ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HOÀNG TÚ ANH

CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0

CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC VỚI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÍ HỌC

THÁI NGUYÊN - 2019

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HOÀNG TÚ ANH

CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC VỚI VIỆT NAM Ngành: Địa lí học Mã ngành: 8.31.05.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÍ HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. VŨ NHƯ VÂN

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

THÁI NGUYÊN - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan và chịu trách nhiệm về các kết quả nghiên cứu trong

luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kì một công trình

nào khác. Các nguồn tài liệu tham khảo được trích dẫn đầy đủvới độ tin cậy cao

và được kiểm tra bằng TURNITIN với điểm 14%.

Thái Nguyên, ngày 17 tháng 4 năm 2019

Người thực hiện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Hoàng Tú Anh

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của TS. Vũ Như Vân

CBHD hướng dẫn. Tôi cũng xin bày tỏ sự cảm ơn tới BGH Trường ĐHSP -

ĐH Thái Nguyên. Cùng các thầy, cô giáo trong Khoa Địa lí, phòng Đào tạo đã

giúp đỡ, dạy bảo tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu.

Cuối cùng tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã động viên

và tạo điều kiện giúp đỡ tôi để tôi hoàn thành tốt đề tài này.

Tôi xin trân trọng cảm ơn!

Thái Nguyên, ngày 17 tháng 4 năm 2019

Người thực hiện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Hoàng Tú Anh

MỤC LỤC

Trang

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii MỤC LỤC .......................................................................................................... iii DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .................................................................... iv DANH MỤC KÊNH HÌNH ................................................................................ v DANH MỤC KÊNH SỐ ..................................................................................... v MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1 1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1 2. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn nghiên cứu của đề tài ................................... 2 3. Tổng quan lịch sử nghiên cứu ......................................................................... 2 4. Quan điểm nghiên cứu ..................................................................................... 4 5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 5 6. Đóng góp của đề tài ......................................................................................... 6 7. Kết cấu luận văn .............................................................................................. 6 NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................................... 7 Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CMCN 4.0 .......................... 7 1.1. Cơ sở lí luận ............................................................................................... 7 1.1.1. Nhận thức chung ........................................................................................ 7 1.1.2. Cách mạng công nghiệp trong tiến trình phát triển kinh tế của một

quốc gia.................................................................................................... 10 1.2. Cơ sở thực tiễn ......................................................................................... 13 1.2.1. CMCN 4.0 trong một thế giới thay đổi ................................................... 13 1.2.2. Nhận diện các tiên đề vật chất để tiếp cận CMCN 4.0 ở Việt Nam ........ 22 Tiểu kết Chương 1 ............................................................................................. 26

Chương 2. TÌNH HÌNH CMCN 4.0 MỘT SỐ NƯỚC VÀ KHU VỰC

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

TRÊN THẾ GIỚI .................................................................................. 27 2.1. Châu Âu và cuộc CMCN 4.0 ................................................................... 27 2.2. Một số nước đi tiên phong trong CMCN 4.0 .......................................... 31 2.2.1. Hoa kì ...................................................................................................... 31 2.2.2. Đức........................................................................................................... 33 2.2.3. Trung quốc ............................................................................................... 36

2.3. Một số nước tiêu biểu trong phát triển công nghiệp sáng tạo ................. 39 2.3.1. Công nghiệp sáng tạo - xu hướng tất yếu ................................................ 39 2.3.2. Anh - nơi khởi nguồn của công nghiệp sáng tạo ..................................... 40 2.3.3. Nhật Bản với chiến lược tập trung vào công nghiệp sáng tạo ................ 41 2.3.4. Hàn Quốc - quốc gia dẫn đầu về sáng tạo ............................................... 42 2.3.5. Singapore - từ quốc đảo nghèo trở thành con rồng châu Á ..................... 43 2.4. Sự sẵn sàng của các nước ASEAN đối với cuộc CMCN 4.0 .................. 44 2.4.1. Cộng đồng ASEAN ................................................................................. 44 2.4.2. Sự sẵn sàng bứt phá của Việt Nam trước CMCN 4.0 ............................. 46 Tiểu kết Chương 2 ............................................................................................. 50

Chương 3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY CMCN 4.0 Ở

VIỆT NAM .............................................................................................. 51 3.1. Những cơ hội và thách thức từ CMCN 4.0 đối với Việt Nam ................ 51 3.1.1. Cơ hội và thách thức ................................................................................ 51 3.1.2. Phương châm hành động: Bây giờ hoặc không bao giờ.......................... 53 3.2. Định hướng và một số giải pháp phát triển các ngành và lĩnh vực

then chốt của Việt Nam trong CMCN 4.0 ............................................... 55 3.2.1. Tổng quan về định hướng tái cơ cấu nền kinh tế trong CMCN 4.0 ........ 55 3.2.2. Phát triển ngành nông - lâm nghiệp - thủy sản trong CMCN 4.0 ........... 58 3.2.3. CMCN 4.0 trong phát triển khu vực kinh tế công nghiệp - xây dựng .... 60 3.2.4. CMCN 4.0 trong phát triển khu vực dịch vụ ........................................... 62 3.2.5. CMCN 4.0 với phát triển nguồn nhân lực ............................................... 64 3.3. Một số giải pháp đột phá ......................................................................... 67 3.3.1. Chuyển đổi số 5G: không tuần tự / không truyền thống ......................... 67 3.3.2. Xây dựng Bản đồ quốc gia số ................................................................. 69 3.3.3. Một số giải pháp xây dựng hình ảnh của quốc gia khởi nghiệp Việt Nam

trong tinh thần CMCN 4.0 ......................................................................... 70 3.3.4. Ứng phó với biến đổi khí hậu .................................................................. 71 Tiểu kết Chương 3 ............................................................................................. 73 KẾT LUẬN ....................................................................................................... 74 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 76

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Stt Chữ viết tắt Cụm từ đầy đủ

AI Trí tuệ nhân tạo 1

BigData Dữ liệu lớn 2

BigChain Chuỗi số lớn / Sổ cái 3

CMCN 4.0 Cách mạng công nghiệp lần thứ tư 4

CN 4.0 Công nghiệp hóa lần thứ tư 5

CI Chỉ số năng lực sáng tạo 6

IoT Internet kết nối vạn vật 7

ICT Công nghệ thông tin 8

ID Định danh 9

IIC Chỉ số sáng tạo 10

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

WEF Diễn đàn kinh tế thế giới 11

Hình 1.1. Cuộc CMCN trong lịch sử.......................................................................... 14

Hình 1.2. Công xưởng tương lai, hay Công nghiệp 4.0 (CN4.0) ............................... 20

Hình 1.3. Điểm số các trụ cột của Việt Nam .............................................................. 23

Hình 3.1. IoT & BigDa - biểu tượng của CMCN 4.0. ................................................ 68

DANH MỤC KÊNH HÌNH

DANH MỤC KÊNH SỐ

Bảng 1.1. Mục tiêu đến 2020 và kết quả chỉ số GII 2018 của Việt Nam ................. 24

Bảng 2.1. Xếp hạng GII 2017 của các nước ASEAN được xếp hạng ...................... 45

Bảng 2.2. So sánh thứ hạng các tiểu chỉ số ĐMST của Việt Nam qua các năm 2013,

2014, 2015, 2016 và 2017 ........................................................................ 47

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Đầu thế kỉ XVIII - XIX cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên diễn ra tại

Vương quốc Anh với việc thay đổi từ lao động thủ công sang sản xuất cơ khí

nhờ sự ra đời của động cơ hơi nước. Sau đó là cuộc cách mạng lần thứ hai diễn

ra với việc sử dụng năng lượng điện để sản xuất hàng loạt, bắt đầu từ cuối thế

kỉ XIX tới khi Thế chiến 1 bùng nổ. Cuộc cách mạng công nghiệp thứ 3 trong

những năm 1970 đặc trưng bằng sản xuất tự động hóa dựa vào máy tính, thiết

bị điện tử và internet. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0)

đang diễn ra tại nhiều nước phát triển trên 3 lĩnh vực chính gồm Công nghệ

sinh học, Kĩ thuật số và Vật lý. Những yếu tố cốt lõi của kĩ thuật số trong

CMCN 4.0 sẽ là: Trí tuệ nhân tạo (AI), Internet kết nối vạn vật - Internet of

Things (IoT) và Dữ liệu lớn (BigData). Trên lĩnh vực công nghệ sinh học,

CMCN 4.0 tập trung nghiên cứu để tạo ra những bước nhảy vọt trong Nông

nghiệp, Thủy sản, Y dược, chế biến thực phẩm, bảo vệ môi trường, năng lượng

tái tạo, hóa học và vật liệu. Cuối cùng là lĩnh vực Vật lý với robot thế hệ mới,

máy in 3D, xe tự lái, các vật liệu mới (graphene, skyrmions…) và công nghệ

nano. Hiện nay CMCN 4.0 đang diễn ra tại các nước phát triển như Mỹ, châu

Âu, Đông Á. Bên cạnh những cơ hội mới, CMCN 4.0 đặt ra cho nhân loại

nhiều thách thức phải đối mặt.

CMCN 4.0 đang hiện hữu ở Việt Nam, tác động mạnh mẽ đến mọi

ngành, mọi lĩnh vực, mọi doanh nghiệp và người dân, đem lại cho chúng ta

nhiều cơ hội để nâng cao trình độ, năng lực sản xuất và cạnh tranh trong chuỗi

giá trị toàn cầu, tạo ra sự thay đổi lớn về mô hình kinh doanh bền vững và là cơ

hội cho khởi nghiệp sáng tạo. CMCN 4.0 còn có thể rút ngắn quá trình công

nghiệp hoá bằng cách phi truyền thống, phát triển nhảy vọt lên công nghệ cao.

Xuất phát từ những vấn đề lí luận và thực tiễn chúng tôi chọn hướng

nghiên cứu của luận văn với đề tài: “Cách mạng công nghiệp 4.0: Cơ hội và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

thách thức với Việt Nam”.

2. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn nghiên cứu của đề tài

2.1. Mục tiêu

Nghiên cứu cơ sở lí luận và ý nghĩa thực tiễn của cuộc CMCN 4.0. Phân

tích kinh nghiệm một số nước đi tiên phong trong CMCN 4.0, những cơ hội và

thách thức của CMCN 4.0 đối với Việt Nam, đề xuất các định hướng và giải

pháp thúc đẩy cuộc cách mạng này trong điều kiện Việt Nam

2.2. Nhiệm vụ

Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn CMCN 4.0

Thu thập, xử lí số liệu, tiến hành lập biểu đồ, bản đồ

Phân tích, tổng hợp, đánh giá các tài liệu về CMCN 4.0

Liên hệ với thực tiễn Việt Nam

2.3. Giới hạn nghiên cứu

Về không gian nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu một số quốc gia thực

hiện CMCN 4.0

Về thời gian nghiên cứu: Các số liệu được sử dụng trong luận văn được

cập nhật trong giai đoạn từ năm 2012 - 2019.

Nội dung nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu CMCN 4.0 đối với

một số quốc gia và liên hệ với thực tiễn Việt Nam.

3. Tổng quan lịch sử nghiên cứu

Để thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và Nhà Nước để công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước các nhà nghiên cứu, các nhà hoạt động chính

trị, quản lí nhà nước hết sức quan tâm đến CMCN 4.0. Trong số 13,5 triệu mục

từ / từ khóa CMCN 4.0 trên mạng internet, chúng tôi đã sử dụng 31 nguồn tư

liệu trong nước và thế giới. Nổi bật trong số đó là ấn phẩm “The Fourth

Industrial Revolution” - "Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư” của Klaus

Schwab. Trong ấn phẩm này, tác giả viết: "Cuộc cách mạng công nghiệp lần

thứ tư sẽ thay đổi hoàn toàn cuộc sống của chúng ta. Nó sẽ không chỉ thay đổi

cách chúng ta giao tiếp, cách chúng ta sản xuất, cách chúng ta tiêu dùng. Nó sẽ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

thay đổi chính chúng ta, cung cấp một cuộc sống hiện đại và phát triển như

giao thông thông minh, chính phủ thông minh, thành phố thông minh. Mọi thứ

sẽ được tích hợp vào một hệ sinh thái được vận hành bởi Bigdata và bởi sự hợp

tác của chính phủ với: xã hội và doanh nghiệp. Cuộc cách mạng này sẽ diễn ra

rất nhanh chóng - giống như sóng thần. Trên thực tế, nó không chỉ là một cuộc

cách mạng kĩ thuật số, mà còn là công nghệ nano và công nghệ sinh học.

Những gì WEF đang làm là thúc đẩy sự hợp tác công - tư để dẫn dắt cuộc cách

mạng này". "... Chúng ta cần chuẩn bị thật kĩ lưỡng. Tôi thấy rằng châu Á đang

sở hữu một cơ cấu dân số tương đối trẻ - là lợi thế để có thể dễ dàng đương đầu

với thế giới đang thay đổi...". Theo ông, "... để chuẩn bị cho cuộc cách mạng,

điều đặc biệt quan trọng là hệ thống giáo dục, hướng tới việc phát triển khả

năng kĩ thuật số mà còn nên bổ sung các tiêu chuẩn đạo đức và giáo dục, đào

tạo nguồn lao động chất lượng cao..." [12 /13].

Trước sức lan tỏa và hấp dẫn của CMCN 4.0, nhiều hội thảo quốc tế và

quốc gia được tổ chức ở Việt Nam với sự tham gia của các nhà khoa học trong

nước và quốc tế. Sự kiện lớn nhất trên tầm quốc tế là WEF mà người đứng đầu

là GS Klaus Schwab chính là người khai sinh ra khái niệm CMCN 4.0.

Trong số các xuất bản ấn phẩm tiếng Việt Nạm "Cách mạng công nghiệp

lần thứ tư, cuộc cách mạng của sự hội tụ và tiết kiệm" do TSKH Phan Xuân

Dũng (chủ biên soạn) / CMCN 4.0 và KTXH, con người Việt Nam / "CMCN 4.).

"Vấn đề đặt ra cho phát triển Con người" của Lương Đình Hải (2018) /."Cách

mạng công nghiệp lần thứ tư" của Cục Thông tin KHCN quốc gia / "CMCN 4.0

ở châu Âu..." của Nguyễn An Hà. [5] / [9] / [10] / [11] / vv... Nhiều phát biểu

có giá trị của ông Nguyễn Mạnh Hùng, Bộ trưởng Bộ TT&TT và ông Bùi Tiến

Dũng, Bộ trưởng Bộ KH&ĐT Việt Nam. [26(iii)]

Giới địa lí Việt Nam phản ứng tích cực với CMCN 4, 0 bằng Hội thảo

khoa họa Địa lí toàn quốc với tiêu đề "Khoa học Địa lý Việt Nam phục vụ phát

triển bền vững trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0” tại Tp Huế, 4/2019.

Kỉ yếu Hội nghị được sự hưởng hứng của các nhà địa lí, trong đó, đáng chú ý là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

báo cáo " Địa lí Việt Nam chuyển đổi mô hình tư duy Địa lí Việt Nam thời đại

CMCN 4.0 (ĐỊA LÍ VIỆT NAM PARADIGM 4.0). Tác giả báo này cho rằng

cuộc CMCN 4.0 diễn ra với chức năng kép đối với Địa lí Việt Nam: (i) kích

thích sự khám phá tìm tòi khung lí thuyết mới, (ii) khuyến khích đi vào thực

tiễn với tư tưởng sáng tạo trong sự dẫn dắt của paradigm 4.0; điều đó dẫn tới sự

chuyển đổi khung tư duy, theo ngôn ngữ học thuật, là cuộc cách mạng chuyển

đổi hệ thống tư duy (paradigm) [24].

Ngoài ra, còn có nhiều khá nhiều bài viết về CMCN 4.0 đã công bố dưới

dạng online, dựng nên bức tranh chung về thành tựu và diễn biến sôi động

CMCN 4.0 tại các quốc gia tiên phong thế giới, trong đó có Việt Nam nói riêng.

4. Quan điểm nghiên cứu

4.1. Quan điểm tổng hợp

Các yếu tố địa lí KTXH rất phong phú và đa dạng. Chúng có quá trình

hình thành, phát triển trong mối liên hệ nhiều chiều giữa bản thân các hiện

tượng đó với nhau và giữa chúng với các hiện tượng khác. Vì vậy, để có kết

quả nghiên cứu khách quan khoa học, chúng tôi vận dụng quan điểm tổng hợp,

lãnh thổ để nghiên cứu vận dụng CMCN 4.0 trong điều kiện Việt Nam.

4.2. Quan điểm hệ thống

Phương pháp hệ thống là công cụ phương pháp luận giúp nghiên cứu các

đối tượng phức tạp và cho ta một sản phẩm khoa học có cấu trúc và logic trong

một hệ thống.

4.3. Quan điểm kinh tế

Trong nghiên cứu địa lí KTXH, không thể thiếu quan điểm kinh tế. Vận

dụng quan điểm này, khi nghiên cứu về CMCN 4.0 cần nghiên cứu những nét

khác biệt và hiệu quả kinh tế - xã hội mang lại

4.4. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh

Nghiên cứu đặc điểm tự nhiên, đặc điểm KTXH, sự kế thừa và phát triển

qua tất cả các thời kì: quá khứ, hiện tại và tương lai. Từ đó đưa những định

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

hướng phát triển CMCN 4.0 trong điều kiện Việt Nam.

5. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu dựa trên phương pháp luận khoa học (phép duy vật

biện chứng, duy vật lịch sử) và bám sát đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước

trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong quá trình nghiên cứu, đề

tài còn sử dụng một số phương pháp chủ yếu sau đây:

5.1. Phương pháp thu thập, phân tích tư liệu nguồn

Mặc dù có cảm giác khái niệm CMCN 4.0 khá mới mẻ đối với Việt

Nam. Điều này về cơ bản là đúng do tác động của hai ấn phẩm Cách mạng

công nghiệp lần thứ Tư. (The Fourth Industrial Revolution) của Klaus Schwab

(2016) (Bộ Ngoại giao Việt Nam biên dịch và hiệu đính, NXB Thế giới, Hà

Nội, 2016). Đề tài cần sử dụng nhiều nguồn tài liệu, số liệu khác nhau, đặc biệt

từ nguồn tư liệu truy cập trên mạng internet và nguồn tài liệu xuất bản đang

phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng.Từ nguồn thông tin thứ cấp

của các cơ quan nhà nước, các tài liệu và báo cáo của cơ quan chức năng, các

công trình nghiên cứu đã công bố, các số liệu mới cập nhật. Từ đó có thể đánh

giá thực trạng nền kinh tế và định hướng cũng như giải pháp đột phá cho sự

phát triển KTXH Việt Nam trong giai đoạn mới.

5.2. Phương pháp chuyên gia

Là phương pháp thu thập xử lí những đánh giá, dự báo bằng cách tập hợp

và tham khảo ý kiến các chuyên gia thuộc lĩnh vực kinh tế về vấn đề nghiên

cứu hoặc định hướng cho người nghiên cứu. Sử dụng phương pháp này giúp

đưa ra được những kết luận chính xác và khách quan về cách mạng công

nghiệp 4.0.

5.3. Phương pháp phân tích SWOT

Đây là một công cụ nghiên cứu đem lại hiệu quả trong nghiên cứu với

mục đích cuối cùng là hoạch định chiến lược, chính sách và giải pháp thúc đẩy

CMCN 4.0. Chúng tôi cho rằng phương pháp SWOT nhằm xác định ưu tiên hai

cặp mạnh - yếu / cơ hội - thách thức trong điều kiện cuộc CMCN 4.0. Do đó,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

nhiều khái niệm mới cần được làm rõ trước khi đi vào phân tích chiến lược với

sự ưu tiên là làm sáng tỏ sự chuyển đổi mô hình tư duy về kiến lập các chính

sách, giải pháp thúc đẩy CNCM 4.0 trong điều kiện Việt Nam. Điều đó có

nghĩa là việc học tập vận dụng kinh nghiệm, về bản chất, là sự chuyển đổi bài

học kinh nghiệm khởi nghiệp của các quốc gia tiên phong trong CMCN 4.0

thành hành động sáng tạo và khác biệt trên cơ sở phân tích sự tương đồng và

khác biệt trong hoàn cảnh lịch sử, địa lí, con người Việt Nam.

6. Đóng góp của đề tài

Thu thập, phân tích tài liệu nguồn nhằm cập nhật (update) và làm phong

phú nội hàm khái niệm CMCN 4.0 trong điều kiện Việt Nam. Trên cơ sở đó

cập nhật nội dung lí luận và thực tiễn dạy / học Địa lí nhằm bắt kịp xu thế thời

đại 4.0

7. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn được chia thành các chương:

Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn CMCN 4.0

Chương 2: Tình hình CMCN 4.0 trên thế giới

Chương 3: Định hướng và giải pháp thúc đẩy cuộc CMCN 4.0 trong điều

kiện Việt Nam

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

Từ khóa: CMCN 4.0 / CN 4.0 (công nghiệp 4.0)

NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Chương 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CMCN 4.0

1.1. Cơ sở lí luận

1.1.1. Nhận thức chung

Từ khái niệm ban đầu Công nghiệp 4.0 (CN 4.0) đến Cách mạng công

nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) là một khoảnh khắc lịch sử vĩ đại của loài người, bắt

đầu từ điện thoại thông minh đến tủ lạnh thông minh, phổ dụng trong cuộc sống

hàng ngày của chúng ta. Công nghệ mới trên nền tảng kĩ thuật thông minh và

khác biệt đang thay đổi thế giới. CN 4.0 là nhãn hiệu Đức, với sự kết hợp dần

dần giữa thực hành sản xuất và công nghiệp truyền thống với thế giới công

nghệ ngày càng phát triển xung quanh chúng ta. Điều này bao gồm sử dụng các

triển khai M2M và Internet of Things (IoT) với quy mô lớn giúp các nhà sản

xuất và người tiêu dùng cung cấp tự động hóa tăng cường, cải thiện giao tiếp và

giám sát, cùng với tự chuẩn đoán và phân tích cấp độ mới để cung cấp một

tương lai thực sự hiệu quả. Các nhà máy, xí nghiệp tự động hóa sản xuất được

giám sát và kết nối với nhau: máy/máy; người/người; người/máy và được quản

trị liên tục, tức thời và ổn định.

Theo Gartner, trong một Báo cáo của chính phủ Đức năm 2013, CMCN

4.0 xuất phát từ khái niệm "Industrie 4.0" là "... sự kết nối các hệ thống nhúng

và cơ sở sản xuất thông minh để tạo ra sự hội tụ kĩ thuật số giữa công nghiệp,

kinh doanh, chức năng và quy trình bên trong...".Klaus Schwab, người sáng lập

và Chủ tịch điều hành Diễn đàn Kinh tế Thế Giới cho rằng: "Cách mạng công

nghiệp đầu tiên sử dụng năng lượng nước và hơi nước để cơ giới hóa sản xuất.

Cuộc cách mạng lần 2 diễn ra nhờ ứng dụng điện năng để sản xuất hàng loạt.

Cuộc cách mạng lần 3 sử dụng điện tử và công nghệ thông tin để tự động hóa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

sản xuất" [14].

Đúng như nhận định của Klaus Schwab, CMCN 4.0 đã và đang diễn ra

nhanh chóng giống như "sóng thần", thay đổi hoàn toàn cách sống, giao tiếp,

sản xuất và tiêu dùng, đem lại cho loài người một cuộc sống hiện đại, gọi

chung là một xã hội thông minh: giao thông thông minh, chính phủ thông minh,

thành phố thông minh, nông thôn thông minh, ngôi nhà thông minh... bởi vì

mọi thứ được tích hợp trong một "hệ sinh thái thông minh" được vận hành

trong dòng chảy thông tin - năng lượng AI / IoT/ BigData. Mọi nguyện vọng

tìm kiếm thông tin, dữ liệu và quản trị việc riêng / việc nhà / việc cộng đồng /

quốc gia được điện toán đám mây ghi nhận và chia sẻ thông tin được mã hóa.

Trước đây, chúng thường quen với các khải niệm làn sóng công nghiệp hóa.

Hơn thế, chính W. Rostow phân loại các khái niệm xã hội tiền công nghiệp / xã

hội công nghiệp / xã hội hậu công nghiệp, nhưng không thể nhìn ra mỗi thời kì

đó lại tồn tại một dòng chảy vật chất - năng lượng, về bản chất là dòng chảy

thông tin được đo bằng đơn vị entropi (thông lượng) hợp thành cặp đôi thực

(vật chất năng lượng) / ảo (thông tin), cũng tức là ở giai đoạn hậu công nghiệp,

chúng ta cơ hội tư duy lại, không dừng lại ở thực thể vật chất, mà đi xa hơn, là

tiếp cận cái "bóng" của nó - entroipi - do chủ thể của nó chính là con người với

một năng lực, còn gọi là tiềm thức "thông minh".

Năm 2013, trong một báo cáo của chính phủ Đức đề xuất cụm từ

Industrie 4.0 được diễn giải là Công nghiệp 4.0 trên nền tảng công nghệ thông

minh các ngành sản xuất và dịch vụ hỗ trợ cho con người chứ không đòi hỏi sự

có mặt trực tiếp của con người.

Lúc đầu, khái niệm mới này gây ra cuộc tranh luận có tính học thuật.

Những khái niệm mới có tính hấp dẫn như CN 4.0 đồng nghĩa với nhà máy

được thông minh hóa bởi các quy trình công nghệ và quản trị thông qua các

chuỗi sản xuất, phân phối và dịch vụ. Luồng gió mới CN 4.0 lan tỏa sang Mĩ,

Nhật, Trung Quốc, Hàn Quốc và nhiều nước khác. Họ nhận ra lợi thế cạnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

tranh của xu thế mới này. Bắt đầu cuộc đua công nghiệp thông minh tại nhiều

quốc gia. Tại WEF tại Davos - Kloster, Thụy Sĩ lần thứ 46 người ta chính thức

bàn tới chủ đề mới mẻ "Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư" (CMCN 4.0).

Loài người được báo trước bước ngoặt vĩ đại, hoàn toàn khác về chất với các

cuộc cách mạng công nghiệp từng diễn ra trước đây, trong đó người ta hứa hẹn

thay đổi cả chuỗi giá trị dịch vụ, gọi là internet kết nối - IoT / dịch vụ kết nối -

IoS. Vậy là từ trong khuôn khổ một dự án riêng, nước Đức đã thu hút / lôi kéo

vào cuộc các nước công nghiệp phát triển Nhật Bản, Hàn Quốc… và trở thành

một quốc gia đầu tầu / quốc gia dẫn dắt (leader - state quốc gia có sức lan tỏa)

quan trọng của cuộc cách mạng này. Với tầm nhìn rộng lớn và với khung kiến

trúc tham chiếu rõ ràng, Công nghiệp 4.0 chủ yếu đặc trưng bởi sự kết nối các

tài sản công nghiệp vật lí và công nghệ kĩ thuật số trong một hệ thống vật lý -

không gian mạng.

IoT đóng vai trò quan trọng trong phạm vi của IoT công nghiệp 4.0 với

nhiều thành phần, từ nền tảng IoT đến cổng IoT công nghiệp, thiết bị và nhiều

hơn nữa. Tất nhiên không chỉ là IoT: điện toán đám mây (và nền tảng đám

mây), dữ liệu lớn (phân tích dữ liệu tiên tiến, hồ sơ dữ liệu, trí thông minh

biên) với trí tuệ nhân tạo (có liên quan), phân tích dữ liệu ở rìa mạng (điện toán

sương mù và điện toán biên), điện thoại di động, truyền thông dữ liệu / công

nghệ mạng, thay đổi ở hệ thống sản xuất, lập kế hoạch nguồn lực doanh

nghiệp (ERP / iERP), bộ điều khiển logic lập trình (PLC), cảm biến và bộ

truyền động, MEMS và bộ chuyển đổi (cảm biến thứ cấp) và các mô hình trao

đổi dữ liệu sáng tạo.

Ngoài ra, các công nghệ tương tự, chẳng hạn như robot tự động hóa quá

trình (RPA), AI (động cơ AI, học máy), hội tụ của cả hai và cứ thế xuất hiện /

tiếp cận với tất cả các lĩnh vực phần mềm như quản lí thông tin doanh

nghiệp, quản lí quy trình kinh doanh và các ứng dụng trong thị trường tìm

nguồn cung ứng, được hiển thị trong các ứng dụng công nghiệp/sản xuất hỗ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

trợ IoT và các nền tảng AI /IoT/ BigData.

CMCN 4.0 hiện nay không bị hạn chế bởi hệ thống máy móc thông

minh, tự động kết nối trong một nhà máy, mà được kết nối rộng lớn hơn nhiều,

bao quát cả vùng công nghiệp, các đô thị, các hải cảng, kể cả mã hóa chuỗi gen

cho tới công nghệ nano, năng lượng tái tạo bằng cách tính toán điện toán đám

mây và lượng tử...

Trong một dòng chảy từ ảo sang thật, các tương tác con người/con

người, người/máy, máy/máy thu hút các nhà đầu tư mạo hiểm, nhà kinh doanh

kiếm lời, và cuối cùng người tiêu dùng cũng được hưởng lợi nhiều.

