ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------------------------------------

BÙI THU THỦY

SẢN PHẨM BÁO CHÍ TRUYỀN THÔNG SỐ THU PHÍ

TỪ NGƢỜI SỬ DỤNG (SUBSCRIBER) VÀ

KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ

Hà Nội - 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------------------------------------

BÙI THU THỦY

SẢN PHẨM BÁO CHÍ TRUYỀN THÔNG SỐ THU PHÍ

TỪ NGƢỜI SỬ DỤNG (SUBSCRIBER) VÀ

KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG TẠI VIỆT NAM

Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Báo chí học

Mã số: 8320101.01

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. BÙI CHÍ TRUNG

Hà Nội - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự

hướng dẫn của PGS,TS. Bùi Chí Trung (Trường đại học Khoa học Xã hội

và Nhân văn). Các số liệu, trích dẫn nêu trong luận văn là trung thực, được

dẫn nguồn đầy đủ. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được

công bố trong bất cứ công trình nào khác.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày….. tháng….. năm 2020

Tác giả luận văn

1

BÙI THU THỦY

LỜI CẢM ƠN

Qua thời gian học tập và nghiên cứu tại Viện Đào tạo Báo chí và

Truyền thông, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, đến nay tôi

đã hoàn thành luận văn Thạc sĩ Báo chí, chuyên ngành Báo chí học với đề

tài “Mô hình sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí từ người sử dụng

(subscriber) và khả năng ứng dụng tại Việt Nam”.

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Viện Đào tạo Báo

chí và Truyền thông và các thầy cô giáo trong và ngoài Trường Đại học

Khoa học Xã hội và Nhân văn đã cung cấp cho tôi nhiều kiến thức và kỹ

năng cần thiết ở bậc đào tạo sau đại học.

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến PGS,TS. Bùi Chí Trung,

người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận

văn này.

Cuối cùng, tôi xin gửi lời cám ơn đến ông Lê Quốc Minh - Phó Tổng

giám đốc Thông tấn xã Việt Nam, ông Bùi Quang Ngọc - Phó Chủ tịch Hội

đồng quản trị FPT và các đồng nghiệp tại trung tâm VAS - Tập đoàn Công

nghiệp Viễn thông Quân đội Viettel đã giúp tôi hoàn thành luận văn này.

Luận văn chắc chắn còn những hạn chế, thiếu sót. Tôi rất mong nhận

được sự thông cảm và góp ý chân thành của các nhà khoa học, thầy cô giáo

và các bạn đồng môn, đồng nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn.

Trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, ngày….. tháng….. năm 2020

Tác giả luận văn

2

BÙI THU THỦY

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. 1

LỜI CẢM ƠN .................................................................................................... 2

MỤC LỤC .......................................................................................................... 3

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN ................... 6

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ, HÌNH ẢNH .................................. 7

MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 9

1. Tính cấp thiết của đề tài .............................................................. 9

2. Tình hình nghiên cứu ................................................................ 12

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................ 17

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................. 18

5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................... 18

6. Kết cấu luận văn: .......................................................................... 19

CHƢƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LÝ LUẬN KINH TẾ BÁO

CHÍ TRUYỀN THÔNG VÀ SẢN PHẨM BÁO CHÍ TRUYỀN

THÔNG SỐ THU PHÍ TỪ NGƢỜI SỬ DỤNG (SUBSCRIBER) ....... 20

1.1. Cơ sở lý luận kinh tế báo chí truyền thông về sản phẩm báo chí

truyền thông số thu phí từ người sử dụng (subscriber) ...................... 20

1.1.1. Khái niệm về báo chí, sản phẩm báo chí, truyền thông ........ 20

1.1.2. Một số khái niệm về mô hình, kinh tế báo chí ...................... 22

1.1.3. Một số khái niệm về kỹ thuật số và báo chí, truyền thông số 25

1.2 Mô hình sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí từ người sử

dụng .................................................................................................. 28

1.2.1 Nền tảng công nghệ và quá trình phát triển của sản phẩm báo

chí truyền thông số thu phí người sử dụng ..................................... 28

1.2.2 Sản phẩm báo chí, truyền thông trên nền tảng số ................. 30

3

1.2.3 Đặc điểm của sản phẩm báo chí, truyền thông số thu phí ..... 34

1.3. Mối quan hệ giữa nhà sản xuất, sản phẩm, hệ thống phân phối

và ngƣời tiêu dùng trong thị trƣờng nội dung số .......................... 37

1.3.1. Về dây chuyền sản xuất và phân phối sản phẩm báo chí,

truyền thông truyền thống .............................................................. 37

1.3.2. Dây chuyền sản xuất và phân phối sản phẩm báo chí, truyền

thông trong môi trường kỹ thuật số ................................................ 39

1.4. Những biểu hiện và đặc điểm của thị trường báo chí, truyền thông

số thu phí từ người sử dụng ............................................................... 42

1.4.1. Những biểu hiện mới của thị trường báo chí, truyền thông số

42

1.4.2. Một số đặc điểm của thị trường báo chí, truyền thông số ..... 43

1.4.3. Mối quan hệ giữa nhà sản xuất nội dung, nhà phân phối và

khách hàng trên thị trường báo chí truyền thông số ....................... 45

1.5 Các tiêu chí đánh giá sự phát triển và hiệu quả sản phẩm báo chí,

truyền thông số thu phí từ người sử dụng .......................................... 48

1.5.1. Các tiêu chí dựa trên thuật toán thống kê ............................. 48

1.5.2. Các tiêu chí dựa trên hiệu quả tác động của sản phẩm truyền

thông ............................................................................................. 52

1.5.3. Các tiêu chí dựa trên khả năng đảm bảo quyền lợi các

bên liên quan ................................................................................ 54

1.5.4. Các tiêu chí đánh giá dựa trên hiệu quả kinh tế .................... 55

Tiểu kết chƣơng 1 ........................................................................................... 57

Chƣơng 2. KHẢO SÁT, ĐÁNH GIÁ CÁC SẢN PHẨM BÁO CHÍ

TRUYỀN THÔNG SỐ THU PHÍ NGƢỜI DÙNG TẠI VIỆT NAM .. 60

2.1. Sơ lƣợc về các sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí

ngƣời sử dụng khảo sát tại Thông tấn xã Việt Nam, Viettel và FPT

60

4

2.1.1. Thông tấn xã Việt Nam ................................................. 60

2.1.2. Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội (Viettel) 61

2.1.3. Tập đoàn FPT ................................................................ 63

2.2. Thực trạng triển khai mô hình sản phẩm báo chí, truyền thông số

thu phí từ người sử dụng tại Việt Nam hiện nay ................................ 65

2.2.1. Tình hình phát triển của hạ tầng kỹ thuật ............................. 67

2.2.2. Tình hình phát triển về hoạt động nội dung .......................... 78

2.2.3. Tình hình phát triển về sản xuất, đóng gói thông tin ............ 83

2.2.4. Tình hình phát triển về hoạt động dịch vụ ............................ 85

2.3. Đánh giá ưu điểm và hạn chế của sản phẩm báo chí truyền thông

số thu phí từ người sử dụng tại Việt Nam ......................................... 91

2.3.1. Ưu điểm của sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí từ

người sử dụng tại Việt Nam ........................................................... 91

2.3.2. Hạn chế của sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí từ

người sử dụng tại Việt Nam ........................................................... 93

Tiểu kết chƣơng 2 ........................................................................................... 97

Chƣơng 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM

NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG MÔ HÌNH SẢN PHẨM BÁO CHÍ

TRUYỀN THÔNG SỐ THU PHÍ TỪ NGƢỜI DÙNG TẠI VIỆT NAM

.......................................................................................................................... 101

3.1 Những vấn đề đặt ra trong sự phát triển thị trường báo chí số

trong thời gian tới ........................................................................ 101

3.2. Những bài học kinh nghiệm trong việc phát triển mô hình kinh

doanh nội dung mới tại Việt Nam và thế giới. ................................. 107

3.3. Một số đề xuất, kiến nghị cho sự phát triển sản phẩm báo chí

truyền thông số thu phí từ ngƣời sử dụng tại Việt Nam ............. 116

Tiểu kết chƣơng 3 ........................................................................................ 119

KẾT LUẬN ................................................................................................... 120

5

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................. 123

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

NYT : New York Time – Thời báo New York

PGS.TS : Phó Giáo sư, Tiến sĩ

TS : Tiến sĩ

6

Tr. : Trang

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ, HÌNH ẢNH

1. Danh mục Bảng

Bảng 2.1 Số lượng doanh nghiệp cung cấp dịch vụ phát thanh truyền hình .. 72

Bảng 2.2 Thị trường dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền ........................ 76

2. Danh mục biểu đồ

Biểu đồ 1.1 Mô hình sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí từ người sử

dụng (subscriber) ............................................................................................. 33

Biều đồ 1.2 Dây chuyền sản xuất trong ngành công nghiệp truyền thông ..... 36

Biểu đồ 1.3 Mô hình nhà cung cấp dịch vụ viễn thông chào bán gói sản

phẩm báo chí truyền thông số tới độc giả ....................................................... 45

Biểu đồ 1.4 Mô hình khách hàng chủ động tìm kiếm sản phẩm thông tin số. 45

Biểu đồ 2.1 Tình hình phát triển thuê bao băng di động Quý I năm 2020 tại

Việt Nam ......................................................................................................... 65

Biểu đồ 2.2 Số liệu nội dung đẩy lên hệ thống từ nhà cung cấp và mức độ

tương tác của khách hàng từ tháng 1 đến tháng 9 năm 2019 của Myclip.vn.. 67

Biểu đồ 2.3 Tần suất sử dụng và loại thiết bị mà người Việt Nam dùng để

xem các chương trình truyền hình số .............................................................. 68

Biểu đồ 2.4 Sự tăng trưởng các sản phẩm truyền hình, trong đó có sản

phẩm thu phí tại Việt Nam, mức tăng trưởng của các thuê bao truyền hình

trả phí tỉ lệ thuận với sự phát triển của các nền tảng viễn thông. ................... 70

Biểu đồ 2.5 FPT Play đứng đầu danh sách truyền hình trả tiền trực tuyến

tại thị trường Việt Nam nhờ các chỉ số do người dùng bình chọn liên quan

đến nội dung sản phẩm và chất lượng ứng dụng công nghệ thông tin ........... 71

Biểu đồ 2.6: Mô hình sản phẩm báo chí truyền thông số có sự phối hợp

giữa các nhóm ngành kinh tế đã phát huy được thế mạnh của các đơn vị đối

tác.. .................................................................................................................. 73

Biểu đồ 2.7: Thị trường truyền hình số trả tiền tại Việt Nam ......................... 79

Biểu đồ 2.8: Chỉ số người dùng trong vòng 90 ngày trên Myclip.vn ............. 82

7

Biểu đồ 2.9: Thống kê các chỉ số liên kết trên sản phẩm myclip.vn .............. 84

3. Danh mục hình ảnh

Hình 1.1: Các thông số Source code của trang nytimes.com ......................... 47

Hình 1.2: Báo cáo chi tiết người dùng trong 7 ngày của Google Analytics ... 48

Hình 1.3: Báo cáo về lượng tăng trưởng của subscriber tại NYT từ năm

2011-2018........................................................................................................ 49

Hình 1.4: Báo cáo đánh giá lượng người xem trên hệ thống .......................... 49

Hình 1.5: Báo cáo tỷ lệ phần trăm thể loại tin tức của NYT được chia sẻ

trên mạng xã hội .............................................................................................. 50

8

Hình 2.1: Top 5 dịch vụ truyền hình trực tuyến thu phí tại Việt Nam ........... 85

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Sự bùng nổ kỷ nguyên số đã tác động mạnh mẽ, sâu sắc tới hoạt

động truyền thông trên thế giới và Việt Nam trên nhiều phương diện, trong

đó có sự xuất hiện các mô hình sản phẩm nội dung số thu phí từ người sử

dụng thông qua các hạ tầng công nghệ thông tin, viễn thông công nghệ cao.

Trong làn sóng số hoá, các cải tiến, thay đổi trong công cụ sản xuất và

phương thức sản xuất đã tạo ra các sản phẩm báo chí, sản phẩm truyền

thông mới đáp ứng những đòi hỏi cao hơn cả về hình thức lẫn nội dung

truyền thông của công chúng. Không chỉ đòi hỏi về chất lượng nội dung

thông tin, công chúng còn mong muốn thụ hưởng những sản phẩm đem lại

hiệu ứng khác biệt, để khám phá và thỏa mãn trải nghiệm của mình và sẵn

sàng chi trả tiền bạc, thời gian cho những sản phẩm chất lượng cao. Từ nhu

cầu thực tiễn đó, các mô hình sản phẩm thông tin mới đã xuất hiện ngày

càng nhiều, không chỉ thể hiện những bước đột phá về chất lượng nội dung,

hình thức trình bày mà còn cả trên phương thức truyền tải tới công chúng.

Sự hình thành, phát triển của các sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí

từ người sử dụng dựa trên tiền đề đó.

Những đổi mới này góp phần quan trọng cho sự phát triển của một

nền kinh tế mang tên kinh tế tri thức (the knowledge economy), với những

tác động mạnh mẽ vào các xu hướng phát triển của xã hội. Sự vận động và

phát triển của kinh tế nền tri thức trong bối cảnh hội nhập quốc tế đã được

ra đặt trong chiến lược phát triển chung của Việt Nam qua các cương lĩnh

của Đảng, toàn văn phát biểu của lãnh đạo nhà nước. Kinh tế tri thức là cơ

sở để hiện đại hóa nền kinh tế, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế thị

trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó cũng là một “môi trường”

mới, một động lực mới để phát triển hoạt động kinh tế báo chí truyền

9

thông. Sự phát triển sinh động của thực tiễn cho thấy rằng cần thiết phải

nghiên cứu, tìm hiểu một cách kỹ lưỡng hơn, toàn diện hơn về sự phát triển

của các sản phẩm báo chí truyền thông có thu phí từ người sử dụng để góp

phần làm sáng rõ thêm về các thành tố trong sự vận động của nền kinh tế

tri thức cũng như kinh tế báo chí trong bối cảnh cuộc cách mạng số tại Việt

Nam và Thế giới.

Thông tin báo chí và tin tức truyền thông đã và đang là một sản

phẩm hàng hóa đặc biệt khi nó đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu của công

chúng trong quá trình sản xuất thông tin; nó có đầy đủ các yếu tố cấu thành

của một sản phẩm hàng hóa theo mô hình kinh tế thị trường. Nguồn cung

của mặt hàng thông tin rất phong phú, đa dạng, và có liên quan mật thiết

đến nhiều lĩnh vực trong cuộc sống như kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo

dục, giải trí... Nhu cầu và công chúng của các loại hình thông tin cũng theo

đó mà đông đảo, thuộc nhiều tầng lớp xã hội. Nằm trong hoạt động kinh tế

tri thức Việt Nam, kinh tế báo chí truyền thông nói chung, các sản phẩm

báo chí truyền thông số nói riêng là một bộ phận quan trọng không thể

tách rời. Trong đó, các sản phẩm báo chí, truyền thông số đang nở rộ

dưới mọi hình thức, nhiều thể loại. Có những cơ quan báo chí, đặc biệt

là báo in trên thế giới và cả ở Việt Nam những năm qua đã phải tạm đình

bản thậm chí giải thể do doanh số phát hành giảm, công chúng theo đuổi

những thể loại báo chí mới. Vì vậy, để duy trì sự tồn tại của một cơ quan

báo chí, nếu chỉ phụ thuộc vào doanh số phát hành theo mô hình xưa cũ

là không còn phù hợp trong bối cảnh hiện nay. Làm thế nào để có thể

vận dụng các mô hình kinh doanh trên hạ tầng công nghệ số trong hoạt

động báo chí là một câu hỏi thách thức đang được đặt ra.

Bên cạnh báo chí, hoạt động truyền thông cũng góp phần truyền tải

thông tin, vận động thay đổi thói quen nhằm thỏa mãn nhu cầu tin tức của

công chúng. Trong thực tiễn, hoạt động của các cơ quan báo chí và các cơ

10

quan truyền thông luôn có sự giao thoa với nhau. Công chúng truyền thông

luôn cần có báo chí để giám sát, phản biện, kiểm chứng lại thông tin. Nhất

là trong bối cảnh kinh tế, xã hội có nhiều biến chuyển. Mô hình sản phẩm

báo chí có sự hợp tác với các đơn vị truyền thông đã tồn tại từ lâu. Nếu như

trước đây, đơn vị truyền thông đóng vai trò là một nhà tài trợ cho cơ quan

báo chí thì giờ đây, với sự phát triển của công nghệ, đơn vị truyền thông đã

song hành cùng cơ quan báo chí trong việc cung cấp các sản phẩm thông

tin có chất lượng ra thị trường.

Sự hợp tác giữa cơ quan báo chí với các doanh nghiệp truyền thông,

các hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông đã cho ra đời những sản

phẩm trên cơ sở hạ tầng số như mạng điện thoại di động, internet, phần

mềm, ứng dụng trên thiết bị di động cá nhân; các sản phẩm này được

truyền tải thông qua đường dây, cáp quang, vệ tinh của các nhà mạng

truyền thống, loại hình chính của sản phẩm truyền thông số bao gồm âm

thanh, văn bản, hình ảnh, video và những nội dung do chính người dùng

(công chúng) cung cấp. Thực tiễn cho thấy, hoạt động mạnh mẽ và phong

phú của các sản phẩm báo chí truyền thông số có thu phí từ người sử dụng

đã trở thành một hướng khai thác phân khúc thị trường mới tại nhiều quốc

gia trong đó có Việt Nam.

Trước sự ra đời của mô hình thu phí sản phẩm truyền thông số đã rất

thành công tại các tập đoàn truyền thông hàng đầu thế giới như New York

Times (NYT), The Guardian… Những biểu hiện của xu hướng này cũng

dần manh nha xuất hiện tại Việt Nam trong vài năm gần đây dưới những

hình thức khác nhau và nhận được rất nhiều sự quan tâm của cả những

người làm báo và công chúng báo chí truyền thông. Vì vậy, trước yêu cầu

của thực tiễn, cần có một nghiên cứu làm rõ các yếu tố nội hàm, khái niệm,

mối quan hệ giữa các đặc trưng thể loại và khả năng phát triển mô hình thu

11

phí thông tin tại Việt Nam trong tương lai, bởi đây sẽ là một hướng đi mới

trong hoạt động tự chủ tài chính cho các tòa soạn báo theo mục tiêu Quy

hoạch báo chí đến năm 2025.

Làm thế nào để phát triển các định dạng sản phẩm mới, có tiềm năng

đem lại hiệu quả lớn về kinh tế nhưng vẫn đảm bảo chất lượng nội dung là

một thách thức đang đặt ra. Bên cạnh đó, ngoài các mô hình kinh tế truyền

thông truyền thống như tìm quảng cáo, tài trợ, phát hành… thì các mô hình

sản phẩm truyền thông số thu phí từ người sử dụng (subscriber) đang ngày

càng phát triển, nên cần thiết phải có sự hiểu biết kỹ lưỡng hơn, đánh giá

một cách toàn diện hơn xu hướng này nhằm đúc kết những kinh nghiệm,

giải pháp cần thiết cho hoạt động báo chí truyền thông tại Việt Nam.

Những lý do trên cho thấy sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài:

“Mô hình sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí từ người sử dụng

(subscriber) và khả năng phát triển tại Việt Nam”.

2. Tình hình nghiên cứu

Vấn đề nghiên cứu của đề tài có mối liên hệ ngành giữa các lĩnh vực:

báo chí truyền thông, công nghệ thông tin và viễn thông, kinh tế báo chí

truyền thông, kinh tế số. Đó là những hướng nghiên cứu cơ bản để tác giả

luận văn khai thác cơ sở dữ liệu và nhận định rõ về tình hình nghiên cứu có

liên quan tới đề tài.

Trong Luật Báo chí năm 2016 có đề cập đến sự tồn tại của kinh tế

báo chí như một thành tố quan trọng, đặc biệt, Quy hoạch phát triển và

quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025 mới thấy được tính cấp bách

trong việc thừa nhận và chấn chỉnh hoạt động kinh tế báo chí ở Việt Nam.

Vì vậy, các công trình nghiên cứu về báo chí từ cuối thế kỷ XX đến nay

phần lớn đều tập trung phân tích về lý thuyết, thể loại, kỹ năng nghề, đã có

những công trình nghiên cứu về kinh tế báo chí, cụ thể là:

Về sách chuyên khảo: cuốn “Kinh tế báo chí” TS Bùi Chí Trung

12

(2007) đã đề cập một cách khá đầy đủ và chi tiết về khái niệm, cơ cấu, các

mô hình hoạt động của kinh tế báo chí tại Việt Nam thông qua mối quan hệ

giữa các thể loại báo chí. Cuốn sách đã đưa ra các mô hình kinh tế báo chí

phù hợp với bối cảnh thị trường báo chí Việt Nam, ngoài những mô hình

hoạt động kinh tế báo chí truyền thống như phát hành, quảng cáo, nghiên

cứu còn chỉ ra một hướng phát triển mới của hoạt động thu phí sản phẩm

báo chí truyền thông đó là hoạt động thu phí thông tin báo chí dưới dạng

thức truyền hình trả tiền theo yêu cầu - IPTV. Kết quả nghiên cứu cho

thấy công chúng sẵn sàng chi trả để có được thông tin mà họ muốn, nhu

cầu tiếp cận thông tin của công chúng là không giới hạn, khi công nghệ

càng phát triển, công chúng càng có nhiều sự lựa chọn cho hoạt động

tiếp nhận của họ.

Ở góc độ nghiên cứu về thể loại báo chí, cuốn “Một số vấn đề về

kinh tế báo in” của nhóm tác giả PGS.TS Đinh Văn Hường – TS. Bùi Chí

Trung (2014) đã chỉ rõ những thành tố của một đơn vị sự nghiệp báo chí in

ấn có thu, trong nghiên cứu cũng chỉ ra rằng: trong bối cảnh đổi mới và hội

nhập quốc tế, thực trạng của hoạt động kinh tế báo in đã và đang có nhiều

thay đổi so với giai đoạn đầu. Cuốn sách đã tập trung xác lập một cách cơ

bản, hệ thống các học thuyết kinh tế truyền thông đang phổ cập trên thế

giới đồng thời khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng các hoạt động

kinh tế từ góc nhìn kinh tế báo chí và hệ thống quan điểm của Đảng, pháp

luật của Nhà nước về hoạt động kinh tế báo chí và đưa ra một số kiến nghị

để báo in Việt Nam hoạt động hiệu quả trong bối cảnh mới.

Cùng đề cập đến hoạt động kinh tế truyền hình, cuốn “Truyền hình

trả tiền ở Việt Nam căn bản và tiềm năng” của TS. Hoàng Ngọc Huấn

(2017) đã kế thừa các công trình nghiên cứu kinh tế truyền hình trước đó

và phát triển nghiên cứu trên mô hình của VTVcab, cuốn sách đề cập đến

sự phát triển của khoa học công nghệ thông tin và truyền thông đã tạo điều

13

kiện cho truyền hình phát triển với nhiều dịch vụ mới, có sản phẩm bản

quyền và lý giải các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi mua của khách

hàng như nền văn hóa, nhánh văn hóa, tầng lớp xã hội và vai trò của những

nhà làm truyền thông có khả năng định hướng dư luận có tác động thế nào

tới thói quen của công chúng.

Trong cuốn “Tác nghiệp báo chí trong môi trường truyền thông hiện

đại” (2019, Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông) của PGS, TS

Nguyễn Thành Lợi đã đề cập đến hoạt động phát triển truyền thông kỹ

thuật số thu phí thông qua mô hình subscribe tại báo điện tử NYT như một

điển hình thành công của mô hình thu phí trên thế giới, đưa NYT trở thành

tờ báo lớn thứ 2 tại Mỹ.

Về các công trình nghiên cứu luận văn, luận án: Luận án tiến sĩ kinh

tế của tác giả Phạm Hoài Nam (2017): “Quản lý nhà nước đối với hoạt

động truyền hình trả tiền tại Việt Nam” có kế thừa và nhấn mạnh các mô

hình và phương thức thanh toán chủ yếu của truyền hình trong giai đoạn

công nghệ khoa học phát triển. Luận án nhấn mạnh về vai trò quản lý của

nhà nước trước sự thay đổi của các sản phẩm kinh tế hữu hình đến các sản

phẩm được chi trả qua đường dẫn, sóng truyền hình. Qua đó thấy được sự

sát sao trong quản lý pháp luật Nhà nước trước sự thay đổi không ngừng

của ngành truyền hình.

Luận văn “Hoạt động kinh tế báo chí của cơ quan báo ngành môi

trường” của tác giả Đặng Thị Hương Giang (2014) đã khảo sát mô hình

kinh tế báo chí tại các cơ quan cụ thể như báo Tài nguyên & Môi

trường, tạp chí Kinh tế Môi trường, tạp chí Môi trường & Cuộc sống

giai đoạn 2011 - 2013. Nghiên cứu tập trung vào các khía cạnh: phát

hành, quảng cáo và kinh doanh báo chí khác, nghiên cứu cũng chỉ rõ

tính chuyên biệt của sản phẩm có thể ảnh hưởng không nhỏ tới doanh

14

thu của đơn vị sản xuất.

Luận văn “Tổ chức hoạt động kinh tế báo chí tại tòa soạn báo

Thanh niên” của tác giả Nguyễn Huyền Trang (2015) đã hệ thống hóa

những vấn đề về lý luận và hoạt động kinh tế báo chí thông qua việc

phân tích thực trạng hoạt động kinh tế báo chí tại tòa soạn báo Thanh

niên trong giai đoạn 6/2014-6/2015. Ở trường hợp cụ thể của báo Thanh

niên, tác giả đã chỉ ra một số điểm mạnh và hạn chế của hoạt động kinh

tế báo chí trong giai đoạn nền kinh tế thị trường đang bị ảnh hưởng bởi

công nghệ khoa học.

Về các bài báo đã được công bố: Bài báo nghiên cứu khoa học

“Doanh nghiệp viễn thông tham gia thị trường truyền hình trả tiền: Cơ hội

và thách thức” của tác giả Lê Minh Toàn (2013) đăng trên tạp chí Công

nghệ thông tin & Truyền thông tháng 5 có giới thiệu về mô hình kết hợp

mới giữa các doanh nghiệp viễn thông và đài truyền hình để cho ra đời

những sản phẩm kết hợp thế mạnh của doanh nghiệp và nhà sản xuất, từ đó

phục vụ tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Nghiên cứu cũng chỉ ra việc ứng

dụng công nghệ thông tin vào khai thác thị phần khách hàng truyền hình

tiềm năng sẽ đem lại nguồn lợi cho các bên liên quan, đồng thời nhấn mạnh

sự phối hợp giữa các nhóm ngành kinh tế có thể đem lại hiệu quả.

Trong nghiên cứu “Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch

vụ đọc báo điện tử có trả phí ở Việt Nam” của nhóm tác giả Mai Thế

Duyệt, Phạm Quốc Trung (2015) đã sử dụng học thuyết hành vi dự định để

nghiên cứu thị trường, đặc điểm công chúng tại Việt Nam và đưa ra kết

luận đối với hoạt động trả phí qua báo mạng điện tử, đó là: “Yếu tố thái độ

có ảnh hưởng lớn nhất đến ý định sử dụng dịch vụ. Đối với các yếu tố ảnh

hưởng lên thái độ, nhận thức về lợi ích, tính tương thích, tâm lý ưa thích

miễn phí là ba yếu tố có ảnh hưởng đáng kể nhất” [8; tr.42]. Công trình

15

trên tiếp cận vấn đề công chúng trả phí cho sản phẩm báo chí truyền thông

số từ góc độ nhân khẩu học và tâm lý học, chứ chưa đề cập đến hoạt động

thu phí dưới góc độ nghiên cứu kinh tế báo chí.

Tác giả Phan Hữu Minh (2017) có bài viết “Kinh tế báo chí và

những giới hạn” đăng trên website của Hội Nhà báo Việt Nam [65] đã

khẳng định: Hoạt động kinh tế trong báo chí là vấn đề không mới, thậm chí

là điều kiện tiên quyết của nhiều cơ quan báo chí giúp cho quá trình tồn tại

và phát triển. Bài viết khẳng định các quy định của pháp luật đã tạo đủ

hành lang cho hoạt động kinh tế của báo chí. Vấn đề ở đây là thực hiện sao

cho đúng cả ở khía cạnh pháp luật và đạo đức của người làm báo.

Trên website specia.vietnamplus.vn đăng tải bài viết của tác giả

Vĩnh Khang (2019) có tên “Thu phí từ độc giả là con đường phát triển bền

vững của báo chí” đã đề cập đến sự phát triển và hình thành của mô hình

thu phí độc giả trên báo mạng điện tử từ năm 2012 và những phản ứng gay

gắt của công chúng và các nhà báo trước quan điểm cần thu phí báo mạng

điện tử. Tuy nhiên, qua các mô hình đã thành công trên thế giới cũng như

tại Việt Nam, khả năng thu phí các sản phẩm báo mạng điện tử là khả thi

và điều kiện tiên quyết cho quyết định chi trả của độc giả chính là nội dung

chất lượng.

Nhận thấy: Các công trình nghiên cứu khoa học về kinh tế báo chí

tại Việt Nam đã xuất hiện từ vài năm trở lại đây và có hướng khai thác rõ

ràng về các mảng đề tài chuyên biệt, đó là thể loại báo chí và hệ thống các

ấn phẩm chuyên ngành. Các công trình đều ít nhiều khẳng định sự phát

triển của khoa học kỹ thuật và nền kinh tế thị trường đòi hỏi các cơ quan

báo chí phải làm chủ doanh thu và tham gia vào quá trình xây dựng mô

hình đơn vị sự nghiệp có thu. Tuy nhiên, mảng đề tài về sản phẩm báo chí

truyền thông số thu phí từ người sử dụng vẫn chưa được khai thác hoàn

16

toàn triệt để dưới góc độ kinh tế báo chí.

Các công trình nghiên cứu về người sử dụng sản phẩm báo chí

truyền thông số có thu phí hiện nay đa phần thuộc về các nhà nghiên cứu ở

nước ngoài, chủ yếu là Mỹ và một số học giả tại châu Âu, đây là thuận lợi

cũng là khó khăn đối với đề tài nghiên cứu khi có thể tham khảo và tiếp thu

các số liệu, hướng phát triển của các đề tài nước bạn nhưng cũng là thách

thức lớn khi chưa có hệ thống các đề tài nghiên cứu tương tự ở trong nước.

Chính vì vậy đề tài Mô hình sản phẩm báo chí truyền thông số thu

phí từ người sử dụng (subscriber) và khả năng phát triển tại Việt Nam sẽ

góp phần làm rõ các thuật ngữ chuyên ngành, chỉ ra ưu điểm, hạn chế và

mối quan hệ giữa khả năng phát triển của các mô hình kinh doanh mới với

nền báo chí truyền thống có bề dày thành tích. Sản phẩm báo chí truyền

thông số là một mô hình không còn xa lạ với các cơ quan truyền thông, tuy

nhiên trước sức ép của thương mại hóa thông tin và quảng cáo, nhiều nhà

nghiên cứu chưa chỉ rõ vai trò và đánh giá đúng đắn về tiềm năng kinh tế

mà sản phẩm báo chí truyền thông số mang lại với nền kinh tế báo chí Việt

Nam. Vì vậy, đề tài nghiên cứu sẽ chỉ ra những thuật lợi, khó khăn và

thách thức mà mô hình thu phí sản phẩm truyền thông số tại Việt Nam phải

đối mặt cũng như đưa ra sự phân tầng về khách hàng để tối ưu hóa giá trị

nội dung thông tin đem lại.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm hướng tới việc phân tích

thực trạng triển khai các mô hình sản phẩm báo chí truyền thông số có thu

phí từ người sử dụng tại Việt Nam hiện nay thông qua hoạt động sản xuất,

đóng gói tin tức tại một số cơ quan báo chí, cơ quan truyền thông. Từ đó

đưa ra những đánh giá về khả năng ứng dụng và xu hướng phát triển trong

17

thời gian tới. Đề tài sẽ đưa ra những khuyến nghị, giải pháp nhằm phát

triển các mô hình sản phẩm mới đáp ứng yêu cầu của công chúng, góp

phần mang lại hiệu quả kinh tế truyền thông tích cực.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu trên, đề tài sẽ làm rõ một số vấn đề sau:

Thứ nhất, làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò và phương thức triển

khai sản phẩm báo chí truyền thông số có thu phí từ người sử dụng.

Thứ hai, phân tích thực tiễn phát triển các mô hình sản phẩm báo chí

truyền thông số thu phí từ người sử dụng đang triển khai tại thị trường Việt

Nam. Đánh giá ưu, nhược điểm và nguyên nhân.

Thứ ba, đánh giá những vấn đề thách thức đang đặt ra trong sự phát

triển truyền thông số hiện nay; những kinh nghiệm trong việc phát triển mô

hình sản phẩm truyền thông số thu phí từ người sử dụng và đưa ra những

giải pháp, khuyến nghị nâng cao chất lượng hiệu quả trong tương lai.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài được tập trung vào các mô hình sản

phẩm báo chí truyền thông số thu phí từ người sử dụng (subscriber).

Phạm vi nghiên cứu: giới hạn tập trung nghiên cứu các sản phẩm nội

dung số trên nền tảng internet và di động: pay.vietnamplus.vn (bản quyền

thuộc về Báo Điện tử Vietnamplus, Thông tấn xã Việt Nam); myclip.vn

(Tập đoàn Công nghiệp viễn thông Quân đội Viettel) và sản phẩm FPT

play của Công ty cổ phần FPT.

Thời gian nghiên cứu từ tháng 1 đến tháng 8 năm 2019.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

5.1 Phương pháp luận

Đề tài kế thừa và vận dụng phương pháp biện chứng duy vật và chủ

nghĩa duy vật lịch sử, các văn kiện Đại hội của Đảng, chính sách, pháp luật

của Nhà nước về báo chí và hoạt động kinh tế báo chí tại Việt Nam. Kế

18

thừa một số phương pháp luận trong chuyên ngành kinh tế.

5.2 Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu tài liệu: đề tài tham khảo và trích dẫn một

số tài liệu từ các nhà nghiên cứu đi trước về đề tài kinh tế, báo chí, xã hội

học, văn hóa học để làm rõ các quan điểm, khái niệm về loại hình.

Phương pháp thống kê: Thống kê số liệu qua các báo cáo kinh tế

công khai để cho thấy thực trạng hoạt động của mô hình thu phí thông tin

tại Việt Nam.

Phương pháp tiếp cận liên ngành: báo chí học, các học thuyết truyền

thông, kinh tế học, văn hóa học, xã hội học và dân tộc học để thấy được

mối quan hệ giữa kinh tế báo chí với các nhóm kinh tế thị trường khác và

khả năng tồn tại của mô hình thu phí trên thị trường trong nước và quốc tế.

Phương pháp phỏng vấn sâu: các chuyên gia trong lĩnh vực, những

người trực tiếp kinh doanh nội dung và những người lựa chọn nội dung để

mua bán.

Đề tài có vận dụng phương pháp phân tích chiến lược (SWOT) để

chỉ ra các đặc trưng mô hình, điểm mạnh, điểm yếu từ đó chỉ ra những cơ

hội và thách thức của mô hình thu phí trong nền kinh tế thị trường.

Đồng thời, đề tài còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu công

cụ như so sánh, phân tích, mô hình hoá… để tạo dựng cơ sở dữ liệu và nội

dung phân tích phù hợp.

6. Kết cấu luận văn:

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương bao gồm:

Chương 1: Khái quát chung về lý luận kinh tế báo chí truyền thông và sản

phẩm báo chí truyền thông số thu phí từ người sử dụng (subscriber)

Chương 2: Khảo sát, đánh giá các sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí

người dùng tại Việt Nam

Chương 3: Một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng mô hình

19

sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí từ người dùng tại Việt Nam

CHƢƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LÝ LUẬN KINH TẾ BÁO

CHÍ TRUYỀN THÔNG VÀ SẢN PHẨM BÁO CHÍ TRUYỀN

THÔNG SỐ THU PHÍ TỪ NGƢỜI SỬ DỤNG (SUBSCRIBER)

1.1. Cơ sở lý luận kinh tế báo chí truyền thông về sản phẩm báo chí

truyền thông số thu phí từ ngƣời sử dụng (subscriber)

Trong quá trình nghiên cứu, có một số khái niệm liên quan đến đề tài

như: sản phẩm báo chí truyền thông số, thu phí, thu phí người sử dụng -

subscriber là những khái niệm chưa phổ biến trong các nghiên cứu về kinh

tế báo chí tại Việt Nam. Vì vậy, cần phân tích một số khái niệm liên ngành

giữa báo chí học, kinh tế để có thể góp phần làm rõ các khái niệm trên.

1.1.1. Khái niệm về báo chí, sản phẩm báo chí, truyền thông

- Khái niệm “Báo chí”: Căn cứ pháp lý tại Điều 3 Luật Báo chí Việt

Nam năm 2016 nêu rõ: Báo chí là sản phẩm thông tin về các sự kiện, vấn

đề trong đời sống xã hội thể hiện bằng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được

sáng tạo, xuất bản định kỳ và phát hành, truyền dẫn tới đông đảo công

chúng thông qua các loại hình báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử.

