ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
BÙI THU THỦY
SẢN PHẨM BÁO CHÍ TRUYỀN THÔNG SỐ THU PHÍ
TỪ NGƢỜI SỬ DỤNG (SUBSCRIBER) VÀ
KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG TẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ
Hà Nội - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
BÙI THU THỦY
SẢN PHẨM BÁO CHÍ TRUYỀN THÔNG SỐ THU PHÍ
TỪ NGƢỜI SỬ DỤNG (SUBSCRIBER) VÀ
KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG TẠI VIỆT NAM
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Báo chí học
Mã số: 8320101.01
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. BÙI CHÍ TRUNG
Hà Nội - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn của PGS,TS. Bùi Chí Trung (Trường đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn). Các số liệu, trích dẫn nêu trong luận văn là trung thực, được
dẫn nguồn đầy đủ. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được
công bố trong bất cứ công trình nào khác.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày….. tháng….. năm 2020
Tác giả luận văn
1
BÙI THU THỦY
LỜI CẢM ƠN
Qua thời gian học tập và nghiên cứu tại Viện Đào tạo Báo chí và
Truyền thông, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, đến nay tôi
đã hoàn thành luận văn Thạc sĩ Báo chí, chuyên ngành Báo chí học với đề
tài “Mô hình sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí từ người sử dụng
(subscriber) và khả năng ứng dụng tại Việt Nam”.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Viện Đào tạo Báo
chí và Truyền thông và các thầy cô giáo trong và ngoài Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn đã cung cấp cho tôi nhiều kiến thức và kỹ
năng cần thiết ở bậc đào tạo sau đại học.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến PGS,TS. Bùi Chí Trung,
người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận
văn này.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cám ơn đến ông Lê Quốc Minh - Phó Tổng
giám đốc Thông tấn xã Việt Nam, ông Bùi Quang Ngọc - Phó Chủ tịch Hội
đồng quản trị FPT và các đồng nghiệp tại trung tâm VAS - Tập đoàn Công
nghiệp Viễn thông Quân đội Viettel đã giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Luận văn chắc chắn còn những hạn chế, thiếu sót. Tôi rất mong nhận
được sự thông cảm và góp ý chân thành của các nhà khoa học, thầy cô giáo
và các bạn đồng môn, đồng nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn.
Trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày….. tháng….. năm 2020
Tác giả luận văn
2
BÙI THU THỦY
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. 1
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................... 2
MỤC LỤC .......................................................................................................... 3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN ................... 6
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ, HÌNH ẢNH .................................. 7
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 9
1. Tính cấp thiết của đề tài .............................................................. 9
2. Tình hình nghiên cứu ................................................................ 12
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................ 17
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................. 18
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................... 18
6. Kết cấu luận văn: .......................................................................... 19
CHƢƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LÝ LUẬN KINH TẾ BÁO
CHÍ TRUYỀN THÔNG VÀ SẢN PHẨM BÁO CHÍ TRUYỀN
THÔNG SỐ THU PHÍ TỪ NGƢỜI SỬ DỤNG (SUBSCRIBER) ....... 20
1.1. Cơ sở lý luận kinh tế báo chí truyền thông về sản phẩm báo chí
truyền thông số thu phí từ người sử dụng (subscriber) ...................... 20
1.1.1. Khái niệm về báo chí, sản phẩm báo chí, truyền thông ........ 20
1.1.2. Một số khái niệm về mô hình, kinh tế báo chí ...................... 22
1.1.3. Một số khái niệm về kỹ thuật số và báo chí, truyền thông số 25
1.2 Mô hình sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí từ người sử
dụng .................................................................................................. 28
1.2.1 Nền tảng công nghệ và quá trình phát triển của sản phẩm báo
chí truyền thông số thu phí người sử dụng ..................................... 28
1.2.2 Sản phẩm báo chí, truyền thông trên nền tảng số ................. 30
3
1.2.3 Đặc điểm của sản phẩm báo chí, truyền thông số thu phí ..... 34
1.3. Mối quan hệ giữa nhà sản xuất, sản phẩm, hệ thống phân phối
và ngƣời tiêu dùng trong thị trƣờng nội dung số .......................... 37
1.3.1. Về dây chuyền sản xuất và phân phối sản phẩm báo chí,
truyền thông truyền thống .............................................................. 37
1.3.2. Dây chuyền sản xuất và phân phối sản phẩm báo chí, truyền
thông trong môi trường kỹ thuật số ................................................ 39
1.4. Những biểu hiện và đặc điểm của thị trường báo chí, truyền thông
số thu phí từ người sử dụng ............................................................... 42
1.4.1. Những biểu hiện mới của thị trường báo chí, truyền thông số
42
1.4.2. Một số đặc điểm của thị trường báo chí, truyền thông số ..... 43
1.4.3. Mối quan hệ giữa nhà sản xuất nội dung, nhà phân phối và
khách hàng trên thị trường báo chí truyền thông số ....................... 45
1.5 Các tiêu chí đánh giá sự phát triển và hiệu quả sản phẩm báo chí,
truyền thông số thu phí từ người sử dụng .......................................... 48
1.5.1. Các tiêu chí dựa trên thuật toán thống kê ............................. 48
1.5.2. Các tiêu chí dựa trên hiệu quả tác động của sản phẩm truyền
thông ............................................................................................. 52
1.5.3. Các tiêu chí dựa trên khả năng đảm bảo quyền lợi các
bên liên quan ................................................................................ 54
1.5.4. Các tiêu chí đánh giá dựa trên hiệu quả kinh tế .................... 55
Tiểu kết chƣơng 1 ........................................................................................... 57
Chƣơng 2. KHẢO SÁT, ĐÁNH GIÁ CÁC SẢN PHẨM BÁO CHÍ
TRUYỀN THÔNG SỐ THU PHÍ NGƢỜI DÙNG TẠI VIỆT NAM .. 60
2.1. Sơ lƣợc về các sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí
ngƣời sử dụng khảo sát tại Thông tấn xã Việt Nam, Viettel và FPT
60
4
2.1.1. Thông tấn xã Việt Nam ................................................. 60
2.1.2. Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội (Viettel) 61
2.1.3. Tập đoàn FPT ................................................................ 63
2.2. Thực trạng triển khai mô hình sản phẩm báo chí, truyền thông số
thu phí từ người sử dụng tại Việt Nam hiện nay ................................ 65
2.2.1. Tình hình phát triển của hạ tầng kỹ thuật ............................. 67
2.2.2. Tình hình phát triển về hoạt động nội dung .......................... 78
2.2.3. Tình hình phát triển về sản xuất, đóng gói thông tin ............ 83
2.2.4. Tình hình phát triển về hoạt động dịch vụ ............................ 85
2.3. Đánh giá ưu điểm và hạn chế của sản phẩm báo chí truyền thông
số thu phí từ người sử dụng tại Việt Nam ......................................... 91
2.3.1. Ưu điểm của sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí từ
người sử dụng tại Việt Nam ........................................................... 91
2.3.2. Hạn chế của sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí từ
người sử dụng tại Việt Nam ........................................................... 93
Tiểu kết chƣơng 2 ........................................................................................... 97
Chƣơng 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM
NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG MÔ HÌNH SẢN PHẨM BÁO CHÍ
TRUYỀN THÔNG SỐ THU PHÍ TỪ NGƢỜI DÙNG TẠI VIỆT NAM
.......................................................................................................................... 101
3.1 Những vấn đề đặt ra trong sự phát triển thị trường báo chí số
trong thời gian tới ........................................................................ 101
3.2. Những bài học kinh nghiệm trong việc phát triển mô hình kinh
doanh nội dung mới tại Việt Nam và thế giới. ................................. 107
3.3. Một số đề xuất, kiến nghị cho sự phát triển sản phẩm báo chí
truyền thông số thu phí từ ngƣời sử dụng tại Việt Nam ............. 116
Tiểu kết chƣơng 3 ........................................................................................ 119
KẾT LUẬN ................................................................................................... 120
5
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................. 123
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
NYT : New York Time – Thời báo New York
PGS.TS : Phó Giáo sư, Tiến sĩ
TS : Tiến sĩ
6
Tr. : Trang
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ, HÌNH ẢNH
1. Danh mục Bảng
Bảng 2.1 Số lượng doanh nghiệp cung cấp dịch vụ phát thanh truyền hình .. 72
Bảng 2.2 Thị trường dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền ........................ 76
2. Danh mục biểu đồ
Biểu đồ 1.1 Mô hình sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí từ người sử
dụng (subscriber) ............................................................................................. 33
Biều đồ 1.2 Dây chuyền sản xuất trong ngành công nghiệp truyền thông ..... 36
Biểu đồ 1.3 Mô hình nhà cung cấp dịch vụ viễn thông chào bán gói sản
phẩm báo chí truyền thông số tới độc giả ....................................................... 45
Biểu đồ 1.4 Mô hình khách hàng chủ động tìm kiếm sản phẩm thông tin số. 45
Biểu đồ 2.1 Tình hình phát triển thuê bao băng di động Quý I năm 2020 tại
Việt Nam ......................................................................................................... 65
Biểu đồ 2.2 Số liệu nội dung đẩy lên hệ thống từ nhà cung cấp và mức độ
tương tác của khách hàng từ tháng 1 đến tháng 9 năm 2019 của Myclip.vn.. 67
Biểu đồ 2.3 Tần suất sử dụng và loại thiết bị mà người Việt Nam dùng để
xem các chương trình truyền hình số .............................................................. 68
Biểu đồ 2.4 Sự tăng trưởng các sản phẩm truyền hình, trong đó có sản
phẩm thu phí tại Việt Nam, mức tăng trưởng của các thuê bao truyền hình
trả phí tỉ lệ thuận với sự phát triển của các nền tảng viễn thông. ................... 70
Biểu đồ 2.5 FPT Play đứng đầu danh sách truyền hình trả tiền trực tuyến
tại thị trường Việt Nam nhờ các chỉ số do người dùng bình chọn liên quan
đến nội dung sản phẩm và chất lượng ứng dụng công nghệ thông tin ........... 71
Biểu đồ 2.6: Mô hình sản phẩm báo chí truyền thông số có sự phối hợp
giữa các nhóm ngành kinh tế đã phát huy được thế mạnh của các đơn vị đối
tác.. .................................................................................................................. 73
Biểu đồ 2.7: Thị trường truyền hình số trả tiền tại Việt Nam ......................... 79
Biểu đồ 2.8: Chỉ số người dùng trong vòng 90 ngày trên Myclip.vn ............. 82
7
Biểu đồ 2.9: Thống kê các chỉ số liên kết trên sản phẩm myclip.vn .............. 84
3. Danh mục hình ảnh
Hình 1.1: Các thông số Source code của trang nytimes.com ......................... 47
Hình 1.2: Báo cáo chi tiết người dùng trong 7 ngày của Google Analytics ... 48
Hình 1.3: Báo cáo về lượng tăng trưởng của subscriber tại NYT từ năm
2011-2018........................................................................................................ 49
Hình 1.4: Báo cáo đánh giá lượng người xem trên hệ thống .......................... 49
Hình 1.5: Báo cáo tỷ lệ phần trăm thể loại tin tức của NYT được chia sẻ
trên mạng xã hội .............................................................................................. 50
8
Hình 2.1: Top 5 dịch vụ truyền hình trực tuyến thu phí tại Việt Nam ........... 85
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự bùng nổ kỷ nguyên số đã tác động mạnh mẽ, sâu sắc tới hoạt
động truyền thông trên thế giới và Việt Nam trên nhiều phương diện, trong
đó có sự xuất hiện các mô hình sản phẩm nội dung số thu phí từ người sử
dụng thông qua các hạ tầng công nghệ thông tin, viễn thông công nghệ cao.
Trong làn sóng số hoá, các cải tiến, thay đổi trong công cụ sản xuất và
phương thức sản xuất đã tạo ra các sản phẩm báo chí, sản phẩm truyền
thông mới đáp ứng những đòi hỏi cao hơn cả về hình thức lẫn nội dung
truyền thông của công chúng. Không chỉ đòi hỏi về chất lượng nội dung
thông tin, công chúng còn mong muốn thụ hưởng những sản phẩm đem lại
hiệu ứng khác biệt, để khám phá và thỏa mãn trải nghiệm của mình và sẵn
sàng chi trả tiền bạc, thời gian cho những sản phẩm chất lượng cao. Từ nhu
cầu thực tiễn đó, các mô hình sản phẩm thông tin mới đã xuất hiện ngày
càng nhiều, không chỉ thể hiện những bước đột phá về chất lượng nội dung,
hình thức trình bày mà còn cả trên phương thức truyền tải tới công chúng.
Sự hình thành, phát triển của các sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí
từ người sử dụng dựa trên tiền đề đó.
Những đổi mới này góp phần quan trọng cho sự phát triển của một
nền kinh tế mang tên kinh tế tri thức (the knowledge economy), với những
tác động mạnh mẽ vào các xu hướng phát triển của xã hội. Sự vận động và
phát triển của kinh tế nền tri thức trong bối cảnh hội nhập quốc tế đã được
ra đặt trong chiến lược phát triển chung của Việt Nam qua các cương lĩnh
của Đảng, toàn văn phát biểu của lãnh đạo nhà nước. Kinh tế tri thức là cơ
sở để hiện đại hóa nền kinh tế, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó cũng là một “môi trường”
mới, một động lực mới để phát triển hoạt động kinh tế báo chí truyền
9
thông. Sự phát triển sinh động của thực tiễn cho thấy rằng cần thiết phải
nghiên cứu, tìm hiểu một cách kỹ lưỡng hơn, toàn diện hơn về sự phát triển
của các sản phẩm báo chí truyền thông có thu phí từ người sử dụng để góp
phần làm sáng rõ thêm về các thành tố trong sự vận động của nền kinh tế
tri thức cũng như kinh tế báo chí trong bối cảnh cuộc cách mạng số tại Việt
Nam và Thế giới.
Thông tin báo chí và tin tức truyền thông đã và đang là một sản
phẩm hàng hóa đặc biệt khi nó đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu của công
chúng trong quá trình sản xuất thông tin; nó có đầy đủ các yếu tố cấu thành
của một sản phẩm hàng hóa theo mô hình kinh tế thị trường. Nguồn cung
của mặt hàng thông tin rất phong phú, đa dạng, và có liên quan mật thiết
đến nhiều lĩnh vực trong cuộc sống như kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo
dục, giải trí... Nhu cầu và công chúng của các loại hình thông tin cũng theo
đó mà đông đảo, thuộc nhiều tầng lớp xã hội. Nằm trong hoạt động kinh tế
tri thức Việt Nam, kinh tế báo chí truyền thông nói chung, các sản phẩm
báo chí truyền thông số nói riêng là một bộ phận quan trọng không thể
tách rời. Trong đó, các sản phẩm báo chí, truyền thông số đang nở rộ
dưới mọi hình thức, nhiều thể loại. Có những cơ quan báo chí, đặc biệt
là báo in trên thế giới và cả ở Việt Nam những năm qua đã phải tạm đình
bản thậm chí giải thể do doanh số phát hành giảm, công chúng theo đuổi
những thể loại báo chí mới. Vì vậy, để duy trì sự tồn tại của một cơ quan
báo chí, nếu chỉ phụ thuộc vào doanh số phát hành theo mô hình xưa cũ
là không còn phù hợp trong bối cảnh hiện nay. Làm thế nào để có thể
vận dụng các mô hình kinh doanh trên hạ tầng công nghệ số trong hoạt
động báo chí là một câu hỏi thách thức đang được đặt ra.
Bên cạnh báo chí, hoạt động truyền thông cũng góp phần truyền tải
thông tin, vận động thay đổi thói quen nhằm thỏa mãn nhu cầu tin tức của
công chúng. Trong thực tiễn, hoạt động của các cơ quan báo chí và các cơ
10
quan truyền thông luôn có sự giao thoa với nhau. Công chúng truyền thông
luôn cần có báo chí để giám sát, phản biện, kiểm chứng lại thông tin. Nhất
là trong bối cảnh kinh tế, xã hội có nhiều biến chuyển. Mô hình sản phẩm
báo chí có sự hợp tác với các đơn vị truyền thông đã tồn tại từ lâu. Nếu như
trước đây, đơn vị truyền thông đóng vai trò là một nhà tài trợ cho cơ quan
báo chí thì giờ đây, với sự phát triển của công nghệ, đơn vị truyền thông đã
song hành cùng cơ quan báo chí trong việc cung cấp các sản phẩm thông
tin có chất lượng ra thị trường.
Sự hợp tác giữa cơ quan báo chí với các doanh nghiệp truyền thông,
các hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông đã cho ra đời những sản
phẩm trên cơ sở hạ tầng số như mạng điện thoại di động, internet, phần
mềm, ứng dụng trên thiết bị di động cá nhân; các sản phẩm này được
truyền tải thông qua đường dây, cáp quang, vệ tinh của các nhà mạng
truyền thống, loại hình chính của sản phẩm truyền thông số bao gồm âm
thanh, văn bản, hình ảnh, video và những nội dung do chính người dùng
(công chúng) cung cấp. Thực tiễn cho thấy, hoạt động mạnh mẽ và phong
phú của các sản phẩm báo chí truyền thông số có thu phí từ người sử dụng
đã trở thành một hướng khai thác phân khúc thị trường mới tại nhiều quốc
gia trong đó có Việt Nam.
Trước sự ra đời của mô hình thu phí sản phẩm truyền thông số đã rất
thành công tại các tập đoàn truyền thông hàng đầu thế giới như New York
Times (NYT), The Guardian… Những biểu hiện của xu hướng này cũng
dần manh nha xuất hiện tại Việt Nam trong vài năm gần đây dưới những
hình thức khác nhau và nhận được rất nhiều sự quan tâm của cả những
người làm báo và công chúng báo chí truyền thông. Vì vậy, trước yêu cầu
của thực tiễn, cần có một nghiên cứu làm rõ các yếu tố nội hàm, khái niệm,
mối quan hệ giữa các đặc trưng thể loại và khả năng phát triển mô hình thu
11
phí thông tin tại Việt Nam trong tương lai, bởi đây sẽ là một hướng đi mới
trong hoạt động tự chủ tài chính cho các tòa soạn báo theo mục tiêu Quy
hoạch báo chí đến năm 2025.
Làm thế nào để phát triển các định dạng sản phẩm mới, có tiềm năng
đem lại hiệu quả lớn về kinh tế nhưng vẫn đảm bảo chất lượng nội dung là
một thách thức đang đặt ra. Bên cạnh đó, ngoài các mô hình kinh tế truyền
thông truyền thống như tìm quảng cáo, tài trợ, phát hành… thì các mô hình
sản phẩm truyền thông số thu phí từ người sử dụng (subscriber) đang ngày
càng phát triển, nên cần thiết phải có sự hiểu biết kỹ lưỡng hơn, đánh giá
một cách toàn diện hơn xu hướng này nhằm đúc kết những kinh nghiệm,
giải pháp cần thiết cho hoạt động báo chí truyền thông tại Việt Nam.
Những lý do trên cho thấy sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài:
“Mô hình sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí từ người sử dụng
(subscriber) và khả năng phát triển tại Việt Nam”.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề nghiên cứu của đề tài có mối liên hệ ngành giữa các lĩnh vực:
báo chí truyền thông, công nghệ thông tin và viễn thông, kinh tế báo chí
truyền thông, kinh tế số. Đó là những hướng nghiên cứu cơ bản để tác giả
luận văn khai thác cơ sở dữ liệu và nhận định rõ về tình hình nghiên cứu có
liên quan tới đề tài.
Trong Luật Báo chí năm 2016 có đề cập đến sự tồn tại của kinh tế
báo chí như một thành tố quan trọng, đặc biệt, Quy hoạch phát triển và
quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025 mới thấy được tính cấp bách
trong việc thừa nhận và chấn chỉnh hoạt động kinh tế báo chí ở Việt Nam.
Vì vậy, các công trình nghiên cứu về báo chí từ cuối thế kỷ XX đến nay
phần lớn đều tập trung phân tích về lý thuyết, thể loại, kỹ năng nghề, đã có
những công trình nghiên cứu về kinh tế báo chí, cụ thể là:
Về sách chuyên khảo: cuốn “Kinh tế báo chí” TS Bùi Chí Trung
12
(2007) đã đề cập một cách khá đầy đủ và chi tiết về khái niệm, cơ cấu, các
mô hình hoạt động của kinh tế báo chí tại Việt Nam thông qua mối quan hệ
giữa các thể loại báo chí. Cuốn sách đã đưa ra các mô hình kinh tế báo chí
phù hợp với bối cảnh thị trường báo chí Việt Nam, ngoài những mô hình
hoạt động kinh tế báo chí truyền thống như phát hành, quảng cáo, nghiên
cứu còn chỉ ra một hướng phát triển mới của hoạt động thu phí sản phẩm
báo chí truyền thông đó là hoạt động thu phí thông tin báo chí dưới dạng
thức truyền hình trả tiền theo yêu cầu - IPTV. Kết quả nghiên cứu cho
thấy công chúng sẵn sàng chi trả để có được thông tin mà họ muốn, nhu
cầu tiếp cận thông tin của công chúng là không giới hạn, khi công nghệ
càng phát triển, công chúng càng có nhiều sự lựa chọn cho hoạt động
tiếp nhận của họ.
Ở góc độ nghiên cứu về thể loại báo chí, cuốn “Một số vấn đề về
kinh tế báo in” của nhóm tác giả PGS.TS Đinh Văn Hường – TS. Bùi Chí
Trung (2014) đã chỉ rõ những thành tố của một đơn vị sự nghiệp báo chí in
ấn có thu, trong nghiên cứu cũng chỉ ra rằng: trong bối cảnh đổi mới và hội
nhập quốc tế, thực trạng của hoạt động kinh tế báo in đã và đang có nhiều
thay đổi so với giai đoạn đầu. Cuốn sách đã tập trung xác lập một cách cơ
bản, hệ thống các học thuyết kinh tế truyền thông đang phổ cập trên thế
giới đồng thời khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng các hoạt động
kinh tế từ góc nhìn kinh tế báo chí và hệ thống quan điểm của Đảng, pháp
luật của Nhà nước về hoạt động kinh tế báo chí và đưa ra một số kiến nghị
để báo in Việt Nam hoạt động hiệu quả trong bối cảnh mới.
Cùng đề cập đến hoạt động kinh tế truyền hình, cuốn “Truyền hình
trả tiền ở Việt Nam căn bản và tiềm năng” của TS. Hoàng Ngọc Huấn
(2017) đã kế thừa các công trình nghiên cứu kinh tế truyền hình trước đó
và phát triển nghiên cứu trên mô hình của VTVcab, cuốn sách đề cập đến
sự phát triển của khoa học công nghệ thông tin và truyền thông đã tạo điều
13
kiện cho truyền hình phát triển với nhiều dịch vụ mới, có sản phẩm bản
quyền và lý giải các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi mua của khách
hàng như nền văn hóa, nhánh văn hóa, tầng lớp xã hội và vai trò của những
nhà làm truyền thông có khả năng định hướng dư luận có tác động thế nào
tới thói quen của công chúng.
Trong cuốn “Tác nghiệp báo chí trong môi trường truyền thông hiện
đại” (2019, Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông) của PGS, TS
Nguyễn Thành Lợi đã đề cập đến hoạt động phát triển truyền thông kỹ
thuật số thu phí thông qua mô hình subscribe tại báo điện tử NYT như một
điển hình thành công của mô hình thu phí trên thế giới, đưa NYT trở thành
tờ báo lớn thứ 2 tại Mỹ.
Về các công trình nghiên cứu luận văn, luận án: Luận án tiến sĩ kinh
tế của tác giả Phạm Hoài Nam (2017): “Quản lý nhà nước đối với hoạt
động truyền hình trả tiền tại Việt Nam” có kế thừa và nhấn mạnh các mô
hình và phương thức thanh toán chủ yếu của truyền hình trong giai đoạn
công nghệ khoa học phát triển. Luận án nhấn mạnh về vai trò quản lý của
nhà nước trước sự thay đổi của các sản phẩm kinh tế hữu hình đến các sản
phẩm được chi trả qua đường dẫn, sóng truyền hình. Qua đó thấy được sự
sát sao trong quản lý pháp luật Nhà nước trước sự thay đổi không ngừng
của ngành truyền hình.
Luận văn “Hoạt động kinh tế báo chí của cơ quan báo ngành môi
trường” của tác giả Đặng Thị Hương Giang (2014) đã khảo sát mô hình
kinh tế báo chí tại các cơ quan cụ thể như báo Tài nguyên & Môi
trường, tạp chí Kinh tế Môi trường, tạp chí Môi trường & Cuộc sống
giai đoạn 2011 - 2013. Nghiên cứu tập trung vào các khía cạnh: phát
hành, quảng cáo và kinh doanh báo chí khác, nghiên cứu cũng chỉ rõ
tính chuyên biệt của sản phẩm có thể ảnh hưởng không nhỏ tới doanh
14
thu của đơn vị sản xuất.
Luận văn “Tổ chức hoạt động kinh tế báo chí tại tòa soạn báo
Thanh niên” của tác giả Nguyễn Huyền Trang (2015) đã hệ thống hóa
những vấn đề về lý luận và hoạt động kinh tế báo chí thông qua việc
phân tích thực trạng hoạt động kinh tế báo chí tại tòa soạn báo Thanh
niên trong giai đoạn 6/2014-6/2015. Ở trường hợp cụ thể của báo Thanh
niên, tác giả đã chỉ ra một số điểm mạnh và hạn chế của hoạt động kinh
tế báo chí trong giai đoạn nền kinh tế thị trường đang bị ảnh hưởng bởi
công nghệ khoa học.
Về các bài báo đã được công bố: Bài báo nghiên cứu khoa học
“Doanh nghiệp viễn thông tham gia thị trường truyền hình trả tiền: Cơ hội
và thách thức” của tác giả Lê Minh Toàn (2013) đăng trên tạp chí Công
nghệ thông tin & Truyền thông tháng 5 có giới thiệu về mô hình kết hợp
mới giữa các doanh nghiệp viễn thông và đài truyền hình để cho ra đời
những sản phẩm kết hợp thế mạnh của doanh nghiệp và nhà sản xuất, từ đó
phục vụ tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Nghiên cứu cũng chỉ ra việc ứng
dụng công nghệ thông tin vào khai thác thị phần khách hàng truyền hình
tiềm năng sẽ đem lại nguồn lợi cho các bên liên quan, đồng thời nhấn mạnh
sự phối hợp giữa các nhóm ngành kinh tế có thể đem lại hiệu quả.
Trong nghiên cứu “Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch
vụ đọc báo điện tử có trả phí ở Việt Nam” của nhóm tác giả Mai Thế
Duyệt, Phạm Quốc Trung (2015) đã sử dụng học thuyết hành vi dự định để
nghiên cứu thị trường, đặc điểm công chúng tại Việt Nam và đưa ra kết
luận đối với hoạt động trả phí qua báo mạng điện tử, đó là: “Yếu tố thái độ
có ảnh hưởng lớn nhất đến ý định sử dụng dịch vụ. Đối với các yếu tố ảnh
hưởng lên thái độ, nhận thức về lợi ích, tính tương thích, tâm lý ưa thích
miễn phí là ba yếu tố có ảnh hưởng đáng kể nhất” [8; tr.42]. Công trình
15
trên tiếp cận vấn đề công chúng trả phí cho sản phẩm báo chí truyền thông
số từ góc độ nhân khẩu học và tâm lý học, chứ chưa đề cập đến hoạt động
thu phí dưới góc độ nghiên cứu kinh tế báo chí.
Tác giả Phan Hữu Minh (2017) có bài viết “Kinh tế báo chí và
những giới hạn” đăng trên website của Hội Nhà báo Việt Nam [65] đã
khẳng định: Hoạt động kinh tế trong báo chí là vấn đề không mới, thậm chí
là điều kiện tiên quyết của nhiều cơ quan báo chí giúp cho quá trình tồn tại
và phát triển. Bài viết khẳng định các quy định của pháp luật đã tạo đủ
hành lang cho hoạt động kinh tế của báo chí. Vấn đề ở đây là thực hiện sao
cho đúng cả ở khía cạnh pháp luật và đạo đức của người làm báo.
Trên website specia.vietnamplus.vn đăng tải bài viết của tác giả
Vĩnh Khang (2019) có tên “Thu phí từ độc giả là con đường phát triển bền
vững của báo chí” đã đề cập đến sự phát triển và hình thành của mô hình
thu phí độc giả trên báo mạng điện tử từ năm 2012 và những phản ứng gay
gắt của công chúng và các nhà báo trước quan điểm cần thu phí báo mạng
điện tử. Tuy nhiên, qua các mô hình đã thành công trên thế giới cũng như
tại Việt Nam, khả năng thu phí các sản phẩm báo mạng điện tử là khả thi
và điều kiện tiên quyết cho quyết định chi trả của độc giả chính là nội dung
chất lượng.
Nhận thấy: Các công trình nghiên cứu khoa học về kinh tế báo chí
tại Việt Nam đã xuất hiện từ vài năm trở lại đây và có hướng khai thác rõ
ràng về các mảng đề tài chuyên biệt, đó là thể loại báo chí và hệ thống các
ấn phẩm chuyên ngành. Các công trình đều ít nhiều khẳng định sự phát
triển của khoa học kỹ thuật và nền kinh tế thị trường đòi hỏi các cơ quan
báo chí phải làm chủ doanh thu và tham gia vào quá trình xây dựng mô
hình đơn vị sự nghiệp có thu. Tuy nhiên, mảng đề tài về sản phẩm báo chí
truyền thông số thu phí từ người sử dụng vẫn chưa được khai thác hoàn
16
toàn triệt để dưới góc độ kinh tế báo chí.
Các công trình nghiên cứu về người sử dụng sản phẩm báo chí
truyền thông số có thu phí hiện nay đa phần thuộc về các nhà nghiên cứu ở
nước ngoài, chủ yếu là Mỹ và một số học giả tại châu Âu, đây là thuận lợi
cũng là khó khăn đối với đề tài nghiên cứu khi có thể tham khảo và tiếp thu
các số liệu, hướng phát triển của các đề tài nước bạn nhưng cũng là thách
thức lớn khi chưa có hệ thống các đề tài nghiên cứu tương tự ở trong nước.
Chính vì vậy đề tài Mô hình sản phẩm báo chí truyền thông số thu
phí từ người sử dụng (subscriber) và khả năng phát triển tại Việt Nam sẽ
góp phần làm rõ các thuật ngữ chuyên ngành, chỉ ra ưu điểm, hạn chế và
mối quan hệ giữa khả năng phát triển của các mô hình kinh doanh mới với
nền báo chí truyền thống có bề dày thành tích. Sản phẩm báo chí truyền
thông số là một mô hình không còn xa lạ với các cơ quan truyền thông, tuy
nhiên trước sức ép của thương mại hóa thông tin và quảng cáo, nhiều nhà
nghiên cứu chưa chỉ rõ vai trò và đánh giá đúng đắn về tiềm năng kinh tế
mà sản phẩm báo chí truyền thông số mang lại với nền kinh tế báo chí Việt
Nam. Vì vậy, đề tài nghiên cứu sẽ chỉ ra những thuật lợi, khó khăn và
thách thức mà mô hình thu phí sản phẩm truyền thông số tại Việt Nam phải
đối mặt cũng như đưa ra sự phân tầng về khách hàng để tối ưu hóa giá trị
nội dung thông tin đem lại.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm hướng tới việc phân tích
thực trạng triển khai các mô hình sản phẩm báo chí truyền thông số có thu
phí từ người sử dụng tại Việt Nam hiện nay thông qua hoạt động sản xuất,
đóng gói tin tức tại một số cơ quan báo chí, cơ quan truyền thông. Từ đó
đưa ra những đánh giá về khả năng ứng dụng và xu hướng phát triển trong
17
thời gian tới. Đề tài sẽ đưa ra những khuyến nghị, giải pháp nhằm phát
triển các mô hình sản phẩm mới đáp ứng yêu cầu của công chúng, góp
phần mang lại hiệu quả kinh tế truyền thông tích cực.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, đề tài sẽ làm rõ một số vấn đề sau:
Thứ nhất, làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò và phương thức triển
khai sản phẩm báo chí truyền thông số có thu phí từ người sử dụng.
Thứ hai, phân tích thực tiễn phát triển các mô hình sản phẩm báo chí
truyền thông số thu phí từ người sử dụng đang triển khai tại thị trường Việt
Nam. Đánh giá ưu, nhược điểm và nguyên nhân.
Thứ ba, đánh giá những vấn đề thách thức đang đặt ra trong sự phát
triển truyền thông số hiện nay; những kinh nghiệm trong việc phát triển mô
hình sản phẩm truyền thông số thu phí từ người sử dụng và đưa ra những
giải pháp, khuyến nghị nâng cao chất lượng hiệu quả trong tương lai.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài được tập trung vào các mô hình sản
phẩm báo chí truyền thông số thu phí từ người sử dụng (subscriber).
Phạm vi nghiên cứu: giới hạn tập trung nghiên cứu các sản phẩm nội
dung số trên nền tảng internet và di động: pay.vietnamplus.vn (bản quyền
thuộc về Báo Điện tử Vietnamplus, Thông tấn xã Việt Nam); myclip.vn
(Tập đoàn Công nghiệp viễn thông Quân đội Viettel) và sản phẩm FPT
play của Công ty cổ phần FPT.
Thời gian nghiên cứu từ tháng 1 đến tháng 8 năm 2019.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp luận
Đề tài kế thừa và vận dụng phương pháp biện chứng duy vật và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, các văn kiện Đại hội của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước về báo chí và hoạt động kinh tế báo chí tại Việt Nam. Kế
18
thừa một số phương pháp luận trong chuyên ngành kinh tế.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: đề tài tham khảo và trích dẫn một
số tài liệu từ các nhà nghiên cứu đi trước về đề tài kinh tế, báo chí, xã hội
học, văn hóa học để làm rõ các quan điểm, khái niệm về loại hình.
Phương pháp thống kê: Thống kê số liệu qua các báo cáo kinh tế
công khai để cho thấy thực trạng hoạt động của mô hình thu phí thông tin
tại Việt Nam.
Phương pháp tiếp cận liên ngành: báo chí học, các học thuyết truyền
thông, kinh tế học, văn hóa học, xã hội học và dân tộc học để thấy được
mối quan hệ giữa kinh tế báo chí với các nhóm kinh tế thị trường khác và
khả năng tồn tại của mô hình thu phí trên thị trường trong nước và quốc tế.
Phương pháp phỏng vấn sâu: các chuyên gia trong lĩnh vực, những
người trực tiếp kinh doanh nội dung và những người lựa chọn nội dung để
mua bán.
Đề tài có vận dụng phương pháp phân tích chiến lược (SWOT) để
chỉ ra các đặc trưng mô hình, điểm mạnh, điểm yếu từ đó chỉ ra những cơ
hội và thách thức của mô hình thu phí trong nền kinh tế thị trường.
Đồng thời, đề tài còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu công
cụ như so sánh, phân tích, mô hình hoá… để tạo dựng cơ sở dữ liệu và nội
dung phân tích phù hợp.
6. Kết cấu luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương bao gồm:
Chương 1: Khái quát chung về lý luận kinh tế báo chí truyền thông và sản
phẩm báo chí truyền thông số thu phí từ người sử dụng (subscriber)
Chương 2: Khảo sát, đánh giá các sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí
người dùng tại Việt Nam
Chương 3: Một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng mô hình
19
sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí từ người dùng tại Việt Nam
CHƢƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LÝ LUẬN KINH TẾ BÁO
CHÍ TRUYỀN THÔNG VÀ SẢN PHẨM BÁO CHÍ TRUYỀN
THÔNG SỐ THU PHÍ TỪ NGƢỜI SỬ DỤNG (SUBSCRIBER)
1.1. Cơ sở lý luận kinh tế báo chí truyền thông về sản phẩm báo chí
truyền thông số thu phí từ ngƣời sử dụng (subscriber)
Trong quá trình nghiên cứu, có một số khái niệm liên quan đến đề tài
như: sản phẩm báo chí truyền thông số, thu phí, thu phí người sử dụng -
subscriber là những khái niệm chưa phổ biến trong các nghiên cứu về kinh
tế báo chí tại Việt Nam. Vì vậy, cần phân tích một số khái niệm liên ngành
giữa báo chí học, kinh tế để có thể góp phần làm rõ các khái niệm trên.
1.1.1. Khái niệm về báo chí, sản phẩm báo chí, truyền thông
- Khái niệm “Báo chí”: Căn cứ pháp lý tại Điều 3 Luật Báo chí Việt
Nam năm 2016 nêu rõ: Báo chí là sản phẩm thông tin về các sự kiện, vấn
đề trong đời sống xã hội thể hiện bằng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được
sáng tạo, xuất bản định kỳ và phát hành, truyền dẫn tới đông đảo công
chúng thông qua các loại hình báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử.
Trong cuốn Cơ sở lý luận báo chí, PGS.TS Nguyễn Văn Dững đã
đưa ra quan điểm về báo chí, đó là: “… xuất phát từ bản chất của báo chí
truyền thông - là hoạt động thông tin giao tiếp xã hội trên quy mô rộng lớn
nhất, là công cụ và phương thức kết nối xã hội hữu hiệu nhất, là công cụ
và phương thức can thiệp xã hội hiệu quả nhất trong mối quan hệ với công
chúng và dư luận xã hội, với nhân dân và với các nhóm lợi ích, với các
nước trong khu vực và quốc tế…” [6; tr87]
PGS.TS Đỗ Chí Nghĩa đưa ra khái niệm về báo chí là: Báo chí là
loại hình các phương tiện truyền thông đại chúng được cơ quan thẩm
quyền cấp phép hoạt động, có nhiệm vụ chuyển tải thông tin nhanh nhất,
mới mẻ nhất đến cho đông đảo công chúng, nhằm tích cực hóa đời sống
20
thực tiễn. [19; tr.17]
Trong quá trình phái triển không ngừng của các cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật, các loại hình báo chí mới ra đời. Sau báo, tạp chí in là
sự góp mặt của báo phát thanh, báo truyền hình và gần đây nhất là sự ra đời
của báo mạng điện tử. Báo chí hiện đại có thể được hiểu là những ấn phẩm
xuất bản định kỳ (hoặc không định kỳ như báo mạng điện tử) được sản
xuất với khối lượng lớn, phát hành rộng rãi đến đông đảo cư dân (công
chúng). Khái niệm báo chí theo nghĩa rộng được dùng để chỉ các sản phẩm
phát hành thông qua các loại hình báo in, phát thanh, truyền hình và báo
mạng điện tử [7; tr.5]
Báo chí là hoạt động xã hội rộng khắp mang xứ mệnh truyền tải và
cập nhật thông tin một cách liên tục, bám sát các sự kiện xã hội; thông tin
trên báo chí không chỉ đáp ứng nhu cầu của đông đảo công chúng mà còn
phải tuân thủ bộ nguyên tắc của pháp luật về cách thức đưa tin, hình thức
thể hiện và cách sử dụng ngôn từ.