1.1.2. Cách mạng công nghiệp trong tiến trình phát triển kinh tế của một

quốc gia

1.1.2.1. Tuần tự

Một trong những thuyết kinh tế phát triển là thuyết về ba gia đoạn tăng

trưởng, bắt đầu bằng (i) giai đoạn cất cánh. Ở giai đoạn này, các nền kinh tế

tập trung vào hai yếu tố quan trọng nhất là tài nguyên đất và lao động hiện hữu

trong nước / thu hút vốn đầu tư trong nước (Hợp tác CÔNG / TƯ - PPP) và

quốc tế (ODA / FDI). Một số nước đã đi quá đà về khai thác tài nguyên, phải

đối mặt với nguy cơ hiện hữu của biến đổi khí hậu toàn cầu (Điển hình là hội

chứng Hà Lan - một bài học đắt giá cho các nước dốc sức khai thác tài nguyên

để tăng trưởng. Người Hà Lan đã chịu hậu quả đau đớn. Họ đã nhận ra thảm

họa này và nhanh chóng khắc phục bằng việc thay đổi tư duy, dựa chủ yếu vào

đầu tư cho quản lý kinh tế nước, sữa bò / hoa tuy-lip nổi tiếng Hà Lan trên thị

trường quốc tế. Sau giai đoạn cất cánh là giai đoạn phát triển (ii) ổn định với đồ

thị tăng trưởng đi ngang. Một thời gian sau, (iii) tiếp tục tăng trưởng đôi khi

với đồ thị tăng ngược. Chính trong giai đoạn này, một số nước đã thành công,

một số khác thất bại vì hiệu ứng phát triển "luẩn quẩn", càng bán tài nguyên

càng cạn kiệt, càng kêu gọi đầu tư bên ngoài (FDI/ODA), gánh nặng nợ công

tăng đến mức không thể trả nổi. Nhiều nước, điển hình là Brazin, Achentina,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

Hy Lạp, Bô Đào Nha... đã trở thành con nợ của các nước phát triển, của IMF.

Hiện tượng này dẫn tới hậu quả nghiêm trọng, đó là cuộc khủng hoảng kinh tế

năm 2008. Việt Nam may mắn không bị tác động quá nặng nề do hậu quả các

cuộc khủng hoảng đó nhờ phát triển nông nghiệp, đánh bắt và nuôi trồng thủy

sản, đã giải quyết được vấn đề tự túc lương thực, nhiều tài nguyên nhiệt đới trở

thành mặt hàng xuất khẩu hàng đầu thế giới như gạo, cà phê, cao su, hồ tiêu,

điều, rau quả...

Thuyết tăng trưởng cất cánh / ổn định / tăng trưởng tiếp như nói trên tỏ

ra không phù hợp trước các tiến bộ mới của CMCN 3.0 / CMCN 4.0. Về mặt lí

thuyết, trong điều kiện CMCN 4.0 người ta nhận ra tầm quan trọng của việc

khai thác các thành tựu công nghệ mới do CMCN 4.0 đem lại, tùy thuộc vào

hoàn cảnh cụ thể một quốc gia / lãnh thổ hiện đang ở thời điểm trong 3 giai

đoạn phát triển sau đây:

Giai đoạn I: Nền kinh tế chủ yếu dựa vào nguồn lực nội tại, trước hết là

tài nguyên, lao động, kể cả vị trí và vị thể địa lí đem lại. Ngay ở giai đoạn đầu

cũng có thể đạt năng lực cạnh tranh ở mức độ cao. VD: sản xuất lúa gạo, thủy

sản, cây công nghiệp nhiệt đới được tổ chức khai thác và tiêu thụ theo chuỗi

cung ứng toàn cầu, được điều hành trên nền tảng IoT / IoS / BigData.

Giai đoạn II: Khác biệt với giai đoạn I là giai đoạn tăng trưởng dựa trên

nguồn đầu tư. Có hai hiện tượng phải chú ý: (i) Việt Nam kêu gọi đầu tư để

mua về những kĩ thuật cũ, lạc hậu. Hệ quả là chúng ta biến đất nước thành bãi

rác công nghiệp (Vụ VINASIN là ví dụ đau đớn !). (ii) Kêu gọi đầu tư ngay

vào công nghệ hiên đại, bắt kịp với trình độ thế giới. Việt Nam đầu tư vào hiện

đại hóa NGÂN HÀNG, MẠNG LƯỚI ĐIỆN QUỐC GIA, VIỄN THÔNG.

Giai đoạn III: Nền kinh tế thông minh / sáng tạo. Đi đầu trong giai đoạn

này là các nước công nghiệp phát triển, tiêu biểu là Mĩ, Đức, trong số các nước

đang phát triển mới nổi là Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapo... Các nước này đã

thành công trong áp dụng công nghệ mới / thông minh như IoT / IoS, bước đầu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

thành công trong AI, BigData và Điện toán đám mây.

Trong ấn phẩm "Thế giới phẳng" của Thomas Freedman đã vẽ lên bức

tranh của nền kinh tế thông minh. Bây giời chúng ta thấy được tầm nhìn của tác

giả trong việc dự báo thế giới hiện thực "gồ gề" bởi các thực thể tự nhiên và

kinh tế quốc gia bị giới hạn cương giới lãnh thổ, thì nay, đã có cơ hội trở nên

"phẳng" hơn do tác động của CMCN 4.0 [20].

1.1.2.2. Bứt phá: Không truyền thống, không tuần tự, bây giờ hoặc không

bao giờ

Theo đề xuất của một số chuyên gia, một quốc gia có thể đi ngay vào

giai đoạn 3 với một số lĩnh vực nhờ tạo lập nền tảng AI / IoT / BigData. Tại

Việt Nam tập đoàn Toyota trang bị dây chuyền hiện đại cho THACO là một ví

dụ điển hình. Cả dây chuyền công nghệ lắp ráp và điều khiển từ xa từ khâu

kiểm tra chất lượng đến sản phẩm cuối cùng của VIFAST điều được điều khiển

từ Cty mẹ ở Nhật Bản. Một ví dụ nữa, đó là việc Indonesia đi ngay vào kinh tế

số bước đầu đã đem lại lợi nhuận gần 30 tỉ USD, khi nước này xây dựng tầu

điện ngầm được điều khiển bằng công nghệ số cải thiện hiện trạng giao thông

nội đô ở Giacacta.

Các nước có trình độ kinh tế hiện nay như của Việt Nam có thể giải

quyết một số nhiệm vụ cấp bách bằng công nghệ số. Ví dụ đó là việc trang bị

máy định vị GPS cho các tầu đánh cá trên Biển Đông nhằm đáp ứng điều kiện

của EU trong việc xóa thẻ vàng cảnh báo nhập khẩu cá biển Việt Nam sang thị

trường EU trong thời gian sớm nhất. Các lĩnh vực khác như kinh tế số, lập bản

đồ số đang được Việt Nam khẩn trương triển khai trong các năm 2019 - 2020

vv và vv... Việt Nam đề nghị Tổ chức Davos thành lập Trung tâm hỗ trợ Khởi

nghiệp 4.0 tại Việt Nam theo hướng đi ngay vào Chương trình quốc gia khởi

nghiệp cho Việt Nam.

Những tín hiệu nói trên cho thấy Chính phủ và các doanh nghiệp Việt

Nam cũng "sốt ruột" đi ngay vào 5G. Nếu 2G/3G/4G kết nối 7 tỷ người thì 5G

sẽ kết nối hàng ngàn tỷ thiết bị, chuyển tải toàn bộ thế giới vật lý vào thế giới

ảo. Các nước ASEAN đang có cơ hội bứt phá với 5G nhưng phải với một tư

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

duy mới, không truyền thống, không tuần tự.

Chúng ta đều có một nhận thức chung là Kinh tế số, 5G sẽ giúp ASEAN

tiếp tục là một khu vực năng động, đổi mới sáng tạo và tăng trưởng. Công nghệ

2G là công nghệ điện thoại thuần tuý. Công nghệ 3G là nửa điện thoại, nửa

data. Công nghệ 4G là thuần túy data, nhưng là cho người với người. Công

nghệ 5G là công nghệ data, nhưng là công nghệ đầu tiên được thiết kế cho kết

nối vạn vật, với một loạt tính năng mới, như độ trễ thấp, tiêu thụ nguồn nhỏ.

Công nghệ 5G sẽ tạo ra một cuộc cách mạng về kết nối. 2G/3G/4G kết nối 7 tỷ

người thì 5G sẽ kết nối hàng ngàn tỷ thiết bị, chuyển tải toàn bộ thế giới vật lý

vào thế giới ảo. Từ đó, thay đổi cơ bản cuộc sống loài người.

Những kì vọng là 5G giúp tăng dung lượng và tốc độ cho thông tin băng

rộng; tạo kết nối vạn vật, nhất là các kết nối đòi hỏi phản ứng trong thời gian

thực. Mạng 5G sẽ làm thay đổi căn bản nhiều ngành công nghiệp như các

ngành công nghiệp sản xuất, giao thông, y tế, nông nghiệp, thành phố thông

minh. Mỗi nước sẽ chọn cho mình một thứ tự ưu tiên riêng để ứng dụng 5G.

Nhưng xét về trung hạn và dài hạn thì tất cả chúng ta sẽ kì vọng thực hiện đủ cả

những ứng dụng trên của 5G.

1.2. Cơ sở thực tiễn

1.2.1. CMCN 4.0 trong một thế giới thay đổi

C.Mác đã đúng với luận điểm: "Những thời đại kinh tế khác nhau không

phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào

với những tư liệu lao động nào. Các tư liệu lao động không những là các thước

đo sự phát triển lao động của con người, mà còn là một chỉ tiêu của những

quan hệ xã hội, trong đó lao động được tiến hành. Trong bản thân các tư liệu

lao động, thì những tư liệu lao động cơ khí lại cấu thành những dấu hiệu đặc

trưng tiêu biểu cho một thời đại sản xuất xã hội nhất định".

Thomas Kuhn, tác giả ấn phẩm: Cách mạng chuyển đổi mô hình / khung

tư duy mà ông đặt tên là Paradigm rằng một thời đại mới sẽ xuất hiện với nhiều

tiêu chí mới sẽ dẫn tới thay đổi tiêu chí tư duy / khung tư duy. Tư duy trong thời

đại chúng ta là tư duy sáng tạo và khác biệt. Với Việt Nam, trong thời đại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

CMCN 4.0 phương châm hành động bây giờ là Phi truyền thống, không tuần

tự, bây giờ hoặc không bao giờ. Thay vì xã hội cần tới những người lập nghiệp

bằng kinh nghiệm thì lại cần tới các nhà khởi nghiệp thông minh và khác biệt,

sẵn sàng chấp nhận rủi ro, đi ngay vào nền kinh tế thông minh trên nền tảng AI

/ IoT/ BigData...

Tiêu chí quan trọng hàng đầu để xác định tính cách mạng của một cuộc

cách mạng là tính thay đổi đột ngột và triệt để về cơ cấu và động lực cũng như

các mối liên hệ bên trong và bên ngoài hệ thống.

CMCN 1.0 diễn ra cách đây hơn hai trăm năm, khoảng 1784, nhờ phát

minh máy hơi nước của J.Watt (công bố bản quyền phát minh trong năm 1785)

mở đầu kỉ nguyên sản xuất cơ khí trong lịch sử tiến bộ của nhân loại. Trên đất

Anh và Tây Âu đã xuất hiện hệ thống đường sắt chạy bằng máy hơi nước; các

nhà máy sản xuất bông vải được trang bị bằng động cơ hơi nước với năng suất

cao, nhiều sản phẩm cung vượt cầu trong nước, dẫn tới mở rộng lãnh thổ thuộc

địa tại các châu lục khác trên thế giới. Thành công vang dội của máy hơi nước

là niềm kiêu hãnh của người Anh trong câu nói "Mặt trời không bao giờ lặn

trên quốc kì nước Anh" (!).

Hình 1.1. Cuộc CMCN trong lịch sử: (1) Cơ giới hóa, năng lượng nước,

năng lượng hơi nước. (2) Động cơ điện và dây chuyền sản xuất hàng loạt.

(3) Máy tính và tự động hóa. (4) Các hệ thống liên kết thực - ảo.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

Nguồn: [26 (i)]

Trước CMCN 1.0 sinh kế của loài người chủ yếu bằng sản xuất nông

nghiệp, thủ công nghiệp dựa trên các nguồn gỗ, than củi, sức mạnh cơ bắp, sức

nước, sức gió với điển hình là cối xay gió và sử dụng sức nước. Người dân

miền núi Việt Nam sử dụng năng lượng dòng sông suối để giã gạo (cối nước)

và vận chuyển nước lên cao (cọn). Vậy là sự thống trị hàng ngàn năm của nền

văn minh nông nghiệp được thay thế bởi máy hơi nước, các loại vật liệu mới là

sắt và than đá, khiến cho năng suất lao động tăng lên và sản phẩm tiêu dùng đa

dạng đạt điểm cực thịnh. Những thành phố, những trung tâm thương mại,

những hải cảng sầm uất xuất hiện. Các nhà sản xuất bắt tay với các nhà buôn,

với các nhà chính trị coi đó là chiến thắng của chủ nghĩa tư bản, xét về quan hệ

sản xuất, đó là chiến thắng của cách mạng công nghiệp thực chứng.

CMCN 2.0 diễn ra cho đến trước Thế chiến I bùng nổ (1914-1916) với

việc phát minh ra năng lượng điện công nghiệp, nhanh chóng lan tỏa sang các

ngành công nghiệp thép, hóa chất, cơ khí, giao thông trên quy mô lớn và chiếm

lĩnh thị trường xuyên biên giới.

May mắn nhất trong lịch sử cận đại của Nhật Bản là tư tưởng cách tân

của Nhật Hoàng Minh Trị, người đã cử một đoàn các nhà chính trị và chuyên

gia đi Mĩ và phương Tây để học hỏi kinh nghiệm và tìm giải pháp mở cửa cho

đất nước vốn đóng kín một cách bí hiểm. Trong cuốn sách "Cánh buồm xanh",

người Nhật mô tả chuyến đi lịch sử này với lời nguyền thà chết một lần mở cửa

đón nhận phương Tây còn hơn suốt đời núp dưới bóng người Tàu !.

Những năm cuối TK XX, trên văn đàn Việt Nam, đã thể hiện niềm hối

tiếc xót xa là Việt Nam đã bỏ lỡ cuộc cách mạng này. Gần đây một số nhà kinh

tế và lịch sử, và ngay trong diễn đàn Quốc hội, đã thẳng thắn nói đến sự cần

thiết không thể bỏ qua CMCN 4.0 nếu không sẽ có tội với lịch sử [26 (i)].

CMCN 3.0, bắt đầu từ phát minh ra chất bán dẫn, làm cơ sở sản xuất ra

các điôt, rất phù hợp với hệ nhị phân, tức là chỉ dùng hai số 0 và 1. Trong liên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

kết chuỗi 0 / 1, đưa lạị hệ quả bất ngờ so với hệ thập phân (hệ đếm 10 con số,

từ 0 đến 9). Vậy là xuất hiện máy tính cá nhân (PC) khoảng 1970 - 1980. Ngay

sau đó, thập niên 1990, xuất hiện internet kết nối toàn cầu. Siêu máy tính của

CMCN 3.0, máy móc tự động trong một dây chuyền / một công đoạn sản xuất

đòi hỏi hàm lương trí tuệ cao, ít có sự can thiệp của lao động chân tay / cơ bắp.

Nhiều xí nghiệp trước đây cần nhiều lao động chân tay nay được tự động hóa

một phần hay toàn phần, thì giờ đây người ta chỉ thấy sự vận hành liên tục các

dây chuyền sản xuất. Nhờ đó năng suất lao động được nâng lên đáng kể, giá

thành giảm tới mức thấp bất ngờ với sự can thiệp thông minh người điều hành

và các nhà quản trị sản xuất và phân phối. Một điều bất ngờ nữa trong CMCN

3.0 là các nhà vật lí khám phá nguồn năng lượng tổng hợp nhiệt hạch, hệ quả

cuối cùng là tìm ra nguồn năng lượng sạch lí tưởng năng lượng nhiệt hạch. Sự

cố Tsecnobưn là một điển hình cảnh báo loài người trước nguy cơ rò rỉ phóng

xạ từ các lò phản ứng hạt nhân. Việc khắc phục hậu quả rất tốn kém và lâu

dài...ở Fukushima Nhật Bản là một ví dụ điển hình.

Khác với các cuộc cách mạng trước đó, CMCN 2.0 / CMCN 3.0 diễn ra

chủ yếu ở Anh và Mĩ, cuộc CMCN 4.0 lại nổ ra ở Đức. Sự kiện này bắt nguồn

từ Chiến lược phát triển công nghiệp của Chính phủ Đức với tên gọi Công

nghiệp 4.0 mà sau này sức lan tỏa của nó dẫn tới sự ra đời của khái niệm

CMCN 4.0 Khái niệm mới này được công bố tại Hội chợ Hannover, nhằm

giới thiệu chương trình hiện đại hóa nền công nghiệp Đức trên cơ sở đổi mới

căn bản nền công nghiệp truyền thống (CN 3.0). Tham vọng Đức là đưa ra

một khuôn mẫu mới nhằm tạo lập cách tiếp cận mới trong nền kinh tế. Và ai

muốn, xin mời đến nhận sự trợ giúp của Đức. Nền kinh tế Đức dẫn đầu thế

giới về điều kiện đầu tư và cung cấp kĩ thuật / công nghệ hiện đại cho cuộc

cách mạng này.

Nước Đức tổ chức hàng loạt hội thảo hấp dẫn để thu hút CMCN 4,0

nhằm quảng bá các nhà máy "thông minh". Trên phạm vi toàn cầu với những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

tùy biến sản phẩm theo nhu cầu khách hàng chứ không bị áp đặt bởi người vận

hành (operator) và địa điểm sản xuất cố định, nói cách khác, đó là sự ra đời một

mô hình hoạt động mới về nguyên tắc. Có lẽ điều này đã tác động đến các nhà

khoa học luận mà tiêu biểu là Thomas Kuln đề xuất mô hình / khung tư duy

mới trong thời đại chúng ta.

Không dừng lại hệ thống THỰC / ẢO, các nhà lí thuyết đã phát triển

khái niệm CN4.0 thành CMCN 4.0, với tham vọng đi xa hơn nhiều, và với sức

lan tỏa sang các lĩnh vực khác như mã hóa / giải mã ADN (chuỗi gen) cho tới

công nghệ nano từ tính toán siêu lượng tử, làm nền tảng cho tương tác vật lí số

và sinh học số. Đó chính là sự khác biệt cơ bản của CMCN 4.0 với các cuộc

CMCN 2.0 / 3.0 trước đây.

Người có công làm rõ nội hàm của CMCN 4. 0 là Klaus Schwab, và

chính ông được coi là khai sinh ra khái niệm này, đã diễn giải CMCN 4.0 là “...

một cụm thuật ngữ cho các công nghệ và khái niệm của tổ chức trong chuỗi giá

trị ” đi cùng với các hệ thống vật lý trong không gian ảo, Internet của vạn vật

và Internet của các dịch vụ..." [14].

Từ đây, chúng ta hiểu rằng CMCN 4.0 với nền tảng vật lí thông minh

làm cơ sở để nền sản xuất mới trên nền nền tảng AI / IoT / BigData... trong

chuỗi chuyển đổi các giá trị thực bằng chuỗi giá trị ảo, nhưng sản phẩm cuối

cùng lại là sản phẩm thực.

Người Đức thấy trong CMCN 4.0 là cơ hội để tăng trưởng kinh tế trên

nền tảng mới. Nếu các nền tảng cũ đã "đáo hạn" mà dừng lại thì chỉ chuốc lấy

tụt hậu và nhanh chóng bị bỏ lại sau cuộc chơi. Nắm bắt cơ hội này, người Đức

nỗ lực phổ biến /nói khác đi là quảng bá khái niệm CMCN 4.0 bằng việc soạn

thảo chiến lực và thực thi trên quy mô cả nước với các tiêu chuẩn mới nhằm tạo

ra các hình mẫu cho người khác phải noi theo. Hệ quả là CMCN 4 có bản

quyền / thương hiệu Đức. Từ "made in Germany 3.0", nước Đức bước ra sân

khấu toàn cầu với "made in Germany 4.0". Ai cần thương hiệu mới này phải

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

đến Đức mà học tập, tư vấn và mua công nghệ CMCN 4.0 của Đức !

Từ Đức làn sóng CMCN 4.0 lan truyền đến Hàn Quốc. Chính phủ Hàn

Quốc soạn thảo chiến lược tích hợp - CNTT&TT và các lĩnh vực có lợi nhuận

cao như chế tạo ô tô, đóng tàu, thành lập các vườn ươm công nghệ mới nhằm

hỗ trợ cho các khám phá THỰC / ẢO và đưa vào sản xuất và dịch vụ. 2000

doanh nghiệp cỡ vừa và nhỏ, nơi dễ tiếp thu làn sóng công nghệ mới đã nhanh

nhạy trong việc xây dựng những nhà máy thông minh. Lúc đầu tưởng như quá

tốn kém, nhưng thật bất ngờ là, các sản phẩm Hàn Quốc trở thành có thương

hiệu mạnh. Các máy móc, ô tô của Hàn Quốc có sức cạnh tranh ngang ngửa với

Mĩ. Chớp thời cơ này, các nhà đầu tư tới tấp rót vốn cho Hàn Quốc. Hàn Quốc

mạnh lên ngoài sức tưởng tượng ! Có điều lí thú cũng cần biết, Hàn Quốc

nhanh chóng chuyển giao công nghệ cho Việt Nam như lắp ráp các điện thoại

thông minh, các dây chuyền sản xuất ô tô, dây chuyền đóng tàu cỡ lớn cho Việt

Nam. Về thực chất là Hàn Quốc đẩy CMCN 3.0 sang Việt nam. Cũng đồng

nghĩa là để dọn rác để xây dựng các nhà máy trên nền tảng mới 4.0 trên "đất

nhà mình" (!?).

Điều tương tự cũng diễn ra với nền công nghiệp ở Trung Quốc. Họ soạn

thảo chiến lược "sản xuất tại" Trung Quốc 2025 không phải là Trung Quốc

công xưởng thế giới, mà là một Trung Quốc chế tạo mới tại đất nước 1,5 tỉ dân

này, ngay bây giờ đã nổi tiếng với các thương hiệu có khả năng cạnh tranh

ngang ngửa như HUAWEI, ALIBABA... Đồng thời, nước này tham vọng trở

thành người khổng lồ về sản xuất robot. Được biết, từ năm 2020, Trung Quốc

có dự định sản xuất 100 nghìn robot mỗi năm.

Nhờ kết nối IoT và xử lí tức thời từ trung tâm điều hành, truyền đạt /

nhận chỉ thị trực tuyến của người quản trị sản xuất mà qui mô công xưởng có

cơ hội vượt ra ngoài khuôn khổ hiện hữu, xuyên vùng và xuyên quốc gia, mang

tính toàn cầu. Đó không gì khác hơn là sự giao tiếp online mà không cần can

thiệp trực tiếp của con người; lúc đó dây chuyền sản xuất tự vận hành giảm tải

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

hoặc tăng tốc phù hợp với lượng đầu vào cũng như đầu ra đang tồn kho.

Các doanh nghiệp sản xuất và cung ứng chi tiết tích hợp thống nhất trong

một chuỗi liên hoàn và tự động. Nhờ đó, chi phí cho lao động trực tiếp và quản

trị được giảm nhẹ đáng kể. Nhờ lượng thông tin chuyển hóa tương tác trao đổi

ảo/thực, máy/máy, máy/người tăng gấp nhiều lần, sẽ kì vọng dẫn đến những

thay đổi lớn.

Thứ nhất, nền sản xuất dư thừa cung vượt cầu được thay vào bằng sự

cân bằng đầu ra của dây chuyền sản xuất nhằm đáp ứng kịp thời và vừa đủ với

các đơn đặt hàng thông qua sự truyền tải thông tin theo thời gian thực, tránh

được phải xây dựng các kho / bãi chứa với nhiều rủi ro do thời tiết, cháy nổ và

phá hoại. Vậy là xuất hiện cơ hội cho việc tự động truy cập vào các BigChain /

BigData mà không cần phải tra cứu tốn công, nhưng đạt hiệu quả tức thời và

bất cứ lúc nào cần.

Thư hai, trong CMCN 4.0 khái niệm thiết kế mới một sản phẩm cũng

thay đổi trên căn bản. Nhờ áp dụng phần mềm hệ thống điều khiển mà giá trị

gia tăng từ các khâu gia công vật liệu đến thành phẩm - một công đoạn rất tốn

sức và chi phí lớn, đã tăng lên đáng kể.

Trong tương lai, nhu cầu khách hàng được tiếp nhận tự động và xử lí

nhanh chóng, qua IoT truyền đạt tới cơ sở sản xuất nhanh chóng để có thể lên

đời như những smartphone hiện nay của các nhà xản xuất như SASUNG,

iPHONE,... Được biết, việc AI được tích hợp trong thiết kế thông minh cho

phép hiện thực hóa yêu cầu này.

Thứ ba, sự thay đổi của công nghệ ICT trở thành yếu tố chi phối các

doanh nghiệp vì họ nắm giữ vai trò truyền tài thông tin nguồn. Cũng có ý kiến

cho rằng, các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sẽ bị các doanh nghiệp thông

tin viễn thông biến thành "tay sai" do họ làm chủ IoT. Để tránh tai ương này,

các doanh nghiệp sản xuất chủ động viết phần mềm riêng cho mình, biến các

doanh nghiệp thông tin trở về vị trí "hỗ trợ" chứ không thể làm chủ quen sai

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

bảo nhà sản xuất như trước nữa. Người ta dự báo rằng trong tương lai không xa

sẽ diễn ra cuộc đảo lộn trong nền sản xuất 4.0 bằng việc các doanh nghiệp nắm

trước các nhu cầu khách hàng, tự đưa ra nhu cầu khách hàng, sau đó thuê các xí

nghiệp thông tin truyền tải.

Hình 1.2. Công xưởng tương lai, hay Công nghiệp 4.0 (CN4.0), nơi các hệ

thống thực - ảo xóa mờ ranh giới giữa con người và máy móc, nâng cao đáng

kể hiệu quả sản xuất và cho phép tạo ra sản phẩm riêng biệt cho đại chúng.

Bằng việc khai thác kho tàng đồ sộ của BigData, mạng 5G, nền kinh tế

số hứa hẹn đem đến những thay đổi bất ngờ không thể tưởng tượng được nữa !.

Trong các cuộc CMCN trước đây, chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa đã lạm thu /

sử dụng thành tựu cách mạng công nghiệp cho mình một cách phi lí, dẫn tới sự

dãn cách giàu nghèo, xung đột xã hội và giữa các quốc gia dân tộc. Ai làm chủ

cách mạng công nghiệp sẽ giàu nhanh hơn, ai trong vòng ảnh hưởng của nó, lại

nghèo nhanh hơn. Bất công bằng xã hội trở nên gay gắt. Theo đánh giá của các

nhà tư tưởng CMCN 4.0, lần cách mạng này người tiêu dùng được hưởng lợi

nhiều nhất từ CMCN 4.0 vì cho ra các sản phẩm mới cho người tiêu dùng với

chi phi thấp tới mức không đáng kể. Chẳng hạn, chỉ với 1 PC hoặc 1 ipad, với

khả năng xử lí bằng 5000 PC (máy tính để bàn) trước đây, bạn đã có thể đọc

sách, xem bất kì phim nào mong muốn. Nhớ rằng 1GB lưu trữ trước đây phải

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

chi phí 10 nghìn USD, thế mà ngày nay chỉ tốn khoảng 0,03 USD ! Bạn không

thể tin đó là lợi ích cho người tiêu dùng trong thời đại CMCN 4.0. Hơn thế,

trong tương lai không xa, sẽ diễn ra sự đảo lộn kì diệu của sáng tạo công nghệ

và lợi ích bền vững và năng suất lao động. Các khâu hậu cần trong các chuỗi

cung toàn cầu cũng được đảm bảo an toàn và riêng tư. Và tất nhiên chi phí lưu

kho giảm hẳn, đến lượt chúng đem lại cơ hội mở rộng thị trường và thúc đẩy

tăng trưởng kinh tế.

Tuy nhiên, những mặt trái có thể có của cuộc cách mạng này, theo hai

nhà kinh tế Erik Brynjlffsson & Andrrw McAfe cảnh báo, có thể nảy sinh nguy

cơ xung đột giữa lợi nhuận và vốn lao động. Người lao động ở một số nước

đông dân có trình độ phát triển thấp thường gặp rủi ro.

Đương nhiên, ở giai đoạn đầu của CMCN 4.0, khó mà tiên lượng hết,

kịch bản nào sẽ xảy ra. Lịch sử kinh tế học từng cho thấy vẫn có thể diễn ra

đồng thời hai kịch bản, nhưng kịch bản chủ lưu vẫn thắng thế, kịch bản xấu ít

kì vọng hơn. Như vậy, thị trường vốn lao động sẽ phân hóa theo xu hướng kép

"kĩ năng thấp / lương thấp"; "kĩ năng cao / lương cao"; và trong trường hợp

này có thể gia tăng nguy cơ mâu thuẫn trong xã hội.

