ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

===***===

LỤC THỊ YẾN

BIẾN ĐỔI SINH KẾ CỦA NGƢỜI HMÔNG Ở XÃ BẢN LẦU, HUYỆN

MƢỜNG KHƢƠNG, TỈNH LÀO CAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN HỌC

Chuyên ngành: Nhân Học

Hà Nội - 2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

===***===

LỤC THỊ YẾN

BIẾN ĐỔI SINH KẾ CỦA NGƢỜI HMÔNG Ở XÃ BẢN LẦU, HUYỆN

MƢỜNG KHƢƠNG, TỈNH LÀO CAI

Chuyên ngành: Nhân Học

Mã số: 60.31.03.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Sỹ Giáo

Hà Nội - 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi.Các tài

liệu và lập luận trong luận văn là trung thực.Những phần trích dẫn từ tài liệu và kết

quả nghiên cứu của người khác đều được trích dẫn rõ nguồn.Tôi xin hoàn toàn chịu

trách nhiệm về những thiếu sót trong công trình nghiên cứu này.

Hà Nội, ngày 20 tháng 10 năm 2015

Học viên

Lục Thị Yến

LỜI CẢM ƠN

Với tấm lòng biết ơn sâu sắc, tôi luôn tự hào về ngôi trường Đại học Khoa

học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, nơi tôi học tập và thực

hiện luận văn này. Nhân dịp hoàn thành công trình nghiên cứu luận văn thạc sĩ của

mình, tôi muốn cảm ơn Ban Chủ nhiệm khoa Nhân học và các thầy cô giáo trong

khoa.Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS.Lê Sỹ Giáo đã hướng

dẫn, tận tình chỉ bảo tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài này.

Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Uỷ ban nhân dân xã Bản Lầu,

các hộ gia đình ởthôn Cốc Phương, Na Lốc 1, Na Lốc 2, Na Lốc 3 vì đã giúp đỡ tôi

trong quá trình điền dã dân tộc học vàchia sẻ với tôi nhiều thông tin giúp tôi có thể

viết luận văn.

Xin cảm ơn cảm ơn bạn bè của tôi, đặc biệt là gia đình tôi về những giúp đỡ,

quan tâm, động viên cổ vũ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong học tập và

hoàn thành luận văn.

Hà Nội, ngày 20 tháng 10 năm2015

Học viên

Lục Thị Yến

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1

2. Mục tiêu nghiên cứu ...................................................................................... 2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 3

4. Nguồn tư liệu ................................................................................................. 3

5. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 3

6. Bố cục của luận văn ...................................................................................... 3

Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ

THUYẾT .......................................................................................................... 4

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ....................................................................... 4

1.2. Khung sinh kế bền vững- Một cách phân tích về biến đổi sinh kế ...... 8

1.3. Phƣơng pháp nghiên cứu ....................................................................... 10

1.4. Về địa bàn nghiên cứu - xã Bản Lầu .................................................... 11

Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 28

Chƣơng 2 SINH KẾ TRUYỀN THỐNG CỦA NGƢỜI HMÔNG Ở XÃ

BẢN LẦU ....................................................................................................... 32

2.1. Trồng trọt ................................................................................................ 32

2.1.1. Nương rẫy.............................................................................................. 32

2.1.2. Ruộng nước (ruộng bậc thang) ............................................................. 37

2.2. Chăn nuôi ................................................................................................ 40

2.3. Kinh tế phụ gia đình .............................................................................. 42

2.3.1. Các nghề thủ công ................................................................................. 42

2.3.2. Khai thác nguồn lợi tự nhiên ................................................................ 47

2.4. Chợ phiên và trao đổi buôn bán ........................................................... 47

Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 49

Chƣơng 3 BIẾN ĐỔI SINH KẾ CỦA NGƢỜI HMÔNG Ở BẢN LẦU TỪ

KHI ĐỔI MỚI ............................................................................................... 50

3.1. Biến đổi sinh kế ...................................................................................... 50

3.1.1. Trồng trọt .............................................................................................. 58

3.1.2. Chăn nuôi .............................................................................................. 76

3.2. Các hình thức sinh kế mới ..................................................................... 78

3.2.1. Lao động làm thuê ................................................................................. 78

3.2.2. Kinh doanh, dịch vụ .............................................................................. 81

Tiểu kết chƣơng 3 .......................................................................................... 83

Chƣơng 4 NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN BIẾN ĐỔI SINH KỀ

CỦA NGƢỜI HMÔNG Ở XÃ BẢN LẦU .................................................. 84

4.1. Những yếu tố tác động ........................................................................... 84

4.1.1. Yếu tố ngoại sinh ................................................................................... 84

4.1.2. Yếu tố nội sinh ....................................................................................... 91

4.2. Tác động của biến đổi sinh kế tới đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội

của ngƣời Hmông ở xã Bản Lầu .................................................................. 93

4.2.1. Đời sống kinh tế .................................................................................... 93

4.2.2. Đời sống văn hóa .................................................................................. 97

4.2.3. Đời sống xã hội ................................................................................... 100

4.3. Các vấn đề đặt ra về phát triển sinh kế bền vững............................. 102

4.3.1. Vấn đề kinh tế ...................................................................................... 102

4.3.2. Vấn đề giữ gìn văn hóa truyền thống .................................................. 103

4.3.3. Vấn đề xã hội ....................................................................................... 104

4.3.4. Phát triển kinh tế gắn với đảm bảo an ninh biên giới ........................ 104

Tiểu kết chƣơng 4 ........................................................................................ 106

KẾT LUẬN .................................................................................................. 107

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 109

PHỤ LỤC ..................................................................................................... 112

BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT

ANTQ : An ninh tổ quốc

ANTT : An ninh trật tự

BĐBP : Bộ đội biên phòng

CNH - HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

DTTS : Dân tộc thiểu số

ĐBKK : Đặc biệt khó khăn

HQKT : Hiệu quả kinh tế

KTCK : Kinh tế cửa khẩu

KT – XH : Kinh tế xã hội

Nxb : Nhà xuất bản

THCS : Trung học cơ sở

TTPBPLGD : Tuyên truyền phổ biến pháp luật giáo dục

UBND : Uỷ ban Nhân dân

VACR : Vườn ao chuồng ruộng

XHCN : Xã hội chủ nghĩa

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1.1: Nhiệt độ, lượng mưa, ẩm độ không khí trung bình năm 2013 của xã

Bản Lầu ........................................................................................................... 12

Bảng 1.2: Tình hình phân bổ và sử dụng đất đai của xã Bản Lầu giai đoạn

2011 – 2013 ..................................................................................................... 14

Bảng 1.3.Cơ cấu kinh tế của xã Bản Lầu năm 2013 ....................................... 15

Bảng 1.4. Quy mô trường lớp ở xã Bản Lầu giai đoạn 2010-2011 ................ 16

Bảng 1.5.Thống kê thành phần dân tộc của xã Bản Lầu năm 2013................ 20

Bảng 3.1: Tình hình số hộ, nhân khẩu và lao động của xã Bản Lầu giai đoạn

2011 - 2013 ...................................................................................................... 51

Bảng 3.2 : Tình hình sử dụng đất đai xã Bản Lầu năm 2013. ........................ 55

Bảng 3.3: Giá trị sản xuất của xã Bản Lầu năm 2013 ..................................... 59

Bảng 3.4: Diện tích chuối của xã Bản Lầu năm 2011-2013 ........................... 63

Bảng 3.5: Diện tích, năng suất, sản lượng chuối của xã Bản Lầu năm 2011-

2013 ................................................................................................................. 64

Bảng 4.1. Một số chỉ tiêu cơ bản về nguồn vốn nhân lực của xã Bản Lầu giai

đoạn 2004-2014 ............................................................................................... 89

Bảng 4.2: Cơ cấu thu nhập của gia đình ông Thào Dìn năm 1987 (trước

Đổi mới) ......................................................................................................... 94

Bảng 4.3: Cơ cấu thu nhập của gia đình ông Thào Dìn hiện nay ................... 95

Bảng 4.4: Cơ cấu thu nhập của gia đình ông Cư Phừ năm 2015 .................... 95

Bảng 4.5: Cơ cấu thu nhập của gia đình bà Giang Mỷnăm 2015 ................... 96

DANH MỤC ẢNH

Ảnh 1: Hình ảnh vườn chuối mô ở thôn Na Lốc xã Bản Lầu....................... 61

Ảnh 2: Cây chuối mô được chăm sóc rất cẩn thận ......................................... 63

Ảnh 3: Vợ chồng chị Thào Máy vui mừng vì sản lượng và giá chuối thị

trường năm nay mang lại thu nhập khá cho gia đình ...................................... 67

Ảnh 4 : Người dân đem dứa bày bán ngay sau khi thu hoạch xong ............... 68

Ảnh 5:Anh Thào A Minh bên nương dứa của gia đình mình ......................... 70

Ảnh 6: Vườn trồng cao su tại xã Bản Lầu ...................................................... 74

Ảnh 7: Ông Cường bên vườn cao su của gia đình mình ................................. 75

Ảnh 8: Bà con đến xem mô hình chăn nuôi lợn đen nhà ông Thào Dìn thôn Na

Lốc II, xã Bản Lầu. ......................................................................................... 76

Ảnh 9: Bà Sến đang cho đàn lợn đen nà mình ăn. .......................................... 77

DANH MỤC HÌNH

H.1. Bản đồ hành chính tỉnh Lào Cai .............................................................. 29

H.2. Bản đồ hành chính huyện Mương Khương ............................................. 30

H.3. Bản đồ minh họa xã Bản Lầu .................................................................. 31

H.4. Biểu đồ thể hiện cơ cấu lao động của xã Bản Lầu năm 2013. ................ 51

H.5. Biểu đồ trình độ học vấn của người dân xã Bản Lầu .............................. 52

H.6. Nguồn tài sản vật chất trong gia đình...................................................... 57

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Sinh kế là hoạt động tất yếu của con người để tồn tại, là cách thức con người

tạo ra của cải vật chất đảm bảo cuộc sống. Trong các xã hội truyền thống, nhiều tộc

người đã tạo cho mình những hoạt động sinh kế thích ứng với môi trường sống cụ

thể.

Là một trong những quốc gia có lịch sử phát triển hàng ngàn năm, nằm trong

một khu vực địa lý đa dạng về nhiều mặt của châu Á, Việt Nam là quốc gia đa dân

tộc. Trong tổng số 54 tộc người, dân tộc Kinh chiếm 86% và 53 dân tộc còn lại chỉ

chiếm 14% dân số.Các dân tộc sống xen kẽ là chủ yếu, song lại có sự chênh lệch

khá lớn về trình độ phát triển giữa các dân tộc.Trong khi các dân tộc thiểu số ở Việt

Nam chỉ chiếm khoảng 14% tổng dân số của cả nước, song địa bàn cư trú lại bao

quát một diện tích rộng lớn của đất nước, chiếm tới khoảng 3/4 tổng diện tích đất

liền, mà chủ yếu là khu vực miền núi, thậm chí còn được xác định là vùng cao, vùng

sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Thực thế này cho thấy những nơi đã và đang có vị

trí chiến lược quan trọngvề an ninh và quốc phòng chính là địa bàn cư trúc của

nhiều dân tộc thiểu số và đây chính là khu vực có kinh tế còn phát triển chậm, tỷ lệ

hộ nghèo còn khá cao. Trong tình hình đó, các chiến lược phát triển về nhiều lĩnh

vực trong đó có các hoạt động sinh kế cho các dân tộc thiểu số và khu vực miền núi

luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, chú ý.

Bản Lầu là xã giáp biên giới thuộc huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai. Đây

là một trong những xã vùng thấp của huyện Mường Khương, có nhiều dân tộc cùng

sinh sống, như: Kinh,Tày, Nùng,Dao, Hmông, v.v. trong đó người Hmông ở xã Bản

Lầu đã kiến tạo cho mình những đặc trưng văn hóa riêng khó hòa lẫn với các tộc

người khác. Từ bao đời nay, bằng lao động cần cù, sáng tạo, người Hmông xã Bản

Lầu đã lựa chọn cho mình các hoạt động mưu sinh phù hợp với môi trường sống.

Nhiều hoạt động kinh tế trồng trọt, chăn nuôi, thủ công nghiệp không chỉ thích ứng

với điều kiện sống địa phương mà còn khai thác tốt các nguồn lợi từ tự nhiên hiện

1

có để đảm bảo nhu cầu cuộc sống.

Tuy nhiên, trong quá trình lịch sử, nhất là trong những năm vừa qua, dưới tác

động của nhiều yếu tố mới, các hoạt động sinh kế của người Hmông xã Bản Lầu đã

có sự biến đổi. Sinh sống trên vùng núi cao đầy khó khăn và thách thức, những năm

gần đây, các hộ gia đình dân tộc Hmông xã biên giới Bản Lầu với sự trợ giúp của

Chính phủ và từ bàn tay lao động cần cù của mình trên những nương dứa đã làm

cho đời sống kinh tế no đủ, khác hẳn với những năm trước đây nhất là so với thời

điểm những năm 1990, Bản Lầu được coi là xã "4 không", là "vùng đất trắng".

Trong bối cảnh đó, tôi chọn sự biến đổi sinh kế của người Hmông ở Bản Lầu

làm đề tài nghiên cứu của luận văn vì không chỉ đơn giản đây là nơi tôi sinh sống và

trưởng thành mà còn vì Bản Lầu là một trong những xã thuộc khu vực tiếp giáp với

biên giới Trung Quốc, được Nhà nước quan tâm phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao

chất lượng cuộc sống của người dân, vì thế có nhiều vấn đề cần nghiên cứu, lý giải.

Trong nghiên cứu này, tôi có ba câu hỏi nghiên cứu chính là: Sinh kế của người

Hmông trong truyền thống như thế nào? Sự biến đổi sinh kế trong những năm qua

diễn ra ra sao?Những nhân tố nào đã tác động dẫn đến sự biến đổi sinh kế của người

Hmông ở Bản Lầu?

2. Mục tiêu nghiên cứu

- Tìm hiểu và làm rõ sinh kế truyền thống, biến đổi sinh kế hiện nay của người

Hmông ở xã Bản Lầu.

- Phân tích các yếu tố nội sinh và ngoại sinh tác động đến sự biến đổi sinh

kế của người Hmông ở xã Bản Lầu.

- Làm rõ những tác động của biến đổi sinh kế tới đời sống kinh tế, văn hóa

và xã hội của đồng bào người Hmông ở đây.

Với các mục tiêu đó, tôi đặt ra các câu hỏi nghiên cứu sau:

+ Sinh kế truyền thống của người Hmông ở xã Bản Lầu, huyện Mường

Khương là gì?

+ Hoạt động sinh kế hiện nay của người Hmông ở xã Bản Lầu, huyện

Mường Khương là gì?

2

+ Những nhân tố tác động đến sự biến đổi đó là gì?

+ Tác động của biến đổi sinh kế tới đời sống kinh tế, văn hóa và xã hội của

họ ra sao?

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là sinh kế hay các phương thức mưu sinh

của người Hmông ở xã Bản Lầu, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai.

- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các vấn đề có liên quan đến sinh kế và sự

biến đổi sinh kế. Và nghiên cứu được giới hạn ở dân tộc Hmông ở xã Bản Lầu từ

thời kỳ Đổi mới (năm 1986) đến nay.

4. Nguồn tƣ liệu

Nguồn tư liệu của luận văn bao gồm có tài liệu thành văn và tài liệu điền dã

dân tộc học.

- Tài liệu thành văn: Bao gồm các công trình nghiên cứu, sách, báo, tạp chí

liên quan đến sinh kế của các dân tộc thiểu số nói chung và của người Hmông nói

riêng, cùng với các tài liệu thứ cấp của UBND huyện Mường Khương, UBND xã

Bản Lầu.

- Tài liệu điền dã dân tộc học: Do tác giả tiến hành khảo sát qua 3 đợt tại địa

bàn xã. Đợt 1 (kéo dài 2 tuần, vào tháng 6 năm 2015), đợt 2 (kéo dài 2 tuần, vào

tháng 7 năm 2015), đợt 3 (kéo dài 1 tuần, vào tháng 8 năm 2015).

5. Đóng góp của luận văn

- Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu về sinh kế truyền thống và những biến đổi

trong sinh kế hiện nay của người Hmông ở một địa bàn cụ thể.

- Đóng góp thêm tri thức về thực tiễn sinh kế truyền thống và sự biến đổi sinh kế

cũng như các yếu tố tác động đến sự biến đổi đó ở người Hmông ở xã Bản Lầu,

huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai.

6. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phần phụ lục, tài liệu tham khảo, luận văn gồm

4 chương với nội dung như sau:

Chương 1: Tổng quan tài liệu nghiên cứu và cơ sở lý thuyết

Chương 2: Sinh kế truyền thống của người Hmông ở Bản Lầu

Chương 3: Biến đổi sinh kế của người Hmông ở Bản Lầu từ Đổi mới

Chương 4: Một số yếu tố tác động đến biến đổi sinh kế của người Hmông ở

3

Bản Lầu

Chƣơng 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Tộc người Hmông từ lâu đã là một đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà khoa

học ở trong và ngoài nước, trong đó, các nhà dân tộc học và nhân học có sự quan

tâm hơn đặc biệt đến tộc người này ở nhiều góc độ. Có thể nói, ở Việt Nam, việc

nghiên cứu các dân tộc thiểu số được đẩy mạnh từ những năm đầu 60 của thế kỷ

trước và cho đến nay đây là chủ đề quan trọng của ngành Nhân học. Riêng đối với

tộc người Hmông, đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu được công bố nổi

bật là một số nghiên cứu tôi xin tổng quan lại dưới đây.

Hai tác giả Cư Hòa Vần - Hoàng Nam (1994),Dân tộc Mông ở Việt Nam,

Nxb văn hóa dân tộc, Hà Nội đã nói khá chi tiết về dân tộc Mông ở Việt Nam, trong

đó giới thiệu khái quát về tang ma của người Mông như các nghi lễ, từng phong tục

trong tang ma của đồng bào Mông trắng ở huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang.

Hay tác giả Trần Hữu Sơn (1996), Văn hóa Hmông, Nxb Văn hóa dân tộc,

Hà Nội,cũng đã đi sâu mô tả và phân tích về văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần

của người Hmông ở Lào Cai, qua đó nêu những yếu tố mới trong đời sống văn hóa

tinh thần của người Hmông ở Lào Cai.Bên cạnh đó cuốn Những đỉnh núi du ca, một

lối tìm về cá tính H’Mông(2014) của tác giả Nguyễn Mạnh Tiến cũng đi sâu tìm

hiểu bản sắc tộc người Hmông (Hmông là gì; khi chọn đỉnh núi để cư trú, Hmông

là thế nào và khi cầm súng để tự vệ, Hmông là ai,…), xem xét cá tính Hmông trong

hệ thống quyền lực của nhóm tộc người miền núi phía Bắc. Chính bởi trong mỗi

hành động tộc người đều chứa một liên đới rộng hơn và sự dị biệt, nếu có, cũng

không làm mất đi tính phổ quát, nên Nguyễn Mạnh Tiến vừa chọn các yếu tố nổi

trội của Hmông, vừa tham chiếu các yếu tố ấy trong bức khảm văn hóa tộc người

miền núi phía Bắc. Và từ đây, tái dựng những cách thức cộng sinh của hệ thống

quyền lực này với người Việt ở các châu thổ trong suốt chiều dài lịch sử kiến tạo

quốc gia.

4

Bên cạnh đó, còn nhiều nghiên cứu về tộc người Hmông khác như

Trong bài viết Dân tộc Miêu (Hmông ở Trung Quốc) (2005) của tác giả

Nguyễn Duy Bính đã tìm hiểu những khái quát về cộng đồng tộc người Miêu ở

Trung Quốc như: nhóm địa phương, ngôn ngữ, sinh hoạt kinh tế,văn hóa vật chất, y

phục và trang sức, văn hóa xã hội, văn hóa tinh thần…, qua đó giúp người đọc có

được một cái nhìn tổng quan, cũng như những mối liên hệ giữa người Hmông ở

Việt Nam và người Miêu ở nước láng giềng.

Công trình nghiên cứu khoa học cấp Viện Công cụ sản xuất nông nghiệp của

các dân tộc nhóm ngôn ngữ H’Mông–Dao (2000)của tác giả Nguyễn Thị Ngân đã

làm rõ sự đa dạng về các loại hình công cụ sản xuất của dân tộc Hmông, Dao, Pà

Thẻn và xem xét sự thích ứng của các công cụ này với từng loại địa hình rẻo cao,

rẻo giữa, rẻo thấp ở mỗi địa phương. Tác giả so sánh công cụ sản xuất của nhóm

ngôn ngữ Hmông- Dao với các loại hình công cụ tương ứng của dân tộc khác.

Ngoài ra, còn phải kể đến chương trình nghiên cứu “Những vấn đề kinh tế - xã

hội vùng người Hmông Hoàng Liên Sơn” là chương trình hợp tác nghiên cứu tộc

người dưới góc độ Dân tộc học phát triển đầu tiên của tỉnh Hoàng Liên Sơn. Các

cán bộ nghiên cứu của tỉnh Hoàng Liên Sơn và Viện Dân tộc học đã tổ chức điền dã

ở các huyện có đông người Hmông cư trú. trong hai năm 1987, 1989. Kết quả là

chương trình nghiên cứu đã công bố 10 báo cáo tổng hợp và 15 báo cáo chi tiết theo

8 đề tài cụ thể như sau: Những tiềm năng thiên nhiên và phương hướng khai thác

chúng; Những vấn đề dân cư và lao động; Những vấn đề lý luận và thực tiễn của

định canh, định cư; Việc giải quyết các vấn đề về lương thực; Các vấn đề về phát

triển cây con có thế mạnh kinh tế cao; Mối quan hệ giữa xã hội cổ truyền và việc

xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa; Các vấn đề về phát triển văn hóa -

giáo dục; Những vấn đề về cán bộ. Chương trình đã đạt được những kết quả bước

đầu, đặt ra một số vấn đề về cơ sở khoa học cho việc phát triển kinh tế - xã hội ở

vùng người Hmông những năm sau này.

Riêng về chủ đề sinh kế và biến đổi sinh kế thì có khá nhiều công trình

nghiên cứu.Nhiều tác giả nhận định rằng khái niệm sinh kế bao hàm nhiều yếu tố

ảnh hưởng đến đời sống của cá nhân cũng như hộ gia đình.Các đề tài nghiên cứu về

5

sinh kế và biến đổi sinh kế gồm:

Nghiên cứu đặc điểm văn hóa kiến thức bản địa và chiến lược sinh kế của

đồng bào dân tộc thiểu số tại Đăkrông - Quảng Trị (2005) của tác giả Hoàng Mạnh

Quân là một đề tài nghiên cứu về kiến thức bản địa và mối liên hệ của nó với chiến

lược sinh kế của vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đề tài đưa ra những điểm được và

chưa được trong việc vận dụng kiến thức bản địa vào các hoạt động sinh kế, đề cập

đến việc xây dựng một chiến lược sinh kế cho bản thân và gia đình vừa đảm bảo

điều kiện sống hiện tại vừa đảm bảo cho sự phát triển vững chắc cho tương lai.

Tác giả Trần Bình viết về “Tập quán hoạt động kinh tế của một số dân tộc ở

Tây Bắc Việt Nam” (2001) và “Tập quán mưu sinh của các dân tộc thiểu số ở Đông

Bắc Việt Nam” (2005). Trong hai nghiên cứu này, tác giả đã khái quát về môi

trường tự nhiên và xã hội của hai vùng, cùng với đó là các hoạt động kinh tế của

người Xinh Mun, Khơ Mú, Si La, La Hủ, Thái... ở vùng. Tây Bắc và người Tày,

Dao, Sán Chay, Hà Nhì… ở vùng Đông Bắc, qua đó, tác giả đã khẳng định hoạt

động kinh tế là một bộ phận quan trọng trong hệ thống giá trị văn hóa tộc người,

đồng thời thấy được sự khác biệt về thế mạnh, môi trường tiềm năng giữa các vùng

khác nhau, góp phần tìm hiểu được quá trình giao lưu kinh tế - văn hóa của các tộc

người, vai trò của tộc người với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.

Bên cạnh đó, có thể kể đến tên các công trình: Phát triển nông thôn miền

núi và dân tộc trong thời kỳ chuyển đổi (2007)của tác giả Trần Văn Hà ; cuốn

Công nghiệp hóa từ nông nghiệp (2001) của tác giả Đặng Kim Sơn … Hầu hết các

tác phẩm đã đi vào vấn đề thực trạng phát triển kinh tế văn hóa, xã hội của đồng

bào dân tộc; sự tiếp cận của đồng bào dân tộc thiểu số với vấn đề kinh tế, xã hội

hiện đại, tiến bộ khoa học kỹ thuật cũng như sự tác động của văn hóa truyền thống

đối với những vấn đề đó. Đồng thời những công trình đó cũng đưa ra những biện

pháp nhằm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội cho đồng bào trên cơ sở phát huy các

giá trị tích cực của văn hóa truyền thống, đặc biệt là những tri thức dân gian trong

lĩnh vực sản xuất và hạn chế những lạc hậu của văn hóa truyền thống các dân tộc

thiểu số.

Cuốn Phát triển nông thôn bền vững – chính sách đất đai và sinh kế: Một số

6

kết quả nghiên cứu 2004 – 2007 của các tác giả Võ Tòng Xuân, Trần Thị Phương,

Lê Cảnh Tùng, được xuất bản năm 2008 với sự tài trợ của tổ chức SIDA/SAREC

(Thụy Điển). Cuốn sách tập hợp những bài nghiên cứu liên quan tới chính sách đất

đai và vấn đề sinh kế của người dân nông thôn như : sự phát triển của nông thôn và

môi trường; các chính sách về đất đai cho người nghèo; ảnh hưởng của đô thị hóa

đối với đời sống nông thôn…

Một số luận văn thạc sĩ cũng đề cập đến đề tài này như: Biến đổi sinh kế của

người Mường vùng lòng hồ thủy điện Hòa Bình ở nơi tái định cư - Nghiên cứu trường

hợp xã Hiền Lương, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình(2008) của tác giả Trịnh Thị Hạnh.

Trong luận văn này, tác giả đã đi sâu tìm hiểu sự thay đổi môi trường sinh kế của

người Mường ở Hiền Lương, bên cạnh đó tìm hiểu sự thay đổi sinh kế và những thích

ứng về văn hóa ở nơi tái định cư, đồng thời đưa ra các giải pháp để ổn định đời sống,

phát triển sản xuất của người Mường ở nơi tái định cư và nhằm bảo tồn phát huy

được các giá trị văn hóa của người Mường vùng lòng hồ Thủy điện Hòa Bình trong

tái định cư.

Luận văn thạc sỹBiến đổi sinh kế của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Lạng

Sơn từ đổi mới (1986) đến nay - Nghiên cứu trường hợp thôn Bản Thẩu, xã Tân

Thanh, huyện Văn Lãng,tỉnh Lạng Sơn(2012) của tác giả Phạm Thị Thu Hà làm rõ

sinh kế truyền thống và hiện tại của người Tày ở thôn Bản Thẩu, xã Tân Thanh,

huyện huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn. Đặc biệt, nghiên cứu này đã phân tích

cácyếu tố tác động đến sinh kế của người Tày và sự lựa chọn các chiến lược sinh kế

của cư dân ở đây. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra các giải pháp để ổn định đời sống,

phát triển kinh tế và bảo tồn các giá trị văn hóa của người Tày ở Tân Thanh.

Tác giả Nguyễn Văn Sửu công bố hai nghiên cứu:Tác động của Công nghiệp

hóa và đô thị hóa đến sinh kế người nông dân Việt Nam - Trường hợp một làng ven

đô Hà Nội trong Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ III (2008) và

Khung sinh kế bền vững - Một cách phân tích toàn diện về phát triển và giảm

nghèotrên Tạp chí Dân tộc học số 2/2010. Hai công trình nghiên cứu này đã giới

thiệu về Khung sinh kế bền vững và sử dụng khung phân tích này để phân tích sự

biến đổi sinh kế của các hộ gia đình nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp phục vụ

7

phát triển đô thị qua trườn hợp làng Phú Điền trong hơn một thập kỷ vừa qua.

Ngoài ra, vấn đề sinh kế của người dân miền núi cũng được đăng tải nhiều

trên các tạp chí như : Một số vấn đề về kinh tế gia đình hiện nay ở miền núi của

Nguyễn Văn Huy, Tạp chí Dân tộc học số 4/1984; Thu nhập của nông dân miền

núi và mối quan hệ gắn bó với hợp tác xã của Trần Văn Hà, Tạp chí Dân tộc học

số 3/1986; Kinh tế hộ gia đình ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số phía Bắc của

Lê Sỹ Giáo, Tạp chí Thông tin Lý luận số 5/1990…Các bài viết trên đã trình bày

về đặc điểm kinh tế gia đình các dân tộc thiểu số nước ta trước Đổi mới. Qua đó đã

làm rõ kinh tế gia đình là một hình thức sản xuất dựa trên sở hữu tuyệt đối của Nhà

nước về đất đai, nó phát sinh và phụ thuộc vào sự phát triển của kinh tế - xã

hội và là nguồn thu nhập bổ sung của người lao động. Đó là cơ sở sản xuất nhỏ

trong thời kỳ quá độ, chịu sự tác động cơ bản của quy luật giá trị và thị trường.

Dù có một số lượng tài liệu nghiên cứu nhất định về người Hmông và sinh kế

của tộc người này, vấn đề biến đổi sinh kế của một cộng đồng người Hmông ở vùng

biên giới lại chỉ mới được đề cập sơ qua trong một số bài báo.Trên cơ sở đó, tôi

chọn vấn đề này để nghiên cứu trong luận văn của mình.

1.2. Khung sinh kế bền vững- Một cách phân tích về biến đổi sinh kế

Trong luận văn này, tôi sử dụng Khung sinh kế bền vững của DFID để phân

tích về những biến đổi sinh kế của cộng đồng người Hmông ở địa bàn nghiên cứu

trong mấy thập kỷ vừa qua. Khi sử dụng khung phân tích này, tôi muốn làm rõ mấy

một vấn đề then chốt sau đây. Thứ nhất là khái niệm sinh kế và sinh kế bền vững.

Trong khi tác giả Bùi Đình Toái (2004) nhận định:

“Sinh kế của hộ hay một cộng đồng là một tập hợp các nguồn lực và khả

năng của con người kết hợp với những quyết định và hoạt động mà họ sẽ

thực hiện để không những kiếm sống mà còn đạt đến mục tiêu đa dạng hơn.

Hay nói cách khác sinh kế của một hộ gia đình hay một cộng đồng còn được

gọi là kế sinh nhai của hộ gia đình hay cộng đồng đó”.

Thì định nghĩa về sinh kế bền vững, Chambers và Conway (1992) xác định

một cách rõ ràng rằng:

“Sinh kế bền vững bao gồm con người, năng lực và kế sinh nhai, gồm có

8

lương thực, thu nhập và tài sản của họ. Ba khía cạnh tài sản là tài nguyên, dự

trữ, và tài sản vô hình như dư nợ và cơ hội. Sinh kế bền vững khi nó bao gồm

hoặc mở rộng tài sản địa phương và toàn cầu mà chúng phụ thuộc vào và lợi

ích ròng tác động đến sinh kế khác. Sinh kế bền vững về mặt xã hội khi nó

có thể chống chịu hoặc hồi sinh từ những thay đổi lớn và có thể cung cấp cho

thế hệ tương lai”[ 27, tr.4 ]

Thứ hai là Khung sinh kế bền vững lấy con người làm trung tâm để phân tích

và giải thích về sinh kế thông qua lập luận cho rằng con người sử dụng các nguồn

vốn của mình trong mối quan hệ với môi trường sống, các chính sách, thể chế để

kiến tạo hay duy trì sinh kế bền vững của họ.

Thứ ba, khi nhấn mạnh việc con người sử dụng các nguồn lực sinh kế để

kiếm sống, Khung sinh kế bền vững xác định năm loại vốn được minh họa cụ thể

trong sơ đồ 2.2 dưới đây.

Sơ đồ 2.2: Tài sản sinh kế của ngƣời dân

Nguồn: http://www.livelihoods.org/info/guidance_sheets_rtfs/Sect2.rtf

Từ sơ đồ trên, năm loại vốn sinh kế này được xác định là:

- Vốn vật chất: Gồm cơ sở hạ tầng xã hội, tài sản mà con người cần để

hỗ trợ sinh kế như: giao thông, hệ thống cấp thoát nước, cung cấp

năng lượng, nhà cửa, đồ đạc, các phương tiện vận chuyển, thông tin.

- Vốn tài chính: Tức là các nguồn lực tài chính mà con người sử dụng

9

để đạt được các mục tiêu sinh kế.

- Vốn xã hội: Là các tiềm lực xã hội, các mạng lưới và mối liên kết với

nhau, tính đoàn hội của các nhóm chính thức, niềm tin, sự phụ thuộc

lẫn nhau.

- Vốn tự nhiên: Chính là các loại tài nguyên tự nhiên, gồm có đất đai.

- Vốn con người: Là nhân tố quan trọng. Loại vốn này là các kỹ năng,

kiến thức, sức khỏe, năng lực lao động, giúp con người đạt được mục

tiêu sinh kế.

Như vậy, Khung sinh kế bền vững là một cách phân tích toàn diện về phát

triển và giảm nghèo. Nó giúp chúng ta phân tích và giải thích được cách thức con

người sử dụng các loại vốn mình có để kiếm sống. Vận dụng Khung sinh kế bền

vững vào nghiên cứu của mình, tôi muốn giải thích sự biến đổi sinh kế của cộng

đồng người Hmông ở xã Bản Lầu khi đổi mới đến nay.

1.3. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để thực hiện nghiên cứu này, tôi phân tích các nguồn tài liệu thành văn

và thu thập thông tin trên thực địa bằng các phương pháp trong điền dã dân

tộc học như:

- Quan sát tham gia: đây là phương pháp tiêu biểu trong Nhân học

được thực hiện trên thực địa, kết hợp với ghi âm, chụp ảnh nhằm thu thập tài

liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu. Tôi sử dụng phương pháp này để tiến

hành quan sát mô hình địa hình về hoạt động sinh kế ở các thôn trong xã,

nhằm thu thập thông tin cho việc phân tích hoạt động sinh kế của người

Hmông ở đây.