Trong cuốn Cơ sở lý luận báo chí, PGS.TS Nguyễn Văn Dững đã

đưa ra quan điểm về báo chí, đó là: “… xuất phát từ bản chất của báo chí

truyền thông - là hoạt động thông tin giao tiếp xã hội trên quy mô rộng lớn

nhất, là công cụ và phương thức kết nối xã hội hữu hiệu nhất, là công cụ

và phương thức can thiệp xã hội hiệu quả nhất trong mối quan hệ với công

chúng và dư luận xã hội, với nhân dân và với các nhóm lợi ích, với các

nước trong khu vực và quốc tế…” [6; tr87]

PGS.TS Đỗ Chí Nghĩa đưa ra khái niệm về báo chí là: Báo chí là

loại hình các phương tiện truyền thông đại chúng được cơ quan thẩm

quyền cấp phép hoạt động, có nhiệm vụ chuyển tải thông tin nhanh nhất,

mới mẻ nhất đến cho đông đảo công chúng, nhằm tích cực hóa đời sống

20

thực tiễn. [19; tr.17]

Trong quá trình phái triển không ngừng của các cuộc cách mạng

khoa học kỹ thuật, các loại hình báo chí mới ra đời. Sau báo, tạp chí in là

sự góp mặt của báo phát thanh, báo truyền hình và gần đây nhất là sự ra đời

của báo mạng điện tử. Báo chí hiện đại có thể được hiểu là những ấn phẩm

xuất bản định kỳ (hoặc không định kỳ như báo mạng điện tử) được sản

xuất với khối lượng lớn, phát hành rộng rãi đến đông đảo cư dân (công

chúng). Khái niệm báo chí theo nghĩa rộng được dùng để chỉ các sản phẩm

phát hành thông qua các loại hình báo in, phát thanh, truyền hình và báo

mạng điện tử [7; tr.5]

Báo chí là hoạt động xã hội rộng khắp mang xứ mệnh truyền tải và

cập nhật thông tin một cách liên tục, bám sát các sự kiện xã hội; thông tin

trên báo chí không chỉ đáp ứng nhu cầu của đông đảo công chúng mà còn

phải tuân thủ bộ nguyên tắc của pháp luật về cách thức đưa tin, hình thức

thể hiện và cách sử dụng ngôn từ.

- Sản phẩm báo chí: Quá trình các tòa soạn sản xuất ra ấn phẩm báo

chí, vận chuyển/ truyền tải ấn phẩm đến với công chúng được coi là một

vòng tuần hoàn của hoạt động kinh tế. Sản phẩm báo chí cũng là sản phẩm

kinh tế, bởi lẽ nó đáp ứng được hai yếu tố: nhu cầu cá nhân và trao đổi

hàng hóa. Trong cuốn “Truyền thông đại chúng những kiến thức cơ bản”

(2003), Claudia Mast đã khẳng định: “… báo chí cũng là một nghề. Nó

chịu sự điều tiết của quy luật thị trường. Tin tức là một loại hàng hóa dễ

hỏng” [34; tr.7]. Vậy, trong hoạt động báo chí, truyền thông có sự tồn tại

của hoạt động kinh tế thông qua quá trình sản xuất ra các mặt hàng là sản

phẩm báo chí.

Sản phẩm báo chí là sản phẩm kinh tế đặc biệt khi nguồn vốn ban

đầu và nguyên liệu sản xuất của nó không tồn tại ở dạng vật chất mà phụ

21

thuộc vào trình độ của người tạo ra sản phẩm. Giá trị của ấn phẩm báo chí

bao gồm: nội dung thông tin nó đem lại, công sức lao động của nhà báo,

những hao phí về nguồn lực trong quá trình sản xuất.

- Truyền thông: Truyền thông có thể được hiểu là quá trình liên tục

trao đổi thông tin, tư tưởng, tình cảm… chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm

giữa hai hoặc nhiều người nhằm thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi phù

hợp với nhu cầu phát triển [7; tr.14]

Hoạt động truyền thông là hoạt động chia sẻ, trao đổi hai chiều diễn

ra liên tục giữa chủ thể và đối tượng truyền thông. Từ hoạt động chia sẻ đó

dẫn tới sự hiểu biết chung và thay đổi nhận thức của cả hai bên nhằm thay

đổi thái độ hành vi.

Trong hoạt động truyền thông, mục đích chính là tác động vào đông

đảo công chúng xã hội, nhằm tập hợp, giáo dục và thuyết phục công chúng

tham gia vào các nhiệm vụ trong đó có nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn

hóa…

Vậy, truyền thông (tiếng anh là communication) là quá trình chia sẻ

thông tin, tương tác xã họi nhằm tìm kiếm những quan điểm chung thông

qua nội dung thông tin, hình thức biểu đạt. Mục đích của truyền thông là

tìm thấy sự thống nhất và thấu hiểu.

1.1.2. Một số khái niệm về mô hình, kinh tế báo chí

- Mô hình: là từ dùng để chỉ hình thức diễn đạt ngắn gọn các đặc

trưng chủ yếu của một đối tượng theo một phương tiện nào đó để nghiên

cứu đối tượng ấy [11, tr.126]

Theo tác giả Minh Anh (2018) Mô hình (model) là sự đơn giản hóa

hiện thực một các có chủ định. Nó cho phép nhà nghiên cứu bỏ qua các

mặt thứ yếu để tập trung vào phương diện chủ yếu, có ý nghĩa quan trọng

đối với vấn đề nghiên cứu [77]

Vậy, mô hình là sự trình bày quy giản về một (hoặc vài) khía cạnh

22

của vấn đề, mô tả một cách khái quát đặc điểm và các mối quan hệ giữa

các thành tố cấu tạo nên bản chất của vấn đề. Mô hình cho thấy cách thức

tổ chức cũng như hoạt động của sự vật.

- Kinh tế báo chí: Là một ngành của nền kinh tế thị trường, là đơn vị

sự nghiệp có thu, hoạt động kinh tế báo chí không chỉ bó hẹp trong phương

thức sản xuất đơn nhất một loại hình, mà nó sự kết hợp của nhiều loại hình

khác nhau nhằm sinh ra lợi nhuận cho cơ quan báo chí. “… có thể định

nghĩa “kinh tế báo chí” là hoạt động kinh tế của các cơ quan báo chí trong

quá trình sử dụng con người, cơ sở vật chất, kỹ thuật, tài chính… để đi đến

hiệu quả tối đa mà các cơ quan báo chí nói riêng và công nghiệp truyền

thông nói chung có thể đạt được”[28; tr15].

Vấn đề kinh tế báo chí đã và đang được đặt lên hàng đầu và nó có

khả năng quyết định sự tồn tại của một cơ quan báo chí. “Trong thực tiễn

truyền thông, bên cạnh các thành công về công chúng thì những thành

công, thất bại về kinh tế quyết định tiền đồ của một doanh nghiệp truyền

thông… Phạm vi ảnh hưởng của một sản phẩm truyền thông quyết định

tính phổ cập của việc quảng cáo, và như vậy quyết định luôn cả những khả

năng thanh toán của doanh nghiệp truyền thông” [34; tr.152]

Kinh tế báo chí truyền thông bao gồm: Doanh thu trực tiếp và doanh

thu gián tiếp (quảng cáo, tổ chức sự kiện, vận động quyên góp, cho thuê

thiết bị, cho thuê cơ sở vật chất, nhận tài trợ, được nhà nước bao cấp...)

- Thị trường báo chí: Trong hoạt động kinh tế, thị trường là yếu tố

đóng vai trò quyết định. Thị trường là nơi tạo ra sự gặp gỡ giữa nguồn cung

và nhu cầu của khách hàng, là nơi giao dịch, mua bán, trao đổi các sản

phẩm tài chính ngắn hạn, trung hạn, dài hạn để đáp ứng các nhu cầu khác

nhau của các chủ thể trong nền kinh tế.

Philip Kotler định nghĩa: Thị trường là tập hợp những người mua

hàng hiện có và sẽ có; là nơi những người bán và người mua gặp nhau và

23

thực hiện các giao dịch (trao đổi tập trung nhưng không nhất thiết phải là

một địa điểm cụ thể); Thị trường có thể hình thành cho một thứ hàng hóa,

dịch vụ nào đó hay cho một đối tượng khác có giá trị [36, tr.15-16]. Theo

Kotler, có hai loại thị trường là: Thị trường người bán (ở đó, người bán có

quyền lực hơn) và thị trường người mua (người mua có quyền lực hơn), khi

đó hai thành phần này cũng thay nhau trở thành “những nhà hoạt động thị

trường” tích cực nhất [36, tr.17].

Tác giả Hoàng Đình Cúc, Đức Dũng (2007): Thị trường báo chí là

nơi diễn ra quá trình mua, bán sản phẩm báo chí, thực hiện những hợp

đồng quảng cáo hoặc những cam kết tài trợ để thông qua đó quảng bá cho

các thương hiệu sản phẩm [10, tr.122].

Trong thị trường báo chí, các sản phẩm được cung cấp ra thị trường

theo thời gian cũng dần trở nên đa dạng, bên cạnh các sản phẩm truyền

thống như các dạng bài phóng sự, điều tra, chân dung, phản ánh, đưa tin,

bút kí, ghi chép... thì có các sản phẩm mới như tác phẩm siêu báo chí

(Mega Story, Long-form), tác phẩm báo chí đồ họa (Infographic). Các sản

phẩm báo chí mới ra đời dựa trên khả năng tổng hợp các mặt mạnh của các

phương tiện thông tin đại chúng (mass media), hay còn gọi là tác phẩm báo

chí truyền thông số.

Trong quá trình phát triển, báo chí cũng như các ngành khoa học –

xã hội khác luôn tự làm mới mình, cho ra đời những sản phẩm mới phái

sinh từ những sản phẩm truyền thống để không ngừng hoàn thiện, phù hợp

với bối cảnh phát triển chung.

- Nguồn thu của báo chí: Mỗi ấn phẩm báo chí trước khi đưa ra thị

trường đều được định giá dựa trên nội dung thông tin, công sức lao động

của nhà báo, những hao phí về nguồn lực trong quá trình sản xuất. Mỗi loại

hình báo chí lại có một cách gọi nguồn thu trực tiếp khác nhau: báo – tạp

chí in gọi là phát hành; phát thanh truyền hình gọi là thuê bao; báo mạng

24

điện tử gọi là thu phí. Nguồn thu trực tiếp từ công chúng là nguồn thu cố

định, có khả năng duy trì sự tồn tại của các cơ quan báo chí và là hình thức

kinh tế lâu đời nhất của các cơ quan báo chí. Công chúng cũng chính là

khách hàng của các cơ quan báo chí.

Hoạt động thu phí của báo chí: là một yếu tố cấu thành nên nguồn

thu của của cơ quan báo chí trên nền tảng điện tử kỹ thuật số. Giống như sự

ra đời của những thể loại báo chí mới, “thu phí” là cách gọi mới của nguồn

thu trực tiếp từ công chúng của các cơ quan báo chí.

Trong thời kỳ số hóa, quá trình thúc đẩy hoạt động kinh tế báo chí là

một bước đi hợp với xu hướng chung. Ở rất nhiều ngành nghề kinh tế, các

tập đoàn đều đang triển khai các mô hình kinh doanh trên nền tảng số. Từ

việc mua bán, tìm kiếm trực tiếp, ngày nay bằng cách thiết bị điện tử cá

nhân, đặc biệt là điện thoại di động thông minh (smart phone), phần lớn

công chúng đã chuyển sang giải trí, mua bán và trao đổi qua mạng điện tử.

Bước tiến của công nghệ đã khiến cho các cuộc cạnh tranh đã từng tồn tại

báo giấy được đẩy lên không gian số.

1.1.3. Một số khái niệm về kỹ thuật số và báo chí, truyền thông số

- Kỹ thuật số: Theo nhóm tác giả Thái Thanh Sơn, Thái Thanh

Tùng, Kỹ thuật số là kỹ thuật sử dụng kiểu tín hiệu và các định dạng dữ

liệu trong ngành điện tử bằng các trạng thái rời rạc. Các tín hiệu số tồn tại

như các chuỗi theo thời gian gồm các số “0” và “1” (các bit số). Thuật

ngữ số còn được dùng để chỉ phương pháp lưu trữ dữ liệu ở dạng số nhị

phân [30; tr.42]. Hoạt động của kỹ thuật số đã tác động đến mọi mặt của

cuộc sống, tạo ra những thay đổi về cách truyền tải thông tin trên các thiết

bị đầu cuối. Hệ thống các thiết bị đầu cuối có khả năng truyền tải và lưu trữ

thông tin được gọi chung là hạ tầng số.

- Hạ tầng số: Về mặt kỹ thuật, hạ tầng số là những mối liên kết giữa

các thành phần, thiết bị điện tử, là cơ sở để xây dựng nền tảng kỹ thuật số.

25

Hạ tầng số bao gồm 6 thành phần: thiết bị, kết nối, dữ liệu, hạ tầng ứng

dụng, pháp lý và nhân lực. Trong đó, hạ tầng dữ liệu (băng thông rộng)

đặc biệt quan trọng, được ví như đường quốc lộ huyết mạch của một quốc

gia [60]. Mọi sản phẩm điện tử có bảng mạch, con chip vận hành, bộ mã

nguồn đều được coi là hạ tầng số.

- Báo chí truyền thông số bao gồm báo mạng điện tử và các sản

phẩm thông tin khác là một bước chuyển từ các ấn phẩm hữu hình đến

những ấn phẩm tồn tại dưới dạng mã hóa. Đây được coi là sản phẩm báo

chí có khả năng tích hợp với mọi thiết bị cá nhân như máy tính xách tay,

điện thoại di động thông minh, máy tính bảng, tivi thông minh… kỹ thuật

số đã phá vỡ mọi giới hạn, chất liệu truyền thống, khiến cho thể loại báo

chí mới này dễ tiếp cận công chúng hơn, đặc biệt là công chúng trẻ.

Từ các thành tựu của khoa học kỹ thuật, việc giao dịch tiền mặt trực

tiếp đã được chuyển đổi thành giao dịch tiền tệ gián tiếp thông qua các mã

lệnh kết nối tài các tài khoản ngân hàng cá nhân với tài khoản công của cơ

quan báo chí. Nó giống như việc mua một vé tham quan không giới hạn số

lần, trên chiếc vé đó có toàn bộ thông tin cá nhân và lịch sử giao dịch bằng

hệ thống thanh toán vi mô (micropayments). Các cơ quan báo chí đã ứng

dụng mô hình mua - bán thông tin báo chí dưới dạng thu phí sản phẩm -

subscribe.

Theo từ điển Oxford, “subscribe” có nghĩa là: Thỏa thuận để nhận

một cái gì đó thường xuyên, thường là một ấn phẩm, bằng cách trả

trước/Thỏa thuận để truy cập vào một dịch vụ trực tuyến/Đóng góp hoặc

cam kết đóng góp một số tiền nhất định một cách thường xuyên [78].

Ngoài nghĩa đăng ký mua ấn phẩm, đăng ký theo dõi, subscribe còn

có nghĩa là quyên góp. Ý nghĩa của từ này tương ứng với các hoạt động

của độc giả khi trở thành người theo dõi của một đơn vị cung cấp sản phẩm

báo chí truyền thông số đó là: đăng ký trả tiền xem từng bài riêng lẻ hoặc

26

theo tuần/tháng/quý/năm, đăng ký trả tiền theo gói (dựa trên số lượng bài

được đọc hoặc lưu lượng data), đăng ký để trở thành nhà cung cấp nội

dung hoạt động như một nhà báo công dân.

Theo ông Lê Quốc Minh, Phó Tổng Giám đốc Thông tấn xã Việt

Nam, sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí từ người sử dụng là một

sản phẩm mà độc giả phải chi trả một khoản phí nhất định để được thụ

hưởng sản phẩm đó theo quy định của đơn vị sản xuất [PV9].

Sản phẩm báo chí truyền thông số: là chất liệu mới của các cơ quan

báo chí, truyền thông, là sản phẩm kết hợp giữa khoa học kỹ thuật và công

nghệ sản xuất tin tức mới cho phép công chúng dễ dàng tiếp nhận thông tin

hơn, thông tin được thể hiện một cách phong phú, sinh động. Quá trình mã

hóa thông tin báo chí cũng cho phép xây dựng trường dữ liệu thông tin

khổng lồ để làm cơ sở cho các nghiên cứu khoa học, ứng dụng các học

thuyết vào thực tiễn.

Sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí từ người sử dụng

(subscriber) là sản phẩm thông tin tồn tại trên nền tảng số hóa có đầy đủ

các đặc điểm của một sản phẩm báo chí, được định giá mua bán và thanh

toán bằng nền tảng giao dịch điện tử internet. Mô hình này cho phép các

tòa soạn nắm được cơ sở khách hàng định danh cố định.

Nguyên lý hoạt động của subscribe dựa trên mối quan hệ giữa những

người sử dụng đăng kí trả phí (subscriber) với cơ quan báo chí, cơ quan

truyền thông. Trong mối quan hệ này, người sử dụng chi trả trước một

khoản phí nhất định theo đề nghị của cơ quan báo chí để được thụ hưởng

sản phẩm tin tức, còn các cơ quan báo chí có trách nhiệm cung cấp tin tức

có giá trị đến người sử dụng.

Mô hình thu phí đối với sản phẩm truyền thông số tại nước ngoài đã

tồn tại từ khá lâu. Không chỉ thu phí để tắt các quảng cáo trên nền giao

diện số, nhiều cơ quan báo chí, cơ quan truyền thông còn thu phí người

27

dùng để đưa đến những trải nghiệm tối đa về thị giác và thính giác, làm

thỏa mãn nhu cầu của công chúng. Mô hình này góp phần khuyến khích

các cơ quan báo chí truyền thông chú trọng vào việc độc quyền tin tức, nội

dung thông tin phong phú, có chiều sâu, hình thức trình bày sản phẩm bắt

mắt, đa dạng về phương thức thể hiện.

Sự ra đời của mô hình thu phí sản phẩm báo chí truyền thông số nằm

trong quá trình vận động và kế thừa các tính chất sẵn có của nền báo chí

truyền thống. Sự phát triển của các ngành kinh tế luôn đặt ra thách thức cần

tự thân làm mới mình dựa trên những giá trị căn bản cốt lõi.

1.2 Mô hình sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí từ người sử dụng

1.2.1 Nền tảng công nghệ và quá trình phát triển của sản phẩm báo

chí truyền thông số thu phí ngƣời sử dụng

Nếu như trước đây, nền tảng của báo in là công nghệ chế bản và thiết

bị in ấn; nền tảng của phát thanh - truyền hình là đường dẫn sóng, thiết bị

thu phát; thì đến sản phẩm báo chí truyền thông số, nền tảng khoa học và

công nghệ hiện đại đã thay đổi, tạo ra kỹ thuật số và các thiết bị hạ tầng số.

Trong các thành phần của hạ tầng số cần chú trọng sự tồn tại của hạ

tầng dữ liệu (băng thông rộng) được phát triển và quản lý bởi các tập đoàn

viễn thông. Sự phát triển không ngừng của các tập đoàn viễn thông tại Việt

Nam nói riêng và trên thế giới nói chung đã làm thay đổi diện mạo của quá

trình kết nối giữa con người với con người. Viễn thông không chỉ đơn

thuần là dịch vụ thư tín, dịch vụ cuộc gọi đường dài mà viễn thông ngày

nay với hạ tầng dữ liệu băng thông rộng đã trở thành đã trở thành phương

tiện trung chuyển thông tin với tốc độ cao, dung lượng lớn và có khả năng

lưu trữ, trích xuất trường dữ liệu thông tin theo từng hệ thống chủ đề.

Quá trình số hóa ký tự và lưu trữ nội dung trên các thiết bị hạ tầng

kỹ thuật số đã tạo ra một không gian rộng hơn cho các tác phẩm báo chí và

28

các cơ quan báo chí. Các sản phẩm tồn tại dưới dạng vật chất bị phụ thuộc

và có nhiều giới hạn đã đặt ra nhiều rào cản trong khả năng sáng tạo và

truyền tải thông điệp của mỗi nhà báo.

Quá trình phát triển của mô hình thu phí subscribe: Theo nhà

nghiên cứu Sasu Tarkoma, Đại học Helsiki, Phần Lan, subscribe là một mô

hình phổ biến được sử dụng để kết nối các nhà cung cấp thông tin và người

tiêu thụ thông tin vượt qua giới hạn về thời gian và không gian. Thuật ngữ

subscribe được nhắc đến lần đầu năm 1987 qua một hoạt động của hệ

thống ISIS, cho phép kết nối, theo dõi thông tin giữa các hệ thống máy

tính. Qua thời gian cùng sự phát triển của công nghệ, subscribe đã trở

thành một thuật ngữ chỉ hoạt động phân phối thông tin một cách tức thời từ

nguồn phát đến người đăng kí nhận thông tin thông qua các thiết bị kỹ

thuật trên nền tảng số hóa.

Đối với dự báo về hướng phát triển của mô hình subscribe, công

trình nghiên cứu của Schwer và Daneshvary [45] đã dự báo: một số cơ

quan báo chí có thể loại bỏ các nhà quảng cáo để chuyển từ phát hành miễn

phí sang thu phí người xem mà vẫn thu được lợi nhuận, nhờ vào chất lượng

các bài viết và khả năng khai thác thông tin của mỗi nhà báo. Trong lịch sử

nghiên cứ báo chí, việc định giá tin tức và hướng duy trì chất lượng tin tức

đã lặp lại nhiều lần trong các nghiên cứu khoa học chuyên ngành báo chí.

Về dự đoán sự phát triển của các ứng dụng công nghệ thông tin thu

phí trên báo chí thời kỳ số, nhóm tác giả Alison Alexander, James Owers,

Rod Carveth, C.Ann Hollifield, Albert N.Greco vào năm 2004 đã công bố

công trình nghiên cứu khoa học mang tên “Kinh tế của các phương tiện

truyền thông: Lý thuyết và thực hành” đã phân tích về tầm quan trọng của

nền kinh tế truyền thông và sự chuyển mình của nền kinh tế tri thức do

những tác động từ sự thay đổi khoa học, công nghệ, kỹ thuật và các mô

hình tài chính kinh tế khác. Công trình đã chỉ rõ, trong thời kỳ điện tử số

29

hóa mặc dù số lượng độc giả giảm nhưng các công ty báo chí sẽ vẫn có thể

tồn tại bằng việc áp dụng đổi mới công nghệ để thích nghi với việc thay đổi

lối sống, nhu cầu tiêu dùng của độc giả.

Từ năm 2017, nghiên cứu của Media Insight Project trực thuộc Viện

Báo chí Mỹ đã đưa ra kết luận: “Tương lai của nhà báo và báo chí hoàn

toàn phụ thuộc vào sự chi trả của độc giả (subscriber) đối với thông tin

báo chí trên mạng internet” [54]. Khảo sát trên 2,199 người Mỹ trưởng

thành dưới 35 tuổi sử dụng báo điện tử cho thấy, cứ 10 người thì có 4

người trả tiền để có được tin tức tương đương 53% số người được hỏi đồng

ý hoặc đã trả tiền cho việc mua tin tức.

1.2.2 Sản phẩm báo chí, truyền thông trên nền tảng số

Nhìn từ tiến trình ra đời và phát triển của các mô hình báo chí

mới: Trong quá trình phá vỡ mọi giới hạn, các loại hình báo chí mới đã ra

đời, phục vụ tốt hơn cho nhu cầu của công chúng. Các loại hình báo chí

mới đã tận dụng triệt để thành tựu của các sản phẩm điện tử số hóa, khai

thác tối đa những thiết bị cá nhân để từng bước thu hẹp khoảng cách với

công chúng.

Báo chí di động (Mobile Media, Mobile News). Đây là sản phẩm đa

chức năng, tên gọi của nó thể hiện hai quá trình: sử dụng thiết bị di động để

làm báo và sử dụng thiết bị di động như một kênh truyền dẫn tin tức. Báo

chí di động có đầy đủ các đặc điểm của báo chí truyền thống, giữ vững vai

trò nhiệm vụ về chính trị, kinh tế, văn hóa giáo dục và các chức năng cơ

bản; tính ưu việt của báo chí di động là nhanh chóng, tiện lợi, tồn tại trên

môi trường hạ tầng số.

Siêu tác phẩm báo chí: từ gốc trong tiếng Anh là Mega Story, Long-

form hay E-magazine là thể loại báo chí hiện đại trong thời đại công nghệ

kỹ thuật số, tạo cho công chúng một môi trường thực tại ảo sống động để

trải nghiệm và tương tác với cơ quan báo chí. Một siêu tác phẩm báo chí

30

được cấu thành từ: ký tự, ảnh, âm thanh (tiếng động hiện trường, phỏng

vấn), phim tài liệu ngắn, các biểu đồ nhúng kèm mã url để tự động phát

trên nền giao diện. Mục đích của siêu tác phẩm báo chí là thu hút độc giả,

cho họ một cái nhìn toàn cảnh về sự kiện, phục vụ cho cả công chúng phổ

thông và những nhà nghiên cứu học thuật. Bên cạnh đó, siêu tác phẩm báo

chí còn là một phương thức để thúc đẩy quá trình tương tác giữa công

chúng với cơ quan báo chí.

Nhìn từ sự thay đổi đơn vị cung ứng, phân phối, truyền tải sản

phẩm báo chí: Nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của công chúng và thoát

khỏi thị trường độc quyền loại hình truyền thống, thị trường báo chí truyền

thông số thu phí từ người sử dụng tập trung ở 4 dạng sản phẩm chính, đó

là: Dạng sản phẩm do cơ quan báo chí trực tiếp thiết kế và cung cấp; Dạng

sản phẩm liên kết giữa cơ quan báo chí với hạ tầng/doanh nghiệp viễn

thông (Telco); Dạng sản phẩm trên nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin

ICT và Các dạng sản phẩm thu phí khác:

Dạng sản phẩm do cơ quan báo chí trực tiếp thiết kế và cung cấp:

Cơ quan báo chí trực tiếp sản xuất ra sản phẩm báo chí số, định giá sản

phẩm và thông báo mức phí bình ổn tới các khách hàng là độc giả trung

thành của họ. Đây là doanh thu trực tiếp của các cơ quan báo chí có sản

phẩm số hóa. Ưu điểm của mô hình này là số lượng bài viết sẽ được cung

cấp dựa trên khả năng chi trả trực tiếp của khách hàng. Khách hàng không

cần phải chi trả cho những chi phí phát sinh như giá nguyên liệu giấy, chi

phí phát hành… Hạn chế của mô hình này là khả năng phân tầng khách

hàng lớn, nhiều khách hàng không có thói quen sử dụng giao dịch điện tử,

thiếu kiến thức về kỹ thuật số hoặc nhóm khách hàng thu nhập thấp sẽ

không sử dụng sản phẩm này.

Dạng sản phẩm liên kết giữa cơ quan báo chí với hạ tầng/doanh

nghiệp viễn thông (Telco): Các nhà khai thác viễn thông hiện nay thường

31

sở hữu cơ sở hạ tầng thụ động và họ chỉ có thể đóng vai trò chủ động khi

cung cấp dịch vụ cho người dùng cuối. Xuất phát từ quan điểm “mua một

gói” sản phẩm thường sẽ rẻ hơn là mua từng nội dung riêng lẻ, nên sẽ dễ

thu hút được sự chú ý của công chúng hơn, đặc biệt là nhóm khách hàng có

thu nhập trung bình - thấp. Đây cũng chính là ưu điểm của mô hình này,

bên cạnh đó, các cơ quan báo chí có thể tiếp cận với lượng khách hàng

rộng hơn. Hạn chế: các đơn vị viễn thông không chủ động sản xuất tin tức,

chỉ có thể kinh doanh cái mà đơn vị báo chí cung cấp.

Dạng sản phẩm trên nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin mở, do

các nhà cung cấp và hạ tầng CNTT mang tính toàn cầu phát triển: ICT là

cụm từ viết tắt của Information & Communication Technologies có nghĩa

là Công nghệ thông tin và Truyền thông. Là một thuật ngữ nhấn mạnh quá

trình kết nối và chia sẻ thông tin dưới nhiều hình thức khác nhau. Sản

phẩm của quá trình này là sản phẩm báo chí số hoặc là sản phẩm giải trí số

thông thường. Ưu điểm của mô hình kinh doanh trên nền tảng ICT là có

phân khúc khách hàng rõ ràng thông qua các chỉ số về thói quen, sở

thích… từ đó đưa ra các sản phẩm phù hợp cho khách hàng. Hạn chế của

mô hình này là tính báo chí ít hoặc dễ bị biến tướng.

Các mô hình sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí khác, bao

gồm: sản phẩm báo chí thu phí đi kèm các sản phẩm thương mại, như

mô hình subscribe box: công chúng đăng ký mua gói sản phẩm báo chí

và hàng tháng, hàng năm họ sẽ nhận được một hộp quà bao gồm các sản

phẩm làm đẹp, đồ gia dụng, mẫu thử… các sản phẩm trong hộp quà đều

là sản phẩm chất lượng cao hoặc sản xuất với số lượng hạn chế. Hoặc

khách hàng sử dụng dịch vụ vận tải đường dài được trải nghiệm sản

phẩm giải trí số miễn phí.

Trong mô hình sản phẩm báo chí, truyền thông số thu phí từ người

sử dụng, tất cả các hoạt động thanh toán, nhận sản phẩm đều được thực

32

hiện trên nền tảng số. Có nghĩa là mọi giao dịch và hoạt động thụ hưởng

đều đã được số hóa. Điều này làm giảm thiểu những trở ngại như thất lạc,

nhầm lẫn, sai sót trong khâu phát hành. Hoạt động thu phí trên nền tảng

mạng điện tử phổ biến khi các cơ quan báo chí biến lưu lượng truy cập

thành giao dịch. Độc giả và người khai thác thông tin có thể mua nội dung

hoặc đóng góp nội dung chỉ bằng một cú nhấp chuột.

Xét về góc độ kinh tế, một sản phẩm được bán ra dưới hai hình thức:

bán lẻ và bán buôn (bán sỉ). Căn cứ vào hình thức kinh doanh, có thể chia

sản phẩm báo chí, truyền thông số làm hai hình thức: sản phẩm thu phí mỗi

lần sử dụng và sản phẩm thu phí theo gói sản phẩm.

Các sản phẩm báo chí, truyền thông số thu phí cho mỗi lần sử dụng

(pay-per-use/ pay-per-view) là cách thức bán lẻ theo từng bài viết, khi

khách hàng muốn đọc một bài viết, họ sẽ trả tiền để mua bài viết đó, số tiền

phải trả cho một bài viết dao động theo một khung giá nhất định (có thể

quy đổi bằng giá trị tiền mặt hoặc các hình thức thanh toán điện tử) tùy vào

hàm lượng thông tin và chất lượng nội dung của tác phẩm. Về cơ bản, trả

tiền cho mỗi lượt xem, như một mô hình kinh doanh, lần đầu tiên xuất hiện

trong lĩnh vực truyền hình. Như tên gọi của mình, nó là một hệ thống cho

phép người dùng chỉ cần trả tiền cho những gì họ muốn xem. Tuy nhiên,

bên ngoài ngành công nghiệp truyền thông số, mô hình thường được gọi là

"trả tiền cho mỗi lần sử dụng"[47]. Mô hình thu phí cho thấy sự lựa chọn

chủ động của công chúng khi họ bị thu hút bởi chất lượng thông tin, tự

nguyện trở thành một độc giả trung thành của cơ quan báo chí.

Do sự phát triển của các sản phẩm báo chí, truyền thông số thu phí

từ người sử dụng diễn ra rất nhanh chóng, phức tạp và chuyển biến liên tục,

việc khái quát hóa thành một mô hình chuẩn để có thể nhận diện chính xác

nhất là nhiệm vụ tương đối khó khăn. Trong phạm vi nghiên cứu này,

33

chúng tôi bước đầu phác họa nhận diện như sau:

Biểu đồ 1.1: Mô hình sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí từ người sử

dụng (subscriber)

1.2.3 Đặc điểm của sản phẩm báo chí, truyền thông số thu phí

Đặc điểm nổi trội đầu tiên trong sự phát triển các sản phẩm báo chí,

truyền thông số thu phí từ người sử dụng, đó là quá trình hình thành thương

hiệu và sự khác biệt cốt lõi của sản phẩm. Một trong những tài sản có giá

trị nhất của tờ báo là thương hiệu, danh tiếng và sự khác biệt cốt lõi của nó.

Thời kỳ đầu phát triển các sản phẩm trên mạng internet, nhiều tờ báo, tạp

chí in sau nhiều năm phát hành bản giấy đã cho ra đời những phiên bản

điện tử mang tính mô phỏng từ bản giấy. Tuy nhiên chỉ sau một thời gian

ngắn, nhiều cơ quan báo chí có sản phẩm số miễn phí đều nhận thấy sự sụt

giảm hoặc số lượng truy cập của độc giả trở nên bấp bênh, không đều theo

34

từng ngày, từng tháng, từng sự kiện. Biểu hiện của vấn đề này cho thấy

không phải nội dung nào miễn phí trên mạng internet cũng đều là thứ hấp

dẫn và cần thiết với công chúng.

Bất cứ khi nào nói về nội dung tin tức miễn phí với các tòa soạn, lập

luận phổ biến là: “Người nào đó phải trả tiền cho báo chí, hoặc báo chí sẽ

phải trả tiền cho nó” [46]. Điều đó có nghĩa là, nhiều cơ quan báo chí đang

bị chịu lỗ khi đẩy sản phẩm thông tin của mình một cách “miễn phí” (hoặc

được hiểu là dựa vào mô hình nguồn thu từ quảng cáo) trên nền tảng điện

tử. Người đọc có thể lựa chọn bài viết của bất kỳ cơ quan nào vì mức độ

phổ biến của thông tin, họ không cảm thấy bị thu hút, choáng ngợp và có

sự tin tưởng nhất định, vì thế việc trở thành độc giả trung thành của tờ báo,

tạp chí trên không gian mạng là điều không thể. Bởi lẽ, hạ tầng được số

hóa, các độc giả đều không được định danh, họ có thể truy cập vào trang

báo mạng điện tử dưới địa chỉ IP (mã số máy tính) mà họ đang sử dụng;

nhưng đó chưa phải là cơ sở để đánh giá mức độ trung thành của độc giả vì

một người có thể sử dụng nhiều thiết bị cá nhân để truy cập vào các trang

web. Điều này khác hoàn toàn với việc đặt mua báo, tạp chí có địa chỉ

người nhận rõ ràng. Khi tin tức miễn phí, độc giả sẽ sử dụng các trang báo

mạng điện tử theo thói quen, có nghĩa là họ không còn cảm giác phân biệt

về cơ quan nào cung cấp thông tin gì, hoạt động tiếp nhận không cố định

bởi họ có thể đọc tin tức ở bất cứ trang nào mà họ thấy: qua quảng cáo

hoặc do bạn bè chia sẻ trên mạng xã hội…

Khi Internet ra đời, theo như sự mô tả của tác giả cuốn “Thế giới

phẳng” - Thomas L.Friedman, khi bức tường Berlin sụp đổ, bức tường

Windows đã tạo ra một thế giới phẳng nơi ai cũng có thể dễ dàng tiếp cận

thông tin ở khắp thế giới. Không còn những giới hạn về địa lý và thời gian,

hoạt động tiếp nhận thông tin theo đó cũng trở nên phổ biến hơn, nhanh

35

hơn và dễ dàng hơn. Khi đó các cơ quan như báo in, phát thanh và truyền

hình dần bộc lộ những điểm yếu trong tốc độ của thị trường tin tức, công

chúng dần dần thay đổi cách tiếp cận và thị hiếu của họ.

Sự phát triển các sản phẩm báo chí, truyền thông thu phí từ người

sử dụng góp phần xác định cơ chế liên kết mới giữa cơ quan báo chí,

truyền thông với công chúng (trong vai trò khách hàng mua sản phẩm)

một cách chặt chẽ, bền vững và xác định trong khung thời gian cụ thể (theo

từng tuần, tháng, năm) hoặc theo tính chất cấp thiết của nội dung thông tin.

Điều này sẽ đảm bảo cho một dòng tiền ổn định từ người đăng ký trả trước.

Về mặt kế hoạch kinh doanh, mô hình đăng ký sẽ cho phép cơ quan báo chí

truyền thông có một tầm nhìn rõ ràng hơn về nhu cầu thực sự của công

chúng và hỗ trợ cho việc lên kế hoạch để đáp ứng những nhu cầu đó.

Mô hình sản phẩm báo chí, truyền thông số thu phí từ người sử

dụng cho thấy mức độ của chủ động rất cao của công chúng trong việc

tiếp cận và đón nhận thông tin, sự kiện. Trong bối cảnh bão hòa, cạnh

tranh quảng cáo và sự ra đời của mạng xã hội đã làm suy giảm doanh thu

gián tiếp của các cơ quan báo chí. Việc khai thác tối đa lợi nhuận từ các

sản phẩm thông tin số của các tập đoàn truyền thông cũng đã đặt ra một

thách thức lớn cho các nhà xuất bản, tòa soạn báo truyền thống trên thế

giới. [48].

Đây là sự thể hiện ở cấp độ mới của tiến trình phát triển số hóa của

cơ quan báo chí, truyền thông. Với việc thiết kế, phát triển sản phẩm báo

chí số thu phí từ người sử dụng, các tòa soạn có sự đổi mới mạnh mẽ hoạt

động nghiệp vụ của mình, trong đó chú trọng việc liên kết, phối hợp với

các hạ tầng viễn thông, công nghệ thông tin và các nền tảng thương mại

điện tử. Các đơn vị khai thác viễn thông thường sở hữu cơ sở hạ tầng thụ

động và họ chỉ chủ động khi cung cấp dịch vụ cho người dùng, nhưng mức

độ tiếp nhận của khách hàng thường xuyên thay đổi theo giai đoạn. Có

36

những dịch vụ triển khai trong thời gian dài, và cũng có dịch vụ bị khai tử

ngay khi vừa ra mắt. Ngược lại, mức độ liên tục của các dòng chảy thông

tin lại đem đến sự tương tác giữa nguồn phát và người tiếp nhận nhưng

nhiều cơ quan báo chí lại không thể chủ động đem lại nguồn thu nhập cho

mình nếu không chủ động nắm được số lượng công chúng tiềm năng sẵn

sàng tiếp cận sản phẩm của họ. Khi đó, đơn vị viễn thông đóng vai trò cung

cấp cơ sở hạ tầng vật lý và mạng tích hợp, cho phép các cơ quan báo chí sử

dụng hạ tầng của họ để tiếp cận người dùng có định danh. Điều này đã phát

triển thế mạnh của cả hai bên và gia tăng doanh thu từ các dịch vụ.