Các nhà kinh điển của thuyết CMCN 4.0 cũng lo ngại trước sự bất bình

đẳng xã hội ngày càng tăng lên. Hiện nay, những người hưởng lợi là các nhà

cung cấp vốn trí tuệ và vật chất - những nhà sáng tạo, các cổ đông và nhà đầu

tư. Vì trên thực tế sự dãn cách giàu nghèo là có thật, những người yếu thế xuất

hiện như là những người phụ thuộc vào vốn và lao động. Kết cục là thị trường

bị phân cực ở hai đầu cao / thấp, xuất hiện khoảng trống ở giữa. Người lao

động thất vọng và lo lắng về tương lai con cái do không được học hành tử tế,

điều kiện sống eo hẹp...

Đội ngũ người thất nghiệp, xã hội bất bình, tình trạng phản ứng của

người áo vàng ở Pháp hiện nay là gì nếu không phải là những điềm báo trước

cho sự quá hăng hái của các nhà chủ thuyết CMCN 4.0. Thêm nữa, người ta

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

cũng đã nhận ra sự bất bình phổ biến trong tầng lớp trung lưu trước thực tế một

nền kinh tế mà kẻ chiến thắng được tất cả (winner -taker-all economy), kẻ bại

sẽ tay trắng, biết đâu ngày mai đây không đến lượt họ.

Trong chia sẻ thông tin người ta cũng thấy hiện tượng bất công bằng

bởi vì mới có 3/10 người được tiếp cận / chia sẻ các yếu tố nền tảng của ICT.

Nhớ rằng các trang mạng xã hội có thể bị lợi dụng để truyền bá các tư tưởng

cực đoan, phản nhân văn. Ví dụ điển hình là tuyên ngôn 72 trang của tên sát

nhân tại nhà thờ Hồi giáo ở Niu Zilơn vừa cách đây mấy ngày, cho dù nhà

mạng tức thời bóc đi tuyên ngôn đó nhưng nó lại kịp được lưu trữ và truyền

bá qua các cá nhân khác, chờ dịp bùng phát như hiện tượng Brevic ở Na Uy

cách đây nhiều năm.

Trong CMCN 4.0 các yếu tố nền tảng của xã hội như sản xuất / lưu

thông / phân phối đến người tiêu dùng cuối cùng sẽ rất "thông minh", và do quá

"thông minh" thì hiệu quả phát triển lại phụ thuộc vào sự đáp ứng tức thì, buộc

các nhà máy phải thông minh hơn, linh hoạt hơn do được đáp ứng bởi tự động

hóa. Đó là mặt tích cực của vấn đề, nhưng không nên quên rằng chính thời đại

IoT buộc các quốc gia phải chuẩn bị trước nếu không muốn rơi vào hội chứng

lạm dụng / lợi dụng hệ sinh thái IoT để xâm phạm quyền riêng tư. Ở đây công

việc bảo mật trở nên bức xúc, đòi hỏi độ tin cậy và tính ổn định của hệ thống

giao tiếp M2M, kể cả thời gian trễ ngắn và ổn định. Vấn đề an toàn/an ninh

mạng, bảo vệ bí quyết công nghiệp, đề phòng rủi ro trong ICT trở nên cấp thiết

hơn bao giờ hết.

1.2.2. Nhận diện các tiên đề vật chất để tiếp cận CMCN 4.0 ở Việt Nam

So với các quốc gia và vùng lãnh thổ cùng ở vạch xuất phát, bức tranh

phát triển đất nước đầy kịch tính. Một mặt, cơ hội rút ngắn khoảng cách phát

triển, tránh né sa bẫy thu nhập trung bình (có nghĩa là nếu cứ như trước đây, và

hiện nay, càng gia tăng đầu tư với kì vọng tăng trưởng thu nhập, Việt Nam vẫn

không thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, ở đây được hiểu là trung bình thấp,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

chứ không phải trung bình cao. Lúc đó xã hội tiềm ẩn nhiều nguy có bất an xã

hội; xóa đói giảm nghèo không bền vững, BĐKH tác động tiêu cực ở vùng

ĐBSCL và vùng núi, biên giới và hải đảo ngày càng tăng. Nhưng quan trọng

hơn cả là việc giải tỏa bài học lịch sử vì sự lạc hậu bảo thủ của vương triều

Nguyễn và chính sách đô hộ của chế độ thực dân Pháp khiến Việt Nam bỏ lỡ

cơ hội của CMCN 2.0 trong TK XIX. Đã có đại biểu quốc hội cảnh báo rằng

một bộ phận ưu tú Việt Nam vẫn còn chần chừ, dị ứng với những thay đổi,

chưa sẵn sàng đón nhận những thay đổi sáng tạo, dám chấp nhận rủi ro để phát

triển bứt phá, trở thành lực cản đáng kể trên đường xây dựng quốc gia khởi

nghiệp theo tinh thần CMCN 4.0.

Hình 1.3. Điểm số các trụ cột của Việt Nam

Nếu nhìn sâu vào vấn đề, bức tranh Việt Nam đầy tương phản, nhiều

người lạc quan, không ít người sốt ruột trước CMCN 4.0. Diễn đàn của WEF

cảnh báo Việt Nam hiện nằm trong bảng xếp hàng cùng nhóm quốc gia yếu

kém về mức độ sẵn sàng cho nền sản xuất mới.

Xét về yếu tố nhân lực đổi mới, Việt Nam xếp thứ 70, và xếp thứ 81 về

chỉ số lao động có chuyên môn cao; về chất lượng đào tạo các trường đại học

xếp thứ 75. Để thích ứng với CMCN 4.0 phải có 3 tiêu chí quan trọng: (i) Đổi

mới công nghệ sáng tạo / (ii) Năng lực sáng tạo / (iii) Năng lực cạnh tranh

quốc gia. Vậy mà trong 100 quốc gia mà WEF xếp hạng, Việt Nam đứng hàng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

thứ 90 về đổi mới công nghệ và sáng tạo; về công nghệ nền tảng xếp thứ 92, và

về năng lực sáng tạo Việt Nam xếp hàng thứ 77. Về năng lực cạnh tranh toàn

cầu, chỉ số ứng dụng CN TT&TT Việt Nam xếp hạng thứ 95 trên 140 quốc gia,

trên Lào 01 bậc, kém Campuchia 3 bậc.

Bảng 1.1. Mục tiêu đến 2020 và kết quả chỉ số GII 2018 của Việt Nam

2017

2018

Mục tiêu đến 2020

Điểm xếp hạng Điểm xếp hạng Điểm

xếp hạng

38.3

47

Xếp hạng chung

37.94

45

38.5

44

Thể chế

52.8

87

78

56.2

55.0

Nguồn nhân lực và nghiên cứu

31.0

70

66

30.0

31.0

Cơ sở hạ tầng

42.7

77

78

40.4

43.0

Trình độ phát triển của thị trường 52.8

34

33

54.3

51.0

Trình độ phát triển của kinh doanh 29.4

73

30

66

35.0

Sản phẩm kiến thức và công nghệ 35.0

28

35

32.4

33.0

Sản phẩm sáng tạo

34.8

52

46

35

35.0

Nguồn: 26 (iii)

Năm 2017 tỉ lệ sử dụng PC và internet tại các đơn vị kinh tế sự nghiệp sử

dụng mới chiếm 36%; số cơ sở cung cấp hoàn chỉnh dịch vụ công ở mức độ 4

mới chiếm 1,2% thấp nhất theo thang xếp hạng của UNDP.

Nếu nền tảng CMCN 4.0 là tiếp cận sáng tạo và khác biệt được coi là

những tiêu chí cốt lõi thì các nhân tố tài nguyên thiên nhiên và lao động không

còn lợi thế cạnh tranh trong nền kinh tế số nữa. Thêm nữa dân số Việt Nam gia

tăng nhanh và nguy cơ chính là chưa giàu đã già; già trong đói nghèo thì rất

nguy hiểm cho đất nước. Trong thời đại phổ dụng robot, người máy, rào cản

của chủ nghĩa bảo hộ giảm nhẹ, càng nhiều nguồn FDI đổ vào Việt Nam khiến

lợi thế của lao động giá rẻ giảm mạnh, nguy cơ không có việc làm trở thành

nhân tố gây bất ổn xã hội.

Ngay trong lĩnh vực đô thị, đúng lúc Việt Nam phải đô thị hóa trong thời

đại đô thị hóa thông minh, thành phố khoa học, trên hết và trước hết cho các đô

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

thị này là nền tảng mới của đô thị hóa 4.0, nếu không thì đô thị hóa lại có nguy

cơ nông thôn hóa, và rồi lại rơi vào vòng lẩn quẩn đô thị hay nông thôn /nông

thôn hay đô thị.

Vấn đề là trong khó khăn thách thức của CMCN 4.0 dù có thừa quyết

tâm, thì cần phải có bước đi vững chắc, xây dựng môi trường thể chế phù hợp,

nhận diện lại lợi thế cạnh tranh trong thời đại số, tìm ra mô hình khởi nghiệp

CMCN 4.0 cho đất nước. Khâu đột phá bắt đầu từ chuyển đổi số bằng công cụ

mạng 5G và ICT, được coi là yếu tố cấu thành của mọi hoạt động, tương tự như

yếu tố nguồn không khác gì nguồn nhân lực công nghệ cao, nguồn tài chính dồi

dào, nguồn hợp tác từ các quốc gia có quan hệ đối tác chiến lược như EU, Hoa

Kì, Trung Quốc và các nước CPTTP. Tóm lại phải có cơ chế chính sách nhanh,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

mạnh, đúng và kịp thời, không được bỏ lỡ cơ hội CMCN 4.0.

Tiểu kết Chương 1

1. CMCN 4.0 xuất phát từ khái niệm "Industrie 4.0" được hiểu là... " sự

kết nối các hệ thống nhúng và cơ sở sản xuất thông minh để tạo ra sự hội tụ kĩ

thuật số giữa công nghiệp, kinh doanh, chức năng và quy trình bên trong...".

Theo Klaus Schwab, người sáng lập và chủ tịch điều hành Diễn đàn Kinh tế

Thế Giới nói về CMCN 4.0 như sau: "CMCN 4.0 sẽ thay đổi hoàn toàn cuộc

sống của chúng ta. Nó sẽ không chỉ thay đổi cách chúng ta giao tiếp, cách

chúng ta sản xuất, cách chúng ta tiêu dùng. Cuộc cách mạng này sẽ diễn ra rất

chóng vánh - giống như sóng thần...(!)"

2. Cuộc CMCN 4.0 khởi phát từ 6 năm trước (2011) tại Hội chợ

Hannover, LB Đức với chương trình công nghiệp 4.0 nhằm nâng cao nền công

nghiệp cơ khí truyền thống của nước này. CMCN 4.0 nhanh chóng lan tỏa sang

các nước châu Âu, Mĩ, Đức, Trung Quốc, Hàn Quốc...và các nước phát triển

G7 với những khoản đầu tư lớn để nghiên cứu / triển khai (R/D) các yếu tố nền

tảng cho nền kinh tế thông minh. Một số nước đang phát triển như Ấn Độ,

Brasin, ASEAN tiếp cận nhanh chóng CMCN 4.0.

3. CMCN 4.0 đặt loài người trước nhiều cơ hội tăng trưởng kinh tế, rút

ngắn / thu hẹp khoảng cách phát triển, giảm nghèo bền vững, ứng phó có hiệu

quả với BĐKH toàn cầu. Nhưng thách thức ngày càng lớn do cạnh tranh quyết

liệt giữa các nền kinh tế, dẫn tới nguy cơ xung đột lợi ích giữa các quốc gia

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

phát triển và chậm phát triển.

Chương 2

TÌNH HÌNH CMCN 4.0 MỘT SỐ NƯỚC VÀ KHU VỰC

TRÊN THẾ GIỚI

2.1. Châu Âu và cuộc CMCN 4.0

Năm 2014, trong báo cáo “Vì sự phục hưng của nền công nghiệp châu

Âu” (For a European Industrial Renaissance), Ủy ban châu Âu tuyên bố rằng

các công nghệ số (các ứng dụng internet công nghiệp mới, các nhà máy thông

minh, robot và in 3D) là các yếu tố cơ bản của sự phục hưng châu Âu. Trong

báo cáo về chính sách công nghiệp (Industrial policy Communication) năm

2012, Ủy ban châu Âu đã xác định 6 vấn đề ưu tiên trong lĩnh vực công nghiệp,

ba trong số đó liên quan trực tiếp đến ngành công nghiệp 4.0, cụ thể là công

nghệ chế tạo tiên tiến (advanced manufacturing) / công nghệ then chốt (ví dụ:

pin, vật liệu thông minh và quy trình sản xuất tạo hiệu suất cao) / và hạ tầng kĩ

thuật số. Báo cáo này cũng đặt mục tiêu tăng tỉ lệ sản xuất trong tổng giá trị gia

tăng ở EU lên 20% vào năm 2020 [12]. Bên cạnh đó, EU tổ chức diễn đàn

Chính sách Chiến lược về khởi nghiệp công nghệ số (Strategic Policy Forum

on Digital Entrepreneurship), tập trung thảo luận về sự chuyển đổi số và kinh tế

số. Tại diễn đàn này, đã có nhiều ý kiến đề xuất thành lập các trung tâm ưu tú,

tăng cường tiêu chuẩn, cung cấp tài chính và thúc đẩy phát triển kĩ năng kĩ

thuật số.

Cũng trong báo cáo “Vì sự phục hưng của nền công nghiệp châu Âu ”

(For a European Industrial Renaissance) năm 2014, Ủy ban châu Âu (European

Commission - EC) đã đưa ra các ưu tiên đối với chính sách công nghiệp châu

Âu và kêu gọi các nước châu Âu nhận thức được tầm quan trọng của ngành

công nghiệp trong việc tăng trưởng và tạo ra việc làm. EC cũng tuyên bố việc

áp dụng công nghệ kĩ thuật số (các ứng dụng internet, robot và in 3D) là vô

cùng cần thiết để EU nâng cao năng suất lao động trên toàn bộ hệ thống trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

một chiến lược kinh doanh, phân phối sản phẩm và dịch vụ thống nhất.

Tháng 05/2015, EU đã công bố bản kế hoạch chi tiết để thành lập một

“Thị trường kĩ thuật số chung”. Mục tiêu của thị trường này là dỡ bỏ các bức

rào cản và biến 28 thị trường quốc gia thành một thị trường duy nhất, tạo ra

một khu vực tự do di chuyển hàng hóa, con người, dịch vụ và vốn được đảm

bảo, giúp truy cập trực tuyến một cách liền mạch và không phân biệt quốc tịch.

“Thị trường kĩ thuật số chung” có thể đóng góp 415 tỉ € cho nền kinh tế châu

Âu, thúc đẩy tăng trưởng việc làm, cạnh tranh, đẩu tư và đổi mới.

Ngoài ra, EU thúc đẩy thực hiện chương trình e.Skills để giảm sự thiếu

hụt lao động có kĩ năng về ICT, đặc biệt là tạo ra một quan hệ đối tác nhiều

bên gọi là Liên minh toàn diện về việc làm trong ngành kĩ thuật số để việc đào

tạo ICT trở nên hấp dẫn hơn. EU đã đưa ra kêu gọi đổi mới hơn trong ngành

kĩ thuật số và quản lí dữ liệu, cũng như sử dụng các nguồn tài trợ từ Quỹ kiến

trúc và đầu tư châu Âu (ESIF) để hỗ trợ giáo dục ICT và đào tạo nghề. Bên

cạnh đó, EU đã đưa ra sáng kiến “Dòng chảy dữ liệu miễn phí" (Free flow of

data initiative). Sáng kiến này hứa hẹn sẽ giải quyết vấn đề quyền sở hữu dữ

liệu và khả năng tương tác trong các hoạt động theo mô hình kinh doanh

thương mại điện tử Busines-to-Business (liên doanh nghiệp) và Machine-to-

Machine (công nghệ cho phép các thiết bị có thể trao đổi với các hệ thống

thông qua mạng 5G vô tuyến hoặc hữu tuyến), cũng như khuyến khích các

nước áp dụng các tiêu chuẩn về số hóa vào lĩnh vực công nghiệp và phát triển

chuyên môn và kĩ năng số.

EU cũng hỗ trợ một chương trình hành động thúc đẩy phát triển kinh tế

số kéo dài từ năm 2008 tới năm 2014, tập trung vào việc sử dụng ICT thông

minh, định hướng thị trường toàn cầu. Trong giai đoạn 2014 - 2020, chương

trình nghiên cứu Hoziron của EU sẽ cung cấp gần 80 tỉ € cho nghiên cứu và đổi

mới, bao gồm cả hỗ trợ phát triển các công nghệ then chốt. EU cũng dành

khoản tài trợ đáng kể cho chế tạo nguyên mẫu và trình diễn (prototypes and

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

demonstration projects) [15]. Một số dự án tiêu biểu như "Dự án Nhà máy

tương lai” là một chương trình theo hình thức hợp tác công tư với ngân sách dự

kiến khoảng 1,5 tỷ €; dự án “Công nghiệp chế biến bền vững thông qua hiệu

quả nguồn tài nguyên (Sustainable process industry through resource efficiency

- SPIRE) được cấp ngân sách 0,9 tỉ €. Cùng với đó, sáng kiến khung lần thứ 7

“Sáng tạo ICT cho các doanh nghiệp chế tạo vừa và nhỏ (I4MS)” đã được EU

dành ngân sách 77 triệu € để hỗ trợ cho xuất chế biến trung bình nắm vững

công nghệ chuyển đổi kĩ thuật số trong các lĩnh vực như điện toán đám mây,

robot và mô phỏng. Ngoài ra, ít nhất 100 tỉ € từ Quỹ Đầu tư và Xây dựng Châu

Âu (ESIF) dành cho đầu tư vào đổi mới, thúc đẩy các nước tập trung vào lợi thế

của mình và tạo ra những thay đổi về giá trị của EU.

Trong khuôn khổ EU-15, (trong số 29 nuóc thành viên EU có 15 ngước -

EU được xem là các quốc gia có nền kinh tế thành công). Họ đã chuyển đổi gặt

hái được nhiều thành tựu nhất định kể từ những năm 1990 và thu hẹp khoảng

cách phát triển với các nước phát triển châu Âu. Ba Lan là một điển hình đầy

ấn tượng. Trong 20 năm qua, tỉ lệ tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Ba Lan

đã tăng từ 36% lên 63% so với mức trung bình EU-15. Từng bước một, Ba Lan

đã dần hội nhập với thị trường rộng lớn châu Âu và gia nhập EU năm 2004. Ba

Lan cũng được công nhận đồng thời là nước duy nhất ở châu Âu có nền kinh tế

không bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Gần

26% tổng giá trị gia tăng của Ba Lan cao hơn 19% trung bình của EU-15.

Ngành công nghiệp của Ba Lan bao gồm ba ngành sản xuất, khai thác mỏ và

năng lượng (dầu khí). Đây được xem là các nhóm ngành sử dụng lao động, và

cũng là lợi thế của Ba Lan khi so sánh với các nước trong khu vực. Chi phí

nhân công ở Ba Lan thấp nhất so với các nước EU. Mặc dù vậy, Ba Lan lại là

một nước có lực lượng lao động có trình độ học vấn cao với 43% trong độ tuổi

từ 25-34 có trình độ đại học, so với mức trung bình 38% của EU-15. Với những

lợi thế về chi phí lao động thấp, sự tiếp cận vào các thị trường hấp dẫn Tây Âu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

và cải thiện cơ sở hạ tầng, Ba Lan đã trở thành một điểm đến lý tưởng cho các

trung tâm sản xuất và dịch vụ chung. Sự tăng trưởng này cũng bắt nguồn từ các

quỹ phát triển bền vững của EU, trong đó Ba Lan là nước được nhận nhiều nhất

với 67 tỷ € trong những năm 2007-2013 và được phân bổ 77 tỷ € trong những

năm 2014-2020.

Tuy nhiên, so với các nước khác trong EU, trước ngưỡng cửa của cuộc

CMCN 4.0, Ba Lan vẫn cần một lộ trình và bước đi thích hợp sẽ là một trong

những nước dễ bị tổn thương (khi so sánh với các nước EU) nếu không có

những lộ trình và bước đi phù hợp để thích nghi với sự thay đổi lớn bởi vì chi

phí lao động thấp ở Ba Lan có thể bị thay thế bởi rô bốt - với cường độ làm

việc 24/24, không cần trả lương, đóng thuế hay bảo hiểm. Thậm chí bị đe dọa

khi mở rộng quy mô sản xuất thông minh có khả năng cạnh tranh cao, kể cả các

ngành công nghiệp có tỉ trọng xuất khẩu cao cũng có thể bị ảnh hưởng khi mà

nhu cầu của khách hàng cũng thay đổi, yêu cầu cao hơn để phù hợp với các giải

pháp công nghệ 4.0 (ví dụ ngành sản xuất điện tử), phá vỡ các chuỗi giá trị hiện

có. Ngoài ra, đối với các doanh nghiệp, đòi hỏi cần thiết phải cải thiện kĩ năng

và phát triển nguồn nhân lực nếu như không muốn bị bỏ lại sau cuộc cạnh tranh

toàn cầu. Trong cuộc đua CMCN 4.0 Ba Lan có lợi thế do có lực lượng lao

động trẻ có mặt bằng học vấn và tay nghề cao. Do đó Ba Lan hoàn toàn có thể

chủ động và phát triển trong lĩnh vực công nghệ thông tin (phần mềm, các giải

pháp định hướng dữ liệu...), thúc đẩy nền kinh tế ứng dụng vào lĩnh vực công

nghiệp, góp phần tạo thêm nhiều việc làm mới.

Ba Lan cũng đã bắt đầu các công việc để chuẩn bị cho một chiến lược

dài hạn. Theo đó, Bộ trưởng Bộ KH Ba Lan đã công bố một chương trình chiến

lược với ngân sách 1 tỷ (zloty Ba Lan) nhằm ủng hộ các hoạt động đổi mới và

sáng tạo trong cuộc cách mạng 4.0, bao gồm: quá trình số hóa, tự động hóa,

quản trị số hóa. Và trong suốt một năm qua, Bộ Khoa học Ba Lan đã phối hợp

cùng Trung tâm nghiên cứu và Phát triển Quốc gia cấp kinh phí cho các đơn vị

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

kinh tế - khoa học của Ba Lan khoảng 10 tỷ (zloty Ba Lan), kí được 1492 hợp

đồng với các đơn vị tham gia vào chương trình. Ngoài ra, chính phủ Ba Lan với

lộ trình giảm thuế 30% cho các doanh nghiệp lớn đi đầu trong RD. Các doanh

nghiệp vừa và nhỏ được đặc biệt ưu tiên đến 50%. Cùng với đó, sự thành lập

của Trung tâm nền tảng CMCN 4.0 Ba Lan, khi đi vào hoạt động từ đầu năm

2018 sẽ điều phối và kết nối công / tư giúp các doanh nghiệp chuyển đổi mô

hình hoạt động thông qua việc hỗ trợ thông tin và công nghệ. Ngoài ra, chính

phủ cũng đang nỗ lực thiết lập một Viện công nghệ Quốc gia (NIT) để kết hợp

một cách tốt nhất các viện nghiên cứu của Ba Lan, giúp thực hiện các dự án

phức tạp trong các lĩnh vực chiến lược như công nghệ sinh học, vật liệu hiện

đại và năng lượng. Bên cạnh đó, việc tích cực giới thiệu các công nghệ mới đặc

biệt vào các ngành công nghiệp mũi nhọn của Ba Lan như hàng không, quốc

phòng, ô tô (những ngành đã tham gia sâu rộng vào chuỗi cung ứng) nhằm duy

trì vai trò dẫn đầu trong các xu hướng (trend) của cuộc cách mạng mới.

2.2. Một số nước đi tiên phong trong CMCN 4.0

2.2.1. Hoa kì

Nền kinh tế Hoa Kì là một nền kinh tế phát triển hàng đầu thế giới trên

cơ sở sáng tạo và khác biệt. Tuy không phải là quê hương của hai cuộc cách

mạng 2.0/3.0 nhưng những đóng góp vô cùng to lớn của nhà sáng chế Edison

trên nhiều lĩnh vực làm thay đổi thế giới như bóng đèn điện, xe điện chạy trong

thành phố. Hệ thống quản lí dây chuyền sản xuất của Ford và rất nhiều giải

thưởng Noben hàng năm đều thuộc người Mĩ...

Việc thành lập WEF như người sáng lập tổ chức này Klaus Schwab nói

là để dạy người Đức học cách quản lí kinh tế của người Mĩ cho người Đức.

WEF đi đầu trong tuyên truyền và phổ biến CMCN 4.0.

Đáng chú ý đầu tiên cùng thời kì khởi phát khái niệm CMCN 4.0 Tổng

thống Obama đề xướng "Sáng kiến Đối tác Chế tạo tiên tiến" (AMP) nhằm thu

hút nhiều CEO các doanh nghiệp hàng đầu tham gia. Năm 2012, AMP đưa ra

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

16 khuyến nghị nhằm thu nhiều viện khoa học công / tư vào duy trì vị trí kinh

tế hàng đầu thế giới. Với 2,2 tỉ $ USD, chính quyền Obama chi cho nghiên cứu

R&D để hỗ trợ nghiên cứu các bí quyết sản xuất và thành lập cổng thông tin

điện tử để điều hành RD các sáng kiến trong khu vực công / tư. Hoa Kì thành

lập Liên minh Internet - công nghiệp (IIC) nhằm thúc đẩy công nghiệp phát

triển và sử dụng mạng internet rộng rãi. Nhờ đó, khái niệm IoT được sử dụng

rộng rãi trong chuỗi cung ứng - sản xuất - phân phối sản phẩm tiêu dùng, đảm

bảo các xí nghiệp, mọi thiết bị kể cả đời cũ để được sử dụng trong mạng lưới

điều hành thống nhất. Hệ quả là các công ty, các tập đoàn sáng tạo được IIC cổ

vũ đem lại cơ hội cho các nhà sản xuất và thương mại thống nhất vận hành theo

một hệ thống tiêu chuẩn chung, thông qua các giao thức phổ dụng, xóa đi mọi

rào cản trong nền kinh tế mà công lao đó thuộc về các thành viên IIC như Intel,

Genenral Electric, Cisco System, IBM, AT&T...).

Quỹ đầu tư khoa học quốc gia Mĩ tập trung phát triển Cyber-Physical

Systems (CPS - Hệ thống thực / ảo). Hệ quả là Hoa Kì trở thành cục nam châm

cho sản xuất quốc gia tập khởi nghiệp trong ngành công nghệ cao trên cơ sở

đầu tư công - tư và chia sẻ lợi ích từ các ngành công nghệ có hàm lượng trí tuệ

cao. 2,9 tỉ USD trích từ ngân sách Liên bang tập trung để hiện đại hóa trong sản

xuất quy trình sản xuất / công nghệ / vật liệu / robot /người máy/...

Có điều lí thú tưởng như là nghịch lí, khu vực công nghiệp Mĩ bước sang

giai đoạn tái re-industrialization tức là "tái - công nghiệp hóa", bởi lí do đơn

giản mà người Mĩ đã nhận ra các khu vực dịch vụ và xây dựng hiện đóng góp

rất hạn chế cho tăng trưởng kinh tế. Đã đến lúc phải quay lại xây dựng nền tảng

mới công nghệ hiện đại vào các ngành công nghiệp truyền thống nhằm tạo

thêm nhiều việc làm như công nghiệp chế biến và sản xuất ô tô.

Quốc hội Mĩ cho rằng hiện giá lao động ở Mĩ quá cao, nền kinh tế nội

địa kém sức cạnh tranh. Các doanh nghiệp Mĩ đem thiết bị và công nghệ hiện

đại sang các nước khác có giá nhân công thấp, giá thuê mặt bằng và dịch vụ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

hậu mãi hấp dẫn, và do đó, thu được lợi nhuận cao. Hậu quả là người lao động

Mĩ bất bình vì thiếu việc làm, và đó là lí do chính khiến ứng viên Hilary

Clinton thất cử, Donal Trump với phương châm "Nước Mĩ trên hết", "Các

doanh nghiệp Mĩ trở về đất Mĩ" đã thắng cử, chứ đâu có phải là do sự can thiệp

từ bên ngoài. Gần đây nhiều xí nghiệp Mĩ quay trở về Mĩ, giá lao động bắt đầu

giảm nhẹ so với các nước Anh, Pháp. Tuy nhiên các nước lại có xu hướng tìm

mọi cách để giữ chân người Mĩ, chẳng hạn, trong chiến tranh thương mại Mĩ -

Trung, Trung quốc ra điều kiện người Mĩ phải chuyển giao công nghệ. Tất

nhiên mỗi nước đều có cách riêng của họ vì ai trong số họ đều lấy lợi ích quốc

gia dân tộc lên vị trí hàng đầu.

Sự tái khởi động nền công nghiệp của Mĩ nên hiểu là một cách làm thực

dụng của cuộc CMCN 4.0, trong khi đề xướng khái niệm này Đức nói thẳng ra

là công nghiệp 4.0. Về thực chất người Mĩ đi trước và đi khá xa trong các chiến

lược của AMP. Nhờ đó GDP được tăng mạnh nhờ gia tăng thị phần và tiêu

chuẩn xuất / nhập khẩu và tiêu dùng cao, buộc các nước phụ thuộc vào năng

lực cạnh tranh và sức hấp dẫn vào thị trường Mĩ. Còn việc triệu hồi các tập

đoàn lớn công nghiệp lớn về nước chỉ là một cách để kích cầu sử dụng lao động

trong nước mà các tổng thống khi tranh cử đều hứa hẹn giải quyết vấn đề việc

làm, tăng GDP và giữ vị thế cạnh tranh vượt trội / hơn hẳn các nước khác đều

có lí do riêng của Mĩ và các đồng minh.