- Phỏng vấn sâu cá nhân nhằm thu thập thông tin định tính, có chiều

sâu và đa dạng. Trong đó, sử dụng các phương pháp như:

+ Phương pháp cấu trúc hóa rất thấp và đơn vị cá thể: Lịch sử cuộc đời

(life history)

Dùng phương pháp này với đối tượng là người cao tuổi trong thôn, bản.

Sử dụng phương pháp này để thu thập thông tin về các loại hình sinh kế trong

10

truyền thống, đồng thời phác họa được môi trường sống, tình hình kinh tế,xã

hội,… của khu vực trước kia, thời kì còn ít tư liệu đề cập đến.

Phương pháp này sẽ cho chúng ta cái nhìn về một thời điểm có thể có ít

tư liệu, nhất là ở những nhóm tộc người Hmông ở địa bàn này, tương đối ít

được nghiên cứu thông qua những câu chuyện kể về cuộc đời của họ.

+ Phương pháp phỏng vấn cấu trúc

Sử dụng phương pháp này để thu thập thông tin về các biến đổi sinh kế

hiện nay ở người Hmông như tìm hiểu các hình thức sinh kế mới, sự chuyển

đổi sinh kế truyền thống.

- Phỏng vấn nhóm

Sử dụng phương pháp này để thu thập thông tin về các yếu tố tác động

đến biến đổi sinh kế, và xã hội của người Hmông ở đây. Đồng thời, phương

pháp này sẽ giúp kiểm tra chéo các thông tin giữa các đối tượng được phỏng

vấn.

Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như: Phương

pháp hệ thống, phương pháp chuyên gia, phương pháp so sánh…

1.4. Về địa bàn nghiên cứu - xã Bản Lầu

Địa lý tự nhiên

a. Vị trí địa lý:

Xã Bản Lầu là một xã biên giới cách trung tâm huyện 30 km về phía Tây

Nam, cách Thành phố Lào Cai 20 km về phía Đông Bắc.

+ Phía Đông giáp xã Bản Xen, huyện Mường Khương.

+ Phía Tây giáp nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa

+ Phía Bắc giáp xã Lùng Vai, huyện Mường Khương

+ Phía Nam giáp xã Bản Cầm và Bản Phiệt, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai.

b. Địa hình:

Bản Lầu là xã biên giới, vùng thấp của huyện Mường Khương, có diện tích

tự nhiên là 5.711 ha, bằng 10,27% tổng diện tích đất tự nhiên của huyện Mường

Khương. Nằm trên đường biên giới quốc gia dài 13,5 km, xã Bản Lầu có điều kiện

thuận lợi để phát triển giao lưu thương mại, trao đổi kinh tế, văn hóa ở trong tỉnh và

11

với Trung Quốc. Nằm trong hệ thống cao nguyên cổ Bắc Hà thuộc dãy Tây Côn

Lĩnh, nên Bản Lầu có địa hình khá phức tạp và chia cắt.Độ cao trung bình so với

mặt nước biển từ 400- 500m.Là vùng núi đá vôi phong hoá, hiện tượng Castơ hoạt

động khá mạnh tạo nên nhiều suối ngầm.Điều kiện địa hình cũng gây nhiều khó

khăn cho việc tổ chức sản xuất, sắp xếp dân cư, giao lưu phát triển kinh tế, xã hội và

công tác quản lý.

c. Khí hậu thủy văn

Bản Lầu thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có tính chất khí hậu lục

địa.Một năm có 4 mùa nhưng ranh giới không rõ rệt, mùa hè và mùa đông kéo dài. Nhiệt độ trung bình từ 24-270C, thấp nhất 150c, rét đậm vào tháng 12 và tháng 1

năm sau, nắng nóng vào tháng 5 tháng 6, tháng 7, đôi khi xuất hiện sương muối vào

tháng 10, 11, 12, mùa mưa thường có gió lốc. Hướng gió chính là Đông

Nam.Lượng mưa trung bình 1.500 mm. Mưa nhiều tập trung vào tháng 5, 6, 7, độ

ẩm trung bình 70-72% [25, tr.3].

Bảng 1.1: Nhiệt độ, lƣợng mƣa, ẩm độ không khí trung bình

năm 2013 của xã Bản Lầu

Tháng Nhiệt độ (0C) Lƣợng mƣa (mm) Ẩm độ không khí (%)

18,50 1. 38,20 87,00

15,26 2. 53,50 88,00

24,97 3. 49,00 86,00

28,10 4. 165,00 85,00

31,77 5. 257,50 70,00

32,23 6. 309,50 65,00

32,97 7. 362,00 60,00

31,65 8. 484,00 50,00

30,73 9. 385,50 60,00

29,74 10. 316,50 64,00

26,13 11. 140,50 62,00

22,32 12. 25,50 63,00

Trung bình

27,03 215,56 70,00

Nguồn: UBND xã Bản Lầu năm 2013, [25].

12

Trên địa bàn xã Bản Lầu có hai con suối lớn là suối Na Nhung và suối Na

Lốc bắt nguồn từ xã Nậm Chảy và khu vực Cao Sơn, lưu lượng nước của các suối

chính khá ổn định kết hợp với các khe suối nhỏ tạo nên mạng lưới thuỷ văn khá

dày, phục vụ tốt cho sản xuất và sinh hoạt. Ngoài ra,nguồn nước này còn là tiềm

năng lớn cho việc phát triển hệ thống thuỷ điện vừa và nhỏ trên địa bàn xã.

d. Tài nguyên thiên nhiên:

- Tài nguyên đất:

Tổng diện tích đất tự nhiên của xã Bản Lầu là 5.711,0 ha, bằng 10,27% tổng

diện tích đất tự nhiên của huyện Mường Khương. Trong đó diện tích đất sản xuất

nông nghiệp 3.635,42ha chiếm 69,35% diện tích đất nông nghiệp.

Theo kết quả khảo sát, nghiên cứu của Viện thổ nhưỡng nông hoá, địa bàn

của xã gồm 05 nhóm đất chính sau:

 Nhóm đất Feralit vàng đỏ trên đá sét và đá biến chất trên núi trung bình từ

700 - 1200m.

 Nhóm đất Feralit vàng đỏ trên đá sét và đá biến chất trên núi thấp từ 300 -

700m.

 Nhóm đất Feralit vàng đỏ trên đá sét và đá biến chất vùng đồi từ 250 - 300m.

 Nhóm đất nâu đỏ trên đá vôi.

 Nhóm đất thung lũng do sản phẩm dốc tụ.

Đất đai có độ dày tầng canh tác >50cm chiếm 72%, độ dày tầng canh tác

<50cm chiếm 28%. Độ phì đất cấp 1 & 2 (tốt và rất tốt) chiếm đến 85,6% tập trung

ở vùng đồi và vùng thung lũng, độ phì cấp 3 (trung bình) chiếm 11,9% chủ yếu ở

vùng núi thấp, độ phì cấp 4 (xấu) chỉ chiếm 2,5% ở khu vực núi cao, độ dốc lớn [25,

tr.6]

Điều kiện về thổ nhưỡng có nhiều thuận lợi cho phát triển sản xuất nông, lâm

nghiệp như: trồng cây lương thực (lúa, ngô) và đặc biệt là những cây trồng có hiệu

quả kinh tế cao như dứa, chuối, chè, cao su, v.v.

Và để thấy rõ hơn Bảng 2.2 dưới đây sẽ cho chúng ta thấy rõ hơn về tình

13

hình sử dụng và phân bổ đất đai của xã Bản Lầu giai đoạn 2011-2013.

Bảng 1.2: Tình hình phân bổ và sử dụng đất đai của xã Bản Lầu giai

đoạn 2011 – 2013

Chỉ tiêu

Năm 2012 Năm 2013

Tổng diện tích tự nhiên

Năm 2011 DT(ha) CC(%) DT(ha) CC(%) DT(ha) CC(%) 5.711

5.711

5.711

100

100

100

1. Đất nông nghiệp

5.493,41 96,19

5.402,03 94,59

5.242,13 91,79

1.1.Đất sản xuất nông nghiệp

3.843,74 69,97

3.761,44 69,63

3.635,42 69,35

1.1.1. Đất trồng cây hàng năm 629,55

16,38

624,78

16,61

621,00

17,08

1.1.2. Đất trồng cây lâu năm

3.214,19 53,59

3.136,66 53,02

3.014,42 52,27

Đất trồng chuối

180,00

3,15

200,00

3,50

260,00

4,55

Đất trồng dứa

700,00

12,26

720,00

12,61

750,00

13,13

1.2. Đất lâm nghiệp

1.171,74 21,33

1.149,01 21,27

1.014,00 19,34

1.3. Đất nuôi trồng thủy sản

19,00

0,35

22,40

0,41

27,00

0,52

1.4. Đất nông nghiệp khác

249,63

4,54

176,94

3,28

135,25

2,58

2. Đất phi nông nghiệp

409,48

7,17

436,89

7,65

453,45

7,94

2.1. Đất thổ cư

144,49

2,53

147,34

2,58

161,05

2,82

2.2. Đất chuyên dùng

222,73

3,90

222,73

3,90

222,73

3,90

2.3. Đất phi nông nghiệp khác 42,26

0,74

66,82

1,17

69,67

1,22

3. Đất chưa sử dụng

23,99

0,42

15,99

0,28

15,42

0,27 0,27

Nguồn: UBND xã Bản Lầu 2013, [25].

- Tài nguyên rừng:

Xã Bản Lầu có tài nguyên rừng khá phong phú, là nơi lưu giữ và bảo tồn

nhiều nguồn gen quý của các loài động, thực vật cận và á nhiệt đới.Diện tích đất có

khả năng phát triển rừng của xã khá lớn là một tiềm năng cho phát triển lâm nghiệp,

tuy nhiên độ che phủ rừng của toàn xã còn thấp chỉ đạt >32%.

 Tổng diện tích rừng khoanh nuôi bảo vệ hiện có: 914ha

 Diện tích rừng trồng mới: 31ha

 Diện tích rừng khoanh nuôi tái sinh: 50ha

Xã thường xuyên tuyên truyền cho các thôn không phá rừng làm nương trái

phép, phòng chống cháy rừng vào mùa khô hanh, đã giao khoán 914 ha rừng đầu

14

nguồn cho 10 thôn tham gia bảo vệ. Trong năm vẫn xảy ra một số vụ phát rừng làm

nương trái phép, như ở các thôn Na Mạ, Đồi Gianh, Pạc Bo đã được UBND xã phối

hợp với lượng lượng kiểm lâm xử lý kiên quyết và thông báo rộng rãi trên hệ thống

loa truyền thanh của xã.

- Tài nguyên khoáng sản:

Tài nguyên khoáng sản của xã có mỏ sắt Na Lốc có trữ lượng vừa, hiện đang

được khai thác tận thu, trữ lượng đá xây dựng khá lớn đã được quy hoạch trong

vùng trọng điểm khai thác đá xây dựng của tỉnh.

Điều kiện tự nhiên của xã Bản Lầu cơ bản thuận lợi cho việc đẩy mạnh phát triển

sản xuất nông, lâm nghiệp tập trung theo hướng sản xuất hàng hoá, thuận lợi cho việc

hình thành các vùng sản xuất lớn đối với các loại cây trồng có giá trị kinh tế.

Tình hình kinh tế xã hội

a. Kinh tế:

Trong những năm qua, xã Bản Lầu đã tập trung triển khai tổ chức

thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ và các chỉ tiêu của kế hoạch phát triển kinh

tế - xã hội mà UBND huyện và Đảng bộ xã đề ra. Đến nay đã đạt được một số

kết quả, kinh tế tiếp tục có bước phát triển khá.

Phải khẳng định rằng, kinh tế xã Bản Lầu hiện nay đã có nhiều chuyển biến

tích cực, từ một xã thuần nông, kinh tế dựa hoàn toàn chủ yếu vào nông nghiệp, thì

chỉ sau hơn chục năm đã có sự thay đổi rõ rệt. Để thấy được điều đó, Bảng 2.3 dưới

đây sẽ cho chúng ta thấy rõ hơn về cơ cấu kinh tế của xã Bản Lầu được thống kê

trong năm 2013.

Bảng 1.3.Cơ cấu kinh tế của xã Bản Lầu năm 2013

Thành phần

Nông nghiệp

Công nghiệp, tiểu thủ công

Thƣơng mại, dịch

nghiệp,

vụ, du lịch

làng nghề, xây dựng

Tỷ lệ 56,4% 33,4% 10,2%

Nguồn: UBND xã Bản Lầu 2013, [25].

Từ những số liệu trên, có thể nhận thấy hoạt động nông nghiệp vẫn là hoạt

15

động kinh tế chủ yếu, chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu kinh tế của xã (56,4%). Tuy

nhiên, các hoạt động phi nông nghiệp cũng đã bắt đầu xuất hiện và chiếm một tỷ lệ

không nhỏ. Trong đó công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề, xây dựng chiếm

33,4%, thương mại, dịch vụ, du lịch chiếm 10,2%.

Từ sự biến đổi tích cực về cơ cấu kinh tế đó, đã nâng mức thu nhập bình quân của

người dân trong xã lên 75,8% so với mức bình quân chung của tỉnh, và giảm tỷ lệ

hộ nghèo của xã xuống còn 13,65% trong năm 2013 [25, tr9].

b. Xã hội

Về giáo dục và đào tạo

Xã Bản Lầu đã chỉ đạo tốt công tác dạy và học, đảm bảo duy trì số lớp, chỉ

đạo thực hiện đổi mới phương thức dạy và học. Cụ thể,xã đã hoàn thành mục tiêu

phổ cập giáo dục THCS năm 2004 đến nay tiếp tục được duy trì với tỷ lệ 81.1%. Tỷ

lệ học sinh tốt nghiệp THCS được tiếp tục học THPT, học nghề đạt 73.9%.Quy mô

trường lớp tiếp tục được củng cố và phát triển hợp lý đáp ứng được nhu cầu học tập

của con em các dân tộc trong toàn xã. Được thể hiện qua bảng 2.4 dưới đây :

Bảng 1.4. Quy mô trƣờng lớp ở xã Bản Lầu giai đoạn 2010-2011

Mầm non 2 22 Tiểu học 2 47 THCS 2 31 THPT 1 45

Trường Số lớp Số cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên (người)

Nguồn: UBND xã Bản Lầu 2013, [25].

Từ bảng số liệu trên, có thể thấy,tính đến năm học 2010-2011 toàn xã có 07

trường (Mầm non 02 trường, Tiểu học 02 trường và THCS 02 trường và THPT 02

trường) với tổng số 70 lớp = 1.654 học sinh với 145 cán bộ quản lý giáo viên và

nhân viên.Trong đó: mầm non 22 người, tiểu học 47 người, trung học cơ sở 31

người, trung học phổ thông 45 người. Số cán bộ quản lý, giáo viên có trình độ

chuẩn trở lên đạt 100%.

Đến nay, về vấn đề cơ sở vật chất trong giáo dục và đào tạo ở xã Bản Lầu

vẫn tiếp tục được quan tâm đầu tư từ nhiều chương trình của Đảng và Nhà

nước.Hiện tại, xã đã có 01 trường Tiểu học được công nhận trường đạt chuẩn Quốc

16

gia và đang cố gắng phấn đấu thêm nhiều trường được công nhận danh hiệu này

trong những năm sắp tới. Nhìn chung, về cơ bản giáo dục và đào tạo của xã Bản

Lầu đã đáp ứng được nhu cầu tối thiểu cho việc dạy và học của con em trong xã,

bên cạnh đó cũng không ngừng nâng cao cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ giảng dạy

để nâng cao chất lượng dạy và học hơn nữa.

Về y tế:

Bản Lầu hiện có 01 trạm y tế đạt chuẩn, đội ngũ cán bộ y tế tại trạm xá xã ở

thời điểm hiện tại có 07 người, trong đó có 02 bác sỹ, 01 hộ sinh, 01 cán bộ điều

dưỡng và 03 y tá. Hệ thống y tế xã đã nắm bắt được tương đối tình hình bệnh tật của

người dân trong xã, thực hiện tốt các chương trình Y tế quốc gia như tiêm chủng

vắc xin cho các đối tượng đảm bảo quy định của Bộ Y tế, bước đầu đã đáp ứng

được nhu cầu chăm sóc sức khỏe tại chỗ cho người dân tại địa bàn.

Về giao thông:

Với sự giúp đỡ của Đảng và Nhà nước, hiện tại toàn xã có 85,3 km hệ thống

đường giao thông, trong đó đường trục xã là 15 km được dải nhựa đường. Bên cạnh

đó, hàng năm, nhân dân ở các thôn trong xã lại đóng góp, tu sửacác tuyến đường

liên thôn trong xã.Nhờ có các tuyến đường giao thông được đầu tư, xây dựng, mà

việc đi lại, giao lưu buôn bán của người dân trở nên thuận lợi và dễ dàng hơn. Đó

cũng là một phần lý do thúc đẩy sự phát triển kinh tế tại địa bàn xã Bản Lầu như

hiện nay. Tuy nhiên, một số trục đường chính đang bị hỏng và có dấu hiệu xuống

cấp trầm trọng do các xe quá tải thường xuyên vận chuyển hàng hóa lên cửa khẩu

trên huyện, phải đi qua tuyến đường của xã Bản Lầu. Điều đó, gây rất nhiều khó

khăn, trở ngại cho cuộc sống, cũng như đi lại của người dân.

Về thuỷ lợi:

Theo số liệu thống kê của UBND xã Bản Lầu năm 2013, số hồ chứa, đập

thuỷ lợi hiện có của xã là 8 hồ thuỷ lợi, với tổng diện tích 13ha, số hồ cần nâng cấp

8 hồ (xây dựng 8 đập dâng dài 420m, 8 cống ngầm và 8 cống tràn). Trên địa bàn

toàn xã có 22 đập, tổng chiều dài 464m, số đập cần nâng cấp là 9 đập, tổng chiều

dài 207m. Tổng chiều dài kênh thủy lợi của xã hiện có 30,37 km, trong đó đã kiên

cố 12,37 km (đạt 40,73%), số km kênh cần nâng cấp là 18,0 km.

17

Từ đó có thể thấy Bản Lầu có hệ thống thủy lợi các hồ chứa và đập khá là

phong phú, dồi dào nước, điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho sinh hoạt cũng như

sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi gia súc. Cần mở rộng và nâng cấp các kênh thủy

lợi để nâng cao hơn nữa hiệu quả sản xuất của nông dân.

Ngoài ra, trên địa bàn xã còn có 1 điểm bưu điện, và 1 trạm phát thanh truyền hình

có thể liên lạc, trao đổi thông tin sách báo, công văn của thôn xã. Hiện nay, toàn xã

Bản Lầu cũng được phủ sóng điện thoại và có điện lưới quốc gia. Cụ thể: Số trạm

biếp áp gồm có 8 trạm, trong đó có 6 trạm đạt yêu cầu và 2 trạmcần nâng cấp thêm.

Số km đường dây hạ thế: 28,09 km, trong đó có 28,09 km đã đạt chuẩn. Tỷ lệ hộ

dùng điện toàn xã hiện nay là 84,77%.

Bên cạnh đó, xã Bản Lầu hiện có01 nhà văn hoá đa năng và 21 nhà văn hoá thôn bản, 01 chợ trung tâm xã, diện tích 1.095 m2. Các điểm dịch vụ gồm: 01 cửa

hàng dược, 01 cửa hàng xăng dầu, 01 cửa hàng thương nghiệp, 01 cửa hàng vật tư

nông nghiệp.

Nhìn chung, cơ sở vật chất, hạ tầng của xã Bản Lầu đang ngày càng được

đầu tư xây dựng, mở rộng và phát triển, điều đó có ý nghĩa rất lớn trong việc thúc

đẩy phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân trong xã nói

chung, và người Hmông ở các thôn bản xa trung tâm nói riêng.

Về vấn đề nước sạch và môi trường

Tỷ lệ số hộ sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh trong toàn xã đạt tới 78,9%,

một con số khá cao so với nhiều cộng đồng ở khu vực miền núi vùng cao. Tuy

nhiên, tỷ lệ hộ có cơ sở chăn nuôi hợp vệ sinh chỉ đạt 14,9 %. Đặc biệt, tỷ lệ hộ có

đủ 03 công trình (nhà tắm, nhà vệ sinh, bể nước) đạt chuẩn là 28,1% . Trong toàn xã

chưa có dịch vụ vệ sinh môi trường, thu gom và xử lý rác thải tập trung.

Có thể nói, với đặc thù là một xã miền núi, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã

hội nhiều khó khăn, có những tác động không tốt đến môi trường. Xem xét về tổng

thể, vấn đề về môi trường miền núi chịu sự tác động theo hệ thống, bất kỳ sự hạn

chế nào của hệ thống dân sinh, kinh tế, xã hội như nghèo đói, trình độ dân trí thấp,

nền sản xuất lạc hậu, tình trạng phá rừng trong thời gian dài trước đây và tình trạng

xói mòn, rửa trôi đất đai, tập quán sinh hoạt lạc hậu... đều có tác động xấu đến môi

18

trường. Vì vậy, tình hình chung về môi trường trên địa bàn xã Bản Lầu trong những

năm gần đây đã có những biến đổi và biểu hiện suy thoái, đặc biệt là việc suy giảm

đa dạng sinh hoạt và môi trường khu dân cư nông thôn.

Thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy và Ủy ban nhân dân huyện Mường Khương

về phát triển kinh tế - xã hội bền vững kết hợp với bảo vệ môi trường, trong những

năm qua, chính quyền xã chú trọng công tác tuyên truyền giáo dục để nâng cao

nhận thức của đông đảo cán bộ, nhân dân các dân tộc trong xã về bảo vệ môi

trường, đẩy mạnh việc phát triển diện tích rừng phủ xanh đất trống đồi núi trọc,

khuyến khích phát triển, nhân rộng các mô hình sản xuất nông, lâm nghiệp kết hợp,

bền vững. Đặc biệt, việc xây dựng và phát triển các mô hình làng bản, cộng đồng

dân cư văn hoá thân thiện với môi trường, đẩy mạnh phát triển văn hoá, xã hội theo

hướng bảo tồn, phát huy bản sắc văn hoá tốt đẹp, nâng cao chất lượng công tác

chăm sóc sức khoẻ nhân dân, nêu gương những điển hình tiên tiến nhằm từng bước

hình thành ý thức tích cực cho nhân dân về bảo vệ môi trường.

Dân cư, dân tộc

Bản Lầu là một xã có địa bàn rộng với tổng số 21 thôn gồm: Cốc Chứ, Làng

Ha, Lùng Cẩu, Na Nhung 1, Na Nhung 2, Na Lin, Bổ Quý, Trung Tâm, Na Pao,

Lùng Tao, Thủ Lùng, Na Mạ 1, Na Mạ 2, Đồi Gianh, Pạc Bo, Na Lốc 1, Na Lốc 2,

Na Lốc 3, Na Lốc 4, Cốc Phương. Trong tổng số 21 thôn này thì có 7 thôn nằm trên

đường biên giới với Trung Quốc.

Về dân số, theo số liệu thống kê của Ủy ban nhân dân xã thì toàn xã hiện có

1.040 hộ với 6.140 khẩu, trong đó có 1.110 lao động nam và 1.166 lao động nữ.

Trong những năm 2011 - 2013 tổng nhân khẩu của xã tăng 3,14% và số hộ tăng

8,04% chủ yếu do tách hộ, sinh mới và nhập cư. Tỷ lệ gia tăng dân số ở mức tương

đối cao năm 2012-2011 là 2,98%, năm 2013-2012 là 3,3%. Lao động nông nghiệp

chiếm 74,8%; 25,2% còn lại là lao động dịch vụ và các ngành nghề khác [25, tr.15].

Về thành phần dân tộc, thống kê của chính quyền địa phương cho thấy hiện

19

toàn xã có tổng số 11 dân tộc với tỷ lệ dân số được thể hiện trong bảng sau.

Bảng 1.5.Thống kê thành phần dân tộc của xã Bản Lầu năm 2013.

TT Dân tộc Tỷ lệ % dân cư

trong xã

1) Hmông 32

2) Kinh 27

3) Giáy 16

4) Nùng 13

5) Dao 10

6) Các dân tộc khác: Phù Lá, Mường, Thái

2

Nguồn: UBND xã Bản Lầu 2013, [25].

Phản ánh đặc điểm chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, các tộc

người ở Bản lầu sống đan xen với nhau trong các làng bản tạo nên một sự đa dạng

về ngành nghề sản xuất và phân công lao động. Trong lịch sử quá trình xây dựng ở

khu vực này, các dân tộc cư trú ở đây dườn như không có mâu thuẫn tộc người,

không có xung đột trong việc tiếp cận với các nguồn lực đất đai và tài nguyên rừng,

tất cả những điều này tạo nên một cộng đồng có mối quan hệ dân tộc tốt đẹp giữa

các dân tộc cư trú trên địa bàn xã.

Một số nét chính về người Hmông ở xã Bản Lầu

Về dân số, theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Hmông ở

Việt Nam có dân số 1.068.189 người, đứng hàng thứ 8 trong bảng danh sách các

dân tộc ở Việt Nam, cư trú tại 62 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố [20, tr.35].Trong

đó, Lào Cai có 146.147 người, chiếm 23,8% dân số toàn tỉnh và 13,7% tổng số

người Hmông tại Việt Nam [20, tr.37]. Địa bàn cư trú, tại địa bàn xã Bản Lầu, như

tôi đã trình bày ở phần trên, dân tộc Hmông chiếm 32% tổng dân số toàn xã và cư

trú chủ yếu ở 5 thôn Na Lốc 1, Na Lốc 2, Na Lốc 3, Na Lốc 4, Cốc Phương.

Thành phần tộc người, thì dân tộc Hmông ở Lào Cai có bốn ngành chính, phân bố ở

các địa bàn cụ thể như sau[15, tr.9-10]:

- Hmông Hoa (Hmông Lềnh) là ngành có số dân đông nhất, chiếm tới

20

70% số người Hmông ở Lào Cai, họ cư trú ở 8 huyện nhưng chủ yếu

tập trung ở huyện Bắc Hà,Mường Khương, Sa pa, Bảo Thắng, Bảo

Yên.

- Hmông Đen (Hmông Đú) cư trú rải rác tại Bát Xát, Sa pa.

- Hmông Xanh (Hmông Chúa) cư trú tập trung tại xã Nậm Xé huyện

Văn Bàn.

- Hmông Trắng (Hmông Đư) ở Bắc Hà, Bát Xát, Văn Bàn, Sa pa, Si

Ma Cai. Tuy phân biệt thành bốn ngành Hmông khác nhau nhưng trừ

ngành Hmông Xanh (Hmông Chúa) ở Văn Bàn còn có 3 ngành

Hmông Hoa, Hmông Trắng, Hmông Đen về ngôn ngữ văn hóa cơ bản

giống nhau, sự khác nhau giữa cá nhóm chủ yếu là dựa trên trang

phục phụ nữ. Trong ngôn ngữ hơn 93% từ vị cách phát âm của các

nhóm Hmông là giống nhau.

Nguồn gốc, tài liệu nghiên cứu cho thấy người Hmông di cư đến Lào Cai từ

cách ngày nay khoảng hơn hai trăm năm. Người Hmông được cho là từ Quý Châu

di cư đến Vân Nam và từ Vân Nam vào Lào Cai trong nhiều đợt khác nhau. Ở thời

kỳ cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, người Hmông ở Quý Châu (Trung Quốc)

liên tiếp nổi dậy khởi nghĩa chống sự cai trị hà khắc của phong kiến nhà Thanh.

Cuộc khởi nghĩa bị dìm trong biển máu, người Hmông buộc phải di cư xuống Vân

Nam, Việt Nam. Đợt di cư đầu tiên vào Lào Cai gồm 80 gia đình (họ Vàng, Lù,

Chấn, Sùng, Hoàng, Vũ...). Các dòng họ này di cư đến San Khô - Sủ động mù vẩn

(động Ngọc Uyển, châu Thủy Vĩ) nay là vùng huyện Si Ma Cai. Thủ lĩnh dẫn đầu

đoàn di cư người Hmông đến Lào Cai là ông Hoàng Sín Dần, một tộc trưởng có uy

tín, giỏi võ nghệ. Họ sinh sống ở Si Ma Cai được ba đời thì có 30 gia đình lại tiếp

tục di cư sang Sa Pa, đoàn di cư do ông Lý Thành Pùa dẫn đầu Từ năm 1840 đến

năm 1869, người Hmông ở Quý Châu, Vân Nam, Quảng Tây (Trung Quốc) lại kiên

cường nổi dậy tham gia phong trào “Thái Bình thiên quốc” chống nhà Mãn Thanh.

Cuộc khởi nghĩa thất bại, phong kiến nhà Mãn Thanh đàn áp dã man, hơn một vạn

người Hmông ồ ạt di cư sang Việt Nam.

Người Hmông di cư đến địa bàn tỉnh Lào Cai chia làm ba đoàn: một đoàn do

21

ông Sèo Cô Phìn dẫn đầu đến Pha Long, Mường Khương, một đoàn do ông Lùng

Chung chỉ huy di cư sang Bản Lầu, một đoàn do thủ lĩnh họ Hoàng dẫn đầu tiếp tục

đến Si Ma Cai. Sau khi định cư một thời gian, người Hmông từ Mù Vẳn (Bắc Hà)

lại di cư sang miền Tây theo đường từ Bắc Hà đi Phố Lu vượt sông Hồng sang

Mường Bo đến Thanh Phú, Lao Chải (Sa Pa). Một đoàn di dư khác do dòng họ Mã,

họ Vàng dẫn đầu từ Pha Long xuống Cốc Lếu, Lào Cai lên Trung Chải, San Sả Hồ

(Sa Pa). Một đoàn khác từ Bắc Hà xuống Phố Lu lên Sa Pa đi sang Than Uyên, tới

Mù Căng Chải và vào Văn Bàn. Trong đoàn đi lần này có một nhóm Hmông Xanh

sau định cư tại Nậm Xé, huyện Văn Bàn. Đợt thiên di lần thứ ba vào cuối thế kỷ 19

và rải rác đến những năm đầu thế kỷ 20, địa bàn tập trung ở các huyện Bát Xát, Bảo

Thắng, Bảo Yên, Than Uyên. Người Hmông dù đến cư trú ở Lào Cai sớm hay muộn

đều coi Lào Cai là quê hương, Việt Nam là Tổ Quốc mình[15, tr.25].

Người Hmông ở Lào Cai thường cư trú ở những sườn núi sơn nguyên có độ

cao trung bình từ 700 - 1800m. Địa hình người Hmông cư trú chủ yếu là hai dãy núi

cổ chạy song song với nhau theo hướng tây bắc - đông nam , dãy núi Con Voi ở

phía đông và dãy núi Hoàng Liên ở phía tây.

Dãy Hoàng Liên Sơn có các đỉnh cao: Phan Xi Păng (3143m), Tả Giành

Phình (3090m), Phu Luông (2983m) và các bề mặt san bằng cổ nằm ở các bậc độ

cao khác nhau (1350m, 1450m, 1700m...). Dãy Hoàng Liên là vùng núi đồ sộ có

nhiều đèo hiển trở như đèo Ô Quý Hồ, Khau Co... ở miền đông, người Hmông cư

trú tập trung ở sơn nguyên cổ Bắc Hà, Si Ma Cai, Mường Khương thuộc khối vòm

nhô sông Chảy nằm ở phía đông bắc dãy núi Con Voi. Đó là các khối sơn nguyên

phân bậc không rõ ràng và phân bố, phân tán thành những khối nhỏ xen kẹp với các

khối núi sót.

Trên bề mặt sơn nguyên bị cắt xẻ bởi hệ thống máng trũng có cả dạng đồi,

đỉnh bằng nhiều lũng khô và các lòng chảo cổ Khu vực người Hmông Lào Cai cư

trú thuộc khối nâng kiến tạo mạnh có mức độ chia cắt sâu từ lớn đến rất lớn, bao

gồm các cấp từ 120m - 530m/km2 (vùng Bản Phiệt, Phong Hải, Bảo Thắng), từ 200

- 350m/km2 (Bảo Yên, Bắc Hà, Mường Khương, Văn Bàn) từ 400 - 500m/km2 (Sa

22

Pa, Bát Xát) và cấp độ dưới 500m/km2 tập trung ở dãy núi Hoàng Liên.

Địa hình vùng cao Lào Cai còn có độ chia cắt ngang từ trung bình và rất

mạnh, ở các vùng Sa Pa, Mường Hum độ dốc địa hình khá lớn chủ yếu là độ dốc từ

15- 25 độ, khu vực miền tây bên dãy Hoàng Liên độ dốc đều trên 25 độ, nhiều nơi

tạo thành vách đá dựng đứng. Độ chia cắt ngang siêu mạnh, lớn không chỉ ảnh

hưởng đến vấn đề khai thác, tổ chức sản xuất mà còn gây khó khăn cho việc phát

triển giao thông, đẩy mạnh sự giao lưu văn hóa. Người Hmông cư trú ở vùng cao

địa hình phức tạp. Trước môi trường lớn không thuận lợi, người Hmông đã xây

dựng một hệ thống ứng xử riêng với môi trường, tạo ra những nét đặc trưng cả trong

văn hóa vật chất và tinh thần.

Ẩm thực, ăn uống của người Hmông ở Bản Lầu dựa vào nguồn lương thực từ

trồng trọt, chăn nuôi, khai thác các sản vật trong tự nhiên. Người Hmông thường ăn

hai bữa chính trong ngày. Đồng bào chỉ ăn thêm buổi sáng vào những ngày công

việc mùa màng nặng nhọc. Thức ăn chủ yếu của người Hmông là bột ngô đồ, cơm,

rau, đậu xào mỡ và canh. Cơm được xúc ăn bằng thìa. Một bữa ăn thông thường của

đồng bào Hmông gồm một rá cơm, một hai bát canh rau cải hoặc canh đậu răng

ngựa, ngoài món canh, thường có món ớt nướng giã với muối. Một món ăn đặc

trưng của dân tộc Hmông là món “Thắng cố”. Món này là tất cả các loại thịt, xương,

lòng, gan, phổi của một con dê, bò, ngựa.. được chặt thành từng miếng nhỏ rồi đem

nấu chung trong một chảo canh.

Người Hmông xúc thức ăn bằng thìa gỗ, dùng đũa chỉ là phụ. Khi có khách

phụ nữ không được ngồi ăn chung, chủ nhà bao giờ cũng ngồi ở trên, lưng quay vào

bức vách hậu gian giữa. Vào những ngày chợ phiên, đồng bào thường nấu thắng cố,

người H’mông rất thích uống rượu nhất là rượu ngô do họ tự chưng cất.

