ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------
ĐĐOOÀÀNN VVĂĂNN TTHHẮẮNNGG
BBIIẾẾNN ĐĐỔỔII VVĂĂNN HHÓÓAA CCỦỦAA CCỘỘNNGG ĐĐỒỒNNGG NNGGƯƯ DDÂÂNN
VVẠẠNN CCHHÀÀII HHẠẠ LLOONNGG,, TTỈỈNNHH QQUUẢẢNNGG NNIINNHH
LUẬN VĂN THẠC SỸ NGÀNH LỊCH SỬ
Hà Nội –2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------
ĐĐOOÀÀNN VVĂĂNN TTHHẮẮNNGG
BBIIẾẾNN ĐĐỔỔII VVĂĂNN HHÓÓAA CCỦỦAA CCỘỘNNGG ĐĐỒỒNNGG NNGGƯƯ DDÂÂNN
VVẠẠNN CCHHÀÀII HHẠẠ LLOONNGG,, TTỈỈNNHH QQUUẢẢNNGG NNIINNHH
LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành: Lịch sử văn hóa Việt Nam
Mã số: Đào tạo thí điểm
Ngƣời hƣớng dẫn: PGS.TS. Lƣơng Hồng Quang
Hà Nội –2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan mọi thông tin, số liệu công bố trong luận văn là trung thực,
phản ánh thực tế những gì tôi nhận thức được khi khảo sát địa bàn nghiên cứu và
đối tượng nghiên cứu của mình. Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Xác nhận đã sửa chữa luận văn Tác giả luận văn
của chủ tịch Hội đồng
GS. TS Nguyễn Quang Ngọc Đoàn Văn Thắng
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn của mình đến PGS. TS Lương Hồng Quang, Phó
Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam (Vicas), người thầy đã tận tình chỉ
bảo, hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành
luận văn này. Đồng thời, tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy, cô giáo trong
Bộ môn Văn hóa học và Lịch sử Văn hóa Việt Nam, Khoa Lịch sử, Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, những người đã trang bị
cho tôi tri thức và kĩ năng cần thiết để có được tư duy và phương pháp nghiên cứu
trong lĩnh vực lịch sử văn hóa.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến những người đã nhiệt tình cung cấp thông
tin, số liệu cho luận văn, đặc biệt là sự giúp đỡ nhiệt tình của bà con ngư dân vạn
chài Hạ Long tại khu tái định cư Khe Cá (Khu phố 8), phường Hà Phong, thành phố
Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
Do hạn chế về năng lực, nguồn lực đầu tư, luận văn khó tránh được những
thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp, chỉ bảo của thầy, cô, bạn bè để trong tương
lai, nếu tiếp tục theo đuổi hướng nghiên cứu này, tôi có thể hoàn thiện thêm.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ CỘNG ĐỒNG NGƢ DÂN
VẠN CHÀI HẠ LONG 11
1.1. Di dân và tái định cƣ 1.1.1. Khái niệm 1.1.2. Tái định cư và các vấn đề văn hóa – xã hội 11 11 15
1.2. Biến đổi văn hóa 1.2.1. Thuyết Sinh thái học văn hóa 1.2.2. Đô thị hóa và biến đổi văn hóa 19 19 23
1.3. Tổng quan về cộng đồng ngƣ dân vạn chài Hạ Long 24
Tiểu kết chương 1 36
CHƢƠNG 2
QUÁ TRÌNH CHUYỂN CƢ VÀ NHỮNG BIẾN ĐỔI VĂN HÓA 38
2.1. Bối cảnh của sự biến đổi 2.1.1. Tranh luận về phát triển du lịch Hạ Long và di dân làng chài 2.1.2. Quá trình thực hiện chuyển cư 2.1.3. Môi trường đô thị và các yếu tố của đời sống thủy cư tại khu TĐC 38 38 42 45
2.2. Những biến đổi văn hóa 2.2.1. Những biến đổi văn hóa trên bình diện cộng đồng 2.2.2. Những biến đổi văn hóa trên bình diện gia đình, dòng họ 2.2.3. Biến đổi văn hóa trên bình diện cá nhân 47 47 56 62
Tiểu kết chương 2 67
CHƢƠNG 3
NHỮNG THÁCH THỨC TRONG HỘI NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN 69
3.1. Vấn đề sinh kế 69
3.2. Quá trình hội nhập văn hóa 3.2.1. Hội nhập trong lao động sản xuất 3.2.2. Hội nhập với hoạt động sinh hoạt – tiêu dùng 76 77 80
3.3. Một số bàn luận 83
Tiểu kết chương 3 85
KẾT LUẬN 87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 90
PHỤ LỤC 97
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
BQL Ban quản lý
CNH - HĐH Công nghiệp hóa - hiện đại hóa
ĐTH Đô thị hóa
NXB Nhà xuất bản
TĐC Tái định cư
THCS Trung học cơ sở
THPT Trung học phổ thông
TP Thành phố
UBND Ủy ban Nhân dân
VXH Vốn xã hội
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1. Mô hình phân tích về biến đổi văn hóa của cộng đồng ngư dân vạn chài Hạ Long. .................................................................................................................... 24
Bảng 1: Đặc điểm cộng đồng ngư dân vạn chài và cộng đồng tụ cư theo kiểu đô thị .. 455
Bảng 2: So sánh không gian sống của ngư dân vạn chài Hạ Long ........................ 499
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Biến đổi văn hóa hiện là chủ đề được nhiều nhà nghiên cứu ở Việt Nam quan
tâm phân tích nhằm chỉ ra bối cảnh tác động, khuynh hướng biến đổi, đưa ra nhận
thức về các cơ hội và thách thức mà những cộng đồng đang chuyển đổi phải đối
mặt. Trong bối cảnh đó, di dân và tái định cư cũng được chú ý nghiên cứu như một
nguyên nhân tạo ra những tương tác và biến đổi văn hóa.
Di dân và tái định cư (TĐC) là một hiện tượng kinh tế - xã hội trong lịch sử
loài người mà động lực của nó bắt nguồn từ những thay đổi của môi trường sống, sự
chênh lệch về trình độ phát triển giữa các vùng, miền. Hiện tượng này diễn ra mạnh
mẽ ở Việt Nam trong những năm gần đây do những tác động từ chính sách cũng
như xuất phát từ những lực đẩy – lực hút khi so sánh tương quan nông thôn – đô thị.
Di dân, đặc biệt là di dân có tổ chức thường gắn với việc thay đổi không gian sống,
các điều kiện thực hành sinh kế, văn hóa của cộng đồng người chuyển cư. Việc di
dân (dù là di dân tự do hay di dân “cưỡng bức”) tạo ra sự tương tác giữa cộng đồng
người di cư và môi trường sống mới, tương tác giữa các giá trị văn hóa giữa cộng
đồng di dân với môi trường xã hội tại nơi đến. Từ đó đưa đến những tiếp xúc và
giao lưu văn hóa, cùng với quá trình thích nghi với môi trường tự nhiên, môi trường
xã hội, đưa đến những biến đổi các thực hành văn hóa và quan niệm về giá trị,
chuẩn mực và các khuôn mẫu văn hóa của cộng đồng. Mặt khác, quá trình này cũng
làm nảy sinh nhiều vấn đề, trong đó là sự hội nhập của người di cư trong môi
trường sống mới, yêu cầu phân tích vai trò, vị thế cũng như những khó khăn mà
người di cư gặp phải trong quá trình thích ứng với môi trường đang hàng ngày thay
đổi cuộc sống của họ.
Thời gian gần đây có một dự án di dân và TĐC được báo chí cũng như các
nhà nghiên cứu quan tâm bởi sự nổi tiếng của cộng đồng di dân cũng như sự nổi
tiếng của môi trường sinh thái mà cộng đồng này sinh sống. Đó là cộng đồng ngư
dân vạn chài vịnh Hạ Long. Cộng đồng này đã có một quá trình sinh sống lâu dài
trong môi trường sinh thái vịnh Hạ Long. Các giá trị văn hóa cùng tổ chức xã hội
1
của cộng đồng đã được hình thành và phát triển để thích ứng với điều kiện tự nhiên,
xã hội, kinh tế đặc thù này. Xu hướng di sản hóa trong những năm gần đây đã dẫn
đến việc cộng đồng này phải rời bỏ môi trường sống của mình để đảm bảo cho sự
bền vững của di sản Vịnh Hạ Long, kì quan thiên nhiên thế giới của Việt Nam bằng
“Đề án di dời nhà bè trên vịnh Hạ Long” của chính quyền tỉnh Quảng Ninh. Được
thụ hưởng một số quyền lợi nhưng việc bị tách ra khỏi không gian sống quen thuộc
đã tạo ra những hệ quả về mặt văn hóa – xã hội bắt nguồn từ việc thay đổi không
gian sống và sinh kế của cộng đồng. Hiện nay, sau 2 năm chuyển lên bờ, nhiều vấn
đề của dự án này đã xuất hiện đã được phản ánh trên báo chí và phần lớn ngư dân
đã quay trở lại khai thác biển. Điều này thôi thúc cần có những nghiên cứu khoa học
để đánh giá hiệu quả, hệ quả của chính sách để có những điều chỉnh và hỗ trợ cộng
đồng ngư dân kịp thời trong việc ổn định cuộc sống, đảm bảo sinh kế bền vững và
hội nhập văn hóa với cộng đồng dân cư đô thị ở trên bờ.
Từ những vấn đề nêu trên, chúng tôi chọn đề tài “Biến đổi văn hóa của cộng
đồng ngư dân vạn chài Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh” với mong muốn truyền tải
lịch sử hình thành, phát triển và biến đổi văn hóa của một cộng đồng, thông qua đó
đánh giá những phương diện tích cực, hạn chế của một giai đoạn văn hóa hiện nay
trong tổng thể tiến trình lịch sử văn hóa của cộng đồng ngư dân vạn chài Hạ Long
làm vấn đề nghiên cứu cho luận văn này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
- Nhóm các công trình nghiên cứu về di dân và tái định cƣ, thích ứng với
môi trƣờng:
Di dân là một chủ đề được các học giả và những người làm chính sách ở Việt
Nam quan tâm. Những nghiên cứu này tập trung vào các vấn đề như: di dân với vấn
đề kinh tế; di dân với vấn đề xã hội; di dân với các vấn đề về chính trị, chính sách
và hướng tiếp cận di dân và vấn đề tái định cư, môi trường. Thường những công
trình này tập trung vào quá trình di dân tự do nông thôn – đô thị do lực đẩy ở khu
vực nông thôn từ áp lực dân số, thiếu thốn cơ sở hạ tầng, cuộc sống nghèo nàn; do
sự chênh lệch về mức thu nhập giữa lao động ở khu vực nông thôn và đô thị tạo ra
lực hút về kinh tế, lực hút về chính trị đối với người dân nông thôn mong muốn đổi
đời và phát triển kinh tế gia đình. Những công trình theo hướng này như “Di dân
2
trong nước: vận hội và thách thức đối với công cuộc đổi mới và phát triển ở Việt
Nam”, “Bảo trợ xã hội cho những nhóm thiệt thòi ở Việt Nam” của tác giả Đặng
Nguyên Anh (2005), Di dân và bảo trợ xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ sang
kinh tế thị trường của Lê Bạch Dương và Khuất Thu Hồng (2008), Trần Đình Hằng
với đề tài cấp Bộ (Bộ Văn hóa Thể thao và Du Lịch) “Bảo tồn và phát triển văn hóa
các dân tộc thiểu số vùng di dân tái định cư ở miền Trung do xây dựng các công
trình thủy điện” (2014),“Sự hòa nhập lối sống đô thị của dân nhập cư tại Tp. Hồ
Chí Minh” của Lê Sĩ Hải (2016)... cũng tập trung vào phân tích những tác động về
kinh tế, dân số, an sinh xã hội và quá trình thức ứng của người di cư trong môi
trường sống mới, chỉ ra thách thức trong hoạch định chính sách di dân để vừa thúc
đầy tăng trưởng kinh tế vừa duy trì ổn định xã hội. Trong đó, công trình của Trần
Đình Hằng có giá trị tham khảo cao về mặt lý luận với việc trình bày các lý thuyết
về di dân, biến đổi sinh kế và văn hóa, cùng với đó là những mô tả thay đổi văn hóa
của các cộng đồng “dân tộc thiểu số”, qua đó đề xuất một số biện pháp trong việc
bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của các dân tộc thiểu số vùng di dân TĐC miền
Trung do xây dựng các đập thủy điện. Những phân tích trong công trình này cho
thấy, việc “cưỡng bức” các cộng đồng tộc người khu vực miền Trung, vốn sinh
sống lâu đời trong môi trường thung lũng, dồn họ vào các khu TĐC với môi trường
tự nhiên khác biệt và mở rộng điều kiện giao thương là một cú hích với lực tác động
mạnh mẽ, đột ngột, làm biến đổi sinh kế, biến đổi văn hóa của cộng đồng. Biến đổi
sinh kế được phân tích gắn với biến đổi môi trường tự nhiên, là hiện tượng mang
tính quy luật khi thay đổi môi trường tự nhiên. Bên cạnh những mặt tích cực, chính
sách di dân “cưỡng bức” này cũng đã để lại nhiều hệ quả về mặt văn hóa do không
chú trọng đến yếu tố văn hóa, thiếu những đánh giá trên góc độ nhân học văn hóa,
dân tộc học.
Công trình “Dân số, định cư và môi trường” của tác giả Nguyễn Đình Hòe
(2001) là công trình với hướng tiếp cận di dân với vấn đề tái định cư và môi trường.
Cuốn sách có chương 3 tập trung vào phân tích tác động tới môi trường của di dân
và tái định cư và khẳng định “Di cư và định cư giúp xã hội sử dụng được nguồn tài
nguyên đa dạng của trái đất, làm tăng khả năng tải của lãnh thổ và khởi động quá
trình văn minh trên cơ sở hội nhập các nền văn hóa và kinh nghiệm sử dụng tài
3
nguyên. Tuy nhiên, định cư cũng có thể thất bại cả về phương diện xã hội lẫn
phương diện môi trường do thiếu cân nhắc mối quan hệ giữa động lực dân cư và
môi trường cư trú. Khả năng thành công của định cư tăng lên nhờ công tác quy
hoạch hợp lý, xử lý tốt mối quan hệ sinh thái học và khai thác hợp lý tài nguyên môi
trường. Đánh giá môi trường, hiểu cặn kẽ thuận lợi và khó khăn của vùng đất sẽ
định cư đóng vai trò chủ chốt trong việc xác lập mô hình định cư” [20,29]. Trong
chương này, tác giả Nguyễn Đình Hòe còn phân tích rõ những nguyên tắc môi
trường tái định cư và những vấn đề kinh tế - xã hội của tái định cư. Những phân tích
khái quát tầm lý thuyết có kèm theo những ví dụ cụ thể là nguồn tham khảo hữu ích
để chúng tôi áp dụng phân tích trong luận văn này.
Bên cạnh đó, một số bài viết như “Công tác tái định cư thủy điện Sơn La
dưới góc độ phong tục và tập quán canh tác của đồng bào dân tộc vùng Tây Bắc”
của nhóm tác giả Nguyễn Văn Quân, Nguyễn Thị Vòng (2011)... in trong tạp chí
Khoa học và Phát triển của trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội (nay là Học viện
nông nghiệp), luận văn “Tái định cư và sự thay đổi đời sống của nhóm Đan Lai
(Thổ) ở vườn Quốc gia Pù Mát” của Bùi Minh Thuận (2010) cũng phân tích những
tác động của tái định cư tới sự thay đổi phong tục tập quán của cộng đồng bị ảnh
hưởng và đề ra một số chính sách cụ thể. Những công trình này cũng đã có những
phân tích về hạn chế của những chính sách khi chỉ chú trọng tới vấn đề kinh tế mà
bỏ qua vấn đề đảm bảo văn hóa, sinh kế cho phát triển bền vững của tộc người..
- Nhóm các công trình nghiên cứu về biến đổi văn hóa:
Trên bình diện lý thuyết, “biến đổi văn hóa” đã được đề cập đến trong những
công trình của các lý thuyết gia kinh điển với các thuyết Tiến hóa luận, Truyền bá
luận, Tiếp biến văn hóa; Cấu trúc – chứng năng, Sinh thái học văn hóa, sinh thái
học nhân văn... Các lý thuyết này cung cấp những lập luận và khung phân tích để
chứng minh sự biến đổi văn hóa với các cách giải thích về nguyên nhân khác nhau
như: sự tiến hóa theo thang bậc phát triển, có văn hóa thấp, văn hóa cao; do tiếp
xúc, giao lưu, trao đổi, truyền bá, gây ra những biến đổi về mô thức văn hóa; do sự
thích ứng với môi trường...
Ở Việt Nam, trong bối cảnh CNH – HĐH và ảnh hưởng của toàn cầu hóa đã
nở rộ các công trình nghiên cứu về biến đổi văn hóa, trong đó tập trung vào khu vực
4
nông thôn đang vận động với xu hướng đô thị hóa. Những công trình này tập trung
nghiên cứu các khuynh hướng, các khuôn mẫu và giá trị văn hóa trong một xã hội
chuyển đổi như “Câu chuyện làng Giang” do tác giả Lương Hồng Quang chủ biên;
Nguyễn Thị Phương Châm với công trình “Biến đổi văn hóa ở các làng quê hiện
nay (trường hợp làng, Đồng Kỵ, Trang Liệt và Đình Bảng thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh
Bắc Ninh)... Trong những công trình trên, các tác giả ngoài việc mô tả những động
thái trong biến đổi văn hóa ở nông thôn Việt Nam, từ văn hóa thường ngày đến các
sinh hoạt cộng đồng như tôn giáo, hội hè, dòng họ, phường hội... còn chỉ ra xu
hướng biến đổi văn hóa phụ thuộc vào yếu tố phát triển kinh tế - xã hội, mặt khác,
biển đổi văn hóa có tính độc lập và đôi khi độc lập với yếu tố biến đổi kinh tế. Đặc
biệt, công trình của Nguyễn Thị Phương Châm còn là một bản tổng hợp, giới thiệu
các luận điểm về biến đổi văn hóa từ các lý thuyết nghiên cứu văn hóa trên thế giới.
Những thông tin như vậy có giá trị tham khảo rất lớn trong luận văn này.
Bên cạnh đó, biến đổi văn hóa còn là chủ đề của nhiều khóa luận, luận văn,
luận án liên quan đến những biến đổi chung, cụ thể. Ví dụ về biến đổi chung như
Khóa luận tốt nghiệp khoa Lịch sử (ĐHKHXHNVHN) của Trần Thanh Hoa (2004)
“Biến đổi văn hóa của một cộng đồng làng ven đô (trường hợp thôn Yên Duyên,
phường Yên Sở, quận Hoàng Mai, Hà Nội)”, biến đổi một loại hình cụ thể với luận
án “Biến đổi văn hóa gia đình ở vùng tái định cư huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh” của
Nguyễn Thị Nguyệt (2015) (NCS của Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt
Nam)...
Như vậy, qua việc tìm hiểu lịch sử nghiên cứu thông qua 3 nhóm công trình
nêu trên, có thể đưa ra một mối liên hệ phân tích: Di dân, dù là di dân tự do hay di
dân “cưỡng bức” đều đưa đến những thay đổi về môi trường sống, là cú hích tạo ra
những biến đổi về sinh kế, văn hóa để thích ứng, đối phó và xa hơn nữa là hòa nhập
vào môi trường sống với với những thách thức mới.
- Về con ngƣời và văn hóa của cƣ dân vạn chài Hạ Long:
Văn hóa ngư dân vạn chài Hạ Long dù có nét riêng nhưng cơ bản cũng mang
những nét văn hóa chung của cư dân miền biển do quy định của môi trường tự
nhiên và hoạt động kinh tế, chưa kể do sự di cư, hòa trộn của các nhóm ngư dân từ
các vùng khác nhau. Bởi vậy, khi nghiên cứu con người, văn hóa của cư dân vạn
chài Hạ Long không thể bỏ qua những công trình nghiên cứu chung về văn hóa ngư
5
dân. Trong số này có thể kể ra như: “Cộng đồng ngư dân ở Việt Nam”, “Vai trò của
môi trường biển đảo trong việc hình thành tính cách người miền biển” của Nguyễn
Duy Thiệu. Nghiên cứu trên cho thấy vai trò của môi trường biển trong việc hình
thành những lối sống, tập quán, tín ngưỡng của ngư dân cũng như phác thảo những
nét cơ bản về văn hóa của họ.
Riêng về văn hóa ngư dân vạn chài Hạ Long, đề tài này xuất hiện trên những
bài báo quảng bá về du lịch Hạ Long, các luận văn về phát huy di sản phục vụ du
lịch, sách địa chí của tỉnh Quảng Ninh và một số sách của Sở Văn hóa, Thể thao và
Du lịch tỉnh Quảng Ninh. Chẳng hạn, Địa chí Quảng Ninh (tập 2) trong mục Thủy
sản có nhắc tới lịch sử nghề cá ở Quảng Ninh, trong đó có điểm qua một số làng
Hùng Thắng, Tuần Châu, Thành Công... Nội dung này mô tả quá trình phát triển
nghề cá của Quảng Ninh nói chung theo diễn trình lịch sử và chỉ tập trung mô tả cải
tiến kỹ thuật đánh bắt cùng việc nâng cao mức sống của ngư dân. Trong tập 3 của
Địa chí Quảng Ninh, tại mục Văn học, Nghệ thuật, Phong tục tập quán, có nhắc tới
những nét văn hóa riêng của ngư dân vạn chài của tỉnh Quảng Ninh nói chung và
Hạ Long nói riêng. Những thông tin này chỉ ra những nét tương đồng và khác biệt
trong phong tục tập quán của ngư dân Vạn chài với những người Việt ở trên bờ do
hoàn cảnh sống khác biệt và giới thiệu loại hình nghệ thuật của dân cài như Hát
cưới trên thuyền, Hát chèo đường. Tuy vậy, thông tin còn ít và giản lược. Nói
chung, các thông tin từ địa chí cung cấp đã khái quát được quá trình hình thành
cộng đồng cư dân chài ở Hạ Long, sự thay đổi địa danh hành chính, phương thức
quản lý của làng chài qua các thời kỳ, cung cấp một số thông tin về đặc điểm dân
số, phong tục, văn hóa và một số nội dung khác liên quan.
Tác phẩm “Di sản văn hóa làng chài thủy cư trên Vịnh Hạ Long” của Sở
Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Ninh xuất bản năm 2003 cũng đã đề cập
tới mảng văn hóa của cộng đồng cư dân biển Quảng Ninh một cách sơ lược, khái
quát. Vào năm 2010, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch xuất bản cuốn sách chuyên
khảo “Di sản văn hóa làng chài vịnh Hạ Long” phục vụ công tác nghiên cứu, quảng
bá du lịch. Đây là những công trình được đầu tư và trình bày khá công phu và
phong phú về tư liệu, cung cấp những thông tin về các giá trị văn hóa truyền thống
của ngư dân vạn chài Hạ Long và một số vùng khác ở Yên Hưng (Quảng Yên),
Cẩm Phả, Móng Cái... Liên quan đến cộng đồng ngư dân vạn chài Hạ Long, sách
6
này cung cấp hơn 100 bài dân ca giao duyên tiêu biểu của ngư dân làng chài vịnh
Hạ Long và kịch bản phục dựng sinh hoạt hát giao duyên, hát đám cưới trên thuyền
của làng chài Cửa Vạn; Lễ hội đình Giang Võng...
Cộng đồng ngư dân vạn chài Hạ Long cũng là khách thể nghiên cứu được
nhiều khóa luận, luận văn của sinh viên, học viên các trường đại học, đặc biệt là
khối trường liên quan tới lĩnh vực du lịch. Trong số này, có thể kể đến “Đời sống
ngư dân thủy cư vùng Vịnh Hạ Long” của Nguyễn Thị Thùy Dương, khóa luận tốt
nghiệp chuyên ngành lịch sử Văn hóa, khoa Lịch sử, trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn (ĐHQGHN) năm 2001. Khóa luận này đã mô tả lịch sử cộng đồng,
đời sống kinh tế, văn hóa khá chi tiết, cung cấp cái nhìn tổng quát về đời sống của
ngư dân vạn chài Hạ Long. Đây là một tư liệu điền dã dân tộc học có ích khi so
sánh những biến đổi về sinh kế - văn hóa của ngư dân vạn chài Hạ Long hiện nay.
Khóa luận tốt nghiệp năm 2015 “Xây dựng đời sống văn hóa của ngư dân làng chài
Vịnh Hạ Long tại khu tái định cư phường Hà Phong, thành phố Hạ Long, tỉnh
Quảng Ninh” của Nguyễn Thị Minh Huyền, sinh viên khoa Quản lý văn hóa, trường
Đại học Văn hóa Hà Nội cũng có những thông tin hữu ích về một số vấn đề đời
sống văn hóa hiện tại tại khu tái định cư nhưng bởi theo hướng quản lý văn hóa, nên
đời sống văn hóa được mô tả liên quan chủ yếu tới các thiết chế văn hóa cơ sở, đời
sống văn hóa cơ sở như cưới xin, tang ma... Luận văn “Làng chài Cửa Vạn thành
phố Hạ Long tỉnh Quảng Ninh” của Trần Thu Thảo (Đại học Thái Nguyên) đã trình
bày được khá chi tiết về lịch sử hình thành, quá trình sinh sống, tương tác để sản
sinh ra những đặc trưng của cộng đồng ngư dân vạn chài Hạ Long như về cơ bản,
nội dung này cũng không khác nhiều so với khóa luận “Đời sống ngư dân thủy cư
vùng Vịnh Hạ Long” của Nguyễn Thị Thùy Dương. Điểm mới của luận văn là có đề
cập đến quá trình chuyển cư của người dân và phản ánh một số khó khăn của người
dân trên khu TĐC nhưng còn khái quát và chưa tập trung vào những biến đổi các
thực hành văn hóa và sự thích ứng của người dân trong môi trường sống mới. Một
số khóa luận, luận văn khác tập trung giới thiệu giá trị di sản của cộng đồng ngư
dân làng chài với mục đích quảng bá du lịch, phát huy tiềm năng di sản nhân văn
của Hạ Long.
Có khá nhiều bài báo mạng có đề cập tới văn hóa của ngư dân vạn chài Hạ
7
Long và chủ yếu nhằm quảng bá du lịch. Những bài viết này thường ở dạng bài viết
ngắn, giới thiệu một cách tổng quan hoặc giới thiệu một loại hình văn hóa nào đó
nhằm thu hút du khách. Hiện tại, trên báo VOV online (http://www.vov.vn) có hai
số báo phản ánh hiện trạng đời sống của ngư dân vạn chài Hạ Long ở khu TĐC
nhưng những thông tin phản ánh còn sơ lược, tập trung vào một số vấn đề nổi cộm
như mất an ninh trật tự, hiện tượng người ngoài cộng đồng đến “cướp” nhà TĐC
của ngư dân.
Qua tìm hiểu lịch sử nghiên cứu, chúng tôi thấy công việc nghiên cứu về văn
hóa của ngư dân vạn chài Hạ Long từ khi họ chuyển tới một không gian sống mới
trên đất liền hiện chưa có công trình nào cụ thể, tập trung vào tìm hiểu những biến
đổi ngoại trừ một vài bài báo mạng phản ánh tình trạng hiện thời tại “phố làng
chài”. Một phần lý giải cho điều này là bởi chính sách này của tỉnh Quảng Ninh mới
thực hiện được gần hai năm. Do đó, đây là khoảng trống khoa học mà chúng tôi lựa
chọn thực hiện với những mục tiêu nghiên cứu cụ thể được thể hiện qua nội dung
luận văn.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn này là nghiên cứu quá trình biến đổi văn hóa của
cộng đồng ngư dân vạn chài trên vịnh Hạ Long bắt nguồn từ việc thay đổi môi
trường sống và sinh kế.
Để làm được điều đó, luận văn tập trung giải quyết các mục tiêu cụ thể sau:
- Đánh giá những thay đổi về không gian sống và sinh kế tác động đến đời
sống văn hóa của người dân trong môi trường sống mới.
- Nhận diện những biến đổi về văn hóa của một giai đoạn văn hóa trong tổng
thể tiến trình lịch sử văn hóa của cộng đồng ngư dân vạn chài Hạ Long.
- Chỉ ra những thách thức trong quá trình hội nhập và phát triển của ngư dân
tại khu tái định cư.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài xác định đối tượng nghiên cứu là những biến
đổi văn hóa của cộng đồng ngư dân vạn chài Hạ Long trong quá trình thay đổi môi
trường sống và sinh kế do tác động của chính sách di dân. Trong đề tài này, khách
thể nghiên cứu sẽ là cộng đồng ngư dân vạn chài Hạ Long tại khu TĐC.
8
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Thời gian nghiên cứu: Những biến đổi hiện tại được quan sát, nhận định
trên cơ sở nghiên cứu của tôi trong thời gian điền dã thực tế trong những đợt khảo
sát vào tháng 4-5-7/2016. Giai đoạn văn hóa trước đây tôi nghiên cứu dựa trên cơ
sở kế thừa những ghi chép về văn hóa cộng đồng ngư dân vạn chài của các công
trình đi trước và thông qua phỏng vấn ngư dân tại khu TĐC.
+ Không gian nghiên cứu: Không gian nghiên cứu chính là khu TĐC làng
chài thuộc Khu phố 8, phường Hà Phong, Tp. Hạ Long, nơi sinh sống của các hộ
dân chài khi chuyển lên bờ. Bên cạnh đó, luận văn cũng chú ý tới không gian định
cư nguồn cội, nơi cộng đồng hình thành, gắn bó, tương tác với môi trường tự nhiên
và môi trường xã hội để hình thành các giá trị văn hóa của mình.
5. Giả thuyết khoa học
Chính sách đưa ngư dân vạn chài Hạ Long lên khu TĐC là một yếu tố bước
ngoặt trong lịch sử phát triển cộng đồng, tạo lực tác động làm thay đổi không gian
sống và các thực hành sinh kế và khiến cộng đồng này về cơ bản đã mất đi bản sắc
và gặp nhiều khó khăn, thách thức trong cuộc sống mới.
6. Cách tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Cách tiếp cận
Tiếp cận biến đổi văn hóa dựa trên sự thay đổi về môi trường sống và phân
tích sinh kế như một yếu tố tác động đến biến đổi văn hóa.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp điền dã dân tộc học: Việc đến địa bàn và thâm nhập vào
cộng đồng là một yếu tố quan trọng trong một cuộc nghiên cứu. Do đó, cần nắm rõ
phương pháp điền dã dân tộc học để tránh được những khúc mắc với chính quyền
địa phương cũng như học cách tạo thiện cảm với cộng đồng để thuận lợi cho việc
khai thác thông tin. Phương pháp này được nghiên cứu trên một địa bàn cụ thể. Do
đó cũng có thể coi phương pháp này đồng nghĩa với nghiên cứu trường hợp.
Phương pháp phân tích tài liệu: Các tài liệu được sử dụng bao gồm
các tài liệu liên quan đến du lịch và sinh kế - văn hóa, tài liệu liên quan đến địa bàn
9
nghiên cứu. Các tài liệu này được thu thập, khai thác từ hệ thống thư viện Quốc gia,
thư viện trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐHQGHN), Ban quản lý
Vịnh Hạ Long...
Trên đây là hai phương pháp chính trong nghiên cứu này và chúng được thực
hiện thông qua các kỹ thuật chủ yếu sau:
Quan sát: Bao gồm quan sát không tham gia và quan sát tham gia. Phương
pháp quan sát không tham gia giúp tác giả có cái nhìn tổng quan về việc người dân
thực hiện sinh kế và thực hành văn hóa như thế nào. Từ đó thấy được có những loại
hình sinh kế gì, cách người dân thực hiện sinh kế và thực hành văn hóa ra sao cũng
như dễ dàng quan sát được những thay đổi về đời sống vật chất của họ. Quan sát
tham gia giúp tác giả có cơ hội trải nghiệm việc thực hiện vai trò của người trong
cuộc, để hiểu được khó khăn họ gặp phải cũng như hiểu được tâm lý người trong
cuộc về ước muốn, tiếng nói tham gia của họ.
Phỏng vấn: Được sử dụng để phỏng vấn những người dân vạn chài ở vùng
tái định cư để có những thông tin cần thiết về đời sống văn hóa, xã hội cũng như
công việc của họ.
Thống kê: Được sử dụng để thu thập các số liệu cần thiết làm cơ sở để chứng
minh cho một số nhận định có trong luận văn.
7. Những đóng góp mới của đề tài
Đề tài có những đóng góp nhất định trong việc mô tả văn hóa, sinh kế của
cộng đồng ngư dân vạn chài Hạ Long và chỉ ra xu hướng biến đổi trong bối cảnh
sống mới của người dân. Từ đó cho thấy chính sách của tỉnh Quảng Ninh về di dân
và TĐC đã đem lại cho cộng đồng ngư dân những gì, cộng đồng được gì và mất gì.
Ngoài ra, đề tài này cũng sẽ cố gắng tìm hiểu nguyện vọng, tiếng nói của cộng đồng
đối với sự phát triển của chính họ.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu ( 10 trang), Kết luận 3 trang), Tài liệu tham khảo (7
trang), Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và tổng quan về cộng đồng ngư dân vạn chài Hạ
Long (26 trang)
Chương 2. Quá trình chuyển cư và những biến đổi văn hóa (30 trang)
10
Chương 3. Những thách thức trong quá trình hội nhập và phát triển (17 trang)
CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ CỘNG ĐỒNG NGƢ DÂN VẠN CHÀI HẠ LONG
1.1. Di dân và tái định cƣ
1.1.1. Khái niệm
Di dân là một hiện tượng kinh tế - xã hội mang tính quy luật, một cấu thành
gắn với sự phát triển [6, tr.13], một hiện tượng nhân khẩu học chịu tác động tổng
hòa của nhiều yếu tố khác nhau như tự nhiên, xã hội, kinh tế, chính trị, tôn giáo, tâm
lý...[64, tr.63]. Hiện tượng này tạo ra những tác động tới sự phân bố dân cư, phân
bố lại lao động và các vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội. Bởi vậy, đây là một chủ đề
được quan tâm nghiên cứu và chú trọng trong hoạch định chính sách, đưa đến việc
có nhiều cách hiểu, cách tiếp cận khác nhau.
Vào năm 1958, Liên Hợp Quốc định nghĩa: “Di dân là sự di chuyển trong
không gian của con người giữa một đơn vị địa lý hành chính này vào một đơn vị
hành chính khác, kèm theo sự thay đổi chỗ ở thường xuyên trong khoảng di dân xác
định”. Cách giải thích này chưa chú ý đến vấn đề thời gian di dân, bởi vậy vào năm
1973 Liên Hợp Quốc đã đưa ra khái niệm di dân dài hạn và di dân ngắn hạn. Di dân
dài hạn là người di dân đến nơi ở mới từ 12 tháng trở lên, ngược lại di dân ngắn hạn
dưới 12 tháng [11, tr.9-10].
Theo Đặng Nguyên Anh, di dân theo nghĩa rộng là “sự chuyển dịch bất kỳ
của con người trong không gian và thời gian nhất định, kèm theo thay đổi nơi cư trú
tạm thời hay vĩnh viễn. Với khái niệm này, di dân đồng nhất với sự di động dân
cư”; di dân theo nghĩa hẹp là “sự di chuyển dân cư từ một đơn vị lãnh thổ này đến
một đơn vị lãnh thổ khác, nhằm thiết lập nơi cư trú mới, trong một khoảng thời gian
nhất định. Khái niệm này khẳng định mối liên hệ giữa sự di chuyển và thiết lập nơi
cư trú mới” [6, tr.36].
Trong công trình Di dân tự do đến Hà Nội, thực trạng và giải pháp quản lí,
Hoàng Văn Chức cho rằng: di dân là một hiện tượng kinh tế - xã hội gắn liền với
lịch sử phát triển của xã hội loài người với những thay đổi của tự nhiên, xã hội và
sự phát triển không đồng đều về kinh tế - xã hội giữa các vùng, các quốc gia trên
11
thế giới. Di dân làm thay đổi bức tranh phân bố dân cư trên trái đất, nó ảnh hưởng
tới sự phân bố loại lao động theo lãnh thổ và ảnh hưởng đến hàng loạt các vấn đề
kinh tế - xã hội, cũng như môi trường [11, tr.8]. Tác giả cũng đưa ra các cách hiểu
theo nghĩa rộng, nghĩa hẹp của thuật ngữ “di dân”. Theo đó, với nghĩa rộng: di dân
được hiểu là sự chuyển động cơ học của dân cư. Như vậy, bất cứ sự chuyển động
nào của con người trong không gian gắn với sự thay đổi theo vị trí lãnh thổ cũng
được coi là di dân. Theo nghĩa hẹp: Di dân được hiểu là sự chuyển dịch của dân cư
theo lãnh thổ, sự phân bố lại dân cư. Tuy nhiên, không phải bất kỳ sự chuyển dịch
nào của dân cư cũng là di dân, mà di dân là sự di chuyển của dân cư ra khỏi biên
giới đất nước hay ra khỏi lãnh thổ hành chính mà họ đang cư trú, gắn với việc thay
đổi chỗ ở của họ [11, tr.9].
Còn theo Nguyễn Đình Hòe, di cư ( hay di dân) là sự chuyển đổi chỗ ở vĩnh
viễn. Đối với nơi ở cũ, người di cư được gọi là người xuất cư (out – migrant) còn
nơi đến gọi họ là dân nhập cư (in – migrant). Tác giả cũng khẳng định rằng, di dân
là một quá trình khách quan, gây biến động lớn về xã hội và tác động đáng kể đến
tài nguyên và môi trường, đặc biệt là nơi tiếp nhận người di cư [21, tr.17].
Nhìn chung, di dân gắn với việc con người chuyển khỏi nơi cư trú thường
xuyên đến một nơi xác định với một khoảng cách giữa hai không gian gọi là độ dài
di chuyển và phải thay đổi nơi cư trú, thiết lập nơi cư trú mới. Dấu hiệu rõ ràng nhất
của di dân là sự dịch chuyển dân số: làm tăng dân số cơ học ở nơi đến và làm giảm
dân số cơ học ở nơi đi. Cũng cần chú ý đến vấn đề thời gian của di dân. Tùy theo
từng loại hình di dân mà thời gian có thể là vài tuần, vài tháng thậm chí là vĩnh
viễn. Ngoài ra có thể nhận biết di dân qua một đặc điểm nữa đó là sự di chuyển nơi
ở và thay đổi nơi làm việc, nghề nghiệp, các hoạt động sinh sống hằng ngày và thay
đổi các mối quan hệ xã hội.
Hiện tượng di dân xuất phát từ những lực đẩy từ vùng gốc nơi đang sinh
sống khiến cư dân phải chuyển cư, từ lực hút bởi sự hấp dẫn của nơi đến hoặc do cả
hai yếu tố này. Tuy vậy, có trường hợp thuần túy chỉ từ lực đẩy tại nơi đi, đó là
những cuộc di dân có yếu tố “cưỡng bức”, chẳng hạn như từ chính sách của chính
quyền như trường hợp di dân khỏi lòng hồ thủy điện.
Về phân loại loại hình di dân, có thể dựa vào các tiêu chí khác nhau, tùy mục
12
đích và hướng tiếp cận của nhà nghiên cứu hoặc nhà hoạch định chính sách.
Xét theo tiêu chí tổ chức, di dân có hai loại:
+ Di dân có tổ chức: là hình thái dịch chuyển dân cư theo sự quản lý điều
chỉnh, tổ chức, thay đổi cấu trúc dân số, nhằm phục vụ những mục tiêu chính trị,
kinh tế, văn hóa của Nhà nước. Nói chung, loại hình di dân này gắn với chính sách
của chính quyền, thậm chí mang tính chất “cưỡng bức”. Ví dụ như di dân phục vụ
dự án thủy điện Sơn La, ban đầu đã gặp phải nhiều sự phản đối của cộng đồng tộc
người vì gây tác động tới mức xáo trộn đời sống kinh tế, văn hóa tộc người. Dẫn
theo Mitchell (1985), Hoàng Văn Chức giải thích việc di dân của con người dựa
vào: các yếu tố liên quan đến môi trường tự nhiên như năng suất đất đai, khí hậu,
điều kiện môi trường; các yếu tố về kinh tế như các cơ hội việc làm, sự tương quan
giàu - nghèo; các yếu tố cản trở hay thúc đẩy người dân ra đi và các yếu tố chính trị
như vấn đề pháp luật khuyến khích hay bắt buộc họ phải di chuyển đến một nơi
nhất định hay bất cứ đâu [11, tr.16].