1.3. Mối quan hệ giữa nhà sản xuất, sản phẩm, hệ thống phân phối và

ngƣời tiêu dùng trong thị trƣờng nội dung số

1.3.1. Về dây chuyền sản xuất và phân phối sản phẩm báo chí, truyền

thông truyền thống

Kinh tế học đã đưa phương pháp phân chia các giai đoạn sản xuất

theo một quy trình, căn cứ trên những khác biệt về công nghệ, và thông qua

đó phân tích đặc điểm kinh tế và tìm ra con đường tối ưu hóa cho mỗi công

đoạn sản xuất. Áp dụng cho công nghiệp truyền thông, lý thuyết kinh tế sẽ

cho phép xác định các giai đoạn sản xuất lớn và chủ chốt, giúp cho sự gắn

kết của các nhà sản xuất và người tiêu dùng:

Biểu đồ 1.2: Dây chuyền sản xuất trong ngành công nghiệp truyền thông

Thị trường báo chí, truyền thông được xác lập bởi mối quan hệ từ

nhà sản xuất là cơ quan báo chí cung cấp các sản phẩm thông tin, thông

qua các kênh phân phối để đến tay người tiêu dùng là khách hàng. Trong

mô hình hoạt động của thị trường báo chí truyền thông truyền thống có sự

tồn tại của bốn yếu tố, đó là: nhà sản xuất, sản phẩm, hệ thống phân phối

37

và người tiêu dùng. Trong đó:

- Hệ thống phân phối trong thị trường báo chí, truyền thông truyền

thống là các đơn vị, thiết bị trung gian đóng vai trò là kênh truyền

tải trung gian vận chuyển sản phẩm từ cơ quan báo chí đến người

tiêu dùng.

- Người tiêu dùng là khái niệm dùng để chỉ các cá nhân có nhu cầu

và có khả năng tài chính để chi trả, sở hữu sản phẩm kinh tế.

Người tiêu dùng là người chủ động đưa ra quyết định tiêu thụ sản

phẩm và không làm chủ nguyên liệu sản xuất. Căn cứ Điều 3

Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng do Quốc hội ban hành

năm 2010: Người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hóa,

dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình,

tổ chức”.

Nếu như đối với các cơ quan sản xuất báo in, sản phẩm báo chí tồn

tại dưới dạng vật chất (giấy) nên quá trình sản xuất có thêm khâu đóng gói

sản phẩm chuyển bản thiết kế đến xưởng in để in ấn phẩm hàng loạt. Hệ

thống phân phối của báo in là các sạp báo và cơ quan phát hành báo chí.

Các sạp báo đóng vai trò là nhà bán lẻ, nhập báo chí số lượng lớn (mua

buôn) và trưng bày, giới thiệu, bán sản phẩm cho khách hàng (bán lẻ). Các

cơ quan phát hành báo chí làm nhiệm vụ tổng hợp danh sách khách hàng

đăng ký mua báo, tạp chí qua hệ thống bưu điện theo từng mã sản phẩm,

từng địa phương, sau đó đơn vị phát hành nhận ấn phẩm từ xưởng in và

chuyển đến địa chỉ khách hàng đã đăng ký qua bưu điện. Một ấn phẩm

được xuất bản cho đến tay người tiêu dùng phải cần một khoảng thời gian

xác định, đây còn gọi là thời gian hao phí.

Đối với các cơ quan phát thanh - truyền hình, công đoạn đóng gói

được giảm tải, chủ động hơn do không cần đơn vị sản xuất vật chất như

xưởng in mà sản phẩm làm ra ở một định dạng kỹ thuật (visual – nghe

38

nhìn) hoàn toàn phụ thuộc vào kỹ năng của phóng viên, kỹ thuật viên. Hệ

thống phân phối sản phẩm phát thanh truyền hình ở rất nhiều hạ tầng như:

cột thu phát sóng (analog/digital mặt đất), đường dây cáp đồng trục/cáp

quang, các thiết bị đầu cuối như ti vi, radio... Để sản phẩm truyền hình,

phát thanh đến được với người tiêu dùng, cần đảm bảo hệ thống hạ tầng

thiết bị hoạt động tốt và tương thích với nhau. Thời gian hao phí truyền

phát của phát thanh, truyền hình được tính bằng vài giây cho đến vài phút.

Tuy nhiên, vấn đề hao phí lớn nhất trong quá trình phân phối sản phẩm

phát thanh, truyền hình là giảm chất lượng âm thanh, hình ảnh. Yêu cầu đặt

ra là cần phải nén hình ảnh động vừa đủ để đảm bảo việc suy giảm chất

lượng ít nhất (lossy compression) nhưng tiết kiệm băng thông nhất.

Như vậy, trong mô hình thị trường báo chí, truyền thông truyền

thống, để sản phẩm báo chí đến được với người tiêu dùng, cần thông qua

nhiều bước trung gian, có sự phối hợp của cả nhân lực và cả thiết bị truyền

dẫn. Trong quá trình này thường xảy ra tình trạng hao phí thời gian và

giảm chất lượng sản phẩm; bên cạnh đó, bộ máy phân phối dễ phình to,

nhiều chân rết, không đảm bảo chất lượng vận chuyển còn tồn tại tình trạng

thất lạc sản phẩm, nhầm lẫn, hoặc nhiều nhóm khách hàng ở vùng sâu vùng

xa, địa hình hiểm trở gặp khó khăn khi tiếp cận với sản phẩm báo chí

truyền thông. Còn tồn tại tình trạng độc giả quay lưng với sản phẩm báo

chí truyền thống bởi ảnh hưởng từ các khâu phát hành trung gian gây thất

lạc, gián đoạn khiến sự kết nối giữa cơ quan báo chí và khách hàng luôn bị

đứt gãy.

1.3.2. Dây chuyền sản xuất và phân phối sản phẩm báo chí, truyền

thông trong môi trƣờng kỹ thuật số

Kế thừa và phát huy những ưu điểm của thị trường báo chí, truyền

thông truyền thống, các sản phẩm báo chí truyền thông số đã có bước phát

triển mới trong quá trình phân phối sản phẩm, dựa trên môi trường. Theo

39

đó, hạ tầng phân phối sản phẩm báo chí, truyền thông số là dựa trên hạ tầng

cáp quang internet có tốc độ cao và độ nén lớn do ứng dụng thành công

chíp hiệu năng xử lý hình ảnh; việc sử dụng thuật toán để mã hóa âm

thanh, hình ảnh cũng là thế mạnh của internet, khiến cho việc truyền tải trở

nên dễ dàng hơn.

Trong thị trường báo chí, truyền thông số, sản phẩm đi từ nhà sản

xuất đến thẳng người tiêu dùng qua mạng internet; giảm thiểu thời gian hao

phí, khắc phục vấn đề giảm chất lượng sản phẩm, đồng thời cũng thiết lập

được đường tương tác phản hồi (bacbone) tới nguồn phát. Khi phản ánh sự

kiện, các bài báo mạng điện tử được phóng viên tác nghiệp ngay tại thời

điểm sự kiện diễn ra hoặc ngay sau khi sự kiện kết thúc. Hệ thống phân

phối cũng rút ngắn thông qua hạ tầng cáp internet và thiết bị đầu cuối là

thiết bị điện tử cá nhân như máy tính, điện thoại di động. Theo sự phát triển

của công nghệ, thiết bị đầu cuối được tích hợp gọn nhẹ vào các thiết bị điện

tử cá nhân như điện thoại di động, giúp cho người tiêu dùng dễ dàng tiếp

cận sản phẩm hơn.

Trước sự thay đổi nhanh chóng của thị trường kinh tế, đặc biệt là

chịu sự ảnh hưởng của công nghệ, có ý kiến cho rằng, nhóm người tiêu

dùng trẻ đang có xu hướng ngừng chi trả cho các sản phẩm phải qua nhiều

khâu trung gian để rút ngắn hơn thời gian tiếp cận sản phẩm. Thay vì phải

trả một khoản tiền cho toàn bộ chi phí sản xuất thông tin, chi phí in ấn như

giấy mực bản kẽm in, chi phí phát hành, vận chuyển… họ muốn giảm bớt

các giai đoạn trung gian.

Khi xem xét mối quan hệ giữa thị trường, sản phẩm và người tiêu

dùng nhà kinh tế học Carl Menger nhận định: “Cá nhân có quyền lựa

chọn” [17; 34]. Quan điểm này phù hợp với nền kinh tế thị trường hiện đại

khi nó chú trọng vào mục đích và khuynh hướng tự chủ trong tiếp nhận sản

phẩm của công chúng. Tham chiếu quan điểm vào nền kinh tế báo chí,

40

truyền thông, nhận thấy: khi công chúng phát sinh những nhu cầu mới thì

các cơ quan báo chí, truyền thông sẽ tìm những phương cách nhằm đáp

ứng nhu cầu của họ. Giống như các mô hình kinh tế khác, sự tồn tại của

cung và cầu đã tác động không nhỏ đến việc tổ chức các mô hình sản xuất.

“Như vậy, cần xác định rằng, báo chí truyền thông là một thị trường đặc

biệt, để đạt được hiệu quả doanh số, các cơ quan, tổ chức phải chú trọng

đến ba điểm mấu chốt: vai trò của công chúng (nhu cầu hàng hóa), vai trò

của nhà quảng cáo (nhu cầu dịch vụ) và đặc trưng nơi vùng miền hoạt

động (địa bàn).” [28; tr.29].

Theo nghiên cứu của Carina Ihlstrom và Jonathan Palmer (2002) về

Doanh thu trực tuyến trên báo mạng điện tử có đề cập đến xu hướng tiếp

cận của người tiêu dùng trước các sản phẩm báo chí truyền thông số, đó là:

Hơn 91% số người được hỏi có niềm tin đối với trang báo mạng điện tử

như đối với giấy in. Hơn 37% người dùng phản ứng tốt với việc sử dụng

âm thanh và hình ảnh chuyển động trên giao diện website, họ cho rằng nó

đem lại sự đa dạng cho tác phẩm báo chí[47]. Có thể nói, mặc dù thị hiếu

của công chúng đang thay đổi nhưng vẫn có những điểm căn cốt không thể

thay đổi trong thói quen tiêu thụ và cách tiếp cận của công chúng.

Năm 2014, nhà nghiên cứu Juergen Grimm đã đưa ra quan điểm về

mối quan hệ giữa độc giả và người làm truyền thông trong Nghiên cứu ảnh

hưởng của phương tiện truyền thông: Giới thiệu một số phương pháp và lý

thuyết (Media effect research: Introduction to the theory and methods), đó

là: “Người làm truyền thông phải tìm ra nhiều giải pháp khác nhau để tác

động đến các nhóm công chúng khác nhau, nhằm thu lại hiệu quả tối đa

cho hoạt động truyền thông”. Nhu cầu tiêu thụ tin tức kỹ thuật số và sự

phát triển ngày càng nhanh chóng của các thiết bị điện tử cá nhân trong đó

có điện thoại di động thông minh đã trở thành một “lực cản” cho sự sụt

giảm phát hành của các loại hình truyền thông truyền thống như in ấn hay

41

thuê bao truyền hình cáp. Ngoài ra, phạm vi tiếp cận rộng lớn của các nền

tảng mạng xã hội trực tuyến và nền kinh tế số tương ứng với mô hình kinh

doanh dựa trên dữ liệu đã được cá nhân hóa với tốc độ nhanh trở thành một

hợp đồng hấp dẫn với ngành quảng cáo. Doanh thu quảng cáo đã chuyển

đáng kể từ các nền tảng truyền thống sang nền tảng viễn thông và truyền

thông số. Bên cạnh đó, các đơn vị viễn thông sẵn sàng chia sẻ và cung cấp

hạ tầng với các đơn vị báo chí, truyền thông đã thúc đẩy các nhà báo (cả

chuyên nghiệp và nhà báo công dân) tìm kiếm những cách sáng tạo mới để

duy trì hoạt động kinh doanh.

1.4. Những biểu hiện và đặc điểm của thị trƣờng báo chí, truyền thông

số thu phí từ ngƣời sử dụng

1.4.1. Những biểu hiện mới của thị trƣờng báo chí, truyền thông số

Thứ nhất, các sản phẩm báo chí, truyền thông số tồn tại trong môi

trường công nghệ số hiện đại có nhiều thuận lợi trong việc tiếp cận người

tiêu dùng khi các thiết bị hạ tầng số đang trở thành công cụ thiết yếu trong

đời sống. Việc nâng cấp hạ tầng viễn thông lưu trữ dữ liệu cùng với những

tiến bộ trong tự động hóa, phân tích và công nghệ số đã giảm thiểu thời

gian hao phí của nhà sản xuất và người tiêu dùng. Các doanh nghiệp không

cần phải chào bán sản phẩm trực tiếp mà vẫn tiếp cận được khách hàng.

Việc áp dụng những công nghệ mới, đặc biệt mạng thế hệ thứ 3 (3G) ra

đời, đã thay đổi tốc độ truy cập Internet theo hướng tăng cao đáng kể. Các

dịch vụ giá trị gia tăng trên nền di động được các nhà cung cấp dịch vụ

khai thác triệt để, bởi ngoài việc làm phong phú đa dạng dịch vụ của mình,

nhà cung cấp còn hưởng lợi từ nguồn thu mới [29; tr.198].

Thứ hai, sự phát triển của công nghệ đã khắc phục mọi khoảng

cách giữa người làm báo và công chúng của mình, từ đó gia tăng khả

năng tương tác và theo đó mức độ niềm tin của công chúng với cơ quan

báo chí cũng theo đó mà được nâng lên: Các hình thức báo chí trực

42

tuyến mới (các hình thức báo chí hợp tác, tài trợ đám đông, báo chí

công dân, nội dung do người dùng tạo, v.v.) là cơ hội để giao tiếp trực

tiếp hơn giữa các nhà báo và độc giả của họ. Sự tin tưởng và minh bạch

là chìa khóa thành công [43; tr.18].

Thứ ba, sự phát triển các sản phẩm truyền thông thu phí từ người sử

dụng khiến mô hình kinh doanh truyền thống, cùng với các hình thức giao

kết giữa người bán và người mua trên thị trường truyền thông thay đổi.

Thời kỳ đầu, khi đưa nội dung thông tin báo chí lên mạng điện tử trực

tuyến, các cơ quan báo chí, truyền thông quyết định phá vỡ mô hình doanh

thu trực tiếp từ khách hàng truyền thống (xem/đọc trả tiền), bằng cách

không tính phí người dùng với bất cứ loại thông tin nào. Thay vào đó các

cơ quan báo chí hoàn toàn dựa vào doanh thu từ quảng cáo trên cơ sở

lượng khách hàng truy cập, tốc độ sản xuất sản phẩm tin - bài... đã thu hẹp

doanh thu của cơ quan báo chí.

Trên thực tế, khi không thu phí sản phẩm, hầu hết các tòa soạn định

hình mối liên hệ với độc giả của họ “giống như là khách truy cập vãng lai”

hơn là “độc giả trung thành”. Thay vì tạo ra các sản phẩm nhằm đáp ứng

nhu cầu của công chúng, các cơ quan báo chí chỉ trông chờ vào quảng cáo

trực tuyến. Theo các nhà nghiên cứu Đan Mạch đã mô tả, đây là một dạng

tư duy “doanh thu ngắn hạn”, ví như một cuộc thi chạy bền mà lúc đầu, cơ

quan báo chí có thể nhận thấy những lợi ích ngắn hạn hoặc doanh số có

mức tăng đáng kể, nhưng dần dần khi thông tin bão hòa, thị trường sẽ “bão

hòa” đi rất nhanh.

1.4.2. Một số đặc điểm của thị trƣờng báo chí, truyền thông số

Nhìn từ các mối quan hệ trong thị trường, dựa trên sự tương tác giữa

các cơ quan báo chí, truyền thông với khách hàng của họ, chúng ta có thể

nhận thấy là:

Thứ nhất, hoạt động thu phí người sử dụng sẽ đưa những địa chỉ

43

proxy vô danh thành những tài khoản được định danh, theo đó, các cơ

quan báo chí có thể nắm được con số độc giả trung thành cụ thể chứ không

chỉ trông chờ vào những cú nhấp chuột ngẫu nhiên. Khi độc giả ngày càng

trở nên thông minh hơn, họ sẽ trông chờ vào những sản phẩm báo chí chất

lượng cao và chấp nhận bỏ tiền mua tin tức chất lượng hơn là đọc những

tin tức miễn phí.

Thứ hai, các tòa soạn đang chú trọng vào các sản phẩm đa phương

tiện có chất lượng nổi trội, có khả năng tạo ra ấn tượng mạnh mẽ với công

chúng. Đó là tiền đề cho sự phát triển của nhiều dạng thức sản phẩm báo

chí mới như Mega story, long-form... rất sinh động, đa dạng.

Thứ ba, sự tham gia khách hàng là tiêu chí quan trọng nhất để đánh

giá sự thành công của sản phẩm trong giai đoạn truyền thông số. Nhấp

chuột, chia sẻ, lượt xem trang, tỷ lệ thoát và thời gian dừng, các địa chỉ

proxy có thực... không phải là thông số chính để đánh giá một mô hình báo

chí thành công. Từ thực tiễn hoạt động ở các công ty đăng ký nội dung số

hàng đầu trên thế giới, các số liệu về sự hài lòng của khách hàng là yếu tố

quan trọng nhất. Giống như các sản phẩm báo chí truyền thống, sự hài lòng

của công chúng là điều níu giữ họ tiếp tục duy trì mối quan hệ với các cơ

quan báo chí, đây cũng là đặc trưng chung của nền kinh tế: khách hàng chỉ

tiếp tục gia hạn/mua thêm sản phẩm khi họ cảm thấy hài lòng với các mặt

hàng được cung ứng.

Thứ tư, hình thành và phát triển các mối quan hệ mới bền chặt hơn

với công chúng truyền thông (trong vai trò người sử dụng sản phẩm truyền

thông) trong bối cảnh xã hội nâng cao tương tác cá nhân. Tại thời điểm

này, nhiều cơ quan báo chí, tập đoàn truyền thông truyền thống chỉ liên lạc

với khách hàng của họ khi gửi hóa đơn và các văn bản thông báo theo tiêu

chuẩn thông thường. Để khắc phục điều này cần cải thiện dịch vụ khách

hàng, tăng sự tập trung vào sản phẩm có chất lượng. Công nghệ luôn thay

44

đổi bởi thị hiếu của công chúng luôn thay đổi, nếu như các tòa soạn, đơn vị

truyền thông không thay đổi theo thị hiếu, hoặc tìm cách duy trì mối liên hệ

với công chúng của mình, họ sẽ bị tụt lại phía sau.

Như vậy, trong thị trường kinh tế số, các cơ quan báo chí sẽ có tầm

nhìn rõ ràng, dài hạn dựa trên các chủ số thực của thị trường xuất phát từ

dữ liệu người dùng, theo đó, các cơ quan báo chí sẽ không ngừng cải hiện

và làm mới mình nhằm tạo ra những sản phẩm báo chí có chất lượng. Đối

với người tiêu dùng, thị trường báo chí truyền thông số sẽ đem lại cho

khách hàng nhiều cơ hội để tiếp cận các sản phẩm có thể phục vụ hữu hiệu

cho nhu cầu cấp bách từ cuộc sống.

1.4.3. Mối quan hệ giữa nhà sản xuất nội dung, nhà phân phối và

khách hàng trên thị trƣờng báo chí truyền thông số

Sự chuyển đổi mô hình kinh tế từ “trực tiếp đến gián tiếp” qua kỹ

thuật số đã tạo ra những thay đổi trong thị trường kinh tế báo chí. Vì vậy,

dựa trên các khái niệm và hoạt động thực tiễn của sản phẩm báo chí truyền

thông số thu phí từ người sử dụng, mối quan hệ giữa nhà sản xuất nội

dung, hệ thống phân phối sản phẩm và công chúng (trong vai trò người tiêu

dùng) có thể được mô tả như sau:

Mô hình thứ nhất: Nhà cung cấp dịch vụ chào bán một gói sản phẩm

tương đối phù hợp với người dùng dựa trên nghiên cứu về các nhu cầu của

chính người dùng (khách hàng), thông qua trích xuất một phần thông tin từ

Big Data (kho dữ liệu thông tin người dùng: dựa vào các thuật toán, có thể

trích xuất một số thông tin như thói quen, hành vi, lịch sử sử dụng của

45

người dùng) hoặc rút ra dữ liệu từ xu hướng được dự báo (trends).

Biểu đồ 1.3: Mô hình nhà cung cáp dịch vụ viễn thông chào bán gói

sản phẩm báo chí truyền thông số tới độc giả

Mô hình thứ hai: Khách hàng tự tìm kiếm các sản phẩm đơn lẻ mà

họ cho là phù hợp với bản thân mình.

Biểu đồ 1.4: Mô hình khách hàng chủ động tìm kiếm sản phẩm thông

tin số

Trong hoạt động thu phí người sử dụng trên thị trường nội dung số,

46

có ba đối tượng khách hàng được các cơ quan báo chí hướng tới, mỗi đối

tượng có một cách tiếp cận khác nhau thể hiện rõ đặc trưng về phân khúc

thị trường:

Nhóm khách hàng “sẵn sàng chi trả”. Đây là nhóm khách hàng

tiềm năng khi họ chủ động tiếp cận, và có sự nhận thức rõ ràng về vai trò

và giá trị của thông tin trả phí, tuy nhiên vì nhóm khách hàng này đã có

sẵn kiến thức trong thị trường thông tin, họ lại khá “cứng nhắc” trong

việc chi trả. Chỉ những sản phẩm chất lượng cao thì mới có thể thuyết

phục họ trả tiền.

Nhóm khách hàng “có tiềm năng chi trả”. Để thuyết phục phân

khúc khách hàng này cần chú trọng tới khối lượng thông tin hiệu quả. Thay

vì cung cấp nhiều thông tin có chất lượng cùng một lúc, các cơ quan báo

chí cần khai thác thói quen, xu hướng, mối quan tâm của khách hàng, từ đó

đẩy nhiều sản phẩm thông tin báo chí phù hợp với khách hàng để họ nhận

thấy tính ưu việt của thông tin hữu ích.

Nhóm khách hàng có xu hướng “lưỡng lự trong quyết định chi

trả”. Lượng khách hàng không muốn chi trả cho các sản phẩm báo chí

truyền thông số là khá lớn bởi họ bị giới hạn bởi các vấn đề kinh tế hoặc

nhận thức chung về thông tin. Để tiếp cận nhóm khách hàng này cần có sự

hỗ trợ của bên thứ ba, đây là lúc để các đơn vị viễn thông tham gia cùng

các đơn vị báo chí.

Vậy, mối quan hệ giữa thị trường, sản phẩm và người tiêu dùng

trong môi trường sản phẩm báo chí, truyền thông số thu phí từ người sử

dụng là một mối quan hệ mở với các đặc trưng về mô hình hoạt động kinh

tế thị trường có sự kết hợp giữa các nhóm ngành kinh tế, phát huy thế

mạnh đặc trưng của mỗi đơn vị. Nhiều cơ quan báo chí không còn tiếp cận

công chúng của mình theo cách một chiều truyền thống mà đã có sự nghiên

47

cứu thị trường, tập trung vào các phân khúc khách hàng tiềm năng, phục vụ

những nhóm công chúng chuyên biệt để từ đó nhân rộng tầm ảnh hưởng

của cơ quan báo chí trong cộng đồng.

1.5 Các tiêu chí đánh giá sự phát triển và hiệu quả sản phẩm báo chí,

truyền thông số thu phí từ ngƣời sử dụng

Để tiến hành nghiên cứu các tiêu chí làm thước đo đánh giá cho mức

độ hiệu quả của sản phẩm báo chí, truyền thông số thu phí từ người sử

dụng có thể sử dụng một số tiêu chí cơ bản như sau:

1.5.1. Các tiêu chí dựa trên thuật toán thống kê

Thứ nhất, báo cáo số liệu thống kê của hạ tầng điều hành công

nghệ thông tin (Source code) của hệ thống phân phối sản phẩm nội

dung. Báo cáo Source code giúp cho các thành viên trong dự án có một cái

nhìn tổng thể về các hoạt động trong dự án và giúp cho quá trình phối hợp

công việc được thuận lợi. Về mặt kinh tế, báo cáo Source code sẽ cho thấy

một chu trình phát triển rõ ràng của sản phẩm trên nền tảng kỹ thuật số.

Hình 1.1: Các thông số Source code của trang nytimes.com. Nguồn:

48

similarweb.com

Thứ hai, đánh giá trên cơ sở báo cáo của Google Analytics. Đây là

một dịch vụ miễn phí của Google cho phép tạo ra các bảng thống kê chi tiết

về hoạt động của khách hàng khi sử dụng một trang web: khách hàng ở lại

trên trang web trong bao lâu, vị trí địa lý, xu hướng tiếp cận của khách

hàng... Đây là sản phẩm đánh giá công khai dựa trên các thông số thuật

toán. Tuy nhiên hạn chế của Google Analytics là khách hàng hoàn toàn có

quyền từ chối cho phép truy cập vào dữ liệu cá nhân của họ.

Hình 1.2: Báo cáo chi tiết người dùng trong 7 ngày của Google Analytics

Thứ ba, đánh giá dựa trên lượng tài khoản đăng ký. Giống như các

sản phẩm báo chí truyền thống, lượng người đăng ký sử dụng sản phẩm là

một tiêu chí đánh giá sự phát triển của sản phẩm trên thị trường thông tin.

Theo đó, càng có nhiều tài khoản đăng ký trả phí nghĩa là sản phẩm đang

được phổ biến rộng rãi và phù hợp với thói quen tiếp nhận thông tin của

49

công chúng.

Hình 1.3: Báo cáo về lượng tăng trưởng của subscriber tại NYT từ năm

2011-2018. Nguồn: statista

Thứ tư, đánh giá dựa trên lượt người xem và lượng tương tác hiển

thị trên hệ thống. Trên giao diện của các sản phẩm báo chí số đều có phần

dành cho độc giả tương tác trực tiếp với nhau và tương tác trực tiếp với cơ

quan chủ quản thông qua phần đánh giá (vote) hoặc bình luận (comment).

Các số liệu này đều được công khai trên trang chủ của hệ thống, ai cũng có

thể tiếp cận. Một bài viết có nhiều lượt bình luận chứng tỏ bài viết đó có

khả năng ảnh hưởng đến công chúng hay nói cách khác là tạo ra hiệu ứng

xã hội.

50

Hình 1.4: Báo cáo đánh giá lượng người xem trên hệ thống. Nguồn GA

Thứ năm, đánh giá dựa trên lượt chia sẻ trên các trang mạng xã

hội. Hiện nay, các sản phẩm báo chí truyền thông số đều có sự liên kết chặt

chẽ với các sản phẩm kỹ thuật số khác như mạng xã hội và blog, do cùng

tồn tại trên một nền tảng kỹ thuật số và chính thói quen sử dụng của công

chúng đã tạo ra sự liên kết giữa các sản phẩm kỹ thuật số. Trên giao diện

của các trang báo mạng điện tử đều có mã nhúng (embed code) tạo ra liên

kết giữa trang báo và trang mạng xã hội của khách hàng, theo đó, thay vì

copy đường link của cả bài báo và dán thủ công lên trạng thái tài khoản

mạng xã hội; khách hàng có thể chọn chia sẻ bài viết qua mã nhúng trên

trang chủ của tờ báo. Các trang mạng xã hội là điểm đến phổ biến của công

chúng cả thế giới, là nơi để tìm kiếm và chia sẻ tin tức. Một tin tức có giá

trị là một tin tức được chia sẻ nhiều trên mạng xã hội.

Hình 1.5: Báo cáo tỷ lệ phần trăm thể loại tin tức của NYT được chia sẻ

51

trên mạng xã hội. Nguồn Crowdynew

Đối với một sản phẩm số, các thuật toán đo thời gian sử dụng, tần

suất và mức độ tập trung của người dùng đối với sản phẩm có thể cho thấy

các trạng thái cảm xúc hình thành nên thói quen, hành vi của công chúng

trước khi đưa ra quyết định chi trả cho thông tin. Quan điểm của nhà

nghiên cứu McMillan (1998) đã chỉ ra rằng “nếu có thể tìm thấy nội dung

miễn phí ở đâu đó, người dùng sẽ không trả tiền cho bất kỳ nội dung nào

khác, ngay cả đối với loại tin tức mà họ cho là có giá trị” [51]. Tuy nhiên

trong bối cảnh nền kinh tế thị trường đang tác động không nhỏ đến thói

quen của công chúng thì vẫn có khách hàng trẻ đồng ý chi trả cho tin tức

nếu nó có liên quan mật thiết đến cuộc sống và các mối quan hệ xã hội,

công việc của họ. Khi được hỏi về việc lựa chọn giữa một tin tức miễn phí

và một tin tức độc quyền có trả phí thì trong số 10 người tham gia trả lời

phỏng vấn sâu, các ý kiến đều cho rằng nên lựa chọn tin tức có trả phí chất

lượng cao, trong đó một người trả lời phỏng vấn cho biết: “Chọn tin tức

độc quyền trả phí. Vì trong bối cảnh kinh tế đang chuẩn bị chấm dứt vòng

quay 10 năm của hạn mức ngân hàng thì các tin tức phân tích kinh tế độc

quyền sẽ phục vụ rất tốt cho việc kinh doanh” [PV8].

1.5.2. Các tiêu chí dựa trên hiệu quả tác động của sản phẩm truyền thông

Báo mạng điện tử thu phí, sản phẩm truyền thông giải trí thu phí,

mạng xã hội... đều là công cụ phục vụ nhu cầu của công chúng. Trong quá

trình phát triển của lịch sử, công cụ có thể thay đổi từ dạng vật chất sang

dạng số nhưng tác động của nó tới đời sống không thay đổi. Quá trình tác

động đó là cơ sở cho thước đo sự thành công hoặc thất bại, sự phát triển

của một sản phẩm kinh tế thị trường.

Ý thức của công chúng thay đổi dẫn tới thói quen thay đổi: Khi xã

hội thay đổi từ nền kinh tế khai thác tài nguyên, nhân lực lao động đến nền

kinh tế tri thức thì ý thức của con người cũng theo đó mà thay đổi. Công

52

chúng là người trực tiếp chịu tác động từ nhu cầu bảo vệ bản quyền sở hữu

đối với mỗi sản phẩm kinh tế thị trường của nhà sản xuất, vì vậy, ý thức

được vấn đề bản quyền, nhiều khách hàng đã lựa chọn các sản phẩm báo

chí số thu phí bởi họ cho rằng thông tin thu phí thường là thông tin chất

lượng cao có nguồn gốc rõ ràng được kiểm chứng từ các cơ quan báo chí

uy tín.

Tác động từ người có tầm ảnh hưởng: Theo nghiên cứu của

American Press Institute, cứ 4/10 người được hỏi về lý do quyết định chi

trả cho một sản phẩm báo chí số thu phí là vì họ thấy người thân, bạn bè

của mình hoặc người nổi tiếng sử dụng sản phẩm này. Điều này cho thấy,

sự tác động từ những người có tầm ảnh hưởng xã hội cũng là một tiêu chí

đánh giá cho sự thành công và phát triển của một sản phẩm. Thúc đẩy

khách hàng đưa ra sự lựa chọn dựa trên những bằng chứng xác thực về

những người đã từng có trải nghiệm hài lòng là phương thức tiếp thị và

cũng là thang đo chung của nhiều nhóm ngành kinh tế.

Mức độ hữu dụng của thông tin với đời sống khách hàng. Theo tác

giả Thaler: “Mặt khác, con người còn đánh giá một khía cạnh khác của

việc mua sắm một sản phẩm: chất lượng cảm nhận của giao dịch. Đó chính

là điều mà tính hữu dụng giao dịch thể hiện. Nó được xác định như là sự

khác biệt giữa giá thực sự phải trả cho sản phẩm và giá mà người tiêu

dùng thông thường kỳ vọng trả, tức là giá tham khảo” (reference price)

[44; tr.88]. Điều này có nghĩa là cùng một sản phẩm thông tin nhưng thời

điểm mua khác nhau và cách thức thể hiện sản phẩm khác nhau sẽ tạo ra

giá trị khác nhau. Cùng là đưa tin về một vụ cháy nhưng đưa tin bằng chữ

và ảnh minh họa sẽ không hấp dẫn bằng tin video, livestream trực tiếp;

“Người đi mua sắm dễ bị lôi cuốn bởi tính hữu dụng của giao dịch” [41;

tr.92] sự phát triển của sản phẩm nhằm mục đích phục vụ tối đa cho nhu

53

cầu của khách hàng.

Phản hồi của người tiêu dùng. Những hành vi của người tiêu dùng

như là chủ động tìm kiếm thông tin về sản phẩm, dịch vụ; lựa chọn các gói

sản phẩm phù hợp, ưu tiên lựa chọn những thương hiệu có uy tín… được

gọi là phản ứng đáp lại của người tiêu dùng. Xuất phát từ những tác động

từ xã hội và những yếu tố bị ảnh hưởng bởi “hộp đen ý thức”, người tiêu

dùng có thể đưa ra những phản ứng tích cực hoặc tiêu cực trong quá trình

sử dụng sản phẩm. Phản ứng đáp lại từ người tiêu dùng nằm trong nhóm

nghiên cứu hành vi mua của người tiêu dùng và cũng là tiêu chí để đánh

giá mức độ phát triển, và hiệu quả của sản phẩm.

1.5.3. Các tiêu chí dựa trên khả năng đảm bảo quyền lợi các bên

liên quan

Thước đo sự phát triển của một sản phẩm báo chí, truyền thông số

không chỉ là sự cập nhật liên tục của công nghệ để phù hợp với thị

trường mà đó còn là khả năng đáp ứng và đảm bảo quyền lợi của các bên

liên quan.

- Đối với người sử dụng, sự phát triển của sản phẩm được tính bằng

sự đảm bảo về quyền lợi người dùng. Họ cần được đảm bảo quyền lợi về

tốc độ, tính chính xác, khách quan của sản phẩm truyền thông số, nhưng

vẫn đem lại các giá trị giải trí. “Sự thay đổi trong nội dung truyền thông

khiến chức năng chủ yếu của truyền thông cũng có sự thay đổi, ngoài chức

năng tuyên truyền truyền thống, chức năng giải trí trở thành một trong

những chức năng nổi bật nhất của truyền thông” [14; tr.119]. Người sử

dụng có quyền đòi hỏi thông tin mới cả về nội dung và hình thức, để đáp

ứng được điều này nhà cung cấp cần có một kho lưu trữ và bộ vi xử lý lớn.

Sản phẩm truyền thông thu phí số cần cung cấp những tin tức độc quyền về

nội dung và cách thức thể hiện. Điều đó góp phần thỏa mãn giá trị của hàng

54

hóa trên thị trường và thay đổi quá trình sản xuất thông tin truyền thống.

- Đối với thị trường, sự phát triển của sản phẩm truyền thông số quy

định dựa trên độ thiết thực của sản phẩm, các đặc trưng của nền kinh tế thị

trường đặt ra những yêu cầu riêng đối với sản phẩm truyền thông số. Nền

kinh tế thị trường cố tạo ra lối sống thực tế, cụ thể coi trọng các nhu cầu

vật chất, đời thường của mọi con người và xã hội, tránh được lối sống quá

ảo tưởng hóa cuộc đời chạy theo lối sống tình cảm chủ nghĩa quá mức [3;

tr.138], vì vậy, các sản phẩm báo chí truyền thông số cần thiết thực, gần

gũi, có khả năng phục vụ chính xác nhu cầu của khách hàng.

- Đối với nhà sản xuất (cơ quan báo chí, cơ quan truyền thông), sự

phát triển của sản phẩm truyền thông số không chỉ là sự gia tăng của số

lượng thuê bao, mức độ phổ biến trong cộng đồng, mà nó còn là đảm bảo

quyền lợi của các phóng viên, biên tập viên về quyền tác giả. Theo PGS.

TS Đặng Thị Thu Hương: “công nghệ mới và vấn đề bản quyền sẽ là yếu

tố quyết định giá trị kinh tế của ngành công nghiệp văn hóa, và tác động

trực tiếp đến văn hóa truyền thông đại chúng” [14; tr.256]. Khi vấn đề bản

quyền được đảm bảo sẽ thôi thúc các phóng viên đi tìm kiếm, khai thác sự

kiện ở các khía cạnh khác nhau, đưa ra những tin tức mang tính độc quyền,

khiến công chúng cảm thấy bị thu hút và chấp nhận bỏ tiền ra để chi trả

cho tin tức đó.

- Đối với nhà cung cấp nền tảng (tập đoàn viễn thông), giá trị của

sản phẩm truyền thông số được thể hiện thông qua lưu lượng truy cập, gói

thuê bao duy trì hàng tháng/quý. Khách hàng càng đăng kí nhiều dịch vụ

thì càng thể hiện được mức độ quan tâm của họ đối với sản phẩm truyền

thông số.

1.5.4. Các tiêu chí đánh giá dựa trên hiệu quả kinh tế

Chất lượng dịch vụ. Chất lượng dịch vụ là khái niệm mang tính

khách quan, nhận thức đánh giá của người tiêu dùng đối với sản phẩm,

55

dịch vụ kinh tế. Năm thành phần cơ bản của chất lượng dịch vụ là: Phương

tiện hữu hình (thương hiệu, hình ảnh, tài liệu, thiết bị kỹ thuật); Độ tin cậy;

Khả năng đáp ứng; Năng lực phục vụ và Sự cảm thông với khách hàng.

Chất lượng dịch vụ không chỉ là đáp ứng nhu cầu mà nó còn là quá trình

chạm đến kỳ vọng của khách hàng. Để làm được điều đó, nhiều đơn vị như

Netflix đã nghiên cứu, đầu tư vào khâu khảo sát khách hàng và không

ngừng nâng cấp chất lượng dịch vụ theo hướng cá nhân hóa để khách hàng

có được trải nghiệm sản phẩm tốt nhất và gắn bó lâu dài với dịch vụ.

Hiệu quả kinh doanh. Đây là một tiêu chí quan trọng nhất để đánh

giá sự phát triển và hiệu quả của một sản phẩm kinh tế, trong đó có các sản

phẩm báo chí truyền thông số. Bất kỳ một sản phẩm kinh tế nào khi tham

gia thị trường cũng cần đem lại hiệu quả kinh tế. Doanh thu do sản phẩm

đem về càng nhiều thì càng chứng minh được tính hữu ích và vai trò của

nhà sản xuất trên thị trường.

Sức ảnh hưởng của thương hiệu nhà sản xuất. Trên thế giới, dưới

tác động của nền kinh tế thị trường, nhiều cơ quan báo chí truyền thông đã

tham gia vào quá trình định giá thương hiệu trên các sàn giao dịch chứng

khoán và thu về lợi tức từ cổ phiếu của các nhà đầu tư. Các sản phẩm báo

chí, truyền thông số có chất lượng góp phần không nhỏ vào quá trình xây

dựng thương hiệu cho cơ quan báo chí, là phương thức chủ yếu để thúc đẩy

quá trình ảnh hưởng của thương hiệu cơ quan báo chí trên thị trường. Sức

ảnh hưởng của thương hiệu trong thị trường kinh tế là một yếu tố để đánh

giá sự thành công và hiệu quả của sản phẩm.