Nhà ở, nhà ở của người Hmông ở đây chủ yếu là nhà trệt. Để chống gió, khí

hậu lạnh, sương muối vùng cao, nhà của họ thường là nhà thấp, vững chắc, kín đáo.

Nhà chủ yếu dược dựng trên các triền núi, phía trước có suối, phía sau là núi che

chở, xung quanh có thể trồng trọt và chăn nuôi gia súc.

Cấu trúc nhà thường có ba gian hai chái, cửa chính mở ở gian giữa, cửa phụ

mở ở hai gian bên hoặc đầu hồi nhà. Xung quanh nhà thưng ván, vách nứa, hoặc

23

trình tường, mái lợp ván xẻ hoặc cỏ gianh. Nhà giàu thường làm khá rộng, cột gỗ kê

đá tảng đẽo hình đèn lồng hoặc quả bí, vừa tạo sự vững chắc, không sụt lún,

nghiêng lệch, vừa không bị mủn, mọt do ẩm ướt. Gian giữa là nơi thờ tổ tiên và để

dụng cụ sản xuất. Tùy từng dòng họ mà bếp lò và buồng chủ nhà được đặt bên trái

hay bên phải nhưng bao giờ buồng ngủ của chủ nhà cũng phải đặt cạnh “ cột ma”

(cu ndêx đăng)- cột giữa của vỉ kèo thứ hai ngăn gian đầu hồi bên phải hoặc bên trái

giữa. Hai gian bên, một bên là bếp lò và buồng ngủ, một bên là bếp khách, giường

khách và có thể thêm một buồng ngủ, nếu gia đình có nhiều thế hệ cùng chung

sống, phía trên là gác xép, nơi cất trữ lương thực.

Trong thực tế, một số gia đình còn làm kho lương thực bên ngoài nhà. Cửa

chính của ngôi nhà thường được treo một tấm vải đỏ hình chữ nhật, hoặc các tờ giấy

bản có ý nghĩa cầu phúc. Một số nhà còn treo thêm ở trước cửa một chén nước

nguồn tinh khiết bọc vải đỏ được lấy vào ngày mùng một tết Nguyên Đán. Chén

nước này sẽ được thay mới vào tết năm sau với ý nghĩa cầu mong bình yên, mát

lành, phúc lộc đến nhà đầy đặn như chén nước ấy. Phía trước nhà là chuồng trâu,

lợn, gà, ngựa, tổ ong nuôi và có kho để lương thực.

Trang phục, bộ trang phục nữ gồm có y phục (khăn, áo, thắt lưng, xà cạp,

quần) và đồ trang sức. Trong đó, gồm váy, áo xẻ ngực có yếm lưng, tấm vải che váy

phía trước, thắt lưng và vải vuông nhỏ che đằng sau lưng, khăn quấn đầu, xà cạp.

Váy hình nón cụt, xếp xèo rộng, khi di chuyển đu đưa như sóng lượn. Váy Hmông

Trắng làm bằng vải lanh, váy Hmông Hoa có thêu hoặc in hoa văn ở gấu tay. Váy

Hmông Xanh may bằng vải lanh ở sát gấu váy thêu hoa văn hình chữ thật hoặc hình

vuông. Váy Hmông Đen lại ngắn hơn tuy cùng kiểu dáng với các nhóm khác.

Áo của phụ nữ Hmông Trắng xẻ ngực có thêu hoa văn ở cánh tay và yếm

lưng, áo của phụ nữ Hmông Hoa xẻ nách, trên vai và ngực có nẹp vải màu, thêu hoa

văn con ốc. Áo phụ nữ Hmông Xanh mở chếch ngực, xẻ thẳng về bên trái, cài bằng

một cái cúc, nẹp đắp thêm những miếng vải màu nhỏ. Quần của phụ nữ mông là

quần lửng qua gối, bắp chân quấn xà cạp bằng màu chàm.

Đồ trang sức của phụ nữ khá phong phú, trong đó bao gồm: vòng khuyên tai

to và vòng cổ, ngày thường thì đeo loại đơn, ngày lễ thì đeo loại kép có nhiều vòng

24

biểu hiện của sự giàu có. Ngoài ra còn có vòng tay và xà tích.

Trang phục nam: Mũ bằng vải lanh hình quả dưa gồm tám miếng vải khâu

ghép. Áo trong xẻ nách ngắn, áo ngoài dài. Cổ áo thêu hoa văn móc câu kiểu hoa

văn đơn. Quần được chàm màu đen ống rộng, đũng rộng.

Phương tiện vận chuyển, là cư dân sống trên vùng cao, địa hình hiểm trở,

chia cắt mạnh, có sự đan xen giữa núi đất và núi đá nên giao thông gặp rất nhiều

khó khăn. Người Hmông ở Bản Lầu sử dụng sức người là chính trong giao thông

vận chuyển. Khi lao động sản xuất, vận chuyển lương thực, hàng hóa thiết yếu phục

vụ cuộc sống, đồng bào thường dùng gùi, địu hay mang vác trên vai. Bên cạnh đó

họ còn sử dụng một phương tiện khá phổ biến nữa là thồ bằng ngựa khi cần chuyên

chở những hàng hóa nặng, cồng kềnh với quãng đường xa trên các địa hình phức

tạp. Ngựa là vật nuôi quý, gần gũi và thân thiết với người Hmmông hơn bất cứ con

vật nào khác. Nó còn biểu hiện khả năng kinh tế của cá nhân hay gia đình. Ngày

nay do sự phát triển của kinh tế - xã hội nói chung và sự biến đổi trong đời sống ở

vùng cao nói riêng mà đồng bào Hmông ở Bản Lầu đã và đang sử dụng nhiều

phương tiện cơ giới trong sinh hoạt như xe đạp, xe máy, ô tô...

Tôn giáo - Tín ngưỡng, người Hmông ở Bản Lầu còn bảo lưu rất nhiều tàn

dư tôn giáo nguyên thuỷ như: thờ cúng tổ tiên ma nhà và thờ thần bản mệnh của

cộng đồng “giao”, vật linh giáo, saman giáo, các loại ma thuật…Người Hmông

quan niệm, thế giới thực vật, động vật xung quanh đều có phần xác và phần hồn

(người Hmông gọi là pli). Một khi thực thể bị chết (bị phân huỷ) thì linh hồn lìa

khỏi xác thành ma. Ma thì có ma lành và ma dữ. Ma lành ban phúc, ma dữ giáng

họa. Đối với đồng bào Hmông, con dữ đáng sợ nhất là ma “ Ngũ hải”. Tức là loại

ma người sống có thể hại người và súc vật giống như ma gà, ma kì lân của người

Tày, Nùng. Tôn giáo - tín ngưỡng đã hoà quyện với các lễ thức hội hè tạo nên

những sắc thái, sự phong phú trong đời sống văn hoá tinh thần người Hmông.

Dòng họ, người Hmông rất coi trọng dòng họ, họ quan niệm: người cùng

dòng họ là những người anh em có cùng tổ tiên, có thể đẻ và chết trong nhà nhau,

phải luôn luôn giúp đỡ nhau, cưu mang nhau. Mỗi dòng họ cư trú quây quần thành

một cụm, có một trưởng họ đảm nhiệm công việc chung. Phong tục cấm ngặt những

25

người cùng họ lấy nhau. Tình cảm gắn bó giữa những người trong họ sâu sắc. Đứng

đầu mỗi dòng họ là trưởng tộc, người có đạo đức, uy tín và am hiểu sâu sắc phong

tục tập quán của dòng họ, giàu kinh nghiệm tổ chức sản xuất, gánh vác hướng dẫn

các gia đình khi có ma chay, cưới xin, giải quyết mâu thuẫn xích mích giữa các

thành viên. Người trưởng tộc là người đại diện cho dòng họ giao thiệp với chính

quyền và các dòng họ khác, đồng thời còn là người tổ chức các vụ kiện, đi đòi nợ

máu xưa kia. Có người tộc trưởng do các thành viên dòng họ bầu ra nhưng cũng có

nơi lại do người tộc trưởng cũ tìm chọn và bồi dưỡng. Như vậy, đặc trưng dòng họ

người Hmông là sự thống nhất về tư tưởng, thông qua tín ngưỡng với những điều

kiêng kị lễ nghi riêng của dòng họ, đã tạo nên sự cố kết lâu bền trong quan hệ giữa

các thành viên, còn về mặt xã hội và nhất là kinh tế càng trở nên mờ nhạt.

Hôn nhân, hôn nhân gia đình của người Hmông theo tập quán tự do kén chọn

bạn đời. Những người cùng dòng họ không lấy nhau. Thanh niên nam nữ được lựa

chọn bạn đời. Việc lựa chọn bạn đời được biểu hiện ở tục “cướp vợ” trước đây.

Người thanh niên cùng bạn bè cướp người con gái yêu thích về ở nhà mình vài hôm

rồi thông báo cho gia đình nhà gái biết. Vợ chồng người Hmông rất ít bỏ nhau, họ

sống với nhau hòa thuận, cùng làm ăn, cùng lên nương, xuống chợ...

Gia đình, tổ chức gia đình của người Hmông là gia đình nhỏ phụ hệ (gồm hai

thế hệ bố mẹ và con cái sống với nhau). Đứng đầu gia đình là người đàn ông, người

đó có nghĩa vụ gánh vác công việc gia đình: đi làm nương rẫy, khấn tổ tiên, đón

thầy cúng, thay mặt gia đình tham gia công việc Giao, mà bất cứ phụ nữ nào cũng

không có quyền làm thay, làm hộ. Trong gia đình người Hmông người ta quí trọng

con trai hơn con gái, vì thế gia đình nào có nhiều con trai là niềm kiêu hãnh trong

thôn xóm, bản làng. Nếu trong gia đình có mối bất hoà giữa vợ và chồng, thì con

dâu chỉ được lánh nạn sang hàng xóm, không được phép trở về nhà bố mẹ đẻ. Nếu

con dâu muốn về thăm bố mẹ đẻ phải xin phép nhà chồng và được chồng đưa về tận

nhà mới hợp lệ. Khi vợ chồng li dị, người đàn bà không được trở về sống với bố mẹ

đẻ mà đến ở nhờ nhà chức dịch cho tới khi tái giá. Người đàn bà goá không muốn

lấy em chồng mà lại lấy người khác thì toàn bộ tài sản phải để lại nhà chồng. Trong

gia đình, người con gái tự cho mình là người khách, tự do đi lại và ăn uống không

26

phải kiêng khem như con dâu trong nhà. Phân chia tài sản, con trai được chia đều

nhau, bố mẹ giữ một phần tài sản bằng các con trai, con gái đi lấy chồng được bố

mẹ đẻ chia cho của hồi môn. Nhìn chung, cuộc sống gia đình người Hmông tương

đối hoà thuận, vợ chồng gắn bó với nhau như hình với bóng, khi đi chợ cũng như đi

làm nương rẫy và thăm thân họ hàng bên nội, ngoại, chồng đi trước vợ đi sau.

Trong mối quan hệ gia đình, ông cậu và bà cô có vai trò vô cùng quan trọng.

Văn học- Nghệ thuật, người Hmông có kho tàng văn học dân gian phong phú

với các thể loại như: Truyện ngụ ngôn, truyện cười, dân ca, trường ca(tiếng hát làm

dâu, tiếng hát tình yêu, tiếng hát mồ côi, tiếng hát cưới xin…), ca dao, tục ngữ,

thành ngữ…phản ánh thế giới quan, nhân sinh quan và cuộc sống lao động, tranh

đấu của dân tộc Hmông.

Lễ hội, trong một năm, đồng bào Hmông có hai Tết lớn: Tết năm mới và Tết

27

mồng 5 tháng 5. Tết năm mới ở đây rơi vào khoảng đầu tháng Chạp âm lịch.

Tiểu kết chƣơng 1

Sinh kế và biến đổi sinh kế là một trong những đề tài quan trọng được các

nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.Trong thực tế, như phần tổng quan tài liệu

nghiên cứu của tôi đã phần nào cho thấy một số lượng công trình nghiên cứu đáng

kể về sinh kế của các dân tộc thiểu số ở khu vực miền núi vùng cao ở Việt Nam.Tuy

nhiên, xét riêng về tộc người Hmông, nhất là về một cộng đồng người Hmông cụ

thể ở biên giới Việt - Trung thì vẫn còn là một khoảng trống.

Nghiên cứu này của tôi xem xét biến đổi sinh kế của người Hmông ở xã Bản

Lầu nằm trên biên giới Việt – Trung phần nào sẽ giúp chúng ta thấy rõ sự biến đổi

sinh kế của một cộng đồng vùng biên mậu dịch đã diễn ra như thế nào trong mấy

thập kỳ vừa qua.Để phân tích và giải thích cho sự biến đổi sinh kế của cộng đồng

này, tôi muốn giải thích sự biến đổi sinh kế của cộng đồng người Hmông ở xã Bản

28

Lầu khi đổi mới đến nay.

H.1. Bản đồ hành chính tỉnh Lào Cai

29

Nguồn: Laocai.gov.vn

H.2. Bản đồ hành chính huyện Mƣơng Khƣơng

30

Nguồn: Laocai.gov.vn

H.3. Bản đồ minh họa xã Bản Lầu

31

Nguồn: Phác họa của tác giả

Chƣơng 2

SINH KẾ TRUYỀN THỐNG CỦA NGƢỜI HMÔNG Ở XÃ BẢN LẦU

Sinh kế là các cách thức sản xuất mà con người thực hiện nhằm đảm bảo nhu

cầu cuộc sống.Ở mỗi vùng địa lý tự nhiên khác nhau con người sử dụng các phương

thức mưu sinh khác nhau. Các hoạt động kinh tế này chủ yếu được hình thành trong

lịch sử dưới sự tác động của nhiều yếu tố như môi trường, điều kiện tự nhiên, tài

nguyên thiên nhiên,…nơi mà con người sinh sống. Còn đối với người Hmông ở xã

Bản Lầu hoạt động kinh tế truyền thống là trồng trọt kết hợp với các hoạt động kinh

tế phụ khác như tiểu thủ công nghiệp, săn bắt và hái lượm.

2.1. Trồng trọt

2.1.1. Nương rẫy

Do sự di cư khá muộn của người Hmông vào Việt Nam là một yếu tố khiến

dân tộc này chỉ có sự lựa chọn duy nhất là cư trú trên các dải núi cao, sống gắn bó

với rừng và đất rừng cho dù họ có nguồn gốc là cư dân lúa nước. Hoàn cảnh đó đã

làm cho nông nghiệp nương rẫy trở thành nền tảng kinh tế vô cùng quan trọng của

người Hmông.

Lựa chọn đất canh tác

Khâu chọn đất canh tác được người Hmông đặc biệt chú trọng. Nó quy định

giống cây trồng và năng suất của chúng. Trải qua một thời gian tương đối dài bằng

phương thức du canh du cư, người Hmông ở xã Bản Lầu đã tích luỹ cho mình

những kinh nghiệm trong chọn đất canh tác, trước hết là chọn đất làm nương rẫy.

Lựa chọn đất làm nương rẫy.

Theo người Hmông nương rẫy là một mảnh đất rừng đã được chặt phá, dọn

rồi đốt, được chọc lỗ hoặc xới lên để trồng trọt. Người Hmông gọi đó là Têz. Người

Hmông có quan niệm rất đơn giản về nương, từ lâu đồng bào đã truyền nhau câu:

1 Quan niệm về nương trước kia chủ yếu dựa vào những kinh nghiệm thực tế được đúc rút và truyền từ đời này sang đời khác.

32

“Đất cũng có tên, chỗ nào cũng là đất, lấy dao phát được “một khóm” gọi là nương; chỗ nào cũng là đất, tra một cây xuống được gọi là nương”1. Như vậy

nương trong tầm thức của người Hmông là bất cứ mảnh đất nào dù to dù nhỏ, chỉ

cần trồng nên “một khóm”, tra được “một cây” thì đó chính là nương. Nghĩa là yếu

tố quan trọng của mảnh đất làm nên một nương không phải là vấn đề diện tích mà là

chất đất.

Người Hmông ở xã Bản Lầu cho rằng mảnh đất cho năng suất tốt nhất là

mảnh đất ở thung lũng (á cư ha) nơi có rừng già, đất có màu đen, tơi xốp, độ ẩm

cao, có lẫn nhiều đá nhỏ màu đen, có lớp đất đen dầy từ 20 - 30cm là đất rất tốt. Ở

mảnh đất này có các cây to, già, có nhiều cành mục mọc các cây như cây gạo, cây

vông hoặc là rừng mọc nhiều tre, nứa, chuối rừng. Loại đất này thì thích hợp với

hầu hết các loại cây trồng đặc biệt là lúa. Mảnh đất tốt sẽ cho năng suất cao, có thể

trồng được từ 3 - 4 vụ mới bạc màu. Ngoài ra đất ở sườn đồi núi thấp (á giông)

cũng là loại đất tốt trồng các loại cây như ngô, thuốc phiện và các loại cây ngắn

ngày, có thể cho 3 - 4 mùa vụ tốt tươi đất mới bạc màu. Loại đất này có đặc điểm là

đất có màu đen, đỏ sẫm hoặc nâu sẫm, lớp đất trên mặt tơi xốp có độ dày khoảng 20

- 30cm, nếu có lẫn đá nhỏ màu đen thì càng tốt.

Đất đồi trọc (á liệt sứ) là đất màu vàng đỏ, thịt dẻo, có lẫn đá sỏi, độ dốc

tương đối lớn, ở đây mọc các loại cây có độ cứng lớn nhưng không to. Loại đất này

thích hợp với các loại cây công nghiệp ngắn ngày và các loại cây ăn quả.

Đất núi cao (á há trông) có màu xám lẫn nhiều sỏi đá, đất mọc nhiều cây bụi,

cây leo và cỏ gianh thì không thể sử dụng vào mục đích nông nghiệp. Loại đất này

chủ yếu trồng rừng tái sinh để cải tạo đất.

Chọn được đất, người Hmông ở Bản Lầu có kinh nghiệm nếm đất, họ dùng

quốc bổ xuống đất hoặc mũi dao quắm bổ sâu xuống đất khoảng từ 10 - 15 cm lấy

lên nếm thử. Nếu đất có vị mặn là đất tốt, ngược lại đất có vị chua là đất xấu gieo

trồng sẽ cho năng suất thấp. Đất tốt không chỉ là miếng đất có độ nhiều màu mà còn

là mảnh đất có độ ẩm cao. Kinh nghiệm của ông cha để lại khi mùa xuân đến, tiết

trời khô ráo, chọc con dao nhọn hoặc một cái cây vót nhọn sâu xuống đất khoảng 20

- 30cm rồi rút lên, nếu dính đất thì đó là đất có độ ẩm, độ ẩm của đất ít hay nhiều

33

phụ thuộc vào đất dính trên dao nhiều hay ít, độ ẩm cao đất sẽ giữ được dinh dưỡng;

ngược lại độ ẩm thấp thì đất có phì nhiêu đến mấy thì cũng bị mưa làm rửa trôi các

lớp màu ở trên, với loại đất này thì chỉ có thể làm nương 2 - 3 vụ.

Theo tập quán truyền thống, người Hmông thường gieo trồng trên những

mảnh nương này từ 3-5 vụ. Khi đất quá bạc màu, họ chuyển sang khai phá mảnh

rừng mới, nương cũ để cho cây cỏ tái phát triển, sau 5 - 10 năm đồng bào mới quay

lại canh tác và chu kỳ mới được tiếp tục. Đặc điểm nổi bật của nương du canh là kỹ

thuật canh tác đơn giản, đất không được cầy xới, đồng bào thường dùng gậy chọc lỗ

tra hạt hoặc gieo vãi nên năng suất cây trồng thấp, không ổn định.

Sau khi chọn được mảnh đất làm nương ưng ý, người Hmông đánh dấu

quyền sở hữu của mình bằng cách phát một khoảnh nương sau đó chặt một cây nhỏ,

chẻ đầu cài một đoạn cây khác thành hình chữ thập rồi cắm ở mảnh đất vừa phát để

khẳng định chỗ đất đó đã có chủ. Cách đánh dấu này là quy định chung của cả cộng

đồng và được cộng đồng bảo vệ. Nếu thành viên nào cố ý sử dụng đất đã đánh dấu

thì sẽ bị phạt theo quy ước của bản.

Khi phát nương họ chọn những cây nhỏ và dây leo phát trước rồi sau đó mới

chặt cây to để không bị sót lại các cây nhỏ do bị các cây to đè lên. Để đất không bị

sói mòn họ thường chỉ khai phá những mảnh đất ở ven chân đồi và thung lũng, phía

trên vẫn để cho rừng phát triển. Còn đối với mảnh đất ở chân nương họ xếp đá be

bờ hoặc trồng cây chuối để chống sói mòn đất và giữ độ ẩm cho cây trồng phát

triển. Sau khi phát nương xong họ để nguyên cây cối tại chỗ chờ một thời gian cho

khô, trước khi tiến hành đốt nương họ chọn những cây nào có thể làm củi được thì

chặt đem về làm củi đun. Sau đó dọn gọn xung quanh nương, vun những cây đã khô

vào giữa nương để tranh cháy lan ra khu đất bên cạnh. Trước kia, đồng bào thường

đốt nương vào buổi trưa lúc trời nắng to tận dụng lúc có gió và đốt theo chiều gió để

đảm bảo cháy sạch, qua thời gian để bảo vệ rừng họ đốt nương vào buổi sáng để

tránh cháy lan và phải phát xung quanh nương một khoảng trống. Sau khi đốt xong

một vài ngày nếu họ thấy những cành cây, khúc gỗ nào chưa cháy hết thì họ lại gom

lại thành từng đống đốt cho cháy hết. Chờ một vài ngày cho đất nguội lúc đó công

việc tra hạt mới bắt đầu. Đối với nương cũ chỉ cẫn dọn và đốt cỏ sau đó tiến hành

34

cày cuốc.

Người Hmông ở Bản Lầu chia đất thành các loại khác nhau như:

- Theo địa hình:

 Têz tơư taox: Chỉ những mảnh đất được khai phá dưới chân núi hay ở

gần khu vực chân núi.

 Têz tăng taox: nương ở sườn núi hay ven sườn núi.

 Têz txi taox: nương ở gần đỉnh núi

 Têz caz hangr: nương trong các thung lũng hẹp.

 Blăngs têz: nương trên các bãi khá bằng phẳng.

 Têz châuv cưx: nương trong các khe suối.

 Têz chuôiv: Nương ở các khe núi. Phân loại theo giống cây trồng:

 Têz paoz cư: Nương trồng ngô

 Têz blêx: Nương tra lúa

 Têz tâuv pâur: Nương trồng đỗ tương.

 Têz caov: Nương trồng khoai

 Têz max: Nương trồng lanh Theo loại đất:

 Têz viêngx: Nơi có đất đai màu mỡ thích hợp cho việc canh tác.

 Têz fêv: Nương đất xấu canh tác cho năng xuất thấp.

 Têz kraor luôx: Nương mới phát, gieo trồng lần đầu.

 Kuz têz: Nương đã bỏ rồi quay lại làm.

 Têz taox phiênx: Nương ở nơi đất cao

 Têz tsơư kik: Nương ở vùng đất trũng, thấp.

 Têz tox nxăngz: Nương ở nơi đất dốc

Nhìn chung nương rẫy của người Mông được chia làm hai loại:

Nương du canh (Têz phax): Là loại nương không được sử dụng thường

xuyên, liên tục. Trước kia đây là loại nương chính, mỗi nhà tuỳ vào điều kiện và số

người mà có nhiều hay ít đám nương. Mỗi năm chỉ gieo trồng trên một hay hai đám

nương và mỗi đám nương chỉ gieo trồng từ 2 - 3 vụ tuỳ thuộc chất đất tốt hay xấu,

sau đó bỏ hoá cho rừng tái sinh rồi chuyển sang canh tác cánh rừng đã bị bỏ hoá.

35

Thời gian bỏ dài hay ngắn tuỳ thuộc vào gia đình có nhiều hay ít đất. Trước đây do

dân số ít thời gian bỏ hoá thường 7 - 10 năm. Hiện nay do sức ép của dân số và tài

nguyên môi trường thời gian bỏ hoá xuống còn khoảng 3 - 4 năm có gia đình xuống

1 - 2 năm.

- Nương định canh (Têz lâus): Là loại đất canh tác cố định của người

Hmông, đó là những mảnh đất gần nhà có độ dốc không lớn được người dân sử

dụng dân sử dụng canh tác liên tục bằng cách gối vụ và thay đổi cây trồng, những

năm đầu trồng ngô, sau đó trồng các cây đậu và rau để vừa có sản phẩm thu hoạch

và tăng thêm độ phì cho đất. Gắn liền với loại hình làm nương này là kĩ thuật canh

tác dùng cày, sử dụng phân bón, thâm canh, luân canh, xen canh, năng suất khá ổn

định.

Phương thức canh tác của người Hmông ở nương rẫy có những cách chủ yếu:

- Gieo trồng theo đường cày

Phương thức này được áp dụng với những vùng có trình độ thâm canh cao.

Đồng bào Hmông có nghệ thuật cày giỏi. Các nương dù nhiều đá, dốc cao nhưng họ

vẫn cày được dễ dàng. Theo cách này, quy trình công việc từ làm đất đến gieo trồng

được tiến hành như sau.

Cày lật úp cỏ xuống để một thời gian cho đất ải, cỏ thối thành phân xanh rồi

bừa cho tơi nhỏ. Khi gieo hạt, một người cày đi trước; người khác đi sau một tay bỏ

phân xuống đường cày từng nắm theo một khoảng cách nhất định, phù hợp với cây

trồng, tay kia bỏ bỏ hạt xuống chỗ vưà bỏ phân, rồi dùng chân lấp đất lại.

Cách này dùng phân ít nhưng lại bón tập trungvà chính xác vào gốc cây được

trồng. Có nơi đồng bào cho hạt giống trộn với phân lợn rồi trộn với tro để hạt giống

được bao một lớp “vỏ phân”, khi gieo xuống đất chống được sâu bọ. Cách làm này

đòi hỏi hai người lao động thực hiện ba khâu liên hoàn: cày, gieo hạt, bón phân.

Với phương thức này, đất được cày và xới sâu cho năng suất cao nên ta chủ

trương mở rộng cách này. Nhưng khi cày đất bị xới lên, gặp mưa tốc độ xói mòn

cao nên khi thực hiện phải tính toán để giữ màu cho đất.

- Gieo trồng theo hốc dùng cuốc:

Cách gieo trồng này được thực hiện nhiều, thích hợp với những nương

36

dốc,nương có quá nhiều sỏi đá không dùng cày được.

Cách bỏ hốc thường được tiến hành từ thấp lên cao (theo độ dốc của nương).

Đồng bào bổ hốc theo hàng ngang: người cuốc hốc, người tra hạt theo sau. Hạt tra

vào hốc và tra luôn phân bón. Khi bỏ hốc hàng trên thì bỏ đất xuống lấp cho các hốc

hàng dưới, nên đỡ công lấp các hố đã tra hạt.

Gieo trồng theo cách này cho phép tận dụng được những mảnh đất hẹp,

những góc vườn, góc nương, tiết kiệm được thời gian và sức lao động. Cách này

còn được áp dụng trong kỹ thuật gieo trồng xen canh; nhưng chỉ mang tính đặc thù

không thể thay thế cho gieo trồng bằng cày được.

- Gieo trồng theo lỗ dùng gậy chọc:

Phương thức này được áp dụng trước tiên cho những nương đất mới khai

phá. Ở loại nương này, đất ẩm xốp, dễ chọc lỗ, giữ được màu; nếu dùng cuốc hoặc

cày ở đây sẽ làm tăng nhanh tốc độ xói mòn lớp đất màu trên bề mặt. Hiện nay,

phương thức này ít được áp dụng.

Với địa hình canh tác đa dạng, đặc trưng đồng bào Hmông đã có được một

hệ thống các phương thức gieo trồng đa dạng, thích ứng với từng điều kiện của

nương rẫy.

2.1.2. Ruộng nước (ruộng bậc thang)

Lựa chọn đất làm ruộng

Sinh sống trên núi cao cũng như người Hmông ở các địa phương khác, ruộng

của người Hmông ở Bản Lầu là loại hình ruộng bậc thang.

Đất để khai phá ruộng bậc thanglà những mảnh đất nằm giữa chân đồi, giữa

hai sườn đồi hoặc trên sườn núi đất. Độ dốc của mảnh đấtđược khai phá phải không quá lớn (dưới 50o). Nơi làm ruộng phải có nguồn nước tự nhiên là các mạch nước

ngầm đùn lên hay là các con suối. Đất được chọn khai phá phải có khả năng tạo mặt

bằng, ít sỏi đá, ít cây to, cỏ mọc dầy và tươi tốt. Đầu tiên dùng dao phát cỏ, dọn

sạch mặt đất, sau đó dùng quốc đánh các cây to đi, tiếp đến mới là việc san ruộng.

Việc tạo mặt bằng có thể tiến hành từ dưới lên hoặc từ trên xuống.

Với các sườn đồi có độ dốc dưới 30ongười Hmông thường đào từ dưới

37

lên. Cách làm này giữ được độ màu cho đất trên bề mặt ruộng một cách đối đa nhưng tiến độ lại chậm. Ở các mảnh đất có độ dốc trên 30othì người ta thường tiến

hành san từ trên xuống dưới, ưu điểm của cách làm này là tiến độ nhanh nhưng hạn

chế của nó là giữ lại màu cho ruộng ít.

Việc tạo mặt bằng cho ruộng là công việc khó khăn nhất vì nó liên quan đến

việc chia nước cho toàn bộ ruộng lúa. Trong điều kiện độ dốc của mảnh đất cao

đồng bào không thể tạo ra ra các mặt bằng lớn trên các thửa ruộng bậc thang thường

không lớn, độ chênh nhau giữa các thửa thường ở mức 1 - 1,5m. Công việc đắp bờ

là công đoạn vất vả nhất, người ta phải lấy những phiến đá xếp quanh mảnh đất làm

ruộng, sau đó dùng cuốc bướm cào đất đắp vào bên trong và bên trên của từng hàng

đá.

Nguồn nước cung cấp cho ruộng là một việc rất quan trọng, người ta phải

đào những con mương chạy ngang sườn núi để dẫn nước từ khe vào ruộng. Chiều

dài của con mương có thể là vài trăm mét hoặc lên tới vài ba cây số tuỳ thuộc vào

nguồn nước ở xa hay gần. Nước bao giờ cũng ở thửa ruộng trên cùng và theo các

rãnh nhỏ chảy xuống các thửa ruộng dưới.

- Kỹ thuật làm đất và kinh nghiệm

+ Cày:Người Hmông cày ruộng để cho mặt đất tơi ra sau đó tháo nước vào

ruộng để trở thành bùn nhão. Yêu cầu kĩ thuật khi cày: cày lật đất, đạt độ sâu thích

hợp (8- 10cm), cày đều tay không để lại nhiều sống đất, rãnh cày tương đối bằng.

Người Hmông hay sử dụng la làm sức kéo. Phương pháp cày chủ yếu là càyluống,

tức là chia ruộng bậc thang của mình thành từng thửa. Mỗi luống được mở ở giữa

thửa để lấy chỗ đứng cày. Cày ruộng bậc thang cũng cày từ trong ra ngoài như

ruộng ở dưới xuôi. Người ta cày rất kĩ, có thể đến 3 hoặc 4 lần.

+ Bừa:Sau khi cày đất xong được 2 đến 3 ngày và khi ruộng đã có nước

ngâm người Hmông bắt đầu bừa. Bừa ruộng để làm vỡ các hòn đất đã cày, làm cho

đất nhuyễn với nước để tạo thành bùn nhão làm cho gốc rạ, xác cỏ chìm cho ngấu,

mặt ruộng được san phẳng.

Kĩ thuật bừa: không được ấn răng bừa quá sâu hoặc quá nông. Nếu bừa sau

cày thì lần đầu phải bừa theo chiều đã cày. Khi bừa nên đưa đất ra xung quanh và

những hòn đất to được chuyển ra đó cho dễ nát vì ruộng bậc thang cần nước.

38

- Gieo mạ và cấy:

+ Gieo mạ:Quá trình gieo mạ gồm các bước sau đây:

- Làm đất mạ: Những chân ruộng được dùng gieo mạ phải có điều kiện tự

nhiên thuận lợi nhất và gần như chuyên dụng. Đất phải được làm kỹ, cày bừa nhiều

lần. Nước đưa vào ruộng thường xấp xỉ so với bề mặt ruộng.

- Xử lý hạt giống: Hạt giống lúa phải chọn hạt chắc, loại bỏ hạt lép bằng cách

quạt, lấy hạt ở gần. Hạt giống được chọn đem ra suối đãi sạch phơi khô, bỏ vào gùi

kín.

- Ngâm và ủ giống: Hạt giống được ngâm vào nước ấm (40- 50oc), thường

được ngâm trong một ngày. Khi ủ để hạt giống nảy mộng, người ta đắp đống vào

một góc, sau đó phủ lá xoan hoặc lá đào lên để tăng nhiệt độ cho hạt dễ nảy mầm. Ủ

mầm phải đạt yêu cầu: mầm mọc đều, mập, có rễ ngắn.

Thời vụ gieo mạ phụ thuộc vào thời vụ cấy. Công việc gieo mạ thường bắt

đầu vào đầu tháng 4 tháng 5 có thể cấy xong hoàn toàn để tháng 10 âm lúa trổ và

chín, tránh được rét. Mật độ gieo mạ tương đối dày.

- Kỹ thuật gieo mạ: gieo úp tay, ném mạnh xuống cho mầm bám vào đất.

Gieo ngửa tay mạ lên không đều, thành vết.

Sau khi gieo mạ xong, phải theo dõi sự phát triển và bảo vệ ruộng mạ và

chăm sóc ruộng mạ.

+ Cấy lúa:Quá trình cấy lúa gồm những bước sau:

- Nhổ mạ: Khi cây mạ lớn có 4-5 lá thì tiến hành nhổ mạ. Kỹ thuật nhổ mạ:

dùng tay trái tóm phần ngọn, tay phải tóm phần gốc cho rạp khóm mạ xuống rồi giật

về phía mình. Nhổ mạ ở chân ruộng rồi rũ gốc mạ vào nước cho sạch đất cấy chóng

bén rễ. Nhổ mạ cần nhổ chậm, nhổ từng túm để mạ đỡ rối đỡ đứt và sót lại.