Trong điều kiện nền kinh tế cạnh tranh và sáng tạo, CMCN 4.0 diễn ra ở

Mĩ nhanh hơn và hiệu quả hơn, chưa nói là, ảnh hưởng của họ đến các nước

khác cũng lớn hơn khiến nhiều vấn đề phức tạp về địa kinh - tế / địa - chính trị

sẽ trở nên gay gắt hơn trong một thế giới đa cực như ngày nay.

2.2.2. Đức

Với "Industria 4.0" nước Đức được coi là quê hương / nơi nổ ra cuộc

CMCN 4.0, nền công nghiệp mới của Đức được xây dựng trên nền tảng công

nghệ mới và hiện đại AI / IoT / BigData.

Theo khuyến nghị tại Báo cáo về Công nghiệp 4.0, Chính phủ Đức xây

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

dựng Nền tảng tổ chức Công nghiệp 4.0 (The industria 4.0 Platphorm). Đó là

việc thành lập Ban chỉ đạo dưới sự điều hành của Ban Thư kí và Hội đồng gồm

đại diện thành viên Chính phủ các bang, các công ty, đại diện các hiệp hội nghề

nghiệp, các nhà khoa học và các chuyên gia công nghiệp hàng đầu đất nước.

Tham gia Hội đồng này gồm đại diện các chính phủ bang,các tập đoàn lớn, cả

nhà nước và khu vực tư nhân với tư cách là cơ quan tối cao có quyền định

hướng hiện đại hóa toàn bộ nền công nghiệp nước Đức.

Trên nền tảng mới, nhóm công tác triển khai chức năng kép: (i) Khẩn

trương triển khai trên phạm vi rộng toàn quốc công nghệ cơ bản hiện đại; (ii)

Công việc cần làm ngay, là triển khai các R/D sáng tạo về nguyên tắc trên một

số phân khúc hoặc một chuỗi cung ứng toàn cầu mang thương hiệu "Made in

Germany 4.0" với quyết tâm chiến lược là nước Đức phải trở thành địa chỉ hấp

dẫn và tin cậy với các đối tác, đồng thời tăng cường năng lực cạnh tranh và

năng lực tự vệ cho các ngành sản xuất trong nước đủ sức cạnh tranh trên bình

diện khu vực và toàn cầu.

Theo tinh thần đó, Đức tập trung vào một số lĩnh vực trọng điểm như:

Tiêu chuẩn hóa / Quản trị băng thông rộng / Đảm bảo an ninh và an toàn mạng

/ Các công việc thiết kế và hiện thực hóa thiết kế trên nền tảng số / Đẩy mạnh

đào tạo và dạy nghề / Đặc biệt coi trọng và coi đó là nguyên tắc nền tảng là tính

hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn lực tài chính, đầu tư và sức lao động

chuyên nghiệp với trình độ cao.

Bây giờ đã đến lúc nước Đức phải thu hút lao động công nghệ cao, đặc

biệt là ICT. Đúng lúc này Hiệp định Selgel bắt đầu có hiệu lực. Đức đón gần 1

triệu người nhập cư đến từ Trung Đông và Bắc Phi trong cuộc khủng hoảng

chính trị vừa qua. Mặc dù bị dư luận trong nước phản đối lúc đầu, nhưng sức

mạnh của chiến lược công ghệ 4.0 đã gần như hóa giải tất cả, và có lẽ hiệp ước

tự do đi lại / di chuyển lao động trong khuôn khổ Hiệp ước SELGEL tỏ ra có

hiệu quả tích cực, đem lại cơ hội tốt nhất để triển khai các nội dung của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

Industrie 4.0.

Cội nguồn của Chiến lược Industria 4.0 của Đức được Thomas Mosh

giải thích rằng mặc dù nền kinh tế Đức đang ở vị trí dẫn đầu nhưng đang đứng

trước nguy cơ đánh mất lợi thế cạnh tranh do toàn cầu hóa đem lại về giá sản

xuất các sản phẩm truyền thống, sử dụng nguồn nhân lực có kĩ thuật cao và kỉ

luật lao động nghiêm túc kiểu Đức đã hình thành từ trong lịch sử kinh tế hàng

thế kỉ. Đức chỉ có thế, nếu không bị tụt hậu trong cuộc chơi toàn cầu, bằng việc

tạo mới các giải pháp công nghệ độc đáo và dịch vụ hấp dẫn hơn so với các sản

phẩm truyền thống. Nếu ta để ý tới nhiều một số quảng cáo ở Hà Nội và các

thành phố lớn sẽ thấy những ngôn từ mới đầy hấp dẫn, và cứ nói đến thương

hiệu Đức, là người tiêu dùng tin tưởng, không kém gì các thương hiệu Made in

Japan / Made in USA / Made in Germany...

Trong Industrie 4.0, khác với các CMCVN 1.0 / 2.0 / 3.0, là IoT được coi

là yếu tố cốt lõi, đại diện cho CMCN 4.0 vì vai trò quan trọng đặc biệt của nó là

khả năng tổ chức / quản lí / quản trị các chu trình công nghệ thiết kế / sản xuất /

thương hiệu / phân phối / dịch vụ hậu mãi.

Hệ quả nhãn tiền của CMCN 4.0 dựa trên yếu tố IoT là cung ứng nhanh,

kịp thời và có hiệu quả các giải pháp công nghệ, các khâu trong chuỗi cung ứng

sản xuất và dịch vụ liên kết thông minh trong một hệ thống máy móc / kho bãi /

người tiêu dùng cuối cùng.

Người Đức biết rằng trong lĩnh vực này, người Mĩ có kinh nghiệm hơn

trong các hoạt động sáng tạo và khác biệt, và đã thành công lớn. Việc học tập

kinh nghiệm ở người Mĩ được đặt ra. Chính phủ Đức triển khai các chương

trình Hỗ trợ doanh nghiệp trẻ / mới kiểu German Silicon Valley Accelarator

dưới sự quản lí của Chính phủ Liên Bang. Hàng năm Chính phủ tổ chức 10

đoàn doanh nghiệp trẻ sang San Francisco, California để tìm hiểu và trình bày

và trao đổi các ý tưởng mới, học hỏi kinh nghiệm Mĩ ngay từ đất Mĩ. Khi về

nước, họ đã có sẵn thực tiễn trải nghiệm và tự tin để triển khai theo tinh thần

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

quốc gia khởi nghiệp.

Với tư duy duy lí, người Đức biết rằng "lịch sử phát triển Đức chủ yếu

bằng bộ não con người", cũng tức là bằng năng lực trí tuệ con người. Vậy mà

đến giờ nước Đức lại cảm thấy thiếu nguồn năng lực nhân tài. Vấn nạn này chỉ

có thể được hóa giải bằng việc phát huy trí thông minh Đức, kĩ thuật tinh xảo

Đức và kỉ luật Đức, đồng thời thực hiện chính sách mở cửa thông thoáng với

những ưu đãi đặc biệt để đón nhận nguồn lực trí tuệ từ bên ngoài. Thêm nữa

hàng năm khoảng 7 triệu người nước ngoài, ưu tiên có trình độ khoa học công

nghệ lành nghề, được đến làm việc tại Đức, với thời hạn 12 tháng, sinh sống

với cả gia đình, sau đó họ có nguyện vọng ở lại là công ty có nhu cầu thuê tiếp,

thì Chính phủ sẵn sàng cấp visa dài hạn.

Những cố gắng nói trên cho thấy CMCN nước Đức diễn ra trong hoàn

cảnh của một nước hoàn thành công nghiệp hóa giai đoạn thứ ba (CMCN 3.0),

chuẩn bị đủ điều kiện chín muồi để tiến vào CMCN 4.0. Sự phát triển tuần tự

đó chính là nền tảng sức mạnh công nghiệp, là đảm bảo cho những hứa hẹn do

CMCN 4.0 đem lại trong tư cách là nơi nổ ra phát súng đầu tiên và đưa Đức

vào hàng ngũ người lãnh đạo (leaders) CMCN 4.0.

2.2.3. Trung quốc

Khác Chiến lược Tái công nghiệp hóa (re-industrialization policy) của

Mĩ trong 10 năm với kì vọng đưa nền kinh tế từ kinh tế dịch vụ trở lại kinh tế

công nghiệp trên nền tảng công nghệ cao, và cũng khác với Công nghiệp 4.0

của Đức với kì vọng đặt toàn bộ nền kinh tế trên nền tảng IoT với kì vọng duy

trì năng lực cạnh tranh khu vực và toàn cầu, năm 2915, Kế hoạch "made in

China 2025 của Trung Quốc triển khai với tham vọng trong vòng 10 năm

Trung Quốc trở thành người sản xuất khổng lồ, chứ không phải công xưởng thế

giới, bằng cách sử dụng nề tảng IoT / AI / IoS. Trung Quốc nhận thấy sự cần

thiết phải tập trung vào tự động hóa và kĩ thuật số để điều khiển các quy trình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

trong chuỗi cung ứng sản xuất và tiêu dùng.

Mục đích chiến lược của Made in China - 225 được Elsa B. Kania (2019)

phân tích trong bài báo Đánh giá Kế hoạch ‘Made in China 2025 trên tạp cvhi

Dipplomat, Mĩ: "... Chúng ta sẽ làm việc nhanh hơn để xây dựng Trung Quốc

trở thành nhà sản xuất chất lượng và phát triển sản xuất tiên tiến, thúc đẩy hội

nhập Internet, dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo (AI) vào nền kinh tế thực hơn nữa,

và thúc đẩy các lĩnh vực tăng trưởng mới và thúc đẩy tăng trưởng tiêu dùng

trung bình-cao cấp, phát triển theo định hướng đổi mới, nền kinh tế xanh và khí

thải thấp, nền kinh tế chia sẻ, các chuỗi cung ứng hiện đại và dịch vụ vốn nhân

lực. Chúng ta sẽ hỗ trợ các ngành công nghiệp truyền thống tự nâng cấp bản

thân và đẩy nhanh sự phát triển của các ngành dịch vụ hiện đại để đưa các

ngành công nghiệp Trung Quốc lên đến tầm trung - cao cấp của chuỗi giá trị

toàn cầu và thúc đẩy một số nhóm sản xuất tiên tiến đẳng cấp thế giới..." [8].

Các nhà kinh tế Trung Quốc đang phân vân trước câu hỏi, liệu Made in

China - 2025 có nguy cơ bỏ lỡ cơ hội CMCN 4.0.

Có thể có và cũng có thể không !

Thực ra Trung Quốc đã có phần phản ứng chậm trước CMCN 4.0. Mới

có 10% doanh nghiệp bắt đầu chuyển đổi số, phổ cập IoT, tức là chuyển đổi

sang IoT, mặc dù một số công ty chưa thực sự mặn mà trước xu thế mới này.

Tất nhiên người Trung Quốc không chịu ngồi yên trước làn sóng CMCN 4.0.

Với mục đích nhập thiết bị và quy trình vận hành sản xuất, Trung Quốc đã mua

cả gói một số xí nghiệp công nghệ có sử dụng nền tảng IoT. Nhờ đó họ đã

chiếm chỗ thứ 14 / 20 nước đi đầu trong IoT. Bằng cách này, về bản chất,

Trung Quốc mới chỉ tiếp cận phần ngọn / chỉ là 1/10 của núi băng trôi, còn 9/10

tức là yếu tố nền tảng thì chưa rõ nét.

Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường khẳng định cuộc cạnh tranh

ngày nay trên thương trường là cuộc cạnh tranh sáng tạo và khác biệt, giữa tài

năng và giáo dục. Ông cũng chỉ rõ nhiệm vụ các tổ chức giáo dục chuyển

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

hướng sang cải thiện năng lực trên cơ sở mới tư duy sáng tạo và kinh doanh

năng động. Theo đó, Trung Quốc tiến hành khẩn trương cải cách giáo dục quốc

dân. Với "Made in China - 2025, Trung Quốc tràn đầy tham vọng chiếm vị trí

đứng đầu thế giới với mục đích trong vòng 10 năm, tốc độ tăng trưởng sản xuất

phải tăng mức trung bình đến mức cao. Để hiện thực hóa tham vọng này, Chiến

lược của Trung Quốc là ưu tiên tập trung vào 6 lĩnh vực trọng điểm trong đó có

DA thành lập 15 Trung tâm đổi mới công nghệ sáng tạo trong năm 2020, và

đến năm 2025 là 40 trung tâm xúc tiến công nghiệp thông minh. Một loạt chính

sách được soạn thảo và triển khai không chậm trễ trong cải cách thể chế quản

trị công và huy động các nguồn lực xã hội.

Được biết, mỗi năm Trung Quốc dành 2.5% GDP mỗi năm cho R/D,

tương đương với mức 2,05% /năm của EU-28, do đó 20% GDP của Trung Quốc

được tiến bộ KHKT tạo ra, đồng thời với hạn chế nhập khẩu không quá 30%.

Trung Quốc có tham vọng dẫn đầu thế giới về sở hữu trí tuệ và bản

quyền tác giả, và lúc đó về số lượng bằng sáng chế thuộc nhóm 5 quốc gia dẫn

đầu. Nhớ rằng người Trung Quốc rất giỏi sáng chế, và cũng giỏi sao chép

(coppy) khiến Mĩ và các nước khác rất ganh tị. Chỉ riêng năm 2013 Trung

Quốc có tổng đăng kí bản quyền tác giả lên tới 705 nghìn (cao nhất thế giới,

sau Mĩ) chiếm 84,5% trong số 825,2 nghìn bản quyền tác giả (theo công bố Tổ

chức bản quyền Trí tuệ Thế giới 2016). Dẫn đầu thế giới về trích dẫn nguồn tài

liệu thuộc về các nhà khoa học và công nghệ Trung Quốc.

Những thành tựu nói trên một lần nữa khẳng định CMCN 4.0 đang diễn

ra ở Trung Quốc khá bài bản, quyết liệt và bước đầu đem lại thành công. Trong

những năm gần đây Trung Quốc đã thiết lập mới được 7 ngành công nghiệp

công nghệ "cốt lõi", góp phần gia tăng GDP từ 8% năm 2015 lên 16% trong

năm 2020. Với nguồn vốn đầu tư 4 nghìn tỉ NDT cho 7 ngành công nghiệp

chiến lược này, các nhà hoạch định chính sách kì vọng Trung Quốc sẽ gia nhập

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

hàng ngũ các quốc gia thành công nhất trên toàn cầu.

Trung Quốc cho rằng trong lĩnh vực CMCN 4.0, CNTT&TT được coi là

yếu tố hạ tầng của hạ tầng. Đúng như với người Mĩ và người Đức đang làm. Đó

là triển khai rộng rãi IoT bằng việc đầu tư trọng điểm cho R&D cho ứng dụng

điện toán đám mây, BigData và triển khai công nghệ kĩ thuật số. Chính phủ

Trung Quốc kêu gọi các doanh nghiệp nước ngoài tham gia và cùng chia sẻ lợi

ích trong các ngành công nghiệp trọng điểm mới nổi. Người Trung Quốc nung

nấu làm nên sự nghiệp lớn với các thương hiệu mạnh như ALIBABA,

HUAWEI.., chuyển đổi Trung Quốc từ "công xưởng thế giới" (Manuafacturing

China) sang "Made in China 2025" (Chế tạo thế giới) và nhằm khảng định một

Thương hiệu mới đầy hấp dẫn "Thiết kế tại Trung Quốc" (make in China) tầm

cỡ thế giới. (Phụ lục 1).

2.3. Một số nước tiêu biểu trong phát triển công nghiệp sáng tạo

2.3.1. Công nghiệp sáng tạo - xu hướng tất yếu

Nhiều quốc gia đã nhận thức rõ hơn về phát triển công nghiệp sáng tạo,

công nghiệp văn hóa và coi văn hóa, tri thức như là một tài sản, là sự bổ sung

giá trị trong cả nền kinh tế. Trong xã hội hiện đại, công nghiệp sáng tạo được

xem là một lĩnh vực tăng trưởng chính của kinh tế toàn cầu. Và hiện nay, nhiều

quốc gia trên thế giới đã nhận thức rõ hơn về phát triển công nghiệp sáng tạo,

công nghiệp văn hóa và coi văn hóa, tri thức như là một tài sản, là sự bổ sung

giá trị trong cả nền kinh tế là điều cần thiết.

Thuật ngữ “công nghiệp sáng tạo” (creative industry CI) đã xuất hiện ở

Anh vào giữa những năm 90 của thế kỷ XX. Theo định nghĩa của UNESCO,

công nghiệp sáng tạo bao gồm những sản phẩm mang tính sáng tạo thuộc lĩnh

vực văn hóa và nghệ thuật. Đó là hoạt động bắt nguồn từ sự sáng tạo, kỹ năng

và năng khiếu của cá nhân, có tiềm năng tạo ra của cải, việc làm qua quá trình

khai thác quyền sở hữu trí tuệ.

Công nghiệp sáng tạo bao gồm các chu trình, sản phẩm và dịch vụ rộng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

lớn mà ở đó sự sáng tạo là trung tâm. Hiện nay, 11 ngành đã được coi là thuộc

về công nghiệp sáng tạo gồm: quảng cáo, kiến trúc, giải trí kỹ thuật số, mỹ

thuật đồ cổ và thủ công mỹ nghệ, thiết kế mỹ thuật, phim ảnh và video, in ấn

xuất bản, âm nhạc, nghệ thuật biểu diễn, phát thanh truyền hình và phần mềm

vi tính. Là một trong những ngành tăng trưởng nhanh và lớn nhất, vài năm gần

đây, mặc dù sự tăng trưởng này không nhanh ở một số khu vực do khủng hoảng

kinh tế toàn cầu và hệ quả của nó, song, nhìn tổng thể ngành này vẫn phát triển,

đặc biệt là ở các thị trường tiêu thụ chính. Châu Âu, ngành công nghiệp sáng

tạo có sự đóng góp lớn cho nền kinh tế, tạo ra khoảng 3% GDP (theo giá thị

trường khoảng 500 tỷ Euro) và tạo công việc cho khoảng 6 triệu người. Ở Anh,

xuất khẩu dịch vụ bởi các ngành công nghiệp sáng tạo chiếm hơn 10% tổng số

kim ngạch xuất khẩu dịch vụ. Ở Hong Kong (Trung Quốc), 85% thu nhập quốc

dân có được từ nguồn thu dịch vụ giải trí, truyền hình, quảng cáo…

2.3.2. Anh - nơi khởi nguồn của công nghiệp sáng tạo

Từ cuối những năm 60 của thế kỷ XX, máy thu hình màu xuất hiện đã

được các doanh nghiệp tư nhân kinh doanh giải trí khai thác triệt để. Sự phát

triển của nước Anh trong lĩnh vực này trở nên nổi bật kể từ những năm 90 khi

các nước tiên tiến đã chuyển sản xuất sang các nước đang phát triển nhằm giảm

chi phí lao động và Anh cũng đã tìm kiếm một động cơ tăng trưởng kinh tế

mới. Và việc chuyển hướng sang phát triển các ngành công nghiệp sáng tạo dựa

trên nguồn tri thức và tiềm năng sáng tạo để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ

mới, có giá trị gia tăng cao là bước đi đúng đắn của nước này.

Có thể khẳng định, nước Anh chính là một trong những quốc gia đi đầu

trong phát triển các ngành công nghiệp sáng tạo trên thế giới. Phát triển các

ngành công nghiệp sáng tạo là hướng đi tất yếu của Anh khi những ngành công

nghiệp nổi tiếng ở đây như đóng tàu, sản xuất máy móc cơ khí,… khó có thể

cạnh tranh với những nước có nền kinh tế mới phát triển với nguồn nguyên liệu

phong phú, nguồn nhân lực dồi dào, giá rẻ. Ở Anh, ngành công nghiệp văn hóa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

được xem là một lĩnh vực thuộc kinh tế sáng tạo. Kinh tế sáng tạo là một trong

những thành công của nền kinh tế nước này với tốc độ tăng trưởng bình quân

hằng năm gấp hai lần so với các ngành kinh tế khác, đóng góp đáng kể vào sự

hồi phục, cũng như trở thành động lực phát triển của nền kinh tế Anh trong

những năm vừa qua. Theo số liệu thống kê năm 2016 của Chính phủ Anh,

ngành công nghiệp sáng tạo của Anh đã đem lại cho nước này 84,1 tỷ bảng

Anh, một con số kỷ lục và chiếm 5,2% GVA (tổng giá trị gia tăng) của toàn

nền kinh tế Anh. Trong đó, ngành sản xuất phim của Anh, âm nhạc, trò chơi

video, đồ thủ công và xuất bản là những ngành công nghiệp sáng tạo có quy mô

lớn nhất và có ảnh hưởng về văn hóa mạnh mẽ nhất của Anh. Đây là những

ngành giữ vai trò dẫn đầu trong việc thúc đẩy phục hồi kinh tế Anh.

Bên cạnh đó, số lượng việc làm trong ngành công nghiệp sáng tạo tại

nước Anh trong vòng 5 năm trở lại đây đã tăng gần 20%, thu hút 1,9 triệu nhân

công. Ngành này đã tạo ra nhiều việc làm, tăng doanh thu từ xuất khẩu sản

phẩm công nghiệp sáng tạo, phát triển kinh tế địa phương thông qua các ngành,

nghề điển hình của mỗi nơi, tạo ra các trung tâm văn hóa nghệ thuật thu hút

khách du lịch. Đây được xem là ngành thu hút lao động nhanh nhất, đồng thời

là một trong những ngành thành công nhất tại Anh.

2.3.3. Nhật Bản với chiến lược tập trung vào công nghiệp sáng tạo

Nhật Bản là một trong những quốc gia chú trọng phát triển kinh tế theo

hướng kích thích sự phát triển các ngành công nghiệp sáng tạo. Các sản phẩm

sáng tạo không những đem lại lợi ích cho việc quảng bá văn hóa mà còn thúc

đẩy kinh tế Nhật Bản tăng trưởng mạnh.

Còn nhớ trong buổi lễ bế mạc của Olympic Rio 2016, khán giả đã không

lấy làm lạ với sự xuất hiện của đại diện đất nước Mặt trời mọc với tư cách chủ

nhà của Olympic 2020. Tuy nhiên, điều đặc biệt diễn ra khi Thủ tướng Nhật

Bản Shinzo Abe bất ngờ khoác lên mình bộ trang phục của nhân vật trò chơi

điện tử huyền thoại Super Mario, vốn được coi là biểu tượng xuất khẩu văn hóa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

lớn nhất của Nhật Bản. Điều này khiến khán giả nhiều nơi trên thế giới cảm

thấy thích thú và ngay lập tức những hình ảnh trên được chia sẻ rất nhiều trên

các trang mạng xã hội, thu hút sự quan tâm đầy hào hứng của dư luận.

Ngoài sự hứng thú tạo ra cho khán giả trên khắp thế giới khi họ nhận ra hình

ảnh quen thuộc của chú thợ sửa ống nước Super Mario, việc xuất hiện của Thủ

tướng Shinzo Abe còn đem lại điểm cộng cho hãng sản xuất trò chơi điện tử

Nintendo, tác giả của nhượng quyền thương mại của tựa trò chơi Mario, Zelda

hay đồng sở hữu của Pokémon GO.

Không phải ngẫu nhiên khi nước Nhật Bản nổi tiếng với các sản phẩm

văn hóa liên quan đến hoạt hình, trò chơi hay truyện tranh, mà tất cả đều nằm

trong một chiến lược xuất khẩu văn hóa của đất nước này trong những năm gần

đây - chính sách “Cool Japan”. Chính sách này nhằm chiếm thiện cảm của thế

giới đối với Nhật Bản thậm chí nó còn có thể giải quyết các vấn đề kinh tế suy

thoái dựa trên một số sản phẩm ví dụ như món sushi hay hình ảnh hoạt hình.

Chính sách “Cool Japan” xuất phát từ sự yếu thế dần của ngành công

nghiệp điện tử và xe hơi của Nhật Bản trước sự cạnh tranh lớn đến từ các đối

thủ châu Á. Chính sách này khởi xướng từ năm 2013, được Thượng viện Nhật

Bản thông qua với ngân sách 500 triệu USD cho kế hoạch 20 năm. Chiến lược

tập trung vào các ngành “công nghiệp sáng tạo” của Nhật Bản còn bao gồm

nhiều lĩnh vực như: ẩm thực, hàng thủ công, thời trang, hoạt hình hay âm

nhạc… Các nội dung này được cho là sẽ giúp tăng trưởng việc bán hàng hóa

của Nhật Bản.

Bộ Kinh tế thương mại và Công nghiệp Nhật Bản hy vọng chính sách

này sẽ tạo thuận lợi khi gia nhập thị trường toàn cầu cho các công ty vừa và

nhỏ của Nhật Bản. Hơn nữa, gia tăng sự hiện diện của các sản phẩm văn hóa

Nhật Bản sẽ thu hút nhiều du khách quốc tế đến với nước này hơn.

2.3.4. Hàn Quốc - quốc gia dẫn đầu về sáng tạo

Hàn Quốc là quốc gia đặt phát triển văn hóa thành một trong những chính

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

sách trọng điểm của Nhà nước. Thậm chí, đất nước này còn chủ trương nâng

ngành công nghiệp văn hóa lên vị trí dẫn dắt các ngành công nghiệp khác. Năm

2016, Hàn Quốc cùng với Đức, Thụy Sĩ, Nhật Bản và Thụy Điển đã lọt vào top 5

quốc gia dẫn đầu về các ý tưởng (theo xếp hạng chỉ số sáng tạo Bloomberg).

Để có được vị trí này, Hàn Quốc đã thực hiện một cuộc cách mạng công

nghệ và quản trị để chấn hưng đất nước. Trọng tâm của cuộc cách mạng này là

đổi mới sáng tạo ở mọi cấp bậc. Điển hình là sự thành lập viện Nghiên cứu

khoa học và Công nghệ (KIST) năm 1966. Các nghiên cứu của KIST được

triển khai theo hướng hợp đồng, để kết quả nghiên cứu có thể ngay lập tức

được ứng dụng vào sản xuất kinh doanh. Các nhà nghiên cứu của KIST đã chủ

động đi tìm khách hàng thay vì ngồi chờ doanh nghiệp tìm đến. Ngày nay, hệ

thống xây dựng và đánh giá chính sách khoa học công nghệ của Hàn Quốc đã

phát triển rất nhiều so với thời KIST mới được thành lập. Có thể kể đến như

Viện đánh giá và quy hoạch Khoa học và Công nghệ Hàn Quốc (KISTEP) đang

đóng vai trò lớn trong việc xây dựng các chính sách khoa học công nghệ của

Hàn Quốc, đặc biệt trong việc hoạch định, dự báo, đánh giá và điều phối các

chính sách.

Theo các chuyên gia, có 3 bài học lớn ở Hàn Quốc. Thứ nhất là chọn

người có đức có tài, tin tưởng họ và giao cho họ toàn quyền tự chủ trong các

hoạt động khoa học công nghệ, hướng đến mục tiêu lớn là chấn hưng đất nước.

Thứ hai là bắt tay với cộng đồng doanh nghiệp ngay từ khi khởi động các

nghiên cứu. Tốt nhất là nghiên cứu theo các đơn đặt hàng của doanh nghiệp.

Bài học thứ ba là các nhà nghiên cứu cần chủ động đi tìm các doanh nghiệp để

giải các bài toán thực tế mà doanh nghiệp đang gặp phải.

2.3.5. Singapore - từ quốc đảo nghèo trở thành con rồng châu Á

Singapore là một nước không có tài nguyên, nên nước này đã xác định

chỉ có thể phát triển nhờ nguồn lực con người. Vì thế, chính phủ nước này đầu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

tư rất mạnh cho giáo dục và phát triển khoa học, công nghệ. Trong chiến lược

khoa học- công nghệ năm 2015 đã nêu rõ: “Cùng với tri thức, đổi mới sáng tạo

là hai động lực đảm bảo cho Singapore phát triển bền vững”.

Singapore có hệ thống viện nghiên cứu trực thuộc cơ quan phát triển

Khoa học, Công nghệ và Nghiên cứu của Singapore. Cơ quan này được thành

lập năm 1991 để thúc đẩy sự phát triển của khoa học và công nghệ, đồng thời

thu hút tài năng nước ngoài đến làm việc tại Singapore, với ưu đãi về thu nhập,

nhằm phát triển nền kinh tế tri thức của Singapore.

Ở Singapore, doanh nghiệp được tham gia vào các nghiên cứu từ khâu

đầu tiên và theo sát trong quá trình nghiên cứu, nhất là phần đánh giá, nghiệm

thu kết quả. Có như thế, họ mới đủ tin tưởng để triển khai các kết quả này ra

thực tiễn kinh doanh. Nổi bật nhất là phát triển các nghiên cứu về xử lý nước.

Ngày nay, công nghệ xử lý nước của Singapore được coi là dẫn đầu thế giới.