+ Di dân tự do: các cá nhân, gia đình, nhóm, cộng đồng di cư theo ý muốn
chủ quan của mình. Trường hợp này có thể gặp ở các thành phố lớn, nơi người di cư
tự do đến, đi để thực hiện các mục đích kinh tế, giáo dục... của mình. Loại hình di
dân tự do này được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm phân tích trong bối cảnh chênh
lệch về mức sống và các điều kiện kinh tế - xã hội giữa nông thôn – đô thị để chỉ ra
những tương tác nông thôn – đô thị và những tác động đến những vấn đề kinh tế,
văn hóa, xã hội
Nếu xét theo không gian, có thể chia di dân thành các loại hình: Di dân nông
thôn – nông thôn; Di dân nông thôn – đô thị; Di dân đô thị - đô thị; Di dân đô thị -
nông thôn. Trong đó phổ biến là loại hình Di dân nông thôn - đô thị;. Hiện nay, có
nhiều người dân từ các vùng nông thôn chuyển lên các thành phố lớn, các trung tâm
để tìm kiếm việc làm, gây dựng cuộc sống.
Nếu xét tiêu chí về tính chất, có thể chia thành di dân tự nguyện và di dân ép
buộc. Di dân tự nguyện là trường hợp người di cư được thực hiện việc di chuyển
theo đúng nguyện vọng của mình. Di dân ép buộc hay cưỡng bức là loại hình di dân
trái với ý muốn, nguyện vọng của người di cư. Có thể do sức ép về chính sách hoặc
các sức ép khác để buộc cá nhân, gia đình, nhóm người, cộng đồng phải rời bỏ nơi
13
cư trú của mình.
Ngoài ra, xét theo tiêu chí thời gian, di dân có thể được phân chia thành các
bộ phận sau:
+ Di dân “con lắc”: là kiểu di cư luân chuyển nông thôn – đô thị mà người
di cư không nhất thiết phải thay đổi chỗ ở. Loại hình di dân này xuất hiện ngày càng
nhiều bởi quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa. Quá trình này một mặt mở rộng
ảnh hưởng của tính đô thị và làm thay đổi diện mạo vật chất của những làng quê
ven đô, mặt khác tạo ra nhiều việc làm phi nông nghiệp cho nông dân. Những người
nông dân này vẫn ở lại làng quê nhưng thường xuyên di chuyển giữa nông thôn –
đô thị. Mật độ dân số cao ở vùng đồng bằng và chênh lệch đô thị - nông thôn là
nguyên nhân cơ bản của các hiện tượng này
+ Di dân tạm thời: người di cư có thay đổi chỗ ở, chỗ làm việc nhưng mang
tính chất tạm thời, có thể di chuyển chỗ khác hoặc quay lại nơi ở ban đầu.
+ Di dân theo mùa vụ: người di cư tranh thủ mùa nông nhàn để đến các đô
thị hoặc các địa phương có các điểm du lịch nổi tiếng hoặc lễ hội lớn để tranh thủ
tìm kiếm công việc, cải thiện kinh tế.
+ Di dân lâu dài: Sự thay đổi nơi cư trú này mang tính chất ổn định, lâu dài.
Họ chỉ trở về nơi xuất cư để thăm viếng nhưng không có ý định quay trở lại quê gốc
sống nữa [27].
Như vậy, nếu xét các tiêu chí về di dân nêu trên thì có thể sắp xếp việc di dân
làng chài Hạ Long thuộc vào các loại hình: di dân có tổ chức bởi chính sách tổ chức
lại không gian dân cư theo hướng nông thôn (cụ thể là dân cư từ các làng chài) – đô
thị (khu TĐC nằm trong không gian đô thị Hạ Long), mang tính chất “cưỡng bức”
và là di dân lâu dài, thậm chí là di dân vĩnh viễn. Như vậy, ngư dân phải chuyển đổi
không gian sống và rời bỏ nơi cư trú đã gắn bó hàng trăm năm, nơi đã biến thành
quê hương, là môi trường sinh thái mà ngư dân tương tác, qua đó tạo nên những giá
trị văn hóa tiêu biểu, độc đáo của mình. Về cơ bản, việc đưa ngư dân lên bờ sẽ giúp
cho những nhà quản lý dễ dàng kiểm soát về dân số cũng như môi trường Vịnh Hạ
Long, hơn là việc đầu tư cơ sở hạ tầng và khoa học kỹ thuật để đảm bảo xử lý tốt
14
rác thải từ sinh hoạt của ngư dân.
1.1.2. Tái định cư và các vấn đề văn hóa – xã hội
TĐC là việc thiết lập một chỗ ở mới cho một cộng đồng đã di cư khỏi nơi cư
trú trước đây của họ. Đối với cộng đồng du cư, có thuật ngữ “định cư” để chỉ việc
cộng đồng này lập cư tại một địa điểm xác định.
Theo Nguyễn Đình Hòe, TĐC cũng là một đặc thù của quá trình dân cư
trong lịch sử nhân loại. Hiện tượng này giúp xã hội sử dụng được nguồn tài nguyên
đa dạng của trái đất, làm tăng khả năng tải của lãnh thổ và khởi động quá trình văn
minh trên cơ sở hội nhập các nền văn hóa và kinh nghiệm sử dụng tài nguyên.
Nhưng TĐC cũng đưa đến những thất bại, gây ra những hậu quả về phương diện xã
hội và môi trường nếu thiếu cân nhắc mối quan hệ giữa động lực dân cư và môi
trường cư trú. Đòi hỏi phải có sự quy hoạch hợp lý, xử lý tốt mối quan hệ sinh thái
học và khai thác hợp lý tài nguyên môi trường [21, tr.29]. Về phương diện văn hóa,
TĐC cũng đặt ra các vấn đề trong khả năng hội nhập về văn hóa, phong tục tập
quán giữa cộng đồng nhập cư và cộng đồng địa phương. Thậm chí, các dự án TĐC
có nhiều khả năng sẽ thất bại nếu người nhập cư không có những kinh nghiệm để
thích ứng với môi trường sinh thái tại khu TĐC, không có các kỹ thuật và hoạt động
canh tác tương tự và không có các kinh nghiệm quản lý môi trường cũng như lối
sống phù hợp ở môi trường mới [21, tr.34]. Khu vực TĐC hiếm trường hợp có điều
kiện sinh thái giống quê hương của người chuyển cư, do đó cần hướng dẫn, có các
cơ chế, chính sách hỗ trợ người chuyển cư trong việc sử dụng tài nguyên, môi
trường của nơi ở mới và hội nhập văn hóa với môi trường văn hóa – xã hội xung
quanh. Đồng thời, cũng cần có những hình thức tuyên truyền, vận động, hướng dẫn
cộng đồng địa phương biết cách ứng xử, không định kiến, tôn trọng và hòa nhập với
văn hóa của cộng đồng định cư.
Khi thực hiện dự án TĐC, ngoài việc đánh giá chi phí cho di dân và xây
dựng khu TĐC, “ngoài những chi phí và hoàn bị nơi đến, điều quan trọng là đo
lường, dự báo và có phương án phù hợp, cái giá phải trả về mặt tinh thần, sự cắt rời
các mối quan hệ, thói quen, tập quán có khả năng tạo nên những cú sốc văn hóa khi
phải rời bỏ quê cũ”. “Con người sống trong không gian quen thuộc, họ có tức thì và
thường xuyên sự hiểu biết gắn với môi trường sống, dễ dàng điều chỉnh mọi sự cố
15
bất thường, thì đến vùng đất mới, điều đó họ hoàn toàn không thể sớm có được.
Kiến thức về nơi ở mới của người di dân luôn gặp phải nhiều thử thách, trải nghiệm
lâu dài mới có thể nhận biết được những điểm thuận lợi, bất lợi. Sự lúng túng,
hoang mang tại nơi ở mới trong giai đoạn đầu là điều dễ hiểu”.[20, tr.16]
Một vấn đề cần quan tâm là sự phai nhạt các giá trị văn hóa làm nên bản sắc
của cộng đồng chuyển cư và quá trình biến đổi văn hóa. Hay nói cách khác, đó là sự
tan rã và biến mất cộng đồng về mặt văn hóa. Hiện tượng này không hiếm trong các
dự án TĐC như trường hợp người Thái sau TĐC thủy điện Sơn La, người Katu sau
TĐC thủy điện A Vương (Quảng Nam)[54][20]... Nguyên nhân chính theo các phân
tích là sự thay đổi môi trường sống và các điều kiện, phương thức sản xuất và sự
cộng cư xen kẽ với cộng đồng bản địa. Các thực hành văn hóa và sinh kế được sáng
tạo trong mối tương tác giữa con người và môi trường được tích lũy qua hàng trăm
năm sẽ phải biến dạng bởi cần một quá trình thích ứng dần với bối cảnh sống mới.
Cũng cần chú ý đến những nhóm tuổi khác nhau trong cộng đồng di dân. Người già
thường thiệt thòi và khó hòa nhập vào môi trường mới bởi họ đã tích lũy kinh
nghiệm để thích ứng với môi trường sống cũ một cách sâu sắc.
Ở một khía cạnh khác, vấn đề đảm bảo sinh kế sau TĐC cũng cần được quan
tâm nhằm tạo ra được những điều kiện về mặt vật chất để làm cơ sở đảm bảo cho sự
ổn định của cộng đồng di cư.
Sinh kế là kế sinh nhai, tức là các hoạt động, các công việc giúp tạo ra tiền
bạc, vật chất để duy trì cuộc sống. Theo từ điển tiếng Việt, sinh kế là cách thức, kế
sách thực hiện kiếm sống. Trong tiếng Anh, từ livelihood (sinh kế) được định nghĩa
“a means of earning money in order to live (phương tiện, cách thức kiếm tiền để
sống)” (Oxford Advanced Learner’s Dictionary). Theo định nghĩa của DFID
(Department for International Development – Bộ Phát triển Quốc tế Anh), “sinh kế
bao gồm các khả năng, các tài sản (bao gồm cả các nguồn lực vật chất và xã hội) và
các hoạt động cần thiết để kiếm sống”. Dù hiểu thế nào thì khái niệm sinh kế cũng
đều có mẫu chung là “kiếm sống”, tức là phương tiện để đảm bảo, duy trì cho cuộc
sống con người.
Để nghiên cứu sinh kế, các học giả thường sử dụng khung phân tích sinh kế
bền vững bởi lý thuyết này được đánh giá là “một cách phân tích toàn diện về phát
16
triển và giảm nghèo. Cách tiếp cận này giúp chúng ta hiểu được việc con người sử
dụng các loại vốn mình có để kiếm sống, thoát nghèo, hay tránh bị rơi vào đói
nghèo như thế nào, vì nó không chỉ minh họa các chiến lược tìm kiếm thu nhập, mà
nó còn phân tích và lý giải về việc tiếp cận, sử dụng và phân phối các nguồn lực mà
các cá thể và hộ gia đình sử dụng để biến các nguồn lực đó thành sinh kế” [40, 10].
Sinh kế bền vững có thể được hiểu như sau: “Một sinh kế sẽ phải tùy thuộc vào khả
năng và của cải (cả nguồn lực vật chất và xã hội) và những hoạt động mà tất cả là
cần thiết để mưu sinh. Sinh kế của một người hoặc của một gia đình chỉ có thể là
bền vững khi họ có thể đương đầu và phục hồi trước những căng thẳng và biến
động, và tồn tục được hoặc nâng cao thêm các khả năng và của cải của mình hiện
này và của cả trong tương lai mà không làm tổn hại đến các nguồn lực môi trường”
[66, tr.104]. Như vậy, yếu tố bền vững liên quan đển khả năng đương đầu trước
khủng hoảng và phục hồi sau khủng hoảng. Bởi cuộc sống có nhiều bối cảnh dễ tổn
thương như việc thiên tai, mất mùa, dịch bệnh, thậm chí là một căn bệnh hiểm
nghèo xuất hiện cũng tác động mạnh mẽ đến kinh tế của cá nhân, gia đình, do đó,
sinh kế không chỉ là việc lo những vấn đề trước mắt mà còn phải tạo tích lũy, làm
công cụ bảo đảm cho cuộc sống.
Về cơ bản, khung phân tích sinh kế bền vững gồm 5 điểm chính: Bối cảnh dễ
bị tổn thương; Nguồn vốn sinh kế; Chính sách, tiến trình và cơ cấu; Các chiến lược
Nguồn:DFID (2001)
sinh kế; Kết quả sinh kế. Mô hình sau đây sẽ cụ thể hóa khung phân tích này:
Trong đó:
Vốn sinh kế (capital) là những năng lực vật chất và phi vật chất mà con người
có được để đảm bảo cho hoạt động sinh kế. Theo khung phân tích sinh kế bền vững,
vốn này gồm 5 loại: vốn nhân lực, vốn xã hội, vốn vật chất, vốn tự nhiên và vốn tài
chính. Như vậy, vốn vừa là cái hữu hình, cụ thể, cũng vừa là những thứ vô hình như
17
năng lực của con người. Trong đó:
- Vốn nhân lực (Human capital) là những kĩ năng, kiến thức, sức khỏe và
những năng lực của con ngươi giúp họ có thể theo đuổi chiến lược sinh kế. Có thể
hiểu nguồn vốn này trên khía cạnh chất lượng nguồn lao động.
- Vốn xã hội (Social capital) thường được hiểu là những mối quan hệ xã hội,
các mạng lưới, các nhóm tạo điều kiện cho người dân có thể theo đuổi sinh kế và
đảm bảo lợi ích của mình.
- Vốn vật chất (Physical capital) bao gồm cơ sở hạ tầng, hàng hóa sản xuất để
bổ trợ sinh kế.
- Vốn tự nhiên (natural capital) nhắc đến các nguồn tài nguyên như đất đai,
nước, các loại khoáng sản,… nói chung là các yếu tố từ tự nhiên có khả năng phục
vụ cho các hoạt động và khả năng sinh kế.
- Vốn tài chính (Financial capital) bao gồm các nguồn tài chính có sẵn để con
người tiếp tục hoạt động sinh kế, bao gồm khoản tiền dự trữ hiện tại, khoản tiết
kiệm hay khả năng huy động, tiếp cận các nguồn tín dụng từ người thân, bạn bè, các
tổ chức tín dụng.
Với mỗi chiến lược sinh kế khác nhau, các nguồn vốn có vai trò khác nhau.
Ví dụ đối với nông nghiệp thì nguồn vốn đất đai là yếu tố quan trọng bậc nhất. Việc
thu hồi đất nông nghiệp do đó đã gây ra những tác động mạnh mẽ đến sinh kế và
cuộc sống nông dân. Tuy nhiên, đối với một cộng đồng làm nghề chài lưới, nguồn
vốn tự nhiên mà cụ thể ở đây là trữ lượng thủy hải sản, khả năng phục hồi của các
loài cá, tôm lại là một nguồn vốn quan trọng. Tuy vậy, thậm chí một vùng đất nông
nghiệp, nơi mà người nông dân có thể mở rộng đất đai và đàn gia súc cũng vẫn dễ
bị tổn thương do nhiều yếu tố khác như việc thiếu cơ sở hạ tầng và các dịch vụ xã
hội. Theo nhiều nghiên cứu, nguồn vốn xã nhân lực lại là một yếu tố đóng vai trò
quan trọng trong việc xóa bỏ vòng luẩn quẩn do nghèo đói gây ra. Một số nghiên
cứu thì chỉ ra tầm quan trọng của mạng lưới xã hội, các mối quan hệ xã hội trong
việc cộng đồng thực hiện chiến lược sinh kế và duy trì khả năng sinh kế của mình.
Do đó, cần có những sự nghiên cứu cụ thể để đánh giá tầm quan trọng của các loại
vốn.
Nguồn vốn sinh kế không bất biến, nó có thể thay đổi theo xu hướng tăng lên
18
hoặc giảm đi trong tương lai.
Các tiến trình và cấu trúc (Structure and processes) là khái niệm chỉ yếu tố
thể chế, chính sách, luật pháp, có khả năng ảnh hưởng đến cách tiếp cận nguồn vốn,
điều kiện trao đổi của các nguồn vốn và các chiến lược sinh kế khác nhau. Do đó nó
có thể thúc đẩy hoặc hạn chế đến các chiến lược sinh kế.
Chiến lược sinh kế là các mục tiêu và lựa chọn của cộng đồng nhằm thực
hiện sinh kế một cách hiệu quả nhất từ các nguồn vốn hiện có, còn kết quả của sinh
kế là tiêu chí quan trọng để đánh giá việc thực hiện sinh kế bền vững, nó cho thấy
những thay đổi, những điều mà các tổ chức, cá nhân và cộng đồng thực hiện sinh kế
mong muốn đạt được.
Một yếu tố quan trọng nữa của khung sinh kế chính là bối cảnh dễ bị tổn
thương. Đây là những nhân tố có thể coi là khách quan, nằm ngoài và hầu như
không thể điều chỉnh được trong ngắn hạn. Có thể đó là những chấn động thời vụ,
một cơn thiên tai hay cú sốc từ thị trường tài chính khiến sản phẩm mất giá.
1.2. Biến đổi văn hóa
1.2.1. Thuyết Sinh thái học văn hóa
Những năm 60 của thế kỉ XX, Julian Steward đã khởi xướng phương pháp
tiếp cận biến đổi văn hóa quan trọng khác trong nhân học Bắc Mỹ là vấn đề sinh
thái học văn hóa. Lý thuyết này có khái niệm trung tâm là “sự thích ứng”
(adaptation). Đó là sự thích ứng với môi trường tự nhiên để sáng tạo ra văn hóa.
Hay nói cách khác, môi trường tự nhiên đặc thù là cơ sở cho việc hình thành các mô
hình văn hóa khác nhau [36, tr.23].
Thuyết sinh thái văn hóa nghiên cứu mối quan hệ giữa một xã hội nhất định
và môi trường tự nhiên của nó cũng như hình thức cuộc sống (life – form) và hệ
sinh thái. Điều này có thể là ở lịch đại (nghiên cứu các thực thể qua các kỉ nguyên)
và đồng đại (kiểm tra hệ thống hiện tại và các thành phần của nó). Lý lẽ trung tâm
của thuyết này là môi trường tự nhiên, trong một hệ thống nhỏ hoặc sinh kế xã hội
dựa vào một phần trên nó, là yếu tố chính tác động tới tổ chức xã hội và các thể chế
khác của loài người [70]. Julian Steward (1902 - 1972) là người đầu tiên tạo ra khái
niệm “Cultural Ecological”. Trong “Lý thuyết về biến đổi văn hóa – Phương pháp
luận về tiến hóa đa tuyến” (Theory of Cuture Change – The Methodology of
19
Multilinear Evolution, 1955), sinh thái học văn hóa (Cultural ecological) được định
nghĩa: “là con đường mà văn hóa thay đổi có nguyên nhân bởi sự thích ứng với môi
trường”. Đó là một sự khẳng định rằng môi trường vật lý và sinh học ảnh hưởng tới
văn hóa. Điều này đã từng gây ra tranh cãi, bởi vì nó bao hàm cả yếu tố của quyết
định luận môi trường trên tất cả hành động của con người, với một vài vấn đề mà
một số nhà xã hội học đã tìm thấy, đặc biệt từ quan điểm của một số nhà Marxist.
Sinh thái học văn hóa công nhận rằng nền sinh thái địa phương có vai trò đáng kể
trong việc định hình nền văn hóa của nó. Mặc dù môi trường là một nhân tố quan
trọng trong học thuyết nhưng Steward không phải là là người theo trường phái duy
môi trường (xem môi trường là nhân tố không thể thiếu). Và với việc tập trung
nghiên cứu mối lên hệ giữa con người - môi trường - văn hóa của Juliant Steward,
ông được công nhận là người tiên phong và dẫn đầu trong việc nghiên cứu Sinh thái
học văn hóa.
Theo J. Steward, văn hóa là đa dạng và phát triển theo các cách khác nhau
tùy thuộc vào từng hoàn cảnh môi trường cụ thể của văn hóa đó. Các nền văn hóa
giống nhau ở các vùng địa lý khác nhau trên thế giới là do chúng đều được xây
dựng và phát triển trong bối cảnh môi trường tự nhiên giống nhau. Trong các
nghiên cứu của mình, J. Steward hướng tới nghiên cứu các cộng đồng biệt lập có
những tương đồng về văn hóa, xã hội như có cùng kiểu tổ chức bộ tộc, chế độ tù
trưởng hay đã có nhà nước hiện đại để tránh ảnh hưởng của giao thoa văn hóa, từ đó
chứng minh những tác động của môi trường tới văn hóa, hay văn hóa là sự thích
ứng với môi trường tự nhiên. Nếu như trước đây, các nhà nhân học nghiên cứu động
lực thúc đẩy phát văn hóa bằng nội lực tự thân, bên trong thì sinh thái văn hóa
chuyển chú ý đến mối quan hệ giữa bên trong và bên ngoài; nó triển khai quan điểm
cho rằng sự qua lại giữa văn hóa và môi trường như là xu thế chủ đạo của quá trình
tiến hóa [65].
Áp dụng sinh thái văn hóa vào nghiên cứu, theo J. Steward, các bước để
nghiên cứu văn hóa theo lý thuyết này bao gồm:
Chứng minh được các kỹ thuật và phương pháp được dùng để khai thác
môi trường và sống trong môi trường đó.
Xem xét những mô thức ứng xử văn hóa của con người liên quan đến việc
20
sử dụng môi trường.
Đánh giá sức tác động của những mô thức kể trên đối với các bình diện
khác của văn hóa.
Sinh thái học văn hóa của Steward tập trung vào chứng minh con đường tiến
hóa đa hệ. Có một biến thể khác của sinh thái học văn hóa xuất hiện muộn hơn một
chút với luận điểm dựa trên thuyết hệ thống, nhấn mạnh vào sự thích nghi của các
mảng cụ thể của văn hóa trong việc tính ổn định của hệ thống và bảo vệ sinh thái
địa phương. Điều này thể hiện rõ trong tác phẩm của Marvin Harris và Roy
Rapaport.
Marvin Harris, nhà nhân học nổi tiếng của Mỹ trong tác phẩm “Sinh thái học
văn hóa về bò thiêng ở Ấn Độ” đã từ quan điểm của lý thuyết này và những lập luận
của duy vật văn hóa để hiểu được những tập tục, nghi lễ, những điều cấm kị liên
quan tới đàn bò ở Ấn Độ mà không dựa vào thuyết Ahimsa (cấm sát sinh trong đạo
Hindu) và coi bò là linh vật. Ông lý giải hệ thống quản lý đàn bò của người dân Ấn
Độ có thể nằm ở quá trình “thích nghi” với hệ sinh thái mà những điều cấm kị, tập
tục, nghi lễ là một phần của hệ thống này chứ không phải do chịu ảnh hưởng của
đạo Hindu. Quan điểm này rõ ràng đã chịu ảnh hưởng của Sinh thái học văn hóa của
J. Steward. Từ những lập luận về đóng góp của đàn bò trên các mặt: 1.Sản xuất sữa,
2.Sức kéo, 3.Phân bò, 4.Bò và da bò, 5.Chăn thả, 6.Bò hữu dụng và bò vô dụng,
7.Giết mổ bò, 8.Pháp chế hóa việc cấm giết mổ bò, 9.Nhà dưỡng lão, 10.Chọn lọc
tự nhiên, Harris cho rằng: có thể việc cấm giết mổ bò đến từ những áp lực sinh thái
chứ không phải do thuyết ahimsa và tính thiêng của bò ở Ấn Độ đã “bảo vệ mối liên
hệ sống còn trong chuỗi lương thực nông nghiệp”[65].
Rapaport với tác phẩm Sự quy định nghi lễ của mối quan hệ giữa môi trường
và người dân New Guinea (Ritual Regulation of Environmental Relations among a
New Guinea People) (1967) đã thể hiện quan điểm sinh thái văn hóa của mình.
Theo đó, nghi lễ Kaiko của người Maring đã giúp ngăn chặn sự xuống cấp của môi
trường tự nhiên [69]. Điều này cũng tương tự như cách lập luận của Harris bởi cho
thấy những thực hành văn hóa đến từ những áp lực sinh thái.
Bên cạnh đó, còn có nhiều phân tích khác theo quan điểm sinh thái học văn
hóa. Robert Netting, một nhà nhân học hiện đại ở nửa cuối thế kỉ XX cũng đã áp
21
dụng sinh thái văn hóa vào nghiên cứu của mình để kiểm chứng mối quan hệ giữa
văn hóa và môi trường tự nhiên. Khi nghiên cứu người Koyfar ở Nigeria, ông nhận
thấy nhóm người Koyfar ở vùng đồi và vùng rừng thấp có thực hành văn hóa khác
nhau với biểu hiện về quy mô gia đình mở rộng của người Koyfar ở vùng thấp thích
hợp hơn cho việc phát triển mùa vụ theo tính thương mại. Khi nghiên cứu các tộc
người ở Trung Đông, Đông Nam Á, châu Phi, ông cũng chứng minh mô hình canh
tác nhỏ của các tộc người nơi đây thích hợp với môi trường tự nhiên, cho hiệu quả
và giảm thiểu rủi ro hơn so với các nông trang lớn, áp dụng khoa học kỹ thuật trong
sản xuất. Netting thực hiện những nghiên cứu trên với mục đích nhấn mạnh vai trò
của văn hóa với quá trình thích nghi với môi trường.
Tuy môi trường là yếu tố quan trọng định hình văn hóa nhưng sinh thái học
văn hóa phủ nhận thuyết quyết định luận môi trường khi đề cao vai trò của con
người trong sự lựa chọn cách thức ứng xử với các vấn đề của mình. Và với ý nghĩa
như vậy, sinh thái học văn hóa đã truyền cảm hứng trong vấn đề phát triển một nền
văn hóa bền vững trong mối quan hệ với đối với môi trường. Hiện nay, trong mối
quan tâm nhiều hơn về vấn đề của sự gia tăng xung đột tài nguyên và suy thoái môi
trường, các nhà nhân học một mặt chỉ ra những hạn chế của thuyết sinh thái văn
hóa, một mặt bổ sung thêm yếu tố mới và cho ra đời thuyết sinh thái chính trị.
Thuyết này chú ý đến những phân tích về chính sách và những mâu thuẫn, xung đột
giữa cơ quan nhà nước với các cộng đồng địa phương và giữa chính các cơ quan
nhà nước, các giai tầng xã hội ở nông thôn trong cuộc tranh giành tự nhiên [36,
tr.26-27].
Với việc phân tích mối liên hệ, tương tác giữa văn hóa và môi trường, Sinh
thái học văn hóa cung cấp cơ sở lý luận cho việc phân tích những biến đổi văn hóa
của ngư dân vạn chài Hạ Long, bởi yếu tố thay đổi đột ngột, mạnh mẽ nhất trong
quá trình sinh sống tại khu TĐC chính là yếu tố môi trường sinh thái. Các thực hành
văn hóa và sinh kế tạo ra những quan niệm giá trị, lối sống và kinh nghiệm gắn với
việc khai thác môi trường sinh thái vịnh hàng trăm năm qua của ngư dân đang phải
thay đổi để thích ứng với điều kiện sống mới. Điều này một mặt tạo ra tính chọn lọc
và biến đổi, cùng với đó là du nhập những cách thực hành mới để hòa nhập, thích
22
ứng. Tiếp cận biến đổi văn hóa trên cơ sở thay đổi môi trường sống và sự thay đổi
sinh kế là cách mà chúng tôi thực hiện để lý giải những chuyển đổi của cộng đồng
ngư dân làng chài tại khu TĐC.
1.2.2. Đô thị hóa và biến đổi văn hóa
Đô thị hóa có thể hiểu là một quá trình tập trung dân cư đô thị, những người
lao động phi nông nghiệp, sống và làm việc theo kiểu thành thị và đồng thời là quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng cường tỉ lệ của các ngành phi
nông nghiệp, đặc biệt là ngành dịch vụ. Một cách đầy đủ hơn, đô thị hóa là một quá
trình biến chuyển kinh tế - xã hội - văn hoá và không gian với sự phát triển nghề
nghiệp mới, chuyển dịch cơ cấu lao động, sự mở rộng của lãnh thổ đô thị và mang
tính chất làm phai nhạt tính nông thôn, nông nghiệp. Đây là một quy luật tất yếu
trong quá trình phát triển xã hội.
Quá trình đô thị hóa thường diễn ra theo hai giai đoạn:
i. Đô thị hóa theo chiều rộng: Là sự sự tăng lên về số lượng đô thị, sự mở
rộng lãnh thổ của các đô thị và sự gia tăng dân số. Đô thị hóa theo chiều rộng có thể
thấy ở những ví dụ về sự chuyển đổi về không gian, nhân khẩu, kinh tế, văn hóa ở
các vùng ven đô Hà Nội.
ii. Đô thi hóa theo chiều sâu: Là kiểu đô thị hóa theo gắn với việc nâng cao
chất lượng tiêu chuẩn sống, tính đa dạng của các kiểu mẫu văn hóa và nhu cầu
hưởng thụ của cư dân đô thị. Đô thị hóa dạng này chủ yếu diễn ra ở các quốc gia
phát triển, nơi từng trải qua đô thị hóa theo chiều rộng.
Trong luận văn này, đô thị hóa được nhấn mạnh là sự lan tỏa tính đô thị ở
một địa bàn, một không gian sống cụ thể. Theo Nguyễn Văn Sửu, vấn đề mấu chốt
được xem xét là tính đô thị (urbanity/urbanism) để phân biệt giữa đô thị và nông
thôn, giữa thị dân và nông dân [41, tr.76]. Sở dĩ cần quan tâm đến đô thị hóa bởi
khu TĐC cho ngư dân vạn chài Hạ Long được quy hoạch tại phường Hà Phong,
Thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh và được tổ chức với thiết chế một khu phố
(khu phố 8). Trong khi đó, Hạ Long là đô thị loại I, là trung tâm kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội và có khu vực kinh tế công nghiệp, dịch vụ phát triển năng động của
tỉnh Quảng Ninh nên cần phân tích ảnh hưởng của tính đô thị khi bàn về những biến
23
đổi trong các thực hành văn hóa của ngư dân tại khu TĐC. Trong trường hợp này,
quá trình đô thị hóa chủ yếu được xét trên phương diện lan tỏa văn hóa, lối sống đô
thị và ảnh hưởng của nó tới văn hóa của cộng đồng ngư dân vạn chài trong không
gian sống mới.
Từ việc phân tích lý thuyết và thực tế tại khu TĐC của ngư dân vạn chài Hạ
Long, chúng tôi mô hình hóa khung phân tích của mình như sau:
Biểu đồ 1. Mô hình phân tích về biến đổi văn hóa của cộng đồng ngư dân vạn
chài Hạ Long.
1.3. Tổng quan về cộng đồng ngƣ dân vạn chài Hạ Long
1.3.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Cộng đồng là một tập hợp người được nhận diện dựa trên các yếu tố về địa
vực, nghề nghiệp và văn hóa. Trong đó, yếu tố địa vực, thường gắn chặt với đất đai
tuy có những kiểu loại cộng đồng ít gắn với yếu tố địa vực. Thường đó là những
cộng đồng tính, kiểu được tập hợp dựa trên các đặc điểm chung về sự chia sẻ một
tính chất nào đó. Nói chung, yếu tố địa vực là đặc điểm để khu biệt một cộng đồng.
Yếu tố kinh tế (hay nghề nghiệp) vừa tạo ra sự đảm bảo về mặt vật chất, vừa tạo ra
một sự chia sẻ chung về địa vị kinh tế, cách thức làm ăn, về tổ nghề... Yếu tố văn
24
hóa rõ ràng có vai trò quan trọng trong xác định đặc điểm nhận dạng một cộng
đồng, là một biểu thị có tính tổng hợp khi nhận biết các cộng đồng, trong đó đặc
biệt chú ý đến các khía cạnh như truyền thống-lịch sử, tộc người, tôn giáo-tín
ngưỡng, hệ thống giá trị-chuẩn mực, phong tục tập quán...
Nếu xét trên các phương diện như vậy, có thể gọi tập hợp ngư dân ở các làng
thủy cư trên vịnh Hạ Long là một cộng đồng với những đặc điểm chung về môi
trường sống, về thực hành sinh kế và chia sẻ các giá trị văn hóa chung trong đời
sống hàng ngày, trong lao động sản xuất, trong thờ cúng thần linh.
Cộng đồng ngư dân vạn chài Hạ Long là một cộng đồng đặc biệt và được
biết đến rộng rãi do nhu cầu quảng bá du lịch sinh thái và nhân văn trên Vịnh Hạ
Long. Tính chất đặc biệt của con người và cuộc sống nơi đây được quy định bởi
điều kiện cư trú - môi trường, điều kiện kinh tế - xã hội và những giá trị văn hóa
được những ngư dân vạn chài sáng tạo, tương tác, chia sẻ.
Khi bàn về cội nguồn của ngư dân vạn chài Hạ Long, một số bài viết thường
phân tích về một thời kì lịch sử xa xôi, thời kì của nền văn hóa Soi Nhụ - Cái Bèo -
Hạ Long để chỉ ra nguồn gốc cư dân và đặc tính văn hóa biển. Theo đó, vào 1967,
các nhà khảo cổ Việt Nam tiến hành khai quật khảo cổ học đầu tiên ở tỉnh Quảng
Ninh tại hang Soi Nhụ (thị trấn Cái Rồng, huyện đảo Vân Đồn, Quảng Ninh ngày
nay). Các di vật tìm thấy bao gồm 400 đốt xương sống cá và vô số các vỏ ốc các
loại như ốc lợn, ốc đĩa, ốc tai, vỏ hà, vỏ vạng, vỏ sò… được giải thích là những tàn
tích của người cổ Hạ Long để lại trong khoảng niên đại 7000 năm cách ngày nay.
Tuy sống dựa vào biển nhưng do không tìm thấy xe chỉ, lưới nên các nhà khảo cổ
học kết luận, vào thời kì này, cư dân khai thác biển chủ yếu bằng phương thức thu
lượm.
Sớm hơn 30 năm, vào năm 1937, nhà khảo cổ người Pháp M. Colani đã tìm
đến khảo sát tại đảo Ngọc Vừng và phát hiện ra những dấu tích của người tiền sử
từng cư trú. Sau đó, bà Colani đi khảo sát một loạt các đảo và ven bờ Vịnh Hạ Long
như Hà Giắt, Tuần Châu, Cái Dăm… và đưa ra kết luận về một thời kì xa xôi từng
có con người cư ngụ và khai thác trên Vịnh Hạ Long thuộc hậu kỳ đá mới (niên đại
cách ngày nay khoảng 7.000 đến 4.000 năm). Nền văn hóa cổ này đã có những đặc
trưng trong hoạt động kinh tế biển, trong trao đổi thương mại, phát triển nghề thủ
25
công (đặc biệt là nghề gốm với tính biểu tượng hóa sóng biển trong hoa văn trên
gốm). Các tác giả của cuốn sách Hạ Long thời tiền sử cho rằng, ở giai đoạn văn hóa
Hạ Long (3500 – 5000 năm trước), môi trường biển lúc đó đã có nhiều thay đổi với
hiện tượng mực nước biển dâng cao. Trong lúc này, kỹ thuật đi biển cũng đã đạt
đến trình độ cao hơn thì phương thức sinh sống chủ yếu của cư dân Hạ Long là khai
thác nguồn hải sản ven bờ với các ngư cụ truyền thống kết hợp săn bắt hái lượm tự
nhiên trên các vách đá. Khi khai quật các di chỉ khảo cổ, các nhà khoa học đã tìm
được các di vật xương cá, chì lưới để chứng minh rằng cư dân ở đây còn biết tới
nghề trồng cây lấy sợi để se sợi đan lưới hoặc dây câu để bắt cá. Không chỉ khai
thác nguồn lợi biển ở hải sản, tôm cá mà người Hạ Long còn khai thác biển bằng
giao lưu trao đổi trên biển. Nơi đây trở thành đầu mối tiếp nhận và di truyền những
yếu tố văn hóa của hai khu vực lớn Đông Bắc Á và Đông Nam Á [34, tr.234-235].
Từ đó có ý kiến cho rằng, ngư dân vạn chài Hạ Long là hậu duệ của chủ nhân nền
văn hóa cổ này [46, tr.17]. Quá trình phát triển văn hoá tiền sử ở khu vực Hạ Long
là liên tục, không đứt đoạn và có nguồn gốc bản địa. Nhiều di chỉ khảo cổ tìm được
cho thấy người Hạ Long sống chủ yếu nhờ vào nghề biển, sống và thích nghi với
việc khai thác nguồn lợi từ biển, giao lưu trao đổi để làm phong phú cho cuộc sống
của mình. Theo Địa chí Quảng Ninh (tập 2), nghề cá ở Quảng Ninh đã có từ thời kỳ
văn hóa Soi Nhụ với ngư dân gốc bản địa, sau đó có thêm luông di dân từ các vùng
biển khác (Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Thanh – Nghệ - Tĩnh) đến quần cư,
cũng có cả ngư dân từ Trung Quốc kéo sang. Vốn dĩ như vậy bởi vùng biển Quảng
Ninh nói chung, Hạ Long nói riêng có những điều kiện cho phát triển ngư nghiệp,
bên cạnh đó, đây là vùng biên viễn, là nơi đày ải phạm nhân, nơi dung thân của
những người chạy nạn chính trị... nên cư dân vùng này đa dạng, đa nguồn. Theo
Nguyễn Văn Kim, “thực tế cho thấy, các hoạt động kinh tế biển đã đem lại nguồn
lợi lớn cho các chính thể và nhiều cộng đồng cư dân sống ven biển, trên biển. Sức
mạnh kinh tế và tiềm năng to lớn của đại dương đã trở thành động lực cuốn hút
nhiều dòng người quyết tâm dứt bỏ những níu kéo của làng thôn để tiến ra khai phá
vùng duyên hải, biển đảo. Trong hành trình lịch sử đó, họ đã đem theo, đến các
không gian văn hóa biển những dấu ấn văn hóa đặc trưng của châu thổ thậm chí của
cả các vùng trung du và miền núi. Ngược lại, qua các đợt biển tiến, biển lùi và các
cuộc chuyển cư, dấu ấn của biển, văn hóa biển cũng được khắc ghi trong đời sống
26
văn hóa của cư dân châu thổ, thậm chí ở cả những vùng núi cao. Sự giao thoa văn
hóa đó cho thấy sức hút và sức sống tiềm tàng của các truyền thống văn hóa trong
đó có văn hóa biển” [29, tr.26]. Điều này cũng lý giải cho một số nét văn hóa tương
đồng trong tương quan so sánh với văn hóa của các làng nông nghiệp Việt Nam của
cộng đồng ngư dân vạn chài Hạ Long.
Hiện nay, cách lý giải phổ biến về nguồn gốc cư dân tại các làng chài thủy
cư trên vịnh là con cháu của cư dân làng chài cổ Giang Võng, Trúc Võng, tuy nhiên
các ghi chép về hai làng này không nhiều. Theo đó, vào thế kỉ XIX, có những ghi
chép về ngư dân vạn chài Hạ Long ở hai làng Trúc Võng và Giang Võng (Tổng An
Khoái và Tổng Vạn Yên, Huyện Hoành Bồ, Phủ Hoài Đông, Trấn An Quảng), nằm
tại Cửa Lục (dưới cầu Bãi Cháy hiện nay). Cuối thời Lê, đầu thời Nguyễn, hai làng
này đều là hai phường thuỷ cơ, thuộc huyện Hoành Bồ. Vào năm 1926, dân số hai
làng lên tới 2.017 người (Giang Võng đông hơn với 1.036 người, Trúc Võng là 981
người), dân số mỗi làng tương đương với các làng trên bờ nhưng so với các làng
chài khác thì số dân tại đây đông đúc hơn [72].