- Cấy lúa: Người Hmông cấy lúa theo theo phương thức sấp tay, cấy di

chuyển từ đầu bên trái sang đầu bên phải thửa ruộng theo chiều ngang và và cấy lúa

theo chiều dọc. Mực nước yêu cầu khoảng 5 cm so với mặt bằng ruộng. Mật độ cấy

phụ thuộc vào độ màu mỡ của đất; nếu mạ non phải sử dụng biện pháp bón thúc.

- Làm cỏ và bảo vệ:

+ Làm cỏ:Ruộng bậc thang có tiền thân là thảm thực vật nên có nhiều hạt cỏ.

39

Việc làm cỏ đã được thực hiện trước khi cấy trong quá trình làm đất. Nhưng cấy

xong vẫn làm cỏ, thường được chia làm hai đợt: đợt một sau khi cấy 20- 25

ngày,đợt hai sau đợt một chừng 2 tháng - thời điểm cây lúa đẻ nhánh khoẻ, cần

nhiều dinh dưỡng. Dùng cuốc bướm và dao phát để triệt tận gốc các loại cỏ.

+ Trừ sâu bọ:Ruộng bậc thang rất ít sâu bọ. Đồng bào sử dụng thuốc hoá học

và một số ít biện pháp trừ sâu bằng các hình thức dân gian.

+ Làm hàng rào: Hàng rào bảo vệ ruộng lúa thành quả lao động của đồng

bào. Hàng rào có 3 dạng phổ biến: hàng rào bằng đá, hàng rào bằng tre, vầu đan

thưa và hàng rào làm bằng tre đan nong tạo thành các phên.

- Thu hoạch và bảo quản:

Việc thu hoạch và bảo quản được tiến hành cẩn thận, khẩn trương. Điều cơ

bản về thời tiết trong vụ thu hoạch nhất là cắt lúa là ruộng phải khô. Công cụ gặtchủ

yếu là liềm. Người Hmông tách hạt lúa bằng cách đập lúa ngay tại ruộng. Công cụ

đập lúa là chiếc néo gồm hai thanh gỗ dài 40 cm, đường kính 3 cm.Sau đó người ta

tiến hành chọn hạt giống cho vụ sau với số lượng gấp đôi số lượng dự tính gieo

trồng để đề phòng rủi ro của thời tiết. Thóc mang về được phơi 3-4 ngày hoặc hơn,

sau đó cất vào bồ, chỗ khô ráo.

Tóm lại, trên đây là nội dung cơ bản trong kỹ thuật canh tác ruộng nước (bậc

thang) của người Hmông. Ruộng bậc thang tuy không giữ vị trí chính trong đời

sống tộc người nhưng ngày càng có vị thế cao hơn. Hình thức canh tác này gắn với

cuộc sống định cư lâu dài và là hình thức có thể huy động được lao động của cả gia

đình.

Tuy nhiên, hình thức này lại gây ra hệ quả xấu đến môi trường tự nhiên nhất

là môi trường đất, gây sụt lở xói mòn đất…do đó cần có chính sách phát triển và

bảo vệ môi trường hợp lý.

2.2. Chăn nuôi

Ngoài trồng trọt thì chăn nuôi cũng là ngành kinh tế bổ trợ quan trọng trong

cơ cấu hệ thống kinh tế nông nghiệp Hmông. Các loại gia súc, gia cầm chính

thường được các gia đình nuôi gồm có trâu, ngựa, lợn, gà. Người Hmông nuôi gia

súc, gia cầm không chỉ là thực phẩm cho cuộc sống hàng ngày hay làm sức kéo cho

40

sản xuất cho sinh hoạt, mà hơn thế, đó là nguồn cung cấp các sản vật cho những

hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng (lễ tết, ma chay) hay trong các dịpsinh hoạt cộng

đồng khác (như cưới hỏi, về nhà mới) và một phần nhỏ dùng để trao đổi mua bán.

Xưa kia đàn gia súc còn là một tiêu chuẩn đánh giá giàu nghèo, nên các gia đình

người Hmông đều mong muốn có đàn gia súc, gia cầm đông đúc.

Việc chăn nuôi trâu, bò đối với đồng bào người Hmông ở đây luôn được chú

trọng và quan tâm. Mỗi gia đình nuôi từ 2 - 3 con hoặc cả chục con. Chăn thả theo

lối tự nhiên. Ban ngày, trâu bò được thả ra bãi cỏ, cuối ngày lùa về nhà nhốt

chuồng. Trong thời điểm nông nhàn, trâu được thả rông, tự kiếm ăn trong thung

lũng, đến mùa sản xuất mới đi tìm dắt về nhà nuôi chuồng. Khi thả trâu bò như vậy,

họ thường đeo vào cổ một vài con trâu, con bò trong đàn chiếc mõ để tiện theo dõi

và tìm trâu bò khi cần đến chúng. Riêng trâu, bò ốm hoặc mới đẻ thì nuôi nhốt ở

nhà. Việc chăn nuôi trâu, bò theo phương thức thả rông, ít chăm sóc dẫn đến đàn gia

súc bị chết rét, thiếu thức ăn, dịch bệnh, thiếu sức kéo, v.v.

Bên cạnh đó, việc nuôi lợn cũng đóng vai trò quan trọng trong chăn nuôi ở

người Hmông ở đây. Có hộ gia đình nuôi tới vài chục con. Lợn vẫn nuôi thả rông,

nhất là sau khi đã thu hái mùa màng và trước khi gieo trồng vụ mới. Thức ăn

thường là chuối rừng, lá mán, các loại rau rừng.

Về chăn nuôi gia cầm cũng được chú ý, ở đây chủ yếu là nuôi gà, vịt,

ngan…nhưng nhiều nhất là gà. Mỗi gia đình có khoảng vài chục con, đến trăm con.

Nuôi gà cũng theo lối chăn thả tự nhiên, để chúng tự tìm kiếm thức ăn ở quanh nhà,

trên đồi. Với tập quánchăn nuôi này, dịch bệnh thường xuyên phát sinh và gây thiệt

hại lớn cho người chăn nuôi.

Bên cạnh việc chăn nuôi gia súc, gia cầm, còn có nghề nuôi ong mật. Tổ ong

được làm bằng những đoạn cây khoét rỗng, bịt kín hai đầu bằng ván và cưa nhiều lỗ

cưa. Mùa xuân và mùa hạong tự kiếm ăn, mùa đông ít hoa đồng bào thường lấy mật

làm thức ăn cho ong. Với phươngpháp nuôi ong truyền thống này đồng bào đã cho

ra sản phẩm mật ong thơm ngon và bổ. Ngoài ra, đồng bào còn có kinh nghiệm

trong việc khai thác mật ong rừng.

Nhìn chung, việc chăn nuôi của người Hmông ở Bản Lầu không mấy phát

41

triển, hiệu quả thấp. Người Hmông ở Bản Lầu trước kia sống du canh du cư nên gia

súc, gia cầm của họ đều được thả rông để tự kiếm ăn và hầu như chúng không được

chăm sóc theo một quy trình nhất định, nên hiệu quả chăn nuôi thấp.

2.3. Kinh tế phụ gia đình

2.3.1. Các nghề thủ công

a. Nghề rèn

Ở người Hmông Bản Lầu, nghề rèn được coi là một trong những nghề truyền

thống mang nét văn hóa độc đáo đặc trưng cho tộc người, bên cạnh các nghề khác

như: chế tác nhạc cụ (khèn bè, khèn môi), nghề nhuộm chàm, thêu dệt thổ cẩm,

nghề đan lát các dụng cụ sinh hoạt và nghề rèn đúc nông cụ.Trong đó, nghề rèn

nhằm tạo ra các công cụ sản xuất, công cụ lao động của tộc người Hmông đã được

rất nhiều người biết đến với những sản phẩm như con dao, chiếc xẻng, lưỡicày hay

chiếc cuốc.Những nghệ nhân rèn người Hmông ở đây chủ yếu đều được sinh ra

trong những gia đình có nghề rèn truyền thống. Họ được truyền lại cách tìm cây gỗ

cho than tốt để rèn và thời điểm có thể tôi để con dao cứng mà không giòn, dẻo dai

mà sắc lẹm khi sản phẩm định hình.

Nếu như người Kinh rèn bằng than đá thì người Hmông rèn bằng than củi,

tôi bằng thân cây chuối rừng và rèn bằng than cây dẻ chua. Dẻ chua có mùi chua

đặc biệt ở phần lõi và đun rất khó cháy. Người Hmông chọn những cây dẻ chua già

để hầm than. Đây là công việc công phu và tỉ mỉ.

Những sản phẩm rèn như dao, cuốc, cò súng… sau khi định hình, thợ rèn

cắm ngập vào thân cây chuối để tôi. Tôi bằng thân cây chuối là một trong những

nguyên nhân làm cho sản phẩm rèn của người Hmông rất tốt.

Nguyên liệu chế tác các sản phẩm rèn chủ yếu của người Hmông trước đây

thường là nhíp xe ô tô, lò xo, mảnh bom…

Lò rèn truyền thống của người Hmông khá đơn giản, chỉ có một ụ đất làm lò

đốt, bộ phận tạo gió, một khối sắt to làm đe. Khác với các dân tộc khác, người

Hmông không quay bễ mà dùng một đoạn thân gỗ rỗng ruột, bên trong có miếng

cao su,nối với cần kéo, đẩy dạng như pít tông gọi là “phông xa” để tạo ra gió khi

42

rèn, làm như vậy rất nhẹ nhàng và không tốn sức.

Những đồ dùng đồng bào tự làm thường phù hợp với nhu cầu của người dân

trong vùng., như cácloại công cụ sử dụng trong sản xuấtnông nghiệp, làm đồ gỗ,

chế tạo các dụng cụ bằng sắt khác như: sửa lại dao, khoan nòng súng…làm thùng

gỗ chứa nước, nhuộm vải, làm chậu gỗ rửa chân, hoặc làm thìa gỗ dùng trong bữa

ăn.

b. Nghề dệt vải

Bên cạnh nghề rèn truyền thống thì nghề dệt vải (dùng sợi lanh để dệt thành

vải) cũng đạt kỹ thuật khá cao ở người Hmông Bản Lầu. Theo lời kể của những

người cao tuổi trong bản, thì nghề dệt vải lanh đã hình thành từ rất lâu, đời trước

truyền cho đời sau, đời này truyền qua đời khác. Bất cứ người phụ nữ nào đến tuổi

trưởng thành cũng phải biết xe lanh thành sợi để dệt vải phục vụ cho nhu cầu cuộc

sống hàng ngày của mỗi gia đình. Việc dùng vải lanh đã trở thành tập quán, truyền

thống củangười Hmông. Vải lanh bền gấp 3- 4 lần vải bông nên họ rất thích dùng

vải lanh. Ngoài ra vải lanh được coi là rất quan trọng trong đời sống tâm linh, đồng

bào quan niệm sợi lanh là sợi chỉ dẫn đường cho linh hồn người chết về với tổ tiên

và đưa linh hồn của tổ tiên về đầu thai lại với con cháu. Việc dệt vải lanh còn thể

hiện sự khéo tay, chăm chỉ, đó là một trong những tiêu chí để đánh giá tài năng, đạo

đức, phẩm chất và cách làm ăn của chị em phụ nữ, đó cũng là tiêu chí chọn vợ của

các chàng trai người Hmông trước kia.

Cây lanh được trồng trên sườn núi vào tháng 2 hoặc tháng 3 âm lịch, với thời

gian sinh trưởng khoảng 3 tháng thì thu hoạch được, nếu để quá 3 tháng, cây lanh

già sợi sẽ không tốt. Khi thu hoạch, đồng bào chặt cả cây đem về để vài ngày cho

tái, sau đó tước lấy vỏ. Vỏ cây lanh được tước ra thành từng sợi nhỏ và nối với nhau

một cách khéo léo để không tạo thành mấu ở chỗ nối. Đây là việc làm đòi hỏi thời

gian, sự tinh tế, kiên trì và nhẫn nại. Vì vậy lúc nào phụ nữ Hmông cũng tranh thủ

tước và nối các sợi lanh kể cả lúc trên đường hoặc từ nhà lên nương và từ nương về

nhà hay trên đường đi chợ...Tiếp theo, người tamắc các sợi lanh vào khung và quay

cho chúng cuốn lại thành từng cuộn. Những cuộn sợi này được luộc vào nước tro

43

trong để sợi lanh có màu trắng rồi đem phơi khô sợi, sẵn sàng để dệt vải.

Đồng bào Hmông dệt vải trên một khung cửi rất đơn giản, chỉ có 2 thanh gỗ

tiết diện 12 cm x 12 cm, dài 1,3m đứng cách xa nhau khoảng 50 cm. Giữa 2 thanh

gỗ có 4 thanh ngang, trong đó 3 thanh nhỏ hơn, 1 thanh dài 70cm, rộng 30cm, dày 2

cm dùng để cuốn sợi, tất cả tạo thành khung cửi vững chãi. Con thoi để dệt khá to,

khi dệt người ta buộc khung dựa vào cột nhà, người dệt ngồi trên chiếc ghế đẩu.

- Kỹ thuật dệt vải

Khi ngồi dệt cơ thể của người dệt trở thành một bộ phận của khung dệt. Phần

sợi trải ra chưa dệt được quấn vào một thanh gỗ lớn hình dẹt đặt đối diện với người

dệt. Những sợi đang dệt được quấn chặt vào thanh gỗ, cứ mỗi một lượt lại có một

thanh tre nhỏ để ngang, cách biệt giữa các lớp sợi. Thoi dệt các tác dụng luồn sợi

qua và luồn sợi lại, đồng thời có tác dụng dập vào mảnh vải cho các sợi khít vào

nhau. Đồng thời, người Hmông còn sử dụng các lược để nén sợi, có tác dụng làm

sóng sợi vải và cùng với con thoi dập từng sợi vải vào nhau cho khít và chắc hơn.

Ngoài ra, chân thuận của họ điều khiển một sợi dây nối với cái cần để tác động đến

cái lược nén vải, mỗi khi luồn sợi lanh vào, họ lại dập cái lược nén sợi, sau đó thả

lỏng chân cho lược trở về vị trí ban đầu, cứ như vậy với sự cần mẫn liên tục, tranh

thủ những lúc nhàn rỗi, họ làm ra các mảnh vải lanh quý giá.

- Kỹ thuật nhuộm vải

Người Hmông nhuộm vải bằng cây chàm (Chaoz gangx) là loại cây được

nhiều dân tộc thiểu số của nước ta dùng làm nguyên nhuộm vải. Cây chàm là loại

cây thân gỗ, mọc thành búi cao khoảng 0,5 - 2 m. Cây thường mọc tự nhiên, ưa ẩm

(không được các dân tộc chủ động gieo trồng, vì cây chàm rất dễ sống và sinh sôi

rất nhanh) ở ven suối hay các chân núi có nhiều nước.

Nhuộm chàm là công việc khá tỷ mỉ đòi hỏi phải kiên trì và dầy dạn kinh

nghiệm. Chàm thường được trồng vào tháng 3- 4, thu hoạch vào tháng 6 - 7. Cây

chàm được cắt thành từng bó đem về ngâm vào chum, vại, khi lá chàm nát ngấm thì

vớt ra bỏ bã. Nước chàm được lọc kỹ qua một cái rá đựng chấu, sau đó cho vôi bột

vào nước rồi khuấy thật đều, cho nhiều hay ít vôi tuỳ thuộc vào lượng nước chàm.

Ngoài vôi còn có tro bếp, tro được đựng trong một cái rổ có lót lá chuối, đổ nước

44

vào chảy xuống cái chum nhỏ, dung dịch này để từ 3-5 ngày rồi trộn với nước vôi

ngâm chàm và để lắng, khi nào thấy nước trên mặt có màu nâu nhạt thì gạn đi để lấy

phần chàm và vôi lắng ở dưới chum, đó chính là cao chàm. Để nhuộm vải, người ta

lấy cao chàm hòa với nước đun với lá ngải cứu để nguội pha thêm ít nước tro vào

rượu rồi khuấy đều. Khi đã pha xong muốn thử phải lấy tay nhúng vào nước chàm,

thấy da có mầu xanh chàm là được.

Người Hmông thường nhuộm chàm vào tháng 7-8, vì thời gian này trời nắng

nhiều, vải mau khô và bắt mầu tốt. Trước khi nhuộm phải ngâm giặt cho thật kỹ để

vải hết hồ mới dễ bắt màu và khi sử dụng không bị loang lổ. Khi nhuộm cho vải

chìm ngập trong nước chàm, dùng tay hoặc chân đạp thật kỹ chovải thấm đều, công

đoạn phải làm thật nhiều lần (ngày phơi nắng, đêm ngâm chàm) nhằm tạo ra sản

phẩm đạt chất lượng cao có màu sắc xanh sẫm. Đây cũng là công đoạn cuối cùng

trong kỹ thuật chế biến và nhuộm chàm của người Hmông.

- Trang trí vải

Ở người Hmông đều có kỹ thuật thêu khá tinh vi và có truyền thống giỏi

trong trang trí bằng hình chắp vải màu, vẽ sáp ong trên vải để lấy họa tiết màu trắng

trên nền mầu chàm. Hầu hết các họa tiết được thêu, vẽ, chắp vải trên nền vải lanh

trắng hoặc vải đỏ, có định hình sẵn là các bộ phận của áo, váy. Sau khi hoàn thiện

đồ án trang trí từng bộ phận riêng lẻ, người ta bắt đầu may ráp, hoàn chỉnh váy, áo...

Đó là cách làm riêng của người Hmông, khác các dân tộc anh em đã thể hiện trang

trí ngay trên thành phẩm của mình. (Cần xem lại nhận định này, đây là cách trang trí

vải theo kỹ thuật batic, không chỉ có ở riêng người Hmông mà còn gặp ở một số tộc

người ở Đông Nam Á).

Ngoài các họa tiết có cấu tạo bằng đường thẳng, đoạn thẳng. Người Hmông

còn thành thục trong việc bố cục đồ án văn hình tròn, đường cong, hình xoáy trôn

ốc hay các biến thể của nó là hai hình xoáy trôn ốc được bố trí đối xứng qua gương

tạo thành hình móc hoặc đối xứng trục quay thành hình chữ S là những loại họa tiết

có đường cong, đường xoáy dứt khoát thanh thoát, nhịp nhàng, uyển chuyển tạo cho

bố cục hài hòa, không đơn điệu - chỉ thấy xuất hiện trong trang trí y phục của người

Hmông. Những họa tiết này biểu hiện cho sự biến chuyển của mặt trời, thời tiết,

không gian và thời gian, trong vũ trụ quan cổ đại của nhiều cư dân, là vốn văn hóa

45

chung của nhiều dân tộc, nhưng được thể hiện đậm đà trong trang trí Hmông.

- Kĩ thuật thêu

Kỹ thuật thêu của người Hmông có hai cách thêu lát và thêu chéo mũi. Hai

cách thêu này làm cho việc tạo nét mềm mại chủ động, phóng khoáng, không bị gò

bó trong kỹ thuật thêu luồn sợi, mầu, dựa theo thớ vải ngang, dọc mà các dân tộc

khác thường làm. Ngoài họa tiết hình hoa tám cạnh, biểu thị sự chuyển động của

mặt trời, trang trí Hmông không nhằm diễn đạt một nội dung nào, nhưng mang

được sắc thái rất riêng biệt có bản sắc thẩm mỹ của dân tộc rất rõ nét.

- Kĩ thuật chắp vải

Chắp vải mầu của người Hmông rất dầy, nhiều lớp đè lên nhau, tạo thành các

đường viền lé mầu bao quanh các hình, các đường nét, chứng tỏ một kỹ thuật thành

thạo, có truyền thống riêng khác hẳn các dân tộc anh em. Mầu sắc ưa dùng trong

thêu và chắp vải là đỏ tươi, đỏ thắm, nâu, vàng, trắng, xanh lá cây, lam. Ngay trên

các đồ án hoa văn vẻ sáp ong nhuộm mầu chàm người ta cũng ưa ghép thêm hình

vải mầu đỏ-trắng, xanh-trắng, rực sáng tươi vui. Đó cũng là điều khác biệt.

- Kỹ thuật in sáp ong

Kỹ thuật tạo hoa văn bằng sáp ong là một sáng tạo nghệ thuật của người phụ

nữ Hmông. Công cụ vẽ bao gồm loại bút có ngòi bằng đồng với nhiều dạng kích cỡ

khác nhau gồm có: từ 2 đến 7 cái bút vẽ hình chữ T gắn ngòi đồng có kích cỡ khác

nhau, 2 - 3chiếc khung hình tam giác làm bằng tre hoặc nứa kể in các đoạn thẳng và

góc. Dùng các ống tre có đường kính to nhỏ khác nhau từ 1,5 cm đến 2 cm để in các

hình tròn, một vài lá chít được ép phẳng dùng làm cữ. Một chiếc nanh lợn rừng, một

phiến đá dùng để miết vải cho nhẵn. Sáp ong cho vào nồi đun chảy thành nước sau

đó lọc thật kỹ cho hết tạp chất. Sáp phải có độ loãng cần thiết mới in được, nếu

loãng quá khi in hoa văn hay bị nhoè, đặc quá thì sáp ong không ăn vào vải. Khi in

người ta căng tấm vải trắng trên phiến đá, dùng răng nanh lợn miết cho tấm vải thật

phẳng, chia tấm vải thành nhiều ô cột bằng nhau, công việc in ấn được làm liên tục

khi nào hết khô vải mới được nghỉ.

Trước đây, việc dệt vải lanh là công việc thường xuyên, liên tục, sản phẩm

được sử dụng rộng rãi; Ngày nay việc dệt vải lanh có ít hơn bởi trong điều kiện

46

khoa học kỹ thuật phát triển, các loại bông vải sợi rẻ tiền lại phong phú về loại hình,

mẫu mã đẹp...nên việc sử dụng vải lanh có giảm đi nhiều, đa số phụ nữ vẫn sử dụng

vải lanh để may váy, áo, xà cạp và mỗi người khi về với tổ tiên cần phải có một bộ

trang phục chất liệu lanh vì họ quan niệm rằng:ếu không có quần áo lanh khi về trời,

tổ tiên sẽ không nhận ra mình. Đồng bào dân tộc Hmông rất tự hào về nghề dệt vải

lanh là một nghề thủ công truyền thống đặc sắc.

Bên cạnh nghề rèn và dệt vải đóng vai trò chính, thì người Hmông ở đây còn

có các nghề thủ công truyền thống khác như: đan đồ lan, làm đồ da ngựa, làm đồ

gỗ, dệt vải, làm giấy bản, làm đồ trang sức bằng bạc,…Trừ một số nơi, một số nghề

có người chuyên làm quanh năm, đại đa số các nghề đều do người nông dân làm

trong quãng thời gian nông nhàn. Nghề làm đồ trang sức thường sản xuất các sản

phẩm vòng cổ, vòng tay, khuyên tai, nhẫn… có hoa văn trên mặt. Đồ dùng bằng nan

thường là địu, đồ đựng cơm, vung chảo. Các mặt hàng thủ công thấy bán thường

xuyên ở các chợ phiên. Và những người thợ giỏi rất có uy tín trong quần chúng.

2.3.2. Khai thác nguồn lợi tự nhiên

Là dân cư sống dựa vào rừng và đất rừng nên săn bắn, hái lượm trở thành

hoạt động kinh tế rất phổ biến ở người Hmông. Tuy nhiên chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong

thu nhập của gia đình nhưng việc thu hái, săn bắn các nguồn tài nguyên cũng đóng

một vai trò đáng kể trong trong nền kinh tế nương rẫy mang đầy yếu tố tự nhiên

này. Hàng năm, hoạt động hái lượm được tiến hành nhiều nhất vào thời kỳ giáp hạt

và cả những thời điểm nông nhàn, đặc biệt là những năm mất mùa, đói nhiều.

Người Hmông chủ yếu hái các loại nấm, mộc nhĩ như nấm gà, nấm đá con cừu, nấm

tai người, nấm mối...đào các loại củ như củ mài trắng, củ mài đỏ, củ măng, củ nâu,

củ lợn...và rất nhiều các loại quả, rau rừng có nhiều trong núi, khe suối. Điều đó có

thể khẳng định là, kinh tế truyền thống của người Hmông là nền kinh tế hoàn toàn

tự phát, không có tính cộng đồng, càng không phải là nền tảng cho sự cố kết và

thống nhất.

2.4. Chợ phiên và trao đổi buôn bán

Đa số người Hmông ở Bản Lầu tranh thủ thời gian nông nhàn để tham gia

buôn bán nhỏ ở chợ. Có một số người Hmông đến chợ là những người bán một ít

47

nông sản, hàng thủ công để mua một số thứ nhu yếu phẩm thật cần thiết như dầu,

muối, vải... Cơ cấu mặt hàng ở chợ phản ánh nền kinh tế tự cung tự cấp của người

Hmông: nhiều thanh niên và cả người già đến chợ chỉ để bán một vài con gà, một

“thồ” ngô... đủ số tiền mời bạn bè, họ hàng ăn một bữa thắng cố... Với họ đến chợ là

để chơi, nhằm đáp ứng nhu cầu giao lưu tình cảm chứ không nhất thiết phải trao đổi

hàng hóa. Vì vậy, dù hệ thống chợ phiên có tương đối phát triển hơn các vùng nôi

địa, nhưng kinh tế truyền thống của người Hmông là kinh tế tự cung tự cấp nặng nề.

Hình thức trao đổi ở chợ thực ra cũng là trao đổi vật, trao đổi tiền tệ không đáng kể.

48

Hầu hết các nhu cầu ăn, mặc đều dựa vào thu nhập từ nương rẫy.

Tiểu kết chƣơng 2

Bản Lầu là một xã biên giới vùng thấp của huyện Mường Khương, là địa bàn

cư trú của 11 tộc người khác nhau, trong đó người Hmông chiếm tới 1/3 tổng dân số

của xã. Là nơi có vị trí địa lí thuận lợi, với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú,

có địa bàn tiếp giáp với Trung Quốc, thuận lợi cho các hoạt động sản xuất và giao

lưu kinh tế, văn hóa và quan hệ tộc người.

Các hình thức sinh kế truyền thống của người Hmông ở Bản Lầu trong khá

phong phú và đa dạng, mang rõ bản chất của một nền kinh tế khá tổng hợp của

nương rẫy, lúa nước, chăn nuôi, v.v. Ngoài canh tác nương rẫy và canh tác lúa

nước, các hộ gia đình người Hmông ở Bản Lầu đây còn có các hoạt động chăn nuôi,

thủ công nghiệp như nghề rèn, dệt vải…rất phát triển. Tất cả những điều này cho

thấy nền kinh tế của các hộ gia đình người Hmông ở Bản Lầu còn dựa nhiều vào

49

thiên nhiên, khai thác các nguồn lợi sẵn, và mang năng tính tự cung tự cấp.

Chƣơng 3

BIẾN ĐỔI SINH KẾ CỦA NGƢỜI HMÔNG Ở BẢN LẦU TỪ KHI ĐỔI MỚI

3.1. Biến đổi sinh kế

Biến đổi sinh kế là điều tất yếu diễn ra trong quá trình Đổi mới và phát triển

kinh tế theo định hướng thị trường hàng hóa của Nhà nước. Xã Bản Lầu cũng không

nằm ngoài vòng thay đổi để thích nghi với hoàn cảnh và xu thế trong nước và toàn

cầu đó. Và một trong những yếu tố dẫn tới sự lựa chọn chiến lược sinh kế như cây

trồng, vật nuôi, và các hình thức sinh kế mới… đều phụ thuộc và chịu tác động rất

lớn từ các nguồn vốn sinh kế. Vận dụng khung sinh kế bền vững vào luận văn của

mình để giải thích sự biến đổi sinh kế của cộng đồng người Hmông ở xã Bản Lầu

trước tiên tôi sẽ chỉ ra 5 loại nguồn vốn đang tồn tại và có tác động đến việc lựa

chọn các hình thức sinh kế, cũng như để duy trì sinh kế bền vững ở đây như sau:

Nguồn vốn con ngƣời

Nguồn vốn con người được xem là nhân tố quan trọngnhất trong chiến lược

phát triển sinh kế, con người là một chủ thể tạo ra các hoạt động sinh kế. Bên cạnh

đó, các thành tố thuộc về con người như: sức khỏe, kiến thức, kĩ năng, nhận thức

đóng vai trò quan trọng trong việc hoạch định, phát triển và đạt được mục tiêu sinh

kế. Trong đó, sức khỏe con người là sơ sở nền tảng để con người thực hiện các hoạt

động sinh kế, trình độ học vấn, nhận thức và kĩ năng là những yếu tố để đưa ra

quyền quyết định và lựa chọn phương thức sinh kế phù hợp với khả năng. Bảng 3.3

dưới đây sẽ cho chúng ta thấy rõ được tình hình nhân khẩu, lao động của xã Bản

50

Lầu trong giai đoạn 2011-2013

Bảng 3.1: Tình hình số hộ, nhân khẩu và lao động của xã Bản Lầu giai đoạn

2011 - 2013

Chỉ tiêu

ĐVT

Năm 2011

Năm 2012

Năm 2013

SL

(%)

SL

(%)

SL

(%)

1. Tổng số nhân khẩu Khẩu

5.772

-

5.944

-

6.140

-

2. Tổng số hộ

Hộ

878

-

958

-

1.040

-

3. Tổng số lao động

Người

1.914

100

2.096

100

2.276

100

- Lao động nam

Người

937

48,96

1.023

48,81

1.110

48,77

- Lao động nữ

Người

977

51,04

1.073

51,19

1.166

51,23

-Lao động nông nghiệp Người

1.584

82,76

1.677

80,01

1.702

74,78

- L.đphi nông nghiệp Người

17,24

19,99

419

574

25,22

330 (Nguồn: UBND xã Bản Lầu năm 2013, [15])

H.4. Biểu đồ thể hiện cơ cấu lao động của xã Bản Lầu năm 2013.

Nguồn: UBND xã Bản Lầu năm 2013, [15].

Qua bảng 3.3 và biểu đồ H.1 có thể thấy xã Bản Lầu có nguồn lao động khá

dồi dào với cơ cấu lao động trẻ và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp

51

(chiếm 74,78%) còn lĩnh vực phi nông nghiệp chỉ chiếm tỷ lệ thấp (25,22%) . Bên

cạnh đó,theo nguồn thống kê của Hội phụ nữ của xã, trung bình mỗi hộ gia đình có

4 người, và tỉ lệ nam là 47,5% và nữ chiếm 52,5%, số liệu này được thu thập dựa

trên những thành viên trong gia đình hiện nay đang cư trú trên địa bàn, không bao

gồm con cái đã tách ra khỏi hộ.

Số con trung bình của các hộ là 2,2 con, với tình hình như vậy thì việc đầu tư

cho con cái cả mặt vật chất lẫn trí tuệ trong địa bàn thôn khá thuận lợi và không gặp

những trở ngại đáng kể trong vấn đề nâng cao chất lượng cuộc sống.

Theo thống kê số liệu cho biết, lứa tuổi thanh thiếu niên hiện tại có trình độ

khá cao và đồng đều có tới 97,8% được đi học hết cấp 3 và trong tổng số thanh niên

trên địa bàn thôn có khoảng 30% hiện đang có trình độ cao đẳng và đại học. Chỉ có

0,5% trong tổng dân số của thôn là mù chữ. 18,2% học hết cấp 1, 33,7% học hết

cấp 2. Có 40,6% dân số học hết cấp 3. Và 7,0% dân số có trình độ đại học, cao

đẳng.

H.5. Biểu đồ trình độ học vấn của ngƣời dân xã Bản Lầu

Nguồn: Số liệu phân tích từ ban mặt trận xã Bản Lầu.

Qua biểu đồ trên, nhìn chung trình độ học vấn của người dân trong xã tương

đối cao so với mặt bằng chung của cả huyện. Tỷ lệ mù chữ khá thấp, chỉ tồn tại ở

một số tộc người thiểu số ở các địa bàn thôn xa trung tâm xã và đi lại khó khăn,

52

không có điều kiện đi học.Tuy nhiên trong những năm trở lại đây, các bậc cha mẹ

đã ý thức được tầm quan trọng của việc nâng cao trình độ cho con em mình, họ ý

thức được chính trình độ dân trí thấp là nguyên nhân dẫn tới tình trạng nghèo đói.

Vì thế tất cả các gia đình trong thôn đều tạo điều kiện cho con cái mình đi học, với

mục đích nâng cao trình độ cho thế hệ tương lai, tạo nguồn nhân lực có trình độ có

chuyên môn nhằm phục vụ quê hương và đất nước.

Trình độ dân trí của dân hiện nay ngày càng được nâng cao hơn so với trước

kia, vì vậy khả năng lựa chọn kế sinh nhai của người dân cũng ngày càng được cải

thiện và đảm bảo hơn.Tuy nhiên, với mức trình độ như vậy so với thực tế ngoài xã

hội hiện nay thì người dân khó có thể tìm kiếm được một công việc có mức thu

nhập cao khi mà xã hội ngày càng hiện đại và đòi hỏi cao nguồn lao động trí tuệ, có

trình độ chuyên môn. Vì vậy, người dân buộc phải lựa chọn những công việc thiên

về tính chất lao động chân tay, đòi hỏi sức lực dồi dào, kĩ năng thấp mà ít đòi hỏi

trình độ những công việc ấy.

Có thể nói hiện tại về nguồn vốn con người, sức khỏe của người dân hiện

đang là yếu tố chủ đạo quyết định hiệu quả của các hoạt động sinh kế. Mặc dù tỉ lệ

dân số trong thôn có hơn 70% làm trong ngành nông nghiệp nhưng đời sống của

người dân không quá thấp so với mức bình quân của cả nước, bình quân mức thu

nhập của người dân là 15 triệu đồng/năm. Tổng thu nhập của cả xã năm 2013 là 67

tỷ đồng. Với mức thu nhập như vậy thì có thể đánh giá được đời sống của người dân

sống trên địa bàn là khá cao, và bền vững.

Nguồn vốn con người là yếu tố đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng một

chiến lược sinh kế hiệu quả và phát triển lâu dài. Nguồn vốn này nếu được trau dồi

và chú trọng thì trong tương lai có thể khắc phục được những hạn chế của các yếu

tố khác như tài chính, vật chất, tự nhiên, xã hội…Ngược lại một khi mà nguồn vốn

con người không được chú trọng, ngày càng hạn hẹp thì đó sẽ là bức tường cản trở

gây nên khó khăn trong đời sống của người dân.