Cũng vì thế, năng lực đổi mới sáng tạo của Singapore đạt mức rất cao trong

bảng xếp hạng toàn cầu, luôn duy trì ở trong top 10 quốc gia dẫn đầu.

2.4. Sự sẵn sàng của các nước ASEAN đối với cuộc CMCN 4.0

2.4.1. Cộng đồng ASEAN

Trước sự tác động lan tỏa của CMCN 4.0, các nước ASEAN nhận thấy

sự cần thiết phải sẵn sàng đón nhận cơ hội và thách thức trước tác động của

cuộc cách mạng công nghiệp mới này đến các nước phát triển, đặc biệt từ Đức

và Hàn Quốc. Ngày 24/4/2017 các nhà lãnh đạo ASEAN đã nhất trí đồng thuận

chỉ đạo các nước thành viên thực hiện với kì vọng CMCN 4.0 đem lại những cơ

hội cho cả cộng đồng ASEAN nhờ những yếu tố nền tảng như IoT. AI /

BigData, BigChain, in 3D, robot, điện toán đám mây.

Trên thực tế, một bộ phận của CMCN 4.0 đã bắt đầu tác động đến

ASEAN tại Malayxia, Philippin, Thái Lan. Nổi bật nhất là Singapo với Chiến

lược xây dựng quốc đảo thông minh và kết nối trực tiếp với Mĩ, một nước có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

nền kinh tế sáng tạo và đang đẩy mạnh trong CMCN 4.0.

Bảng 2.1: Xếp hạng GII 2017 của các nước ASEAN được xếp hạng

2015 2016 2017

STT Các nước ASEAN được xếp hạng 2014

1 Singapo 7 7 6 7

2 Malaixia 33 32 35 37

Việt Nam 71 52 59 47 3

4 Thái Lan 48 55 52 51

5 Philippin 100 83 74 73

6 Indonesia 87 97 88 87

Nguồn: GCI 2014, 2015, 2016, 2017, WIPO

7 Campuchia 106 91 95 101

ASEAN phải làm gì để tận dụng lợi thế của cuộc CMCN 4.0?

ASEAN với dân số 630 triệu người và độ tuổi trung bình chỉ 25 tuổi

có lực lượng lao động trẻ. Trong Hội nghị Diễn đàn Kinh tế thế giới về

ASEAN (WEF ASEAN 2018) vừa được tổ chức tại Hà Nội, các nhà lãnh đạo

của khu vực đã tuyên bố: "CMCN 4.0 là cơ hội và động lực để ASEAN trở

thành khu vực kinh tế lớn thứ tư trên thế giới vào năm 2030, chỉ sau Mỹ,

Trung Quốc và EU.

Vậy, ASEAN nên làm gì để có được những lợi thế vượt trội do CMCN

4.0 mang lại? Để hiện thực hóa tuyên bố của các nhà lãnh đạo, ban đầu, các

quốc gia thành viên ASEAN nên kết nối với nhau trên tinh thần của những

người làm việc cùng nhau, cùng nhau phát triển".

Đầu tiên, CMCN 4.0 là cuộc cách mạng Internet với sự bùng nổ của các

sản phẩm xuyên biên giới. ASEAN cần phát triển một cơ chế chung cho phép

việc áp dụng chính sách sandbox (thử nghiệm để tự phát triển trong phạm vi

không gian và thời gian nhất định) cho các sản phẩm 4.0 và các mô hình kinh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

doanh mới. Châu Âu có một mô hình tương tự. Đó là Nền tảng Sáng kiến Quốc

gia Châu Âu, Trong đó, mỗi sản phẩm 4.0 sẽ được thử nghiệm trong các môi

trường chính sách khác nhau, ở các quốc gia khác nhau dưới dạng sandbox.

Thứ hai, ASEAN cần tạo ra một thị trường chung dựa trên sự tương đồng

về văn hóa và kết nối địa lý để đưa các sản phẩm 4.0 vào thực tiễn. Ví dụ, các

quốc gia trong khu vực sông Mê Kông, nơi có nhiều cảnh quan đẹp, vùng đất

màu mỡ, người dân thông minh, chăm chỉ và kết nối giao thông tốt, có thể cùng

nhau tạo ra một khu vực Mekong 4.0.

Trong khu vực này, chính phủ sẽ tập trung phát triển các công nghệ mới

để áp dụng trong ngành nông nghiệp, du lịch, hậu cần và CNTT. Đây là những

ngành mà các nước khu vực sông Mê Kông có lợi thế.

Thứ ba, ASEAN phải có một số doanh nghiệp lớn, dẫn đầu về CMCN

4.0 trong khu vực. Những doanh nghiệp này cần được cung cấp với điều kiện

thuận lợi để phát triển ở cấp khu vực. Một số nước ASEAN đã có thể phát triển

các giải pháp và sản phẩm công nghiệp 4.0 và đạt được thành công tại quốc gia

của họ. Và từ đây, họ phải mở rộng kinh doanh tại thị trường khu vực, các

doanh nghiệp ASEAN này sẽ phát triển lớn hơn. Grab là một ví dụ điển hình.

Cuối cùng, để tận dụng cơ hội tuyệt vời này, các nước ASEAN phải

chung tay với tinh thần "cùng làm việc, cùng phát triển" để tạo ra một ASEAN

kỹ thuật số: Một thị trường chung ASEAN, Một khung chính sách ASEAN cho

CMCN 4.0, Một ASEAN roaming chung giá cước, Một trường đại học ICT

ASEAN, Một trung tâm đổi mới ASEAN, Một trung tâm an ninh mạng

ASEAN, v.v. [25 (iii)}.

2.4.2. Sự sẵn sàng bứt phá của Việt Nam trước CMCN 4.0

Rất lấy làm tiếc tại Báo cáo của WEF, Việt Nam đứng ở mức thấp nhất

theo các chỉ số tiếp cận CMCN 4.0. Qua đó người ta có thể nghĩ rằng Việt Nam

chưa thật sẵn sàng CMCN 4.0. (Bảng 2.1 / 2.2). Tại Bảng 2.1 là thứ hạng trên

100 quốc gia, thứ hạng càng thấp thì ngôi vị càng cao và ngược lại. Bảng dưới

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

đây trích ra vài số liệu (thứ hạng tính trên 100 quốc gia) liên quan đến giáo dục

và khoa học. Về phẩm chất đại học, Việt Nam đứng hạng 75/100 (thực ra, điểm

là 0), trong khi đó Malaysia và Indonesia, thậm chí Philippines cũng hơn Việt

Nam về điểm này.

Cũng không có gì đáng ngạc nhiên ngay cả về phẩm chất giáo dục khoa

học và toán học Việt Nam cũng đứng hạng 68/100 (điểm chỉ 3.7), thấp hơn tất

cả các nước cùng trình độ trong vùng như Thái Lan (hạng 66/100), Malaysia

(16), Indonesia (35) và Philippines (60)

Bảng 2.2: So sánh thứ hạng các tiểu chỉ số ĐMST của Việt Nam qua các

năm 2013, 2014, 2015, 2016 và 2017

2013

2014

2015

2016

2017

(vị trí từng tiểu chỉ số/141 nước và vùng lãnh thổ)

(vị trí từng tiểu chỉ số/128 nước và vùng lãnh thổ)

(vị trí từng tiểu chỉ số/127 nước và vùng lãnh thổ)

Nhóm tiểu chỉ số đầu

89

100

78

79

71

vào của ĐMST

1. Thể chế/Tổ chức

122

121

101

93

87

2. Nguồn nhân

lực,

98

89

78

74

70

nghiên cứu

3. Cơ sở hạ tầng

80

99

88

90

77

4. Trình độ phát triển

73

92

67

64

34

của thị trường

5. Trình độ phát triển

67

59

40

72

73

kinh doanh

Nhóm tiểu chỉ số đầu

54

47

39

42

38

ra của ĐMST

6. Đầu ra công nghệ và

51

49

28

39

28

tri thức

7. Đầu ra sáng tạo

66

58

62

52

52

Tỷ lệ hiệu quả ĐMST

17

5

9

11

10

Chỉ số ĐMST

76

71

52

59

47

Nguồn: GCI 2013, 2014, 2015, 2016 và 2017, WIPO

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

Về chỉ số sáng tạo công nghệ và giáo dục Việt Nam đứng thứ hạng thấp

9/10. Tình hình cũng như vậy với các chỉ số về Công nghệ và Đổi mới

(Technology & Innovation) / Công nghệ nền (Technology Platform) / Năng lực

sáng tạo / Nguồn lực con người, tính trên 100 tương ứng 90/ 92 / 77/ 70.

Phải chăng bức tranh ảm đạm nói trên cản trở những ý chí quyết tâm

không bỏ lỡ cơ hội cuộc cách mạng lần này. Còn đó nỗi đau lịch sử vì bỏ qua

cơ hội các cuộc cách mạng công nghiệp trước đó. Mọi người đều kì vọng

CMCN 4.0 đến với Việt Nam bằng sự cuốn hút về IoT/AI/BigData, điện toán

đám mây hay BlockChain. Vẫn biết chúng ta kém hơn các nước trong vùng về

chỉ số bằng sáng chế. Riêng công bố khoa học tính trên dân số Việt Nam cao

hơn Indonesia và Philippin. Về tỉ số bằng sáng chế tính trên dân số Việt Nam

cao hơn Indonesia và Philippines.

Dường như người Việt Nam hiểu rõ sự tác động của CMCN 4.0. Trên

khía cạnh khác của vấn đề, trong nhóm thành viên mới của ASEAN, gồm Việt

Nam/Lào/Campuchia/Myanma - gọi tắt là CLMV - cũng bắt đầu chú trọng

nâng cao năng lực chuẩn bị cho CMCN 4.0.

Đến năm 2020, Việt Nam sẽ hoàn thành xong DA chuyển đổi băng thông

rộng làm cơ sở triển khai Chính phủ điện tử/Thương mại điện tử/Phòng chống

thiên tai. Theo đó, 95% lãnh thổ sẽ được phủ sóng 3G/4G cũng như kết nối

băng thông rộng cố định cho hơn 40% hộ gia đình và thuê bao cá nhân. Cục

phát triển thị trường và doanh nghiệp KHCN đã tổ chức TECHFEST để tập

hợp các nhà phát minh sáng chế, doanh nhân, các nhà đầu tư, chuyên gia công

nghệ truyền thông. Với hơn 47 triệu USD dành cho nghiên cứu các yếu tố nền

tảng AI / IoT / BigChain.

Trong khuôn khổ hợp tác với các nước Phần Lan, Đức, Australia,

UNICEF, WB đang tiến hành thí điểm các chương trình thúc đẩy đổi mới sáng

tạo công nghệ hướng trọng tâm các doanh nghiệp khởi nghiệp và các lĩnh vực

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

quan trọng như nông nghiệp, ICT...

Giờ đây, Việt Nam đã bắt đầu thực hiện các sáng kiến CMCN 4.0 và sẵn

sàng hợp tác với các nước thành viên khác trong khu vực.

Về hoạch định chính sách, Việt Nam đang hợp tác với Diễn đàn kinh tế

thế giới để thành lập Trung tâm liên kết 4.0 có trụ sở tại Việt Nam. Việt Nam

mong muốn sự tham gia của tất cả các nước thành viên ASEAN vào trung tâm.

Đó là nền tảng “Do-tank”, thay vì “think-tank”. Các nước thành viên

ASEAN cũng có thể cử đại diện sang làm việc và tiến hành nghiên cứu tại

Trung tâm để phát triển khung chính sách cho các mô hình kinh doanh hoặc

công nghệ mới như thanh toán di động, kinh tế chia sẻ hay dữ liệu mở.

Về cơ sở hạ tầng viễn thông, Việt Nam sẽ thử nghiệm 5G vào năm 2019

và sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm với các quốc gia khác trong việc phát triển

công nghệ 5G.

Trong chương trình Make in Vietnam, Việt Nam tập trung phát triển các

doanh nghiệp công nghệ và sản xuất các thiết bị IoT, thiết bị viễn thông,

Chipset 5G, camera giám sát,... Việt Nam sẵn lòng hợp tác với các nước trong

ASEAN để thành lập liên doanh và các nhà máy sản xuất sản phẩm CNTT-TT.

Đặc biệt, Việt Nam sẽ mở và chia sẻ tất cả các bí quyết công nghệ với

các quốc gia khác để tất cả các quốc gia thành viên ASEAN có thể làm chủ các

thiết bị đảm bảo an ninh mạng quốc gia.

Với chủ trương khi thế giới triển khai 5G thì Việt Nam cũng sẽ là một

trong những nước đầu tiên triển khai 5G, ngay từ đầu năm 2019, Bộ TT&TT đã

triển khai cấp phép tần số cho các doanh nghiệp để triển khai thử nghiệm 5G tại

Hà Nội và TPHCM. Việt Nam sẵn sàng hợp tác với các nước thành viên

ASEAN khác, và các quốc gia đi tiên phong trong CMCN4.0, để triển khai 5G

và thúc đẩy chuyển đổi số. Khi cuộc Cách mạng Kỹ thuật số hay cuộc Cách

mạng Công nghiệp lần thứ 4 diễn ra, tương lai không cần phải nằm trên dòng

chảy của quá khứ. Với tư duy mới, phi truyền thống và không tuần tự, các nước

ASEAN sẽ có cơ hội. Cả chính phủ và doanh nghiệp đều cần một bước đột phá

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

về tư duy, trong hoạch định chính sách và phương pháp điều chỉnh [26 (iii)].

Tiểu kết Chương 2

1. Với vai trò dẫn đầu CMCN 4.0, Liên minh Châu Âu có tham vọng lớn

trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh kinh tế của toàn khối bằng việc đề ra

nhiều chương trình, DA đổi mới công nghệ hiện đại trên cơ sở và nguyên tắc

mới của nền công nghiệp AI / IoT. BigData. Đáng chú ý là Ba Lan, một thành

viên EU đã sớm nhận ra vai trò CMCN 4.0 bằng việc tập trung vào các ngành

có hàm lượng trí tuệ cao, đồng thời giảm dần sự phụ thuộc vào khai thác than,

sắt, muối khoáng và lao động với giá tương đối thấp.

2. Trong số các nước đi tiên phong trong CMCN 4.0, Mĩ luôn ở vị trí dẫn

đầu trong nền kinh tế sáng tạo. CMCN 4.0 sẽ giữ cho họ ở vị trí dẫn đầu thế

giới. Đức là quê hương của Công nghiệp 4.0 với việc thiết kế lại các quy trình

công nghệ trên nền tảng AI/IoT/ Điện toán đám mây. Nổi bật sau hai nước nói

trên là Trung Quốc với tham vọng chuyển đổi một Trung Quốc công xưởng thế

giới sang Trung Quốc chế tạo/thiết kế tầm cỡ thế giới trên nền tảng mới.

3. Trong số các nước công nghiệp phát triển và mới nổi như Anh, Nhật

Bản, Hàn Quốc, Singapo đi đầu trong công nghiệp sáng tạo. Các nước đang

phát tiển mới nổi như Ấn Độ, Braxin, Mehico, Thổ Nhĩ Kì... đều có bước tiến

lớn trong phát triển nguồn nhân lực có chất lượng và trình độ cao.

4. Đi đầu trong lĩnh vực CMCN 4.0 ở Đông Á là Hàn Quốc, Đài Loan

với nhiều DA công nghệ trên nền tảng CPS với tham vọng cạnh tranh với ngay

cả các nước lớn như Mĩ, Nhật, Úc... Ở ĐNA là Singapor với Chương trình xây

dựng quốc đảo này có nền kinh tế thông minh. Theo hướng này, Malaixia, Thái

Lan, Indonesia, Việt Nam đang triển khai DA chuyển đổi số với mạng 5G và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

phát triển kinh tế số.

Chương 3

ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY CMCN 4.0 Ở VIỆT NAM

3.1. Những cơ hội và thách thức từ CMCN 4.0 đối với Việt Nam

3.1.1. Cơ hội và thách thức

Đối với Việt Nam, một số ngành nghề ở Việt Nam trong cuộc CMCN

4.0 có thể bị tác động tiêu cực, như nhóm ngành năng lượng, công nghiệp chế

tạo, dệt may, điện tử. Một số lĩnh vực cũng có cơ hội tăng trưởng nếu đi đúng

hướng và bắt được nhịp, như du lịch, thương mại nội địa, ICT, giáo dục, y tế,

xây dựng, chính phủ điện tử. Vấn đề là kế hoạch tái cơ cấu phải phù hợp và

khách quan và phù hợp với xu thế mới. Trong bài phát biểu tại Hội thảo quốc tế

tại Việt Nam hồi tháng 11/2016, một quan chức của FPT cho rằng, cuộc

CMCN 4.0 mang tên “Cách mạng số” khiến diện mạo, cách ứng xử và phong

cách lao động của con người thay đổi theo.

Và theo khảo sát mới đây của Mỹ về sự phát triển kinh tế số trong tương

lai thì Việt Nam cũng được xếp vào nhóm nước “đột phá” khi có cơ hội lớn để

trở nên nổi bật về nền kinh tế số. Trước những cơ hội và thách thức của cuộc

CMCN 4.0, Việt Nam cần thúc đẩy hoạt động công nghệ sáng tạo, khuyến

khích khởi nghiệp nhằm tạo ra những thay đổi cơ cấu nền kinh tế theo hướng

kinh tế số và triển khai rộng rãi 5G.

CMCN 4.0 mở ra nhiều cơ hội cho các nước, đặc biệt là các nước đang

phát triển để nâng cao năng suất và rút ngắn khoảng cách phát triển. Tại buổi

triển lãm “Vietnam Manufacturing Expo (VME) 2017” với nội dung “Công

nghiệp sản xuất Việt Nam - hành trình hướng tới ngành công nghiệp 4.0”,

Giám đốc điều hành công ti ReedTradex (Thái Lan), cho rằng nhờ triển khai

CMCN 4.0 Việt Nam sẽ kì vọng giảm 3,6% chi phí sản xuất và tăng hiệu suất

4,1% / năm cho các doanh nghiệp do sự nhạy bén của các doanh nhân, sự thông

minh và lành nghề của công nhân lao động. Cuộc CMCN 4.0 là xu hướng phát

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

triển dựa trên nền tảng số hóa và kết nối, tác động mạnh mẽ tới mọi mặt của

đời sống KTXH, quá trình hội nhập quốc tế; đặc biệt khi Việt Nam triển khai

hiệp định thương mại tự do quy mô lớn như CPTPP, các FTA với các nước

châu Âu, Liên minh kinh tế Á - Âu...thì việc bắt kịp xu hướng mới, giúp nâng

cao hiệu quả của việc tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu, đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.[16 (iii)].

Tuy vậy, ở Việt Nam, CMCN 4.0 vẫn còn nằm ở dạng khái niệm, và

chính phủ, các doanh nghiệp hay người lao động vẫn chưa định hình chính xác

được sự tồn tại của cuộc cách mạng này trong quá trình phát triển của đất nước.

Và điều kiện cần để một quốc gia sẵn sàng đón nhận lực do sự lan tỏa của

CMCN 4.0 trong chiến lược tổng thể của quốc gia. Tuy nhiên, khi chúng ta vẫn

chưa thực sự đi vào giai đoạn chín muồi của cuộc CMCN 4.0 thì việc chủ động

thay đổi chính sách phát triển cần nhiều thời gian để thích ứng. Ngoài ra, đối mặt

với CMCN 4.0 sẽ là vô vàn thách thức cho Việt Nam khi những yếu tố mà chúng

ta đang tự coi là ưu thế như lực lượng lao động thủ công trẻ, dồi dào sẽ không

còn là thế mạnh nữa, thậm chí bị đe dọa nghiêm trọng. Trong tương lai, ngành

nước ta có lợi thế về lao động như dệt may, sản xuất thực phẩm chế biến vốn là

nhưng ngành và lĩnh vực sản xuất sử dụng lao động, phù hợp với lợi thế tài

nguyên và lao đông, được thay thế bởi những lĩnh vực mà trí tuệ nhân tạo có thể

tác động tới. Không chỉ việc làm ở trong các ngành sản xuất bị ảnh hưởng ngay

cả với các công việc cần trí tuệ của con người như giáo dục, y tế, dịch vụ. Việt

Nam có lợi thế lớn về nguồn nhân lực cho tăng trưởng, nhưng chất lượng chưa

tương xứng với tốc độ tăng về quy mô, về mức độ hội nhập kinh tế khu vực và

thế giới. Tuy nhiên, lao động chủ yếu ở khu vực nông thôn chưa được đào tạo

nghề và chuyên môn kĩ thuật. Bức tranh không mấy sáng sủa, nếu không nói là,

tiềm ẩn nhiều rủi ro do nhiều tiêu chí đang ở mức độ thấp lao động phổ thông

không có chuyên môn kĩ thuật/ lao động đã qua đào tạo nghề / lao động có trình

độ trung cấp chuyên nghiệp / lao động có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

tương ứng 82,28 % / 4,84 % / 3.61 % / 8,26%. Đến năm 2016, con số này chỉ

giảm khoảng 3% tương ứng với số lao động không có CMKT chiếm đến 78,6%

lực lượng lao động, trong đó có đến hơn 37 triệu lao động ở nông thôn và hơn

17,5 triệu lao động ở thành thị. Cả nước chỉ có khoảng 10,9 triệu người có việc

làm, tương ứng với 20,6%, đã được đào tạo. Có sự chênh lệch đáng kể về tỉ lệ

lao động đang làm việc đã qua đào tạo giữa thành thị và nông thôn, mức chênh

lệch này là 24,4% (thành thị là 37,2% và nông thôn là 12,8%). Tương tự như

vây, trong giai đoạn 2005-2015, mặc dù lao động làm việc trong lĩnh vực nông

nghiệp có giảm, nhưng vẫn chiếm tỉ trọng cao nhất, nông nghiệp giảm từ 55,09%

năm 2005, xuống 45,19% năm 2015; lần lượt công nghiệp tăng từ 17,59% lên

21,78%; dịch vụ tăng từ 27,32% lên 33,03%. Điều này sẽ gây khó khăn cho Việt

Nam trước sự lan tỏa của CMCN 4.0.

3.1.2. Phương châm hành động: Bây giờ hoặc không bao giờ

Cần có phương châm hành động là “bây giờ hoặc không bao giờ”, vì cơ

hội chỉ đến một lần và không bao giờ quay lại. Đây là ý kiến của Bộ trưởng Bộ

Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng tại Diễn đàn Cấp cao về Công nghệ

thông tin Việt Nam - VietNam ICT Summit 2018.[26(iii)].

Cuộc CMCN 4.0 đang diễn ra nhanh chóng, tác động sâu rộng đến mọi

mặt của đời sống kinh tế - xã hội của tất cả các quốc gia trên toàn thế giới,

khiến tổ chức sản xuất, cung ứng dịch vụ, phương thức kinh doanh đến cách

thức tiêu dùng, cách thức giao tiếp biến đổi mạnh mẽ, kể cả cách ứng xử của

con người. CMCN 4.0 hình thành và phát triển trong quá trình tích hợp của

hàng loạt công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo, Internet vạn vật, dữ liệu lớn, điện

toán đám mây... Điều này có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc tạo ra bước phát

triển nhảy vọt của nhân loại, xóa bỏ dần các giới hạn truyền thống về khan

hiếm nguồn lực, làm thay đổi không gian kinh tế - xã hội theo hướng hòa trộn

giữa không gian vật lý và không gian số.

Có thể nói, cơ hội là rất rõ ràng. Theo nghiên cứu sơ bộ của Công ty tư

vấn BCG cho thấy, CMCN 4.0 có thể giúp GDP của Việt Nam tăng thêm từ 8-

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

18 tỷ USD mỗi năm, là động lực để thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế

gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng cũng như thúc đẩy các nỗ lực cải cách

hiện nay mà Chính phủ đang thực hiện một cách mạnh mẽ hơn, hiệu quả hơn.

Tuy nhiên, cơ hội không tự nhiên đến với một quốc gia thụ động chờ đợi, thụ

động tiếp nhận những thay đổi do cuộc cách mạng đem lại.

Ngược lại, Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đòi hỏi chúng ta phải chủ

động, tích cực, quyết liệt đổi mới, sáng tạo, thực hiện hàng loạt chương trình

cải cách trên 4 yếu tố nền tảng và 4 trụ cột chuyển đổi. Chúng ta không chỉ tiếp

nhận, tận dụng cơ hội mà còn phải tạo ra cơ hội mới với tư duy và phương

châm hành động là “bây giờ hoặc không bao giờ”. Vì cơ hội chỉ đến một lần

và không bao giờ quay lại. Bốn (04) yếu tố nền tảng gồm: Đột phá về thể chế;

phát triển và nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin; xây dựng cơ sở dữ liệu

quốc gia; phát triển nguồn nhân lực. Cơ sở dữ liệu quốc gia cần phải được

nhanh chóng xây dựng và phát triển một cách thống nhất, phù hợp với thông lệ

quốc tế về lưu trữ, phân tích, kết nối, lưu chuyển, tiếp cận và khai thác sử dụng

thông tin. Phát triển nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu của cuộc cách mạng

công nghiệp lần thứ 4, đi đôi với chuyển đổi cơ cấu lao động phù hợp và thích

ứng với yêu cầu của thị trường lao động trong thời đại 4.0 theo hướng đào tạo

kỹ năng đa ngành. Người lao động phải được trang bị nhiều loại kỹ năng đa

dạng để thích ứng với môi trường thời đại 4.0 và dễ dàng dịch chuyển công

việc phù hợp với nhu cầu của thị trường. Trên cơ sở 4 yếu tố nền tảng trên,

chúng ta cần thúc đẩy chuyển đổi quản trị và sản xuất theo 04 trụ cột sau đây:

Thứ nhất, chuyển đổi nền quản trị quốc gia, trước hết là xây dựng Chính

phủ điện tử, dần tiến tới Chính phủ số và phát triển thành phố thông minh; nâng

cao hiệu lực, hiệu quả điều hành kinh tế bằng các công nghệ hiện đại; giảm

thiểu chi phí tuân thủ và tạo cơ hội kinh doanh cho doanh nghiệp trong các

ngành kinh tế mới.

Thứ hai, chuyển đổi phương thức tổ chức sản xuất kinh doanh theo

hướng thông minh hơn, nhanh hơn, hiệu quả hơn và năng lực cạnh tranh cao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

hơn; áp dụng phổ biến các phương thức kinh doanh mới như kinh tế chia sẻ,

dịch vụ ship hàng online door - to - door... Thu hút các tập đoàn công nghệ

hàng đầu thế giới kết hợp với khuyến khích và hỗ trợ phát triển các công ty

công nghệ trong nước; hỗ trợ nâng cao kỹ năng của doanh nghiệp nhỏ và vừa

trong tiếp cận, áp dụng các công nghệ, các mô hình quản lý và kinh doanh phổ

biến trong thời đại 4.0 để họ tiếp cận được thị trường toàn cầu.

Thứ ba, áp dụng các công nghệ và phương thức tổ chức kinh doanh của

CMCN 4.0 để nhanh chóng chuyển đổi sản xuất trong các ngành có lợi thế, có

tiềm năng phát triển, có thể đóng góp lớn vào phát triển đất nước, ví dụ như:

Sản xuất nông nghiệp, công nghệ thông tin, dịch vụ hậu cần - Logistics, dịch vụ

tài chính, dịch vụ y tế, giáo dục...

Thứ tư, xây dựng hệ sinh thái đổi mới, sáng tạo và khởi nghiệp để phát

triển các công nghệ tiên tiến, giúp Việt Nam vượt lên ở một số lĩnh vực của

công nghệ 4.0. đặc biệt là nghiên cứu triển khai trí tuệ nhân tạo, chế tạo thông

minh, an ninh mạng... Hệ sinh thái phải được xây dựng theo chuẩn mực quốc

tế, trong đó, hạt nhân là chuỗi các Trung tâm đổi mới sáng tạo theo các mô hình

tốt nhất thế giới. Các trung tâm đổi mới sáng tạo với hệ sinh thái như đã đề cập

phải là nơi sống, làm việc tốt, đủ sức cạnh tranh quốc tế để thu hút các tài năng

công nghệ 4.0. Đó sẽ là nơi kiến tạo và phát triển năng lực công nghệ quốc gia,

tạo ra những sản phẩm công nghệ “Made in Việt Nam” và “Made by Việt

Nam”. Đó cũng là cách để chúng ta vươn lên hàng đầu trong các ngành, lĩnh

vực công nghệ mà Việt Nam có tiềm năng, lợi thế.