Thông qua sự phát triển của internet, các loại hình, sản phẩm báo chí

truyền thống đã có cơ hội được mở rộng để mang đến những nội dung sâu

sắc hơn, có nhiều sản phẩm đa phương tiện và mang đến khả năng tương

tác với công chúng mà những loại hình như báo in không thể có được. Khi

đánh giá về sự phát triển và hiệu quả của một sản phẩm, thông thường ở

56

góc độ kinh tế thường chú trọng đến chất lượng dịch vụ, doanh thu kinh tế,

nhưng đối với các sản phẩm báo chí, đặc biệt là sản phẩm báo chí, truyền

thông số thu phí từ người sử dụng, cần quan tâm đến các tiêu chí khác như

thuật toán, sự tác động của ngoại cảnh, khả năng cá nhân hóa của sản phẩm

và phản ứng đáp lại của người tiêu dùng.

Tiểu kết chƣơng 1

Sự phát triển của công nghệ đã tạo điều kiện cho cả nhà cung cấp

thông tin và công chúng không ngừng tìm tòi để làm thỏa mãn nhu cầu của

mỗi bên. Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và hoạt động số hóa diễn ra

sâu rộng, phổ biến với mọi ngành nghề thì việc công chúng ngoài thay đổi

thị hiếu cùng cần thay đổi thói quen thụ hưởng, trở về với những điều đã

từng là căn bản trong mối quan hệ hai chiều giữa người sản xuất thông tin

và người thụ hưởng thông tin.

Thị trường thông tin ngày nay hiện đại và đa dạng dưới nhiều hình

thức. Tuy nhiên cần phân biệt giữa thông tin mà ta nghe thấy từ những

người hàng xóm, đọc từ các trang mạng xã hội sẽ có sự khác biệt rất lớn

đối với thông tin chính thống từ báo chí (hay còn gọi là tin tức báo chí). Sở

dĩ có sự khác biệt là bởi thông tin xã hội đôi khi không được kiểm chứng,

không có người chịu trách nhiệm với giá trị nội dung của thông tin, thông

tin đó cũng không đảm bảo các quy chuẩn về ngôn từ, cách hành văn. Tuy

nhiên thông tin thông thường lại lan truyền rất nhanh và được nhiều người

dễ đặt niềm tin hơn là tin tức báo chí. Những thông tin ngoài xã hội và

thông tin miễn phí có cùng rủi ro về tính chính xác và tính logic, thường

được đưa ra theo hướng chủ quan. Vì vậy, chúng ta thấy được tầm quan

trọng của những thông tin có chất lượng, được định giá như khẳng định giá

trị và tầm quan trọng, chính xác của tin tức đó. Claudia Mast cho rằng: “Tự

do báo chí chỉ được đảm bảo trên cơ sở độc lập về kinh tế, hoặc ngược lại

thành quả kinh tế của nhà xuất bản là một điều kiện đảm bảo cho báo chí

hoạt động tự do và thành công” [34; tr.178]. Xây dựng kinh tế báo chí

57

không phải là làm giảm đi chất lượng thông tin mà là thể hiện sự tiến bộ

trong đời sống thụ hưởng văn hóa, khi công chúng ngoài việc thụ hưởng

còn có trách nhiệm ghi nhận cố gắng, công sức của những người làm báo

trong việc cung cấp thông tin kịp thời, hữu dụng.

Khi đánh giá hiệu quả của một sản phẩm báo chí truyền thông số thu

phí từ người sử dụng, cần chú trọng tới phản hồi của công chúng sau khi

trải nghiệm các sản phẩm truyền thông số. Điều này được xem xét qua các

phương diện: Mức độ tập trung khi tham gia trải nghiệm, tần suất sử dụng

sản phẩm, mức độ hài lòng, so sánh với các loại sản phẩm khác và khả

năng sẵn sàng tiếp tục chi trả cho sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí

người dùng. Từ đó sẽ rút ra được mức độ phát triển của sản phẩm truyền

thông số đối với công chúng.

Tuy nhiên, nhanh, nóng hay đa dạng về cách thể hiện thôi là chưa

đủ, sự phát triển của công nghệ và năng lực tác nghiệp của phóng viên đã

và đang bổ sung cho những thiếu hụt về nội dung và nâng cao chất lượng

bài viết. Mỗi cơ quan báo chí khác nhau lại cung cấp những sản phẩm

truyền thông khác nhau, điều này là cơ sở để công chúng quyết định lựa

chọn một hoặc vài cơ quan báo chí quen thuộc để mình trở thành độc giả

trung thành với cơ quan báo chí đó.

Dựa trên sự hỗ trợ của công nghệ, thị trường đã chỉ ra nhu cầu của

công chúng, từ đó các cơ quan báo chí truyền thông thay đổi mình để phù

hợp với thị hiếu chung. Càng đáp ứng sát với nhu cầu của công chúng bao

nhiêu thì cơ quan báo chí càng giữ chân được độc giả trung thành của mình

bấy nhiêu. Đây cũng là yếu tố cần và đủ để công chúng đưa ra quyết định

tiếp tục chi trả cho sản phẩm báo chí số hay không.

Theo Schram, nền báo chí đơn chức năng là nền báo chí chỉ phản

ánh những vấn đề giống nhau từ ngày này qua ngày khác, điều này đã

cho thấy mức độ nhàm chán, thiếu chiều sâu trong việc phản ánh các sự

kiện xã hội. Ở Việt Nam nền báo chí của chúng ta đã và đang trở thành

đa chức năng khi vừa là công cụ tuyên truyền tư tưởng, vừa là sản phẩm

58

truyền thông, loại hàng hóa đặc biệt trên thị trường. Vì vậy, sự ra đời

của các mô hình mới trong đó có sản phẩm báo chí truyền thông số thu

phí từ người sử dụng là bước đi phù hợp với yêu cầu thời đại, thể hiện sự

phát triển của báo chí cách mạng Việt Nam không nằm ngoài sự phát

59

triển của báo chí thế giới.

Chƣơng 2. KHẢO SÁT, ĐÁNH GIÁ CÁC SẢN PHẨM BÁO CHÍ

TRUYỀN THÔNG SỐ THU PHÍ NGƢỜI DÙNG TẠI VIỆT NAM

2.1. Sơ lƣợc về các sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí ngƣời

sử dụng khảo sát tại Thông tấn xã Việt Nam, Viettel và FPT

2.1.1. Thông tấn xã Việt Nam

Giới thiệu sơ lược về Thông tấn xã Việt Nam

Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) ra đời ngày 15/9/1945 dưới danh

xưng được Chủ tịch Hồ Chí Minh chấp bút: Việt Nam Thông tấn xã.

TTXVN hiện là cơ quan báo chí có nhiều sản phẩm và loại hình thông tin

nhất cả nước, với hơn 60 sản phẩm thông tin. TTXVN đã được Thủ tướng

Chính phủ phê duyệt “Đề án phát triển một số báo in và báo điện tử đối

ngoại Quốc gia của Thông tấn xã Việt Nam” đối với 03 đơn vị thông tin

đối ngoại, bao gồm: Báo Việt Nam News, Báo ảnh Việt Nam và báo điện

tử VietnamPlus.

Giới thiệu sơ lược về sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí từ

người sử dụng của Thông tấn xã Việt Nam

Báo điện tử VietnamPlus chính thức hoạt động từ ngày 13/11/2008,

là trang báo điện tử đầu tiên và duy nhất của TTXVN nhưng lại là tờ báo

điện tử ra đời khá muộn trên thị trường báo mạng điện tử trong nước. Với

quan điểm cạnh tranh bằng “Thông tin chính thống hàng đầu và nội dung

có bản quyền 100%”, từ tháng 8/2012, báo mạng điện tử VietnamPlus cho

ra mắt ấn phẩm thử nghiệm của mô hình thu phí bạn đọc tại địa chỉ:

pay.vietnamplus.vn. Trong bối cảnh nhiều cơ quan báo chí không đạt được

mức doanh thu đáng kể từ quảng cáo, thị trường kỹ thuật số tạo ra cuộc

cạnh tranh quảng cáo trên các nền tảng số, việc lựa chọn mô hình thu phí

độc giả là hướng đi để giải quyết bài toán kinh tế cho cơ quan. Bên cạnh

đó, TTXVN còn là đơn vị cung cấp tư liệu thông tấn cho các cơ quan báo

60

chí trong và ngoài nước, có kho tư liệu báo chí lớn tạo ra nguồn thu cho

TTXVN. Sau thời gian chạy thử nghiệm mô hình thu phí độc giả trên báo

mạng điện tử, VietnamPlus chính thức thu phí người đọc từ tháng 6/2018;

cho đến nay, mô hình hoạt động thu phí độc giả của VietnamPlus vẫn được

duy trì. Việc ứng dụng mô hình thu phí độc giả đã góp phần tăng thu nhập

cho TTXVN, khai thác tối đa kho tư liệu tài nguyên và cung cấp cho nhóm

khách hàng thuộc nhóm thu nhập cao, các nhà nghiên cứu, tri thức và các

đối tác nước nước ngoài nguồn tham khảo thông tin chất lượng cao.

Các dịch vụ của pay.vietnamplus.vn bao gồm:

- Trả phí theo từng tin lẻ hoặc theo gói chu kì từng tuần, từng tháng

- Độc giả được thụ hưởng các tác phẩm báo chí chất lượng cao

- Độc giả được tham gia thảo luận, trao đổi quan điểm về bài viết

- Độc giả có thể lưu lại bài viết như một kênh thông tin tham khảo

Sản phẩm pay.vietnamplus.vn có thể khởi động trên các thiết bị điện

tử cá nhân, bao gồm: máy tính cá nhân, điện thoại di động, máy tính bảng

và ti vi có kết nối internet.

Độc giả đăng kí của trang pay.vietnamplus.vn, và có thể tiến hành

giao dịch thương mại thông qua thẻ tín dụng, ví điện tử, qua tin nhắn nhà

mạng để được đọc tin tức. Điều đáng nói là ngay tại thời điểm đăng kí, độc

giả được phép đọc miễn phí tin tức không giới hạn trong vòng 7 ngày đầu

tiên.

2.1.2. Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội (Viettel)

Giới thiệu sơ lược về tập đoàn Viettel

Tập đoàn Công nghiệp viễn thông Quân đội Viettel được thành lập

vào ngày 1/6/1989, tiền thân là Tổng Công ty Điện tử và Thiết bị Thông

tin; đây là đơn vị kinh doanh dịch vụ viễn thông tiên phong trong công

cuộc thay đổi thị trường viễn thông tại Việt Nam, cung ứng các sản phẩm

viễn thông giá rẻ, thay đổi định kiến về cước di động đắt đỏ. Viettel là đơn

61

vị viễn thông tiên phong trong việc tạo ra các sản phẩm lõi “Made by

Vietnam”, như: hệ thống tính cước theo thời gian thực (OCS), hệ thống

nhắn tin, trạm phát sóng BTS 4G, thực hiện thành công cuộc gọi 5G đầu

tiên tại Việt Nam, nằm trong top 5 nhà sản xuất thiết bị viễn thông lớn nhất

thế giới.

Giới thiệu sơ lược về sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí từ

người sử dụng của Viettel

Hoạt động dựa trên nguyên tắc phối hợp giữa cơ quan báo chí và đơn

vị cung ứng hạ tầng viễn thông, trang mạng xã hội bằng video Myclip.vn

hoạt động từ tháng 1 năm 2018 là mô hình sản phẩm trang mạng xã hội

bằng video tổng hợp các sản phẩm báo chí truyền thông số từ các cơ quan

báo chí, đơn vị truyền thông tại Việt Nam. Hoạt động thu phí từ người sử

dụng áp dụng gián tiếp thông qua các gói cước, khuyễn mãi đi kèm tận

dụng các thế mạnh trên thị trường viễn thông của Viettel như: hệ thống

khách hàng đông đảo chủ yếu là trong nhóm tuổi học sinh, sinh viên và

người lao động trẻ; có các gói cước lưu lượng data giá rẻ với khả năng phủ

sóng rộng khắp lãnh thổ; nhiều sản phẩm giá trị gia tăng của Viettel được

khách hàng đón nhận bởi tính hữu dụng và tiết kiệm; Viettel là doanh

nghiệp có thương hiệu uy tín trong cộng đồng. Việc Viettel kinh doanh sản

phẩm Myclip nhằm tạo ra một trang mạng xã hội dành riêng cho người

Việt với chi phí rẻ, chất lượng cao và là địa chỉ an toàn cho người dùng trẻ.

Sản phẩm trang mạng xã hội có sản phẩm báo chí truyền thông số

Myclip cho phép khách hàng có thể:

- Xem tin tức bằng video mà không tốn thêm data dung lượng trên

thiết bị di động (áp dụng trong trường hợp khách hàng đăng ký

gói cước dành riêng cho việc trải nghiệm trên myclp.vn)

- Xem phim điện ảnh chất lượng cao

- Lưu trữ video về thiết bị điện tử cá nhân

62

- Có phần bình luận, tương tác giữa các chủ tài khoản trên hệ thống

- Cho phép người dùng (khách hàng) đăng tải các clip ngắn do

khách hàng tự sản xuất lên hệ thống

Trong quá trình khai thác nội dung để phục vụ nhu cầu thông tin của

khách hàng, theo quy định của pháp luật, Myclip không có chức năng,

nhiệm vụ sản xuất thông tin. Vì vậy 100% các clip có nội dung thông tin

báo chí của trang này đều được các đối tác là các cơ quan báo chí, đài

truyền hình sản xuất và được Myclip tiến hành khai thác lại trên nền tảng

số của Viettel. Myclip có đối tác là YAN TV, Đất Việt, SCTV, VTC,

VTVcab, Đẹp, MCV… và cả người nổi tiếng như ca sĩ Đức Phúc, ca sĩ

Ngô Kiến Huy, ca sĩ Hòa Minzy, hot blogger Hana Giang Anh…

2.1.3. Tập đoàn FPT

Giới thiệu sơ lược về Tập đoàn FPT

Tập đoàn FPT là doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực Công nghệ

thông tin – Viễn thông, có hơn 30 năm phát triển tại thị trường Việt Nam.

FPT đã góp phần hiện đại hóa ngành kỹ thuật số quốc gia và phá vỡ thế

độc quyền internet. Là doanh nghiệp xuất khẩu phần mềm ra nước ngoài.

Năm 2118, FPT đã phát triển nâng cấp nhiều sản phẩm dựa trên nền tảng

công nghệ mới nhu trí tuệ nhân tạo, dự liệu lớn, kết nối vạn vật như: Nền

tảng Trí tuệ nhân tạo phiên bản mới tạo ra nhiều kịch bản trò chuyện, tự

động phân tích nhu cầu và quản lý tin nhắn, thiết bị điều khiển bằng giọng

nói cho thiết bị truyền hình internet, giải pháp chuyển đổi số toàn diện cho

doanh nghiệp akaRPA, hệ thống Quản lý tổng thể bệnh viện thông minh

FPT.eHospital phiên bản 2.0 ứng dụng Trí tuệ nhân tạo…

Giới thiệu sơ lược về sản phẩm báo chí truyền thông số của FPT

Thị trường giải trí tại Việt Nam có một giai đoạn bị bó hẹp bởi các

sản phẩm truyền hình thiếu sự tương tác, và công chúng bị phụ thuộc vào

các đơn vị thương mại như rạp chiếu phim, café phim… bên cạnh đó,

63

nhiều trang mạng cung cấp phim giải trí thường không có bản quyền hoặc

cung cấp sản phẩm phim chất lượng kém và có nhiều quảng cáo không phù

hợp với luật pháp. Vì vậy FPT cho ra đời ứng dụng FPT Play năm 2013,

hoạt động rộng rãi trên các nền tảng, như: internet (thông qua tên miền

fptplay.vn), thông qua các ứng dụng trên điện thoại di động (có cả hai giao

diện IOS và Android) và ứng dụng trên smart TV. Cách thức thanh toán là

thông qua thẻ cào điện thoại, thẻ ATM, thẻ tín dụng ghi nợ, ví điện tử hoặc

có nhân viên đến thu trực tiếp tại nhà. Mô hình của FPT Play đã giải quyết

tính độc quyền thương mại của truyền hình và một số đơn vị kinh doanh

sản phẩm giải trí truyền thống, cho phép khách hàng có kho dữ liệu giải trí

chất lượng cao, phù hợp với kinh tế và thói quen sử dụng của người Việt.

Sản phẩm báo chí truyền thông số của FPT cho phép khách hàng

có thể:

- Thụ hưởng các sản phẩm giải trí số chất lượng cao

- Xem lại các chương trình truyền hình đã phát, không phụ thuộc

vào lịch phát sóng

- Hẹn giờ phát sóng

- Sử dụng các kênh giải trí nước ngoài như HBO, fashion, FA CUP

- Lưu các nội dung yêu thích

- Cá nhân hóa dữ liệu khách hàng, tập hợp những sản phẩm giải trí

theo thói quen và nhu cầu của khách hàng

- Giám sát nội dung theo lứa tuổi

Các gói dịch vụ của FPT Play nhắm tới các nhóm khách hàng tiềm

năng như hộ gia đình, người hâm mộ thể thao, người hâm mộ điện ảnh,

người theo dõi truyền hình quốc tế… Trong các gói, ngoài gói đa chức

năng gồm nhiều kênh, nhiều dịch vụ thì FPT cũng tiến tới tiếp cận các

khách hàng chuyên biệt trong dịch vụ của mình. Điều này cho thấy mức độ

sâu sát của FPT Play trong việc nghiên cứu thị trường truyền hình trả phí

64

tại Việt Nam. Các gói cước phần nào thể hiện thị hiếu, nhu cầu của công

chúng. Nhiều khán giả thay vì phải trả phí để xem tất cả, họ sẽ chỉ cần trả

phí cho lĩnh vực mà họ muốn quan tâm, trở thành khán giả trung thành với

sản phẩm đó.

2.2. Thực trạng triển khai mô hình sản phẩm báo chí, truyền thông số

thu phí từ ngƣời sử dụng tại Việt Nam hiện nay

Tại Việt Nam, hoạt động của mô hình sản phẩm báo chí, truyền

thông số thu phí người sử dụng xuất hiện từ năm 2012, với sự phát triển

mạnh mẽ của truyền hình trả tiền theo yêu cầu (IPTV) của một số doanh

nghiệp như Viettel, FPT... Cũng tại thời điểm đó, TTXVN tiến hành thử

nghiệm mô hình thu phí trên báo điện tử, là dấu hiệu cho thấy bước chuyển

đổi chủ động tạo ra doanh thu giữa giai đoạn báo chí hữu hình sang báo chí

số và trong giai đoạn chuyển dần từ báo chí bao cấp sang báo chí có thu.

Thị trường báo chí, truyền thông số có thu phí ở Việt Nam bắt đầu

phát triển sôi động hơn từ hai năm trở lại đây, khi những rào cản thương

mại điện tử đã dần được khắc phục thông qua sự phát triển và nâng cấp

ứng dụng của công nghệ kỹ thuật số trên các thiết bị cá nhân và thiết lập hệ

thống bảo mật chặt chẽ. Chịu sự ảnh hưởng và bắt nhịp với xu hướng phát

triển chung của báo chí số thế giới, thị trường báo chí Việt Nam cũng đang

có sự tiếp thu để thay đổi các mô hình cũ. Theo đó, các hoạt động thu phí

đa dạng hơn với nhiều sản phẩm báo chí mới, không bị bó hẹp trong các

thể loại truyền thống, sự đổi mới trong hoạt động tác nghiệp và đóng gói

tin tức cũng mở ra nhiều phương thức dẫn truyền thông điệp sinh động, thu

hút công chúng vào quá trình tương tác, tiếp nhận thông tin. Bên cạnh đó,

mức độ chuyên môn hóa trong lĩnh vực báo chí truyền thông đã tác động

không nhỏ vào quá trình trao đổi sản phẩm.

Mặc dù tại Việt Nam, nền báo chí được đặt dưới sự lãnh đạo của

Đảng và Nhà nước, sau giai đoạn đổi mới, Việt Nam đang dần dần đi theo

65

hướng tự chủ về kinh tế. Hoạt động chủ động nguồn thu cho các cơ quan

báo chí tại Việt Nam không làm sai lệch, thay đổi bản chất của báo chí

cách mạng mà còn nhằm mục đích nâng cao chất lượng sản phẩm báo chí

cũng như cải thiện đời sống của các nhà báo, phóng viên, cán bộ công nhân

viên trong khối ngành Báo chí. Cũng cần nhấn mạnh, theo pháp luật Việt

Nam quy định: “Báo chí là đơn vị sự nghiệp có thu”, điều này góp phần mở

đường cho sự chủ động của các cơ quan báo chí. Đến thời điểm hiện tại,

không còn giai đoan các cơ quan báo chí tồn tại phụ thuộc vào ngân sách

Nhà nước mà theo đúng chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm kinh tế của

mình, các cơ quan báo chí cần chủ động tạo ra nguồn thu đúng đắn từ sản

phẩm có chất lượng, trong đó có các sản phẩm thu phí người dùng, được kế

thừa và phát triển từ các mô hình mua bán báo chí truyền thống,

Sự tác động từ ngoại cảnh như tốc độ phát triển của các nhóm ngành

kinh tế, cách tiếp nhận thông tin của các nhóm công chúng khác nhau tạo

ra sự phân tầng khách hàng dựa trên thói quen và thu nhập, mạng xã hội và

các kênh thông tin tại chúng theo đuổi hệ thống dữ liệu cá nhân đã tác động

không nhỏ đến các mô hình sản xuất sản phẩm báo chí truyền thông số.

Từ khảo sát thực tế tại các mô hình sản phẩm thu phí người sử dụng

tại Việt Nam, nhận thấy thị trường sản phẩm báo chí, truyền thông số hiện

có 3 mô hình hoạt động chính: sản phẩm do cơ quan báo chí trực tiếp thiết

kế và cung cấp, sản phẩm liên kết giữa cơ quan báo chí với hạ tầng/doanh

nghiệp viễn thông (Telco); sản phẩm trên nền tảng ứng dụng công nghệ

thông tin mở.

Các đặc trưng về tình hình phát triển của ba mô hình sản phẩm báo

chí, truyền thông số tại Việt Nam được đánh giá qua các đặc điểm dựa trên

các tiêu chí đánh giá sự phát triển và hiệu quả của sản phẩm thu phí người

sử dụng, bao gồm: sự phát triển của hạ tầng kỹ thuật, sự phát triển của nội

dung, sự thay đổi trong phương thức đóng gói sản phẩm và hoạt động dịch

66

vụ.

2.2.1. Tình hình phát triển của hạ tầng kỹ thuật

Theo thống kê về tần suất sử dụng mạng internet tại Việt Nam, mỗi

người Việt dành trung bình 6 giờ 42 phút mỗi ngày để tham gia các hoạt

động trên mạng internet; hằng ngày, 94% tỷ lệ người dùng dùng internet

truy cập vào hệ thống này để giải trí và tương tác. Về cơ sở hạ tầng, tốc độ

truy cập Internet vẫn tăng trưởng hằng năm, tốc độ truy cập internet trung

bình ở điện thoại là 21.56 MBPS (tăng 6.1% so với năm ngoài) và ở máy

tính là 27.18 MBPS (tăng 9.7%) [75].

Các công ty viễn thông đẩy mạnh phát triển các trạm phát sóng BTS

2G, 3G và 4G rộng khắp cả nước, phục vụ 143.3 triệu thuê bao trên cả

nước; khách hàng có thể sử dụng các dịch vụ giá trị gia tăng của nhà mạng

như tin nhắn SMS, thẻ cào để thanh toán. Đội ngũ kỹ sư phần mềm Việt

Nam chủ động xây dựng và Việt hóa các ứng dụng trên điện thoại di động

(application) phục vụ hoạt động tiếp cận thông tin của công chúng trên

thiết bị động được dễ dàng hơn. Một loạt các loại hình thanh toán mới như

ví điện tử ra đời bên cạnh hoạt động số hóa ngành ngân hàng khiến việc

thanh toán điện tử đã trở nên dễ dàng hơn rất nhiều.

Biểu đồ 2.1: Tình hình phát triển thuê bao băng rộng di động Quý I năm

67

2020 tại Việt Nam. Nguồn VNTA

Theo nội dung từ Biểu đồ 2.1, chỉ trong 3 tháng Quý I năm 2020, do

ảnh hưởng trực tiếp từ dịch bệnh và giãn cách xã hội, số lượng thuê bao

băng rộng di động đăng ký sử dụng dịch vụ internet 3G, 4G trên điện thoại

di động tăng đột biến, từ hơn 63.000.000 thuê bao tại tháng 1 lên mức gần

64.000.000 thuê bao trong tháng 3. Điều này cho thấy, khách hàng sử dụng

thiết bị điện thoại di động đã có nhu cầu giải trí, tiêu thụ thông tin rất lớn.

Đồng thời, con số này đã cho thấy mức độ phát triển không ngừng của hạ

tầng công nghiệp viễn thông để đáp ứng nhu cầu của thị trường trong từng

giai đoạn.

Hạ tầng kỹ thuật của sản phẩm báo chí, truyền thông số thu phí

tại Việt Nam trong giai đoạn hình thành, phát triển mạnh mẽ, có sự hợp

tác chặt chẽ với tiến trình phát triển hạ tầng kỹ thuật của các doanh

nghiệp viễn thông. Thống kê tại Việt Nam năm 2019, trong số 64 triệu

người dùng internet thì lượng người truy cập internet bằng thiết bị di động

là 61.73 triệu người (chiếm 96% số người sử dụng internet). Nhìn vào bức

tranh toàn cảnh có thể thấy, càng ngày, lượng người sử dụng internet tại

Việt Nam tăng càng nhanh và có xu hướng sử dụng điện thoại thông minh

được đăng ký gói cước lưu lượng data internet trên điện thoại càng nhiều,

trong số 143.3 triệu thuê bao di động ở Việt Nam thì có 45% đã đăng ký

gói cước data 3G và 4G [71].

Từ năm 2012, TTXVN đã thu phí người dùng trên báo mạng điện tử,

tại giai đoạn này, người dân còn tỏ ra e ngại hoặc không có khả năng thanh

toán qua thẻ thanh toán quốc tế visa debit, trước thực tế đó, TTXVN tiến

hành thu phí người dùng qua tin nhắn SMS. Theo ông Lê Quốc Minh, Phó

Tổng giám đốc TTXVN, thu phí qua tin nhắn SMS là phương thức thuận

tiện cho độc giả và TTXVN cũng có thể dễ dàng kiểm soát lượng độc giả

68

qua số điện thoại của khách hàng. Tuy nhiên, với phương thức thu phí qua

tin nhắn SMS, TTXVN chia sẻ 2/3 doanh thu cho đối tác viễn thông khi sử

dụng hình thức thanh toán này.

Trong các quy luật của thị trường báo chí Việt Nam những năm gần

đây, hoạt động tổ chức và phân công lao động trong lĩnh vực báo chí,

truyền thông đã đạt mức chuyên sâu: “Đối với lĩnh vực báo chí truyền

thông quá trình tổ chức và phân công lao động chuyên sâu trong lĩnh vực là

quá trình tất yếu. Báo chí truyền thông mang đặc trưng của lao động tập

thể, bao gồm rất nhiều ngành nghề, lĩnh vực chuyên môn phối hợp với

nhau” [29]. Vì vậy sự phối hợp giữa các phóng viên và kỹ sư phần mềm

của các đơn vị viễn thông đã tạo ra những phương thức đóng gói mới cho

sản phẩm báo chí, truyền thông số. Cụ thể, nhiều cơ quan báo không đủ

khả năng để cùng lúc vừa sản xuất nội dung vừa xây dựng giao diện điện tử

thu phí, vì vậy khi hợp tác với các đơn vị viễn thông, cơ quan báo chí có

thể nhận được sự hỗ trợ từ đội ngũ kỹ sư tin học viễn thông để xây dựng

giao diện web, các ứng dụng của sản phẩm trên nền tảng IOS và Android,

server lưu trữ kho nội dung. Trang web Myclip.vn của Viettel đã cung cấp

hệ thống nền tảng kỹ thuật số cho các cơ quan báo chí đối tác như Yan,

Yeah1, Đất Việt, SCTV, VTC, VTVcab, Đẹp, MCV… mỗi tháng cung cấp

khoảng hàng nghìn nội dung lên hệ thống. Khi các kỹ sư phần mềm viễn

thông tham gia vào quá trình xây dựng giao diện hiển thị và kho lưu trữ

server, họ có thể chủ động nâng cấp mã nguồn (code), tối ưu thuật toán mã

lệnh để phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của khách hàng. Theo đó, khi có

thể loại báo chí mới đáp ứng thị hiếu công chúng, đơn vị viễn thông sẽ chủ

động nâng cấp hệ thống để phù hợp với thể loại khi trình chiếu trên các sản

phẩm thiết bị điện tử cá nhân. Đây là điểm đối mới trong phương thức phát

hành sản phẩm tại Việt Nam. Nền kinh tế luôn tồn tại các khâu trung gian

trong quá trình cung ứng sản phẩm. Sự tồn tại của các đơn vị viễn thông

như Viettel đã góp phần hỗ trợ phát hành cho cơ quan báo chí thông qua hệ

thống hạ tầng kỹ thuật số vốn đang rất phát triển của Viettel. Điều này giúp

69

cho các cơ quan báo chí tiếp cận được nhiều khách hàng hơn.

Biểu đồ 2.2: Số liệu nội dung đẩy lên hệ thống từ nhà cung cấp và

mức độ tương tác của khách hàng từ tháng 1 đến tháng 9 năm 2019 của

Myclip.vn. Nguồn: Myclip.vn

Từ báo cáo số liệu lượng nội dung đẩy lên hệ thống của Myclip.vn

từ các đơn vị cung cấp sản phẩm báo chí truyền thông số cho thấy: Mức độ

tương tác của công chúng tăng hay giảm tùy thuộc và số lượng nội dung

được đẩy lên hệ thống. Theo đó, trong những tháng có ít nội dung thông tin

số từ các đơn vị cung cấp nội dung thì mức độ tương tác (bình luận) của

khách hàng cũng giảm; ngược lại, ở những tháng có nhiều nội dung mới,

lượng tương tác cũng theo đó mà tăng lên. Vậy, có thể nhận định: Sự phối

hợp giữa các đơn vị có chức năng chuyên môn khác nhau đã tạo nên những

sản phẩm đặc thù, phù hợp với nhu cầu của công chúng hiện đại.

Bên cạnh đó, sự phát triển của hạ tầng viễn thông và các thiết bị di

động cá nhân đã thay đổi thiết bị đầu cuối trong phương thức chuyển tải tin

tức. Tất cả thiết bị điện tử cá nhân như máy tính xách tay, máy tính bảng

hoặc điện thoại di động đều có thể là thiết bị đầu cuối. Điều này phù hợp

với phân khúc khách hàng thường xuyên cơ động như sinh viên, người

trong độ tuổi lao động. Theo đó, đội ngũ kỹ sư phần mềm của FPT Play

của tập đoàn FPT đã xây dựng các ứng dụng trên điện thoại di động phù

hợp với hệ điều hành IOS và Android cho phép người dùng tự do trải

nghiệm sản phẩm trên bất cứ thiết bị điện tử nào. Theo báo cáo về xu

70

hướng sử dụng dịch vụ truyền hình của người Việt Nam năm 2019 của

Q&Me thì FPT Play đang là nền tảng dẫn đầu tại thị trường Việt Nam cả

về nội dung và chất lượng hạ tầng kỹ thuật: “Nếu chỉ xét riêng các dịch vụ

phải trả phí thì FPT Play là nền tảng dẫn đầu cả về tỷ lệ nhận biết lẫn truy

cập. Lý giải cho điều này, FPT Play sở hữu sự đa dạng về mặt nội dung

nên đáp ứng được rất nhiều nhu cầu của người xem Việt Nam” [75]. Báo

cáo cũng chỉ ra rằng, điện thoại di động thông minh là thiết bị được người

Việt Nam sử dụng nhiều nhất để xem các chương trình truyền hình trực

tuyến (76%).

Biểu đồ 2.3: Tần suất sử dụng và loại thiết bị mà người Việt Nam dùng để

xem các chương trình truyền hình số. Nguồn: Q&Me

Từ biểu đồ 2.3 cho thấy thói quen sử dụng các thiết bị điện tử để tiếp

cận thông tin trong đó, tivi thông minh, điện thoại di động và máy tính

xách tay là ba dạng thiết bị phổ biến nhất. Mỗi thiết bị điện tử trên đều có

một hoặc nhiều sản phẩm báo chí truyền thông tương thích với nền tảng

truyền dẫn để công chúng có thể tiếp cận thông tin dễ dàng hơn. Ví dụ, đối

với các nhóm công chúng thích xem video hoặc các thông tin bằng sản

phẩm báo chí đa phương tiện thì tần suất sử dụng điện thoại di động để

xem đứng đầu với 42% người dùng lựa chọn, tivi thông minh đứng thứ hai

71

(41%) và máy tính xách tay đứng thứ ba (7%).

Sản phẩm báo chí, truyền thông số thu phí tại Việt Nam chú trọng

phát triển dựa trên các thuật toán của người Việt cho người Việt. Các

đơn vị sản xuất nội dung và sản xuất kỹ thuật số nền tảng đã có thể làm chủ

công nghệ, xây dựng giao diện, bộ mã nguồn để phù hợp với quá trình

đóng gói tin tức. Giai đoạn đầu của báo mạng điện tử tại Việt Nam, nhiều

cơ quan báo chí gặp khó khăn khi vấp phải các giới hạn của bộ mã nguồn

ban đầu, nhiều trang báo mạng điện tử được xây dựng trên các khuôn mẫu

có sẵn của nước ngoài nên bị hạn chế trong việc hỗ trợ các font chữ tiếng

Việt có dấu, vì vậy, nhiều tác phẩm báo chí chưa phát huy được hết sức

mạnh trong hình thức thể hiện thông điệp. Tại thời điểm hiện tại, nhiều cơ

quan báo chí và đơn vị phần mềm viễn thông đã có thể làm chủ công nghệ

đặc biệt là xây dựng giao diện, mã nguồn. Đặc điểm khách hàng tại Việt

Nam có những khác biệt với khách hàng quốc tế. Ví dụ như: khung thời

gian, đặc điểm thói quen về văn hóa (quan tâm đến những vấn đề cá nhân,

riêng tư), đặc trưng về giới tính (trọng nam)… Nhìn chung, các sản phẩm

báo chí, truyền thông tại mỗi vùng, mỗi quốc gia là khác nhau dựa trên các

đặc điểm về cư dân, độ tuổi, văn hóa bản địa.

TTXVN hiện đang trực tiếp thiết kế giao diện trang web và tổ chức

hạ tầng server lưu trữ bên cạnh việc sản xuất nội dung cho người dùng thay

vì thuê giao diện có sẵn trên các trang web nước ngoài, điều đó cho thấy

khả năng chủ động và làm chủ công nghệ kỹ thuật của tòa soạn. Tính

chuyên môn sâu của đơn vị sản xuất đã thúc đẩy quá trình tạo ra các sản

phẩm chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng. Theo ông Lê Quốc

Minh, Phó Tổng giám đốc TTXVN, đội ngũ kỹ sư của TTXVN đã có thể

chủ động xây dựng hệ thống thuật toán giao diện nền tảng, kho lưu trữ để

bán cho các đối tác trong và ngoài nước. Như vậy, ngoài nâng cao khả

năng xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ các sản phẩm báo chí số của mình,

72

TTXVN đã bước vào giai đoạn khai thác để bán nền tảng kỹ thuật số.

Biểu đồ 2.4: Sự tăng trưởng các sản phẩm truyền hình, trong đó có sản

phẩm thu phí tại Việt Nam, mức tăng trưởng của các thuê bao truyền hình

trả phí tỉ lệ thuận với sự phát triển của các nền tảng viễn thông. Nguồn:

Mumbrella Asia

Biểu đồ 2.4 đã cho thấy sự đi xuống của kênh truyền dẫn truyền hình

truyền thống đó là truyền hình số mặt đất Analog, tuy nhiên, cũng trong

giai đoạn từ năm 2010-2017, sự thay đổi của các sản phẩm báo chí truyền

thông số đã có sự phát triển, đặc biệt là ở nhóm truyền hình trả tiền (IPTV)

trong giai đoạn 2014-2016. Trong giai đoạn từ 2015-2017, đánh dấu sự

phát triển của một loạt các sản phẩm báo chí truyền thông trên nền tảng số

hóa: OTT, DTH… dựa trên sự phát triển của khoa học kỹ thuật mà đặc biệt

là hệ thống thuật toán trên hạ tầng kỹ thuật số.

Sự phát triển của hệ thống thuật toán còn thể hiện ở khả năng kiểm

soát bộ đếm, phân tích chỉ số của khách hàng về thói quen, nhu cầu, mối

quan tâm: khi độc giả đăng ký trả phí trên pay.vietnamplus.vn của

TTXVN, tài khoản của họ được đọc miễn phí tin tức không giới hạn trong

vòng 7 ngày đầu tiên, điều này cho thấy khả năng kiểm soát bộ đếm theo

dõi hoạt động của tài khoản trên website và đây cũng là phương thức chủ

73

yếu để thu thập dữ liệu cá nhân của độc giả trong vai trò khách mua tin tức:

quá trình trải nghiễm miễn phí sẽ cho thấy nhu cầu, thói quen và mối quan

tâm của của độc giả đối với các sản phẩm.

Tương tự, các gói cước sản phẩm mà FPT Play đưa ra như HBO GO,

K+, Kênh gia đình, Kênh quốc tế, Serie A & FA Cup… đều dựa trên sự

nghiên cứu về dữ liệu khách hàng cá nhân, theo đó cho thấy mức độ sâu sát

của FPT Play trong việc nghiên cứu thị trường truyền hình trả phí tại Việt

Nam. Các gói cước phần nào thể hiện thị hiếu, nhu cầu của công chúng.

Nhiều khán giả thay vì phải trả phí để xem tất cả, họ sẽ chỉ cần trả phí cho

lĩnh vực mà họ muốn quan tâm, trở thành khán giả trung thành với sản

phẩm đó. Điều này đã góp phần đưa FPT Play trở thành đơn vị đứng đầu

trong chuỗi các sản phẩm truyền hình trả tiền trực tuyến tại Việt Nam.