Nguồn vốn xã hội

Con người sống trong một xã hội sẽ trực tiếp tham gia vào các mạng lưới xã

53

hội khác nhau và được thể hiện qua sự tương tác diễn ra hàng ngày trong lao

động,sản xuất cũng như các quá trình khác. Và sự tác động từ phía xã hội đó, cũng

là một yếu tố quyết định tới các hoạt động sinh kế của chính họ.

Xã Bản Lầu là một hệ thống xã hội nhỏ nằm trong một xã hội lớn hơn bao

trùm, mỗi thành viên tham gia vào mạng lưới xã hội có những chức năng, vai trò,

nhiệm vụ khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ và tương hỗ lẫn nhau. Xã có bộ

máy các cán bộ lãnh đạo và các Ban, Hội quản lý ,có trách nhiệm đứng ra giải

quyết các vấn đề liên quan đến lợi ích chung của cộng đồng, thông tin cho bà con

các nghị quyết, thể chế chính sách, các quyền lợi của nhân dân. Những người dân

trong thôn có mối liên kết, quan hệ hàng xóm, láng giềng thắm thiết do ở cạnh nhà

nhau, mọi người thường xuyên giúp đỡ, chia sẻ với nhau những lúc khó khăn, bệnh

tật.

Bên cạnh đó, với người dân trong xã, đặc biệt là người Hmông ở đây có tính

cộng đồng cao, họ sống trong trong từng bản riêng biệt, gắn bó có những hoạt động

sinh kế giống nhau, cho nên họ thành lập lại những nhóm hội như: hội trồng chè,

hội trồng dưa hấu, hội nghề cá… nhằm bảo vệ quyền lợi cũng như cùng nhau chia

sẻ những kinh nghiệm trong cách làm ăn, chia sẻ giúp đỡ với nhau trong hoạn nạn,

khó khăn.

Theo thống kê, có 100% người dân tham gia vào hội phụ nữ, 100% số người

trong độ tuổi thanh niên tham gia vào đoàn thanh niên, 100% các hộ gia đình tham

gia vào hội trồng chuối, dứa của thôn. Sở dĩ, tất cả người dân đều tham gia vào các

tổ chức đoàn thể như vậy vì người dân được hỏi cho rằng khi họ tham gia vào các tổ

chức như vậy sẽ được hưởng các quyền lợi từ các tổ chức ấy như được tham gia các

buổi tập huấn về các phương thức làm ăn, được hoạt động vui chơi, phong trào ở

địa phương trong những ngày lễ, ngày hội…vv

Có thể nói người dân khi tham gia vào mạng lưới xã hội, và nằm trong các

mối quan hệ ấy, đương nhiên các hoạt động sinh kế của người Hmông ở đây đều

chịu sự tác động từ bối cảnh thể chế của nguồn vốn xã hội. Mối quan hệ cộng đồng

của người Hmông rất chặt chẽ, trực tiếp ảnh hưởng đến sự biến đổi phương thức ,

loại hình sinh kế đối với tất cả hộ dân trong cùng một thôn, và cả địa bàn xã, với tư

54

cách là một nguồn vốn xã hội.

Nguồn vốn tự nhiên

Yếu tố tự nhiên có vai trò rất quan trọng đối với con người trong quá trình

tồn tại và phát triển, đặc biệt là đối với người Hmông ở xã Bản Lầu, đa số các hoạt

động sinh kế của họ dựa vào nông nghiệp. Hàng ngày, con người sử dụng nguồn

nước, đất, không khí để tồn tại và các nguồn tài nguyên khác để đáp ứng nhu cầu

thiết yếu của mình. Mỗi sự biến đổi của tự nhiên, môi trường đều có mối quan hệ

mật thiết và ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sinh kế của con người.

Trong các nguồn tài nguyên thiên nhiên, có thể nói đất đai là một trong những

nguồn tài nguyên quan trọng và thiết yếu, nguồn tài nguyên này mang lại nhiều lợi ích

nếu con người biết cách khai thác và sử dung hợp lí nó một cách bền vững.

Có thể thấy xã Bản Lầu được thiên nhiên khá ưu đãi, điều kiện về thổ

nhưỡng ở đây có nhiều thuận lợi như: Đất đai có độ dày tầng canh tác >50cm chiếm

72%, độ dày tầng canh tác < 50cm chiếm 28%. Độ phì đất cấp 1 & 2 (tốt và rất tốt)

chiếm đến 85,6% tập trung ở vùng đồi và vùng thung lũng, độ phì cấp 3 (trung

bình) chiếm 11,9% chủ yếu ở vùng núi thấp, độ phì cấp 4 (xấu) chỉ chiếm 2,5% ở

khu vực núi cao, độ dốc lớn [25].

Điều đó thực sự có ý nghĩa cho phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp như:

trồng cây lương thực (lúa, ngô) và đặc biệt là những cây trồng có hiệu quả kinh tế

cao như: Dứa, chuối, chè, cao su...

Bảng 3.2 : Tình hình sử dụng đất đai xã Bản Lầu năm 2013.

Loại đất Năm 2013

Diện tích (ha) Tỉ lệ (%)

Tổng diện tích đất tự nhiên 5.711 100

1.Đất nông nghiệp 5.242,13 91,79

2.Đất phi nông nghiệp 453,45 7,94

3.Đất chưa sử dụng 15,2 0,27

55

Nguồn: UBND xã Bản Lầu 2013, [25].

Bên cạnh nguồn đất đai thuận lợi trong việc tiếp cận và sử dụng cho hoạt

động sinh kế của người dân, các yếu tố về các nguồn tự nhiên khác cũng như nguồn

nước đều không gặp trở ngại và khó khăn trong tiếp cận. Bản Lầu có hai con suối

lớn là suối Na Nhung và suối Na Lốc bắt nguồn từ xã Nậm Chảy và khu vực Cao

Sơn, lưu lượng nước của các suối chính khá ổn định kết hợp với các khe suối nhỏ

tạo nên mạng lưới thuỷ văn khá dày, phục vụ tốt cho sản xuất và sinh hoạt.Với các

điều kiện thuận lợi như vậy, người dân trong xã đã khai thác tốt nguồn lợi sẵn có từ

thiên nhiên.

Như vậy, nguồn tài nguyên thiên nhiên của xã Bản Lầu rất dồi dào và phong

phú, chính điều này tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động sinh kế của người

dân.Người dân ở đây có đủ diện tích đất để trồng trọt, chăn nuôi, rất dồi dào về

nguồn nước phục vụ cho sản xuất và các hoạt động sinh kế dựa vào ngành nông

nghiệp.

Nguồn vốn vật chất

Vật chất là một yếu tố thiết yếu trong cuộc sống của chúng ta, nguồn vốn này

bao gồm cơ sở hạ tầng, nhà ở, nhà ở, các công cụ sản xuất… Theo thống kê ở xã

Bản Lầu về tình trạng nhà ở hiện nay, thì tổng số nhà ở toàn xã là: 1.300 nhà ở dân

cư, trong đó có: 845 nhà (chiếm 65%) đạt tiêu chuẩn của Bộ xây dựng. 455 nhà

(chiếm 35%) chưa đạt chuẩn (không đảm bảo diện tích m2/người, xây dựng lâu năm

chưa được cải tạo, nâng cấp)

Số nhà tạm, dột nát: 58 nhà, chiếm 4,7% .

Số nhà kiên cố và bán kiên cố: 1.242 nhà, chiếm 95,3%

Thực trạng về nhà ở dân cư cho thấy, cơ bản nhà ở đều đã được xây dựng

kiên cố và bán kiên cố.Với thực trạng nhà ở như trên thì có thể thấy môi trường

sống của người dân thuộc vào dạng nhà ở an toàn, đa số nhà ở kín gió, cao ráo,

thoáng mát, điều này góp phần giúp người dân có tinh thần và khỏe mạnh, đặc biệt

khi thời tiết xảy ra các thiên tai, phức tạp.

Trong những năm trở lại đây, được sự hỗ trợ của chương trình 135 cùng với

56

đóng góp của nhân dân, các con đường vào thôn đã được bê tông hóa phục vụ nhu

cầu đi lại cũng như vận chuyển hàng hóa dễ dàng cho bà con góp phần tạo điều kiện

thuận lợi trong các hoạt động sinh kế.

Tài sản vật chất trong gia đình cũng được xem như là một nguồn vốn quan

trọng, nguồn vốn này được thể hiện qua biểu đồ sau:

H.6. Nguồn tài sản vật chất trong gia đình

Nguồn: Tài liệu điền dã dân tộc học.

Qua biểu đồ ta thấy nguồn tài sản của người Hmông ở xã Bản Lầu tương đối

phong phú, 100% số hộ gia đình đều có tivi, 96,4% có đầu đĩa DVD…những

phương tiện này một mặt góp phần đáp ứng nhu cầu giải trí của người dân, mặt

khác tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong việc tiếp cận các nguồn thông tin

về kinh tế - xã hội, giá cả thị trường, biến động của thời tiết. Có tới 85% số hộ có xe

máy, hầu hết người dân trong thôn sản xuất nông nghiệp đều cần phải có xe máy để

chở các sản phẩm từ nông nghiệp. Các tài sản khác như điện thoại bàn hay điện

thoại di động đều được người dân trang bị đầy đủ để thuận tiện trong việc liên lạc

tiêu thụ các sản phẩm do họ làm ra.

Với sự phát triển chung của xã hội, cùng với sự hợp lý trong lựa chọn các

hoạt động sinh kế phù hợp thì đời sống vật chất của người Hmông xã Bản Lầu ngày

càng được nâng cao rõ rệt. Đây được xem là nền tảng vững chắc cho việc tạo lập

57

một sinh kế bền vững.

Nguồn vốn tài chính

Nguồn vốn tài chính là một nguồn vốn quan trọng trong việc đầu tư các hoạt

động sinh kế tạo nguồn thu nhập. Nguồn vốn tài chính được hiểu là nguồn tiền mặt

được sử dụng trong các hoạt động sản xuất. Như chúng ta đã biết khi không có các

nguồn vốn để làm ăn sinh sống sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tới việc quyết định và lựa

chọn việc làm và nguồn thu nhập. Việc tiếp cận nguồn vốn tài chính của người

Hmông ở xã Bản Lầu từ nhiều yếu tố cả khách quan lẫn chủ quan tác động.Nhưng

hầu hết họ chỉ sử dụng sức lao động bằng chân tay để tạonguồn thu nhập từ hoạt

động sản xuất nông nghiệp. Chỉ có một số ít hộ trong thôn là công chức nhà nước,

và buôn bán dịch vụ.

Thông thường, mức tiền mặt thường xuyên là từ các hoạt động sinh kế tạo ra

nguồn thu nhập. Thu nhập bình quân trên đầu người của người Hmông xã Bản Lầu

là 18 triệu đồng/ năm.Hầu hết người dân có nguồn vốn tích trữ, nhưng không nhiều,

mỗi tháng chỉ tiết kiệm được khoảng 400 – 500 ngàn. Tuy nhiên, với sự quan tâm,

hỗ trợ của các chính sách vay vốn của Nhà nước, đã góp phần tạo dựng một mô

hình sinh kế bền vững cho người dân nơi đây.

Dựa vào 5 loại nguồn vốn sinh kế này, người Hmông ở xã Bản Lầu đã có

những sự lựa chọn và thay đổi các loại hình thức sinh kế, cụ thể ở đây là thay đổi cơ

cấu các loại cây trồng, vật nuôi…phù hợp.

3.1.1. Trồng trọt

Một trong những biến đổi quan trọng trong canh tác ở Bản Lầu trong bối

cảnh đổi mới (từ năm 1986) là sản xuất cây công nghiệp. Vốn là một vùng đất “4

không” (không đường, không điện, không chợ, không trường), nhưng nhờ có sự hỗ

trợ của chương trình 30ª, Bản Lầu đã chuyển đổi từ một nền kinh tế truyền thống

dựa nhiều vào tự nhiên và mang nặng tính tự cung tự cấp sang một nền kinh tế trong

đó các hoạt động sản xuất đã có định hướng thị trường rõ rệt hơn. Để có sự chuyển

đổi như vậy, phải kể đến các nguyên nhân do sự tác động của các nguồn vốn sinh kế

58

sau:

Bản Lầu là xã giàu tiềm năng, trong đó phải kể đến tiềm năng đất đai, đây

là lợi thế để xã phát triển tập đoàn các loài cây trồng tập trung trên quy mô lớn như

chuối, dứa, chè, cao su….

Bên cạnh đó, Hội khuyến nông huyện ủy phối kết hợp với chính quyền địa

phương và BĐBP xã, đã tổ chức các lớp tập huấn cho đồng bào người Hmông ở

đây về kỹ thuật chọn giống, canh tác, căm sóc cây trồng vật nuôi nhằm nâng cao

trình độ của người dân, qua đó nâng cao hiệu quả kinh tế.

Vốn là yếu tố quan trọng không những để tăng trưởng kinh tế, phát triển

sản xuất nông nghiệp, vốn giúp cho các hộ sản xuất có điều kiện thâm canh, tăng

năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Chính vì vậy, các chính sách cho vay

vốn, giao đất, giao rừng cho người dân ở các thôn bản của Đảng và Nhà nước ta

đã tạo ra môi trường thuận lợi cho người nông dân vươn lên chủ động trong sản

xuất, sử dụng đất có hiệu quả hơn bằng cách thay thế cây trồng kém hiệu quả bằng

các cây trồng có HQKT cao.

Việc thành lập các tổ chức tập chung chuyên canh các khu trồng chuối,

dứa, chè, cao su…và các tổ chức nông dân, hợp tác xã trong các thôn của người

Hmông giúp cho mọi người gắn kết với nhau hơn. Qua đó, mọi người có cơ hội để

chia sẻ, hợp tác và trao đổi với nhau về giống, kỹ thuật canh tác, nuôi trồng cũng

như về vốn, chính sách của Đảng, giúp đồng bào Hmông ở đây nâng cao nhận

thức, và hiệu quả kinh tế ngày một cao hơn.

Thực tiễn này được thể hiện phần nào qua bảng 3.1. dưới đây.

Bảng 3.3: Giá trị sản xuất của xã Bản Lầu năm 2013

STT Chỉ tiêu

1 Nông nghiệp 1.1 Chuối 1.2 Dứa 1.3 Các loại cây trồng khác 2 Công nghiệp & tiểu thủcông nghiệp 3 Thương mại- dịch vụ Tổng giá trị sản xuất

Giá trị (1.000đ) 93.874.500,00 15.750.000,00 56.250.000,00 21.874.500,00 55.592.350,00 16.977.300,00 166.444.150,00 Cơ cấu (%) 56,40 16,78 59,92 23,30 33,40 10,20 100,00

59

Nguồn: Báo cáo tổng kết UBND xã Bản Lầu năm 2013, [25].

Giá trị sản xuất của xã Bản Lầu chủ yếu là từ sản xuất nông nghiệp, cây

trồng chính là cây chuối và dứa.Đây là hai loại cây trồng thế mạnh của xã và là cây

trồng mũi nhọn. Vì thế UBND xã cũng chú trọng vào đầu tư phát triển cây dứa và

chuối bằng việc hỗ trợ thủ tục vay vốn, đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn

cũng như tập huấn khoa học kỹ thuật cho người dân, khuyến khích người dân sản

xuất lớn theo hướng hàng hóa tập trung. Ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp

là ngành mới phát triển nhưng đã đem lại nhiều giá trị to lớn cho xã nhưng giải

phóng lao động nông nhàn và hiệu quả kinh tế đáng kể thông qua giá trị sản xuất

của ngành công nghiệpv- tiểu thủ công nghiệp chiếm tới 33,4% cơ cấu giá trị sản

xuất toàn xã.

Cây dứa Queen và chuối mô được trồng tại Bản Lầu từ năm 1990 và dần trở

thành cây trồng mang lại hiệu quả kinh tế cao và có mặt trong các nghị quyết phát

triển kinh tế xã hội của Đảng và chính quyền xã Bản Lầu. Hai loại cây này được

đưa vào trồng tại xã giúp giải quyết bài toán trồng cây gì giúp nâng cao hiệu quả

kinh tế co các hộ dân.góp phần đáng kể trong việc nâng cao thu nhập và ổn định đời

sống cho người dân trên địa bàn. Góp phần vào việc xây dựng nông thôn mới trên

địa bản xã Bản Lầu.

Bên cạnh đó, trong khí thế xây dựng nông thôn mới, với lợi thế đồng đất

rộng, màu mỡ, dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, UBND xã, nhân dân Bản Lầu tập

trung thâm canh các giống lúa đặc sản cho giá trị kinh tế cao. Đến nay, trên đồng

đất Bản Lầu, các giống lúa đặc sản luôn chiếm tỷ lệ cao trong đó có trên 30ha

chuyên trồng lúa đặc sản séng cù. Bên cạnh đó, xã quy hoạch và phát triển các vùng

chuyên canh trồng cây hàng hóa với những vùng chuyên canh có giá trị kinh tế cao

như: vùng dứa hơn 700ha, vùng chuối hơn 250ha, vùng chè hơn 200ha…

Sau gần 10 năm thực hiện đề án “Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

nghiệp” của Đảng bộ huyện, Bản Lầu đã trở thành điển hình về sản xuất các loại

cây trồng có giá trị kinh tế cao, đưa giá trị thu nhập bình quân đầu người đạt trên 15

triệu đồng/người/năm. Bên cạnh việc mở rộng diện tích các vùng chuyên canh,

vùng trồng cây ăn quả, Bản Lầu cũng đã và đang đưa cây cao su vào trồng trên đất

đồi dốc, bạc màu, để cải tạo đất. Ngoài trồng trọt, chăn nuôi cũng được coi là thế

60

mạnh, xã đã phát triển đàn gia súc gần 5.000 con và hơn 25.000 con gia cầm… tạo

việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân. Sản xuất phát triển, đời sống nhân dân

không ngừng được cải thiện.Đến nay tỷ lệ hộ nghèo của xã còn hơn 15%, giảm 23%

so với năm 2010.

Nhờ đó, trong những năm gần đây, kinh tế của người Hmông đã có nhiều

chuyển dịch cơ cấu, xuất hiện các vùng trồng cây đặc sản, cây ăn quả, mà ở đây tôi

gọi là cây công nghiệp vì nó có mục đích phụ vụ nhu cầu của thị trường chứ không

chỉ đơn giản là để tiêu thụ trong khuôn khổ hộ gia đình. Kết quả là nhiều hộ gia

đình người Hmông ở trong xã Bản Lâu đã và đang có xu hướng thoát khỏi tình

trạng sản xuất nương rẫy theo hướng tự cung tự cấp. Ở phần tiếp theo tôi sẽ phân

tích cụ thể hơn một số loại cây trồng làm biến đổi sinh kế truyền thống của người

Hmông ở Bản Lầu trong những năm qua.

a. Cây chuối mô

Cây chuối mô được được đưa vào trồng thử nghiệm ở xã Bản Lầu ngay từ

những năm 1990, khi có chương trình phối hợp giữa Bộ đội Biên phòng và Hội

Nông dân, Đồn Biên phòng Bản Lầu đã cùng với Hội nông dân huyện Mường

Khương mạnh dạn tổ chức hội nghị đầu bờ tại thôn Cốc Phương, đưa giống chuối

cao sản về trồng thử nghiệm. Qua nhiều năm thăng trầm, đến năm 1998, lần lượt

cây chuối đã trở thành một trong những cây trồng chủ đạo giúp địa phương xóa đói

giảm nghèo, ổn định đời sống.

Ảnh 1: Hình ảnh vườn chuối mô ở thôn Na Lốc xã Bản Lầu. Nguồn: Tài liệu điền

dã dân tộc học.

61

Trong những năm đầu trồng chuối chưa có cán bộ khuyến nông hay hội

nông dân phổ biến kỹ thuật, một số người Hmông ở Bản Lầu đã mạnh dạn sang

nước bạn Trung Quốc để làm thuê và học tập kinh nhiệm từ người dân Trung Quốc

bằng một ý trí quyết tâm làm giàu của mình. Sau đó, những người này về lại áp

dụng và phổ biến cho những người khác trong thôn mình, cứ như vậy đến bây giờ

họ đã thành thạo trong việc trồng, chăm sóc và bảo quản chuối cho gia đình mình.

Tuy nhiên, với cây chuối mô là loại cây trồng được nhân giống theo phương pháp

vô tính công nghệ cao vì vậy yêu cầu kỹ thuật trồng và chăm sóc cần phải tỉ mỉ và

khó khăn hơn các cây trồng nhân giống bằng phương pháp khác. Vì thế, nguồn vốn

con người ở đây cần được quan tâm hơn nữa, quan trọng nhất là vấn đề nâng cao

trình độ học vấn cho người dân, đặc biệt ở đây là đồng bào người Hmông ít có điều

kiện được học tập.Bởi lẽ trình độ học vấn có ảnh hưởng rất lớn tới kết quả sản

xuất nông nghiệp. Theo điều tra, những hộ có thu nhập khá từ kinh doanh sản xuất

chuối thường là những hộ có trình độ học vấn cao hơn những hộ khác, tuy trình

độ học vấn không chênh lệch nhiều nhưng lại ảnh hưởng rất nhiều tới HQKT sản

xuất chuối. Hiện nay, tại địa bàn xã Bản Lầu, các cán bộ nông nghiệp ở huyện cũng

đã phối kết hợp với lãnh đạo xã , cũng như cán bộ các thôn, mở các lớp học và nâng

cao kỹ thuật trồng và chăm sóc chuối, kỹ thuật phòng trừ sâu bệnh, bên cạnh đó

còn mở các lớp học về kỹ thuật nhân giống, điều đó góp phần tích cực để người

dân có thể chủ động về nguồn giống cũng như giảm đi một nguồn chi phí giống.

Bên cạnh đó, quy mô, diện tích cây chuối mô trên địa bàn xã Bản Lầu hiện

nay ngày càng được phát triển và mở rộng, một phần lớn do có sự hỗ trợ của Nhà

nước về vốn như: cho vay với lãi suất ưu đãi, kéo dài thời hạn trả, trợ giá cây

giống, phân bón,... Đây chính là nguồn vốn tài chính đầu tư cho người dân trong

việc nhập giống, và máy móc, phân bón, thuốc trừ sâu phục vụ cho việc sản xuất,

tạo nguồn thu nhập, góp phần tạo dựng một mô hình sinh kế bền vững cho người

62

dân nơi đây.

Ảnh 2: Cây chuối mô được chăm sóc rất cẩn thận. Nguồn: Ảnh tư liệu của tác giả.

Cây chuối mô được đánh giá là cây trồng mới phù hợp với khí hậu và thổ

nhưỡng xã Bản Lầu, chi phí sản xuất thấp mà lại có tác dụng hạn chế xói mòn khi

trồng trên đất đồi.Cây chuối mô đem lại HQKT cao gấp 3-4 lần so với trồng lúa,

sắn, ngô… và đem lại hiệu quả kinh tế-xã hội lớn. Cây chuối mô được trồng tại xã

từ năm 2000 nhưng tính đến cuối năm 2013 tổng diện tích chuối trồng trên địa bàn

xã là 250 ha được trồng chủ yếu ở các thôn Na Lốc và Cốc Phương, diện tích cho

thu hoạch là 200 ha, sản lượng thu hoạch đạt 3.500 tấn, giá trung bình 6000đ/kg,

tổng trị giá đạt 21 tỷ đồng giảm 1 tỷ 750 triệu đồng so với cùng kỳ năm trước (do

thị trường tiêu thụ không ổn định, giá thấp nên đã gây thiệt hại cho nông dân).

Bảng 3.4: Diện tích chuối của xã Bản Lầu năm 2011-2013

Đơn vị tính: ha

So sánh (%) Bình quân (%) Chỉ tiêu Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 2012/2011 2013/2012

150,00 177,00 200,00 118,00 113,00 115,50

Diện tích kinh doanh

30,00 23,00 50,00 76,70 217,40 147,10

Diện tích trồng mới

Tổng diện tích

180,00 200,00 250,00 111,10 125,00 118,10

63

Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo tổng kết năm 2013 của UBND xã Bản Lầu.

Về giống và kỹ thuật sản xuất: Người dân trao đổi từ các địa phương của

huyện Hà Khẩu (Trung Quốc).Quy hoạch phát triển vùng sản xuất chuối mô của

huyện Mường Khương đến năm 2015 là 450 ha. Từ chỗ chỉ có bản Cốc Phương

trồng, giờ đây chuối mô đã có mặt ở khắp 21 thôn, bản của xã Bản Lầu. Năng suất

và sản lượng chuối của xã Bản Lầu liên tục tăng qua các năm bởi kinh nhiệm sản

suất của người dân ngày càng được nâng cao cũng như mức độ đầu tư cao hơn, điều

đó được thể hiện cụ thể qua bảng 3.5 dưới đây.

Bảng 3.5: Diện tích, năng suất, sản lƣợng chuối của xã Bản Lầu năm 2011-2013

Đơn vị tính: ha

So sánh (%)

Bình 2012/ 2013/ ĐVT Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 quân 2011 2012

(%) Tổng diện

Ha

180,00

200,00

250,00

111,10

125,00

118,10

tích

Diện tích

Ha

150,00

177,00

172,00

118,00

92,70

105,40

Thu hoạch

Tấn/ha

19,30

20,90

20,30

108,30 97,10 102,70

Năng suất

Sản lượng

Tấn

2.900,00

3.700,00

3.500,00

127,60

94,60

111,10

tươi

1000 đ

8,00

6,00

6,50

75,00 108,33 91,67

Giá bán

Giá trị

1000 đ

23.200.000,00

22.200.000,00

22.750.000,00

95,69

102,48

99,09

sản xuất

64

Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo tổng kết năm 2013 của UBND xã Bản Lầu.

Kỹ thuật trồng và chăm sóc: Kỹ thuật trồng chuối mô ở Bản Lầu được tiến

hành như sau: Thông thường người dân trồng chuối theo tập quán tách chồi. Tuy

nhiên hiện nay khoa học phát triển, nên chuối giống được tạo từ nuôi cấy mô tế

bào.Với kỹ thuật này cây sau trồng 12-16 tháng tuổi cho năng suất và chất lượng

quả cao hơn việc trồng chuối từ chồi.Hơn nữa việc trồng chuối từ mô đồng loạt dẫn

đến chuối ra buồng và chín đồng đều nên rất thích hợp trồng thành vùng sản xuất

thâm canh chuối.

Thời vụ trồng:chuối được trồng quanh năm, nhưng tốt nhất nên trồng khi đất

đủ ẩm hoặc vào đầu mùa mưa, cây sinh trưởng tốt cho tỉ lệ sống cao hoặc xác định

thời điểm trổ buồng, thu hoạch mà chọn thời gian trồng thích hợp với điều kiện chủ

động được nước tưới.

Phương thức và mật độ trồng:cây chuối được trồng theo hàng với khoảng

cách hàng cách hàng 2,0 - 2,5m. Khoảng cách giữa hai cây là 2m tương đương với

2000 - 2500 cây/ha.

Cách làm đất, bón lót và trồng cây:

 Làm đất: Tiến hành đào hố với kích thước 50x50x50 cm.

 Bón lót: Bón lót 5kg phân chuồng hoai + 0,3kg supe lân hoặc 0,3kg

phân NPK cho mỗi hố, dùng cuốc trộn đều phân với đất, lấp cho gần

đầy hố. Tiến hành bón phân trước khi trồng từ 15 - 30 ngày.

 Trồng cây: Khi thời tiết thuận lợi như trời dâm mát, đất đủ ẩm thì tiến

hành trồng cây. Dùng dao sắc rạch bỏ túi bầu (tránh để vỡ bầu), đặt

cây giống vào giữa hố, lấp đất đến qua cổ rễ và nén chặt. Trồng xong

cần tưới đẫm nước ngay để tránh mất nước và rễ tiếp xúc với đất được

tốt.

Chăm sóc sau trồng:chuối là cây chịu nóng kém nên cần rất nhiều nước vì

vậy phải thường xuyên tưới nước giữ ẩm, để cây phát triển bình thường. Ở giai

đoạn cây con tưới 2 ngày/lần, cây trưởng thành 2 lần/tuần. Vào mùa mưa chú ý

thoát nước tốt cho vườn chuối để tránh ngập úng.

- Bón thúc:0,3 - 0,4kg ure và 0,4 - 0,5 Kali clorua/cây/vụ.

65

Lần1: Sau khi trồng(SKT) 1,5 tháng bón 30% lượng đạm và 30% lượng Kali.

Lần 2: Khoảng 4,5 tháng SKT bón 40% lượng đạm và 40% lượng Kali

Lần 3: Khoảng 7,5 tháng SKT bón 30% lượng đạm và 30% lượng Kali

- Tỉa chồi và để chồi: tỉa chồi phải thường xuyên khoảng 1 tháng/lần, dùng

dao cắt ngang thân sát mặt đất và hủy đỉnh sinh trưởng. Nên tiến hành tỉa vào lúc

trời nắng ráo, tránh để đọng nước xung quanh làm chồi con bị thối lây sang cây mẹ.

Việc để chồi thực hiện sau khi trồng 5 tháng, chừa lại cây con mập, khỏe mọc cách

xa cây mẹ trên 20cm, sao cho mỗi bụi có 3 cây cách nhau khoảng 4 tháng.

- Bẻ bắp và chống buồng: Sau khi xuất hiện 1-2 nải trung tính, tiến hành bẻ

bắp vào buổi trưa để hạn chế sự mất nhựa. Nên dùng cây chống buồng tránh đỗ ngã.

* Phòng trừ sâu bệnh:cây chuối thường xuất hiện một số loại sâu hại như:

- Sùng đục củ: Cây chuối có biểu hiện mọc yếu, lá rụng nhiều. Thường

xuyên vệ sinh vườn chuối, sử dụng Basudin rải trên cổ gốc chuối để trừ sùng.

- Bù lạch: thành trùng rất nhỏ, có màu nâu hay đen thường tập trung ở các lá

bắc để chích hút các trái non, làm trái có những chấm màu nâu đen (ghẻ), làm mất

vẻ đẹp, rất khó xuất khẩu. Phòng trị: phun thuốc Decis hoặc Sherpa 25 EC ở giai

đoạn mới trổ và trái còn nhỏ.

* Thu hoạch

Từ trồng đến trổ khoảng 6-10 tháng và từ trổ đến thu hoạch khoảng 2 - 3

tháng tùy theo giống. Thường độ chín của quả được xác định qua màu sắc vỏ, độ no

đầy và góc cạnh của trái. Lúc thu buồng tránh làm cho trái bị trầy xước.

Chuối được thu hoạch mỗi năm một lần, độ chín thu hái của chuối là lúc độ

già đạt 85 - 90%. Lúc đó vỏ chuối còn xanh thẫm, quả đã lớn hết cỡ, đầy đặn, hầu

như không còn gờ cạnh, thịt chuối có màu trắng ngà đến vàng ngà. Độ chín thu hái

của chuối thường đạt được sau 115 - 120 ngày phát triển kể từ khi trổ hoa. Thu

hoạch chủ yếu bằng phương pháp thủ công, chuối trồng trên đồi, vận chuyển xa,

vào mỗi vụ thu hoạch chuối phải huy động một số lượng lao động lớn để gùi, rồi

chở chuối từ đồi xuống các điểm tại Hà Khẩu (Trung Quốc) nơi xe tải có thể vào

được, việc thu hoạch chuối một cách thủ công như vậy làm cho chuối dễ bị dập, ảnh

hưởng đến chất lượng chuối và giá thành sản phẩm, chi phí vận chuyển cao vì thế

66

chi phí cho khâu thu hoạch lớn ảnh hưởng đến thu nhập của các hộ trồng chuối.

Thu hoạch quá sớm có lợi về giá bán nhưng chuối chưa đảm bảo về chất chất

lượng dẫn đến HQKT thấp.Thu hoạch quá muộn chuối ngon nhưng số lượng suy

giảm mặc dù giá thành cao tuy vậy HQKT cũng không được cao. Chênh lệch giá cả

của chuối chính vụ và chuối trái vụ là rất lớn từ 3000đ-4000đ/kg vì vậy cần phải có

hướng dẫn kỹ thuật của cán bộ khuyến nông để giúp người dân có thể nắm bắt kỹ

thuật trồng chuối trái vụ nhằm nâng cao HQKT của cây chuối mô.

Bảo quản sau thu hoạch: việc tiêu thụ chuối của người nông dân thường là

bán quả tươi, không gặp khó khăn trong việc thu mua. Vì vậy việc bảo quản không

cần quá khắt khe, sau khi chuối được chặt từ cây thì chuyển đến nơi xe tải của các

thương lái Trung Quốc có thể vào được.

Ảnh 3: Vợ chồng chị Thào Máy vui mừng vì sản lượng và giá chuối thị trường năm nay

mang lại thu nhập khá cho gia đình. Ảnh tư liệu của tác giả.

Việc phát triển cây chuối mô cũng có những tác động nhất định, như làm

cho bộ mặt kinh tế của xã có nhiều thay đổi. Phát triển sản xuất cây chuối mô góp

phần giải quyết việc làm cho người lao động tại chỗ trong nông thôn, sản phẩm

quả được tiêu thụ lưu thông trên thị trường tạo điều kiện thúc đẩy các dịch vụ sản

xuất phát triển, góp phần làm thay đổi nông thôn theo hướng công nghiệp hóa và

hiện đại hóa. Góp phần chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng tổ chức hàng hoá.

Đồng thời, cải tạo môi trường sinh thái theo hướng phát triển môi trường sinh thái

67

bền vững. Do trồng cây chuối mô đúng kỹ thuật góp phần phủ xanh đất trống đồi

trọc, nâng cao độ che phủ, cải thiện môi trường sinh thái hạn chế rửa trôi, xói mòn

suy thoái đất, hạn chế nguy cơ và thiệt hại do mưa lũ gây ra, nguồn tài nguyên đất

đai sẽ được sử dụng hợp lý, đồng thời người dân có thu nhập cao sẽ hạn chế phá

rừng làm nương. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng, sử dụng tài nguyên thiên nhiên

hợp lý, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế nông nghiệp, sử dụng đất hợp lý với

từng loại cây trồng để đem lại việc làm và thu nhập cho người lao động nông

thôn. Từng bước xóa đói giảm nghèo, thúc đẩy nền kinh tế - xã hội của địa phương,

giữ vững an ninh chính trị và chủ quyền quốc gia dọc tuyến biên giới Việt Nam -

Trung Quốc.

b. Cây dứa Queen

Ảnh 4 : Người dân đem dứa bày bán ngay sau khi thu hoạch xong. Nguồn: Ảnh tư liệu

điền dã dân tộc học.

