa” gây chú ý dƣ luận nhƣ “ghen tuông”, “tự sát”,
“cắt cổ”, “ngƣời yêu cũ”, “nghi án” …Và rất nhiều tờ báo, trang mạng dẫn lại
thông tin từ các báo này. Nhiều báo dùng những từ "bạn gái", "ngƣời yêu",
"ngƣời tình", "quan hệ tình cảm", thậm chí là "từng chung sống nhƣ vợ
chồng" để chỉ mối quan hệ giữa hung thủ và chị Hoàng Hƣơng Nhi. Các báo
chỉ ghi nhận lại ý kiến của hàng xóm nhƣng không có ý kiến của gia đình nạn
nhân. Và vấn đề không chỉ nằm ở nội dung giật gân câu khách (mà nhiều
ngƣời dùng từ nặng hơn là “rẻ tiền”) mà những thông tin đó còn sai sự thật.
Qua xác minh, chị Hoàng Thị Hoàng Kim - em gái nạn nhân- kh ng định:
"Hai ngƣời chƣa từng có một mối quan hệ thân thiết nào".
Không chỉ câu khách bởi những cái tít đầy giật gân, có nhiều báo còn
miêu tả một cách chi tiết, rùng rợn về vụ án nhƣ: "người dân thấy thi thể một
cô gái nằm gục trên vũng máu, đầu vẫn đội mũ bảo hiểm, mặt đeo khẩu trang.
Cách đó không xa là một người thanh niên đang ôm vết thương ở vùng bụng,
cạnh đó là con dao lưỡi sáng dài gần 30cm.", "Sau khi tự đâm vào bụng, nam
59
thanh niên cố bò đến ôm lấy thi thể cô gái còn đội nón bảo hiểm và bịt khẩu
trang nằm bất động trong vũng máu."...
Em gái nạn nhân sau đó đã phải lên trang cá nhân của mình đính chính
tất cả các thông tin về mối quan hệ của chị gái mình với hung thủ, và cảnh
tỉnh đạo đức nghề nghiệp của các nhà báo với những câu chữ đầy tha thiết,
xót xa: “Xin các nhà báo khi chưa biết thông tin chính xác thì không nên trục
lợi một cách vô liêm sỉ trên sự đau thương và mất mát của người khác.
Gia đình của chúng tôi cũng không muốn đây là chủ đề bàn tán của nhiều
người. Hy vọng mọi người thay vào đó hãy cầu nguyện cho chị siêu thoát.
Và chị của em ơi. Chị hãy ra đi thanh thản, đừng bận tâm với những điều sai
trái mà người ta nói về chị. Cả nhà yêu chị nhiều lắm.”
Trong sự việc này, có thể thấy các nhà báo đã vi phạm sâu sắc đạo đức
nghề nghiệp khi đƣa một câu chuyện thƣơng tâm ra làm đề tài để “câu view”,
chƣa kể đến cách “giật tít” sai sự thật để khơi gợi trí tò mò của độc giả. Đây
chỉ là một, trong rất nhiều những ví dụ nhỏ cho thấy “cƣớp, giết, hiếp” đang
là những đề tài đƣợc báo mạng đào sâu một cách quá đà, gây ô nhiễm môi
trƣờng báo chí lành mạnh.
Còn dƣới đây là một khảo sát đƣợc công bố vào ngày 12/10/2014 của
chuyên gia nghiên cứu truyền thông Nguyễn Ngọc Long về hai cụm từ đầy
tính giật gân là “cán chết” và “tử vong” dựa vào công cụ tìm kiếm Google.
60
Hình 2.1: Biểu đồ sử dụng cụm từ “cán chết” và “tử vong”
Vấn đề mà anh Nguyễn Ngọc Long đặt ra ở đây là tại sao khi đƣa tin,
bài về các vụ tai nạn giao thông, các phóng viên báo mạng điện tử lại hay sử
dụng từ “bị cán chết” thay vì “tử vong”. Mà theo anh Long, từ “cán chết” đọc
lên có cảm giác vô cảm, đau lòng hơn từ “tử vong”. Phải chăng, vì phải là
“cán chết” nghe mới đủ “giật gân, câu khách”?
Để câu “view”, những trang mạng, chủ yếu là các web, các chuyên
trang giải trí lá cải dùng thủ thuật đẩy những nhân vật phản cảm, thậm chí dị
dạng về hành vi, về nhân cách thành "nhân vật truyền thông". Thế cho nên Bà
Tƣng, Quân Kun với những hình ảnh và phát ngôn phản cảm nhất mới đƣợc
truyền thông mạng tung hô và Lệ Rơi mới đƣợc trở thành nhân vật để "giao
lƣu trực tuyến". Hiện nay, không chỉ công chúng, mà ngay cả trong nội bộ
những ngƣời làm báo cũng đang bị nhầm lẫn rất nhiều giữa báo mạng điện tử
61
- trang tin điện tử và mạng xã hội. Thậm chí, có nhiều trang thông tin lƣợng
độc giả truy cập hàng ngày còn cao hơn rất nhiều so với các báo mạng chính
thống khác. Vì thế, các thông tin sai lệch, phản cảm đƣợc đăng tải trên đó
cũng đƣợc xem là một hiện tƣợng vi phạm đạo đức nhà báo, gây ảnh hƣởng
nghiêm trọng đến định hƣớng dƣ luận xã hội.
Năm 2013, “Bà Tƣng” trở thành “xì căng đan” nóng nhất làng giải trí
Việt Nam. Từ một cô gái bình thƣờng, tham gia làm ngƣời mẫu cho một vài
bộ ảnh hoặc minh họa cho các phim ca nhạc, bằng chiêu trò “khoe thân”,
cộng với công cụ mạng xã hội, “Bà Tƣng” bỗng nhiên đƣợc nhiều ngƣời biết
đến. Từ sự biết đến trên thế giới ảo, cô gái tên thật là Lê Thị Huyền Anh bắt
đầu đƣợc các trang điện tử săn đón và nghiễm nhiên trở thành một ngƣời nổi
tiếng bƣớc ra đời sống thực. Cô gái ấy đi đâu chơi, ăn món gì, làm việc gì
cũng “bỗng nhiên” đƣợc truyền thông săn đón.
Trên công cụ tìm kiếm Google, từ khóa “Bà Tƣng” nhận đƣợc khoảng
632.000 kết quả trong 0,20 giây. Với công cụ tìm kiếm của trang tổng hợp
tin tức Báo mới (baomoi.com), có khoảng 2610 bài viết trên các báo mạng
khác nhau.
Khảo sát trên báo News.zing.vn có tất cả 94 bài,
www.doisongphatluat.com với hơn 40 bài viết, Báo Vietnamnet.vn với 65 bài
viết liên quan; VnExpress.net với 132 tin bài, www.thanhnien.com.vn “kỷ
lục” hơn với 844 tin bài.
62
Hình 2.2. Biểu đồ đưa tin về bà Tưng
So với các đề tài chính luận, xã hội mà các báo đăng tải hàng ngày thì
những con số thống kê thực sự là một sự chênh lệch lớn. Điều này nhƣ một sự
kh ng định cho sức mạnh của truyền thông số, nhƣng cũng là một hồi chuông
cảnh tỉnh cho sự xuống dốc của đạo đức nghề nghiệp của một bộ phận ngƣời
làm báo trong giai đoạn hiện nay.
2.1.1.2 Đề tài về hôn nhân, tình dục, tình yêu, giới tính để khơi gợi trí
tò mò của độc giả
Việt Nam là một nƣớc còn đang phát triển với vô vàn khó khăn về kinh
tế nhƣng viễn thông ở Việt Nam đƣợc xếp vào hàng có tốc độ tăng trƣởng
nhanh nhất trên thế giới. Nhƣng ngƣời Việt dung Internet vào những việc gì?
Google thống kê trong năm 2005-2006, Việt Nam chƣa có tên trong top 10
các nƣớc tìm kiếm “sex” nhiều nhất thì đến năm 2007 đã vƣợt Ấn Độ và Ai
Cập để “dành ngôi quán quân”. Sự “tiến bộ đáng kinh ngạc” ở thống kê của
Google trong các năm gần đây đã đƣa Việt Nam đứng thứ 6 trong top 10 các
nƣớc có số lƣợng ngƣời truy cập tìm kiếm sex nhiều nhất thế giới trong giai
đoạn 2004 đến năm 2013.
63
Nếu xét riêng trong nƣớc thì Hà Nội là địa phƣơng có lƣợng ngƣời gõ
từ khóa “sex” vào thanh công cụ tìm kiếm của Google nhiều nhất, tiếp đến là
Tp Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Vũng Tàu…
Phải chăng vì công chúng có “nhu cầu” tìm hiểu về chữ “S” thứ ba
(trong bộ ba yếu tố giật gân Sốc – Sex- Sến) hay vì báo chí muốn lợi dụng trí
tò mò của độc giả mà đề tài về hôn nhân, tình yêu, giới tính lại trờ thành một
trong những đề tài nóng nhất trên các trang báo mạng điện tử thời gian qua.
Không khó để bắt gặp bài viết về một cô ngƣời mẫu hay ca sĩ nào đó ăn mặc
hớ hênh bị chiếm một góc không nhỏ trang chủ của các báo. Hay mục “Tình
yêu – Giới tính” hay “Tâm sự” trở thành mục “hot” có số lƣợng xem cao ngất
ngƣởng vì những bài viết về bí kíp phòng the hay chuyện giật gân về ông cụ
nào đó 80 tuổi rồi còn làm đƣợc “chuyện ấy”.
Trung tuần tháng 9/2014, có một chủ đề đƣợc các báo đua nhau khai
tháng, đó là việc một cụ ông hơn 80 tuổi vẫn có thể có con.
-“Hà Nội: C ông 82 tuổi vẫn sinh con chia sẻ bí quyết" của Pháp
luật và Đời sống (http://www.doisongphapluat.com/doi-song/suc-khoe/ha-
noi-cu-ong-82-tuoi-van-sinh-con-chia-se-bi-quyet-a51848.html);
- “Ông lão 80 lấy v kém 52 tuổi, sinh con” – 2 kỳ của Vietnam Net
(http://vietnamnet.vn/vn/doi-song/70641/ong-lao-80-lay-vo-kem-52-tuoi--
sinh-con.html); “Hạnh phúc của ông lão 80 và v kém 52 tuổi” –
Dantri.com.vn; “Ông lão 80 lấy v kém 52 tuổi, sinh con” – Nld.com.vn;
"Đại gia" Hà thành 80 và chuyện cƣới v kém 52 tuổi” – Kienthuc.net.vn;
“Ông lão 80 và cô học trò 28 tuổi phải duyên chồng v ” – News.zing.vn;
“Gái ẹp tuổi 20 yêu mê mệt ông lão 80” – Baodatviet.vn.
Nhƣng trên thực tế, việc một ông già và một cô gái trẻ yêu nhau, hay
thậm chí có con với nhau có ảnh hƣởng gì đến đời sống xã hội? Có đem lại
64
giá trị chân- thiện – mỹ? Hay có phải là thông tin mà ngƣời dân cần phải biết,
hay cần thông báo cho nhà nƣớc hay không? Câu trả lời chắc chắn là:
“Không”. Vậy vì sao, một sự việc phản cảm hoàn toàn riêng tƣ nhƣ trên, lại
đƣợc báo chí quan tâm đến thế? Câu trả lời chính là ở chỗ báo chí đã khơi gợi
vào trí tò mò của độc giả với những câu chuyện tế nhị. Nhƣng sau khi nhấp
chuột vào, mở bài báo ra, thì những thông tin họ nhận đƣợc không có một
chút giá trị nào. Mặt khác, bài báo đó vẫn đƣợc tính một lƣợt xem, và quảng
cáo trên báo lại thêm bán chạy. Công chúng ở đây bị biến thành những con rối
trong tay ngƣời làm truyền thông. Và đáng tiếc thay – lại là những ngƣời làm
báo không có lƣơng tâm, đạo đức nghề nghiệp.
Đây là ảnh chụp màn hình của chuyên trang tamguong.vn của báo Tiền
phong – một chuyên trang đƣợc “báo nhà” kh ng định là dành riêng cho đối
tƣợng học sinh sinh viên:
Hình 2.3. Giao diện chuyên trang Tấm Gương báo Tiền phong
Còn đây là trang chủ của báo Thanh niên Online ngày 12/09/2014: 65
Hình 2.4. Giao diện trang chủ báo Thanh Niên
2.1.1.3 Đào sâu các vấn đề đời tư của người nổi tiếng
Đời tƣ của ngƣời nổi tiếng vẫn luôn là đề tài chính mà các chuyên mục,
các tờ báo chuyên về lĩnh vực giải trí khai thác. Khi xã hội phát triển thì nhu
cầu thông tin càng lớn. Bởi vậy, báo chí có xu hƣớng khai thác những vấn đề
đời tƣ trong khuôn khổ pháp luật để phục vụ lợi ích xã hội là điều dễ hiểu.
Nhƣng việc phân định ranh giới cũng nhƣ cách hiểu còn khác biệt. Có những
thông tin đời tƣ đƣa ra công chúng với dụng ý tạo sự nổi tiếng nhanh chóng
cho một tên tuổi. Nhƣng có thông tin cá nhân tiết lộ trên mặt báo đã gây hậu
quả không ngờ cho cuộc sống, danh dự của ngƣời bị đƣa tin. Đó là chƣa kể
đến thông tin sai lệch hoặc bịa đặt. Hiện nay pháp luật chƣa có quy định rõ
ràng bí mật đời tƣ là gì, phạm vi của bí mật đời tƣ là nhƣ thế nào mà chỉ có
một số quy định trong Bộ luật Dân sự (Điều 38), [34, tr. 20]; Luật Giao dịch
điện tử (khoản 2 Điều 46) [34, tr. 22] quy định quyền bí mật đời tƣ của cá
nhân đƣợc tôn trọng và đƣợc pháp luật bảo vệ; việc thu thập, công bố thông
tin, tƣ liệu về đời tƣ cá nhân phải đƣợc ngƣời đó đồng ý, trừ trƣờng hợp pháp
luật có quy định khác… Cho dù quy định sơ sài nhƣ vậy nhƣng trong nhiều
trƣờng hợp, nó vẫn có tác dụng hạn chế quyền tiếp cận thông tin, đăng tải của
66
báo chí về đời tƣ cá nhân. Chƣa kể đến việc đào sâu quá mức vào vấn đề đời
tƣ của ngƣời nổi tiếng là một hoạt động báo chí phản cảm và vi phạm đạo đức
nghề nghiệp của ngƣời làm báo. Không phải vô cớ mà Ban Tuyên giáo Trung
Ƣơng mới đây đã có ý kiến về tình trạng một số tờ báo , nhà báo sa vào khuy
hƣớng moi móc chuyện vụn vặt, xoi mói đời tƣ các nhân vật nổi tiếng. Lâu
nay, chiều theo nhu cầu của độc giả, nhiều lúc, nhiều nơi, nhiều tờ báo phải
“săn” tin nóng, tin độc, chuyện riêng tƣ của ngƣời này, ngƣời kia. Trong cuộc
“săn” tin ấy, không tránh khỏi có những nhà báo bị chính “con mồi” giật giây,
tung tin giật gân về cá nhân mình để “thổi” hoặc “đánh bóng” tên tuổi. Nhƣng
cũng không tránh khỏi có những cây bút quá đà, không kịp dừng lại khi
“chạm ngƣỡng”. Đồng chí Nguyễn Bắc Son- Ủy viên Trung Ƣơng Đảng, Bộ
trƣởng Bộ Thông tin và Truyền thông đã phát biểu rằng: “ Không ít tờ báo sa
vào khuy hƣớng “ thƣơng mại hóa”, chạy theo thị hiếu tầm thƣờng, thấp kém
của một bộ phận công chúng, nặng thông tin những mặt tiêu cực, yếu kém,
khuyết điểm, nhẹ biểu dƣơng ngƣời tốt, việc tốt, những nhân tố mới, điển
hình tiên tiến…Một số tờ báo, nhà báo sa vào khuynh hƣớng moi móc chuyện
vụn vặt, chuyện tầm phào vô bổ, xoi mói đời tƣ các nhân vật nổi tiếng…”
(Trích ý kiến tại hội thảo “Báo điện tử, trang thông tin điện tử và game
online- định hƣớng phát triển và quản lý- ngày 12/6/2010) [37, tr. 3]. Với báo
mạng điện tử, hiện tƣợng này càng trở nên phổ biến hơn.
Báo Gia đình Việt Nam Online (http://www.giadinhvn.vn) , ngày
20/08/2014 có bài viết: “Lý giải: Vì sao Hà Tăng chưa có con”. Ngay từ cái
tiêu đề của bài viết đã cho thấy đề tài của nó quá đi sâu vào vấn đề đời tƣ của
nữ ca sĩ/diễn viên Tăng Thanh Hà. Đây là một bài viết điển hình cho việc
“nhà báo” không những non kém về nghiệp vụ mà hiểu biết về đạo đức nghề
nghiệp cũng không có.
67
Nhiều nghệ sĩ nổi tiếng, sẵn sàng chia sẻ mọi thông tin cũng nhƣ lên
tiếng về quan điểm của mình với báo giới nhƣng với các thông tin về gia đình
thì yêu cầu đƣợc giữ kín. Theo quan niệm của họ, gia đình là điều riêng tƣ của
mỗi ngƣời. Họ - là ngƣời nổi tiếng – cuộc sống cá nhân của họ là của dƣ luận
– nhƣng không đồng nghĩa với việc vợ/chồng và con cái của họ cũng là ngƣời
của công chúng. Thế nhƣng, càng giấu kín thì truyền thông càng trở nên “đói
khát” thông tin.
Mơi đây nhất, khi cô “hot girl” mang nghệ danh Elly Trần công khai
chuyện mình có con gái với bạn trai ngƣời nƣớc ngoài, rất nhiều báo chí đua
nhau đƣa tin tức này lên trang chủ. Làm sao có thể bỏ qua những trang mạng
đƣợc mệnh danh là “lá cải” nhƣ Ngoisao.net (Chuyên mục văn hóa giải trí của
VnExpress), thậm chí cả báo Lao động Online (laodong.com.vn) hay Vtc.vn
cũng không bỏ lỡ cơ hội “đào sâu” vào câu chuyện của cô “hot girl” gần 30
tuổi này. Tuy nhiên, đào sâu đến mức độ có thể coi đây là hành vi vi phạm
đạo đức báo chí, gần giống với bài viết về chuyện “vì sao Tăng Thanh Hà
chƣa có con” đó là bài viết “Elly Trần và sự khó nói khi chăm con”
(http://baodatviet.vn/van-hoa/showbiz-viet/elly-tran-co-du-sua-cho-con-
3105394/)
Chuyện đào sâu vào đời tƣ của ngƣời nổi tiếng không chỉ nói lên sự
thiếu văn hóa trong nghề nghiệp của nhà báo, mà đôi khi, nó còn là sự vô
lƣơng tâm, vô đạo đức khi lấy những chuyện đời tƣ đau lòng của ngƣời khác
ra để “câu view”. Báo điện tử PetroTimes – petrotimes.vn ngày 19/08/2014 có
bài viết “Những người đẹp bán dâm giờ ra sao”
(http://petrotimes.vn/news/vn/van-hoa-giai-tri-the-thao/giai-tri/nhung-nguoi-
dep-ban-dam-gio-ra-sao.html).