Sau Cách mạng tháng Tám, làng Giang Võng đổi tên thành xã Độc Lập, còn
Trúc Võng đổi tên thành xã Thành Công. Vào những năm đầu kháng chiến chống
Pháp (1946), ngư dân hai làng này dạt ra vùng Bái Tử Long và Vịnh Hạ Long. Số
đông di dân đến khu vực Cửa Vạn, Vung Viêng, Hoa Cương, Ba Hang, Đầu Bê,
Cặp Dề và Cặp La, hình thành lên các làng chài trên Vịnh Hạ Long và cộng đồng
này vẫn sinh sống thủy cư, dựa vào những chỗ kín gió được bao bọc bởi các thành
núi đá, thực hành sinh kế truyền thống. Gọi là các làng chài nhưng trên thực tế, các
vụng khuất gió này chỉ là nơi các thuyền cư ngụ khi về đêm, tránh gió bão... và dân
số luôn luôn biến động. Trong thời kì hình thành các hợp tác xã, Nhà nước đã vận
động ngư dân lên bờ nhưng ngư dân vẫn xuống thuyền bởi tính chất kém hiệu quả
của các hợp tác xã và không phù hợp với tập quán sản xuất của mình. Sau khi giải
thể các hợp tác xã, ngư dân vạn chài Hạ Long xuống luôn thuyền sống thủy cư vì
không còn ràng buộc gì với quản lý hành chính trên bờ nữa. Sau này, ngư dân cho
xây dựng những nhè bè nổi để mở rộng không gian sống, không gian sản xuất. Theo
báo cáo của UBND TP Hạ Long, trước khi tiến hành di dời, trên Vịnh Hạ Long có
tổng số 614 bè (597 nhà bè của cá nhân, 17 nhà bè của tổ chức) [73]. Trong đó bao
27
gồm lớp học, nhà văn hóa và một số nhà của ngư dân. Nhiều nhà bè do những
người ở nơi khác (122 nhà bè của những người có hộ khẩu ngoài thành phố Hạ
Long) hoặc của những cá nhân trên đất liền đầu tư xây dựng nuôi trồng hải sản (đa
số có hộ khẩu tại phường Hồng Hà, Hùng Thắng, thành phố Hạ Long) [74].
Về sau có một bộ phận ngư dân chuyển lên bờ sinh sống, chủ yếu tại các
phường của TP Hạ Long hiện nay như Cao Xanh, Hồng Hà, Hùng Thắng. Có một
bộ phận di dời qua các vùng biển khác tại Cẩm Phả, Vân Đồn, Yên Hưng (Quảng
Yên), tiếp tục sống cuộc sống thủy cư. Một bộ phận khá lớn di chuyển ra khu vực
Vịnh Hạ Long, tụ cư tại các làng chài như Ba Hang, Cặp Dè, Cửa Vạn… Tuy nhiên,
những cách lý giải nguồn gốc này chỉ mang tính chất tham khảo bởi tính chất phức
tạp về tộc người, về nguồn gốc tụ cư cũng như thời gian tụ cư của ngư dân các làng
chài trên Vịnh Hạ Long.
Vào tháng 6/2014, ngư dân vạn chài được di cư lên bờ tại khu TĐC Khe Cá,
thuộc phường Hà Phong, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Đây là một sự kiện
có tính bước ngoặt trong quá trình phát triển của cộng đồng bởi nó gây ra những
xáo trộn về môi trường sống và các thực hành văn hóa, sinh kế. Sự kiện này đã làm
tan rã các làng chài trên Vịnh và đưa cư dân của những làng này tập trung vào một
khu.
1.3.2. Đặc điểm cư trú và dân cư
Ngư dân làng chài về cơ bản sinh sống trong khu vực địa lý riêng biệt. Bao
quanh họ là khung cảnh thiên nhiên Vịnh Hạ Long cùng các điều kiện về môi
trường, ngư trường cho các hoạt động kinh tế và thực hành lối sống, các sinh hoạt
văn hóa ở các cấp độ cộng đồng, gia đình dòng họ và cá nhân.
Ở vùng Vịnh Hạ Long, biển ăn sâu vào đất liền với bờ khúc khuỷu và với
dạng địa hình đảo, núi xen kẽ các trũng biển với những đảo đá vôi vách đứng. Các
hườm đá, hang động được hình thành do quá trình phong hóa núi đá vôi và bào mòn
bởi sóng biển trở thành nơi cư trú an toàn cho thuyền nhỏ. Điều kiện khí hậu, thời
tiết cũng khá ôn hòa với nhiệt độ không quá khắc nghiệt (nằm trong vùng nhiệt đới
nên nhiệt độ trung bình hàng năm từ 27 – 29 C, mát và khô vào mùa đông với nhiệt
độ xuống thấp khoảng 16 – 18 C), vịnh không có sóng lớn. Các đảo đá và những
28
dãy núi đá vôi tạo ra một cảnh quan chia vịnh Hạ Long ra thành những ao chuôm
khổng lồ, là nơi cư ngụ của nhiều loài tôm cá với lượng thức ăn phong phú từ các
cửa sông đổ ra vịnh. Do đó, đây là vùng Vịnh giàu tài nguyên, tạo điều kiện thuận
lợi cho khai thác hải sản và phát triển kinh tế biển. Theo thống kê, tại Vịnh Hạ Long
có khoảng 1.000 loài cá biển, trong đó có 730 loài đã định tên; 140 loài động vật
phù du; gần 500 loài động vật đáy; 326 loài động vật tự du; 130 loài động vật
nhuyễn thể hai mảnh vỏ; hơn 230 loài san hô và một số loài linh trưởng quý hiếm
cùng nhiều thực vật đặc hữu [75].
Xét về cảnh quan, những làng chài trên Vịnh Hạ Long được “bao bọc” bởi
những dãy núi đá vôi với nhiều dãy núi đá vôi cao từ 80 đến 100 mét, dốc xuống từ 100 đến 200, được hình thành do quá trình chuyển đổi CO2 có tuổi đời hàng nghìn
năm. Sinh sống trong các vụng được núi đá bao bọc, ngư dân vạn chài Hạ Long
tránh được những ảnh hưởng từ các con sóng đại dương và những trận bão lớn.
Điển hình cho đặc điểm cư trú này được thể hiện qua làng chài Cửa Vạn. Làng chài
này nằm trong một vụng biển kín, xung quanh được bao bọc bởi các đảo đá tự
nhiên, trở thành một địa điểm hiệu quả để tránh gió bão và giao thông đường biển
an toàn, thuận lợi.
Trước đây, ngư dân cư trú trên thuyền. Thuyền vừa là nhà, vừa là công cụ
sản xuất – một phương tiện thiết yếu trong sinh hoạt và thực hành sinh kế của ngư
dân vạn chài Hạ Long. Các hộ gia đình thường có vài thế hệ cùng chung sống nên
không gian sinh hoạt trên thuyền rất chật chội. Trong một không gian như vậy, ngư
dân phải có cách thích ứng bằng việc chia thuyền ra làm nhiều khoang, thông
thường từ 5-7 với 3 phần: khoang đằng mũi, khoang ở và khoang đằng lái. Các
khoang đằng lái được tận dụng để làm bếp. Không gian sống dưới thuyền chật hẹp
nên vào đầu thế kỉ XX, ngư dân dựng những ngôi nhà nổi tạm bằng gỗ, tre, lá khai
thác từ các đảo đá trên vịnh. Sau này họ đã thay bè mái lá, vách gỗ bằng bè mái
bằng, mái úp. Hiện đại hơn các gia đình có điều kiện đã lợp mái tôn, mái lá bọc lưới
cũ lên chống gió. Về sau, có nhiều hộ có điều kiện xây nhà bè, nuôi thủy hải sản
nên không gian sinh hoạt có phần được mở rộng hơn và cho thu nhập cao hơn
nhưng về cơ bản vẫn gắn chặt với môi trường biển. Dân cư của các làng chài trên
29
vịnh Hạ Long chiếm 93 % là dân gốc từ dân làng Giang Võng và Trúc Võng và Hà
Nam (Yên Hưng (Quảng Yên) – Quảng Ninh); còn lại là 7% các hộ dân từ vùng
khác đến sinh cơ lập nghiệp như, Thái Bình, Nam Định, Thanh Hóa, Hải Dương.
Trong một không gian lênh đênh sóng nước, đời sống kinh tế của ngư dân
bấp bênh nên về cơ bản, từ xưa cho đến nay, người dân làng chài vẫn luôn nghèo khổ. Họ bám biển, làm nghề, vừa lo tránh thiên tai vừa lo chạy địch họa1. “Người
dân chài không cư ngụ ở nơi cố định, không có quê hương. Mỗi nhà một thuyền,
chồng mũi vợ lái, quăng chài, kéo lưới, thả câu, chắn đăng...Gom được ít tôm cá lại
cập bờ lên bán vội, mua vội ít gạo, muối rồi xuống thuyền. Họ xa lạ với mọi chuyện
trên bờ, khi lên bờ họ ngu ngơ như người thiểu số vùng cao xuống thành phố. Họ
sống thật thà, chất phác, luôn chịu mua đắt bán rẻ, thường bị bắt nạt” [59,
tr.349].Các điều kiện về y tế (chữa bệnh bằng tri thức dân gian), giáo dục đều không
được đảm bảo, tỉ lệ mù chữ cao (trên 80%). Ngư dân chài còn có tâm lý tự ti khi bị
người trên bờ xa lánh, coi khinh với quan niệm ngư dân là những kẻ “sống vô gia
cư, chết không địa táng” bởi họ không có nhà cửa cố định, thậm chí không có hộ
khẩu, chết không có đất chôn. Hiện tại, sau nhiều năm sinh sống ở dưới biển nay lên
định cư trên bờ, ngư dân vạn chài ở khu TĐC có việc làm chưa ổn định, phần lớn
không biết chữ, tình hình dân trí thấp, cần có thời gian để hội nhập với môi trường
sống mới. Ngư dân khi lên bờ gặp nhiều khó khăn bởi khó ổn định cuộc sống do họ
chỉ biết nghề biển: sinh hoạt, tập tục trên biển đã gắn bó, ăn sâu trong tiềm thức.
1.3.3. Tổ chức chính trị - xã hội truyền thống
Vạn là một tổ chức truyền thống của ngư dân xưa. Vì không có đất để định
cư trên bờ, nên vạn có thể coi là “làng- xã” của cộng đồng ngư dân vạn chài.
Theo các nghiên cứu về làng xã thì làng là đơn vị cốt lõi và cơ bản nhất của
tổ chức chính trị - xã hội truyền thống của các cộng đồng cư dân ở Việt Nam nói
chung. Kết cấu làng xã của Việt Nam (chính xác hơn là người Việt ở đồng bằng
Bắc Bộ) cùng với tính đa nguyên và chặt của nó là cơ sở để bảo lưu nhiều thành tố
văn hóa làng trong tính bảo thủ của làng xã. Văn hóa làng vẫn tồn tại đến ngày nay
với sự ngưng kết trong các giá trị tinh thần, biểu hiện ra trong lối sống, phong tục
1 Sử có ghi chép về nạn Giặc Tài Mầu (mũ to – một loại mũ có ở đảo Hải Nam – Trung Quốc), giặc Cốc Lồ (cái sọt – bọn giặc chuyên đeo sọt để chia của cải cướp được).
30
tập quán, văn hóa dân gian, tín ngưỡng tôn giáo. Văn hóa làng còn có cả một cơ sở
vật chất là đình chùa, miếu, lũy tre, bến nước, cây đa. Những làng chài ở Hạ Long
không có những tính chất nổi bật như vậy bởi do quy định của điều kiện tự nhiên
nhưng cũng có những nét phản ánh kết cấu chung của làng thể hiện qua những ghi
chép về hai làng chài Giang Võng, Trúc Võng xưa. Kiểu tổ chức này biểu hiện qua
việc quần cư thành làng đông đúc, đôi khi phân tán, song đã có tổ chức tự quản, có
bộ máy hành chính riêng, có hội đồng kỳ mục riêng, tức là đã hình thành đơn vị
hành chính cấp xã với hệ thống lý dịch, có con dấu riêng, hoàn toàn tách biệt với cư
dân trên bờ. Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Thùy Dương [16] về cấu trúc
làng chài truyền thống trên Vịnh Hạ Long thì làng được chia thành nhiều thôn, đứng
đầu mỗi thôn là thôn trưởng (nhiệm kỳ 3 năm) do lý trưởng cắt cử từ những người
tương đối khá giả với độ tuổi từ 30 trở lên, có nhiệm vụ thu thuế, điều động phu
dịch, quản lý nhân khẩu, an ninh và các công việc hành chính khác trong cụm dân
cư do ông ta quản lý. Trưởng thôn về cơ bản không có quyền lợi gì. Ngoài thôn còn
có giáp. Hai làng Giang Võng và Trúc Võng đều có các giáp Đông và giáp Nam,
mỗi giáp có một trưởng giáp quản lý nhân đinh trong giáp mình. Nhiệm kỳ của
trưởng giáp là 3 năm và có quyền lợi được miễn một lần tế đám. Về cơ bản, giáp ở
làng chài cũng là một thiết chế tổ chức theo lớp tuổi, tuy nhiên, giáp ở làng chài
khác với giáp ở làng nông nghiệp bởi do không có ruộng nên giáp ở đây không phải
là đơn vị để phân công và quản lý công điền, không phải nơi để gửi hậu của những
người không có con trai, cũng không phải là đơn vị thu thuế. Giáp ở làng chài chỉ
đơn thuần có chức năng quản lý nhân đinh để cắt cử người làm đăng cai hay tế đám
trong các dịp lễ hội, tế thần trong năm.
Bộ máy quản lý hành chính của làng chài trên Vịnh Hạ Long cũng bao gồm
hai thiết chế là kỳ mục và lý dịch. Những người tham gia hai thiết chế này có phẩm
hàm không nhiều bởi do tính chất quy định của ngư dân chài. Họ chủ yếu là những
cựu binh đã khao vọng và những người đã làm trong hội đồng chức dịch. Hội đồng
này cũng trải qua các đợt cải lương hương chính vào những năm 1921, 1927 và
1941. Hội đồng lý dịch cũng bao gồm lý trưởng, phó lý và các nhân sự giúp việc
khác như xã đoàn, hộ lại, thủ quỹ, thư lại nhưng không có trưởng bạ vì do tính chất
của làng chài nên không có ruộng để chịu thuế. Ở làng chài có việc khác biệt trong
31
đăng kí sổ thuyền. Mỗi gia đình có thuyền được cấp cho một cuốn sổ, giống như sổ
hộ khẩu bây giờ vì yêu cầu thông tin về chủ thuyền, số nhân khẩu, tình trạng
thuyền. Sổ này mỗi năm đổi một lần, có lệ phí. Nếu đăng kí thuyền mới thì phải nộp
thuế 3 đồng. Lý trưởng phải có sổ này để quản lý dân trong địa vực của mình.
Về đảm bảo an ninh cho làng chài, các giang tuần (khoảng 4-5 người/ làng,
chọn từ những người từ 18-50 tuổi, không có thứ vị trong làng) được thành lập và
sử dụng thuyền công hoặc cắt cử lần lượt các thuyền của hộ ngư dân để thực hiện
tuần phòng. Nhiệm kỳ của mỗi giang tuần là một năm. Chỉ huy giang tuần là xã
đoàn, một nhân vật có vị trí trong bộ máy hành chính, có nhiệm kỳ là 3 năm. Nhiệm
vụ của giang tuần là đảm bảo an ninh cho làng chài, có thưởng nếu lập công và bị
phạt nếu bỏ nhiệm vụ và không được hưởng phụ cấp. Đây là nghĩa vụ phải làm và
cũng do thân phận thấp kém buộc họ phải thực hiện công việc này. Hết năm sẽ có
đợt chọn giang tuần mới. Khi tiến hành lựa chọn người mới, Lý trưởng sẽ dán thông
báo ở đình, một bản gửi lên quan trên hoặc lưu lại tại xã để mọi người cùng biết và
thực hiện. Riêng với xã đoàn, nếu làm tốt công việc có thể được xếp ngôi thứ tương
đương với phó lý.
Như vậy, kết cấu tổ chức làng truyền thống ở các làng chài Giang Võng,
Trúc Võng về cơ bản cũng khá chặt chẽ, cũng theo mô hình của các làng nông
nghiệp trên bờ nhưng có một số đặc điểm khác biệt do quy định của tính chất làng
chài. Ngoài ra còn có kiểu tổ chức dạng mới, gồm dân chài sống trong các vụng
không thành phe giáp, không có bộ máy tự quản. Về bộ máy hành chính, họ phụ
thuộc vào cư dân trên bờ. Cả vạn chỉ có một trưởng vạn do lý trưởng trên bờ chọn
để gánh vác trách nhiệm về sưu thuế, phu dịch.
1.3.4. Thực hành tín ngưỡng, tôn giáo
Đa thần giáo là thực hành tín ngưỡng truyền thống của ngư dân vạn chài nói
riêng cũng như phổ biến trong các thực hành tín ngưỡng, tôn giáo của các cộng
đồng người ở Việt Nam, trừ những cộng đồng theo đạo độc thần giáo như Thiên
Chúa, Tin Lành. Cộng đồng ngư dân vạn chài Hạ Long sinh sống và thực hành sinh
kế trong một môi trường thiên nhiên có nhiều thuận lợi nhưng cũng lắm biến động.
Do đó, họ cho rằng có nhiều thần linh liên quan đến đời sống của cá nhân, gia đình,
cộng đồng mình và thực hành những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo để xoa dịu, trao
32
đổi với lực lượng siêu nhiên này bởi các vị thần có thể gây ảnh hưởng đến đời sống
của con người trần thế. Người nào kính trọng, thành tâm với thần linh sẽ nhận được
sự giúp đỡ, hỗ trợ và ngược lại sẽ bị quở trách, trừng phạt nếu có những hành vi sai
trái hoặc không tôn kính.
Ngư dân vạn chài Hạ Long tin vào sự hiện hữu của tổ tiên, của thần biển, của
các vị thánh và những vị thần có thể gây ảnh hưởng đến con thuyền - công cụ lao
động quan trọng nhất của họ. Mỗi vị thần sẽ trú ngụ ở những nơi khác nhau: linh
hồn tổ tiên trú ngự ở bàn thờ được dựng trang trọng ở ngăn chính của thuyền; Thủy
thần (hà bá) cư ngụ trên biển và được thờ trong miếu; thành hoàng làng (của ngư
dân làng Giang Võng, Trúc Võng xưa và hậu duệ của họ hiện nay) ngụ ở đình
(Đình Giang Võng thờ thần núi, thần biển, Đức Thánh Trần, Đức ông Cửa Suốt,
Đức ông Lục Đầu giang, Đức vua Cao Minh và quan cụ Hà Ráng cùng 3 quan giúp
việc thần thánh và 7 cụ tổ của 7 dòng họ lớn trong làng, cũng là thành hoàng làng)...
Ngư dân tổ chức lễ cúng các thần linh tại nơi trú ngự của họ đều đặn theo lịch tiết.
Trong cộng đồng ngư dân có một số người có khả năng và tri thức để có thể
“thương lượng” với các lực lượng siêu nhiên thông qua cầu cúng.
Trong một khoảng thời gian dài (từ những năm 1960 đến những năm 1980),
nhiều thực hành tín ngưỡng, tâm linh bị coi là lạc hậu, mê tín nên không được
khuyến khích duy trì. Hiện nay, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Ninh
đã cho tiến hành khôi phục lại Lễ hội Đình làng Giang Võng và một số thực hành
văn hóa khác như hát giao duyên trên biển, hát đón dâu trên thuyền..., tạo điều kiện
cho sự tái tạo truyền thống và phục hồi lại các tín ngưỡng tâm linh.
1.3.5. Hoạt động kinh tế truyền thống
Các hoạt động kinh tế truyền thống của cộng đồng ngư dân vạn chài Hạ
Long được hình thành và phát triển dựa trên sự quy định của các đặc điểm môi
trường tự nhiên, sinh thái Vịnh Hạ Long. Trải qua hàng trăm năm tương tác với môi
trường, ngư dân đúc kết cho mình một khối tri thức bản địa, đó là một khối các kiến
thức, các tập quán và những thực hành văn hóa, sinh kế được hình thành, duy trì và
phát triển bởi những ngư dân có lịch sử tương tác lâu dài với môi trường tự nhiên,
tạo ra một phức hệ văn hóa bao gồm ngôn ngữ, tên gọi, các hệ thống phân loại, các
thói quen sử dụng tài nguyên, các nghi lễ, tín ngưỡng và thế giới quan... tạo cơ sở
33
cho việc ra những quyết định trong hoạt động đánh bắt hải sản, đấu tranh chống lại
những mối đe dọa từ tự nhiên, bệnh tật, giải quyết các hiện tượng thời tiết và khí
tượng, sản xuất ra các ngư cụ, định hướng việc đi lại trên biển, quản lý các mối
quan hệ sinh thái của xã hội và tự nhiên, thích nghi với môi trường sinh thái vịnh và tổ chức xã hội của cộng đồng2.
Tên gọi vạn chài đã khái quát được hoạt động kinh tế của cộng đồng ngư dân
Hạ Long. Nhờ quá trình tương tác với môi trường tự nhiên, trao truyền và đúc kết
sự khôn ngoan của nhiều thế hệ cộng lại, ngư dân vạn chài Hạ Long có cho mình
một kho tàng “khoa học cộng đồng” về những đặc điểm của luồng cá, con nước,
điều kiện tự nhiên, các thực hành tín ngưỡng, tâm linh và sự phù hợp của các công
cụ lao động đối với mỗi loại hình đánh bắt cụ thể để đảm bảo được đời sống kinh tế
của cộng đồng nói chung, của từng gia đình, cá nhân nói riêng.
Theo ngư dân, môi trường tự nhiên xung quanh sẽ phục vụ cho đời sống một
cách hiệu quả nhất khi con người hiểu được quy luật của tự nhiên, khai thác và đảm
bảo quá trình tái phục hồi của tự nhiên để có thể thực hiện sinh kế lâu dài, bền
vững. Những tri thức về biển với đầy đủ những đặc tính của nó đã giúp ngư dân bao
đời tồn tại với hoạt động kinh tế truyền thống, cùng lối sống về căn bản là tự cung
tự cấp. Trong những tri thức đó, lịch con nước, các loài cá và vùa vụ khai thác đóng
vai trò quan trọng, là kiến thức trọng yếu được trao truyền, bên cạnh kỹ năng nghề
nghiệp và những đòi hỏi khác về sức khỏe, tính tương trợ... Nếu không nắm được
lịch con nước, thời vụ, đặc điểm của các loài cá thì không thể khai thác hiệu quả
nguồn lợi mà biển mang lại. Trên thực tế, ngư dân, đặc biệt là những người đi biển
lâu năm đã thuộc tên từng loài cá, hiểu cả tập quán sinh sống của các loài, biết
những nơi có mực, có cua... Họ hiểu rõ những mối liên hệ giữa thời tiết và sự xuất
hiện của các loại hải sản, hiểu rõ từng luồng nước, nắm được đường cá bơi...
Nhờ sự nhạy cảm về điều kiện thời tiết, lịch con nước, luồng cá, ngư dân vạn
chài Hạ Long đã đời nối tiếp đời thực hành sinh kế truyền thống trên vùng biển Hạ
Long, đảm bảo được sự tồn tại và phát triển của cộng đồng mình. Tuy cuộc sống
2 Dựa theo định nghĩa về Tri thức bản địa của Ủy ban quốc tế các Hiệp hội Khoa học
34
còn nhiều khó khăn nhưng chính những khó khăn đó đã tạo nên những ngư dân rắn
rỏi, trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng, tạo nên sức sống cho di sản thiên nhiên Vịnh Hạ Long.3
Qua phân tích tóm lược về những đặc điểm của cộng đồng ngư dân vạn chài
Hạ Long, chúng ta thấy được rằng môi trường tự nhiên có ảnh hưởng sâu sắc đến
các biểu đạt văn hóa và thực hành sinh kế của cộng đồng. Do đó, tự nhiên trở thành một điểm tựa4 quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của ngư dân vạn chài Hạ
Long trong quá trình hình thành, sinh tồn trong môi trường sinh thái vịnh hàng trăm
năm qua. Bởi tự nhiên với các đặc điểm được phân tích trên đây đã cung cấp các
yếu tố đầu vào cơ bản cho quá trình thực hiện sinh kế của ngư dân. Yếu tố tự nhiên
cũng đóng một vai trò quan trọng trong quá trình hình thành nên bản sắc của cộng
đồng ngư dân vạn chài với việc định hình lối sống, các thực hành văn hóa hàng
ngày, những đặc trưng trong sinh hoạt văn hóa ở các cấp độ cộng đồng, gia đình –
dòng họ và các loại hình nghệ thuật dân gian gắn liền với cuộc sống ngư dân các
câu hò biển (hát chèo đường), hát cưới trên thuyền...
Bên cạnh điểm tựa tự nhiên, điểm tựa cộng đồng với thiết chế dòng họ và
cộng đồng cũng trở thành một yếu tố quan trọng giúp đảm bảo sự tồn tại và phát
triển của ngư dân vạn chài Hạ Long. Sống lệ thuộc vào tự nhiên, nương theo tự
nhiên và phải đương đầu với tự nhiên, sự cố kết dòng họ và tương trợ cộng đồng sẽ
giúp người ngư dân trụ vững được trước những biến cố, phục hồi tổn thất (nếu xảy
ra). Dòng họ còn là một thiết chế để cố kết sức mạnh của một nhóm ngư dân đồng
tộc. Họ liên kết với nhau, cùng nhau di chuyển để tìm ngư trường mới, cùng di
chuyển sang những vụng khác vì lý do tín ngưỡng như việc khu vực đang sinh sống
khai thác bị động, bị “hà bá” quấy nhiễu... Những người đồng họ còn là nơi chia sẻ,
tương trợ nhau trong bối cảnh cuộc sống khó khăn, thiếu thốn. Bởi tính chất lênh
đênh, không cố định nên ngư dân chỉ có thể dựa vào sự tương trợ từ dòng họ vì
những người “hàng xóm” thường bị thay đổi theo các địa điểm di chuyển.
Một điểm tựa không kém phần quan trọng khác là điểm tựa tâm linh. Theo
Mai Thanh Sơn, điểm tựa này được định danh là “ngưỡng hành vi” – “là tập hợp
3 Các tri thức bản địa trong đánh bắt của ngư dân Vạn Chài chi tiết ở phụ lục 3, tr.100 4 Phân tích các điểm tựa của cộng đồng theo quan điểm của Mai Thanh Sơn (xem Hoàng Cầm – Phạm Quỳnh Phương (2012), Diễn ngôn, chính sách và sự biến đổi văn hóa – sinh kế tộc người, Nxb. Thế giới, H)
35
những quan niệm của cộng đồng về giới hạn cho phép đối với mỗi con người. Đó có
thể là những quan niệm liên quan đến đời sống tinh thần và tâm linh; có thể là đức
tin, là sự sợ hãi, sự răn đe của các thông lệ, phong tục tập quán; cũng có thể là nỗi
ám ảnh về đạo đức, về các chuẩn mực xã hội và lòng tự trọng”[36, 40]. Đối với
cộng đồng ngư dân vạn chài Hạ Long, điểm tựa này chính là niềm tin vào sự trợ
giúp của các lực lượng siêu nhiên thông qua việc thờ cúng tổ tiên, thờ cúng thủy
thần và các tín ngưỡng, phong tục tập quán liên quan đến công cụ lao động. Họ tin
vào sự hiện hữu của những lực lượng có thể tác động đến cuộc sống cũng như sự ổn
định của cá nhân, gia đình, dòng họ và cộng đồng. Niềm tin đó giúp họ vượt qua
được những khó khăn, sóng gió trong một cuộc sống đầy bấp bênh và hy vọng vào
một cuộc sống tốt đẹp hơn trong tương lai.
Những điểm tựa trên đã giúp cộng đồng ngư dân vạn chài Hạ Long tồn tại và
phát triển hàng trăm năm qua với nhiều đời nối tiếp nhau làm nghề đánh bắt hải sản
trong điều kiện kỹ thuật thủ công, đòi hỏi nhiều kinh nghiệm sống, kinh nghiệm
khai thác biển, các tri thức về biển và niềm tin vào những lực lượng siêu nhiên có
thể chi phối, gây hại hoặc có thể mang lại sự giúp đỡ, hỗ trợ con người. Một khi
những điểm tựa này mất đi, đời sống của cộng đồng ngư dân vạn chài Hạ Long sẽ
gặp những xáo trộn đáng kể. Chính sách di dân đã tách ngư dân ra khỏi không gian
sống cũ, về cơ bản làm mất đi điểm tựa về tự nhiên của cộng đồng, gây ra những tác
động lớn tới các thực hành văn hóa và sinh kế của ngư dân
Tiểu kết chương 1
Di dân và TĐC là một vấn đề có tính chất quan trọng trong việc phân bổ lại
nguồn lực lao động, giảm tải áp lực dân số, tài nguyên, phát triển cộng đồng...
Nhưng chính sách di dân trong nhiều trường hợp chưa hẳn đã phát huy được tính
hiệu quả. Những tác động về chính sách có thể đem lại thuận lợi và khó khăn, thậm
chí là những bất lợi cho cộng đồng bên dưới. Không phải chính sách nào cũng thành
công bởi sự phát triển bền vững của một cộng đồng đòi hỏi nhiều yếu tốt và cần có
một thời gian dài cho đầu tư cũng như để người dân ổn định cuộc sống.
Tương tác lâu dài trong mối quan hệ với điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh
tế, các biểu đạt về văn hóa, các thực hành sinh kế của cộng đồng ngư dân vạn chài
Hạ Long biểu hiện mối tương quan khăng khít với điều kiện tự nhiên bao bọc cộng
36
đồng, đem lại nguồn sống và cả những biến cố cho họ. Chính trong môi trường tự
nhiên ấy mà lối sống, suy nghĩ, kho tàng tri thức địa phương về biển được hình
thành, trao truyền qua nhiều đời, tạo nên bản sắc cho một cộng đồng cư dân đặc
biệt. Họ đặc biệt bởi sinh sống trong vùng lõi của một Di sản thiên nhiên thế giới và
đặc biệt bởi chính những giá trị văn hóa của mình.
Chính sách di dân lên bờ là một “cú hích” có tính chất quyết định trong lịch
sử phát triển của cộng đồng ngư dân vạn chài Hạ Long, một lực tác động kéo theo
những thay đổi về môi trường sống, biến đổi sinh kế, từ đó đưa đến những biến đổi
về mặt văn hóa của những ngư dân nhiều đời quen với cảnh mênh mông sóng nước.
Bởi văn hóa, ngoài những phạm trù giá trị, niềm tin, hành vi và các biểu hiện vật
chất thì cũng là sự thích ứng, môi trường nào thì văn hóa như vậy. Cuộc sống trên
bờ không đơn giản là việc có một ngôi nhà vững chãi mà còn là vấn đề nghề nghiệp
sau TĐC, là những ảnh hưởng văn hóa và những thách thức trong quá trình hội
nhập. Từ đó đặt ra câu hỏi, liệu cộng đồng ngư dân làng chài còn thuần nhất không?
Họ còn là một cộng đồng không hay bị chia ra thành nhiều nhóm với sự khác nhau
về lối sống, về các biểu đạt văn hóa và các chiến lược thích ứng khác nhau trong bối
37
cảnh cuộc sống đã thay đổi?
CHƢƠNG 2
QUÁ TRÌNH CHUYỂN CƢ VÀ NHỮNG BIẾN ĐỔI VĂN HÓA
2.1. Bối cảnh của sự biến đổi
2.1.1. Tranh luận về phát triển du lịch Hạ Long và di dân làng chài
Theo một số quan điểm, việc di dời làng chài đã làm mất đi một nguồn tài
nguyên du lịch nhân văn, từng là một lực hút hấp dẫn đối với nhiều du khách muốn
khám phá văn hóa và trải nghiệm cuộc sống của các ngư dân. Theo đó, nếu không
còn làng chài thì khung cảnh trên Vịnh Hạ Long sẽ trở nên tẻ nhạt vì không có hoạt
động sinh sống của con người. Theo Đinh Xuân Lập [31], “hình ảnh của những ngư
dân quanh năm trên biển đã trở thành một hình ảnh quen thuộc, không thể thiếu của
khu vực này”. “Họ là những chủ nhân đầu tiên của di sản và bằng chính cuộc sống
của mình, họ tạo nên những giá trị nhân văn độc đáo cho vùng non nước này”.
Website du lịch Journeyetc.com đã đưa làng chài Cửa Vạn (hay còn gọi là
làng chài Vạn Giá) của vịnh Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh vào danh sách 16 ngôi làng
cổ đẹp nhất thế giới bởi khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, hoang sơ và cuộc sống con
người chưa bị ảnh hưởng nhiều của lối sống hiện đại. Đây có thể được coi là một
điểm du lịch văn hóa nằm trong Vịnh Hạ Long. Đặc tính của các điểm du lịch văn
hóa là các giá trị khai thác sẽ tập trung vào các trung tâm lịch sử, văn hóa, giáo dục.
Đặc biệt là việc khai thác các sinh hoạt văn hóa của các cộng đồng còn tồn tại nhiều
nét văn hóa truyền thống như các làng quê. Các doanh nghiệp du lịch cũng thường
kinh doanh tại những công đồng xa trung tâm đô thị, đặc biệt như ở Việt Nam là các
cộng đồng tộc người thiểu số có văn hóa được mô tả là khác lạ, kì bí, do đó có sức
hút đặc biệt với du khách, cả khách nội địa và khách quốc tế. Như vậy, nếu có
những thiết kế tuyến, điểm du lịch hiệu quả, các làng chài trên Vịnh Hạ Long sẽ trở
thành những điểm đến có sức hấp dẫn và nhờ đó, có thể phát triển kinh tế cho cộng
đồng bằng loại hình du lịch cộng đồng. Nên thay vì “bốc” ngư dân lên bờ, chính
quyền cần có những dự án đầu tư về cơ sở hạ tầng, về giáo dục, y tế và hỗ trợ các
dịch vụ cơ bản cho ngư dân và có những phương án bảo đảm sự bền vững của môi
trường. Hơn nữa, cuộc sống của ngư dân vạn chài đã gắn bó với môi trường Vịnh
38
hàng trăm năm, các giá trị văn hóa được sản sinh trong quá trình tương tác với môi
trường tự nhiên, nếu tách họ khỏi môi trường sống đó thì nhiệm vụ bảo tồn và phát
huy giá trị di sản của ngư dân vạn chài Hạ Long cũng sẽ gặp thêm nhiều khó khăn
bởi các thực hành văn hóa và những hình thức văn nghệ dân gian găn liền với cuộc
“Công tác bảo tồn các giá trị văn hóa tiêu biểu như nghệ thuật hát chèo
đường, hát cưới... được thực hiện khi ngư dân còn sống ở môi trường vịnh.
Nay đưa họ lên bờ, tức là tách họ ra khỏi môi trường sáng tạo văn hóa của
họ. Điều này gây ra những khó khăn lớn cho công tác bảo tồn và phát huy
giá trị di sản văn hóa của cộng đồng ngư dân Hạ Long. Cộng đồng không
còn tiếp tục sinh sống và sáng tạo, tạo nên “sức sống” cho các giá trị văn
hóa. Hiện tại, công tác bảo tồn và phát huy được thực hiện bằng việc “sân
khấu hóa” các loại hình nghệ thuật dân gian của ngư dân, được biểu diễn tại
Trung tâm văn hóa nổi Cửa Vạn và để phục vụ khách du lịch chứ người dân
không còn thực hành nữa. Đây là một thách thức rất lớn trong công tác bảo
tồn di sản văn hóa này”.
sống sẽ không được ngư dân thực hành, dẫn tới sự mai một.
Nguồn: Phỏng vấn ông Nguyễn Tr.H, phòng Quản lý di sản, Sở
VHTTDL Quảng Ninh, ngày 20/4/2016
Quan điểm từ những nhà quản lý và một số nghiên cứu về môi trường Vịnh
Hạ Long cho rằng, các làng chài trên Vịnh Hạ Long là một nguồn gây ô nhiễm
nguồn nước của Vịnh, ảnh hưởng tiêu cực tới kỳ quan thiên nhiên thế giới. Trong
khi đó, cuộc sống của cộng đồng ngư dân vạn chài Hạ Long trên các làng Cửa Vạn,
Vung Viêng, Hoa Cương, Ba Hang, Đầu Bê, Cặp Dề và Cặp La gặp nhiều khó
khăn, thiếu các dịch vụ cơ bản như điện, nước, y tế, giáo dục, thông tin... và sự gia
tăng dân số ở vùng lõi vịnh sẽ gây nên tình trạng quá tải cho môi trường. Những
nghiên cứu, quan trắc môi trường cũng đã chỉ ra dấu hiệu ô nhiễm trong vùng lõi
Vịnh Hạ Long, trong đó có nguyên nhân từ sinh hoạt của cộng đồng ngư dân vạn
chài.
Trần Đức Thạnh (2012) cùng nhóm nghiên cứu cũng đưa ra những thông số
quan trắc môi trường và chỉ ra những tác động của hoạt động sinh sống và khai thác
hải sản của ngư dân trên các làng nổi và các hoạt động nuôi trồng thủy hải sản tới
chất lượng nước của Vịnh Hạ Long. Theo các tác giả, các hoạt động này tác động
39
đáng kể vào việc làm gia tăng nguồn chất thải vào vịnh, gây ô nhiễm môi trường
vịnh [43,tr.77]. Ngoài ra, dân số trên các làng chài có xu hướng tăng nhanh do tăng
cơ học và tự nhiên, là nguồn gây ô nhiễm môi trường và đa dạng sinh học vùng
vịnh. Các vạn thường định cư nơi kín sóng gió, hoàn lưu nước kém, dễ thành điểm
ô nhiễm cục bộ do rác thải sinh hoạt được đưa trực tiếp xuống biển và có khả năng
tự làm sạch kém. Dự báo đến năm 2020, nếu các làng chài còn hoạt động thì lượng
rác thải do các xóm vạn chài thải xuống sẽ tăng 1,2 lần [43, tr.253]. Từ đó, nhóm
nghiên cứu đề xuất không nên mở rộng quy mô làng chài, không khuyến khích định
cư trên vịnh và tái định cư ngư dân lên bờ theo lộ trình 40% vào năm 2015, 100%
vào năm 2020 và kiên quyết xóa bỏ hình thức các nhà bè ẩm thực trên vịnh.
Một nghiên cứu khác của Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN), dựa
trên việc khảo sát bằng bảng hỏi với các đối tượng là các doanh nghiệp du lịch đã
chỉ ra rằng, khu vực làng nổi trên biển không nằm trong những khu vực ô nhiễm
nhiều nhất [70, tr.21]. Tuy nhiên, khảo sát của IUCN lại cho thấy tỉ lệ lớn người trả
lời khẳng định hoạt động của cư dân trên các làng nổi là nguyên nhân chính gây ra ô
nhiễm (chiếm 43% ý kiến) [70, tr.23]. Nghiên cứu này có hạn chế bởi những ý kiến
đánh giá chủ yếu từ cảm quan của những người được khảo sát chứ không dựa trên
các yếu tố quan trắc chất lượng một cách khoa học.