- Sản phẩm báo chí: Quá trình các tòa soạn sản xuất ra ấn phẩm báo
chí, vận chuyển/ truyền tải ấn phẩm đến với công chúng được coi là một
vòng tuần hoàn của hoạt động kinh tế. Sản phẩm báo chí cũng là sản phẩm
kinh tế, bởi lẽ nó đáp ứng được hai yếu tố: nhu cầu cá nhân và trao đổi
hàng hóa. Trong cuốn “Truyền thông đại chúng những kiến thức cơ bản”
(2003), Claudia Mast đã khẳng định: “… báo chí cũng là một nghề. Nó
chịu sự điều tiết của quy luật thị trường. Tin tức là một loại hàng hóa dễ
hỏng” [34; tr.7]. Vậy, trong hoạt động báo chí, truyền thông có sự tồn tại
của hoạt động kinh tế thông qua quá trình sản xuất ra các mặt hàng là sản
phẩm báo chí.
Sản phẩm báo chí là sản phẩm kinh tế đặc biệt khi nguồn vốn ban
đầu và nguyên liệu sản xuất của nó không tồn tại ở dạng vật chất mà phụ
21
thuộc vào trình độ của người tạo ra sản phẩm. Giá trị của ấn phẩm báo chí
bao gồm: nội dung thông tin nó đem lại, công sức lao động của nhà báo,
những hao phí về nguồn lực trong quá trình sản xuất.
- Truyền thông: Truyền thông có thể được hiểu là quá trình liên tục
trao đổi thông tin, tư tưởng, tình cảm… chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm
giữa hai hoặc nhiều người nhằm thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi phù
hợp với nhu cầu phát triển [7; tr.14]
Hoạt động truyền thông là hoạt động chia sẻ, trao đổi hai chiều diễn
ra liên tục giữa chủ thể và đối tượng truyền thông. Từ hoạt động chia sẻ đó
dẫn tới sự hiểu biết chung và thay đổi nhận thức của cả hai bên nhằm thay
đổi thái độ hành vi.
Trong hoạt động truyền thông, mục đích chính là tác động vào đông
đảo công chúng xã hội, nhằm tập hợp, giáo dục và thuyết phục công chúng
tham gia vào các nhiệm vụ trong đó có nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn
hóa…
Vậy, truyền thông (tiếng anh là communication) là quá trình chia sẻ
thông tin, tương tác xã họi nhằm tìm kiếm những quan điểm chung thông
qua nội dung thông tin, hình thức biểu đạt. Mục đích của truyền thông là
tìm thấy sự thống nhất và thấu hiểu.
1.1.2. Một số khái niệm về mô hình, kinh tế báo chí
- Mô hình: là từ dùng để chỉ hình thức diễn đạt ngắn gọn các đặc
trưng chủ yếu của một đối tượng theo một phương tiện nào đó để nghiên
cứu đối tượng ấy [11, tr.126]
Theo tác giả Minh Anh (2018) Mô hình (model) là sự đơn giản hóa
hiện thực một các có chủ định. Nó cho phép nhà nghiên cứu bỏ qua các
mặt thứ yếu để tập trung vào phương diện chủ yếu, có ý nghĩa quan trọng
đối với vấn đề nghiên cứu [77]
Vậy, mô hình là sự trình bày quy giản về một (hoặc vài) khía cạnh
22
của vấn đề, mô tả một cách khái quát đặc điểm và các mối quan hệ giữa
các thành tố cấu tạo nên bản chất của vấn đề. Mô hình cho thấy cách thức
tổ chức cũng như hoạt động của sự vật.
- Kinh tế báo chí: Là một ngành của nền kinh tế thị trường, là đơn vị
sự nghiệp có thu, hoạt động kinh tế báo chí không chỉ bó hẹp trong phương
thức sản xuất đơn nhất một loại hình, mà nó sự kết hợp của nhiều loại hình
khác nhau nhằm sinh ra lợi nhuận cho cơ quan báo chí. “… có thể định
nghĩa “kinh tế báo chí” là hoạt động kinh tế của các cơ quan báo chí trong
quá trình sử dụng con người, cơ sở vật chất, kỹ thuật, tài chính… để đi đến
hiệu quả tối đa mà các cơ quan báo chí nói riêng và công nghiệp truyền
thông nói chung có thể đạt được”[28; tr15].
Vấn đề kinh tế báo chí đã và đang được đặt lên hàng đầu và nó có
khả năng quyết định sự tồn tại của một cơ quan báo chí. “Trong thực tiễn
truyền thông, bên cạnh các thành công về công chúng thì những thành
công, thất bại về kinh tế quyết định tiền đồ của một doanh nghiệp truyền
thông… Phạm vi ảnh hưởng của một sản phẩm truyền thông quyết định
tính phổ cập của việc quảng cáo, và như vậy quyết định luôn cả những khả
năng thanh toán của doanh nghiệp truyền thông” [34; tr.152]
Kinh tế báo chí truyền thông bao gồm: Doanh thu trực tiếp và doanh
thu gián tiếp (quảng cáo, tổ chức sự kiện, vận động quyên góp, cho thuê
thiết bị, cho thuê cơ sở vật chất, nhận tài trợ, được nhà nước bao cấp...)
- Thị trường báo chí: Trong hoạt động kinh tế, thị trường là yếu tố
đóng vai trò quyết định. Thị trường là nơi tạo ra sự gặp gỡ giữa nguồn cung
và nhu cầu của khách hàng, là nơi giao dịch, mua bán, trao đổi các sản
phẩm tài chính ngắn hạn, trung hạn, dài hạn để đáp ứng các nhu cầu khác
nhau của các chủ thể trong nền kinh tế.
Philip Kotler định nghĩa: Thị trường là tập hợp những người mua
hàng hiện có và sẽ có; là nơi những người bán và người mua gặp nhau và
23
thực hiện các giao dịch (trao đổi tập trung nhưng không nhất thiết phải là
một địa điểm cụ thể); Thị trường có thể hình thành cho một thứ hàng hóa,
dịch vụ nào đó hay cho một đối tượng khác có giá trị [36, tr.15-16]. Theo
Kotler, có hai loại thị trường là: Thị trường người bán (ở đó, người bán có
quyền lực hơn) và thị trường người mua (người mua có quyền lực hơn), khi
đó hai thành phần này cũng thay nhau trở thành “những nhà hoạt động thị
trường” tích cực nhất [36, tr.17].
Tác giả Hoàng Đình Cúc, Đức Dũng (2007): Thị trường báo chí là
nơi diễn ra quá trình mua, bán sản phẩm báo chí, thực hiện những hợp
đồng quảng cáo hoặc những cam kết tài trợ để thông qua đó quảng bá cho
các thương hiệu sản phẩm [10, tr.122].
Trong thị trường báo chí, các sản phẩm được cung cấp ra thị trường
theo thời gian cũng dần trở nên đa dạng, bên cạnh các sản phẩm truyền
thống như các dạng bài phóng sự, điều tra, chân dung, phản ánh, đưa tin,
bút kí, ghi chép... thì có các sản phẩm mới như tác phẩm siêu báo chí
(Mega Story, Long-form), tác phẩm báo chí đồ họa (Infographic). Các sản
phẩm báo chí mới ra đời dựa trên khả năng tổng hợp các mặt mạnh của các
phương tiện thông tin đại chúng (mass media), hay còn gọi là tác phẩm báo
chí truyền thông số.
Trong quá trình phát triển, báo chí cũng như các ngành khoa học –
xã hội khác luôn tự làm mới mình, cho ra đời những sản phẩm mới phái
sinh từ những sản phẩm truyền thống để không ngừng hoàn thiện, phù hợp
với bối cảnh phát triển chung.
- Nguồn thu của báo chí: Mỗi ấn phẩm báo chí trước khi đưa ra thị
trường đều được định giá dựa trên nội dung thông tin, công sức lao động
của nhà báo, những hao phí về nguồn lực trong quá trình sản xuất. Mỗi loại
hình báo chí lại có một cách gọi nguồn thu trực tiếp khác nhau: báo – tạp
chí in gọi là phát hành; phát thanh truyền hình gọi là thuê bao; báo mạng
24
điện tử gọi là thu phí. Nguồn thu trực tiếp từ công chúng là nguồn thu cố
định, có khả năng duy trì sự tồn tại của các cơ quan báo chí và là hình thức
kinh tế lâu đời nhất của các cơ quan báo chí. Công chúng cũng chính là
khách hàng của các cơ quan báo chí.
Hoạt động thu phí của báo chí: là một yếu tố cấu thành nên nguồn
thu của của cơ quan báo chí trên nền tảng điện tử kỹ thuật số. Giống như sự
ra đời của những thể loại báo chí mới, “thu phí” là cách gọi mới của nguồn
thu trực tiếp từ công chúng của các cơ quan báo chí.
Trong thời kỳ số hóa, quá trình thúc đẩy hoạt động kinh tế báo chí là
một bước đi hợp với xu hướng chung. Ở rất nhiều ngành nghề kinh tế, các
tập đoàn đều đang triển khai các mô hình kinh doanh trên nền tảng số. Từ
việc mua bán, tìm kiếm trực tiếp, ngày nay bằng cách thiết bị điện tử cá
nhân, đặc biệt là điện thoại di động thông minh (smart phone), phần lớn
công chúng đã chuyển sang giải trí, mua bán và trao đổi qua mạng điện tử.
Bước tiến của công nghệ đã khiến cho các cuộc cạnh tranh đã từng tồn tại
báo giấy được đẩy lên không gian số.
1.1.3. Một số khái niệm về kỹ thuật số và báo chí, truyền thông số
- Kỹ thuật số: Theo nhóm tác giả Thái Thanh Sơn, Thái Thanh
Tùng, Kỹ thuật số là kỹ thuật sử dụng kiểu tín hiệu và các định dạng dữ
liệu trong ngành điện tử bằng các trạng thái rời rạc. Các tín hiệu số tồn tại
như các chuỗi theo thời gian gồm các số “0” và “1” (các bit số). Thuật
ngữ số còn được dùng để chỉ phương pháp lưu trữ dữ liệu ở dạng số nhị
phân [30; tr.42]. Hoạt động của kỹ thuật số đã tác động đến mọi mặt của
cuộc sống, tạo ra những thay đổi về cách truyền tải thông tin trên các thiết
bị đầu cuối. Hệ thống các thiết bị đầu cuối có khả năng truyền tải và lưu trữ
thông tin được gọi chung là hạ tầng số.
- Hạ tầng số: Về mặt kỹ thuật, hạ tầng số là những mối liên kết giữa
các thành phần, thiết bị điện tử, là cơ sở để xây dựng nền tảng kỹ thuật số.
25
Hạ tầng số bao gồm 6 thành phần: thiết bị, kết nối, dữ liệu, hạ tầng ứng
dụng, pháp lý và nhân lực. Trong đó, hạ tầng dữ liệu (băng thông rộng)
đặc biệt quan trọng, được ví như đường quốc lộ huyết mạch của một quốc
gia [60]. Mọi sản phẩm điện tử có bảng mạch, con chip vận hành, bộ mã
nguồn đều được coi là hạ tầng số.
- Báo chí truyền thông số bao gồm báo mạng điện tử và các sản
phẩm thông tin khác là một bước chuyển từ các ấn phẩm hữu hình đến
những ấn phẩm tồn tại dưới dạng mã hóa. Đây được coi là sản phẩm báo
chí có khả năng tích hợp với mọi thiết bị cá nhân như máy tính xách tay,
điện thoại di động thông minh, máy tính bảng, tivi thông minh… kỹ thuật
số đã phá vỡ mọi giới hạn, chất liệu truyền thống, khiến cho thể loại báo
chí mới này dễ tiếp cận công chúng hơn, đặc biệt là công chúng trẻ.
Từ các thành tựu của khoa học kỹ thuật, việc giao dịch tiền mặt trực
tiếp đã được chuyển đổi thành giao dịch tiền tệ gián tiếp thông qua các mã
lệnh kết nối tài các tài khoản ngân hàng cá nhân với tài khoản công của cơ
quan báo chí. Nó giống như việc mua một vé tham quan không giới hạn số
lần, trên chiếc vé đó có toàn bộ thông tin cá nhân và lịch sử giao dịch bằng
hệ thống thanh toán vi mô (micropayments). Các cơ quan báo chí đã ứng
dụng mô hình mua - bán thông tin báo chí dưới dạng thu phí sản phẩm -
subscribe.
Theo từ điển Oxford, “subscribe” có nghĩa là: Thỏa thuận để nhận
một cái gì đó thường xuyên, thường là một ấn phẩm, bằng cách trả
trước/Thỏa thuận để truy cập vào một dịch vụ trực tuyến/Đóng góp hoặc
cam kết đóng góp một số tiền nhất định một cách thường xuyên [78].
Ngoài nghĩa đăng ký mua ấn phẩm, đăng ký theo dõi, subscribe còn
có nghĩa là quyên góp. Ý nghĩa của từ này tương ứng với các hoạt động
của độc giả khi trở thành người theo dõi của một đơn vị cung cấp sản phẩm
báo chí truyền thông số đó là: đăng ký trả tiền xem từng bài riêng lẻ hoặc
26
theo tuần/tháng/quý/năm, đăng ký trả tiền theo gói (dựa trên số lượng bài
được đọc hoặc lưu lượng data), đăng ký để trở thành nhà cung cấp nội
dung hoạt động như một nhà báo công dân.
Theo ông Lê Quốc Minh, Phó Tổng Giám đốc Thông tấn xã Việt
Nam, sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí từ người sử dụng là một
sản phẩm mà độc giả phải chi trả một khoản phí nhất định để được thụ
hưởng sản phẩm đó theo quy định của đơn vị sản xuất [PV9].
Sản phẩm báo chí truyền thông số: là chất liệu mới của các cơ quan
báo chí, truyền thông, là sản phẩm kết hợp giữa khoa học kỹ thuật và công
nghệ sản xuất tin tức mới cho phép công chúng dễ dàng tiếp nhận thông tin
hơn, thông tin được thể hiện một cách phong phú, sinh động. Quá trình mã
hóa thông tin báo chí cũng cho phép xây dựng trường dữ liệu thông tin
khổng lồ để làm cơ sở cho các nghiên cứu khoa học, ứng dụng các học
thuyết vào thực tiễn.
Sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí từ người sử dụng
(subscriber) là sản phẩm thông tin tồn tại trên nền tảng số hóa có đầy đủ
các đặc điểm của một sản phẩm báo chí, được định giá mua bán và thanh
toán bằng nền tảng giao dịch điện tử internet. Mô hình này cho phép các
tòa soạn nắm được cơ sở khách hàng định danh cố định.
Nguyên lý hoạt động của subscribe dựa trên mối quan hệ giữa những
người sử dụng đăng kí trả phí (subscriber) với cơ quan báo chí, cơ quan
truyền thông. Trong mối quan hệ này, người sử dụng chi trả trước một
khoản phí nhất định theo đề nghị của cơ quan báo chí để được thụ hưởng
sản phẩm tin tức, còn các cơ quan báo chí có trách nhiệm cung cấp tin tức
có giá trị đến người sử dụng.
Mô hình thu phí đối với sản phẩm truyền thông số tại nước ngoài đã
tồn tại từ khá lâu. Không chỉ thu phí để tắt các quảng cáo trên nền giao
diện số, nhiều cơ quan báo chí, cơ quan truyền thông còn thu phí người
27
dùng để đưa đến những trải nghiệm tối đa về thị giác và thính giác, làm
thỏa mãn nhu cầu của công chúng. Mô hình này góp phần khuyến khích
các cơ quan báo chí truyền thông chú trọng vào việc độc quyền tin tức, nội
dung thông tin phong phú, có chiều sâu, hình thức trình bày sản phẩm bắt
mắt, đa dạng về phương thức thể hiện.
Sự ra đời của mô hình thu phí sản phẩm báo chí truyền thông số nằm
trong quá trình vận động và kế thừa các tính chất sẵn có của nền báo chí
truyền thống. Sự phát triển của các ngành kinh tế luôn đặt ra thách thức cần
tự thân làm mới mình dựa trên những giá trị căn bản cốt lõi.
1.2 Mô hình sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí từ người sử dụng
1.2.1 Nền tảng công nghệ và quá trình phát triển của sản phẩm báo
chí truyền thông số thu phí ngƣời sử dụng
Nếu như trước đây, nền tảng của báo in là công nghệ chế bản và thiết
bị in ấn; nền tảng của phát thanh - truyền hình là đường dẫn sóng, thiết bị
thu phát; thì đến sản phẩm báo chí truyền thông số, nền tảng khoa học và
công nghệ hiện đại đã thay đổi, tạo ra kỹ thuật số và các thiết bị hạ tầng số.
Trong các thành phần của hạ tầng số cần chú trọng sự tồn tại của hạ
tầng dữ liệu (băng thông rộng) được phát triển và quản lý bởi các tập đoàn
viễn thông. Sự phát triển không ngừng của các tập đoàn viễn thông tại Việt
Nam nói riêng và trên thế giới nói chung đã làm thay đổi diện mạo của quá
trình kết nối giữa con người với con người. Viễn thông không chỉ đơn
thuần là dịch vụ thư tín, dịch vụ cuộc gọi đường dài mà viễn thông ngày
nay với hạ tầng dữ liệu băng thông rộng đã trở thành đã trở thành phương
tiện trung chuyển thông tin với tốc độ cao, dung lượng lớn và có khả năng
lưu trữ, trích xuất trường dữ liệu thông tin theo từng hệ thống chủ đề.
Quá trình số hóa ký tự và lưu trữ nội dung trên các thiết bị hạ tầng
kỹ thuật số đã tạo ra một không gian rộng hơn cho các tác phẩm báo chí và
28
các cơ quan báo chí. Các sản phẩm tồn tại dưới dạng vật chất bị phụ thuộc
và có nhiều giới hạn đã đặt ra nhiều rào cản trong khả năng sáng tạo và
truyền tải thông điệp của mỗi nhà báo.
Quá trình phát triển của mô hình thu phí subscribe: Theo nhà
nghiên cứu Sasu Tarkoma, Đại học Helsiki, Phần Lan, subscribe là một mô
hình phổ biến được sử dụng để kết nối các nhà cung cấp thông tin và người
tiêu thụ thông tin vượt qua giới hạn về thời gian và không gian. Thuật ngữ
subscribe được nhắc đến lần đầu năm 1987 qua một hoạt động của hệ
thống ISIS, cho phép kết nối, theo dõi thông tin giữa các hệ thống máy
tính. Qua thời gian cùng sự phát triển của công nghệ, subscribe đã trở
thành một thuật ngữ chỉ hoạt động phân phối thông tin một cách tức thời từ
nguồn phát đến người đăng kí nhận thông tin thông qua các thiết bị kỹ
thuật trên nền tảng số hóa.
Đối với dự báo về hướng phát triển của mô hình subscribe, công
trình nghiên cứu của Schwer và Daneshvary [45] đã dự báo: một số cơ
quan báo chí có thể loại bỏ các nhà quảng cáo để chuyển từ phát hành miễn
phí sang thu phí người xem mà vẫn thu được lợi nhuận, nhờ vào chất lượng
các bài viết và khả năng khai thác thông tin của mỗi nhà báo. Trong lịch sử
nghiên cứ báo chí, việc định giá tin tức và hướng duy trì chất lượng tin tức
đã lặp lại nhiều lần trong các nghiên cứu khoa học chuyên ngành báo chí.
Về dự đoán sự phát triển của các ứng dụng công nghệ thông tin thu
phí trên báo chí thời kỳ số, nhóm tác giả Alison Alexander, James Owers,
Rod Carveth, C.Ann Hollifield, Albert N.Greco vào năm 2004 đã công bố
công trình nghiên cứu khoa học mang tên “Kinh tế của các phương tiện
truyền thông: Lý thuyết và thực hành” đã phân tích về tầm quan trọng của
nền kinh tế truyền thông và sự chuyển mình của nền kinh tế tri thức do
những tác động từ sự thay đổi khoa học, công nghệ, kỹ thuật và các mô
hình tài chính kinh tế khác. Công trình đã chỉ rõ, trong thời kỳ điện tử số
29
hóa mặc dù số lượng độc giả giảm nhưng các công ty báo chí sẽ vẫn có thể
tồn tại bằng việc áp dụng đổi mới công nghệ để thích nghi với việc thay đổi
lối sống, nhu cầu tiêu dùng của độc giả.
Từ năm 2017, nghiên cứu của Media Insight Project trực thuộc Viện
Báo chí Mỹ đã đưa ra kết luận: “Tương lai của nhà báo và báo chí hoàn
toàn phụ thuộc vào sự chi trả của độc giả (subscriber) đối với thông tin
báo chí trên mạng internet” [54]. Khảo sát trên 2,199 người Mỹ trưởng
thành dưới 35 tuổi sử dụng báo điện tử cho thấy, cứ 10 người thì có 4
người trả tiền để có được tin tức tương đương 53% số người được hỏi đồng
ý hoặc đã trả tiền cho việc mua tin tức.
1.2.2 Sản phẩm báo chí, truyền thông trên nền tảng số
Nhìn từ tiến trình ra đời và phát triển của các mô hình báo chí
mới: Trong quá trình phá vỡ mọi giới hạn, các loại hình báo chí mới đã ra
đời, phục vụ tốt hơn cho nhu cầu của công chúng. Các loại hình báo chí
mới đã tận dụng triệt để thành tựu của các sản phẩm điện tử số hóa, khai
thác tối đa những thiết bị cá nhân để từng bước thu hẹp khoảng cách với
công chúng.
Báo chí di động (Mobile Media, Mobile News). Đây là sản phẩm đa
chức năng, tên gọi của nó thể hiện hai quá trình: sử dụng thiết bị di động để
làm báo và sử dụng thiết bị di động như một kênh truyền dẫn tin tức. Báo
chí di động có đầy đủ các đặc điểm của báo chí truyền thống, giữ vững vai
trò nhiệm vụ về chính trị, kinh tế, văn hóa giáo dục và các chức năng cơ
bản; tính ưu việt của báo chí di động là nhanh chóng, tiện lợi, tồn tại trên
môi trường hạ tầng số.
Siêu tác phẩm báo chí: từ gốc trong tiếng Anh là Mega Story, Long-
form hay E-magazine là thể loại báo chí hiện đại trong thời đại công nghệ
kỹ thuật số, tạo cho công chúng một môi trường thực tại ảo sống động để
trải nghiệm và tương tác với cơ quan báo chí. Một siêu tác phẩm báo chí
30
được cấu thành từ: ký tự, ảnh, âm thanh (tiếng động hiện trường, phỏng
vấn), phim tài liệu ngắn, các biểu đồ nhúng kèm mã url để tự động phát
trên nền giao diện. Mục đích của siêu tác phẩm báo chí là thu hút độc giả,
cho họ một cái nhìn toàn cảnh về sự kiện, phục vụ cho cả công chúng phổ
thông và những nhà nghiên cứu học thuật. Bên cạnh đó, siêu tác phẩm báo
chí còn là một phương thức để thúc đẩy quá trình tương tác giữa công
chúng với cơ quan báo chí.
Nhìn từ sự thay đổi đơn vị cung ứng, phân phối, truyền tải sản
phẩm báo chí: Nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của công chúng và thoát
khỏi thị trường độc quyền loại hình truyền thống, thị trường báo chí truyền
thông số thu phí từ người sử dụng tập trung ở 4 dạng sản phẩm chính, đó
là: Dạng sản phẩm do cơ quan báo chí trực tiếp thiết kế và cung cấp; Dạng
sản phẩm liên kết giữa cơ quan báo chí với hạ tầng/doanh nghiệp viễn
thông (Telco); Dạng sản phẩm trên nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin
ICT và Các dạng sản phẩm thu phí khác:
Dạng sản phẩm do cơ quan báo chí trực tiếp thiết kế và cung cấp:
Cơ quan báo chí trực tiếp sản xuất ra sản phẩm báo chí số, định giá sản
phẩm và thông báo mức phí bình ổn tới các khách hàng là độc giả trung
thành của họ. Đây là doanh thu trực tiếp của các cơ quan báo chí có sản
phẩm số hóa. Ưu điểm của mô hình này là số lượng bài viết sẽ được cung
cấp dựa trên khả năng chi trả trực tiếp của khách hàng. Khách hàng không
cần phải chi trả cho những chi phí phát sinh như giá nguyên liệu giấy, chi
phí phát hành… Hạn chế của mô hình này là khả năng phân tầng khách
hàng lớn, nhiều khách hàng không có thói quen sử dụng giao dịch điện tử,
thiếu kiến thức về kỹ thuật số hoặc nhóm khách hàng thu nhập thấp sẽ
không sử dụng sản phẩm này.
Dạng sản phẩm liên kết giữa cơ quan báo chí với hạ tầng/doanh
nghiệp viễn thông (Telco): Các nhà khai thác viễn thông hiện nay thường
31
sở hữu cơ sở hạ tầng thụ động và họ chỉ có thể đóng vai trò chủ động khi
cung cấp dịch vụ cho người dùng cuối. Xuất phát từ quan điểm “mua một
gói” sản phẩm thường sẽ rẻ hơn là mua từng nội dung riêng lẻ, nên sẽ dễ
thu hút được sự chú ý của công chúng hơn, đặc biệt là nhóm khách hàng có
thu nhập trung bình - thấp. Đây cũng chính là ưu điểm của mô hình này,
bên cạnh đó, các cơ quan báo chí có thể tiếp cận với lượng khách hàng
rộng hơn. Hạn chế: các đơn vị viễn thông không chủ động sản xuất tin tức,
chỉ có thể kinh doanh cái mà đơn vị báo chí cung cấp.
Dạng sản phẩm trên nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin mở, do
các nhà cung cấp và hạ tầng CNTT mang tính toàn cầu phát triển: ICT là
cụm từ viết tắt của Information & Communication Technologies có nghĩa
là Công nghệ thông tin và Truyền thông. Là một thuật ngữ nhấn mạnh quá
trình kết nối và chia sẻ thông tin dưới nhiều hình thức khác nhau. Sản
phẩm của quá trình này là sản phẩm báo chí số hoặc là sản phẩm giải trí số
thông thường. Ưu điểm của mô hình kinh doanh trên nền tảng ICT là có
phân khúc khách hàng rõ ràng thông qua các chỉ số về thói quen, sở
thích… từ đó đưa ra các sản phẩm phù hợp cho khách hàng. Hạn chế của
mô hình này là tính báo chí ít hoặc dễ bị biến tướng.
Các mô hình sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí khác, bao
gồm: sản phẩm báo chí thu phí đi kèm các sản phẩm thương mại, như
mô hình subscribe box: công chúng đăng ký mua gói sản phẩm báo chí
và hàng tháng, hàng năm họ sẽ nhận được một hộp quà bao gồm các sản
phẩm làm đẹp, đồ gia dụng, mẫu thử… các sản phẩm trong hộp quà đều
là sản phẩm chất lượng cao hoặc sản xuất với số lượng hạn chế. Hoặc
khách hàng sử dụng dịch vụ vận tải đường dài được trải nghiệm sản
phẩm giải trí số miễn phí.
Trong mô hình sản phẩm báo chí, truyền thông số thu phí từ người
sử dụng, tất cả các hoạt động thanh toán, nhận sản phẩm đều được thực
32
hiện trên nền tảng số. Có nghĩa là mọi giao dịch và hoạt động thụ hưởng
đều đã được số hóa. Điều này làm giảm thiểu những trở ngại như thất lạc,
nhầm lẫn, sai sót trong khâu phát hành. Hoạt động thu phí trên nền tảng
mạng điện tử phổ biến khi các cơ quan báo chí biến lưu lượng truy cập
thành giao dịch. Độc giả và người khai thác thông tin có thể mua nội dung
hoặc đóng góp nội dung chỉ bằng một cú nhấp chuột.
Xét về góc độ kinh tế, một sản phẩm được bán ra dưới hai hình thức:
bán lẻ và bán buôn (bán sỉ). Căn cứ vào hình thức kinh doanh, có thể chia
sản phẩm báo chí, truyền thông số làm hai hình thức: sản phẩm thu phí mỗi
lần sử dụng và sản phẩm thu phí theo gói sản phẩm.
Các sản phẩm báo chí, truyền thông số thu phí cho mỗi lần sử dụng
(pay-per-use/ pay-per-view) là cách thức bán lẻ theo từng bài viết, khi
khách hàng muốn đọc một bài viết, họ sẽ trả tiền để mua bài viết đó, số tiền
phải trả cho một bài viết dao động theo một khung giá nhất định (có thể
quy đổi bằng giá trị tiền mặt hoặc các hình thức thanh toán điện tử) tùy vào
hàm lượng thông tin và chất lượng nội dung của tác phẩm. Về cơ bản, trả
tiền cho mỗi lượt xem, như một mô hình kinh doanh, lần đầu tiên xuất hiện
trong lĩnh vực truyền hình. Như tên gọi của mình, nó là một hệ thống cho
phép người dùng chỉ cần trả tiền cho những gì họ muốn xem. Tuy nhiên,
bên ngoài ngành công nghiệp truyền thông số, mô hình thường được gọi là
"trả tiền cho mỗi lần sử dụng"[47]. Mô hình thu phí cho thấy sự lựa chọn
chủ động của công chúng khi họ bị thu hút bởi chất lượng thông tin, tự
nguyện trở thành một độc giả trung thành của cơ quan báo chí.
Do sự phát triển của các sản phẩm báo chí, truyền thông số thu phí
từ người sử dụng diễn ra rất nhanh chóng, phức tạp và chuyển biến liên tục,
việc khái quát hóa thành một mô hình chuẩn để có thể nhận diện chính xác
nhất là nhiệm vụ tương đối khó khăn. Trong phạm vi nghiên cứu này,
33
chúng tôi bước đầu phác họa nhận diện như sau:
Biểu đồ 1.1: Mô hình sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí từ người sử
dụng (subscriber)
1.2.3 Đặc điểm của sản phẩm báo chí, truyền thông số thu phí
Đặc điểm nổi trội đầu tiên trong sự phát triển các sản phẩm báo chí,
truyền thông số thu phí từ người sử dụng, đó là quá trình hình thành thương
hiệu và sự khác biệt cốt lõi của sản phẩm. Một trong những tài sản có giá
trị nhất của tờ báo là thương hiệu, danh tiếng và sự khác biệt cốt lõi của nó.
Thời kỳ đầu phát triển các sản phẩm trên mạng internet, nhiều tờ báo, tạp
chí in sau nhiều năm phát hành bản giấy đã cho ra đời những phiên bản
điện tử mang tính mô phỏng từ bản giấy. Tuy nhiên chỉ sau một thời gian
ngắn, nhiều cơ quan báo chí có sản phẩm số miễn phí đều nhận thấy sự sụt
giảm hoặc số lượng truy cập của độc giả trở nên bấp bênh, không đều theo
34
từng ngày, từng tháng, từng sự kiện. Biểu hiện của vấn đề này cho thấy
không phải nội dung nào miễn phí trên mạng internet cũng đều là thứ hấp
dẫn và cần thiết với công chúng.
Bất cứ khi nào nói về nội dung tin tức miễn phí với các tòa soạn, lập
luận phổ biến là: “Người nào đó phải trả tiền cho báo chí, hoặc báo chí sẽ
phải trả tiền cho nó” [46]. Điều đó có nghĩa là, nhiều cơ quan báo chí đang
bị chịu lỗ khi đẩy sản phẩm thông tin của mình một cách “miễn phí” (hoặc
được hiểu là dựa vào mô hình nguồn thu từ quảng cáo) trên nền tảng điện
tử. Người đọc có thể lựa chọn bài viết của bất kỳ cơ quan nào vì mức độ
phổ biến của thông tin, họ không cảm thấy bị thu hút, choáng ngợp và có
sự tin tưởng nhất định, vì thế việc trở thành độc giả trung thành của tờ báo,
tạp chí trên không gian mạng là điều không thể. Bởi lẽ, hạ tầng được số
hóa, các độc giả đều không được định danh, họ có thể truy cập vào trang
báo mạng điện tử dưới địa chỉ IP (mã số máy tính) mà họ đang sử dụng;
nhưng đó chưa phải là cơ sở để đánh giá mức độ trung thành của độc giả vì
một người có thể sử dụng nhiều thiết bị cá nhân để truy cập vào các trang
web. Điều này khác hoàn toàn với việc đặt mua báo, tạp chí có địa chỉ
người nhận rõ ràng. Khi tin tức miễn phí, độc giả sẽ sử dụng các trang báo
mạng điện tử theo thói quen, có nghĩa là họ không còn cảm giác phân biệt
về cơ quan nào cung cấp thông tin gì, hoạt động tiếp nhận không cố định
bởi họ có thể đọc tin tức ở bất cứ trang nào mà họ thấy: qua quảng cáo
hoặc do bạn bè chia sẻ trên mạng xã hội…
Khi Internet ra đời, theo như sự mô tả của tác giả cuốn “Thế giới
phẳng” - Thomas L.Friedman, khi bức tường Berlin sụp đổ, bức tường
Windows đã tạo ra một thế giới phẳng nơi ai cũng có thể dễ dàng tiếp cận
thông tin ở khắp thế giới. Không còn những giới hạn về địa lý và thời gian,
hoạt động tiếp nhận thông tin theo đó cũng trở nên phổ biến hơn, nhanh
35
hơn và dễ dàng hơn. Khi đó các cơ quan như báo in, phát thanh và truyền
hình dần bộc lộ những điểm yếu trong tốc độ của thị trường tin tức, công
chúng dần dần thay đổi cách tiếp cận và thị hiếu của họ.
Sự phát triển các sản phẩm báo chí, truyền thông thu phí từ người
sử dụng góp phần xác định cơ chế liên kết mới giữa cơ quan báo chí,
truyền thông với công chúng (trong vai trò khách hàng mua sản phẩm)
một cách chặt chẽ, bền vững và xác định trong khung thời gian cụ thể (theo
từng tuần, tháng, năm) hoặc theo tính chất cấp thiết của nội dung thông tin.
Điều này sẽ đảm bảo cho một dòng tiền ổn định từ người đăng ký trả trước.
Về mặt kế hoạch kinh doanh, mô hình đăng ký sẽ cho phép cơ quan báo chí
truyền thông có một tầm nhìn rõ ràng hơn về nhu cầu thực sự của công
chúng và hỗ trợ cho việc lên kế hoạch để đáp ứng những nhu cầu đó.
Mô hình sản phẩm báo chí, truyền thông số thu phí từ người sử
dụng cho thấy mức độ của chủ động rất cao của công chúng trong việc
tiếp cận và đón nhận thông tin, sự kiện. Trong bối cảnh bão hòa, cạnh
tranh quảng cáo và sự ra đời của mạng xã hội đã làm suy giảm doanh thu
gián tiếp của các cơ quan báo chí. Việc khai thác tối đa lợi nhuận từ các
sản phẩm thông tin số của các tập đoàn truyền thông cũng đã đặt ra một
thách thức lớn cho các nhà xuất bản, tòa soạn báo truyền thống trên thế
giới. [48].
Đây là sự thể hiện ở cấp độ mới của tiến trình phát triển số hóa của
cơ quan báo chí, truyền thông. Với việc thiết kế, phát triển sản phẩm báo
chí số thu phí từ người sử dụng, các tòa soạn có sự đổi mới mạnh mẽ hoạt
động nghiệp vụ của mình, trong đó chú trọng việc liên kết, phối hợp với
các hạ tầng viễn thông, công nghệ thông tin và các nền tảng thương mại
điện tử. Các đơn vị khai thác viễn thông thường sở hữu cơ sở hạ tầng thụ
động và họ chỉ chủ động khi cung cấp dịch vụ cho người dùng, nhưng mức
độ tiếp nhận của khách hàng thường xuyên thay đổi theo giai đoạn. Có
36
những dịch vụ triển khai trong thời gian dài, và cũng có dịch vụ bị khai tử
ngay khi vừa ra mắt. Ngược lại, mức độ liên tục của các dòng chảy thông
tin lại đem đến sự tương tác giữa nguồn phát và người tiếp nhận nhưng
nhiều cơ quan báo chí lại không thể chủ động đem lại nguồn thu nhập cho
mình nếu không chủ động nắm được số lượng công chúng tiềm năng sẵn
sàng tiếp cận sản phẩm của họ. Khi đó, đơn vị viễn thông đóng vai trò cung
cấp cơ sở hạ tầng vật lý và mạng tích hợp, cho phép các cơ quan báo chí sử
dụng hạ tầng của họ để tiếp cận người dùng có định danh. Điều này đã phát
triển thế mạnh của cả hai bên và gia tăng doanh thu từ các dịch vụ.
1.3. Mối quan hệ giữa nhà sản xuất, sản phẩm, hệ thống phân phối và
ngƣời tiêu dùng trong thị trƣờng nội dung số
1.3.1. Về dây chuyền sản xuất và phân phối sản phẩm báo chí, truyền
thông truyền thống
Kinh tế học đã đưa phương pháp phân chia các giai đoạn sản xuất
theo một quy trình, căn cứ trên những khác biệt về công nghệ, và thông qua
đó phân tích đặc điểm kinh tế và tìm ra con đường tối ưu hóa cho mỗi công
đoạn sản xuất. Áp dụng cho công nghiệp truyền thông, lý thuyết kinh tế sẽ
cho phép xác định các giai đoạn sản xuất lớn và chủ chốt, giúp cho sự gắn
kết của các nhà sản xuất và người tiêu dùng:
Biểu đồ 1.2: Dây chuyền sản xuất trong ngành công nghiệp truyền thông
Thị trường báo chí, truyền thông được xác lập bởi mối quan hệ từ
nhà sản xuất là cơ quan báo chí cung cấp các sản phẩm thông tin, thông
qua các kênh phân phối để đến tay người tiêu dùng là khách hàng. Trong
mô hình hoạt động của thị trường báo chí truyền thông truyền thống có sự
tồn tại của bốn yếu tố, đó là: nhà sản xuất, sản phẩm, hệ thống phân phối
37
và người tiêu dùng. Trong đó:
- Hệ thống phân phối trong thị trường báo chí, truyền thông truyền
thống là các đơn vị, thiết bị trung gian đóng vai trò là kênh truyền
tải trung gian vận chuyển sản phẩm từ cơ quan báo chí đến người
tiêu dùng.