68
Bài viết do phóng viên Linh Nhi tổng hợp lại một danh sách các hoa
hậu, ngƣời mẫu của Việt Nam từng dính vào các vụ án bán dâm, bị truy tố, và
đào sâu vào đời tƣ của họ sau khi quay lại cuộc sống đời thƣờng. Bài viết thực
sự đã gây bất bình trong cộng đồng, bởi sự rẻ tiền và vô đạo đức của cả ngƣời
viết và cơ quan chủ quản. Trên báo Lao động Online (laodong.com.vn), mục
“Sự kiện bình luận”, độc giả Đào Tuấn đã lên án: “Họ làm gì thì làm, ra sao
thì ra, miễn mong cho thời gian qua mau để chữa lành vết thương tâm hồn.
Và có lẽ, những người đẹp ấy hôm qua sẽ đau đớn tủi nhục lắm khi sau bao
nhiêu năm lại phải nhìn lại hình ảnh của chính mình, trong những bài báo
viết không biết để làm gì với cái tựa đề “Những người đẹp bán dâm giờ ra
sao?”. Đúng là muốn giết người chẳng cần phải cầm đến súng đạn. Rất khó
để nói chính xác câu hỏi ấy đặt ra để làm gì, trừ phi làm nhục người khác
cũng được coi là một mục đích, trừ phi làm thỏa mãn trí tò mò của số đông
một cách bất chấp cũng được coi là một trong những nhiệm vụ của báo
chí.”…
(Chuyện về chuyện những người đẹp bán dâm giờ sống ra sao-
http://laodong.com.vn/su-kien-binh-luan/chuyen-ve-chuyen-nhung-nguoi-
dep-ban-dam-gio-song-ra-sao-236392.bld).
2.1.2 Đưa tin sai sự thật, thiếu chính xác.
Đầu tháng 8.2014, các trang tin, diễn đàn và mạng xã hội rộ lên chia sẻ
bài viết mang tựa đề: “Bài văn của trẻ khiến giáo viên và phụ huynh ngã
ngửa” và “Thư gửi bố ngoài đảo: Con và mẹ yêu chú CA phường”. Đơn vị
truyền thông đầu tiên chính thức đăng tải là Trang thông tin điện tử tổng hợp
của Trung tâm Báo chí và Hợp tác truyền thông Quốc tế (vietbao.vn). Nội
dung bài viết đăng tải một bức ảnh chụp lại một tờ giấy đƣợc viết tay, hình
thức trình bày giống nhƣ một bài kiểm tra môn văn của học sinh, nội dung là
69
một lá thƣ gửi bố đang công tác ngoài đảo xa của một ngƣời con – theo nội
dung yêu cầu của đề bài là “viết một bức thƣ gửi ngƣời thân”. Sẽ không có gì
đáng nói nếu đây là một bài văn, một bức thƣ thông thƣờng. Tuy nhiên, nội
dung bức thƣ lại có nội dung xuyên tạc, bịa đặt, phản cảm, vô giáo dục.
Theo báo Tuổi trẻ: “Ngay sau khi bài tập làm văn này xuất hiện trên
mạng, không hiểu từ đâu đã lan truyền tin đồn cho rằng tác giả bài tập làm
văn là một học sinh Trƣờng tiểu học Kim Đồng ở TP Quy Nhơn. Trong đó,
báo Tuổi trẻ đã phỏng vấn hiệu trƣởng nhà trƣờng và đƣợc kh ng định rằng
“không có học sinh nào của trƣờng có tên Lê Yến Vy nhƣ trong bài tập làm
văn ghi, và điều khôi hài nhất là cuối bài văn ghi “Quy Nhơn, 28-7-2014. Đây
là thời điểm học sinh cả trƣờng đều đang nghỉ hè”.
Đáng nói hơn nữa là từ một thông tin không đƣợc kiểm chứng rất nhiều
tờ báo chính thống đã đăng lại, gây bất bình và phẫn nộ cho ngƣời đọc. Tạp
chí Doanh nghiệp và Trang trại Việt Nam (http://thoiviet.com.vn/) đăng bài
“Choáng: Bố đừng lo, con và mẹ yêu chú Công an phường”
Cùng ngày, báo Tiền Phong đăng bài viết “Thƣ gửi bố: Chú CA phƣờng ngày
nào cũng đến ăn cơm” trên chuyên trang Tấm gƣơng. Đến ngày 8-8, báo điện
tử Kienthuc.net.vn đăng bài viết “Xôn xao con gái gửi thư cho bố công tác
xa”.
Cùng thời điểm này, nhiều trang thông tin điện tử, mạng xã hội đã lấy
lại hoặc biên tập lá thƣ này để đăng tải. Đây là những bài báo thông tin sai sự
thật, thiếu kiểm chứng, gây ảnh hƣởng xấu đến dƣ luận xã hội và lực lƣợng
Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, ảnh hƣởng không tốt đến chính sách
hậu phƣơng quân đội của Đảng và Nhà nƣớc.
Đây đƣợc xem nhƣ một hiện tƣợng về vi phạm đạo đức nhà báo trên
báo mạng điện tử tại thời điểm này. Sau đó qua công tác rà soát của mình,
70
Cục Phát thanh - truyền hình và thông tin điện tử Bộ Thông tin và Truyền
thông đã phát hiện những bài báo này có nội dung vi phạm quy định về hoạt
động báo chí xuất bản. Ngay sau đó, cục đã báo cáo sự việc lên lãnh đạo Bộ
Thông tin và Truyền thông để xử lý và có yêu cầu các tờ báo xử lý những
thông tin này.
Lãnh đạo Bộ Thông tin và Truyền thông đã giao cho thanh tra Bộ, Cục
Phát thanh - truyền hình và thông tin điện tử, Cục Báo chí làm việc về những
nội dung này. Sau khi xem xét, các cơ quan nghiệp vụ của bộ xác định có vi
phạm nên đã yêu cầu các tờ báo giải trình. Các cơ quan báo chí bao gồm tạp
chí Doanh nghiệp và Trang trại Việt Nam (thoiviet.com.vn); Trung tâm Báo
chí và Hợp tác truyền thông Quốc tế (trang tin tổng hợp vietbao.vn), bị phạt
hành chính 20 triệu đồng; báo điện tử Đất Việt, báo điện tử Kiến Thức, báo
Tiền Phong đều bị phạt hành chính 60 triệu đồng vì đã thực hiện hành vi vi
phạm thông tin sai sự thật gây ảnh hƣởng rất nghiêm trọng quy định tại điểm
a, khoản 5 điều 8 Nghị định số 159/2013/NĐ-CP ngày 12-11-2013 của Chính
phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, xuất bản.
71
Hình 2.5. Ảnh chụp giao diện kết quả tìm kiếm google về lá thư gửi bố nơi
đảo xa
Một hiện tƣợng đƣa tin sai sự thật, thiếu chính xác khác, là sự kiện bài
viết “ ái miền Tây và 3 chữ “N” nổi danh thiên hạ” đăng ngày 12/8/2014
trên Báo điện tử Trí Thức Trẻ.
Ngày 12/8/2014, Báo điện tử Trí Thức Trẻ đăng bài viết “ ái miền
Tây và 3 chữ “N” nổi danh thiên hạ” trong mục Gia đình; nội dung bài viết
vi phạm nghiêm trọng các quy định của pháp luật về báo chí, gây bức xúc
trong dƣ luận.
Trƣớc sự việc nêu trên, chiều ngày 14/8/2014, Thứ trƣởng Bộ Thông
tin và Truyền thông Trƣơng Minh Tuấn đã triệu tập cuộc họp khẩn với một số
đơn vị thuộc Bộ để chỉ đạo xử lý. Tại cuộc họp Thứ trƣởng đã giao Thanh tra
Bộ chủ trì, phối hợp với Cục Báo chí, Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông
tin điện tử khẩn trƣơng xem xét, xử lý sai phạm nghiêm trọng nêu trên theo
72
đúng quy định của pháp luật. Xuất phát điểm từ việc xuyên tạc sự thật, bài
báo đã vi phạm một loạt các quy định khác trong hoạt động báo chí, xuất bản.
Chiểu theo đó, sáng 15/8, Thứ trƣởng Bộ Thông tin và Truyền thông Trƣơng
Minh Tuấn cho biết, đã ký quyết định số 1171/QĐ-BTTTT đình bản báo điện
tử Trí Thức Trẻ 3 tháng và phạt hành chính 270 triệu đồng với các hành vi vi
phạm cụ thể nhƣ sau: Không ghi rõ họ, tên thật hoặc bút danh của tác giả,
nhóm tác giả của bài viết; đăng ảnh của cá nhân mà khi chƣa đƣợc sự đồng ý
của ngƣời đó; đăng thông tin gây mất đoàn kết dân tộc.
Ngoài ra, để khắc phục hậu quả, Bộ yêu cầu báo điện tử Trí Thức
Trẻ phải cải chính, xin lỗi theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, trong sự việc này, chúng ta tiếp tục nhìn thấy một hiện
tƣợng “xấu xí” khác của báo mạng điện tử. Đó là hành vi “ăn theo” sự kiện
của một loại các báo “lá cải”. Ngay sau khi bài viết “ ái miền Tây và 3 chữ
“N” nổi danh thiên hạ” đƣợc đăng tải và lan truyền, ngay lập tức đã có một
loạt các bài viết nhƣ: “ ái miền Tây và 3 chữ “N”: Trà Ngọc Hằng sửng sốt
lên án”, hay “Long Nhật: Tôi sốc khi đọc bài “ ái miền Tây có 3 chữ “N”.
Đây là một dạng “câu view, giật tít, ăn theo sự kiện một cách rẻ tiền nhƣng
khi những báo đƣa tin chính bị phạt thì những bài “ăn theo” nhƣ thế này lại
không ảnh hƣởng gì. Đây là một thực trạng cần phải đƣợc nghiêm túc xem xét
lại.
Chiều ngày 21/11/2014, Thanh tra Bộ Thông tin và Truyền thông cũng
đã ra quyết định xử phạt hành chính 3 cơ quan báo chí là: Petrotimes.vn ,
Vov.vn và anninhthudo.vn vì đƣa tin bài về vụ chặt xác ngƣời, vứt xác trên
đƣờng phố ở Thành phố Hồ Chí Minh có thông tin không chính xác, gây hậu
quả nghiêm trọng.
73
Theo đó, Petrotimes.vn bị xử phạt 40 triệu đồng vì hai hành vi vi phạm.
Đó là, trang tin petrotimes.vn đã đăng bài“Liên tiếp các vụ giết người chặt
xác, điều man rợ gì đang diễn ra” vào ngày 7/10/2014 có chi tiết không
chính xác, vi phạm này bị xử phạt 25 triệu đồng. Đồng thời, Năng Lƣợng Mới
cũng bị phạt 15 triệu đồng vì không cung cấp nội dung trên trang thông tin
điện tử tổng hợp petrotimes.vn đúng với giấy phép đã đƣợc cấp.
Báo điện tử Vov.vn bị phạt 15 triệu đồng vì đăng bài viết “Rúng động
vụ thi thể bị chặt làm 3 khúc vứt ven đường ở Thành phố Hồ Chí
Minh” ngày 5/10 có chi tiết không chính xác.
Báo anninhthudo.vn cũng bị phạt 15 triệu đồng vì đăng bài viết “Kinh
hãi phát hiện thi thể bị chặt khúc vứt phi tang trước cổng khu công
nghiệp” ngày 5/10/2014 có chi tiết không chính xác, gây hậu quả nghiêm
trọng.
Cũng trong khoảng thời gian này, Thanh tra Bộ Thông tin và Truyền
thông đã xử phạt Báo điện tử Giaoduc.net.vn 50 triệu đồng vì đăng bài
viết “ hế cao cộng Văn hóa lùn=?” có nội dung sai sự thật hôm 17/10.
2.1.3. Đưa tin sai không đính chính
Đây thực sự là một vấn nạn đau lòng của báo chí nói chung, và của báo
mạng điện tử nói riêng khi cái guồng xoay thông tin dƣờng nhƣ không đủ
chạy theo một vài thị hiếu tầm thƣờng. Hôm trƣớc vợ ca sĩ A, chồng ngƣời
mẫu B tố vợ, tố chồng mình ngoại tình trên facebook, sáng hôm sau đã thấy
hàng loạt báo mạng xào để thành bài, thành tin. Chuyện cô ngƣời mẫu này
dùng cái túi bao nhiêu tiền, đến chuyện cô ca sĩ kia hôm nay đƣợc ngƣời yêu
đƣa đi ăn ở đâu, bỗng nhiên trở thành “tin hot” ngay trên trang nhất.
Báo Danviet.vn trong một bài báo viết về 4 vị vua " mê tửu sắc " thời
phong kiến đã có một sai sót rất lớn về kiến thức lịch sử đó là cắt hình từ tấm
74
ảnh chụp tƣợng của vua Lê Đại Hành rồi đem chú thích là vua Lê Uy Mục.
Hình ảnh cắt bỏ hết phần chú thích dƣới bức tƣợng đi, ai không biết thì chỉ
đọc lƣớt qua và không phát hiện ra. (http://danviet.vn/que-nha/4-vi-vua-chua-
phong-kien-tan-bao-vi-me-tuu-dam-sac-nhat-trong-su-viet-481782.html).
Tuy nhiên sai sót này đã đƣợc một thành viên của “Diễn đàn nhà báo
trẻ” phát hiện và đƣa vấn đề này lên diễn đàn, kh ng định đây không phải
nhầm lẫn trong thu thập tƣ liệu, mà là cố tình tạo tƣ liệu giả vì “Nếu google
cái tấm hình đã cắt, thì nó chỉ hiện ra trên trang của quý báo”. Theo dõi diễn
biến tiếp theo của sự việc, ngƣời viết thấy sự việc đã đƣợc phản ánh trên một
cộng đồng nhà báo uy tín, nhiều phóng viên của báo điện tử Dân việt đã
đƣợc “đánh dấu” vào bài viết, nhƣng sau đó tòa soạn cũng không có hành
động thể hiện việc xin lỗi và đính chính lại thông tin đã đăng tải. Đây là một
sai phạm lớn không chỉ ở phạm trù đạo đức mà còn cả ở trình độ nghiệp vụ
của nhà báo.
Một trƣờng hợp khác, vào ngày 19/09/2014 tại Bệnh viện Đa khoa khu vực
Quảng Nam có một trƣờng hợp hy hữu là một phụ nữ nặng 102 kg sinh bé trai
cân nặng 6,5kg. Có nhiều báo đã đăng tải về sự việc này, tuy nhiên một số
báo lại viết bé ấy là bé gái là sai sự thật. Theo phản ánh của một phóng viên,
sau khi tin tức đó đƣợc đăng tải, các bác sĩ ấy đòi mấy báo viết sai phải xin lỗi
cải chính. Thông tin đã đƣợc các phóng viên gửi tới tòa soạn của các báo có
sai sót, tuy nhiên, ngoài một số báo đã sửa lại ngay thông tin bị sai nhƣ
www.thanhnien.com.vn hoặc www.doisongphapluat.com , một số báo khác
vẫn không sửa lại thông tin, hoặc có đính chính, xin lỗi tới nhân vật và các y
bác sĩ tại bệnh viện.
75
2.1.4. Dẫn tin, bài, ảnh không trích nguồn
Việc dẫn tin, bài, ảnh không trích nguồn đang thực sự là một “vấn nạn”
của báo mạng điện tử hiện nay. Khái niệm “nhà báo phòng lạnh” cũng từ đó
mà ra đời khi có rất nhiều các phóng viên không chịu ra hiện trƣờng thu thập
tin tức, tài liệu mà chỉ ở nhà “lục lọi” các trang mạng xã hội, hoặc tệ hơn là ăn
cắp tin, bài, ảnh của các đồng nghiệp trên các báo khác.
Ví dụ nhƣ với bài viết về hiện tƣợng thực phẩm nhiễm bẩn làm 114
ngƣời bị ngộ độc tại đám tang xảy ra ở Gia Lai vào ngày 25/09/2014, báo
điện tử vov.vn có bài đăng: “Vụ ngộ độc trong đám tang ở ia Lai: Nước
và thực phẩm nhiễm khuẩn vượt 1 lần cho phép” (http://vov.vn/doi-
song/nuoc-va-thuc-pham-nhiem-khuan-vuot-100-lan-cho-phep-353839.vov)
do phóng viên Công Bắc thƣờng trú tại Tây Nguyên thực hiện. Nhƣng ngay
sau đó, chính Công Bắc đã phát hiện ra phóng viên của VnExpress.net đã
“bê” nguyên vẹn bài viết của mình lên trang chủ, chỉ thay đổi mỗi tiêu đề
“Thực phẩm nhiễm bẩn làm 114 người ngộ độc tại đám tang”
(http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/thuc-pham-nhiem-ban-lam-114-nguoi-
ngo-doc-tai-dam-tang-3084625.html) và đã lên tiếng “nhắc nhở” đồng nghiệp
ngay trên fanpage của “Diễn đàn nhà báo trẻ”, kèm theo hai link tin bài để
mọi ngƣời cùng đối chiếu.
Cũng vẫn là sự kiện đó, một phóng viên của báo Gia Lai đã lên tiếng
kh ng định phóng viên của Ngƣời lao động Online (Nld.com.vn) đã ngang
nhiên cắt ảnh, cắt bản quyền của báo khác để để đƣa lên báo mình. Cụ thể là
những hình ảnh trong tin bài mà Ngƣời lao động Online đƣa
(http://nld.com.vn/suc-khoe/114-nguoi-ngo-doc-thuc-pham-sau-khi-an-tai-
dam-tang-0140916124812666.htm) đều là hình độc quyền mà phóng viên
báo Gia Lai đã chụp và có đóng dấu ở dƣới góc ảnh.
76
(http://baogialai.com.vn/channel/8301/201409/hon-100-nguoi-bi-ngo-doc-
thuc-pham-trong-dam-tang-2338632/)
Đây không phải là hiện tƣợng “hiếm gặp” trong làng báo mạng điện tử
hiện nay, khi mà cuộc chạy đua về độ nhanh – nhạy – nóng của tin tức ngày
càng khốc liệt. Thậm chí, nhiều phóng viên còn cho rằng việc “biên tập” lại
tin bài của ngƣời khác là chuyện bình thƣờng, có chăng chỉ cần thêm một
dòng “theo….” nho nhỏ ở cuối bài. Nhƣng thực sự, theo Tiến sĩ Nguyễn Thị
Trƣờng Giang, đây là một hiện tƣợng “ăn cắp” không thể chấp nhận đƣợc đối
với một ngƣời làm báo chân chính.