Biểu đồ 2.5: FPT Play đứng đầu danh sách truyền hình trả tiền trực

tuyến tại thị trường Việt Nam nhờ các chỉ số do người dùng bình chọn liên

quan đến nội dung sản phẩm và chất lượng ứng dụng công nghệ thông tin.

Nguồn Q&Me

Sản phẩm báo chí, truyền thông số thu phí tại Việt Nam phát triển

theo tiêu chuẩn công nghệ mới trên thế giới, có sự gắn kết liên thông

chặt chẽ giữa các nhóm ngành kinh tế chia sẻ. Bắt nhịp cùng yêu cầu và

74

tốc độ phát triển của thế giới, các sản phẩm báo chí, truyền thông số của

Việt Nam đã không ngừng cải thiện chất lượng sản phẩm, nâng cấp nền

tảng kỹ thuật số để phục vụ công chúng một cách tốt nhất thông qua việc

phát triển hợp tác nền tảng kỹ thuật giữa các nhóm ngành kinh tế, tiêu biểu

như: báo chí hợp tác với viễn thông, báo chí hợp tác với ngân hàng, báo chí

hợp tác với truyền thông xã hội…

Theo Sách trắng Công nghệ Thông tin – Truyền thông năm 2019, số

lượng các doanh nghiệp được cấp phép cung cấp dịch vụ truyền hình di

động, truyền hình trên mạng internet và truyền hình trả tiền theo loại hình

dịch vụ từ năm 2016-2018 có chiều hướng tăng. Lượng tăng của các loại

hình dịch vụ trên là do có sự kết hợp giữa các đơn vị báo chí và các tập

đoàn truyền thông trước nhu cầu thực tiễn từ công chúng.

Bảng 2.1: Số lượng doanh nghiệp cung cấp dịch vụ phát thanh

truyền hình. Nguồn: Sách trắng về CNTT-TT năm 2019

Nếu ở giai đoạn thử nghiệm, TTXVN đã phối hợp với các đơn vị

viễn thông để hoạt động thanh toán được đơn giản, dễ dàng thì hiện nay,

độc giả có thể trực tiếp trả tiền vào tài khoản của TTXVN qua ví điện tử và

75

chuyển khoản ngân hàng qua internet banking, điều đó đã giảm thiểu sự

chia sẻ doanh thu giữa cơ quan báo chí và cơ quan cung cấp dịch vụ viễn

thông, nâng cao thu nhập cho nhà báo.

Quá trình hợp tác kinh tế giữa cơ quan báo chí và đơn vị viễn thông đã

cho phép cơ quan báo chí sử dụng kho dữ liệu khách hàng viễn thông để phân

tích dữ liệu bigdata. Khi khách hàng sử dụng các dịch vụ giá trị gia tăng của

đơn vị viễn thông sẽ tạo ra dữ liệu big data để các đơn vị kinh doanh có thể dễ

dàng trích xuất để tìm ra những xu hướng, mối quan tâm, cách thức tiếp cận

thông tin của khách hàng nhằm xây dựng chiến lược kinh doanh hợp lý,

nhanh chóng. Theo đó, các đơn vị viễn thông như Viettel có thể cung cấp cho

các đối tác (cơ quan báo chí) thói quen của người dùng khi sử dụng mạng

internet để chủ động sản xuất nội dung phù hợp.

Biểu đồ 2.6: Mô hình sản phẩm báo chí, truyền thông số có sự phối hợp

giữa các nhóm ngành kinh tế đã phát huy được thế mạnh của các đơn vị

đối tác

Từ thực tiễn hợp tác giữa các nhóm ngành kinh tế, biểu đồ 2.6 đưa ra

một mô hình sản phẩm báo chí truyền thông số có sự phối hợp giữa các

nhóm ngành mà cụ thể ở đây là ở nhóm ngành kinh tế báo chí và kinh tế

76

viễn thông. Theo đó, các cơ quan báo chí trong vai trò đơn vị cung cấp các

sản phẩm báo chí số là loại tin, bài (được mã hóa dưới dạng ký tự, hình

ảnh, video, âm thanh) cho các đơn vị kinh doanh viễn thông (có hệ thống

cơ sở hạ tầng kỹ thuật số cung cấp nhiều cơ sở dữ liệu). Ở vai trò tiếp nhận,

khách hàng đã tạo ra trường dữ liệu về thói quen, nhu cầu qua lịch sử tìm

kiếm thực tế trên hệ thống hạ tầng số của đơn vị viễn thông. Từ các dữ liệu

người dùng, đơn vị viễn thông đóng vai trò trung gian cung cấp các sản

phẩm thông tấn báo chí phù hợp với thói quen, sở thích của khách hàng.

Vậy trong mô hình hợp tác này, cơ quan báo chí truyền thông chỉ cần làm

tốt chức năng sản xuất nội dung còn đơn vị viễn thông sẽ đảm nhiệm vai

trò chào bán sản phẩm tới khách hàng có nhu cầu.

Trong xu hướng phát triển của các sản phẩm báo chí, truyền

thông số quốc tế, quảng cáo là một cách để tạo ra doanh thu cho cơ quan

báo chí, tuy nhiên đôi khi quảng cáo lại phản tác dụng, khiến độc giả

quay lưng với sản phẩm báo chí truyền thông số. Vì vậy, trên thế giới và

cả ở Việt Nam hiện nay, cho khách hàng có thể chọn lựa tắt quảng cáo trên

sản phẩm truyền thông số cũng tạo ra doanh thu: Nắm bắt được tâm lý

khách hàng và dung hòa với mục tiêu kinh doanh, sự ra đời của các gói sản

phẩm tắt quảng cáo nhằm thỏa mãn nhu cầu của cả hai bên và cho thấy sự

phát triển của khả năng phân nhóm khách hàng dựa trên khóa mã lệnh kỹ

thuật số của đơn vị FPT Play đã trở thành một gói sản phẩm kỹ thuật theo

kịp xu hướng chung của thế giới.

Sự thay đổi, cải tiến của hạ tầng kỹ thuật số nhằm mục đích tối ưu

sản phẩm số, nâng cấp chất lượng dịch vụ, hướng tới cá nhân hóa các phân

khúc khách hàng, làm tiền đề tiếp tục cải tiến và nâng cao hạ tầng số. Ứng

dụng cải tiến kỹ thuật vào hoạt động của mô hình sản phẩm báo chí truyền

thông số thu phí người sử dụng đã cho thấy sự phối hợp giữa chặt chẽ giữa

kỹ thuật và nhu cầu của công chúng, từ đó tạo ra doanh thu cho cơ quan

77

báo chí và các cơ quan liên quan.

2.2.2. Tình hình phát triển về hoạt động nội dung

Theo thống kê về tần suất sử dụng mạng internet tại Việt Nam, mỗi

người Việt dành trung bình 6 giờ 42 phút mỗi ngày để tham gia các hoạt

động trên mạng internet; hằng ngày, 94% tỷ lệ người dùng dùng internet

truy cập vào hệ thống này để giải trí và tương tác [71]. Số liệu cho thấy,

công chúng Việt Nam có nhu cầu rất lớn trong hoạt động tiếp cận thông tin

và trao đổi giữa các cá nhân với cộng đồng. Trong bối cảnh nền kinh tế thị

trường đang có nhiều thay đổi từng giờ, từng ngày, các sản phẩm báo chí,

truyền thông số đã và đang là một kênh thông tin tham khảo hữu ích đối

với cộng đồng; nhất là trong giai đoạn nền kinh tế hội nhập quốc tế. Điều

đó đã dẫn tới những điểm chính trong hoạt động nội dung trên sản phẩm

báo chí truyền thông số, đó là:

Các mô hình thu phí từ người sử dụng chỉ thúc đẩy sự phát triển

của các tác phẩm báo chí, sản phẩm truyền thông chất lượng cao.

TTXVN có nhiều năm bán, trao đổi nguyên liệu báo chí (hình ảnh, video,

nội dung phỏng vấn…) với các cơ quan báo chí trong và ngoài nước đã tạo

ra kho dữ liệu, nội dung, siêu tác phẩm báo chí lớn. Vì vậy, họ có nhiều lợi

thế trong việc sản xuất nội dung từ kho tư liệu có sẵn. Ngay trong giai đoạn

thử nghiệm thu phí trên báo mạng điện tử của TTXVN, có bài viết đem về

doanh thu lớn hơn 17 triệu đồng. Theo ông Lê Quốc Minh, cách làm của

VietnamPlus là khai thác nhóm công chúng cụ thể, không chạy theo số

lượng mà tiên phong cách làm mới để từ chính những độc giả trả phí cho

sản phẩm báo chí chất lượng cao, họ sẽ nhân rộng, đưa sản phẩm đến với

các khách hàng khác.

Theo Sách trắng Công nghệ Thông tin và Truyền thông năm 2019,

thị trường dịch vụ truyền hình trả tiền đã có sự thay đổi khi trong hai năm

78

2017 và 2018 số thuê bao dịch vụ truyền hình trên mạng internet phát triển

mạnh mẽ của; doanh thu của dịch vụ này tăng gấp hơn 4 lần chỉ trong vòng

hai năm đầu ra mắt.

Bảng 2.2: Thị trường dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền.

Nguồn: Sách trắng Công nghệ Thông tin và Truyền thông năm 2019

Từ bảng 2.2 đã cho thấy, sự phát triển của các thị phần dịch vụ trả

tiền truyền hình tại Việt Nam chỉ trong vòng 3 năm từ 2016-2018 đã có

nhiều thay đổi đáng kể; cụ thể: đối với số thuê bao dịch vụ truyền hình di

động tăng từ 387.687 (năm 2016) đến 814.697 (năm 2018) đem về doanh

thu 65 tỷ đồng (2016) và 180 tỷ đồng (năm 2018), doanh thu tăng gần 3 lần

79

chỉ trong 2 năm. Tương tự, thuê bao từ dịch vụ truyền hình trên mạng

internet mới chỉ xuất hiện từ năm 2017 với 722.046 thuê bao mà đến năm

2018 đã phát triển lên 1.277.004 thuê bao (tăng 1,8 lần) đem về doanh thu

14 tỷ đồng trong năm đầu ra mắt và 57,8 tỷ đồng chỉ trong năm kinh doanh

thứ hai.

Thông qua hoạt động của các mô hình thu phí, vấn đề bản quyền

sản phẩm nội dung được tuân thủ chặt chẽ. Nguồn thu từ sản phẩm báo

chí, truyền thông số thu phí từ người sử dụng bao gồm chi phí cho sản

phẩm có bản quyền. Việc duy trì các sản phẩm báo chí, truyền thông có

bản quyền thể hiện sự phát triển về nội dung sản phẩm phù hợp với nguyên

tắc quốc tế. Trong quá trình khai thác nội dung để phục vụ nhu cầu thông

tin của khách hàng, theo quy định của pháp luật, Myclip không có chức

năng, nhiệm vụ sản xuất thông tin. Vì vậy 100% các clip có nội dung thông

tấn của trang này đều được các đối tác là các cơ quan báo chí, đài truyền

hình sản xuất và được Myclip tiến hành khai thác lại trên nền tảng số của

họ. Theo ông Nguyễn Quý Tính, Giám đốc trung tâm VAS Viettel, một

điểm thuận lợi trong việc kinh doanh các sản phẩm của Myclip là: “Vì

chúng tôi là đơn vị kinh doanh trung gian, nên các sản phẩm đều được phái

sinh từ các sản phẩm thông tấn báo chí có nguồn gốc, đơn vị sản xuất rõ

ràng nên chúng tôi hoàn toàn yên tâm”.

Nhiều sản phẩm giải trí chất lượng cao ở nước ngoài không thể tiếp

cận khách hàng Việt Nam bởi rào cản về ngôn ngữ, văn hóa. Nếu công

chúng tiếp cận sản phẩm giải trí nước ngoài dưới dạng “bản lậu, chất lượng

kém” sẽ dẫn tới cách tiếp cận sai lệch về sản phẩm văn hóa giải trí.

Theo ông Bùi Quang Ngọc, Phó Chủ tịch Hội đồng quản trị FPT,

việc kinh doanh các sản phẩm truyền hình có thu phí hướng tới việc đảm

bảo quyền lợi và nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu của người dân. Người

dân có quyền lựa chọn các sản phẩm có chất lượng, được cung cấp qua

80

những đường truyền tốc độ cao. Để làm được điều đó cần một đơn vị đã

hoạt động nhiều năm trong lĩnh vực truyền thông, viễn thông tại Việt Nam,

am hiểu địa hình, thị trường và nhu cầu của khách hàng.

Sự tương tác và vai trò của công chúng được thúc đẩy thông qua

mô hình sản phẩm thu phí. Sản phẩm báo chí, truyền thông số thu phí từ

người sử dụng là sản phẩm phi tuyến tính, có khả năng tương tác hai chiều

nhờ nền tảng kỹ thuật số. Mỗi loại hình báo chí đều có khả năng phát huy

thế mạnh riêng có của mình, trong bối cảnh kỹ thuật số cơ quan báo chí có

thế mạnh về sản xuất nội dung thông tin sẽ ứng dụng khả năng “làm

phẳng” của internet để tạo ra kết nối, tương tác. Vì vậy, sản phẩm báo chí,

truyền thông số không chỉ là sản phẩm tuyến tính một chiều mà nó còn là

sản phẩm phi tuyến tính có khả năng tương tác giữa công chúng và ban

biên tập.

Ở hai sản phẩm pay.vietnamplus.vn và trang mạng xã hội bằng video

Myclip.vn đều có phần bình luận giữa các chủ tài khoản trên hệ thống, cho

phép người dùng (khách hàng) đăng tải bình luận, ý kiến cá nhân và cả các

clip ngắn do khách hàng tự sản xuất (sau khi đã kiểm duyệt nội dung) để

tạo ra tương tác giữa khách hàng và nhà sản xuất.

Mang đặc trưng của sản phẩm truyền hình trả tiền, FPT Play có các

tính năng như tạm dừng chương trình đang xem, xem lại và tua chương

trình, lưu trữ các nội dung phù hợp và theo dõi lịch phát sóng, lên danh

sách kênh cá nhân và xem nhiều nội dung cùng lúc. Phần ứng dụng trên

điện thoại di động và các thiết bị điện tử cá nhân liên tục được cập nhật để

phù hợp với hệ điều hành của máy, tránh tình trạng gián đoạn do phần

mềm nhờ vào sự chủ động xây dựng hệ thống của các kỹ sư phần mềm

công nghệ thông tin.

Sự phát triển của các mô hình sản phẩm thu phí của người sử dụng

thúc đẩy sự phát triển các hạ tầng truyền thông mới của thời đại 4.0. Chất

81

lượng nội dung sản phẩm báo chí truyền thông số cải thiện những hạn chế về

hạ tầng kỹ thuật. Theo đó, các sản phẩm báo chí, truyền thông số đều tồn tại

trên nền tảng internet, không bị giới hạn về đường truyền và thiết bị đầu cuối,

bởi vậy khả năng lưu trữ và điều chỉnh khắc phục các lỗi kỹ thuật bằng thuật

toán. Vì vậy, tùy thuộc vào đường truyền mà đơn vị viễn thông sẽ xây dựng

hệ thống kho lưu trữ, truyền tải phù hợp với nội dung đã sản xuất. Điều đó

đảm bảo chất lượng sản phẩm, giảm bớt thời gian hao phí và giảm độ trễ sản

phẩm khi truyền phát trên các thiết bị điện tử.

Nền tảng công nghệ thông tin cho phép nhà sản xuất không chỉ cải

tiến các sản phẩm mới tại thời điểm công nghệ thay đổi mà họ còn có thể

nâng cấp cả những sản phẩm cũ trên hệ thống. Có nghĩa là, tại thời điểm

năm 2016, FPT Play đưa ra thị trường sản phẩm có chất lượng hình ảnh SD

(độ phân giải 720x480); đến năm 2019, FPT Play cung cấp sản phẩm Full

HD (độ phân giải 1920x1080), nhờ nền tảng công nghệ thông tin, FPT Play

cũng có thể nâng cấp các sản SD lên Full HD.

Biểu đồ 2.7: Thị trường truyền hình số trả tiền tại Việt Nam. Nguồn:

Q&Me

Bắt nhịp cùng thị trường sản phẩm truyền hình số trả tiền quốc tế, hệ

thống sản phẩm truyền hình số trả tiền tại Việt Nam cũng rất phong phú đa

dạng từ nguồn cấp cho đến phương thức tiếp nhận. Nhìn chung các đơn vị

cung ứng (theo biểu đồ 2.7) đều khai thác tối đa các sản phẩm trên nhiều

82

kênh truyền dẫn: đầu thu kỹ thuật số, ứng dụng trên điện thoại di động và

tivi thông minh, ứng dụng trên các thiết bị điện tử, trang mạng điện tử…

Theo đó, ngoại trừ Youtube và Netflix là các đơn vị cung cấp sản phẩm

truyền thông số từ nước ngoài thì 6/8 đơn vị cung ứng sản phẩm báo chí

truyền thông số trong top tại Việt Nam là sản phẩm thuần Việt, trong đó

FPT Play dẫn đầu thị trường sản phẩm truyền hình thu phí tại Việt Nam.

2.2.3. Tình hình phát triển về sản xuất, đóng gói thông tin

Đối với các sản phẩm báo in, bước đóng gói sản phẩm được thể hiện

qua việc thiết kế maket, lên bản kẽm và in thành phẩm; ở báo truyền hình

bước đóng gói bao gồm: cắt ghép clip, thêm hiệu ứng và đặt định dạng file

thành phẩm; ở báo phát thanh, bước đóng gói bao gồm: kỹ thuật thu tiếng,

xử lý âm thanh nền… thì ở báo mạng điện tử và đặc biệt là ở các sản phẩm

báo chí, truyền thông số, hoạt động đóng gói sản phẩm cũng phụ thuộc vào

dung lượng bộ nhớ (server tổng), các thông số quy định về định dạng thành

phẩm. Nếu như các sản phẩm báo chí truyền thống yêu cầu nhà báo phải

sản xuất tác phẩm tại cơ quan do hạn chế về phương tiện, kỹ thuật, thì ngày

ngày các sản phẩm báo chí số cho phép nhà báo tác nghiệp tại hiện trường,

cắt dựng tin truyền hình bằng bàn mix dựng tại sự kiện. Điều này đã làm

tăng độ “nóng” của thông tin, giúp thông tin đến với công chúng nhanh

hơn. Bởi lẽ, tin tức là một hàng hóa dễ hỏng, yếu tố “hỏng” phụ thuộc rất

nhiều vào khả năng truyền dẫn tin tức. Ví dụ như nếu thông tin những ổ

dịch COVID-19 tại các địa phương không được nhanh chóng thông báo

trên báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng thì mức độ lây lan cộng

đồng sẽ trở nên nghiêm trọng hơn.

Đối với TTXVN, hoạt động đóng gói tin tức tại các hiện trường

được chú trọng, phóng viên khi đi tác nghiệp được chuẩn bị đầy đủ về thiết

bị thu phát, thiết bị điện tử cá nhân phục vụ quá trình sản xuất. Phóng viên

có thể tự trang bị các thiết bị tác nghiệp hoặc đăng kí mượn của cơ quan.

83

Về mặt kỹ thuật, các phóng viên được tập huấn để sử dụng các công cụ

trên giao diện chủ của trang báo mạng điện tử chính thức để chủ động thiết

kế bài viết, đăng tin, bài, đặt bố cục theo ý đồ của tác giả.

Đối với các sản phẩm truyền thông như tại trang Myclip.vn, các đối

tác báo chí đóng gói sản phẩm dựa trên những thông số mà Viettel cung

cấp: kích thước khung hình, dung lượng, các thức đặt tên, chất lượng hình

ảnh… Quá trình hợp tác giữa hai bên cần bảo đảm hai yếu tố: về phía đối

tác báo chí cần chú trọng về chất lượng nội đung, về phía Viettel chú trọng

sự nâng cấp hạ tầng, thường xuyên tìm kiếm và sửa chữa lỗi hệ thống, cung

cấp sản phẩm truyền thông đến khách hàng.

Quá trình đóng gói sản phẩm báo chí, truyền thông số đã không còn

là hoạt động đơn nhất của một tập thể mà nó có sự phối hợp giữa các đơn

vị, các nhóm ngành kinh tế. Một nhà báo có thể phối hợp với một KOL để

đưa thông điệp báo chí đến với cộng đồng nhanh nhất. Mối quan hệ giữa

nhà báo và nhà truyền thông đang ngày một chặt chẽ trong việc lựa chọn

góc nhìn và nghiên cứu thị trường.

Ví dụ, trong đợt giãn cách xã hội tháng 3 năm 2020, TTXVN đã

phối hợp với công ty truyền thông Media 21 tạo ra loạt sản phẩm cổ động

phòng chống COVID-19 được giải Nhì Báo chí về thông tin đối ngoại. Là

một sản phẩm có nguồn tư liệu của cơ quan báo chính thống (TTXVN) và

có cách sản xuất, đóng gói thông tin hiện đại, trẻ trung với các thông điệp

chính luận nhưng vẫn phù hợp với nhóm công chúng trẻ tuổi do các biên

tập tại Media 21 dàn dựng. Điều này cho thấy, sự phối hợp giữa các bên

trong quá trình sản xuất sản phẩm báo chí truyền thông số là hết sức quan

trọng, có thể phát huy tối đa điểm mạnh của mỗi bên cũng như khai thác,

tiếp cận tới mọi nhóm công chúng. Hoạt động sản xuất, đóng gói đang

được chuyên môn hóa và có sự góp sức của cả nhóm ngành khoa học kỹ

84

thuật và nhiều nhóm ngành xã hội khác.

2.2.4. Tình hình phát triển về hoạt động dịch vụ

Mỗi đơn vị kinh doanh các sản phẩm báo chí, truyền thông số thu

phí tại Việt Nam đều đã đạt được những thành công nhất định dù hoạt động

ở mô hình thu phí trực tiếp hay có sự liên kết đối tác. Điều này được thể

hiện thông qua sự tăng trưởng của lượng khách hàng đăng ký, sự phát triển

của mạng lưới viễn thông và sự đa dạng của các sản phẩm với nội dung

phong phú. Xu hướng sử dụng các sản phẩm báo chí, truyền thông số thu

phí người sử dụng cũng đã được hình thành trong thói quen của những

người lao động có thu nhập trung bình.

Sản phẩm báo chí, truyền thông số thu phí từ người sử dụng có sự

kế thừa mô hình doanh thu thu phí sản phẩm báo chí hữu hình cũng

như các đặc tính của sản phẩm báo chí số. Độc giả đã quen với việc chi

trả một khoản phí cố định cho các sản phẩm thông tin báo chí: như mua

báo hàng ngày, hàng tháng, trả tiền cáp truyền hình… Vì vậy mô hình sản

phẩm báo chí số thu phí là sự kế thừa và tiếp nối doanh thu từ sản phẩm

báo chí hữu hình. Sự ra đời của các loại hình, sản phẩm báo chí mới dựa

trên sự phát triển của khoa học kỹ thuật và tiến bộ trong văn hóa giáo dục

là một quá trình tất yếu. Trên cơ sở nền tảng báo chí truyền thống, sự phát

triển của các loại hình báo chí mới với các đặc tính, tiến bộ về hình thức,

nội dung là cần thiết.

Bắt đầu từ tháng 8/2012, báo điện tử VietnamPlus đã phối hợp cùng

một đối tác công nghệ trong nước để thử nghiệm thu phí bạn đọc trên giao

diện điện tử của báo, tại thời điểm đó, các sản phẩm báo mạng điện tử tại

Việt Nam đều miễn phí, nên theo tác giả Vĩnh Khang, trước khi mô hình

này chính thức đi vào hoạt động, một vài bài viết có nội dung mô tả về hoạt

động thu phí báo mạng điện tử đã bị độc giả “ném đá tơi bời”, phản đối với

ngôn ngữ nặng nề. Tuy nhiên, kết quả của mô hình thử nghiệm rất đáng

85

khích lệ khi có những bài viết đã đạt được doanh thu đến 8 con số [69].

Công chúng đã quen thuộc với các loại hình báo chí như báo in,

báo hình, báo phát thanh, báo ảnh, từ khi có báo mạng điện tử, công

chúng được “rút ngắn khoảng cách” với cơ quan báo chí cả về tốc độ

truyền tin, nội dung thông tin và hình thức thể hiện. Trong quá trình đó,

công chúng được phép tham gia trao đổi, bình luận, phản biện với cơ

quan báo chí và các cá nhân khác, thậm chí chính công chúng là người

cung cấp nội dung - vai trò của nhà báo công dân. Báo chí số đã tạo ra

sân chơi mới cho công chúng.

Tồn tại trên môi trường kỹ thuật số nên các sản phẩm báo chí, truyền

thông số đã tạo ra cho khách hàng không chỉ khả năng trải nghiệm thông

tin mà còn có thể tạo ra doanh thu trong quá trình trải nghiệm sản phẩm.

Myclip.vn trả nhuận bút cho các khách hàng có sản phẩm đạt lượng truy

cập lớn; FPT Play tổ chức chơi game trực tuyến trên giao diện chủ và có

phần thưởng trả trực tiếp vào tài khoản của khách hàng… Có thể nhận

định, các sản phẩm báo chí truyền thông số đã phát huy đặc tính kết nối

cộng đồng, tạo ra khả năng tương tác hai chiều đem lại những sản phẩm có

lợi cho cả người mua và người bán.

Sản phẩm báo chí, truyền thông số thu phí từ người sử dụng cung

cấp các gói sản phẩm phù hợp với các phân khúc khách hàng theo

hướng “cá thể hóa”. Thị trường báo chí, truyền thông tại Việt Nam đa

dạng với nhiều nhóm xã hội đặc thù: căn cứ trên thu nhập, học vấn, vị trí

xã hội, sở thích, thói quen, văn hóa địa phương… Đối với mỗi phân khúc

khách hàng khác nhau sẽ có những đặc điểm và thói quen khác nhau. Ví

dụ, với nhóm khách hàng thu nhập thấp (học sinh, sinh viên, người lao

động tự do) sẽ đòi hỏi những sản phẩm giá bình dân nhưng vẫn đảm bảo

chất lượng nội dung, dịch vụ Myclip.vn của Tổng công ty Viettel cung cấp

gói sản phẩm chỉ với tối đa 35.000đ/tháng, khách hàng có thể xem video,

86

phim, clip tin tức của các trang báo mạng điện tử, trang tin điện tử, các

chương trình truyền hình cáp thoải mái mà vẫn phù hợp khả năng chi trả,

đáp ứng nhu cầu của những khách hàng thu nhập thấp. Theo báo cáo chỉ số

người dùng từ trang web Alexa Rank, chỉ trong vòng 90 ngày đầu năm

2020, các chỉ số về tương tác giữa đơn vị cung ứng sản phẩm và người

dùng, mức độ phổ biến của tin tức và lan tỏa trên mạng xã hội đã đưa

myclip.vn leo 378,511 bậc trên xếp hạng các trang web thông tin quốc tế

(từ vị trí 587,346 lên vị trí 308,835).

Biểu đồ 2.8: Chỉ số người dùng trong vòng 90 ngày trên Myclip.vn.

Nguồn Alexa

Tương tự, các gói dịch vụ của FPT Play của Tập đoàn FPT nhắm tới

các nhóm khách hàng tiềm năng như hộ gia đình, người hâm mộ thể thao,

người hâm mộ điện ảnh, người theo dõi truyền hình quốc tế… Trong các

gói, ngoài gói đa chức năng gồm nhiều kênh, nhiều dịch vụ thì FPT cũng

tiến tới tiếp cận các khách hàng chuyên biệt trong dịch vụ của mình. Riêng

về mức độ, FPT Play có ít nhất 8 gói cước dành cho 8 đối tượng giải trí

khác nhau. Điều đó cho thấy có sự đầu tư nghiên cứu và định hướng khai

thác thị trường theo phân khúc khách hàng đa dạng để tạo ra một không

gian kỹ thuật số chung nền tảng như mang đậm tính cá nhân của từng

87

người dùng.

Sự phát triển của các mô hình thu phí góp phần thay đổi nhận

thức của khách hàng, hướng tới các dịch vụ chất lượng cao. Quan điểm

của nhà nghiên cứu McMillan (1998) đã chỉ ra rằng “nếu có thể tìm thấy

nội dung miễn phí ở đâu đó, người dùng sẽ không trả tiền cho bất kỳ nội

dung nào khác, ngay cả đối với loại tin tức mà họ cho là có giá trị” [51].

Tuy nhiên trong bối cảnh nền kinh tế thị trường đang tác động không nhỏ

đến thói quen của công chúng thì có công chúng trẻ vẫn đồng ý chi trả cho

tin tức nếu nó có liên quan mật thiết đến cuộc sống và các mối quan hệ xã

hội, công việc của họ. Khi được hỏi về việc lựa chọn giữa một tin tức miễn

phí và một tin tức độc quyền có trả phí thì một người trả lời phỏng vấn cho

biết: “Chọn tin tức độc quyền trả phí. Vì trong bối cảnh kinh tế đang chuẩn

bị chấm dứt vòng quay 10 năm của hạn mức ngân hàng thì các tin tức

phân tích kinh tế độc quyền sẽ phục vụ rất tốt cho việc kinh doanh” [PV8].

Biểu đồ 2.9: Thống kê các chỉ số liên kết trên sản phẩm myclip.vn.

Nguồn: Alexa.com

Đối với trang myclip.vn, các từ khóa thông tin sẽ tạo ra kênh truyền

dẫn kết nối rất tốt cho cộng đồng khách hàng với đơn vị cung cấp sản

phẩm. Từ khóa tìm kiếm chiếm 2,1 nghìn từ/phút (theo biểu đồ 2.9), tỉ lệ

click chuột là 1,2 nghìn lượt/phút… Điều đó cho thấy một sản phẩm báo

88

chí truyền thông số có sự kết hợp giữa các nhóm ngành kinh tế có thể tạo

ra độ lan tỏa cũng như tạo ra sự kết nối trong cộng đồng. Đứng ở vai trò

của một khách hàng, việc lựa chọn sản phẩm theo gói đồng nghĩa với việc

tiết kiệm chi phí nhưng vẫn đảm bảo yếu tố thỏa mãn nhu cầu cá nhân. Từ

những số liệu về chỉ số liên kết trên sản phẩm myclip.vn có thể phần nào

phân tích được đặc điểm thói quen sử dụng của công chúng trên trang web

này. Khách hàng sẵn sàng chấp nhận chi trả một khoản phí cố định tối

thiểu phù hợp với khả năng kinh tế thông qua thuê bao di động cá nhân để

sử dụng một sản phẩm giải trí, tin tức đa phương tiện chất lượng cao.

Sự gia tăng của các khách hàng đăng kí dùng sản phẩm báo chí,

truyền thông số thu phí từ người sử dụng và mức độ hài lòng của khách

hàng với chất lượng sản phẩm. Sự tăng trưởng của dịch vụ được khẳng

định bằng số lượng khách hàng thuê bao đăng ký ngày càng tăng. Với

hướng tiếp cận nhóm công chúng trẻ, lượng khách hàng của Myclip không

ngừng phát triển, ngay trong tháng đầu tiên, Myclip đã có 1 trăm nghìn

khách hàng và tăng dần cho đến nay chạm mức gần 1 triệu khách hàng,

các khách hàng của Myclip (chủ yếu ở độ tuổi thanh thiếu niên) đã

không ngừng tham gia trang mạng xã hội này bởi chi phí rẻ và cảm giác

lợi ích lớn.

Thị trường các sản phẩm báo chí số tại Việt Nam đang ngày càng

phát triển với nhiều sản phẩm mới, chỉ tính riêng trong năm 2018 đã có 46

doanh nghiệp có Giấy phép cung cấp dịch vụ phát thanh, truyền hình trả

tiền theo loại hình dịch vụ (so với 39 doanh nghiệp năm 2017, theo Sách

trắng CNTT-TT). Báo cáo từ Q&Me cũng cho thấy, 4 trong 5 sản phẩm top

đầu về dịch vụ truyền hình trực tuyến thu phí tại Việt Nam là sản phẩm

89

thuần Việt, nhận được phản hồi tích cực từ khách hàng.

Hình 2.1: Top 5 dịch vụ truyền hình trực tuyến thu phí tại Việt Nam.

Nguồn: Q&Me

Chịu ảnh hưởng của nhịp độ “cơ chế thị trường”, có khách hàng

trong độ tuổi lao động đã quyết định chi trả cho một sản phẩm báo chí

truyền thông số bởi tính tiện lợi, khả năng tích hợp thông tin và giải trí

phong phú, sinh động. “Từ lâu tôi đã không còn đọc báo chí (ấn phẩm in)

nữa, vì nó không tiện dụng và nhanh chóng như báo mạng. Tôi cũng thích

xem các clip hài ngắn và vì công việc của tôi khá bận rộn nên trong lúc

nghỉ giải lao tôi thường thích xem các clip có nội dung thông tin hơn là

ngồi đọc nhiều bài báo cùng lúc mà có thể sẽ không đọng lại gì sau khi

đọc” [PV8].

Thời kỳ công nghiệp 4.0 đang bước vào giai đoạn mới khi các doanh

nghiệp, nền tảng viễn thông được chú trọng bởi sự gia tăng nhanh chóng

của các thuê bao di động, internet, 4G và lượng người sử dụng điện thoại di

động thông minh hoặc các thiết bị cá nhân kết nối internet. Đây là cơ hội

cho các cơ quan báo chí, cơ quan truyền thông không ngừng đổi mới, cải

thiện dịch vụ của mình để thu hút và duy trì kết nối với các khách hàng

90

trong không gian kỹ thuật số.

2.3. Đánh giá ƣu điểm và hạn chế của sản phẩm báo chí, truyền thông

số thu phí từ ngƣời sử dụng tại Việt Nam

2.3.1. Ƣu điểm của sản phẩm báo chí, truyền thông số thu phí từ ngƣời

sử dụng tại Việt Nam

Mỗi đơn vị kinh doanh các sản phẩm báo chí, truyền thông số thu

phí tại Việt Nam đều đã đạt được những thành công nhất định dù hoạt động

ở mô hình thu phí trực tiếp hay có sự liên kết đối tác. Từ hoạt động thực

tiễn của các mô hình thu phí người sử dụng của các sản phẩm báo chí

truyền thông số hoạt động tại Việt Nam có thể thấy được một số điểm

mạnh của mô hình như sau:

Thứ nhất, đa phần các bài viết đều được cải thiện về chất lượng,

có đơn vị chỉ đầu tư về hình thức thể hiện, có đơn vị đầu tư về cả hình

thức và nội dung. Sự ra đời của siêu tác phẩm báo chí và các sản phẩm

truyền thông đa phương tiện đã tạo ra trào lưu thay đổi trên thị trường báo

chí tại Việt Nam. Các cơ quan báo chí đã không ngừng tìm cách đổi với

bản thân để phù hợp với sự phát triển của thời đại. Trong quá trình đó, các

mô hình sản xuất chuyên sâu đã được phát huy bên cạnh quá trình hợp tác

giữa các nhóm kinh tế để phát huy thế mạnh của mỗi nhóm ngành đặc

trưng.

Thứ hai, sự phát triển của công nghệ đã làm thay đổi cách thức

khai thác, đóng gói thông tin của phóng viên và cách tiếp cận của độc

giả. Khi báo chí phát triển theo chiều hướng đa phương tiện trên nền tảng

mass media, công chúng theo đó cũng tự thay đổi thị hiếu và cách tiếp cận

sản phẩm. Từ những lợi ích thiết thực mà gói sản phẩm đem lại, công

chúng có nhiều sự lựa chọn và quyết định mua - gắn bó với sản phẩm mà

họ cho rằng đem lại nhiều lợi ích nhất tại thời điểm mua. Theo ông Nguyễn

Quý Tính - Giám đốc Vas Viettel, điểm mạnh của các sản phẩm báo chí

91

truyền thông số chính là các đặc tính riêng của sản phẩm. “Sản phẩm báo

chí, truyền thông số dễ dàng được các nhóm khách hàng trẻ tuổi đón nhận

hơn bởi tính chất nhanh và sinh động của thông tin. Bên cạnh đó, nếu

khách hàng cảm thấy họ được tiết kiệm khi sử dụng sản phẩm cũng là một

yếu tố quan trọng quyết định sự khác biệt của sản phẩm số. Tiết kiệm ở đây

là cả thời gian hao phí cho các khâu sản xuất, đóng gói, phát hành… tiết

kiệm về giá cả, và thuận tiện về thời gian sử dụng linh hoạt” [PV5].

Thứ ba, mô hình thu phí sản phẩm báo chí số đã nắm bắt được xu

hướng phát triển không ngừng của hoạt động thanh toán điện tử tại Việt

Nam. Theo báo cáo của Công ty Cổ phần thanh toán Quốc gia Việt Nam

(Napas) thói quen tiêu tiền mặt của một đại bộ phận người dân đã thay đổi,

dẫn đến hoạt động thanh toán điện tử sôi nổi hơn. Tổng giá trị giao dịch

thương mại điện tử năm 2019 đã tăng 170% so với năm 2018. Điều đó cho

thấy sức mua thương mại điện tử chung đều tăng, các sản phẩm báo chí

truyền thông số cũng nằm trong tiến trình đó.

Thứ tư, phát triển đa phương tiện ở mọi lĩnh vực. Sự hợp tác giữa

các đơn vị kinh doanh khác ngành là một xu hướng tất yếu của kinh tế,

nhiều chuyên gia cho rằng, càng có nhiều đơn vị tham gia vào quá trình

hợp tác thì kinh tế càng phát triển, đúng như câu nói “Muốn đi nhanh thì đi

một mình, muốn đi xa thì phải đi cùng nhau”. Sự phát triển của cơ sở hạ

tầng viễn thông sẽ đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu nền kinh tế 4.0, vì

vậy, sự kết hợp giữa các đơn vị báo chí và viễn thông sẽ đem lại lợi ích rõ

ràng cho tất cả các bên.

Thứ năm, các sản phẩm báo chí, truyền thông số có những thế

mạnh trong việc ứng dụng khoa học công nghệ trong quá trình sản xuất

và kinh doanh sản phẩm. “Thuận lợi lớn nhất là chúng tôi có thể làm chủ

hệ thống nền tảng cho sản phẩm, có nghĩa là chúng tôi có thể tính toán để

cho ra đời những sản phẩm phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất của mình.