- Người tiêu dùng là khái niệm dùng để chỉ các cá nhân có nhu cầu
và có khả năng tài chính để chi trả, sở hữu sản phẩm kinh tế.
Người tiêu dùng là người chủ động đưa ra quyết định tiêu thụ sản
phẩm và không làm chủ nguyên liệu sản xuất. Căn cứ Điều 3
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng do Quốc hội ban hành
năm 2010: Người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hóa,
dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình,
tổ chức”.
Nếu như đối với các cơ quan sản xuất báo in, sản phẩm báo chí tồn
tại dưới dạng vật chất (giấy) nên quá trình sản xuất có thêm khâu đóng gói
sản phẩm chuyển bản thiết kế đến xưởng in để in ấn phẩm hàng loạt. Hệ
thống phân phối của báo in là các sạp báo và cơ quan phát hành báo chí.
Các sạp báo đóng vai trò là nhà bán lẻ, nhập báo chí số lượng lớn (mua
buôn) và trưng bày, giới thiệu, bán sản phẩm cho khách hàng (bán lẻ). Các
cơ quan phát hành báo chí làm nhiệm vụ tổng hợp danh sách khách hàng
đăng ký mua báo, tạp chí qua hệ thống bưu điện theo từng mã sản phẩm,
từng địa phương, sau đó đơn vị phát hành nhận ấn phẩm từ xưởng in và
chuyển đến địa chỉ khách hàng đã đăng ký qua bưu điện. Một ấn phẩm
được xuất bản cho đến tay người tiêu dùng phải cần một khoảng thời gian
xác định, đây còn gọi là thời gian hao phí.
Đối với các cơ quan phát thanh - truyền hình, công đoạn đóng gói
được giảm tải, chủ động hơn do không cần đơn vị sản xuất vật chất như
xưởng in mà sản phẩm làm ra ở một định dạng kỹ thuật (visual – nghe
38
nhìn) hoàn toàn phụ thuộc vào kỹ năng của phóng viên, kỹ thuật viên. Hệ
thống phân phối sản phẩm phát thanh truyền hình ở rất nhiều hạ tầng như:
cột thu phát sóng (analog/digital mặt đất), đường dây cáp đồng trục/cáp
quang, các thiết bị đầu cuối như ti vi, radio... Để sản phẩm truyền hình,
phát thanh đến được với người tiêu dùng, cần đảm bảo hệ thống hạ tầng
thiết bị hoạt động tốt và tương thích với nhau. Thời gian hao phí truyền
phát của phát thanh, truyền hình được tính bằng vài giây cho đến vài phút.
Tuy nhiên, vấn đề hao phí lớn nhất trong quá trình phân phối sản phẩm
phát thanh, truyền hình là giảm chất lượng âm thanh, hình ảnh. Yêu cầu đặt
ra là cần phải nén hình ảnh động vừa đủ để đảm bảo việc suy giảm chất
lượng ít nhất (lossy compression) nhưng tiết kiệm băng thông nhất.
Như vậy, trong mô hình thị trường báo chí, truyền thông truyền
thống, để sản phẩm báo chí đến được với người tiêu dùng, cần thông qua
nhiều bước trung gian, có sự phối hợp của cả nhân lực và cả thiết bị truyền
dẫn. Trong quá trình này thường xảy ra tình trạng hao phí thời gian và
giảm chất lượng sản phẩm; bên cạnh đó, bộ máy phân phối dễ phình to,
nhiều chân rết, không đảm bảo chất lượng vận chuyển còn tồn tại tình trạng
thất lạc sản phẩm, nhầm lẫn, hoặc nhiều nhóm khách hàng ở vùng sâu vùng
xa, địa hình hiểm trở gặp khó khăn khi tiếp cận với sản phẩm báo chí
truyền thông. Còn tồn tại tình trạng độc giả quay lưng với sản phẩm báo
chí truyền thống bởi ảnh hưởng từ các khâu phát hành trung gian gây thất
lạc, gián đoạn khiến sự kết nối giữa cơ quan báo chí và khách hàng luôn bị
đứt gãy.
1.3.2. Dây chuyền sản xuất và phân phối sản phẩm báo chí, truyền
thông trong môi trƣờng kỹ thuật số
Kế thừa và phát huy những ưu điểm của thị trường báo chí, truyền
thông truyền thống, các sản phẩm báo chí truyền thông số đã có bước phát
triển mới trong quá trình phân phối sản phẩm, dựa trên môi trường. Theo
39
đó, hạ tầng phân phối sản phẩm báo chí, truyền thông số là dựa trên hạ tầng
cáp quang internet có tốc độ cao và độ nén lớn do ứng dụng thành công
chíp hiệu năng xử lý hình ảnh; việc sử dụng thuật toán để mã hóa âm
thanh, hình ảnh cũng là thế mạnh của internet, khiến cho việc truyền tải trở
nên dễ dàng hơn.
Trong thị trường báo chí, truyền thông số, sản phẩm đi từ nhà sản
xuất đến thẳng người tiêu dùng qua mạng internet; giảm thiểu thời gian hao
phí, khắc phục vấn đề giảm chất lượng sản phẩm, đồng thời cũng thiết lập
được đường tương tác phản hồi (bacbone) tới nguồn phát. Khi phản ánh sự
kiện, các bài báo mạng điện tử được phóng viên tác nghiệp ngay tại thời
điểm sự kiện diễn ra hoặc ngay sau khi sự kiện kết thúc. Hệ thống phân
phối cũng rút ngắn thông qua hạ tầng cáp internet và thiết bị đầu cuối là
thiết bị điện tử cá nhân như máy tính, điện thoại di động. Theo sự phát triển
của công nghệ, thiết bị đầu cuối được tích hợp gọn nhẹ vào các thiết bị điện
tử cá nhân như điện thoại di động, giúp cho người tiêu dùng dễ dàng tiếp
cận sản phẩm hơn.
Trước sự thay đổi nhanh chóng của thị trường kinh tế, đặc biệt là
chịu sự ảnh hưởng của công nghệ, có ý kiến cho rằng, nhóm người tiêu
dùng trẻ đang có xu hướng ngừng chi trả cho các sản phẩm phải qua nhiều
khâu trung gian để rút ngắn hơn thời gian tiếp cận sản phẩm. Thay vì phải
trả một khoản tiền cho toàn bộ chi phí sản xuất thông tin, chi phí in ấn như
giấy mực bản kẽm in, chi phí phát hành, vận chuyển… họ muốn giảm bớt
các giai đoạn trung gian.
Khi xem xét mối quan hệ giữa thị trường, sản phẩm và người tiêu
dùng nhà kinh tế học Carl Menger nhận định: “Cá nhân có quyền lựa
chọn” [17; 34]. Quan điểm này phù hợp với nền kinh tế thị trường hiện đại
khi nó chú trọng vào mục đích và khuynh hướng tự chủ trong tiếp nhận sản
phẩm của công chúng. Tham chiếu quan điểm vào nền kinh tế báo chí,
40
truyền thông, nhận thấy: khi công chúng phát sinh những nhu cầu mới thì
các cơ quan báo chí, truyền thông sẽ tìm những phương cách nhằm đáp
ứng nhu cầu của họ. Giống như các mô hình kinh tế khác, sự tồn tại của
cung và cầu đã tác động không nhỏ đến việc tổ chức các mô hình sản xuất.
“Như vậy, cần xác định rằng, báo chí truyền thông là một thị trường đặc
biệt, để đạt được hiệu quả doanh số, các cơ quan, tổ chức phải chú trọng
đến ba điểm mấu chốt: vai trò của công chúng (nhu cầu hàng hóa), vai trò
của nhà quảng cáo (nhu cầu dịch vụ) và đặc trưng nơi vùng miền hoạt
động (địa bàn).” [28; tr.29].
Theo nghiên cứu của Carina Ihlstrom và Jonathan Palmer (2002) về
Doanh thu trực tuyến trên báo mạng điện tử có đề cập đến xu hướng tiếp
cận của người tiêu dùng trước các sản phẩm báo chí truyền thông số, đó là:
Hơn 91% số người được hỏi có niềm tin đối với trang báo mạng điện tử
như đối với giấy in. Hơn 37% người dùng phản ứng tốt với việc sử dụng
âm thanh và hình ảnh chuyển động trên giao diện website, họ cho rằng nó
đem lại sự đa dạng cho tác phẩm báo chí[47]. Có thể nói, mặc dù thị hiếu
của công chúng đang thay đổi nhưng vẫn có những điểm căn cốt không thể
thay đổi trong thói quen tiêu thụ và cách tiếp cận của công chúng.
Năm 2014, nhà nghiên cứu Juergen Grimm đã đưa ra quan điểm về
mối quan hệ giữa độc giả và người làm truyền thông trong Nghiên cứu ảnh
hưởng của phương tiện truyền thông: Giới thiệu một số phương pháp và lý
thuyết (Media effect research: Introduction to the theory and methods), đó
là: “Người làm truyền thông phải tìm ra nhiều giải pháp khác nhau để tác
động đến các nhóm công chúng khác nhau, nhằm thu lại hiệu quả tối đa
cho hoạt động truyền thông”. Nhu cầu tiêu thụ tin tức kỹ thuật số và sự
phát triển ngày càng nhanh chóng của các thiết bị điện tử cá nhân trong đó
có điện thoại di động thông minh đã trở thành một “lực cản” cho sự sụt
giảm phát hành của các loại hình truyền thông truyền thống như in ấn hay
41
thuê bao truyền hình cáp. Ngoài ra, phạm vi tiếp cận rộng lớn của các nền
tảng mạng xã hội trực tuyến và nền kinh tế số tương ứng với mô hình kinh
doanh dựa trên dữ liệu đã được cá nhân hóa với tốc độ nhanh trở thành một
hợp đồng hấp dẫn với ngành quảng cáo. Doanh thu quảng cáo đã chuyển
đáng kể từ các nền tảng truyền thống sang nền tảng viễn thông và truyền
thông số. Bên cạnh đó, các đơn vị viễn thông sẵn sàng chia sẻ và cung cấp
hạ tầng với các đơn vị báo chí, truyền thông đã thúc đẩy các nhà báo (cả
chuyên nghiệp và nhà báo công dân) tìm kiếm những cách sáng tạo mới để
duy trì hoạt động kinh doanh.
1.4. Những biểu hiện và đặc điểm của thị trƣờng báo chí, truyền thông
số thu phí từ ngƣời sử dụng
1.4.1. Những biểu hiện mới của thị trƣờng báo chí, truyền thông số
Thứ nhất, các sản phẩm báo chí, truyền thông số tồn tại trong môi
trường công nghệ số hiện đại có nhiều thuận lợi trong việc tiếp cận người
tiêu dùng khi các thiết bị hạ tầng số đang trở thành công cụ thiết yếu trong
đời sống. Việc nâng cấp hạ tầng viễn thông lưu trữ dữ liệu cùng với những
tiến bộ trong tự động hóa, phân tích và công nghệ số đã giảm thiểu thời
gian hao phí của nhà sản xuất và người tiêu dùng. Các doanh nghiệp không
cần phải chào bán sản phẩm trực tiếp mà vẫn tiếp cận được khách hàng.
Việc áp dụng những công nghệ mới, đặc biệt mạng thế hệ thứ 3 (3G) ra
đời, đã thay đổi tốc độ truy cập Internet theo hướng tăng cao đáng kể. Các
dịch vụ giá trị gia tăng trên nền di động được các nhà cung cấp dịch vụ
khai thác triệt để, bởi ngoài việc làm phong phú đa dạng dịch vụ của mình,
nhà cung cấp còn hưởng lợi từ nguồn thu mới [29; tr.198].
Thứ hai, sự phát triển của công nghệ đã khắc phục mọi khoảng
cách giữa người làm báo và công chúng của mình, từ đó gia tăng khả
năng tương tác và theo đó mức độ niềm tin của công chúng với cơ quan
báo chí cũng theo đó mà được nâng lên: Các hình thức báo chí trực
42
tuyến mới (các hình thức báo chí hợp tác, tài trợ đám đông, báo chí
công dân, nội dung do người dùng tạo, v.v.) là cơ hội để giao tiếp trực
tiếp hơn giữa các nhà báo và độc giả của họ. Sự tin tưởng và minh bạch
là chìa khóa thành công [43; tr.18].
Thứ ba, sự phát triển các sản phẩm truyền thông thu phí từ người sử
dụng khiến mô hình kinh doanh truyền thống, cùng với các hình thức giao
kết giữa người bán và người mua trên thị trường truyền thông thay đổi.
Thời kỳ đầu, khi đưa nội dung thông tin báo chí lên mạng điện tử trực
tuyến, các cơ quan báo chí, truyền thông quyết định phá vỡ mô hình doanh
thu trực tiếp từ khách hàng truyền thống (xem/đọc trả tiền), bằng cách
không tính phí người dùng với bất cứ loại thông tin nào. Thay vào đó các
cơ quan báo chí hoàn toàn dựa vào doanh thu từ quảng cáo trên cơ sở
lượng khách hàng truy cập, tốc độ sản xuất sản phẩm tin - bài... đã thu hẹp
doanh thu của cơ quan báo chí.
Trên thực tế, khi không thu phí sản phẩm, hầu hết các tòa soạn định
hình mối liên hệ với độc giả của họ “giống như là khách truy cập vãng lai”
hơn là “độc giả trung thành”. Thay vì tạo ra các sản phẩm nhằm đáp ứng
nhu cầu của công chúng, các cơ quan báo chí chỉ trông chờ vào quảng cáo
trực tuyến. Theo các nhà nghiên cứu Đan Mạch đã mô tả, đây là một dạng
tư duy “doanh thu ngắn hạn”, ví như một cuộc thi chạy bền mà lúc đầu, cơ
quan báo chí có thể nhận thấy những lợi ích ngắn hạn hoặc doanh số có
mức tăng đáng kể, nhưng dần dần khi thông tin bão hòa, thị trường sẽ “bão
hòa” đi rất nhanh.
1.4.2. Một số đặc điểm của thị trƣờng báo chí, truyền thông số
Nhìn từ các mối quan hệ trong thị trường, dựa trên sự tương tác giữa
các cơ quan báo chí, truyền thông với khách hàng của họ, chúng ta có thể
nhận thấy là:
Thứ nhất, hoạt động thu phí người sử dụng sẽ đưa những địa chỉ
43
proxy vô danh thành những tài khoản được định danh, theo đó, các cơ
quan báo chí có thể nắm được con số độc giả trung thành cụ thể chứ không
chỉ trông chờ vào những cú nhấp chuột ngẫu nhiên. Khi độc giả ngày càng
trở nên thông minh hơn, họ sẽ trông chờ vào những sản phẩm báo chí chất
lượng cao và chấp nhận bỏ tiền mua tin tức chất lượng hơn là đọc những
tin tức miễn phí.
Thứ hai, các tòa soạn đang chú trọng vào các sản phẩm đa phương
tiện có chất lượng nổi trội, có khả năng tạo ra ấn tượng mạnh mẽ với công
chúng. Đó là tiền đề cho sự phát triển của nhiều dạng thức sản phẩm báo
chí mới như Mega story, long-form... rất sinh động, đa dạng.
Thứ ba, sự tham gia khách hàng là tiêu chí quan trọng nhất để đánh
giá sự thành công của sản phẩm trong giai đoạn truyền thông số. Nhấp
chuột, chia sẻ, lượt xem trang, tỷ lệ thoát và thời gian dừng, các địa chỉ
proxy có thực... không phải là thông số chính để đánh giá một mô hình báo
chí thành công. Từ thực tiễn hoạt động ở các công ty đăng ký nội dung số
hàng đầu trên thế giới, các số liệu về sự hài lòng của khách hàng là yếu tố
quan trọng nhất. Giống như các sản phẩm báo chí truyền thống, sự hài lòng
của công chúng là điều níu giữ họ tiếp tục duy trì mối quan hệ với các cơ
quan báo chí, đây cũng là đặc trưng chung của nền kinh tế: khách hàng chỉ
tiếp tục gia hạn/mua thêm sản phẩm khi họ cảm thấy hài lòng với các mặt
hàng được cung ứng.
Thứ tư, hình thành và phát triển các mối quan hệ mới bền chặt hơn
với công chúng truyền thông (trong vai trò người sử dụng sản phẩm truyền
thông) trong bối cảnh xã hội nâng cao tương tác cá nhân. Tại thời điểm
này, nhiều cơ quan báo chí, tập đoàn truyền thông truyền thống chỉ liên lạc
với khách hàng của họ khi gửi hóa đơn và các văn bản thông báo theo tiêu
chuẩn thông thường. Để khắc phục điều này cần cải thiện dịch vụ khách
hàng, tăng sự tập trung vào sản phẩm có chất lượng. Công nghệ luôn thay
44
đổi bởi thị hiếu của công chúng luôn thay đổi, nếu như các tòa soạn, đơn vị
truyền thông không thay đổi theo thị hiếu, hoặc tìm cách duy trì mối liên hệ
với công chúng của mình, họ sẽ bị tụt lại phía sau.
Như vậy, trong thị trường kinh tế số, các cơ quan báo chí sẽ có tầm
nhìn rõ ràng, dài hạn dựa trên các chủ số thực của thị trường xuất phát từ
dữ liệu người dùng, theo đó, các cơ quan báo chí sẽ không ngừng cải hiện
và làm mới mình nhằm tạo ra những sản phẩm báo chí có chất lượng. Đối
với người tiêu dùng, thị trường báo chí truyền thông số sẽ đem lại cho
khách hàng nhiều cơ hội để tiếp cận các sản phẩm có thể phục vụ hữu hiệu
cho nhu cầu cấp bách từ cuộc sống.
1.4.3. Mối quan hệ giữa nhà sản xuất nội dung, nhà phân phối và
khách hàng trên thị trƣờng báo chí truyền thông số
Sự chuyển đổi mô hình kinh tế từ “trực tiếp đến gián tiếp” qua kỹ
thuật số đã tạo ra những thay đổi trong thị trường kinh tế báo chí. Vì vậy,
dựa trên các khái niệm và hoạt động thực tiễn của sản phẩm báo chí truyền
thông số thu phí từ người sử dụng, mối quan hệ giữa nhà sản xuất nội
dung, hệ thống phân phối sản phẩm và công chúng (trong vai trò người tiêu
dùng) có thể được mô tả như sau:
Mô hình thứ nhất: Nhà cung cấp dịch vụ chào bán một gói sản phẩm
tương đối phù hợp với người dùng dựa trên nghiên cứu về các nhu cầu của
chính người dùng (khách hàng), thông qua trích xuất một phần thông tin từ
Big Data (kho dữ liệu thông tin người dùng: dựa vào các thuật toán, có thể
trích xuất một số thông tin như thói quen, hành vi, lịch sử sử dụng của
45
người dùng) hoặc rút ra dữ liệu từ xu hướng được dự báo (trends).
Biểu đồ 1.3: Mô hình nhà cung cáp dịch vụ viễn thông chào bán gói
sản phẩm báo chí truyền thông số tới độc giả
Mô hình thứ hai: Khách hàng tự tìm kiếm các sản phẩm đơn lẻ mà
họ cho là phù hợp với bản thân mình.
Biểu đồ 1.4: Mô hình khách hàng chủ động tìm kiếm sản phẩm thông
tin số
Trong hoạt động thu phí người sử dụng trên thị trường nội dung số,
46
có ba đối tượng khách hàng được các cơ quan báo chí hướng tới, mỗi đối
tượng có một cách tiếp cận khác nhau thể hiện rõ đặc trưng về phân khúc
thị trường:
Nhóm khách hàng “sẵn sàng chi trả”. Đây là nhóm khách hàng
tiềm năng khi họ chủ động tiếp cận, và có sự nhận thức rõ ràng về vai trò
và giá trị của thông tin trả phí, tuy nhiên vì nhóm khách hàng này đã có
sẵn kiến thức trong thị trường thông tin, họ lại khá “cứng nhắc” trong
việc chi trả. Chỉ những sản phẩm chất lượng cao thì mới có thể thuyết
phục họ trả tiền.
Nhóm khách hàng “có tiềm năng chi trả”. Để thuyết phục phân
khúc khách hàng này cần chú trọng tới khối lượng thông tin hiệu quả. Thay
vì cung cấp nhiều thông tin có chất lượng cùng một lúc, các cơ quan báo
chí cần khai thác thói quen, xu hướng, mối quan tâm của khách hàng, từ đó
đẩy nhiều sản phẩm thông tin báo chí phù hợp với khách hàng để họ nhận
thấy tính ưu việt của thông tin hữu ích.
Nhóm khách hàng có xu hướng “lưỡng lự trong quyết định chi
trả”. Lượng khách hàng không muốn chi trả cho các sản phẩm báo chí
truyền thông số là khá lớn bởi họ bị giới hạn bởi các vấn đề kinh tế hoặc
nhận thức chung về thông tin. Để tiếp cận nhóm khách hàng này cần có sự
hỗ trợ của bên thứ ba, đây là lúc để các đơn vị viễn thông tham gia cùng
các đơn vị báo chí.
Vậy, mối quan hệ giữa thị trường, sản phẩm và người tiêu dùng
trong môi trường sản phẩm báo chí, truyền thông số thu phí từ người sử
dụng là một mối quan hệ mở với các đặc trưng về mô hình hoạt động kinh
tế thị trường có sự kết hợp giữa các nhóm ngành kinh tế, phát huy thế
mạnh đặc trưng của mỗi đơn vị. Nhiều cơ quan báo chí không còn tiếp cận
công chúng của mình theo cách một chiều truyền thống mà đã có sự nghiên
47
cứu thị trường, tập trung vào các phân khúc khách hàng tiềm năng, phục vụ
những nhóm công chúng chuyên biệt để từ đó nhân rộng tầm ảnh hưởng
của cơ quan báo chí trong cộng đồng.
1.5 Các tiêu chí đánh giá sự phát triển và hiệu quả sản phẩm báo chí,
truyền thông số thu phí từ ngƣời sử dụng
Để tiến hành nghiên cứu các tiêu chí làm thước đo đánh giá cho mức
độ hiệu quả của sản phẩm báo chí, truyền thông số thu phí từ người sử
dụng có thể sử dụng một số tiêu chí cơ bản như sau:
1.5.1. Các tiêu chí dựa trên thuật toán thống kê
Thứ nhất, báo cáo số liệu thống kê của hạ tầng điều hành công
nghệ thông tin (Source code) của hệ thống phân phối sản phẩm nội
dung. Báo cáo Source code giúp cho các thành viên trong dự án có một cái
nhìn tổng thể về các hoạt động trong dự án và giúp cho quá trình phối hợp
công việc được thuận lợi. Về mặt kinh tế, báo cáo Source code sẽ cho thấy
một chu trình phát triển rõ ràng của sản phẩm trên nền tảng kỹ thuật số.
Hình 1.1: Các thông số Source code của trang nytimes.com. Nguồn:
48
similarweb.com
Thứ hai, đánh giá trên cơ sở báo cáo của Google Analytics. Đây là
một dịch vụ miễn phí của Google cho phép tạo ra các bảng thống kê chi tiết
về hoạt động của khách hàng khi sử dụng một trang web: khách hàng ở lại
trên trang web trong bao lâu, vị trí địa lý, xu hướng tiếp cận của khách
hàng... Đây là sản phẩm đánh giá công khai dựa trên các thông số thuật
toán. Tuy nhiên hạn chế của Google Analytics là khách hàng hoàn toàn có
quyền từ chối cho phép truy cập vào dữ liệu cá nhân của họ.
Hình 1.2: Báo cáo chi tiết người dùng trong 7 ngày của Google Analytics
Thứ ba, đánh giá dựa trên lượng tài khoản đăng ký. Giống như các
sản phẩm báo chí truyền thống, lượng người đăng ký sử dụng sản phẩm là
một tiêu chí đánh giá sự phát triển của sản phẩm trên thị trường thông tin.
Theo đó, càng có nhiều tài khoản đăng ký trả phí nghĩa là sản phẩm đang
được phổ biến rộng rãi và phù hợp với thói quen tiếp nhận thông tin của
49
công chúng.
Hình 1.3: Báo cáo về lượng tăng trưởng của subscriber tại NYT từ năm
2011-2018. Nguồn: statista
Thứ tư, đánh giá dựa trên lượt người xem và lượng tương tác hiển
thị trên hệ thống. Trên giao diện của các sản phẩm báo chí số đều có phần
dành cho độc giả tương tác trực tiếp với nhau và tương tác trực tiếp với cơ
quan chủ quản thông qua phần đánh giá (vote) hoặc bình luận (comment).
Các số liệu này đều được công khai trên trang chủ của hệ thống, ai cũng có
thể tiếp cận. Một bài viết có nhiều lượt bình luận chứng tỏ bài viết đó có
khả năng ảnh hưởng đến công chúng hay nói cách khác là tạo ra hiệu ứng
xã hội.
50
Hình 1.4: Báo cáo đánh giá lượng người xem trên hệ thống. Nguồn GA
Thứ năm, đánh giá dựa trên lượt chia sẻ trên các trang mạng xã
hội. Hiện nay, các sản phẩm báo chí truyền thông số đều có sự liên kết chặt
chẽ với các sản phẩm kỹ thuật số khác như mạng xã hội và blog, do cùng
tồn tại trên một nền tảng kỹ thuật số và chính thói quen sử dụng của công
chúng đã tạo ra sự liên kết giữa các sản phẩm kỹ thuật số. Trên giao diện
của các trang báo mạng điện tử đều có mã nhúng (embed code) tạo ra liên
kết giữa trang báo và trang mạng xã hội của khách hàng, theo đó, thay vì
copy đường link của cả bài báo và dán thủ công lên trạng thái tài khoản
mạng xã hội; khách hàng có thể chọn chia sẻ bài viết qua mã nhúng trên
trang chủ của tờ báo. Các trang mạng xã hội là điểm đến phổ biến của công
chúng cả thế giới, là nơi để tìm kiếm và chia sẻ tin tức. Một tin tức có giá
trị là một tin tức được chia sẻ nhiều trên mạng xã hội.
Hình 1.5: Báo cáo tỷ lệ phần trăm thể loại tin tức của NYT được chia sẻ
51
trên mạng xã hội. Nguồn Crowdynew
Đối với một sản phẩm số, các thuật toán đo thời gian sử dụng, tần
suất và mức độ tập trung của người dùng đối với sản phẩm có thể cho thấy
các trạng thái cảm xúc hình thành nên thói quen, hành vi của công chúng
trước khi đưa ra quyết định chi trả cho thông tin. Quan điểm của nhà
nghiên cứu McMillan (1998) đã chỉ ra rằng “nếu có thể tìm thấy nội dung
miễn phí ở đâu đó, người dùng sẽ không trả tiền cho bất kỳ nội dung nào
khác, ngay cả đối với loại tin tức mà họ cho là có giá trị” [51]. Tuy nhiên
trong bối cảnh nền kinh tế thị trường đang tác động không nhỏ đến thói
quen của công chúng thì vẫn có khách hàng trẻ đồng ý chi trả cho tin tức
nếu nó có liên quan mật thiết đến cuộc sống và các mối quan hệ xã hội,
công việc của họ. Khi được hỏi về việc lựa chọn giữa một tin tức miễn phí
và một tin tức độc quyền có trả phí thì trong số 10 người tham gia trả lời
phỏng vấn sâu, các ý kiến đều cho rằng nên lựa chọn tin tức có trả phí chất
lượng cao, trong đó một người trả lời phỏng vấn cho biết: “Chọn tin tức
độc quyền trả phí. Vì trong bối cảnh kinh tế đang chuẩn bị chấm dứt vòng
quay 10 năm của hạn mức ngân hàng thì các tin tức phân tích kinh tế độc
quyền sẽ phục vụ rất tốt cho việc kinh doanh” [PV8].
1.5.2. Các tiêu chí dựa trên hiệu quả tác động của sản phẩm truyền thông
Báo mạng điện tử thu phí, sản phẩm truyền thông giải trí thu phí,
mạng xã hội... đều là công cụ phục vụ nhu cầu của công chúng. Trong quá
trình phát triển của lịch sử, công cụ có thể thay đổi từ dạng vật chất sang
dạng số nhưng tác động của nó tới đời sống không thay đổi. Quá trình tác
động đó là cơ sở cho thước đo sự thành công hoặc thất bại, sự phát triển
của một sản phẩm kinh tế thị trường.
Ý thức của công chúng thay đổi dẫn tới thói quen thay đổi: Khi xã
hội thay đổi từ nền kinh tế khai thác tài nguyên, nhân lực lao động đến nền
kinh tế tri thức thì ý thức của con người cũng theo đó mà thay đổi. Công
52
chúng là người trực tiếp chịu tác động từ nhu cầu bảo vệ bản quyền sở hữu
đối với mỗi sản phẩm kinh tế thị trường của nhà sản xuất, vì vậy, ý thức
được vấn đề bản quyền, nhiều khách hàng đã lựa chọn các sản phẩm báo
chí số thu phí bởi họ cho rằng thông tin thu phí thường là thông tin chất
lượng cao có nguồn gốc rõ ràng được kiểm chứng từ các cơ quan báo chí
uy tín.
Tác động từ người có tầm ảnh hưởng: Theo nghiên cứu của
American Press Institute, cứ 4/10 người được hỏi về lý do quyết định chi
trả cho một sản phẩm báo chí số thu phí là vì họ thấy người thân, bạn bè
của mình hoặc người nổi tiếng sử dụng sản phẩm này. Điều này cho thấy,
sự tác động từ những người có tầm ảnh hưởng xã hội cũng là một tiêu chí
đánh giá cho sự thành công và phát triển của một sản phẩm. Thúc đẩy
khách hàng đưa ra sự lựa chọn dựa trên những bằng chứng xác thực về
những người đã từng có trải nghiệm hài lòng là phương thức tiếp thị và
cũng là thang đo chung của nhiều nhóm ngành kinh tế.
Mức độ hữu dụng của thông tin với đời sống khách hàng. Theo tác
giả Thaler: “Mặt khác, con người còn đánh giá một khía cạnh khác của
việc mua sắm một sản phẩm: chất lượng cảm nhận của giao dịch. Đó chính
là điều mà tính hữu dụng giao dịch thể hiện. Nó được xác định như là sự
khác biệt giữa giá thực sự phải trả cho sản phẩm và giá mà người tiêu
dùng thông thường kỳ vọng trả, tức là giá tham khảo” (reference price)
[44; tr.88]. Điều này có nghĩa là cùng một sản phẩm thông tin nhưng thời
điểm mua khác nhau và cách thức thể hiện sản phẩm khác nhau sẽ tạo ra
giá trị khác nhau. Cùng là đưa tin về một vụ cháy nhưng đưa tin bằng chữ
và ảnh minh họa sẽ không hấp dẫn bằng tin video, livestream trực tiếp;
“Người đi mua sắm dễ bị lôi cuốn bởi tính hữu dụng của giao dịch” [41;
tr.92] sự phát triển của sản phẩm nhằm mục đích phục vụ tối đa cho nhu
53
cầu của khách hàng.
Phản hồi của người tiêu dùng. Những hành vi của người tiêu dùng
như là chủ động tìm kiếm thông tin về sản phẩm, dịch vụ; lựa chọn các gói
sản phẩm phù hợp, ưu tiên lựa chọn những thương hiệu có uy tín… được
gọi là phản ứng đáp lại của người tiêu dùng. Xuất phát từ những tác động
từ xã hội và những yếu tố bị ảnh hưởng bởi “hộp đen ý thức”, người tiêu
dùng có thể đưa ra những phản ứng tích cực hoặc tiêu cực trong quá trình
sử dụng sản phẩm. Phản ứng đáp lại từ người tiêu dùng nằm trong nhóm
nghiên cứu hành vi mua của người tiêu dùng và cũng là tiêu chí để đánh
giá mức độ phát triển, và hiệu quả của sản phẩm.
1.5.3. Các tiêu chí dựa trên khả năng đảm bảo quyền lợi các bên
liên quan
Thước đo sự phát triển của một sản phẩm báo chí, truyền thông số
không chỉ là sự cập nhật liên tục của công nghệ để phù hợp với thị
trường mà đó còn là khả năng đáp ứng và đảm bảo quyền lợi của các bên
liên quan.
- Đối với người sử dụng, sự phát triển của sản phẩm được tính bằng
sự đảm bảo về quyền lợi người dùng. Họ cần được đảm bảo quyền lợi về
tốc độ, tính chính xác, khách quan của sản phẩm truyền thông số, nhưng
vẫn đem lại các giá trị giải trí. “Sự thay đổi trong nội dung truyền thông
khiến chức năng chủ yếu của truyền thông cũng có sự thay đổi, ngoài chức
năng tuyên truyền truyền thống, chức năng giải trí trở thành một trong
những chức năng nổi bật nhất của truyền thông” [14; tr.119]. Người sử
dụng có quyền đòi hỏi thông tin mới cả về nội dung và hình thức, để đáp
ứng được điều này nhà cung cấp cần có một kho lưu trữ và bộ vi xử lý lớn.
Sản phẩm truyền thông thu phí số cần cung cấp những tin tức độc quyền về
nội dung và cách thức thể hiện. Điều đó góp phần thỏa mãn giá trị của hàng
54
hóa trên thị trường và thay đổi quá trình sản xuất thông tin truyền thống.
- Đối với thị trường, sự phát triển của sản phẩm truyền thông số quy
định dựa trên độ thiết thực của sản phẩm, các đặc trưng của nền kinh tế thị
trường đặt ra những yêu cầu riêng đối với sản phẩm truyền thông số. Nền
kinh tế thị trường cố tạo ra lối sống thực tế, cụ thể coi trọng các nhu cầu
vật chất, đời thường của mọi con người và xã hội, tránh được lối sống quá
ảo tưởng hóa cuộc đời chạy theo lối sống tình cảm chủ nghĩa quá mức [3;
tr.138], vì vậy, các sản phẩm báo chí truyền thông số cần thiết thực, gần
gũi, có khả năng phục vụ chính xác nhu cầu của khách hàng.
- Đối với nhà sản xuất (cơ quan báo chí, cơ quan truyền thông), sự
phát triển của sản phẩm truyền thông số không chỉ là sự gia tăng của số
lượng thuê bao, mức độ phổ biến trong cộng đồng, mà nó còn là đảm bảo
quyền lợi của các phóng viên, biên tập viên về quyền tác giả. Theo PGS.
TS Đặng Thị Thu Hương: “công nghệ mới và vấn đề bản quyền sẽ là yếu
tố quyết định giá trị kinh tế của ngành công nghiệp văn hóa, và tác động
trực tiếp đến văn hóa truyền thông đại chúng” [14; tr.256]. Khi vấn đề bản
quyền được đảm bảo sẽ thôi thúc các phóng viên đi tìm kiếm, khai thác sự
kiện ở các khía cạnh khác nhau, đưa ra những tin tức mang tính độc quyền,
khiến công chúng cảm thấy bị thu hút và chấp nhận bỏ tiền ra để chi trả
cho tin tức đó.
- Đối với nhà cung cấp nền tảng (tập đoàn viễn thông), giá trị của
sản phẩm truyền thông số được thể hiện thông qua lưu lượng truy cập, gói
thuê bao duy trì hàng tháng/quý. Khách hàng càng đăng kí nhiều dịch vụ
thì càng thể hiện được mức độ quan tâm của họ đối với sản phẩm truyền
thông số.
1.5.4. Các tiêu chí đánh giá dựa trên hiệu quả kinh tế
Chất lượng dịch vụ. Chất lượng dịch vụ là khái niệm mang tính
khách quan, nhận thức đánh giá của người tiêu dùng đối với sản phẩm,
55
dịch vụ kinh tế. Năm thành phần cơ bản của chất lượng dịch vụ là: Phương
tiện hữu hình (thương hiệu, hình ảnh, tài liệu, thiết bị kỹ thuật); Độ tin cậy;
Khả năng đáp ứng; Năng lực phục vụ và Sự cảm thông với khách hàng.
Chất lượng dịch vụ không chỉ là đáp ứng nhu cầu mà nó còn là quá trình
chạm đến kỳ vọng của khách hàng. Để làm được điều đó, nhiều đơn vị như
Netflix đã nghiên cứu, đầu tư vào khâu khảo sát khách hàng và không
ngừng nâng cấp chất lượng dịch vụ theo hướng cá nhân hóa để khách hàng
có được trải nghiệm sản phẩm tốt nhất và gắn bó lâu dài với dịch vụ.
Hiệu quả kinh doanh. Đây là một tiêu chí quan trọng nhất để đánh
giá sự phát triển và hiệu quả của một sản phẩm kinh tế, trong đó có các sản
phẩm báo chí truyền thông số. Bất kỳ một sản phẩm kinh tế nào khi tham
gia thị trường cũng cần đem lại hiệu quả kinh tế. Doanh thu do sản phẩm
đem về càng nhiều thì càng chứng minh được tính hữu ích và vai trò của
nhà sản xuất trên thị trường.
Sức ảnh hưởng của thương hiệu nhà sản xuất. Trên thế giới, dưới
tác động của nền kinh tế thị trường, nhiều cơ quan báo chí truyền thông đã
tham gia vào quá trình định giá thương hiệu trên các sàn giao dịch chứng
khoán và thu về lợi tức từ cổ phiếu của các nhà đầu tư. Các sản phẩm báo
chí, truyền thông số có chất lượng góp phần không nhỏ vào quá trình xây
dựng thương hiệu cho cơ quan báo chí, là phương thức chủ yếu để thúc đẩy
quá trình ảnh hưởng của thương hiệu cơ quan báo chí trên thị trường. Sức
ảnh hưởng của thương hiệu trong thị trường kinh tế là một yếu tố để đánh
giá sự thành công và hiệu quả của sản phẩm.