2.1.5. Xâm phạm đời tư của người khác mà không được sự cho
phép, vi phạm quyển bảo vệ thông tin cá nhân
Việc phóng viên báo mạng ngang nhiên “tác nghiệp sa-lông” chỉ ngồi
một chỗ và lấy ảnh, tin tức từ facebook của ngƣời khác không còn là chuyến
hiếm gặp. Chỉ cần một ai đó, “vô tình” đƣợc mọi ngƣời biết đến thôi, thì trang
cá nhân của ngƣời đó sẽ trở thành mảnh đất màu mỡ để các phóng viên vô tƣ
đào bới. Ngƣời hâm mộ bóng đá chắc h n vẫn còn nhớ cô bé cổ động viên
Nhật Lệ xinh đẹp của đội tuyển bóng đá U19 Việt Nam đã khóc nức nở trong
trận chung kết của U19 Việt Nam và U19 Nhật Bản diễn ra vào tháng 10 năm
2014. Vô tình, khoảng khắc ấy đƣợc máy quay của đài truyền hình Việt Nam
ghi lại và phát sóng, và cũng từ đó, cô bé ấy “vô tình” trở thành ngƣời nổi
tiếng. Sự nổi tiếng của Nhật Lệ gần nhƣ đƣợc tính bằng phút, khi mà chỉ chƣa
đầy nửa tiếng, Facebook cá nhân của cô đã lên đến con số 60 ngàn follow.
Mặc dù đây là những khoảnh khắc khá xúc động, nhận đƣợc nhiều sự
đồng cảm của fan bóng đá, nhƣng bên cạnh đó vẫn có rất nhiều comment, ảnh
chế cho rằng cô nhìn thấy mình trên màn hình ti vi nên mới bắt đầu khóc, hay
chửi bới khi xuất hiện dòng comment nói rằng chỉ "khóc vì thua độ".
77
Có lẽ chịu quá nhiều áp lực từ mạng xã hội, bên cạnh đó là việc các
phóng viên vô tƣ “tác nghiệp” và lục lọi lại các hình ảnh mang tính cá nhân,
Nhật Lệ đã viết những dòng trạng thái khá dài trên facebook cá nhân, chia sẻ
về lý do vì sao khóc, công khai xác nhận dòng bình luận "thua độ" đó không
phải do mình viết, đồng thời muốn trở về một cuộc sống bình thƣờng trƣớc
khi khóa Facebook cá nhân lại. Tại thời điểm khóa, Facebook của Nhật Lệ đã
có khoảng 200 ngàn lƣợt theo dõi.
Các trang báo mạng, nhƣ đã nói đến ở trên, thậm chí còn có h n một
mục chỉ để cập nhật lại thông tin từ trang cá nhân của mọi ngƣời, xem hôm
nay ngôi sao A, ca sĩ B đi đâu làm gì, “cộng đồng mạng” đang bàn tán chuyên
gì. Thậm chí, bản thân ngƣời viết cũng từng là “nạn nhân” của việc bị lấy
thông tin trên trang cá nhân “chế” thành bài báo mà không hề đƣợc xin phép
khi một lần có chia sẻ quan điểm cá nhân về mức độ nguy hiểm của phƣơng
tiện xe đạp điện.
Theo Tiến sĩ Nguyễn Thành Lợi, Phó Giám đốc Trung tâm Bồi dƣỡng
nghiệp vụ Báo chí, Hội nhà báo Việt Nam, nhà báo hiện nay đang đứng trƣớc
sự thách thức trong môi trƣờng “truyền thông hội tụ”. Theo đó, mạng xã hội
là “con dao hai lƣỡi” và “theo kết quả khảo sát cá nhân, hiện nay có tới trên
60% số nhà báo Việt Nam có tham khảo blog - mạng xã hội như một dạng
nguồn tin. Thậm chí, khá nhiều đề tài báo chí do phóng viên viết được triển
khai xuất phát từ gợi ý, từ thông tin trên môi trường mạng xã hội,
blog…(thông qua thao tác tiếp nhận, lựa chọn, kiểm chứng thông tin và chính
thống hóa thông tin bằng các phương pháp nghiệp vụ)”. [29,tr.159].
Nhƣng thông tin không chính xác, thậm chí có phần bịa đặt trên mạng
xã hội đƣợc một số cơ quan báo chí khai thác, đã gây ra tác động rất xấu trong
78
dƣ luận xã hội, xúc phạm danh dự và làm tổn hại uy tín nhiều cá nhân. Đó
chính là biểu hiện mặt trái của đời sống truyền thông trực tuyến hiện nay.
2.1.6. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn của nhà báo, cơ quan báo chí vì
mục đích cá nhân
2.1.6.1. Đòi và nhận hối lộ
Bên cạnh những nhà báo vững vàng trƣớc những thử thách, luôn giữ
cho ngòi bút trong sáng, cũng có những nhà báo vì tƣ lợi cá nhân mà viết bài.
Phóng viên báo mạng điện tử cũng không phải là ngoại lệ. Số nhà báo vi
phạm đạo đức nghề nghiệp, lợi dụng nghề báo để thực hiện những hành vi vụ
lợi không còn là cá biệt. Tuy nhiên, trong tổng số nhắc nhở và vi phạm của
các cơ quan quản lý báo chí thì loại vi phạm này chiếm số lƣợng ít nhất. Tuy
nhiên, trên thực tế, số nhà báo có động cơ đen tối, làm việc xấu một cách
trắng trợn, bị đem ra xét xử thì ít nhƣng số nhà báo có hành vi kiêu ngạo, coi
thƣờng mọi ngƣời, thƣờng xuyên “kiếm vặt” nhƣ ép cơ sở đẻ chạy một vài
quảng cáo, yêu cầu chi phí cho bài viết hay gây phiền hà, nhũng nhiễu cho xã
hội thì lại không ít.
Báo Cand.com.vn ngày 10/12/2014 có đăng tải bài viết: “Tự xưng nhà
báo, ép nhà trường để… “móc” quảng cáo” cụ thể nhƣ sau:
“Đầu tháng 12/2014, Báo CAND có thông tin về vụ việc xảy ra tại
Trƣờng THCS Trà Côn, xã Trà Côn, huyện Trà Ôn (Vĩnh Long). Đó là em
Huỳnh Anh P., học sinh lớp 8 của trƣờng, do bị bạn bè trong lớp thách thức
(nếu uống thuốc trừ sâu sẽ đƣợc thƣởng 500.000 đồng) nên đã trút vào miệng
khoảng 1/3 chai thuốc trừ sâu trƣớc mặt bạn bè. Tuy nhiên, P. chỉ ngậm trong
miệng rồi nhả ra và chạy vào nhà vệ sinh rửa miệng. P. đƣợc nhà trƣờng đƣa
đi cấp cứu và 4 ngày sau đó đã xuất viện.
79
Vụ việc có lẽ sẽ dừng lại ở đó nếu nhƣ không có luồng thông tin trên
một số tờ báo bỗng dƣng cho rằng nguyên nhân em P. uống thuốc trừ sâu là
do em sợ lời dọa của một giáo viên (?). Đã vậy những ngày sau đó, lãnh đạo
trƣờng và Phòng Giáo dục và Đào tạo liên tục bị làm phiền bởi những ngƣời
tự xƣng là “nhà báo”, lợi dụng sự việc này để o ép phía nhà trƣờng và Phòng
Giáo dục và Đào tạo huyện Trà Ôn phải “chi tiền đăng báo”…
Ông Tín cho biết, vào khoảng 9h30 ngày 21/11, Hiệu trƣởng Nguyễn
Tiên Động nhận đƣợc nhiều cuộc điện thoại, tin nhắn tự xƣng là “nhà báo”.
Những ngƣời này đốc thúc Hiệu trƣởng Nguyễn Tiên Động phải gửi bài cho
báo phản bác lại những báo nói sai về nguyên nhân khiến em P. uống thuốc
trừ sâu. Những ngƣời gọi điện, nhắn tin cho Hiệu trƣởng Nguyễn Tiên Động
đều có chung nội dung rằng để đƣợc đăng tải thông tin phản bác trên 1/4 trang
tạp chí, Hiệu trƣởng Nguyễn Tiên Động phải chuyển vào tài khoản của họ 9
triệu đồng.
Hiệu trƣởng Nguyễn Tiên Động xác định 2 ngƣời xƣng danh “nhà báo”
gây phiền phức cho ông gồm Lê M. – cán bộ phụ trách Tạp chí Thanh tra, số
điện thoại 090620683… và Doãn Huy H. – Tạp chí C (đều của Trung ƣơng),
số điện thoại 091395560…
“Trƣớc tình hình này, ông Động đã điện, xin ý kiến nhƣng chúng tôi
không chấp thuận vì chi nhƣ thế không đúng nguyên tắc tài chính. Cho rằng
lãnh đạo Phòng Giáo dục và Đào tạo đã cản trở Hiệu trƣởng Trƣờng Trung
học cơ sở Trà Côn trong việc chuyển tiền đăng báo nên những chủ thuê bao
trên gọi điện lại cho ông Động dọa rằng họ sẽ liên hệ với Giám đốc Sở G&ĐT
tỉnh để phản ánh hành vi sai trái của lãnh đạo phòng. Đến 16h11, số điện thoại
091823506… xƣng tên là Lê M., phụ trách Tạp chí Thanh tra… lại gọi vào
80
máy tôi, đề nghị chuyển 4 triệu đồng và nói rằng đây là số tiền thù lao, hỗ trợ
đăng báo nhƣng tôi trả lời không đồng ý” – ông Tín nêu trong báo cáo.
Hiệu trƣởng Trƣờng Trung học cơ sở Trà Côn và lãnh đạo Phòng Giáo
dục và đào tạo huyện Trà Ôn cho biết, những ngày qua, đơn vị liên tiếp nhận
đƣợc các thƣ ngỏ chào mời quảng cáo của những tạp chí kể trên gửi đến, có
thể hiện tên, số điện thoại của những “nhà báo” tự xƣng. Có điều, các thƣ ngỏ
đều trong tình trạng tự giới thiệu về mình bằng những lời… có cánh; cuối thƣ
ngỏ có ghi tên lãnh đạo nhƣng không có chữ ký và con dấu... Trong một bản
“hợp đồng giới thiệu thông tin”, chúng tôi thấy những “nhà báo” kể trên thực
chất là ngƣời của Công ty Cổ phần phát triển truyền thông Quảng cáo V (Hà
Nội), đƣợc các tạp chí kể trên ủy quyền “khai thác, đăng tải trên chuyên trang
quảng cáo” với các mức giá từ 30 đến 45 triệu đồng/trang/kỳ, tùy vị trí trang.”
2.1.6.2. Viết bài với mục đích cá nhân, thương mại:
Trong báo chí hiện nay có hiện tƣợng rất đang lo ngại đó là sự liên kết
không lành mạnh giữa một số phóng viên, hoặc một số lãnh đạo cơ quan báo
chí hình thành nên những nhóm nhà báo khen cùng khen, chê cùng chê, cùng
nâng, cùng hạ một số tổ chức, cá nhân theo kiểu “hội đồng”. Với báo mạng
điện tử hiện nay, cái “cộng đồng” đáng sợ nhất, nhƣng cũng hay bị “mƣợn
tay” nhất đó chính là “cộng đồng mạng”.
Trong xã hội nào cũng có những kẻ dùng tiền mua chuộc nhà báo để
tâng bốc, đề cao một ngƣời nào đó, một tổ chức nào đó vì lợi ích cá nhân,
hoặc để hạ bệ nhau, để trả ơn, báo oán. Còn một số nhà báo, vì hám lợi,
không chiến thắng đƣợc bản thân nên đã bán danh dự, nhân phẩm của mình
để “đâm thuê chém mƣớn”, thậm chí kích động, xúi giục, tạo ra mâu thuẫn để
trục lợi. Và những ngƣời làm báo điện tử thì thoải mái bơi trong những trang
mạng xã hội, để lƣợm lặt những thông tin theo ý mình (hoặc ý một thế lực nào
81
đó), biến nó trở thành vấn đề chung của xã hội bằng những cụm từ nhƣ “cộng
đồng mạng xôn xao”, “cộng đồng mạng bức xúc”, “cộng đồng mạng lo
lắng”…
Có thể kể đến việc “mƣợn tay” nhà báo để lăng xê tên tuổi của mình rất
hiệu quả đó là ekip của những “Bà Tƣng”, “Quân Kun”, “Kenny Sang”… đầy
chiêu trò phản cảm. Trong giới giải trí, việc “dìm” ngƣời khác xuống để tự
nâng mình lên cũng là một “chiêu PR” quen thuộc của các ca sĩ, diễn viên,
dƣới sự hỗ trợ đắc lực của báo chí. Còn trong chính trị hay kinh doanh, nếu
một ai đó, hay một doanh nghiệp nào đó bị báo chí, truyền thông “đánh hội
đồng” thì sẽ khó lòng vực lại sự nghiệp đƣợc.
Đáng nhẽ ra, các nhà báo, phải dùng các bài báo của mình để phục vụ
cho sự phát triển chung của xã hội, nhƣng thay vào đó lại đi sâu vào bới móc,
phê phán, khoét sâu vào những yếu kém, thông tin thiếu khách quan, sai sự
thật làm ảnh hƣởng xấu tới sự ổn định của xã hội, bôi nhọ danh dự của ngƣời
khác. Thậm chí, báo chí đã lạm quyền khi thay mặt cả các cơ quan chức năng
kết tội những ngƣời đang ở dạng “nghi vấn” nhƣng lại đƣợc xã hội quan tâm.
Đọc bài thì tƣởng đó là những bài viết chống tiêu cực nhƣng thực ra lại là
những bài viết mang đầu tính cá nhân hoặc với mục đích thƣơng mại.
Bên cạnh đó, một số nhà báo lại trở thành “con rối” trong tay các doanh
nghiệp khi tự biến mình thành công cụ để PR cho doanh nghiệp, cho sản
phẩm, bất chấp bản chất của vấn đề ra sao. Ch ng thế mà, với các sự kiện họp
báo, ra mắt sản phẩm…của doanh nghiệp, kẹp trong tập Thông cáo báo chí,
lúc nào cũng không thể thiếu chiếc phong bì. Anh Nguyễn Quang Anh –ngƣời
có kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực tổ chức sự kiện của một công ty
Truyền thông ở Hà Nội cho rằng đây thực sự đã trờ thành một “tiền lệ xấu”
đối với các phóng viên. Thậm chí, nó còn biến tƣớng trở thành hành vi lừa
82
đảo khi có nhiều ngƣời mạo danh là phóng viên đến dự sự kiện chỉ vơi mục
đích để lấy phong bì. Theo anh Quang Anh, “với tƣ cách là đơn vị tổ chức,
thì theo tôi việc “phong bì” nhƣ vậy sẽ bảo đảm cho việc “có bài”, tuy nhiên
về lâu dài và thực tế đã ảnh hƣởng đến tầm quan trọng của sự kiện. Đó là việc
tổ chức các sự kiện sơ sài, và theo đó chỉ cần “phong bì” là sẽ có bài lên, thậm
chí phóng viên không cần đến dự sự kiện mà vẫn có thể nhận “phong bì” qua
chuyển khoản và thông cáo báo chí qua email để bài vẫn lên đƣợc. Thực tế là
có phóng viên nếu đến không có phong bì thì sẽ viết nói xấu về sự kiện, gây
ảnh hƣởng đến thƣơng hiệu nên với tƣ cách là Ban tổ chức, tôi nghĩ nên duy
trì lệ ”phong bì” để bảo đảm tính an toàn cho sự kiện, ngoài ra phóng viên
cũng mất công sức để có bài viết đánh giá (chứ không phải chỉ đăng bài theo
thông cáo báo chí) thì việc cảm ơn họ cũng là điều nên làm)”. (Có nên duy trì
“lệ phong bì” đối với phóng viên? – Infonet.vn – Báo điện tử của Bộ Thông
tin Truyền thông ngày 26/07/2014)
Ở Việt Nam có một định nghĩa gọi là “Bài PR”, “Bài quảng cáo” trong
khi nƣớc ngoài không có các khái niệm này, hay ít nhất là nó không đƣợc
đánh đồng.
Báo chí - ở nƣớc ngoài - là phải viết những bài báo chuẩn mực thông
tin thuần túy, tôn trọng pháp luật và các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, đạo
đức xã hội, đạo đức báo chí. Tức là, giả sử nhƣ có một "bài báo" của doanh
nghiệp tự viết, tự sáng tạo ra (tất nhiên theo chiều hƣớng có lợi cho mình) thì
nó phải đƣợc tách ra khỏi tờ báo thành một "ấn phẩm" riêng, hay ít nhất là
đƣợc thông báo rõ ràng (bằng nhiều hình thức) cho độc giả biết, và hiểu rằng
đây là một trang quảng cáo của doanh nghiệp chứ không phải là trang báo.
Ở Việt Nam, nếu nhƣ báo in có những trang dành riêng cho quảng cáo,
thì báo mạng điện tử cũng có những phần riêng biệt để các doanh nghiệp có
83
thể quảng cáo và mất phí với những giá thành khác nhau, tùy vào vị trí và
kích thƣớc của nội dung quảng cáo. Nhƣng, có một hiện tƣợng hiện nay đó là
ngoài phần quảng cáo "thuần", vẫn có những trang thông tin đƣợc trình bày,
thiết kế y nhƣ một bài báo bình thƣờng, nhƣng về bản chất lại là PR quảng
cáo cho các doanh nghiệp. Đó chính là một “ cuộc chơi không sòng ph ng”
giữa doanh nghiệp và ngƣời tiêu dùng, bởi sẽ có sự nhầm lẫn đây là tiếng nói,
là chính kiến của nhà báo chứ không phải quảng cáo đơn thuần.
Ví dụ nhƣ các bài viết dạng so sánh các dòng sản phẩm tƣơng tự nhau,
nhƣng của các hãng sản xuất khác nhau. Các bài viết này thƣờng đƣợc độc giả
rất tin tƣởng, coi đó là quá trình đánh giá, kiểm nghiệm khách quan của nhà
báo – hay của nhân vật đƣợc đề cập đến trong bài viết (có thể là một chuyên
gia). Nhƣng thực chất, đây chính là chiêu trò “dìm ngƣời khác xuống để nâng
mình lên” của doanh nghiệp, mà bài báo chỉ là công cụ. Hay gặp nhất là các
bài viết về công nghệ nhƣ “So sánh bộ ba điện thoại Android giá rẻ Asus,
Nokia và Philips” (http://sohoa.vnexpress.net/tin-tuc/san-pham/dien-
thoai/so-sanh-bo-ba-dien-thoai-android-gia-re-asus-nokia-va-philips-
3028285.html) hay “So sánh 3 smartphone màn hình lớn”
(http://www.pcworld.com.vn/articles/cong-nghe/cong-nghe/2014/12/1237171
/so-sanh-3-smartphone-man-hinh-lon/); …
Trên thực tế, để viết các bài báo nhƣ thế này, có thể nhà báo đã có sự
thỏa thuận riêng với doanh nghiệp. Các bài báo này khác h n với dạng bài
“PR chính thống” thông qua tòa soạn, với chi phí tất nhiên cũng sẽ rẻ hơn rất
nhiều, mà xem ra hiệu ứng đối với ngƣời đọc lại mạnh hơn bởi “tính khách
quan” mà nhà báo đã dùng chính danh dự, ngòi bút của mình để đảm bảo.