Căn cứ vào điều kiện tự nhiên và thực trạng canh tác, xã Bản Lầu đã lựa

chọn cây dứa làm cây trồng chính trên đất đồi, bởi dứa là loại cây trồng không kén

đất, chịu được hạn, không đòi hỏi vốn đầu tư cao lại tương đối dễ chăm sóc. Vì thế,

từ những năm 2006, 2007 một số hộ gia đình đã mạnh dạn đầu tư trồng dứa, cây

68

dứa được coi là cây trồng chủ lực để xoá đói, giảm nghèo.

Mỗi hộ gia đình tại Bản Lầu có từ 3-5 vạn gốc dứa. Cây dứa “lên ngôi” giúp

cho người dân có việc làm, tăng thu nhập. Chính vì vậy, người dân ở đây đang

chú ý đầu tư có chiều sâu để giữ "thương hiệu" dứa Bản Lầu.Bởi vậy trong những

năm qua diện tích trồng dứa ở đây khá ổn định, không mở rộng bừa bãi vì người

dân đầu tư thâm canh dứa hàng hóa, đảm bảo đầu ra được ổn định, hạn chế tình

trạng được mùa rớt giá.

Với tổng diện tích cho thu hoạch là 500 ha, sản lượng dứa quả Bản Lầu năm

2015 ước đạt 12.500 tấn, trong đó 50% được xuất khẩu sang Trung Quốc. Đây là vụ

dứa chính vụ và thời gian thu hoạch sẽ kéo dài cho đến hết tháng 4/2014. Hiện đã

có nhiều tư thương ở các tỉnh trong nước và phía Trung Quốc đến các gia đình trồng

dứa đặt hàng ngay từ sau tết Nguyên đán 2015.Trưởng thôn Cốc Phương Thào Dìn

cho biết:

"Vụ dứa năm ngoái, nhà tôi thu hoạch được hơn 100 tấn quả, bán cho Nhà

máy chế biến dứa xuất khẩu Bắc Giang được gần 200 triệu đồng. Cả thôn

Cốc Phương nhà nào cũng trồng dứa. Thấy nhiều nhà giàu lên bằng trồng

dứa nên mọi người trong thôn tự học nhau mà làm thôi" (Tài liệu phỏng vấn

ngày 25/6/2015)

Vậy là, lề lối sản xuất tự cung tự cấp, khép kín; tập quán du canh du cư tồn

tại bao năm naytrong đồng bào Hmông ở đây đã thay đổi.Không còn cảnh độc canh

lúa nương, cây ngô địa phương năng suất thấp.Để phát triển kinh tế, người Hmông

ở Bản Lầu đã biết sản xuất hàng hóa. Phong trào trồng dứa xuất khẩu đã lan tỏa từ

những mô hình làm ăn khá, giỏi trong thôn, xã, lôi cuốn mọi người làm theo.

Cán bộ khuyến nông tập trung hướng dẫn kỹ thuật, chính quyền lo việc quy

hoạch, quản lý đất đai cho trồng dứa phù hợp định hướng phát triển nông - lâm bền

vững của huyện và tỉnh. Ngoài trưởng thôn Thào Dìn, các hộ như Thào Vư ở thôn

Cốc Phương, Sủng Phìn ở thôn Na Lốc 4, Tráng Seo Dinh ở thôn Ðồi Gianh, Vàng

Seo Sẩu ở thôn Pạc Bo,..đều là những hộ có thu nhập hàng trăm triệu đồng từ tiền

bán dứa quả hằng năm. Chủ tịch UBND xã Bản Lầu Ðỗ Duy Phiên cho biết: Cả xã

Bản Lầu hiện có 300 ha dứa xuất khẩu, tạo việc làm và nguồn thu nhập khá cho gần

69

200 hộ gia đình người Hmông ở địa phương.

Ảnh 5:Anh Thào A Minh bên nương dứa của gia đình mình. Nguồn: Ảnh tư liệu

điền dã dân tộc học.

Một ví dụ điển hình ở vùng dứa xã Bản Lầu là gia đình ông Thào A Diu tại

thôn Cốc Phương, gia đình ông trồng dứa từ nhiều năm nay, năng suất trung bình

năm 2013 đạt từ 27-30 tấn , trừ tất cả mọi chi phí thì gia đình ông thu về khoản lãi

đến gần trăm triệu đồng.Đến nay, nhiều người đã trở thành nông dân sản xuất giỏi,

trở thành triệu phú từ cây chuối, cây dứa như các ông Thào A Diu, Thào A Minh,

Thào A Thắng, Thào A Dìn, Vàng Seo Dìn… ở hai thôn Na Lốc, Cốc Phương. Từ

những tấm gương này, nhiều hộ gia đình trong xã đã đầu tư phát triển cây dứa, toàn

xã đã có 750 ha, cho doanh thu hàng chục tỷ đồng. Việc trồng dứa đã đem lại nguồn

thu nhập ổn định cho người dân và bước đầu là bài toán thoát nghèo cho bà con

trong xã.Chị Thào Thị Cở, 26 tuổi, dân tộc Hmông, chủ một đồi dứa ở thôn Na Mạ,

cho biết: “Nếu dứa quả to và nặng (khoảng 4 lạng trở lên), tư thương Trung Quốc

trả giá gần 1,7 nhân dân tệ/kg (tương đương 5.000 đồng/kg). Năm nay gia đình tôi

trồng 3 vạn gốc dứa, sẽ thu hoạch trên 20 tấn quả, dự kiến bán được 100 triệu

70

đồng”. (Tài liệu phỏng vấn ngày 25/8/2015).

Anh Cư Seo, 43 tuổi, dân tộc Hmông cho biết, nếu so giá dứa xuất khẩu với

trồng ngô, cấy lúa, thì trồng dứa lợi hơn nhiều. Vụ dứa năm 2015theo ước tính, gia

đình anh sẽ thu về 140 triệu đồng.Anh Thào Dìn, dân tộc Hmông,được mệnh danh

là "Vua dứa, chuối" của xã Bản Lầu cho biết :

"Kinh nghiệm trồng dứa bao nhiêu năm cho thấy, thời vụ thu hoạch dứa

đúng thời gian mới là khâu quyết định nhất.Bởi khi dứa chín dễ bị thối, khách hàng

chê là chủ “đói”. Vụ dứa năm nay, gia đình anh ước thu hơn 300 triệu đồng. Cách

đây vài năm, bà con ở đây thu hoạch chủ yếu dùng sức người, sức ngựa vận chuyển.

Bây giờ bà con gùi rồi vận chuyển bằng xe máy nên đảm bảo thời gian và cũng bớt

vất vả, mọi người đều phấn khởi". (Tài liệu phỏng vấn ngày 25/8/2015).

Ngoài những gia đình trồng dứa có tiếng ở Bản Lầu mỗi năm thu hoạch hàng

trăm triệu đồng như ông Thào Dìn, Thào Diu (thôn Cốc Phương); Vàng Seo Dìn,

Vàng Phủng, Vàng Seo Quáng (thôn Na Lốc 3), danh sách triệu phú từ dứa ở Bản

Lầu tiếp tục dài thêm qua các năm.

Theo ông Dương Hoàng Trung, Phó chủ tịch UBND xã Bản Lầu, mỗi ha dứa

năng suất trung bình đạt từ 25 - 30 tấn, với giá bán khá ổn định so với năm trước,

trung bình từ 4.500 - 5.000 đồng/kg, người trồng dứa ở xã Bản Lầu (Mường

Khương) thu được trên 150 triệu đồng/ha, ước thu khoảng 70 tỷ từ vụ dứa năm

2015.

Trải qua nhiều biến động, cây dứa cũng có năm được mùa, mất giá vì khâu

tiêu thụ bấp bênh do thị trường không ổn định. Có năm, một số hộ trồng dứa không

theo được đành chấp nhận bỏ cuộc. Năm 2012, xã Bản Lầu có diện tích dứa 750 ha,

lớn nhất tỉnh Lào Cai, trong đó, có 500 ha cho thu hoạch, nhưng giá dứa bình quân

chỉ đạt 2.500 đồng/kg đã làm nhiều hộ lao đao. Nhưng gắn bó với cây dứa nhiều

năm bà con nông dân nơi đây vẫn quyết tâm vượt qua khó khăn, bằng mọi giá giữ

được diện tích. Quả là đất không phụ công người nông dân đã “một nắng hai

sương”, từ năm 2013, khi khâu tiêu thụ được đảm bảo thì vụ dứa năm nay, Bản Lầu

vẫn còn nguyên 500 ha dứa cho thu hoạch.

71

Ông Phạm Bá Uyên, Phó Chủ tịch huyện Mường Khương cho biết:

“Sở dĩ mối lo đầu ra của dứa Bản Lầu những năm nay hầu như không còn là

do huyện đã chủ động việc tiêu thụ ngay từ khi kết thúc vụ thu hoạch dứa

năm trước. Theo đó, huyện tổ chức việc gặp gỡ các doanh nghiệp, tư thương

thường xuyên mua dứa ở Mường Khương để rút kinh nghiệm các vấn đề liên

quan; thành lập đoàn công tác đi tiếp thị tại một số nhà máy chế biến tại Hải

Phòng, Bắc Giang, Hưng Yên, Vĩnh Phúc và huy động được sự vào cuộc của

các nhà máy thông qua cam kết hỗ trợ bà con vật tư, kỹ thuật, bao tiêu sản

phẩm lâu dài. Đối với tư thương Trung Quốc, người trồng dứa đã yêu cầu

các bạn hàng cam kết tiêu thụ sản phẩm và giá cả ổn định.(Tài liệu phỏng

vấn ngày 30/8/2015).

Về thị trường tiêu thụ:

Việc phân tích thị trường tiêu thụ là một việc rất quan trọng và cần thiết,

bởi thị trường có vị trí trung tâm, thị trường vừa là mục tiêu của sản xuất kinh

doanh vừa là môi trường của hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa nông nghiệp.

Đánh giá thực trạng thị trường tiêu thụ hiện nay ở xã Bản Lầu cho thấy, nhìn

chungthị trường còn nhiều bấp bênh, đầu ra của nhiều loại quả, ở đây cụ thể là

dứa còn bị hạn chế. Tiêu thụ nông sản qua biên giới trước giờ vẫn phụ thuộc nhiều

vào thương lái nước ngoài,cụ thể ở đây là các thương lái Trung Quốc, chủ yếu là

hợp đồng miệng nên đầy rủi ro. Do vậy, nhiều ý kiến cho rằng, để cây chuối Bản

Lầu tiếp tục phát huy hiệu quả kinh tế, cần mở rộng thị trường trong nước để chủ

động đầu ra cho sản phẩm. Ví dụ, cần xác định thị trường tiêu thụ là Hà Nội và các

tỉnh phía Bắc. Thị trường phụ trợ là các huyện đồng bằng trong tỉnh và nội địa.

Phương thức thực hiện thông qua việc mua bán trao đổi giữa nông dân với tư

thương, nên cần phải được liên kết, ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm giữa nông

dân với các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân thông qua điểm thu mua tập trung

tại các khu dân cư, các chợ đầu mối.

Tuy nhiên, để xuất khẩu, trước hết phải có sản lượng ổn định, chất lượng

đồng đều, đáp ứng yêu cầu rất khắt khe về quy định an toàn thực phẩm, được kiểm

72

tra chất lượng, giám sát trong suốt quá trình sản xuất, được cơ quan có thẩm quyền

cấp chứng chỉ chất lượng, ghi nhãn hàng hóa, chỉ dẫn địa lý, đóng gói sơ chế… theo

yêu cầu của nhà nhập khẩu.

Trong những năm gần đây,nhờ tạo được vùng dứa tập trung, hằng năm Bản

Lầu bán cho các nhà máy chế biến dứa xuất khẩu ở Hà Nội, Bắc Giang, Hải Phòng

khoảng 3.000 tấn quả, trị giá hơn bốn tỷ đồng. Ðến vụ thu hoạch, xe ô-tô của các

nhà máy đến tận chân đồi dứa để cân hàng và trả tiền tại chỗ. Sản phẩm dứa quả

Bản Lầu, Mường Khương được khách hàng ưa chuộng bởi quả to đều, vị ngọt,

thơm, nhiều nước. Con số chưa lớn nhưng rất đáng kể đối với một huyện miền núi

biên giới nhiều khó khăn hơn thuận lợi như Mường Khương.

Có thể nói, hiện nay, cây dứa đã và đang trở thành một cây sinh kế theo

hướng sản xuất hàng hoá đem lại hiệu quả kinh tế cao cho nhiều hộ gia đình người

Hmông ở Bản Lầu.Đây có thể coi là một mô hình sản xuất vì mục tiêu xoá đói giảm

nghèo mà trước mắt chưa có loại cây trồng thay thế nào hơn cây dứa và cây chuối ở

vùng cao này. Như vậy, với việc đưa dân ra biên giới, chính quyền ở đây đã cùng

một lúc giải quyết được hai việc: giúp dân định canh định và giữ vững chủ quyền

biên giới quốc gia.

c. Cây cao su

Cây cao su là cây công nghiệp mới được đưa vào trồng thử nghiệm tại địa bàn

xã Bản Lầu.Tuy nhiên, cho đến nay, nó đã và đang khẳng định được vị trí của mình

là một trong những cây trồng có tiềm năng phát triển trong sản xuất nông nghiệp.

“Trước đây bà con vốn chỉ biết đến cây dứa. Cây dứa ngắn ngày, nhưng

trồng nhiều năm sẽ làm đất bạc màu và mô hình cây cao su là sự bền vững khả quan

nhất” - Ông Lục Thượng Cường, người trồng cao su đầu tiên ở Bản Lầu (Mường

73

Khương) cho biết.

Ảnh 6: Vườn trồng cao su tại xã Bản Lầu. Nguồn: Ảnh tư liệu điền dã dân tộc học.

Cây cao su vừa có tác dụng phòng hộ lại có giá trị kinh tế cao. Cao su là cây

chiến lược lâu dài, 7 năm mới cho thu hoạch mủ. Trong thời gian chờ mủ cao su, bà

con vẫn có thể trồng dứa... Với phương châm “lấy ngắn nuôi dài”, từ nhiều năm

nay, người dân xã Bản Lầu (Mường Khương) đã trồng xen canh cao su trên nương

dứa.

Cây cao su được trồng ở các thôn: Na Lốc, Pạc Bo, Na Mạ, Cốc Phương.

Hiện, diện tích cây cao su toàn xã là 232 ha và đang tiếp tục mở rộng.

Cây cao su được trồng trên địa bàn từ năm 2008 do bà con trao đổi giống với

các bạn hàng Trung Quốc. Do thiếu kinh nghiệm, nên cây cao su con chết nhiều, tỷ

lệ sống chỉ đạt khoảng 20%. Điều đó không làm người dân Bản Lầu nản chí mà tiếp

tục rút kinh nghiệm để mở rộng diện tích.

Là một trong những người đầu tiên trồng cao su trên đất Bản Lầu, ông Lục

Thượng Cường, thôn Pạc Bo tâm sự: Trước đây bà con vốn chỉ biết đến cây dứa.

Cây dứa ngắn ngày, nhưng trồng nhiều năm sẽ làm đất bạc màu và mô hình cây cao

su là sự bền vững khả quan nhất. Đến nay, lứa cây cao su đầu tiên trên địa bàn xã

Bản Lầu chuẩn bị cho thu hoạch. Qua kiểm tra, chất lượng mủ đang cho tín hiệu

74

vui, như mủ nhiều, chất lượng tốt, thị trường tiêu thụ tiềm năng.

Ảnh 7: Ông Cường bên vườn cao su của gia đình mình. Nguồn: Ảnh tư liệu điền dã

dân tộc học.

Đánh giá về triển vọng cây cao su, ông Dương Hồng Trung - Phó Chủ tịch

UBND xã Bản Lầu - cho biết:

“Tiềm năng phát triển cây cao su tại Bản Lầu là rất sán lạn. Nhưng khó khăn

lớn nhất với người dân vẫn là vấn đề nguồn giống, do phần lớn phải nhập từ

Trung Quốc, không kiểm soát được nguồn giống, nên có những diện tích cây

cao su tỷ lệ sống còn thấp. Vấn đề bà con mong muốn là chính sách hỗ trợ

của Nhà nước, bởi mức đầu tư cho cây cao su trong giai đoạn kiến thiết là rất

lớn. Những khó khăn dù chưa được giải quyết, nhưng tinh thần mở hướng

phát triển kinh tế từ cây cao su của người dân Bản Lầu vẫn còn nguyên vẹn

và màu xanh của cây cao su đang lan tỏa trên vùng đất này” (Tài liệu phỏng

vấn ngày 18/7/2015).

Đến nay, trên địa bàn xã Bản Lầu (Mường Khương) đã trồng được 204,9 ha

cây cao su tiểu điền, trong đó năm 2013, nhân dân trồng được 100 ha. Hiện, có hơn

20 ha sắp cho thu hoạch mủ, hứa hẹn sẽ mang lại nguồn thu cho người trồng rừng.

Thời gian qua, cây cao su được người dân trong xã đồng thuận tham gia

75

trồng, nếu được hỗ trợ như trồng rừng, sẽ còn khuyến khích được nhiều người dân

tham gia trồng cao su hơn nữa.Cao su là cây đa mục đích, việc mở rộng diện tích

trồng cao su ở Bản Lầu không chỉ có hiệu quả về mặt kinh tế - xã hội mà còn góp

phần tích cực trong công tác trồng rừng, nâng cao tỷ lệ che phủ của rừng trồng và

có tác dụng giảm thiểu tác động của thiên tai.

3.1.2. Chăn nuôi

Ảnh 8: Bà con đến xem mô hình chăn nuôi lợn đen nhà ông Thào Dìn thôn Na Lốc II, xã

Bản Lầu. Nguồn: Ảnh tư liệu điền dã dân tộc học.

Chăn nuôi của người Hmông ở Bản Lầu ngày nay có nhiều thay đổi, bên

cạnh hình thức thả rông thì chăn nuôi chuồng trại đã xuất hiện và chiếm ưu thế hơn.

Có những hộ gia đình làm kinh tế trang trại theo mô hình VACR và đạt hiệu quả

kinh tế cao, xuất hiện một số hộ gia đình chăn nuôi tiểu gia súc có quy mô khá lớn

góp phần đáng kể vào thu nhập của hộ gia đình và có một số hộ đã thay đổi mục

đích chăn nuôi từ lấy sức kéo phục vụ sản xuất sang nuôi trâu bò vỗ béo để bán ra

thị trường đem lại hiệu quả rõ rệt. Tuy nhiên số lượng các gia đình này vẫn chiếm tỉ

lệ nhỏ.Các loại nuôi để bán chủ yếu là bò và lợn.

Ở địa bàn có giống lợn bản địa nổi tiếng, đã và đang được chú trọng phát

triển đó là lợn đen Mường Khương. Đây là giống lợn địa phương có từ lâu đời, gắn

liền với đời sống người Hmông và được nuôi nhiều nhất ở huyện Mường Khương.

76

Đây là một trong ba giống lợn quý ở các tỉnh phía Bắc,chúng cũng là một trong ba

giống lợn nội chủ yếu làm nền lai kinh tế ở Miền Bắc Việt Nam.Lợn có màu lông

đen tuyền hoặc đen có đốm trắng ở đầu đuôi và ở chân, lông thưa và mềm.Đa số lợn

có tầm vóc to cao, bốn chân khỏe, lưng ít võng, mõm thẳng và dài.Ở các lứa tuổi

khác nhau, tỉ lệ thịt và mỡ của lợn cũng khác nhau.

Ảnh 9: Bà Sến đang cho đàn lợn đen nà mình ăn. Nguồn: Ảnh tư liệu điền dã dân tộc học.

Đặc điểm nổi bật của giống lợn này là có khả năng chống chịu tốt với các

điều kiện chăn thả ở các vùng núi cao.Có thể sử dụng các ưu điểm này để lai tạo

nhằm nâng cao tầm vóc của lợn địa phương có trọng lượng nhỏ. Đây là giống lợn

quý hiếm với ưu điểm thích ứng tốt trong điều kiện tự nhiên, đồng thời sinh trưởng

phát triển nhanh, tăng đàn mạnh, tăng trọng hơn hẳn các giống lợn khác, rất phù

hợp với khả năng người chăn nuôi và thị hiếu người tiêu dùng, lợn Mường Khương

được chăm sóc cùng chế độ thì cũng phát triển tương đương, thậm chí giống lợn

đen này còn bán chạy và được giá hơn bởi chất lượng thịt thơm ngon.

Bên cạnh đó, một số hộ chăn nuôi đã nhập lợn lai màu trắng có nguồn gốc từ

nơi khác về nuôi. Ngoài ra, mô hình chăn nuôi lợn nái trong nông hộ, sản xuất lợn

con nuôi thịt F1 có tỉ lệ nạc cao cũng đang được tỉnh Lào Cai cho áp dụng triển khai

77

tại địa bàn huyện Mường Khương nói chung và xã Bản Lầu nói riêng. Lợn nái được

đưa vào thực hiện mô hình là giống lợn nái đen Mường Khương đã được tuyển

chọn, là những con giống đủ tiêu chuẩn và được cán bộ trạm thú y tiêm

phòng vacxin 2 bệnh có nguy cơ xảy ra cao là Dịch tả và Tụ huyết trùng và lợn đực

giống Đại Bạch đã qua huấn luyện khai thác tinh.

Dự án này đã giúp đồng bào Hmông ở đây biết cách lựa chọn, sử dụng con

giống tốt để phát triển đàn tại quy mô hộ gia đình, khắc phục được tình trạng giao

phối cận huyết và góp phần nhân nhanh số lượng đàn lợn trên địa bàn các thôn. Và

kết quả thử nghiệm này cho thấy, so với lợn đen thuần chủng dân tự nuôi thì con lai

F1 nuôi thịt có nhiều ưu điểm vượt trội như: Lợn F1 nuôi thịt có tốc độ tăng trọng

nhanh, thời gian nuôi thịt rút ngắn, tỷ lệ nạc cao đạt 46,5%, chất lượng thịt cũng

thơm ngon tương đương lợn Mường Khương thuần chủng, giá thành thấp hơn đã

đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu của số đông người tiêu dùng. Dự án đã có bước đột

phá trong chăn nuôi lợn trong vùng, góp phần thay đổi tư duy, nâng cao nhận thức

cho người nông dân, từng bước chuyển dần phương thức chăn nuôi quảng canh

sang thâm canh, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Thông qua mô hình người dân đã

tiếp thu và áp dụng được kiến thức khoa học, kỹ thuật vào sản xuất chăn nuôi.

Đối với đàn gia cầm, gà vẫn được đồng bào chú trọng hơn cả. Họ vẫn áp

dụng cách chăn nuôi truyền thống, chỉ cho gà ăn một bữa vào sáng sớm, sau đó thả

rông để chúng tự kiếm ăn. Cách nhân và chọn giống gà của họ là để cho đàn gà sinh

sản tự nhiên.Việc chăn nuôi gà vẫn chủ yếu là phục vụ nhu cầu của gia đình, các

nghi lễ ma chay, cưới xin… một số ít được đem ra chợ bán cùng với trứng gà.

Đối với việc chăm sóc gia súc, gia cầm thì hiện nay đồng bào Hmông ở Bản

Lầu đã biết sử dụng thức ăn công nghiệp, được hướng dẫn chăn nuôi đúng quy trình

bên cạnh thức ăn tự nhiên như trước kia.

Chăn nuôi ở người Hmông đóng vai trò hết sức quan trọng trong đời sống

của người dân nơi đây.Nó đã và đang được người dân cũng như các cấp chính

quyền hết sức quan tâm bảo tồn các giống bản địa và phát triển, lai tạo các giống

mới cho năng suất cao hơn.

3.2. Các hình thức sinh kế mới

78

3.2.1. Lao động làm thuê

Hiện nay có khá nhiều người Hmông ở Bản Lầu sang Trung Quốc làm thuê

họ thường đi làm theo thời vụ, đặc biệt là khi thu hoạch mùa màng xong, chủ yếu

đi cả tuần hoặc cả tháng mới về, nên việc khai báo tạm trú, tạm vắng thực hiện

cũng chưa được triệt để.

Người Hmông ở đây sang Trung Quốc làm thuê chủ yếu qua người quen

hoặc họ hàng của họ sống ở bên đó rủ sang đó làm. Địa điểm mà người Người

Hmông sang Trung Quốc làm là Hà Khẩu. Bên cạnh đó, đồng bào còn đi sâu

hơn vào những vùng nội địa của Trung Quốc như Côn Minh.

Những công việc chủ yếu mà người Hmông ở Trung Quốc làm thuê là trồng

và thu hoạch chuối, trồng rừng, chăm sóc cây, cửu vạn ở cửa khẩu, làm phụ hồ,

bán hàng, hay làm tại các nhà máy, xí nghiệp sản xuất đồ gia dụng, hay giúp việc

cho các gia đình Trung Quốc.

Mỗi ngày, người lao động Hmông được trả khoảng từ 35-40 tệ , tính ra tiền

Việt được khoảng 120- 140.000 đồng, được nuôi 3 bữa cơm. Người Hmông

thường sang bên đó làm khoảng nửa tháng hoặc một tháng, khi đã có một khoản

tiền công khá khá, họ lại mang về chi trả cho con cái học hành, chi tiêu các khoản

cần thiết, sau đó lại sang làm tiếp.

Chủ yếu người Hmông ở đây sang Trung Quốc làm là do gần nhà, mức thu

nhập khá ổn, lại có mối quan hệ gần gũi về tộc người và đều làm những công việc tay

chân giống ở nhà.

Các bản người Hmông sinh sống ở xã Bản Lầu hiện nay cũng xuất hiện một

số dịch vụ khác của đồng bào như mở nhà hàng cơm phở, tiệm giải khát, máy

ảnh, cửa hàng photocopy, dịch vụ cho thuê xe, một số công ty nhỏ được

thành lập. Tuy nhiên, những dịch vụ này cũng còn rất ít, hạn chế, rải rác vài cửa

hàng và chủ yếu thuộc về phần đông hộ gia đình có nguồn vốn lớn và có kinh

nghiệm trong kinh doanh, hoặc là của các chủ người Kinh ở khu trung tâm và

người Trung Quốc sang đầu tư. Khác với các hộ người Hmông sống chủ yếu bằng

nông nghiệp và đi làm thuê thì việc tham gia vào những hoạt động dịch vụ mới

này đã góp phần mang lại nguồn thu nhập đáng kể cho các hộ gia đình người

79

Hmông ở đây.

Nghề khuôn vác thuê

Qua phỏng vấn ông Châu Xuân Thắng (Phó chủ tịch xã Bản Lầu) được biết,

một số những người Hmông ở các thôn của địa bàn xã, ở đây chủ yếu là những

thanh niên mạnh khỏe, trong độ tuổi từ 18 – 40 trong những ngày nông nhàn

thưởng sang khu vực cửa khẩu làm nghề khuôn vác thuê. Công việc chính của họ

là bốc vác thuê từ xe hàng của Trung Quốc sang xe hàng của Việt Nam và

ngược lại. Hàng hóa trên xe chủ yếu là đồ gia dụng, vật liệu xây dựng hay các nông

sản như chuối, hành , tỏi, hoa quả, gạo, ngô…..

Anh Vàng Cư – thôn Na Lốc II cho biết:

“Mình đi làm nghề bốc vác thuê này được 3 năm rồi. Sang đó mình cũng

phải làm giấy thông hành, sáng đi và tối về. Công việc phụ thuộc vào

hàng của Trung Quốc, hôm ít bốc được 1 xe hàng còn hôm nhiều được 3

xe, người nào vào chủ đấy. Có những mặt hàng họ thuê mình bốc cả năm

nhưng cũng có mặt hàng theo mùa. Hàng nhiều nhất chủ yếu là hoa quả

nhưng cũng tùy theo những ngày trong tháng, chẳng hạn như ngày Rằm

(15) hay 30 (âm lịch) thì nhiều hoa quả hơn. Những hôm ít hàng, chỉ có 1

xe thôi thì thu thu nhập của mình được khoảng 120 nghìn đồng/ngày.

Nhưng cũng có hôm nhiều xe, mình được 300 nghìn đồng”. (Tài liệu phỏng

vấn ngày 20/8/2015).

Bên cạnh đó, một công việc khác của những người Hmông làm nghề “cửu

vạn” ở đây là đi chở hàng cho dân buôn lậu.Hầu hết đây là những mặt hàng đắt

tiền nên họ không vận chuyển qua đường chính ngạch mà phải đi qua những

đường nhánh, đường mòn để trốn thuế. Các mặt hàng nhập lậu từ Trung Quốc vẫn

chủ yếu là gà, nội tạng động vật, quần áo, pháo, đồ điện tử… và được đóng gói cẩn

thận theo từng thùng các-tông, và được đem về thành phố Lào Cai, rồi chuyển

xuống các tỉnh miền xuôi và lân cận như Hà Nội, Yên Bái, Phú Thọ…Những nguy

hiểm luôn rình rập họ, tuy nhiên, số tiền mà những người cửu vạn nhận được lại

khá bèo bọt, chỉ khoảng vài trăm nghìn đồng. Trong khi đó, nếu mất hàng họ còn

phải chịu đền toàn bộ số tiền hàng, chính vì điều đó nên những người cửu vạn làm

80

công việc này đều rất liều lĩnh và táo bạo, bất chấp cả việc phải đối mặt với các

lực lượng chức năng. Nhưng vì cuộc sống mưu sinh, họ vẫn dấn thân vào con

đường này.

3.2.2. Kinh doanh, dịch vụ

Bên cạnh những nghề đã đề cập ở trên, một số hoạt động dịch vụ, buôn bán

cũng đã xuất hiện và trở nên phổ biến trong các thôn, bản người Hmông như: bán

hàng tạp hóa, đồ ăn, uống, hiệu chụp ảnh cưới, và các dịch vụ giả trí như các quán

internet, karaoke…

Ảnh 10: Các quán xá xuất hiện khá nhiều tại thôn Na Lốc I, xã Bản Lầu. Nguồn: Ảnh tư

liệu điền dã dân tộc học.

Đa số những người bán hàng là phụ nữ trong gia đình. Qua phỏng vấn chị

Ma Thị Phương - thôn Cốc Phương cho biết:

“Tôi bán hàng tạp hóa được 2 năm nay rồi, ngày trước mỗi lần muốn mua

gì chúng tôi đều phải đi bộ những chục cây số để ra ngoài trung tâm mua,

rất vất vả.Nên tôi và chồng quyết định mở cửa hàng nhỏ bán đồ lặt vặt cho

mọi người trong thôn không phải đi xa để mua nữa. Chồng tôi đi sang

Trung Quốc chở hàng thuê, còn tôi ở nhà bán hàng lặt vặt. Thu nhập một

tháng cũng được 3 - 4 triệu, có lúc nhiều nhất là những dịp tết còn được 7 -

8 triệu tiền lãi”(Tài liệu phỏng vấn ngày 20/8/2015)

81

Tuy việc kinh doanh buôn bán chỉ là công việc phụ đối với những gia đình

người Hmông ở đây, nhưng nó lại góp phần đáng kể vào thu nhập của các hộ gia

đình. Qua đây có thể thấy cuộc sống tại các bản người Hmông đang ngày một thay

đổi so với trước kia. Đây là một tín hiệu đáng mừng đối với các dân tộc ở địa bàn

vùng biên giới nói riêng toàn xã Bản Lầu nói chung.

Nghề xe ôm

Bên cạnh công việc làm cửu vạn, những lúc nông nhàn,tận dụng phương

tiện là xe máy sẵn có, những người đàn ông Hmông ở đây còn làm xe ôm chở

khách để kiếm thêm thu nhập. Chủ yếu phục vụ khách trong các tuyến từ trung

tâm xã đến các thôn bản chưa có xe chở vào, hay khách có nhu cầu ra thành phố

hoặc các huyện lân cận trong địa bàn tỉnh. Qua phỏng vấn được biết, thu nhập của

họ một ngày dao động từ 80 – 120.000, nếu ngày nào trở được nhiều khách thì có

82

thể vài trăm nghìn, nhưng cũng có ngày không có khách nào cả.

Tiểu kết chƣơng 3

Hoạt động sinh kế của người Hmông ở xã Bản Lầu từ khi Đổi mới (năm

1986) đến nay đã những biến đổi quan trọng,trong đó đáng chú ý là sự chuyển đổi

cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng thử nghiệm các loại câu công nghiệp với việc

áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp cũng như sự hỗ trợ của

Nhà nước.Việc phát triển vùng dứa, chuối vì mục tiêu sản xuất cây công nghiệp và

hàng hóa đã trở thành một cách mưu sinh có hiệu quả, không chỉ xóa đói, giảm

nghèo và còn tạo ra những bước phát triển bền vững hơn cho các hộ gia đình người

Hmông ở một xã biên giới.Các sản phẩm từ mô hình sinh kế này trong thực tế đã và

đang khẳng định chỗ đứng của nó trên thị trường nông sản ở trong nước và ở ngoài

nước và một trong những thành quả quan trọng là nó đã trở thành thương hiệu mỗi

khi nhắc tới địa danh xã Bản Lầu.

Nhờ sự phát triển trong sản xuất cây công nghiệp phục vụ thị trường, các

hoạt động sinh kế mới cũng nảy sinh ở địa bàn xã như, các hoạt động buôn bán,

dịch vụ và trở thành một loại hình sinh kế mang lại nguồn thu nhập cho một bộ

83

phận người dân trong xã.

Chƣơng 4

NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN BIẾN ĐỔI SINH KỀ

CỦA NGƢỜI HMÔNG Ở XÃ BẢN LẦU

4.1. Những yếu tố tác động

4.1.1. Yếu tố ngoại sinh

Việt Nam là quốc gia thống nhất gồm 54 dân tộc (53 dân tộc thiểu số chiếm

14% dân số cả nước, cư trú chủ yếu ở miền núi, vùng sâu vùng xa, vùng biên giới).

Các dân tộc thiểu số nước ta cư trú xen kẽ trên địa bàn rộng lớn, có vị trí chiến lược

đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng và đây là địa bàn có

nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng, có hệ thống rừng phòng hộ, rừng đặc dụng

phục vụ cho sự nghiệp phát triển của đất nước và bảo vệ bền vững môi trường sinh

thái bảo vệ môi trường sinh thái. Đồng bào các dân tộc nước ta có truyền thống

đoàn kết lâu đời trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, chế ngự thiên nhiên, khắc

phục thiên tai và xây dựng đất nước. Mỗi dân tộc có sắc thái văn hóa riêng, góp

phần tạo nên sự đa dạng, phong phú của nền văn hóa Việt Nam thống nhất.Trong

tình hình hiện nay, miền núi là địa bàn tiềm năng, mang tính chiến lược, cơ bản cho

sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta

luôn xác định vấn đề dân tộc, công tác dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến

lược quan trọng trong cách mạng nước ta.Dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa

Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, Đảng ta đã đề ra các chủ

trương, chính sách dân tộc, với những nội dung cơ bản chủ yếu là bình đẳng, đoàn

kết, tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển. Trải qua các thời kỳ cách mạng, công tác

dân tộc đã đạt được những thành tựu to lớn góp phần quan trọng vào sự nghiệp cách

mạng chung của đất nước.