3.2. Định hướng và một số giải pháp phát triển các ngành và lĩnh vực then

chốt của Việt Nam trong CMCN 4.0

3.2.1. Tổng quan về định hướng tái cơ cấu nền kinh tế trong CMCN 4.0

Việt Nam có nhiều tiềm năng và cơ hội lớn để hưởng lợi từ cuộc CMCN

4.0. Tuy nhiên, để tận dụng được thời cơ cho phát triển bền vững, Việt Nam

cần có những định hướng phù hợp để tái cơ cấu nền kinh tế gắn với cuộc cách

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

mạng này. Trong bối cảnh CMCN 4.0, Việt Nam cần định hướng tái cơ cấu

trên một số lĩnh vực chủ đạo như: chuyển dịch cơ cấu lao động; thu hút đầu tư

FDI; sự sẵn sàng của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; đổi mới sáng tạo và

nâng cao năng suất ngành, hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và

nền kinh tế…

Đối với cơ cấu lao động, một số ngành nghề và lĩnh vực của Việt Nam

dự báo có nguy cơ bị robot thay thế là lao động trong lĩnh vực nông, lâm

nghiệp và thủy sản; công nghiệp chế biến, chế tạo; vận tải kho bãi; giáo dục

đào tạo và y tế… Theo dự báo, đến năm 2025, có khoảng 42,8 triệu người lao

động thuộc các lĩnh vực bị ảnh hưởng mạnh bởi CMCN 4.0 và sẽ có khoảng 31

triệu lao động cần được đào tạo mới hoặc đào tạo lại để đáp ứng được yêu cầu

về tay nghề/kỹ năng.

Trong lĩnh vực công thương, Viện Nghiên cứu Chiến lược, chính sách

công thương, Bộ Công Thương cho biết, Việt Nam chưa đạt được nhiều mục

tiêu khi thu hút FDI, đơn cử như: tỷ lệ nội địa hóa, việc nâng cao trình độ quản

lí, tay nghề cho đội ngũ lao động; phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ cũng như

không cải thiện được nhiều năng lực cạnh tranh nội tại của các ngành sản xuất

công nghiệp trong nước… Bên cạnh đó, với xu hướng siêu tự động hóa và sự

tham gia của các robot thông minh, thế hệ mới, có khả năng tùy chỉnh cao,

CMCN 4.0 sẽ có những tác động lớn trong việc thay đổi mô hình tổ chức sản

xuất của các ngành công nghiệp chính của Việt Nam trong thời gian tới.

Theo dự báo, đến năm 2025, có khoảng 42,8 triệu người lao động thuộc

các lĩnh vực bị ảnh hưởng mạnh bởi CMCN 4.0 và sẽ có khoảng 31 triệu lao

động cần được đào tạo mới hoặc đào tạo lại để đáp ứng được yêu cầu về tay

nghề/kỹ năng. Hệ lụy tất yếu sẽ diễn ra là năng lực đầu tư, đổi mới hoạt động

sản xuất và khả năng thích ứng nhanh chóng với những thay đổi công nghệ và

thị trường của các doanh nghiệp (DN), đặc biệt là DN nhỏ.

Trong bối cảnh CMCN 4.0, Việt Nam cần phải có chiến lược thu hút đầu

tư FDI mới, phải khắc phục được những tồn tại, hạn chế trong thời gian qua và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

tận dụng được những tiến bộ của cuộc CMCN 4.0. Theo đó, ưu tiên thu hút

FDI vào các ngành, lĩnh vực công nghệ tiên tiến, công nghệ thân thiện với môi

trường, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; sản xuất thiết bị y tế, dịch vụ tài

chính, logistics và các dịch vụ hiện đại khác. Ưu tiên thu hút vào sản xuất nông

nghiệp công nghệ cao và hiệu quả; phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật hiện đại;

đặc biệt là các ngành nghề mới trên nền tảng CMCN 4.0.

Đổi mới là chìa khóa để nâng cao năng suất và cải thiện sức cạnh tranh

của DN. Trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0 đang diễn ra sôi động, đổi mới sáng

tạo là yếu tố cốt lõi để DN không bị tụt hậu và ra khỏi thị trường. DN sẽ tiếp

cận được những công nghệ hiện đại và khối lượng dữ liệu khổng lồ về thị

trường, khách hàng để xây dựng chiến lược kinh doanh hiệu quả. Đồng thời, tối

ưu hóa quy trình sản xuất, nâng cao năng suất lao động, cải thiện chất lượng

sản phẩm, nâng cao chất lượng của phân khúc tiêu thụ sản phẩm và chính sách

hậu mãi.

Trong lĩnh vực sản xuất, cần xây dựng và triển khai đánh giá toàn diện

về mức độ sẵn sàng tham gia vào CMCN 4.0 đối với từng lĩnh vực cụ thể của

toàn ngành công thương. Từ đó, xem xét và lựa chọn những ngành/lĩnh vực,

các khâu của quá trình sản xuất để đầu tư, áp dụng trí tuệ nhân tạo nhằm nâng

cao hiệu quả sản xuất, chất lượng sản phẩm và giảm chi phí, tăng khả năng

cạnh tranh…

Chính sách của Việt Nam cần theo hướng tăng cường đầu tư cho RD các

sản phẩm ứng dụng trí tuệ nhân tạo phục vụ cho sản xuất công nghiệp và phát

triển thương mại. Ngoài ra, Việt Nam cần hoàn thiện hạ tầng pháp lí, tạo môi

trường phát triển và nâng cấp hạ tầng kỹ thuật cho thanh toán điện tử trong giao

dịch thương mại và hỗ trợ phát triển các hình thức kinh doanh mới, phát triển

lĩnh vực dịch vụ.

Đáng chú ý, ngoài các chính sách hỗ trợ cho việc tăng cường khả năng

sẵn sàng tham gia CMCN 4.0, cũng cần phải có những chính sách nhằm khắc

phục mặt trái của CMCN 4.0 như ô nhiễm môi trường, thất nghiệp, phân hóa xã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

hội, an ninh thông tin và các tác động không mong muốn khác.

3.2.2. Phát triển ngành nông - lâm nghiệp - thủy sản trong CMCN 4.0

Để nắm bắt cơ hội và hành động kịp thời cho nền Nông nghiệp 4.0 trước

CMCN 4.0 trước hết phải xác lập nhận thức đúng. Nông nghiệp số là sự kết hợp

đồng bộ giữa các công nghệ về giống; nuôi trồng, chăm sóc, chăn nuôi; tưới tiêu;

thu hoạch, sau thu hoạch, bảo quản; công nghệ chế biến; công nghệ tự động hóa;

công nghệ quản lí... Tất cả các công đoạn nêu trên được tích hợp và điều khiển

bởi công nghệ thông tin dùng Internet... Cần được hiểu là kết nối toàn chuỗi, qua

mạng bên trong và bên ngoài đơn vị, trong và ngoài nước. Thông tin số hóa kết

nối tất cả các đối tác và mọi quá trình sản xuất và phân phối đến hộ tiêu dùng

cuối cùng. Tiếp theo, cần đặt ra từng nội dung cụ thể với đối tượng và công nghệ

cụ thể chứ không thể hô hào như đã từng nói nhiều về nông nghiệp ứng dụng

công nghệ cao hay nông nghiệp hữu cơ mấy năm gần đây.

Chiến lược cho từng ngành hàng phải chỉ rõ cơ cấu các sản phẩm chủ lực

để có quy hoạch và đầu tư theo mục tiêu nhất quán, ổn định và dài hạn. Tiếp

sau là biến các chiến lược, phương án áp dụng NN 4.0 thành các giải pháp ứng

dụng mà mỗi đối tác phải thực hiện trong từng phân khúc giá trị. Đối với nông

hộ, giải pháp phải phù hợp có thể tiếp nhận và hiệu quả sớm nhất có thể.

Để tận dụng lợi thế là Việt Nam có 53% dân số tiếp cận được internet

(năm 2016), công nghệ số, nhất là công nghệ internet, Việt Nam sẽ cần tiếp tục

đầu tư hạ tầng cơ sở ICT để ứng dụng IoT trong khu vực nông thôn, nông

nghiệp theo hướng hiện đại.

Khả năng tiếp thu công nghệ của nông dân và doanh nghiệp hiện đang là

một khâu yếu trong hệ thống nông nghiệp Việt Nam. WB khuyến nghị tăng

cường hiệu quả tiếp thu công nghệ, không chỉ của nông dân mà của cả khối

doanh nghiệp vừa và nhỏ [6]. Từ mô hình “Canh tác lúa tốt nhất” của HTX Mỹ

Đông (Đồng Tháp), ông Michael Battaglia của Tổ chức Khoa học - Công

nghiệp Úc (CSIRO) cho rằng cách giúp người nông dân tiếp cận nông nghiệp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

4.0 là tạo điều kiện để họ tiếp cận được tri thức, thông tin và để họ tự quyết

định mức độ tiếp thu theo khả năng của mình [6]. Trong bối cảnh hội nhập

quốc tế sâu rộng như hiện nay, khi 70% cư dân vẫn dựa vào nông nghiệp là chủ

yếu thì việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực

nông thôn nói riêng là yêu cầu cần thiết.

Nhà nước đã có chính sách về vốn cho nông dân và doanh nghiệp, gói tín

dụng 100 nghìn tỉ đồng cho nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch với

lãi suất thấp hơn từ 0,5 - 1,5% so với lãi suất thị trường. Để có hiệu quả và

giảm rủi ro, gói này cũng như gói khác trong tương lai, cần được hiểu là dành

cho mô hình NN 4.0 toàn diện như nói trên, không nên chỉ giới hạn trong phân

khúc sản xuất ra sản phẩm sạch hay xanh. Nếu không tiêu thụ được thì rủi ro

cực lớn. Chẳng hạn, xây dựng một trang trại chăn nuôi quy mô vừa theo mô

hình CNC cần khoảng 140-150 tỉ đồng, cao gấp 4-5 lần so với chăn nuôi

thường; đầu tư 1 ha nhà kính hoàn chỉnh với hệ thống tưới, bón phân tự động

theo công nghệ của Israel cần ít nhất từ 10-15 tỉ đồng [8]. Nếu không có lãi thì

phá sản biết trước. Tuy vậy, thủ tục vay vốn rườm rà, phức tạp, vướng mắc,

kinh phí đầu tư cho Nông nghiệp 4.0 rất lớn trong khi vay vốn ngân hàng chỉ

định giá bằng 20-25% giá trị thực tài sản... đã khiến người nông dân khó tiếp

cận vốn, nhiều nông dân phải chịu cảnh “lực bất tòng tâm”.

Cần đổi mới đào tạo nguồn nhân lực: Trong nông nghiệp, chỉ riêng xuất

khẩu rau củ quả kim ngạch đã vượt cả xuất khẩu dầu mỏ, sẽ vượt cả dệt may;

song việc đào tạo nông dân không được coi là mũi nhọn. Nông dân chưa thể

tiếp cận những kỹ năng sản xuất theo NN 4.0; họ vẫn mới chỉ nghe nói, thậm

chí chưa từng được thấy. Đào tạo lớp học sinh trẻ ở nông thôn để họ nắm được

những kỹ năng lao động nông nghiệp công nghệ cao là việc cần làm ngay và

phải bắt đầu những hướng nghiệp ngay từ trường phổ thông.

Việc ứng dụng thành tựu của CMCN 4.0 vào sản xuất nông nghiệp sẽ

phải cân nhắc sao cho nông dân Việt Nam không bị đe dọa bởi nguy cơ mất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

dần việc làm và nguồn tiêu thụ vào tay nông dân các nước có công nghệ cao.

Chính vì vậy, ứng dụng KHCN vào nông nghiệp, tạo ra nền nông nghiệp 4.0 là

việc không thể chậm trễ, khi tác động trực tiếp và mạnh mẽ của công nghệ đối

với lĩnh vực nông nghiệp đang và sẽ diễn ra trong thời gian tới trên quy mô

toàn cầu.

3.2.3. CMCN 4.0 trong phát triển khu vực kinh tế công nghiệp - xây dựng

CMCN 4.0 đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu, vừa là thách thức nhưng

cũng là cơ hội tốt để Việt Nam có thể tận dụng để xử lý các vấn đề lớn trong

phát triển kinh tế đất nước và tái cơ cấu ngành công nghiệp nhằm đẩy nhanh

quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững.

CMCN 4.0 dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp các công nghệ

thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất; đặc biệt là những

công nghệ đang và sẽ có tác động lớn như công nghệ in 3D trong chế tạo sản

phẩm, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa,

robot,... trở thành nhân tố chi phối nền kinh tế toàn cầu. Việc nắm bắt kịp thời

các thành quả của cuộc CMCN 4.0 có thể coi là chìa khóa, cơ hội để tạo bước

phát triển mang tính đột phá cho nền kinh tế nước ta trong thời gian tới nhằm

thực hiện thành công quá trình công nghiệp hóa. Sự phong phú, đa dạng tài

nguyên thiên nhiên, nguồn lao động dồi dào và chi phí thấp không còn là lợi thế

cạnh tranh nữa.

Trong thời gian qua, chính sách thu hút đầu tư FDI đã khiến cho khu vực

đầu tư nước ngoài có những bước phát triển hết sức nhanh chóng và sôi động,

đóng góp một phần quan trọng cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thời gian

qua. Tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 5 năm 2011-2015 đạt

trên 59,5 tỷ USD, tăng 33,4% so với 5 năm 2006-2010. Tại thời điểm cuối năm

2016 con số này đã gần đạt ngưỡng 200 tỉ USD với quy mô khối doanh nghiệp

FDI tăng rất nhanh, chiếm khoảng 70% tỉ trọng xuất khẩu cả nước, trở thành

động lực tăng trưởng ngoại sinh hơn là các nhân tố nội sinh trong khi năng lực

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

nội tại của các ngành sản xuất công nghiệp nước ta còn yếu do yếu kém về khả

năng hấp thụ công nghệ. Đây cũng là một nguyên nhân khiến các doanh nghiệp

FDI trở thành tác nhân gia tăng / dãn cách về trình độ kinh doanh và công nghệ

giữa các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước. Ngoài ra, tăng trưởng

ở khu vực FDI tiếp tục tập trung ở các ngành khai thác tài nguyên, sử dụng

nhiều lao động, hạn chế trong chuyển giao công nghệ. Từ góc nhìn CMCN 4.0,

việc FDI sẽ đem lại những bất lợi cho Việt Nam, đặc biệt trong cán cân thương

mại, bởi vì hầu hết các xí nghiệp FDI thường phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu

thiết bị, nguyên phụ liệu, kể cả các nhân công kĩ thuật và quản lí điều hành

trong khi nguyên liệu và lao động nội địa không được sử dụng hoặc sử dụng

hạn chế về thời gian và tuổi tác.

Ngoài ra, CMCN 4.0 sẽ tạo ra những thay đổi lớn trong cơ cấu của các

ngành công nghiệp cũng như đóng góp của mỗi ngành trong tăng trưởng của

toàn bộ nền kinh tế của nước ta thời gian tới. Trong cơ cấu sản xuất công

nghiệp hiện nay, các ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn là các ngành chế

biến thực phẩm (luôn chiếm tỷ trọng cao nhất, mặc dù có xu hướng giảm nhẹ ở

mức trên 17%), tiếp theo ngành sản xuất điện tử, máy vi tính và thiết bị viễn

thông (trên 12%). Ngoài ra, phải kể đến các ngành như dệt may (8,12%), thiết

bị giao thông (4,85%), máy tính và điện tử (3,54%), v.v… Các ngành công

nghiệp công nghệ thấp tiếp tục chiếm tỷ trọng cao, chiếm khoảng 65% tổng sản

phẩm chế biến, chế tạo ở Việt Nam, trong khi của toàn cầu chỉ là 18%.

CMCN 4.0 sẽ góp phần chuyển dịch sản xuất công nghiệp quốc gia theo

hướng từ nền kinh tế năng suất thấp (với ít cơ hội cho cải tiến công nghệ và đạt

được giá trị gia tăng cao trong sản xuất) sang nền kinh tế năng suất cao (với

nhiều cơ hội hơn cho các sáng kiến và giá trị gia tăng cao hơn). CMCN 4.0 sẽ

có tác động cụ thể lên ba nhóm ngành công nghiệp chính, như sau:

- Các ngành công nghiệp thâm dụng lao động như dệt may, da giày…:

lao động có tác động lớn hơn công nghệ, hiện nay vẫn là ưu thế của các nước

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

đang phát triển trong đó có Việt Nam. Trước làn sóng CMCN 4.0, đây sẽ là

một trong những thách thức lớn, khi lao động được dần thay thế bằng robot và

các nhà máy thông minh.

- Các ngành công nghiệp trung bình (hàng hóa trung gian): Ngành sắt

thép, xi măng, cao su, bao bì và các ngành công nghiệp khoáng sản phi kim

loại. Đối với các ngành này, các quốc gia công nghiệp tập trung vào công nghệ

trong khi các nước đang phát triển như Việt Nam vẫn dựa vào tài nguyên, năng

lượng nhưng chủ yếu là xuất khẩu tài nguyên thô (ở Việt Nam là xuất khẩu

khoáng sản thô). Công nghệ, lao động và tài nguyên là các yếu tố cần tác động,

đây là các ngành có thị trường phát triển mạnh và nhu cầu cao từ các nước phát

triển. Dưới tác động của CMCN 4.0, cần tập trung cải tiến để nâng cao năng

suất và chất lượng lao động.

- Nhóm các ngành công nghệ cao: Các quốc gia công nghiệp có lợi thế

cao, với các quốc gia đang phát triển, bên cạnh công nghệ, yếu tố vốn được cần

tập trung đầu tư phát triển KHCN, đổi mới và ứng dụng công nghệ tiến tiến.

Trong bối cảnh của CMCN 4.0 dự kiến sẽ có nhiều thay đổi, đòi hỏi quá trình

tái cơ cấu ngành công nghiệp cần có những bước đi thận trọng.

3.2.4. CMCN 4.0 trong phát triển khu vực dịch vụ

Khu vực du lịch cấu thành nền kinh tế hiện đại gồm: nông- lâm nghiệp-

thủy sản / công nghiệp - xây dựng / dịch vụ. Đến lượt nó, khu vực dịch vụ gồm

các hoạt động: dịch vụ sản xuất / dịch vụ tiêu dùng / dịch vụ xã hội... Xuyên

suốt giữa các hoạt động dịch vụ này là dòng chảy thông tin hữu hình và vô

hình, dưới ánh sáng của CMCN 4.0, được phân tích tác động hai chiều / tương

tác thông tin thực / ảo của các ngành dịch vụ thông tin viễn thông với các ngành

dịch vụ tài chính ngân hàng / dịch vụ thương mại - đầu tư / dịch vụ giao thông /

du lịch...

Thành công lớn nhất của Việt Nam là chủ động ổn định vĩ mô bằng việc

kiểm soát lạm phát, ổn định tỉ giá nội tệ và ngoại tệ do sử dụng công cụ ngân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

hàng điện tử kết nối e.banking, thị trường chứng khoán. Nhờ đó chủ động

được lưu chuyển tiền, định hướng vào sản xuất và tiêu dùng, kích thích tăng

trưởng kinh tế với tốc độ, trên dưới 7% / năm trong một thời gian khá dài.

Hoạt động ngân hàng được hỗ trợ kết nối mạng thông tin 3G / 4G bước đầu

phát huy tác dụng tích cực. Người tiêu dùng Việt Nam đang quen dần với

ATM, IMS... Nhà đầu tư rót tiền vào các ngân hàng và thị trường chứng

khoán với kì vọng tìm kiếm lợi nhuận tối đa. Kết quả là hệ thống dịch vụ ngân

hàng hoạt động sôi động, kích hoạt các ngành công nghiệp chế biến, xuất

khẩu, Ngân hàng xã hội phát huy vai trò tích cực trong giảm nghèo bền vững

và xây dựng nông thôn mới.

Hoạt động thương mại được đa dạng hóa nhờ kết nối internet, e.banking.

Nhờ đó, một số nông nhiệt đới vốn là thế mạnh của Việt Nam như gạo, thủy

sản, cà phê, cao su, hồ tiêu, điều, rau quả, xác lập các thị trường trọng điểm

Đông Á, Tây Á - Châu Phi, Bắc Mĩ, Nam Mĩ, đặc biệt là thị trường Á - ÂU,

EU... Thông tin hai chiều, vận chuyển lưu kho, phân phối hàng hóa Việt Nam

trên các thị trường đối tác vận hành thông thoáng, đồng tiền lưu chuyển tự do,

không có rào cản.

Cũng tương tự như vậy với các hoạt động đầu tư nhờ hoạt động thông tin

viễn thông an toàn và ổn định. Mạng cáp quang kết nối Việt Nam với các cổng

quốc tế vận hành hiệu quả và ổn định góp phần phát triển các dịch vụ phát sinh

như chuyển tiền ngoại tệ mạnh về nước, chuyển tiền tức thời của các nhà đầu tư

nước ngoài qua VietCombank. Điều hành các luồng khách du lịch kết nối. Kết

nối theo chuẩn quốc tế, bước đầu các nhà đầu tư có cơ hội lựa chọn cạnh tranh

tại Việt Nam. Điển hình là các tập đoàn SAMSUNG, TOYOTA, SUZUKI,

FORD.... đã thành công trên thương trường Việt Nam.

Kết nối giao thông thủy - bộ - hàng không - hải cảng trong nước và quốc

tế đã tiến bộ vượt bậc nhờ hệ thống kết nối Internet và các phần mềm phái sinh.

Xuất sắc nhất là mạng lưới vận tải hàng không nội địa và quốc tế Việt Nam

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

được đánh giá cao nhờ an toàn và cơ sở vật chất từng bước nâng cấp theo tiêu

chuẩn quốc tế. Các hội nghị tầm cỡ quốc tế với nhiều nhà lãnh đạo hàng đầu

thế giới tới Việt Nam được đảm bảo an toàn và trách nhiệm cao (ASEAN - 22 /

Hội đàm Mĩ - Triều Tiên..).

Có một điều lí thú là hoạt động thông tin giao thông nhân dân đã phát

triển rất có hiệu quả nhờ mạng smarphone và internet phát triển rộng khắp. Gần

đây UBER và GRAB bắt đầu cạnh tranh với thị trường vận tải ô tô khách nội

địa. Các kinh doanh bao cấp độc quyền bước đầu được kiểm soát...

Ngày nay hoạt động du lịch nội địa và quốc tế không thể phát triển nếu

không có kết nối, nhất là gần đây Chính phủ Việt Nam chuyển sang cấp visa

điện tử khiến dòng khách quốc tế tăng lên đáng kể, hoạt động du lịch nội địa và

quốc tế trở nên sôi động hơn. Nhiều tiềm năng du lịch như các di sản thiên

nhiên, văn hóa, lịch sử, nhân văn được giới thiệu, bước đầu thu hút khách du

lịch, và nguồn thu của người dân bản địa cũng được cải thiện.

Theo nhận định của Bộ TT&TT Việt Nam, một khi đi vào mạng 5G, IoT

kết nối vạn vật sẽ phát huy tác dụng, thì hầu hết các ngành dịch vụ sẽ có bước

ngoặt về chất, sẽ phát triển bứt phá, và nhờ đó kinh tế sẽ tăng trưởng nhanh

hơn, chất lượng hơn. Và lúc đó sẽ xuất hiện tài nguyên số. Nền kinh tế số cũng

giả định các dịch vụ sản xuất số / tiêu dùng số và kinh doanh số. Đó cũng là lí

do để giải thích cho phương châm bây giờ hay không bao giờ / không truyền

thống, không tuần tự, hay đi ngay vào chuyển đổi số 5G và kinh tế số, dịch vụ

số... trong CMCN 4.0 của Việt Nam [25 (iii)].

3.2.5. CMCN 4.0 với phát triển nguồn nhân lực

Một trong những bài học thành công của các quốc gia đi tiên phong trong

CNCN 4,0 như Mĩ, Đức, Trung Quốc, Hàn Quốc và một số quốc gia khác, đặc

biệt là Bắc Âu là họ có nguồn lao động tác nghiệp (operator) và các nhà quản

trị có trình độ chuyên nghiệp và tay nghề cao, có năng lực thích ứng và tiếp thu

các yếu tố nền tảng AI / IoT / BigData. Chưa hết, họ cũng học nhau một cách

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

khiêm tốn có hiệu quả, và chịu chi phí lớn. VD, Đức cử các đoàn cán bộ và

nhân viên nhiều công ty sang Mĩ, đến tận nơi để tìm hiểu / trao đổi các ý tưởng,

mua sắm thiết bị công nghệ, còn ở trong nước, chính phủ, các công ty công

nghệ, đầu tư cho IoT tiên tiến, chủ yếu là băng thông rộng 5G bằng ngân sách

của chính phủ.

Câu hỏi, Việt Nam, trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực

cho CMCN 4.0 nên hiểu như thế nào và nên bắt đầu từ đâu?

Trước hết cần nhận rõ, thế giới chúng ta đang ở giai đoạn bước ngoặt /

bản lề của sự chuyển động từ CMCN 3.0 sang CMCN 4.0 với vai trò khác về

chất của các nhân tố mới, mà ta gọi là nhân tố nền tảng. Đó là trí tuệ nhân tạo /

internet kết nối vạn vật / robot, công nghệ na no, công nghệ sinh học... Các yếu

tố mới này đem lại cơ hội giải quyết vấn đề nâng cao năng suất lao động, giảm

thiểu tác động ô nhiễm môi trường biến động thất thường của khí hậu, đảm bảo

cho đất nước phát triển nhanh và bền vững.

Trong điều kiện dân số đông và nguồn nhân lực mặc dù dồi dào nhưng

chất lượng thấp nâng cao năng suất lao động là nhiệm vụ rất khó khăn. Đó chưa

nói là nguồn tài nguyên đang cạn kiệt, không đáp ứng nhu cầu nâng cao mức

sống và cải thiện chất lượng sống của người dân. Ở đây, nhìn từ góc độ thị

trường tài nguyên thiên nhiên / lao động, chúng ta cần tới CMCN 4.0 như là

một sự lựa chọn mới nhằm tạo các bước đột phá về tốc độ nhằm biến đổi cơ

bản hệ thống sản xuất và quản trị xã hội cả chiều rộng lẫn chiều sâu.

Trong điều kiện CMCN 4.0 thị trường lao động cần tới sự hợp nhất

nhiều, nếu không nói là tất cả có thể, hầu hết lĩnh vực kĩ thuật số để giải quyết

các vấn đề trong hệ thống THỰC - ẢO và IoT. Điều này sẽ dẫn tới sự thay đổi

mạnh mẽ phương thức sản xuất và cách thức quản trị sản xuất các nhà máy trên

nền tảng mới - gọi chung là các nhà máy thông minh / công sở thông minh /

cuối cùng là thành phố / nông thôn thông minh được kết nối internet qua mạng

4G/5G. Phương pháp quản trị hành chính văn phòng trước đây không còn phù

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

hợp. Khi đó chúng ta hình dung một sự nhảy vọt trên các lĩnh vực từ lao động

văn phòng, đến người bán hàng, ship hàng, những người điều khiển các phương

tiện giao thông. Để dễ hiểu, những tranh chấp giữa vận tải taxi truyền thống -

thật với UBER và GRAB - ảo là có thật trong giao thông đô thị rất sôi động.

Đó là sự sôi động giữa thực và ảo - một đặc trưng thời đại CMCN 4.0. Rồi đây

khi robot được áp dụng phổ cập, hệ điều hành mạng này không phải là người

thật - các operator mà là các robot - người ảo...

Hệ thống giáo dục / dạy nghề, gọi chung là đào tạo nguồn nhân lực thời

đại 4.0 phải định hướng lại theo hướng kết hợp kép kiến thức và kĩ năng.

Cơ cấu và thị trường lao động chịu ảnh hưởng lớn từ CMCN 4.0 do sự

chuyển dịch từ nhân công lao động giản đơn sang lao động sử dụng máy móc,

dẫn tới gia tăng thất nghiệp và số lớn người lao động giản đơn bị trả lương

thấp, đời sống khó khăn, tâm lí xã hội căng thẳng. Những vấn đề nhãn tiền có

nguy cơ lớn là: sự bất đối xứng giữa trong thị trường lao động kĩ năng cao / thị

trường kĩ năng thấp; nhu cầu đào tạo / tạo lập việc làm mới liên tục và tốn kém.

Trước đây việc học một lần là cho cả đời, bây giờ, trái lại, cả đời học để cả đời

tìm việc làm... Trong một nền kinh tế thị trường tự phát, gánh nặng lại thuộc về

nhà nước. Các phân khúc thị trường lao động luôn biến động, cần tới sự kết

hợp công tư (Khu vực công / Nhà nước - PPP).

Sự thật là đất nước đang đứng trước ngưỡng CMCN 4.0 khó mà đoán

biết hết được trình độ và kĩ năng theo tín hiệu thị trường diễn biến chóng mặt.

Tuy nhiên các trường đại học, các việc nghiên cứu vẫn theo phương pháp

truyền thống, không phản ứng mau lẹ với sự thay đổi tư duy /cơ cấu kiến thức /

kĩ năng / năng lực trước sự khủng hoảng có tính phát triển của sự chuyển đổi hệ

tư duy cũ sang hệ tư duy mới. Điểm yếu nhất của Việt Nam hiện nay là chưa

hình thành hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo, và như vậy lại trở thành rào cản

nhạy cảm hơn là thúc đẩy đổi mới và sáng tạo, đặc biệt trong các R/D. Phê

phán thì dễ, nhưng làm mới là khó. Về thực chất, CMCN 4.0 cũng ra đời trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

những khó khăn như vậy. Những kinh nghiệm các nước tiên phong trong

CMNCN 4.0 cho thấy, không gì là không thể nếu bạn quyết chí sẽ thành công,

chỉ có điều CMCN 4.0 cũng phải được vận dụng trong điều kiện lịch sử cụ thể,

giai đoạn phát triển quốc gia cụ thể có thể bằng cách tuần tự hoặc đi tắt đón

đầu. Cách nào đi nữa, phải nhớ rằng bạn phải chấp nhận rủi ro. Sau thất bại sẽ

là thắng lơi. Cơn sóng thần CMCN 4.0 sẽ quét sạch rào cản mở đường cho sự

tiến bộ về phía trước. [14].