92

Chúng tôi còn có thoại truyền thông online để bắt kịp với nhu cầu của

khách hàng, việc nắm rõ cơ sở dữ liệu của khách hàng cho phép chúng tôi

kịp thời quảng cáo sản phẩm truyền thông số phù hợp với nhu cầu của

công chúng. Từ đó tính toán giá cước phù hợp với thói quen, khả năng chi

trả của khách hàng” [PV1]. Việc ứng dụng các bộ đếm công nghệ như

Google analytics vào báo cáo theo từng ngày sẽ giúp cho các đơn vị kinh

doanh sản phẩm báo chí truyền thông số nắm được các thông số về thói

quen, độ tương tác và thời gian lưu lại của khách trên trang điện tử…

Ba mô hình sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí người sử dụng

tại Việt Nam có thời gian tồn tại và khai thác thị trường rất dài, là sản

phẩm người Việt cho người Việt với phân khúc khách hàng rộng và phổ

biến, đem lại hiệu quả kinh tế cho nhà sản xuất và khách hàng. Ba mô hình

trên có nhiều điểm tương đồng về nội dung sản phẩm và phương thức hoạt

động với các sản phẩm báo chí, truyền thông số thu phí người sử dụng

thành công trên thế giới.

2.3.2. Hạn chế của sản phẩm báo chí, truyền thông số thu phí từ ngƣời

sử dụng tại Việt Nam

Trong bối cảnh nền tảng số đã quy tất cả các thông tin, sản phẩm

về cùng một đầu mối, điều này đã nảy sinh nhiều vấn đề trong đó có vấn

đề về bản quyền. Hệ thống kinh doanh truyền hình của FPT Play đã vấp

phải hai vụ tranh chấp về bản quyền trong năm 2018 và 2019.

Cụ thể, tháng 12 năm 2018, Công ty Cổ phần DID TV – nhà sản

xuất phim truyền hình Gạo Nếp Gạo Tẻ (phát sóng độc quyền trên kênh

truyền hình HTV2, HTV2 Chanel Youtube và ứng dụng On) đã nộp đơn

khởi kiện Công ty Cổ phần Viễn thông FPT vì hành vi sao chép, lưu trữ,

khai thác thương mại 76 tập của bộ phim Gạo Nếp Gạo Tẻ dưới hình thức

xem phim theo yêu cầu trên hệ thống dịch vụ truyền hình trả tiền IPTV của

FPT mà không có bất kỳ thỏa thuận nào từ nhà sản xuất. Từ 22/10/2018,

93

đại dện công ty DID TV đã gửi công văn đến FPT đề nghị phối hợp nhưng

đến ngày 30/10/2018, sự việc chưa được giải quyết. Bên DID TV cho rằng

họ đã bị gây ảnh hưởng trực tiếp đến chỉ số người xem trên 2 kênh truyền

hình HTV2-Vie Channel, Giải Trí TV và cả các nền tảng kinh doanh online

như Youtube và Facebook; bên cạnh đó còn bị giảm doanh thu quảng cáo

trên truyền hình, khiến cơ hội khai thác kinh doanh từ bản quyền bộ phim

bị ảnh hưởng. Từ những lập luận trên, DID TV khởi kiện FPT hơn 9 tỷ

đồng bồi thường. Cũng theo DID TV, đây không phải lần đầu tiên Công ty

FPT vi phạm bản quyền sản phẩm của DID TV mà trước đó, bộ phim Hậu

Duệ Mặt Trời của Hàn Quốc do đơn vị này mua bản quyền phát hành tại

Việt Nam cũng bị FPT vi phạm bản quyền từ năm 2016.

Đến tháng 5 năm 2019, công ty giải trí đa phương POPS đã phát đi

thông tin tố cáo truyền hình FPT xâm phạm bản quyền và đề nghị bồi hơn

hơn 350 tỷ đồng bởi theo POPS, FPT đã cố ý xâm phạm nghiêm trọng và

thu lợi trái phép 303 nội dung thuộc sở hữu của đơn vị này cũng như hơn

1.800 nội dung mà đối tác của công ty được cấp phép. Trước các thông tin

của công ty POPS, đại diện FPT cho biết hai bên đã thảo luận nhưng chưa

đưa ra kết luận chung, đồng thời trước những cáo buộc của POPS, truyền

hình FPT cũng phát hiện POPS đã sao chép, sử dụng một số tác phẩm

thuộc quyền sở hữu của Công ty TNHH Sự kiện truyền thông Phúc Lâm

(đơn vị được FPT bảo trợ quyền tác giả) thông qua mạng xã hội và ứng

dụng POPS trên điện thoại di động có kèm quảng cáo.

Không chỉ với sản phẩm FPT Play Box, trang mạng xã hội MyClip

cũng từng được một số đơn vị như POPS, Lâm Chấn Khang, Đàm Vĩnh

Hưng Official và một số đơn bị khai thác các sản phẩm truyền thông Hàn

Quốc đề nghị gỡ bỏ các clip kinh doanh có vướng nội dung bản quyền.

Trong quá trình kinh doanh, nhiều đơn vị truyền thông đã đưa các

thuật toán và phần mềm thông minh vào hỗ trợ khai thác nội dung từ mạng

94

internet, theo đó, bất kỳ sản phẩm nào có lượt xem và bình luận lớn, thuộc

TOP Trending (nhóm tin tức được đông đảo công chúng quan tâm) trên các

trang mạng xã hội đều được hệ thống tự động cập nhật đưa về kho lưu trữ

của server chủ. Đây là một tiện ích trong quá trình sử dụng trí tuệ nhân tạo

phục vụ thương mại, giảm bớt các khâu tìm kiếm nội dung kinh doanh

nhưng cũng là mặt trái trong vấn đề bản quyền tác giả trong hoạt động khai

thác kinh doanh.

Không chỉ dừng lại ở đó, nhiều sản phẩm bên ngoài là thu phí

nhưng nội dung bên trong lại hoàn toàn là những thông tin miễn phí có

thể tìm kiếm ở bất cứ nơi nào khiến cho nhiều khách hàng cảm thấy họ

bị “lừa”. Đơn cử có ý kiến cho rằng: “Bình mới rượu cũ”, thông tin dù

được thể hiện dưới nhiều cách nhưng nếu không có giá trị riêng biệt thì

cũng không thể tạo ra sự khác biệt [PV8]. Vậy, sự lặp lại của nội dung mà

phần lớn là khai thác từ cái đã có thì rất khó để duy trì mối quan hệ mua

bán với công chúng. Có nhiều đơn vị sau khi khai thác lại sản phẩm miễn

phí của nhà sản xuất khác, còn dùng cách che logo, cắt hình ảnh nhà tài trợ

để thực hiện triệt để việc không quảng cáo gián tiếp cho doanh nghiệp

nhưng lại khiến cho sản phẩm cuối trở nên nham nhở, xấu xí, mất giá trị.

Nhà nghiên cứu McMillan (1998) đã từng khẳng định chừng nào

công chúng còn tìm được tin tức miễn phí thì khi đó họ sẽ không mua tin

tức trả phí, điều này đã có dấu hiệu thay đổi khi mà thị trường thông tin

bão hòa nhưng vẫn tồn tại các thông tin báo chí có khả năng ảnh hưởng

trực tiếp tới vấn đề kinh tế cũng như đời sống hàng ngày của độc giả, họ sẽ

quyết định trả phí để được đón đầu tin tức.

Từ hoạt động thực tiễn tại một số cơ quan báo chí và đơn vị truyền

thông có tổ chức hoạt động mô hình sản phẩm báo chí truyền thông số thu

phí từ người sử dụng nhận thấy có mấy khó khăn trong công tác tiếp cận

công chúng và trở ngại khiến công chúng không muốn chi trả cho sản

95

phẩm thông tin, đó là:

Trên thế giới, khi một số tờ báo tính phí đăng ký trên các phiên bản

trực tuyến của họ, rất ít đơn vị thành công với mô hình này, ví dụ như Tạp

chí Phố Wall. Bởi lẽ ngày nay, hầu hết các trang báo mạng điện tử cung

cấp thông tin miễn phí với hy vọng sẽ tăng lượng độc giả để thu hút sự

quan tâm của các nhà quảng cáo nhằm đạt được doanh thu quảng cáo.

Nhưng trong một thế giới trực tuyến được cung cấp thông tin miễn phí,

người dùng sẽ coi hoạt động thu phí thông tin là cách là sai lầm gây thiệt

hại cho kinh tế và sự thu phí sẽ đi ngược lại với thói quen, lối sống của họ.

Vì vậy thật khó để tạo ra mô hình mới hiệu quả nếu không có sự đồng bộ

trong cách thức tổ chức chung. Tương tự như vậy, tại VietnamPlus.vn, nếu

nhìn vào lượng độc giả đăng ký sẽ thấy chỉ có một phân khúc khách hàng

là các nhà nghiên cứu, chuyên gia, những nhà phân tích số liệu mới chú

tâm tới các sản phẩm của VietnamPlus. Khách hàng thuộc phân khúc bình

dân sẽ ít hoặc không chú ý tới các tin tức thu phí bởi nhu cầu của họ đa

phần chỉ là giải trí đơn thuần. Bên cạnh đó, với thói quen lướt qua tin tức

của một đại bộ phận công chúng trẻ, họ sẽ không muốn giành thời gian cho

những sản phẩm báo chí có dung lượng dài.

Trong thời đại kỹ thuật số, các giá trị báo chí và trên hết là độ chính

xác để xây dựng lòng tin (kiểm tra thực tế và quảng bá các nguồn đáng tin

cậy) là quan trọng hơn bao giờ hết. Nó giống như câu chuyện xây dựng

thương hiệu, những thương hiệu lớn có uy tín lâu năm thường dễ dàng

thuyết phục công chúng tham gia công cuộc thay đổi trong thói quen tiếp

cận thông tin. Để làm được điều đó, các tòa soạn báo cần giữ đúng tôn chỉ,

mục đích của mình, khai thác thông tin một cách sâu rộng, phản ánh trung

thành mọi lĩnh vực của cuộc sống.

Đặc trưng cho nền kinh tế kỹ thuật số là các doanh nghiệp không

thể có một trọng tâm duy nhất. Thay vào đó, họ cần xây dựng sản phẩm

96

đa dạng để tiếp cận các phân khúc khác nhau của một thị trường đa dạng

và linh hoạt hơn nhiều so với nhóm sản phẩm tương tự ở thị trường

truyền thống. Trong thị trường kỹ thuật số, các khái niệm về địa phương

và khoảng cách là những thành tố ít tạo ra ảnh hưởng đến vấn đề phân

phối và bán sản phẩm. Do đó, cần phải kết hợp các mô hình kinh doanh,

tạo ra các mô hình hỗn hợp và thực hiện các điều chỉnh cần thiết dẫn đến

dịch vụ tốt hơn.

Tiểu kết chƣơng 2

Rõ ràng rằng, nền kinh tế kĩ thuật số vừa linh hoạt vừa chủ động, nó

không chỉ phù hợp với mọi nhóm ngành kinh tế mà đặc biệt phù hợp với

tính chất của ngành báo chí, truyền thông. Kinh tế báo chí truyền thông số

đã tạo ra một bước tiến trong ngành công nghiệp khai thác và phát hành

thông tin. Không còn gặp những rào cản về địa lý hay vận chuyển, phương

thức kết nối rộng khắp giữa người với người đã cho phép các sản phẩm báo

chí truyền thông số trở nên ngày càng phổ biến.

Ở Việt Nam, công chúng luôn có nhu cầu rất lớn đối với các sản

phẩm văn hóa thông tin, vì vậy các cơ quan báo chí luôn phải làm mới

mình, đa dạng từ nội dung đến hình thức thể hiện. Tuy nhiên mức độ thu

nhập ở các nhóm công chúng khác nhau sẽ tạo ra các cách tiếp cận, đòi hỏi

và khả năng chi trả thông tin khác nhau. Mặc dù mô hình sản phẩm báo chí

truyền thông số thu phí từ người sử dụng đã được các nước phát triển khởi

chạy từ những năm 2008, và đang trở thành một xu hướng chung toàn cầu

nhưng tại Việt Nam, mô hình này vẫn đang ở giai đoạn ban đầu, với nhiều

khó khăn trong việc thanh toán điện tử và thay đổi thói quen của độc giả và

chính cách thức sản xuất thông tin của các cơ quan báo chí.

Mặc dù mô hình sản phẩm báo chí, truyền thông số thu phí từ người

sử dụng đã được các nước phát triển khởi chạy từ những năm 2008, và

đang trở thành một xu hướng chung toàn cầu nhưng tại Việt Nam, mô hình

97

này vẫn đang ở giai đoạn ban đầu, với nhiều khó khăn trong việc thanh

toán điện tử và thay đổi thói quen của độc giả và chính cách thức sản xuất

thông tin của các cơ quan báo chí.

Việt Nam sẽ không thể ứng dụng thành công các mô hình thu phí từ

người sử dụng nếu như các nhà báo, phóng viên, ban biên tập không kết

hợp chặt chẽ trong khâu bảo vệ quyền tác giả và trích dẫn nguồn sản phẩm.

Thị trường yêu cầu những sản phẩm độc quyền về nội dung, nhưng nếu vẫn

còn hiện tượng xào xáo thông tin bài viết hoặc đăng lại từ trang báo mạng

đến các trang thông tin điện tử thì sẽ rất khó để có thể thu phí người dùng.

Việc bảo vệ quyền tác giả đối với một sản phẩm báo chí, sản phẩm

truyền thông sẽ cho phép công chúng được tiếp cận những sản phẩm được

đầu tư bài bản, có chiều sâu. Ở Việt Nam, vấn đề vi phạm bản quyền tác

giả diễn ra rất phổ biến, thậm chí thời gian gần đây, một số đài truyền hình

tốn nhiều thời gian, công sức để đàm phán mua đường truyền phát sóng

độc quyền các trận bóng đá nổi tiếng trên lãnh thổ Việt Nam nhưng ngay

khi họ phát sóng trên hệ thống hạ tầng truyền hình vệ tinh, sẽ có một đơn

vị thứ ba ngang nhiên tiếp sóng thu tiền khách hàng trên cơ sở nền tảng số

của họ. Điều này đã gây gián đoạn đường truyền và làm mất tính chất độc

quyền của các đơn vị chủ quản.

Khi nền kinh tế đang ngày càng cạnh tranh khốc liệt về mọi mặt thì

hướng đi mới cho kinh tế báo chí là hướng đi tự chủ và cần thiết vào lúc

này. Tuy nhiên nếu như chỉ một cơ quan báo chí thu phí, thì câu chuyện

kinh tế báo chí sẽ chỉ dừng lại ở việc tạo ra một sân chơi hẹp với một nhóm

công chúng nhỏ. Sự phát triển đồng đều của các cơ quan báo chí, cùng lúc

tham gia vào việc thu phí các sản phẩm báo chí số sẽ là tiền đề để vận động

người dân trở lại với thói quen cũ: đặt mua các ấn phẩm báo chí hàng tháng

nhưng khác là trên nền tảng kỹ thuật mới.

Hầu hết độc giả luôn có xu hướng tin vào những sự thay đổi đồng

98

loạt từ các đơn vị sản xuất nhằm mục đích vì lợi ích chung của cộng đồng.

Trừ khi mọi sản phẩm tin tức tăng giá cùng một lúc hoặc chuyển từ miễn

phí sang thu phí thì có thể kích hoạt hiệu ứng thay thế trong thói quen của

công chúng. Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên khi lượng người dân

không trả tiền cho tin tức chiếm ưu thế, bởi họ đã có sự lựa chọn khác:

miễn phí, dù chất lượng của sản phẩm miễn phí đôi khi không thỏa mãn

công chúng. Theo Borrell & Associates (2001), tỷ lệ đăng ký trả phí cho

báo mạng điện tử là khá thấp, chỉ khoảng 0,2% đến 2,6%. Tuy nhiên sự

phát triển của NYT những năm gần đây và các nền tảng báo chí điện tử thu

phí khác trên thế giới đã cho thấy hiệu quả của sự thay đổi trong bối cảnh

chung. Công chúng của Việt Nam đang thay đổi, họ bắt đầu có những nhu

cầu cao cấp hơn là chỉ tiếp nhận thông tin thông thường. Đối với nhiều độc

giả, thông tin còn là chìa khóa cho những vấn đề của họ, là cơ hội để thay

đổi cuộc sống, thay đổi thu nhập cá nhân. Bởi vậy nhiều độc giả tiếp nhận

thông tin không chỉ để giải trí mà còn nhằm mục đích phát triển cuộc sống.

Những mô hình trả phí xuất hiện như một cách cung cấp cho người

sử dụng nội dung nhận được thông tin công bằng và tương xứng với mong

đợi của họ. Mô hình này giúp người sử dụng hiểu rằng, mặc dù nội dung có

thể không còn miễn phí, nhưng nó cũng không phải là "tất cả hoặc không

có gì". Người sử dụng nên được khuyến khích để mua những gì họ thực sự

muốn vào thời điểm họ thực sự có nhu cầu, và ở một mức giá hợp lý. Đáp

ứng nhu cầu của người tiêu dùng và khiến họ cảm thấy đã được sử dụng

dịch vụ hoặc nội dung với mức giá hợp lý nhờ một mô hình kinh doanh

được phát triển phù hợp với nhu cầu của chính họ sẽ góp phần rất lớn vào

việc xua tan ý tưởng rằng mọi thứ trên internet đều miễn phí.

Có thể nói, internet đã thay đổi cách mọi người tương tác ở mọi cấp

độ, từ giao tiếp đến thương mại. Tuy nhiên, không thể bỏ qua bản chất phổ

biến của internet và số lượng người dùng ngày càng tăng của nó, cùng với

99

tất cả các công nghệ cơ bản mới, internet đã và đang khiến tất cả các loại

ngành công nghiệp phải suy nghĩ lại về mô hình kinh doanh của họ. Trong

đó có mô hình kinh doanh báo chí.

Một trong những sai lầm lớn nhất trong giai đoạn đầu tiên phổ biến

tin tức trên internet là các tòa soạn cung cấp nội dung thông tin miễn phí

trong khi một sản phẩm tin tức tương đương hữu hình được đính giá và bán

trong các cửa hàng, sạp báo. Minh chứng dễ hiểu nhất là sự sụt giảm doanh

số phát hành của các sản phẩm báo, tạp chí in giấy. Càng ngày, càng có

nhiều nội dung báo chí được cung cấp miễn phí trên internet khiến cho

doanh số bán hàng tại các quầy báo đã giảm. Hệ quả là đã có những tờ báo

in đình bản hoặc chuyển hẳn sang phiên bản điện tử. Tuy nhiên, thời gian

gần đây, thị trường thông tin bão hòa, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của

mạng xã hội đã khiến cho các trang báo mạng điện tử cũng bị thu hẹp

doanh thu từ quảng cáo.

Chuyển từ nội dung miễn phí sang trả phí đang chứng tỏ là một

trong những mô hình khó khăn nhất và tiềm ẩn nhiều nguy cơ đối với các

cơ quan báo chí khi các tòa soạn báo này cần phải vừa cạnh tranh trực

tuyến để tồn tại và vừa phải duy trì các sản phẩm hữu hình truyền thống.

Khi bong bóng internet vỡ, phần lớn nội dung miễn phí được hỗ trợ

bởi các nhà đầu tư và doanh thu quảng cáo cực lớn sẽ không còn nữa. Thời

điểm đó nhiều cơ quan báo chí sẽ phải cố gắng tính phí cho nội dung trực

100

tuyến của họ ở các mức độ khác nhau nhằm tìm kiếm sự thành công.

Chƣơng 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM

NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG MÔ HÌNH SẢN PHẨM BÁO CHÍ,

TRUYỀN THÔNG SỐ THU PHÍ TỪ NGƢỜI DÙNG TẠI VIỆT NAM

3.1 Những vấn đề đặt ra trong sự phát triển thị trƣờng báo chí số

trong thời gian tới

Báo chí truyền thông có vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế

tri thức. Việc nghiên cứu, tìm hiểu và ứng dụng các mô hình kinh doanh

sản phẩm báo chí - truyền thông mới trong bối cảnh sự phát triển nhanh

chóng của khoa học kỹ thuật đã cho ra đời nền kinh tế số là một câu hỏi

quan trọng đang được đặt ra ngày càng cấp thiết hiện nay đối với mỗi cơ

quan báo chí, cơ quan truyền thông. Nhất là tại Việt Nam với nền báo chí

cách mạng đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, với những đặt tính

riêng có của nhóm cư dân châu Á làm nông nghiệp, cần chú trọng việc phát

triển nền kinh tế tri thức trong đó vai trò của báo chí số cần được nhìn nhận

một cách tổng thể và khách quan.

Trong sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật, các đơn vị

nghiên cứu đều đang chọn cho mình hướng đi mới, một trong số đó là đưa

ra các thuật toán nhằm xây dựng chuỗi trợ lý ảo. Có nhiều dự đoán về việc

trong một tương lai không xa, nhiều cơ quan báo chí sẽ ứng dụng các công

nghệ mang tính đột phá như AI (trí tuệ nhân tạo) và robot vào sản xuất tin

tức báo chí. Điều này sẽ đem đến một sự cạnh tranh trong tốc độ mã hóa và

xử lý thông tin giữa người và máy. Tuy nhiên, rõ ràng rằng sẽ có những

sản phẩm báo chí mà máy móc không thể sản xuất được.

Các cơ quan báo chí, truyền thông có nhiều cơ hội để phát triển

trong thời kỳ kỹ thuật số bởi lẽ nó có tiềm năng lớn trong việc chủ động

sản xuất thông tin, nắm bắt thị trường. Tuy nhiên, những vấn đề đang nổi

lên hiện nay như: sở hữu bản quyền tác giả; về lòng tin của công chúng;

101

thái độ, hành vi thói quen tiếp cận thống tin số hay sự phát triển các công

nghệ kỹ thuật mới… cũng ảnh hưởng rất nhiều đến sự tồn tại và phát triển

của nền báo chí Việt Nam trong tương lai.

Đã có một thời gian rất dài, báo chí của Việt Nam được bao cấp, đến

bây giờ nhiều tờ báo vẫn được phát miễn phí cho các hộ gia đình. Đây

không phải là cách làm riêng có ở Việt Nam mà ở một số quốc gia như Mỹ,

Anh, Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc… tại các ga tàu điện ngầm, người

dân vẫn được phát báo miễn phí hằng ngày. Việc phát báo miễn phí là một

phương án của chính phủ các nước cho phép người dân có quyền bình đẳng

trong việc tiếp cận thông tin và nâng cao tri thức xã hội. Bên cạnh mô hình

cấp phát miễn phí, vẫn tồn tại phần lớn các cơ quan báo chí tự lực cánh

sinh, tự hoạch toán kinh doanh. Nằm trong lộ trình phát triển chung, quy

hoạch báo chí đến năm 2025 đòi hỏi nền báo chí Việt Nam cần có những

bước phát triển sâu rộng về cả chất lượng nội dung và đảm bảo đời sống

kinh tế cho cơ quan báo chí.

Thời đại công nghệ số cho phép báo chí thỏa sức sáng tạo nhưng

trong một môi trường bình đẳng, nếu không tự đặt ra những giới hạn thì

mọi chất xám đều không còn giá trị riêng của nó. Từ thời kỳ đầu của báo

mạng điện tử, đã có những dự đoán rằng bằng cách làm cho thông tin trở

nên phong phú và dễ tiếp cận hơn, giá cả mà độc giả phải chi trả sẽ được

điều chỉnh xuống một cách ổn định, thu hút nhiều độc giả hơn. Lúc đầu,

quan điểm đó đã đúng khi giá cả quảng cáo trên internet phát triển với tốc

độ chóng mặt và nguồn thu báo chí truyền thống vẫn phát triển mạnh.

Nhưng cuối cùng, sự trỗi dậy của internet thay đổi mọi thứ, bắt đầu từ

ngành công nghiệp âm nhạc, dưới hình thức chia sẻ tập tin. Bất chấp sự

thành công của iTunes và các dịch vụ thanh toán khác, việc tải xuống bất

hợp pháp vẫn phổ biến. Tiếp đó, các ấn phẩm báo chí in đang bị ảnh hưởng

nhiều nhất hiện nay, rồi tới truyền hình. Gần như tất cả nội dung từ các ấn

102

phẩm báo chí và truyền hình đều đang được đăng tải trực tuyến và miễn

phí, hệ quả là các phương tiện truyền thông truyền thống mất khán giả và

quảng cáo.

Việc tổ chức mô hình sản xuất báo chí nhưng lại phụ thuộc quá

nhiều vào thuật toán khiến cho các trang báo mạng điện tử không thể

không đưa tin về những sự kiện nổi bật chung đang diễn ra để thuật toán

tạo ra những từ khóa liên kết (tags) cho phép tiếp cận công chúng dễ

dàng hơn. Tuy nhiên, đối với hầu hết các tin tức đang nằm trong “nhóm

các tin tức được nhiều người quan tâm”, nếu có bất kỳ trang báo trả phí

nào đăng tải những nội dung liên quan nó cũng sẽ phải cạnh tranh với

các phiên bản thay thế của cùng một bài viết được cung cấp bởi nhiều

nguồn tin tức miễn phí.

Các sản phẩm báo chí được tạo ra, truy cập và tiêu thụ chính là một

quy trình tự nhiên của lịch sử. Chỉ trong vài năm, độc giả đã có quyền truy

cập chưa từng có vào lượng thông tin và kiến thức đáng kinh ngạc do các

nhà báo, nhà văn hóa, nhà nghiên cứu tạo ra, hiện thực đó đòi hỏi cần phải

tổ chức lại lĩnh vực văn hóa số, đặc biệt là ngành báo chí.

Vì vậy, một số vấn đề trước mắt đặt ra đối với mỗi cơ quan báo chí

truyền thông, đặc biệt là các cơ quan có sản phẩm số hóa, đó là:

Thứ nhất, chú trọng bảo vệ quyền tác giả đối với mỗi sản phẩm

báo chí, sản phẩm truyền thông số. Báo chí là sản phẩm kinh tế đặc biệt

bởi nguyên liệu đầu vào của nó vô hình và phụ thuộc hoàn toàn vào khả

năng nhận thức, khai thác thông tin, vốn tri thức và kỹ năng nghiệp vụ của

nhà báo. Mỗi sản phẩm báo chí đều cần chú trọng bản quyền tác giả bởi

đây là sản phẩm hàng hóa đặc biệt khi chất lượng sản phẩm phụ thuộc hoàn

toàn vào năng lực của nhà báo. Khi tất cả thông tin cùng được đặt lên một

mặt phẳng, sẽ có những sản phẩm có giá trị và có những sản phẩm không

103

có giá trị, giá trị của sản phẩm được khẳng định bởi năng lực chuyên môn,

kỹ năng và thâm niên nghề của tác giả. Đối với một cơ quan báo chí, sản

phẩm có giá trị nổi lên trên mặt phẳng tin tức sẽ đem lại lợi nhuận.

Thứ hai, về việc gìn giữ niềm tin của độc giả. Khi xem xét mối

quan hệ giữa thị trường, sản phẩm và người tiêu dùng, Carl Menger - nhà

kinh tế học người Áo đã nhận định: “Cá nhân có quyền lựa chọn”, một sản

phẩm khi xuất hiện trên thị trường luôn tạo ra sự so sánh với các sản phẩm

tương tự khác, khách hàng hay độc giả luôn luôn có sự lựa chọn bởi lẽ, sự

phát triển không ngừng của xã hội được xây dựng bởi nhận thức của con

người, vốn tri thức của mỗi người được bồi đắp từng ngày, từng giờ. Vì

vậy, lòng tin của độc giả là điều kiện tiên quyết để duy trì sự kết nối và tạo

ra doanh thu vững chắc cho cơ quan báo chí. Để làm được điều đó, các cơ

quan báo chí truyền thông cần tạo ra những sản phẩm có chất lượng để thu

hút và giữ chân độc giả. Điều này đã từng được thực hiện rất tốt ở giai

đoạn phát triển cực thịnh của báo in Việt Nam. Cần duy trì các sản phẩm

báo chí truyền thông số chất lượng cao thông qua các sản phẩm báo chí

chất lượng được chắp bút bởi những nhà báo có chuyên môn.

Thứ ba, sự bão hòa thông tin trong môi trường số. Mỗi cơ quan

báo chí sẽ có một lượng độc giả quen thuộc riêng, phụ thuộc vào nhóm

tuổi, giới tính, công việc… tuy nhiên các cơ quan báo chí hiện nay trong

cuộc chạy đua số lại cố gắng tiếp cận càng nhiều đối tượng độc giả càng

tốt, điều đó đã góp phần không nhỏ vào sự bão hòa của thông tin, khiến

cho trên mặt phẳng thông tin, không có sản phẩm nào đặc biệt vượt trội.

Báo chí đã và đang thực hiện chức năng truyền tải thông tin một cách trung

thực, tuy nhiên, bên cạnh nhu cầu tiếp nhận thông tin, công chúng còn có

nhu cầu được chỉ dẫn, giải đáp. Nếu nhà báo chỉ thực hiện chức năng

truyền tải thông tin thông thường sẽ dẫn đến tình trạng bão hòa thông tin.

Thứ tư, những khó khăn thách thức trong việc duy trì các giá trị

104

thương hiệu cũ. Nhiều cơ quan đang đánh mất thương hiệu của họ bởi sự

đi xuống của chất lượng bài viết trong việc chạy theo thị hiếu của công

chúng nhằm lôi kéo doanh thu quảng cáo. Việc cung cấp tin tức miễn phí

trong bối cảnh kinh tế thị trường đã khiến cho doanh thu của các cơ quan

báo chí truyền thông hoàn toàn bị phụ thuộc vào doanh thu từ quảng cáo.

Việc cố gắng theo đuổi số lượng truy cập theo từng ngày, từng chủ đề, theo

đuổi yếu tố tin nóng, giật gân, câu khách thay vì duy trì mối quan hệ lâu

dài với khách hàng đã thu hẹp nhóm khách hàng tiềm năng của mỗi cơ

quan báo chí. Nếu như trước đây, khi xuất bản một tờ báo in, ban biên tập

luôn đưa ra những hướng đi riêng phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và

phong cách của tờ báo để mỗi sản phẩm báo chí là một tiếng nói, một

thương hiệu dễ nhận dạng trên thị trường báo chí thì hiện nay, nhiều tờ báo

bị ảnh hưởng bởi cách tiếp cận thị trường chung đã đánh mất đi phong cách

riêng của chính họ.

Thứ năm, nhưng thách thức trong tiến trình “chuyển đổi số” quốc

gia. Chuyển đổi số đang trở thành xu hướng toàn cầu trong rất nhiều doanh

nghiệp, tổ chức trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Về bản chất,

chuyển đổi số bao gồm cả các quá trình, phương thức xử lý thông minh

giúp mỗi cơ quan quan tổ chức có mối quan hệ chặt chẽ hơn với khách

hàng, tùy chỉnh và chuyển đổi sản phẩm, tiết kiệm chi phí, tăng năng lực

nhân viên qua công nghệ, tạo ra các mô hình kinh doanh mới, phương thức

quản lý mới... Nhìn từ góc độ kinh tế, mỗi cơ quan báo chí là một doanh

nghiệp, nếu thích ứng được với quá trình số hóa, sự chuyển đổi về kỹ năng

và tay nghề của lực lượng lao động báo chí truyền thông sẽ tạo thêm giá trị

cho xã hội và cho cơ quan tổ chức của mình. Tuy nhiên chuyển đổi số cũng

sẽ đối mặt với các thách thức mới, nên mỗi một cơ quan báo chí phải liên

tục thay đổi để thích ứng và giải quyết, ví dụ công nghệ số phải đi đôi với

bảo mật số. Các ứng dụng số càng nhiều thì nguy cơ bị tấn công mạng

105

(cyber attack) càng cao hơn, dữ liệu dễ bị rò rỉ nhiều hơn. Sự phát triển

công nghệ, mô hình kinh doanh mới của lĩnh vực báo chí truyền thông gắn

với các hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông hiện đại cũng xuất hiện

quá nhanh cũng khiến các chế tài, luật pháp hay các quy định (regulation)

của các mô hình kinh doanh truyền thống không theo kịp, cần phải chuyển

đổi để thích ứng.

Thứ sáu, khó khăn trong việc kết nối liên thông với hệ thống

thương mại điện tử toàn cầu. Trong hai năm gần đây, các khách hàng

trẻ tuổi đã dễ dàng chi trả và mua bán qua mạng, tuy nhiên nền tảng

thương mại điện tử ở Việt Nam mới chỉ dừng lại ở câu chuyện của giao

dịch kỹ thuật số đơn thuần qua giao dịch mua - bán trả sau, vẫn còn

nhiều người dân chưa thực sự tham gia vào thương mại điện tử bằng

cách thực hiện lệnh giao dịch tiền điện tử trả trước. Cần nhấn mạnh,

thương mại điện tử bao gồm việc giao dịch trực tuyến, thanh toán

micropayment, visa debit card, ví điện tử… Chỉ khi người dân sử dụng

các phần mềm trên điện thoại di động để thanh toán hoàn toàn, không

còn sử dụng giao dịch tiền mặt thì đó mới là lúc hệ thống thương mại

điện tử được thiết lập hoàn toàn ở Việt Nam.

Thứ bảy, giữ gìn nền văn hóa dân tộc trong dòng chảy chung

của sự phát triển. Các phương thức vận động của nền công nghiệp 4.0,

thế giới phẳng… đều nhằm mục đích thu hẹp khoảng cách giữa các quốc

gia, dân tộc. Báo chí Việt Nam cũng nằm trong dòng chảy đó, việc phá

vỡ những khoảng cách sẽ tạo ra sự bùng nổ và va chạm trong tiếp biến

văn hóa. Để giữ gìn nền văn hóa dân tộc trong dòng chảy chung, các cơ

quan báo chí, cơ quan truyền thông cần có sự thống nhất về nội dung

thông tin trước khi truyền tải thông tin đến với công chúng. Việc tiếp

nhận các sản phẩm văn hóa từ nước ngoài sẽ tạo ra một không gian văn

hóa đa dạng cho công chúng Việt Nam nhưng cũng tiềm ẩn nhiều nguy

106

cơ về việc thay đổi những giá trị truyền thống, thậm chí làm thay đổi

nhiều lề lối văn hóa có từ lâu đời. Vì vậy một trong những đặc điểm cần

lưu ý trong việc sản xuất và đóng gói tin tức số đó là cần chú trọng giữ

gìn những đặc điểm văn hóa truyền thống tốt đẹp.

Những vấn đề đặt ra với thị trường báo chí trước mắt kể trên không

chỉ là vấn đề của các cơ quan báo chí mà nó còn đặt ra những thách thức

đối với các cấp quản lý:

Về kiểm soát thị trường thông tin minh bạch: Việc nhiều tờ báo bị

đình bản, xử phạt vì đưa sai thông tin, đưa tin thiếu cơ sở vẫn tiếp diễn gần

đây. Những tờ báo lớn bị đình bản từ 3 đến 6 tháng cho thấy mức độ

nghiêm trọng của thông tin thiếu minh bạch có thể gây ra những hệ lụy bất

ổn trong niềm tin của quần chúng nhân dân với Đảng lãnh đạo. Vì vậy,

việc cần kiểm soát thị trường thông tin minh bạch trong nền kinh tế số là

một thách thức đối với các cấp quản lý từ trung ương đến địa phương.

Có thể khẳng định rằng, sự phát triển của khoa học công nghệ đã

góp phần hỗ trợ nền báo chí thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng ngày

càng tiến bộ. Tuy nhiên kèm theo đó là những thách thức không nhỏ đặt ra

đối với cả cơ quan báo chí và cả cơ quan quản lý. Vấn đề là cần phải làm gì

để sản phẩm báo chí trong thời đại số vẫn giữ được bản sắc và đặc trưng

ngành để giữ chân công chúng, thống nhất hệ tư tưởng toàn xã hội. Khi

một mô hình mới được triển khai, nó sẽ luôn vấp phải những sự phải đối,

cần lường trước các kịch bản tình huống để có phương án xử lý tối ưu là

cách để các cơ quan báo chí không bị bị động trong mọi tình huống.

3.2. Những bài học kinh nghiệm trong việc phát triển mô hình kinh

doanh nội dung mới tại Việt Nam và thế giới.

Sự phát triển của nền khoa học kỹ thuật đã tạo ra những bước tiến

mới cho các ngành kinh tế xã hội trong đó có kinh tế báo chí. Những thay

107

đổi đó đã đặt ra cả cơ hội và thách thức cho nhưng người làm báo, đó là:

Thứ nhất, bài học về khả năng thích ứng với sự thay đổi của thị

trường và nhu cầu của công chúng: Nhìn vào thực tế có thể thấy rằng tin

tức miễn phí sẽ không tạo ra doanh thu nhưng để xây dựng một hệ thống

thu phí cần thay đổi thói quen của công chúng. Theo ông Rupert Murdoch,

Chủ tịch điều hành News Corporation cho biết ông hình dung một ngày

không xa khi tất cả các tài sản tin tức của News Corporation, bao gồm Fox

News Channel, The Times of London và The New York Post, tính phí trực

tuyến [58]. “Nội dung chất lượng không phải là miễn phí”, ông Murdoch

đã viết như vậy trên Tạp chí Phố Wall vào ngày 8 tháng 12 năm 2008, vài

ngày sau khi gửi một thông điệp tương tự tại một hội thảo của Ủy ban

Thương mại Liên bang. “Trong tương lai, báo chí tốt sẽ phụ thuộc vào khả

năng thu hút khách hàng của một tổ chức tin tức bằng cách cung cấp tin

tức và thông tin mà họ sẵn sàng trả tiền”.

Ngay sau tuyên bố của Rupert Murdoch, một loạt các lập luận khác

đã được đưa ra, tiêu biểu là quan điểm của McCall, ông chủ của Emap:

“Làm thế nào để cạnh tranh với một sản phẩm tin tức được tài trợ công

khai và nằm miễn phí ngay trước cửa nhà bạn?”. Phát biểu của McCall

dựa trên một hiện thực rằng có nhiều tờ báo tại Mỹ và châu Âu được các

tập đoàn kinh tế đỡ đầu và phát miễn phí bằng cách đặt trước cửa các gia

đình mỗi buổi sáng. Rupert Murdoch đã thừa nhận có nhiều vấn đề nảy

sinh khi tiến hành xây dựng trong mô hình sản phẩm báo chí số thu phí

người sử dụng mà rõ ràng nhất là từ việc thuyết phục công chúng thay đổi

thói quen của họ.