Tuy nhiên, một số nghiên cứu đã chỉ ra, hoạt động của ngư dân có mức độ
gây ô nhiễm thấp hơn những địa điểm khác trong vùng lõi di sản. Theo Nguyễn Thế
Nguyên (2013), “Nhìn chung, các nguồn thải từ đất liền có ảnh hưởng lớn nhất đến
chất lượng nước vịnh Hạ Long do tại khu vực ven bờ vịnh tập trung nhiều hoạt
động phát triển kinh tế - xã hội. Các nguồn tác động tiếp theo đến chất lượng nước
vịnh Hạ Long theo thứ tự giảm dần là hoạt động của tầu thuyền, hoạt động đổ thải
và hoạt động liên quan đến đáy biển. Cuối cùng là nguồn thải từ các làng chài và
nuôi trồng hải sản trên vịnh” [35, tr.41]. Nghiên cứu này cũng đưa ra các thông số
và cho thấy lượng chất thải rắn lơ lửng (TSS), kim loại nặng ở khu vực làng chài
Cửa Vạn thấp hơn nhiều so với các khu vực khác. Đặc biệt, khu vực Nhà bè cột 5
và phía sau chợ Hạ Long nằm trong vùng lõi di sản là hai khu vực có sự ô nhiễm
kim loại nặng cao gần gấp đôi khu vực làng chài.
Theo quan điểm chính thức từ UBND thành phố Hạ Long trong đề án di dời
40
nhà bè, Vịnh Hạ Long là di sản thiên nhiên thế giới, là nguồn tài nguyên du lịch
quan trọng trong việc phát huy thế mạnh của địa phương. Do đó, bảo tồn và phát
huy giá trị di sản Vịnh Hạ Long luôn là nhiệm vụ trọng tâm, dành được sự quan tâm
ưu tiên. Cần đảm bảo không có tác nhân gây hại, di sản thiên nhiên thế giới có vị trí
quan trọng đối với tiềm năng và thế mạnh của địa phương, bởi vậy Tỉnh và Thành
phố luôn coi nhiệm vụ bảo vệ phát triển, bảo tồn di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ
Long là nhiệm vụ trọng tâm, hàng đầu, luôn dành sự quan tâm ưu tiên tối thượng, vì
thế đã có nhiều văn bản chỉ đạo, triển khai nhằm bảo vệ và phát huy giá trị của Di
sản đảm bảo: không có tác nhân gây hại, môi trường phát phát triển bền vững; các
hoạt động tuân thủ thông lệ Quốc tế; Luật bảo vệ môi trường; Luật di sản của Việt
Nam.
Trong khi đó, trên Vịnh Hạ Long có 7 khu vực quy hoạch neo đậu nhà được
phê duyệt là Ba Hang, Hoa Cương, Cửa Vạn, Ba Hầm, Cống Tàu, Vông Viêng,
Cống Đầm theo quyết định từ năm 2008 của UBND Tỉnh nhưng có rất nhiều các
điểm neo đậu không đúng quy hoạch. Cùng với đó là việc tăng nhanh số lượng nhà
bè: tháng 1/2004 có tổng số 459 nhà bè, đến tháng 9/2005 là 537 nhà bè và đến
tháng 3/2007 số nhà bè đã là 618 (tăng 159 bè so với tháng 1/2004 và 81 bè so với
thời điểm tháng 9/2005); cùng với sự gia tăng nhà bè, số nhân khẩu cũng tăng theo
tỷ lệ thuận, đến nay đã có 650 nhà bè, 2214 khẩu sinh sống trên nhà bè. Các nhà bè
này ngoài nuôi trồng thủy sản, bán hải sản,hoạt động dịch vụ chở đò, bán hàng đò
rong,kinh doanh dịch vụ ăn uống, xăng dầu, nước ngọt; dịch vụ sửa chữa tầu thuyền
tập trung ở khu vực ven bờ và ngoài Vịnh còn có nhà bè hoạt động bất hợp pháp
như: khai thác, mua bán san hô, ăn xin, đeo bám tàu du lịch để bán san hô, hải sản.
Việc neo đậu các nhà bè này không cố định và có xu hướng tăng do việc tách hộ
của con cái khi trưởng thành và bên cạnh đó còn có nguyên nhân từ những cá nhân
trên bờ di chuyển sinh sống trên mặt vịnh. Trong khi đó, phương tiện kiểm tra chưa
đủ, kinh phí duy trì lớn; lực lượng kiểm tra, giám sát mỏng, không liên tục và chính
quyền trên bờ ở xa, không thể sát dân thường xuyên. Mặt khác, ngư dân vạn chài
hầu hết thuộc diện nghèo, trình độ văn hóa thấp (chúng tôi không coi ngư dân có
văn hóa thấp), nhận thức về xã hội, ý thức về pháp luật, chấp hành pháp luật rất hạn
chế; nghề nghiệp sinh sống không ổn định, không được thụ hưởng các dịch vụ văn
41
hóa, y tế, có khả năng nguy hiểm đến tính mạng trong các mùa giông bão... Bởi vậy
cần chuyển họ lên khu TĐC nhằm mục đích bảo vệ sự phát triển bền vững của di
sản Thiên nhiên Vịnh Hạ Long.
Tại kỳ họp thứ 33 (năm 2009) và 35 (năm 2011), Ủy ban Di sản thế giới
(thuộc UNESCO) trước những báo cáo về chất lượng nước và sức tải môi trường
của Vịnh đã đưa ra các khuyến nghị về vấn đề bảo tồn tính toàn vẹn của vịnh Hạ
Long. Theo đó,Ủy bản này bày tỏ sự lo ngại về việc tăng dân số ở các làng chài
trong vùng lõi vịnh quá nhanh sẽ tác động mạnh đến công tác bảo tồn, cũng như bảo
đảm vệ sinh môi trường trong vùng di sản. Từ những khuyến nghị đó, BQL vịnh Hạ
Long đã tham mưu để tỉnh Quảng Ninh xây dựng quy hoạch các làng chài trên vịnh,
xây dựng khu TĐC để chuyển ngư dân tại các làng chài lên bờ để bảo vệ di sản, giữ
gìn môi trường sạch và an toàn, đồng thời để cải tạo điều kiện sinh sống cùng với
các dịch vụ cơ bản mà ngư dân cần được thụ hưởng.
2.1.2. Quá trình thực hiện chuyển cư
Việc di dời ngư dân lên khu TĐC là việc chưa có tiền lệ tại tỉnh Quảng Ninh,
do đó gặp nhiều khó khăn bắt nguồn từ tập quán sinh sống, khai thác kinh tế của
ngư dân. Hơn nữa, ngư dân về cơ bản có trình độ dân trí thấp do không có điều kiện
học tập, khai thác thông tin, sinh sống biệt lập, không biết làm gì khác ngoài nuôi
trồng, đánh bắt và kinh doanh thủy hải sản. Đây cũng là khu vực có nhiều cư dân từ
các vùng lân cận đến sinh sống, gây khó khăn cho công tác rà soát, xác định những
hộ nào thuộc quản lý của thành phố Hạ Long, đáp ứng tiêu chuẩn được di dời đến
khu TĐC và những hộ không thuộc diện được nhận nhà TĐC. Và dù có những ý
kiến về việc giữ lại làng chài và hoạt động sống của ngư dân như một bản sắc tạo
nên sự hấp dẫn cho du lịch Hạ Long, nhưng trước những thách thức về môi trường,
chính quyền quyết định di dời toàn bộ ngư dân khỏi vùng vịnh.
Chủ trương của thành phố Hạ Long là di dời toàn bộ ngư dân đến khu TĐC,
vừa nhằm mang lại những lợi ích bảo vệ môi trường và lợi ích cho chính cuộc sống
của ngư dân. Mục đích này được thể hiện trong nội dung phương án di dời các nhà
bè, đó là: Tăng cường và nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với công tác quản
lý, bảo tồn và phát huy giá trị Di sản vịnh Hạ Long; Kiên quyết không cho xây
dựng, phát sinh bè mới; phân loại và quản lý chặt chẽ số dân cư đang sinh sống trên
42
Vịnh; từng bước đưa dân cư lên đất liền để sinh sống. Xây dựng dự án định cư cho
các hộ nhà bè chuyển lên đất liền sinh sống; bố trí cho con em nhà bè trong lứa tuổi
học sinh được học nội trú ở trên bờ và được hưởng chính sách như các lớp dân tộc
nội trú; có chính sách chuyển đổi nghề nghiệp, hỗ trợ việc làm cho bà con ngư dân
khi di dời vào đất liền sinh sống.
Các phương án được đưa ra, bao gồm việc buộc các hộ nhà bè thuộc địa
phương khác (không có hộ khẩu thường trú, hoặc tạm trú lâu dài ở thành phố Hạ
Long như: Cát Bà - Hải Phòng, Yên Hưng (Quảng Yên) – Quảng Ninh, Thanh
Hóa…) phải tự di dời về nơi cư trú (theo Quyết định số 819/QĐ-UBND ngày
21/3/2008 của UBND tỉnh Quảng Ninh); Các hộ nhà bè có hộ khẩu tại thành phố
Hạ Long xuống bè sinh sống trước ngày 01/01/2005, nếu đủ điều kiện sẽ được bố trí
tái định cư trên đất liền. Trong thời gian chờ bố trí tái định cư phải tự di chuyển về
điểm neo đậu theo qui hoạch (tự chọn điểm neo đậu); Các hộ nhà bè có hộ khẩu
thường trú tại thành phố Hạ Long nhưng xuống bè cư trú, sinh sống sau ngày
01/01/2005 thì phải tự tháo dỡ bè và di dời lên bờ; Các hộ nhà bè có nhà ở trên bờ
(qua xác minh của UBND Phường) thì phải tự di chuyển lên đất liền; đối với các hộ
có nhu cầu nuôi trồng thủy sản thì được xem xét giao mặt nước tại các điểm qui
hoạch nuôi trồng thủy sản theo qui định (tuyệt đối không làm nhà bè để ở tại các
khu vực được giao mặt nước nuôi trồng thủy sản).
Khu vực TĐC được bố trí tại Cái Xà Coong (phường Hà Phong, thành phố
Hạ Long) theo quyết định số 1293/ QĐ – UBND, ngày 10/8/2012 của UBND thành phố Hạ Long với diện tích quy hoạch là 79. 198,5 m2, trong đó:
+ Khu TĐC: 76.509,5m2 (đất nhà ở liền kề 30.564m2; đất công trình công cộng 4.198,5m2; đất cây xanh, vườn hoa 4.333m2; đất giao thông hành lang kỹ thuật 37.423m2).
+ Khu đất đấu nối giao thông: 2.689m2.
Khu vực TĐC được đầu tư đồng bộ hệ thống hạ tầng và hạ tầng xã hội như
nhà ở, nhà văn hóa, trường mầm non, công viên... và được khởi công xây dựng vào
tháng 3 năm 2013.
Bên cạnh đó, dự án này cũng tính đến việc quy hoạch khu vực nuôi trồng
43
thuỷ sản ven bờ để bố trí cho các hộ tái định cư trên đất liền tạo công việc làm, ổn
định cuộc sống và quy hoạch, xây dựng bến neo đậu tàu thuyền nghề cá tại khu vực
Cái Xà Cong thuộc phường Hà Phong để tạo điều kiện cho các hộ đã được tái định
cư trên đất liền có thể duy trì nghề nghiệp đánh bắt, nuôi trồng hải sản trên Vịnh, ổn
định cuộc sống.
Những hộ ngư dân được cấp đất TĐC trên đất liền cần đảm bảo đủ tiêu
chuẩn: Có hộ khẩu thường trú, hoặc tạm trú lâu dài ở thành phố Hạ Long (được xác
nhận của cơ quan Công an); Thời điểm đóng bè, cư trú liên tục trên vịnh Hạ Long
trước ngày 01/01/2005 (được xác minh của UBND cấp Phường). Không có chỗ ở
nào khác (trên đất liền) tại địa bàn thành phố Hạ Long (xác minh của UBND cấp
phường); Chấp hành đúng thời gian yêu cầu tháo dỡ bè theo thông báo của UBND
Thành phố.
Lộ trình thực hiện di dời nhà bè gồm: Di dời những hộ nhà bè không thuộc
diện được di chuyển lên khu TĐC, hoàn thành trước tháng 12/2013; Ngư dân thuộc
diện đủ tiêu chuẩn sẽ di dời toàn bộ lên đất liền trước này 30/6/2014. Trên thực tế,
từ ngày 23/5/2014 đến hết 30/6/2014, UBND phường Hà Phong đã tiếp nhận 344
hộ dân với 1.624 nhân khẩu là cư dân làng chài về TĐC tại khu 8 của phường. Có
thể coi mốc 30/6/2014 là một bước ngoặt trong đời sống văn hóa của cộng đồng,
một mốc đánh dấu sự chuyển đổi về môi trường sống, tạo lực tác động làm thay đổi
các thực hành sinh kế và thực hành văn hóa và tạo ra những khó khăn, thách thức
trong quá trình hòa nhập và phát triển.
Trước khi tiến hành dự án, chính quyền đã thực hiện nhiều buổi tuyên
truyền, vận động và tham vấn ý kiến của ngư dân vạn chài. Ngư dân được đảm bảo
sẽ có một cuộc sống mới trên đất liền với những ngôi nhà khang trang, được cung
cấp đầy đủ các dịch vụ thiết yếu và được chuyển đổi nghề và một số quyền lợi
khác,đặc biệt là việc học hành của trẻ em vạn chài sẽ được quan tâm. Bởi vậy, dù
còn có nhiều trăn trở, nhưng trước những lời hứa của chính quyền và mong muốn
thế hệ con cháu có tương lai tốt đẹp hơn, ngư dân vạn chài đồng thuật di dời đến
khu TĐC. Việc di dời bao gồm dỡ nhà bè, chuyển đồ đạc tới căn nhà đã bốc thăm.
Với nhiều người, đây là một cuộc di cư quan trọng bởi họ đặt niềm tin vào một
44
tương lai tốt đẹp, tràn ngập “màu hồng” mà cuộc sống mới sẽ mang lại.
2.1.3. Môi trường đô thị và các yếu tố của đời sống thủy cư tại khu TĐC
Nghiên cứu biến đổi văn hóa của cộng đồng ngư dân vạn chài tại khu TĐC
không thể tách rời mối tương tác với yếu tố đô thị bởi không gian sống mới nằm
trong một phường của thành phố Hạ Long và được tổ chức, quản lý với mô hình
một khu phố trong phường. Mô hình quản lý mới cùng với việc phổ biến và xây
dựng văn hóa cơ sở cũng là một yếu tố tác động đến những chuyển biến, vận động
của văn hóa ngư dân vạn chài trên đất liền.
Quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa của ngư dân vạn chài tại khu TĐC là
một quá trình trao đổi, chia sẻ các giá trị vật chất, tinh thần và tiếp thu các giá trị
mới, lối sống mới, tạo ra một sự tương tác giữa các yếu tố đô thị với yếu tố văn hóa
truyền thống của ngư dân.
Bảng 1: Đặc điểm cộng đồng ngƣ dân vạn chài và cộng đồng tụ cƣ theo kiểu đô thị
Cộng đồng làng chài (Truyền thống – ngƣ nghiệp)
Cộng đồng tụ cƣ theo kiểu đô thị (Hiện đại– thị dân)
Nội dung
Không gian sống
Nghề nghiệp
Dựa theo tự nhiên, không quy hoạch. Nhà ở chủ yếu được xây dựng theo hình ống; lựa chọn những khu vực có thuận lợi cho mục tiêu kinh tế (mặt đường, các tuyến đường giao thông đi qua); được quy hoạch theo định hướng phát triển chung (không gian nhân tạo) Phát triển về hoạt động kinh tế công nghiệp, thương mại, dịch vụ. Tỉ trọng của thành phần kinh tế phi công nghiệp thấp. Coi trọng cá nhân và đời sống riêng, được hình thành từ những mối quan hệ mới; đặt nặng yếu tố lợi ích, lợi nhuận.
Liên kết xã hội
Đa dạng
Nghề nghiệp có tính thuần nhất. Yếu tố tự cung tự cấp nguồn thực phẩm và trao đổi, mua bán đơn giản Tập thể, cộng đồng được xây dựng dựa trên những mối quan hệ truyền thống, qua thời gian dài; đặt nặng yếu tố tình cảm Thuần nhất về mặt nghề nghiệp, văn hóa
Thành phần dân cƣ
Được hình thành và vận hành theo truyền thống, khó thay đổi.
Khuôn mẫu văn hóa
Không có một khuôn mẫu cụ thể, tùy thuộc vào năng lực của từng cá nhân, gia đình, dễ dàng tiếp nhận những yếu tố mới theo những biến đổi của kinh tế, xã hội
Về nghề nghiệp: Cuộc sống của ngư dân vạn chài gắn liền với kinh tế khai
thác biển. Loại hình kinh tế này khá thuần nhất bởi ngư dân gắn chặt cuộc sống của
mình với môi trường tự nhiên. Trong khi đó, khu vực đô thị là biểu hiện của kinh tế
45
phi nông - ngư nghiệp: công nghiệp, dịch vụ, thương mại.
Về liên kết xã hội: Cuộc sống ở các làng chài coi trọng các mối liên kết tập
thể, cộng đồng, được xây dựng dựa trên những mối quan hệ truyền thống, gắn bó
bởi sự cộng cư lâu dài. Ở đó, yếu tố tình cảm chi phối các thành viên, nhóm dân cư
cũng như các mối liên kết giữa họ (gia đình, dòng học, cộng đồng xóm làng).
Ngược lại, đô thị là một biểu hiện của sự riêng tư, đời sống “cá nhân”, cái “tôi” của
mỗi người được thể hiện mạnh hơn. Các mối quan hệ, liên kết xã hội mới hình
thành, cũng như, yếu tố lợi ích thể hiện rõ.
Về thành phần dân cư: đô thị là nơi thu hút những nguồn lao động, dân cư từ
các khu vực nông thôn, hình thành một dạng xã hội quần tụ với đa dạng các thành
phần dân cư. Ngược lại, các làng chài ở Vịnh Hạ Long được hình thành dựa trên sự
gắn kết lâu dài, liên tục giữa các thành viên. Họ hình thành một khối thống nhất,
tương đối chặt chẽ, thành phần dân cư thuần nhất.
Về khuôn mẫu văn hóa: Có thể nói đô thị là một khu vực đa dạng về thành
phần dân cư, đến từ nhiều khu vực, vùng văn hóa khác nhau tạo nên một vùng dân
cư đa dạng văn hóa, trong đó có các mối liên kết xã hội mới hình thành, vì vậy ở
khu vực đô thị tồn tại nhiều khuôn mẫu văn hóa. Còn tại các làng chài, do quy định
bởi tính chất địa vực và yếu tố thuần nhất nghề nghiệp nên có sự thuần nhất về mặt
văn hóa.
Về không gian sống: đô thị là khu vực “đất chật người đông”, bởi vậy, không
gian sống của các gia đình (các ngôi nhà) được thiết kế theo dạng hình hộp (nhà
ống, nhà vuông) với diện tích nhỏ, hẹp. Không gian gia đình và không gian công
cộng đều nằm trong mặt bằng quy hoạch tổng thể chung của thành phố. Yếu tố tự
nhiên trong không gian sinh hoạt của con người không nhiều. Ở làng chài, không
gian sống gắn liền với tự nhiên, nương theo không gian tự nhiên để quần tụ thành
một nhóm, một chòm trong các vụng kín gió. Không gian sinh hoạt gắn liền với môi
trường sinh thái Vịnh Hạ Long.
Những phân tích trên cho thấy chính sách di dân và TĐC là một biến tác
động, tạo ra những thay đổi về môi trường sống, đưa đến những tương tác văn hóa
46
trong một bối cảnh mới của cộng đồng ngư dân vạn chài Hạ Long.
2.2. Những biến đổi văn hóa
Trong tiến trình lịch sử, phát triển là quy luật tất yếu của bất cứ xã hội nào.
Dù không đơn giản là một đường thẳng và có những yếu tố thụt lùi nhưng phát triển
luôn kéo theo những sự biến đổi mà trong đó có biến đổi văn hoá. Có thể nói, biến
đổi văn hóa là hằng số của bất kì nền văn hóa nào. Đây là một quá trình lâu dài, tất
yếu. Tuy nhiên, sự thay đổi môi trường sống một cách đột ngột trong quá trình di
dân và TĐC trong trường hợp ngư dân vạn chài Hạ Long chắc chắn sẽ dẫn đến sự
biến đổi rõ nét hơn trong đời sống văn hóa của cộng đồng, bởi họ buộc phải thích
ứng để tồn tại và phát triển đời sống văn hóa ở môi trường sống mới. Quá trình hình
thành và phát triển gắn liền với môi trường sinh thái vịnh Hạ Long đã quy định tính
chất văn hóa của cộng đồng ngư dân. Trong tiến trình lịch sử văn hóa của cộng
đồng này, dường như ít có những tác động từ bên ngoài vì tính cô lập do môi trường
sống tạo ra. Chính sách di dân với việc chuyển toàn bộ ngư dân lên bờ trước
30/6/2014 là một dấu mốc có tính lịch sử, đưa lịch sử cộng đồng nói chung, lịch sử
văn hóa của cộng đồng bước sang trang mới.
Để nhận diện những thay đổi này, chúng tôi quy về 3 phương diện để làm
công cụ phân tích. Sự phân chia như vậy chỉ mang tính chất tương đối bởi văn hóa
là một vấn đề phức tạp, đan xen, chồng chéo về tính chất, giá trị và bình diện ảnh
hưởng.
2.2.1. Những biến đổi văn hóa trên bình diện cộng đồng
Những thay đổi này thể hiện rõ qua việc biến đổi không gian sống, kiến trúc
nhà cửa, cơ cấu dân cư. Bên cạnh đó, một hệ quả của việc thay đổi này là sự mai
một của các loại hình nghệ thuật dân gian do bị tách khỏi môi trường sáng tạo của
chúng.
- Sự chuyển đổi không gian sống:
Trước TĐC, các làng chài Cửa Vạn, Vung Viêng, Hoa Cương, Ba Hang, Đầu
Bê, Cặp Dề và Cặp La là các làng nổi với những ngôi nhà bè được dựng trên các
phao, xốp nương vào các dãy núi trong các vụng nước nông kín gió hoặc các chòm
nhỏ. Mọi hoạt động của ngư dân các làng chài này đều diễn ra trên thuyền, trên bè.
Theo trí nhớ của các cụ cao niên, trước thế kỷ XX, ngư dân sinh sống hoàn toàn
trên thuyền. Trải qua thời gian, ngư dân dần tập trung đông đúc thành làng. Họ cho
47
xây dựng những ngôi nhà nổi tạm bằng gỗ, tre, lá rồi sau này họ đã thay bè mái lá,
vách gỗ bằng bè mái bằng, mái úp san sát nhau nhằm tránh bị xô dạt trong mưa bão
khi các ngôi nhà nổi được kèo cột vào nhau. Trong khoảng thời gian trước TĐC vài
năm, các bè hầu như đã được lợp mái tôn, bọc lưới cũ để chống gió. Những ngôi
nhà bè này bên trên là không gian sinh hoạt, bên dưới là các ô lưới quây để nuôi hải
sản. Không gian cư trú như đã phân tích là dựa vào tự nhiên, được bao bọc bởi biển
cả, vừa nương vào biển cả để khai thác nguồn lợi, vừa chống chọi lại những tác
động từ thiên nhiên. Không gian đó đã bao bọc những ngôi làng nổi, dung dưỡng
các giá trị văn hóa của cộng đồng. Có thể khẳng định, làng chài trước đây có các
khu vực cư trú, sản xuất gắn kết với nguồn tài nguyên xung quanh nhằm đảm bảo
cho sự sống của cộng đồng.
Trên đất liền, không gian sống được tổ chức khác biệt tuyệt đối giữa làng
chài trên biển và khu TĐC. Sự khác biệt tuyệt đối này được quy định bởi tính chất
đất liền và môi trường biển cùng sự hạn hẹp về không gian bố trí quy hoạch. Khu 8
phường Hà Phong hay còn gọi là khu TĐC Khe Cá trở thành một trong 10 khu phố
trực thuộc phường Hà Phong, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, cách UBND
phường Hà Phong 5km về phía Nam, cách trung tâm thành phố Hạ Long khoảng
15km. Khu được chia làm 6 tổ, cơ sở hạ tầng gồm có 364 căn hộ, nhà văn hóa và
khu công viên được xây dựng trên tổng diện tích gần 8ha. Các căn hộ này được xây với hình thức khép kín, có diện tích từ 78 - 128 m2/căn., bao gồm một bể nước ngầm, sân, cổng, hàng rào, 1 téc nước 1m3. Mỗi căn nhà đều được đánh số theo thứ
tự số nhà – số lô. Khu cũng có hệ thống đường giao thông, vỉa hè, cấp thoát nước,
điện, cây xanh công cộng... Những căn hộ này được cấp sổ đỏ và giao cho những hộ
gia đình đang sinh sống trên các làng chài. Như vậy, môi trường sống và kiểu tổ
chức không gian, cách thức quản lý ở khu TĐC khác biệt hoàn toàn so với các làng
chài dưới biển. Đã có một thuật ngữ mới để định danh cho sự thay đổi này: “Phố
làng chài”. Như vậy, cộng đồng ngư dân đã mất làng với kiểu tổ chức bị chi phối
mạnh mẽ bởi điều kiện tự nhiên và nổi bật là mối quan hệ dòng họ (sẽ được phân
tích sau), thay vào đó là khu TĐC với việc trộn lẫn ngư dân từ các làng khác nhau.
Và ẩn dưới bề mặt của không gian sống mới cùng kiểu tổ chức hành chính mới là
những sự vận động, thay đổi lối sống, các thực hành văn hóa dưới những tác động,
48
tiếp biến với tính đô thị và sự thích ứng của cộng đồng ngư dân.
- Thay đổi về kiến trúc và chức năng ngôi nhà:
Cùng với sự thay đổi về môi trường cư trú là sự thay đổi về loại hình nhà cư
trú. Từ kiểu nhà bè, thuyền sang kiểu nhà bê tông. Trước đây, dưới các làng chài,
do quy định của điều kiện tự nhiên mà ngư dân chỉ có thể làm nhà bè hoặc sử dụng
thuyền để ở. Lên khu TĐC, mỗi hộ không kể đông hay ít, thông qua quá trình xét
duyệt tiêu chuẩn và bốc thăm sẽ được nhân một ngôi nhà bê tông bao gồm 1 gian
nhà chính, một phòng bếp liền kề công trình phụ. Ngôi nhà này rỗng hoàn toàn bởi
chỉ bao gồm khung nhà, mái tôn, nền xi măng. Các hộ được nhận phải cải tạo tùy
theo khả năng tài chính và nhu cầu. Có hộ lát nền đá hoa, chia phòng hoặc làm gác
xép, có hộ giữ nguyên hiện trạng, đóng cửa đi làm biển.
Theo khảo sát, tại khu TĐC, số lượng hộ có 3 thế hệ trở lên sinh sống chiếm
khoảng trên 60%. Một số hộ đông người nhưng do các vấn đề về tiêu chí xét duyệt
hoặc con cái còn chung hộ khẩu với bố mẹ nên chỉ được giao một nhà. Sau một thời
gian sinh sống, có nhiều hộ không thích nghi được với không gian chật hẹp. Trước
đây khi ở dưới làng chài, con cái lớn được bố mẹ sắm thuyền hoặc tách hộ, dựng
nhà nhưng không tách hộ khẩu nhưng nhờ có không gian sống đảm bảo được khả
năng tải nên việc tách riêng không gặp trở ngại. Tuy nhiên, khu TĐC giới hạn về
không gian và số lượng nhà nên một số hộ cơi nới chia phòng, một số chấp nhận
sống trong không gian chật hẹp nhưng hiện tại, phần lớn các hộ di chuyển xuống
thuyền để tiếp tục nghề đánh bắt hải sản.
Bảng 2: So sánh không gian sống của ngƣ dân vạn chài Hạ Long
Tiêu chí Làng
Quy hoạch Phân bố
Trên khu TĐC Có Xếp dãy thành các lô, có đánh số nhà theo thứ tự trong một diện tích quy hoạch nhất định Nhà ống 78 - 128 m2/căn
Nhà ở
Kiểu dáng
Gạch, mái tôn, sắt, thép
Vật liệu
Khép kín, tự hoại
Nhà bếp, nhà vệ sinh Đánh giá
Tính chất
Trƣớc TĐC Không Dựa theo dãy núi, xếp sát, kèo cột vào nhau trong các vụng nước nông, kín gió Nhà nổi/ thuyền với không gian buồng ở khoảng 5-7m2 Thùng phuy, phao xốp, gỗ, mái tôn Phía sau nhà bè, ở khoang đằng lái trên thuyền/ xả thẳng xuống biển Thích ứng với môi trường vịnh Hạ Long Người dân chủ động, tự chọn nơi làm nhà
Phƣơng thức
Đơn giản đáp ứng nhu cầu ở trên đất liền Người dân bị động. Thiết kế, quy hoạch đều theo chính sách của chính quyền
49
- Thay đổi cơ cấu dân cƣ:
Trước đây, cộng đồng ngư dân vạn chài về cơ bản thuần nhất về hoạt động
kinh tế, môi trường sống và cùng chia sẻ các tín ngưỡng, phong tục tập quán. Điều
này được quy định bởi tính chất biệt lập của không gian sống cùng với nghề nghiệp
quy định. Hiện nay, tại khu TĐC, cư dân không còn thuần nhất do một số ngư dân
chuyển đổi nghề, không còn làm nghề chài lưới. Cùng với đó là sự xuất hiện của
người ngoài cộng đồng đến thuê nhà, thậm chí mua nhà TĐC. Những người ngoài
cộng đồng đến đây đã làm thay đổi cơ cấu dân cư. Theo khảo sát, thời gian đầu có
nhiều người xuống khu TĐC thuê nhà, thậm chí mua bán lại nhà TĐC do ngư dân
vì nợ nần mà cầm cố. Các con số thống kê chính thức chưa có bởi địa phương
không nắm được nhưng theo phản ánh trên báo chí, đã có tình trạng người ngoài
cộng đồng mua được nhà tại “Phố làng chài” thông qua giấy ủy quyền. Một số hộ
do quay trở lại biển khai thác thủy sản nên cho họ hàng hoặc người ngoài thuê lại.
Bên cạnh đó, ngư dân vạn chài Hạ Long cũng thường xuyên tương tác với những
người ở khu khác đến.
Ngoài thay đổi cơ cấu dân cư về mặt người ngoài và trong cộng đồng, các hộ
ngư dân cũng dần thay đổi mình bằng chuyển đổi nghề/ thay đổi chiến lược sinh kế.
Sinh kế cũng là một thành tố của văn hóa hiểu theo nghĩa : “Văn hóa còn chính là
sự ứng xử của con người với thiên nhiên, con người với con người và với cộng
đồng rộng lớn. Văn hóa là phương thức con người thể hiện những tri thức bản địa
đã được đúc kết qua nhiều thế hệ, và những phương thức sinh kế để con người tồn
tại và phát triển” [36, tr.12]. Việc thay đổi phương thức, hoạt động sinh kế cũng sẽ
dẫn tới những thay đổi về văn hóa bởi thay đổi sinh kế thường là thay đổi một nếp
sống, tâm tư, các tính toán, lo toan; thay đổi hiện trạng kinh tế của cá thể, gia đình
hoặc cộng đồng.
Đối với ngư dân vạn chài Hạ Long, tác động của chính sách di dời nhà bè và
tái định cư là một biến tác động, là một nhân tố thúc đẩy những thay đổi về hoạt
động sinh kế của cộng đồng. Trong đó nổi bật nhất là sự thay đổi trong hoạt động
khai thác và nuôi trồng thủy hải sản truyền thống và sự xuất hiện các hộ làm buôn
50
bán, dịch vụ.
Trước hết là sự thay đổi trong hoạt động khai thác và nuôi trồng thủy hải sản.
Hoạt động này đã bị hạn chế trong thời gian đầu ngư dân chuyển lên khu TĐC.
Những háo hức, niềm tin vào cuộc sống và những công việc mới trên bờ cùng một
số tiền hỗ trợ của chính quyền đã khiến một bộ phận ngư dân trở nên lười biếng, ỉ
lại, nhất là nhóm thanh niên. Do đó, hoạt động đi biển ngừng trệ, ngư dân tham gia
các phiên chợ việc làm, các lớp học nghề nhưng cuối cùng, con số chuyển đổi nghề
rất thấp. Hoạt động nuôi trồng thủy hải sản của các hộ ngư dân cũng bị ngưng lại do
chính sách di dời nhà bè của chính quyền. Với một thời hạn được đặt ra, nếu hộ nào
vi phạm không di dời sẽ bị tước tiêu chuẩn nhận nhà TĐC và bị phạt một số tiền
nhất định nên đã có trường hợp các hộ có lồng, bè nuôi hải sản nhưng chưa đến mùa
thu hoạch đã phải chấp nhận bán sớm, bán lỗ để di dời. Trong thời gian đầu khi lên
khu TĐC, các hộ ngư dân chủ yếu chờ đợi vào chính sách chuyển đổi nghề của
chính quyền nên hoạt động kinh tế truyền thống đã chững lại, ảnh hưởng nghiêm
trọng tới nguồn thu nhập của ngư dân. Cuộc sống trên khu TĐC từ những háo hức,
hồ hởi chuyển sang lo lắng bởi định cư trên bờ lại thành“tách cá khỏi nước”, ngư
dân không biết làm gì để duy trì sinh hoạt trên khu TĐC. Có ngôi nhà vững chắc,
kiên cố, có các dịch vụ công cơ bản nhưng mọi thứ đều cần dùng tiền để chi trả mà
nghề không có hoặc không phù hợp. Điều này tạo ra xu hướng quay trở lại với nghề
khai thác và nuôi trồng thủy hải sản truyền thống. Xu hướng này rất rõ rệt trong thời
gian gần đây do sự bấp bênh của chuyển đổi nghề và sự không thích ứng được của
người dân với sinh hoạt trên bờ. Trong hai năm, cá nhân mỗi ngư dân dường như
phải tự lo vấn đề mưu sinh. Dù có những hỗ trợ từ chính sách nhưng về cơ bản, các
chính sách chuyển đổi nghề không phù hợp đã không giúp ích được nhiều cho ngư
dân trong đảm bảo cuộc sống.
Bên cạnh những thay đổi trong hoạt động kinh tế truyền thống, trên khu TĐC
đã xuất hiện của các loại hình dịch vụ, từ bán tạp hóa đến quán cafe, quán bia...
Những mặt hàng này chủ yếu là nhu yếu phẩm hàng ngày. Số hộ và các loại hình
dịch vụ tăng trong 2 năm gần đây. Theo đó, khoảng vài tháng sau khi lên bờ mới
thấy xuất hiện một vài hộ buôn bán tạp hóa. Cho tới thời điểm khảo sát (7/2016), đã
có trên 40 hộ tự tạo việc làm tại nhà thông qua các hình thức buôn bán tạp hóa,
51
hàng nước, cafe, bia hơi, karaoke, sửa chữa xe máy... Theo lời kể của ngư dân, khi
mới lên khu TĐC, các hộ trên bờ còn mang xuống đây các hình thức cờ bạc như
máy bắn cá, máy đánh xu, xèng... Các loại hình kinh doanh này cùng với hoạt động
cầm đồ, cho vay nặng lãi đã khiến nhiều hộ cư dân trở nên khánh kiệt. Trước đây,
ngư dân không có những hình thức kinh doanh này do đặc thù của đời sống bám
biển.
Hiện tại, trên địa bàn khu TĐC không có chợ nhưng đã xuất hiện chợ tạm
với các mặt hàng thiết yếu như quần áo, thực phẩm. Chợ tạm này xuất hiện góp
phần giải quyết nhu cầu đồ dùng sinh hoạt hàng ngày cho ngư dân bởi khu chợ gần
nhất cũng cách khu TĐC hơn 4km. Trong khi đó, trong thời gian mới lên bờ, hầu
hết ngư dân không biết đi xe máy, xe đạp. Do vậy, vài hộ gia đình đã nhạy bén
trong việc kinh doanh, có các điều kiện về vốn và phương tiện đi lại đã trở thành
những tiểu thương, lấy công nhập hàng và đi lại làm lãi. Hiệu quả kinh tế trên thực
tế cũng không cao, chỉ đủ đảm bảo mức sinh hoạt bình thường trên khu TĐC.
Cho tới thời điểm khảo sát, có thể thấy rằng, tuy đã chuyển lên khu TĐC để
sinh sống nhưng hầu hết ngư dân vẫn phải dựa vào nguồn lợi từ biển khi đa số đàn
ông và con trai lớn trong gia đình phải quay trở lại biển để thực hành sinh kế truyền
thống. Có nhiều hộ đóng cửa im ỉm, cả khu phố vắng vẻ bởi cả nhà đã xuống
thuyền để đánh bắt hải sản. Hoạt động sinh kế truyền thống thực tế vẫn giữ vai trò
chủ đạo. Có một số ít người thông qua các hội chợ việc làm được nhận làm công
nhân tại khu công nghiệp Cái Lân hoặc chuyển sang làm nghề rửa than ở khu vực
mỏ than Núi Béo, Hà Tu hay công trường Tân Lập với thu nhập khoảng 3 triệu
đồng/ tháng.Một số phụ nữ tham gia vào hợp tác xã chèo đò với công việc chủ yếu
là chèo đò phục vụ khách du lịch, đưa khách du lịch tham quan các điểm nhỏ trên
Vịnh Hạ Long hay tham quan xung quanh các làng chài, thu nhập trung bình 2,5-3
triệu đồng/tháng, tùy từng mùa du lịch. Một số khác thì làm nghề rán chả mực tại
chợ Hạ Long hoặc mở quán nước, bán lương thực, thực phẩm tại nhà. Vì chưa có
chợ nên họ thường bán hàng tại vỉa hè phía trước cửa của chính gia đình mình.
Ngoài ra, BQL Vịnh Hạ Long cũng nhận một số thanh niên là con em của các hộ
ngư dân vào làm một số công việc như thành viên của đội tuần tra xử lý vi phạm,
làm hướng dẫn viên du lịch và nghệ sỹ biểu diễn nghệ thuật hát chèo đường, hát
52
cưới tại Trung tâm Văn hóa nổi Cửa Vạn.
Như vậy, về mặt kinh tế, đã thấy xuất hiện những nhóm thực hiện các công
việc khác nhau. Điều này cũng làm mất đi tính thuần nhất về hoạt động kinh tế so
với trước đây. Bên cạnh đó, có nhiều mối quan hệ mới được thiết lập: quan hệ láng
giềng, quan hệ chủ nợ - con nợ (có 1 hộ cho vay nặng lãi ở khu TĐC).
Do đó, đây không còn là một cộng đồng thuần nhất về yếu tố kinh tế nữa.
Theo các tác giả Tô Duy Hợp và Lương Hồng Quang trong cuốn “Phát triển cộng
đồng: Lý thuyết và vận dụng” (2000), thì yếu tố kinh tế (nghề nghiệp) không chỉ
đơn thuần là các hoạt động kinh tế mà nó còn là yếu tố quan trọng về mặt vật chất
để duy trì sự tồn tài của cộng đồng. Cũng theo các tác giả thì: “Nghề nghiệp không
phải là toàn bộ kinh tế nhưng trong mối quan hệ với việc tạo nên sự cố kết cộng
đồng, chúng có một vai trò rất quan trọng. Các cộng đồng nông thôn với một vài
nghề chính, thậm chí có nơi chỉ có thuần một nghề thì việc có cùng một nghề hay
vài nghề trong một cộng đồng là một yếu tố tương đồng về địa vị kinh tế, sở hữu,
cách thức làm ăn. Cùng chung một thị trường nguyên vật liệu, sản phẩm tiêu
thụ...cũng là những dấu hiệu chung. Rồi yếu tố cùng chung thờ một tổ nghề đã đem
cho họ một lớp vỏ cố kết tinh thần, cho dù các yếu tố có tính vật chất kia cũng đã
đem lại cho họ sự chia sẻ chung” [23, tr.29].