Thông qua sự phát triển của internet, các loại hình, sản phẩm báo chí
truyền thống đã có cơ hội được mở rộng để mang đến những nội dung sâu
sắc hơn, có nhiều sản phẩm đa phương tiện và mang đến khả năng tương
tác với công chúng mà những loại hình như báo in không thể có được. Khi
đánh giá về sự phát triển và hiệu quả của một sản phẩm, thông thường ở
56
góc độ kinh tế thường chú trọng đến chất lượng dịch vụ, doanh thu kinh tế,
nhưng đối với các sản phẩm báo chí, đặc biệt là sản phẩm báo chí, truyền
thông số thu phí từ người sử dụng, cần quan tâm đến các tiêu chí khác như
thuật toán, sự tác động của ngoại cảnh, khả năng cá nhân hóa của sản phẩm
và phản ứng đáp lại của người tiêu dùng.
Tiểu kết chƣơng 1
Sự phát triển của công nghệ đã tạo điều kiện cho cả nhà cung cấp
thông tin và công chúng không ngừng tìm tòi để làm thỏa mãn nhu cầu của
mỗi bên. Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và hoạt động số hóa diễn ra
sâu rộng, phổ biến với mọi ngành nghề thì việc công chúng ngoài thay đổi
thị hiếu cùng cần thay đổi thói quen thụ hưởng, trở về với những điều đã
từng là căn bản trong mối quan hệ hai chiều giữa người sản xuất thông tin
và người thụ hưởng thông tin.
Thị trường thông tin ngày nay hiện đại và đa dạng dưới nhiều hình
thức. Tuy nhiên cần phân biệt giữa thông tin mà ta nghe thấy từ những
người hàng xóm, đọc từ các trang mạng xã hội sẽ có sự khác biệt rất lớn
đối với thông tin chính thống từ báo chí (hay còn gọi là tin tức báo chí). Sở
dĩ có sự khác biệt là bởi thông tin xã hội đôi khi không được kiểm chứng,
không có người chịu trách nhiệm với giá trị nội dung của thông tin, thông
tin đó cũng không đảm bảo các quy chuẩn về ngôn từ, cách hành văn. Tuy
nhiên thông tin thông thường lại lan truyền rất nhanh và được nhiều người
dễ đặt niềm tin hơn là tin tức báo chí. Những thông tin ngoài xã hội và
thông tin miễn phí có cùng rủi ro về tính chính xác và tính logic, thường
được đưa ra theo hướng chủ quan. Vì vậy, chúng ta thấy được tầm quan
trọng của những thông tin có chất lượng, được định giá như khẳng định giá
trị và tầm quan trọng, chính xác của tin tức đó. Claudia Mast cho rằng: “Tự
do báo chí chỉ được đảm bảo trên cơ sở độc lập về kinh tế, hoặc ngược lại
thành quả kinh tế của nhà xuất bản là một điều kiện đảm bảo cho báo chí
hoạt động tự do và thành công” [34; tr.178]. Xây dựng kinh tế báo chí
57
không phải là làm giảm đi chất lượng thông tin mà là thể hiện sự tiến bộ
trong đời sống thụ hưởng văn hóa, khi công chúng ngoài việc thụ hưởng
còn có trách nhiệm ghi nhận cố gắng, công sức của những người làm báo
trong việc cung cấp thông tin kịp thời, hữu dụng.
Khi đánh giá hiệu quả của một sản phẩm báo chí truyền thông số thu
phí từ người sử dụng, cần chú trọng tới phản hồi của công chúng sau khi
trải nghiệm các sản phẩm truyền thông số. Điều này được xem xét qua các
phương diện: Mức độ tập trung khi tham gia trải nghiệm, tần suất sử dụng
sản phẩm, mức độ hài lòng, so sánh với các loại sản phẩm khác và khả
năng sẵn sàng tiếp tục chi trả cho sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí
người dùng. Từ đó sẽ rút ra được mức độ phát triển của sản phẩm truyền
thông số đối với công chúng.
Tuy nhiên, nhanh, nóng hay đa dạng về cách thể hiện thôi là chưa
đủ, sự phát triển của công nghệ và năng lực tác nghiệp của phóng viên đã
và đang bổ sung cho những thiếu hụt về nội dung và nâng cao chất lượng
bài viết. Mỗi cơ quan báo chí khác nhau lại cung cấp những sản phẩm
truyền thông khác nhau, điều này là cơ sở để công chúng quyết định lựa
chọn một hoặc vài cơ quan báo chí quen thuộc để mình trở thành độc giả
trung thành với cơ quan báo chí đó.
Dựa trên sự hỗ trợ của công nghệ, thị trường đã chỉ ra nhu cầu của
công chúng, từ đó các cơ quan báo chí truyền thông thay đổi mình để phù
hợp với thị hiếu chung. Càng đáp ứng sát với nhu cầu của công chúng bao
nhiêu thì cơ quan báo chí càng giữ chân được độc giả trung thành của mình
bấy nhiêu. Đây cũng là yếu tố cần và đủ để công chúng đưa ra quyết định
tiếp tục chi trả cho sản phẩm báo chí số hay không.
Theo Schram, nền báo chí đơn chức năng là nền báo chí chỉ phản
ánh những vấn đề giống nhau từ ngày này qua ngày khác, điều này đã
cho thấy mức độ nhàm chán, thiếu chiều sâu trong việc phản ánh các sự
kiện xã hội. Ở Việt Nam nền báo chí của chúng ta đã và đang trở thành
đa chức năng khi vừa là công cụ tuyên truyền tư tưởng, vừa là sản phẩm
58
truyền thông, loại hàng hóa đặc biệt trên thị trường. Vì vậy, sự ra đời
của các mô hình mới trong đó có sản phẩm báo chí truyền thông số thu
phí từ người sử dụng là bước đi phù hợp với yêu cầu thời đại, thể hiện sự
phát triển của báo chí cách mạng Việt Nam không nằm ngoài sự phát
59
triển của báo chí thế giới.
Chƣơng 2. KHẢO SÁT, ĐÁNH GIÁ CÁC SẢN PHẨM BÁO CHÍ
TRUYỀN THÔNG SỐ THU PHÍ NGƢỜI DÙNG TẠI VIỆT NAM
2.1. Sơ lƣợc về các sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí ngƣời
sử dụng khảo sát tại Thông tấn xã Việt Nam, Viettel và FPT
2.1.1. Thông tấn xã Việt Nam
Giới thiệu sơ lược về Thông tấn xã Việt Nam
Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) ra đời ngày 15/9/1945 dưới danh
xưng được Chủ tịch Hồ Chí Minh chấp bút: Việt Nam Thông tấn xã.
TTXVN hiện là cơ quan báo chí có nhiều sản phẩm và loại hình thông tin
nhất cả nước, với hơn 60 sản phẩm thông tin. TTXVN đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt “Đề án phát triển một số báo in và báo điện tử đối
ngoại Quốc gia của Thông tấn xã Việt Nam” đối với 03 đơn vị thông tin
đối ngoại, bao gồm: Báo Việt Nam News, Báo ảnh Việt Nam và báo điện
tử VietnamPlus.
Giới thiệu sơ lược về sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí từ
người sử dụng của Thông tấn xã Việt Nam
Báo điện tử VietnamPlus chính thức hoạt động từ ngày 13/11/2008,
là trang báo điện tử đầu tiên và duy nhất của TTXVN nhưng lại là tờ báo
điện tử ra đời khá muộn trên thị trường báo mạng điện tử trong nước. Với
quan điểm cạnh tranh bằng “Thông tin chính thống hàng đầu và nội dung
có bản quyền 100%”, từ tháng 8/2012, báo mạng điện tử VietnamPlus cho
ra mắt ấn phẩm thử nghiệm của mô hình thu phí bạn đọc tại địa chỉ:
pay.vietnamplus.vn. Trong bối cảnh nhiều cơ quan báo chí không đạt được
mức doanh thu đáng kể từ quảng cáo, thị trường kỹ thuật số tạo ra cuộc
cạnh tranh quảng cáo trên các nền tảng số, việc lựa chọn mô hình thu phí
độc giả là hướng đi để giải quyết bài toán kinh tế cho cơ quan. Bên cạnh
đó, TTXVN còn là đơn vị cung cấp tư liệu thông tấn cho các cơ quan báo
60
chí trong và ngoài nước, có kho tư liệu báo chí lớn tạo ra nguồn thu cho
TTXVN. Sau thời gian chạy thử nghiệm mô hình thu phí độc giả trên báo
mạng điện tử, VietnamPlus chính thức thu phí người đọc từ tháng 6/2018;
cho đến nay, mô hình hoạt động thu phí độc giả của VietnamPlus vẫn được
duy trì. Việc ứng dụng mô hình thu phí độc giả đã góp phần tăng thu nhập
cho TTXVN, khai thác tối đa kho tư liệu tài nguyên và cung cấp cho nhóm
khách hàng thuộc nhóm thu nhập cao, các nhà nghiên cứu, tri thức và các
đối tác nước nước ngoài nguồn tham khảo thông tin chất lượng cao.
Các dịch vụ của pay.vietnamplus.vn bao gồm:
- Trả phí theo từng tin lẻ hoặc theo gói chu kì từng tuần, từng tháng
- Độc giả được thụ hưởng các tác phẩm báo chí chất lượng cao
- Độc giả được tham gia thảo luận, trao đổi quan điểm về bài viết
- Độc giả có thể lưu lại bài viết như một kênh thông tin tham khảo
Sản phẩm pay.vietnamplus.vn có thể khởi động trên các thiết bị điện
tử cá nhân, bao gồm: máy tính cá nhân, điện thoại di động, máy tính bảng
và ti vi có kết nối internet.
Độc giả đăng kí của trang pay.vietnamplus.vn, và có thể tiến hành
giao dịch thương mại thông qua thẻ tín dụng, ví điện tử, qua tin nhắn nhà
mạng để được đọc tin tức. Điều đáng nói là ngay tại thời điểm đăng kí, độc
giả được phép đọc miễn phí tin tức không giới hạn trong vòng 7 ngày đầu
tiên.
2.1.2. Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội (Viettel)
Giới thiệu sơ lược về tập đoàn Viettel
Tập đoàn Công nghiệp viễn thông Quân đội Viettel được thành lập
vào ngày 1/6/1989, tiền thân là Tổng Công ty Điện tử và Thiết bị Thông
tin; đây là đơn vị kinh doanh dịch vụ viễn thông tiên phong trong công
cuộc thay đổi thị trường viễn thông tại Việt Nam, cung ứng các sản phẩm
viễn thông giá rẻ, thay đổi định kiến về cước di động đắt đỏ. Viettel là đơn
61
vị viễn thông tiên phong trong việc tạo ra các sản phẩm lõi “Made by
Vietnam”, như: hệ thống tính cước theo thời gian thực (OCS), hệ thống
nhắn tin, trạm phát sóng BTS 4G, thực hiện thành công cuộc gọi 5G đầu
tiên tại Việt Nam, nằm trong top 5 nhà sản xuất thiết bị viễn thông lớn nhất
thế giới.
Giới thiệu sơ lược về sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí từ
người sử dụng của Viettel
Hoạt động dựa trên nguyên tắc phối hợp giữa cơ quan báo chí và đơn
vị cung ứng hạ tầng viễn thông, trang mạng xã hội bằng video Myclip.vn
hoạt động từ tháng 1 năm 2018 là mô hình sản phẩm trang mạng xã hội
bằng video tổng hợp các sản phẩm báo chí truyền thông số từ các cơ quan
báo chí, đơn vị truyền thông tại Việt Nam. Hoạt động thu phí từ người sử
dụng áp dụng gián tiếp thông qua các gói cước, khuyễn mãi đi kèm tận
dụng các thế mạnh trên thị trường viễn thông của Viettel như: hệ thống
khách hàng đông đảo chủ yếu là trong nhóm tuổi học sinh, sinh viên và
người lao động trẻ; có các gói cước lưu lượng data giá rẻ với khả năng phủ
sóng rộng khắp lãnh thổ; nhiều sản phẩm giá trị gia tăng của Viettel được
khách hàng đón nhận bởi tính hữu dụng và tiết kiệm; Viettel là doanh
nghiệp có thương hiệu uy tín trong cộng đồng. Việc Viettel kinh doanh sản
phẩm Myclip nhằm tạo ra một trang mạng xã hội dành riêng cho người
Việt với chi phí rẻ, chất lượng cao và là địa chỉ an toàn cho người dùng trẻ.
Sản phẩm trang mạng xã hội có sản phẩm báo chí truyền thông số
Myclip cho phép khách hàng có thể:
- Xem tin tức bằng video mà không tốn thêm data dung lượng trên
thiết bị di động (áp dụng trong trường hợp khách hàng đăng ký
gói cước dành riêng cho việc trải nghiệm trên myclp.vn)
- Xem phim điện ảnh chất lượng cao
- Lưu trữ video về thiết bị điện tử cá nhân
62
- Có phần bình luận, tương tác giữa các chủ tài khoản trên hệ thống
- Cho phép người dùng (khách hàng) đăng tải các clip ngắn do
khách hàng tự sản xuất lên hệ thống
Trong quá trình khai thác nội dung để phục vụ nhu cầu thông tin của
khách hàng, theo quy định của pháp luật, Myclip không có chức năng,
nhiệm vụ sản xuất thông tin. Vì vậy 100% các clip có nội dung thông tin
báo chí của trang này đều được các đối tác là các cơ quan báo chí, đài
truyền hình sản xuất và được Myclip tiến hành khai thác lại trên nền tảng
số của Viettel. Myclip có đối tác là YAN TV, Đất Việt, SCTV, VTC,
VTVcab, Đẹp, MCV… và cả người nổi tiếng như ca sĩ Đức Phúc, ca sĩ
Ngô Kiến Huy, ca sĩ Hòa Minzy, hot blogger Hana Giang Anh…
2.1.3. Tập đoàn FPT
Giới thiệu sơ lược về Tập đoàn FPT
Tập đoàn FPT là doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực Công nghệ
thông tin – Viễn thông, có hơn 30 năm phát triển tại thị trường Việt Nam.
FPT đã góp phần hiện đại hóa ngành kỹ thuật số quốc gia và phá vỡ thế
độc quyền internet. Là doanh nghiệp xuất khẩu phần mềm ra nước ngoài.
Năm 2118, FPT đã phát triển nâng cấp nhiều sản phẩm dựa trên nền tảng
công nghệ mới nhu trí tuệ nhân tạo, dự liệu lớn, kết nối vạn vật như: Nền
tảng Trí tuệ nhân tạo phiên bản mới tạo ra nhiều kịch bản trò chuyện, tự
động phân tích nhu cầu và quản lý tin nhắn, thiết bị điều khiển bằng giọng
nói cho thiết bị truyền hình internet, giải pháp chuyển đổi số toàn diện cho
doanh nghiệp akaRPA, hệ thống Quản lý tổng thể bệnh viện thông minh
FPT.eHospital phiên bản 2.0 ứng dụng Trí tuệ nhân tạo…
Giới thiệu sơ lược về sản phẩm báo chí truyền thông số của FPT
Thị trường giải trí tại Việt Nam có một giai đoạn bị bó hẹp bởi các
sản phẩm truyền hình thiếu sự tương tác, và công chúng bị phụ thuộc vào
các đơn vị thương mại như rạp chiếu phim, café phim… bên cạnh đó,
63
nhiều trang mạng cung cấp phim giải trí thường không có bản quyền hoặc
cung cấp sản phẩm phim chất lượng kém và có nhiều quảng cáo không phù
hợp với luật pháp. Vì vậy FPT cho ra đời ứng dụng FPT Play năm 2013,
hoạt động rộng rãi trên các nền tảng, như: internet (thông qua tên miền
fptplay.vn), thông qua các ứng dụng trên điện thoại di động (có cả hai giao
diện IOS và Android) và ứng dụng trên smart TV. Cách thức thanh toán là
thông qua thẻ cào điện thoại, thẻ ATM, thẻ tín dụng ghi nợ, ví điện tử hoặc
có nhân viên đến thu trực tiếp tại nhà. Mô hình của FPT Play đã giải quyết
tính độc quyền thương mại của truyền hình và một số đơn vị kinh doanh
sản phẩm giải trí truyền thống, cho phép khách hàng có kho dữ liệu giải trí
chất lượng cao, phù hợp với kinh tế và thói quen sử dụng của người Việt.
Sản phẩm báo chí truyền thông số của FPT cho phép khách hàng
có thể:
- Thụ hưởng các sản phẩm giải trí số chất lượng cao
- Xem lại các chương trình truyền hình đã phát, không phụ thuộc
vào lịch phát sóng
- Hẹn giờ phát sóng
- Sử dụng các kênh giải trí nước ngoài như HBO, fashion, FA CUP
- Lưu các nội dung yêu thích
- Cá nhân hóa dữ liệu khách hàng, tập hợp những sản phẩm giải trí
theo thói quen và nhu cầu của khách hàng
- Giám sát nội dung theo lứa tuổi
Các gói dịch vụ của FPT Play nhắm tới các nhóm khách hàng tiềm
năng như hộ gia đình, người hâm mộ thể thao, người hâm mộ điện ảnh,
người theo dõi truyền hình quốc tế… Trong các gói, ngoài gói đa chức
năng gồm nhiều kênh, nhiều dịch vụ thì FPT cũng tiến tới tiếp cận các
khách hàng chuyên biệt trong dịch vụ của mình. Điều này cho thấy mức độ
sâu sát của FPT Play trong việc nghiên cứu thị trường truyền hình trả phí
64
tại Việt Nam. Các gói cước phần nào thể hiện thị hiếu, nhu cầu của công
chúng. Nhiều khán giả thay vì phải trả phí để xem tất cả, họ sẽ chỉ cần trả
phí cho lĩnh vực mà họ muốn quan tâm, trở thành khán giả trung thành với
sản phẩm đó.
2.2. Thực trạng triển khai mô hình sản phẩm báo chí, truyền thông số
thu phí từ ngƣời sử dụng tại Việt Nam hiện nay
Tại Việt Nam, hoạt động của mô hình sản phẩm báo chí, truyền
thông số thu phí người sử dụng xuất hiện từ năm 2012, với sự phát triển
mạnh mẽ của truyền hình trả tiền theo yêu cầu (IPTV) của một số doanh
nghiệp như Viettel, FPT... Cũng tại thời điểm đó, TTXVN tiến hành thử
nghiệm mô hình thu phí trên báo điện tử, là dấu hiệu cho thấy bước chuyển
đổi chủ động tạo ra doanh thu giữa giai đoạn báo chí hữu hình sang báo chí
số và trong giai đoạn chuyển dần từ báo chí bao cấp sang báo chí có thu.
Thị trường báo chí, truyền thông số có thu phí ở Việt Nam bắt đầu
phát triển sôi động hơn từ hai năm trở lại đây, khi những rào cản thương
mại điện tử đã dần được khắc phục thông qua sự phát triển và nâng cấp
ứng dụng của công nghệ kỹ thuật số trên các thiết bị cá nhân và thiết lập hệ
thống bảo mật chặt chẽ. Chịu sự ảnh hưởng và bắt nhịp với xu hướng phát
triển chung của báo chí số thế giới, thị trường báo chí Việt Nam cũng đang
có sự tiếp thu để thay đổi các mô hình cũ. Theo đó, các hoạt động thu phí
đa dạng hơn với nhiều sản phẩm báo chí mới, không bị bó hẹp trong các
thể loại truyền thống, sự đổi mới trong hoạt động tác nghiệp và đóng gói
tin tức cũng mở ra nhiều phương thức dẫn truyền thông điệp sinh động, thu
hút công chúng vào quá trình tương tác, tiếp nhận thông tin. Bên cạnh đó,
mức độ chuyên môn hóa trong lĩnh vực báo chí truyền thông đã tác động
không nhỏ vào quá trình trao đổi sản phẩm.
Mặc dù tại Việt Nam, nền báo chí được đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng và Nhà nước, sau giai đoạn đổi mới, Việt Nam đang dần dần đi theo
65
hướng tự chủ về kinh tế. Hoạt động chủ động nguồn thu cho các cơ quan
báo chí tại Việt Nam không làm sai lệch, thay đổi bản chất của báo chí
cách mạng mà còn nhằm mục đích nâng cao chất lượng sản phẩm báo chí
cũng như cải thiện đời sống của các nhà báo, phóng viên, cán bộ công nhân
viên trong khối ngành Báo chí. Cũng cần nhấn mạnh, theo pháp luật Việt
Nam quy định: “Báo chí là đơn vị sự nghiệp có thu”, điều này góp phần mở
đường cho sự chủ động của các cơ quan báo chí. Đến thời điểm hiện tại,
không còn giai đoan các cơ quan báo chí tồn tại phụ thuộc vào ngân sách
Nhà nước mà theo đúng chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm kinh tế của
mình, các cơ quan báo chí cần chủ động tạo ra nguồn thu đúng đắn từ sản
phẩm có chất lượng, trong đó có các sản phẩm thu phí người dùng, được kế
thừa và phát triển từ các mô hình mua bán báo chí truyền thống,
Sự tác động từ ngoại cảnh như tốc độ phát triển của các nhóm ngành
kinh tế, cách tiếp nhận thông tin của các nhóm công chúng khác nhau tạo
ra sự phân tầng khách hàng dựa trên thói quen và thu nhập, mạng xã hội và
các kênh thông tin tại chúng theo đuổi hệ thống dữ liệu cá nhân đã tác động
không nhỏ đến các mô hình sản xuất sản phẩm báo chí truyền thông số.
Từ khảo sát thực tế tại các mô hình sản phẩm thu phí người sử dụng
tại Việt Nam, nhận thấy thị trường sản phẩm báo chí, truyền thông số hiện
có 3 mô hình hoạt động chính: sản phẩm do cơ quan báo chí trực tiếp thiết
kế và cung cấp, sản phẩm liên kết giữa cơ quan báo chí với hạ tầng/doanh
nghiệp viễn thông (Telco); sản phẩm trên nền tảng ứng dụng công nghệ
thông tin mở.
Các đặc trưng về tình hình phát triển của ba mô hình sản phẩm báo
chí, truyền thông số tại Việt Nam được đánh giá qua các đặc điểm dựa trên
các tiêu chí đánh giá sự phát triển và hiệu quả của sản phẩm thu phí người
sử dụng, bao gồm: sự phát triển của hạ tầng kỹ thuật, sự phát triển của nội
dung, sự thay đổi trong phương thức đóng gói sản phẩm và hoạt động dịch
66
vụ.
2.2.1. Tình hình phát triển của hạ tầng kỹ thuật
Theo thống kê về tần suất sử dụng mạng internet tại Việt Nam, mỗi
người Việt dành trung bình 6 giờ 42 phút mỗi ngày để tham gia các hoạt
động trên mạng internet; hằng ngày, 94% tỷ lệ người dùng dùng internet
truy cập vào hệ thống này để giải trí và tương tác. Về cơ sở hạ tầng, tốc độ
truy cập Internet vẫn tăng trưởng hằng năm, tốc độ truy cập internet trung
bình ở điện thoại là 21.56 MBPS (tăng 6.1% so với năm ngoài) và ở máy
tính là 27.18 MBPS (tăng 9.7%) [75].
Các công ty viễn thông đẩy mạnh phát triển các trạm phát sóng BTS
2G, 3G và 4G rộng khắp cả nước, phục vụ 143.3 triệu thuê bao trên cả
nước; khách hàng có thể sử dụng các dịch vụ giá trị gia tăng của nhà mạng
như tin nhắn SMS, thẻ cào để thanh toán. Đội ngũ kỹ sư phần mềm Việt
Nam chủ động xây dựng và Việt hóa các ứng dụng trên điện thoại di động
(application) phục vụ hoạt động tiếp cận thông tin của công chúng trên
thiết bị động được dễ dàng hơn. Một loạt các loại hình thanh toán mới như
ví điện tử ra đời bên cạnh hoạt động số hóa ngành ngân hàng khiến việc
thanh toán điện tử đã trở nên dễ dàng hơn rất nhiều.
Biểu đồ 2.1: Tình hình phát triển thuê bao băng rộng di động Quý I năm
67
2020 tại Việt Nam. Nguồn VNTA
Theo nội dung từ Biểu đồ 2.1, chỉ trong 3 tháng Quý I năm 2020, do
ảnh hưởng trực tiếp từ dịch bệnh và giãn cách xã hội, số lượng thuê bao
băng rộng di động đăng ký sử dụng dịch vụ internet 3G, 4G trên điện thoại
di động tăng đột biến, từ hơn 63.000.000 thuê bao tại tháng 1 lên mức gần
64.000.000 thuê bao trong tháng 3. Điều này cho thấy, khách hàng sử dụng
thiết bị điện thoại di động đã có nhu cầu giải trí, tiêu thụ thông tin rất lớn.
Đồng thời, con số này đã cho thấy mức độ phát triển không ngừng của hạ
tầng công nghiệp viễn thông để đáp ứng nhu cầu của thị trường trong từng
giai đoạn.
Hạ tầng kỹ thuật của sản phẩm báo chí, truyền thông số thu phí
tại Việt Nam trong giai đoạn hình thành, phát triển mạnh mẽ, có sự hợp
tác chặt chẽ với tiến trình phát triển hạ tầng kỹ thuật của các doanh
nghiệp viễn thông. Thống kê tại Việt Nam năm 2019, trong số 64 triệu
người dùng internet thì lượng người truy cập internet bằng thiết bị di động
là 61.73 triệu người (chiếm 96% số người sử dụng internet). Nhìn vào bức
tranh toàn cảnh có thể thấy, càng ngày, lượng người sử dụng internet tại
Việt Nam tăng càng nhanh và có xu hướng sử dụng điện thoại thông minh
được đăng ký gói cước lưu lượng data internet trên điện thoại càng nhiều,
trong số 143.3 triệu thuê bao di động ở Việt Nam thì có 45% đã đăng ký
gói cước data 3G và 4G [71].
Từ năm 2012, TTXVN đã thu phí người dùng trên báo mạng điện tử,
tại giai đoạn này, người dân còn tỏ ra e ngại hoặc không có khả năng thanh
toán qua thẻ thanh toán quốc tế visa debit, trước thực tế đó, TTXVN tiến
hành thu phí người dùng qua tin nhắn SMS. Theo ông Lê Quốc Minh, Phó
Tổng giám đốc TTXVN, thu phí qua tin nhắn SMS là phương thức thuận
tiện cho độc giả và TTXVN cũng có thể dễ dàng kiểm soát lượng độc giả
68
qua số điện thoại của khách hàng. Tuy nhiên, với phương thức thu phí qua
tin nhắn SMS, TTXVN chia sẻ 2/3 doanh thu cho đối tác viễn thông khi sử
dụng hình thức thanh toán này.
Trong các quy luật của thị trường báo chí Việt Nam những năm gần
đây, hoạt động tổ chức và phân công lao động trong lĩnh vực báo chí,
truyền thông đã đạt mức chuyên sâu: “Đối với lĩnh vực báo chí truyền
thông quá trình tổ chức và phân công lao động chuyên sâu trong lĩnh vực là
quá trình tất yếu. Báo chí truyền thông mang đặc trưng của lao động tập
thể, bao gồm rất nhiều ngành nghề, lĩnh vực chuyên môn phối hợp với
nhau” [29]. Vì vậy sự phối hợp giữa các phóng viên và kỹ sư phần mềm
của các đơn vị viễn thông đã tạo ra những phương thức đóng gói mới cho
sản phẩm báo chí, truyền thông số. Cụ thể, nhiều cơ quan báo không đủ
khả năng để cùng lúc vừa sản xuất nội dung vừa xây dựng giao diện điện tử
thu phí, vì vậy khi hợp tác với các đơn vị viễn thông, cơ quan báo chí có
thể nhận được sự hỗ trợ từ đội ngũ kỹ sư tin học viễn thông để xây dựng
giao diện web, các ứng dụng của sản phẩm trên nền tảng IOS và Android,
server lưu trữ kho nội dung. Trang web Myclip.vn của Viettel đã cung cấp
hệ thống nền tảng kỹ thuật số cho các cơ quan báo chí đối tác như Yan,
Yeah1, Đất Việt, SCTV, VTC, VTVcab, Đẹp, MCV… mỗi tháng cung cấp
khoảng hàng nghìn nội dung lên hệ thống. Khi các kỹ sư phần mềm viễn
thông tham gia vào quá trình xây dựng giao diện hiển thị và kho lưu trữ
server, họ có thể chủ động nâng cấp mã nguồn (code), tối ưu thuật toán mã
lệnh để phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của khách hàng. Theo đó, khi có
thể loại báo chí mới đáp ứng thị hiếu công chúng, đơn vị viễn thông sẽ chủ
động nâng cấp hệ thống để phù hợp với thể loại khi trình chiếu trên các sản
phẩm thiết bị điện tử cá nhân. Đây là điểm đối mới trong phương thức phát
hành sản phẩm tại Việt Nam. Nền kinh tế luôn tồn tại các khâu trung gian
trong quá trình cung ứng sản phẩm. Sự tồn tại của các đơn vị viễn thông
như Viettel đã góp phần hỗ trợ phát hành cho cơ quan báo chí thông qua hệ
thống hạ tầng kỹ thuật số vốn đang rất phát triển của Viettel. Điều này giúp
69
cho các cơ quan báo chí tiếp cận được nhiều khách hàng hơn.
Biểu đồ 2.2: Số liệu nội dung đẩy lên hệ thống từ nhà cung cấp và
mức độ tương tác của khách hàng từ tháng 1 đến tháng 9 năm 2019 của
Myclip.vn. Nguồn: Myclip.vn
Từ báo cáo số liệu lượng nội dung đẩy lên hệ thống của Myclip.vn
từ các đơn vị cung cấp sản phẩm báo chí truyền thông số cho thấy: Mức độ
tương tác của công chúng tăng hay giảm tùy thuộc và số lượng nội dung
được đẩy lên hệ thống. Theo đó, trong những tháng có ít nội dung thông tin
số từ các đơn vị cung cấp nội dung thì mức độ tương tác (bình luận) của
khách hàng cũng giảm; ngược lại, ở những tháng có nhiều nội dung mới,
lượng tương tác cũng theo đó mà tăng lên. Vậy, có thể nhận định: Sự phối
hợp giữa các đơn vị có chức năng chuyên môn khác nhau đã tạo nên những
sản phẩm đặc thù, phù hợp với nhu cầu của công chúng hiện đại.
Bên cạnh đó, sự phát triển của hạ tầng viễn thông và các thiết bị di
động cá nhân đã thay đổi thiết bị đầu cuối trong phương thức chuyển tải tin
tức. Tất cả thiết bị điện tử cá nhân như máy tính xách tay, máy tính bảng
hoặc điện thoại di động đều có thể là thiết bị đầu cuối. Điều này phù hợp
với phân khúc khách hàng thường xuyên cơ động như sinh viên, người
trong độ tuổi lao động. Theo đó, đội ngũ kỹ sư phần mềm của FPT Play
của tập đoàn FPT đã xây dựng các ứng dụng trên điện thoại di động phù
hợp với hệ điều hành IOS và Android cho phép người dùng tự do trải
nghiệm sản phẩm trên bất cứ thiết bị điện tử nào. Theo báo cáo về xu
70
hướng sử dụng dịch vụ truyền hình của người Việt Nam năm 2019 của
Q&Me thì FPT Play đang là nền tảng dẫn đầu tại thị trường Việt Nam cả
về nội dung và chất lượng hạ tầng kỹ thuật: “Nếu chỉ xét riêng các dịch vụ
phải trả phí thì FPT Play là nền tảng dẫn đầu cả về tỷ lệ nhận biết lẫn truy
cập. Lý giải cho điều này, FPT Play sở hữu sự đa dạng về mặt nội dung
nên đáp ứng được rất nhiều nhu cầu của người xem Việt Nam” [75]. Báo
cáo cũng chỉ ra rằng, điện thoại di động thông minh là thiết bị được người
Việt Nam sử dụng nhiều nhất để xem các chương trình truyền hình trực
tuyến (76%).
Biểu đồ 2.3: Tần suất sử dụng và loại thiết bị mà người Việt Nam dùng để
xem các chương trình truyền hình số. Nguồn: Q&Me
Từ biểu đồ 2.3 cho thấy thói quen sử dụng các thiết bị điện tử để tiếp
cận thông tin trong đó, tivi thông minh, điện thoại di động và máy tính
xách tay là ba dạng thiết bị phổ biến nhất. Mỗi thiết bị điện tử trên đều có
một hoặc nhiều sản phẩm báo chí truyền thông tương thích với nền tảng
truyền dẫn để công chúng có thể tiếp cận thông tin dễ dàng hơn. Ví dụ, đối
với các nhóm công chúng thích xem video hoặc các thông tin bằng sản
phẩm báo chí đa phương tiện thì tần suất sử dụng điện thoại di động để
xem đứng đầu với 42% người dùng lựa chọn, tivi thông minh đứng thứ hai
71
(41%) và máy tính xách tay đứng thứ ba (7%).
Sản phẩm báo chí, truyền thông số thu phí tại Việt Nam chú trọng
phát triển dựa trên các thuật toán của người Việt cho người Việt. Các
đơn vị sản xuất nội dung và sản xuất kỹ thuật số nền tảng đã có thể làm chủ
công nghệ, xây dựng giao diện, bộ mã nguồn để phù hợp với quá trình
đóng gói tin tức. Giai đoạn đầu của báo mạng điện tử tại Việt Nam, nhiều
cơ quan báo chí gặp khó khăn khi vấp phải các giới hạn của bộ mã nguồn
ban đầu, nhiều trang báo mạng điện tử được xây dựng trên các khuôn mẫu
có sẵn của nước ngoài nên bị hạn chế trong việc hỗ trợ các font chữ tiếng
Việt có dấu, vì vậy, nhiều tác phẩm báo chí chưa phát huy được hết sức
mạnh trong hình thức thể hiện thông điệp. Tại thời điểm hiện tại, nhiều cơ
quan báo chí và đơn vị phần mềm viễn thông đã có thể làm chủ công nghệ
đặc biệt là xây dựng giao diện, mã nguồn. Đặc điểm khách hàng tại Việt
Nam có những khác biệt với khách hàng quốc tế. Ví dụ như: khung thời
gian, đặc điểm thói quen về văn hóa (quan tâm đến những vấn đề cá nhân,
riêng tư), đặc trưng về giới tính (trọng nam)… Nhìn chung, các sản phẩm
báo chí, truyền thông tại mỗi vùng, mỗi quốc gia là khác nhau dựa trên các
đặc điểm về cư dân, độ tuổi, văn hóa bản địa.
TTXVN hiện đang trực tiếp thiết kế giao diện trang web và tổ chức
hạ tầng server lưu trữ bên cạnh việc sản xuất nội dung cho người dùng thay
vì thuê giao diện có sẵn trên các trang web nước ngoài, điều đó cho thấy
khả năng chủ động và làm chủ công nghệ kỹ thuật của tòa soạn. Tính
chuyên môn sâu của đơn vị sản xuất đã thúc đẩy quá trình tạo ra các sản
phẩm chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng. Theo ông Lê Quốc
Minh, Phó Tổng giám đốc TTXVN, đội ngũ kỹ sư của TTXVN đã có thể
chủ động xây dựng hệ thống thuật toán giao diện nền tảng, kho lưu trữ để
bán cho các đối tác trong và ngoài nước. Như vậy, ngoài nâng cao khả
năng xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ các sản phẩm báo chí số của mình,
72
TTXVN đã bước vào giai đoạn khai thác để bán nền tảng kỹ thuật số.
Biểu đồ 2.4: Sự tăng trưởng các sản phẩm truyền hình, trong đó có sản
phẩm thu phí tại Việt Nam, mức tăng trưởng của các thuê bao truyền hình
trả phí tỉ lệ thuận với sự phát triển của các nền tảng viễn thông. Nguồn:
Mumbrella Asia
Biểu đồ 2.4 đã cho thấy sự đi xuống của kênh truyền dẫn truyền hình
truyền thống đó là truyền hình số mặt đất Analog, tuy nhiên, cũng trong
giai đoạn từ năm 2010-2017, sự thay đổi của các sản phẩm báo chí truyền
thông số đã có sự phát triển, đặc biệt là ở nhóm truyền hình trả tiền (IPTV)
trong giai đoạn 2014-2016. Trong giai đoạn từ 2015-2017, đánh dấu sự
phát triển của một loạt các sản phẩm báo chí truyền thông trên nền tảng số
hóa: OTT, DTH… dựa trên sự phát triển của khoa học kỹ thuật mà đặc biệt
là hệ thống thuật toán trên hạ tầng kỹ thuật số.
Sự phát triển của hệ thống thuật toán còn thể hiện ở khả năng kiểm
soát bộ đếm, phân tích chỉ số của khách hàng về thói quen, nhu cầu, mối
quan tâm: khi độc giả đăng ký trả phí trên pay.vietnamplus.vn của
TTXVN, tài khoản của họ được đọc miễn phí tin tức không giới hạn trong
vòng 7 ngày đầu tiên, điều này cho thấy khả năng kiểm soát bộ đếm theo
dõi hoạt động của tài khoản trên website và đây cũng là phương thức chủ
73
yếu để thu thập dữ liệu cá nhân của độc giả trong vai trò khách mua tin tức:
quá trình trải nghiễm miễn phí sẽ cho thấy nhu cầu, thói quen và mối quan
tâm của của độc giả đối với các sản phẩm.
Tương tự, các gói cước sản phẩm mà FPT Play đưa ra như HBO GO,
K+, Kênh gia đình, Kênh quốc tế, Serie A & FA Cup… đều dựa trên sự
nghiên cứu về dữ liệu khách hàng cá nhân, theo đó cho thấy mức độ sâu sát
của FPT Play trong việc nghiên cứu thị trường truyền hình trả phí tại Việt
Nam. Các gói cước phần nào thể hiện thị hiếu, nhu cầu của công chúng.
Nhiều khán giả thay vì phải trả phí để xem tất cả, họ sẽ chỉ cần trả phí cho
lĩnh vực mà họ muốn quan tâm, trở thành khán giả trung thành với sản
phẩm đó. Điều này đã góp phần đưa FPT Play trở thành đơn vị đứng đầu
trong chuỗi các sản phẩm truyền hình trả tiền trực tuyến tại Việt Nam.