Tuy nhiên, không phải lúc nào sản phẩm đó cũng hay, cũng tốt đúng
nhƣ nhà báo nói. Quý IV của năm 2014, liên tiếp các báo bị bộ Thông tin và
84
Truyền thông phạt hành chính vì đăng tải những nội dung quảng cáo không
phù hợp. Cụ thể là các báo Người lao động (Nld.com.vn) , Phụ nữ Việt Nam
(www.phunuvietnam.com.vn), Kinh doanh & Pháp luật (kinhdoanhnet.vn),
Sức khỏe & Đời sống (suckhoedoisong.vn), ia đình Việt Nam
(www.giadinhvn.vn) do đã quảng cáo một loạt sản phẩm chức năng "không
phù hợp với nội dung đã đƣợc cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền xác nhận".
2.2. Nguyên nhân hiện tƣ ng vi phạm ạo ức của nhà báo trên
báo mạng iện tử hiện nay
Đi tìm nguyên nhân của tình trạng vi phạm đạo đức trên báo mạng điện
tử của Việt Nam hiện nay, có thể chia ra làm hai nhóm nguyên nhân chính.
Đó là nguyên nhân chủ quan (bao gồm sự “Thiếu bản lĩnh chính trị, thiếu tu
dƣỡng, rèn luyện đạo đức”, “Thiếu kiến thức cơ bản về báo chí, chậm cập
nhật xu thế phát triển của báo chí, truyền thông hiện đại”, và “Yếu kém trong
chuyên môn, nghiệp vụ, không nghiên cứu, thâm nhập thực tiễn để tìm kiếm
đề tài”), và nhóm nguyên nhân khách quan (bao gồm “Sự phát triển của khoa
học kỹ thuật và công nghệ thông tin”, “Sự phát triển của môi trƣờng truyền
thông hiện đại”, “Sức ép về doanh thu và cạnh tranh cung cấp thông tin của
báo chí, tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trƣờng”, “Sự giám sát, quản lý
chƣa chặt chẽ của các cơ quan báo chí và cơ quan chủ quản báo chí” và “Sự
quản lý chƣa chặt chẽ của Nhà nƣớc về mặt luật pháp”).
Ngoài ra, theo nghiên cứu của tiến sĩ Nguyễn Thị Trƣờng Giang. Ngoài
những nguyên nhân trực tiếp tác động đến đạo đức nghề nghiệp của nhà báo,
còn có những nguyên nhân sâu xa và trừu tƣợng nhƣ: Đặc điểm tƣ duy của
ngƣời Việt và sự ra đời của nền báo chí Việt Nam.
Theo tác giả Hoàng Đình Cúc và Đức Dũng trong cuốn “Những vấn đề
của báo chí hiện đại” thì đặc điểm tƣ duy của ngƣời Việt bao gồm tƣ duy
85
truyền thống và tƣ duy kinh nghiệm. Mặt hạn chế của những kiểu tƣ duy này
là khi nhận thức sự kiện hiện tƣợng, ngƣời Việt thƣờng không chú trọng lắm
đến sự chính xác, đến lập luận chặt chẽ, đến chứng minh rõ ràng mà thƣờng
áp đặt cảm nhận chủ quan của mình. Ngƣời Việt thƣờng lấy kinh nghiệm để
nhận thức vấn đề nên chủ yếu chỉ phản ánh hiện tƣợng mà ít đi sâu vào bản
chất, dễ sa đà vào kể lể, liệt kê mà không có khả năng khái quát để rút ra quy
luật, thƣờng thiên về tình cảm nên dễ tạo ra khuynh hƣớng tùy tiện trong thẩm
định, đánh giá, phản ánh thông tin. [3,tr.152-153].
Báo mạng điện tử, với đặc thù là thể loại ra đời muộn nhất, lĩnh hội
những tƣ duy báo chí của các thế hệ đi trƣớc, và đang sống, đang phát triển
từng ngày theo cơn lốc của công nghệ thông tin và tƣ duy truyền thông hiện
đại thì ngƣời làm báo mạng điện tử, càng dễ mắc những sai phạm về mặt đạo
đức nghề nghiệp hơn. Từ những phân tích, nghiên cứu tìm hiểu của bản thân
và qua một số điều tra, phỏng vấn sâu, ngƣời viết cho rằng có thể xác định
nguyên nhân của hiện tƣợng vi phạm đạo đức báo chí của báo mạng điện tử
Việt Nam hiện nay nhƣ sau:
2.2.1. Nguyên nhân chủ quan
2.2.1.1. Thiếu bản lĩnh chính trị, thiếu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức
“Bản lĩnh chính trị” không phải là một khái niệm xa vời và trừu tƣợng,
mà nó đƣợc xem là cái gốc của đạo đức nghề nghiệp nói chung, và đặc biệt
đối với đạo đức ngƣời làm báo nói riêng. Hoạt động báo chí là một hoạt động
truyền thông đại chúng. Sản phẩm, tác phẩm báo chí đƣợc tạo ra là để chuyển
tải tới công chúng những thông tin thời sự về các sự kiện, vấn đề, sự vật, hiện
tƣợng, con ngƣời xảy ra hàng ngày, hàng giờ trong đời sống xã hội. Đích
hƣớng đến của một tác phẩm báo chí là đem lại giá trị thông tin cho công
chúng xã hội, do đó, đảm bảo tính thông tin là chức năng quan trọng đầu tiên
86
của một tác phẩm báo chí. Để làm đƣợc điều đó, nhà báo phải xác định đƣợc
quan điểm, lập trƣờng chính trị của mình đó là dùng các bài viết để làm vũ
khí sắc bén chiến đấu vì mục đích vẻ vang của nhân dân, đất nƣớc. Đối với cả
một nền báo chí Cách mạng Việt Nam, báo chí còn là tiếng nói, là vũ khí
chiến đấu của Đảng, của Nhà nƣớc, và của quần chúng nhân dân chống lại
những mặt trái xấu xa của xã hội. Tuy nhiên, với lớp nhà báo đang làm báo
mạng hiện nay, có lẽ, bản lĩnh chính trị đang bị lung lay, bởi hoàn cảnh “làm
báo thời bình” khiến cho họ “nhầm lẫn” trong việc lựa chọn, phân tích và
đánh giá các sự kiện, vấn đề. Họ không ý thức đƣợc mục đích viết báo của
mình là vì ai, cho ai và phải đứng trên quan điểm, lập trƣờng nào. Vì không
có lập trƣờng chính trị vững chắc nên “bàn phím” của họ đã bị lệ thuộc nhiều
vào những thứ danh vọng, vật chất hào nhoáng mà làm nhụt đi dũng khí để
đấu tranh chống lại cái xấu.
Khi sáng tạo tác phẩm báo chí, những yêu cầu về năng lực chuyên môn
của nhà báo luôn phải gắn với những chuẩn mực về đạo đức nghề nghiệp.
Điều này đƣợc thể hiện trong từng bƣớc tiến hành sáng tạo một tác phẩm báo
chí. Có nhƣ vậy, tác phẩm báo chí mới đem lại những giá trị đích thực cho
công chúng xã hội. Tuy nhiên, trong thực tế hoạt động của báo mạng điện tử
hiện nay, không phải lúc nào các nhà báo cũng thực hiện tốt đƣợc những yêu
cầu này, do đó đã làm ảnh hƣởng đến giá trị thông tin của các tác phẩm báo
chí và lớn hơn là làm mất niềm tin của công chúng đối với báo chí. Những
ngƣời làm báo trẻ, họ dễ dãi với chính bản thân họ, và dễ dãi của với những gì
họ viết hàng ngày. Nếu nhƣ nhà báo có đạo đức nghề nghiệp, có lập trƣờng tƣ
tƣởng vững vàng thì dù có muôn vàn sự tác động bên ngoài cũng khó làm cho
họ thay đổi. Song ngƣợc lại, sự thiếu rèn luyện về mặt bản lĩnh, đạo đức khiến
cho các nhà báo trẻ dễ nhiễm phải những thói hƣ tật xấu, không chỉ là vi
phạm đạo đức nghề nghiệp mà thậm chí còn vi phạm pháp luật. Trong nhiều
87
văn bản hƣớng dẫn, chỉ đạo của Đảng cũng chỉ rõ, do thiếu tu dƣỡng rèn
luyện đạo đức mà một bộ phận cán bộ, đảng viên đang sa đọa về đạo đức và
lối sống, trong số đó, chắc chắn có cả những nhà báo đang hoạt động trong
lĩnh vực báo mạng điện tử hiện nay.
2.2.1.2. Thiếu kiến thức cơ bản về báo chí, chậm cập nhật xu thế phát
triển của báo chí, truyền thông hiện đại.
Thiếu kiến thức cơ bản về báo chí là một trong những nguyên nhân cơ
bản cuả hiện tƣợng vi phạm đạo đức của nhà báo trên báo mạng điện tử hiện
nay. Thiếu những kiến thức cơ bản về báo chí tức là nhà báo đã thiếu đi lƣợng
các kiến thức chuyên ngành cần thiết để trờ thành nhà báo chuyên nghiệp.
Một nền báo chí chuyên nghiệp là ở đó tất cả các hoạt động của đời sống báo
chí đều đƣợc “bôi trơn” nhằm giảm thiểu tối đa những vi phạm liên quan đến
nhận thức. Điều này phù hợp với thực tế hiện nay là nhiều vi phạm không
xuất phát từ động cơ, mục đích “tâm không sáng” cho các nhân ngƣời làm
báo mà là do nhà báo “mắt không sáng”, yếu kém về năng lực và nhận thức
nên không thể phân biệt đúng, sai của sự việc. Nhiều ngƣời trong số họ thiếu
đi những kiến thức căn bản nhƣ: chức năng, nhiệm vụ, các nguyên tắc hoạt
động…của báo chí và những hiểu biết về các kỹ năng để tác nghiệp một cách
chuyên nghiệp. Ngoài ra, còn thiếu kiến thức cơ bản về luật pháp, đặc biệt là
luật báo chí, khiến cho không ít ngƣời làm báo nói chung, và báo mạng điện
tử nói riêng mắc sai lầm,vi phạm đạo đức nghề nghiệp.
Nếu nhƣ trƣớc kia, cả nƣớc chỉ có ba cơ sở có đào tạo nghiệp vụ báo
chí chính quy là Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Đại học Khoa học xã hội
và Nhân văn Hà Nội và Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ
Chí Minh thì bây giờ rất nhiều các trƣờng đại học khác, ở nhiều địa phƣơng
cũng đã có khoa báo chí nhƣ Đại học Văn hóa, Đại học Huế, Đại học Thái
88
Nguyên…., chƣa kể đến các trƣờng Cao đ ng, Trung cấp nghiệp vụ…. Tuy
nhiên, thực tế, có bao nhiêu sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành báo chí, sau
khi ra trƣờng tiếp tục công tác tại các cơ quan báo chí nói chung, và các tòa
soạn báo điện tử nói riêng, thì chƣa có một con số thống kê cụ thể. Mặc dù
vậy, có một thực tế là, rất nhiều những ngƣời làm báo hiện nay, đặc biệt là ở
các tòa soạn báo điện tử, chƣa hề qua một lớp đào tạo về báo chí nào. Nhà báo
Quang Lợi, trong một phỏng vấn đã cho rằng: “Vấn đề nổi cộm nhất của báo
chí Việt Nam hiện nay là thiếu tính chuyên nghiệp”
2.2.1.3. Yếu kém trong chuyên môn, nghiệp vụ, không nghiên cứu,
thâm nhập thực tiễn để tìm kiếm đề tài.
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ không thuộc phạm trù đạo đức, nhƣng
ý thức trách nhiệm trong việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ thì
thuộc phạm trù đạo đức. Nhà báo phải có ý thức trách nhiệm trong việc nâng
cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, bởi vì nếu không nhƣ vậy thì họ không
thể có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, không có chuyên môn vững
vàng, thì không thể hoàn thành trọn vẹn ý thức và tinh thần trách nhiệm xã
hội.
Lợi dụng sự phát triển của công nghệ hiện đại và mạng xã hội, càng
ngày càng có nhiều “nhà báo phòng lạnh” – ám chỉ những nhà báo chỉ ngồi ở
văn phòng điều hòa, tìm kiếm thông tin trên mạng mà không hề xâm nhập
thực tiễn, tìm kiếm đề tài, xác minh thông tin… Với một chiếc máy tính nối
mạng Internet cùng với chiếc điện thoại thông minh, nhiều nhà báo trẻ cho
rằng phƣơng tiện hành nghề của mình nhƣ vậy là đủ. Họ cho rằng, chỉ cần
ngồi một cho gọi điện cho nơi cần đƣa tin, xin thông cáo báo chí gửi qua thƣ
điện tử rồi chỉnh sửa, thâm chí là cắt – dán nguyên si thông cáo báo chí và gửi
bài lên ban biên tập. Đối với bộ phận làm tin nƣớc ngoài, thay vì không
89
ngừng trau dồi kiến thức dịch thuật, biên tập, họ gần nhƣ phụ thuộc hoàn toàn
vào các công cụ dịch thuật tự động trên mạng Internet nhƣ Google Translate,
sau đó chỉnh sửa, thậm chí nhiều trƣờng hợp còn đăng tải nguyên bản dịch
ngây ngô của công cụ dịch lên báo, khiến ngƣời đọc không khỏi lắc đầu ngao
ngán.
Đối với một bộ phận làm báo mạng điện tử, mạng xã hội còn là nơi
“thu thập tin tức” nhƣng không cần kiểm chứng. Nó không chỉ là những đề tài
vô thƣởng vô phạt, đi ngƣợc lại với tôn chỉ của báo chí cách mạng, mà nhiều
khi còn là những thông tin xuyên tạc, sai sự thật mà nhà báo, do yếu kém
trong chuyên môn, nghiệp vụ, lại không chịu học hỏi, tìm tòi, xâm nhập thực
tiễn, vô trách nhiệm với chính bản thân mình, và với công chúng viết nên.
Theo phóng viên Nguyễn Việt Đức – Báo điện tử VietNamPlus: “Thụ động
trong thu thập thông tin, thiếu kiến thức nền, lập trƣờng tƣ tƣởng chính trị
không vững vàng, dễ xao động, xa rời thực tế, các “nhà báo bàn giấy” dễ dàng
trở thành “miếng mồi ngon” cho các thế lực thù địch, phản động lợi dụng để
viết bài phản biện thiếu tính xây dựng đối với một số chủ trƣơng, chính sách
của Đảng và Nhà nƣớc, thậm chí lơi dụng báo chí sách nhiễu các tổ chức cá
nhân, vi phạm pháp luật phải xử lý hình sự […]. Các nhà báo chân chính và
bạn đọc luôn mong chờ các nhà báo trẻ đã “chót” biến thành “nhà báo bàn
giấy” tự biết thay đổi, nhìn nhận lại công việc mình đang làm để có thái độ
đúng đắn với nghề báo – một nghề cáo quý, có sức tác động lớn lao, phải “đổ
mồ hôi sôi nƣớc mắt”, thậm chí đổ cả máu để có đƣợc những dòng tin, những
hình ảnh chân thực về muôn mặt của đời sống xã hội” [29.tr138].
2.2.2. Nguyên nhân khách quan
2.2.2.1. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin và
sự phát triển của môi trường truyền thông hiện đại.
90
Tất cả các đối tƣợng, bao gồm cả nhà báo, nhà nghiên cứu báo chí và
công chúng đƣợc mời trả lời phỏng vấn sâu đều thống nhất rằng sự phát triển
của khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin đem lại rất nhiều thuận tiện cho
nhà báo trong quá trình tác nghiệp. Sự phát triển ấy cũng tạo nên một môi
trƣờng truyền thông hiện đại với thông tin đa chiều, phong phú. Tuy nhiên, nó
cũng là con dao hai lƣỡi khi phóng viên, đặc biệt là các phóng viên báo mạng
điện tử khi không thể đứng vững đƣợc trƣớc cơn bão dƣ luận. Ngay cả việc sử
dụng facebook – là những thứ đƣợc coi là “cá nhân” riêng tƣ của mỗi ngƣời.
Nhƣng việc sử dụng facebook nhƣ thế nào cũng thể hiện những mặt khác
nhau của con ngƣời đó. Với nhà báo – tiếng nói dù là cá nhân, nhƣng lại đƣợc
công chúng rất tin cậy. Vì thế, những cái nhìn sai lệch, những bình luận
không hay trên mạng xã hội có thể làm ảnh hƣởng với chính bản thân họ và
cơ quan báo chí nới họ đang cộng tác. Ngay cả trên “Diễn đàn nhà báo trẻ” –
trang Fanpage đƣợc lập ra với mục đích để những nhà báo trẻ có thể trau dồi
thêm đạo đức báo chí, chia sẻ những kinh nghiệm, kiến thức chuyên môn
nghiệp vụ, nhiều khi cũng trở thành “cái chợ” – nơi các nhà báo bới móc
nhau, hoặc dùng những lời lẽ không hay khi nói về các vấn đề xã hội, hay
bình luận về chính những đồng nghiệp của mình.
Công nghệ số và Internet đang khiến “môi trƣờng sinh thái
của các phƣơng tiện truyền thông thay đổi mạnh mẽ. Vài năm gần đây, khái
niệm “hội tụ truyền thông” đƣợc giới nghiên cứu lý luận cũng nhƣ các nhà
báo trong và ngoài nƣớc đề cập đến rất nhiều. Tuy nhiên, truyền thông hội tụ
có phải là xu thế phát triển chính của lĩnh vực báo chí truyền thông hay không
vẫn còn nhiều ý kiến trái ngƣợc. Song, thực tiễn đã chứng minh, hội tụ truyền
thông đã trở thành xu hƣớng phát triển quan trọng của lĩnh vực này, nó đã tác
động mạnh mẽ đến hoạt động tác nghiệp của các nhà báo. Nhiều vấn đề đạo
91
đức nghề nghiệp và trách nhiệm, nghĩa vụ công dân của nhà báo cũng bị ảnh
hƣởng nhất định trong môi trƣờng hội tụ truyền thông.
Theo Tiến sĩ Nguyễn Thành Lợi – Phó giám đốc Trung tâm Bồi dƣỡng
nghiệp vụ - Hội nhà báo Việt Nam: “Tƣ tƣởng hạt nhân của truyền thông hội
tụ là sự phát triển của công nghệ truyền thông và sự phá bỏ “hàng rào” kiểm
soát thông tin, các loại hình báo chí nhƣ: báo in, báo phát thanh, truyền hình,
mạng điện tử và các thiết bị di động hội tụ với nhau về mặt công nghệ trên
Internet. Với sự ra đời của các phƣơng tiện truyền thông mới, đặc biệt là sự ra
đời của mạng xã hội đã khiến “môi trƣờng” tác nghiệp của nhà báo trở nên
rộng lớn và dần dần không còn “biên giới” cứng trong tác nghiệp, chính vì lý
do đó đặt ra cho những ngƣời làm báo rất nhiều vấn đề về phát luật, đạo đức
và trách nhiệm cũng nhƣ nghĩa vụ công dân của nhà báo”. [29.tr157]. Và
chính vì thế, đạo đức nghề nghiệp của nhà báo trẻ, đặc biệt là những ngƣời
làm báo điện tử cần phải đƣợc cân nhắc kỹ càng trƣớc “con dao hai lƣỡi” này.
2.2.2.2. Sức ép về doanh thu và cạnh tranh cung cấp thông tin của báo
chí, Tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường.