Với cộng đồng ngư dân vạn chài Hạ Long, do nghề nghiệp thuần nhất, các
nhóm nghề khác nhau không nhiều, chủ yếu là làm thêm dịch vụ chở đò nên không
có các nhóm văn hóa được hình thành dựa trên cơ sở nghề nghiệp khác nhau. Cho
nên có thể coi đây là một cộng đồng thuần nhất về mặt kinh tế và văn hóa. Các lợi
ích kinh tế được gắn chặt trong một hệ thống sản xuất ngư nghiệp vốn phụ thuộc
nhau vào sức lao động (chủ yếu có sự phụ thuộc với những người cùng dòng họ), về
các nguyên tắc chia sẻ ngư trường, tương hỗ nhau trong lao động sản xuất, về các
thực hành tín ngưỡng chung đối với sự an nguy của bản thân và cộng đồng... Đây
là một yếu tố giúp cố kết cộng đồng, tạo ra tính tương đồng về mặt văn hóa. Hiện
nay, về cơ bản cộng đồng ngư dân vạn chài Hạ Long không còn thuần nhất về nghề
nghiệp. Đã có những nhóm nghề khác nhau như làm dịch vụ, làm công nhân. Do
đó, về mặt văn hóa, chắc chắn đã có sự thay đổi trong lối sống, suy nghĩ và thực
hành của các nhóm. Tuy nhiên, để đo lường sự thay đổi này cần có những phương
53
pháp và điều tra định lượng cụ thể.
- Sự mai một nghệ thuật dân gian:
Hát đúm, hát chèo đường và hát cưới là các loại hình nghệ thuật dân gian nổi
tiếng của ngư dân vạn chài Hạ Long, được quảng bá rộng rãi do nhu cầu phát triển
- Hát đúm: Hay còn gọi là hát trai gái (giai gái), hát giao duyên. Lối hát này
du lịch.
thường là phương tiện để thể hiện tình yêu lứa đôi với lời ca lấy từ các câu ca dao
thể lục bát. Loại hình này có thể được thể hiện tại các không gian và thời gian khác
nhau như như lúc buông neo nghỉ ngơi đợi nước hay lễ tết, hội hè. Thường là những
dịp nam nữ thanh niên hát tìm bạn. Nội dung hát đúm thường là những lời miêu tả
tình yêu nam nữ, ca ngợi vẻ đẹp quê hương đất nước. Đây là cơ hội, là phương tiện
để nam nữ tìm hiểu, gắn bó tình cảm. Đó là khoảnh khắc thơ mộng khó quên có tính
chất truyền đời trong cuộc sống mưu sinh của cư dân vạn chài Hạ Long.
- Hát chèo đường (hay hát ví, hát véo, hát gái, hát đố giảng, có khi gọi chung
là hò biển): Trước khung cảnh hùng vĩ của thiên nhiên và sự cô lập của ngư dân,
mỗi gia đình trên mỗi con thuyền có nhu cầu giao lưu kết bạn khi nghỉ ngơi hay
đang di chuyển. Do đó, xuất hiện loại hình hát chèo đường. Đây là những lời hát
được sáng tạo cho bối cảnh giao lưu kết bạn. Nhiều đôi trai gái đã quen nhau và nên
duyên thông qua lối hát đối đáp này. Hát chèo đường diễn ra theo lối đối đáp với
giai điệu mềm mại, trữ tình sâu lắng, thường được mở đầu bằng câu “ơ hò” như một
“Ơ ...hò!
Trên mây sa, dưới hòn Gà Chọi Anh hát câu này anh gọi mình ra Những lời mình
hát đêm qua
Đêm nay anh hát ra mau hát cùng....”
tín hiệu để mở đầu.
Lời của điệu hát chèo đường còn là những câu đố về các loài cá, về hoa,
thiên nhiên cho đến nghề làm ruộng, đóng thuyền... , là lời đối đáp thử tài giữa đôi
bên.
Hỏi: Chàng là trai giữa bể khơi
Cá đâu chàng kể mấy lời cho hay
54
Cá gì mà lại biết bay?
Cá gì phun nước lên mây hỡi chàng?....
Đáp: Anh là trai giữa bể khơi
Lặng nghe anh kể mấy lời nàng hay
Cá chuồn mà lại biết bay
Cá ông phun nước lên mây hỡi nàng...
- Hát cưới trên thuyền: là hát đối đáp trong hội cưới, thường được diễn ra
vào thời điểm từ khi nhà trai đến đón dâu cho tới khi đón được dâu về. Nội dung
các lời hát chủ yếu là chúc mừng đôi vợ chồng trẻ, đồng thời cũng là cơ hội giao
lưu kết bạn của đôi bên.
Các loại hình nghệ thuật trên đây hiện nay không còn được duy trì thường
xuyên. Việc tách ngư dân ra khỏi môi trường sống quen thuộc đem lại những thách
thức trong bảo tồn các di sản này. Chỉ còn một nhóm người cao tuổi còn thực hành
bằng việc tập hợp nhau vào cuối tuần hoặc các dịp biểu diễn văn nghệ để tập luyện
và hát những giai điệu này. Có 12 nam nữ thanh niên là con em ngư dân vạn chài đã
được truyền dạy để trở thành lớp kế cận nắm giữ khả năng ghi nhớ lời và giai điệu.
Tuy nhiên, đây là một công việc còn gặp nhiều thách thức bởi họ chỉ học lời, giai
điệu để biểu diễn theo xu hướng “sân khấu hóa” chứ không còn thực hành trong đời
sống hàng ngày. Một khi môi trường sống thay đổi, các biểu hiện của văn hóa liên
quan tới môi trường ấy không được thực hành tất yếu sẽ dẫn đến nguy cơ mai một.
Theo bà Nguyễn Thị Đức – người thuộc nhiều làn điệu hát giao duyên Hạ Long,
trước đây, ngư dân có hay thực hành loại hình văn hóa này, thời gian gần đây, khi
còn ở dưới biển, vào các dịp cưới hỏi, lễ tết hay tổ chức, phát động phong trào văn
nghệ tại các làng chài, ngư dân còn tham gia hát cưới, hát chèo đường. Những
người trẻ còn thuộc lời hát đúm để đối đáp nhau. Khi lên trên bờ, hầu như không ai
còn thực hành nữa. Các đám cưới diễn ra trên khu TĐC trở nên giống với những
đám cưới trên bờ khi thuê phông bạt, giàn nhạc chứ không còn được tổ chức như
khi còn ở dưới làng. Đây là một thách thức rất lớn trong việc bảo tồn các loại hình
Hiện tại thì đã lập nhóm là con em làng chài học và biểu diễn
các loại hình nghệ thuật như hát chèo đường, hát cưới... để phục vụ du
55
nghệ thuật dân gian này của ngư dân vạn chài Hạ Long.
khách tại Trung tâm văn hóa nổi Cửa Vạn. Về cơ bản, chưa có cơ chế,
chính sách để người dân chài tham gia bảo tồn và phát huy giá trị di
sản của mình. Ngay việc Sở có lập hồ sơ công nhận nghệ nhân ưu tú
nhưng thành phố Hạ Long không công nhận nên cũng chưa có sự hỗ
trợ nào cho những nghệ nhân của cộng đồng dân chài. Chỉ có Hội Văn
nghệ dân gian Quảng Ninh đã lập một số hồ sơ công nhận nghệ nhân
dân gian và có vài người được công nhận nhưng đây chỉ là ghi nhận
của một hội mà thôi. Nên chưa có hỗ trợ gì cho cộng đồng trong bảo
tồn và phát huy giá trị di sản.
Tuy nhiên, lớp được trao truyền là con em làng chài vẫn giữ
được những tục hát để phục vụ khách du lịch nhưng là hướng “sân
khấu hóa” vì giờ nó không còn gắn với cuộc sống lao động trên Vịnh
nữa.
Nguồn: Phỏng vấn ông Nguyễn Trung Hà, Trưởng phòng Quản lý di sản, Sở
VHTTDL Quảng Ninh, ngày 20/4/2016
2.2.2. Những biến đổi văn hóa trên bình diện gia đình, dòng họ
- Thay đổi trong quan hệ cƣ trú:
Đối với ngư dân vạn chài Hạ Long, quan hệ gia đình, dòng họ đóng một vai
trò trọng yếu trong hoạt động đi biển. Mối quan hệ láng giềng là mối quan hệ thứ
yếu, thường không bền chặt do sự thay đổi vụng, chòm thường xuyên của các nhóm
ngư dân.
Ở các làng chài Hạ Long, gia đình là đơn vị xã hội cơ bản và chủ yếu là gia
đình hạt nhân. Mỗi gia đình này sinh sống trên một chiếc thuyền/ nhà bè qua các thế
hệ. Thuyền vừa là công cụ sản xuất, vừa là nhà ở. Nếu gia đình có 3 thế hệ, có
người già yếu thì phải sắm thêm thuyền để người già và trẻ em ở. Còn chiếc thuyền
lớn là công cụ đánh bắt nên chuyên dành cho việc đi đánh cá hàng ngày. Khi con
trai lớn lấy vợ, ngư dân tiến hành tách hộ bằng việc sắm thêm thuyền mới cho gia
đình của con trai. Gia đình đó lại được tách ra với vai trò là một gia đình hạt nhân.
Những gia đình hạt nhân đó liên kết lại với nhau trên quan hệ huyết hống/
dòng họ. Các dòng họ này gồm một số họ nổi bật như Phạm, Đinh, Nguyễn, Dương,
56
Vũ, Lê... Trong đó, họ Nguyễn và họ Phạm là phổ biến nhất. Do tính chất nguy
hiểm của công việc đi biển và tính bí mật trong khai thác ngư trường để đảm bảo
nguồn lợi hải sản thu hoạch, các gia đình trong một dòng họ thường tập trung đi
biển cùng nhau, nhằm hỗ trợ lẫn nhau trong công việc chài lưới, vừa cứu giúp nhau
khi gặp hoạn nạn và san sẻ nguồn lợi. Ngay cả trong cư ngụ, những gia đình trong
một dòng họ cũng quây quần bên nhau, cùng neo thuyền, nghỉ ngơi, trao đổi kinh
nghiệm về nhận biết ngư trường, luồng cá... Tinh thần cộng đồng huyết thống này
được thể hiện rõ nét khi ngư dân vạn chài Hạ Long còn sinh sống dưới biển. Ngoài
ra, những gia đình ngư dân trong một dòng họ còn gắn bó với nhau thông qua một
miếu thờ ông tổ và thờ thần biển chung của họ. Cả họ phải sửa lễ cầu khẩn vào
những ngày sóc, vọng theo quy định. Những người thuộc họ khác cũng có thể đến
đây lễ nhờ. Trong mỗi họ thường có một người hoặc vài người làm nghề thầy cúng
để giúp các gia đình trong họ thực hiện các nghi lễ cần thiết như tế tổ, cúng giải
hạn, cúng chuộc hồn cho người chết non, các nghi lễ trong cưới xin, tang ma...
Do quy định của môi trường sống mà các dòng họ này không có nhà thở tổ,
cũng không có những ghi chép về gia phả dòng họ. Ngư dân chỉ nhớ đến khoảng 5
đời gần nhất và cũng thường không nhớ được ngày mất để tiến hành cúng giỗ. Do
đó, việc giỗ sẽ được tiến hành vào cuối năm hoặc ngày tết. Điểm thờ chung thường
là một chiếc thuyền lớn hoặc nhà bè. Có thể coi đó như nhà thờ tổ và khi di chuyển
đến vùng biển khác để khai thác kinh tế, ngư dân sẽ mang bát hương ở miếu thờ đó
đến vùng biển mới để tiếp tục việc thờ cùng.
Khi di chuyển để tìm ngư trường mới vì các lý do tín ngưỡng hoặc khai thác
cạn kiệt, các gia đình trong một họ cũng thường đi cùng nhau. Do được quy định
bởi lối sống bám biển, nên ngư dân không quá đề cao việc sở hữu không gian cư
trú. Bởi chỗ ở của gia đình ngày hôm nay, ngày mai có thể thuộc về gia đinh khác.
Do đó, nếu có những bất đồng, mâu thuẫn giữa những gia đình ngư dân thì họ chỉ
cần nhổ neo, đưa thuyền đi nơi khác và có thể không bao giờ gặp lại nhau. Điều này
trái ngược với cư dân trên đất liền. Cư dân trên đất liền khi xảy ra xích mích, bất
đồng thì người ta thường nhường nhịn nhau, tránh xô xát để giữ quan hệ láng giềng.
Trong mối quan hệ với những người ngoài dòng họ, ngư dân cũng có những nguyên
57
tắc nhất định trong quá trình khai thác để tránh những xung đột.
Khi sinh sống trên khu TĐC, do việc bắt thăm nhà ngẫu nhiên, các gia đình
ngư dân không còn được cư trú theo kiểu truyền thống. Nếu trước đây, ngư dân sinh
sống trong các chòm, vụng với tập hợp các gia đình trong cùng một dòng họ thì
hiện nay, thay vào đó là lối cư trú quan hệ láng giềng. Các hộ dân trên khu TĐC
nằm sát kề nhau, tạo điều kiện cho những mối tương tác mới. Từ những người chủ
yếu quan tâm đến các tương tác trong dòng họ, ngư dân trên khu TĐC có cơ hội gặp
gỡ, làm quen, trao đổi với những người láng giềng, thậm chí là những người từ các
làng chài khác nhau trên Vịnh Hạ Long. Tuy nhiên, ngư dân vẫn thường giới hạn sự
mở rộng quan hệ láng giềng của mình. Họ chủ yếu quen biết những người gần nhà,
trong cùng lô, cùng tổ. Một phần do quy định bởi tính cách, thói quen sinh hoạt
trong cùng dòng họ, mặt khác, các gia đình ngư dân ở khu TĐC quay trở biển làm
việc, rất ít khi về nhà trên đất liền.
Như vậy, tuy đã di chuyển lên bờ nhưng do xu hướng quay trở lại nghề
truyền thống, các mối quen hệ gia đình, dòng họ của ngư dân vạn chài Hạ Long vẫn
không khác hơn nhiều. Các nguyên tắc về khai thác ngư trường, neo đậu, nguyên
tắc sau – trước trong khi thả lưới... vẫn được ngư dân duy trì. Ngư dân trên khu
TĐC dần hình thành những mối tương tác mới trong quan hệ láng giềng dù họ chưa
thực sự mở rộng mối quan hệ này.
- Biến đổi các nghi lễ tại gia đình:
Trong quá trình khảo sát, luận văn giới hạn mô tả những thay đổi này trên
hai phương diện: Cưới hỏi và tang ma. Bởi về cơ bản, những nghi lễ thực hiện tại
gia đình liên quan tới nghề nghiệp ngư dân vẫn thực hành phổ biến, hơn nữa lại
được cố kết do xu hướng quay trở lại với nghề truyền thống. Mặt khác, trong các
nghi lễ vòng đời của con người, cưới và tang là hai nghi thức quan trọng đánh dấu
những bước chuyển của cá nhân từ tình trạng này sang tình trạng khác, từ vai trò,
địa vị này sang vai trò, địa vị khác nên được các cộng đồng coi trọng. Điều này
được phản ánh rõ nét qua các nghi lễ và cách thức tổ chức. Đối với cộng đồng ngư
dân vạn chài Hạ Long, các phong tục trong hôn nhân, tang ma trước đây bị quy định
bởi môi trường tự nhiên về điều kiện tổ chức nên khi di chuyển lên khu TĐC, họ
58
buộc phải thay đổi các thực hành để thích ứng với môi trường mới.
Trong hôn nhân và lễ cưới, về cơ bản các nghi lễ cũng giống như lễ cưới ở
trên bờ với các thủ tục dạm ngõ, ăn hỏi, dẫn cưới. Đối với ngư dân, người mai mối
được gọi là “Bồ đa”, là một người đã có gia đình, đủ con cháu, kinh tế khá giả, sống
hạnh phúc, có tài ăn nói và am hiểu phong tục tập quán để có thể thưa chuyện đôi
bên.
Điểm khác biệt trong lễ cưới hỏi là các nghi thức được tiến hành trên thuyền
- bè. Cách thức và thời tổ chức cũng được quy định chặt chẽ trong mối tương quan
với điều kiện tự nhiên. Trước đây, đám cưới dân chài thường được tổ chức vào các
đêm trăng rằm, cá ăn tãi, đánh lưới không được. Đây cũng là khoảng thời gian có
trăng tròn, sáng nên mặt nước trên Vịnh trở nên lung linh hơn. Khung cảnh thiên
nhiên tạo điều kiện cho những đám cưới của ngư dân vạn chài được diễn ra thuận
lợi.
Về cách thức tổ chức, khi dạm hỏi hoặc sang rước dâu, nhà trai hẹn nhà gái
tại địa điểm thuận lợi, thường là những vụng nước nông, kín gió, đủ chỗ đậu hàng
chục chiếc thuyền (khi ăn hỏi nhà trai thường đi 1- 2 thuyền, khi đón dâu đi từ 5 - 7
thuyền; họ hàng nhà gái cũng tập trung đến đó để giúp việc cho gia đình đương sự
và tiếp đón họ nhà trai). Do vậy trong đám cưới có khi tới 30 - 40 thuyền của hai họ
đỗ tại một chỗ. Khi hai họ gặp nhau, các thuyền được sắp xếp theo hình bán nguyệt
hoặc hàng ngang để tiện qua lại, sắp đặt mâm cỗ. Với cư dân trên bờ, khi cưới nhau,
trai gái bắt buộc phải có phòng/nhà riêng thì những cặp vợ chồng mới cưới dưới
làng chài buộc phải có thuyền riêng. Thường thì bố mẹ đã tích lũy công của để sắm
thuyền mới và tách hộ. Đôi vợ chồng ra ở riêng sẽ được cung cấp một số vốn và
công cụ lao động để làm ăn, đóng vai trò như một gia đình hạt nhân trên biển.
Trong lễ cưới của ngư dân vạn chài Hạ Long, có một điểm nhấn quan trọng
là tục hát cưới. Diễn trình của loại hình nghệ thuật này thường trải qua ba giai đoạn,
ba thử thách mà nhà gái đặt ra cho nhà trai được biểu tượng qua ba giải lụa theo thứ
Diễn trình của hát đám cưới thường trải qua ba giai đoạn. Trên thuyền
của nhà gái có chăng ba dải lụa, mỗi dải tượng trưng cho một ngõ và
một lần hát đối đáp. Nhà gái ra vế đối, nếu nhà trai đối đáp được thì
dải lụa ứng với các ngõ được mở ra, nhà trai sẽ được đón dâu về.
59
tự: Dải lụa màu xanh, dải lụa màu vàng, dải lụa màu đỏ.
Dải lụa màu xanh tượng trưng cho ngõ khách: Đây là những câu hát
mở đầu, dạo chào nhau giữa hai họ để bắt đầu phần hát trong đám
cưới.
Dải lụa màu vàng tượng trưng cho ngõ cheo: Sau khi nhà trai cởi được
ngõ khách, nhà gái hát mời trầu, mời nước các vị cao tuổi họ nhà trai,
còn các vị trung niên vẫn phải mở ngõ treo. Đây là lời hát ý nhị nói
lên mong muốn được đón dâu của nhà trai và cũng là dịp để nhà gái
thể hiện vị thế của mình, thách thức sự kiên nhẫn, quyết tâm của nhà
trai.
Dải lụa màu đỏ tượng trưng cho ngõ hoa: Thử thách cuối cùng mà nhà
trai phải vượt qua để có thể đón được dâu về và cũng diễn ra lâu nhất,
là dịp để hai bên thể hiện được tài năng của mình. Trong ngõ hoa
thường có những bài hát đố, giảng về các loài hoa, loài cá, thuyền,
kiến thức địa lý, lịch sử. Trường hợp nhà trai không hát được, có khi
phải mời thầy về hát. Cuối cùng là hát than hoa, lời báo hiếu của cô
dâu tạ ơn bậc sinh thành ra mình trước khi bước sang thuyền nhà trai
về gành vác việc nhà chồng.
“...Chiếu hoa chậu nước anh ơi
Rửa chân cho sạch ngồi vào chiếu hoa...”
Nguồn: Trần Thu Thảo, Làng chài Cửa Vạn, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, Luận văn Thạc sỹ ngành Lịch sử Việt Nam, Đại học Thái Nguyên, tr.63
Hát cưới gắn liền với môi trường biển, với hình ảnh những đám rước dâu
bằng thuyền. Hiện nay, theo mô tả của ngư dân, đám cưới trên khu TĐC không còn
giữ được những nét riêng. Họ cũng thuê phông bạt, cách thức tổ chức, mâm cỗ
giống như người dân trên đất liền. Theo trí nhớ của trưởng khu Nguyễn Văn Hải,
trong khoảng 2 năm đã có khoảng trên 15 đám cưới được tổ chức tại khu TĐC.
Những đám cưới này không còn mang đặc trưng của đám cưới làng chài khi du
nhập cách thức tổ chức của người dân trên bờ với việc dựng bạt, thuê dịch vụ nấu
nướng. Tục hát cưới cũng không còn được thực hành. Cặp vợ chồng mới cưới cũng
không được tách hộ mà phải sống chung với gia đình trong cùng một ngôi nhà.
60
Điều này được quy định bởi tính chất của môi trường sống mới. Bên cạnh đó là sự
du nhập những thực hành văn hóa trên đất liền. Không còn không gian cho việc tổ
chức đám cưới như khi còn dưới các làng chài nên các thực hành văn hóa buộc phải
thay đổi để thích ứng.
Đối với các nghi thức trong tang ma, khi còn ở dưới các làng chài, việc tổ
chức tang lễ cũng tuân theo các bước tuần tự như những người Việt ở trên bờ. Ngư
dân cũng cũng thực hiện tuần tự các nghi lễ từ che mặt người chết đến cúng ba
ngày, cúng đầu tuần, cúng 49 ngày, cúng 100 ngày. Trong những ngày này, họ
thường mượn các thầy về để cúng, nếu chết do ngã sông thì phải bắc cầu cho linh
hồn người chết nhập vào xác. Vì bị quy định bởi điều kiện tự nhiên nên trong công
việc tổ chức có một vài nét khác biệt.
Khi trong chòm, vạn có người qua đời thì tang chủ huy động thuyền của anh
em họ hàng, có thể của cả những bạn chài để ghép lại với nhau rồi dùng buồm và
cột buồm để dựng rạp. Điều này thể hiện tính tương trợ, gắn kết của ngư dân thông
qua mối quan hệ họ hàng. Thường thì cưới xin, tang ma cũng là dịp để những người
trong họ tụ hợp lại với nhau, cùng nhau giải quyết vấn đề chung. Những thuyền ở
xa cũng sẽ phải quay về trong dịp này.
Trong tang lễ của ngư dân, có một thầy cúng làm lễ “phá cong” để xua đuổi
tà ma, không cho quấy nhiễu linh hồn người chết. Bởi không có nghĩa địa, lại chịu
chi phối của tự nhiên, ngư dân vạn chài thường phải tìm những chỗ an táng tại các
hốc đá kín ở trên núi cao (các gia đình có điều kiện thường gia cố lại bằng xi măng)
hoặc những bãi cát mà thủy triều không vươn tới được.
Tang lễ cũng được tổ chức nhanh gọn, bởi linh cữu để lâu sẽ ảnh hưởng đến
sinh hoạt của các thuyền khác ngư dân vạn chài không lưu linh cứu quá 24h.
Trên khu TĐC, theo thống kê, trong hơn 2 năm đã có khoảng trên 20 người
qua đời. Con số tử vong do tại nạn giao thông 7 người; số còn lại (độ tuổi từ 60 đến
80) chủ yếu với lý do tuổi già và chưa thích nghi được với môi trường sống mới. Ở
dưới làng chài, khí hậu mát mẻ, người già đột ngột chuyển lên bờ không quen với
thời tiết nắng nóng trong những ngày hè. Từ đầu năm 2016 đến thời điểm khảo sát
là tháng 7/2016 có 4 trường hợp (có 2 người già, 2 trẻ - 1 người trong số người trẻ
61
mất do tai nạn). Các đám tang này, về trình tự các nghi lễ thì không khác, chỉ khác
thông qua cách thức tổ chức và địa điểm an táng. Người mất không phải chôn tại
các núi đá, đảo hoang mà được đưa tới nghĩa trang và có trường hợp thiêu tại đài
hóa thân An Lạc Viên.
Trên khu TĐC, với quan niệm con cháu ở đâu tổ tiên ở đó, ngư dân cũng đã
bốc mộ người thân được chôn cất ở các đảo hoang, núi đá về quy tập tại nghĩa trang
thành phố. Bàn thờ tổ tiên được đặt ở nhà ông trưởng họ và việc thờ cúng, giỗ tổ
được thực hiện tại đó với sự tham gia, đóng góp của con cháu, họ hàng, chứ không
còn tổ chức trên thuyền như trước đây.
Nói chung, dù hiện nay ngư dân ở các làng chài đã chuyển lên bờ sinh sống,
nhưng do hoạt động kinh tế vẫn chủ yếu là đánh bắt hải sản nên các phong tục tập
quán, các nghi lễ gắn với nghề nghiệp và cuộc sống vẫn được duy trì. Các hoạt
động như lễ tết, thờ cúng thủy thần, nhân thần, thờ cúng tổ tiên, các ngày sóc, vọng
vẫn được duy trì đều đặn. Những sự thay đổi chỉ khác ở việc ngư dân phải đi quãng
đường xa ra các đền miếu trên biển. Dù cúng lễ ở nhà nhưng khi làm nghi lễ liên
quan đến nghề nghiệp thì phải đi ra bến thuyền. Nói chung, chưa có những chuyển
biến rõ rệt về phong tục tập quán, thậm chí những thực hành đó còn có điều kiện
được bảo lưu khi vẫn còn gắn với nghề nghiệp truyền thống của ngư dân. Phong tục
tập quán cũng như tín ngưỡng, là những thói quen đã ăn sâu vào tâm thức những
người thực hành nên sẽ khó thay đổi hơn những biểu hiện vật chất bề ngoài.
2.2.3. Biến đổi văn hóa trên bình diện cá nhân
Những biến đổi này chủ yếu tập trung vào việc thay đổi thói quen sinh hoạt
và các hưởng thụ văn hóa hàng ngày. Những điều kiện sống mới đã giúp mỗi cá
nhân được tiếp cận với nhiều hoạt động văn hóa, cũng như làm thay đổi những lối
sống hàng ngày đã gắn bó với mỗi cá nhân nhiều năm do những quy định của điều
- Biến đổi văn hóa hàng ngày:
kiện tự nhiên.
Văn hóa đời sống hàng ngày có thể coi tương đồng với thuật ngữ “lối sống”.
Trong tiếng Anh, lối sống – life style được định nghĩa là những nét điển hình, được
lặp đi lặp lại và định hình thành phong cách, thói quen trong đời sống cá nhân,
62
nhóm xã hội, dân tộc, hay là cả một nền văn hóa.
Văn hóa hàng ngày có thể hiểu đơn giản là những biểu hiện của cuộc sống
đời thường với cách chúng ta sinh hoạt, ăn, mặc, ở, đi lại, dọn dẹp vệ sinh, "chát
chít", đi lại, nói năng, làm việc, mua sắm, giải trí, cãi cọ, phản kháng, tiêu dùng thời
gian và tiền bạc v.v…. Cũng có thể định nghĩa văn hóa hàng ngày gồm những thói
quen, tập quán, phong tục, hành vi, thái độ ứng xử... mà người dân thể hiện hàng
ngày, trong sự tương tác giữa các cá nhân, giữa cá nhân với cộng đồng và giữa con
người với tự nhiên, với thần linh...
Phạm Quỳnh Phương khi nghiên cứu về văn hóa thường ngày đã khẳng định
rằng, “văn hóa thường ngày, trước hết, là cách con người sống cuộc sống hàng ngày
của họ, mà cách sống ấy phản ánh cách họ nghĩ, nhận thức và cảm nhận, dựa trên
những bối cảnh khác nhau. Như vậy văn hóa thường ngày không phải là văn hóa
nhìn dưới góc độ nghệ thuật hay giá trị theo qui ước, mà nó bao trùm lên mọi khía
cạnh trong sinh hoạt đời thường của cuộc sống con người”. Văn hóa thường ngày
có tính lặp lại, chu kỳ, đều đặn nhưng đời sống thường ngày cũng mang tính bất
định với đầy những sự bất ngờ. Trong mô tả này, luận văn giới hạn văn hóa hàng
ngày mang tính đời thường trong các hoạt động ăn, mặc, ở, đi lại.
Các thực hành văn hóa biểu hiện phần lớn cách thức ứng xử trước môi
trường tự nhiên của con người. Đối với ngư dân vạn chài Hạ Long, các sinh hoạt
thường ngày: ăn, mặc, ở, đi lại của họ đã gắn bó chặt chẽ với các điều kiện tự nhiên,
xã hội nơi làng chài với chủ thể là những ngư dân và những thực hành văn hóa đã
diễn ra lâu dài, được cộng đồng chấp nhận. Khi bị tách khỏi môi trường quen thuộc,
tất yếu sẽ có những biến đổi để thích ứng, hòa nhập với những điều kiện của cuộc
sống mới.
Đời sống ẩm thực:
Trước đây, bữa ăn của ngư dân vạn chài Hạ Long thường theo mùa. Mùa cá
nào thì trong cơ cấu bữa ăn sẽ có tỉ lệ lớn các món được chế biến từ loài cá đó. Do
điều kiện phải sống xa đất liền, nguồn thức ăn chủ yếu của ngư dân được chế biến
từ những sản phẩm đánh bắt được trên biển hay ven chân đảo trên vịnh Hạ Long.
Nơi ăn là khoang lái hoặc trên mui thuyền nếu sinh hoạt trên thuyền. Bữa ăn của
ngư dân trước đẩy chủ yếu là cá. Có bữa luộc rau nhưng rất ít. Ngoài ra, còn có một
63
số món ăn phổ biến khác như món sam xào chua ngọt, xam rán, sam nướng, sò đá
xào hành mỡ, gỏi gá nhạc... Món ăn mặn của ngư dân là món tép muối sổi (Món
này gồm tép tươi trộn với muối cho vào chum khoảng 5 đến 10 ngày) và các loại cá
khô (ngư dân phơi khô để ăn dần do không bán được hoặc giá quá rẻ). Ngoài ra ngư
dân còn sử dụng chả mực nhưng chủ yếu trong các dịp lễ tết.
Với thành phần chính là cá trong cơ cấu bữa ăn, ngư dân sáng tạo ra nhiều
cách chế biến với các món rán, nấu riêu, luộc, hấp... Phổ biến nhất là món cá nấu
chua vì món này có cách thức nấu đơn giản, gia vị dễ kiếm với các loại lá hoặc quả
chua có thể dễ dàng tìm trên đảo như me rừng, me đất, quả bứa... Do những bữa ăn
thường ngày gắn chặt với món cá nên trong những dịp cúng, giỗ hay Tết thì mâm cỗ
mới có thêm thịt lợn, thịt gà. Do quan niệm ông bà tổ tiên cũng sống ở trên biển nên
trong lễ cúng, ngư dân vạn chài Hạ Long vẫn dâng lên nhiều món hải sản. Trên khu
TĐC, ngư dân quen với nhiều loại thực phẩm mới với đa dạng các loại rau, củ quả
và các loại thịt. Hhọ có thể mua được nhiều rau hơn, mua được thịt lợn, thịt bò dễ
dàng hơn. Thậm chí có những người lần đầu tiên được ăn thịt bò. Nhưng về cơ bản,
thói quen dùng hải sản vẫn là một đặc trưng trong bữa ăn hàng ngày của họ. Thay
đổi rõ ràng nhất là các nguồn thực phẩm của những ngư dân đều phải mua. Thói
quen mua thức ăn, tính toán món ăn cho các bữa dần hình thành.
Do tính chất công việc phụ thuộc vào lịch con nước và thờ gian làm nghề,
việc phân chia các bữa ăn của ngư dân trước đây khác so với bữa ăn trên đất liền.
Chỉ có hai bữa ăn chính: Sáng từ 8-9 giờ,chiều từ 15 – 16 giờ. Điều này được lý giải
bằng lịch công việc của ngư dân thường bắt đầu từ chiều hôm trước và sáng hôm
sau mới về. Tuy nhiên, giờ giấc chuẩn cho bữa ăn cũng không cố định do phụ thuộc
vào cơ nước (nước sớm ăn sớm, nước muộn ăn muộn), vào khu vực đánh bắt xa hay
gần và phụ thuộc vào giờ người trên bờ xuống thu mua hải sản. Lên khu TĐC, ngư
dân dần phải quen với cơ cấu 3 bữa ăn trong một ngày vào các khoảng thời gian
khác nhau tùy thói quen sinh hoạt của từng gia đình nhưng chủ yếu phân chia thời
gian giống như các bữa ăn hàng ngày của người dân trên đất liền.
Thói quen sử dụng bếp nấu cũng đã thay đổi. Trước đây, ngư dân sử dụng 3
hòn đá để thay kiềng bếp trong chiếc chậu đồng để tránh lửa bén sang thuyền hoặc
sàn nhà bè. Nguyên liệu là củi đốt được lấy trên các núi đảo. Ngư dân thường có
64
thói quen tích lũy đủ số củi để có thể sử dụng được trong khoảng một tuần. Đời
sống trên các làng chài có bước phát triển, cũng đã có những hộ sử dụng bếp gas
nhưng không phổ biến. Trên khu TĐC, các hộ buộc phải sử dụng các loại bếp thay
thế khác mà phần lớn là bếp gas.
Trang phục:
Trang phục của ngư dân vạn chài thường đơn giản, gọn nhẹ, màu sắc thiên
về tối, ít khi đi dép để phù hợp với tính chất công việc. Quan niệm của ngư dân là
ăn chắc, mặc bền. Do phải lao động thường xuyên và cũng không có nhu cầu giao
thiệp với bên ngoài nên ngư dân thường chọn loại vải có mầu nâu, đen để che
những vết bẩn trong quá trình đánh bắt. Phụ nữ vạn chài trước đây thường mặc áo
bà ba, quần đen, vấn tóc hoặc búi tó; đàn ông để đầu trần, mặc áo nâu sòng, buộc
dây hoặc để sổ, quần nâu. Dáng vẻ bề ngoài của họ toát lên sự khắc khổ và vất vả
với nước da đen sạm, tóc cháy nắng, bàn tay, bàn chân to, thô. Vào các dịp lễ hội,
nam thường mặc áo the khăn xếp, nữ áo dài tứ thân thắt mớ ba, đầu đôi khăn mỏ
quạ, vấn tóc bọc khăn nhung đen. Đây là những kiểu trang phục tạm gọi là mang
tính chất truyền thống. Trong khoảng chục năm gần đây, trang phục của ngư dân đã
có sự đa dạng hơn nhưng vẫn chủ yếu thiên về sự thoải mái khi tiến hành công việc
chài lưới. Theo ngư dân, khi dưới làng, ngư dân có ít quần áo và chủ yếu là những
quần áo đơn giản, tiện dùng cho việc đi làm, ăn ở. Trên khu TĐC, trang phục của
ngư dân vạn chài đã thay đổi, có thể quan sát những thay đổi này ở lớp trẻ một cách
rõ ràng nhất. Nhiều thanh niên đã nhuộm tóc, có phong cách ăn mặc hiện đại, khó
nhận thấy nét đặc trưng của ngư dân.
Phương tiện đi lại:
Ngư dân vạn chài Hạ Long thường tập hợp lại thành các chòm, vụng dựa trên
quan hệ gia đình, dòng họ. Họ tập trung nhau vào những nơi có mực nước nông, kín
gió, được bao bọc bởi các ngọn núi, dưới chân núi thường có các hang động để
thuyền vào trú khi có bão lớn. Các chòm, vụng này thường sẽ thay đổi do ngư dân
đi tìm ngư trường mới có nhiều nguồn cá, hoặc bởi các lý do tín ngưỡng như khu
vực cũ bị “động”, bị hà bá quấy nhiễu, mất mùa cá, dịch bệnh, hoảng loạn.... đã
cúng giải mà vẫn không được. Thuyền vừa là phương tiện đi lại, vừa là nhà, vừa là
công cụ lao động. Do đó, thuyền có một vai trò quan trọng trong đời sống của ngư
65
dân vạn chài Hạ Long.
Trong khoảng thời gian rất lâu về trước, phương tiện đi lại của ngư dân chủ
yêu là thuyền đan bằng tre già, trát bằng vôi vỏ hà, hắc ín, nhựa cây sắn thuyền. Về
sau, khi có điều kiện hơn và do xuất phát từ cầu và cung nguồn gỗ, ngư dân đóng
thuyền gỗ để đi lại và đánh bắt. Thuyền gỗ tạo điều kiện cho ngư dân đánh bắt xa
bờ bởi có sự chắc chắn hơn nhiều lần thuyền nan. Thuyền của ngư dân vùng vịnh sử
dụng gồm hai loại chính: Thuyền gỗ (gồm thuyền mui bằng và lẵng) và cái bơi hay
còn gọi là mủng. Mủng là phương tiện có hình chiếc thúng nằm ngửa, thường vừa
cho hai người. Mủng có hai mái chèo, được sử dụng khi đu câu, thả lưới.
Trên khu TĐC, do tính chất khác biệt hoàn toàn về môi trường sống và hệ
thống giao thông, ngư dân buộc phải thích ứng với phương tiện đi lại vốn dĩ có
người chưa từng nghĩ tới – xe máy. Tính đến thời điểm khảo sát, vẫn còn nhiều ngư
dân chưa thể sử dụng phương tiện này, đặc biệt là phụ nữ. Có những người không
phân biệt được các loại xe máy số, xe tay ga. Tuy nhiên, trong hơn hai năm sinh
sống trên khu TĐC, số lượng xe máy đã tăng đáng kể. Theo thống kê, thời điểm lên
khu TĐC vào tháng 6 năm 2014 mới chỉ lác đác vài chiếc xe của một số ngư dân
quen đi lại giữa biển và đất liền thì cuối năm 2015 đã tăng lên là 116 xe. Đến thời điểm gần nhất (7/2016), số xe máy đã tăng lên khoảng 200.5 Cũng đã có những
người biết lái ô tô khi theo học lớp lái xe và hiện có một người lái taxi. Những
người biết đi xe máy chủ yếu là thanh niên bởi họ dễ dàng tiếp thu kỹ thuật lái xe.
Như vậy, về cơ bản, các yếu tố văn hóa hàng này như ăn, mặc, ở, đi lại của
ngư dân đã thay đổi rõ rệt do yêu cầu buộc phải thích ứng vào môi trường sống mới.
- Những hƣởng thụ văn hóa trong môi trƣờng sống mới:
Do có điều kiện tiếp xúc, sử dụng các phương tiện văn hóa mới mà ngư dân
trên khu TĐC được tiếp cận nhiều hơn với những hưởng thụ văn hóa như xem ti vi,
đọc báo, nghe đài, sử dụng Internet. Theo thống kê, có tới 70% số hộ trên khu TĐC
đã có đủ những phương tiện sinh hoạt cần thiết như TV, tủ lạnh, bếp gas... Khảo sát
tại khu TĐC cho thấy những ngư dân chuyển từ biển lên bờ đã có điều kiện để
hưởng thụ những hoạt động văn hóa cơ bản một cách thường xuyên hơn. Đặc biệt là
xem TV, nghe nhạc. Trước đây, tuy có chạy bằng máy phát điện nhưng các hộ ngư
5 Ghi chép của trưởng khu 8 Nguyễn Văn Hải
66
dân không sắm sửa nhiều vì tiền nhiên liệu cho máy phát điện rất tốn kém. Thanh
niên làng chài dễ dàng nắm bắt các xu thế mới. Họ nghe nhạc trẻ trên máy điện
thoại, lập tài khoản facebook, những việc mà trước đây ở dưới Vịnh rất hạn chế.
Nói chung đã có nhiều thay đổi đáng kể trong các hưởng thụ văn hóa. Ngoài những
vấn đề sinh kế, ngư dân đã biết đến tình hình thời sự trong nước, quốc tế, có điều
kiện xem nhiều bộ phim, tham gia các hoạt động văn hóa văn nghệ trong phong trào
toàn dân xây dựng đời sống văn hóa cơ sở. Văn hóa giáo dục cũng có những thay
đổi theo xu hướng tích cực khi trẻ em được quan tâm và có điều kiện học hành.