Biểu đồ 2.5: FPT Play đứng đầu danh sách truyền hình trả tiền trực
tuyến tại thị trường Việt Nam nhờ các chỉ số do người dùng bình chọn liên
quan đến nội dung sản phẩm và chất lượng ứng dụng công nghệ thông tin.
Nguồn Q&Me
Sản phẩm báo chí, truyền thông số thu phí tại Việt Nam phát triển
theo tiêu chuẩn công nghệ mới trên thế giới, có sự gắn kết liên thông
chặt chẽ giữa các nhóm ngành kinh tế chia sẻ. Bắt nhịp cùng yêu cầu và
74
tốc độ phát triển của thế giới, các sản phẩm báo chí, truyền thông số của
Việt Nam đã không ngừng cải thiện chất lượng sản phẩm, nâng cấp nền
tảng kỹ thuật số để phục vụ công chúng một cách tốt nhất thông qua việc
phát triển hợp tác nền tảng kỹ thuật giữa các nhóm ngành kinh tế, tiêu biểu
như: báo chí hợp tác với viễn thông, báo chí hợp tác với ngân hàng, báo chí
hợp tác với truyền thông xã hội…
Theo Sách trắng Công nghệ Thông tin – Truyền thông năm 2019, số
lượng các doanh nghiệp được cấp phép cung cấp dịch vụ truyền hình di
động, truyền hình trên mạng internet và truyền hình trả tiền theo loại hình
dịch vụ từ năm 2016-2018 có chiều hướng tăng. Lượng tăng của các loại
hình dịch vụ trên là do có sự kết hợp giữa các đơn vị báo chí và các tập
đoàn truyền thông trước nhu cầu thực tiễn từ công chúng.
Bảng 2.1: Số lượng doanh nghiệp cung cấp dịch vụ phát thanh
truyền hình. Nguồn: Sách trắng về CNTT-TT năm 2019
Nếu ở giai đoạn thử nghiệm, TTXVN đã phối hợp với các đơn vị
viễn thông để hoạt động thanh toán được đơn giản, dễ dàng thì hiện nay,
độc giả có thể trực tiếp trả tiền vào tài khoản của TTXVN qua ví điện tử và
75
chuyển khoản ngân hàng qua internet banking, điều đó đã giảm thiểu sự
chia sẻ doanh thu giữa cơ quan báo chí và cơ quan cung cấp dịch vụ viễn
thông, nâng cao thu nhập cho nhà báo.
Quá trình hợp tác kinh tế giữa cơ quan báo chí và đơn vị viễn thông đã
cho phép cơ quan báo chí sử dụng kho dữ liệu khách hàng viễn thông để phân
tích dữ liệu bigdata. Khi khách hàng sử dụng các dịch vụ giá trị gia tăng của
đơn vị viễn thông sẽ tạo ra dữ liệu big data để các đơn vị kinh doanh có thể dễ
dàng trích xuất để tìm ra những xu hướng, mối quan tâm, cách thức tiếp cận
thông tin của khách hàng nhằm xây dựng chiến lược kinh doanh hợp lý,
nhanh chóng. Theo đó, các đơn vị viễn thông như Viettel có thể cung cấp cho
các đối tác (cơ quan báo chí) thói quen của người dùng khi sử dụng mạng
internet để chủ động sản xuất nội dung phù hợp.
Biểu đồ 2.6: Mô hình sản phẩm báo chí, truyền thông số có sự phối hợp
giữa các nhóm ngành kinh tế đã phát huy được thế mạnh của các đơn vị
đối tác
Từ thực tiễn hợp tác giữa các nhóm ngành kinh tế, biểu đồ 2.6 đưa ra
một mô hình sản phẩm báo chí truyền thông số có sự phối hợp giữa các
nhóm ngành mà cụ thể ở đây là ở nhóm ngành kinh tế báo chí và kinh tế
76
viễn thông. Theo đó, các cơ quan báo chí trong vai trò đơn vị cung cấp các
sản phẩm báo chí số là loại tin, bài (được mã hóa dưới dạng ký tự, hình
ảnh, video, âm thanh) cho các đơn vị kinh doanh viễn thông (có hệ thống
cơ sở hạ tầng kỹ thuật số cung cấp nhiều cơ sở dữ liệu). Ở vai trò tiếp nhận,
khách hàng đã tạo ra trường dữ liệu về thói quen, nhu cầu qua lịch sử tìm
kiếm thực tế trên hệ thống hạ tầng số của đơn vị viễn thông. Từ các dữ liệu
người dùng, đơn vị viễn thông đóng vai trò trung gian cung cấp các sản
phẩm thông tấn báo chí phù hợp với thói quen, sở thích của khách hàng.
Vậy trong mô hình hợp tác này, cơ quan báo chí truyền thông chỉ cần làm
tốt chức năng sản xuất nội dung còn đơn vị viễn thông sẽ đảm nhiệm vai
trò chào bán sản phẩm tới khách hàng có nhu cầu.
Trong xu hướng phát triển của các sản phẩm báo chí, truyền
thông số quốc tế, quảng cáo là một cách để tạo ra doanh thu cho cơ quan
báo chí, tuy nhiên đôi khi quảng cáo lại phản tác dụng, khiến độc giả
quay lưng với sản phẩm báo chí truyền thông số. Vì vậy, trên thế giới và
cả ở Việt Nam hiện nay, cho khách hàng có thể chọn lựa tắt quảng cáo trên
sản phẩm truyền thông số cũng tạo ra doanh thu: Nắm bắt được tâm lý
khách hàng và dung hòa với mục tiêu kinh doanh, sự ra đời của các gói sản
phẩm tắt quảng cáo nhằm thỏa mãn nhu cầu của cả hai bên và cho thấy sự
phát triển của khả năng phân nhóm khách hàng dựa trên khóa mã lệnh kỹ
thuật số của đơn vị FPT Play đã trở thành một gói sản phẩm kỹ thuật theo
kịp xu hướng chung của thế giới.
Sự thay đổi, cải tiến của hạ tầng kỹ thuật số nhằm mục đích tối ưu
sản phẩm số, nâng cấp chất lượng dịch vụ, hướng tới cá nhân hóa các phân
khúc khách hàng, làm tiền đề tiếp tục cải tiến và nâng cao hạ tầng số. Ứng
dụng cải tiến kỹ thuật vào hoạt động của mô hình sản phẩm báo chí truyền
thông số thu phí người sử dụng đã cho thấy sự phối hợp giữa chặt chẽ giữa
kỹ thuật và nhu cầu của công chúng, từ đó tạo ra doanh thu cho cơ quan
77
báo chí và các cơ quan liên quan.
2.2.2. Tình hình phát triển về hoạt động nội dung
Theo thống kê về tần suất sử dụng mạng internet tại Việt Nam, mỗi
người Việt dành trung bình 6 giờ 42 phút mỗi ngày để tham gia các hoạt
động trên mạng internet; hằng ngày, 94% tỷ lệ người dùng dùng internet
truy cập vào hệ thống này để giải trí và tương tác [71]. Số liệu cho thấy,
công chúng Việt Nam có nhu cầu rất lớn trong hoạt động tiếp cận thông tin
và trao đổi giữa các cá nhân với cộng đồng. Trong bối cảnh nền kinh tế thị
trường đang có nhiều thay đổi từng giờ, từng ngày, các sản phẩm báo chí,
truyền thông số đã và đang là một kênh thông tin tham khảo hữu ích đối
với cộng đồng; nhất là trong giai đoạn nền kinh tế hội nhập quốc tế. Điều
đó đã dẫn tới những điểm chính trong hoạt động nội dung trên sản phẩm
báo chí truyền thông số, đó là:
Các mô hình thu phí từ người sử dụng chỉ thúc đẩy sự phát triển
của các tác phẩm báo chí, sản phẩm truyền thông chất lượng cao.
TTXVN có nhiều năm bán, trao đổi nguyên liệu báo chí (hình ảnh, video,
nội dung phỏng vấn…) với các cơ quan báo chí trong và ngoài nước đã tạo
ra kho dữ liệu, nội dung, siêu tác phẩm báo chí lớn. Vì vậy, họ có nhiều lợi
thế trong việc sản xuất nội dung từ kho tư liệu có sẵn. Ngay trong giai đoạn
thử nghiệm thu phí trên báo mạng điện tử của TTXVN, có bài viết đem về
doanh thu lớn hơn 17 triệu đồng. Theo ông Lê Quốc Minh, cách làm của
VietnamPlus là khai thác nhóm công chúng cụ thể, không chạy theo số
lượng mà tiên phong cách làm mới để từ chính những độc giả trả phí cho
sản phẩm báo chí chất lượng cao, họ sẽ nhân rộng, đưa sản phẩm đến với
các khách hàng khác.
Theo Sách trắng Công nghệ Thông tin và Truyền thông năm 2019,
thị trường dịch vụ truyền hình trả tiền đã có sự thay đổi khi trong hai năm
78
2017 và 2018 số thuê bao dịch vụ truyền hình trên mạng internet phát triển
mạnh mẽ của; doanh thu của dịch vụ này tăng gấp hơn 4 lần chỉ trong vòng
hai năm đầu ra mắt.
Bảng 2.2: Thị trường dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền.
Nguồn: Sách trắng Công nghệ Thông tin và Truyền thông năm 2019
Từ bảng 2.2 đã cho thấy, sự phát triển của các thị phần dịch vụ trả
tiền truyền hình tại Việt Nam chỉ trong vòng 3 năm từ 2016-2018 đã có
nhiều thay đổi đáng kể; cụ thể: đối với số thuê bao dịch vụ truyền hình di
động tăng từ 387.687 (năm 2016) đến 814.697 (năm 2018) đem về doanh
thu 65 tỷ đồng (2016) và 180 tỷ đồng (năm 2018), doanh thu tăng gần 3 lần
79
chỉ trong 2 năm. Tương tự, thuê bao từ dịch vụ truyền hình trên mạng
internet mới chỉ xuất hiện từ năm 2017 với 722.046 thuê bao mà đến năm
2018 đã phát triển lên 1.277.004 thuê bao (tăng 1,8 lần) đem về doanh thu
14 tỷ đồng trong năm đầu ra mắt và 57,8 tỷ đồng chỉ trong năm kinh doanh
thứ hai.
Thông qua hoạt động của các mô hình thu phí, vấn đề bản quyền
sản phẩm nội dung được tuân thủ chặt chẽ. Nguồn thu từ sản phẩm báo
chí, truyền thông số thu phí từ người sử dụng bao gồm chi phí cho sản
phẩm có bản quyền. Việc duy trì các sản phẩm báo chí, truyền thông có
bản quyền thể hiện sự phát triển về nội dung sản phẩm phù hợp với nguyên
tắc quốc tế. Trong quá trình khai thác nội dung để phục vụ nhu cầu thông
tin của khách hàng, theo quy định của pháp luật, Myclip không có chức
năng, nhiệm vụ sản xuất thông tin. Vì vậy 100% các clip có nội dung thông
tấn của trang này đều được các đối tác là các cơ quan báo chí, đài truyền
hình sản xuất và được Myclip tiến hành khai thác lại trên nền tảng số của
họ. Theo ông Nguyễn Quý Tính, Giám đốc trung tâm VAS Viettel, một
điểm thuận lợi trong việc kinh doanh các sản phẩm của Myclip là: “Vì
chúng tôi là đơn vị kinh doanh trung gian, nên các sản phẩm đều được phái
sinh từ các sản phẩm thông tấn báo chí có nguồn gốc, đơn vị sản xuất rõ
ràng nên chúng tôi hoàn toàn yên tâm”.
Nhiều sản phẩm giải trí chất lượng cao ở nước ngoài không thể tiếp
cận khách hàng Việt Nam bởi rào cản về ngôn ngữ, văn hóa. Nếu công
chúng tiếp cận sản phẩm giải trí nước ngoài dưới dạng “bản lậu, chất lượng
kém” sẽ dẫn tới cách tiếp cận sai lệch về sản phẩm văn hóa giải trí.
Theo ông Bùi Quang Ngọc, Phó Chủ tịch Hội đồng quản trị FPT,
việc kinh doanh các sản phẩm truyền hình có thu phí hướng tới việc đảm
bảo quyền lợi và nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu của người dân. Người
dân có quyền lựa chọn các sản phẩm có chất lượng, được cung cấp qua
80
những đường truyền tốc độ cao. Để làm được điều đó cần một đơn vị đã
hoạt động nhiều năm trong lĩnh vực truyền thông, viễn thông tại Việt Nam,
am hiểu địa hình, thị trường và nhu cầu của khách hàng.
Sự tương tác và vai trò của công chúng được thúc đẩy thông qua
mô hình sản phẩm thu phí. Sản phẩm báo chí, truyền thông số thu phí từ
người sử dụng là sản phẩm phi tuyến tính, có khả năng tương tác hai chiều
nhờ nền tảng kỹ thuật số. Mỗi loại hình báo chí đều có khả năng phát huy
thế mạnh riêng có của mình, trong bối cảnh kỹ thuật số cơ quan báo chí có
thế mạnh về sản xuất nội dung thông tin sẽ ứng dụng khả năng “làm
phẳng” của internet để tạo ra kết nối, tương tác. Vì vậy, sản phẩm báo chí,
truyền thông số không chỉ là sản phẩm tuyến tính một chiều mà nó còn là
sản phẩm phi tuyến tính có khả năng tương tác giữa công chúng và ban
biên tập.
Ở hai sản phẩm pay.vietnamplus.vn và trang mạng xã hội bằng video
Myclip.vn đều có phần bình luận giữa các chủ tài khoản trên hệ thống, cho
phép người dùng (khách hàng) đăng tải bình luận, ý kiến cá nhân và cả các
clip ngắn do khách hàng tự sản xuất (sau khi đã kiểm duyệt nội dung) để
tạo ra tương tác giữa khách hàng và nhà sản xuất.
Mang đặc trưng của sản phẩm truyền hình trả tiền, FPT Play có các
tính năng như tạm dừng chương trình đang xem, xem lại và tua chương
trình, lưu trữ các nội dung phù hợp và theo dõi lịch phát sóng, lên danh
sách kênh cá nhân và xem nhiều nội dung cùng lúc. Phần ứng dụng trên
điện thoại di động và các thiết bị điện tử cá nhân liên tục được cập nhật để
phù hợp với hệ điều hành của máy, tránh tình trạng gián đoạn do phần
mềm nhờ vào sự chủ động xây dựng hệ thống của các kỹ sư phần mềm
công nghệ thông tin.
Sự phát triển của các mô hình sản phẩm thu phí của người sử dụng
thúc đẩy sự phát triển các hạ tầng truyền thông mới của thời đại 4.0. Chất
81
lượng nội dung sản phẩm báo chí truyền thông số cải thiện những hạn chế về
hạ tầng kỹ thuật. Theo đó, các sản phẩm báo chí, truyền thông số đều tồn tại
trên nền tảng internet, không bị giới hạn về đường truyền và thiết bị đầu cuối,
bởi vậy khả năng lưu trữ và điều chỉnh khắc phục các lỗi kỹ thuật bằng thuật
toán. Vì vậy, tùy thuộc vào đường truyền mà đơn vị viễn thông sẽ xây dựng
hệ thống kho lưu trữ, truyền tải phù hợp với nội dung đã sản xuất. Điều đó
đảm bảo chất lượng sản phẩm, giảm bớt thời gian hao phí và giảm độ trễ sản
phẩm khi truyền phát trên các thiết bị điện tử.
Nền tảng công nghệ thông tin cho phép nhà sản xuất không chỉ cải
tiến các sản phẩm mới tại thời điểm công nghệ thay đổi mà họ còn có thể
nâng cấp cả những sản phẩm cũ trên hệ thống. Có nghĩa là, tại thời điểm
năm 2016, FPT Play đưa ra thị trường sản phẩm có chất lượng hình ảnh SD
(độ phân giải 720x480); đến năm 2019, FPT Play cung cấp sản phẩm Full
HD (độ phân giải 1920x1080), nhờ nền tảng công nghệ thông tin, FPT Play
cũng có thể nâng cấp các sản SD lên Full HD.
Biểu đồ 2.7: Thị trường truyền hình số trả tiền tại Việt Nam. Nguồn:
Q&Me
Bắt nhịp cùng thị trường sản phẩm truyền hình số trả tiền quốc tế, hệ
thống sản phẩm truyền hình số trả tiền tại Việt Nam cũng rất phong phú đa
dạng từ nguồn cấp cho đến phương thức tiếp nhận. Nhìn chung các đơn vị
cung ứng (theo biểu đồ 2.7) đều khai thác tối đa các sản phẩm trên nhiều
82
kênh truyền dẫn: đầu thu kỹ thuật số, ứng dụng trên điện thoại di động và
tivi thông minh, ứng dụng trên các thiết bị điện tử, trang mạng điện tử…
Theo đó, ngoại trừ Youtube và Netflix là các đơn vị cung cấp sản phẩm
truyền thông số từ nước ngoài thì 6/8 đơn vị cung ứng sản phẩm báo chí
truyền thông số trong top tại Việt Nam là sản phẩm thuần Việt, trong đó
FPT Play dẫn đầu thị trường sản phẩm truyền hình thu phí tại Việt Nam.
2.2.3. Tình hình phát triển về sản xuất, đóng gói thông tin
Đối với các sản phẩm báo in, bước đóng gói sản phẩm được thể hiện
qua việc thiết kế maket, lên bản kẽm và in thành phẩm; ở báo truyền hình
bước đóng gói bao gồm: cắt ghép clip, thêm hiệu ứng và đặt định dạng file
thành phẩm; ở báo phát thanh, bước đóng gói bao gồm: kỹ thuật thu tiếng,
xử lý âm thanh nền… thì ở báo mạng điện tử và đặc biệt là ở các sản phẩm
báo chí, truyền thông số, hoạt động đóng gói sản phẩm cũng phụ thuộc vào
dung lượng bộ nhớ (server tổng), các thông số quy định về định dạng thành
phẩm. Nếu như các sản phẩm báo chí truyền thống yêu cầu nhà báo phải
sản xuất tác phẩm tại cơ quan do hạn chế về phương tiện, kỹ thuật, thì ngày
ngày các sản phẩm báo chí số cho phép nhà báo tác nghiệp tại hiện trường,
cắt dựng tin truyền hình bằng bàn mix dựng tại sự kiện. Điều này đã làm
tăng độ “nóng” của thông tin, giúp thông tin đến với công chúng nhanh
hơn. Bởi lẽ, tin tức là một hàng hóa dễ hỏng, yếu tố “hỏng” phụ thuộc rất
nhiều vào khả năng truyền dẫn tin tức. Ví dụ như nếu thông tin những ổ
dịch COVID-19 tại các địa phương không được nhanh chóng thông báo
trên báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng thì mức độ lây lan cộng
đồng sẽ trở nên nghiêm trọng hơn.
Đối với TTXVN, hoạt động đóng gói tin tức tại các hiện trường
được chú trọng, phóng viên khi đi tác nghiệp được chuẩn bị đầy đủ về thiết
bị thu phát, thiết bị điện tử cá nhân phục vụ quá trình sản xuất. Phóng viên
có thể tự trang bị các thiết bị tác nghiệp hoặc đăng kí mượn của cơ quan.
83
Về mặt kỹ thuật, các phóng viên được tập huấn để sử dụng các công cụ
trên giao diện chủ của trang báo mạng điện tử chính thức để chủ động thiết
kế bài viết, đăng tin, bài, đặt bố cục theo ý đồ của tác giả.
Đối với các sản phẩm truyền thông như tại trang Myclip.vn, các đối
tác báo chí đóng gói sản phẩm dựa trên những thông số mà Viettel cung
cấp: kích thước khung hình, dung lượng, các thức đặt tên, chất lượng hình
ảnh… Quá trình hợp tác giữa hai bên cần bảo đảm hai yếu tố: về phía đối
tác báo chí cần chú trọng về chất lượng nội đung, về phía Viettel chú trọng
sự nâng cấp hạ tầng, thường xuyên tìm kiếm và sửa chữa lỗi hệ thống, cung
cấp sản phẩm truyền thông đến khách hàng.
Quá trình đóng gói sản phẩm báo chí, truyền thông số đã không còn
là hoạt động đơn nhất của một tập thể mà nó có sự phối hợp giữa các đơn
vị, các nhóm ngành kinh tế. Một nhà báo có thể phối hợp với một KOL để
đưa thông điệp báo chí đến với cộng đồng nhanh nhất. Mối quan hệ giữa
nhà báo và nhà truyền thông đang ngày một chặt chẽ trong việc lựa chọn
góc nhìn và nghiên cứu thị trường.
Ví dụ, trong đợt giãn cách xã hội tháng 3 năm 2020, TTXVN đã
phối hợp với công ty truyền thông Media 21 tạo ra loạt sản phẩm cổ động
phòng chống COVID-19 được giải Nhì Báo chí về thông tin đối ngoại. Là
một sản phẩm có nguồn tư liệu của cơ quan báo chính thống (TTXVN) và
có cách sản xuất, đóng gói thông tin hiện đại, trẻ trung với các thông điệp
chính luận nhưng vẫn phù hợp với nhóm công chúng trẻ tuổi do các biên
tập tại Media 21 dàn dựng. Điều này cho thấy, sự phối hợp giữa các bên
trong quá trình sản xuất sản phẩm báo chí truyền thông số là hết sức quan
trọng, có thể phát huy tối đa điểm mạnh của mỗi bên cũng như khai thác,
tiếp cận tới mọi nhóm công chúng. Hoạt động sản xuất, đóng gói đang
được chuyên môn hóa và có sự góp sức của cả nhóm ngành khoa học kỹ
84
thuật và nhiều nhóm ngành xã hội khác.
2.2.4. Tình hình phát triển về hoạt động dịch vụ
Mỗi đơn vị kinh doanh các sản phẩm báo chí, truyền thông số thu
phí tại Việt Nam đều đã đạt được những thành công nhất định dù hoạt động
ở mô hình thu phí trực tiếp hay có sự liên kết đối tác. Điều này được thể
hiện thông qua sự tăng trưởng của lượng khách hàng đăng ký, sự phát triển
của mạng lưới viễn thông và sự đa dạng của các sản phẩm với nội dung
phong phú. Xu hướng sử dụng các sản phẩm báo chí, truyền thông số thu
phí người sử dụng cũng đã được hình thành trong thói quen của những
người lao động có thu nhập trung bình.
Sản phẩm báo chí, truyền thông số thu phí từ người sử dụng có sự
kế thừa mô hình doanh thu thu phí sản phẩm báo chí hữu hình cũng
như các đặc tính của sản phẩm báo chí số. Độc giả đã quen với việc chi
trả một khoản phí cố định cho các sản phẩm thông tin báo chí: như mua
báo hàng ngày, hàng tháng, trả tiền cáp truyền hình… Vì vậy mô hình sản
phẩm báo chí số thu phí là sự kế thừa và tiếp nối doanh thu từ sản phẩm
báo chí hữu hình. Sự ra đời của các loại hình, sản phẩm báo chí mới dựa
trên sự phát triển của khoa học kỹ thuật và tiến bộ trong văn hóa giáo dục
là một quá trình tất yếu. Trên cơ sở nền tảng báo chí truyền thống, sự phát
triển của các loại hình báo chí mới với các đặc tính, tiến bộ về hình thức,
nội dung là cần thiết.
Bắt đầu từ tháng 8/2012, báo điện tử VietnamPlus đã phối hợp cùng
một đối tác công nghệ trong nước để thử nghiệm thu phí bạn đọc trên giao
diện điện tử của báo, tại thời điểm đó, các sản phẩm báo mạng điện tử tại
Việt Nam đều miễn phí, nên theo tác giả Vĩnh Khang, trước khi mô hình
này chính thức đi vào hoạt động, một vài bài viết có nội dung mô tả về hoạt
động thu phí báo mạng điện tử đã bị độc giả “ném đá tơi bời”, phản đối với
ngôn ngữ nặng nề. Tuy nhiên, kết quả của mô hình thử nghiệm rất đáng
85
khích lệ khi có những bài viết đã đạt được doanh thu đến 8 con số [69].
Công chúng đã quen thuộc với các loại hình báo chí như báo in,
báo hình, báo phát thanh, báo ảnh, từ khi có báo mạng điện tử, công
chúng được “rút ngắn khoảng cách” với cơ quan báo chí cả về tốc độ
truyền tin, nội dung thông tin và hình thức thể hiện. Trong quá trình đó,
công chúng được phép tham gia trao đổi, bình luận, phản biện với cơ
quan báo chí và các cá nhân khác, thậm chí chính công chúng là người
cung cấp nội dung - vai trò của nhà báo công dân. Báo chí số đã tạo ra
sân chơi mới cho công chúng.
Tồn tại trên môi trường kỹ thuật số nên các sản phẩm báo chí, truyền
thông số đã tạo ra cho khách hàng không chỉ khả năng trải nghiệm thông
tin mà còn có thể tạo ra doanh thu trong quá trình trải nghiệm sản phẩm.
Myclip.vn trả nhuận bút cho các khách hàng có sản phẩm đạt lượng truy
cập lớn; FPT Play tổ chức chơi game trực tuyến trên giao diện chủ và có
phần thưởng trả trực tiếp vào tài khoản của khách hàng… Có thể nhận
định, các sản phẩm báo chí truyền thông số đã phát huy đặc tính kết nối
cộng đồng, tạo ra khả năng tương tác hai chiều đem lại những sản phẩm có
lợi cho cả người mua và người bán.
Sản phẩm báo chí, truyền thông số thu phí từ người sử dụng cung
cấp các gói sản phẩm phù hợp với các phân khúc khách hàng theo
hướng “cá thể hóa”. Thị trường báo chí, truyền thông tại Việt Nam đa
dạng với nhiều nhóm xã hội đặc thù: căn cứ trên thu nhập, học vấn, vị trí
xã hội, sở thích, thói quen, văn hóa địa phương… Đối với mỗi phân khúc
khách hàng khác nhau sẽ có những đặc điểm và thói quen khác nhau. Ví
dụ, với nhóm khách hàng thu nhập thấp (học sinh, sinh viên, người lao
động tự do) sẽ đòi hỏi những sản phẩm giá bình dân nhưng vẫn đảm bảo
chất lượng nội dung, dịch vụ Myclip.vn của Tổng công ty Viettel cung cấp
gói sản phẩm chỉ với tối đa 35.000đ/tháng, khách hàng có thể xem video,
86
phim, clip tin tức của các trang báo mạng điện tử, trang tin điện tử, các
chương trình truyền hình cáp thoải mái mà vẫn phù hợp khả năng chi trả,
đáp ứng nhu cầu của những khách hàng thu nhập thấp. Theo báo cáo chỉ số
người dùng từ trang web Alexa Rank, chỉ trong vòng 90 ngày đầu năm
2020, các chỉ số về tương tác giữa đơn vị cung ứng sản phẩm và người
dùng, mức độ phổ biến của tin tức và lan tỏa trên mạng xã hội đã đưa
myclip.vn leo 378,511 bậc trên xếp hạng các trang web thông tin quốc tế
(từ vị trí 587,346 lên vị trí 308,835).
Biểu đồ 2.8: Chỉ số người dùng trong vòng 90 ngày trên Myclip.vn.
Nguồn Alexa
Tương tự, các gói dịch vụ của FPT Play của Tập đoàn FPT nhắm tới
các nhóm khách hàng tiềm năng như hộ gia đình, người hâm mộ thể thao,
người hâm mộ điện ảnh, người theo dõi truyền hình quốc tế… Trong các
gói, ngoài gói đa chức năng gồm nhiều kênh, nhiều dịch vụ thì FPT cũng
tiến tới tiếp cận các khách hàng chuyên biệt trong dịch vụ của mình. Riêng
về mức độ, FPT Play có ít nhất 8 gói cước dành cho 8 đối tượng giải trí
khác nhau. Điều đó cho thấy có sự đầu tư nghiên cứu và định hướng khai
thác thị trường theo phân khúc khách hàng đa dạng để tạo ra một không
gian kỹ thuật số chung nền tảng như mang đậm tính cá nhân của từng
87
người dùng.
Sự phát triển của các mô hình thu phí góp phần thay đổi nhận
thức của khách hàng, hướng tới các dịch vụ chất lượng cao. Quan điểm
của nhà nghiên cứu McMillan (1998) đã chỉ ra rằng “nếu có thể tìm thấy
nội dung miễn phí ở đâu đó, người dùng sẽ không trả tiền cho bất kỳ nội
dung nào khác, ngay cả đối với loại tin tức mà họ cho là có giá trị” [51].
Tuy nhiên trong bối cảnh nền kinh tế thị trường đang tác động không nhỏ
đến thói quen của công chúng thì có công chúng trẻ vẫn đồng ý chi trả cho
tin tức nếu nó có liên quan mật thiết đến cuộc sống và các mối quan hệ xã
hội, công việc của họ. Khi được hỏi về việc lựa chọn giữa một tin tức miễn
phí và một tin tức độc quyền có trả phí thì một người trả lời phỏng vấn cho
biết: “Chọn tin tức độc quyền trả phí. Vì trong bối cảnh kinh tế đang chuẩn
bị chấm dứt vòng quay 10 năm của hạn mức ngân hàng thì các tin tức
phân tích kinh tế độc quyền sẽ phục vụ rất tốt cho việc kinh doanh” [PV8].
Biểu đồ 2.9: Thống kê các chỉ số liên kết trên sản phẩm myclip.vn.
Nguồn: Alexa.com
Đối với trang myclip.vn, các từ khóa thông tin sẽ tạo ra kênh truyền
dẫn kết nối rất tốt cho cộng đồng khách hàng với đơn vị cung cấp sản
phẩm. Từ khóa tìm kiếm chiếm 2,1 nghìn từ/phút (theo biểu đồ 2.9), tỉ lệ
click chuột là 1,2 nghìn lượt/phút… Điều đó cho thấy một sản phẩm báo
88
chí truyền thông số có sự kết hợp giữa các nhóm ngành kinh tế có thể tạo
ra độ lan tỏa cũng như tạo ra sự kết nối trong cộng đồng. Đứng ở vai trò
của một khách hàng, việc lựa chọn sản phẩm theo gói đồng nghĩa với việc
tiết kiệm chi phí nhưng vẫn đảm bảo yếu tố thỏa mãn nhu cầu cá nhân. Từ
những số liệu về chỉ số liên kết trên sản phẩm myclip.vn có thể phần nào
phân tích được đặc điểm thói quen sử dụng của công chúng trên trang web
này. Khách hàng sẵn sàng chấp nhận chi trả một khoản phí cố định tối
thiểu phù hợp với khả năng kinh tế thông qua thuê bao di động cá nhân để
sử dụng một sản phẩm giải trí, tin tức đa phương tiện chất lượng cao.
Sự gia tăng của các khách hàng đăng kí dùng sản phẩm báo chí,
truyền thông số thu phí từ người sử dụng và mức độ hài lòng của khách
hàng với chất lượng sản phẩm. Sự tăng trưởng của dịch vụ được khẳng
định bằng số lượng khách hàng thuê bao đăng ký ngày càng tăng. Với
hướng tiếp cận nhóm công chúng trẻ, lượng khách hàng của Myclip không
ngừng phát triển, ngay trong tháng đầu tiên, Myclip đã có 1 trăm nghìn
khách hàng và tăng dần cho đến nay chạm mức gần 1 triệu khách hàng,
các khách hàng của Myclip (chủ yếu ở độ tuổi thanh thiếu niên) đã
không ngừng tham gia trang mạng xã hội này bởi chi phí rẻ và cảm giác
lợi ích lớn.
Thị trường các sản phẩm báo chí số tại Việt Nam đang ngày càng
phát triển với nhiều sản phẩm mới, chỉ tính riêng trong năm 2018 đã có 46
doanh nghiệp có Giấy phép cung cấp dịch vụ phát thanh, truyền hình trả
tiền theo loại hình dịch vụ (so với 39 doanh nghiệp năm 2017, theo Sách
trắng CNTT-TT). Báo cáo từ Q&Me cũng cho thấy, 4 trong 5 sản phẩm top
đầu về dịch vụ truyền hình trực tuyến thu phí tại Việt Nam là sản phẩm
89
thuần Việt, nhận được phản hồi tích cực từ khách hàng.
Hình 2.1: Top 5 dịch vụ truyền hình trực tuyến thu phí tại Việt Nam.
Nguồn: Q&Me
Chịu ảnh hưởng của nhịp độ “cơ chế thị trường”, có khách hàng
trong độ tuổi lao động đã quyết định chi trả cho một sản phẩm báo chí
truyền thông số bởi tính tiện lợi, khả năng tích hợp thông tin và giải trí
phong phú, sinh động. “Từ lâu tôi đã không còn đọc báo chí (ấn phẩm in)
nữa, vì nó không tiện dụng và nhanh chóng như báo mạng. Tôi cũng thích
xem các clip hài ngắn và vì công việc của tôi khá bận rộn nên trong lúc
nghỉ giải lao tôi thường thích xem các clip có nội dung thông tin hơn là
ngồi đọc nhiều bài báo cùng lúc mà có thể sẽ không đọng lại gì sau khi
đọc” [PV8].
Thời kỳ công nghiệp 4.0 đang bước vào giai đoạn mới khi các doanh
nghiệp, nền tảng viễn thông được chú trọng bởi sự gia tăng nhanh chóng
của các thuê bao di động, internet, 4G và lượng người sử dụng điện thoại di
động thông minh hoặc các thiết bị cá nhân kết nối internet. Đây là cơ hội
cho các cơ quan báo chí, cơ quan truyền thông không ngừng đổi mới, cải
thiện dịch vụ của mình để thu hút và duy trì kết nối với các khách hàng
90
trong không gian kỹ thuật số.
2.3. Đánh giá ƣu điểm và hạn chế của sản phẩm báo chí, truyền thông
số thu phí từ ngƣời sử dụng tại Việt Nam
2.3.1. Ƣu điểm của sản phẩm báo chí, truyền thông số thu phí từ ngƣời
sử dụng tại Việt Nam
Mỗi đơn vị kinh doanh các sản phẩm báo chí, truyền thông số thu
phí tại Việt Nam đều đã đạt được những thành công nhất định dù hoạt động
ở mô hình thu phí trực tiếp hay có sự liên kết đối tác. Từ hoạt động thực
tiễn của các mô hình thu phí người sử dụng của các sản phẩm báo chí
truyền thông số hoạt động tại Việt Nam có thể thấy được một số điểm
mạnh của mô hình như sau:
Thứ nhất, đa phần các bài viết đều được cải thiện về chất lượng,
có đơn vị chỉ đầu tư về hình thức thể hiện, có đơn vị đầu tư về cả hình
thức và nội dung. Sự ra đời của siêu tác phẩm báo chí và các sản phẩm
truyền thông đa phương tiện đã tạo ra trào lưu thay đổi trên thị trường báo
chí tại Việt Nam. Các cơ quan báo chí đã không ngừng tìm cách đổi với
bản thân để phù hợp với sự phát triển của thời đại. Trong quá trình đó, các
mô hình sản xuất chuyên sâu đã được phát huy bên cạnh quá trình hợp tác
giữa các nhóm kinh tế để phát huy thế mạnh của mỗi nhóm ngành đặc
trưng.
Thứ hai, sự phát triển của công nghệ đã làm thay đổi cách thức
khai thác, đóng gói thông tin của phóng viên và cách tiếp cận của độc
giả. Khi báo chí phát triển theo chiều hướng đa phương tiện trên nền tảng
mass media, công chúng theo đó cũng tự thay đổi thị hiếu và cách tiếp cận
sản phẩm. Từ những lợi ích thiết thực mà gói sản phẩm đem lại, công
chúng có nhiều sự lựa chọn và quyết định mua - gắn bó với sản phẩm mà
họ cho rằng đem lại nhiều lợi ích nhất tại thời điểm mua. Theo ông Nguyễn
Quý Tính - Giám đốc Vas Viettel, điểm mạnh của các sản phẩm báo chí
91
truyền thông số chính là các đặc tính riêng của sản phẩm. “Sản phẩm báo
chí, truyền thông số dễ dàng được các nhóm khách hàng trẻ tuổi đón nhận
hơn bởi tính chất nhanh và sinh động của thông tin. Bên cạnh đó, nếu
khách hàng cảm thấy họ được tiết kiệm khi sử dụng sản phẩm cũng là một
yếu tố quan trọng quyết định sự khác biệt của sản phẩm số. Tiết kiệm ở đây
là cả thời gian hao phí cho các khâu sản xuất, đóng gói, phát hành… tiết
kiệm về giá cả, và thuận tiện về thời gian sử dụng linh hoạt” [PV5].
Thứ ba, mô hình thu phí sản phẩm báo chí số đã nắm bắt được xu
hướng phát triển không ngừng của hoạt động thanh toán điện tử tại Việt
Nam. Theo báo cáo của Công ty Cổ phần thanh toán Quốc gia Việt Nam
(Napas) thói quen tiêu tiền mặt của một đại bộ phận người dân đã thay đổi,
dẫn đến hoạt động thanh toán điện tử sôi nổi hơn. Tổng giá trị giao dịch
thương mại điện tử năm 2019 đã tăng 170% so với năm 2018. Điều đó cho
thấy sức mua thương mại điện tử chung đều tăng, các sản phẩm báo chí
truyền thông số cũng nằm trong tiến trình đó.
Thứ tư, phát triển đa phương tiện ở mọi lĩnh vực. Sự hợp tác giữa
các đơn vị kinh doanh khác ngành là một xu hướng tất yếu của kinh tế,
nhiều chuyên gia cho rằng, càng có nhiều đơn vị tham gia vào quá trình
hợp tác thì kinh tế càng phát triển, đúng như câu nói “Muốn đi nhanh thì đi
một mình, muốn đi xa thì phải đi cùng nhau”. Sự phát triển của cơ sở hạ
tầng viễn thông sẽ đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu nền kinh tế 4.0, vì
vậy, sự kết hợp giữa các đơn vị báo chí và viễn thông sẽ đem lại lợi ích rõ
ràng cho tất cả các bên.
Thứ năm, các sản phẩm báo chí, truyền thông số có những thế
mạnh trong việc ứng dụng khoa học công nghệ trong quá trình sản xuất
và kinh doanh sản phẩm. “Thuận lợi lớn nhất là chúng tôi có thể làm chủ
hệ thống nền tảng cho sản phẩm, có nghĩa là chúng tôi có thể tính toán để
cho ra đời những sản phẩm phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất của mình.