Trong tất cả các yếu tố tác động, yếu tố kinh tế bao giờ cũng giữ vai trò
chủ chốt. Tất cả các nhà báo, khi đƣợc mời trả lời phỏng vấn, đều phải công
nhận những ngƣời làm báo nói chung, đặc biệt là báo mạng điện tử nói riêng
đang phải chịu một sức ép rất lớn về doanh thu và cạnh tranh thông tin. Cuộc
đua ấy là cuộc đua giữa các tòa soạn, các cơ quan báo chí với nhau, giữa các
tòa soạn, cơ quan báo chí đó với nền kinh tế thị trƣờng đầy biến động, và giữa
chính các phóng viên với nhau.
Thứ nhất, trong cuộc chạy đua thông tin giữa các loại hình báo chí với
nhau, báo điện tử luôn bị đặt vào thế phải nhanh nhất (còn có chính xác nhất
hay không – một phần ở trình độ tác nghiệp, nhƣng phần khác, chính là ở đạo
92
đức của ngƣời làm báo). Còn giữa các trang báo điện tử hiện nay, cuộc đua ấy
không bao giờ có hồi kết, khi mà chỉ cần chênh lệch nhau một vài giây, sẽ là
sự thua nhau cả về hàng nghìn lƣợt xem.
Và từ lƣợt ngƣời xem đó, không chỉ để cạnh tranh xem ai nhanh hơn,
mà thực tế, còn có cả một cuộc đua với bên thứ ba, đó chính là giá quảng cáo.
Báo nào “hot”, báo nào nhiều ngƣời xem hơn, thì giá quảng cáo theo đó cũng
cao hơn. Tuy nhiên, do kinh tế khủng hoảng, các doanh nghiệp mấy năm gần
đây thắt chặt chi tiêu, trong đó có các khoản về pr, quảng cáo khiến cho cuộc
đua giữa ba bên ngày càng khốc liệt. Sức ép về việc phải tăng view để thu hút
nhà đầu tƣ, bán đƣợc quảng cáo khiến cho không chỉ một bộ phận phóng viên,
mà cả một nền báo mạng điện tử bị cuốn theo guồng xoay đó.
Cuộc chạy đua thứ ba, cũng là một phần hệ quả của hai cuộc chạy đua
trên, đó chính là cuộc đua giữa chính các phóng viên với nhau, vì lợi ích kinh
tế. Do kinh tế khó khăn, các tòa soạn không chỉ đẩy phóng viên vào “con
đƣờng” phải giật tít, câu view để hòng bán đƣợc quảng cáo, mà còn đánh vào
“kinh tế” khi mức nhuận bút ngày càng bị cắt giảm. Chị Hà Quyên – một
phóng viên, biên tập viên trang tin phunutoday.vn chia sẻ rằng mức sống của
phóng viên ngày càng thấp, tiền lƣơng chƣa thực sự là thƣớc đo sức lao động
mà họ bỏ ra. Trong khi đó, các nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống vẫn nảy sinh
khiến cho họ buộc phải viết nhiều, viết nhanh, viết giật gân để vừa tăng lƣợng
tin bài (đồng nghĩa với tăng nhuận bút), vừa để tăng mức nhuận bút (do bài
càng nhiều lƣợt xem thì nhuận bút sẽ đƣợc chấm cao hơn)
2.2.2.3. Sự giám sát, quản lý chưa chặt chẽ của các cơ quan báo chí và
cơ quan chủ quản báo chí.
Khi đƣợc đặt câu hỏi: “khi một bài báo có dấu hiệu vi phạm đạo đức
nghề nghiệp đƣợc đăng tải thì lỗi phần lớn sẽ thuộc về phóng viên hay thuộc
93
về tòa soạn”, tất cả các phóng viên, chuyên gia truyền thông và công chúng
đều công nhận, sự lỏng lẻo trong khâu giám sát, quản lý của các cơ quan báo
chí (tòa soạn) và cơ quan chủ quản báo chí (bộ banh ngành) chính là nguyên
nhân lớn góp phần làm nên tình trạng suy giảm đạo đức báo chí trên báo
mạng điện tử hiện nay. Nói nhƣ PGS.TS Nguyễn Văn Dững thì “Tòa soạn là
cái “rốn” của mọi vấn đề, quán xuyến quá trình hoạt động tác nghiệp của
phóng viên, tốt cũng như xấu, về mặt đạo đức cũng như luật pháp”. Đội ngũ
tổng biên tập, phó tổng biên tập, trƣởng phó ban chuyên môn chính là đầu tàu
để con tàu đi đúng hƣớng. [3.157] Tuy nhiên, một số con tàu hiện nay đang đi
lệch hƣớng, chính là do đầu tàu đã định hƣớng sai, hoặc không kiểm soát hết
đƣợc hoạt động của các phóng viên. Bởi đơn giản, một bài báo khi đăng lên
phải đƣợc qua kiểm duyệt. Vậy nên, nếu đó là một bài báo sai phạm đạo đức,
thì hoặc là do nó chƣa đƣợc kiểm duyệt, hoặc kiểm duyệt sơ sài (lỗi quản lý),
hoặc nó đƣợc đính hƣớng phải viết nhƣ thế (lỗi đính hƣớng). Không thể chỉ
để một mình phóng viên đó chịu trách nhiệm trƣớc công chúng đƣợc.
Ngoài ra, các trang báo mạng điện tử “tự tung tự tác” trong việc đăng
tải những nội dung không đúng đắn nhƣ thời gian vừa qua chính là do sự lỏng
lẻo trong khâu quản lý của cơ quan chủ quản, và phần lớn chính là Bộ Thông
tin và Truyền thông.
Nhƣ để “sửa sai”, cuối năm 2014, chúng ta chứng kiến hàng loạt các
báo điện tử bị “tuýt còi”. Báo cáo tình hình xử phạt vi phạm hành chính về
báo, chí, xuất bản và thông tin điện tử năm 2014 của Thanh tra Bộ Thông tin
và Truyền thông nêu rõ, cơ quan này đã xử phạt 27 trƣờng hợp thuộc lĩnh
vực thông tin điện tử (với tổng số tiền phạt 555,5 triệu đồng) và 57 trƣờng
hợp thuộc lĩnh vực báo chí (với tổng số tiền phạt lên tới 1.374 tỷ đồng) trong
năm qua. Cụ thể, số lƣợt vi phạm hành chính của các cơ quan báo chí bị xử lý
94
tăng gấp đôi so với năm 2013 (57 so với 27). Riêng đối với lĩnh vực thông tin
điện tử, đã có 5 trƣờng hợp bị cảnh cáo, 7 trƣờng hợp bị thu hồi tên miền .vn,
một trang thông tin điện tử tổng hợp bị tƣớc quyền sử dụng giấy phép hoạt
động trong thời hạn 3 tháng và một cơ quan báo chí khác cũng bị tƣớc quyền
sử dụng giấy phép trong 3 tháng. Trong đó, Báo Thanh Niên 3 lần bị phạt,
tổng số tiền phạt là 115 triệu đồng, Báo Tiền Phong 3 lần bị phạt, số tiền phạt
là 80 triệu đồng. Báo Tuổi trẻ 4 lần bị phạt, tổng số tiền phạt là 42 triệu đồng.
Báo Lao Động 3 lần nhận quyết định phạt, tổng số tiền phạt là 55 triệu đồng.
Báo Đời sống và Pháp luật 4 lần bị phạt với tổng số tiền là 87,5 triệu đồng.
2.2.2.4. Khen thưởng, kỷ luật chưa nghiêm minh, kịp thời
Hiện nay, việc vinh danh, khen thƣởng các nhà báo có hoạt động
nghiệp vụ tốt cũng chƣa nhiều, còn nếu chỉ riêng về khía cạnh đạo đức nghề
nghiệp thì lại càng hiếm có. Từ năm 2006, giải báo chí của Hội nhà báo đã trờ
thành Giải báo chí Quốc gia, đây cũng là điều động viên rất có ý nghĩa đối với
đội ngũ nhà báo. Thiết nghĩ, các mô hình nhƣ thế nên đƣợc nhân rộng, và
đƣợc sự quan tâm, định hƣớng, và hỗ trợ về mặt kinh tế của các tổ chức, cơ
quan quản lý báo chí.
Ngoài ra, các giải báo chí hiện nay đều mang tính chất tổng hợp. Có
chăng, chuyên biệt lại chia theo lĩnh vực hoạt động. Ví dụ nhƣ phóng viên
mảng công nghệ, phóng viên mảng thể thao, phóng viên mảng văn hóa…
Nhƣng theo điều tra của cá nhân, hiện nay chƣa có một nơi quy tụ nào dành
riêng cho các phóng viên báo mạng, trang tin điện tử. Hội nhà báo Trung
ƣơng và Hội nhà báo các Tỉnh, thành hiện nay cũng đã rất chú trọng đến vấn
đề bồi dƣỡng nghiệp vụ cho các phóng viên báo mạng điện tử.
Năm 2013 – 2014 vừa qua đƣợc coi là thời điểm cơ quan quản lý báo
chí bắt đầu “mạnh tay” trong việc xử lý các hành vi vi phạm Luật báo chí và
95
đạo đức nghề nghiệp của các báo. Ngày 19.7.2013, Nghị định 79/2013/NĐ-
CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính (VPHC) trong lĩnh vực thống kê
(có hiệu lực thi hành từ 5.9.2013) tại điều 13, Vi phạm quy định về phổ biến
thông tin thống kê quy định: “...Phạt tiền từ trên 20 - 30 triệu đồng đối với
hành vi phổ biến thông tin thống kê sai sự thật và buộc cải chính thông tin
thống kê sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn đã phổ biến”. Tại điều 14 Vi phạm
quy định về sử dụng thông tin thống kê: “Cảnh cáo đối với hành vi không ghi
rõ nguồn gốc của thông tin thống kê khi phổ biến, đăng tải trên các phƣơng
tiện thông tin đại chúng hoặc các ấn phẩm. Phạt tiền từ 5 - 10 triệu đồng đối
với hành vi trích dẫn không đúng nguồn gốc thông tin thống kê khi phổ biến,
đăng tải trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng hoặc các ấn phẩm. Phạt tiền
từ trên 10 - 20 triệu đồng đối với hành vi làm sai lệch các thông tin thống kê
đã đƣợc cơ quan có thẩm quyền công bố để phổ biến, đăng tải trên các
phƣơng tiện thông tin đại chúng hoặc các ấn phẩm...”. Theo đó, Trong năm
2014, Thanh tra Bộ Thông tin và Truyền thông , Cục Báo chí, Cục Phát thanh
Truyền hình và Thông tin điện tử đã ban hành 68 quyết định xử phạt trong
lĩnh vực báo chí, 31 quyết định xử phạt trong lĩnh vực thông tin điện tử, 9
quyết định xử phạt trong lĩnh vực xuất bản. Số vụ vi phạm bị xử lý trong năm
2014 cao gấp đôi so với năm 2013, đây cũng là năm đầu tiên Bộ Thông tin và
Truyền thông công khai việc xử lý vi phạm của các cơ quan báo chí.
Tuy nhiên, vấn đề tăng cƣờng thi đua khen thƣởng, tạo ra một sân chơi
riêng cho đội ngũ này hiện nay vẫn chƣa đƣợc quan tâm đúng mức. Còn về kỷ
luật vẫn chƣa thực sự nghiêm minh, kịp thời. Còn rất nhiều sai phạm bị bỏ
qua, các chế tài xử phạt cần phải đƣợc đi sâu đi sát vào thực tế đời sống báo
chí hơn nữa.
96
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2
Chƣơng 2 của luận văn đã khảo sát, phân tích và chỉ ra rằng, bên cạnh
những yếu tố tích cực, nhiều thành tựu trong công cuộc xây dựng đất nƣớc,
phản ánh hiện thực xã hội và đấu tranh chống tiêu cực, các thế lực thù địch,
báo mạng điện tử hiện nay cũng đang tồn tại nhiều mặt tiêu cực, trong đó, nổi
bật hơn cả là những sai phạm về đạo đức nghề nghiệp.
Các biểu hiện vi phạm đạo đức báo chí nổi cộm của báo mạng điện tử
hiện nay là: Đăng tải quá nhiều các đề tài tiêu cực, thiếu tính thẩm mĩ và giá
trị nhân văn; Đƣa tin không chính xác; Đƣa tin không trích nguồn, Đƣa tin
sai không đính chính; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn cua nhà báo, cơ quan báo
chí vì mục đích cá nhân (đòi và nhận hối lộ, viết bài vì mục đích thƣơng
mại…)
Từ những biển hiện vi phạm đạo đức nghề nghiệp nổi cộm, luận văn đi
sâu phân tích các nguyên nhân của các hiện tƣợng này. Trong đó, có hai nhóm
là nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan.
Cả hai nguyên nhân này đều quan trọng, tuy nhiên nguyên nhân chủ
quan vẫn là chính, quyết định.
Chƣơng 2 là cơ sở để từ đó tác giả luận văn đề xuất các giải pháp thiết
thực nhằm khắc phục tình trạng vi phạm đạo đức báo chí của báo mạng điện
tử Việt Nam ở chƣơng 3.
97
Chƣơng 3: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ ĐỂ KHẮC PHỤC
TÌNH TRẠNG VI PHẠM ĐẠO ĐỨC CỦA NHÀ BÁO TRÊN BÁO
MẠNG ĐIỆN TỬ.
3.1. Nâng cao hiệu quả quản l nhà nƣớc về báo chí
3.1.1. Tăng cƣờng sự lãnh ạo của Đảng, quản l của nhà nƣớc
Đảng ta luôn kh ng định: báo chí phải đặt dƣới sự lãnh đạo của Đảng,
sự quản lý của Nhà nƣớc, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Với những
ngƣời làm báo, luôn lấy lời dạy của Bác Hồ: “Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ
cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ” làm kim chỉ nam
cho hoạt động. Cuộc đấu tranh về chính trị, tƣ tƣởng trên trận tuyến báo chí,
dù thời chiến hay thời bình, dù trƣớc kia hay hiện nay đều quyết liệt và phức
tạp, nhƣng ngày nay về tính chất, hình thái, cƣờng độ thì cam go, phức tạp và
quyết liệt bội phần.
Sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH,HĐH đất nƣớc và hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học, công nghệ,
nhất là công nghệ thông tin diễn ra ngày càng mạnh mẽ, nhanh chóng, tạo ra
nhiều cơ hội nhƣng cũng nhiều thách thức không thể xem thƣờng. Cách thức
thu nhận, trao đổi thông tin ngày càng đa dạng, hiện đại hơn; các trào lƣu, các
khuynh hƣớng tƣ tƣởng, kể cả âm mƣu, thủ đoạn của các thế lực thù địch,
phản động xâm nhập, tác động vào nƣớc ta ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Tình
hình đó đòi hỏi sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nƣớc đối với báo chí
cần đƣợc đổi mới toàn diện, từ tƣ duy đến phong cách, từ nội dung đến
phƣơng châm, phƣơng thức.
Đảng lãnh đạo báo chí, trƣớc hết là đề ra đƣờng lối, chủ trƣơng phát
triển hệ thống báo chí; định hƣớng chính trị, tƣ tƣởng trong nội dung thông
98
tin, tuyên truyền của báo chí; lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ; lãnh đạo các
đoàn thể chính trị - xã hội - nghề nghiệp trong cơ quan báo chí; lãnh đạo công
tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với tổ chức đảng và đảng viên trong cơ
quan báo chí; lãnh đạo thể chế hoá đƣờng lối, quan điểm của Đảng thành
pháp luật, chính sách của Nhà nƣớc trong hoạt động báo chí.
Đổi mới, tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động báo chí... Xây dựng quy chế để thƣờng
xuyên làm tốt việc định hƣớng và cung cấp thông tin cho báo chí, nhất là đối
với các vấn đề quan trọng, phức tạp, nhạy cảm về đối nội, đối ngoại; nghiên
cứu bổ sung, sửa đổi Luật Báo chí và các văn bản quy phạm pháp luật liên
quan; quy định thẩm quyền, trách nhiệm, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan
chỉ đạo báo chí của Đảng, cơ quan quản lý báo chí của Nhà nƣớc, Hội Nhà
báo và cơ quan chủ quản báo chí đối với cơ quan báo chí và ngƣời làm báo;
xây dựng chế tài đủ mạnh, xử lý dứt điểm, kịp thời, nghiêm minh các sai
phạm
+ Về đổi mới nội dung lãnh đạo. Đảng ta, trực tiếp là các cơ quan tham
mƣu của Đảng về công tác báo chí, cần tích cực, chủ động, sắc bén, kịp thời
trong việc dự báo, định hƣớng chính trị, tƣ tƣởng, nhất là trƣớc những vấn đề
quan trọng, phức tạp, nhạy cảm trong đời sống xã hội; vừa tuyên truyền sâu
rộng đƣờng lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc đến
với ngƣời dân, vừa quan tâm phản ánh tâm tƣ, nguyện vọng của nhân dân đối
với Đảng và Nhà nƣớc.
+ Về phƣơng châm. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý báo chí cần kịp
thời, nhƣng phải đảm bảo tính khoa học, tính thuyết phục, có lý có tình, tránh
áp đặt, mệnh lệnh, phải đạt tới sự tuân thủ một cách tự giác, triệt để của các
cơ quan báo chí và những ngƣời làm báo.
99
+ Về phƣơng thức. Bên cạnh nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy định quan
trọng mà Ban Chấp hành Trung ƣơng, Bộ Chính trị, Ban Bí thƣ đã ban hành,
Đảng cần tiếp tục xây dựng, bổ sung thêm các quy định, quy chế tạo cơ sở
chính trị cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo báo chí. Tiếp tục thể chế hóa đƣờng
lối, quan điểm của Đảng bằng việc bổ sung, sửa đổi Luật Báo chí; xây dựng
Chiến lƣợc thông tin quốc gia tầm nhìn đến năm 2020; xây dựng, hoàn thiện
các văn bản quy phạm pháp luật; xây dựng chế tài đủ mạnh để vừa tạo điều
kiện cho báo chí phát triển đúng hƣớng, vững chắc vừa xử lý kịp thời, dứt
điểm các sai phạm, nhất là các sai phạm lớn, lặp đi lặp lại, kéo dài.
+ Trên cơ sở rà soát chức năng, nhiệm vụ từng cơ quan chủ quản, cơ
quan báo chí khẩn trƣơng lập đề án đổi mới, sắp xếp lại hệ thống các cơ quan
báo chí cả nƣớc, của từng bộ, ngành, đoàn thể, địa phƣơng, đơn vị theo hƣớng
hợp lý, tinh gọn, thiết thực, hiệu quả. Kiên quyết xử lý, thu gọn các báo, tạp
chí, kênh truyền hình nội dung không thiết thực, xa rời tôn chỉ, mục đích hoặc
để sai phạm kéo dài.
+Coi trọng việc xây dựng tổ chức đảng trong cơ quan báo chí trong
sạch, vững mạnh; đề cao vai trò đảng viên của ngƣời làm báo, nhất là ngƣời
giữ cƣơng vị chủ trì. Trên cơ sở đó, nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, định
hƣớng hoạt động của tổ chức đảng đối với tờ báo bảo đảm theo đúng tôn chỉ,
mục đích, chức năng, nhiệm vụ của mình. Nâng cao chất lƣợng tƣ tƣởng,
chính trị, văn hoá, khoa học của từng cơ quan báo chí, để báo chí thực sự là
tiếng nói của Đảng, Nhà nƣớc, các tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp và
là diễn đàn tin cậy của nhân dân.