Từ năm 1986, Việt Nam đã thực hiện công cuộc Đổi mới toàn diện đất nước.

So với công cuộc cải cách và chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch tập trung sang kinh tế

thị trường ở các quốc gia khác, Đổi mới ở Việt Nam có những nét đặc thù riêng.

84

Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Đảng đã chủ trương

thực hiện tốt chương trình xoá đói giảm nghèo, nhất là đối với vùng căn cứ cách

mạng, vùng đồng bào dân tộc thiểu soá đói, giảm nghèo được xác định là một trong

11 chương trình quốc gia. Thực hiện chủ trương của Đảng, ngày 23-7-1998, Chính

phủ ra Quyết định số 133/1998/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình quốc gia xoá đói

giảm nghèo giai đoạn 1998-2000 với mục tiêu và nhiều giải pháp cụ thể. Tiếp đó,

ngày 31-7-1998, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg

phê duyệt Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền

núi và vùng sâu, vùng xa (gọi tắt là Chương trình 135). Phong trào xoá đói, giảm

nghèo được đẩy mạnh với nhiều mô hình gia đình, thôn, bản, xã, huyện xoá đói,

giảm nghèo có hiệu quả đã được nhân rộng như: mô hình tín dụng - tiết kiệm, mô

hình xã hội hoá hỗ trợ nhà ở cho người nghèo, mô hình “một mái nhà, một bể nước,

một con bò”, mô hình dạy nghề ngắn hạn miễn phí, mô hình liên thông xuất khẩu

lao động…, các dự án thuộc Chương trình quốc gia xoá đói, giảm nghèo theo Quyết

định số 133 của Thủ tướng Chính phủ đã đi vào hoạt động và đạt hiệu quả rõ rệt.

Cũng theo quyết định đó, tỉnh Lào Cai đã lập danh sách và trình Chính Phủ,

UBDT&MN phê duyệt danh sách các xã đặc biệt khó khăn của tỉnh. Theo quyết

định 1232/1999/QĐ-TTg ngày 24/12/1999 của Thủ Tướng hính Phủ phê duyệt danh

sách các xã đặc biệt khó khăn và biên giới thuộc phạm vi Chương trình 135 và văn

bản số 878/UBDT - BTK ngày 30/10/2002 của Ban Dân Tộc về xác định lại danh

sách các huyện, xã thuộc chương trình 135, tỉnh Lào Cai có 138 xã đặc biệt khó

khăn, trong đó có 131 xã thuộc khu vực III, 7 xã biên giới, được phân bố trên 10

huyện: huyện Si Ma Cai (13 xã), huyện Bắc Hà (20 xã), huyện Bát Xát (21 xã),

huyện Sa Pa (17 xã), huyện Mường Khương (16 xã), huyện Văn Bàn (17 xã), huyện

Than Uyên (13 xã), huyện Bảo Yên(12 xã), huyện Bảo Thắng (6 xã), thị xã Lào Cai

(3 xã). Trong đó xã Bản Lầu của huyện Mường Khương cũng nằm trong diện đó.

Mục tiêu của chương trình 135 đặt ra là:

Nâng cao nhanh đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào dân tộc ở các xã

đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa; tạo điều kiện để đưa nông thôn

các vùng này thoát khỏi tỉnh trạng nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển, hoà nhập

vào sự phát triển chung của cả nước; góp phần đảm bảo trật tự an toàn xã hội, an

85

ninh quốc phòng.

Nhiệm vụ:

+ Quy hoạch bố trí lại dân cư ở những nơi cần thiết, từng bước tổ chức hợp

lý đời sống sinh hoạt của đồng bào các bản, làng, phum, soóc ở những nơi có điều

kiện, nhất là những xã vùng biên giới và hải đảo, tạo điều kiện để đời sống đồng

bào nhanh chóng ổn định sản xuất và đời sống.

+ Đẩy mạnh phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp, gắn với chế biến, tiêu thụ

sản phẩm để khai thác nguồn tài nguyên và sử dụng nguồn lao động tại chỗ, tạo

thêm nhiều cơ hội về việc làm và tăng thu nhập, ổn định đời sống, từng bước phát

triển sản xuất hàng hóa.

+ Phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn phù hợp với quy hoạch sản xuất và bố

trí lại dân cư, trước hết là hệ thống đường giao thông; nước sinh hoạt; hệ thống điện

ở những nơi có điều kiện, kể cả thuỷ điện nhỏ.

+ Quy hoạch và xây dựng các trung tâm cụm xã, ưu tiên đầu tư xây dựng các

công trình về y tế, giáo dục, dịch vụ thương mại, cơ sở sản xuất tiểu thủ công

nghiệp, cơ sở phục vụ sản xuất và phát thanh truyền hình.

+ Đào tạo cán bộ xã, bản, làng, phum, soóc, giúp các cán bộ cơ sở nâng cao

trình độ quản lý hành chính và kinh tế để phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế xã hội

tại địa phương.

Những xã đặc biệt khó khăn có vị trí rất quan trọng đặc biệt là an ninh quốc

phòng. Do đó, vấn đề phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi

và vùng sâu, vùng xa (gọi tắt là Chương trình 135) của Đảng và Chính Phủ là một

quyết đinh rất đúng đắn và kịp thời, mang tầm chiến lược nhằm đưa các xã đặc biệt

khó khăn phát triển tương xứng với vị trí và vai trò của nó

Có thể nói chương trình 135 đã thực sự đi vào cuộc sống của đồng bào các

dân tộc tỉnh Lào Cai. Được các cấp các ngành và nhân dân đồng tâm thực hiện.

Chương trình đã có tác dụng làm cho đồng bào vùng cao thay đổi 55 nhận thức, biết

áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, thay đổi tập quán canh tác cũ lạc hậu. Đặc

biệt khối lượng sản phẩm nông sản, thực phẩm làm ra ngày càng nhiều và lưu thông

thuận tiện. Góp phần rất lớn vào việc xoá đói giảm nghèo. Điều quản trọng là năng

86

lực điều hành của cán bộ xã đã được nâng lên. Đồng bào các dân tộc tỉnh Lào Cai

ngày càng gắn bó đoàn kết xây dựng cuộc sống mới và tin tưởng vào sự lãnh đạo

của Đảng và Nhà nước. Khu vực miền núi, từ đó cũng đã từng bước thay đổi, nhất

là hạ tầng kinh tế - xã hội đã được đầu tư đáng kể. Sản xuất một số vùng đã có bước

phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa. Đời sống vật chất và tinh thần của đồng

bào được nâng lên từng bước, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm, giáo dục, y tế, văn hóa - xã

hội đều có chuyển biến tích cực, góp phần quan trọng trong việc đảm bảo an ninh

chính trị, trật tự xã hội.

Những năm qua Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã chỉ đạo các cấp các ngành triển khai

có hiệu quả các chương trình, chính sách dân tộc như: Chương trình phát triển KT-

XH các xã ĐBKK (CT135) Chương trình hỗ trợ đất ở, đất sản xuất và cấp nước sinh

hoạt cho hộ đồng bào DTTS nghèo, đời sống khó khăn theo Quyết định 1592/QĐ-

TTg (Nay là QĐ 755TTg Thủ tướng Chính phủ), Chính sách hỗ trợ đồng bào DTTS

đặc biệt khó khăn vay vốn phát triển SX theo Quyết định số 32/QĐ-TTg; Quyết

định số 54/QĐ-TTg; Chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người dân thuộc hộ nghèo ở

vùng khó khăn theo Quyết định số 102/QĐ-TTg, Chính sách đối với người có uy tín

trong đồng bào DTTS theo Quyết định số 18/2011/QĐ-TTg, Quyết định số 56/QĐ-

TTg, Chính sách cấp không thu tiền một số loại báo, tạp chí cho vùng dân tộc thiểu

số và miền núi, vùng đặc biệt khó khăn theo Quyết định số 2472/QĐ-TTg và Quyết

định 1977/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ...đã góp phần phát triển kinh tế - xã

hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tích cực thực hiện công cuộc

xóa đói, giảm nghèo, hàng năm tăng trưởng kinh tế bình quân đạt từ 13->14%/năm

Bên cạnh đó, từ khi có Nghị quyết 22-NQ/TW, ngày 27-11-1989 của Bộ

Chính trị về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi,

tình hình miền núi và các vùng đồng bào dân tộc thiểu số có bước chuyển biến quan

trọng. Trong đó nhấn mạnh các quan điểm quan trọng như:

Xây dựng cơ cấu kinh tế miền núi theo hướng phát triển kinh tế hàng hóa,

liên kết chặt chẽ với các tỉnh đồng bằng, ra sức phát huy thế mạnh của từng vùng.

Tỉnh Lào Cai có 3 huyện là Mường Khương, Bắc Hà, Si Ma Cai nằm trong

62 huyện nghèo của cả nước. Ngay sau khi Chính phủ ban hành Nghị quyết số

87

30a/2008/NQ-CP, tỉnh Lào Cai đã tập trung chỉ đạo thực hiện nghị quyết một cách

quyết liệt. Vì vậy, mới qua một năm nhưng kết quả đạt được là hết sức ấn tượng, tạo

niềm tin vững chắc của người dân vùng sâu, vùng xa đối với Đảng và Nhà nước.

Thực hiện Nghị quyết số 30a/2008/NQ - CP về Chương trình hỗ trợ giảm

nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo; Uỷ ban nhân dân tỉnh Lào Cai

thường xuyên quan tâm chỉ đạo, đôn đốc các cấp, các ngành tổ chức, triển khai thực

hiện chương trình. Căn cứ Quyết định số 2621/QĐ-TTg ngày 31/12/2013 của Thủ

tướng Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số chính sách hỗ trợ sản xuất theo NQ

30a; UBND tỉnh đã cụ thể hoá chính sách bằng Quyết định số 1200/QĐ-UBND,

ngày 29/4/2014 về quy định cụ thể mức hỗ trợ phát triển sản xuất theo quy định tại

Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ trên địa bàn tỉnh

Lào Cai

Ngân sách Trung ương: Tổng nguồn vốn NQ 30a lồng ghép với các chương

trình/dự án khác (QĐ 120, CT 135, NQ 37,...) bố trí kế hoạch năm 2014: 423.868

triệu đồng (vốn đầu tư: 361.619 triệu đồng, vốn sự nghiệp: 62.249 triệu đồng), trong

đó:

Huyện Mường Khương: 159.004 triệu đồng (vốn đầu tư: 140.818 triệu đồng;

vốn sự nghiệp: 18.186 triệu đồng).

Bên cạnh đó, các chính sách hỗ trợ tín dụng được triển khai tích cực như

chính sách cho vay 5 triệu đồng/hộ với lãi suất 0% trong thời gian 2 năm để nông

dân mua giống gia súc, gia cầm, phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp; chính

sách hỗ trợ 50% lãi suất thương mại cho vay vốn phát triển sản xuất nông nghiệp.

Đối với xã Bản Lầu, các chương trình 135, 134 nhằm hỗ trợ các xã vùng đặc

biệt khó khăn, giúp bà con đồng bào dân tộc thiểu số, định canh, định cư ở vùng

biên giới gồm bảy thôn của xã. Để thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước, cấp

ủy và chính quyền huyện Mường Khương đưa các hộ người Mông ở vùng núi đá

Dìn Chin, Pha Long, Tả Gia Khâu "hạ sơn" xuống Bản Lầu lập nghiệp. Để giúp bà

con sinh sống, lập nghiệp trên vùng đất mới, tỉnh và huyện hỗ trợ phương tiện di

chuyển nhà ở; trợ cấp tiền; gạo và giống cây trồng, phân bón để sản xuất. Nhà nước

giao đất, giao rừng cho bà con canh tác và chăm sóc bảo vệ rừng, "lấy ngắn nuôi

88

dài", tạo sinh kế bền vững.

Thông qua các chương trình 134 hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, Chương

trình 135 hỗ trợ các xã đặc biệt khó khăn của Đảng và Nhà nước, con đường nhựa

rộng rãi, nối từ trung tâm xã Bản Lầu chạy xuyên suốt bảy thôn biên giới từ Đồi

Gianh, Pạc Bo, qua bốn thôn có tên Na Lốc và Cốc Phương, nối với xã Nậm Chảy;

điện lưới quốc gia đến từng nhà - Đó là chìa khóa mở cánh cửa thông thương, tiếp

cận với thị trường, với cuộc sống mới bên ngoài, giúp đồng bào dân tộc thiểu số nơi

đây thoát khỏi vòng luẩn quẩn đói nghèo, lạc hậu.

Đánh giá sự tác động của chương trình 135 đến sự thay đổi của các nguồn

vốn sinh kế ở xã Bản Lầu.

Dưới tác động của chương trình 135 và một số chương trình khác, sinh kế

của người Hmông xã Bản Lầu có sự thay đổi sâu sắc. Sự thay đổi đó có thể nhìn

thấy qua sự thay đổi của các nguồn vốn sinh kế như sau:

Nguồn vốn nhân lực

Mặc dù, số lượng dân số tăng lên nhưng chất lượng nguồn nhân lực và

nguồn lao động đang có những thay đổi theo chiều hướng tích cực. Dân số bình

quân hộ có xu hướng giảm, từ gần 5,5 khẩu /hộ năm 2000 xuống chỉ còn hơn 4,2

khẩu /hộ năm 2014 (bảng 1). Trong khi đó, số lao động bình quân hộ hầu như

không đổi và có xu hướng tăng. Có được sự thay đổi trên là do tỷ lệ sinh và tỷ lệ

tăng dân số có mức giảm đáng kể trong thời gian qua. Đây là cơ sở bước đầu, tạo

điều kiện nâng cao mức sống của người dân trong thời gian qua.

Bảng 4.1. Một số chỉ tiêu cơ bản về nguồn vốn nhân lực

của xã Bản Lầu giai đoạn 2004-2014

Chỉ tiêu

2004

2009

2014

Dân số bình quân hộ (người)

5,51

4,74

4,22

Lao động bình quân hộ (lao động)

2,25

2,27

2,30

100

Tỷ lệ học sinh đến trường trong độ tuổi (%)

72,00

95,50

(Nguồn: Số liệu thống kê của của xã Bản Lầu năm 2004, 2009, 2014).

Cùng với đó, trình độ học vấn của nguồn nhân lực cũng có sự cải thiện

đáng kể khi tỷ lệ trẻ em đến trường trong độ tuổi tăng từ 72 % năm 2004 đến 100

89

% năm 2014. Ngoài ra, nhiều kiến thức mới và mô hình mới trong sản xuất cũng

đã được người Hmông ở Bản Lầu tiếp thu và ứng dụng tại địa phương thông

qua các phương thức khác nhau. Chính những thay đổi đó, nguồn vốn c o n

n g ư ờ i ở địa phương được người dân đánh giá có những thay đổi nhanh chóng

trong thời gian qua.

Nguồn vốn vật chất

Cơ sở vật chất của xã Bản Lầu ngày càng được hoàn thiện, đáp ứng tốt hơn

nhu cầu sinh hoạt và nhu cầu sản xuất của người dân trên đị a bàn xã n ói

chung, và c ộng đ ồng tộc người H mông nói riê ng. Tính đến năm học

2010-2011 toàn xã có 07 trường (Mầm non 02 trường, Tiểu học 02 trường và THCS

02 trường và THPT 02 trường) với tổng số 70 lớp = 1.654 học sinh với 145 cán bộ

quản lý giáo viên và nhân viên. Trong đó: mầm non 22 người, tiểu học 47 người,

trung học cơ sở 31 người, trung học phổ thông 45 người. Số cán bộ quản lý, giáo

viên có trình độ chuẩn trở lên đạt 100%.

Điện lưới quốc gia đã kéo đến 21/21 thôn trong toàn xã ,so với năm 2013 tỷ lệ hộ

dùng điện chỉ chiếm 84,77%, thì đến năm 2015 số hộ dùng điện là 100%. Công tác

chăm sóc sức khoẻ cũng được chú trọng, Bản Lầu hiện có 01 trạm y tế đạt chuẩn,

đội ngũ cán bộ y tế tại trạm xá xã, đã nắm bắt được tương đối tình hình bệnh tật của

người dân trong xã, thực hiện tốt các chương trình Y tế quốc gia.

Nguồn vốn tự nhiên

Các chương trình dự án của Nhà nước đã hỗ trợ khai hoang đất sản xuất, do

vậy mà bà con đã ổn định sản xuất trên mảnh đất của mình và diện tích cũng ngày

một tăng lên. Vì thế phần lớn các các hộ điều tra đều nhận định qui mô diện tích

đất của họ tăng lên (có 69,9% hộ điều tra trả lời là diện tích đất được tăng lên sau

10 năm thực hiện chương trình 135, có 30,1% hộ trả lời là diện tích không thay

đổi). Điều này khẳng định lại rằng, cùng với các chủ trương, chính sách của địa

phương về khai hoang, mở rộng diện tích đất sản xuất, thay đổi cơ cấu cây trồng

phù hợp với điều kiện của địa phương, các chương trình, dự án cũng đã tác động

tích cực đến sản xuất của người dân địa phương.

Nguồn vốn tài chính

Kết quả điều tra chỉ ra rằng thu nhập bình quân các hộ người Hmông ở xã

90

Bản Lầu đã đã có những cải thiên đáng kể trong những năm qua. Không những

thế họ cũng có thể tiếp cận tốt hơn đối với nguồn tín dụng nhằm bù đắp khó khăn

đối với nguồn tài chính của họ. Đánh giá của người dân ở bảng 6 cho thấy, sự tác

động của chương trình 135 trên nguồn vốn tài chính của người dân ở địa phương

như nhận định trên.

Tác động đến nguồn vốn xã hội

Cùng với sự thay đổi của các nguồn vốn trên, hệ thống tổ chức chính trị xã

hội cơ sở được củng cố một cách toàn diện. Vai trò của các tổ chức đoàn thể như

Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh đã được nâng

cao và cũng cố. Mang lưới xã hội như hệ thống thị trường đã được phát triển.

Đây thực sự đang là những mạng lưới hỗ trợ tích cực cho người dân trong phát

triển sinh kế của họ.

Các chính sách ưu đãi của Đảng và Nhà nước dành cho miền núi, đã bước

đầu mang lại những kết quả tích cực, diện mạo miền núi trong những năm gần đây

có nhiều chuyển biến. Cùng với những chính sách đầu tư hỗ trợ phát triển kinh tế,

xã hội, các chính sách kết hợp phát triển kinh tế gắn với bảo vệ rừng, bảo vệ môi

trường, đảm bảo an ninh quốc phòng cũng đã được ban hành. Các chính sách về

nông nghiệp, nông thôn, giáo dục đào tạo, y tế, văn hóa thể dục thể thao,...đã tạo

thành hệ thống chính sách tương đối toàn diện. Các chương trình, dự án được thực

hiện công khai, dân chủ từ cơ sở, đầu tư đúng mục đích, đối tượng, đã tạo được lòng

tin và hiệu ứng tích cực của nhân dân. Kinh tế tăng trưởng, đời sống vật chất và tinh

thần của người dân từng bước được nâng lên, các ngành kinh tế địa phương như

thương mại, dịch vụ, sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nuôi trồng đều

phát triển so với trước đây.

4.1.2. Yếu tố nội sinh

Vị trí địa lý là cửa ngõ thông thương với nước bạn Trung Quốc qua cửa khẩu

Quốc tế Lào Cai và nằm trong tuyến hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai -Hà Nội

- Hải Phòng đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc thúc đẩy sản xuất, lưu thông, phân

phối hàng hóa, thúc đẩy thương mại hàng hóa phát triển trong phạm vi quốc gia

cũng như quốc tế. Bên cạnh đó việc vận chuyển hàng hóa, đi lại của người dân cũng

91

trở nên đơn giản hơn, hạn chế được rất chi phí.Bản Lầu là xã giàu tiềm năng, trong

đó phải kể đến tiềm năng đất đai, đây là lợi thế để xã phát triển tập đoàn các loài

cây trồng tập trung trên quy mô lớn. Qua kết quả báo cáo về tình hình sử dụng đất,

có thể thấy tiềm năng đất Lâm nghiệp còn lớn. Các chuẩn hóa về điều kiện đất đai,

khí hậu thủy văn đều cho thấy sự phù hợp để phát triển cây ăn quả và các loại cây

công nghiệp ngắn ngày, và hình thành vùng chuyên canh.

Khí hậu ở đây cũng khá thuận lợi, nhiệt độ, lượng mưa, độ ẩm phù hợp với

việc trồng một số loại cây ăn quả.

Trong quá trình phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng ta luôn

coi công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm

của cả thời kì quá độ.Đây cũng là một trong những biểu hiện cụ thể đường lối “Phát

triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao”

- đường lối dựa trên cơ sở lý luận khoa học học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của

chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất thì con người luôn

ở vị trí trung tâm của sự phát triển và giữ vai trò quyết định. Con người vừa là mục

tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Phát triển con người nhằm gia tăng

các giá trị về tinh thần, đạo đức, tâm hồn, trí tuệ, kỹ năng lẫn thể chất cho con người

làm cho con người trở thành người lao động có những năng lực và phẩm chất cần

thiết, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội.

Và trên thực tế, Bản Lầu có lực lượng lao động dồi dào, người dân ở đây, đặc

biệt là người Hmông đa số cần cù chịu khó, có tinh thần học hỏi,kinh nghiệm sử dụng

và canh tác trên đất dốc lâu đời về thiết kế đồng ruộng, cải thiện đặc tính lý hóa đất,

áp dụng các kinh nghiệm dân gian kết hợp với học hỏi kỹ thuật để điều cây ra hoa ...

Đồng thời, bên cạnh đó trình độ dân trí của người Hmông ở Bản Lầu trong

những năm gần đây đã và đang được nâng cao. Do đó, cùng với quá trình vận động

tuyên truyền của chính quyền địa phương thì ngay trong tư duy của đồng bào đã có

sự chuyển biến quan trọng. Đó là từ cuộc sống du canh, du cư, đồng bào đã sống định

canh, định cư, một số tập quán trong ma chay, cưới xin… cũng dần dần được đồng

bào thay đổi, các kiến thức về Dân số kế hoạch hoá gia đình, về các giống cây trồng,

vật nuôi mới cũng được đồng bào tiếp nhận, việc xoá mù chữ ở các thôn bản cũng đã

92

hoàn thành.

Như vậy, dưới tác động của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội

nhập quốc tế như hiện nay, hoạt động sinh kế của người Hmông ở Bản Lầu có sự

chuyển biến mạnh mẽ. Đó là kết quả vận động của nhiều nhân tố, bên trong cũng

như bên ngoài song yếu tố nội sinh bao giờ cũng đóng vai trò quyết định, là cơ sở,

nền tảng của mọi chính sách của Đảng và Nhà nước.

4.2. Tác động của biến đổi sinh kế tới đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của

ngƣời Hmông ở xã Bản Lầu

4.2.1. Đời sống kinh tế

Bản Lầu là xã biên giới của huyện Mường khương, có nhiều lợi thế về đất

đai, lao động nên đã sớm được quy hoạch thành vùng sản xuất nông nghiệp hàng

hóa, đưa các giống cây trồng mới có năng suất và hiệu quả kinh tế cao vào canh tác,

trong đó, tập trung phát triển diện tích cây chuối và dứa hàng hóa.

Để phá thế độc canh cây lương thực, xã đã phối hợp với các ngành chức năng

của huyện đẩy mạnh công tác vận động, hướng dẫn nhân dân áp dụng tiến bộ khoa

học kỹ thuật, mạnh dạn đưa các giống mới có năng suất, chất lượng cao vào sản xuất,

hình thành thêm các vùng sản xuất chuyên canh, đồng thời tạo mối liên kết chặt chẽ

giữa "4 nhà" trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cho nông dân. Mấy năm trở lại đây,

bức tranh kinh tế của xã Bản Lầu đã có nhiều khởi sắc.

Tính đến nay, diện tích trồng dứa của xã lên tới trên 726ha, chuối 430ha, chè

thương phẩm 231ha, cao su 204ha, ngô 400ha, lúa giống mới 144ha... trở thành vùng

trồng dứa, chuối, cao su, chè rộng nhất tỉnh. Chỉ tính riêng năm 2013, sản lượng dứa

thu 12.500 tấn, đạt 56 tỷ đồng; chuối 3.500 tấn, thu trên 15 tỷ đồng; thu nhập bình

quân 18,2 triệu đồng/người/năm (tăng 6 triệu đồng so với năm 2011). Dứa được trồng

chủ yếu ở các thôn Na Lốc, Cốc Phương, Na Mạ, Pạc Bo… Nhờ trồng dứa, nhiều hộ

nông dân có nguồn thu dứa từ 100 đến 300 triệu đồng/ năm, điển hình như anh Thào

Diu, Thào Dìn, ở thôn Cốc Phương; anh Cư Vư, Cư Phừ, ở thôn Na Lốc.

Toàn xã hiện có 619 hộ sản xuất kinh doanh giỏi, điển hình như gia đình ông

Thào Dìn, dân tộc Hmông, thôn Cốc Phương với mô hình trồng dứa, chuối, thu

nhập bình quân 250-300 triệu đồng/năm; gia đình ông Vàng Cư ở thôn Na Lốc với

93

mô hình chăn nuôi kết hợp trồng rừng thu nhập bình quân từ 100-200 triệu

đồng/năm... Tỷ lệ hộ nghèo của xã Bản Lầu đến nay chỉ còn 8,5%. Người Hmông ở

xã Bản Lầu đã có nhiều hộ mua được ô tô, xe máy và nhiều tiện nghi đắt tiền trong

nhà.

Ông Dỗ Duy Phiên, Bí thư Đảng ủy xã Bản Lầu, cho biết: Vụ dứa năm 2012

- 2013, diện tích dứa cho thu hoạch của xã Bản Lầu là 500 ha, sản lượng ước đạt

12.000 tấn, giá trị kinh tế trên 50 tỷ đồng. Với giá dứa xuất khẩu từ 1,5 đến 1,7

Nhân dân tệ/kg, tương đương với hơn 5.000 Việt Nam đồng nên nhân dân rất phấn

khởi.

Đời sống của người Hmông xã Bản Lầu hiện nay đã và đang được nâng cao

lên cả về đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần. Được sự giúp đỡ từ các chính

sách của Nhà nước, đồng bào càng chú tâm vào làm ăn, giữ gìn an ninh biên giới.

Qua phỏng vấn đồng bào ở đây cho biết, trước đây tài sản có giá trị chủ yếu của các

hộ gia đình người Hmông ở xã Bản Lầu chủ yếu là con trâu, con dao, cái

cuốc…nhưng từ Đổi mới (1986) đến nay, nhà ở của đồng bào ngày càng khang

trang với các loại tài sản trong gia đình tương đối đầy đủ và tiện nghi như ti vi, đầu

đĩa, tủ lạnh, điện thoại, xe máy, radio, internet, công cụ lao động bằng máy...nhiều

gia đình còn có ô tô. Trong đó, xe máy là phương tiện chính, phục vụ cho đi lại, vận

chuyển, sản xuất và kinh doanh. Bên cạnh đó, mỗi gia đình đều có công cụ lao

động riêng như máy cày, máy tuốt lúa, máy xay sát…

Thu nhập của các hộ gia đình người Hmông cũng có sự thay đổi rõ rệt trước

và sau Đổi mới 1986 được chứng minh qua một số trường hợp phỏng vấn sau đây:

Bảng 4.2: Cơ cấu thu nhập của gia đình ông Thào Dìn năm 1987 (trƣớc Đổi mới)

Nguồn thu Số lƣợng Đơn vị Thành tiền

Thóc 600 Kg 3,5 triệu

Ngô Lợn Gà Lương, phụ cấp 400 5 16 500 nghìn Kg Con Con Tháng 1,8 triệu 4,5 triệu 1,5 triệu 6 triệu

Tổng thu 17,3 triệu đồng

94

Nguồn: Tài liệu điền dã thôn Na Lốc, xã Bản Lầu tháng 6/2015.

Bảng 4.3: Cơ cấu thu nhập của gia đình ông Thào Dìn hiện nay

(thuộc hộ gia đình khá giả tại thôn Na Lốc I, xã Bản Lầu)

Nguồn thu Số lƣợng Đơn vị Thành tiền

Thóc 900 Kg (năm 2015) 9 triệu

Ngô 500 Kg 5 triệu

Lợn 12 Con 24 triệu

Gà 30 Con 7 triệu

Lương, phụ cấp 3 triệu Tháng 36 triệu

Trồng chuối 6 triệu Tháng 72 triệu

Trồng dứa 7triệu tháng 84 triệu

2 triệu Tháng

Cao su Tổng thu 24 triệu 261 triệu đồng

Nguồn: Tài liệu điền dã thôn Na Lốc, xã Bản Lầu tháng 6/2015.

Nhìn vào bảng số liệu trên (bảng 4.2 và 4.3), ta thấy gia đình ông Thào Dìn,

một trong những triệu phú ở Bản Lầu vào thời điểm trước năm 1986 chủ yếu chỉ có

nguồn thu nhập từ trồng trọt và chăn nuôi. Từ Đổi mới đến nay, với nhiều chính

sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Nhà nước trong nông nghiệp, nguồn thu nhập

của gia đình ông chủ yếu từ việc trồng chuối và dứa.Tổng thu nhập trong 1 năm của

gia đình vào thời điểm năm 2015 là 261 triệu đồng, gấp rất nhiều lần so với thời

điểm trước năm 1986.

Bảng 4.4: Cơ cấu thu nhập của gia đình ông Cƣ Phừ năm 2015

(gia đình thuộc diện trung bình tại thôn Na Lốc II, xã Bản Lầu)

Nguồn thu Số lƣợng Đơn vị Thành tiền (năm 2015)

Thóc 700 kg 7 triệu

Ngô 600 kg 5 triệu

Lợn 4 con 8 triệu

Trồng dứa 3 triệu tháng 36 triệu

Trồng chuối 2tr tháng 24 triệu

Tổng thu 80 triệu đồng

95

Nguồn: Tài liệu điền dã thôn Na Lốc, xã Bản Lầu tháng 6/2015.

Bảng 4.5: Cơ cấu thu nhập của gia đình bà Giang Mỷnăm 2015

(gia đình thuộc diện nghèo tại thôn Cốc Phương, xã Bản Lầu)

Nguồn thu Số lƣợng Đơn vị Thành tiền (năm 2015)

Thóc 200 kg 2 triệu

Ngô 200 kg 1 triệu

Gà 5 con 1triệu

Tổng thu 4 triệuđồng

Nguồn: Tài liệu điền dã thôn Na Lốc, xã Bản Lầu tháng 6/2015.

Qua bảng 4.3, 4.4, 4.5 cho thấy sự chênh lệch khá lớn về thu nhập của các

hộ gia đình khá giả, trung bình và nghèo, điều đó tạo nên sự chênh lệch khoảng

cách giàu - nghèo tương đối lớn tại xã Bản Lầu. Tuy nhiên hiện nay, số hộ nghèo tại

địa bàn xã nói chung và địa bàn các thôn người Hmông tập trung sinh sống như Na

Lốc 1, Na Lốc 2, Na Lốc 3, Na Lốc 4, Cốc Phương hầu như chỉ còn vài hộ, chiếm tỉ

lệ khá nhỏ. Nhìn vảo bảng 4.5 cho thấy gia đình bà Giang Mỷ là một trong những

hộ gia đình thuộc diện nghèo ở xã Bản Lầu (theo chuẩn nghèo của Bộ Lao động

Thương binh và Xã hội năm 2011thì hộ có thu nhập dưới 400.000 đồng/người/tháng

thuộc diện nghèo, tương đương với 4,8 triệu đồng/người/năm). Do đây là hộ có ít

nhân lực, neo người cùng với sự hạn chế về nguồn vốn và sức khỏe nên họ không

tham gia được vào những công việc như làm thuê, bốc vác, kinh doanh, dịch vụ,

nghĩa là chỉ sống tập trung vào canh tác nông nghiệp.

Chương trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn toàn xã đã có nhiều

chuyển biến rõ rệt, nhân dân đã tích cực hiến đất, hiến cây cối, hoa màu, đóng góp

ngày công làm đường giao thông liên thôn, xóa đói, giảm nghèo… Năm 2013, xã

đạt 9 tiêu chí, đến tháng 11-2014, xã đã hoàn thành 19/19 tiêu chí, được công nhận

xã nông thôn mới. Kinh tế phát triển, tạo thêm cơ sở để bảo đảm, củng cố quốc

phòng, an ninh, góp phần cùng các lực lượng chức năng giữ vững biên giới quốc

gia, quan hệ của nhân dân hai bên biên giới được củng cố và tăng cường, góp phần

96

tạo môi trường hòa bình để phát triển.

4.2.2. Đời sống văn hóa

Văn hóa tộc người là một trong những thành tố quan trọng trong văn hóa của

một quốc gia, là vấn đề được các nhà nghiên cứu luôn quan tâm, và nghiên cứu

trong việc phát triển và bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống.Hiện nay, với sự

phát triển của kinh tế xã hội cũng như sự du nhập của các luồng văn hóa mới trong

quá trình hội nhập và mở của với các quốc gia khác trên thế giới.Mà đặc biệt đối với

những khu vực giáp biên giới như xã Bản Lầu, huyện Mường Khương, thì việc

nghiên cứu càng trở nên cần thiết.

Sự biến đổi trong sinh kế của người Hmông ở xã Bản Lầu ngoài những ảnh

hưởng tích cực làm cho mức sống cao hơn, đời sống người dân được cải thiện, bên

cạnh đó cũng kéo theo hàng loạt sự biến đổi trong văn hóa tộc người. Trong nghiên

cứu này, tôi sẽ chỉ ra những biến đổi văn hóa do sự tác động của biến đổi sinh kế

dẫn đến hiện nay.

Nhà cửa

Nhà truyền thống của người Hmông ở xã Bản Lầu trước đây là nhà trệt.

Nhưng từ khi Đổi mới (năm 1986) đến nay, đồng bào đã chuyển sang ở nhà đất, nhà

xây cấp bốn và hiện nay thì có rất nhiều nhà cao tầng khang trang đã xuất hiện.