92
Chúng tôi còn có thoại truyền thông online để bắt kịp với nhu cầu của
khách hàng, việc nắm rõ cơ sở dữ liệu của khách hàng cho phép chúng tôi
kịp thời quảng cáo sản phẩm truyền thông số phù hợp với nhu cầu của
công chúng. Từ đó tính toán giá cước phù hợp với thói quen, khả năng chi
trả của khách hàng” [PV1]. Việc ứng dụng các bộ đếm công nghệ như
Google analytics vào báo cáo theo từng ngày sẽ giúp cho các đơn vị kinh
doanh sản phẩm báo chí truyền thông số nắm được các thông số về thói
quen, độ tương tác và thời gian lưu lại của khách trên trang điện tử…
Ba mô hình sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí người sử dụng
tại Việt Nam có thời gian tồn tại và khai thác thị trường rất dài, là sản
phẩm người Việt cho người Việt với phân khúc khách hàng rộng và phổ
biến, đem lại hiệu quả kinh tế cho nhà sản xuất và khách hàng. Ba mô hình
trên có nhiều điểm tương đồng về nội dung sản phẩm và phương thức hoạt
động với các sản phẩm báo chí, truyền thông số thu phí người sử dụng
thành công trên thế giới.
2.3.2. Hạn chế của sản phẩm báo chí, truyền thông số thu phí từ ngƣời
sử dụng tại Việt Nam
Trong bối cảnh nền tảng số đã quy tất cả các thông tin, sản phẩm
về cùng một đầu mối, điều này đã nảy sinh nhiều vấn đề trong đó có vấn
đề về bản quyền. Hệ thống kinh doanh truyền hình của FPT Play đã vấp
phải hai vụ tranh chấp về bản quyền trong năm 2018 và 2019.
Cụ thể, tháng 12 năm 2018, Công ty Cổ phần DID TV – nhà sản
xuất phim truyền hình Gạo Nếp Gạo Tẻ (phát sóng độc quyền trên kênh
truyền hình HTV2, HTV2 Chanel Youtube và ứng dụng On) đã nộp đơn
khởi kiện Công ty Cổ phần Viễn thông FPT vì hành vi sao chép, lưu trữ,
khai thác thương mại 76 tập của bộ phim Gạo Nếp Gạo Tẻ dưới hình thức
xem phim theo yêu cầu trên hệ thống dịch vụ truyền hình trả tiền IPTV của
FPT mà không có bất kỳ thỏa thuận nào từ nhà sản xuất. Từ 22/10/2018,
93
đại dện công ty DID TV đã gửi công văn đến FPT đề nghị phối hợp nhưng
đến ngày 30/10/2018, sự việc chưa được giải quyết. Bên DID TV cho rằng
họ đã bị gây ảnh hưởng trực tiếp đến chỉ số người xem trên 2 kênh truyền
hình HTV2-Vie Channel, Giải Trí TV và cả các nền tảng kinh doanh online
như Youtube và Facebook; bên cạnh đó còn bị giảm doanh thu quảng cáo
trên truyền hình, khiến cơ hội khai thác kinh doanh từ bản quyền bộ phim
bị ảnh hưởng. Từ những lập luận trên, DID TV khởi kiện FPT hơn 9 tỷ
đồng bồi thường. Cũng theo DID TV, đây không phải lần đầu tiên Công ty
FPT vi phạm bản quyền sản phẩm của DID TV mà trước đó, bộ phim Hậu
Duệ Mặt Trời của Hàn Quốc do đơn vị này mua bản quyền phát hành tại
Việt Nam cũng bị FPT vi phạm bản quyền từ năm 2016.
Đến tháng 5 năm 2019, công ty giải trí đa phương POPS đã phát đi
thông tin tố cáo truyền hình FPT xâm phạm bản quyền và đề nghị bồi hơn
hơn 350 tỷ đồng bởi theo POPS, FPT đã cố ý xâm phạm nghiêm trọng và
thu lợi trái phép 303 nội dung thuộc sở hữu của đơn vị này cũng như hơn
1.800 nội dung mà đối tác của công ty được cấp phép. Trước các thông tin
của công ty POPS, đại diện FPT cho biết hai bên đã thảo luận nhưng chưa
đưa ra kết luận chung, đồng thời trước những cáo buộc của POPS, truyền
hình FPT cũng phát hiện POPS đã sao chép, sử dụng một số tác phẩm
thuộc quyền sở hữu của Công ty TNHH Sự kiện truyền thông Phúc Lâm
(đơn vị được FPT bảo trợ quyền tác giả) thông qua mạng xã hội và ứng
dụng POPS trên điện thoại di động có kèm quảng cáo.
Không chỉ với sản phẩm FPT Play Box, trang mạng xã hội MyClip
cũng từng được một số đơn vị như POPS, Lâm Chấn Khang, Đàm Vĩnh
Hưng Official và một số đơn bị khai thác các sản phẩm truyền thông Hàn
Quốc đề nghị gỡ bỏ các clip kinh doanh có vướng nội dung bản quyền.
Trong quá trình kinh doanh, nhiều đơn vị truyền thông đã đưa các
thuật toán và phần mềm thông minh vào hỗ trợ khai thác nội dung từ mạng
94
internet, theo đó, bất kỳ sản phẩm nào có lượt xem và bình luận lớn, thuộc
TOP Trending (nhóm tin tức được đông đảo công chúng quan tâm) trên các
trang mạng xã hội đều được hệ thống tự động cập nhật đưa về kho lưu trữ
của server chủ. Đây là một tiện ích trong quá trình sử dụng trí tuệ nhân tạo
phục vụ thương mại, giảm bớt các khâu tìm kiếm nội dung kinh doanh
nhưng cũng là mặt trái trong vấn đề bản quyền tác giả trong hoạt động khai
thác kinh doanh.
Không chỉ dừng lại ở đó, nhiều sản phẩm bên ngoài là thu phí
nhưng nội dung bên trong lại hoàn toàn là những thông tin miễn phí có
thể tìm kiếm ở bất cứ nơi nào khiến cho nhiều khách hàng cảm thấy họ
bị “lừa”. Đơn cử có ý kiến cho rằng: “Bình mới rượu cũ”, thông tin dù
được thể hiện dưới nhiều cách nhưng nếu không có giá trị riêng biệt thì
cũng không thể tạo ra sự khác biệt [PV8]. Vậy, sự lặp lại của nội dung mà
phần lớn là khai thác từ cái đã có thì rất khó để duy trì mối quan hệ mua
bán với công chúng. Có nhiều đơn vị sau khi khai thác lại sản phẩm miễn
phí của nhà sản xuất khác, còn dùng cách che logo, cắt hình ảnh nhà tài trợ
để thực hiện triệt để việc không quảng cáo gián tiếp cho doanh nghiệp
nhưng lại khiến cho sản phẩm cuối trở nên nham nhở, xấu xí, mất giá trị.
Nhà nghiên cứu McMillan (1998) đã từng khẳng định chừng nào
công chúng còn tìm được tin tức miễn phí thì khi đó họ sẽ không mua tin
tức trả phí, điều này đã có dấu hiệu thay đổi khi mà thị trường thông tin
bão hòa nhưng vẫn tồn tại các thông tin báo chí có khả năng ảnh hưởng
trực tiếp tới vấn đề kinh tế cũng như đời sống hàng ngày của độc giả, họ sẽ
quyết định trả phí để được đón đầu tin tức.
Từ hoạt động thực tiễn tại một số cơ quan báo chí và đơn vị truyền
thông có tổ chức hoạt động mô hình sản phẩm báo chí truyền thông số thu
phí từ người sử dụng nhận thấy có mấy khó khăn trong công tác tiếp cận
công chúng và trở ngại khiến công chúng không muốn chi trả cho sản
95
phẩm thông tin, đó là:
Trên thế giới, khi một số tờ báo tính phí đăng ký trên các phiên bản
trực tuyến của họ, rất ít đơn vị thành công với mô hình này, ví dụ như Tạp
chí Phố Wall. Bởi lẽ ngày nay, hầu hết các trang báo mạng điện tử cung
cấp thông tin miễn phí với hy vọng sẽ tăng lượng độc giả để thu hút sự
quan tâm của các nhà quảng cáo nhằm đạt được doanh thu quảng cáo.
Nhưng trong một thế giới trực tuyến được cung cấp thông tin miễn phí,
người dùng sẽ coi hoạt động thu phí thông tin là cách là sai lầm gây thiệt
hại cho kinh tế và sự thu phí sẽ đi ngược lại với thói quen, lối sống của họ.
Vì vậy thật khó để tạo ra mô hình mới hiệu quả nếu không có sự đồng bộ
trong cách thức tổ chức chung. Tương tự như vậy, tại VietnamPlus.vn, nếu
nhìn vào lượng độc giả đăng ký sẽ thấy chỉ có một phân khúc khách hàng
là các nhà nghiên cứu, chuyên gia, những nhà phân tích số liệu mới chú
tâm tới các sản phẩm của VietnamPlus. Khách hàng thuộc phân khúc bình
dân sẽ ít hoặc không chú ý tới các tin tức thu phí bởi nhu cầu của họ đa
phần chỉ là giải trí đơn thuần. Bên cạnh đó, với thói quen lướt qua tin tức
của một đại bộ phận công chúng trẻ, họ sẽ không muốn giành thời gian cho
những sản phẩm báo chí có dung lượng dài.
Trong thời đại kỹ thuật số, các giá trị báo chí và trên hết là độ chính
xác để xây dựng lòng tin (kiểm tra thực tế và quảng bá các nguồn đáng tin
cậy) là quan trọng hơn bao giờ hết. Nó giống như câu chuyện xây dựng
thương hiệu, những thương hiệu lớn có uy tín lâu năm thường dễ dàng
thuyết phục công chúng tham gia công cuộc thay đổi trong thói quen tiếp
cận thông tin. Để làm được điều đó, các tòa soạn báo cần giữ đúng tôn chỉ,
mục đích của mình, khai thác thông tin một cách sâu rộng, phản ánh trung
thành mọi lĩnh vực của cuộc sống.
Đặc trưng cho nền kinh tế kỹ thuật số là các doanh nghiệp không
thể có một trọng tâm duy nhất. Thay vào đó, họ cần xây dựng sản phẩm
96
đa dạng để tiếp cận các phân khúc khác nhau của một thị trường đa dạng
và linh hoạt hơn nhiều so với nhóm sản phẩm tương tự ở thị trường
truyền thống. Trong thị trường kỹ thuật số, các khái niệm về địa phương
và khoảng cách là những thành tố ít tạo ra ảnh hưởng đến vấn đề phân
phối và bán sản phẩm. Do đó, cần phải kết hợp các mô hình kinh doanh,
tạo ra các mô hình hỗn hợp và thực hiện các điều chỉnh cần thiết dẫn đến
dịch vụ tốt hơn.
Tiểu kết chƣơng 2
Rõ ràng rằng, nền kinh tế kĩ thuật số vừa linh hoạt vừa chủ động, nó
không chỉ phù hợp với mọi nhóm ngành kinh tế mà đặc biệt phù hợp với
tính chất của ngành báo chí, truyền thông. Kinh tế báo chí truyền thông số
đã tạo ra một bước tiến trong ngành công nghiệp khai thác và phát hành
thông tin. Không còn gặp những rào cản về địa lý hay vận chuyển, phương
thức kết nối rộng khắp giữa người với người đã cho phép các sản phẩm báo
chí truyền thông số trở nên ngày càng phổ biến.
Ở Việt Nam, công chúng luôn có nhu cầu rất lớn đối với các sản
phẩm văn hóa thông tin, vì vậy các cơ quan báo chí luôn phải làm mới
mình, đa dạng từ nội dung đến hình thức thể hiện. Tuy nhiên mức độ thu
nhập ở các nhóm công chúng khác nhau sẽ tạo ra các cách tiếp cận, đòi hỏi
và khả năng chi trả thông tin khác nhau. Mặc dù mô hình sản phẩm báo chí
truyền thông số thu phí từ người sử dụng đã được các nước phát triển khởi
chạy từ những năm 2008, và đang trở thành một xu hướng chung toàn cầu
nhưng tại Việt Nam, mô hình này vẫn đang ở giai đoạn ban đầu, với nhiều
khó khăn trong việc thanh toán điện tử và thay đổi thói quen của độc giả và
chính cách thức sản xuất thông tin của các cơ quan báo chí.
Mặc dù mô hình sản phẩm báo chí, truyền thông số thu phí từ người
sử dụng đã được các nước phát triển khởi chạy từ những năm 2008, và
đang trở thành một xu hướng chung toàn cầu nhưng tại Việt Nam, mô hình
97
này vẫn đang ở giai đoạn ban đầu, với nhiều khó khăn trong việc thanh
toán điện tử và thay đổi thói quen của độc giả và chính cách thức sản xuất
thông tin của các cơ quan báo chí.
Việt Nam sẽ không thể ứng dụng thành công các mô hình thu phí từ
người sử dụng nếu như các nhà báo, phóng viên, ban biên tập không kết
hợp chặt chẽ trong khâu bảo vệ quyền tác giả và trích dẫn nguồn sản phẩm.
Thị trường yêu cầu những sản phẩm độc quyền về nội dung, nhưng nếu vẫn
còn hiện tượng xào xáo thông tin bài viết hoặc đăng lại từ trang báo mạng
đến các trang thông tin điện tử thì sẽ rất khó để có thể thu phí người dùng.
Việc bảo vệ quyền tác giả đối với một sản phẩm báo chí, sản phẩm
truyền thông sẽ cho phép công chúng được tiếp cận những sản phẩm được
đầu tư bài bản, có chiều sâu. Ở Việt Nam, vấn đề vi phạm bản quyền tác
giả diễn ra rất phổ biến, thậm chí thời gian gần đây, một số đài truyền hình
tốn nhiều thời gian, công sức để đàm phán mua đường truyền phát sóng
độc quyền các trận bóng đá nổi tiếng trên lãnh thổ Việt Nam nhưng ngay
khi họ phát sóng trên hệ thống hạ tầng truyền hình vệ tinh, sẽ có một đơn
vị thứ ba ngang nhiên tiếp sóng thu tiền khách hàng trên cơ sở nền tảng số
của họ. Điều này đã gây gián đoạn đường truyền và làm mất tính chất độc
quyền của các đơn vị chủ quản.
Khi nền kinh tế đang ngày càng cạnh tranh khốc liệt về mọi mặt thì
hướng đi mới cho kinh tế báo chí là hướng đi tự chủ và cần thiết vào lúc
này. Tuy nhiên nếu như chỉ một cơ quan báo chí thu phí, thì câu chuyện
kinh tế báo chí sẽ chỉ dừng lại ở việc tạo ra một sân chơi hẹp với một nhóm
công chúng nhỏ. Sự phát triển đồng đều của các cơ quan báo chí, cùng lúc
tham gia vào việc thu phí các sản phẩm báo chí số sẽ là tiền đề để vận động
người dân trở lại với thói quen cũ: đặt mua các ấn phẩm báo chí hàng tháng
nhưng khác là trên nền tảng kỹ thuật mới.
Hầu hết độc giả luôn có xu hướng tin vào những sự thay đổi đồng
98
loạt từ các đơn vị sản xuất nhằm mục đích vì lợi ích chung của cộng đồng.
Trừ khi mọi sản phẩm tin tức tăng giá cùng một lúc hoặc chuyển từ miễn
phí sang thu phí thì có thể kích hoạt hiệu ứng thay thế trong thói quen của
công chúng. Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên khi lượng người dân
không trả tiền cho tin tức chiếm ưu thế, bởi họ đã có sự lựa chọn khác:
miễn phí, dù chất lượng của sản phẩm miễn phí đôi khi không thỏa mãn
công chúng. Theo Borrell & Associates (2001), tỷ lệ đăng ký trả phí cho
báo mạng điện tử là khá thấp, chỉ khoảng 0,2% đến 2,6%. Tuy nhiên sự
phát triển của NYT những năm gần đây và các nền tảng báo chí điện tử thu
phí khác trên thế giới đã cho thấy hiệu quả của sự thay đổi trong bối cảnh
chung. Công chúng của Việt Nam đang thay đổi, họ bắt đầu có những nhu
cầu cao cấp hơn là chỉ tiếp nhận thông tin thông thường. Đối với nhiều độc
giả, thông tin còn là chìa khóa cho những vấn đề của họ, là cơ hội để thay
đổi cuộc sống, thay đổi thu nhập cá nhân. Bởi vậy nhiều độc giả tiếp nhận
thông tin không chỉ để giải trí mà còn nhằm mục đích phát triển cuộc sống.
Những mô hình trả phí xuất hiện như một cách cung cấp cho người
sử dụng nội dung nhận được thông tin công bằng và tương xứng với mong
đợi của họ. Mô hình này giúp người sử dụng hiểu rằng, mặc dù nội dung có
thể không còn miễn phí, nhưng nó cũng không phải là "tất cả hoặc không
có gì". Người sử dụng nên được khuyến khích để mua những gì họ thực sự
muốn vào thời điểm họ thực sự có nhu cầu, và ở một mức giá hợp lý. Đáp
ứng nhu cầu của người tiêu dùng và khiến họ cảm thấy đã được sử dụng
dịch vụ hoặc nội dung với mức giá hợp lý nhờ một mô hình kinh doanh
được phát triển phù hợp với nhu cầu của chính họ sẽ góp phần rất lớn vào
việc xua tan ý tưởng rằng mọi thứ trên internet đều miễn phí.
Có thể nói, internet đã thay đổi cách mọi người tương tác ở mọi cấp
độ, từ giao tiếp đến thương mại. Tuy nhiên, không thể bỏ qua bản chất phổ
biến của internet và số lượng người dùng ngày càng tăng của nó, cùng với
99
tất cả các công nghệ cơ bản mới, internet đã và đang khiến tất cả các loại
ngành công nghiệp phải suy nghĩ lại về mô hình kinh doanh của họ. Trong
đó có mô hình kinh doanh báo chí.
Một trong những sai lầm lớn nhất trong giai đoạn đầu tiên phổ biến
tin tức trên internet là các tòa soạn cung cấp nội dung thông tin miễn phí
trong khi một sản phẩm tin tức tương đương hữu hình được đính giá và bán
trong các cửa hàng, sạp báo. Minh chứng dễ hiểu nhất là sự sụt giảm doanh
số phát hành của các sản phẩm báo, tạp chí in giấy. Càng ngày, càng có
nhiều nội dung báo chí được cung cấp miễn phí trên internet khiến cho
doanh số bán hàng tại các quầy báo đã giảm. Hệ quả là đã có những tờ báo
in đình bản hoặc chuyển hẳn sang phiên bản điện tử. Tuy nhiên, thời gian
gần đây, thị trường thông tin bão hòa, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của
mạng xã hội đã khiến cho các trang báo mạng điện tử cũng bị thu hẹp
doanh thu từ quảng cáo.
Chuyển từ nội dung miễn phí sang trả phí đang chứng tỏ là một
trong những mô hình khó khăn nhất và tiềm ẩn nhiều nguy cơ đối với các
cơ quan báo chí khi các tòa soạn báo này cần phải vừa cạnh tranh trực
tuyến để tồn tại và vừa phải duy trì các sản phẩm hữu hình truyền thống.
Khi bong bóng internet vỡ, phần lớn nội dung miễn phí được hỗ trợ
bởi các nhà đầu tư và doanh thu quảng cáo cực lớn sẽ không còn nữa. Thời
điểm đó nhiều cơ quan báo chí sẽ phải cố gắng tính phí cho nội dung trực
100
tuyến của họ ở các mức độ khác nhau nhằm tìm kiếm sự thành công.
Chƣơng 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM
NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG MÔ HÌNH SẢN PHẨM BÁO CHÍ,
TRUYỀN THÔNG SỐ THU PHÍ TỪ NGƢỜI DÙNG TẠI VIỆT NAM
3.1 Những vấn đề đặt ra trong sự phát triển thị trƣờng báo chí số
trong thời gian tới
Báo chí truyền thông có vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế
tri thức. Việc nghiên cứu, tìm hiểu và ứng dụng các mô hình kinh doanh
sản phẩm báo chí - truyền thông mới trong bối cảnh sự phát triển nhanh
chóng của khoa học kỹ thuật đã cho ra đời nền kinh tế số là một câu hỏi
quan trọng đang được đặt ra ngày càng cấp thiết hiện nay đối với mỗi cơ
quan báo chí, cơ quan truyền thông. Nhất là tại Việt Nam với nền báo chí
cách mạng đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, với những đặt tính
riêng có của nhóm cư dân châu Á làm nông nghiệp, cần chú trọng việc phát
triển nền kinh tế tri thức trong đó vai trò của báo chí số cần được nhìn nhận
một cách tổng thể và khách quan.
Trong sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật, các đơn vị
nghiên cứu đều đang chọn cho mình hướng đi mới, một trong số đó là đưa
ra các thuật toán nhằm xây dựng chuỗi trợ lý ảo. Có nhiều dự đoán về việc
trong một tương lai không xa, nhiều cơ quan báo chí sẽ ứng dụng các công
nghệ mang tính đột phá như AI (trí tuệ nhân tạo) và robot vào sản xuất tin
tức báo chí. Điều này sẽ đem đến một sự cạnh tranh trong tốc độ mã hóa và
xử lý thông tin giữa người và máy. Tuy nhiên, rõ ràng rằng sẽ có những
sản phẩm báo chí mà máy móc không thể sản xuất được.
Các cơ quan báo chí, truyền thông có nhiều cơ hội để phát triển
trong thời kỳ kỹ thuật số bởi lẽ nó có tiềm năng lớn trong việc chủ động
sản xuất thông tin, nắm bắt thị trường. Tuy nhiên, những vấn đề đang nổi
lên hiện nay như: sở hữu bản quyền tác giả; về lòng tin của công chúng;
101
thái độ, hành vi thói quen tiếp cận thống tin số hay sự phát triển các công
nghệ kỹ thuật mới… cũng ảnh hưởng rất nhiều đến sự tồn tại và phát triển
của nền báo chí Việt Nam trong tương lai.
Đã có một thời gian rất dài, báo chí của Việt Nam được bao cấp, đến
bây giờ nhiều tờ báo vẫn được phát miễn phí cho các hộ gia đình. Đây
không phải là cách làm riêng có ở Việt Nam mà ở một số quốc gia như Mỹ,
Anh, Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc… tại các ga tàu điện ngầm, người
dân vẫn được phát báo miễn phí hằng ngày. Việc phát báo miễn phí là một
phương án của chính phủ các nước cho phép người dân có quyền bình đẳng
trong việc tiếp cận thông tin và nâng cao tri thức xã hội. Bên cạnh mô hình
cấp phát miễn phí, vẫn tồn tại phần lớn các cơ quan báo chí tự lực cánh
sinh, tự hoạch toán kinh doanh. Nằm trong lộ trình phát triển chung, quy
hoạch báo chí đến năm 2025 đòi hỏi nền báo chí Việt Nam cần có những
bước phát triển sâu rộng về cả chất lượng nội dung và đảm bảo đời sống
kinh tế cho cơ quan báo chí.
Thời đại công nghệ số cho phép báo chí thỏa sức sáng tạo nhưng
trong một môi trường bình đẳng, nếu không tự đặt ra những giới hạn thì
mọi chất xám đều không còn giá trị riêng của nó. Từ thời kỳ đầu của báo
mạng điện tử, đã có những dự đoán rằng bằng cách làm cho thông tin trở
nên phong phú và dễ tiếp cận hơn, giá cả mà độc giả phải chi trả sẽ được
điều chỉnh xuống một cách ổn định, thu hút nhiều độc giả hơn. Lúc đầu,
quan điểm đó đã đúng khi giá cả quảng cáo trên internet phát triển với tốc
độ chóng mặt và nguồn thu báo chí truyền thống vẫn phát triển mạnh.
Nhưng cuối cùng, sự trỗi dậy của internet thay đổi mọi thứ, bắt đầu từ
ngành công nghiệp âm nhạc, dưới hình thức chia sẻ tập tin. Bất chấp sự
thành công của iTunes và các dịch vụ thanh toán khác, việc tải xuống bất
hợp pháp vẫn phổ biến. Tiếp đó, các ấn phẩm báo chí in đang bị ảnh hưởng
nhiều nhất hiện nay, rồi tới truyền hình. Gần như tất cả nội dung từ các ấn
102
phẩm báo chí và truyền hình đều đang được đăng tải trực tuyến và miễn
phí, hệ quả là các phương tiện truyền thông truyền thống mất khán giả và
quảng cáo.
Việc tổ chức mô hình sản xuất báo chí nhưng lại phụ thuộc quá
nhiều vào thuật toán khiến cho các trang báo mạng điện tử không thể
không đưa tin về những sự kiện nổi bật chung đang diễn ra để thuật toán
tạo ra những từ khóa liên kết (tags) cho phép tiếp cận công chúng dễ
dàng hơn. Tuy nhiên, đối với hầu hết các tin tức đang nằm trong “nhóm
các tin tức được nhiều người quan tâm”, nếu có bất kỳ trang báo trả phí
nào đăng tải những nội dung liên quan nó cũng sẽ phải cạnh tranh với
các phiên bản thay thế của cùng một bài viết được cung cấp bởi nhiều
nguồn tin tức miễn phí.
Các sản phẩm báo chí được tạo ra, truy cập và tiêu thụ chính là một
quy trình tự nhiên của lịch sử. Chỉ trong vài năm, độc giả đã có quyền truy
cập chưa từng có vào lượng thông tin và kiến thức đáng kinh ngạc do các
nhà báo, nhà văn hóa, nhà nghiên cứu tạo ra, hiện thực đó đòi hỏi cần phải
tổ chức lại lĩnh vực văn hóa số, đặc biệt là ngành báo chí.
Vì vậy, một số vấn đề trước mắt đặt ra đối với mỗi cơ quan báo chí
truyền thông, đặc biệt là các cơ quan có sản phẩm số hóa, đó là:
Thứ nhất, chú trọng bảo vệ quyền tác giả đối với mỗi sản phẩm
báo chí, sản phẩm truyền thông số. Báo chí là sản phẩm kinh tế đặc biệt
bởi nguyên liệu đầu vào của nó vô hình và phụ thuộc hoàn toàn vào khả
năng nhận thức, khai thác thông tin, vốn tri thức và kỹ năng nghiệp vụ của
nhà báo. Mỗi sản phẩm báo chí đều cần chú trọng bản quyền tác giả bởi
đây là sản phẩm hàng hóa đặc biệt khi chất lượng sản phẩm phụ thuộc hoàn
toàn vào năng lực của nhà báo. Khi tất cả thông tin cùng được đặt lên một
mặt phẳng, sẽ có những sản phẩm có giá trị và có những sản phẩm không
103
có giá trị, giá trị của sản phẩm được khẳng định bởi năng lực chuyên môn,
kỹ năng và thâm niên nghề của tác giả. Đối với một cơ quan báo chí, sản
phẩm có giá trị nổi lên trên mặt phẳng tin tức sẽ đem lại lợi nhuận.
Thứ hai, về việc gìn giữ niềm tin của độc giả. Khi xem xét mối
quan hệ giữa thị trường, sản phẩm và người tiêu dùng, Carl Menger - nhà
kinh tế học người Áo đã nhận định: “Cá nhân có quyền lựa chọn”, một sản
phẩm khi xuất hiện trên thị trường luôn tạo ra sự so sánh với các sản phẩm
tương tự khác, khách hàng hay độc giả luôn luôn có sự lựa chọn bởi lẽ, sự
phát triển không ngừng của xã hội được xây dựng bởi nhận thức của con
người, vốn tri thức của mỗi người được bồi đắp từng ngày, từng giờ. Vì
vậy, lòng tin của độc giả là điều kiện tiên quyết để duy trì sự kết nối và tạo
ra doanh thu vững chắc cho cơ quan báo chí. Để làm được điều đó, các cơ
quan báo chí truyền thông cần tạo ra những sản phẩm có chất lượng để thu
hút và giữ chân độc giả. Điều này đã từng được thực hiện rất tốt ở giai
đoạn phát triển cực thịnh của báo in Việt Nam. Cần duy trì các sản phẩm
báo chí truyền thông số chất lượng cao thông qua các sản phẩm báo chí
chất lượng được chắp bút bởi những nhà báo có chuyên môn.
Thứ ba, sự bão hòa thông tin trong môi trường số. Mỗi cơ quan
báo chí sẽ có một lượng độc giả quen thuộc riêng, phụ thuộc vào nhóm
tuổi, giới tính, công việc… tuy nhiên các cơ quan báo chí hiện nay trong
cuộc chạy đua số lại cố gắng tiếp cận càng nhiều đối tượng độc giả càng
tốt, điều đó đã góp phần không nhỏ vào sự bão hòa của thông tin, khiến
cho trên mặt phẳng thông tin, không có sản phẩm nào đặc biệt vượt trội.
Báo chí đã và đang thực hiện chức năng truyền tải thông tin một cách trung
thực, tuy nhiên, bên cạnh nhu cầu tiếp nhận thông tin, công chúng còn có
nhu cầu được chỉ dẫn, giải đáp. Nếu nhà báo chỉ thực hiện chức năng
truyền tải thông tin thông thường sẽ dẫn đến tình trạng bão hòa thông tin.
Thứ tư, những khó khăn thách thức trong việc duy trì các giá trị
104
thương hiệu cũ. Nhiều cơ quan đang đánh mất thương hiệu của họ bởi sự
đi xuống của chất lượng bài viết trong việc chạy theo thị hiếu của công
chúng nhằm lôi kéo doanh thu quảng cáo. Việc cung cấp tin tức miễn phí
trong bối cảnh kinh tế thị trường đã khiến cho doanh thu của các cơ quan
báo chí truyền thông hoàn toàn bị phụ thuộc vào doanh thu từ quảng cáo.
Việc cố gắng theo đuổi số lượng truy cập theo từng ngày, từng chủ đề, theo
đuổi yếu tố tin nóng, giật gân, câu khách thay vì duy trì mối quan hệ lâu
dài với khách hàng đã thu hẹp nhóm khách hàng tiềm năng của mỗi cơ
quan báo chí. Nếu như trước đây, khi xuất bản một tờ báo in, ban biên tập
luôn đưa ra những hướng đi riêng phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và
phong cách của tờ báo để mỗi sản phẩm báo chí là một tiếng nói, một
thương hiệu dễ nhận dạng trên thị trường báo chí thì hiện nay, nhiều tờ báo
bị ảnh hưởng bởi cách tiếp cận thị trường chung đã đánh mất đi phong cách
riêng của chính họ.
Thứ năm, nhưng thách thức trong tiến trình “chuyển đổi số” quốc
gia. Chuyển đổi số đang trở thành xu hướng toàn cầu trong rất nhiều doanh
nghiệp, tổ chức trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Về bản chất,
chuyển đổi số bao gồm cả các quá trình, phương thức xử lý thông minh
giúp mỗi cơ quan quan tổ chức có mối quan hệ chặt chẽ hơn với khách
hàng, tùy chỉnh và chuyển đổi sản phẩm, tiết kiệm chi phí, tăng năng lực
nhân viên qua công nghệ, tạo ra các mô hình kinh doanh mới, phương thức
quản lý mới... Nhìn từ góc độ kinh tế, mỗi cơ quan báo chí là một doanh
nghiệp, nếu thích ứng được với quá trình số hóa, sự chuyển đổi về kỹ năng
và tay nghề của lực lượng lao động báo chí truyền thông sẽ tạo thêm giá trị
cho xã hội và cho cơ quan tổ chức của mình. Tuy nhiên chuyển đổi số cũng
sẽ đối mặt với các thách thức mới, nên mỗi một cơ quan báo chí phải liên
tục thay đổi để thích ứng và giải quyết, ví dụ công nghệ số phải đi đôi với
bảo mật số. Các ứng dụng số càng nhiều thì nguy cơ bị tấn công mạng
105
(cyber attack) càng cao hơn, dữ liệu dễ bị rò rỉ nhiều hơn. Sự phát triển
công nghệ, mô hình kinh doanh mới của lĩnh vực báo chí truyền thông gắn
với các hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông hiện đại cũng xuất hiện
quá nhanh cũng khiến các chế tài, luật pháp hay các quy định (regulation)
của các mô hình kinh doanh truyền thống không theo kịp, cần phải chuyển
đổi để thích ứng.
Thứ sáu, khó khăn trong việc kết nối liên thông với hệ thống
thương mại điện tử toàn cầu. Trong hai năm gần đây, các khách hàng
trẻ tuổi đã dễ dàng chi trả và mua bán qua mạng, tuy nhiên nền tảng
thương mại điện tử ở Việt Nam mới chỉ dừng lại ở câu chuyện của giao
dịch kỹ thuật số đơn thuần qua giao dịch mua - bán trả sau, vẫn còn
nhiều người dân chưa thực sự tham gia vào thương mại điện tử bằng
cách thực hiện lệnh giao dịch tiền điện tử trả trước. Cần nhấn mạnh,
thương mại điện tử bao gồm việc giao dịch trực tuyến, thanh toán
micropayment, visa debit card, ví điện tử… Chỉ khi người dân sử dụng
các phần mềm trên điện thoại di động để thanh toán hoàn toàn, không
còn sử dụng giao dịch tiền mặt thì đó mới là lúc hệ thống thương mại
điện tử được thiết lập hoàn toàn ở Việt Nam.
Thứ bảy, giữ gìn nền văn hóa dân tộc trong dòng chảy chung
của sự phát triển. Các phương thức vận động của nền công nghiệp 4.0,
thế giới phẳng… đều nhằm mục đích thu hẹp khoảng cách giữa các quốc
gia, dân tộc. Báo chí Việt Nam cũng nằm trong dòng chảy đó, việc phá
vỡ những khoảng cách sẽ tạo ra sự bùng nổ và va chạm trong tiếp biến
văn hóa. Để giữ gìn nền văn hóa dân tộc trong dòng chảy chung, các cơ
quan báo chí, cơ quan truyền thông cần có sự thống nhất về nội dung
thông tin trước khi truyền tải thông tin đến với công chúng. Việc tiếp
nhận các sản phẩm văn hóa từ nước ngoài sẽ tạo ra một không gian văn
hóa đa dạng cho công chúng Việt Nam nhưng cũng tiềm ẩn nhiều nguy
106
cơ về việc thay đổi những giá trị truyền thống, thậm chí làm thay đổi
nhiều lề lối văn hóa có từ lâu đời. Vì vậy một trong những đặc điểm cần
lưu ý trong việc sản xuất và đóng gói tin tức số đó là cần chú trọng giữ
gìn những đặc điểm văn hóa truyền thống tốt đẹp.
Những vấn đề đặt ra với thị trường báo chí trước mắt kể trên không
chỉ là vấn đề của các cơ quan báo chí mà nó còn đặt ra những thách thức
đối với các cấp quản lý:
Về kiểm soát thị trường thông tin minh bạch: Việc nhiều tờ báo bị
đình bản, xử phạt vì đưa sai thông tin, đưa tin thiếu cơ sở vẫn tiếp diễn gần
đây. Những tờ báo lớn bị đình bản từ 3 đến 6 tháng cho thấy mức độ
nghiêm trọng của thông tin thiếu minh bạch có thể gây ra những hệ lụy bất
ổn trong niềm tin của quần chúng nhân dân với Đảng lãnh đạo. Vì vậy,
việc cần kiểm soát thị trường thông tin minh bạch trong nền kinh tế số là
một thách thức đối với các cấp quản lý từ trung ương đến địa phương.
Có thể khẳng định rằng, sự phát triển của khoa học công nghệ đã
góp phần hỗ trợ nền báo chí thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng ngày
càng tiến bộ. Tuy nhiên kèm theo đó là những thách thức không nhỏ đặt ra
đối với cả cơ quan báo chí và cả cơ quan quản lý. Vấn đề là cần phải làm gì
để sản phẩm báo chí trong thời đại số vẫn giữ được bản sắc và đặc trưng
ngành để giữ chân công chúng, thống nhất hệ tư tưởng toàn xã hội. Khi
một mô hình mới được triển khai, nó sẽ luôn vấp phải những sự phải đối,
cần lường trước các kịch bản tình huống để có phương án xử lý tối ưu là
cách để các cơ quan báo chí không bị bị động trong mọi tình huống.
3.2. Những bài học kinh nghiệm trong việc phát triển mô hình kinh
doanh nội dung mới tại Việt Nam và thế giới.
Sự phát triển của nền khoa học kỹ thuật đã tạo ra những bước tiến
mới cho các ngành kinh tế xã hội trong đó có kinh tế báo chí. Những thay
107
đổi đó đã đặt ra cả cơ hội và thách thức cho nhưng người làm báo, đó là:
Thứ nhất, bài học về khả năng thích ứng với sự thay đổi của thị
trường và nhu cầu của công chúng: Nhìn vào thực tế có thể thấy rằng tin
tức miễn phí sẽ không tạo ra doanh thu nhưng để xây dựng một hệ thống
thu phí cần thay đổi thói quen của công chúng. Theo ông Rupert Murdoch,
Chủ tịch điều hành News Corporation cho biết ông hình dung một ngày
không xa khi tất cả các tài sản tin tức của News Corporation, bao gồm Fox
News Channel, The Times of London và The New York Post, tính phí trực
tuyến [58]. “Nội dung chất lượng không phải là miễn phí”, ông Murdoch
đã viết như vậy trên Tạp chí Phố Wall vào ngày 8 tháng 12 năm 2008, vài
ngày sau khi gửi một thông điệp tương tự tại một hội thảo của Ủy ban
Thương mại Liên bang. “Trong tương lai, báo chí tốt sẽ phụ thuộc vào khả
năng thu hút khách hàng của một tổ chức tin tức bằng cách cung cấp tin
tức và thông tin mà họ sẵn sàng trả tiền”.
Ngay sau tuyên bố của Rupert Murdoch, một loạt các lập luận khác
đã được đưa ra, tiêu biểu là quan điểm của McCall, ông chủ của Emap:
“Làm thế nào để cạnh tranh với một sản phẩm tin tức được tài trợ công
khai và nằm miễn phí ngay trước cửa nhà bạn?”. Phát biểu của McCall
dựa trên một hiện thực rằng có nhiều tờ báo tại Mỹ và châu Âu được các
tập đoàn kinh tế đỡ đầu và phát miễn phí bằng cách đặt trước cửa các gia
đình mỗi buổi sáng. Rupert Murdoch đã thừa nhận có nhiều vấn đề nảy
sinh khi tiến hành xây dựng trong mô hình sản phẩm báo chí số thu phí
người sử dụng mà rõ ràng nhất là từ việc thuyết phục công chúng thay đổi
thói quen của họ.