Dường như có một xu hướng khẳng định cái tôi ở những thanh niên trẻ làng
chài. Trước đây khi ở dưới biển, do gắn chặt với gia đình và với công việc, việc
quản lý con cái của các hộ ngư dân rất đơn giản. Hơn nữa, do sống biệt lập, các trào
lưu văn hóa không ảnh hưởng đến thanh niên nơi đây. Khi lên trên bờ, thanh niên
trở thành đối tượng dễ bị tác động của những trào lưu xã hội tiêu cực. Theo thông
tin có được, thời gian đầu, thanh niên làng chài trở nên thụ động, lười biếng và xa
vào con đường cờ bạc với các loại hình như bi- da, máy đánh xu, xèng. Thanh niên
cũng là nhóm dễ tiếp cận các hình thức giải trí hiện đại bởi tính tiện lợi cá nhân, tâm
lý đổi mới dễ dàng hơn nhóm những người cao tuổi. Tại khu TĐC, có thể thấy
thanh niên ăn mặc hiện đại, đi xe máy, sử dụng điện thoại di động, nghe nhạc trẻ
khá phổ biến. Thanh niên còn có hiện tượng tụ tập, nhuộm tóc, lười lao động, qua
lại với các nhóm thanh niên xấu trên bờ. Việc đánh nhau xảy ra cũng thường xuyên
làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới an ninh trật tự khu phố. Theo trưởng khu Nguyễn
Văn Hải, trước thực trạng như vậy, chính quyền địa phương đã rất mạnh tay trong
việc thiết lập lại an ninh trật tự. Các tụ điểm cờ bạc bị xóa bỏ, công an kiểm tra
thường xuyên, cảnh sát cơ động tuần tra ráo riết hơn. Nhờ đó, trong thời điểm hiện
tại, những hiện tượng trên đã giảm bớt và tình hình an ninh trật tự về cơ bản đã ổn
định.
Tiểu kết chương 2
Chính sách di dân và TĐC của tỉnh Quảng Ninh đã tạo ra những xáo trộn
nhất định đối với đời sống văn hóa và sinh kế của ngư dân vạn chài Hạ Long bằng
việc tách ngư dân khỏi không gian sống và môi trường sinh kế quen thuộc. Về bản
chất, chính sách di dời nhà bè là một chính sách di dân “cưỡng bức” để phục vụ các
67
mục tiêu chính trị - xã hội của chính quyền tỉnh Quảng Ninh. Nó là yếu tố tác động
làm thay đổi không gian sống, đưa đến những thay đổi về sinh kế và những tương
tác mới về văn hóa, tạo ra những thay đổi rõ rệt trong đời sống vật chất và một số
thực hành văn hóa của ngư dân. Sở dĩ có thể khẳng định như vậy bởi những thay
đổi về diện mạo vật chất là điều dễ nhận thấy được bởi những hình ảnh trực quan.
Trong khi đó, những yếu tố vật chất của văn hóa bao giờ cũng thay đổi nhanh hơn
những yếu tố phi vật chất mà có nhà khoa học gọi đây là “độ chậm văn hóa: những
mâu thuẫn trong một hệ thống văn hóa tạo ra từ những mức độ thay đổi yếu tố văn
hóa khác nhau không đồng đều” [66- tr.100]. Thêm vào đó, khoảng thời gian hai
năm cùng với xu hướng quay trở lại nghề khai thác biển truyền thống trước mắt
chưa làm thay đổi nhiều thực hành văn hóa trong các tín ngưỡng liên quan tới nghề
nghiệp, ngược lại còn có điều kiện được bảo lưu và thực hành. Do vậy, những thay
đổi về mặt văn hóa được mô tả trong chương 2 chủ yếu ở những nét dễ nhận diện và
có những điều kiện tác động mạnh mẽ để thay đổi. Để đánh giá được những biển
đổi một cách sâu sắc, thiết nghĩ cần có thêm thời gian quan sát và có những thiết kế
định lượng, định tính khoa học và có đầu tư hơn. Nhưng từ những dữ liệu thu thập
được, có thể khẳng định về mặt văn hóa, chính sách này đã thất bại khi làm mất đi
cộng đồng về mặt văn hóa. Họ đã mất làng, mất đi không gian dung dưỡng các thực
hành văn hóa có tính chất đặc trưng cho cộng đồng về ăn, mặc, ở, đi lại, các thực
hành cưới xin, tang ma và các loại hình nghệ thuật dân gian, cũng như tính thuần
nhất về nghề nghiệp. Từ đó đặt ra những thách thức trong bảo tồn các giá trị văn
68
hóa làng chài.
CHƢƠNG 3
NHỮNG THÁCH THỨC TRONG HỘI NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN
3.1. Vấn đề sinh kế
Như đã phân tích, chính sách di dân và TĐC đã làm thay đổi không gian
sống và thực hành sinh kế của ngư dân vạn chài Hạ Long. Dù phương án di dân và
hỗ trợ sau TĐC đã nêu rõ việc thực hiện đào tạo nghề để đảm bảo việc làm sau
TĐC nhưng như việc “ôm con bỏ chợ”, ngư dân vẫn chưa thấy những đảm bảo hiệu
quả như khẳng định của chính quyền. Trong khi đó, việc thực hiện sinh kế truyền
thống hiện nay lại gặp phải những khó khăn không chỉ từ việc suy giảm nguồn lợi
hải sản mà còn do sự bất hợp lý trong quá trình xây dựng bến đậu thuyền và sự siết
“Họ hứa vậy thôi chứ từ lúc lên bờ đến giờ làm gì có gì đâu em. Bọn
chị không có việc gì để làm. Nếu có việc mà 3-4 triệu một tháng thì chị
đi làm ngay nhưng không có. Cho nên mọi người lại xuống biển chài
lưới thôi. Em giờ ra xem, đến cái bến đậu thuyền 2 năm nay vẫn còn
ngổn ngang, chưa khơi luồng lạch, đường ra thì gập ghềnh nên chị
không dám đi bằng xe máy.”
chặt quản lý tài nguyên thiên nhiên từ BQL Vịnh Hạ Long.
Nguồn: Phỏng vấn chị Nguyễn Thị H., ngày 19/5/2016
“Có đào tạo nghề nhưng không phù hợp. Mà nghề không phù hợp thì
dân chúng tôi không làm được. Nghề không đáp ứng được nhu cầu.
Trong một tháng mà tiền không đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thì người ta
không làm được. Như bọn chú vẫn phải đi làm biển đấy chứ.”
Nguồn: Phỏng vấn ngư dân Nguyễn Đ. Th., ngày 19/5/2016
Bởi vậy, vấn đề quan tâm chính yếu của ngư dân vạn chài khi lên bờ vẫn
luôn là vấn đề công việc và thu nhập. Dù họ có hài lòng với ngôi nhà mới, các tiện
ích mới và tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ công ích như được cung cấp nước
sạch, tiếp cận điện lưới, dịch vụ chăm sóc sức khỏe và giáo dục nhưng việc làm
không đảm bảo thu nhập thì mọi thứ với họ sẽ trở nên vô nghĩa. Qua phân tích các
nguồn vốn sinh kế và những thách thức mà ngư dân vạn chài đang đối diện trên khu
TĐC, chúng tôi cho rằng, rất khó để ngư dân có thể đảm bảo cuộc sống nếu không
69
tiếp tục nghề truyền thống.
Vấn đề trước tiên là vốn con người: Theo thống kê, trong tổng số 1.650 khẩu
ở khu 8 thì có khoảng 899 (chiếm trên 54% tỉ lệ dân số tại khu TĐC) người trong
độ tuổi lao động, thế nhưng theo thống kê có tới khoảng 80% dân số mù chữ. Các
lớp học cấp 1, cấp 2 được tổ chức sau năm 1998 đã góp phần phổ biến các kiến thức
phổ thông và dạy chữ cho trẻ em làng chài. Trước đây khi lênh đênh trên biển, cuộc
sống biệt lập, việc học hành khó khăn do thiếu điểm lớp, thiếu giáo viên, muốn học
lên nữa thì phải vào đất liền. Với sinh kế truyền thống, các kinh nghiệm, kỹ năng
được truyền đạt cho thế hệ sau thông qua truyền miệng và sự bắt chước. Trẻ em
được ông bà, bố mẹ truyền đạt cho tri thức địa phương để tồn tại. Cuộc sống gắn
liền với việc khai thác tự nhiên và điều cốt yếu là nắm bắt được quy luật của tự
nhiên, hiểu tự nhiên và thực nghiệm. Do đó, việc học không phải là mối quan tâm
“Như tao đây sống qua hai chế độ, nhà trên đất liền không có, thế là bà
con trên đất liền không có thì làm sao gửi con cháu về đất liền học
được. Mới 5-7 năm nay thì có cô giáo xuống làng chài dạy học mà dạy
cho biết cái chữ vậy. Do đó văn hóa kém. Văn hóa kém thì không hiểu
cái công việc trên đất liền làm. Bây giờ có chứ trước kia thì nói thật với
cháu, mày chết đâu thì mày chết. Có ai quan tâm đâu. Nhà nước mình
có quan tâm đâu. Nó cũng thành một cái tổ nhưng có ai để ý đến bọn
tao làm gì. Giờ có du lịch với đất nước mở rộng rồi nên mới được quan
tâm, chứ ngày ấy đến hộ khẩu còn không có”.
Nguồn: Phỏng vấn cụ Nguyễn V. H, ngày 16/7/2016
của ngư dân.
Đổi lại, ngư dân thường là những người có sức khỏe tốt, có thể đương đầu
với sóng gió của biển cả để khai thác hải sản. Nếu không có sức khỏe thì không thể
lênh đênh trên biển. Theo ngư dân vạn chài, trẻ em từ khi sinh ra đã rắn rỏi, vài tuổi
đã biết bơi, phụ giúp bố mẹ đánh bắt và mang cá vào bờ buôn bán. Thanh niên làng
chài thường có cơ thể rắn chắc và sạm đen do lao động chân tay và tác động của hơi
biển, nắng trời. Và thường khi đến tuổi trưởng thành, thanh niên làng chài về cơ bản
đã có đủ kinh nghiệm để đi biển cùng các “lão ngư tri hải”.
Tại khu TĐC, chính quyền đã cho rà soát, thống kê số lượng trẻ em trong độ
tuổi đi học và khuyến khích trẻ em tới trường. Trước khi lên khu TĐC, tổng số trẻ
70
em trong độ tuổi đi học số trẻ em đi học được thống kê là 135 em. Sau khi lên khu
TĐC, đã có 158 trẻ em làng chài theo học Tiểu học và 38 học sinh THCS. Theo rà
soát mới nhất vào tháng 7/2016, hiện tại có tổng số 169 trẻ học cấp tiểu học; 28 học
sinh THCS; có 3 học sinh học THPT, trong đó 1 học sinh học chuyên Hạ Long và 2
học tại trường dân lập Lê Thánh Tông; có 1 sinh viên học đại học Dược Hà Nội.
Tuy nhiên, học sinh là con em làng chài khả năng tiếp khu chậm, thường xuyên
không làm bài tập về nhà và có khoảng 30 học sinh nghỉ học thường xuyên từ 2 -3
tháng do theo gia đình xuống biển theo lịch con nước, lịch mùa vụ. Do đó, sức học
của học sinh vạn chài khá kém. Bởi vấn đề kinh tế và không có thời gian chăm sóc
con cái, các ngư dân đa phần cho con em mình đi theo xuống biển để đánh bắt cá.
Như vậy, vốn con người chưa được ngư dân tại khu TĐC coi trọng bởi họ vẫn quan
niệm nghề đánh bắt truyền thống cho thu nhập tốt và tự do, không ràng buộc, con
em làng chài dễ dàng tiếp nhận kinh nghiệm đi biển, đánh cá như một bản năng.
Tuy nhiên, cũng có những ngư dân trăn trở cho tương lai của con em mình, không
muốn con em mình tiếp tục bám biển với nhiều nguy hiểm, vất vả. Họ hy vọng con
em của mình được hưởng chính sách giáo dục công bằng như những học sinh trên
đất liền và có cơ hội được tiếp cận những cơ hội đổi đời. Theo đánh giá của chúng
tôi, sau hơn 2 năm TĐC, vốn con người về cơ bản không thay đổi nhiều về chất
lượng giáo dục, sức khỏe. Thậm chí nhiều người còn không quen với môi trường
đất liền, đặc biệt là thời tiết mùa hè nắng nóng nên cảm thấy sức khỏe không được
tốt như khi còn ở dưới làng chài. Tuy nhiên, tri thức, các thực hành mới trên đất liền
đã thay đổi lối sống, suy nghĩa của nhiều người. Điều này cũng góp phần tác động
vào sự thay đổi của nguồn vốn sinh kế và những suy tư cho chiến lược sinh kế.
Vốn vật chất: Cơ sở vật chất tại khu TĐC ở cấp độ cộng đồng về cơ bản là
tốt. Các dịch vụ đảm bảo cuộc sống như điện, nước được cung cấp đầy đủ. Các thiết
chế văn hóa như nhà văn hóa được xây dựng khang trang, hệ thống trường học cấp
1, cấp 2 đang được xây dựng và sắp hoàn thành. Khu TĐC cũng có công viên
nhưng hiện tại công trình này đang xuống cấp nghiêm trọng với hiện trạng cỏ mọc,
cây xanh chết. Tuy nhiên, quan trọng nhất đối với ngư dân hiện tại là việc hoàn
thành bến đậu thuyền Cái Xà Coong và khơi thông luồng lạch để ngư dân ra khơi
được thuận tiện. Đây là bến đỗ gần khu TĐC nhất nhưng vào thời điểm quan sát (5-
7/2016), các hạng mục chưa hoàn thành, luồng lạch chưa được khơi thông. Con
71
đường dẫn ra bến đậu dài gần hộ TĐC nhất khoảng trên 0,5km gồ ghề, khó đi, mới
được đổ tạm đá sỏi. Điều này ảnh hưởng lớn đến hoạt động đi biển của ngư dân.
Trước đây, chỉ cần chèo tay là có thể sang vụng này, vụng khác nhưng hiện nay, để
ra khơi, họ mất khoảng 2 tiếng rưỡi. Thêm vào đó là tiền nhiên liệu cho việc ra khơi
cho mỗi đợt và quay lại hết khoảng hơn 100 nghìn đồng. Hiện nay, thuyền của
nhiều ngư dân hiện phải đậu ở bến cọc 5, cách khu TĐC khoảng 15km. Mỗi khi ra
khơi, họ phải di chuyển bằng xe ôm, taxi. Tài sản là toàn bộ con thuyền nên phải cắt
“Đây như này, chú nói với cháu như vầy nhé. Đây chú có con nhà bè ở
ở đây, cháu hiểu không. Bây giờ chú đi sang vạ này một phát, chú làm
được năm bảy chục, một trăm. Thế nhưng bây giờ như vợ chồng chú ra
đến biển phải đi tiếng rưỡi, hai tiếng. Ngày xưa chèo tay như vậy, ra
đây, bơi sang vạ này vạ kia. Ở đây có bà cụ nhé, công một ngày 400
nghìn, bà già rồi bà vẫn ra biển đi câu, một ngày 400 nghìn. Ngày xưa ở
biển thì đơn giản, chứ bây giờ bà ở đây ra, chèo tay không được. Phải
có người lai dắt ra”.
Nguồn: Phỏng vấn ngư dân Nguyễn Đức Th., ngày 19/5/2016
người trông nom nên nhiều người dù có đưa thuyền về bến cũng không thể về nhà.
Ở cấp độ hộ gia đình, nhà cửa và các thiết bị sinh hoạt hộ gia đình về cơ bản
được đảm bảo. Theo khảo sát của lãnh đạo khu 8, có tới 70% số hộ trong khu TĐC
sắm đủ các phương tiện sinh hoạt cần thiết như TV, tủ lạnh, bếp gas... Phương tiện
xe máy dần trở nên quen thuộc với ngư dân khi mà thời điểm lên khu TĐC vào
tháng 6 năm 2014 mới chỉ lác đác vài chiếc xe của một số ngư dân quen đi lại giữa
biển và đất liền thì cuối năm 2015 đã tăng lên là 116 xe. Đến thời điểm gần nhất
(7/2016), số xe máy đã tăng lên khoảng 200. Khu TĐC cũng có một hộ gia đình có
ô tô. Các phương tiện khai thác hải sản hầu như vẫn giữ nguyên như cũ với các loại
hình thuyền, lưới, kích... phù hợp với các loại thủy hải sản khác nhau.
Với những thay đổi trên thì vốn vật chất tại các hộ gia đình cũng đã có
những thay đổi lớn. Tuy nhiên, điều này chưa thực sự phản ánh được mức độ hài
lòng với kết quả của cuộc sống hiện tại. Ngư dân chỉ hài lòng vì có căn nhà khang
trang, vững chãi nhưng chưa yên tâm về tương lai vì các cơ hội cải thiện sinh kế
chưa thực sự có hiệu quả đối với họ.
Vốn tài chính: Theo đánh giá của chính quyền thì ngư dân vạn chài trên khu
72
TĐC không có hộ nghèo mà chỉ có 4 hộ cận nghèo. Khảo sát của trưởng khu phố
cũng đánh giá các hộ về cơ bản có mức sống trung bình, sắm sửa đầy đủ các tiện
nghi cần thiết rơi vào khoảng 70% số hộ. Tuy nhiên, nhiều hộ không đủ vốn tài
chính để xoay xở làm ăn kinh tế trên đất liền. Thực tế cho thấy, nhiều hộ sau khi
vay vốn làm ăn không trả được lãi đã bị chủ nợ xiết nợ, phải trốn ra ngoài biển, tiếp
tục nghề chài lưới. Nhiều người cả năm chỉ dám về dịp Tết rồi lại đi ngay. Những
câu chuyện dù chưa đủ độ xác thực cho thấy, phần lớn là người trốn nợ mới phải bỏ
nhà để quay lại nghề mưu sinh truyền thống. Nguyên nhân xuất phát từ việc không
có việc làm, được dụ vay lãi để làm ăn. Do không quen phương thức sinh sống,
kiếm tiền trên đất liền nên nhiều hộ không thể xoay vòng vốn để sinh lời mà lãi mẹ
đẻ lãi con khiến khoản nợ thêm chồng chất.
Trước tình trạng khó khăn về nguồn vốn tài chính của ngư dân trên khu
TĐC, chính quyền đã tổ chức cho ngư dân vay vốn để kinh doanh, mua sắm, sửa
chữa phương tiện đi biển, sản xuất, nuôi trồng. Con số người vay vốn trong khoảng
thời gian đầu lên tới 224 người với tổng số vốn vay là 15.790.000.000 đồng(mười
lăm tỉ bảy trăm chín mươi triệu đồng). Đầu năm 2016, Ngân hàng chính sách xã hội
tỉnh Quảng Ninh giải ngân đợt đầu tiên vốn vay giải quyết việc làm cho người dân
khu tái định cư làng chài phường Hà Phong, TP Hạ Long với gói vay trên 1 tỉ đồng
cho 24 hộ. Trung bình mỗi hộ được vay trên 50 triệu đồng với lãi suất 0, 55% trong
thời hạn 3 năm. Đây cũng là một cơ hội thay đổi nguồn vốn tài chính cho một số hộ
ngư dân. Tuy nhiên, việc vay vốn cũng gây khó khăn trong việc trả nợ. Ngoài ra
một số hộ dù được cấp giấy chứng nhận sử dụng đất nhưng vẫn không vay được
vốn ngân hàng vì cho rằng việc trả nợ đối với họ là hết sức khó khăn. Như vậy, về
cơ bản nguồn vốn tài chính đối với một số hộ có điều kiện và tiếp cận được nguồn
vốn vay thực tế đã giúp họ có cuộc sống ổn định hơn với việc cải tạo được nhà tái
định cư, mua sắm được các phương tiện sống, mở được cửa hàng tạp hóa kinh
doanh... Nhưng trên thực tế, có rất nhiều hộ không đảm bảo được nguồn vốn này
nên buộc phải quay lại mưu sinh bằng nghề truyền thống.
Vốn tự nhiên: Nguồn hải sản ven bờ đang có nguy cơ suy giảm do hoạt động
đánh bắt thường xuyên và có tính hủy diệt như dùng mìn, dùng kích và các loại lưới
mắt nhỏ. Theo như đánh giá của Chi cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản
tỉnh Quảng Ninh, nguồn lợi thuỷ sản khu vực gần bờ trên vùng biển của tỉnh hiện
73
nay đang giảm dần trên các phương diện trữ lượng, sản lượng và kích thước hải sản
bắt được. Các loài cá có giá trị kinh tế cao suy giảm sản lượng đáng kể và tỷ lệ cá
tạp trong một mẻ lưới tăng tới 70%. Các loài quý hiếm có giá trị kinh tế cao như cá
trích, tôm hùm, bào ngư, điệp, mực trước đây còn đánh bắt được ven bờ nay trở nên
khan hiếm [76]. Việc gia tăng tốc độ khai thác, đặc biệt là sự mất cân đối giữa 2 lực
lượng khai thác ven bờ và xa bờ đã đưa đến những hậu quả nghiêm trọng trong đảm
bảo sự bền vững nguồn lợi hải sản, đưa đến nguy cơ các nhóm cá nổi, cá tầng đáy,
sẽ vĩnh viễn biến mất. Bên cạnh đó, quá trình đô thị hoá, xây dựng các công trình
ven biển, các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội của các ngành như công nghiệp
như khai thác than, du lịch, quai đê, lấn biển, khai thác, nuôi trồng, chế biến thuỷ
sản... đã đưa đến sự ô nhiễm, làm suy giảm chất lượng môi trường sống của các loài
thuỷ sản; diện tích rừng ngập mặn, bãi cỏ biển, san hô bị thu hẹp làm mất đi môi
trường sinh trưởng của các loại hải sản trong giai đoạn ấu trùng và con non. Các
nguyên nhân trên đưa đến hiện tượng suy giảm nguồn lợi hải sản, một số loài còn
có nguy cơ tuyệt chủng.
Bởi vậy, ngư dân thường phải di chuyển xa hơn, phải đương đầu với nhiều
khó khăn hơn khi lênh đênh trên vùng biển xa do nguồn lợi hải sản ở những khu
vực đánh bắt truyền thống đã cạn kiệt. Các hộ ngư dân đa phần không có thêm
nguồn vốn tự nhiên nào khác vì rất ít người có đất đai ở trên bờ. Do đó, ngoài
nguồn lợi thu được từ biển, không có nguồn vốn tự nhiên nào giúp ngư dân đảm bảo
sinh kế và sinh kế bền vững.
Vốn xã hội: Gia đình, dòng họ là mối quan hệ đóng vai trò quan trọng trong
hoạt động đi biển của ngư dân vạn chài Hạ Long. Bởi vậy, khi bàn về vốn xã hội,
trước hết phải đề cập đến vai trò của dòng họ đối với việc đảm bảo sự gắn kết xã
hội của ngư dân trong việc ứng phó với những thách thức của tự nhiên để đảm bảo
cuộc sống.
Khi tiếp cận nông thôn Việt Nam, nhiều học giả bàn tới vấn đề họ hàng,
trong đó có giáo sư Phan Đại Doãn, mặc dù ông chỉ tiếp cận trên vấn đề dòng họ.
Theo ông, trong điều kiện môi trường nông nghiệp vùng đồng bằng châu thổ sông
Hồng, con người phải cố kết lại với nhau mà trước hết cố kết lại trên cơ sở những
con người cùng huyết thống. “Quá trình hình thành và phát triển của một làng ở
74
đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long, từ khởi đầu cho đến nay là sự
chuyển đổi và phát triển từ liên kết hộ gia đình tiến lên là liên kết họ hàng và các
dòng họ với nhau” [14, tr.88]. Do đó, dòng họ có vai trò như là sự cố kết của cộng
đồng để ứng phó trước những thảm họa tự nhiên, xã hội để đảm bảo môi trường
sinh kế nông nghiệp bền vững. Nhận định này về cơ bản cũng có thể áp dụng đối
với trường hợp các dòng họ của ngư dân vạn chài Hạ Long.
Trong một bài tạp chí, TS. Nguyễn Tuấn Anh giả định “vốn xã hội xuất phát
từ quan hệ họ hàng là cơ sở quan trọng để dân làng đảm bảo sinh kế và tìm kiếm lợi
ích” [7, tr.50] và tiếp cận mạng lưới họ hàng trên cơ sở lấy cá nhân làm trung tâm
để chỉ ra rằng mỗi cá nhân có sự ràng buộc với ít nhất sáu mạng lưới: họ hàng đàng
bố (họ nội), họ hàng đàng mẹ (họ ngoại), họ hàng đàng nhà vợ/ chồng (đối với
những người đã kết hôn), họ hàng đàng thông gia của con (đối với những người có
con cái đã lấy vợ/chồng), họ hàng đàng thông gia của anh/chị em ruột (đối với
những người có anh/chị em ruột đã lập gia đình), và vợ/chồng của con và cháu chắt
(đối với những người có con cái, cháu chắt…). Sáu mạng lưới họ hàng này có mức
độ quan trọng khác nhau đối với đời sống của cá nhân [7, tr.50].
Đối với ngư dân vạn chài Hạ Long, các gia đình, những người cùng dòng họ
thường tập trung lại với nhau cùng một chòm trong làng bởi tinh thần cộng đồng
huyết thống và ý thức “một giọt máu đào hơn ao nước lã”. Khi đi đánh bắt, họ cùng
đi, cùng khai thác trong một ngư trường nhất định. Việc này đảm bảo được tính bí
mật của ngư trường và những người trong dòng họ vừa có thể giúp đỡ nhau trong
khai thác, vừa cứu giúp nhau khi xảy ra hoạn nạn mà nghề đi biển hay gặp phải.
Tuy chưa có điều kiện tập trung khảo sát chuyên sâu về mối quan hệ họ hàng và sự
tương trợ giữa các thành viên trong dòng họ của ngư dân tại khu TĐC, nhưng
những thông tin nhận được cũng đã cho thấy, khi lên bờ, quan hệ này không hỗ trợ
được ngư dân trong việc tìm kiếm việc làm bởi hầu hết những ngư dân bao đời trên
biển không tạo lập được mối quan hệ nào có thể giúp họ nhận được nguồn thông
tin, tạo được uy tín để đảm bảo một công việc cho họ. Những tương trợ lúc này
cũng đơn thuần là chỗ dựa tinh thần để hỏi han, động viên nhau và chia sẻ thông tin
việc làm từ các chương trình hỗ trợ đào tạo nghề, phiên chợ việc làm mà chính
quyền phối hợp với các doanh nghiệp để giải quyết việc làm cho ngư dân tại khu
75
TĐC.
Ngoài mối quan hệ họ hàng, ngư dân cũng có những mối quan hệ khác
nhưng thường không có mối liên kết bền chặt. Do đặc thù quần tụ trên biển, ngư
dân thường ít biết đến những người ngoài họ hàng của họ bởi dù có quen biết nhưng
cũng ít giao thiệp do những người ngoài họ khai thác ở các ngư trường khác nhau,
trong các nhóm khác nhau. Ở thời điểm hiện tại, các tổ chức đoàn thể như Ban công
tác mặt trận, chi hội Cựu chiến binh, Chi hội Phụ nữ, Chi đoàn Thanh niên là một
kênh thông tin giúp ngư dân về vấn đề tìm kiếm việc làm, nguồn vốn hỗ trợ... tuy
nhiên cũng không thật sự hiệu quả vì thành viên các đoàn thể này còn bận xuống
biển làm nghề chài lưới. Điển hình như chi Đoàn thanh niên, dù đã kiện toàn về tổ
chức nhưng không hoạt động được vì đoàn viên quanh năm suốt tháng ở dưới biển.
3.2. Quá trình hội nhập văn hóa
Cuộc sống lênh đênh, khó khăn nối nhiều đời nên trong tâm lý người dân vạn
chài Hạ Long luôn mong có một ngôi nhà vững chãi, ổn định, được tiếp cận những
dịch vụ cơ bản và hơn hết là tương lai của trẻ em được đảm bảo. Tuy nhiên, qua quá
trình lâu dài tương tác với tự nhiên, các tập tục, lối sống khiến cho việc thích ứng
trên đất liền trở nên khó khăn, nhiều ngư dân không muốn lên bờ bởi lo không thể
hội nhập với cuộc sống mới và không có công việc để đảm bảo cho gia đình. Bên
cạnh đó, nhiều hộ nuôi trồng hải sản tạo được cơ sở kinh tế cũng không muốn di dời
do ảnh hưởng tới nguồn thu nhập sau này. Trên thực tế, trước đây ngư dân vạn chài
giống như một cộng đồng biệt lập, không hộ khẩu, không khai sinh, không khai tử.
Họ cùng chia sẻ những thực hành trong phạm vi cộng đồng mình, tuy có tương tác
với bên ngoài nhưng cũng hạn chế trong phạm vi trao đổi, mua bán hải sản. (Trừ
những trường hợp có nhà trên bờ, có họ hàng trên bờ thì tương tác thường xuyên
hơn. Thêm vào đó là những người mới xuống làng chài nên các giá trị văn hóa, lối
sống mới được hình thành (Theo phân loại chính thức là sau thời điểm 01/01/2005).
Vì vậy, từ giao tiếp đến hiểu cuộc sống trên bờ của ngư dân còn gặp nhiều rào cản.
Họ không quen với lối sống của cư dân trên bờ, nhất là những người ở thành phố;
họ không thuộc đường đi lối lại, không biết sử dụng phương tiện giao thông (hiện
đã có nhiều thanh niên đã biết đi xe máy và xuất hiện nhiều xe máy tại khu vực
TĐC); họ không quan tâm đến việc làm giấy tờ vì theo họ là mất thời gian vì quan
76
trọng nhất với ngư dân vẫn là vấn đề đảm bảo cuộc sống và giấy tờ không làm ra
tiền. Thậm chí, khi chính quyền địa phương rà soát, kê khai để làm giấy khai sinh,
hộ khẩu, nhưng ngư dân không nhớ rõ con, em mình sinh vào năm nào mà dựa vào
vụ cá nhâm, cá thu, để ước lượng tuổi của trẻ em. Thậm chí, thúc giục họ làm giấy
tờ, họ cũng không quan tâm. Vì không giấy khai sinh, không hộ khẩu, một số cụ cao
tuổi trong khu chưa được làm chế độ BHYT, chế độ trợ cấp. Lý giải về điều này,
ngư dân cho rằng, việc làm giấy tờ rất rắc rối trong khi lịch con nước thì không đợi
họ. Vì nếu chậm lịch con nước, họ có thể mất một mẻ thu hoạch lớn.
được tạo ra để thích ứng với nó. Giờ “bốc” họ lên bờ, môi trường sống đã
khác tạo ra văn hóa khác văn hóa khi họ còn ở dưới nước. Như vậy đã tạo ra
những khó khăn, thách thức đối với việc hòa nhập vào cuộc sống trên bờ
của ngư dân. Người dân chài hiện còn gặp nhiều khó khăn trong thích ứng
với cuộc sống mới”.
“Văn hóa liên quan tới môi trường sống, môi trường sống nào thì văn hóa sẽ
Nguồn: Phỏng vấn ông Nguyễn Tr. H, phòng Quản lý di sản, Sở VHTTDL
Quảng Ninh, ngày 20/4/2016
3.2.1. Hội nhập trong lao động sản xuất
Nhiều ngư dân khi chuyển lên khu TĐC (đặc biệt là những người cao tuổi
với nhiều hiểu biết, trăn trở và có tư tưởng truyền thống) đã không khỏi nuối tiếc
khi những lài chài tồn tại hàng trăm năm, tấp nập tàu thuyền và mang không khí sôi
động từ những sinh hoạt của ngư dân sẽ mất đi. Họ lo lắng sẽ khó sống được trên bờ
bởi những tập tục, nếp sống, các phương thức mà họ sử dụng để đương đầu với môi
trường tự nhiên, những cách thức họ khai thác tự nhiên để sống, để cùng nhau tồn
tại sẽ không thể thích ứng được với lối sống đô thị. Đặc điểm cư trú nương theo
điều kiện tự nhiên tạo ra sự chia cắt, tách biệt cộng đồng ngư dân vạn chài với cuộc
sống bên ngoài giúp lưu giữ được nhiều yếu tố văn hóa, tri thức địa phương. Các tri
thức dân gian, kinh nghiệm đi biển được trao truyền qua nhiều thế hệ và điểm tựa tự
nhiên đã giúp họ đảm bảo được cuộc sống, nuôi sống được gia đình bằng nghề
truyền thống là những rào cản để họ có thể thích ứng được với các công việc mới.
Do vậy, quan niệm của ngư dân là vẫn bám biển, vẫn tiếp tục sinh kế truyền thống
77
dù có nhà trên khu TĐC. Đây là một đặc điểm khiến quá trình hội nhập vào hoạt
động lao động – sản xuất của ngư dân tại khu TĐC không diễn ra thuận lợi như
mong muốn của chính quyền khi thực hiện TĐC và hỗ trợ việc làm.
Việc hòa nhập, thích nghi với hoạt động lao động sản xuất có vai trò quan
trọng trong việc ổn định cuộc sống, là tiền đề để tạo ra những ổn định, thúc đẩy tiến
trình hòa nhập, thích nghi với cuộc sống mới. Hơn nữa, chính yếu tố mang tính chất
kinh tế này (không đơn thuần chỉ là các hoạt động kinh tế) còn là yếu tố quan trọng
về mặt vật chất để duy trì sự tồn tại của một cộng đồng. Đồng thời đây cũng là
thước đo để đánh giá sự phát triển. Trong trường hợp của ngư dân vạn chài, bối
cảnh của cuộc sống mới là môi trường đô thị, có nhiều công việc họ có thể tham gia
như đi làm công nhân than, công nhân nuôi trai, làm nghề đan lưới, các công việc
mùa vụ như làm phu hồ... Tuy nhiên, họ lại khó tiếp thu với công việc do thiếu kỹ
năng và những công việc này không đảm bảo nguồn thu nhập. Trước đây khi ở dưới
biển, một cụ bà cũng thế bơi qua vụng này vụng kia để bắt hải sản, ai cũng có thể đi
đánh hà, chèo thuyền hoặc buôn bán tạp hóa để có thu nhập. Từ khi di cư lên khu
TĐC, phí sinh hoạt hàng tháng tăng lên vì mọi mặt hàng đều phải mua trong khi
ngư dân chưa tìm ra phương thức kiếm sống phù hợp với môi trường mới để trang
trải cho cuộc sống. Khi hỏi ngư dân về thu nhập hiện nay, họ nói rằng thu nhập
giảm đi khoảng 2-3 triệu đồng mỗi tháng so với trước đây. Do đó, có nhiều hộ ngư
dân đã gặp khó khăn trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày bởi nhiều hộ không thể
trang trải sinh hoạt phí. Bên cạnh đó, ngư dân không muốn ràng bị ràng buộc vào
những điều kiện hợp đồng lao động. Một phần, do thói quen bám biển, dựa vào
nguồn lợi tự nhiên có sẵn và ỷ lại vào chính sách hỗ trợ của chính quyền, ngư dân
cho rằng, chính quyền phải có trách nhiệm với công việc của họ bởi đã đưa họ lên
khu TĐC thì không thể bỏ mặc họ như vậy.
Thông thường, với trình độ thấp, ngư dân dễ dàng tìm được các công việc
tạm thời, không ổn định như phụ hồ, công nhân thời vụ... Nhưng do không hiểu
cuộc sống trên bờ, có một nhóm ngư dân tham gia xây dựng đã bị chậm lương,
thậm chí là bị lừa vì không có điều kiện hợp đồng ràng buộc, không có gì chứng
minh họ đã làm thuê cho người chủ đó. Cho tới thời điểm khảo sát (7/2016), theo
78
phản ánh của một số người dân, nhóm người đó vẫn chưa được trả lương. Do đó, để
quen dần với cách thức kiếm sống trên bờ thì ngư dân vẫn cần có thời gian để thích
ứng.
Theo số liệu từ trưởng khu Nguyễn Văn Hải, chỉ có khoảng 60 người chuyển
nghề tại Khu TĐC (trong khi số người trong độ tuổi lao động là 889 người) với các
công việc như chạy xe ôm (9 người), taxi (1 người) và một số làm công nhân cho
một số cơ sở nuôi trai, công nhân mỏ than nhưng thu nhập bấp bênh và có trường
hợp bỏ nghề, chiếm tỉ lệ 3,8% tổng số cư dân trên khu TĐC và 6,75% dân số trong
độ tuổi lao động. Trên thực tế, nếu tính các hộ tự tạo việc làm tại nhà thì có khoảng
46 hộ với 76 lao động tại chỗ. Tuy nhiên, đây là một tỉ lệ rất nhỏ, cho thấy chính
sách hỗ trợ học nghề và chuyển đổi nghề của chính quyền chưa đạt hiệu quả. Tại
khu TĐC cũng đã xuất hiện một số hộ, cá nhân làm dịch vụ như bán tạp hóa, cắt
tóc... Theo khảo sát, hiện tại có 26 hộ buôn bán tạp hóa và 2 hộ kinh doanh dịch vụ
internet, 1 hộ kinh doanh dịch vụ cafe, nước giải khát và các dịch vụ khác như sửa
xe, trà đá... Đây là cách thức mà những hộ có điều kiện thực hiện để đảm bảo thu
nhập và duy trì sinh hoạt trên đất liền. Một số hộ nam giới vấn đi biển, nữ giới ở
nhà trông con và buôn bán, điều này cũng đã làm thay đổi vai trò của người phụ nữ
trong gia đình hiện nay so với trước kia.
Theo số liệu thống kê, số người đi biển trong thời gian đầu khi lên khu TĐC
khoảng 400 người, nếu tính theo số hộ thì có khoảng gần 70-80 hộ vẫn làm nghề
biển trong thời gian đầu. Trong thời gian gần đây có đến 70-80% (60% số hộ đóng
cửa then cài thường xuyên do quay trở lại biển) số hộ tại khu TĐC quay trở về với
nghề cũ, một dấu hiệu cho thấy sự thất bại của phương án chuyển đổi nghề. Đây
cũng là một điều kiện cho sự bảo lưu các thực hành văn hóa gắn liền với môi trường
biển và nghề chài lưới. Như vậy, bên cạnh một bộ phận nhỏ cư dân theo đuổi chiến
lược sinh kế mới với các công việc ở trên bờ, phần lớn người dân tiêp tục thực hành
hoạt động đánh bắt cá truyền thống. Và thực tế, công việc này còn đem lại thu nhập
ổn định hơn và hiệu quả hơn so với những công việc trên bờ mà họ chưa thể thích
nghi. Thêm vào đó là vấn để bảo tồn di sản văn hóa, di sản tự nhiên để phục vụ phát
triển du lịch đã góp phần bảo tồn ở mức độ nhất định các bản sắc của ngư dân vạn
chài. Và như vậy, để chính sách chuyển đổi nghề thực sự có hiệu quả hay chưa vẫn
79
cần một quá trình lâu dài.
3.2.2. Hội nhập với hoạt động sinh hoạt – tiêu dùng
Ở dưới làng chài trước đây, ngư dân bên cạnh hoạt động sản xuất còn có
những người làm nghề dịch vụ như chèo đò, buôn bán lương thực thực phẩm, nước
ngọt. Họ chở người từ chợ xuống buôn bán hoặc chở người dưới làng chài lên bờ.
Do hạn chế về điều kiện đi lại, hoạt động buôn bán – trao đổi cũng chỉ dừng lại ở
việc mua thực phẩm thiết yếu như muối, nước, rau quả. Nói chung, hoạt động sinh
hoạt – tiêu dùng không đóng vai trò quá quan trọng. Do sống biệt lập, cách xa đất
liền, thuyền nhỏ, thô sơ, có ít thuyền tốc độ cao, ca nô nên ngư dân chỉ vào bờ khi
bán cá, kết hợp với mua lương thực, thực phẩm. Nguồn thức ăn hoàn toàn phụ thuộc
vào biển, đánh bắt được gì ăn nấy.