+ Không ngừng nâng cao chất lƣợng đào tạo, bồi dƣỡng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý báo chí; đào tạo phóng viên, biên tập viên các cơ quan báo
chí. Mở rộng nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm quản lý, đào tạo báo chí với
các nƣớc trong khu vực và trên thế giới.
100
+ Tăng cƣờng sự phối hợp giữa các cơ quan chỉ đạo, quản lý báo chí
và cơ quan chủ quản của báo chí; sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý của các ban
cán sự đảng, đảng đoàn, lãnh đạo cơ quan chủ quản với cơ quan báo chí.
Nâng cao chất lƣợng nội dung, hình thức, khả năng chi phối thông tin của các
báo, đài chủ lực. Đầu tƣ thoả đáng cho hoạt động thông tin đối ngoại; tiếp tục
mở rộng sóng phát thanh, truyền hình ra các nƣớc, khu vực bằng công nghệ
thông tin hiện đại; đƣa sách, báo có nội dung tốt trong nƣớc phục vụ đông đảo
đồng bào ta ở nƣớc ngoài và bạn bè quốc tế; đồng thời, tăng cƣờng giới thiệu,
quảng bá hình ảnh về đất nƣớc và con ngƣời Việt Nam đến nhiều nƣớc trên
thế giới. Kiên quyết đấu tranh chống thông tin, quan điểm sai trái, thù địch
bằng một đội ngũ nhà báo và chuyên gia giàu tâm huyết, có kiến thức và kinh
nghiệm, sử dụng các hình thức và phƣơng tiện phù hợp. Ngăn chặn có hiệu
quả hoạt động xâm nhập báo chí nƣớc ta của các thế lực thù địch, phản động
từ bên ngoài. Tăng cƣờng cơ sở vật chất, kỹ thuật, điều kiện hoạt động cho
các cơ quan báo chí. Nghiên cứu, đổi mới công nghệ, máy móc, thiết bị theo
hƣớng hiện đại; ƣu tiên phủ sóng phát thanh, truyền hình, phát hành các ấn
phẩm báo chí cho giới trẻ, đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo, vùng sâu, vùng
xa, biên giới, biển đảo.
3.1.2. Tạo môi trƣờng thuận l i cho ạo ức nhà báo phát huy
Báo chí là một hình thái ý thức xã hội năng động nhất trong việc phản
ánh hiện thực cuộc sống. Trong đó, báo mạng điện tử là loại hình đang tham
gia cuộc đua ấy một cách khốc liệt nhất. Nhƣng cũng chính từ những đặc thù
của loại hình này, mà nhuận bút của các phóng viên, biên tập viên báo mạng
điện tử đƣợc cho là thấp hơn các loại hình báo chí khác. Cũng trong nhóm các
nguyên nhân gây nên hiện tƣợng vi phạm đạo đức báo chí, các đối tƣợng
đƣợc phỏng vấn đều có nhắc đến lý do “sức ép về doanh số” của tòa soạn và
101
“sức ép về thu nhập” đối với cá nhân để thấy rằng sự phát triển của đạo đức
báo chí nói chung, đạo đức báo chí của nhóm phóng viên báo mạng điện tử
nói riêng cũng bị quy định, chi phối bởi yếu tố kinh tế.
3.1.3. Đề xuất các hình thức khen thƣởng, kỷ luật
Về mặt khen thƣởng, kỉ luật thực sự cần phải đƣợc lƣu ý hơn. Chúng ta
không hi vọng về việc có nhiều trang báo mạng, trang tin điện tử bị phạt.
Nhƣng chắc chắn, với một cơ chế thƣởng phạt phân minh, chắc chắn vấn đề
vi phạm đạo đức báo chí sẽ đƣợc hạn chế đi rất nhiều, và chất lƣơng của nền
báo chí Cách mạng Việt Nam nói chung, và báo mạng điện tử nói riêng sẽ
đƣợc nâng cao rõ rệt. Theo đó, nên chăng, chúng ta:
- Cần phải có những bộ Luật, với những quy định riêng dành cho loại
hình báo mạng điện tử.
- Cần xây dựng quy chế biểu dƣơng, khen thƣởng kịp thời các đơn vị
và cá nhân hoàn thành tốt nhiệm vụ, đóng góp tích cực vào việc phản ánh và
định hƣớng xã hội
- Cần có quy định cải chính, đính chính trên các báo mạng điện tử một
cách rõ ràng hơn. Bởi có nhiều trƣờng hợp những thông tin đăng tải trên báo
mạng điện tử bị sai, sau đó đƣợc các báo mạng, trang tin khác đăng lại. Khi
báo chính đã sửa lại thông tin, hoặc đăng cải chính thì hầu nhƣ các báo mạng
điện tử, trang tin “ăn theo” kia đều không có động thái nào. Thậm chí, các bài
viết đó còn không đƣợc chỉnh sửa mà vẫn lƣu trên mạng.
- Cần có quy định chặt chẽ, nghiêm minh hơn, với mức xử phạt nặng
hơn (không chỉ về tài chính) đối với các hành vi vi phạm đạo đức báo chí, đặc
biệt là trƣờng hợp đƣa tin sai sự thật, thiếu khách quan.
102
- Cần có quy định cụ thể, rõ ràng hơn về chức năng, quyền hạn của các
cơ quan quản lý báo chí. Trong đó, báo mạng điện tử nên có những quy định
riêng, với một cơ quan quản lý riêng nhằm đảm bảo việc kiểm soát thông tin
và hoạt động nghiệp vụ của nhà báo.
- Cần tăng cƣờng tính hiệu lực của Quy định đạo đức nghề nghiệp của
nhà báo Việt Nam. Trong đó, bổ sung thêm những Quy định về đạo đức nghề
nghiệp đối với từng loại hình cụ thể, trong đó có báo mạng điện tử.
3.1.4. Đề xuất bộ quy chuẩn ạo ức báo chí cho báo mạng iện tử
Quy định đạp đức nghề nghiệp cần phải tính đến những hiện tƣợng mà
pháp luật không thể cân, đo, đong, đếm hoặc điều chỉnh đƣợc. Với báo mạng
điện tử, loại hình có tính đặc thù rất dễ trong việc biên tập, chỉnh sửa, điều
này cần phải đƣợc lƣu ý hơn.
Trên thực tế, hiện nay chƣa có một bộ quy chuẩn đạo đức báo chí dành
riêng cho báo mạng điện tử. Theo khảo sát, có nhiều ngƣời cho rằng, chỉ cần
các phóng viên, biên tập viên của báo mạng điện tử theo sát những quy chuẩn
chung của đạo đức nghề nghiệp nhà báo là có thể hạn chế đƣợc tối đa những
sai phạm. Tuy nhiên, sau quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn xin đƣợc đề
xuất một bộ quy chuẩn đạo đức báo chí cho báo mạng điện tử - dựa trên bộ
quy chuẩn chung – và có bổ sung một vài điểm đặc thù của loại hình nhƣ sau:
1. Tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và Nhân dân. Lợi ích của
Tổ quốc và Nhân dân phải đƣợc đặt lên hàng đầu.
2. Tôn trọng sự thật, đảm bảo tính chính xác, trung thực của thông
tin và tôn trọng quyền đƣợc biết sự thật của công chúng.
103
3. Tôn trọng quyền tự do ngôn luận của độc giả, tạo môi trƣờng
tƣơng tác lành mạnh để nhà báo và độc giả cùng nâng cao văn hóa và hiểu
biết.
4. Tôn trọng sự riêng tƣ và phẩm giá con ngƣời. Không đƣợc xuất
bản tin tức dƣới mọi hình thức nếu nhƣ không đƣợc sử đồng ý của ngƣời cung
cấp thông tin đó.
5. Tôn trọng các giá trị văn hóa chung và sự đa dạng văn hóa vùng
miền; Giữ gìn và phát huy văn hóa dân tộc đồng thời tiếp thu có chọn lọc các
nền văn hóa khác.
6. Tôn trọng bản quyền của các tác giả, không đạo văn, không xào
bài, lấy thông tin dƣới mọi hình thức khi chƣa có sự cho phép của tác giả.
7. Không đăng các quảng cáo vi phạm những nguyên tắc đạo đức
đƣợc thiết lập và các giá trị văn hóa, phong tục tập quán của dân tộc. Tránh
đăng những thông tin gây hiểu nhầm cho công chúng về thành phần, công
dụng, tính năng….của các sản phẩm khi quảng cáo.
8. Nỗ lực đính chính để khắc phục các thông tin không chính xác,
không chỉ trên báo mình, mà còn ở cả các kênh thông tin khác. Không đƣợc
tùy tiện chỉnh sửa thông tin bằng các thủ thuật mà phải có nguyên tắc khi sửa
chữa, đính chính thông tin và xin lỗi công khai những cá nhân, bị ảnh hƣởng
bởi thông tin sai lệch. Ngƣời bị ảnh hƣởng bởi nguồn tin phải có quyền đƣợc
phản hồi sau khi nhận đƣợc đính chính.
9. Thƣờng xuyên trau dồi chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức văn hóa
và đạo đức của bản thân cũng nhƣ có trách nhiệm nhắc nhở đồng nghiệp, cấp
dƣới thực hiện nghĩa vụ này.
104
3.2. Nâng cao trình ộ ội ngũ lãnh ạo, quản l báo chí.
Đội ngũ lãnh đạo, quản lý báo chí phải là Đảng viên, có bản lĩnh
chính trị vững vàng
Trƣớc tình hình chính trị - xã hội ngày càng phức tạp, ngƣời cán bộ làm
nhiệm vụ lãnh đạo quản lý phải thật sự tỉnh táo, khôn ngoan để không mắc sai
lầm. Các phóng viên, biên tập viên, đôi khi có thể thiếu nhạy cảm chính trị,
không nhìn ra vấn để dẫn đến mắc sai sót. Nhƣng thƣ ký tòa soạn, phó tổng
biên tập, tổng biên tập – những ngƣời đứng đầu tòa soạn báo phải là ngƣời
“gác cổng” thông minh, nhạy bén, đƣa ra những quyết định chính xác kịp thời
để hạn chế sai phạm ở mức tối thiểu.
Đề tài này liệu có nên đƣợc duyệt không? Phƣơng thức phóng viên thực
hiện bài viết có ổn không? Bài viết có phải biên tập, cắt xén, chỉnh sửa gì
không? Phóng viên có phải viết lại bài không? Bài viết này có cần “gác” lại,
không đăng trong thời gian này vị nhạy cảm chính trị, xã hội không? Có cần
thiết phải hủy bỏ loạt bài này không? Khi phóng viên sai phạm, bạn đọc gửi
thƣ khiếu nại thì xử lý khủng hoảng truyền thông nhƣ thế nào? Tất cả những
điều đó, ngƣời cán bộ làm nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý phải đƣa ra quyết định
và chịu trách nhiệm với quyết định của mình.
Khi một tác phẩm vi phạm đạo đức báo chí, bị bộ Thông tin & Truyền
thông “tuýt còi”, không phải chỉ có ngƣời phóng viên/biên tập viên phải chịu
trách nhiệm. Ban Thƣ ký tòa soạn, lãnh đạo của tờ báo cũng không tránh khỏi
liên đới. Là những ngƣời đứng đầu cơ quan báo chí mà để xảy ra sai phạm,
ngƣời quản lý cũng cần phải nhận những hình thức kỷ luật nghiêm minh.
105
Trình độ chuyên môn cao, đạo đức nghề nghiệp vững vàng
Không chỉ sinh viên báo chí, các nhà báo mới vào nghề mới cần đƣợc
giáo dục đạo đức nghề nghiệp. Trên thực tế công tác giáo dục, bồi dƣỡng đạo
đức cho cán bộ báo chí còn chƣa đƣợc quan tâm đúng mức. Ngay cả đội ngũ
lãnh đạo, quản lý các cơ quan báo chí hiện nay, nhất là tại các tòa soạn báo
điện tử còn nhiều bất cập. Hàng năm, Hội nhà báo Việt Nam, Bộ Thông tin và
Truyền thông tổ chức rất nhiều các lớp học bồi dƣỡng nâng cao trình độ
nghiệp vụ, tuy nhiên bồi dƣỡng về đạo đức nghề nghiệp thì rất ít. Các hội thảo
nhƣ hội thảo nhƣ Tọa đàm khoa học về “Sự xâm nhập của các phƣơng tiện
truyền thông mới vào Việt Nam và ứng xử của các nhà báo trẻ” của Đoàn
khối các cơ quan báo chí Trung ƣơng diễn ra vào tháng 06 năm 2013 vừa qua
thực sự là những hoạt động báo chí ý nghĩa để nâng cao nghiệp vụ cũng nhƣ
đạo đức của các nhà báo hiện nay.
Về năng lực quản lý, lãnh đạo
Để nâng cao tính chuyên nghiệp trong nền báo chí, giúp cho loại hình
báo chí non trẻ nhất, nhƣng lại đang phát triển mạnh nhất hiện nay là báo
mạng điện tử có thể đi đúng hƣớng thì năng lực quản lý, lãnh đạo, điều hành
của bộ máy các cơ quan báo chí, các tòa soạn điện tử cũng cần phải đƣợc
nâng cao. Những ngƣời làm công tác lãnh đạo cần phải đƣợc đào tạo bài bản,
không chỉ ở năng lực chuyên môn, mà còn ở công tác quản lý. Chúng ta ví
những ngƣời lãnh đạo một tòa soạn báo giống nhƣ một thuyền trƣởng. Nếu
thuyền trƣởng có chuyên môn kém thì chắc chắn không thể là một lãnh đạo
tốt. Nhƣng nếu có chuyên môn tốt, nhƣng lại không có tầm nhìn, định hƣớng,
không đƣợc trau dồi về đạo đức nghề nghiệp, không có phƣơng pháp quản lý,
khả năng lãnh đạo, thì các thủy thủ sẽ không có kỷ luật, con thuyền sẽ không
mất phƣơng hƣớng, và sớm muộn gì cũng có những lỗ hổng, và đắm thuyền.
106
Phóng viên là một nghề nghiệp mang tính chuyên nghiệp cao. Nhƣng
với các thể loại báo chí nhƣ báo giấy, báo truyền hình, báo phát thanh, các
công đoạn trong quá trình sáng tạo tác phẩm báo chí còn đƣợc chia làm nhiều
bƣớc, với nhiều cấp bậc, giai đoạn. Tuy là hạn chế về mặt không gian, thời
gian, nhƣng bù lại, mỗi khâu làm việc, mỗi công đoạn, và cách làm việc tập
thể của các thể loại này giúp cho việc kiểm duyệt thông tin đƣợc chặt chẽ
hơn, tránh đƣợc nhiều sai sót hơn. Còn với báo mạng điện tử, do đƣợc sự hỗ
trợ tối đa của các phƣơng tiện thông tin truyền thông, và sức ép về việc cạnh
tranh tốc độ tin tức, nên các công đoạn đƣợc sàng lọc và rút ngắn rất nhiều. Vì
thế, ngƣời lãnh đạo cần có năng lực quản lý tốt, để có thể nắm bắt đƣợc tất cả
các vấn đề đang diễn biến trên trang báo điện tử của mình. Khâu thẩm duyệt
đƣợc rút ngắn về không gian, thời gian, nhân lực nhƣng không đƣợc rút ngắn
về chất lƣợng. Không quản lý nhân sự bằng cách ràng buộc giờ giấc, nhƣng
vẫn phải nắm đƣợc hoạt động của các nhân viên. Có nhƣ thế, tòa soạn mới có
thể vận hành trơn tru mà giảm thiểu đƣợc các sai phạm, trong đó, có sai phạm
về mặt đạo đức báo chí.
Khi trả lời phỏng vấn sâu, công chúng và cả ngƣời trong cuộc đều nhìn
nhận rất công bằng, rằng trong các sai phạm về đạo đức báo chí, lỗi không chỉ
nằm ở ngƣời phóng viên, mà còn nằm ở cơ quan chủ quản. Nếu nhƣ quản lý
chặt chẽ, kiểm duyệt nghiêm ngặt thì các sai sót chắc chắn sẽ đƣợc giảm đi rất
nhiều. Muốn đƣợc nhƣ thế, năng lực quản lý của lãnh đạo phải thƣờng xuyên
đƣợc đào tạo và nâng cao.
3.3. Nâng cao trình ộ ội ngũ phóng viên/ biên tập viên
3.3.1. Nâng cao chất lƣ ng ào tạo báo chí
Giáo dục có vai trò quan trọng hàng đầu trong quá trình hình thành và
phát triển nhân cách. Nhờ có giáo dục, đạo đức mới dần dần phát triển và
107
hoàn thiện trong ý thức cá nhân và ý thức xã hội, trở thành yếu tố thống trị
trong đời sống xã hội. Vì vậy, giáo dục đạo đức là yêu cầu khách quan nhằm
nâng cao đạo đức nói chung, đạo đức nghề nghiệp nói riêng cho đội ngũ nhà
báo.
Đƣợc biết nhiều ngành khác cũng rất chú trọng đến việc giáo dục đạo
đức cho cán bộ trong ngành, đặc biệt là cho sinh viên trong nhà trƣờng. Nhƣ
ngành y sẽ đƣợc giáo dục về y đức. Trƣờng sƣ phạm sẽ đƣợc giáo dục về đạo
đức ngƣời thầy…
Việt Nam hiện có 4 cơ sở đào tạo báo chí lớn: Đại học Khoa học xã hội
và Nhân văn Hà Nội, Học viện Báo Chí & Tuyên Truyền, Đại học Khoa học
Huế và Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài
ra, ở rất nhiều trƣờng đại học hiện nay cũng có mở thêm chuyên ngành báo
chí nhƣ Đại học Thái Nguyên, Đại học sƣ phạm Đà Nẵng, Đại học Vinh, Đại
học Văn Hóa Hà Nội v..v… Về cao đ ng nổi bật nhất là Cao đ ng Phát thanh
Truyền hình Hà Nội, Cao đ ng Phát thanh Truyền hình 1 (Của Đài tiếng nói
Việt Nam tại Phủ Lý, Hà Nam) và Cao đ ng Phát thanh Truyền hình Thành
phố Hồ Chí Minh. Chƣa kể đến nhiều trƣờng cao đ ng, Trung cấp Phát thanh,
Truyền hình nằm rải rác ở các địa phƣơng, các trung tâm đào tạo nghiệp vụ
mọc lên nhƣ nấm sau mƣa. Thế nhƣng, một thực tế đau lòng, số lƣợng sinh
viên báo chí đƣợc đào tạo chính quy ra trƣờng không nhiều (con số không
chính xác là chỉ khoảng 1/3), còn tỉ lệ những ngƣời làm báo chƣa từng qua
trƣờng lớp đào tạo về báo chí lại rất cao. Trong đó, báo điện tử là một trong
những loại hình chiếm tỉ lệ cao nhất.
Đầu tiên, phải kể đến lƣợng phóng viên, biên tập viên hiện đang làm
báo hàng ngày, nhƣng lại không đƣợc đào tạo báo chí chính quy. Điều này
ảnh hƣởng ít nhiều đến lập trƣờng chính trị, đến trình độ tác nghiệp, đến nhãn
108
quan đánh giá vấn đề, và tất nhiên cả đạo đức nghề nghiệp của ngƣời làm báo.