Vậy có thể nhận thấy, khi các cơ quan báo chí đưa ra một bước đi sai
lầm đó là miễn phí tin tức trên báo mạng điện tử trong khi vẫn xuất bản và
định giá các sản phẩm báo chí dưới dạng vật chất, điều đó đã tạo nên sự
chênh lệch trên thị trường. Ở vai trò người tiêu dùng, phần đông công
108
chúng sẽ lựa chọn những sản phẩm miễn phí. Theo thời gian, việc phụ
thuộc vào doanh thu từ quảng cáo và mức độ bão hòa của tin tức sẽ kéo
theo sự sụt giảm của doanh thu báo mạng điện tử, vì vậy từ quá trình gây
dựng lại hệ thống thu phí của News Corporation, ta nhận thấy, cần có một
quá trình rất dài đòi hỏi sự thay đổi của công chúng. Nếu coi các sản phẩm
báo chí truyền thông như một bàn tiệc được bày ra trước mắt công chúng
thì cần nấu những bữa ăn có chất lượng để khách hàng chấp nhận trả tiền
để thụ hưởng nó. Kinh nghiệm từ News Corporation cũng chỉ ra rằng, cần
hướng tới các nhóm công chúng trung thành tiềm năng, những người gắn
bó chặt chẽ với tôn chỉ, mục đích của tờ báo. Việc giữ vững thương hiệu và
cá tính của nhà báo cũng là một cách để thu hút độc giả trung thành.
Ở Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn vàng để tạo ra những thay đổi khi
sự hiện hữu của các sản phẩm báo chí tồn tại dưới dạng vật chất như báo in
vẫn đang có lượng động giả nhất định. Nhiều người Việt vẫn chưa từ bỏ
thói quen tìm mua báo giấy để cập nhật tin tức hàng ngày. Điều đó cho
phép công chúng Việt có thể dễ dàng thích nghi hơn đối với các sản phẩm
báo chí số thu phí từ người sử dụng.
Thứ hai, bài học về đa dạng hóa mô hình kinh doanh và tạo
nguồn thu mới của báo chí truyền thông: Trong nền kinh tế báo chí hiện
đại, việc phụ thuộc hoàn toàn vào quảng cáo sẽ khiến các cơ quan báo chí
thiếu đi tính sáng tạo, cơ động và khách quan. Theo Alan D. Mutter, một tư
vấn truyền thông nhận định: Trong một năm đầy rẫy những vụ đóng cửa
tạp chí và phá sản báo chí, các công ty truyền thông đã tưởng rằng mô hình
trả tiền sẽ chỉ hạn chế lưu lượng truy cập và kìm hãm doanh thu quảng cáo,
theo quan điểm mà các doanh nghiệp truyền thông cần phải thử một cái gì
đó mới, bởi vì con đường hiện tại dường như dẫn đến “sự tuyệt chủng”.
Các nhà cung cấp nội dung trên mạng thấy rằng mọi thứ đều miễn phí,
109
được quảng cáo hỗ trợ, không hoạt động tốt và họ đang cố gắng đưa mọi
thứ trở lại quỹ đạo nhưng điều đó rất khó khăn. Tuy nhiên nhìn từ thực tế,
mô hình thu phí người dùng có thể thay đổi nhiều điều [58].
Trong 200 năm qua, tất cả các tờ báo trên thế giới đã cố gắng đạt
được một khối lượng người xem lớn nhất có thể. Và trong quá trình đó,
nhiều tờ báo lặp lại nhau ở cách đặt vấn đề, đụng chạm nhau ở ý tưởng và
cạnh tranh nhau ở cách thể hiện dần đi theo vòng tròn mang tính chu kì. .
Để được số đông cộng đồng chấp nhận, các cơ quan báo chí dần đi vào lối
mòn rập khuôn, kể cả khi đã ra ấn phẩm điện tử, họ vẫn đi vào những số
liệu thuật toán và cách tư duy đồng điệu chỉ tập trung vào việc làm thế nào
để tiếp cận càng nhiều khách hàng càng tốt, vậy nên giờ đây các cơ quan
báo chí đều có sự tương đồng về nội dung cũng như cách thức thể hiện.
Ông Peter Cashmore Giám đốc của Mashable gọi tình trạng chung của báo
chí hiện đại là “không có gì thực sự độc đáo về bất kỳ tờ báo nào trên hành
tinh cho dù có sự khác biệt cũng là không đáng kể” [56].
Sự phá sản của một số tờ báo ở các nước đang phát triển là bởi họ
không đủ hấp dẫn công chúng, không thể làm giả số liệu để kêu gọi thu hút
nhà đầu tư quảng cáo, sự thay đổi của người lãnh đạo tờ báo cũng kéo theo
sự ra đi của những mối quan hệ, những người đỡ đầu vốn đã thân quen từ
trước đó. Vậy, nếu xét về quan hệ kinh tế thị trường, các cơ quan báo chí
chỉ có thể trông cậy vào một nguồn thu duy nhất đó là từ độc giả trung
thành. Mà để tạo ra được nhóm công chúng sẵn sàng chi tiêu thì các cơ
quan báo chí cần thực sự làm tốt công việc của họ.
Quảng cáo không phải là hướng đi duy nhất để tạo ra doanh thu,
trong giai đoạn toàn cầu đang đối mặt với nhiều khó khăn như dịch bệnh,
biến đổi khí hậu, cấm vận kinh tế… thì nhiều tập đoàn tài chính kinh tế
cũng gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, sự trỗi dậy của mạng xã hội như
một phương thức tiếp cận công chúng một cách hữu hiệu, dễ dàng lôi kéo
110
và tạo ra thiện cảm đối với các khách hàng ở phân khúc độ tuổi lao động. Ở
Việt Nam, 64% người dùng mạng điện tử tập trung vào các trang mạng xã
hội và tin tức giải trí, điều đó đã tạo ra một thị trường quảng cáo tiện lợi
hơn, đa dạng hơn cho các tập đoàn kinh tế. Vì vậy, nếu chỉ tập trung vào
doanh thu từ quảng cáo, các cơ quan báo chí tại Việt Nam sẽ dần thu hẹp
doanh thu của chính họ. Xu hướng phát triển của báo chí truyền thông toàn
cầu đang dần hướng đến tính chuyên môn hóa và tự chủ về tài chính, đây
cũng là một hướng đi tốt cho báo chí Việt Nam trong nền kinh tế thị trường
hiện nay.
Xây dựng mô hình sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí từ
người sử dụng là một thách thức lớn, nhất là với những môi trường báo chí
vốn đã rời bỏ khái niệm mua bán trực tiếp với độc giả. Khi công chúng đã
quen thụ hưởng những sản phẩm miễn phí, họ sẽ đòi hỏi sản phẩm được
nâng cấp chất lượng mà không thay đổi giá thành. Việc tạo ra một sự
thuyết phục nhằm thay đổi số đông cần sự chung tay của một nhóm các nhà
sản xuất hoặc cần chỉ rõ cho độc giả thấy những lợi ích của mô hình mới.
Công chúng cần những thông tin đầy đủ về sự chia sẻ doanh thu khi một cơ
quan báo chí phải mượn đường truyền hay cơ sở lưu trữ giữ liệu từ một đối
tác trung gian. Chỉ khi độc giả hiểu và thông cảm cho chính những người
làm báo, họ mới nhận thức được sự “bình thường” trong hoạt động chi trả.
Không chỉ trong mô hình sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí
người sử dụng, mà trong hoạt động kinh tế nói chung, nhiều tờ báo đang cố
để giúp cho độc giả hiểu rõ hơn về doanh thu của báo chí. The Guardian là
một ví dụ. Từ năm 2018, The Guardian cho chạy mô hình đăng ký dưới
dạng kêu gọi quyên góp sự giúp đỡ từ các dộc giả. Trên các trang báo điện
tử, cuối mỗi bài viết của mình, ban biên tập của The Guardian đều đính
một box thông tin với nội dung: “Hãy đóng góp để hỗ trợ cho báo chí của
chúng tôi dù ở bất cứ mức độ nào. Sự hỗ trợ của bạn giúp duy trì sự độc
111
lập của The Guardian và điều đó có nghĩa là chúng tôi có thể tiếp tục cung
cấp sản phẩm báo chí chất lượng tới mọi người trên khắp thế giới. Mọi
đóng góp, dù lớn hay nhỏ, đều rất có giá trị cho tương lai của chúng tôi”.
Đáp lại sự kêu gọi của The Guardian, nhiều độc giả đã không còn đọc tin
tức miễn phí nữa mà họ sẵn sàng trả phí để “chia sẻ” với những khó khăn
của tờ báo này. Và trung bình mỗi tháng doanh thu của The Guardian chạm
mức trên 20 triệu bảng Anh. Có thể nói rằng việc công khai và trung thực
với công chúng cũng đóng một phần quan trọng vào thành công của mô
hình thu phí trên nền tảng số.
Sự quyên góp, ủng hộ hay quyết định trả phí cho một tờ báo xuất
phát từ thói quen và niềm tin của công chúng đối với các cơ quan báo chí
mà họ tin tưởng. Giữ quan hệ mật thiết với khách hàng là độc giả trung
thành, đưa báo chí trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu đối với công
chúng. Việc thay đổi phương thức kinh doanh từ miễn phí sang thu phí cần
có sự phối hợp nhịp nhàng giữa cơ quan báo chí và khách hàng (độc giả)
cần giải thích rõ lý do của sự thay đổi, tính cấp thiết của thị trường báo chí
chất lượng đi kèm giá cả sẽ đưa đến cho độc giả những trải nghiệm tốt hơn,
báo chí chất lượng cao hơn. Nhiều cơ quan báo chí tại Việt Nam ngại ngần
khi chuyển đổi phương thức kinh doanh từ miễn phí sang thu phí bởi lo sợ
sự phản đối từ khách hàng. Khách hàng sẽ không thể phản đối khi họ đã
được giải thích đầy đủ và hiểu tường tận nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi
của cơ quan chủ quản.
Thứ ba, bài học kinh nghiệm về vấn đề cải tổ nhân sự, hoàn thiện
bộ máy đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới: Từ bài học của các tập đoàn
truyền thông lớn trên thế giới có thể nhận định, trước mỗi một cuộc cải tổ
cần có một cuộc cải tổ bộ máy, như ở News Corporation, trước khi Rupert
Murdoch tuyên bố khai thác mô hình thu phí, ban giám đốc đã quyết định
sa thải 3000 nhân viên của hãng, để làm gọn bộ máy, giữ lại những người
112
có năng lực. Điều này đồng nghĩa với việc các nhà báo phải tự sáng tạo và
nâng cao năng lực của bản thân. Khi hoạt động của cơ quan báo chí bị đình
trệ, có sức ỳ do những thói quen cũ mang lại thì việc cải tổ lại cơ quan báo
chí là điều cần thiết.
Trong một xã hội mà hoạt động thu phí là một điều mới mẻ, chưa
được đông đảo người dân đón nhận thì việc dựng lên một bức tường thu
phí đóng chặt chẽ là điều sai lầm. Dù là ở NYT, The Guardian hay Fox
Channel thì công chúng luôn có quyền dùng thử sản phẩm. Việc chào mời
dùng thử sản phẩm là một cách làm marketing truyền thống trong các
ngành kinh tế. Khi khách hàng được trải nghiệm sản phẩm sẽ củng cố thêm
cho quyết định trả tiền. Trong bối cảnh sản phẩm kinh tế mới sẽ tạo ra
nhiều thay đổi trong thói quen của xã hội thì không nên tạo ra một bức
tường trả tiền kín mà thay vào đó là một bức tường cho phép mọi người
chia sẻ nội dung với những người không đăng ký. Chia sẻ là cách cơ quan
báo chí tiếp cận được lượng người dùng mới. Đây là kênh bán hàng quan
trọng nhất khi tiếp thị sản phẩm, che giấu những thông tin có ích đằng sau
một bức tường trả tiền sẽ khiến độc giả khó đưa ra quyết định mua.
Ở Việt Nam, ngoài những thách thức chung có thể gặp phải từ
hướng đi chung của nhiều tờ báo như thay đổi thói quen của độc giả, tạo ra
những sản phẩm có chất lượng, sáng tạo nội dung, cải cách bộ máy, việc tổ
chức vận hành theo mô hình thu phí của Việt Nam sẽ có thể còn nhiều khó
khăn. Tuy nhiên, song hành cùng sự phát triển của xã hội là nhận thức và
tri thức của người dân được nâng cao, từ những bài học kinh nghiệm của
các tập đoàn truyền thông lớn trên thế giới, Việt Nam hoàn toàn có thể rút
kinh nghiệm và chuẩn bị kịch bản sẵn sàng cho mô hình sản phẩm báo chí
số thu phí người sử dụng được phổ biến rộng khắp.
Thứ tư, bài học kinh nghiệm về xác định xu hướng phát triển
của báo chí truyền thông và thiết kế hạ tầng kỹ thuật mới. Khi đã thích
113
nghi với thế giới kỹ thuật số, khách hàng (người tiếp nhận) sẽ cảm thấy
mình như là một thành viên tích cực và tham gia nhiều hơn vào quá trình
tương tác với nguồn phát. Nói cách khác, người tiêu dùng kỹ thuật số
ngày nay đã biết cách chọn lựa đơn vị có khả năng đáp ứng tốt nhất nhu
cầu của họ. Những đơn vị có khả năng nắm bắt được xu hướng này và
biết cách triển khai các mô hình kinh doanh phù hợp nhất với các nhu
cầu của khách hàng, sẽ có lợi thế đáng kể so với các công ty khác chọn
các mô hình quá tĩnh hoặc thiếu linh hoạt. Khách hàng trực tuyến không
gặp khó khăn khi chuyển đổi từ một thương hiệu hoặc dịch vụ quen
thuộc sang một thương hiệu khác, tất cả đều phụ thuộc vào mức độ được
thỏa mãn của khách hàng.
Trong các mô hình hoạt động mới của thị trường kinh tế báo chí,
truyền thông, việc liên kết giữa các nhóm ngành kinh tế đã tạo ra cơ hội
mới cho cả đơn vị báo chí và đơn vị cung ứng dịch vụ kỹ thuật số. Khi có
một nhà cung cấp dịch vụ giá trị gia tăng và dịch vụ mạng làm nền tảng -
đóng vai trò là nhà cung cấp cơ sở hạ tầng vật lý xương sống cho các cơ
quan báo chí, thì lúc đó, cơ quan báo chí hoàn toàn có thể tập trung vào
việc hoàn thiện sản phẩm báo chí chất lượng cao. Nhà mạng cung cấp cơ
sở hạ tầng số sẽ nhận được doanh thu từ các nhà khai thác, những người
thuê thị phần (tin nhắn SMS, đường truyền internet) để cung cấp sản phẩm
báo chí truyền thông dưới dạng dịch vụ tích hợp đến cho khách hàng viễn
thông. Việc cho thuê các kết nối thụ động (các trang web và dải tần không
dây) của nhà mạng đã gián tiếp khiến người dùng trả phí cho sản phẩm báo
chí truyền thông.
Công ty viễn thông Vodafone ở thị trường Ấn Độ cung cấp gói cước
16 Rúp Ấn Độ cho 1GB lưu lượng miễn phí trong vòng 24 giờ, khách hàng
có thể đăng kí dịch vụ và đi kèm theo đó khi khách hàng truy cập vào ứng
dụng của Vodafone trên điện thoại di động, họ được đọc báo và xem phim
114
miễn phí. Như vậy, khách hàng của Vodafone chỉ phải trả tiền cho lưu
lượng data khi sử dụng dịch vụ giá trị gia tăng nhưng được kèm theo nhiều
sản phẩm khác. Ngoài ra Vodafone còn cung cấp các gói cước 48 Rúp có 3
Gb dùng trong 28 ngày hoặc 98 Rúp có 6Bg dùng trong 28 ngày. Điều này
tiết kiệm hơn so với việc khách hàng chỉ chọn đăng kí mua data internet.
Có thể nói, việc bán các sản phẩm đi kèm theo gói là một chiến lược
có thể tạo ra nhiều lợi nhuận cũng như thu hút một cơ sở khách hàng rộng
hơn - những người sẵn sàng chi tiêu. Giống như với mô hình khách hàng
chủ động trả tiền cho những gì họ muốn, các công ty áp dụng mô hình gói
sản phẩm phải hiểu rõ khách hàng của họ sẵn sàng trả bao nhiêu. Bán sản
phẩm đi kèm có thể có nghĩa là bán nhiều loại sản phẩm hơn cho mỗi
khách hàng, do đó mang lại lợi nhuận cao hơn so với việc sản phẩm được
bán riêng. Tương tự, tại thị trường Việt Nam, với phân khúc khách hàng
rộng lớn và đặc biệt nhóm khách hàng là học sinh, sinh viên, người thu
nhập thấp có nhu cầu rất lớn trong việc sử dụng các gói sản phẩm giá thành
rẻ, tiện ích cao, điều này đã mở ra một cơ hội kinh doanh “màu mỡ” cho
các cơ quan báo chí truyền thông và các đơn vị viễn thông.
Cả ở lĩnh vực nghệ thuật, mô hình thu phí từ người sử dụng là một
cách để duy trì thu nhập cho các đơn vị nghệ thuật. Nhà hát Opera
Metropolitan ở New York, Mỹ hay La Scala ở Mi Lan, Ý đều ghi hình các
buổi biểu diễn của họ rồi đưa buổi biểu diễn lên trang chủ của Nhà hát, mỗi
lần có người muốn xem video buổi biểu diễn đó sẽ phải trả một khoản phí
tối thiểu. Báo cáo từ các nhà hát lại cho thấy sự tồn tại của một nhóm công
chúng vẫn dành tình cảm cho nghệ thuật sân khấu.
Quá trình số hóa đã mang đến cơ hội cho các đơn vị kinh tế khả năng
thử nghiệm các mô hình kinh doanh để tìm ra sự cân bằng phù hợp với bản
thân mỗi đơn vị kinh tế. Khi hợp nhất và số hóa nội dung sản phẩm để đưa
lên mạng điện tử và cho phép công chúng truy cập vào, thụ hưởng sản
115
phẩm ngay tại hạ tầng số đã khiến công chúng cảm thấy hứng thú với mức
độ tiện ích mà các sản phẩm số hóa đem lại. Tuy nhiên, khoa học kỹ thuật
luôn thay đổi, điều đó sẽ tạo ra một cuộc chạy đua mà nếu mỗi đơn vị kinh
tế, cụ thể là mỗi cơ quan báo chí không tự định giá cho sản phẩm của họ thì
các sản phẩm báo chí miễn phí sẽ sớm không thể tồn tại trên thị trường.
Những thay đổi, tiến hóa của nền kinh tế kỹ thuật số sẽ khiến cho các mô
hình kinh doanh mới không thể ngừng tìm kiếm liên tục để cung cấp dịch
vụ khách hàng tốt hơn.
3.3. Một số đề xuất, khuyến nghị cho sự phát triển sản phẩm báo chí,
truyền thông số thu phí từ ngƣời sử dụng tại Việt Nam
Quá trình chuyển đổi kỹ thuật số luôn cần được điều chỉnh theo nhu
cầu và mục tiêu của mỗi tổ chức kinh tế, sẽ không có một mô hình chuẩn
để làm mẫu số chung cho tất cả các đơn vị. Điều này có nghĩa là quá trình
số hóa chỉ tồn tại khi các nhà hoạch định chính sách và công chúng hiểu rõ
vai trò và khả năng tác động của số hóa tới mọi mặt đời sống. Vì vậy, trong
vòng 5 năm tới, để những sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí từ
người sử dụng có thể thật sự đi vào cuộc sống, các cơ quan báo chí tại Việt
Nam cần củng cố các chiến lược của mình về nhiều mặt bao gồm thay đổi,
chủ động cải tiến và làm chủ công nghệ, thay vì chỉ đưa ra các chiến lược
bị động chạy theo công nghệ, cần tạo lộ trình cụ thể hướng tới mục tiêu rõ
ràng. Mỗi nhà báo cần tự hoàn thiện mình để có thể sẵn sàng chủ động
tham gia vào quá trình số hóa.
Thứ nhất, hệ sinh thái internet vạn vật đang kết nối tất cả các thiết
bị điện tử để xây dựng lên một kho thông tin khổng lồ, điều đó đặt ra thách
thức yêu cầu mỗi nhà báo và các cơ quan báo chí phải có nhận thức phù
hợp về yêu cầu đổi mới sáng tạo, đồng thời duy trì, phát triển bền vững các
giá trị nền tảng cốt lõi. Nếu các cơ quan báo chí chỉ trông chờ vào những
mối quan hệ phụ thuộc từ những đơn vị thứ ba cung cấp hệ thống nền tảng
116
CMS thì các cơ quan báo chí sẽ không thể thực sự làm chủ sản phẩm của
mình và câu chuyện sản phẩm báo chí chạy theo các công thức của thuật
toán sẽ vẫn tiếp diễn. Nhiều nhà nghiên cứu thị trường truyền thông tại
Viện nghiên cứu báo chí Hoa Kỳ đã đưa ra lời khuyên rằng các cơ quan
báo chí đừng tự nhốt mình trong quan hệ đối tác thông thương để bị phụ
thuộc vào những gì được cung cấp mà không thể tự vận hành bộ máy theo
ý đồ của ban biên tập. Sự bị động trong sản xuất tin tức sẽ thu hẹp chất
lượng sản phẩm.
Thứ hai, để có thể xây dựng hệ thống sản phẩm đáp ứng cho mô
hình thu phí người sử dụng thì các cơ quan báo chí truyền thông cần tập
trung phát triển chuỗi các sản phẩm mới theo hướng cung cấp trải nghiệm
chất lượng cao, gắn kết liền mạch (flow) trong một hệ sinh thái hoàn thiện
tới khách hàng, thay vì chỉ đơn giản là sản xuất sản phẩm đơn lẻ và đẩy ra
thị trường. Ban biên tập cần tương tác với khách hàng của họ trên tất cả
các kênh (bao gồm cả phương tiện truyền thông xã hội) để có được kết nối
tốt nhất có thể. Thậm chí sử dụng những công cụ và chi tiền cho việc thực
hiện điều tra khảo sát nhu cầu khách hàng để xây dựng được hệ thống cơ
sở dữ liệu lớn của các phân khúc khách hàng, từ đó tập trung cung cấp
những sản phẩm tốt nhất, phù hợp nhất. Ở Việt Nam, quy hoạch báo chí
đang đặt ra yêu cầu cấp thiết rằng các cơ quan báo chí cần quay lại những
giá trị cố lõi trong mỗi tác phẩm báo chí để lấy lại niềm tin của công
chúng, đây cũng là cách để cơ quan báo chí thể hiện sự tôn trọng đối với
độc giả của mình.
Thứ ba, trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ
tư, các cơ quan báo chí tại Việt Nam cần có sự đầu tư phù hợp cho các
công nghệ mới như dữ liệu lớn big data, phân tích dự đoán, trí tuệ nhân
tạo, tự động hóa quá trình robot... với quan điểm “khách hàng (công
chúng) là trung tâm”. Sự phát triển của công nghệ nhằm giảm thiểu các
117
hao phí trong quá trình sản xuất tin tức, sử dụng công nghệ số vào hoạt
động tạo ra ấn phẩm mới sẽ cắt ngắn thời gian lãng phí và đưa thông tin
đến với công chúng một cách nhanh hơn. Để tham gia vào quá trình này,
các cơ quan báo chí cần có sự phối hợp đa ngành với các đơn vị dịch vụ
viễn thông, dịch vụ chăm sóc khách hàng của các tập đoàn kinh tế lớn, đặc
biệt là các hệ thống viễn thông, công nghệ thông tin mang tính quốc gia,
khu vực và quốc tế. Nghiên cứu thói quen, hành vi sử dụng của khách hàng
bên cạnh đó tham gia vào quá trình thay đổi giao diện CMS để đẩy nhanh
khâu biên tập, cần thay thế các giao diện đã cũ, kết hợp cùng các kỹ sư
phần mềm để tối ưu hệ thống, tạo ra những giao diện ưu việt hơn.
Thứ tư, cần chú trọng xây dựng kế hoạch kinh doanh cung cấp các
gói sản phẩm đa dạng phù hợp với nhiều phân khúc khách hàng theo
hướng “cá thể hóa nhu cầu” của từng đối tượng. Công chúng luôn có nhu
cầu sử dụng những sản phẩm tích hợp nhiều tiện ích, đa năng, đem lại
nhiều lợi nhuận và có mang lại cảm giác tiết kiệm. Nền kinh tế thị trường
tạo ra các sản phẩm khuyến mãi để thu hút khách hàng, duy trì mối quan hệ
bằng các sản phẩm tri ân, chào mời khách hàng bằng sản phẩm dùng thử.
Khi các cơ quan báo chí tiến hành xây dựng các mô hình kinh doanh tự
hoạch toán đòi hỏi cần có sự liên kết với các đối tác để tạo ra các gói sản
phẩm phù hợp với khách hàng. Độc giả ngày nay luôn mong muốn nhận
được sự tương tác hai chiều và muốn nhận được những ích lợi ngay trước
mắt khi sử dụng sản phẩm.
Thứ năm, các cơ quan báo chí cần thay đổi quan niệm, cách tư duy
cũ về kinh tế báo chí truyền thông để tham gia vào quá trình chuyển đổi số
và phát triển nền kinh tế số quốc gia. Các chuyên gia nghiên cứu truyền
thông cho rằng tỷ lệ số hóa của một quốc gia càng cao thì cơ hội tăng GDP
bình quân đầu người và chỉ số phát triển con người càng cao, đó là lý do tại
sao Chương trình nghị sự kỹ thuật số của Ủy ban châu Âu đang tích cực
118
thúc đẩy số hóa giữa các quốc gia thành viên. Quá trình số hóa là một bước
phát triển cần thiết của các cơ quan báo chí, nhưng đưa sản phẩm từ trang
giấy báo in lên giao diện điện tử là chưa đủ. Đặc biệt là với các tờ báo nhỏ
lẻ cấp địa phương, vốn chỉ bó hẹp trong nhóm cư dân địa phương. Sự phát
triển không ngừng của internet đang khiến báo in gặp nhiều khó khăn,
tham gia vào quá trình số hóa và hoạt động theo mô hình phù hợp với đặc
điểm của mỗi cơ quan báo chí là cách để khắc phục khó khăn trong giai
đoạn bão hòa thông tin.
Tiểu kết chƣơng 3
Những thay đổi tiến hóa trong thời đại của nền kinh tế kỹ thuật số
cho thấy các mô hình kinh doanh mới không là gì nếu không thể khi cơ
quan báo chí cố gắng cung cấp dịch vụ khách hàng tốt hơn, mặc dù không
phải theo cách truyền thống, mà là những dịch vụ khách hàng linh hoạt và
thân thiện với người dùng và thậm chí có thể được đồng thiết kế bởi chính
khách hàng. Việc thu hẹp khoảng cách giữa cơ quan báo chí và công chúng
của họ cả về phương thức phát hành, phương thức thanh toán chi trả cũng
đều đang đem lại những dấu hiệu tích cực cho thị trường thông tin báo chí.
Sản phẩm báo chí số mang những đặc trưng của sản phẩm báo chí
truyền thống nhưng bên cạnh đó nó cũng tích hợp nhiều ưu điểm như
nhanh, sinh động, thuyết phục, khả năng tạo ra hiệu ứng xã hội mạnh mẽ
tức thời, nắm bắt xu hướng và đưa ra chỉ dẫn nhanh chóng cho độc giả.
Tuy nhiên sản phẩm báo chí số cũng đang tồn tại nhiều hạn chế khi các cơ
quan báo chí đang đặt ra mục tiêu sai trong quá trình phát triển của họ
khiến họ chỉ chạy theo số đông mà không cung cấp chất lượng khiến cho
môi trường thông tin trở nên bão hòa thậm chí khiến độc giả mất lòng tin
vào hệ thống báo chí chính thống vốn vẫn luôn tự hào về khả năng thấu
hiểu thị trường, trung thực với các cấp lãnh đạo và quần chúng nhân dân.
Quy hoạch báo chí đến năm 2025 của Việt Nam đã vạch ra những lộ
trình mới đòi hỏi mỗi cơ quan báo chí phải thực sự trở thành một đơn vị tự
119
hoạch toán kinh doanh và thoát xác khỏi sự bao cấp. Bởi đây là hướng đi
đúng đắn để báo chí thực hiện vai trò và nghĩa vụ của mình trước Đảng và
nhân dân.
Nằm trong hoạt động báo chí, kinh tế báo chí đã tồn tại từ lâu trong
các sản phẩm từ khi nó được định giá và đưa ra thị trường. Tuy nhiên,
“nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh” vẫn là điều tranh
cãi. Xung đột giữa sản phẩm văn hóa và lợi ích của nhà báo luôn là mâu
thuẫn lớn cần giải quyết. Nhà báo cần đảm bảo quyền tác giả và hơn nữa là
đảm bảo đời sống ổn định thì họ mới có thể tạo ra những sản phẩm báo chí
chất lượng cao. Để làm được điều đó cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các
cơ quan báo chí và các nhóm công chúng trung thành của họ.
Công chúng cũng cần nhận thức được trách nhiệm của mình trong
việc duy trì mối quan hệ xã hội và tôn trọng công sức lao động của nhà
báo. Công chúng không thể tiếp tục đòi hỏi những sản phẩm báo chí chất
lượng cao miễn phí trong bối cảnh thế giới đang hòa nhập sâu rộng vào nền
kinh tế thị trường. Độc giả cần chi trả cho những gì họ đã hưởng thụ cũng
như việc độc giả có quyền nhận được những sản phẩm đáng với đồng tiền
họ bỏ ra.
Báo chí chất lượng cao chưa bao giờ là một điều khó khăn trong lịch
sử báo chí Việt Nam, tuy nhiên để duy trì báo chí chất lượng cao cần nhiều
sự cố gắng của cả các cấp lãnh đạo, người làm báo và cả công chúng.
KẾT LUẬN
Thế giới đang có nhiều biến động và đối mặt với những thách thức
không nhỏ trước sự thay đổi của cơ cấu các ngành kinh tế, suy thoái và cả
dịch bệnh. Trong bối cảnh đó, bài toán đặt ra cho nền kinh tế thị trường đó
là cần tìm những hướng đi mới phù hợp cho mỗi cơ quan, đơn vị kinh tế,
mang tính chủ động, nhanh nhạy, dễ thích ứng hơn. Sự cạnh tranh giữa các
nhóm ngành kinh tế tạo ra mâu thuẫn nội tại trong mỗi đơn vị, tập đoàn
kinh tế, buộc phải đưa ra những kế hoạch dài hơn củng cố chắc chắn vị thế
120
của sản phẩm trên thị trường.
Là một đơn vị của thị trường kinh tế, các cơ quan báo chí, truyền
thông trên thế giới đang dần cho thấy những dấu hiệu tích cực: thay đổi
trong phương thức sản xuất, đóng gói tin tức mới, thay đổi phương pháp
truyền dẫn thông tin và cho ra đời các thiết bị đầu cuối phù hợp với nhu
cầu của công chúng, áp dụng hoạt động nghiên cứu thị trường để phân
vùng và cải thiện nội dung, gia tăng tương tác với các khách hàng… Tất cả
các thay đổi đó đều dự báo một hướng đi đúng đắn cho hoạt động báo chí
truyền thông toàn cầu.
Tại Việt Nam, hoạt động kinh tế báo chí đang ngày càng độc lập,
chủ động do yêu cầu của thực tiễn và trước các quyết sách cải tổ, thay đổi
cũng như các phương pháp quản lý mới của Nhà nước, Quy hoạch báo chí
đến năm 2025 nhấn mạnh rõ tính độc lập của các cơ quan báo chí trong bối
cảnh nền kinh tế thị trường đang có nhiều biến đổi và những chính sách ưu
tiên của nhà nước đối với báo chí sau thời kì đổi mới đã không còn đáp ứng
được nhu cầu chung của toàn xã hội. Trước tình hình đó, báo chí Việt Nam
đang càng trở nên chuyên môn hóa trong từng lĩnh vực, các nhà báo cần
không ngừng học hỏi, sáng tạo để có thể duy trì khả năng làm chủ trong
hoạt động sản xuất báo chí. Những mô hình mới, phương thức mới được
hình thành trên cơ sở những điều kiện cũ và cải tiến cách làm cũ, điều này
phù hợp và phản ảnh chân thực xu hướng phát triển chung.