Trên khu TĐC, mọi thứ đều phải mua thông qua mua bán. Trước đây khi ở
dưới làng chài, về cơ bản đáp ứng được những nhu cầu sinh hoạt do có sẵn nguồn
thực phẩm. Thêm vào đó, những thứ cần thiết như mắm, muối, gạo, nước ngọt được
cung cấp đầy đủ với những mức giá mà ngư dân chấp nhận được. Quan trọng hơn
cả là có thu nhập đảm bảo cho những nhu cầu sinh hoạt và dư thừa để tích lũy. Bởi
ở dưới biển, ai cũng có việc làm. Những người già không ra khơi được thì chỉ cần
một chiếc cần câu để bắt mực, cá là có thể đủ tiền trang trải qua ngày. Lên khu
TĐC, mức thu nhập thực tế giảm dù có việc làm, với những trường hợp không tìm
kiếm được việt thì cuộc sống không khác nào “tách con cá khỏi mặt nước”. Bên
cạnh đó, họ phải chi nhiều khoản hơn để đảm bảo cho mức sinh hoạt trung bình trên
đất liền. Mặc dù ngư dân buộc phải thích ứng với hoạt động sinh hoạt – tiêu dùng vì
nhu cầu tồn tại và phát triển, nhưng thu nhập lại không đủ để đảm bảo những nhu
cầu đó.
Khu TĐC cũng nằm cách khá xa chợ, phần lớn phụ nữ chưa biết đi xe máy
nên hoạt động sinh hoạt – tiêu dùng cũng chủ yếu diễn ra ở chợ tạm và các cửa hàng
tạp hóa trong khu. Thu hút được đông đảo ngư dân là những cửa hàng bia hơi.
Trong những tháng đầu tiên tách khỏi mặt biển, sự hào hứng cùng với niềm lạc
quan về một tương lai ổn định và với số tiền tích lũy ít ỏi, rất nhiều người đã sa vào
tệ nạn rượu bia. Hiện nay, những tệ nạn trên đã giảm bớt do sự vào cuộc quyết liệt
80
của chính quyền địa phương. Ngư dân phần lớn đã quay trở lại nghề truyền thống.
Các hoạt động đảm bảo sinh hoạt dưới thuyền về cơ bản không khác trước lúc di
dân.
3.2.3. Hòa nhập với đời sống văn hóa – tinh thần
Ngư dân vạn chài Hạ Long vốn đã hình thành lối sống đặc thù, được quy
định bởi các điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội. Vì vậy, để một định hướng giá trị
được hình thành bởi vốn văn hóa của ngư dân hòa nhập vào môi trường đô thị xa lạ
là không dễ dàng. Có nhiều gia đình khi thực hiện chủ trương chính sách của Tỉnh
Quảng Ninh di dân lên bờ họ cảm thấy nuối tiếc những kỷ niệm, những tập tục,
những nếp sống vốn tồn tại trong tâm thức của họ từ bao đời nay. Khi di chuyển lên
bờ họ vẫn giữ lại chiếc thuyền của mình vừa làm vật làm kỷ niệm vừa làm phương
tiện kiếm sống. Quan niệm của họ là cho dù có đưa gia đình lên bờ nhưng họ vẫn
bám biển, bám thuyền, bám lấy những kinh nghiệm tri thức cha ông truyền dạy để
tiếp tục đánh bắt, duy trì truyền thống tốt đẹp của ngư dân làng chài. Họ vốn là
người sinh ra và lớn lên dưới biển nên họ hiểu biển hơn ai hết và biển giúp họ có
tiền, có thu nhập nuôi sống gia đình bằng nghề đánh bắt truyền thống. Những người
cao tuổi buồn bã vì sự thay đổi, đặc biệt là những tác động từ các luồng văn hóa đô
thị tới những người trẻ khi thanh niên trở lên lười biếng, thích ăn diện, nhuộm tóc
lòe loẹt, chơi bi-a, cờ bạc và hút chích, đánh nhau. Người già cũng thường khó thích
ứng với những thay đổi đột ngột về môi trường sống và văn hóa. Họ không quen
sống trên bờ và nhiều đêm ngủ họ còn cảm giác có tiếng sóng xung quanh. Môi
trường thay đổi cũng khiến họ dễ mắc bệnh hơn.
Thanh niên vạn chài là những người dễ hấp thụ trên bề nổi văn hóa đô thị thể
hiện qua cách ăn mặc. Những thanh niên vốn quen với nắng, gió nơi biển cả khi lên
khu TĐC nhanh chóng thay đổi theo những biểu hiển bề ngoài như nhuộm tóc, thay
đổi kiểu quần áo và dễ sa vào các tệ nạn như rượu chè, cờ bạc. Các hình thức cờ bạc
như máy đánh xu, xèng nở rộ trong thời gian đầu, thu hút nhiều thanh niên làng
chài. Sau đó, bằng sự chấn chỉnh quyết liệt của chính quyền, các loại hình cờ bạc
81
này đã bị dẹp bỏ.
3.2.4. Hòa nhập với đời sống chính trị - xã hội
Để ngư dân tham gia vào đời sống chính trị - xã hội, từ khi khu TĐC làng
chài Hà Phong được hình thành, Ban Văn hóa phường Hà Phong đã kết hợp với các
cơ quan, ban ngành, các tổ chức chính trị liên quan để cùng thực hiện tuyên truyền
đường lối chính sách pháp luật của Nhà nước cũng như các kế hoạch, nội dung của
phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa đến người dân ở làng chài.
Cụ thể như sau:
Tổ chức một buổi tuyên truyền về Luật hôn nhân và gia đình; Luật phòng
chống bạo lực gia đình; Công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình; Quyền trẻ em;
Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em do UBND phường Hà Phong phối hợp
với Trung tâm Dân số- Kế hoạch hóa gia đình và Phòng Lao động, Thương binh,
Xã hội tỉnh Quảng Ninh thực hiện.
Tổ chức một buổi tuyên truyền về việc thực hiện nếp sống văn minh, xây
dựng gia đình văn hóa, tổ dân phố văn hóa, theo như chỉ thị số 27/CT-TƯ của Ban
Thường vụ tỉnh ủy do UBND phường Hà Phong phối hợp với Trung tâm Văn hóa
Thể thao tỉnh Quảng Ninh thực hiện.
Tổ chức một buổi tuyên truyền về luật an toàn giao thông cho 150 người dân
Khu tái định cư làng chài Hà Phong, buổi tuyên truyền này do UBND phường Hà
Phong và Ban an toàn giao thông tỉnh phối hợp tổ chức.
Tổ chức bốn buổi tuyên truyền về học nghề, giải quyết việc làm; hai buổi về
đảm bảo vệ sinh môi trường, trật tự đô thị; một buổi về xóa mù chữ; hai buổi về các
chính sách an sinh xã hội, bảo hiểm y tế do UBND phường Hà Phong phối hợp với
Phòng Lao động, Thương binh, Xã hội và một số trường đào tạo nghề trên địa bàn
cùng thực hiện.
Tuy nhiên, ngư dân chưa thực sự hòa nhập được vào đời sống chính trị - xã
hội tại nơi ở mới. Ngư dân ở khu TĐC ít tham gia các hoạt động liên quan đến đời
sống chính trị - xã hội. Điều ngày bắt nguồn từ yêu cầu công việc phải tuân theo
lịch con nước, mùa vụ, cùng với việc bến thuyền chưa xây dựng xong khiến khoảng
cách đi lại trở nên xa xôi nên họ thường ở dưới biển 2-3 tháng mới về, thậm chí có
82
người cả năm mới về khu phố làng chài trong dịp Tết. Do vậy, các cuộc họp dân
thường ngư dân không đóng góp ý kiến. Thậm chí, khi chính quyền chủ trương
chứng minh thư, hộ khẩu, ngư dân cũng không quan tâm vì với họ, việc đi làm giấy
tờ là phiền phức và tốn thời gian, lịch con nước không chờ đợi họ.
Trong việc hoàn thiện các tổ chức chính trị của khu phố, khu TĐC cũng đã
thành lập được: Chi Hội Người cao tuổi có 67 hội viên; Chi Hội phụ nữ 70 hội viên;
Chi hội Nông dân 65 hội viên; Chi đoàn thanh niên có 10 đoàn viên. Tuy nhiên, các
Hội này đều hoạt động không đầy đủ. Đoàn viên thanh niên không tham gia thường
xuyên do quay trở lại biển khai thác kinh hải sản.
3.3. Một số bàn luận
Các kết quả nghiên cứu của luận văn cho thấy, từ khi sinh sống trên khu
TĐC, ngoài những thụ hưởng mới về đời sống vật chất cũng như các dịch vụ cơ bản
của cuộc sống, ngư dân gặp thêm nhiều khó khăn hơn ngay trong việc thực hành
sinh kế truyền thống cũng như các trở ngại trong hòa nhập vào đời sống ở đất liên
trong bối cảnh đô thị. Như vậy, chính sách đưa ngư dân lên bờ là đúng hay sai? Đây
là một câu hỏi có tính mở mà câu trả lời tùy thuộc vào quan điểm cũng như cách lập
luận của những nhà nghiên cứu, nhà quản lý.
Có ý kiến cho rằng, chủ trương này là đúng bởi Vịnh Hạ Long là di sản thiên
nhiên thế giới, cần tôn trọng nghiêm ngặt các quy định về bảo vệ môi trường cũng
như tính bền vững của di sản, tránh những tác động có thể gây ra những biến dạng
đối với di sản. Hơn nữa, không gian biển là của chung, không thể trở thành nơi bị
chiếm giữ làm của riêng, cùng với đó là việc tăng dân số sinh học và cơ học dẫn đến
số lượng nhà bè tăng lên, chiếm lấy không gian vịnh. Với việc sinh sống lênh đênh
trên mặt biển, sự quản lý của chính quyền sẽ không được sâu sát. Vịnh Hạ Long với
nhiều đảo đá, dễ dàng thành nơi ẩn náu cho các tội phạm trốn nã, gây phương hại
đến an ninh. Thêm vào đó là khuyến nghị của Ủy ban di sản thế giới thuộc
UNESCO trước những báo cáo về tình hình ô nhiễm môi trường và sức tải của Vịnh
Hạ Long nên việc di dân lên bờ là việc làm phù hợp. Trong trường hợp phát triển du
lịch, một số nơi như quần đảo Hawaii, các bờ biển được bảo vệ nghiêm ngặt, không
được phép chiếm giữ làm của riêng. Họ có những cách thức để quản lý rác thải hiệu
quả để tránh những tổn hại tới môi trường. Bởi vậy, vấn đề sai ở đây không nằm ở
83
chủ trương mà là ở cách thức thực hiện chủ trương di dời này ra sao. Việc tổ chức
định cư phải đảm bảo đáp ứng được các nhu cầu của cộng đồng, có các phương án
hỗ trợ sau di cư và có các phương thức tổ chức để đảm bảo cho ngư dân thực hiện
nghề truyền thống của mình bởi đây là nghề đã gắn bó với họ, là các tri thức, các
thực hành văn hóa, là cả một “khoa học cộng đồng” về cuộc sống, về khai thác, về
cách thức đương đầu với thiên nhiên, bệnh tật,... Do đó, dù có TĐC trên bờ nhưng
việc đảm bảo nghề biển, hỗ trợ ngư dân dần thích ứng với cuộc sống và công việc
trên đất liền nếu không được chú trọng sẽ đưa tới sự hạn chế của một chủ trương
vừa có tính nhân văn, vừa phù hợp với Luật Di sản và các Công ước của thế giới về
bảo vệ di sản văn hóa, di sản tự nhiên.
Luồng ý kiến khác và cũng là quan điểm của tác giả luận văn rút ra từ những
tìm hiểu về biến đổi văn hóa, sinh kế và những thách thức mà ngư dân đang đối mặt
trong môi trường sống mới, là việc di dời ngư dân là không cần thiết. Trước hết, để
phát triển du lịch cần sử dụng và khai thác nguồn tài nguyên du lịch, trong đó có
nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên, nguồn tài nguyên du lịch nhân văn để tạo sức hút
cho điểm đến, đáp ứng được nhu cầu và động cơ du lịch của du khách. Làng chài
trên Vịnh Hạ Long là một nguồn tài nguyên nhân văn được khai thác trong xây
dựng các chương trình du lịch, tạo hình ảnh điểm đến, nâng cao sức hút cho du lịch
của tỉnh Quảng Ninh nói chung, du lịch Hạ Long nói riêng. Do đó, cần giữ lại các
làng chài này nhưng phải có phương thức quản lý hiệu quả để xử lý nguồn rác thải,
cũng như các cách thức cung cấp và đảm bảo các dịch vụ công cơ bản và hạn chế sự
gia tăng nhà bè. Tuy nhiên, cách làm này là rất khó, đòi hỏi nhiều nguồn lực đầu tư
và vận hành mô hình quản lý. Nhưng đổi lại, sẽ có một di sản thiên nhiên vừa hùng
vĩ, vừa sống động bởi có các hoạt động sống của con người với những thực hành
văn hóa, sinh kế được thực hiện, sáng tạo hàng ngày. Áp dụng lý thuyết du lịch
cộng đồng, xây dựng mô hình quản lý di sản gắn với phát triển du lịch, trong đó có
du lịch cộng đồng cũng là một cách thức hiệu quả để tạo ra những kết quả kép: vừa
phát triển kinh tế cho cộng đồng, cho địa phương, vừa xây dựng được ý thức bảo vệ
di sản của cộng đồng ngư dân vạn chài Hạ Long – những người hàng ngày tương
tác với môi trường tự nhiên, sinh thái của Vịnh.
Những tranh luận này đều có hạt nhân hợp lý và mục tiêu chung đều hướng
84
tới phát triển cộng đồng, đảm bảo cho cộng đồng ngư dân vạn chài trên vịnh Hạ
Long được thụ hưởng những điều kiện cuộc sống tốt hơn, có các cơ hội để phát
triển kinh tế cũng như được tiếp cận, hưởng thụ các dịch vụ văn hóa. Bên cạnh đó là
những ý thức, trăn trở trong việc bảo tồn bền vững Di sản thiên nhiên Thế giới Vịnh
Hạ Long.
Thực tế, ngư dân đã lên khu TĐC được hơn 2 năm. Những mong mỏi cấp
thiết của họ hiện nay là việc hoàn thiện bãi đậu Cái Xà Cong để ngư dân có nơi neo
đậu, tạo sự thuận tiện cho công việc khai thác thủy sản, cũng như có những quy
hoạch về bãi nuôi hải sản trong lồng bè. Ngoài ra, cần xây dựng chợ đầu mối để hỗ
trợ ngư dân trong buôn bán các sản phẩm từ khai thác và nuôi trồng hải sản của họ.
Đây là việc làm cấp thiết nhất vì sự ổn định về kinh tế sẽ tạo ra những tiền đề về vật
chất để ổn định cuộc sống, đảm bảo và nâng cao khả năng thụ hưởng văn hóa sau
này.
Tiểu kết chương 3
Dù định cư trên bờ nhưng ngư dân vạn chài Hạ Long vẫn phải bám biển để
thực hành chiến lược sinh kế truyền thống. Kế hoạch chuyển đổi nghề cho ngư dân
của chính quyền về cơ bản chưa diễn ra theo dự định bởi trên thực tế, các biện pháp
nhằm chuyển đổi nghề của chính quyền Tp.Hạ Long chưa thật sự thiết thực với
người dân làng chài. Những công việc mới khó phù hợp với những người “tay vốn
quen chài lưới”. Như đã phân tích, các nguồn vốn sinh kế của cộng đồng ngư dân
không đủ để theo đuổi các chiến lược sinh kế mới trong khi chính sách di dân và
TĐC lại tạo ra những khó khăn cho sinh kế truyền thống. Điều này đưa tới những
khó khăn, thách thức nhiều hơn so với khi ngư dân còn ở dưới các làng chài. Theo
bà Nguyễn Thị Loan, trưởng phòng Lao động Thương Binh Xã hội TP.Hạ Long
“Mục tiêu của thành phố là chuyển đổi nghề. Sau này, mới thấy đây (nghề đánh bắt
hải sản) cũng là nghề của người ta” [76]. Do đó, thời gian đầu, mục tiêu chuyển
nghề về cơ bản đã đi sai hướng.
Yếu tố kinh tế đóng vai trò quan trọng trong đánh giá các dự án phát triển
cộng đồng. Đây cũng là cơ sở để tạo ra sự ổn định, thúc đẩy tiến trình hòa nhập,
thích nghi với cuộc sống mới. Tuy nhiên, ngư dân vốn dĩ mong đợi một cuộc sống
85
tốt hơn, đảm bảo hơn lại thất vọng với thực tế khi gặp khó khăn trong hòa nhập với
lao động – sản xuất trên đất liền, kéo theo đó là những khó khăn khi hòa nhập vào
đời sống văn hóa tại khu TĐC. Đây cũng là nguyên nhân thúc đẩy quá trình quay
trở lại sinh kế truyền thống, tạo điều kiện bảo lưu các thực hành văn hóa liên quan
tới lao động – sản xuất của ngư dân vạn chài. Một khi họ còn thực hành nghề truyền
thống gắn với môi trường biển thì các yếu tố tín ngưỡng, phong tục liên quan chưa
dễ dàng thay đổi.
Từ những khó khăn mà ngư dân phải đối mặt, cần khẳng định: Những thay
đổi về chính sách phải hướng tới phát triển bền vững và phù hợp với nhu cầu của
người dân, đặc biệt về mặt văn hóa. Quá trình di dân cưỡng bức để lại nhiều tác
động lớn tới các cộng đồng về mặt văn hóa. Do đó đòi hỏi sự thận trọng, có các
86
nghiên cứu khoa học, các thử nghiệm để đúc rút kinh nghiệm.
KẾT LUẬN
1. TĐC không đơn thuần là hoạt động dịch chuyển cư dân. Xét trên phương
diện chính sách, TĐC là một quá trình xét đến nhiều chiều cạnh, từ đảm bảo chỗ ở
đến các vấn đề an sinh xã hội, vấn đề hỗ trợ việc làm và những thay đổi trong lối
sống của một cộng đồng do những tác động từ mà chính sách đưa tới. Đối với cộng
đồng ngư dân vạn chài Hạ Long, TĐC là một dấu mốc cho một bước chuyển trong
tiến trình lịch sử văn hóa cộng đồng, từ quá trình hình thành, phát triển, tồn tại và
hiện nay đang đối diện với những thách thức của sự thay đổi, thậm chí là tan rã
cộng đồng. Theo chúng tôi, TĐC đã tiềm ẩn nguy cơ mai một, sẽ từng bước làm
mất đi đặc trưng văn hóa của cộng đồng này bởi trong môi trường sống mới, ngư
dân có điều kiện thuận lợi về giao thương, tạo ra những tiếp xúc văn hóa – xã hội
mới; phải tự thay đổi trong nhận thức, theo đuổi nghề mới hoặc các kỹ thuật sản
xuất mới, làm thay đổi thói quen sản xuất, đưa tới những biến đổi văn hóa.
2. Cộng đồng ngư dân vạn chài Hạ Long vốn sinh sống, tương tác trong một
quá trình lâu dài với môi trường biển, họ đã tạo ra cho mình vốn văn hóa, vốn tri
thức dân gian để có thể đương đầu với sóng gió của thiên nhiên và tồn tại đời nối
đời, tạo nên một cộng đồng khá biệt lập, có những nét đặc trưng về văn hóa, kinh tế
dù chỉ cách trung tâm thành phố Hạ Long khoảng hơn 30km. Dự án di dời nhà bè
và TĐC đã có tác động làm biến đổi một số thực hành văn hóa do sự thay đổi về
môi trường sống, sinh kế và bối cảnh văn hóa. Tuy nhiên, những thay đổi này chủ
yếu được nhận diện ở góc độ vật chất và một số thực hành văn hóa thường ngày.
Những phong tục tập quán gắn bó với cuộc sống sinh hoạt và khai thác kinh tế của
ngư dân vốn chưa phai nhạt lại được củng cố bởi quá trình quay trở lại sinh kế
truyền thống của ngư dân. Tuy chưa có những thay đổi mạnh mẽ trong những thực
hành văn hóa mang tính chất là những phong tục, tập quán đã ăn sâu vào tâm thức
ngư dân nhiều đời, những thay đổi như phân tích cũng đã tạo ra những bước chuyển
mới trong một giai đoạn của lịch sử cộng đồng ngư dân. Đó là việc một cộng đồng
tương đối thuần nhất đang có những biến chuyển thành các nhóm được quy định
bởi các hoạt động kinh tế khác nhau. Về lâu dài, xu hướng này sẽ đưa đến những
thay đổi trong tư duy, trong các thực hành văn hóa, đưa đến sự phân hóa trong nội
87
bộ cộng đồng. Có thể nói, đây là một giai đoạn có tính chất bước ngoặt, tạo ra
những thay đổi mang tính lịch sử của cộng đồng. Trong tương lai, khi những người
kế cận không tiếp tục theo đuổi sinh kế truyền thống hoặc sự hạn chế khai thác buộc
ngư dân chấp nhận tìm kiếm những công việc trên bờ, có thể cộng đồng ngư dân
vạn chài sẽ chỉ còn tồn tại trên những ghi chép lịch sử.
Qua nghiên cứu trường hợp biến đổi văn hóa của ngư dân vạn chài Hạ Long,
có thể thấy các biến đổi văn hóa một mặt phụ thuộc vào quá trình biến đổi kinh tế -
xã hội, mặt khác các biểu hiện biến đổi chỉ mang tính nhất thời, không bền vững
nếu như không đảm bảo được sự ổn định kinh tế - xã hội.
3. Như đã phân tích, mục tiêu của dự án TĐC là nhằm cung cấp một không
gian sống mới với những ngôi nhà kiên cố, chuyển đổi nghề nghiệp để ngư dân có
thể sống ổn định trên đất liền bằng việc đào tạo nghề và hỗ trợ vay vốn. Nhưng trên
thực tế, dự án này đã không thành công với tư duy “chuyển bè, chuyển nghề”. Bởi
điều đó không khác việc tách “cá ra khỏi nước” khi ngư dân chưa có một quá trình
được hỗ trợ, trang bị những tri thức mới để hòa nhập vào hoạt động lao động sản
xuất trên bờ. Họ không thích ứng được với những công việc mới, cũng không thể
đảm bảo được sinh hoạt cho gia đình từ nguồn lương thu được từ những công việc
mà vốn dĩ họ không quen làm. Ngược lại, việc di dân còn tạo thêm cho họ những
khó khăn khi trở lại sinh kế truyền thống. Trong quá trình thực hiện kế hoạch di cư,
sự tham gia của cộng đồng còn hạn chế bởi họ tin tưởng vào chính sách của Nhà
nước và hy vọng về một tương lai ổn định. Tuy nhiên, thực tế trên khu TĐC cho
thấy một hiện trạng: ngư dân rơi vào trạng thái nợ nần, không có việc làm và không
cải thiện được thu nhập. Điều đó đã thôi thúc họ quay trở lại với nghề khai thác và
nuôi trồng hải sản trong những điều kiện khó khăn hơn. Bởi vậy, ngư dân mong
muốn được hỗ trợ để thực hành sinh kế truyền thống. Trong khi đó, việc thực hiện
các giải pháp quy hoạch tổng thể về nhà ở - cảng cá - bến neo tàu thuyền chưa được
thực hiện đồng bộ đã gây ra khó khăn cho ngư dân. Việc triển khai xây dựng bến
đậu "Cái Xà Cong" còn chậm trễ. Trên thực tế, sau 2 năm, bến Cái Xà Cong mới
được xây 6 bậc kè đá, việc nạo vét, khơi thông luồng lạch chưa biết đến khi nào
hoàn thành khiến thuyền của ngư dân không thể đậu tại đây cũng như di chuyển ra
ngư trường. Những khó khăn và thách thức như vậy về cơ bản đã tạo ra lực cản cho
88
việc phát triển cộng đồng ngư dân vạn chài.
4.Vì vậy, cần có những giải pháp hiệu quả để hỗ trợ ngư dân trong quá trình
hội nhập và thích nghi với cuộc sống mới tại khu TĐC. Các chính sách này phải
tuân theo các nguyên tắc trong phát triển cộng đồng: đó là có sự tham vấn của cộng
đồng, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của cộng đồng. Do đó, cần có những khảo sát,
nghiên cứu kỹ về cộng đồng ngư dân vạn chài Hạ Long; đánh giá nhu cầu, năng lực;
xác định các nguồn lực và trở ngại để xây dựng các chương trình, kế hoạch phát
89
triển phù hợp với thực tiễn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. A.A Belik (2000), Văn hoá học, Những lý thuyết nhân học văn hóa, Tạp chí
Văn hóa Nghệ thuật, H
2. Trần Thị Mai An (2010), Phác thảo yếu tố biển trong văn hóa Việt Nam,
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Đà Nẵng, số 6, tr.90-95
3. Đào Duy Anh (1992), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb. Thành phố Hồ Chí
Minh, khoa Sử trường ĐH Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, HCM.
4. Đặng Nguyên Anh (1998), Vai trò của mạng lưới xã hội trong quá trình di
cư, Tạp chí Xã hội học, số 2, tr.16-24
5. Đặng Nguyên Anh (1999), Di dân và quản lý di dân trong giai đoạn phát
triển mới: Một số suy nghĩ từ góc độ nghiên cứu, Tạp chí Xã hội học, số 3 và 4,
tr39-44
6. Đặng Nguyên Anh (2006), Chính sách di dân trong quá trình phát triển
kinh tế xã hội ở các tính miền núi, Nxb. Thế giới, H.
7. Nguyễn Tuấn Anh (2012), Quan hệ họ hàng – một nguồn vốn xã hội trong
phát triển kinh tế hộ gia đình nông thôn, Tạp chí Nghiên cứu con người, số 1, tr.48-
61
8. Ngọc Căn (2004), Trung tâm văn hóa nổi Cửa Vạn –Nét riêng của Vịnh Hạ
Long, Tạp chí Di sản văn hóa, số 8, tr. 75-80
9. Nguyễn Thị Phương Châm (2009), Biến đổi văn hóa ở các làng quê hiện
nay (trường hợp làng, Đồng Kỵ, Trang Liệt và Đình Bảng thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh
Bắc Ninh), Nxb. Văn hóa thông tin và Viện Văn hóa, H.
10. Đoàn Văn Chúc (1997), Văn hóa học, Nxb. Văn hóa thông tin, H
11. Hoàng Văn Chức (2004), Di dân tự do đến Hà Nội, thực trạng và giải pháp
quản lí, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, H.
12. Nguyễn Huệ Chi (1992), Quảng Ninh – Lịch sử và danh thằng, Nxb. Quảng
Ninh
13. Phạm Tất Dong (2007) , Xã hội học đại cương, Nxb. Đại học Quốc gia Hà
90
Nội, H.
14. Phan Đại Doãn (2010), Làng xã Việt Nam, một số vấn đề kinh tế, văn hóa, xã
hội, Nxb. Chính trị Quốc gia, H
15. Hải Dương (2006), Khai thác giá trị văn hoá vịnh Hạ Long phục vụ phát
triển du lịch, Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 12, tr.17-18
16. Nguyễn Thị Thùy Dương (2001), Đời sống ngư dân thủy cư vùng Vịnh Hạ
Long, Khóa luận cử nhân, Khoa Lịch sử, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
(ĐHQGHN)
17. Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, Đại học KHXH và NV Tp. Hồ Chí
Minh, Khoa Nhân học (2008), Nhân học đại cương, NXb. Đại học quốc gia Tp. Hồ
Chí Minh, HCM
18. Lê Sỹ Giáo (1993), Vấn đề không gian sinh tồn và quyền kinh tế, Tạp chí
Dân tộc học, số 3
19. Đinh Quang Hà (2014), Di dân tự do nông thôn – đô thị với trật tự xã hội ở
Hà Nội, Luận án Tiến sỹ Xã hội học, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
20. Trần Đình Hằng (2014), Bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số
vùng di dân tái định cư ở miền Trung do xây dựng các công trình thủy điện, Đề tài
Khoa học cấp Bộ, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, H.
21. Nguyễn Đình Hòe (2001), Dân số, định cư và môi trường, Nxb. Đại học
quốc gia Hà Nội, H.
22. Hội đồng Nhân dân thành phố Hạ Long, Báo cáo kết quả giám sát việc thực
hiện Đề án di dời nhà bè trên Vịnh Hạ Long, số 128/BC-HĐND, Hạ Long ngày
29/12/2014
23. Tô Duy Hợp, Lương Hồng Quang (2000), Phát triển cộng đồng: Lý thuyết
và vận dụng, Nxb. Văn hóa – thông tin, H.
24. Lê Ngọc Hùng (2008), Vốn xã hội, vốn con người và mạng lưới xã hội
qua một số nghiên cứu ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Con người, số 4, tr.45-54
25. Nguyễn Mạnh Hùng (2005), Thấy gì qua việc tổ chức lễ hội văn hóa du
lịch, Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 3, tr. 12,46
26. Nguyễn Thị Minh Huyền (2015), Xây dựng đời sống văn hóa của ngư dân
làng chài Vịnh Hạ Long tại khu tái định cư phường Hà Phong, thành phố Hạ Long,
tỉnh Quảng Ninh, Khóa luận TN cử nhân, Khoa Quản lý văn hóa, Trường Đại học
91
Văn hóa Hà Nội
27. Vũ Quế Hương (2000), Di dân tự do từ nông thôn đến đô thị Hà Nội và
ảnh hưởng kinh tế - xã hội của nó, Luận án Tiến sĩ Địa lý, Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội.
28. Nguyễn Thừa Hỷ (2012), Văn hóa Việt Nam truyền thống – một góc nhìn,
Nxb. Thông tin và truyền thông, H.
29. Nguyễn Văn Kim (2015), Biển với lục địa, biển Việt Nam trong các
không gian biển Đông Nam Á, Tạp chí Phát triển kinh tế Đà Nẵng, số 67, tr.24-33
30. Ngô Thị Phương Lan (2011), Sinh kế, biến đổi sinh thái và sự thích nghi
của con người ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong quá trình chuyển dịch từ
trồng lúa sang nuôi tôm thương mại, Tạp chí Nghiên cứu Con người, số 4, tr. 25-35
31. Đinh Xuân Lập (2012), Bảo tồn và phát huy văn hóa làng chài trong phát
triển du lịch sinh thái cộng đồng trên vịnh Hạ Long (Trung tâm Nghiên cứu Tài
nguyên và Phát triển nông thôn)
32. Trịnh Duy Luân (2009), Tái định cư trong phát triển đô thị và một số vấn
đề kinh tế - xã hội, Tạp chí Xã hội học, số 3, tr. 13-18
33. Nguyễn Xuân Mai, Nguyễn Duy Thắng (2011), “Sinh kế của cộng đồng
ngư dân ven biển: thực trạng và giải pháp”, Tạp chí xã hội học, số 4, tr.54-66
34. Hà Hữu Nga, Nguyễn Văn Hảo (1998), Hạ Long thời tiền sử, NXB Thế
Giới, HN
35. Nguyễn Thị Thế Nguyên (2013), Một số vấn đề chất lượng nước Vịnh Hạ
Long, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Thủy lợi và Môi trường, 42, tr. 40-45
36. Phạm Quỳnh Phương – Hoàng Cầm (2010), Diễn ngôn, chính sách và sự
biến đổi văn hóa – sinh kế tộc người, Nxb. Thế giới, H
37. Lương Hồng Quang chủ biên (2010), Câu chuyện làng Giang – Các khuynh
hướng, giá trị và khuôn mẫu trong một xã hội đang chuyển đổi, Nxb. Đại học Quốc
gia Hà Nội, H
38. Nguyễn Văn Quynh (2004), Định hướng khai thác, phát huy giá trị di sản
thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long, Tạp chí Di sản văn hóa, số 8, tr. 33-41
39. Sở VH-TT-DL tỉnh Quảng Ninh (2010), Di sản văn hóa làng chài vịnh Hạ
92
Long
40. Nguyễn Văn Sửu (2010), “Khung sinh kế bền vững: Một cách phân tích
toàn diện về phát triển và giảm nghèo”, Tạp chí Dân tộc học, số 2, tr.3-12
41. Nguyễn Văn Sửu (2014), Công nghiệp hóa, đô thị hóa và biến đổi sinh kế
ở ven đô Hà Nội, Nxb. Tri thức, H.
42. Nguyễn Thị Tâm (2004), Hát cưới trên thuyền trong đời sống văn hóa
tinh thần của ngư dân thôn Cửa Vạn- Vịnh Hạ Long, Khóa luận Tốt nghiệp Ngành
Văn hóa học, Đại học Văn hóa Hà Nội
43. Trần Đức Thạnh cb (2012), Sức tải môi trường Vịnh Hạ Long – Bái Tử
Long, Nxb. Khoa học tự nhiên và công nghệ, H
44. Phạm Văn Thạng (2011), Mối quan hệ giữa con người và môi trường
trong sự phát triển bền vững ở nước ta, Tạp chí Khoa học trường Đại học Cần Thơ,
18, tr.251-257
45. Nguyễn Công Thái (2004), Di sản Vịnh Hạ Long: Từ góc nhìn lịch sử -
văn hóa, Tạp chí Di sản văn hóa, số 8, tr. 48-51
46. Trần Thu Thảo (2015), Làng chài Cửa Vạn thành phố Hạ Long tỉnh
Quảng Ninh, Luận văn Thạc sỹ Nhân văn, trường Đại học Thái Nguyên
47. Nguyễn Duy Thắng (2007), Sử dụng vốn xã hội trong chiến lược sinh kế
của nông dân ven đô Hà Nội dưới tác động của đô thị hóa, Tạp chí Xã hội học, số 4,
tr.37-47
48. Nguyễn Duy Thiệu (2002), Cộng đồng ngư dân ở Việt Nam, Nxb. Khoa
học Xã hội, H.
49. Nguyễn Duy Thiệu (2014), Vai trò của môi trường biển đảo trong việc
hình thành tính cách người miền biển, Tạp chí Phát triển Kinh tế - xã hội Đà Nẵng,
số 60, tr.42-48
50. Nguyễn Duy Thiệu (2015), Nhận diện văn hóa biển – đảo Việt Nam, Tạp
chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11, tr.78-88
51. Hoàng Bá Thịnh (2009), Vốn xã hội, mạng lưới xã hội và những phí tổn,
Tạp chí Xã hội học, số 1, tr.42-51
52. Ngô Đức Thịnh (2008), Tiếp cận nông thôn Việt Nam từ mạng lưới xã hội
93
và vốn xã hội cho phát triển, Tạp chí Dân tộc học, số 4, tr.3-8
53. Nguyễn Văn Toàn (2012), Ảnh hưởng của chương trình 135 đến sinh kế
của đồng bào dân tộc ít người huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị, Tạp chí Khoa
học, Đại học Huế, Tập 72B, (số 3), tr.356-368
54. Lê Anh Tuấn (2014), Đời sống của người Katu sau TĐC thủy điện A
Vương – Thực trạng và những vấn đề đặt ra, Tạp chí Phát triển Kinh tế xã hội Đà
Nẵng, số tr.41-50
55. Nguyễn Đình Tuấn (2007), Một số biến đổi trong quan hệ ứng xử và sử
dụng thời gian của người dân vùng chuyển đổi từ xã lên phường, Tạp chí Nghiên
cứu con người, số 4, tr.34-40
56. Phan Thị Yến Tuyết (2011), Tiếp cận lý thuyết và một số phương pháp cần
được giảng dạy trong ngành Việt Nam học, Việt Nam học và Tiếng Việt – các
hướng tiếp cận, Nxb. Khoa học Xã hội, tr. 465-477
57. Phan Thị Yến Tuyết, Văn hóa của cư dân miền Đông Nam Bộ - tiếp cận sinh
thái văn hóa, bản pdf, (http://khoavanhoc-
ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=5405%3
Avn-hoa-ca-c-dan-min-ong-nam-b-tip-cn-sinh-thai-vn-hoa-&catid=97%3Avn-hoa-
dan-gian&Itemid=155&lang=vi)
58. Tỉnh ủy, UBND tỉnh Quảng Ninh (2011), Địa chí Quảng Ninh (tập 1),
Nxb. Thế giới, H.
59. Tỉnh ủy, UBND tỉnh Quảng Ninh (2011), Địa chí Quảng Ninh (tập 2),
Nxb. Thế giới, H.
60. Tỉnh ủy, UBND tỉnh Quảng Ninh (2011), Địa chí Quảng Ninh (tập 3)
Nxb. Thế giới, H.
61. UBND phường Hà Phong (2014), Báo cáo kết quả thực hiện đề án di dời
nhà bè trên Vịnh Hạ Long lên khu tái định cư làng chài phường Hà Phong
62. UBND phường Hà Phong (2015), Báo cáo chính trị của Ban chấp hành
Đảng bộ phường Hà Phong tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ phường Hà Phong lần
thứ XI, nhiệm kỳ (2015-2020)
63. Trần Quốc Vượng (2012), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo dục, H.
64. Nguyễn Nữ Đoàn Vy (2015), Tác động của di dân tự do đến kinh tế - xã
94
hội, Tạp chí Phát triển Kinh tế Đà Nẵng, số 67, tr.63- 67
65. Conrad P. Kottak, “The new ecological Anthropology”, Ammerican
Anthoropologist. New Series. Vol. 101. No 1 (Mar. , 1999), pp.22-35, bản dịch của
Nguyễn Thị Hiền (Đại học QG Tp. Hồ Chí Minh)
66. John J. Macionis (2004) , Xã hội học, Nxb. Thống kê, H
67. Kooes Nefies (2003), Môi trường và sinh kế - Các chiến lược phát triển
bền vững, Nxb. Chính trị Quốc gia, H.
68. Sherry Ortner, Lý thuyết nhân học từ những năm 1960, bản dịch PDF của
khoa Nhân học, trường Đại học KHXH &NV HN
69. Roy A. Rappaport, Ritual Regulation of Environmental Relations among a
New Guinea People, in trong “Ethnology”, Nxb. University of Pittsburgh- Of the
Commonwealth System of Higher Education, tr. 17-30
70. IUCN (2015), Phân tích hiện trạng nước Vịnh Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh,
Việt Nam
Tài liệu từ internet
71. http://www.academia.edu/1862433/Cultural_Ecological_Perspective_to_t
he_study_of_Society
72. Ngọc Mai, Làng chài Giang Võng, Trúc Võng xưa, Báo Quảng Ninh
online (http://www.baoquangninh.com.vn/van-hoa/201411/lang-chai-giang-vong-
truc-vong-xua-2247022/)
73. Hậu" di dời nhà bè trên Vịnh Hạ Long: Bài 1: Trở lại các làng chài,
http://baoquangninh.com.vn/xa-hoi/201408/hau-di-doi-nha-be-tren-vinh-ha-long-
bai-1-tro-lai-cac-lang-chai-2237266/
74. Dự án di dời nhà bè trên vịnh – vì một Hạ Long xanh,
http://dulichhalong.com.vn/cam-nang-du-lich-ha-long/du-an-di-doi-nha-be-lang-
chai-tren-vinh-vi-mot-ha-long-xanh/9-237.html
75. Các di tích và danh thắng của Việt Nam được công nhận là di sản văn hóa
thế giới, http://www.bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/1705-1776-
633438622679961250/100-loi-giai-dap-ve-van-hoa-Viet-Nam/Cac-di-tich-va-danh-
thang-cua-Viet-Nam-duoc-cong-nhan-la-di-san-van-hoa-the-gioi.htm
76. Làng giàu cũng khóc, http://laodong.com.vn/xa-hoi/lang-giau-cung-khoc-
95
359160.bld
77. Suy giảm nguồn lợi hải sản: Nỗi lo còn đó.
(http://www.baoquangninh.com.vn/kinh-te/201303/Suy-giam-nguon-loi-thuy-
san-Noi-lo-con-do-2192708/)
78. Thiện Tâm/VOV, Đề án di dân làng chài Hạ Long: Chuyện buồn ở “Phố
Làng chài”, http://vov.vn/xa-hoi/de-an-di-dan-lang-chai-ha-long-chuyen-buon-o-
pho-lang-chai-446787.vov
79. UBND tỉnh yêu cầu kiểm tra, báo cáo tình hình dự án khu tái định cư làng
chài Hà Phong, http://www.quangninh.gov.vn/vi-
96
VN/Trang/tin%20chi%20tiet.aspx?newsid=26667&dt=2015-11-13&cid=13
PHỤ LỤC
97
PHỤ LỤC 1:
MỘT SỐ BẢN ĐỒ
1. Bản đồ tỉnh Quảng Ninh
Nguồn: http://www.quangninh.gov.com.vn
2. Bản đồ phân bố các làng chài trên Vịnh Hạ Long
Nguồn: Ban quản
lý
Vịnh Hạ Long
98
99
3. Bản đồ khu TĐC Khe Cá (chấm xám)
PHỤ LỤC 2:
MỘT SỐ TRI THỨC ĐỊA PHƢƠNG CỦA NGƢ DÂN VẠN CHÀI
HẠ LONG
1. Các tri thức trong đánh bắt
1.1. Các tri thức về thiên nhiên
- Lịch con nước:
Với các ngư dân vạn chài Hạ Long (cũng như ngư dân vùng biển phía Bắc),
lịch con nước giúp họ nắm được các hiện tượng “nước sinh”, “nước đứng”, “nước
ròng” và các quy luật của biển trong một khung thời gian nhất định. Phải nắm được
điều này mới có thể đánh bắt hiệu quả. Ví dụ, theo ngư dân, nếu chài lưới vào ngày
nước sinh thì cho năng suất rất thấp bởi đây là ngày có nhiều biến động về thời tiết.