3.3. Một số giải pháp đột phá

3.3.1. Chuyển đổi số 5G: không tuần tự / không truyền thống

Gần đây trên các phương tiện thông tin truyền thông nước ta xuất hiện

khái niệm mới về sự cần thiết phải chuyển đổi số. Theo cách nhìn chuyển đổi

mô hình tư duy và hành động, chúng tôi cho rằng đây chính là cơ hội cho các

doanh nghiệp khởi nghiệp, quốc gia khởi nghiệp. Có sáu (5) cách tiếp cận

chuyển đổi số sau đây: (i) Chatbot / (ii) iCloud / (iii) Công nghệ BigChain / (iv)

Xu hướng công nghệ tương tác ảo (VR) / (v) Dữ liệu / (vi) Kết nối mạng 5G.

Mỗi cách tiếp cận nói trên ngoài các đặc thù, thì nét chung là nền tảng mới của

công nghệ thực - ảo, giúp doanh nghiệp khởi nghiệp, các nhà quản lí cơ hội

chia sẻ thông tin nhanh, tức thì, chính xác và an toàn.

Cũng có cách tiếp cận khác là: (i) tư duy bứt phá, không tuyền thống,

không tuần tự. (ii) Học trong khi làm / trong hành động (Learning in doing).

Nhiệm vụ cấp bách hiện nay là triển khai chuyển đổi số bằng việc triển

khai mạng 5G. Dẫu biết rằng trên nhiều chỉ số "sẵn sàng cho CMCN 4.0", Việt

Nam nằm ở top cuối so với nhiều quốc gia trên thế giới và khu vực. Lịch sử

Việt Nam từng dạy chúng ta bài học trước kẻ thù mạnh, trước khó khăn trăm

bề, đối mặt với đối thủ mạnh hơn ta nhiều lần (nhà Nguyễn trước đây, chủ

nghĩa thực dân của Pháp và chủ nghĩa thực dân mới của Mĩ), chúng ta vẫn có

cách, đó là sự sáng tạo của Việt Nam. Và trên tất cả, không được bỏ lỡ cơ hội

chấn hưng đất nước như từng xảy ra trong TK XIX (!). Đó là tư duy bứt phá,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

không truyền thống, không tuần tự - mà điều này lại là thuộc tính của CMCN

4.0, giúp ta vượt qua mặc cảm rằng nước ta chưa sẵn sàng cho CMCN 4.0. Đột

phá từ đâu và ở nơi nào để thay đổi thứ hạng thế giới / để xây dựng các yếu tố

nền tảng CMCN 4.0 ?

Câu trả lời: Từ 5G / Từ hai đầu tàu Hà Nội và TP Hồ Chí Minh.

"Mạng 5G là hạ tầng kết nối vạn vật - hạ tầng quan trọng nhất của cách

mạng công nghiệp 4.0. Việt Nam muốn đi đầu trong cách mạng 4.0 thì mạng

5G phải đi trước và đi đầu. Mạng lưới phải có trước, hạ tầng kết nối phải có

trước. Đầu tư trước kinh doanh sau, đây phải là triết lý kinh doanh của tất cả

các nhà mạng.

Mạng 5G cho kết nối vạn vật của Việt Nam phải vào loại tốt nhất trên

thế giới. Số lượng trạm BTS cho 5G sẽ phải lớn hơn rất nhiều so với các công

nghệ trước đó. Do vậy, dùng chung hạ tầng, chia sẻ hạ tầng viễn thông với các

hạ tầng điện, nước, giao thông là rất quan trọng để giảm chi phí xã hội

Hình 3.1. IoT & BigDa - biểu tượng của CMCN 4.0.

Nguồn: [26 (i)]

Sự khẳng định của Bộ trưởng Bộ TT&TT Việt Nam được diễn giải chi

tiết hơn: "Thị trường viễn thông Việt Nam cũng cần những nhân tố cạnh tranh

mới để thúc đẩy phát triển, để có những đột phá mới về phát triển thuê bao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

băng rộng, để đến năm 2020 đạt mật độ thuê bao di động băng rộng 100%. Cơ

cấu dịch vụ của các nhà mạng cũng sẽ thay đổi để thoại và nhắn tin chỉ còn

chiếm dưới 30% tổng doanh thu và tăng tiêu dùng dữ liệu trên đầu người, để

Việt Nam vào Top 30-50 trên thế giới. Về chuyển đổi số, các nhà mạng phải là

những công ty đầu tiên thực hiện chuyển đổi số triệt để, và cũng sẽ là người

ứng dụng đầu tiên hiệu quả các công nghệ AI, Big Data, IoT. Về đổi mới sáng

tạo, các nhà mạng phải đóng vài trò phát triển các X-Tech như FinTech,

AgriTech, EduTech, nhằm tạo ra sự thay đổi lớn của các ngành. Trong chính

sách viễn thông, chính sách ICT, chính sách cho cách mạng công nghiệp 4.0,

chúng ta phải đi đầu để thu hút con người, công nghệ, sản phẩm của thế giới về

với Việt Nam để Việt Nam trở thành trung tâm của thế giới..." [26 (iii)].

3.3.2. Xây dựng Bản đồ quốc gia số

Trước đây chúng ta đón chào Atlat quốc gia Việt Nam như một dấu

mốc quan trọng trong khoa học Trái đất và Việt Nam. Atlat quốc gia đó nhanh

chóng đi vào lịch sử và kém giá trị sử dụng do các số liệu điều tra và phương

pháp xây dựng bản đồ chủ yếu dựa vào phương pháp luận và phương pháp

biên vẽ của Liên Xô cũ, đến nay không con thích hợp nữa. Nhưng quan trọng

hơn cả, bản đồ đó dựa trên những thành quả của CMCN 2.0, cũng tức là

những kết quả điều tra cơ bản và xử lí số liệu dùng cho để luận chứng cho nền

kinh tế kế hoạch.

Ngày nay, yêu cầu cuộc sống là kết nối nhanh, tức thì và hữu dụng trên

các phương tiện internet mới đem lại cơ hội xây dựng nền tảng IoT, bản đồ quốc

gia số sẽ lưu trữ các ID về tài nguyên, lao động và tài sản quốc dân trong một

BigChain, sẵn sàng cho chia sẻ thông tin quản lí kinh tế và các quá trình xã hội,

nhân văn. Nhiều lĩnh vực trước đây tưởng như không thể số hóa được thì nay

trên nền tảng mới, cùng lúc có thể truy cập khai thác các dữ liệu về quá khứ, hiện

tại và tương lai. Do được biên vẽ trên nền 2D, Bản đồ Atlat quốc gia tỏ ra không

phù hợp. Được xây dựng trên nền tảng mới điện toán đám mây Bản đồ quốc gia

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

số ngày nay sẽ mở ra cơ hội lớn cho quản lí kinh tế và quản trị xã hội.

Đương nhiên lúc đó việc học Địa lí cũng phải trên nền tảng mới của công

nghệ AI / IoT / BigChain... Bản đồ số quốc gia Việt Nam đem lại cơ hội đổi

mới Địa lí học nói chung, giảng dạy và học tập Địa lí trong nhà trường sẽ phải

thay đổi căn bản và toàn diện. Đây cũng là cơ hội mới để hiện đại hóa Địa lí

Việt Nam khi được tiếp cận CMCN 4.0.

3.3.3. Một số giải pháp xây dựng hình ảnh của quốc gia khởi nghiệp Việt Nam

trong tinh thần CMCN 4.0

Trong thời đại CMCN 4.0 mọi hoạt động khởi nghiệp phải được xây

dựng trên nền tảng mới nhất để tiếp cận với thị trường các nước quốc tế và khu

vực. Nhớ rằng các đối tác chiến lược của Việt Nam (EU, Hoa Kì, Trung Quốc,

Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapo, Ấn Độ) đều tiến mạnh vào công nghệ sản xuất

và dịch vụ trên nền tảng mới không khẩn trương và chủ động đón nhận xu

hướng này, chúng ta sẽ bỏ mất cơ hội phục hưng đất nước như chúng ta từng

bỏ lỡ các CMCN 1.0 / 2.0 / 3.0 với giá đắt phải trả cho sự tụt hậu và yếu kém,

trong khi Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc từng ở vạch xuất phát ban đầu đâu

có hơn Việt Nam, vậy mà bây giờ tiến bộ thần kì, và chúng ta đi sau họ, đi học

họ (!). Với nhận thức như vậy Mô hình quôc gia khởi nghiệp Việt Nam phải

được đặt trên nền tảng mới của CMCN 4.0.

"... Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường tự do, trong

đó trọng tâm là tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh nhằm tạo ra một sân

chơi thực sự bình đẳng giữa các DN thuộc mọi thành phần kinh tế.

Thứ hai, xây dựng và thực thi Luật Hỗ trợ DN nhỏ và vừa, trong đó cần

thể hiện quan điểm hỗ trợ có trọng điểm, hỗ trợ có chọn lọc trong đó có ưu tiên

đối với khởi nghiệp nói chung và khởi nghiệp sáng tạo nói riêng nhằm thúc đẩy

các doanh nhân trẻ, doanh nhân có nhiệt huyết kinh doanh tham gia vào hoạt

động kinh doanh.

Thứ ba, kiên định định hướng chuyển từ Chính phủ điều hành sang

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

Chính phủ kiến tạo phát triển. Chính phủ cần xác định lại vai trò của mình

nhằm phù hợp với yêu cầu và thực tiễn phát triển của đất nước, phải chuyển từ

vị thế quản lý sang vai trò mới là “phục vụ” doanh nghiệp và người dân với

mục đích phát triển nhanh và bền vững đất nước.

Thứ tư, xây dựng cơ chế, chính sách cụ thể, minh bạch nhằm khuyến

khích việc hình thành và phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm để hỗ trợ cho các

DN, đặc biệt là DN khởi sự có tiềm năng lớn.

Thứ năm, tiếp tục đẩy mạnh cải cách khu vực DN nhà nước theo hướng

chỉ giữ lại những DN hoạt động trong những ngành, lĩnh vực chiến lược có giá

trị gia tăng cao, mang tính dẫn dắt, định hướng phát triển đất nước về dài hạn,

mà khu vực tư nhân không muốn hoặc không có khả năng tham gia. Các DN

nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh thương mại thuần túy cần tiến hành cổ

phần hóa và thoái vốn nhà nước xuống tỷ lệ thiểu số.

Thứ sáu, thực hiện đúng lộ trình về cải cách hành chính, giảm biên chế.

Hoàn thiện các quy định, chế độ liên quan đến công chức, công vụ, minh bạch

hóa hệ thống công chức công vụ để hạn chế tối đa “thu nhập ngoài lương” như

hiện nay.

Thứ bảy, cải cách hệ thống đào tạo, đặc biệt là đào tạo khởi nghiệp tại

các trường, các trung tâm đào tạo…, mời những nhà DN nổi tiếng, các doanh

nhân trẻ giảng dạy, để chia sẻ kinh nghiệm, kiến thức để đem đến những bài

học quý cho những doanh nhân tương lai khi bắt đầu khởi nghiệp.

Thứ tám, có chính sách nhập tịch cho công dân nước ngoài cũng như

người gốc Việt phù hợp. Bên cạnh đó, cũng cần có chính sách khuyến khích

người Việt ở nước ngoài có đóng góp lớn hơn cho sự phát triển của Việt Nam,

đặc biệt là thông qua các chương trình đóng góp sáng kiến cho phát triển, hỗ

trợ, liên kết kinh doanh.. [30].

3.3.4. Ứng phó với biến đổi khí hậu

Tổng Thư kí LHQ, ông Guterres cho rằng: "... BĐKH là thách thức thứ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

nhất do bão tố và nhiều thiên tai khác ngày càng xảy đến nhiều hơn, với cường

độ ngày một cao hơn, sức tàn phá ngày càng lớn hơn. Sự biến đổi khí hậu cũng

làm cho nạn sa mạc hóa lan rộng tại nhiều châu lục, đặc biệt tại châu Phi, tạo ra

những đợt sóng người di cư rộng lớn, ảnh hưởng đến tiến độ phát triển chung

của thế giới. Thách thức thứ hai là sự bất bình đẳng giữa các thành phần trong

xã hội, khi chỉ tám người giàu nhất làm chủ khối tài sản bằng với tài sản của

một nửa nhân loại nghèo nhất. Điều này làm sút giảm niềm tin của nhiều người

vào mối quan hệ với chính phủ, với các tổ chức quốc tế và các định chế chính

trị chi phối mọi hoạt động trên toàn cầu..." [26 (i)].

Để giải quyết thách thức thứ nhất, đã có Thỏa thuận Paris về Biến đổi khí

hậu và Chương trình Hoạt động đến năm 2030 được tất cả các nước trên thế

giới thông qua trong khuôn khổ chiến lược PTBV.

Để giải quyết thách thức thứ hai, cần tới việc triển khai CMCN 4.0. Tiếp

theo ba cuộc cách mạng công nghiệp vào những năm 1784, 1870 và 1969. Đó

là cuộc cách mạng về công nghệ thông tin kết hợp với trí thông minh nhân tạo,

công nghệ sinh học, công nghệ nano và các hình thức canh tân khác. Đây sẽ là

lời giải cho hai vấn đề nêu trên là sự biến đổi khí hậu và những bất bình đẳng

trong xã hội. Trước tiên nó giúp cải tiến mạnh mẽ lĩnh vực giáo dục đào tạo,

làm giảm thiểu số người thất nghiệp, thu hẹp chênh lệch biên độ thu nhập giữa

các thành phần dân cư. Soạn thảo các kế hoạch hợp tác dài hạn, tranh thủ sự hỗ

trợ của LHQ và các cơ quan trực thuộc tổ chức này.

Là một trong 5 nước chịu hưởng lớn do BĐKH, Việt Nam không chờ tới

cuối TK XXI, đã đối mặt ngay với một bộ phận lớn diện tích ĐBSCL Việt Nam

bị ngập chìm dưới mực nước biển, đe dọa đến sinh kế của 18 triệu dân, đến vựa

lúa, hoa quả, thủy sản xuất khẩu. Vấn đề là các nhà quản lí cần tìm cách tiếp

cận thông minh sáng tạo để kiến giải những thách thức do BĐKH diễn biến

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

ngày càng phức tạp với nhiều hệ lụy xã hội khó lường...

1. Trong quá trình hội nhập và phát triển cơ hội lớn nhất CMCN 4.0 để

Tiểu kết Chương 3

Việt Nam rút ngắn khoảng cách phát tiển trên nền tảng AI/IoT/BigData và điện

toán đám mây. Thách thức lớn nhất là trình độ nền kinh tế còn khó khăn và cơ

sở hạ tầng, năng suất lao động, điều kiện phức tạp và khó lường về mặt địa -

chính trị.

2. CMCN 4.0 tác động tới nhiều để nền kinh tế tái cơ cấu bằng việc soạn

thảo chiến lược và hiện thực hóa trên nền tảng mới của chuyển đổi số và kinh tế

số, sao cho có thể kết nối hiệu quả với nền kinh tế của các nước trong khuôn

khổ đối tác chiến lược trước hết là EU, Hoa Kì, Mĩ, Nhật, Hàn Quốc... Bình

đẳng trong hợp tác, cùng phát triển, cùng thắng trên nền tảng công nghệ số, trí

tuệ nhân tạo, internet kết nối vạn vật.

3. Để tiếp cận CMCN 4.0 cần tập trung hiện thực hóa 5 nhiệm vụ có tầm

quan trọng hàng đầu: ưu tiên đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực /cải cách luật

pháp/chiến lược và chính sách KHCN/chất lượng nguồn nhân lực/bảo vệ môi

trường sinh thái và ứng phó với BĐKH.

4. CMCN 4.0 được đột phá bởi (i) Chuyển đổi số mạnh mẽ trong kinh tế

số và quản trị xã hội / (ii) Xây dựng bản đồ quốc gia số / (iii) Hướng các doanh

nhân, các nhà đầu tư mạo hiểm vào chương trình khởi nghiệp quốc gia / (iv) Số

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

hóa các dữ liệu quản lí để ứng phó với BĐKH.

KẾT LUẬN

1. Trên nền tảng chiến lược "Industrie 4.0" cội nguồn từ thực tiễn công

nghiệp ở Đức, CMCN 4.0 được hiểu là... "Kết nối các hệ thống nhúng và cơ sở

sản xuất thông minh để tạo ra sự hội tụ kĩ thuật số giữa Công nghiệp, Kinh

doanh, chức năng và quy trình bên trong..". "... sự thay đổi hoàn toàn cuộc

sống của chúng ta, không chỉ thay đổi cách giao tiếp, cách thức sản xuất,

phong cách tiêu dùng.

Cuộc cách mạng này sẽ diễn ra rất nhanh chóng - giống như sóng thần".

Với vai trò dẫn đầu CMCN 4.0, năng lực cạnh tranh toàn khối Liên minh

Châu Âu được nâng lên bằng việc đề ra nhiều chương trình, DA đổi mới công

nghệ hiện đại trên nguyên tắc của nền công nghiệp AI / IoT / BigData. Điều

đặc biệt lí thú là một số thành viên EU (Ba Lan) đã sớm nhận ra sự cần thiết

sớm tiếp cận CMCN 4.0.

2. Trong số các nước dẫn đầu/tiên phong trong CMCN 4.0 phải kể tới

Mĩ, Đức, Trung Quốc và Hàn Quốc. Mĩ luôn ở vị trí dẫn đầu trong nền kinh tế

sáng tạo. CMCN 4.0 sẽ chắp cánh cho họ luôn dẫn đầu thế giới. Liên bang Đức

là quê hương của khái niệm Công nghiệp 4.0 với việc thiết kế lại các quy trình

công nghệ trên nên tảng AI/IoT. Nổi bật sau hai nước nói trên là Trung Quốc

đang quá độ từ công xưởng thế giới sang sản xuất / chế tạo / thiết kế tại Trung

Quốc; Hàn Quốc, Đài Loan với nhiều DA công nghệ trên nền tảng mới với

tham vọng cạnh tranh với ngay cả các nước lớn như Mĩ, Nhật, Úc... Ở ĐNA là

Singapo với Chương trình xây dựng Singapor có nền kinh tế thông minh, quản

lí xã hội hiện đại. Theo hướng này, Malaixia, Thái Lan, Inđônexia đang triển

khai chuyển đổi số và kinh tế số.

3. CMCN 4.0 được coi là cơ hội "rút ngắn khoảng cách phát triển" trên

nền tảng AI / IoT /GigData /... Trong tiếp cận cuộc cách mạng này gặp nhiều

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

rào cản, đó là: (i) lao động xã hội với năng suất hạn chế / (ii) dân số đông, già

hóa nhanh / (iii) cơ sở hạ tầng mới ở giai đoạn bắt đầu / (iv) biến đổi khí hậu /

(v) môi trường địa -chính trị / địa - kinh tế thế giới phức tạp, khó lường.

CMCN 4.0 tác động tới nhiều lĩnh vực ngày càng mạnh mẽ đến nhiều

lĩnh vực như tái cơ cầu nền kinh tế, tái cơ cấu nông nghiệp, dịch vụ và GD-ĐT/

PTBV, tập trung hiện thực hóa 5 nhiệm vụ: Đầu tư hiệu quả cho giáo dục - đào

tạo / Cải cách luật pháp / Soạn thảo chiến lược và chính sách KHCN / Phát

triển nguồn nhân lực / Hội nhập quốc tế một cách chủ động...

Một số giải pháp phát triển đột phá: (i) Chuyển đổi số trên 5G / (ii) Bản

đồ quốc gia số / (iii) Hướng các doanh nhân, các nhà đầu tư vào Chương trình

khởi nghiệp quốc gia / (iv) Số hóa các dữ liệu quản lí môi trường / Chủ động

ứng phó với BĐKH.

4. Kiến nghị: (i) Tăng cường truyền thông những kiến thức cơ bản về

CMCN 4.0; (ii) Đào tạo nguồn nhân lao động khởi nghiệp CMCN 4.0 Trọng

tâm là nguồn nhân lực được đào tạo trên trình độ cao. Ba giải pháp đột phá: (i)

Chuyển đổi số và quản trị xã hội số / (ii) Hướng mọi hoạt động khởi nghiệp vào

Quốc gia khởi nghiệp trên nền tảng CMCN 4.0 / (iii) Ứng phó tích cực với biến

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

đổi khí hậu toàn cầu...

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bamard Marr 2015). Dữ Liệu Lớn. NBXB Công Thương, 2017.

2. Nguyễn Thị Quế Anh (2018). CMCN 4.0 và cải cách pháp luật ở Việt Nam.

NXB CTQG Sự Thật.

3. CMCN 4.0: Xu hướng vẩn phẩm. T/c chí Tự động hóa5/2016.

4. Cục Thông tin KHCN quốc gia (2018). Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

TTX Việt Nam /Trung tâm Phân tích thông tin

5. Dan Senor & Saul Singer (2016). Quốc gia khởi nghiệp, Câu chuyện về nền

kinh tế thần kì của Israel (STARTUP NATION, The story of Israel's

economic miracle). Trí Vương Dịch, NXB Thế giới, 2015.

6. Dorie Clark (2016). Khởi nghiệp 4.0 - Kinh doanh thông minh trong CMCN

4.0. NXB Lao Động, Hn, 2019.

7. Phan Xuân Dũng (biên soạn) (2018) "CMCN 4.0, cuộc cách mạng của sự hội

tụ và tiết kiệm". Google.com / phanxuandung.../

8. Elsa B. Kania (2019). Đánh giá Kế hoạch ‘Made in China 2025’. Biên dịch

Trần Quang, T/c Quan hệ quốc tế, 2/2019

9. Nguyễn An Hà... (2018) CMCN 4.0 ở châu Âu., tác động lan tỏa đến Ba Lan...

Viện Nghiên cứu châu Âu.

10. Lương Đình Hải (2018), CMCN 4.0 và KTXH, Con người VN.. Viện

NCCN.

11. Trần Vân Hoa (chủ biên) (2018). CMCN 4.) Vấn đề đặt ra cho phát triển

KTXH và hội nhập quốc tế của Việt Nam. NXB CTQG, HN,

12. Klaus Schwab (2016). CMCN 4.0 (The Fourth Industrial Revolution). Bộ

Ngoại giao dịch và hiệu đính, NXB Thế giới, Hà Nội, 2016. NXB Lao động.

13. Klaus Schwab (2016). Định hình CMCN 4.0 (Shaping 4th IR). Chân dung

người khai sinh ra khái niệm CMCN4.0 NXB Trí thức TRẺ).

14. Đặng Mộng Lân (2018). Cách mạng khoa học - sự thay đổi khuôn mẫu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

(Paradigm). Google.com / dangmonglan...10:03:2019.

15. Lisa Arthur (2016), Maketing Theo Dữ Liệu Lớn, NXB Trẻ. 2018

16. Nguyễn Đình Tuấn, Nguyễn Tử Xiêm (2018). NN Việt Nam và CMCN 4.0

T/c NNJ&PTNN. 8/2018.

17. Rodall Tross (2019). Hướng nghiệp trong thời đại CMCN 4. NXB Lao

Động, 2018

18. Thomas S. Kuhn (1962). Cấu trúc cuộc cách mạng khoa học ("The

Structure of Scientific Revolutions). Google.com /Thomas S. Kuhn /...

/02:2019.

19. Moceij Kranz (21018), Thiết lập IoT (Inernet kết nối vạn vật) trong doanh

nghiệp. NXB Thế Giới.

20. Thomas L. Friedman (2005). Thế giới phẳng (The World Flat - A brief

history of the twenty-First centure). Nxb TRẺ, Tp HCM. 2007.

21. Philip Kotler (2018). Makerting trong thời địa 4.0. NXB Thế Giới, 2019.

22. Ngô Doãn Vịnh (2010). Phát triển - Điều kì diệu và bí ẩn, NXB CTQG,

HN, 220 tr.

23. Yoshitaka (2016) FINTRCH 4.0 - Những điển hình thành công trong

CMCN 4.0. NXB Lao Động.

24. Vũ Như Vân (2019). Địa lí Việt Nam Paradigm 4.0. Kỉ yếu HNKHĐLTQ

XI, Huế, 2019.

25. VICCI (2014). Báo cáo Chỉ số khởi nghiệp Việt Nam năm 2014. NXB

THÔNG TẤN, Hà Nội, 2015.

26. WEBSITS: https:// www.chinhphu.org,vn / (i) Những biện pháp thúc đẩy

CMCN 4.0 /(ii) chuyển đổi số và kinh tế số.../ (iii) Bộ trưởng TT&TT Việt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

`

Nam Nnguyễn Mạnh Hùng... /

PHỤ LỤC

1. Đánh giá Kế hoạch ‘Made in China 2025’

Elsa B. Kania (2019). Đánh giá Kế hoạch ‘Made in China 2025’. Biên

dịch Trần Quang, T/c Quan hệ quốc tế.

Khi các cuộc đàm phán thương mại tiếp tục mà chưa biết đến bao giờ

mới kết thúc, “kỷ nguyên mới” của quan hệ Mỹ-Trung này có đặc trưng là

những bất đồng về công nghệ và sản xuất nổi bật hơn bao giờ hết. Đặc biệt, kế

hoạch “Made in China 2025” tiếp tục chi phối các tiêu đề báo chí. Kể từ khi ra

mắt vào năm 2015, sáng kiến này đã trở thành chủ đề gây lo ngại căng thẳng và

tranh cãi tái diễn, dẫn đến một mức độ nổi bật khá kỳ lạ đối với một vấn đề khá

khó hiểu về chính sách công nghiệp. “Made in China 2025” là một phần then

chốt trong cấu trúc phức tạp gồm các kế hoạch và chính sách nhằm mục đích

tạo ra “sự phát triển theo định hướng đổi mới”, một chương trình nghị sự nổi

lên như một ưu tiên rõ ràng dưới sự lãnh đạo của Tập Cận Bình.

Trong nhiều khía cạnh, việc sáng kiến này ra mắt phản ánh một sự phản

ứng lại năng lực sản xuất yếu kém của Trung Quốc so với các nước dẫn đầu

toàn cầu, đồng thời tìm cách tận dụng cơ hội được công nhận để đạt được

nguồn tăng trưởng mới. Càng ngày, “Made in China 2025” càng trở thành

biểu tượng cho những tham vọng này, gây ra sự quan ngại sâu sắc của Mỹ về

việc Trung Quốc nổi lên như một đầu tàu công nghệ kình địch với sự lãnh đạo

của Mỹ. Mục tiêu cốt lõi của việc thúc đẩy “đổi mới bản địa” nhằm cho phép

Trung Quốc “chấn hưng dân tộc” đã rất nhất quán trong các thế hệ lãnh đạo

gần đây của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ). Về vấn đề này, khía cạnh

công nghệ của sự trỗi dậy của Trung Quốc là không thể thiếu trong quỹ đạo

tương lai của nước này như là một cường quốc đang trỗi dậy với những tham

vọng toàn cầu.

Về cốt lõi, “Made in China 2025” nhằm mục đích biến Trung Quốc

thành một “siêu cường sản xuất”. Cụ thể, kế hoạch này nhấn mạnh 10 lĩnh vực

ưu tiên, bao gồm công nghệ thông tin thế hệ mới; các công cụ máy móc và

rôbốt điều khiển số tiên tiến; công nghệ hàng không vũ trụ, bao gồm cả động cơ

máy bay lẫn thiết bị hàng không; dược phẩm sinh học và thiết bị y tế hiệu suất

cao. Tại thời điểm nền kinh tế Trung Quốc đang giảm tốc, việc nắm bắt những

ngành công nghiệp và công nghệ mới nổi như vậy được coi là phương tiện then

chốt để duy trì và cải thiện tăng trưởng. Chẳng hạn, việc theo đuổi những tiến

bộ trong sản xuất thông minh được cho là mang tính sống còn để đảm bảo khả

năng cạnh tranh trong tương lai trong bối cảnh diễn ra một cuộc cách mạng

công nghiệp mới.

Những mục tiêu này không phải chỉ có ở Trung Quốc. “Made in China

2025” được lấy cảm hứng từ một nghiên cứu chặt chẽ về sáng kiến “Công

nghiệp 4.0” của Đức. Về vấn đề này, không phải là trọng tâm của sáng kiến

này, mà là những ý định được phản ánh trong các mục tiêu của nó và việc thực

hiện là đáng quan ngại. Trong một thế giới trong đó công nghệ và đổi mới đã

trở nên toàn cầu hóa cao, Trung Quốc đã tìm kiếm “sự tự cung tự cấp” trong

các công nghệ cốt lõi khắp một loạt các ngành công nghiệp ưu tiên. Một cách

ngấm ngầm và thường tương đối rõ ràng, mục tiêu trở thành một siêu cường

sản xuất của Trung Quốc cho thấy tham vọng không chỉ đơn thuần là bắt kịp

các nền kinh tế tiên tiến khác mà còn vượt qua và thay thế họ để đạt được vị trí

thống trị trong các ngành này trên toàn thế giới.