Đại hội VIII của Đảng đã đặt ra cần “Xây dựng nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, đi đôi với tăng
cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”;
theo đó, vai trò của Nhà nước vẫn là chủ đạo nhưng các đơn vị kinh tế
trong đó có báo chí được khuyến khích phát triển và hợp tác cùng phát
triển. Mô hình sản phẩm báo chí số thu phí từ người sử dụng đã được
hình thành từ lâu tại thị trường quốc tế và vẫn đang tồn tại ở thị trường
121
Việt Nam dưới nhiều hình thức: cả độc lập và cộng sinh kết hợp. Dựa
trên quy luật cung cầu của thị trường, các mô hình sản xuất báo chí
truyền thông số thu phí mới đang dần được thử nghiệm và cũng có
những mô hình nhận được phản hồi tốt từ khách hàng. Tồn tại trên môi
trường kỹ thuật số nhưng vẫn kế thừa các mô hình kinh tế báo chí truyền
thống, như định giá sản phẩm, phát hành dựa vào địa chỉ của người
mua… Tuy nhiên để mô hình sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí
từ người sử dụng có thể tồn tại và hoạt động hiệu quả trở thành một
nguồn thu ổn định cho các cơ quan báo chí thì còn cần sự hỗ trợ rất lớn
từ sự thay đổi nhận thức của công chúng. Nếu công chúng thay đổi thói
quen, thừa nhận sự đóng góp của mỗi nhà báo, chấp nhận chi trả cho
những sản phẩm báo chí chất lượng cao thì nền báo chí Việt Nam sẽ ổn
122
định và không ngừng được nâng cao hơn nữa trong tương lai không xa.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Thông tin và Truyền thông (2009) Sách trắng về Công nghệ
thông tin và truyền thông Việt Nam, Nhà xuất bản Thông tin và
Truyền thông, Hà Nội
2. Lê Thanh Bình (2004) Truyền thông đại chúng và phát triển xã hội;
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội
3. Lê Thanh Bình (2005) Báo chí truyền thông và Kinh tế văn hóa xã
hội, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, Hà Nội
4. Chính Phủ (2007) Nghị định Quy định chi tiết và hướng dẫn thực
hiện một số điều của luật công nghệ thông tin về công nghiệp công
nghệ thông tin, Nghị định 71/2007/NĐ-CP, Hà Nội
5. Nguyễn Văn Dững (2011) Báo chí truyền thông hiện đại – từ làm
đến đời thường, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội
6. Nguyễn Văn Dững (2018) Cơ sở lý luận báo chí, Nhà xuất bản
Thông tin và truyền thông, Hà Nội
7. Nguyễn Văn Dững, Nguyễn Thị Thu Hằng (2018) Truyền thông - Lý
thuyết và kỹ năng cơ bản, Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông,
Hà Nội
8. Mai Thế Duyệt, Phạm Quốc Trung (2015) Các yếu tố ảnh hưởng đến
ý định sử dụng dịch vụ đọc báo điện tử có trả phí ở Việt Nam, Tạp
chí phát triển Khoa học và Công nghệ, tập 18, Đại học Quốc gia Hồ
Chí Minh
9. Đỗ Quý Doãn (2015) Quản lý và phát triển thông tin báo chí ở Việt
Nam, Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông, Hà Nội
10. Hoàng Đình Cúc, Đức Dũng (2007), Những vấn đề của báo chí hiện
123
đại, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội
11. Thái Xuân Đệ (2018) Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Hải Phòng,
Hải Phòng
12. Đinh Thúy Hằng (2008) Báo chí thế giới xu hướng phát triển, Nhà
xuất bản Thông tấn, Hà Nội
13. Nguyễn Thanh Huyền (2014) Quan hệ công chúng: Lý luận và thực
tiễn, Nhà xuất bản Địa học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội
14. Đặng Thị Thu Hương (2016) Văn hóa truyền thông đại chúng ở Việt
Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và toàn cầu hóa, Nhà xuất
bản Đại học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội
15. Vương Quân Hoàng (2007) Truyền thông tài chính: Thông tin là
tiền; tham luận Hội thảo Báo chí với doanh nghiệp – Doanh nghiệp
với báo chí, Hà Nội
16. Nguyễn Thành Lợi (2019) Tác nghiệp báo chí trong môi trường
truyền thông hiện đại, Nhà xuất bản Thông tin và truyền thông, Hà
Nội
17. Nhiều tác giả (2008) Quản lý tài chính doanh nghiệp, Nhà xuất bản
Lao động Xã hội Hà Nội
18. Nhiều tác giả (2016) Một số xu hướng mới của báo chí truyền thông
hiện đại, Nhà xuất bản Thông tin và truyền thông, Hà Nội
19. Đỗ Chí Nghĩa (2012), Vai trò của báo chí trong định hướng dư luận
xã hội, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội
20. Phan Quang (2007) Về diện mạo báo chí Việt Nam, Nhà xuất bản
Văn hóa Thông tin, Hà Nội
21. Quốc hội (2016) Luật Báo chí, Hà Nội
22. Thủ tướng Chính phủ (2019) Quy hoạch phát triển và quản lý báo
chí toàn quốc từ nay đến năm 2025, Hà Nội
23. Tạ Ngọc Tấn (1999) Từ lý luận đến thực tiễn báo chí, Nhà xuất bản
124
Văn hóa Thông tin, Hà Nội
24. Tạ Ngọc Tấn (2001) Cơ sở lý luận báo chí, Nhà xuất bản Văn hóa
Thông tin, Hà Nội
25. Tạ Ngọc Tấn (2004) Truyền thông đại chúng, Nhà xuất bản Chính
trị Quốc gia, Hà Nội
26. Thông tấn xã Việt Nam (2018) Những sáng tạo trong báo chí báo
cáo toàn cầu 2018 – 2019, Xuất bản Thông tấn xã Việt Nam, Hà Nội
27. Bùi Chí Trung (2011) “Nhận diện kinh tế truyền thông” Tạp chí Lý
luận chính trị và Truyền thông số tháng 8/2011
28. Bùi Chí Trung (2007) Kinh tế báo chí, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia sự thật, Hà Nội
29. Tôn Đức Sáu, Nguyễn Thanh Trúc (2016) Chỉ số hài lòng khách
hàng và các yếu tố ưu tiên cải tiến chất lượng dịch vụ trong lĩnh vực
viễn thông di động, Nhà xuất bản Đại học Nông nghiệp, Hà Nội
30. Thái Thanh Sơn, Thái Thanh Tùng (2017) Thương mại điện tử trong
thời đại số, Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông, Hà Nội
31. Jennifer Aaker, Andy Smith, Carlye Adler (2012) Hiệu ứng chuồn
chuồn, dịch giả Tinh Văn Media, Nhà xuất bản Lao động Xã hội, Hà
Nội
32. Saifedean Ammous (2019) Kinh tế trong cuộc cách mạng công
nghệ 4.0, dịch giả Đỗ Hoàng Lan, Nhà xuất bản 1980, Hà Nội
33. Thomas L. Friedman (2018) Thế giới phẳng, nhóm dịch Nguyễn
Hồng Quang, Nguyễn Quang A, Vũ Duy Thành, Nhà xuất bản Trẻ,
Hồ Chí Minh
34. Claudia Mast (2003) Truyền thông đại chúng những kiến thức cơ
bản, người dịch: Trần Hậu Thái, Nhà xuất bản Thông tấn, Hà Nội
35. Ngô Quý Tùng (2000) Kinh tế tri thức xu thế mới của xã hội thế kỷ
XXI, nhóm dịch: Nguyễn Đình Phong, Trần Văn Long, Nguyễn Thị
125
Tiểu Như, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội
36. Philip Kotler (2007), người dịch Phan Thăng, Vũ Thị Phượng, Giang
Văn Chiến, Marketing căn bản, Northwestern University, Nxb Lao
động - Xã hội, Hà Nội
37. Picard R. () Kinh tế truyền thông. Lý thuyết và các vấn đề, Hà Nội
38. Fred S.Siebert, Theodore Peterson, Wilbur Schramm (2013) Bốn
học thuyết truyền thông, Nhà xuất bản Tri thức, Hà Nội
39. Mark Skousen (2016) Ba người khổng lồ trong kinh tế học Adam
Smith, Các Mác và John Maynard Keynes, nhóm dịch: Nguyễn
Hoàng Hà, Nguyễn Quỳnh Trang, Nguyễn Thị Hồng Minh, Vũ Thu
Trang, Phan Thị Sông Thương, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia –
Sự thật, Hà Nội
40. Mitchell Stephens (2015) Hơn cả tin tức – tương lai của nghề báo,
Dương Hiếu, Kim Phượng, Hiếu Trung dịch, Nhà xuất bản Trẻ
41. Richard H. Thaler (2016) Tất cả chúng ta đều hành xử cảm tính – Sự
hình thành kinh tế học hành vi, người dịch Vũ Tiến Phúc, Nhà xuất
bản trẻ, thành phố Hồ Chí Minh
DANH MỤC TÀI LIỆU NƢỚC NGOÀI
42. Alan B. Albarran (2017) The Media Economy, Routledge, New
York
43. Andreas K. Bittner (2019): Digital Journalism And New Business
Models, European Federation of Journalists
44. CEDRO New Bussiness Model In The Digital Age
45. Hsiang Iris Chyi (2005): Willingness to Pay for Online News: An
Empirical Study on the Viability of the Subscription Model,
Journalism and Communication The University of Arizona
46. Juergen Grimm (2014): Media Effect Research: Introduction to the
126
Theory and Methods
47. Carina Ihlstrom và Jonathan Palmer (2002): Revenues for Online
Newspapers: Owner and User Perceptions, Electronic Markets,
Vol.12 No 4
48. David A.L. Levy, Rasmus Kleis Nielsen (2010) The Changing
Business of Journalism and its Implicatins for Democracy, Reuters
Institute, New York
49. Elizabeth M. Perse (2001) Media Effects and Society, Lawrence
Erlbaum Associates, London
50. Sasu Tarkoma (2012) Publish/Subscribe System Design and
Principles, Wiley Ltd, Finland
51. American Press Institute (5/2/2017): Paying for news: Why people
subscribe and what it says about the future of journalism:
https://www.americanpressinstitute.org/publications/reports/survey-
research/paying-for-news/
52. American Press Institute (2017): Who pays for news in general and
why:
https://www.americanpressinstitute.org/publications/reports/survey-
research/who-pays-for-news/
53. American Press Institute (2017): Newspaper subscribers vs. Other
types of subscribers:
https://www.americanpressinstitute.org/publications/reports/survey-
research/newspaper-vs-other-subscribers/
54. American Press Institute (2017): Who does not pay for news:
https://www.americanpressinstitute.org/publications/reports/survey-
research/not-pay-news/
55. Europa (2018): Basic business models: https://ec.europa.eu/digital-
127
single-market/en/basic-business-models
56. Max Read (2019): Can subscriptions save all media companies or
just the New York Times:
http://nymag.com/intelligencer/2019/02/new-york-times-
subscription-revenue-is-mixed-news-for-media.html
57. Trefis Team (2019): New York Times is thriving on growing digital
subscriptions:
https://www.forbes.com/sites/greatspeculations/2019/02/11/new-
york-times-is-thriving-on-growing-digital-
subscriptions/#4da3bc736c91
58. Richard Pérez-Peza và Tim Arango (2009): Andding Fee and
Fences on Media Sites, B1, The New York
DANH MỤC BÀI BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ
59. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (2019) Tư tưởng Hồ Chí
Minh về báo chí cách mạng Việt Nam; truy cập ngày 1/9/2019;
http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-
minh/ho-chi-minh/nghien-cuu-hoc-tap-tu-tuong/tu-tuong-ho-chi-
minh-ve-bao-chi-cach-mang-viet-nam-3479
60. Vân Anh (2018), Xây dựng hạ tầng số - cuộc chạy đua nước rút cần
làm ngay: https://vov.vn/cong-nghe/xay-dung-ha-tang-so-cuoc-chay-
dua-nuoc-rut-can-lam-ngay-790557.vov#ref-
https://www.google.com/; truy cập ngày 18/03/2020
61. Thanh Huyền, Chu Anh (2018) Báo điện tử thu phí có khả thi ở Việt
Nam; truy cập ngày 16/9/2019; https://vtv.vn/truyen-hinh/bao-dien-
tu-thu-phi-co-kha-thi-o-viet-nam-20180621102544522.htm
62. A.D (27/2/2019) Doanh thu thu phí báo điện tử đang tăng lên, truy
cập ngày 15/1/2019: https://onecms.vn/doanh-thu-thu-phi-bao-dien-
128
tu-dang-tang-len-49571.html
63. M.O.D (9/3/2019) Nhiều mô hình thu phí báo điện tử đang tăng
trưởng tốt, truy cập ngày 15/1/2019: https://onecms.vn/nhieu-mo-
hinh-thu-phi-bao-dien-tu-dang-tang-truong-tot-49579.html
64. Tuyết Mai (15/2/2019) Báo chí trước bài toán tự chủ:
http://hoinhabaovietnam.vn/Bao-chi-truoc-bai-toan-tu-
chu_n46552.html
65. Phan Hữu Minh (3/1/2017) Kinh tế báo chí và những giới hạn:
http://hoinhabaovietnam.vn/Kinh-te-bao-chi-va-nhung-gioi-
han_n14732.html
66. Thanh Nhàn (20/4/2019) Vấn đề kinh tế báo chí tại các kênh truyền
hình xã hội hóa: http://nguoilambao.vn/van-de-kinh-te-bao-chi-tai-
cac-kenh-truyen-hinh-xa-hoi-hoa-nwf11688.html
67. Ngọc Huyền (17/9/2019) Khi độc giả trở thành “khách hàng”
thông minh, truy cập ngày 15/1/2019: http://nguoilambao.vn/khi-
doc-gia-tro-thanh-khach-hang-thong-minh-n15773.html
68. Vũ Thanh Hòa (2017) “Mega story” và những câu chuyện trực
tuyến: http://nguoilambao.vn/mega-story-va-nhung-cau-chuyen-truc-
tuyen-n5996.html; truy cập ngày 20/3/2020
69. Vĩnh Khang (2019) Thu phí từ độc giả là con đường phát triển bền
vững của báo chí, truy cập ngày 4/12/2019:
http://special.vietnamplus.vn/subscription
70. Anh Vũ (4/3/2017) Kinh tế báo chí và đạo đức nghề nghiệp:
http://hoinhabaovietnam.vn/Kinh-te-bao-chi-va-dao-duc-nghe-
nghiep_n14825.html
71. VnEconomy (6/12/2017) Thu phí đọc báo online tại Việt Nam:
VietnamPlus đang tiên phong?, truy cập ngày 15/1/2019:
http://nguoilambao.vn/thu-phi-doc-bao-online-tai-viet-nam-
129
vietnamplus-tien-phong-n7918.html
72. Hoàng Yến (6/7/2017) Báo chí biết làm kinh tế từ bao giờ:
https://www.nguoiduatin.vn/bao-chi-biet-lam-kinh-te-tu-bao-gio-
a329955.html
73. Terry F. Buss (2017) Ông Trump quyết đấu truyền thông Mỹ, người
dịch Thúy Đào, truy cập ngày 17/9/2019; https://tuoitre.vn/ong-
trump-quyet-dau-truyen-thong-my-1270772.htm
74. Trung tâm Tin tức VTV24 (2020) Thói quen rút tiền mặt từ ATM
của người dân thay đổi, truy cập ngày 17/1/2020:
https://vtv.vn/kinh-te/thoi-quen-rut-tien-mat-tu-atm-cua-nguoi-dan-
thay-doi-20200117134149625.htm
75. Vnetwork (2019) Các số liệu thống kê Internet Việt Nam 2019, truy
cập ngày 15/1/2019; https://vnetwork.vn/news/cac-so-lieu-thong-ke-
internet-viet-nam-2019
76. The Guardian (2009): News Corp will charge for newspaper
websites, says Rupert Murdoch; truy cập ngày 1/1/2020:
https://www.theguardian.com/media/2009/may/07/rupert-murdoch-
charging-websites
77. Minh Anh (2018): Mô hình là gì? Một số mô hình trong kinh tế học;
truy cập ngày 27/7/2020: https://vietnamfinance.vn/mo-hinh-la-gi-
mot-so-mo-hinh-trong-kinh-te-hoc-
20180504224211008.htm#:~:text=h%C3%ACnh%20l%C3%A0%20
g%C3%AC%3F-
,M%C3%B4%20h%C3%ACnh%20(model)%20l%C3%A0%20s%E
1%BB%B1%20%C4%91%C6%A1n%20gi%E1%BA%A3n%20h%
C3%B3a%20hi%E1%BB%87n%20th%E1%BB%B1c,v%E1%BB%
9Bi%20v%E1%BA%A5n%20%C4%91%E1%BB%81%20nghi%C3
130
%AAn%20c%E1%BB%A9u.
PHỤ LỤC BẢNG PHỎNG VẤN SÂU
Để có được đánh giá chi tiết về quan điểm của các đơn vị sản xuất, cung ứng nội dung báo chí số thu phí từ người
sử dụng, chúng tôi tiến hành phỏng vấn sâu với 5 đối tượng là những người trực tiếp tham gia vào quá trình xây dựng
nền tảng, tiếp thị, mua bán sản phẩm báo chí truyền thông số hiện nay.
ĐỐI TƢỢNG
Ký hiệu: PV1
Ký hiệu: PV2
Ký hiệu: PV3
Ký hiệu: PV4
Ký hiệu: PV5
PHỎNG VẤN
Nam; 35 tuổi
Nam; 32 tuổi
Nữ; 28 tuổi
Nữ; 36 tuổi
Nam; 40 tuổi
CÂU HỎI
Kỹ sư phần mềm
Nhân viên kinh doanh
Biên tập viên
Sáng tạo nội dung
Giám đốc phụ trách
Theo Anh/Chị, thế
Là một sản phẩm mà
Là sản phẩm mà
Sản phẩm truyền
Sản phẩm cung cấp
Chúng tôi khai thác
nào là sản phẩm
thu phí theo chu kì thì
khách hàng phải trả
thông số có thu phí là
nội dung trên các
kho dữ liệu của
truyền thông số thu
nó có hướng dịch vụ,
tiền để sử dụng dịch
những sản phẩm
nền tảng số, có thu
khách hàng viễn
phí người sử dụng?
hướng dịch vụ tức là
vụ. Sản phẩm đó thỏa
truyền thông trong
phí người dùng theo
thông với nhu cầu
nó không phải sản
mãn các nhu cầu
môi trường kỹ thuật
các gói đã quy định.
thông tin của họ qua
phẩm dùng một lần,
hưởng thụ về tinh thần
số, được mã hóa và có
các “vết”, “từ khóa”
cung cấp tiện ích cho
của khách hàng.
phát sinh chi phí để
tìm kiếm trên di
người dùng lâu dài.
người đọc, người xem
động, từ đó cung cấp
Bên cạnh đó nó còn là
có thể tiếp cận những
các sản phẩm có giá
sản phẩm cung cấp
thông tin, công tác
trị được khấu trừ
thông tin mà người
truyền thông, quarg bá
trực tiếp vào thuê
dùng sẵn sàng bỏ tiền
và dịch vụ trên sản
bao của khách hàng.
131
ra để mang lại 1 lợi
phẩm đó. Việc thu phí
Từ mô hình của
ích gì đó cho chính
nhằm để đảm bảo nhà
mình, chúng tôi cho
bản thân họ.
phát triển sản phẩm có
rằng mô hình sản
đủ nguồn để duy trì,
phẩm truyền thông
phát triển và nâng cấp
số thu phí người sử
cho sản phẩm truyền
dụng là mô hình tích
thông đó ngày càng
hợp thuật toán trên
lớn mạnh.
trường dữ liệu kỹ
thuật số cung cấp
thông tin và xử lý
giao dịch thương mại
điện tử mua bán một
cách thuận tiện nhất
cho khách hàng.
Nguồn cung cho các
Chúng tôi có các đối
Từ đối tác là các cơ
Tự sản xuất và từ
Có hai phương án để
sản phẩm báo chí
tác chuyên sản xuất và
quan báo chí, báo
các nhà cung cấp nội
tạo ra nguồn cung:
truyền thông số tại
cung ứng các nội dung
mạng, truyền hình và
dung.
thứ nhất là tự sản
đơn vị của Anh/Chị
phục vụ kinh doanh.
cả các đơn vị truyền
xuất trong điều kiện
là từ đâu?
Ngoài ra chính khách
thông nghe nhìn khác.
chi phí tối thiểu
hàng sử dụng dịch vụ
nhưng hiệu quả tối
132
cũng có thể là người
đa; thứ hai là mua
cung cấp nội dung
bản quyền từ các
miễn là họ có thể đảm
đơn vị sản xuất hoặc
bảo về vấn đề bản
có quyền kinh doanh
quyền và chất lượng
sản phẩm.
âm thanh, hình ảnh
đặc biệt là đảm bảo về
chất lượng nội dung.
Sản phẩm báo chí
Nội dung thực sự khác
- Có phát sinh chi phí
Nội dung phong phú,
Sản phẩm báo chí
biệt và có chất lượng
đối với người dùg
đa dạng và cập nhật
truyền thông số dễ
truyền thông số thu
về hình thức. Như các
- Đảm bảo về mặt chất
hơn.
dàng được các nhóm
phí từ người sử dụng
có đặc điểm gì khác
bài phân tích chuyên
lượng của sản phẩm
khách hàng trẻ tuổi
với các sản phẩm
sâu về lĩnh vực mà
hơn những sản phẩm
đón nhận hơn bởi
báo chí khác?
khách hàng quan tâm,
truyền thông số không
tính chất nhanh và
đem lại lợi ích tài
thu phí
sinh động của thông
chính cho khách hàng
- Được kiểm soát tốt
tin. Bên cạnh đó, nếu
(như phân tích tài
hơn, quy củ hơn so
khách hàng cảm thấy
chính, kinh doanh…)
với những sản phẩm
họ được tiết kiệm
truyền thông số không
khi sử dụng sản
thu phí.
phẩm cũng là một
133
yếu tố quan trọng
quyết định sự khác
biệt của sản phẩm
số. Tiết kiệm ở đây
là cả thời gian hao
phí cho các khâu sản
xuất, đóng gói, phát
hành… tiết kiệm về
giá cả, và thuận tiện
về thời gian sử dụng
linh hoạt.
Những yếu tố quyết
Khách hàng trẻ tuổi từ
Cập nhật, hấp dẫn,
Yếu tố trends (xu
định để Anh/Chị lựa
15 đến 23 thường có
mới mẻ, thu hút
hướng) là quan trọng
chọn tin tức đưa vào
xu hướng dễ dàng
nhiều người quan
nhất. Nhóm khách
sản xuất thành sản
tham gia tương tác,
tâm, tính giải trí
hàng của chúng tôi
phẩm báo chí truyền
download và thích các
cao...
là những người trẻ
tuổi, vì thế chúng tôi
thông số là gì?
clip có nội dung liên
thường có chiến lược
quan đến người nổi
khai thác sản phẩm
tiếng. Họ vốn bị ảnh
theo trào lưu đang
hưởng bởi văn hóa
134
hot trong cộng đồng
Kpop hoặc các trào
mạng để thu hút sự
lưu nên các sản phẩm
chú ý của khách
thường chú trọng đến
hàng.
nội dung có liên quan
tới người nổi tiếng. Vì
vậy, chừng nào họ
(khách hàng) còn
được xem nhiều clip
có liên quan đến thần
tượng của mình thì họ
còn gắn bó với dịch
vụ.
Điểm thuận lợi trong
Thuận lợi lớn nhất là
Về phương diện kinh
- Thông tin đến với
Cách thể hiện nội
Vì chúng tôi là đơn
quá trình sản xuất,
chúng tôi có thể làm
doanh, chúng tôi có
đối tượng tiếp nhận
dung khá thoải mái.
vị kinh doanh trung
kinh doanh tin tức
chủ hệ thống nền tảng
những công cụ để có
nhanh hơn, dễ dàng
Tin tức đến với
gian, nên các sản
báo chí truyền thông
cho sản phẩm, có
thể nắm bắt được nhu
hơn
người dùng nhanh
phẩm đều được phái
số là gì?
nghĩa là chúng tôi có
cầu và mối quan tâm
- Thông tin phong
hơn, tiếp cận được
sinh từ các sản phẩm
thể tính toán để cho ra
của thị trường để từ đó
phú, đa chiều, nhiều
nhiều người dùng
thông tấn báo chí có
đời những sản phẩm
đưa ra các định hướng
nguồn tham khảo
hơn.
nguồn gốc, đơn vị
phù hợp với điều kiện
cụ thể về việc order
- Có thể nhận được
sản xuất rõ ràng nên
135
cơ sở vật chất của
các sản phẩm phục vụ
phản hồi từ đối tượng
chúng tôi hoàn toàn
mình.
kinh doanh sao cho
tiếp cận một cách
yên tâm trong quá
Chúng tôi còn có thoại
phù hợp nhất với xu
nhanh hơn, dễ dàng
trình kinh doanh.
truyền thông online để
hướng và “gu” của
dàng hơn.
bắt kịp với nhu cầu
khách hàng.
- Độ phủ sóng rộng rãi
của khách hàng, việc
nắm rõ cơ sở dữ liệu
của khách hàng cho
phép chúng tôi kịp
thời quảng cáo sản
phẩm truyền thông số
phù hợp với nhu cầu
của công chúng. Từ
đó tính toán giá cước
phù hợp với thói quen,
khả năng chi trả của
khách hàng.
Điểm khó khăn nhất
Khó khăn về cạnh
- Đòi hỏi cao về mặt
Tin tức phải cập nhật
Có những trường
trong hoạt động sản
tranh nếu thu phí.
quản lý chất lượng,
với tốc độ nhanh và
hợp đối tác không
xuất, kinh doanh tin
Điều khó nhất là
nội dung của sản
thực sự nổi bật, thu
làm hết trách nhiệm,
136
tức báo chí truyền
chúng tôi phải trả lời
phẩm truyền thông số.
hút
trong các sản phẩm
thông số là gì?
được câu hỏi: Tại sao
- Khó để khai thác,
họ gửi sang có lồng
khách hàng phải trả
tìm thông tin mới trên
ghép yếu tố nhạy
tiền để mua nội dung
chất liệu mới nếu
cảm, các vấn đề đó
này? Trong khi thị
không có kỹ năng xử
chỉ được phát hiện
trường thông tin tại
lý kỹ thuật như đồ họa
khi biên tập viên rà
Việt Nam hiện nay rất
- Càng ngày càng có
soát nội dung trong
rộng lớn và đa dạng
nhiều sản phẩm báo
khi trước khi đưa ra
nhiều nhà cung cấp,
chí truyền thông số
kinh doanh. Vì vậy,
mức độ cạnh tranh thị
phát triển trên diện
khó nhất là đào tạo
trường lớn, phân khúc
rộng nên đọ cạnh
được các biên tập
khách hàng đa dạng.
tranh về độ thu hút,
viên có kinh nghiệm,
hấp dẫn là rất cao.
nhạy cảm và nhanh
nhẹn, chú ý tiểu tiết.
Mức độ đón nhận
Được đánh giá chủ
Phụ thuộc vào bộ
Trên chỉ số về lượng
Số lượt xem và phản
Ngoài sử dụng hệ
của công chúng đối
yếu qua độ phổ biến
đếm: lượng truy cập,
người xem và lượng
hồi đánh giá của
thống bộ đếm của
với các sản phẩm
của sản phẩm thông
lượng tương tác,
comment trên một sản
người xem
Google analytics,
báo chí truyền thông
qua hai thông số chủ
lượng chia sẻ và thời
phẩm báo chí truyền
chúng tôi còn theo
số được đánh giá
yếu, đó là số lượng
gian tồn tại trên trang
thông số
dõi phản hồi của
trên cơ sở nào?
truy cập hàng ngày và
của khách hàng.
khách hàng thông
137
qua fanpage, nội
thời gian sử dụng dịch
dung bình luận của
vụ. Các thông số này
khách hàng ngay
có thể được đo qua hệ
dưới mỗi bài đăng
thống báo cáo tích hợp
cũng phần nào cho
của Google analytics
thấy mức độ đón
nhận của công chúng
trước mỗi sản phẩm.
Theo Anh/Chị rào
Đúng nhu cầu và đúng
Khả năng chi trả sẽ
Người dân quen
Khách hàng nếu
cản lớn nhất trong
thời điểm. Điều này
ảnh hưởng đến quyết
dùng sản phẩm
chưa nhận biết được
quyết định trả phí cho
có nghĩa là tùy vào nội
định chi trả, bởi lẽ
không bản quyền,
lợi ích sát sườn của
một sản phẩm báo chí
dung thông tin mà nó
người thu nhập cao sẽ
miễn phí và chưa có
chính họ thì họ sẽ
truyền thông của
sẽ phù hợp hoặc
có thể dễ dàng chi tiền
thói quen trả phí cho
còn cảm thấy ngại và
khách hàng là gì?
không phù hợp với
cho những thông tin
những sản phẩm,
không muốn sử dụng
mối quan tâm của
mà anh ta cho là có
dịch vụ nội dung báo
sản phẩm trả phí. Để
khách hàng trong từng
ích, còn người thu
chí truyền thông số
khuyến khích khách
giai đoạn cụ thể. Một
nhập trung bình hoặc
hàng đưa ra quyết
sự kiện hot nhưng
thấp sẽ đắn đo, lưỡng
định chi trả cần cho
chưa chắc đã được
lự rất nhiều trước khi
họ thấy những lợi
khách hàng trả phí nếu
quyết định chi trả cho
ích cụ thể của sản
138
phẩm và chỉ rõ khác
như họ có thể tìm thấy
một sản phẩm thu phí
biệt có lợi để khách
thông tin miễn phí ở
hàng tự có sự so
bất cứ đâu, bất cứ nơi
sánh.
nào. Thậm chí họ còn
không quan tâm đến
nguồn phát của thông
tin có xác thực hay là
đồn thổi.
Xin Anh/Chị đưa ra
Tôi cho rằng các dịch
Sẽ khó do đặc tính của
Hiện tại, việc tích hợp
Sự phát triển của
Nếu các sản phẩm
một số dự đoán về
vụ media sẽ vẫn chủ
người Việt Nam, phải
các gói sản phẩm bao
dịch vụ thu phí
thu phí được đầu tư
sự tồn tại của mô
đạo trong vòng 5 năm
có tập khách hàng
gồm viễn thông và
người sử dụng còn
và có chế tài riêng
hình thu phí người
tới, tuy nhiên còn tùy
tiềm năng cực lớn mới
báo chí đang có phản
phụ thuộc vào mức
thì tôi cho rằng sản
sử dụng trong tương
thuộc vào công nghệ
vận hành theo mô
hồi tích cực trong thị
độ thuận tiện trong
phẩm này sẽ được
lai?
hiện tại sẽ là gì. Bởi
hình thu phí được.
trường phân khúc
thanh toán. Ở Việt
công chúng đón
thế giới đang phát
khách hàng trẻ, nếu
Nam, nếu các giao
nhận rộng rãi. Mô
triển công nghệ trợ lý
xây dựng tốt nội dung
diện, chức năng của
hình hoạt động này
ảo, các phòng nghiên
và cách làm từ bây giờ
ngân hàng online
hoàn toàn khả thi và
cứu đang đổ toàn bộ
thì có thể trong tương
được cập nhật dễ sử
đem lại nhiều lợi ích
công sức và chi phí
lai, lượng khách hàng
dụng hơn.
cho cả bên cung cấp
vào sản phẩm này vì
sẽ đông đảo hơn, thân
sản phẩm và bên
139
thiết hơn.
mua sản phẩm.
vậy sẽ khó để có một
dự đoán xa hơn về
tương lai của sản
phẩm truyền thông số
thu phí người sử dụng.
Để có được đánh giá chi tiết về quan điểm, lý do đưa đến quyết định trả phí cho một sản phẩm báo chí truyền thông số của người sử
dụng (người dùng), chúng tôi tiến hành phỏng vấn sâu với 6 đối tượng là những người thường xuyên đăng kí mua sản phẩm báo chí, truyền
thông số.
ĐỐI TƢỢNG
Ký hiệu: PV6
Ký hiệu: PV7
Ký hiệu: PV8
Ký hiệu: PV9
Ký hiệu: PV10
Ký hiệu: PV11
PHỎNG VẤN
Nam; 19 tuổi
Nam; 24 tuổi
Nam; 35 tuổi
Nữ; 20 tuổi
Nữ; 26 tuổi
Nữ; 32 tuổi
Sinh viên
Nhân viên văn
Lao động tự do
Sinh viên
Tự do
Nhân viên văn
CÂU HỎI
phòng
phòng
Lý do vì sao
Vì nội dung thông
Để được xem
Từ lâu tôi đã không
Vì nội dung trả tiền
Nhà mạng cung
Để nghiên cứu
Anh/Chị lựa chọn
tin trả phí khiến tôi
thông tin chất
còn đọc báo chí
đa phần sẽ có chất
cấp nhiều gói
chuyên sâu về một
trả phí cho một
cảm thấy bị thu hút,
lượng cao như
(ấn phẩm in) nữa,
lượng cao hơn và
cước khuyến mại
số vấn đề, mà các
sản phẩm báo chí
có nhiều hình ảnh,
tường thuật trực
vì nó không tiện
mới mẻ hơn về
lưu lượng data rẻ
thông tin miễn phí
truyền thông số?
hình động gif sinh
tiếp các trận bóng
dụng và nhanh
cách thể hiện cũng
và phục vụ được
không thể cung cấp
động. Có nhiều trang
đá châu Âu. Có
chóng như báo
như nội dung. Hơn
một lúc nhiều nhu
đủ nội dung như
web thu phí cung
nhiều trận bóng
mạng. Tôi cũng
nữa tôi cũng không
cầu nên lựa chọn.
mình mong muốn.
140
cấp phim chất lượng
đá về đêm, lúc đó
thích xem các clip
cần phải tư duy quá
Hoặc cũng là do
cao, nếu tính ra khi
không phù hợp để
hài ngắn và vì công
nhiều mà có cảm
điều kiện khách
sử dụng kết hợp giữa
ra ngoài xem vì
việc của tôi khá
giác giải trí nhiều
quan không đủ để
đường truyền mạng
nhà không có ti
bận rộn nên trong
hơn trước các
thoải mái xem các
và gói cước thì giá rẻ
vi, nên quyết định
lúc nghỉ giải lao tôi
thông tin.
tin tức đa phương
và phù hợp với sinh
xem bằng điện
thường thích xem
tiện nên bắt buộc
viên.
thoại.
các clip có nội
phải sử dụng các
sản phẩm đi kèm
dung thông tin hơn
theo gói data lưu
là ngồi đọc nhiều
lượng.
bài báo cùng lúc
mà có thể sẽ không
đọng lại gì sau khi
đọc.
Chủ đề nào khiến
Những chủ đề có liên
Thể thao, bóng đá,
Những chủ đề liên
Người nổi tiếng, các
Các chủ đề có sẵn
Các chủ đề có liên
Anh/Chị quyết
quan đến bóng đá như
tennis, chính trị,
quan đến tin tức chính
nhóm nhạc Hàn Quốc
trong gói cước,
quan trực tiếp đến
định lựa chọn để
clip trả lời phỏng vấn
phim…
trị, xã hội, đặc biệt là
như BTS, Black Pink,
thường là chủ đề
công việc như nhà
trả tiền tin tức?
được có phụ đề, những
tin tức về kinh tế,
Exo…v..v…, scandal,
về giải trí.
đất, luật, tư vấn
pha bóng siêu phẩm
phân tích của các
các video về đời sống
luật và xem phim
hoặc những bình luận,
chuyên gia về tình
riêng tư hoặc hoạt
truyện, chương
phản ứng từ những
hình tài chính, giá cả
động hàng ngày của
trình truyền hình
141
trực tuyến trên
người nổi tiếng sau mỗi
cổ phiếu trong và
thần tượng, các clip
mạng internet bằng
một trận bóng. Thứ hai
ngoài nước.
đập hộp hàng hiệu và
điện thoại di động
là những sản phẩm
hướng dẫn làm đẹp,
hoặc ipad.
phim điện ảnh chiếu rạp
make up.
chất lượng HD.
Nếu lựa chọn
Tùy thuộc vào giá cả
Nếu không có a
Chọn tin tức độc
Tùy vào độ hot của
Thông tin miễn
Tin tức độc quyền
giữa một thông
nhưng nếu là sản
hay về đề tài
quyền trả phí. Vì
chủ đề. Vì nếu đề
phí. Vì nếu không
có trả phí thường
tin miễn phí dễ
phẩm độc quyền thu
mình đang quan
trong bối cảnh kinh
tài hot thì sẽ có
đi kèm với các
có nhiều khả năng
tìm kiếm và một
phi giá cả phải chăng
tâm thì sẽ trả phí
tế đang chuẩn bị
nhiều tin tức miễn
gói khuyến mại
tham khảo hơn là
tin tức độc quyền
thì tôi sẽ chọn sản
để xem.
chấm dứt vòng
phí, những tin tức
thì sẽ đắt và cảm
tin tức miễn phí
phải trả phí thì
phẩm thu phí. Khà
quay 10 năm của
miễn phí ấy đa
thấy chưa chắc đã
nên lựa chọn tin
Anh/Chị lựa chọn
năng chi trả của tôi
hạn mức ngân hàng
phần sẽ là tin dạng
phù hợp với nhu
tức độc quyền có
loại thông tin
sẽ ảnh hưởng tới
thì các tin tức phân
đồn thổi không có
cầu bản thân.
trả phí.
nào? Vì sao?
quyết định chi trả tin
tích kinh tế độc
căn cứ hoặc suy
tức.
quyền sẽ phục vụ
diễn từ động thái
rất tốt cho việc
của người nổi tiếng
kinh doanh.
trên mạng xã hội,
nhưng nếu có tin
tức mà do chính
người nổi tiếng trả
142
lời độc quyền cho
báo chí thì sẽ mua.
Điều gì tạo ra sự
Đôi khi có những
Nếu đã có thông
Sự lặp đi lặp lại của
Nhiều khi không
Có những chủ đề
Thao tác thanh toán
cản trở trong quá
trang web không
tin miễn phí thì
thông tin trong các
cần mua vì kiểu gì
trong gói khuyến
nhiều lúc còn có
trình thanh toán
chấp nhận thẻ cào
cảm thấy không
bài viết về cùng
cũng sẽ xuất hiện ở
mại ít sản phẩm
nhiều rắc rối bởi lẽ
một sản phẩm báo
hoặc tin nhắn qua
cần thiết để mua
một chủ đề. Cách
các trang tin miễn
hoặc gần như
nhiều trang thanh
chí truyền thông
điện thoại di động.
thông tin trả phí.
diễn giải của mỗi
phí.
không có. Thậm
toán để bảo mật
số của Anh/Chị?
Nhất là các tin có
phóng viên thường
chí trong cùng
cho người dùng đã
tiêu đề gần giống
khác nhau nhưng
một dịch vụ lại
tạo ra nhiều lớp
với các tin miễn
nội dung thông tin
phân ra gói
thông tin, ví dụ như
phí đã đọc. Hơn
không có gì mới
thường và gói
cùng lúc yêu cầu số
nữa nếu không
hoặc đặc sắc thì tôi
VIP, nếu chỉ mua
điện thoại có đăng
được đọc thử 1
không mua.
gói dịch vụ thông
kí tài khoản ngân
thường thì lại bị
hàng nhưng đồng
đoạn trong phần
hạn chế nội dung
thời phải nhập số
giới thiệu tin tức
xem.
thẻ ngân hàng… dễ
thì không có cơ
làm lộ thông tin
sở để so sánh sự
khách hàng.
khác biệt giữa tin
miễn phí và trả
phí.
143
Điều gì khiến
Nếu phải mất trung
Dự đoán tỉ số
Thông tin được hệ
Có nhiều clip
Khi dùng các
Cách thể hiện sinh
Anh/Chị hài lòng
bình 50.000 đồng để
trước trận đấu
thống một các logic
phong phú về thần
combo dịch vụ
động, có nhiều
với một sản phẩm
ra rạp xem một bộ
thông qua phân
và vấn đề được
tượng được Việt
của nhà mạng thì
sáng tạo trong hình
báo chí truyền
phim điện ảnh chất
tích đội hình, chỉ
phản ảnh dưới góc
hóa, ví dụ như clip
tiền cước phải chi
thức và có sự tham
thông số thu phí
lượng cao thì tôi
ra điểm mạnh,
nhìn bao quát bên
về thói quen ăn
trả hàng tháng sẽ
vấn của chuyên gia
người dùng?
chấp nhận trả 50.000
yếu của các đội,
cạnh những phân
uống của thần
rẻ hơn rất nhiều
trong các lĩnh vực
để có một tháng xem
thói quen của
tích chuyên sâu của
tượng hoặc những
so với trước đây.
truyền thông số,
giao diện biến đổi
các bộ phim chất
huấn luyện viên.
các chuyên gia.
buổi livetreams nói
theo từng đường
lượng cao theo ý
chuyện với fan
lăn của con trỏ
mình.
(người hâm mộ),
chuột, sử dụng
những buổi
nhiều màu sắc, bố
livetream thường
cục khối hình hợp
kéo dài vài tiếng
lý, thu hút mắt
đồng hồ nên rất hấp
nhìn.
dẫn.
Điều gì khiến
Vẫn còn nhiều clip
Tin tức thu phí
“Bình mới rượu
Nếu mất mạng
Có nhiều quảng
Dường như các sản
Anh/Chị không
tin tức theo kiểu giật
nhưng cũng
cũ”, thông tin dù
hoặc mạng chập
cáo và vẫn giới
phẩm đi kèm để tri
hài lòng với một
tít và nội dung
không khác gì tin
được thể hiện dưới
chờn bị nghẽn do
hạn nội dung
ân khách hàng là
sản phẩm báo chí
thường là lặp lại từ
tức miễn phí,
nhiều cách nhưng
có nhiều người
người xem, muốn
không có. Nếu như
truyền thông số
các nội dung miễn
thậm chí cách thể
nếu không có giá
dùng cùng lúc thì
xem thêm thì phải
trước đây, các sản
144
thu phí người
phí.
hiện cũng cẩu thả
trị riêng biệt thì
sẽ khó xem video,
trả thêm tiền cho
phẩm như báo Tết,
dùng?
và bôi bác.
cũng không thể tạo
hình bị giật, lag
gói VIP, điều đó
đặc san Tết ở báo
ra sự khác biệt.
liên tục, cảm giác
hết sức vô lý.
in thường tăng
trang không tăng
rất khó chịu
giá hoặc tăng in
màu không tăng
giá… nhân dịp Tết
như một sự tri ân
khách hàng thì ở
các sản phẩm số
hóa, quà tri ân
không thể hiện rõ
ràng thậm chí
không có.
Anh/Chị mong
Hy vọng sẽ có nhiều
Ít lặp lại thông tin
Có nhiều bài báo
Tốc độ làm phụ đề
Có sự đồng đều
Liên tục đổi mới và
chờ gì ở một sản
tin tức độc quyền
cũ và có sự đầu tư
mang tính dự đoán
Việt hóa cho sản
trong các gói,
cập nhật cách làm
phẩm báo chí
hơn và cập nhật
kĩ lưỡng hơn về
thị trường chuyên
phẩm được đẩy
không nên vạch ra
hiện đại của các tập
truyền thông số
phim chiếu rạp
nội dung thông
sâu hơn và có thêm
nhanh hơn, chuyên
ranh giới quá rạch
đoàn truyền thông
thu phí từ người
nhanh hơn.
tin.
những chuyên mục
nghiệp hơn.
ròi giữa các nhóm
lớn, bên cạnh đó
sử dụng trong
như tư vấn online
đối tượng, nên có
cho ra nhiều sản
145
tương lai?
24/7
thêm nhiều
phẩm phái sinh từ
khuyến mại lưu
sản phẩm gốc.
lượng cho khách
hàng thường
xuyên.
146
147