Cũng theo quan niệm dân gian được phổ biến trong nhiều cộng đồng người Việt,
ngày lịch con nước là ngày xấu, làm việc gì cũng hỏng. Do đó, cần nắm lịch con
nước để tránh được ngày chài lưới thất bát.
Lịch con nước được tính dựa vào tuần trăng, theo quy luật + 14. Một chu kỳ
biến động của mực nước (một con nước) từ lúc nước rút là 15 ngày, tính từ mốc
chuẩn là ngày nước sinh. Hết chu kỳ ấy có một chu kỳ khác được lập nhưng thời
gian mực nước lên, xuống lại hoàn toàn ngược lại so với chu kỳ trước. Như vậy mỗi
tháng có hai con nước. Nước lên hay xuống hoàn toàn ăn khớp với tuần trăng tròn
hay khuyết.
Bảng. Lịch con nƣớc trong đánh bắt của cƣ dân vạn chài Hạ Long
Tháng Giêng Hai Ba Tƣ Năm Sáu
5, 19 3, 17, 29 3, 27 11, 25 9, 23 7, 21 Ngày
Tháng Bảy Tám Chín Mƣời Mƣời một Mƣời hai
5, 19 3, 17, 29 3, 27 11, 25 9, 23 7, 21 Ngày
100
- Mối liên hệ giữa các hiện tượng tự nhiên với tập tính các loài cá
Ngoài lịch con nước, ngư dân còn đúc kết các mối liên hệ từ các hiện tượng
tự nhiên với sự xuất hiện của các loài cá, lượng cá qua việc quan sát bầu trời, mặt
nước, dòng chảy, hướng gió... để quyết định cách thức khai thác, các công cụ lao
động cần thiết để đánh bắt. Trên cơ sở những quan sát đó, ngư dân đúc kết cho
mình tri thức về các loài cá, mùa vụ, ngư trường và phân bố về độ sâu. Những kiến
thức này tạo ra cho ngư dân sự nhạy bén để có phương án khai thác hiệu quả nhất.
Ví dụ, ngư dân dựa vào dòng chảy để tính độ lưới trôi khi buông lưới hay dựa vào
gió để quyết định gối bao nhiêu lớp sóng để đến đúng nơi đã định xa hàng chục km.
Ngư dân cũng căn cứ vào các hiện tượng của bọt sóng, sắc trời, màu mây để đoán
định hiện trạng thời tiết. Chẳng hạn khi trời đang xanh bỗng trở nên âm u, đang gió
mùa mà có gió nồm nam, xuất hiện các bọt nước nối dài màu đen trên mặt biển hay
trời nhiều mây và mây bay về hướng nam, trời đang nắng mà xuất hiện “mống” gần
giống cầu vồng mà không rõ đầu đuôi, khi kéo lưới thấy có vẩn đục, hay cây cối
trên đảo xanh hơn mọi ngày, trên mặt nước xuất hiện nhiều quầng sáng thì chắc
chắn sẽ có bão hay các hiện tuợng thời tiết bất thường. Bên cạnh đó, ngư dân còn
quan sát sao Bắc Đẩu để biết thời gian thủy triều lên xuống hoặc các kinh nghiệm
nhìn về hướng Tây để cảm nhận thời tiết trong ngày. Hoặc nếu thấy cua nổi ở tầng
nước mặt khi đang đánh cá thì trời sắp mưa.
Để đoán định hướng, nhiều ngư dân có thể quan sát các ngọn núi đá trên
Vịnh Hạ Long. Bởi không gian sống và thực hành sinh kế đã quá quen thuộc nên
ngư dân nắm được từng ngọn núi. Dựa vào đó, họ xác định phương hướng để trở về
làng. Trong thời gian điền dã, ngư dân cũng kể những trường hợp tàu du lịch bị mất
phương hướng, gặp ngư dân và hỏi đường về.
Ngoài việc quan sát thiên nhiên, ngư dân còn nắm rõ tập tính của các loài cá
để biết được cách thức di chuyển, vị trí của đàn cá. Đây là những tri thức quan trọng
để có thể khai thác một cách hiệu quả.
Đối với nghề đánh cá bằng ánh sáng đèn, ngư dân rút ra quy luật: ra quy luật:
cứ 2-3 ngày trước và sau con nước sinh, trước và sau ngày có gió mùa, bao giờ sản
lượng cá cũng đạt cao nhất. Phải bám biển vào khoảng thời gian này để đạt sản
101
lượng cao nhất.
Đối với nghề lưới vây không dùng ánh sáng, ngư dân thường quan sát màu
nước, gợn sóng, màu do cá tạo ra. Để xác định sự xuất hiện của đàn cá, ngư dân
dựa vào màu đỏ thẫm hoặc xanh thẫm di chuyển ngược dòng nước hay không. Nếu
di chuyển ngược dòng nước là có đàn cá đang di chuyển nhưng màu của cáu nước
(bợn nước) cũng có lúc đỏ như màu của cá nhưng không chuyển động ngang, dọc
và trôi ngược dòng nước như đàn cá mà chỉ trôi theo hướng nước chảy. Trường hợp
nước đứng không chảy thì đám bợn nước không di động.
Khi quan sát một đám nước đục nổi lên trong một vùng biển màu xanh, căn
cứ vào sự di chuyển của đám nước đục đó mà ngư dân đoán định là đục do biển
động hoặc do sự di chuyển của đàn cá làm vẩn bùn đất và sùi tăm cá.
Khi quan sát gợn sóng, để xác định đàn cá, ngư dân căn cứ vào hướng di
chuyển không thay đổi, đi chậm và cao hơn gợn sóng do gió gây ra. Cá mòi tháng 8
âm lịch thường đi nhô lên mặt nước, di chuyển nhanh, có màu hơi hồng. Cá nhâm
tháng 8 âm lịch khi di chuyển luôn nhô lên mặt nước, tạo thành gợn sóng to có màu
hơi đỏ. Cá thường nổi vào lúc nước đứng, gió yên, sóng lặng. Khi nước đứng, thuỷ
triều xuống tới mức thấp nhất, hoặc lên đỉnh điểm. Cũng có lúc dòng nước chảy
giao nhau tạo nên một vùng nước đứng. Các vùng trên tạo nơi có nhiều thức ăn, cá
tập trung nhiều. Từ tháng 1 đến tháng 4 là mùa cá đẻ ở vùng biển Quảng Ninh. Vào
thời gian này, mặt biển khá lặng. Đây là thời gian cá nhâm nổi nhiều vào ban ngày
nhiều hơn ban đêm, thường vào buổi sáng từ 5 đến 7 giờ, buổi chiều từ 15 đến 19
giờ...
- Các vụ cá:
Vụ cá Nam: Vụ cá Nam ở Hạ Long còn gọi là vụ cá nổi. Vụ này kéo dài từ
tháng tư đến tháng chín, khi có nhiều gió mùa Tây Nam, thỉnh thoảng có gió Đông Nam. Nhiệt độ nước biển trung bình trong thời gian này khoảng từ 280 đến 300, lúc thấp xuống 240C. Vào tháng 6, biến động sinh vật đạt mức cao nhất. Đây là mùa
mà nước biển, có nhiều nguồn thức ăn cho cá. Lúc này cá nổi tập trung thành đàn,
đi vào gần bờ kiếm ăn và đẻ. Dựa trên quy luật này, ngư dân đánh tập trung đánh
bắt gần bờ. Đây là mùa khai thác hiệu quả của ngư dân vạn chài Hạ Long. Các loài
102
cá chiếm tỷ lệ lớn trong vụ này là cá Chỉ vàng, Lầm, Dớp, Trích, Nục, Mòi.
Vụ cá Bắc: Kéo dài từ tháng mười đến tháng ba năm sau. Thời tiết giữa vụ cá
Bắc là rét mướt và hanh. Gió mùa Đông Bắc trung bình mỗi tháng từ 3 đến 6 cơn.
Giữa những đợt gió mùa Đông Bắc có khi triền miên kéo dài vài tuần lễ, trời bỗng
hửng lên, nắng ấm. Đó là lúc làm ăn nhộn nhịp của vạn chài. Trong vụ Bắc này, cá
đi vỗ béo chuẩn bị cho thời kỳ kết đàn đi đẻ, di cư từ Bắc xuống Nam, từ Tây sang
Đông , ban ngày cá nổi ít, đi phân tán, tốc độ nhanh, khó đánh. Thời gian cá nổi chủ
yếu lại thường tập trung vào ban đêm.Vào mùa này, cá nổi đi xuống tầng nước sâu
hơn để tìm chỗ ấm. Cá đánh bắt thường là gần đáy và xa bờ.
Tuy nhiên, ngư dân vạn chài ở vịnh Hạ Long vẫn khai thác theo kiểu đánh
bắt quanh năm. Có ít hộ khai thác theo mùa vụ. Trước khi di dân, các hộ ngoài nghề
chính là đánh bắt hải sản còn nuôi cá lồng trên các nhà bè và làm nghề dịch vụ.
- Xem thời tiết trước khi ra khơi:
Ngư dân chọn những ngày trời quang mây tạnh, ít sóng lừng, sóng lớn để ra
khơi. Khi mặt trời lặn, nếu bầu trời quang quẻ, nghĩa là thời tiết tốt. Nếu quan sát
thấy ráng ở trên trời thì hôm sau sẽ có giông bão. Vào tháng 3, tháng 4 có gió nồm
Nam, nếu thấy chân sóng lừng, nghĩa là có sóng lớn.
Ngư dân quan sát cá he để dự báo thời tiết. Khi luồng cá he quay hướng ra
phía Nam thì một vài ngày sẽ có gió Nam đưa vào, khi quay ra hướng Bắc thì sẽ có
gió mùa Đông Bắc.
1.2. Một số kiêng kỵ liên quan tới nghề
- Liên quan đến ra khơi, xuống lưới: Kiêng gặp những người bị cho là nặng
vía như gặp đàn bà, phụ nữ có thai trước khi ra biển và kiêng thịt chó mèo bởi ngư
dân coi đó là những việc mang lại sự đen đủi, gây tổn hại trong việc đánh bắt. Ngư
dân chọn ngày đẹp như mùng 2 đến mùng 4 đầu tháng, kiêng ra khơi vào những
ngày lẻ như mùng 3, mùng 7, ngày 13. Khi giong thuyền ra khơi cần chú ý không
để thuyền khác chạy ngang trước mũi thuyền mình bởi ngư dân coi đây là điểm xui
rủi rất lớn. Nhiều thuyền khi vô tình bị thuyền khác chạy ngang trước mũi, không ra
khơi nữa mà về nhà sắp lễ cúng, lùi lại một vài ngày sau mới ra khơi.
Trần Thùy Dương cũng có một số ghi chép về các kiêng kỵ của ngư dân vạn
103
chài Hạ Long như sau:
- Vào đầu năm mới cũng như những ngày sóc, vọng họ kiêng kị xin lửa, vay
tiền, vay dầu, vay muối.
- Không chèo thuyền chắn ngang thuyền của người khác, khi người đó
chuẩn bị đi đánh cá.
- Khi làm lễ hạ thuỷ, kiêng không cho người phụ nữ đặt chân đầu tiên lên
thuyền, nhất là người đang có thai. Phụ nữ không đứng ở mũi thuyền.
- Kiêng khi chim lợn bay đến thuyền.
- Không ngồi ở giữa cửa thuyền do ban thờ tổ tiên được đặt ở chính giữa,
gần cửa ra vào, như vậy sẽ làm uế tạp nơi tôn nghiêm.
- Khi đánh bắt được nhiều kiêng không nói: cá đóng nhiều quá.
- Không bước qua hoặc giẫm chân lên các ngư cụ, vì theo quan niệm như
thế sẽ mất đi sự may mắn, không bắt được nhiều tôm cá.
- Khi đi làm mà bị hắt xì hơi thì quay lại không đi làm nữa.
- Khi đi thấy hòn đất rơi từ trên núi xuống thì quay về vì họ cho đó là điềm
xấu. Không nướng ốc trong bếp
- Không nên hỏi về việc mai táng người chết ở đâu vì ngư dân coi nơi chôn
cất người thân trong dòng họ là nơi yên tĩnh, kín đáo, tôn nghiêm, không muốn bị
xâm phạm.
Những kiêng kỵ này nhằm ngăn cản ngư dân tiếp xúc với những đối tượng
hoặc hoạt động mà việc phạm vào nó thường dẫn đến một sự trừng phạt nào đó.
Đến chính họ cũng khó lý giải được tại sao khi dẫn ra những mối liên hệ giữa
những vận đen đủi khi làm nghề với việc đã phạm vào một số điều kiêng kỵ nêu
trên.
1.3. Các ngư cụ
Với nghề đánh bắt hải sản, phương tiện đánh bắt bao gồm thuyền và các loại
ngư cụ. Trong đó, thuyền là công cụ lao động quan trọng nhất vì đây phương tiện đi
lại, đánh bắt và cũng là không gian sinh hoạt của cả gia đình ngư dân. Thuyền xưa
104
kia được làm bằng tre già, trát vôi vỏ hà, hắc ín và nhựa cây. Thuyền này tuy
nguyên liệu làm ra rẻ nhưng độ bền không cao. Sau đó, thuyền được đóng bằng gỗ.
Nhiều năm trở lại đây, ngư dân vạn chài Hạ Long sử dụng hai loại thuyền chính là
thuyền gỗ và mủng, một số có thuyền lớn, máy móc hiện đại để khai thác. Ngoài
thuyền là công cụ chính yếu, ngư dân vạn chài Hạ Long còn có nhiều ngư cụ sử
dụng trong hoạt động đánh bắt đa dạng, phù hợp với từng loại hải sản. Ngay chỉ
riêng lưới đánh cá, ngư dân có các loại như: lưới chã, lưới đánh cua ghẹ, lưới mực,
lưới đục, lưới mòi, lưới đánh cá bơn, cá nục… Ngoài việc sử dụng lưới đánh cá,
ngư dân vạn chài còn thực hiện câu tay và câu chằng. Trải qua quá trình tương tác
với tự nhiên, ngư dân vạn chài Hạ Long trang bị cho mình những phương thức đánh
bắt phù hợp với từng loại hải sản. Ví dụ như đánh cá trên lộng, ngoài khơi có cách
đánh lưới vây, lưới rê; Đánh tôm cá trên các bãi triều có đăng, đọn, lờ, xiếc, lưới vùi; Đánh mực có câu, bóng,… Trần Thu Thảo6 đã có những ghi chép khá cụ thể về
- Các loại ngư cụ đánh bắt: Phổ biến nhất là lưới. Lưới có nhiều loại khác
các loại hình ngư cụ này. Theo đó:
nhau, mỗi loại có cấu tạo riêng phù hợp với từng loại hải sản. Một số loại lưới phổ
biến như: lưới chã, lưới đánh cua ghẹ, lưới mực, lưới đục, lưới mòi,..
Lưới chã: Là loại lưới 1 màn, mỗi mắt lưới rỗng 2cm2, chiều cao của lưới
hơn 1cm nên chủ yếu là đánh bắt tầng trên. Trên là phao, dưới là chì. Chì có 3 con
còn phao có ít nhất 7,8 cái. Phao được dùng là phao xốp. Ngoài ra, còn có một vòng
lưới túi vợt. Mỗi mắt lưới khoảng 1cm, để khi kéo lưới cá sẽ từ lưới chui vào túi
lưới đằng sau và không thể thoát ra được.
Dây chừng (chã): Là loại ngư cụ có chiều dài khoảng 150cm. Buộc dây
chừng vào 2 đầu lưới, lưới được đánh quay tròn. Khi cá đóng thì người ta kéo chã
lên qua 3 trục tời 2 bên mạn thuyền. Để kéo được thì phải có 2 người đứng 2 bên
trục tời cầm 2 đầu dây chừng và kéo.
Lưới mực: Là loại lưới dùng để đánh mực lan. Lưới có 3 màn, 2 màn thưa và
1 màn mau. Màn mau ở trong sau đó đến màn thưa. Lưới có chiều cao 1m. Lưới
đánh mực lan đan bằng cước ni lông. Tổng cộng lượng chì có trong 1 vòng lưới là
6 Trần Thu Thảo, Làng chài Cửa Vạn, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, Luận văn Thạc sỹ Nhân văn, trường Đại học Thái Nguyên, 2015
105
7-8 kg. 1 lạng chì thì chia thành 5 viên nhỏ. Phao được làm bằng xốp, có khoảng 30
phao. Khi đánh lưới người ta thả lưới theo chiều thẳng đứng từ mặt nước xuống
đáy. Mực thường ở chỗ nước sâu, vì vậy người ta cần đo độ sâu của nước. Người ta
dùng dây cước, một đầu buộc chì, một đầu buộc ống tre, khi đó chỉ cần thả đầu có
chì xuống.
Bên cạnh ngư cụ lưới thì một loại phương tiện mà mỗi ngư dân dùng
phổbiến là câu. Câu có 2 hình thức: câu tay và câu chằng.
Câu tay: Dây câu được làm bằng cước ni lông, dùng 1 ống tre để cuốn dây
câu, một đầu buộc vào ống tre, một đầu buộc chì lưỡi câu. Người ta thả câu xuống
nước, khi cá cắn mồi, giật nhanh dây câu lên, cá sẽ mắc vào lưới câu. Mồi câu
thường là mồi tôm. Câu tay có thể câu được nhiều loại như: mực, cá chim, cá
song... Phương tiện này rất dễ sử dụng và không nặng nhọc nên người già và trẻ em
đều có thể làm được.
Câu chằng: 1 vòng câu khoảng 200 sợi dây câu, mỗi sợi dài 1m, 1đầu buộc
lưỡi câu, 1 đầu gắn vào 1 sợi dây cước làm triêng câu dài khoảng 300m, trên dây có
buộc 1 hệ thống phao nhỏ, cách đều nổi trên mặt nước, khoảng từ 8 đến 9 chục mét
thì cột thêm 1 phao cỡ lớn. Khi ra đến ngư trường, ngư dân cho thuyền đi chậm lại
rồi lần lượt thả từng dây câu đã mắc mồi câu xuống biển. Sau 1 giờ họ trở lại vị trí
ban đầu để thu lại dây câu. Trong những ngày trời lặng người ta có thể đánh 2 đến 3
mẻ, đối tượng của nghề cá này là loại cá lớn.
- Phương thức đánh bắt: Với nguồn hải sản cực kỳ phong phú và đa dạng,
phân bố ở những môi trường khác nhau, nghề đánh bắt hải sản của dân đảo Hạ
Long có rất nhiều phương thức như:
Đánh cá trên lộng, ngoài khơi có cách đánh lưới vây, lưới rê Đánh tôm cá
trên các bãi triều có đăng, đọn, lờ, xiếc, lưới vùi.
Đăng là lúc thuỷ triều lên, cá vào gần bờ ăn, chắn lưới ở phía ngoài, khi nước
cạn, cá mắc lưới.
Đọn là dùng gạch đá lắp thành bờ cao, khi nước thuỷ triều xuống, tôm cá bị
mắc cạn. Xiếc là dùng đèn để đi soi, khi tôm “đóng” đèn thì dùng vợt xúc.
106
Xăm là dùng chiếc que sắt dài khoảng 0,8m xăm vào các bãi bùn để bắt ngán
Đánh mực có câu, bóng,..
2. Nguyên tắc trong khai thác của ngƣ dân
Các gia đình ngư dân vạn chài thường đánh bắt độc lập, dù cùng dòng họ,
cùng ngư cụ và có tổ chức đánh bắt cùng nhau nhưng chủ yếu vẫn là việc mỗi gia
đình có phạm vi đánh bắt riêng (trong phạm vi đánh bắt gần bờ). Việc di chuyển,
đánh bắt đôi khi còn vượt sảng địa phận của các tỉnh khác do nhu cầu tìm nguồn cá.
Nói chung, ngư trường không thuộc về bất kỳ một cá nhân, nhóm nào nên “chim
trời cá nước, ai được thì ăn”. Thế nhưng, để tránh những tranh chấp, việc đánh bắt
hải sản tại các ngư trường vẫn phải tuân thủ các nguyên tắc lâu đời như sau:
- Nếu đánh lưới theo chiều nước, người đến sau phải thả lưới phía sau
người đến trước để tránh việc mắc vào lưới nhau. Thường thì ngư dân trong các
chòm, vụng đều hiểu biết về lưới của nhau nên việc chọn vị trí vị trí thả lưới không
gặp khó. Có thể dựa vào vị trí cắm cờ làm mốc và khoảng cách giữa mốc và người
thả lưới để xác định độ dài của lưới, nhờ đó người đến sau có thể chọn vị trí buông
lưới phù hợp.
- Trường hợp phát hiện đàn cá đang di chuyển thì thả lưới đón đường di
chuyển của chúng. Những người đến sau vẫn phải thả lưới sau người đến trước. Nói
chung, quyền và vị trí thả lưới của người đến trước là cơ sở để xác định vị trí thả
lưới của người đến sau. Tuân thủ triệt để nguyên tắc này để tránh các tranh chấp về
ngư trường và nguồn tài nguyên. Việc tranh chấp của ngư dân chủ yếu xảy ra ở
khâu này.
3. Tín ngƣỡng tâm linh
Ngư dân vạn chài Hạ Long sinh sống trong môi trường sống nước, biển cả
với nhiều ưu đãi cũng như gặp những rủi ro. Do đó đã hình thành nên một số tín
ngưỡng tâm linh mang nét đặc trưng riêng, có thể kể ra như sau:
+ Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên: Cuộc sống trên thuyền tuy lênh đênh, chật
chội nhưng ngư dân vạn chài Hạ Long luôn dành cho tổ tiên một sự kính trọng đặt
biệt. Bàn thờ được đặt tại nơi sạch sẽ và uy nghiêm nhất (thường là buồng giữa)
trên thuyền của cha mẹ hoặc của con trưởng (nếu cha mẹ đã mất). Họ quan niệm đó
107
là không gian thiêng, là nơi tổ tiên “đi về”. Những vị khách đến chơi, đặc biệt là
phụ nữ không được ngồi ở giữa cửa vì ngư dân coi đó là hành động làm ô uế nơi
linh thiêng. Đặc biệt, phụ nữ mới sinh nở hay người vừa có tang cũng không được
vào nhà. Muốn vào phải mời thầy cúng về làm lễ giải.
Ngư dân vạn chài Hạ Long thường xác định linh vị của 5 đời, tính từ đời
mình (là con) ngược lên 4 đời. Một số dòng họ lớn như họ Nguyễn, họ Đỗ, họ
Dương nơi đây còn thờ tự đến bảy đời. Người giữ hương hỏa, cầm vật thiêng của
dòng họ (như dấu Ngọc Hoàng, dấu Hải Thượng Lão Quân, dấu Ngũ Hổ, dấu Đệ
Nhị Ngọc Hoàng, dấu Cộng Đồng, kiếm thờ 7 chấm, kiếm thờ 9 chấm) là chi
trưởng nam. Theo luật tục, gia đình thờ tự từ năm đời trở lên đều có tượng bằng đất
hoặc gỗ cùng với ảnh thờ.
Bàn thờ của ngư dân vạn chài Hạ Long có nhiều bát hương, mỗi người chết
có một bát hương. Vì vậy, với số lượng cúng đến 4-5 đời, có gia đình có tới 8-10
bát hương trên bàn thờ. Bàn thờ để ở dưới thấp, có hướng với hướng của lồng bè
hoặc mũi thuyền và được đóng khung, quây kín, với quan niệm như vậy các cụ mới
gần gũi con cháu. Tuy nhiên, đây thực tế là thói quen bởi trên thuyền không thể đặt
bàn thờ trên cao do không có không gian. Ngư dân vạn chài Hạ Long còn thờ tượng
tổ tiên, một loại tượng các quan kích thước nhỏ, dung mạo uy nghi. Tượng này
được đặt dưới sạp thuyền.
Mỗi dòng họ tại các làng chài Hạ Long đều có các vật thờ của riêng mình.
Khi con cháu khấn xin điều gì đó sẽ viết điều mong muốn vào một tờ giấy, có chức
năng như sớ của người Việt trên đất liền. Thầy Đồng (thường mỗi dòng họ sẽ có
một người có căn số, bản mệnh phù hợp, chuyên thực hiện việc lễ bái cho mọi
người trong họ, trong làng vào những dịp quan trọng) sau khi làm lễ xong sẽ đóng
dấu vào tờ giấy đó và xin quẻ âm dương. Cuối cùng, con cháu đem hóa như một
cách để chuyển tải những mong ước của mình về thế giới bên kia nơi ông bà tổ tiên
đang trú ngụ.
Nói chung, tục thờ cúng tổ tiên của ngư dân vạn chài Hạ Long về cơ bản
cũng giống người Việt trên đất liền, bao gồm một số nghi thức như tục đốt hương,
tục cầu cúng lễ, chăm sóc phần mộ tổ tiên. Có một điều đặc biệt, khi cúng tổ tiên,
rượt có thể thiếu nhưng nước lã (nước ngọt) thì không bởi cuộc sống lênh đênh trên
108
biển, nước ngọt là tài sản vô cùng quý giá.
+ Tín ngưỡng thờ thần: Người dân vạn chài Hạ Long tin thờ thủy thần với
quan niệm “đất có thổ công, sông có hà bá”. Họ gọi thần biển là ông Sông bà Bể và
hy vọng vào sự trợ giúp của thần biển mỗi khi gặp hoạn nạn. Trong những dịp đặc
biệt như những ngày sóc, vọng, Tết, lúc cưới hỏi, tang ma, đánh bắt, lúc ốm đau...
ngư dân đều có lễ tế thủy thần để cầu bình an, may mắn. Trước đây, ngư dân làng
chài Giang Võng - Trúc Võng xưa có đình làng trên đất liền. Trong dịp lễ hội, ngư
dân thực hành lễ cúng thủy thần với tục rước nước và hội thi bơi chải. Trên Vịnh Hạ
Long hiện nay vẫn còn rải rác một số miếu thờ thủy thần do ngư dân xây nên.
Bên cạnh tục thờ thủy thần là tục thờ cúng nhân thần. Đó là các vị tướng nối
tiếng và có công trong đánh giặc của nhà Trần như Trần Hưng Đạo, Trần Quốc
Nghiễn...hay các ông Hoàng Ba, Hoàng Bẩy trong truyền thuyết. Đôi khi, nhân thần
còn là những người dân thường. Ngư dân lập đền miếu để thờ những vị thần này rải
rác trên các đảo đá tại Vịnh Hạ Long. Họ tin tin rằng các vị nhân thần có thể hiển
linh ứng cứu giúp dân làng vượt qua hoạn nạn, phong ba khi nghe lời thỉnh cầu.
+ Một số hình thức tín ngưỡng liên quan đến con thuyền: Thuyền là phương
tiện đi lại, là công cụ sản xuất và cũng là nơi trú ngụ của ngư dân vạn chài Hạ Long.
Dó vậy, con thuyền với ngư dân là nơi họ gửi gắm những hy vọng về một cuộc sống
bình an và khai thác đạt năng suất cao nhất.
Khi đóng thuyền mới, ngư dân làm lễ Phạt Mộc để mong có được một chiếc
thuyền bền, chắc, ra khơi thuận lợi, an toàn. Khi thuyền được đóng xong và chuẩn
bị để đưa vào sử dụng, chủ thuyền lại làm lễ Hạ Thủy như một cách thức để gửi đến
các vị thủy thần về sự xuất hiện của con thuyền và mong được che chở. Lễ Phạt
Mộc và Lễ Hạ Thủy cũng giống như lễ động thổ và lễ khánh thành khi xây nhà trên
đất liền. Ngư dân phải chọn ngày, giờ tốt như các ngày đầu của lịch con nước và khi
xuất hành thì phải đợi lúc thủy triều đang lên, dù nhiều lúc phải đợi vào ban đêm.
Lễ vật cúng thường có xôi, gà, vàng hương, hoa quả. Trong lễ Phạt Mộc, ngư dân
thường làm hai mâm cúng. Một mâm cúng ông bà tổ tiên, một mâm cúng thủy thần.
Khi đưa thuyền lên bờ để sửa chữa, ngư dân có mâm cúng xin thổ công để được đưa
thuyền lên đất liền vài ngày. Còn với lễ Hạ Thủy, sau khi cúng sau, anh em họ hàng
sẽ tập trung để chúc mừng chủ thuyền và đây là dịp để anh em họ hàng, bạn thuyền
109
đến ăn mừng, chúc nhau những lời hay ý đẹp.
Ngư dân thực hành nghi lễ Giở Mũi Thuyền vào đầu năm mới, có ý nghĩa
như việc chọn hướng xuất hành đầu năm của ngư dân đất liền. Nghi lễ này được
thực hành theo sự chỉ dẫn của thầy cúng. Theo chỉ dẫn đó, chủ nhà sẽ chọn hướng
xuất hành phù hợp với tuổi của chủ hộ và cởi dây buộc mũi thuyền cho thuyền rời
bến. Khi rời bến, cần tránh việc để bị thuyền khác đi ngang qua mũi bởi nếu bị chắn
ngang như vậy thì cả năm sẽ gặp điều không may. Trong dịp lễ này, ngư dân chỉ
cho thuyền đi một đoạn rồi quay lại.
+ Lễ hội: Trước đây, ngư dân vạn chài Hạ Long có lễ hội đình làng Giang
Võng. Lễ hội này sau nhiều năm không còn được thực hành, vào năm 2009 đã được
Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Quảng Ninh phục dựng. Trần Thùy Dương đã có
Hàng năm, vào ngày 10/11 (Âm lịch), cả hai làng Giang, Trúc đều tổ chức
lễ hội để cúng thành hoàng cầu mong cho dân làng một vụ đánh bắt bội thu
tôm cá, bà con ra biển tránh được tai ương bệnh tật. Lễ hội được tổ chức ở
hai làng, hai bên của eo biển Cửa Lục nhưng mọi nghi thức đều giống nhau.
Dưới đây là chi tiết về đình Giang Võng hay đình Cái Đá và lễ hội đình
phục hưng năm 2009.
Đình Giang Võng được cư dân làng chài thủy cư dựng ở phía nam bán đảo
Cái Đá nhô ra vịnh Cửa Lục, nay thuộc phường Hà Khánh – Hạ Long. Đình
có quy mô vừa phải, cấu trúc ba gian bái đường, phía sau là ba gian hậu
cung có kích thước nhỏ hơn.. Trước đây đình được xây dựng ngay sát mép
biển, dân làng tổ chức hội hè, cầu cúng, lễ bái đều tại đình. Hiện nay đình
chỉ còn ba gian hậu cung khá nguyên vẹn và miếu thờ mẫu ở bên phải đình.
Đình thờ: vị Thành hoàng và Thánh:
- Đức vua Cao Sơn Thượng Đẳng thần (thần núi)
- Đức vua Cao Minh (gốc Bắc Ninh)
- Đức vua Hà Bá Thủy Phủ (thần biển)
- Đức Thánh Trần Hưng Đạo đại vương
- Hai Đức ông: Cửa Suốt (Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng) và Đức
ông Lục Đầu Giang (Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn).
110
những ghi chép khái quát về lễ hội này.
Đình còn thờ các quan dưới trướng giúp việc thần thánh, 7 cụ tổ của 7 dòng
họ Nguyễn, Dương, Chu, Đỗ, Phạm, Dương, Vũ, Bùi.
Trước ngày tổ chức lễ hội, lý trưởng giáp lên danh sách các cai đám những
trai đinh tráng trong làng mà theo lệ phải chịu trách nhiệm chu biện lễ vật
cho làng trong các kỳ lễ hội. Ở làng Giang Võng theo lệ, mỗi giáp cắt lượt 5
cai đám, mỗi người phải nộp 30 cân thịt, 20 cân xôi, 10 chai rượu. Làng
Trúc Võng cũng cắt cử 5 người cai đám gồm 6 thủ lợn, 120 cân thịt, 70 cân
xôi, 8 chai rượu và số hoa quả có giá trị 7 hào.
Lễ hội diễn ra từ 3 đến 7 ngày. Phần lễ có đủ khai tịch, tế ngư, tế tạ. Nghi
thức tế cũng mở của đình, trải chiếu ngang, chiếu dọc cho mạnh bái, bồi
tế…Còn phần hội cũng có đánh vật, tổ tôm, hát điếm, hát chèo. Vui nhất,
sôi động nhất là hội thi bơi chải giữa hai làng. Mỗi làng cử ra 2 giáp thành 4
đội, mỗi đội gồm 18 tay chèo, 1 người cầm lái, 1 người đứng cổ vũ. Tất cả
tròn 20 người trên mỗi thuyền. Thuyền đua là loại thuyền Lẵng bỏ hết mui,
vòng và phải là những thuyền có cùng kích cỡ. Trước ngày hội, những
người được giao phụ trách thuyền của mỗi giáp đã phải lo chọn thuyền, khi
đã chọn được con thuyền như ý họ phải phơi thuyền, sơn, khảm lại thuyền
để giảm thiểu ma sát của con thuyền với mặt nước. Ngoài ra, họ còn phải
chọn tay chèo, đó là những người thạo chèo mà dai sức. Quãng đường đua
kéo dài khoảng 4km, đội nào về đích trước sẽ được lĩnh thưởng, phần
thưởng là tiền.
Ngoài đại lễ diễn ra vào ngày 10/11 âm lịch, hai làng còn có tiểu lễ diễn ra
vào ngày 14/2 của Giang Võng và 15/2 của Trúc Võng. Các nghi thức cũng
như lễ vật đều giảm so với đại lễ.
Lế hội rước nước là một hoạt động văn hóa chính và cũng là nét độc đáo
nhất của lễ hội đình Giang Võng. Bài vị vua Thủy Tề và bình nước thiêng
thờ trong đền được rước ra sông Cửa Lục bằng đội hình thuyền chải mang
hình rồng, tàu ghép đôi, các chải nhỏ, hàng chục tàu thuyền rước cờ nghi
trượng oai nghiêm… Sau khi làm các thủ tục xin nước ngoài sông, đoàn
rước được long trọng đưa đón về đất liền bằng hai hàng bát bửu, tàn, long,
đội lân, đội rồng, chống, chiêng, đội bát âm….
Lễ rước nước mang ý nghĩa mời thần Thủy phủ và các vị thánh linh về đình
dự hội, cầu cho trời yên biển lặng, nhiều cá tôm, ban cho người dân chài Hạ
111
Long nói chung có cuộc sống ấm no, tránh được tai ương, hiểm họa. Nước
được múc ngoài cửa sông, nơi có dòng chảy, đón đàn cá đi qua và kính cẩn
mang về dâng lên ban thờ chính của đình.
Những thực hành thường xuyên hơn là lễ hội Bơi chải diễn ra trong hai ngày
19 và 20/1 âm lịch hằng năm với ý nghĩa như một dịp khai xuân của ngư dân đi
biển.
Để chuẩn bị cho lễ hội này, ngư dân phải tiến hành đóng thuyền đua, kiểu
thuyền rồng, có trang trí chân kim cách đó 2-3 tháng. Chiếc thuyền nào cũng đực
đóng vững chắc với 12 mái chèo, mỗi mái chèo dài 5m và mái chèo lái dài 10m.
Mỗi làng cử ra thợ cầm lái và 12 trai làng (còn gọi là tạo) có sức khỏe, đạo đức, có
kinh nghiệm, kỹ thuật chèo thuyền, trang phục gọn gàng, đầu chít khăn đỏ, mặc áo
nâu đỏ, tay cầm cờ đỏ, sẵn sàng đua hết mình để đem lại chiến thắng cho làng.
Khởi đầu cho lễ hội là nghi thức rước nước về miếu Cậu Vàng (nằm trong
làng Cửa Vạn). Để chọn vị trí đường đua cho các chải, mỗi làng sẽ tiến hành bốc
thăm ngẫu nhiên. Những lá thăm đó ghi sẵn vị trí tiến hành như: nhất đông, nhất
tây, giữa thứ... Một quy định bắt buộc khác đặt ra là người tham gia trong các đội
bơi chải phải trong sạch, không vướng tang trở, liền trong một tuần trước khi thi
đấu phải ăn ở tập trung, tuyệt đối không dùng rượu, thịt, cá, chỉ được ăn đồ chay để
tránh làm ô uế thánh thần, gây ra ảnh hưởng xấu cho cả làng.
Sau khi tiến hành các nghi lễ thiêng liêng, vào đúng giờ ngọ (12h trưa), vị
tiên chỉ dứt trống lệnh, lập tức cuộc đua thuyền diễn ra quyết liệt. Ngư dân vạn chài
gọi đây là “thủy mã đấu trạo” (đua ngựa trên nước). Có 3 vòng đi và 3 vòng về,
thuyền nào đi đủ 6 vòng và nhổ vè (cọc tre cắm giới hạn) trước thì thắng cuộc. Đây
là một dịp để ngư dân xả hơi, phấn khích vì được hòa mình vào không khí tranh tài
112
với sự hò reo nhiệt tình.
PHỤ LỤC 3:
MỘT SỐ HÌNH ẢNH
113
Ảnh 1-2: Làng chài trên biển trƣớc TĐC (Nguồn: Internet)
Ảnh 3. Làng chài trên biển bây giờ (chì còn là những bè nổi nuôi trồng hải sản)
(Nguồn: Nguyễn Thị Minh Huyền)
114
Ảnh 4. Toàn cảnh khu TĐC trên đất liền (Nguồn: Tác giả luận văn)
115
Ảnh 5-6. Dãy nhà TĐC (Nguồn: Tác giả luận văn)
Ảnh 7. Nhà của ngƣ dân trên biển trƣớc đây (Nguồn: Báo Quảng Ninh online)
116
Ảnh 8. Nhà của ngƣ dân trên khu TĐC (Nguồn: Tác giả luận văn)
Ảnh 9. Ngƣ dân tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội (Nguồn: Tác giả Luận văn)
117
Ảnh 10. Một số loại hình dịch vụ mới trên khu TĐC (Nguồn: Tác giả Luận văn)
Ảnh 11. Chợ tạm tại khu TĐC (Nguồn: Nguyễn Thị Minh Huyền)
118
Ảnh 12. Lối ra bến Cái Xà Cong (Nguồn: Tác giả luận văn)
Ảnh 13. Bến Cái Xà Cong chƣa đƣợc khai thông luồng lạch và các hạng mục
còn ngổn ngang (Nguồn: Tác giả luận văn)
119
Ảnh 14. Trẻ em làng chài đón Tết trung thu (Nguồn: Báo Quảng Ninh online)
Ảnh 15. Phục dựng hát cƣới trên thuyền (Nguồn: Website Ban quản lý Vịnh Hạ
Long)
Ảnh 16. Lễ hội truyền thống của ngƣ dân vạn chài Hạ Long (Nguồn: Website
120
Ban quản lý Vịnh Hạ Long)