Vậy có thể nhận thấy, khi các cơ quan báo chí đưa ra một bước đi sai

lầm đó là miễn phí tin tức trên báo mạng điện tử trong khi vẫn xuất bản và

định giá các sản phẩm báo chí dưới dạng vật chất, điều đó đã tạo nên sự

chênh lệch trên thị trường. Ở vai trò người tiêu dùng, phần đông công

108

chúng sẽ lựa chọn những sản phẩm miễn phí. Theo thời gian, việc phụ

thuộc vào doanh thu từ quảng cáo và mức độ bão hòa của tin tức sẽ kéo

theo sự sụt giảm của doanh thu báo mạng điện tử, vì vậy từ quá trình gây

dựng lại hệ thống thu phí của News Corporation, ta nhận thấy, cần có một

quá trình rất dài đòi hỏi sự thay đổi của công chúng. Nếu coi các sản phẩm

báo chí truyền thông như một bàn tiệc được bày ra trước mắt công chúng

thì cần nấu những bữa ăn có chất lượng để khách hàng chấp nhận trả tiền

để thụ hưởng nó. Kinh nghiệm từ News Corporation cũng chỉ ra rằng, cần

hướng tới các nhóm công chúng trung thành tiềm năng, những người gắn

bó chặt chẽ với tôn chỉ, mục đích của tờ báo. Việc giữ vững thương hiệu và

cá tính của nhà báo cũng là một cách để thu hút độc giả trung thành.

Ở Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn vàng để tạo ra những thay đổi khi

sự hiện hữu của các sản phẩm báo chí tồn tại dưới dạng vật chất như báo in

vẫn đang có lượng động giả nhất định. Nhiều người Việt vẫn chưa từ bỏ

thói quen tìm mua báo giấy để cập nhật tin tức hàng ngày. Điều đó cho

phép công chúng Việt có thể dễ dàng thích nghi hơn đối với các sản phẩm

báo chí số thu phí từ người sử dụng.

Thứ hai, bài học về đa dạng hóa mô hình kinh doanh và tạo

nguồn thu mới của báo chí truyền thông: Trong nền kinh tế báo chí hiện

đại, việc phụ thuộc hoàn toàn vào quảng cáo sẽ khiến các cơ quan báo chí

thiếu đi tính sáng tạo, cơ động và khách quan. Theo Alan D. Mutter, một tư

vấn truyền thông nhận định: Trong một năm đầy rẫy những vụ đóng cửa

tạp chí và phá sản báo chí, các công ty truyền thông đã tưởng rằng mô hình

trả tiền sẽ chỉ hạn chế lưu lượng truy cập và kìm hãm doanh thu quảng cáo,

theo quan điểm mà các doanh nghiệp truyền thông cần phải thử một cái gì

đó mới, bởi vì con đường hiện tại dường như dẫn đến “sự tuyệt chủng”.

Các nhà cung cấp nội dung trên mạng thấy rằng mọi thứ đều miễn phí,

109

được quảng cáo hỗ trợ, không hoạt động tốt và họ đang cố gắng đưa mọi

thứ trở lại quỹ đạo nhưng điều đó rất khó khăn. Tuy nhiên nhìn từ thực tế,

mô hình thu phí người dùng có thể thay đổi nhiều điều [58].

Trong 200 năm qua, tất cả các tờ báo trên thế giới đã cố gắng đạt

được một khối lượng người xem lớn nhất có thể. Và trong quá trình đó,

nhiều tờ báo lặp lại nhau ở cách đặt vấn đề, đụng chạm nhau ở ý tưởng và

cạnh tranh nhau ở cách thể hiện dần đi theo vòng tròn mang tính chu kì. .

Để được số đông cộng đồng chấp nhận, các cơ quan báo chí dần đi vào lối

mòn rập khuôn, kể cả khi đã ra ấn phẩm điện tử, họ vẫn đi vào những số

liệu thuật toán và cách tư duy đồng điệu chỉ tập trung vào việc làm thế nào

để tiếp cận càng nhiều khách hàng càng tốt, vậy nên giờ đây các cơ quan

báo chí đều có sự tương đồng về nội dung cũng như cách thức thể hiện.

Ông Peter Cashmore Giám đốc của Mashable gọi tình trạng chung của báo

chí hiện đại là “không có gì thực sự độc đáo về bất kỳ tờ báo nào trên hành

tinh cho dù có sự khác biệt cũng là không đáng kể” [56].

Sự phá sản của một số tờ báo ở các nước đang phát triển là bởi họ

không đủ hấp dẫn công chúng, không thể làm giả số liệu để kêu gọi thu hút

nhà đầu tư quảng cáo, sự thay đổi của người lãnh đạo tờ báo cũng kéo theo

sự ra đi của những mối quan hệ, những người đỡ đầu vốn đã thân quen từ

trước đó. Vậy, nếu xét về quan hệ kinh tế thị trường, các cơ quan báo chí

chỉ có thể trông cậy vào một nguồn thu duy nhất đó là từ độc giả trung

thành. Mà để tạo ra được nhóm công chúng sẵn sàng chi tiêu thì các cơ

quan báo chí cần thực sự làm tốt công việc của họ.

Quảng cáo không phải là hướng đi duy nhất để tạo ra doanh thu,

trong giai đoạn toàn cầu đang đối mặt với nhiều khó khăn như dịch bệnh,

biến đổi khí hậu, cấm vận kinh tế… thì nhiều tập đoàn tài chính kinh tế

cũng gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, sự trỗi dậy của mạng xã hội như

một phương thức tiếp cận công chúng một cách hữu hiệu, dễ dàng lôi kéo

110

và tạo ra thiện cảm đối với các khách hàng ở phân khúc độ tuổi lao động. Ở

Việt Nam, 64% người dùng mạng điện tử tập trung vào các trang mạng xã

hội và tin tức giải trí, điều đó đã tạo ra một thị trường quảng cáo tiện lợi

hơn, đa dạng hơn cho các tập đoàn kinh tế. Vì vậy, nếu chỉ tập trung vào

doanh thu từ quảng cáo, các cơ quan báo chí tại Việt Nam sẽ dần thu hẹp

doanh thu của chính họ. Xu hướng phát triển của báo chí truyền thông toàn

cầu đang dần hướng đến tính chuyên môn hóa và tự chủ về tài chính, đây

cũng là một hướng đi tốt cho báo chí Việt Nam trong nền kinh tế thị trường

hiện nay.

Xây dựng mô hình sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí từ

người sử dụng là một thách thức lớn, nhất là với những môi trường báo chí

vốn đã rời bỏ khái niệm mua bán trực tiếp với độc giả. Khi công chúng đã

quen thụ hưởng những sản phẩm miễn phí, họ sẽ đòi hỏi sản phẩm được

nâng cấp chất lượng mà không thay đổi giá thành. Việc tạo ra một sự

thuyết phục nhằm thay đổi số đông cần sự chung tay của một nhóm các nhà

sản xuất hoặc cần chỉ rõ cho độc giả thấy những lợi ích của mô hình mới.

Công chúng cần những thông tin đầy đủ về sự chia sẻ doanh thu khi một cơ

quan báo chí phải mượn đường truyền hay cơ sở lưu trữ giữ liệu từ một đối

tác trung gian. Chỉ khi độc giả hiểu và thông cảm cho chính những người

làm báo, họ mới nhận thức được sự “bình thường” trong hoạt động chi trả.

Không chỉ trong mô hình sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí

người sử dụng, mà trong hoạt động kinh tế nói chung, nhiều tờ báo đang cố

để giúp cho độc giả hiểu rõ hơn về doanh thu của báo chí. The Guardian là

một ví dụ. Từ năm 2018, The Guardian cho chạy mô hình đăng ký dưới

dạng kêu gọi quyên góp sự giúp đỡ từ các dộc giả. Trên các trang báo điện

tử, cuối mỗi bài viết của mình, ban biên tập của The Guardian đều đính

một box thông tin với nội dung: “Hãy đóng góp để hỗ trợ cho báo chí của

chúng tôi dù ở bất cứ mức độ nào. Sự hỗ trợ của bạn giúp duy trì sự độc

111

lập của The Guardian và điều đó có nghĩa là chúng tôi có thể tiếp tục cung

cấp sản phẩm báo chí chất lượng tới mọi người trên khắp thế giới. Mọi

đóng góp, dù lớn hay nhỏ, đều rất có giá trị cho tương lai của chúng tôi”.

Đáp lại sự kêu gọi của The Guardian, nhiều độc giả đã không còn đọc tin

tức miễn phí nữa mà họ sẵn sàng trả phí để “chia sẻ” với những khó khăn

của tờ báo này. Và trung bình mỗi tháng doanh thu của The Guardian chạm

mức trên 20 triệu bảng Anh. Có thể nói rằng việc công khai và trung thực

với công chúng cũng đóng một phần quan trọng vào thành công của mô

hình thu phí trên nền tảng số.

Sự quyên góp, ủng hộ hay quyết định trả phí cho một tờ báo xuất

phát từ thói quen và niềm tin của công chúng đối với các cơ quan báo chí

mà họ tin tưởng. Giữ quan hệ mật thiết với khách hàng là độc giả trung

thành, đưa báo chí trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu đối với công

chúng. Việc thay đổi phương thức kinh doanh từ miễn phí sang thu phí cần

có sự phối hợp nhịp nhàng giữa cơ quan báo chí và khách hàng (độc giả)

cần giải thích rõ lý do của sự thay đổi, tính cấp thiết của thị trường báo chí

chất lượng đi kèm giá cả sẽ đưa đến cho độc giả những trải nghiệm tốt hơn,

báo chí chất lượng cao hơn. Nhiều cơ quan báo chí tại Việt Nam ngại ngần

khi chuyển đổi phương thức kinh doanh từ miễn phí sang thu phí bởi lo sợ

sự phản đối từ khách hàng. Khách hàng sẽ không thể phản đối khi họ đã

được giải thích đầy đủ và hiểu tường tận nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi

của cơ quan chủ quản.

Thứ ba, bài học kinh nghiệm về vấn đề cải tổ nhân sự, hoàn thiện

bộ máy đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới: Từ bài học của các tập đoàn

truyền thông lớn trên thế giới có thể nhận định, trước mỗi một cuộc cải tổ

cần có một cuộc cải tổ bộ máy, như ở News Corporation, trước khi Rupert

Murdoch tuyên bố khai thác mô hình thu phí, ban giám đốc đã quyết định

sa thải 3000 nhân viên của hãng, để làm gọn bộ máy, giữ lại những người

112

có năng lực. Điều này đồng nghĩa với việc các nhà báo phải tự sáng tạo và

nâng cao năng lực của bản thân. Khi hoạt động của cơ quan báo chí bị đình

trệ, có sức ỳ do những thói quen cũ mang lại thì việc cải tổ lại cơ quan báo

chí là điều cần thiết.

Trong một xã hội mà hoạt động thu phí là một điều mới mẻ, chưa

được đông đảo người dân đón nhận thì việc dựng lên một bức tường thu

phí đóng chặt chẽ là điều sai lầm. Dù là ở NYT, The Guardian hay Fox

Channel thì công chúng luôn có quyền dùng thử sản phẩm. Việc chào mời

dùng thử sản phẩm là một cách làm marketing truyền thống trong các

ngành kinh tế. Khi khách hàng được trải nghiệm sản phẩm sẽ củng cố thêm

cho quyết định trả tiền. Trong bối cảnh sản phẩm kinh tế mới sẽ tạo ra

nhiều thay đổi trong thói quen của xã hội thì không nên tạo ra một bức

tường trả tiền kín mà thay vào đó là một bức tường cho phép mọi người

chia sẻ nội dung với những người không đăng ký. Chia sẻ là cách cơ quan

báo chí tiếp cận được lượng người dùng mới. Đây là kênh bán hàng quan

trọng nhất khi tiếp thị sản phẩm, che giấu những thông tin có ích đằng sau

một bức tường trả tiền sẽ khiến độc giả khó đưa ra quyết định mua.

Ở Việt Nam, ngoài những thách thức chung có thể gặp phải từ

hướng đi chung của nhiều tờ báo như thay đổi thói quen của độc giả, tạo ra

những sản phẩm có chất lượng, sáng tạo nội dung, cải cách bộ máy, việc tổ

chức vận hành theo mô hình thu phí của Việt Nam sẽ có thể còn nhiều khó

khăn. Tuy nhiên, song hành cùng sự phát triển của xã hội là nhận thức và

tri thức của người dân được nâng cao, từ những bài học kinh nghiệm của

các tập đoàn truyền thông lớn trên thế giới, Việt Nam hoàn toàn có thể rút

kinh nghiệm và chuẩn bị kịch bản sẵn sàng cho mô hình sản phẩm báo chí

số thu phí người sử dụng được phổ biến rộng khắp.

Thứ tư, bài học kinh nghiệm về xác định xu hướng phát triển

của báo chí truyền thông và thiết kế hạ tầng kỹ thuật mới. Khi đã thích

113

nghi với thế giới kỹ thuật số, khách hàng (người tiếp nhận) sẽ cảm thấy

mình như là một thành viên tích cực và tham gia nhiều hơn vào quá trình

tương tác với nguồn phát. Nói cách khác, người tiêu dùng kỹ thuật số

ngày nay đã biết cách chọn lựa đơn vị có khả năng đáp ứng tốt nhất nhu

cầu của họ. Những đơn vị có khả năng nắm bắt được xu hướng này và

biết cách triển khai các mô hình kinh doanh phù hợp nhất với các nhu

cầu của khách hàng, sẽ có lợi thế đáng kể so với các công ty khác chọn

các mô hình quá tĩnh hoặc thiếu linh hoạt. Khách hàng trực tuyến không

gặp khó khăn khi chuyển đổi từ một thương hiệu hoặc dịch vụ quen

thuộc sang một thương hiệu khác, tất cả đều phụ thuộc vào mức độ được

thỏa mãn của khách hàng.

Trong các mô hình hoạt động mới của thị trường kinh tế báo chí,

truyền thông, việc liên kết giữa các nhóm ngành kinh tế đã tạo ra cơ hội

mới cho cả đơn vị báo chí và đơn vị cung ứng dịch vụ kỹ thuật số. Khi có

một nhà cung cấp dịch vụ giá trị gia tăng và dịch vụ mạng làm nền tảng -

đóng vai trò là nhà cung cấp cơ sở hạ tầng vật lý xương sống cho các cơ

quan báo chí, thì lúc đó, cơ quan báo chí hoàn toàn có thể tập trung vào

việc hoàn thiện sản phẩm báo chí chất lượng cao. Nhà mạng cung cấp cơ

sở hạ tầng số sẽ nhận được doanh thu từ các nhà khai thác, những người

thuê thị phần (tin nhắn SMS, đường truyền internet) để cung cấp sản phẩm

báo chí truyền thông dưới dạng dịch vụ tích hợp đến cho khách hàng viễn

thông. Việc cho thuê các kết nối thụ động (các trang web và dải tần không

dây) của nhà mạng đã gián tiếp khiến người dùng trả phí cho sản phẩm báo

chí truyền thông.

Công ty viễn thông Vodafone ở thị trường Ấn Độ cung cấp gói cước

16 Rúp Ấn Độ cho 1GB lưu lượng miễn phí trong vòng 24 giờ, khách hàng

có thể đăng kí dịch vụ và đi kèm theo đó khi khách hàng truy cập vào ứng

dụng của Vodafone trên điện thoại di động, họ được đọc báo và xem phim

114

miễn phí. Như vậy, khách hàng của Vodafone chỉ phải trả tiền cho lưu

lượng data khi sử dụng dịch vụ giá trị gia tăng nhưng được kèm theo nhiều

sản phẩm khác. Ngoài ra Vodafone còn cung cấp các gói cước 48 Rúp có 3

Gb dùng trong 28 ngày hoặc 98 Rúp có 6Bg dùng trong 28 ngày. Điều này

tiết kiệm hơn so với việc khách hàng chỉ chọn đăng kí mua data internet.

Có thể nói, việc bán các sản phẩm đi kèm theo gói là một chiến lược

có thể tạo ra nhiều lợi nhuận cũng như thu hút một cơ sở khách hàng rộng

hơn - những người sẵn sàng chi tiêu. Giống như với mô hình khách hàng

chủ động trả tiền cho những gì họ muốn, các công ty áp dụng mô hình gói

sản phẩm phải hiểu rõ khách hàng của họ sẵn sàng trả bao nhiêu. Bán sản

phẩm đi kèm có thể có nghĩa là bán nhiều loại sản phẩm hơn cho mỗi

khách hàng, do đó mang lại lợi nhuận cao hơn so với việc sản phẩm được

bán riêng. Tương tự, tại thị trường Việt Nam, với phân khúc khách hàng

rộng lớn và đặc biệt nhóm khách hàng là học sinh, sinh viên, người thu

nhập thấp có nhu cầu rất lớn trong việc sử dụng các gói sản phẩm giá thành

rẻ, tiện ích cao, điều này đã mở ra một cơ hội kinh doanh “màu mỡ” cho

các cơ quan báo chí truyền thông và các đơn vị viễn thông.

Cả ở lĩnh vực nghệ thuật, mô hình thu phí từ người sử dụng là một

cách để duy trì thu nhập cho các đơn vị nghệ thuật. Nhà hát Opera

Metropolitan ở New York, Mỹ hay La Scala ở Mi Lan, Ý đều ghi hình các

buổi biểu diễn của họ rồi đưa buổi biểu diễn lên trang chủ của Nhà hát, mỗi

lần có người muốn xem video buổi biểu diễn đó sẽ phải trả một khoản phí

tối thiểu. Báo cáo từ các nhà hát lại cho thấy sự tồn tại của một nhóm công

chúng vẫn dành tình cảm cho nghệ thuật sân khấu.

Quá trình số hóa đã mang đến cơ hội cho các đơn vị kinh tế khả năng

thử nghiệm các mô hình kinh doanh để tìm ra sự cân bằng phù hợp với bản

thân mỗi đơn vị kinh tế. Khi hợp nhất và số hóa nội dung sản phẩm để đưa

lên mạng điện tử và cho phép công chúng truy cập vào, thụ hưởng sản

115

phẩm ngay tại hạ tầng số đã khiến công chúng cảm thấy hứng thú với mức

độ tiện ích mà các sản phẩm số hóa đem lại. Tuy nhiên, khoa học kỹ thuật

luôn thay đổi, điều đó sẽ tạo ra một cuộc chạy đua mà nếu mỗi đơn vị kinh

tế, cụ thể là mỗi cơ quan báo chí không tự định giá cho sản phẩm của họ thì

các sản phẩm báo chí miễn phí sẽ sớm không thể tồn tại trên thị trường.

Những thay đổi, tiến hóa của nền kinh tế kỹ thuật số sẽ khiến cho các mô

hình kinh doanh mới không thể ngừng tìm kiếm liên tục để cung cấp dịch

vụ khách hàng tốt hơn.

3.3. Một số đề xuất, khuyến nghị cho sự phát triển sản phẩm báo chí,

truyền thông số thu phí từ ngƣời sử dụng tại Việt Nam

Quá trình chuyển đổi kỹ thuật số luôn cần được điều chỉnh theo nhu

cầu và mục tiêu của mỗi tổ chức kinh tế, sẽ không có một mô hình chuẩn

để làm mẫu số chung cho tất cả các đơn vị. Điều này có nghĩa là quá trình

số hóa chỉ tồn tại khi các nhà hoạch định chính sách và công chúng hiểu rõ

vai trò và khả năng tác động của số hóa tới mọi mặt đời sống. Vì vậy, trong

vòng 5 năm tới, để những sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí từ

người sử dụng có thể thật sự đi vào cuộc sống, các cơ quan báo chí tại Việt

Nam cần củng cố các chiến lược của mình về nhiều mặt bao gồm thay đổi,

chủ động cải tiến và làm chủ công nghệ, thay vì chỉ đưa ra các chiến lược

bị động chạy theo công nghệ, cần tạo lộ trình cụ thể hướng tới mục tiêu rõ

ràng. Mỗi nhà báo cần tự hoàn thiện mình để có thể sẵn sàng chủ động

tham gia vào quá trình số hóa.

Thứ nhất, hệ sinh thái internet vạn vật đang kết nối tất cả các thiết

bị điện tử để xây dựng lên một kho thông tin khổng lồ, điều đó đặt ra thách

thức yêu cầu mỗi nhà báo và các cơ quan báo chí phải có nhận thức phù

hợp về yêu cầu đổi mới sáng tạo, đồng thời duy trì, phát triển bền vững các

giá trị nền tảng cốt lõi. Nếu các cơ quan báo chí chỉ trông chờ vào những

mối quan hệ phụ thuộc từ những đơn vị thứ ba cung cấp hệ thống nền tảng

116

CMS thì các cơ quan báo chí sẽ không thể thực sự làm chủ sản phẩm của

mình và câu chuyện sản phẩm báo chí chạy theo các công thức của thuật

toán sẽ vẫn tiếp diễn. Nhiều nhà nghiên cứu thị trường truyền thông tại

Viện nghiên cứu báo chí Hoa Kỳ đã đưa ra lời khuyên rằng các cơ quan

báo chí đừng tự nhốt mình trong quan hệ đối tác thông thương để bị phụ

thuộc vào những gì được cung cấp mà không thể tự vận hành bộ máy theo

ý đồ của ban biên tập. Sự bị động trong sản xuất tin tức sẽ thu hẹp chất

lượng sản phẩm.

Thứ hai, để có thể xây dựng hệ thống sản phẩm đáp ứng cho mô

hình thu phí người sử dụng thì các cơ quan báo chí truyền thông cần tập

trung phát triển chuỗi các sản phẩm mới theo hướng cung cấp trải nghiệm

chất lượng cao, gắn kết liền mạch (flow) trong một hệ sinh thái hoàn thiện

tới khách hàng, thay vì chỉ đơn giản là sản xuất sản phẩm đơn lẻ và đẩy ra

thị trường. Ban biên tập cần tương tác với khách hàng của họ trên tất cả

các kênh (bao gồm cả phương tiện truyền thông xã hội) để có được kết nối

tốt nhất có thể. Thậm chí sử dụng những công cụ và chi tiền cho việc thực

hiện điều tra khảo sát nhu cầu khách hàng để xây dựng được hệ thống cơ

sở dữ liệu lớn của các phân khúc khách hàng, từ đó tập trung cung cấp

những sản phẩm tốt nhất, phù hợp nhất. Ở Việt Nam, quy hoạch báo chí

đang đặt ra yêu cầu cấp thiết rằng các cơ quan báo chí cần quay lại những

giá trị cố lõi trong mỗi tác phẩm báo chí để lấy lại niềm tin của công

chúng, đây cũng là cách để cơ quan báo chí thể hiện sự tôn trọng đối với

độc giả của mình.

Thứ ba, trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ

tư, các cơ quan báo chí tại Việt Nam cần có sự đầu tư phù hợp cho các

công nghệ mới như dữ liệu lớn big data, phân tích dự đoán, trí tuệ nhân

tạo, tự động hóa quá trình robot... với quan điểm “khách hàng (công

chúng) là trung tâm”. Sự phát triển của công nghệ nhằm giảm thiểu các

117

hao phí trong quá trình sản xuất tin tức, sử dụng công nghệ số vào hoạt

động tạo ra ấn phẩm mới sẽ cắt ngắn thời gian lãng phí và đưa thông tin

đến với công chúng một cách nhanh hơn. Để tham gia vào quá trình này,

các cơ quan báo chí cần có sự phối hợp đa ngành với các đơn vị dịch vụ

viễn thông, dịch vụ chăm sóc khách hàng của các tập đoàn kinh tế lớn, đặc

biệt là các hệ thống viễn thông, công nghệ thông tin mang tính quốc gia,

khu vực và quốc tế. Nghiên cứu thói quen, hành vi sử dụng của khách hàng

bên cạnh đó tham gia vào quá trình thay đổi giao diện CMS để đẩy nhanh

khâu biên tập, cần thay thế các giao diện đã cũ, kết hợp cùng các kỹ sư

phần mềm để tối ưu hệ thống, tạo ra những giao diện ưu việt hơn.

Thứ tư, cần chú trọng xây dựng kế hoạch kinh doanh cung cấp các

gói sản phẩm đa dạng phù hợp với nhiều phân khúc khách hàng theo

hướng “cá thể hóa nhu cầu” của từng đối tượng. Công chúng luôn có nhu

cầu sử dụng những sản phẩm tích hợp nhiều tiện ích, đa năng, đem lại

nhiều lợi nhuận và có mang lại cảm giác tiết kiệm. Nền kinh tế thị trường

tạo ra các sản phẩm khuyến mãi để thu hút khách hàng, duy trì mối quan hệ

bằng các sản phẩm tri ân, chào mời khách hàng bằng sản phẩm dùng thử.

Khi các cơ quan báo chí tiến hành xây dựng các mô hình kinh doanh tự

hoạch toán đòi hỏi cần có sự liên kết với các đối tác để tạo ra các gói sản

phẩm phù hợp với khách hàng. Độc giả ngày nay luôn mong muốn nhận

được sự tương tác hai chiều và muốn nhận được những ích lợi ngay trước

mắt khi sử dụng sản phẩm.

Thứ năm, các cơ quan báo chí cần thay đổi quan niệm, cách tư duy

cũ về kinh tế báo chí truyền thông để tham gia vào quá trình chuyển đổi số

và phát triển nền kinh tế số quốc gia. Các chuyên gia nghiên cứu truyền

thông cho rằng tỷ lệ số hóa của một quốc gia càng cao thì cơ hội tăng GDP

bình quân đầu người và chỉ số phát triển con người càng cao, đó là lý do tại

sao Chương trình nghị sự kỹ thuật số của Ủy ban châu Âu đang tích cực

118

thúc đẩy số hóa giữa các quốc gia thành viên. Quá trình số hóa là một bước

phát triển cần thiết của các cơ quan báo chí, nhưng đưa sản phẩm từ trang

giấy báo in lên giao diện điện tử là chưa đủ. Đặc biệt là với các tờ báo nhỏ

lẻ cấp địa phương, vốn chỉ bó hẹp trong nhóm cư dân địa phương. Sự phát

triển không ngừng của internet đang khiến báo in gặp nhiều khó khăn,

tham gia vào quá trình số hóa và hoạt động theo mô hình phù hợp với đặc

điểm của mỗi cơ quan báo chí là cách để khắc phục khó khăn trong giai

đoạn bão hòa thông tin.

Tiểu kết chƣơng 3

Những thay đổi tiến hóa trong thời đại của nền kinh tế kỹ thuật số

cho thấy các mô hình kinh doanh mới không là gì nếu không thể khi cơ

quan báo chí cố gắng cung cấp dịch vụ khách hàng tốt hơn, mặc dù không

phải theo cách truyền thống, mà là những dịch vụ khách hàng linh hoạt và

thân thiện với người dùng và thậm chí có thể được đồng thiết kế bởi chính

khách hàng. Việc thu hẹp khoảng cách giữa cơ quan báo chí và công chúng

của họ cả về phương thức phát hành, phương thức thanh toán chi trả cũng

đều đang đem lại những dấu hiệu tích cực cho thị trường thông tin báo chí.

Sản phẩm báo chí số mang những đặc trưng của sản phẩm báo chí

truyền thống nhưng bên cạnh đó nó cũng tích hợp nhiều ưu điểm như

nhanh, sinh động, thuyết phục, khả năng tạo ra hiệu ứng xã hội mạnh mẽ

tức thời, nắm bắt xu hướng và đưa ra chỉ dẫn nhanh chóng cho độc giả.

Tuy nhiên sản phẩm báo chí số cũng đang tồn tại nhiều hạn chế khi các cơ

quan báo chí đang đặt ra mục tiêu sai trong quá trình phát triển của họ

khiến họ chỉ chạy theo số đông mà không cung cấp chất lượng khiến cho

môi trường thông tin trở nên bão hòa thậm chí khiến độc giả mất lòng tin

vào hệ thống báo chí chính thống vốn vẫn luôn tự hào về khả năng thấu

hiểu thị trường, trung thực với các cấp lãnh đạo và quần chúng nhân dân.

Quy hoạch báo chí đến năm 2025 của Việt Nam đã vạch ra những lộ

trình mới đòi hỏi mỗi cơ quan báo chí phải thực sự trở thành một đơn vị tự

119

hoạch toán kinh doanh và thoát xác khỏi sự bao cấp. Bởi đây là hướng đi

đúng đắn để báo chí thực hiện vai trò và nghĩa vụ của mình trước Đảng và

nhân dân.

Nằm trong hoạt động báo chí, kinh tế báo chí đã tồn tại từ lâu trong

các sản phẩm từ khi nó được định giá và đưa ra thị trường. Tuy nhiên,

“nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh” vẫn là điều tranh

cãi. Xung đột giữa sản phẩm văn hóa và lợi ích của nhà báo luôn là mâu

thuẫn lớn cần giải quyết. Nhà báo cần đảm bảo quyền tác giả và hơn nữa là

đảm bảo đời sống ổn định thì họ mới có thể tạo ra những sản phẩm báo chí

chất lượng cao. Để làm được điều đó cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các

cơ quan báo chí và các nhóm công chúng trung thành của họ.

Công chúng cũng cần nhận thức được trách nhiệm của mình trong

việc duy trì mối quan hệ xã hội và tôn trọng công sức lao động của nhà

báo. Công chúng không thể tiếp tục đòi hỏi những sản phẩm báo chí chất

lượng cao miễn phí trong bối cảnh thế giới đang hòa nhập sâu rộng vào nền

kinh tế thị trường. Độc giả cần chi trả cho những gì họ đã hưởng thụ cũng

như việc độc giả có quyền nhận được những sản phẩm đáng với đồng tiền

họ bỏ ra.

Báo chí chất lượng cao chưa bao giờ là một điều khó khăn trong lịch

sử báo chí Việt Nam, tuy nhiên để duy trì báo chí chất lượng cao cần nhiều

sự cố gắng của cả các cấp lãnh đạo, người làm báo và cả công chúng.

KẾT LUẬN

Thế giới đang có nhiều biến động và đối mặt với những thách thức

không nhỏ trước sự thay đổi của cơ cấu các ngành kinh tế, suy thoái và cả

dịch bệnh. Trong bối cảnh đó, bài toán đặt ra cho nền kinh tế thị trường đó

là cần tìm những hướng đi mới phù hợp cho mỗi cơ quan, đơn vị kinh tế,

mang tính chủ động, nhanh nhạy, dễ thích ứng hơn. Sự cạnh tranh giữa các

nhóm ngành kinh tế tạo ra mâu thuẫn nội tại trong mỗi đơn vị, tập đoàn

kinh tế, buộc phải đưa ra những kế hoạch dài hơn củng cố chắc chắn vị thế

120

của sản phẩm trên thị trường.

Là một đơn vị của thị trường kinh tế, các cơ quan báo chí, truyền

thông trên thế giới đang dần cho thấy những dấu hiệu tích cực: thay đổi

trong phương thức sản xuất, đóng gói tin tức mới, thay đổi phương pháp

truyền dẫn thông tin và cho ra đời các thiết bị đầu cuối phù hợp với nhu

cầu của công chúng, áp dụng hoạt động nghiên cứu thị trường để phân

vùng và cải thiện nội dung, gia tăng tương tác với các khách hàng… Tất cả

các thay đổi đó đều dự báo một hướng đi đúng đắn cho hoạt động báo chí

truyền thông toàn cầu.

Tại Việt Nam, hoạt động kinh tế báo chí đang ngày càng độc lập,

chủ động do yêu cầu của thực tiễn và trước các quyết sách cải tổ, thay đổi

cũng như các phương pháp quản lý mới của Nhà nước, Quy hoạch báo chí

đến năm 2025 nhấn mạnh rõ tính độc lập của các cơ quan báo chí trong bối

cảnh nền kinh tế thị trường đang có nhiều biến đổi và những chính sách ưu

tiên của nhà nước đối với báo chí sau thời kì đổi mới đã không còn đáp ứng

được nhu cầu chung của toàn xã hội. Trước tình hình đó, báo chí Việt Nam

đang càng trở nên chuyên môn hóa trong từng lĩnh vực, các nhà báo cần

không ngừng học hỏi, sáng tạo để có thể duy trì khả năng làm chủ trong

hoạt động sản xuất báo chí. Những mô hình mới, phương thức mới được

hình thành trên cơ sở những điều kiện cũ và cải tiến cách làm cũ, điều này

phù hợp và phản ảnh chân thực xu hướng phát triển chung.