Những kiểu nhà làm bằng các vật liệu tự nhiên gỗ, tre, nứanhư trước kia cũng đã

không còn nhiều nữa, mà thay bằng các nguyên vật liệu công nghiệp như gạch, xi

măng.

Ăn uống

Tập quán ăn uống của đồng bào Hmông ở Bản Lầu hiện nay đã có nhiều sự

thay đổi rõ rệt, do sự du nhập, giao lưu văn hóa giữa các tộc người sinh sống cạnh

nhau, cũng như thị trường hàng hóa ngày càng được mở rộng. Thể hiện trước hết ở

các loại nguồn lương thực, thực phẩm, nếu như trước kia đồng bào sử dụng mèn

mén trong bữa ăn hàng ngày là chủ yếu, thì bữa ăn bây giờ cũng đa dạng hơn với

các loại gạo mới cũng như các loại rau, củ, quả mua từ bên ngoài. Cùng với sự phát

triển về kinh tế - xã hội, họ đã trang bị cho bếp ăn của mình nhiều dụng cụ chế biến

mới, hiện đại như nồi điện, chảo điện, bếp ga. Mọt số món ăn truyền thống ở đồng

97

bào cũng có sự thay đổi, điển hình đó là món thắng cố.

“Thắng cố” là món ăn dân dã, đại chúng, mang tính cố kết cộng đồng, làm

cho người ta nhanh gần nhau hơn và dễ hiểu nhau hơn. Không chỉ làmột món ăn, đó

còn là nét văn hoá mà qua đấy, ta thấy rõ những chuẩn mực ứng xử, tập tục và

truyền thống văn hoá của một dân tộc giữa nhiều dân tộc, trong một phạm vi không

gian giao tiếp rộng rãi và khoáng đạt. Tuy nhiên, hiện nay, thắng cố đang dần mất đi

những giá trị truyền thống từ cách ăn, đối tượng ăn, không gian ăn trước ảnh hưởng

của du lịch và hội nhập.Chợ phiên của người Hmông nay là một điểm đến đầy hấp

dẫn của khách du lịch trong và ngoài nước.Nó khiến những người bán thắng cố dần

dần thay đổi hương vị của món ăn đặc biệt này cho phù hợp với khẩu vị của thực

khách.Món ăn này trở thành thực đơn chính tại các nhà hàng, được chế biến sáng

tạo với nhiều loại gia vị mới. Để thích ứng với bối cảnh kinh tế, xã hội và văn hóa

mới, sự thay đổi theonhững bình diện trên là điều không tránh khỏi.Tục uống nước

lã cũng đã được thay thế bằng uống nước sôi, pha chè hay các loại lá thuốc (vối,

nhân trần). Bên cạnh đó, đối với nhiều gia đình người Hmông ở đây hiện nay, đồ

uống như bia, rượu, các loại nước đóng chai, nước hoa quả đã là thành phần không

thể thiếu trong các bữa cơm thường nhật. Nhiều loại đồ uống đa dạng luôn chiếm

chỗ trong các tủ lạnh, tủ rượu của các gia đình khá giả ở đây.

Trang phục

Trang phục là yếu tố thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc và dễ nhận thấy nhất

trong một tập hợp đa tộc người.Nhưng đó cũng là yếu tố văn hóa dễ biến đổi nhất

trong xu thế đô thị hóa, hiện đại hóa như hiện nay.

Bên cạnh trang phục truyền thống làm từ vải lanh, thì hiện nay đồng bào

Hmông ở Bản Lầu đã mặc quần áo như người Kinh, đây là các loại quần áo có sẵn

được nhập từ Trung Quốc, được làm từ các loại sợi tổng hợp mẫu mã thời trang đa

dạng, màu sắc đẹp hơn và đặc biệt những loại quần áo này vừa rẻ, mặc thoải mái,

tiện cho sinh hoạt cũng như lao động của người dân. Trang phục truyền thống của

người Hmông hiện nay chỉ được mặc nhiều nhất vào những dịp lễ hội, biểu diễn

98

nghệ thuật quần chúng.

Ngôn ngữ

Ngôn ngữ là tiêu chí quan trọng nhất để phân biệt các tộc người với nhau.

Bên cạnh tiếng Hmông được sử dụng chủ yếu trong gia đình, và cộng đồng người

Hmông trong thôn, bản thì họ cũng sử dụng tiếng Việt khi ra ngoài trao đổi mua bán

hay gặp bạn bè. Trẻ em khi bắt đầu tập nói, đồng bào cũng đã dạy ngay tiếng phổ

thông để sau này dễ dàng cho việc học tập và tiếp thu kiến thức tại trường. Ngoài ra,

nhiều người trong số họ còn có thể sử dụng thành thạo được tiếng Trung để thuận

lợi trong việc trao đổi buôn bán.Tuy nhiên, cũng có một số trường hợp đồng bào ít

ra khỏi thôn, bản chỉ nói được duy nhất tiếng Hmông, đa số họ là những người già.

Tập quán trong sinh đẻ, hôn nhân và tang ma

Sinh đẻ

Trước đây, mỗi cặp vợ chồng người Hmông thường đẻ từ 5 - 10 người con,

thậm chí có gia đình có hơn 10 con. Nhưng hiện nay, do cuộc vận động hiệu quả

của Chi hội Phụ nữ thôn về công tác Dân số - kế hoạch hóa gia đình nên các gia

đình đã dừng lại ở việc sinh từ 2 - 3 con để đảm bảo hạnh phúc và phát triển kinh tế

hộ. Bên cạnh đó, các dịch vụ y tế xuất hiện, cũng như sự tác động của Khoa học kỹ

thuật, thông qua giáo dục, truyền thông và, tập quán sinh đẻ của người Hmông xã

Bản Lầu cũng có nhiều sự thay đổi theo chiều hướng tích cực hơn .Thay vì đi xem

bói, cúng bái, thì sản phụ đã đến trạm xá, bệnh viện hoặc các dịch vụ y tế khác để

khám thai, sinh đẻ hay chữa trị bệnh tật.

Hôn nhân

Hôn nhân của người Hmông theo tập quán tự do kén chọn bạn đời. Hiện

tượng tảo hôn diễn ra khá phổ biến ở tộc người này, độ tuổi kết hôn thường từ 13-

14, hoặc 15-16.Các nghi lễ tổ chức đám cưới diễn ra rất cầu kì, và kéo dài 3-4 ngày,

rất tốn kém. Nhưng cho đến nay, do công tác tuyên truyền của cán bộ xã trong một

thời gian dài, thì hiện tượng tảo hôn đã giảm đáng kể, và hầu như không còn trong

địa bàn xã. Các nghi lễ đám cưới đều đã có sự thay đổi, được đơn giản hóa hơn,thời

gian tổ chức đám cưới cũng được rút ngắn hơn, tiết kiệm được nhiều kinh phí hơn.

Tục kéo vợ vẫn còn tồn tại ở tộc người này như một nét văn hóa truyền

99

thống, dựa trên sự tự nguyện và tình yêu của đôi lứa, không còn tình trạng ép buộc,

dung quyền thế để ép buộc, “kéo vợ” cho con trai của mình ở những gia đình giàu

có nữa.Vợ chồng người Hmông rất ít bỏ nhau, họ sống với nhau rất hòa thuận, cùng

làm ăn, cùng lên nương, xuống chợ và đi hội hè.

Tang ma

Cũng như nhiều đồng bào dân tộc vùng cao khác, người Hmông ở xã Bản

Lầu vẫn còn lưu giữ nhiều phong tục tập quán truyền thống, trong đó tang ma là

một nghi lễ thể hiện truyền thống, đạo lý uống nước nhớ nguồn, là sự tri ân giữa

người sống với người đã mất. Tuy nhiên cùng với sự phát triển về kinh tế, xã hội, và

sự giao thoa văn hóa với các tộc người khác trên cùng địa bàn thì những tập quán ấy

cũng có nhiều sự thay đổi, để phù hợp thích nghi với cuộc sống hiện đại. Thể hiện ở

chỗ, trước kia, ma chay của người Hmông thường được tổ chức kéo dài từ 5 đến 7

ngày, ngày nay giảm xuống còn từ 2 đến 3 ngày. Hay trước đây, người Hmông

thường đưa thi thể người chết lên treo ở gian giữa nhà, hay còn gọi là đưa lên ngựa

“ninh đăng” để thồ linh hồn người chết về với tổ tiên. Ngày nay, phần lớn các dòng

họ đã đưa thi thể người chết vào áo quan.

4.2.3. Đời sống xã hội

Giáo dục và Y tế

Do đời sống kinh tế của người dân trong thôn ngày một nâng cao, kéo theo

các hoạt động xã hội có những chuyển biến mới theo hướng tích cực, nhất là trong

giáo dục và y tế. Song song với việc giúp dân phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo

ở khu vực biên giới, cán bộ, chiến sĩ Đồn BP Bản Lầu còn phối hợp với Phòng Giáo

dục và Đào tạo huyện Mường Khương tổ chức thành công lớp xóa mù cho 14 học

sinh thôn Na Lốc, tuyên truyền cho bà con xóa bỏ các tập tục lạc hậu. Bên cạnh đó,

hưởng ứng phong trào thi đua dạy tốt - học tốt với sự phối kết hợp giữa gia đình và

nhà trường, giữa nhà trường với chính quyền địa phương nên hiện nay con em các

gia đình người Hmông ở xã Bản Lầu đã được đi học đầy đủ theo đúng độ tuổi.

Thành tích của các trường ngày càng được nâng cao, đội ngũ cán bộ, giáo viên ngày

càng được chuẩn hóa. Có được thành tích đó là do tập thể Ban giám hiệu nhà

trường, các thầy cô giáo, các bậc phụ huynh đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, góp phần

100

xây dựng sự nghiệp giáo dục của xã Bản Lầu ngày càng tốt hơn. Tuyên truyền cho

bà con xóa bỏ các phong tục tập quán lạc hậu, vấn đề sức khỏe được nâng cao, kế

hoạch hóa gia đình được người dân thực hiện tốt, người dân cũng được sử dụng

nguồn nước sạch đảm bảo vệ sinh, đời sống dân trí được nâng lên rõ rệt. Quân y của

Đồn BP Bản Lầu còn phối hợp với y tế xã tổ chức tiêm chủng, cấp phát thuốc miễn

phí và tuyên truyền người dân thực hiện kế hoạch hóa gia đình.

Tệ nạn xã hội

Bản Lầu là một trong những xã giáp biên, có nhiều cơ hội để phát triển kinh

tế với tốc độ đô thị hóa ngày càng nhanh nhưng đây cũng là môi trường thuận lợi

khiến cho các tệ nạn xã hội phát triển mạnh Trong nhiều năm qua tình hình tội

phạm có chiều hướng gia tăng cùng với nhiều diễn biến phức tạp gây bức xúc xã

hội, hoạt động của các loại tội phạm như: Mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép

chất ma túy, mua bán người, vận chuyển pháo nổ qua biên giới diễn biến phức tạp.

Bên cạnh đó, hiện tượng phụ nữ bỏ đi khỏi nơi cư trú, truyền đạo trái pháp luật,

tranh chấp đất đai... diễn ra thường xuyên, đã làm cho tình hình an ninh chính trị

trên địa bàn diễn biến phức tạp và tiềm ẩn nhiều nguy cơ.

Nhận thức đầy đủ, đánh giá đúng thực chất tình hình địa bàn, Đảng ủy, chỉ

huy Đồn BP Bản Lầu đã chủ động tham mưu, phối hợp với cấp ủy, chính quyền xã

Bản Lầu đề ra nhiều chủ trương, thực hiện nhiều biện pháp nhằm giữ gìn an ninh

chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Công tác tuyên truyền, nâng cao nhận

thức và chấp hành pháp luật Nhà nước, quy định của địa phương được chỉ huy đồn

và chính quyền địa phương đặc biệt quan tâm.

Năm 2014, Đồn BP Bản Lầu và xã Bản Lầu phối hợp tuyên truyền được 51

buổi/1.815 lượt người nghe. Nội dung tuyên truyền ngắn gọn, dễ nghe, dễ hiểu, dễ

thực hiện. Các văn bản pháp luật được chuyển tải bằng nhiều hình thức phong phú,

phù hợp với phong tục, tập quán và trình độ nhận thức của bà con. Ngoài hình thức

tuyên truyền miệng được tổ chức độc lập hoặc kết hợp thường xuyên trong các buổi

họp thôn, bản, các cán bộ tuyên truyền còn xuống tận thôn, bản xây dựng các tiết

mục văn nghệ, các cuộc thi hỏi, đáp về pháp luật với nội dung ngắn gọn, dễ hiểu, dễ

nhớ. Những cách làm sáng tạo của các tuyên truyền viên đã làm cho các văn bản

101

pháp luật vốn khô cứng trở nên mềm mại và dễ tiếp thu hơn. Từ đó, gây hứng thú

và tạo ra phong trào tìm hiểu, học tập pháp luật sâu rộng trong nhân dân địa

phương.

Tổ tuyên truyền còn phát huy vai trò của người có uy tín trong dòng họ, thôn

bản tích cực tham gia công tác TTPBGDPL. Các tuyên truyền viên đến từng nhà

gặp những người có uy tín để thông qua họ, vận động con cháu trong dòng họ sống

và làm việc theo Hiến pháp, pháp luật. Song song với việc tuyên truyền đến mọi

người dân, chỉ huy đồn và chính quyền địa phương còn củng cố nâng cao hoạt động

của tổ tự quản thôn bản, tổ tự quản đường biên, cột mốc, tổ hòa giải... Hiện nay,

trên địa bàn xã Bản Lầu có 21 tổ tự quản an ninh thôn bản, 6 tổ tự quản đường biên,

cột mốc hoạt động rất hiệu quả. Ngoài ra, đơn vị còn xây dựng mô hình "Dòng họ

tự quản", phát động và duy trì thực hiện phong trào "Bảo vệ an ninh Tổ quốc",

phong trào cung cấp tin tố giác tội phạm. Năm 2014, nhân dân đã cung cấp cho Đồn

BP Bản Lầu 329 nguồn tin, trong đó, nhiều nguồn tin có giá trị.

Công tác phối hợp TTPBGDPL ở xã Bản Lầu đã phát huy kết quả tích cực,

góp phần nâng cao nhận thức của nhân dân về chính sách pháp luật của Nhà nước,

nhân dân đã tự giác tìm hiểu, nghiên cứu pháp luật, tự giác chấp hành pháp luật, xây

dựng đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh, tiến bộ. Những khúc mắc, mâu thuẫn

trong quan hệ cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày, người dân đã biết tìm đến các cơ

quan pháp luật để được tư vấn, giải thích.Đặc biệt, người dân đã cảnh giác hơn

trước âm mưu, thủ đoạn của kẻ xấu, tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em. Ở nhiều thôn

bản, không còn hiện tượng tảo hôn, ma chay, cưới xin kéo dài, tình trạng vi phạm

pháp luật trong nhân dân ngày càng giảm so với trước. Đặc biệt, hiện tượng trộm

cắp tài sản công dân đã không còn xảy ra. Nếu như năm 2012, trên địa bàn có 11

vụ/12 đối tượng trộm cắp tài sản, thì năm 2014 không xảy ra vụ nào. Nhân dân tự

giác, tích cực phối hợp với BĐBP giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,

bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh biên giới của Tổ quốc.

4.3. Các vấn đề đặt ra về phát triển sinh kế bền vững

4.3.1. Vấn đề kinh tế

Việc xây dựng nền nông nghiệp hàng hoá tập trung , đẩy mạnh các cây trồng là thế

102

mạnh của địa phương ở Bản Lầu trên thực tế đã thu được những kết quả tích cực.

Bên cạnh đó, việc khai thác triệt để thế mạnh, tiềm năng về đất đai, khí hậu,

tính đa dạng sinh học, nhằm tổ chức một nền sản xuất theo hướng tập trung, tạo ra

những sản phẩm chủ lực có khối lượng lớn, nhất là những sản phẩm có thế mạnh

như : chuối, dứa, chè, cao su…đã góp phần nâng cao thu nhập nông dân, quan trọng

hơn là đã làm thay đổi tư duy sản xuất nông nghiệp manh mún, nhỏ lẻ, tực túc, tự

cấp của người dân vùng núi. Việc hình thành các Hợp tác xã nông nghiệp đã tạo cầu

nối giữa người dân và doanh nghiệp. Từ đó, thúc đẩy quá trình tiêu thụ sản phẩm và

phổ biến khoa học kỹ thuật tiên tiến phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất và tập tục

của người dân vùng núi.

Tuy nhiên, cũng cần phải huy động các nguồn lực để phát triển rừng, xã hội

hóa nghề rừng bằng trồng rừng gỗ lớn, rừng kinh tế; gắn bảo vệ và phát triển rừng

với nâng cao đời sống, xóa đói, giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số, đặc biệt

là người Hmông ở trên địa bàn xã.

Nếu việc tăng trưởng và phát triển nông nghiệp ở xã luôn giữ được mức ổn

định như hiện nay, cũng như người dân biết tận dụng và phát huy những lợi thế về

tự nhiên, nhân lực cũng như áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại vào

trong sản xuất thì sinh kế của họ sẽ ổn định và phát triển bền vững.

4.3.2. Vấn đề giữ gìn văn hóa truyền thống

Từ sau Đổi mới (1986) đến nay, có thể nói cuộc sống của đồng bào người

Hmông ở xã Bản Lầu có nhiều sự biến đổi, kinh tế thì ngày càng phát triển, chất

lượng cuộc sống của người dân ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, bên cạnh

những tác động tích cực về mặt kinh tế thì những yếu tố văn hóa truyền thống của

người Hmông cũng có một số sự biến đổi nhất định. Nhưng có thể khẳng định rằng,

người Hmông là một trong số ít những tộc người vẫn giữ được bản sắc văn hóa tộc

người của mình, và ít bị tác động bởi các yêu tố bên ngoài nhất. Hầu hết họ vẫn giữ

được những yếu tố truyền thống của tộc người mình như trang phục, các phong tục,

tập quán trong cưới xin, ma chay…

Bên cạnh đó, sự xuất hiện của các nguồn sinh kế mới cũng như sự giao lưu

văn hóa giữa các tộc người sống cạnh nhau hay thông qua quá trình trao đổi buôn

103

bán, sinh hoạt,… cũng khiến cho các yếu tố văn hóa vật chất như nhà cửa, trang

phục, ăn uống, phương tiện đi lại của người Hmông xã Bản Lầu đang bị “Kinh

hóa” ít nhiều.

Cần xây dựng các chương trình, dự án để phát huy những giá trị văn hóa

đó vào thực tiễn đời sống hiện nay. Thường xuyên đánh giá mức độ, xu hướng

biến đổi văn hóa của người Tày để có sự điều chỉnh trong chính sách văn hóa tại

địa phương, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển, hội nhập.

Bảo tồn văn hóa truyền thống của dkn tộc cũng là giải pháp hữu hiệu nhằm phát

triển du lịch vùng dân tộc và miền núi theo hướng bền vững.

4.3.3. Vấn đề xã hội

Một yếu tố tác động đến sự phát triển bền vững của đời sống tộc người

Hmông ở Bản Lầu chính là sự gia tăng của các tệ nạn xã hội. Chính sự phát triển

của kinh tế cùng với vị trí tiếp giáp biên giới Trung Quốc, nơi đây là địa bàn nóng

của các tệ nạn như: ma túy, buôn lậu, buôn bán phụ nữ và trẻ em….Do các thế lực

bên ngoài lợi dụng sự nhẹ dạ, cả tin của đồng bào người Hmông ở đây, nhằm xúi

giục, cũng như thuê người dân ở đây vận chuyển hàng lậu, ma túy cho chúng. Các

thủ đoạn của chúng thường rất tinh vi, trong khi lực lượng biên phòng trên địa bàn

còn mỏng, và chưa được trang bị các thiết bị điều tra hiện đại…

Bởi vậy, cần có sự phối hợp chặt chẽ của các lực lượng biên phòng ở địa bàn với

các cấp ủy, chính quyền địa phương, các lực lượng chức năng khác trên địa bàn

nhằm tuyên truyền, vận động đồng bào các tộc người thiểu số ở đây tích cực tham

gia đấu tranh, tố giác tội phạm. Đây là những biện pháp quan trọng, giúp cán bộ,

chiến sĩ của đồn triệt phá thành công nhiều vụ án nghiêm trọng. Góp phần giữ gìn

trật tự, an ninh biên giới và sự phát triển bền vững trong đời sống của người

Hmông.

4.3.4. Phát triển kinh tế gắn với đảm bảo an ninh biên giới

Hiện nay, mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc luôn được các cấp ủy

Đảng và Chính quyền toàn tỉnh Lào Cai nói chung, địa bàn xã Bản Lầu nói riêng

rất chú trọng. Trung Quốc được coi là một trong những đối tác chiến lược trong

hợp tác cùng phát triển, điều đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu văn

104

hóa cũng như phát triển kinh tế, đặc biệt là trao đổi hàng hóa, tạo việc làm cho

nhiều cư dân, trong đó có người Hmông ở xã Bản Lầu.

Tuy nhiên, bên cạnh việc chăm lo phát triển kinh tế của người dân, thì chính

quyền xã và Đồn biên phòng Bản Lầu cũng cần chú trọng tới việc tăng cường

quốc phòng, giữ vững an ninh biên giới. Đây được coi là một yếu tố quan trọng

cho sự phát triển bền vững trong đời sống kinh tế tộc người.

Cần tổ chức kiểm tra, giám sát chặt chẽ người, phương tiện qua lại biên giới,

chống xuất - nhập cảnh trái phép; triển khai lập các chuyên án, kế hoạch nghiệp vụ

trong phòng chống tội phạm, kiên quyết không để xảy ra tụ điểm buôn lậu và các

105

vụ việc phức tạp kéo dài trong địa bàn.

Tiểu kết chƣơng 4

Sinh kế của người Hmông ở xã Bản Lầu từ Đổi mới (năm 1986) đến nay

đã có sự chuyển biến rất lớn từ các hoạt động nông nghiệp đơn thuần đến các

hình thức phi nông nghiệp. Nguyên nhân của sự biến đổi lớn này là do sự tác

động của các yếu tố nội sinh - yếu tố con người và các yếu tố ngoại sinh - là các

chính sách của Đảng và Nhà nước, đã góp phần vào sự phát triển thay đổi lớn

về bộ mặt nông thôn xã Bản Lầu nói chung và các bản người Hmông nói riêng.

Sự biến đổi trong sinh kế đã tác động nhiều mặt đến đời sống văn hóa - xã hội

của người Hmông ở xã Bản Lầu như ăn uống, trang phục, ngôn ngữ, hôn nhân và

các phong tục tập quán, và cấu trức không gian làng bản, và các quan hệ ứng xử

trong dòng họ… Xu hướng phát triển này là tất yếu, nhưng cần có những chính

sách phát triển bền vững đối với khu vực vùng biên đồng thời phát triển kinh tế

106

phải gắn với đảm bảo an ninh biên giới.

KẾT LUẬN

Bản Lầu, một xã giáp biên giới của huyện Mường Khương, vốn có sinh kế

chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp là chính, vì thế đời sống kinh tế của nhiều hộ

gia đình ngườiHmôngcó nhiều khó khăn. Hoạt động mưu sinh truyền thống của

người Hmông ở xã Bản Lầu bao gồm các hoạt động kinh tế: trồng trọt, chăn nuôi,

thủ công gia đình, trao đổi mua bán… trong đó canh tác nương rẫy là phương thức

mưu sinh chủ đạo, chăn nuôi vẫn chưa được đồng bào chú trọng mà chỉ phục vụ cho

việc cải thiện bữa ăn hàng ngày, cung cấp sức kéo, phân bón và các nghi lễ. Thủ

công nghiệp bao gồm nhiều nghề truyền thống như rèn, dệt, đan lát, nấu rượu… với

các sản phẩm của nghề thủ công tương đối phong phú và đa dạng phụ vụ nhu cầu

hàng ngày của gia đình song vẫn mang tính chất là các hoạt động kinh tế phụ bổ trợ

cho nông nghiệp.

Kể từ năm 1986 đến nay, trong bối cảnh đổi mới nói chung, bình thường hóa

quan hệ giao thương giữa Việt Nam và Trung Quốc nói riêng, kinh tế ở vùng biên

mậu phía Bắc nói chung và sinh kế của các hộ gia đình người người Hmông ở xã

Bản Lầunói riêng đã có những biến đổi tích cực. Từ một trong không nhiều xã vùng

cao được gán cho danh hiệu"kém toàn diện", nghĩa là có nhiều khó khăn, thậm chí

là kém phát triển, Bản Lầu đã dần thử nghiệm các mô hình sinh kế mới, nổi bật là

trồng cây công nghiệp phục vụ thị trường ở trong nước và nước ngoài.

Nguyên nhân của sự biến đổi này không chỉ đơn gian là nhờ vị trí nằm ở cửa

ngõ huyện biên giới Mường Khương, trấn giữ 13 cây số đường biên giới phía Đông

Bắc của tỉnh Lào Cai với Trung Quốc, mà một yếu tố quan trọng không kém chính

là Bản Lầu được chọn là một trong bốn xã thí điểm xây dựng nông thôn mới của

huyện. Nhờ đó, Đảng và chính quyền các cấp đã quan tâm và đầu tư, hỗ trợ nhiều

hộ gia đình nông dân người Hmông ở xã Bản Lầuchuyển đổi sản xuất nông nghiệp

theo hướng sản xuất hàng hóa, nhằm không chỉ thoát nghèo mà còn tiến lên phát

triển bền vững hơn.

Nhờ đó, xã Bản Lầu và nhất là các hộ gia đình người Hmông ở đây là một

107

điểm sáng trong chuyển đổi sinh kế, giảm nghèo, vươn lên làm giàu nhờ cây công

nghiệp phục vụ thị trường. Kết quả là nguồn thu nhập từ cây dứa, phát triển mô hình

kinh tế vườn rừng và trang trại, làm cho cuộc sống và mức sống của nhiều gia đình

khá hơn trước, thậm chí có những hộ gia đình đã mua được ôtô và các tiện nghi sinh

hoạt, sản xuất đắt tiền khác.

Những biến đổi này làm thay đổi phương thức mưu sinh và bản chất của hoạt

động mưu sinh của các hộ gia đình người Hmông ở xã Bản Lầu, thoát khỏi sự lệ

thuộc vào tự nhiên, thoát khỏi nền kinh tế tự cung tự cấp, chuyển sang một nền sản

108

xuất cây công nghiệp hàng hóa vì thị trường.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Bình (2001), Tập quán hoạt động kinh tế của một số dân tộc ở Tây Bắc

Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

2. Trần Bình (2005), Tập quán mưu sinh của các dân tộc thiểu số ở Đông Bắc

Việt Nam, Nxb Phương Đông, Hà Nội.

3. Nguyễn Duy Bính (2005),Dân tộc Miêu (Hmông ở Trung Quốc), Dân tộc

học, (5), tr. 56-66.

4. Bế Viết Đẳng (1993), Những biến đổi về kinh tế - văn hoá ở các tỉnh miền

núi phía Bắc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

5. Bế Viết Đẳng (1996), Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế - xã

hội ở miền núi, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

6. Lê Sĩ Giáo (1989), Canh tác nương rẫy với vấn đề xây dựng kinh tế hộ

giađình, Tạp chí Dân tộc học, số 4.

7. Lê Sĩ Giáo (1990), Kinh tế hộ gia đình ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu

số phía Bắc, Tạp chí Thông tin lý luận, số 5.

8. Phạm Thị Thu Hà (2012),Biến đổi sinh kế của người Tày ở vùng biên giới

tỉnh Lạng Sơn từ đổi mới (1986) đến nay – Nghiên cứu trường hợp thôn Bản

Thẩu, xã Tân Thanh, huyện Văn Lang,tỉnh Lạng Sơn, Luận văn Thạc sĩ Lịch

sử, Trường ĐHKHXH&NV Hà Nội.

9. Trần Văn Hà (1986), Thu nhập của nông dân miền núi và mối quan hệ gắn

bó với hợp tác xã của, Tạp chí Dân tộc học số 3.

10. Trần Văn Hà (2007), Phát triển nông thôn miền núi và dân tộc trong thời

kỳ chuyển đổi, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.

11. Trịnh Thị Hạnh (2008), Biến đổi sinh kế của người Mường vùng lòng hồ

thủy điện Hòa Bình, Luận văn Thạc sĩ Dân tộc học, Trường ĐHKHXH&NV

Hà Nội.

12. Nguyễn Văn Huy (1984), Một số vấn đề về kinh tế gia đình hiện nay ở

miền núi, Tạp chí Dân tộc học số 4.

109

13. Vũ Quốc Khánh ( 2005),Người H’mông ở Việt Nam, Nxb Thông tấn Hà Nội

14. Nguyễn Thị Ngân (2000), Công cụ sản xuất nông nghiệp của các dân tộc

nhóm ngôn ngữ H’Mông – Dao, Bảo tàng Văn hóa các Dân tộc Việt Nam.

15. Ngô Thị Thanh Quý (2012), Khả năng thích ứng với môi trường tự nhiên

của người Hmông qua câu hát dân ca, Nxb Dân tộc và thời đại, Hà Nội.

16. Hoàng Mạnh Quân(2005),Nghiên cứu đặc điểm văn hóa kiến thức bản địa

và chiến lược sinh kế của đồng bào dân tộc thiểu số tại Đăkrông - Quảng

Trị, Đại học Nông lâm Huế.

17. Trần Hữu Sơn (1996), Văn hóa Hmông, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

18. Đặng Kim Sơn (2001),Công nghiệp hóa từ nông nghiệp, Nhà xuất

bản Nông nghiệp, Hà Nội.

19. Nguyễn Văn Sửu (2008), Tác động của Công nghiệp hóa và đô thị hóa đến

sinh kế người nông dân Việt Nam – trường hợp một làng ven đô Hà Nội, Kỷ

yếu Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ III.

20. Nguyễn Văn Sửu (2010), Khung sinh kế bền vững – Một cách phân tích

toàn diện về phát triển và giảm nghèo, Tạp chí Dân tộc học số 2.

21. Nguyễn Mạnh Tiến (2014), Những đỉnh núi du ca, một lối tìm về cá tính

H’Mông,NXB Thế giới.

22. Tổng điều tra dân số và nhà ở (2009), Kết quả toàn bộ, Nxb Thống kê, Hà

Nội.

23. UBND huyện Mường Khương (2009), Báo cáo tình hình và kết quả thực

hiện một số cơ chế, chính sách đối với các xã đặc biệt khó khăn, biên giới

và vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

24. UBND huyện Mường Khương (2010), Báo cáo kế hoạch phát triển kinh tế

- xã hội 5 năm (2011 – 2015).

25. UBND xã Bản Lầu (2011), Thuyết minh tóm tắt quy hoạch xây dựng xã

nông thôn mới ở xã Bản Lầu. Giai đoạn 2011 đến 2020.

26. UBND huyện Mường Khương (2011), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội

năm 2011 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2012.

27. UBND huyện Mường Khương (2011), Báo cáo về công tác dân tộc và kết

110

quả tổ chức triển khai thực hiện các chính sách dân tộc năm 2011 trên địa

bàn huyện Mường Khương.

28. UBND xã Bản Lầu (2013), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế,

văn hóa xã hội - an ninh quốc phòng năm 2013. Phương hướng nhiệm vụ phát

triển kinh tế xã hội năm 2014.

29. Cư Hòa Vần, Hoàng Nam (1994), Dân tộc Hmông ở Việt Nam, Nxb Văn

hóa dân tộc, Hà Nội.

Tài liệu nƣớc ngoài

30. Chambers, R. and G. R. Conway (1992), Sustainable rural livelihoods: practical

concepts for the 21st century IDS, IDS Discussion Paper No 296

Tài liệu internet

31. Huyện Mường Khương tập trung sản xuất chuyên canh 4 loại cây

mũi nhọn(24/09/2013),

http://www.laocai.gov.vn/thongtintucoso/Trang/20130924142604.aspx

x

33. Kỹ thuật trồng chuối tiêu hồng (28/01/2013),

111

http://tailieu.vn/doc/ky-thuat-trong-chuoi-tieu-hong-1357356.html

PHỤ LỤC

Ảnh1: Quang cảnh khi bước vào thôn Na Lốc I. (Nguồn: Điền dã dân tộc

học)

112

Ảnh 2: Nương dứa trên đất đồi Bản Lầu.(Nguồn: Điền dã dân tộc học)

Ảnh 3: Sựchung tay của Bộ đội Biên phòng. (Nguồn: Điền dã dân tộc học)

Ảnh 4: Giàng Chúng, Trưởng thôn Cốc Phương, xã Bản Lầu (ngoài cùng

bên trái), luôn gương mẫu đi đầu trong các công việc của thôn cũng như

113

phát triển kinh tế gia đình. (Nguồn: Điền dã dân tộc học)

Ảnh 5: Nông dân Bản Lầu có thu nhập cao từ trồng dứa. (Nguồn: Điền dã

dân tộc học)

114

Ảnh 6: Điểm thu hoạch dứa. (Nguồn: Điền dã dân tộc học)

Ảnh 7: Những ngôi trường đã xuất hiện tại các thôn bản người

Hmông.(Nguồn: Điền dã dân tộc học)

115

Ảnh 8: Khu Đảng Uỷ thôn Na Lốc.(Nguồn: Điền dã dân tộc học)

Ảnh 9: Nhà của một hộ gia đình khá giả lên nhờ trồng chuối dứa.(Nguồn:

Điền dã dân tộc học)

Ảnh 10: Nhà của triệu phú dứa ở thôn Na Lốc II. (Nguồn: Điền dã dân tộc

116

học)

Ảnh 11: Điểm thu mua nông sản.(Nguồn: Điền dã dân tộc học)

Ảnh 12: Các dịch vụ buôn bán nhỏ xuất hiện nhiều trong thôn. (Nguồn: Điền

117

dã dân tộc học)

Ảnh 13:Một người dân đang thu hoạch chuối . (Nguồn: Điền dã dân tộc học)

Ảnh 15: Một gia đình thuộc hộ nghèo trong thôn. (Nguồn: Điền dã dân tộc

118

học)

Ảnh 16: Mùa thu hoạch dứa. (Nguồn: Điền dã dân tộc học)

Ảnh 17: Các xe trở hàng tấp nập vào thôn để chuyển nông sản ra cửa khẩu.

119

(Nguồn: Điền dã dân tộc học)