Khi không có kiến thức nền tảng, nhiều ngƣời sẽ rất dễ lầm tƣởng về việc “dễ
dàng” trong quá trình sáng tạo nên tác phẩm báo chí, khiến cho các hiện
tƣợng nhƣ xào bài không xin phép, phóng viên bàn giấy…
Môn học “Đạo đức nghề nghiệp và Luật báo chí” đã đƣợc đƣa vào
giảng dạy tại các trƣờng nhƣ Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Đại học
Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội và một số cơ sở khác. Tuy nhiên điều đó
vẫn chƣa đủ. Việc giáo dục đạo đức cho sinh viên báo chí không chỉ là nhiệm
vụ của thầy cô mà tất cả các môn học chuyên ngành đều có thể lồng ghép nội
dung này vào bài giảng với những ví dụ, những hiện tƣợng tiêu biểu trong đời
sống báo chí. Ngoài ra, các cơ quan quan báo chí, nơi sinh viên và những nhà
báo trẻ mới vào nghề thực tập, thử việc cũng nên có sự giám sát chặt chẽ,
quan tâm nhiều hơn đền việt rèn nghề và giáo dục nghề nghiệp cho các nhà
báo, phóng viên.
Từ thực tế, có thể rút ra những giải pháp cơ bản trong việc nâng cao
chất lƣợng đào tạo nhà báo nhƣ sau:
+ Việc tuyển sinh cần được chú trọng hơn, để nâng cao chất lượng đầu
vào. Báo chí là một nghề đặc biệt, bên cạnh các tố chất thông minh, chăm chỉ,
kiên trì, phải có năng khiếu. Nếu không có năng khiếu, sinh viên học nghề
báo ra trƣờng sẽ loay hoay với những kiến thức đƣợc giảng dạy trong nhà
trƣờng nhƣng không thể áp dụng vào thực tế. Từ năm 2015, Học viện Báo chí
& Tuyên truyền đã tổ chức thêm môn Năng khiếu Báo chí đối với các thí sinh
thi vào ngành Báo chí. Thiết nghĩ, việc này cần đƣợc nhân rộng để chọn ra
những sinh viên thực sự phù hợp với nghề báo.
+ Nâng cao chất lượng giáo trình báo chí. Hiện tại, mỗi cơ sở đào tạo
báo chí tại Việt Nam lại có bộ giáo trình riêng, thiếu thống nhất. Chất lƣợng
109
giáo trình không đồng đều. Nhiều giáo trình đƣợc soạn sơ sài, ẩu, nhiều lỗi
chính tả, nặng lý thuyết, ít tính thực tiễn. Cần có một bộ giáo trình chuẩn về
báo chí do các giáo sƣ, học giả hàng đầu biên soạn và phải đƣợc Bộ Thông tin
& Truyền thông thông qua.
+ Nâng cao chất lượng giảng viên báo chí. Đối ngũ giảng viên báo chí
ở Việt Nam hiện nay vừa thiếu, vừa yếu. Rất nhiều trƣởng đại học phải “đi
mƣợn” các giảng viên báo chí ở trƣờng khác. Nhiều giảng viên báo chí chỉ có
bằng cử nhân, giảng dạy một thời gian mới phấn đấu lên thạc sĩ. Có những
giảng viên bằng cấp đầy đủ nhƣng chƣa đi làm báo ngày nào, kinh nghiệm
thực tiễn hạn chế, dẫn đến bài giảng nặng lý thuyết, thiếu thuyết phục. Những
nhà báo kinh nghiệm đƣợc trƣờng đại học mới đến nói chuyện thì kinh
nghiệm làm báo cũng nhƣ vốn sống rất dồi dào nhƣng trình độ sƣ phạm lại
“không ổn”. Bài giảng của các nhà báo rất sinh động, hấp dẫn nhƣng nặng về
chủ nghĩa kinh nghiệm, nhiều khi “lệch chuẩn”, “sai mà không biết”. Để khắc
phục tình trạng này cần sát sao hơn trong việc tuyển chọn giảng viên báo chí:
Bắt buộc phải có trình độ thạc trở lên; Đã có ít nhất 3 năm công tác tại một cơ
quan báo chí. Ngoài ra, các giảng viên báo chí cần đƣợc quan tâm, hỗ trợ
nhiều hơn để yên tâm công tác.
3.3.2. Thắt chặt quy trình tuyển d ng báo mạng iện tử
Cũng nhƣ đối với phóng viên các thể loại báo chí khác, khi đã quyết
định theo đuổi nghề báo, cần phải đáp ứng đƣợc đầy đủ các yếu tố cơ bản về
kiến thức nghiệp vụ cũng nhƣ đạo đức nghề nghiệp.
Tuy nhiên, đối với các phóng viên ở mảng báo mạng điện tử, khi tuyển
dụng, tòa soạn nên đặt thêm các yêu cầu riêng để đáp ứng đƣợc đặc thù của
thể loại.
110
Tổng hợp lại giữa cái chung và cái riêng, đối với tòa soạn báo mạng
điện tử, khi tuyển dụng phóng viên vào làm việc nên đặt ra các tiêu chí sau:
- Về trình độ chuyên môn: Cần phải đƣợc tốt nghiệp chính quy, hoặc
trải qua các khóa đào tạo về báo chí, truyền thông để có đƣợc cảm quan và
nhãn quan của ngƣời làm báo. Nắm vững đƣợc các đặc thù của thể loại và bản
chất của các xu hƣớng truyền thông.
- Về kỹ năng nghiệp vụ: Phải có kỹ năng sử dụng, khai thác internet,
thành thạo các công cụ hỗ trợ để có thể tác nghiệp và xử lý các tình huống
trong thời gian ngắn nhất. Biết tận dụng tất cả các công cụ để truyền tải thông
tin, ví dụ nhƣ mạng xã hội. Mọi cơ hội mà mạng xã hội mang lại đều phải
đƣợc tận dụng một cách thông minh, có nghề để không chỉ đƣa thông tin đến
công chúng mà còn giúp cho ngƣời làm báo hiểu rõ nhu cầu và những mối
quan tâm hàng đầu của công chúng.
- Về các kiến thức bổ trợ: Với mỗi phóng viên ở một lĩnh vực khác
nhau, thì các kiến thức nền cũng cần phải đƣợc trang bị. Phóng viên về kinh tế
cần am hiểu các kiến thức về kinh tế, tài chính và luật kinh tế. Phóng viên
trong mảng văn hóa cần phải tìm hiểu về các khái niệm, các quan niệm văn
hóa với mỗi đối tƣợng, vùng miền… Ngoài ra, am hiểu về tòa soạn, và về
công chúng, cũng là những yêu cầu mà các tòa soạn nên đặt ra khi tuyển dụng
phóng viên. Với mỗi tòa soạn báo, lại có một định hƣớng phát triển, và một
nhóm đối tƣợng mục tiêu. Điều này sẽ chi phối đến cách khai thác đề tài và
triển khai bài viết của mỗi phóng viên. Phải hiểu biết rõ về đối tƣợng mục tiêu
của mỗi loại hình báo chí, đối tƣợng công chúng đó cần biết thông tin nào, họ
sử dụng loại hình báo chí đó ra sao.
- Phóng viên trƣớc khi chính thức làm việc ở một cơ quan báo chí cần
đƣợc kiểm tra về trình độ hiểu biết luật báo chí. Nắm rõ luật để không bị
111
phạm luật một cách thiếu hiểu biết. Siết chặt đầu vào các cơ quan báo chí
cũng là một cách hiệu quả để thanh lọc môi trƣờng báo chí nƣớc nhà.
- Vì đạo đức nghề nghiệp là một khái niệm trừu tƣợng, nhƣng nó cũng
là hệ quả của việc yếu kém trong trình độ và kỹ năng cụ thể, vì thế, việc nâng
cao yêu cầu đầu vào bằng cách tổ chức các cuộc thi tuyển công khai cũng là
cách để khắc phục các sai phạm về mặt đạo đức nhà báo của các tòa soạn.
- Bên cạnh đó, trƣớc và trong quá trình làm việc, các tòa soạn nên có
các đợt tập huấn, bổ túc liên tục cho phóng viên, cả về mặt nghiệp vụ và đạo
đức nghề nghiệp cũng nhƣ các nghị định, quy định mới của các bộ ban ngành
để phóng viên nâng cao bản lĩnh chính trị.
Nhiều khi phóng viên vi phạm đạo đức báo chí vì thiếu hiểu biết. Ví dụ
khi đƣa tin về những ngƣời nhiễm HIV-AIDS cần chú ý những gì để không
phân biệt, đối xử, không kì thị những ngƣời nhiễm bệnh? Khi đƣa tin hình sự,
làm sao để không bị sa đà vào kể lể những tình huống giật gân, phạm tội?
Làm sao để không xoáy sâu vào nỗi đau của gia đình nạn nhân? Làm sao để
tôn trọng “giả định vô tội”, không kết tội bị cáo trƣớc khi có kết luận chính
thức của tòa án. Cần phải chú ý những gì khi viết bài về đối tƣợng trẻ em? Tất
cả những điều đó, nhà báo cần đƣợc học. Những khóa đào tạo hoặc hội thảo
chuyên biệt là rất cần thiết để nâng cao trình độ nhà báo.
3.3.3. Những yêu cầu mới ối với các phóng viên/ biên tập viên báo
mạng iện tử
Nâng cao bản lĩnh chính trị, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân
của nhà báo
Đội ngũ những ngƣời làm báo phải luôn nâng cao bản lĩnh chính trị,
trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân và đạo đức nghề nghiệp; tiếp tục phát
112
huy vai trò xung kích trên mặt trận tƣ tƣởng-văn hóa, bảo vệ đƣờng lối, quan
điểm của Đảng, bảo vệ chế độ XHCN, đóng góp vào sự phát triển chung của
xã hội.
Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh từng phát biểu: “Cán bộ báo chí cũng
là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ”. Ngƣời
làm báo là những ngƣời có vai trò quan trọng trong việc “phục vụ phong trào
thi đua yêu nƣớc và công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa”. “Ngòi bút của các
bạn cũng là những vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính trừ tà”. Vì báo
chí có “một địa vị quan trọng trong dƣ luận” nên ngoài việc luôn chú ý đến
nội dung, hình thức và cách viết hấp dẫn, Ngƣời yêu cầu đội ngũ cán bộ báo
chí phải có phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn và đạo đức cách mạng.
Những yêu cầu đó cũng chính là những nội dung căn bản, những nguyên tắc
sống còn của nền báo chí cách mạng, nhà báo cách mạng.
Lập trƣờng chính trị là yếu tố, phẩm chất hàng đầu của nhà báo cách
mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Tất cả những ngƣời làm báo (ngƣời
viết, ngƣời in, ngƣời sửa bài, ngƣời phát hành, v.v..) phải có lập trƣờng chính
trị vững chắc. Chính trị phải làm chủ. Đƣờng lối chính trị đúng thì những việc
khác mới đúng đƣợc”. Đồng chí Trƣờng Chinh cũng nói: “Làm báo là viết
cho ngƣời khác xem, là tuyên truyền, cổ động nhân dân ra sức phấn đấu, thực
hiện đƣờng lối, chính sách và khẩu hiệu của Đảng, là nói tiếng nói của Đảng”.
Nhà báo nào xác lập đƣợc lập trƣờng chính trị vững vàng sẽ không lệch lạc,
xa rời nhiệm vụ chính trị, chạy theo những xu hƣớng, quan niệm sai lầm dẫn
đến vi phạm pháp luật và đạo đức nghề nghiệp.
Đi liền với lập trƣờng chính trị là bản lĩnh chính trị. Đó là khả năng
phát hiện, phán đoán, phân tích nhanh và tìm ra bản chất, xu hƣớng vận động
của vấn đề. Bản lĩnh chính trị giúp nhà báo "bắt" đƣợc mạch sống chủ đạo của
xã hội để phát hiện vấn đề và chọn thời điểm cũng nhƣ tìm cách thức thông
113
tin phù hợp, có hiệu quả. Một tác phẩm báo chí có sức sống, lay động dƣ luận
xã hội, đƣợc đông đảo bạn đọc đồng tình, trƣớc hết tác phẩm đó đề cập đúng
vấn đề mà thực tiễn cuộc sống đặt ra cộng với sự chắt lọc tƣ liệu trong quá
trình khảo sát thực tiễn công phu, sự đầu tƣ trí tuệ của tác giả bằng tất cả sự
say mê nghề nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân. Phẩm
chất này đƣợc hình thành nhờ sự rèn luyện trong thực tiễn hoạt động báo chí,
nhƣng cũng không loại trừ có sự góp phần của năng khiếu.
Cần phải trang bị cho mình kiến thức về văn hóa, xã hội
Giải mã văn hóa Việt Nam trƣớc khi thực hành nghề nghiệp là một yêu
cầu bắt buộc đối với mọi nhà báo bởi mọi hoạt động xã hội đều cần phải có
văn hóa. Văn hóa – hay chính là cái đẹp, cái “chân – thiện – mỹ”, là những
cách ứng xử của con ngƣời với môi trƣờng tự nhiên và môi trƣờng xã hội, mà
nhiệm vụ của báo chí là phản ánh cuộc sống, nên phải đứng trên góc độ giải
mã văn hóa trƣớc khi giúp bài là nhiệm vụ đặt ra đối với mỗi nhà báo để:
Xác định nội dung, chủ đề tƣ tƣởng cho bài viết: Có phục vụ đƣợc nhu
cầu thông tin của khách thể tiếp nhận – nhƣng chính là chủ thể văn hóa hay
không.
Đi sâu, đánh giá, tìm hiểu nguyên nhân vấn đề: Đứng trên góc độ giải
mã chủ thể văn hóa, không gian văn hóa, thời gian văn hóa của Việt Nam để
lý giải một cách xác đáng vì sao lại có sự việc, hành động, sự kiện đó xảy ra.
Để đƣa ra nhận định, biện pháp khắc phục, hƣớng giải quyết vấn đề:
Bất cứ vấn đề nào muốn giải quyết cũng phải đảm bảo giữ gìn đƣợc những
quy ƣớc về văn hóa của dân tộc.. Không có cách giải quyết nào thấu đáo nếu
không hợp tình hợp lý, nếu đi trái lại luân lý đạo thƣờng của dân tộc. Vì dụ
nhƣ cùng là hành động đó, nếu ở không gian văn hóa Tây Bắc là một hƣớng 114
giải quyết êm đẹp, nhƣng nếu nằm trong tiểu vùng văn hóa Tây nguyên, hay
Nam Trung Bộ sẽ không thể phát triển theo chiều hƣớng tích cực đƣợc.
Phông kiến thức văn hóa - xã hội là biểu hiện kết quả của vốn sống, của
quá trình học tập, bồi dƣỡng hiểu theo ý nghĩa rộng nhất của những từ này.
Nhà báo là ngƣời của công chúng, làm ra tác phẩm cho đại chúng, phải có
kiến thức văn hóa - xã hội đủ sâu rộng, anh ta mới có điều kiện tạo ra những
tác phẩm báo chí đáp ứng tốt nhu cầu của các nhóm công chúng khác nhau.
Trong số các kiến thức về văn hóa - xã hội, nhà báo phải nắm vững các
kỹ năng sử dụng ngôn từ để bảo đảm tính hiệu quả cao của hoạt động truyền
thông, vì đó là phƣơng tiện chuyển tải thông tin đặc biệt quan trọng, trong
nhiều trƣờng hợp thậm chí là duy nhất, của nhà báo.
Phông kiến thức của nhà báo dù có sâu rộng đến mấy, cũng phải luôn
nằm trong trạng thái “động”, luôn đƣợc cập nhật. Trong thời đại bùng nổ
thông tin và kinh tế tri thức, mọi cái mới nhất đều có thể nhanh chóng trở
thành cái cũ. Mặt khác, trình độ của công chúng không ngừng đƣợc nâng cao,
đòi hỏi nhà báo phải liên tục trau dồi, tích lũy kiến thức để trở thành ngƣời
đồng hành, ngƣời đối thoại xứng đáng đối với họ.
“Văn hóa” và “Đạo đức” luôn đi kèm với nhau. Tƣơng tự nhƣ thế là
“văn hóa báo chí” và “đạo đức báo chí”. Nếu nhà báo không phải là ngƣời
am hiểu văn hóa, vì văn hóa, hƣớng đến cái chân, cái thiện, cái mĩ thì sớm
muộn gì báo chí cũng trở thành “cái chợ”.
Không ngừng trau dồi kiến thức, cập nhật những xu thế phát triển
của báo chí hiện đại
115
Diện mạo của nhà báo hiện đại phải thay đổi căn bản, không thể chuyên
biệt nữa, mà phải đa chức năng, cần thực hiện đƣợc nhiều thao tác, tùy theo
tính chất đa loại hình của cơ quan báo chí.
Mặt khác, sự cạnh tranh thông tin ngày càng gay gắt, mà nguồn nhân
lực ngày càng hạn chế cũng đòi hỏi nhà báo hiện đại phải tác nghiệp thành
thạo trên nhiều công đoạn với tính độc lập rất cao. Muốn vậy, nhà báo hiện
đại phải đƣợc đào tạo hết sức bài bản, liên tục bồi dƣỡng nâng cao để theo kịp
yêu cầu của thực tiễn.
Nếu không tự làm “mới” mình, bắt kịp với những thay đổi ngày càng
nhiều của thực tiễn, không những nhà báo sẽ bị tụt hậu, đƣa ra những sản
phẩm kém chất lƣợng, đánh mất độc giả mà còn có nguy cơ vi phạm đạo đức
báo chí vì thiếu hiểu biết.
Không ngừng rèn luyện đạo đức, nâng cao nghiệp vụ
Năng lực và phẩm chất nghề nghiệp luôn đi song hành. Không có đạo
đức thì nhà báo không có gốc, nhƣng nếu không có năng lực thì nhà báo
không thể hành nghề, không thể có bài báo hay. Một nhà báo yếu kém về
năng lực nghiệp vụ thì rất có thể sẽ không đủ trình độ để nhận thức chính xác
bản chất của sự việc và điều đó sẽ dẫn đến những sai sót. Vì vậy, việc trau dồi
nghiệp vụ chuyện môn cần phải luôn đi liền với việc rèn luyện, tu dƣỡng về
đạo đức.
Một nhà báo viết về tòa án phải hiểu biết sâu rộng về luật để không
phạm phải các lỗi nhƣ: kết án ngƣời bị tình nghi trƣớc khi tòa án tuyên cáo,
không đƣa ra những nhận định hồ đồ thiếu căn cứ. Một nhà báo viết về kinh
tế phải có kiến thức nền về kinh tế, về thƣơng nghiệp, luật pháp, về chứng
khoán… Phóng viên kinh tế phải tỉnh táo khi đi thực tế, bám sát cơ sở bởi
doanh nghiệp thƣờng có thói quen “tâng bốc” thành tích và giấu nhẹm những 116
yếu kém, khuyết điểm. Năng lực kém có thể dẫn đến việc ca ngợi quá lố,
tuyên truyền, cổ súy ngƣời dân đua nhau làm thủy sản hoặc đua nhau nuôi
chim cút, nuôi dê lấy sữa, bỏ lúa để trồng mía…
Các báo ở Thành phố Hồ Chí Minh và cả nƣớc một thời đã nêu gƣơng
các điển hình năng động, làm kinh tế giỏi, đóng góp lớn cho kinh tế- xã hội
nƣớc nhà. Một số điển hình cho tới hôm nay vẫn còn là những tấm gƣơng
sáng năng động và sáng tạo đáng để cho nhiều ngƣời, nhiều nơi phải học tập
noi theo. Nhƣng cũng có không ít các điển hình dỏm đã trở nên những thần
tƣợng sụp đổ gây họa lớn cho dân cho Nhà nƣớc.