Đại hội VIII của Đảng đã đặt ra cần “Xây dựng nền kinh tế hàng

hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, đi đôi với tăng

cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”;

theo đó, vai trò của Nhà nước vẫn là chủ đạo nhưng các đơn vị kinh tế

trong đó có báo chí được khuyến khích phát triển và hợp tác cùng phát

triển. Mô hình sản phẩm báo chí số thu phí từ người sử dụng đã được

hình thành từ lâu tại thị trường quốc tế và vẫn đang tồn tại ở thị trường

121

Việt Nam dưới nhiều hình thức: cả độc lập và cộng sinh kết hợp. Dựa

trên quy luật cung cầu của thị trường, các mô hình sản xuất báo chí

truyền thông số thu phí mới đang dần được thử nghiệm và cũng có

những mô hình nhận được phản hồi tốt từ khách hàng. Tồn tại trên môi

trường kỹ thuật số nhưng vẫn kế thừa các mô hình kinh tế báo chí truyền

thống, như định giá sản phẩm, phát hành dựa vào địa chỉ của người

mua… Tuy nhiên để mô hình sản phẩm báo chí truyền thông số thu phí

từ người sử dụng có thể tồn tại và hoạt động hiệu quả trở thành một

nguồn thu ổn định cho các cơ quan báo chí thì còn cần sự hỗ trợ rất lớn

từ sự thay đổi nhận thức của công chúng. Nếu công chúng thay đổi thói

quen, thừa nhận sự đóng góp của mỗi nhà báo, chấp nhận chi trả cho

những sản phẩm báo chí chất lượng cao thì nền báo chí Việt Nam sẽ ổn

122

định và không ngừng được nâng cao hơn nữa trong tương lai không xa.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Thông tin và Truyền thông (2009) Sách trắng về Công nghệ

thông tin và truyền thông Việt Nam, Nhà xuất bản Thông tin và

Truyền thông, Hà Nội

2. Lê Thanh Bình (2004) Truyền thông đại chúng và phát triển xã hội;

Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội

3. Lê Thanh Bình (2005) Báo chí truyền thông và Kinh tế văn hóa xã

hội, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, Hà Nội

4. Chính Phủ (2007) Nghị định Quy định chi tiết và hướng dẫn thực

hiện một số điều của luật công nghệ thông tin về công nghiệp công

nghệ thông tin, Nghị định 71/2007/NĐ-CP, Hà Nội

5. Nguyễn Văn Dững (2011) Báo chí truyền thông hiện đại – từ làm

đến đời thường, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội

6. Nguyễn Văn Dững (2018) Cơ sở lý luận báo chí, Nhà xuất bản

Thông tin và truyền thông, Hà Nội

7. Nguyễn Văn Dững, Nguyễn Thị Thu Hằng (2018) Truyền thông - Lý

thuyết và kỹ năng cơ bản, Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông,

Hà Nội

8. Mai Thế Duyệt, Phạm Quốc Trung (2015) Các yếu tố ảnh hưởng đến

ý định sử dụng dịch vụ đọc báo điện tử có trả phí ở Việt Nam, Tạp

chí phát triển Khoa học và Công nghệ, tập 18, Đại học Quốc gia Hồ

Chí Minh

9. Đỗ Quý Doãn (2015) Quản lý và phát triển thông tin báo chí ở Việt

Nam, Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông, Hà Nội

10. Hoàng Đình Cúc, Đức Dũng (2007), Những vấn đề của báo chí hiện

123

đại, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội

11. Thái Xuân Đệ (2018) Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Hải Phòng,

Hải Phòng

12. Đinh Thúy Hằng (2008) Báo chí thế giới xu hướng phát triển, Nhà

xuất bản Thông tấn, Hà Nội

13. Nguyễn Thanh Huyền (2014) Quan hệ công chúng: Lý luận và thực

tiễn, Nhà xuất bản Địa học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội

14. Đặng Thị Thu Hương (2016) Văn hóa truyền thông đại chúng ở Việt

Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và toàn cầu hóa, Nhà xuất

bản Đại học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội

15. Vương Quân Hoàng (2007) Truyền thông tài chính: Thông tin là

tiền; tham luận Hội thảo Báo chí với doanh nghiệp – Doanh nghiệp

với báo chí, Hà Nội

16. Nguyễn Thành Lợi (2019) Tác nghiệp báo chí trong môi trường

truyền thông hiện đại, Nhà xuất bản Thông tin và truyền thông, Hà

Nội

17. Nhiều tác giả (2008) Quản lý tài chính doanh nghiệp, Nhà xuất bản

Lao động Xã hội Hà Nội

18. Nhiều tác giả (2016) Một số xu hướng mới của báo chí truyền thông

hiện đại, Nhà xuất bản Thông tin và truyền thông, Hà Nội

19. Đỗ Chí Nghĩa (2012), Vai trò của báo chí trong định hướng dư luận

xã hội, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội

20. Phan Quang (2007) Về diện mạo báo chí Việt Nam, Nhà xuất bản

Văn hóa Thông tin, Hà Nội

21. Quốc hội (2016) Luật Báo chí, Hà Nội

22. Thủ tướng Chính phủ (2019) Quy hoạch phát triển và quản lý báo

chí toàn quốc từ nay đến năm 2025, Hà Nội

23. Tạ Ngọc Tấn (1999) Từ lý luận đến thực tiễn báo chí, Nhà xuất bản

124

Văn hóa Thông tin, Hà Nội

24. Tạ Ngọc Tấn (2001) Cơ sở lý luận báo chí, Nhà xuất bản Văn hóa

Thông tin, Hà Nội

25. Tạ Ngọc Tấn (2004) Truyền thông đại chúng, Nhà xuất bản Chính

trị Quốc gia, Hà Nội

26. Thông tấn xã Việt Nam (2018) Những sáng tạo trong báo chí báo

cáo toàn cầu 2018 – 2019, Xuất bản Thông tấn xã Việt Nam, Hà Nội

27. Bùi Chí Trung (2011) “Nhận diện kinh tế truyền thông” Tạp chí Lý

luận chính trị và Truyền thông số tháng 8/2011

28. Bùi Chí Trung (2007) Kinh tế báo chí, Nhà xuất bản Chính trị quốc

gia sự thật, Hà Nội

29. Tôn Đức Sáu, Nguyễn Thanh Trúc (2016) Chỉ số hài lòng khách

hàng và các yếu tố ưu tiên cải tiến chất lượng dịch vụ trong lĩnh vực

viễn thông di động, Nhà xuất bản Đại học Nông nghiệp, Hà Nội

30. Thái Thanh Sơn, Thái Thanh Tùng (2017) Thương mại điện tử trong

thời đại số, Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông, Hà Nội

31. Jennifer Aaker, Andy Smith, Carlye Adler (2012) Hiệu ứng chuồn

chuồn, dịch giả Tinh Văn Media, Nhà xuất bản Lao động Xã hội, Hà

Nội

32. Saifedean Ammous (2019) Kinh tế trong cuộc cách mạng công

nghệ 4.0, dịch giả Đỗ Hoàng Lan, Nhà xuất bản 1980, Hà Nội

33. Thomas L. Friedman (2018) Thế giới phẳng, nhóm dịch Nguyễn

Hồng Quang, Nguyễn Quang A, Vũ Duy Thành, Nhà xuất bản Trẻ,

Hồ Chí Minh

34. Claudia Mast (2003) Truyền thông đại chúng những kiến thức cơ

bản, người dịch: Trần Hậu Thái, Nhà xuất bản Thông tấn, Hà Nội

35. Ngô Quý Tùng (2000) Kinh tế tri thức xu thế mới của xã hội thế kỷ

XXI, nhóm dịch: Nguyễn Đình Phong, Trần Văn Long, Nguyễn Thị

125

Tiểu Như, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội

36. Philip Kotler (2007), người dịch Phan Thăng, Vũ Thị Phượng, Giang

Văn Chiến, Marketing căn bản, Northwestern University, Nxb Lao

động - Xã hội, Hà Nội

37. Picard R. () Kinh tế truyền thông. Lý thuyết và các vấn đề, Hà Nội

38. Fred S.Siebert, Theodore Peterson, Wilbur Schramm (2013) Bốn

học thuyết truyền thông, Nhà xuất bản Tri thức, Hà Nội

39. Mark Skousen (2016) Ba người khổng lồ trong kinh tế học Adam

Smith, Các Mác và John Maynard Keynes, nhóm dịch: Nguyễn

Hoàng Hà, Nguyễn Quỳnh Trang, Nguyễn Thị Hồng Minh, Vũ Thu

Trang, Phan Thị Sông Thương, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia –

Sự thật, Hà Nội

40. Mitchell Stephens (2015) Hơn cả tin tức – tương lai của nghề báo,

Dương Hiếu, Kim Phượng, Hiếu Trung dịch, Nhà xuất bản Trẻ

41. Richard H. Thaler (2016) Tất cả chúng ta đều hành xử cảm tính – Sự

hình thành kinh tế học hành vi, người dịch Vũ Tiến Phúc, Nhà xuất

bản trẻ, thành phố Hồ Chí Minh

DANH MỤC TÀI LIỆU NƢỚC NGOÀI

42. Alan B. Albarran (2017) The Media Economy, Routledge, New

York

43. Andreas K. Bittner (2019): Digital Journalism And New Business

Models, European Federation of Journalists

44. CEDRO New Bussiness Model In The Digital Age

45. Hsiang Iris Chyi (2005): Willingness to Pay for Online News: An

Empirical Study on the Viability of the Subscription Model,

Journalism and Communication The University of Arizona

46. Juergen Grimm (2014): Media Effect Research: Introduction to the

126

Theory and Methods

47. Carina Ihlstrom và Jonathan Palmer (2002): Revenues for Online

Newspapers: Owner and User Perceptions, Electronic Markets,

Vol.12 No 4

48. David A.L. Levy, Rasmus Kleis Nielsen (2010) The Changing

Business of Journalism and its Implicatins for Democracy, Reuters

Institute, New York

49. Elizabeth M. Perse (2001) Media Effects and Society, Lawrence

Erlbaum Associates, London

50. Sasu Tarkoma (2012) Publish/Subscribe System Design and

Principles, Wiley Ltd, Finland

51. American Press Institute (5/2/2017): Paying for news: Why people

subscribe and what it says about the future of journalism:

https://www.americanpressinstitute.org/publications/reports/survey-

research/paying-for-news/

52. American Press Institute (2017): Who pays for news in general and

why:

https://www.americanpressinstitute.org/publications/reports/survey-

research/who-pays-for-news/

53. American Press Institute (2017): Newspaper subscribers vs. Other

types of subscribers:

https://www.americanpressinstitute.org/publications/reports/survey-

research/newspaper-vs-other-subscribers/

54. American Press Institute (2017): Who does not pay for news:

https://www.americanpressinstitute.org/publications/reports/survey-

research/not-pay-news/

55. Europa (2018): Basic business models: https://ec.europa.eu/digital-

127

single-market/en/basic-business-models

56. Max Read (2019): Can subscriptions save all media companies or

just the New York Times:

http://nymag.com/intelligencer/2019/02/new-york-times-

subscription-revenue-is-mixed-news-for-media.html

57. Trefis Team (2019): New York Times is thriving on growing digital

subscriptions:

https://www.forbes.com/sites/greatspeculations/2019/02/11/new-

york-times-is-thriving-on-growing-digital-

subscriptions/#4da3bc736c91

58. Richard Pérez-Peza và Tim Arango (2009): Andding Fee and

Fences on Media Sites, B1, The New York

DANH MỤC BÀI BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ

59. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (2019) Tư tưởng Hồ Chí

Minh về báo chí cách mạng Việt Nam; truy cập ngày 1/9/2019;

http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-

minh/ho-chi-minh/nghien-cuu-hoc-tap-tu-tuong/tu-tuong-ho-chi-

minh-ve-bao-chi-cach-mang-viet-nam-3479

60. Vân Anh (2018), Xây dựng hạ tầng số - cuộc chạy đua nước rút cần

làm ngay: https://vov.vn/cong-nghe/xay-dung-ha-tang-so-cuoc-chay-

dua-nuoc-rut-can-lam-ngay-790557.vov#ref-

https://www.google.com/; truy cập ngày 18/03/2020

61. Thanh Huyền, Chu Anh (2018) Báo điện tử thu phí có khả thi ở Việt

Nam; truy cập ngày 16/9/2019; https://vtv.vn/truyen-hinh/bao-dien-

tu-thu-phi-co-kha-thi-o-viet-nam-20180621102544522.htm

62. A.D (27/2/2019) Doanh thu thu phí báo điện tử đang tăng lên, truy

cập ngày 15/1/2019: https://onecms.vn/doanh-thu-thu-phi-bao-dien-

128

tu-dang-tang-len-49571.html

63. M.O.D (9/3/2019) Nhiều mô hình thu phí báo điện tử đang tăng

trưởng tốt, truy cập ngày 15/1/2019: https://onecms.vn/nhieu-mo-

hinh-thu-phi-bao-dien-tu-dang-tang-truong-tot-49579.html

64. Tuyết Mai (15/2/2019) Báo chí trước bài toán tự chủ:

http://hoinhabaovietnam.vn/Bao-chi-truoc-bai-toan-tu-

chu_n46552.html

65. Phan Hữu Minh (3/1/2017) Kinh tế báo chí và những giới hạn:

http://hoinhabaovietnam.vn/Kinh-te-bao-chi-va-nhung-gioi-

han_n14732.html

66. Thanh Nhàn (20/4/2019) Vấn đề kinh tế báo chí tại các kênh truyền

hình xã hội hóa: http://nguoilambao.vn/van-de-kinh-te-bao-chi-tai-

cac-kenh-truyen-hinh-xa-hoi-hoa-nwf11688.html

67. Ngọc Huyền (17/9/2019) Khi độc giả trở thành “khách hàng”

thông minh, truy cập ngày 15/1/2019: http://nguoilambao.vn/khi-

doc-gia-tro-thanh-khach-hang-thong-minh-n15773.html

68. Vũ Thanh Hòa (2017) “Mega story” và những câu chuyện trực

tuyến: http://nguoilambao.vn/mega-story-va-nhung-cau-chuyen-truc-

tuyen-n5996.html; truy cập ngày 20/3/2020

69. Vĩnh Khang (2019) Thu phí từ độc giả là con đường phát triển bền

vững của báo chí, truy cập ngày 4/12/2019:

http://special.vietnamplus.vn/subscription

70. Anh Vũ (4/3/2017) Kinh tế báo chí và đạo đức nghề nghiệp:

http://hoinhabaovietnam.vn/Kinh-te-bao-chi-va-dao-duc-nghe-

nghiep_n14825.html

71. VnEconomy (6/12/2017) Thu phí đọc báo online tại Việt Nam:

VietnamPlus đang tiên phong?, truy cập ngày 15/1/2019:

http://nguoilambao.vn/thu-phi-doc-bao-online-tai-viet-nam-

129

vietnamplus-tien-phong-n7918.html

72. Hoàng Yến (6/7/2017) Báo chí biết làm kinh tế từ bao giờ:

https://www.nguoiduatin.vn/bao-chi-biet-lam-kinh-te-tu-bao-gio-

a329955.html

73. Terry F. Buss (2017) Ông Trump quyết đấu truyền thông Mỹ, người

dịch Thúy Đào, truy cập ngày 17/9/2019; https://tuoitre.vn/ong-

trump-quyet-dau-truyen-thong-my-1270772.htm

74. Trung tâm Tin tức VTV24 (2020) Thói quen rút tiền mặt từ ATM

của người dân thay đổi, truy cập ngày 17/1/2020:

https://vtv.vn/kinh-te/thoi-quen-rut-tien-mat-tu-atm-cua-nguoi-dan-

thay-doi-20200117134149625.htm

75. Vnetwork (2019) Các số liệu thống kê Internet Việt Nam 2019, truy

cập ngày 15/1/2019; https://vnetwork.vn/news/cac-so-lieu-thong-ke-

internet-viet-nam-2019

76. The Guardian (2009): News Corp will charge for newspaper

websites, says Rupert Murdoch; truy cập ngày 1/1/2020:

https://www.theguardian.com/media/2009/may/07/rupert-murdoch-

charging-websites

77. Minh Anh (2018): Mô hình là gì? Một số mô hình trong kinh tế học;

truy cập ngày 27/7/2020: https://vietnamfinance.vn/mo-hinh-la-gi-

mot-so-mo-hinh-trong-kinh-te-hoc-

20180504224211008.htm#:~:text=h%C3%ACnh%20l%C3%A0%20

g%C3%AC%3F-

,M%C3%B4%20h%C3%ACnh%20(model)%20l%C3%A0%20s%E

1%BB%B1%20%C4%91%C6%A1n%20gi%E1%BA%A3n%20h%

C3%B3a%20hi%E1%BB%87n%20th%E1%BB%B1c,v%E1%BB%

9Bi%20v%E1%BA%A5n%20%C4%91%E1%BB%81%20nghi%C3

130

%AAn%20c%E1%BB%A9u.

PHỤ LỤC BẢNG PHỎNG VẤN SÂU

Để có được đánh giá chi tiết về quan điểm của các đơn vị sản xuất, cung ứng nội dung báo chí số thu phí từ người

sử dụng, chúng tôi tiến hành phỏng vấn sâu với 5 đối tượng là những người trực tiếp tham gia vào quá trình xây dựng

nền tảng, tiếp thị, mua bán sản phẩm báo chí truyền thông số hiện nay.

ĐỐI TƢỢNG

Ký hiệu: PV1

Ký hiệu: PV2

Ký hiệu: PV3

Ký hiệu: PV4

Ký hiệu: PV5

PHỎNG VẤN

Nam; 35 tuổi

Nam; 32 tuổi

Nữ; 28 tuổi

Nữ; 36 tuổi

Nam; 40 tuổi

CÂU HỎI

Kỹ sư phần mềm

Nhân viên kinh doanh

Biên tập viên

Sáng tạo nội dung

Giám đốc phụ trách

Theo Anh/Chị, thế

Là một sản phẩm mà

Là sản phẩm mà

Sản phẩm truyền

Sản phẩm cung cấp

Chúng tôi khai thác

nào là sản phẩm

thu phí theo chu kì thì

khách hàng phải trả

thông số có thu phí là

nội dung trên các

kho dữ liệu của

truyền thông số thu

nó có hướng dịch vụ,

tiền để sử dụng dịch

những sản phẩm

nền tảng số, có thu

khách hàng viễn

phí người sử dụng?

hướng dịch vụ tức là

vụ. Sản phẩm đó thỏa

truyền thông trong

phí người dùng theo

thông với nhu cầu

nó không phải sản

mãn các nhu cầu

môi trường kỹ thuật

các gói đã quy định.

thông tin của họ qua

phẩm dùng một lần,

hưởng thụ về tinh thần

số, được mã hóa và có

các “vết”, “từ khóa”

cung cấp tiện ích cho

của khách hàng.

phát sinh chi phí để

tìm kiếm trên di

người dùng lâu dài.

người đọc, người xem

động, từ đó cung cấp

Bên cạnh đó nó còn là

có thể tiếp cận những

các sản phẩm có giá

sản phẩm cung cấp

thông tin, công tác

trị được khấu trừ

thông tin mà người

truyền thông, quarg bá

trực tiếp vào thuê

dùng sẵn sàng bỏ tiền

và dịch vụ trên sản

bao của khách hàng.

131

ra để mang lại 1 lợi

phẩm đó. Việc thu phí

Từ mô hình của

ích gì đó cho chính

nhằm để đảm bảo nhà

mình, chúng tôi cho

bản thân họ.

phát triển sản phẩm có

rằng mô hình sản

đủ nguồn để duy trì,

phẩm truyền thông

phát triển và nâng cấp

số thu phí người sử

cho sản phẩm truyền

dụng là mô hình tích

thông đó ngày càng

hợp thuật toán trên

lớn mạnh.

trường dữ liệu kỹ

thuật số cung cấp

thông tin và xử lý

giao dịch thương mại

điện tử mua bán một

cách thuận tiện nhất

cho khách hàng.

Nguồn cung cho các

Chúng tôi có các đối

Từ đối tác là các cơ

Tự sản xuất và từ

Có hai phương án để

sản phẩm báo chí

tác chuyên sản xuất và

quan báo chí, báo

các nhà cung cấp nội

tạo ra nguồn cung:

truyền thông số tại

cung ứng các nội dung

mạng, truyền hình và

dung.

thứ nhất là tự sản

đơn vị của Anh/Chị

phục vụ kinh doanh.

cả các đơn vị truyền

xuất trong điều kiện

là từ đâu?

Ngoài ra chính khách

thông nghe nhìn khác.

chi phí tối thiểu

hàng sử dụng dịch vụ

nhưng hiệu quả tối

132

cũng có thể là người

đa; thứ hai là mua

cung cấp nội dung

bản quyền từ các

miễn là họ có thể đảm

đơn vị sản xuất hoặc

bảo về vấn đề bản

có quyền kinh doanh

quyền và chất lượng

sản phẩm.

âm thanh, hình ảnh

đặc biệt là đảm bảo về

chất lượng nội dung.

Sản phẩm báo chí

Nội dung thực sự khác

- Có phát sinh chi phí

Nội dung phong phú,

Sản phẩm báo chí

biệt và có chất lượng

đối với người dùg

đa dạng và cập nhật

truyền thông số dễ

truyền thông số thu

về hình thức. Như các

- Đảm bảo về mặt chất

hơn.

dàng được các nhóm

phí từ người sử dụng

có đặc điểm gì khác

bài phân tích chuyên

lượng của sản phẩm

khách hàng trẻ tuổi

với các sản phẩm

sâu về lĩnh vực mà

hơn những sản phẩm

đón nhận hơn bởi

báo chí khác?

khách hàng quan tâm,

truyền thông số không

tính chất nhanh và

đem lại lợi ích tài

thu phí

sinh động của thông

chính cho khách hàng

- Được kiểm soát tốt

tin. Bên cạnh đó, nếu

(như phân tích tài

hơn, quy củ hơn so

khách hàng cảm thấy

chính, kinh doanh…)

với những sản phẩm

họ được tiết kiệm

truyền thông số không

khi sử dụng sản

thu phí.

phẩm cũng là một

133

yếu tố quan trọng

quyết định sự khác

biệt của sản phẩm

số. Tiết kiệm ở đây

là cả thời gian hao

phí cho các khâu sản

xuất, đóng gói, phát

hành… tiết kiệm về

giá cả, và thuận tiện

về thời gian sử dụng

linh hoạt.

Những yếu tố quyết

Khách hàng trẻ tuổi từ

Cập nhật, hấp dẫn,

Yếu tố trends (xu

định để Anh/Chị lựa

15 đến 23 thường có

mới mẻ, thu hút

hướng) là quan trọng

chọn tin tức đưa vào

xu hướng dễ dàng

nhiều người quan

nhất. Nhóm khách

sản xuất thành sản

tham gia tương tác,

tâm, tính giải trí

hàng của chúng tôi

phẩm báo chí truyền

download và thích các

cao...

là những người trẻ

tuổi, vì thế chúng tôi

thông số là gì?

clip có nội dung liên

thường có chiến lược

quan đến người nổi

khai thác sản phẩm

tiếng. Họ vốn bị ảnh

theo trào lưu đang

hưởng bởi văn hóa

134

hot trong cộng đồng

Kpop hoặc các trào

mạng để thu hút sự

lưu nên các sản phẩm

chú ý của khách

thường chú trọng đến

hàng.

nội dung có liên quan

tới người nổi tiếng. Vì

vậy, chừng nào họ

(khách hàng) còn

được xem nhiều clip

có liên quan đến thần

tượng của mình thì họ

còn gắn bó với dịch

vụ.

Điểm thuận lợi trong

Thuận lợi lớn nhất là

Về phương diện kinh

- Thông tin đến với

Cách thể hiện nội

Vì chúng tôi là đơn

quá trình sản xuất,

chúng tôi có thể làm

doanh, chúng tôi có

đối tượng tiếp nhận

dung khá thoải mái.

vị kinh doanh trung

kinh doanh tin tức

chủ hệ thống nền tảng

những công cụ để có

nhanh hơn, dễ dàng

Tin tức đến với

gian, nên các sản

báo chí truyền thông

cho sản phẩm, có

thể nắm bắt được nhu

hơn

người dùng nhanh

phẩm đều được phái

số là gì?

nghĩa là chúng tôi có

cầu và mối quan tâm

- Thông tin phong

hơn, tiếp cận được

sinh từ các sản phẩm

thể tính toán để cho ra

của thị trường để từ đó

phú, đa chiều, nhiều

nhiều người dùng

thông tấn báo chí có

đời những sản phẩm

đưa ra các định hướng

nguồn tham khảo

hơn.

nguồn gốc, đơn vị

phù hợp với điều kiện

cụ thể về việc order

- Có thể nhận được

sản xuất rõ ràng nên

135

cơ sở vật chất của

các sản phẩm phục vụ

phản hồi từ đối tượng

chúng tôi hoàn toàn

mình.

kinh doanh sao cho

tiếp cận một cách

yên tâm trong quá

Chúng tôi còn có thoại

phù hợp nhất với xu

nhanh hơn, dễ dàng

trình kinh doanh.

truyền thông online để

hướng và “gu” của

dàng hơn.

bắt kịp với nhu cầu

khách hàng.

- Độ phủ sóng rộng rãi

của khách hàng, việc

nắm rõ cơ sở dữ liệu

của khách hàng cho

phép chúng tôi kịp

thời quảng cáo sản

phẩm truyền thông số

phù hợp với nhu cầu

của công chúng. Từ

đó tính toán giá cước

phù hợp với thói quen,

khả năng chi trả của

khách hàng.

Điểm khó khăn nhất

Khó khăn về cạnh

- Đòi hỏi cao về mặt

Tin tức phải cập nhật

Có những trường

trong hoạt động sản

tranh nếu thu phí.

quản lý chất lượng,

với tốc độ nhanh và

hợp đối tác không

xuất, kinh doanh tin

Điều khó nhất là

nội dung của sản

thực sự nổi bật, thu

làm hết trách nhiệm,

136

tức báo chí truyền

chúng tôi phải trả lời

phẩm truyền thông số.

hút

trong các sản phẩm

thông số là gì?

được câu hỏi: Tại sao

- Khó để khai thác,

họ gửi sang có lồng

khách hàng phải trả

tìm thông tin mới trên

ghép yếu tố nhạy

tiền để mua nội dung

chất liệu mới nếu

cảm, các vấn đề đó

này? Trong khi thị

không có kỹ năng xử

chỉ được phát hiện

trường thông tin tại

lý kỹ thuật như đồ họa

khi biên tập viên rà

Việt Nam hiện nay rất

- Càng ngày càng có

soát nội dung trong

rộng lớn và đa dạng

nhiều sản phẩm báo

khi trước khi đưa ra

nhiều nhà cung cấp,

chí truyền thông số

kinh doanh. Vì vậy,

mức độ cạnh tranh thị

phát triển trên diện

khó nhất là đào tạo

trường lớn, phân khúc

rộng nên đọ cạnh

được các biên tập

khách hàng đa dạng.

tranh về độ thu hút,

viên có kinh nghiệm,

hấp dẫn là rất cao.

nhạy cảm và nhanh

nhẹn, chú ý tiểu tiết.

Mức độ đón nhận

Được đánh giá chủ

Phụ thuộc vào bộ

Trên chỉ số về lượng

Số lượt xem và phản

Ngoài sử dụng hệ

của công chúng đối

yếu qua độ phổ biến

đếm: lượng truy cập,

người xem và lượng

hồi đánh giá của

thống bộ đếm của

với các sản phẩm

của sản phẩm thông

lượng tương tác,

comment trên một sản

người xem

Google analytics,

báo chí truyền thông

qua hai thông số chủ

lượng chia sẻ và thời

phẩm báo chí truyền

chúng tôi còn theo

số được đánh giá

yếu, đó là số lượng

gian tồn tại trên trang

thông số

dõi phản hồi của

trên cơ sở nào?

truy cập hàng ngày và

của khách hàng.

khách hàng thông

137

qua fanpage, nội

thời gian sử dụng dịch

dung bình luận của

vụ. Các thông số này

khách hàng ngay

có thể được đo qua hệ

dưới mỗi bài đăng

thống báo cáo tích hợp

cũng phần nào cho

của Google analytics

thấy mức độ đón

nhận của công chúng

trước mỗi sản phẩm.

Theo Anh/Chị rào

Đúng nhu cầu và đúng

Khả năng chi trả sẽ

Người dân quen

Khách hàng nếu

cản lớn nhất trong

thời điểm. Điều này

ảnh hưởng đến quyết

dùng sản phẩm

chưa nhận biết được

quyết định trả phí cho

có nghĩa là tùy vào nội

định chi trả, bởi lẽ

không bản quyền,

lợi ích sát sườn của

một sản phẩm báo chí

dung thông tin mà nó

người thu nhập cao sẽ

miễn phí và chưa có

chính họ thì họ sẽ

truyền thông của

sẽ phù hợp hoặc

có thể dễ dàng chi tiền

thói quen trả phí cho

còn cảm thấy ngại và

khách hàng là gì?

không phù hợp với

cho những thông tin

những sản phẩm,

không muốn sử dụng

mối quan tâm của

mà anh ta cho là có

dịch vụ nội dung báo

sản phẩm trả phí. Để

khách hàng trong từng

ích, còn người thu

chí truyền thông số

khuyến khích khách

giai đoạn cụ thể. Một

nhập trung bình hoặc

hàng đưa ra quyết

sự kiện hot nhưng

thấp sẽ đắn đo, lưỡng

định chi trả cần cho

chưa chắc đã được

lự rất nhiều trước khi

họ thấy những lợi

khách hàng trả phí nếu

quyết định chi trả cho

ích cụ thể của sản

138

phẩm và chỉ rõ khác

như họ có thể tìm thấy

một sản phẩm thu phí

biệt có lợi để khách

thông tin miễn phí ở

hàng tự có sự so

bất cứ đâu, bất cứ nơi

sánh.

nào. Thậm chí họ còn

không quan tâm đến

nguồn phát của thông

tin có xác thực hay là

đồn thổi.

Xin Anh/Chị đưa ra

Tôi cho rằng các dịch

Sẽ khó do đặc tính của

Hiện tại, việc tích hợp

Sự phát triển của

Nếu các sản phẩm

một số dự đoán về

vụ media sẽ vẫn chủ

người Việt Nam, phải

các gói sản phẩm bao

dịch vụ thu phí

thu phí được đầu tư

sự tồn tại của mô

đạo trong vòng 5 năm

có tập khách hàng

gồm viễn thông và

người sử dụng còn

và có chế tài riêng

hình thu phí người

tới, tuy nhiên còn tùy

tiềm năng cực lớn mới

báo chí đang có phản

phụ thuộc vào mức

thì tôi cho rằng sản

sử dụng trong tương

thuộc vào công nghệ

vận hành theo mô

hồi tích cực trong thị

độ thuận tiện trong

phẩm này sẽ được

lai?

hiện tại sẽ là gì. Bởi

hình thu phí được.

trường phân khúc

thanh toán. Ở Việt

công chúng đón

thế giới đang phát

khách hàng trẻ, nếu

Nam, nếu các giao

nhận rộng rãi. Mô

triển công nghệ trợ lý

xây dựng tốt nội dung

diện, chức năng của

hình hoạt động này

ảo, các phòng nghiên

và cách làm từ bây giờ

ngân hàng online

hoàn toàn khả thi và

cứu đang đổ toàn bộ

thì có thể trong tương

được cập nhật dễ sử

đem lại nhiều lợi ích

công sức và chi phí

lai, lượng khách hàng

dụng hơn.

cho cả bên cung cấp

vào sản phẩm này vì

sẽ đông đảo hơn, thân

sản phẩm và bên

139

thiết hơn.

mua sản phẩm.

vậy sẽ khó để có một

dự đoán xa hơn về

tương lai của sản

phẩm truyền thông số

thu phí người sử dụng.

Để có được đánh giá chi tiết về quan điểm, lý do đưa đến quyết định trả phí cho một sản phẩm báo chí truyền thông số của người sử

dụng (người dùng), chúng tôi tiến hành phỏng vấn sâu với 6 đối tượng là những người thường xuyên đăng kí mua sản phẩm báo chí, truyền

thông số.

ĐỐI TƢỢNG

Ký hiệu: PV6

Ký hiệu: PV7

Ký hiệu: PV8

Ký hiệu: PV9

Ký hiệu: PV10

Ký hiệu: PV11

PHỎNG VẤN

Nam; 19 tuổi

Nam; 24 tuổi

Nam; 35 tuổi

Nữ; 20 tuổi

Nữ; 26 tuổi

Nữ; 32 tuổi

Sinh viên

Nhân viên văn

Lao động tự do

Sinh viên

Tự do

Nhân viên văn

CÂU HỎI

phòng

phòng

Lý do vì sao

Vì nội dung thông

Để được xem

Từ lâu tôi đã không

Vì nội dung trả tiền

Nhà mạng cung

Để nghiên cứu

Anh/Chị lựa chọn

tin trả phí khiến tôi

thông tin chất

còn đọc báo chí

đa phần sẽ có chất

cấp nhiều gói

chuyên sâu về một

trả phí cho một

cảm thấy bị thu hút,

lượng cao như

(ấn phẩm in) nữa,

lượng cao hơn và

cước khuyến mại

số vấn đề, mà các

sản phẩm báo chí

có nhiều hình ảnh,

tường thuật trực

vì nó không tiện

mới mẻ hơn về

lưu lượng data rẻ

thông tin miễn phí

truyền thông số?

hình động gif sinh

tiếp các trận bóng

dụng và nhanh

cách thể hiện cũng

và phục vụ được

không thể cung cấp

động. Có nhiều trang

đá châu Âu. Có

chóng như báo

như nội dung. Hơn

một lúc nhiều nhu

đủ nội dung như

web thu phí cung

nhiều trận bóng

mạng. Tôi cũng

nữa tôi cũng không

cầu nên lựa chọn.

mình mong muốn.

140

cấp phim chất lượng

đá về đêm, lúc đó

thích xem các clip

cần phải tư duy quá

Hoặc cũng là do

cao, nếu tính ra khi

không phù hợp để

hài ngắn và vì công

nhiều mà có cảm

điều kiện khách

sử dụng kết hợp giữa

ra ngoài xem vì

việc của tôi khá

giác giải trí nhiều

quan không đủ để

đường truyền mạng

nhà không có ti

bận rộn nên trong

hơn trước các

thoải mái xem các

và gói cước thì giá rẻ

vi, nên quyết định

lúc nghỉ giải lao tôi

thông tin.

tin tức đa phương

và phù hợp với sinh

xem bằng điện

thường thích xem

tiện nên bắt buộc

viên.

thoại.

các clip có nội

phải sử dụng các

sản phẩm đi kèm

dung thông tin hơn

theo gói data lưu

là ngồi đọc nhiều

lượng.

bài báo cùng lúc

mà có thể sẽ không

đọng lại gì sau khi

đọc.

Chủ đề nào khiến

Những chủ đề có liên

Thể thao, bóng đá,

Những chủ đề liên

Người nổi tiếng, các

Các chủ đề có sẵn

Các chủ đề có liên

Anh/Chị quyết

quan đến bóng đá như

tennis, chính trị,

quan đến tin tức chính

nhóm nhạc Hàn Quốc

trong gói cước,

quan trực tiếp đến

định lựa chọn để

clip trả lời phỏng vấn

phim…

trị, xã hội, đặc biệt là

như BTS, Black Pink,

thường là chủ đề

công việc như nhà

trả tiền tin tức?

được có phụ đề, những

tin tức về kinh tế,

Exo…v..v…, scandal,

về giải trí.

đất, luật, tư vấn

pha bóng siêu phẩm

phân tích của các

các video về đời sống

luật và xem phim

hoặc những bình luận,

chuyên gia về tình

riêng tư hoặc hoạt

truyện, chương

phản ứng từ những

hình tài chính, giá cả

động hàng ngày của

trình truyền hình

141

trực tuyến trên

người nổi tiếng sau mỗi

cổ phiếu trong và

thần tượng, các clip

mạng internet bằng

một trận bóng. Thứ hai

ngoài nước.

đập hộp hàng hiệu và

điện thoại di động

là những sản phẩm

hướng dẫn làm đẹp,

hoặc ipad.

phim điện ảnh chiếu rạp

make up.

chất lượng HD.

Nếu lựa chọn

Tùy thuộc vào giá cả

Nếu không có a

Chọn tin tức độc

Tùy vào độ hot của

Thông tin miễn

Tin tức độc quyền

giữa một thông

nhưng nếu là sản

hay về đề tài

quyền trả phí. Vì

chủ đề. Vì nếu đề

phí. Vì nếu không

có trả phí thường

tin miễn phí dễ

phẩm độc quyền thu

mình đang quan

trong bối cảnh kinh

tài hot thì sẽ có

đi kèm với các

có nhiều khả năng

tìm kiếm và một

phi giá cả phải chăng

tâm thì sẽ trả phí

tế đang chuẩn bị

nhiều tin tức miễn

gói khuyến mại

tham khảo hơn là

tin tức độc quyền

thì tôi sẽ chọn sản

để xem.

chấm dứt vòng

phí, những tin tức

thì sẽ đắt và cảm

tin tức miễn phí

phải trả phí thì

phẩm thu phí. Khà

quay 10 năm của

miễn phí ấy đa

thấy chưa chắc đã

nên lựa chọn tin

Anh/Chị lựa chọn

năng chi trả của tôi

hạn mức ngân hàng

phần sẽ là tin dạng

phù hợp với nhu

tức độc quyền có

loại thông tin

sẽ ảnh hưởng tới

thì các tin tức phân

đồn thổi không có

cầu bản thân.

trả phí.

nào? Vì sao?

quyết định chi trả tin

tích kinh tế độc

căn cứ hoặc suy

tức.

quyền sẽ phục vụ

diễn từ động thái

rất tốt cho việc

của người nổi tiếng

kinh doanh.

trên mạng xã hội,

nhưng nếu có tin

tức mà do chính

người nổi tiếng trả

142

lời độc quyền cho

báo chí thì sẽ mua.

Điều gì tạo ra sự

Đôi khi có những

Nếu đã có thông

Sự lặp đi lặp lại của

Nhiều khi không

Có những chủ đề

Thao tác thanh toán

cản trở trong quá

trang web không

tin miễn phí thì

thông tin trong các

cần mua vì kiểu gì

trong gói khuyến

nhiều lúc còn có

trình thanh toán

chấp nhận thẻ cào

cảm thấy không

bài viết về cùng

cũng sẽ xuất hiện ở

mại ít sản phẩm

nhiều rắc rối bởi lẽ

một sản phẩm báo

hoặc tin nhắn qua

cần thiết để mua

một chủ đề. Cách

các trang tin miễn

hoặc gần như

nhiều trang thanh

chí truyền thông

điện thoại di động.

thông tin trả phí.

diễn giải của mỗi

phí.

không có. Thậm

toán để bảo mật

số của Anh/Chị?

Nhất là các tin có

phóng viên thường

chí trong cùng

cho người dùng đã

tiêu đề gần giống

khác nhau nhưng

một dịch vụ lại

tạo ra nhiều lớp

với các tin miễn

nội dung thông tin

phân ra gói

thông tin, ví dụ như

phí đã đọc. Hơn

không có gì mới

thường và gói

cùng lúc yêu cầu số

nữa nếu không

hoặc đặc sắc thì tôi

VIP, nếu chỉ mua

điện thoại có đăng

được đọc thử 1

không mua.

gói dịch vụ thông

kí tài khoản ngân

thường thì lại bị

hàng nhưng đồng

đoạn trong phần

hạn chế nội dung

thời phải nhập số

giới thiệu tin tức

xem.

thẻ ngân hàng… dễ

thì không có cơ

làm lộ thông tin

sở để so sánh sự

khách hàng.

khác biệt giữa tin

miễn phí và trả

phí.

143

Điều gì khiến

Nếu phải mất trung

Dự đoán tỉ số

Thông tin được hệ

Có nhiều clip

Khi dùng các

Cách thể hiện sinh

Anh/Chị hài lòng

bình 50.000 đồng để

trước trận đấu

thống một các logic

phong phú về thần

combo dịch vụ

động, có nhiều

với một sản phẩm

ra rạp xem một bộ

thông qua phân

và vấn đề được

tượng được Việt

của nhà mạng thì

sáng tạo trong hình

báo chí truyền

phim điện ảnh chất

tích đội hình, chỉ

phản ảnh dưới góc

hóa, ví dụ như clip

tiền cước phải chi

thức và có sự tham

thông số thu phí

lượng cao thì tôi

ra điểm mạnh,

nhìn bao quát bên

về thói quen ăn

trả hàng tháng sẽ

vấn của chuyên gia

người dùng?

chấp nhận trả 50.000

yếu của các đội,

cạnh những phân

uống của thần

rẻ hơn rất nhiều

trong các lĩnh vực

để có một tháng xem

thói quen của

tích chuyên sâu của

tượng hoặc những

so với trước đây.

truyền thông số,

giao diện biến đổi

các bộ phim chất

huấn luyện viên.

các chuyên gia.

buổi livetreams nói

theo từng đường

lượng cao theo ý

chuyện với fan

lăn của con trỏ

mình.

(người hâm mộ),

chuột, sử dụng

những buổi

nhiều màu sắc, bố

livetream thường

cục khối hình hợp

kéo dài vài tiếng

lý, thu hút mắt

đồng hồ nên rất hấp

nhìn.

dẫn.

Điều gì khiến

Vẫn còn nhiều clip

Tin tức thu phí

“Bình mới rượu

Nếu mất mạng

Có nhiều quảng

Dường như các sản

Anh/Chị không

tin tức theo kiểu giật

nhưng cũng

cũ”, thông tin dù

hoặc mạng chập

cáo và vẫn giới

phẩm đi kèm để tri

hài lòng với một

tít và nội dung

không khác gì tin

được thể hiện dưới

chờn bị nghẽn do

hạn nội dung

ân khách hàng là

sản phẩm báo chí

thường là lặp lại từ

tức miễn phí,

nhiều cách nhưng

có nhiều người

người xem, muốn

không có. Nếu như

truyền thông số

các nội dung miễn

thậm chí cách thể

nếu không có giá

dùng cùng lúc thì

xem thêm thì phải

trước đây, các sản

144

thu phí người

phí.

hiện cũng cẩu thả

trị riêng biệt thì

sẽ khó xem video,

trả thêm tiền cho

phẩm như báo Tết,

dùng?

và bôi bác.

cũng không thể tạo

hình bị giật, lag

gói VIP, điều đó

đặc san Tết ở báo

ra sự khác biệt.

liên tục, cảm giác

hết sức vô lý.

in thường tăng

trang không tăng

rất khó chịu

giá hoặc tăng in

màu không tăng

giá… nhân dịp Tết

như một sự tri ân

khách hàng thì ở

các sản phẩm số

hóa, quà tri ân

không thể hiện rõ

ràng thậm chí

không có.

Anh/Chị mong

Hy vọng sẽ có nhiều

Ít lặp lại thông tin

Có nhiều bài báo

Tốc độ làm phụ đề

Có sự đồng đều

Liên tục đổi mới và

chờ gì ở một sản

tin tức độc quyền

cũ và có sự đầu tư

mang tính dự đoán

Việt hóa cho sản

trong các gói,

cập nhật cách làm

phẩm báo chí

hơn và cập nhật

kĩ lưỡng hơn về

thị trường chuyên

phẩm được đẩy

không nên vạch ra

hiện đại của các tập

truyền thông số

phim chiếu rạp

nội dung thông

sâu hơn và có thêm

nhanh hơn, chuyên

ranh giới quá rạch

đoàn truyền thông

thu phí từ người

nhanh hơn.

tin.

những chuyên mục

nghiệp hơn.

ròi giữa các nhóm

lớn, bên cạnh đó

sử dụng trong

như tư vấn online

đối tượng, nên có

cho ra nhiều sản

145

tương lai?

24/7

thêm nhiều

phẩm phái sinh từ

khuyến mại lưu

sản phẩm gốc.

lượng cho khách

hàng thường

xuyên.

146

147