Có thể kể ngay ra đây những điển hình tai hại nhƣ “Nƣớc hoa Thanh
Hƣơng”, “HTX Đại Thành”, “May Huy Hoàng”, “Sơn mài Lam Sơn”, “May
xuất khẩu Minh Phụng”, “Công ty xây dựng Xacogiva”, “Công ty EPCO”,
“Công ty xuất nhập khẩu TAMEXCO”, “Tín dụng Hòa Hƣng”, “Đông lạnh
Hùng Vƣơng”, “Tập đoàn tín dụng và đầu tƣ của đại gia Trần Tuấn Tài ở
quận V”, “Saigon Petro”… và nhiều công ty khác.
Các phóng viên kinh tế cũng cần phải có bản lĩnh vững vàng để không
bị lung lay trƣớc những “món hời” mà các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất
sẵn sàng đƣa ra cho các nhà báo.
Phóng viên về Văn hóa – Giải trí cũng cần hiểu rõ lĩnh vực mình viết.
Ngƣời không có Tâm và có Tài sẽ chạy theo đời tƣ của các ngôi sao, tôn vinh
những kẻ không có thực lực nhƣng lại lắm chiêu trò, thổi phồng tin đồn, gây
xích mích trong showbiz để có thêm tin, bài trên báo.
Dù viết về bất cứ lĩnh vực gì, ngƣời làm báo đều phải thực sự am hiểu
và có năng lực chuyên môn cao.
117
3.4. Nâng cao văn hóa tiếp nhận và tham gia cho công chúng
Lật ngƣợc lại vấn đề, vì sao tòa soạn và phóng viên phải chạy theo xu
hƣớng câu view, giật tít để hút ngƣời xem. Đó chính là vấn đề ở “cung” và
“cầu”, hay nói cách khác, chính là ở mối quan hệ giữa chủ thể và đối tƣợng
tiếp nhận thông tin, trong đó, internet cũng chỉ là công cụ, phƣơng thức truyền
tải.
Trong xã hội có những công chúng thông minh, công chúng có văn
hóa, chiếm tỷ lệ khá cao. Báo chí coi đó là đối tƣợng vừa tiếp nhận thông tin
vừa là chủ thể lan tỏa những giá trị chân, thiện, mỹ. Tuy nhiên, trong một xã
hội rộng lớn, chúng ta có nhiều nhóm đối tƣợng công chúng theo ngành nghề,
trình độ, sở thích, giới tính, độ tuổi… Cũng có một bộ phận công chúng thị
hiếu bình thƣờng thậm chí tầm thƣờng, nhƣng không nhiều. Nếu báo chí chỉ
chăm chú phục vụ đối tƣợng “cá biệt” này thì không thể có một nền báo chí
cách mạng, chính quy, chuyên nghiệp, hiện đại, thậm chí sa vào yếu kém.
Cho nên, trong hoạt động báo chí – truyền thông, rất cần bản lĩnh văn hóa,
tầm nhìn văn hóa, ứng xử văn hóa, để từ đó xử lý mọi mối quan hệ, xử lý tin
bài, xử lý các hoạt động báo chí với một góc nhìn văn hóa, góc nhìn bền
vững. Và qua đó, báo chí cũng chính là công cụ, giúp cho văn hóa tiếp nhận
của công chúng đƣợc nâng cao hơn.
Ngày nay, Internet trao cho công chúng nhiều rất nhiều quyền lực.
Trong đó, báo mạng điện tử chính là môi trƣờng để công chúng có thể thể
hiện tối ta tính năng phản biện xã hội của mình. Vì thế, để nâng cao văn hóa
tiếp nhận cho công chúng, các cơ quan báo chí nên có một đội ngũ chăm sóc
độc giả riêng để lắng nghe các phản hồi, cũng nhƣ tƣơng tác với độc giả ngay
dƣới các bài viết. Nhƣ thế, tòa soạn vừa có thể định hƣớng dƣ luận một cách
118
đúng đắn, vừa từng bƣớc nâng cao văn hóa tiếp nhận và ứng xử trên truyền
thông cho công chúng của mình.
Câu chuyện nâng cao văn hóa tiếp nhận cho công chúng, không phải là
của riêng báo mạng điện tử, hay của riêng báo chí, mà đó chính là bài toán đặt
ra cho cả bộ máy định hƣớng văn hóa và giáo dục của Việt Nam. Mọi thứ đều
phải có nền tảng từ tri thức. Khi nào tri thức đƣợc nâng cao, khi đó, các sai
phạm sẽ dần dần bị tẩy chay và sẽ bị đào thải.
119
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3
Trong chƣơng 3, tác giả luận văn đã đề xuất các giải pháp nhằm giúp
hạn chế thực trạng vi phạm đạo đức nhà báo trên báo mạng điện tử Việt Nam
hiện nay.
Các nhóm giải pháp hƣớng đến cả bốn đối tƣợng: quản lý cấp nhà
nƣớc; đội ngũ cán bộ quản lý, lãnh đạo báo chí; phóng viên, biên tập viên và
công chúng tiếp nhận. Theo đó, cần phải nâng cao hiệu quả quản lý nhà nƣớc
về báo chí bằng cách: Tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí; Tạo
môi trƣờng thuận lợi cho đạo đức báo chí đƣợc phát huy; Các hình thức khen
thƣởng, kỷ luật đúng đối tƣợng, đúng thời điểm; Bộ quy chuẩn đạo đức báo
mạng điện tử rõ ràng, dễ áp dụng. Đối với đội ngũ lãnh đạo, quản lý báo chí
cần có bản lĩnh chính trị vững vàng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, trình
độ lãnh đạo quản lý tốt và đạo đức gƣơng mẫu. Để nâng cao chất lƣợng phóng
viên, biên tập viên báo mạng điện tử, cần chú trọng từ khâu đào tạo, lẫn tuyển
dụng. Các phóng viên, biên tập viên cũng cần có ý thức tự rèn luyện nâng cao
bản thân. Ngoài ra, cần có biện pháp để nâng cao văn hóa tiếp nhận và tham
gia của công chúng.
120
KẾT LUẬN
1. Là một loại hình báo chí ra đời muộn nhất, nhƣng lại có nhiều lợi
thế nhất, báo mạng điện tử đang làm một loại hình báo chí có lƣợng công
chúng đông đảo nhất hiện nay. Với những lợi thế của mình, báo mạng điện tử
đang góp rất tích cực cho đời sống xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh đó, báo mạng
điện tử cũng là một trong những loại hình có nhiều sai phạm về mặt đạo đức
nghề nghiệp nhất trong số các loại hình báo chí hiện này.
Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo là một vấn đề không mới. Tuy nhiên,
với từng giai đoạn, từng loại hình, các mức độ vi phạm lại có những diễn biến
khác nhau, ảnh hƣởng trực tiếp, sâu sắc và quyết định tới chất lƣợng của tác
phẩm báo chí cũng nhƣ dƣ luận xã hội. Vì vậy, vấn đề vi phạm đạo đức báo
chí của báo mạng điện tử hiện nay thực sự là một vấn đề cần đƣợc nhìn nhận,
đánh giá, khắc phục để hạn chế những hậu quả nghiêm trọng đối với sự phát
triển của đất nƣớc, an ninh trật tự xã hội và uy tín, danh dự của đội ngũ nhà
báo và nghề báo.
2. Luận văn “Vấn đề vi phạm đạo đức báo chí của nhà báo trên báo
mạng điện tử hiện nay” bƣớc đầu đã giải quyết đƣợc một số vấn đề cơ bản
nhƣ sau:
Chƣơng 1, luận văn đã xây dựng lại, bổ sung và làm rõ hơn khung lý
thuyết về những vấn đề liên quan đến cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
nhƣ: Đƣa ra những khái niệm cơ bản, xác định những nội dung và yêu cầu của
đạo đức báo chí nói chung và đạo đức báo chí dành cho những phóng viên,
nhà báo hoạt động trong loại hình báo mạng điện tử nói riêng.
Chƣơng 2, luận văn kh ng định bên cạnh những mặt tích cực, vấn đề vi
phạm đạo đức báo chí đang làm một vấn nạn của báo mạng điện tử hiện nay,
với những biểu hiện trên cả tác phẩm báo chí và quá trình tác nghiệp của nhà
121
báo. Luận văn chỉ ra 3 nhóm biểu hiện vi phạm nổi bật, đó là: Vi phạm về mặt
đề tài, nội dung; Vi phạm các nguyên tắc trong nghiệp vụ báo chí và Vi phạm
khi lạm dụng chức vụ, quyền hạn của nhà báo và cơ quan báo chí.
Chƣơng 2 của luận văn cũng đã khái quát đƣợc những nguyên nhân dẫn
đến các sai phạm đó, trong đó có hai nhóm nguyên nhân chính là: chủ quan và
khách quan, trong đó nguyên nhân chủ quan vẫn là chính.
Chƣơng 3, từ kết quả khảo sát, nghiên cứu các hiện tƣợng và tim ra
nguyên nhân của các hiện tƣợng tiêu cực kể trên, tác giả luận văn đề xuất các
giải pháp nhằm hạn chế các vi phạm về đạo đức nghề nghiệp cho các phóng
viên báo mạng điện tử. Ngoài ra, bộ quy tắc đạo đức nghề nghiệp gồm 20
điều hi vọng sẽ làm kim chỉ nam giúp nâng cao đạo đức nghề nghiệp cho nhà
báo đang hoạt động trong loại hình báo mạng điện tử ở Việt Nam hiện nay.
3. Dƣới áp lực của cuộc chạy đua thông tin và sự biến động không
ngừng của điều kiện kinh tế thị trƣờng, thực sự những phóng viên báo mạng
điện tử chân chính đang phải đứng trƣớc những thử thách rất cam go để vừa
có thể giữ đƣợc bản lĩnh, vừa phải dẫn đầu trong các cuộc đua đó. Tuy nhiên,
dù có diễn biến theo chiều hƣớng nào, vẫn cần phải đặt ra những vấn đề sau:
Thứ nhất, sự cạnh tranh dƣới áp lực của kinh tế thị trƣờng phải đƣợc
định hƣớng một cách đúng đắn hơn. Thay vì những đề tài giật gân với những
câu chữ gây kích thích, tò mò rẻ tiền, các bài báo cần phải đƣợc đầu tƣ sâu
hơn về nội dung cũng nhƣ hình thức nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng, phong
phú của độc giả.
Thứ hai, sự ra đời của công nghệ thông tin chính là mấu chốt của sự ra
đời báo mạng điện tử. Công nghệ thông tin phát triển, đồng nghĩa với báo
mạng điện tử cũng có những cải tiến tốc độ. Đây vừa là thế mạnh, đồng thời
cũng là kẽ hở, giúp cho nạn xào bài, đạo văn, ăn cắp thông tin, vi phạm đời
122
tƣ…càng trở nên dễ dàng hơn. Vì thế, cần phải quản lý chặt chẽ hơn quy trình
sáng tạo tác phẩm báo chí để có thể tận dụng đƣợc lợi thế, nhƣng hạn chế
những vi phạm về mặt đạo đức nghề nghiệp.
Thứ ba, xã hội phát triển khiến cho cơ hội đƣợc tiếp cận những nghề
nghiệp mới đƣợc rút ngắn. Không nhất thiết phải học báo mới có thể làm
đƣợc báo. Tuy nhiên, không đƣợc học chính quy trong trƣờng lớp, nhƣng để
có thể làm nghề, nhà báo vẫn cần phải đƣợc đào tạo, không chỉ về mặt nghiệp
vụ, mà còn cả về đạo đức nghề nghiệp.
Không nên nghĩ rằng, báo chí chỉ là một nghề nghiệp giúp ngƣời làm
báo có thu nhập để trang trải cuộc sống hàng ngày. Nghề báo, còn cao quý
hơn rất nhiều bởi “quyền lực thứ tƣ” mà xã hội đã trao tặng. Đối với xu
hƣớng phát triển của truyền thông hiện đại, những khái niệm mới nhƣ truyền
thông hội tụ, truyền thông đa phƣơng tiện sẽ là động lực đƣa báo mạng điện
tử lên thống trị mọi mặt của đời sống thông tin. Vì thế, vƣơn tới những chuẩn
mực trong đạo đức nghề nghiệp chính là đòi hỏi nghiêm khắc của công chúng,
của xã hội đối với những nhà báo nói chung, và với nhà báo hoạt động trong
lĩnh vực báo mạng điện tử nói riêng.
Luận văn “Vấn đề vi phạm đạo đức báo chí của nhà báo trên báo mạng
điện tử hiện nay” mới chỉ là một nghiên cứu nhỏ trong khoảng thời gian ngắn.
Tác giả rất hi vọng luận văn này sẽ là tài liệu tham khảo hữu hiệu cho các
công trình nghiên cứu khác trong tƣơng lai, góp phần nâng cao chất lƣợng cho
nền báo chí Cách mạng Việt Nam.
123
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Phạm Thu An (2001), Ngôn ngữ báo chí Internet, Luận văn thạc sĩ
truyền thông đại chúng, Đại học khoa học xã hội và Nhân văn.
2. Ban Tuyên giáo Trung ƣơng (2007), Tăng cường lãnh đạo, quản lý tạo
điều kiện để báo chí nước ta phát triển mạnh mẽ, vững chắc trong thời gian
tới, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
3. Ban Tƣ tƣởng - Văn hóa Trung ƣơng, Bộ Văn hóa - Thông tin (1997),
Tiếp tục đổi mới và tăng cường lãnh đạo quản lý công tác báo chí xuất bản,
Hà Nội.
4. Bộ Thông tin và Truyền thông, Đại sứ quán Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
tại Việt Nam (2003) , Mạng Internet đang phát triển, Tạp chí điện tử của Bộ
Ngoại giao Hoa Kỳ, số tháng 11/2003.
5. Bộ Thông tin và Truyền thông (2007), Đại sứ quán Hợp chủng quốc
Hoa Kỳ tại Việt Nam, Truyền thông tạo sự thay đổi, Tạp chí điện tử của Bộ
Ngoại giao Hoa Kỳ, số tháng 12/2007.
6. Bộ Thông tin và Truyền thông, Đại sứ quán Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
tại Việt Nam (2010), Định nghĩa về tự do Internet, Tạp chí điện tử của Bộ
Ngoại giao Hoa Kỳ, số tháng 06/2010.
7. Nguyễn Thị Bình (2006), Nâng cao chất lượng báo chí Internet trong
thời gian tới, Luận văn Thạc sĩ, Đại học KHXH&NV Hà Nội.
8. Trần Thị Kim Chung (2002), Báo chí với vấn đề nâng cao đạo đức
nghề nghiệp của nhà báo, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học KHXH&NV Hà
124
Nội.
9. Hoàng Đình Cúc, Đức Dũng (2007) Những vấn đề của báo chí hiện
đại. Nxb lý luận chính trị Hà Nội.
10. Nguyễn Thị Trƣờng Giang (2011), Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo,
Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
11. Nguyễn Thi Trƣờng Giang (2014), 100 bản quy tắc đạo đức nghề báo
trên thế giới, Nxb. Chính trị Quốc gia.
12. Hoàng Hà (2003), Nâng cao hiệu quả công tác quản lý báo chí
Internet, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học KHXH&NV Hà Nội.
13. Hiến pháp nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Nxb
Pháp lý, Hà Nội.
14. Lƣu Thị Lan Hƣơng (2003), Vấn đề đạo đức nhà báo trong nền KT thị
trường, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học KHXH&NV Hà Nội.
15. Đặng Thu Hƣơng (2013), Báo chí các nước ASEAN, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội.
16. Đinh Văn Hƣờng (2011), Các thể loại báo chí thông tấn, Nxb Giáo dục
17. Đinh Văn Hƣờng (2013), Tổ chức và hoạt động của Tòa soạn, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội.
18. Đỗ Quang Hƣng (2000), Lịch sử báo chí Việt Nam 1865 – 1945, Nxb.
ĐHQG Hà Nội.
125
19. Luật Dân sự, sửa đổi và bổ sung năm 2005, Nxb Pháp lý, Hà Nội
20. Luật báo chí, Sửa đổi và bổ sung năm 1999, Nxb Pháp lý, Hà Nội
21. Luật Giao dịch điện tử, sửa đổi và bổi sung năm 2001, Nxb Pháp lý, Hà
Nội
22. Phan Quang (2005), Nghề báo nghiệp văn, Nxb. Thông tấn, Hà Nội.
23. Anh Phƣơng (2014), Nhà báo và người nổi tiếng, báo Pháp Luật
Online, số ra ngày 08/10/2014
24. Dƣơng Xuân Sơn, Đinh Văn Hƣờng, Trần Quang (2004), Cơ sở lý luận
báo chí truyền thông, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
25. Dƣơng Xuân Sơn (2012), Các thể loại báo chí chính luận - nghệ thuật,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
26. Tạ Ngọc Tấn – Đinh Thị Thúy Hằng (2013), Cẩm nang đạo đức báo
chí, Bộ Thông tin và Truyền thông, Đại sứ quán Thụy Điển tại Việt Nam
27. Phan Đăng Thanh (2008), Những điểm mới trong Luật Báo chí sửa đổi,
báo Pháp luật Tp Hồ Chí Minh, số ra ngày 18/7/2008.
28. Tạ Phƣơng Thảo, (2003), Khảo sát bước đầu về thực trạng đội ngũ nhà
báo Việt Nam và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ nhà
báo trong tình hình hiện nay Khóa luận tốt nghiệp, Đại học KHXH&NV Hà
Nội..
29. Hữu Thọ (1997), Nghĩ về nghề báo, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
30. Đồng Tiến Việt (2007), Tính tương tác trong báo mạng điện tử, khóa
luận tốt nghiệp đai học, Học viện báo chí và tuyên truyền Hà nội.
126
DANH MỤC TÀI LIỆU TIẾNG NƢỚC NGOÀI
31. G.V.Ladutina (2004), Những vấn đề cơ bản của đạo đức nghề nghiệp
nhà báo, Nxb. Thông tấn, Hà Nội (Hoàng Anh dịch).
32. X.A.Mikhailốp (2004), Báo chí hiện đại nước ngoài. Những quy tắc và
nghịch lý. Nxb. Thông tấn, Hà Nội (Đào Tấn Anh dịch).
33. Deborah Potter (2006), Hướng dẫn nghề làm báo độc lập, Nxb. Văn
hóa – Thông tin, Hà Nội.
34. Smith, Ron f (2008), Đạo đức báo chí, Nxb. Oxford, Blackwel
35. Helena Thofinn (2003), Truyền thông, đạo đức nghề nghiệp với trẻ em.
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
127