Khi nền kinh tế Trung Quốc giảm tốc và Bắc Kinh tìm cách đảm bảo sự

phát triển bền vững hơn trong dài hạn, việc nắm bắt các công nghệ và sự đổi

mới mới nổi này được coi là một nhu cầu quốc gia ở cấp cao nhất. “Made in

China 2025” phải được đặt trong bối cảnh truyền thống có một loạt rộng lớn

các chính sách công nghiệp, mà phần lớn trong đó vẫn ít tai tiếng hơn nhưng

tuy thế cũng đáng kể, bao gồm Chương trình phát triển khoa học và công nghệ

quốc gia trong trung và dài hạn (2006-2020), trong đó nhấn mạnh tầm quan

trọng của việc cải thiện các năng lực đổi mới bản địa của Trung Quốc để nâng

cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Sự nỗ lực cho đổi mới bản địa này bị ảnh

hưởng bởi những quan ngại mạnh mẽ về những sự nguy hiểm của việc tụt lại

phía sau hoặc vẫn phụ thuộc vào các công nghệ nước ngoài, được thấm nhuần

bởi ký ức lịch sử về sự yếu kém và lạc hậu về công nghệ của Trung Quốc trong

quá khứ.

Từ góc độ lịch sử, cách tiếp cận theo định hướng nhà nước với việc thúc

đẩy sự đổi mới này hầu như không gây ngạc nhiên, tiếp tục di sản của chương

trình “Hai quả bom, một vệ tinh” trong thời đại những năm 1960. Tuy nhiên,

Tập Cận Bình rõ ràng đã nâng chương trình nghị sự này lên một tầm cao mới.

Thời điểm hiện tại được coi là một cơ hội lịch sử duy nhất dành cho Trung

Quốc, tại đó có sự hội tụ giữa một cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mới

và cuộc chuyển đổi công nghiệp với mô hình phát triển kinh tế đang tiến triển

của chính Trung Quốc. Tất nhiên, điểm cuối dự định và đích đến cuối cùng cho

các kế hoạch này là vào năm 2049, năm mà Trung Quốc dự định thực sự trở

nên “có đẳng cấp thế giới” với tư cách là một siêu cường về khoa học và công

nghệ. Đồng thời, các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc cũng thường

thẳng thắn thừa nhận một số thiếu sót tiếp tục, như trong các chu kỳ hội nhập,

vẫn tồn tại đến hiện nay, dẫn đến sự phụ thuộc vào việc tiếp cận với “các nguồn

lực đổi mới quốc tế” mà vẫn còn thiếu ở trong nước.

Chiến lược kết nối tất cả các sáng kiến này xuất phát từ một đường lối

chỉ đạo cho sự phát triển “định hướng đổi mới”, liên kết một số sáng kiến có

liên quan với nhau làm nổi bật một loạt các công nghệ đột phá. Chiến lược

đáng chú ý này, do Ủy ban Trung ương ĐCSTQ và Quốc vụ viện cùng đưa ra,

tuyên bố “sự đổi mới thúc đẩy và định hình số phận của quốc gia”. Chương

trình nghị sự này đã định hình theo Kế hoạch 5 năm lần thứ 13 (2016-2020),

một khung thời gian trong đó Trung Quốc rõ ràng đang ngày càng nhấn mạnh

vào việc nắm bắt “các đỉnh cao vượt trội” của sự đổi mới, tìm cách đạt được lợi

thế gia nhập đầu tiên trong một số công nghệ chiến lược nhất định. Thông qua

Kế hoạch đổi mới khoa học và công nghệ quốc gia, Trung Quốc đã đưa ra 15

dự án lớn, ưu tiên một số công nghệ chiến lược nhất định để đạt được những

tiến bộ lớn vào năm 2030, bao gồm từ rôbốt và khoa học về trí não đến một

trạm không gian và điện toán lượng tử và truyền thông. Ưu tiên cao dành cho

các công nghệ này đã dẫn đến việc đưa hàng tỷ đầu tư vào nghiên cứu và phát

triển dài hạn, bao gồm thông qua việc thành lập các phòng thí nghiệm quốc gia

mới, như cho khoa học thông tin lượng tử.

Đồng thời, có một sự nhấn mạnh tiếp tục lại vào một số “ngành công

nghiệp chiến lược mới nổi”, bao gồm năng lượng mới, công nghệ sinh học và

công nghệ thông tin thế hệ kế tiếp. Ngoài các sáng kiến quốc gia, một số thành

phố đã thực hiện các biện pháp của riêng họ ở cấp địa phương, cạnh tranh để

thiết lập đặc trưng và lợi thế địa phương của riêng họ, trong đó có kế hoạch của

Tế Nam tạo ra “Thung lũng Lượng tử”. Thông thường, sự tài trợ này kết hợp

chuyên môn và các nguồn lực của các nhà đầu tư theo định hướng của chính

phủ, trong đó có một quỹ hướng dẫn đầu tư mạo hiểm mới được thành lập vào

năm 2016 đang nhắm mục tiêu vào các ngành công nghiệp chiến lược mới nổi,

đã huy động tiền lên đến mức 17,85 tỷ nhân dân tệ (hơn 2,6 tỷ USD).

Báo cáo công tác của Tập Cận Bình tại Đại hội Đảng 19 vào tháng

10/2017 có lẽ đã đưa ra đánh giá có thẩm quyền nhất về tính định hướng của

các kế hoạch và ý định của Trung Quốc. Trong bài phát biểu của mình, Tập

Cận Bình nhấn mạnh:

Chúng ta sẽ làm việc nhanh hơn để xây dựng Trung Quốc trở thành nhà

sản xuất chất lượng và phát triển sản xuất tiên tiến, thúc đẩy hội nhập Internet,

dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo (AI) vào nền kinh tế thực hơn nữa, và thúc đẩy

các lĩnh vực tăng trưởng mới và thúc đẩy tăng trưởng tiêu dùng trung bình-cao

cấp, phát triển theo định hướng đổi mới, nền kinh tế xanh và khí thải thấp, nền

kinh tế chia sẻ, các chuỗi cung ứng hiện đại và dịch vụ vốn nhân lực. Chúng ta

sẽ hỗ trợ các ngành công nghiệp truyền thống tự nâng cấp bản thân và đẩy

nhanh sự phát triển của các ngành dịch vụ hiện đại để nâng chúng lên các tiêu

chuẩn quốc tế. Chúng ta sẽ đưa các ngành công nghiệp Trung Quốc lên đến

tầm trung-cao cấp của chuỗi giá trị toàn cầu và thúc đẩy một số nhóm sản xuất

tiên tiến đẳng cấp thế giới.

Tất nhiên, những ý tưởng và chủ đề này không phải là duy nhất đối với

cá nhân Tập Cận Bình; thay vào đó đã có một sự nhất quán hợp lý trong cách

các nhà lãnh đạo Trung Quốc giải quyết và theo đuổi các mục tiêu này. Chẳng

hạn, Hồ Cẩm Đào trong báo cáo công tác của ông tại Đại hội Đảng lần thứ 18

vào tháng 11/2012 đã nhấn mạnh các mục tiêu tương tự, kêu gọi Trung Quốc

“thúc đẩy sự tăng trưởng mạnh mẽ của các ngành công nghiệp chiến lược mới

nổi và các ngành sản xuất tiên tiến, [và] tăng tốc quá trình chuyển đổi và nâng

cấp các ngành công nghiệp truyền thống”. Tuy nhiên, Tập Cận Bình phê chuẩn

sự đổi mới theo một cách và ở một mức độ cho thấy rằng khái niệm này không

chỉ đơn thuần là một từ thông dụng mà cần được coi là một yếu tố cốt lõi trong

hệ tư tưởng của ông.

Những kế hoạch và mục tiêu này cần được coi trọng như một dấu hiệu có

căn cứ cho thấy những khát vọng và mong muốn của Trung Quốc. Tuy nhiên,

tầm quan trọng của chúng có thể bị nói quá, so với vai trò then chốt của lĩnh

vực công nghệ của Trung Quốc trong việc hiện thực hóa chương trình nghị sự

này. Sự thành công của Trung Quốc về các công nghệ đột phá ngày nay có thể

góp phần vào động lực của các công ty công nghệ của Trung Quốc, những công

ty tự mình nổi lên như những công ty hàng đầu toàn cầu thực sự. Những nhà

quán quân mới này bao gồm các công ty hàng đầu như Baidu, Alibaba, Tencent

và iFlytek, là các công ty lớn tham gia trong lĩnh vực AI và là những công ty có

những đóng góp quan trọng cho những cơ sở và phòng thí nghiệm quốc gia để

phát triển AI. Không như các doanh nghiệp nhà nước đã và vẫn là các yếu tố

chính trong sự phát triển của Trung Quốc, lĩnh vực công nghệ mới này khởi

đầu chủ yếu là tư nhân và tương đối độc lập với định hướng của nhà nước,

trong khi thường được hưởng lợi từ sự hỗ trợ và đầu tư mạnh mẽ của nhà nước.

Tuy nhiên, sự cân bằng đó đang bắt đầu thay đổi theo những cách có thể

làm suy yếu sự thành công trong tương lai của các công ty công nghệ này. Hiện

tại, ĐCSTQ dường như đang trong quá trình khẳng định sự kiểm soát chặt chẽ

hơn bao giờ hết đối với các công ty công nghệ Trung Quốc. Những mâu thuẫn

quan trọng này mở rộng đến khoảng cách giữa những lời hoa mỹ cao cả về sự

đổi mới và các công nghệ mà thông qua đó Chính phủ Trung Quốc tìm cách đạt

được điều đó, cụ thể là gián điệp công nghiệp quy mô rộng lớn và đang diễn ra.

Trong lịch sử gần đây, các phương tiện mà nhờ đó Trung Quốc theo đuổi sự

tiến bộ công nghệ đã gây ra sự quan ngại mạnh mẽ trong các nhà lãnh đạo Mỹ

và ngày càng trên toàn thế giới về các thực tiễn “trục lợi”. Những chiến thuật

này đã bao gồm trộm cắp tài sản trí tuệ (IP), chuyển giao công nghệ ép buộc và

các khoản trợ cấp có mục tiêu có thể bị bóp méo và đã được chứng minh là gây

hại nghiêm trọng, như được ghi lại trong báo cáo Mục 301 do Văn phòng Đại

diện thương mại Mỹ công bố dựa trên một cuộc điều tra về những thực tiễn của

Trung Quốc liên quan đến IP và chuyển giao công nghệ. Rõ ràng, như các vụ

việc gần đây đã chứng minh, các hoạt động này vẫn tiếp tục, và các kỹ thuật

được sử dụng đã phát triển, trong đó có cả việc dường như sử dụng sự hợp tác

khoa học và những cộng tác học thuật để tiếp cận kiến thức tiềm ẩn và những

tiến bộ mới nhất. Vào mùa Thu năm 2018, Bộ Tư pháp Mỹ đã công bố một loạt

các bản cáo trạng chống lại các sĩ quan và đặc vụ của Bộ An ninh Nhà nước

(MSS), những người thường nhắm đến nhiều trong cùng các ngành công

nghiệp chiến lược mới nổi mà các kế hoạch khoa học và công nghệ của Trung

Quốc ưu tiên. Trong khi đó, một số luật pháp và chính sách của Trung Quốc đã

che đậy một cách mỏng manh xu hướng hướng tới chủ nghĩa bảo hộ trong việc

biện minh cho việc loại trừ các công ty công nghệ nước ngoài với một ưu tiên

dành cho các công nghệ “bảo mật và có thể kiểm soát được”. Bất chấp các cam

kết, bao gồm cả “Made in China 2025”, nhằm cải thiện khả năng bảo vệ IP,

thành công rõ ràng của Trung Quốc trong việc biến thành một nước dẫn đầu

toàn cầu trong các ngành công nghiệp chiến lược mới nổi nào đó sẽ luôn đi

kèm với dấu hiệu cho thấy di sản của những thông lệ này.

Tuy nhiên, mối đe dọa ngắn hạn do các công nghệ gian lận và gây thiệt

hại này thể hiện đang bắt đầu bị lu mờ bởi một nhận thức về thách thức trong

dài hạn của việc Trung Quốc trỗi dậy như một đầu tàu về các công nghệ mới

nổi. Mô hình đổi mới này của Trung Quốc đang mở rộng sang tập trung vào

chuỗi công nghệ mới mà vượt ra ngoài lĩnh vực sản xuất để nhận ra tiềm năng

của nền kinh tế số là một động lực phát triển mới. Chẳng hạn, vào năm 2018,

các ngành công nghiệp chiến lược mới nổi được ước tính đã đóng góp khoảng

20% tăng trưởng GDP hàng năm của Trung Quốc trong thập kỷ qua. Đặc biệt,

AI, ban đầu không được đưa vào kế hoạch “Made in China 2025”, chỉ mới nổi

lên gần đây như là một ưu tiên rõ ràng đối với Chính phủ Trung Quốc. Ở đây,

Trung Quốc cũng học hỏi được từ các nước khác trong việc tạo ra những chính

sách công nghiệp của riêng mình. Đặc biệt, Văn phòng chính sách khoa học và

công nghệ của Mỹ (OSTP) đã công bố một số kế hoạch và lộ trình vào giữa và

cuối năm 2016 mà dường như làm nguồn cảm hứng cho các nhà hoạch định

chính sách Trung Quốc vài một thời điểm khi Bắc Kinh ngày càng quan ngại về

AI, một phần để đối phó với “thời khắc Sputnik” trí tuệ nhân tạo AlphaGo đã

đánh bại Lee Sedol trong trò chơi cờ vây vào mùa Xuân năm 2016.

Nhìn lại, mỉa mai là Trung Quốc có thể được hưởng lợi từ những nỗ lực

ban đầu này nhiều hơn so với Mỹ cho đến nay trong việc xây dựng được dựa

trên nền tảng chính sách đó để thúc đẩy sự đổi mới, với một tốc độ và quy mô

thực hiện có xu hướng làm cho Mỹ ghen tị. Trung Quốc đang nhiệt tình theo

đuổi AI. Đặc biệt, Kế hoạch phát triển AI thế hệ mới, được công bố tháng

7/2017, phù hợp với một sự huy động lớn các nguồn tài chính và tài nguyên

quốc gia để hỗ trợ siêu dự án AI này theo các cách có thể rất không hiệu quả,

nhưng có lẽ hiệu quả cao trong dài hạn.

Trong những phát biểu của ông tại một phiên họp nghiên cứu của Bộ

Chính trị về việc thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của AI, ông Tập nhấn mạnh:

“thúc đẩy sự phát triển của một thế hệ AI mới là một tay nắm chiến lược quan

trọng để Trung Quốc đạt được thế chủ động trong cuộc cạnh tranh về khoa học

và công nghệ toàn cầu”. Ông thúc giục rằng Trung Quốc “phải chiếm lĩnh các

đỉnh cao” của “công nghệ then chốt và cốt lõi”. Trong khi những tham vọng

này chỉ mới bắt đầu chi phối các tiêu đề báo chí trên khắp thế giới, thì việc Tập

Cận Bình nhấn mạnh vào “các công nghệ cốt lõi” là một chủ đề nhất quán

xuyên suốt nhiệm kỳ của ông, bao gồm trong một bài phát biểu quan trọng tại

một hội nghị về an ninh mạng và thông tin hóa vào tháng 4/2016, tại đó ông

đăm chiêu suy ngẫm:

Các công nghệ cốt lõi là gì? Như tôi thấy, có 3 lĩnh vực mà chúng ta có

thể nắm bắt. Đầu tiên là công nghệ cơ bản, công nghệ thường được sử dụng.

Thứ hai là công nghệ bất đối xứng, hay công nghệ ‘con át chủ bài’. Thứ ba là

công nghệ tiên tiến, hay công nghệ đột phá. Ở những lĩnh vực này, chúng ta

đang ở cùng một vạch xuất phát với thế giới bên ngoài, nếu chúng ta có thể đi

đầu trong việc triển khai và tập trung vào cuộc tấn công của mình, chúng ta rất

có thể thực hiện một sự chuyển biến từ chạy theo họ sang sánh ngang hoặc

thậm chí đi trước họ.

Theo truyền thống, các nhà lãnh đạo Trung Quốc có xu hướng sử dụng

ngôn ngữ quân sự rõ rệt trong các cuộc thảo luận về cạnh tranh công nghệ.

Chẳng hạn, Tập Cận Bình đã tuyên bố trong cùng một bài phát biểu, “Chúng ta

phải tấn công các con đường độc đạo chiến lược theo một cách phối hợp.

Chúng ta phải tấn công mạnh các pháo đài nghiên cứu và phát triển công nghệ

cốt lõi… Chúng ta phải tập trung các lực lượng mạnh mẽ nhất để cùng hành

động, tạo ra các đội quân thần tốc và các lực lượng đặc biệt nhằm đột chi

những con đường độc đạo đó”.

Nếu Trung Quốc tự nhận thấy “đang trong cuộc chiến” nắm bắt “trình độ

đổi mới cao”, thì các chính sách của Mỹ có thể chỉ làm tăng thêm ý chí và

quyết tâm chiến đấu của họ. Đặc biệt, những quan ngại về các công nghệ “then

chốt và cốt lõi” thậm chí còn sâu sắc hơn sau lệnh cấm xuất khẩu chất bán dẫn

của Mỹ cho ZTE, khiến công ty này phải khuất phục trước khi bị thay đổi hoàn

toàn. Ngay cả khi tác động của cuộc chiến thương mại đối với nền kinh tế

Trung Quốc, trong đó có một số ngành công nghiệp được ưu tiên trong chính

kế hoạch “Made in China 2025”, đã trở nên sâu sắc hơn, các nhà lãnh đạo

Trung Quốc cho đến nay chỉ có những động thái mang tính tượng trưng để

phản ứng lại sự chống trả của Mỹ trước các yếu tố trục lợi và có vấn đề của các

chính sách và hành vi của Trung Quốc. Sự phản ứng mạnh mẽ đối với “Made

in China 2025” đã dẫn đến ít nhất là những thay đổi ở bề ngoài đối với các cách

tiếp cận của Trung Quốc với các chính sách công nghiệp, chẳng hạn như bỏ

nhấn mạnh vào cụm từ và cái mác “Made in China 2025” trong một số tài liệu

mới nhất. Tuy nhiên, vẫn có những dấu hiệu mạnh mẽ cho thấy các sáng kiến

cơ bản đang tiếp tục mà không có sự thay đổi đáng kể nào. Ngay cả khi cụm từ

“Made in China 2025” trở nên ít nổi bật hơn, thì việc nó biến mất giỏi lắm cũng

chỉ là một dấu hiệu bề ngoài, vì mô hình phát triển này vẫn ăn sâu.

Những phản ứng chính sách của Mỹ đối với thách thức này của Trung

Quốc phải được thấm nhuần bởi nhận thức có sắc thái về những lợi ích và thiếu

sót của mô hình đổi mới này. Quả thực, suy nghĩ nghiêm túc về giai đoạn cạnh

tranh công nghệ mới này phải tính đến một đánh giá thực tế về các điểm mạnh

và điểm yếu của Trung Quốc và Mỹ.

Chẳng hạn, khái niệm được nhiều người ca tụng rằng Trung Quốc có lợi

thế quan trọng về AI nhờ vào dữ liệu. Nhà đầu tư mạo hiểm Trung Quốc và là

chuyên gia AI Kai-Fu Lee thường tuyên bố “Dữ liệu là dầu lửa mới còn Trung

Quốc là Saudi Arabia mới”. Các nhà hoạch định chính sách của Trung Quốc đã

nhấn mạnh tương tự rằng Trung Quốc ở vào vị trí thuận lợi để dẫn đầu về AI vì

nước này đang đi đúng hướng để sở hữu khoảng 30% dữ liệu của thế giới vào

năm 2030. Tuy nhiên, khả quan nhất cũng không có khả năng là Trung Quốc có

thể có một lợi thế lâu dài chỉ nhờ vào dữ liệu. Có một số lợi ích duy nhất đối

với chiều sâu và số lượng dữ liệu có sẵn, bao gồm cả những lợi ích được tạo ra

nhờ hệ sinh thái công nghệ nhảy vọt của Trung Quốc, trong đó dịch vụ và thanh

toán di động đã nhanh chóng trở thành trào lưu chính. Tuy nhiên, phần lớn dữ

liệu này chỉ liên quan trực tiếp đến các kỹ thuật và ứng dụng học máy cụ thể.

Chẳng hạn, Trung Quốc đã đạt được những thế mạnh cụ thể trong nhận diện

khuôn mặt, trong số các loại thị giác máy tính khác, và xử lý ngôn ngữ tự

nhiên, mà khối lượng dữ liệu khổng lồ có sẵn đã đóng góp vào đó. Việc công

nhận dữ liệu là một nguồn tài nguyên chiến lược quan trọng, bao gồm thông

qua việc tạo ra các nền tảng mở và thúc đẩy chia sẻ dữ liệu, có lợi cho Trung

Quốc để đạt được sự phối hợp độc nhất giữa khu vực tư nhân và những phát

triển AI của quốc gia. Tuy nhiên, lợi thế này có thể tỏ ra chỉ là một hiện tượng,

vì những tiến bộ ngày nay trong học máy liên quan đến sự tiến bộ nhanh chóng

về các kỹ thuật mà không đòi hỏi lượng dữ liệu khổng lồ như vậy. Về khía cạnh

này, Mỹ, nơi vẫn là ngôi nhà của một số công ty và nhà nghiên cứu AI hàng

đầu thế giới, vẫn giữ được lợi thế lớn, ít nhất là trong thời điểm hiện tại.

Thông thường, các đánh giá của Mỹ về năng lực công nghệ của Trung

Quốc dao động giữa việc gạt bỏ và đánh giá quá cao. Thậm chí gần đây, có một

nhận thức sai lầm nhưng thường xuyên ở Mỹ rằng Trung Quốc thực tế không

có khả năng đổi mới và chỉ đạt được tiến bộ trên cơ sở gián điệp mạng thương

mại và đánh cắp tài sản trí tuệ. Mức độ quan tâm và quan ngại về kế hoạch

“Made in China 2025” được chứng thực trong chừng mức sáng kiến này và tinh

thần thời đại mà nó thể hiện phải được xem xét hoàn toàn nghiêm túc như là

một chỉ số về phạm vi và quy mô của những khát vọng công nghệ-chiến lược

của Trung Quốc. Gạt bỏ những biện pháp này như là các chính sách công

nghiệp sẽ thất bại trong dài hạn phản ánh mức độ tự tin thái quá và một quan

điểm phi lịch sử. Tồi tệ nhất, một cách tiếp cận định hướng nhà nước có thể tỏ

ra là phản tác dụng, thậm chí gây tổn hại sâu sắc đến tiềm năng kinh tế của một

nước. Khả quan nhất, sự can thiệp thận trọng của chính phủ có thể là một yếu

tố hỗ trợ quan trọng cho sự đổi mới.

Hiện tại, có những quan ngại sâu sắc rằng Trung Quốc đang “chiến

thắng” trong “cuộc chạy đua”, dù là về AI, điện toán lượng tử hay viễn thông

thế hệ thứ năm (5G). Vấn đề đánh giá sự cân bằng thực tế trong các công nghệ

này luôn luôn phức tạp, vì các đánh giá có thể khác nhau tùy thuộc vào các

thước đo được sử dụng và sự phân tích chi tiết hơn về các công nghệ bị nghi

ngờ. Chẳng hạn, Trung Quốc là nước đi đầu trong việc phát triển cơ sở hạ tầng

truyền thông lượng tử, như thể hiện qua việc phóng vệ tinh lượng tử đầu tiên

của thế giới, nhưng không có lợi thế không thể tranh cãi trong lĩnh vực này.

Hơn nữa, việc là nước khởi xướng không nhất thiết là yếu tố quyết định quan

trọng nhất của khả năng cạnh tranh lâu dài, đặc biệt khi tính đến sự an toàn và

an ninh đang bị đe dọa, như trong 5G.

Là một đối thủ cạnh tranh, Trung Quốc có lẽ là thách thức duy nhất,

nhưng không phải là không thể bác bỏ. Mô hình đổi mới nằm ở trung tâm của

cách tiếp cận của Trung Quốc với cuộc cạnh tranh chiến lược có những điểm

mạnh nhất định nhưng cũng có thể chứng minh tự giới hạn hoặc tự chuốc lấy

thất bại do những mâu thuẫn cơ bản. Mặc dù chính sách công nghiệp có thể bị

chê bai là một cách tiếp cận không hiệu quả với việc phân bổ nguồn lực, nhưng

có một số yếu tố nhất định trong chính sách của Trung Quốc là thông minh và

trên thực tế, dường như được truyền cảm hứng từ những gì Mỹ đã thực hiện

thành công trong quá khứ. Về vấn đề này, Trung Quốc có thể đã học được

những bài học đúng đắn từ các chính sách của Mỹ trong Chiến tranh Lạnh, bao

gồm cả việc công nhận giáo dục là một đòi hỏi quốc gia để cạnh tranh, và các

nhà hoạch định chính sách Mỹ ngày nay cũng phải xem lại di sản đó.

Mức độ quan ngại và chú ý đối với kế hoạch “Made in China 2025” cũng

nên được hướng vào các sáng kiến mới của Trung Quốc trong giáo dục STEM

(một chương trình giảng dạy dựa trên ý tưởng trang bị cho người học những

kiến thức, kỹ năng liên quan đến các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kỹ thuật và

toán học) bao gồm cả phát triển tài năng AI. Trong nhiều khía cạnh, Mỹ và

Trung Quốc ngày nay đang ở trong một “cuộc chạy đua tài năng” hơn là một

cuộc chạy đua vũ trang. Chẳng hạn, cá nhân Tập Cận Bình đã tuyên bố rằng

“cạnh tranh về sức mạnh quốc gia toàn diện là cạnh tranh tài năng. Bất cứ quốc

gia nào có lợi thế về tài năng cuối cùng cũng sẽ sở hữu lợi thế về sức mạnh”.

Thái độ này thể hiện khá rõ trong việc tuyển dụng nhân tài hàng đầu được đặt

mục tiêu cao trong các lĩnh vực then chốt thông qua một loạt các kế hoạch tài

năng, điều trái ngược hoàn toàn với việc Mỹ hạn chế nhập cư mà đang bắt đầu

ngăn cản các sinh viên và nhà khoa học hàng đầu đến và ở lại. Mỹ cũng phải

coi trọng cuộc cạnh tranh này, thừa nhận rằng việc khôi phục nền giáo dục Mỹ

và đánh giá lại các chính sách của chúng ta về nhập cư là một trong những phản

ứng chính sách quan trọng - và rõ ràng - nhất mà tác động đối với chúng có thể

kéo dài.

Cuối cùng, Mỹ không thể kiểm soát các chính sách của Trung Quốc hoặc

kiềm chế những tham vọng của nước này. Hơn nữa, mình Mỹ chỉ có các lựa

chọn đòn bẩy có giới hạn, điều sẽ làm cho sự phối hợp với các đồng minh và

đối tác để gây áp lực lớn hơn là một tiến trình hành động quan trọng trong

tương lai. Mặc dù các nhà hoạch định chính sách của Mỹ phải nhận ra sự nguy

hiểm của sự tự mãn khi đối mặt với những tiến bộ và khát vọng của Trung

Quốc, nhưng cũng có những lý do để nhận ra khả năng là những căng thẳng và

mâu thuẫn tiềm ẩn phía dưới những thành công của nước này có thể làm xói

mòn mô hình đổi mới của nó trong thời gian dài. Trong khi đó, các nhà lãnh

đạo Mỹ có thể chọn phản ứng lại theo những cách tập trung trước hết và quan

trọng nhất vào việc thúc đẩy sự đổi mới và khả năng cạnh tranh của Mỹ.

Elsa B. Kania là nghiên cứu viên thực tập của Chương trình Công nghệ

và An ninh Quốc gia, Trung tâm An ninh Mỹ Mới (CNAS). Bài viết được đăng

trên The Diplomat.

2. Kế hoạch “Made in China 2025 : Góc nhìn từ chuyên gia Việt Nam

Tác giả: Nguyễn Quang Dy (ICT NEWS)

Tập Cận Bình (Xi Jinping) được nhiều người coi là một chính trị gia

giỏi, với kỳ tích chống tham nhũng, củng cố quyền lực, cải tổ quân đội, phát

triển đất nước, vì “Giấc mộng Trung Hoa”. Đặc biệt, Tập Cận Bình còn muốn

“làm Trung Quốc vĩ đại trở lại”, vượt Mỹ làm bá chủ thế giới. Nhưng mặt khác,

cũng có thể nói Tập Cận Bình đã mắc phải mấy sai lầm lớn.

Thứ nhất, ông không chỉ nắm 3 chức vụ cao nhất của Đảng, Nhà nước,

và Quân đội, như “lãnh đạo nòng cốt”, mà còn bỏ giới hạn hai nhiệm kỳ để trở

thành “Hoàng đế đỏ” Trung Hoa. Thứ hai, ông tự tin khởi động kế hoạch

“Made in China 2025” làm Mỹ và phương Tây lo lắng chống lại. Thứ ba, ông

chủ quan theo đuổi sáng kiến “Vành đai và Con đường”, làm nhiều nước khác

phản ứng “bẫy nợ”. Thứ tư, ông thiếu nhạy cảm triển khai “chính sách gây ảnh

hưởng” bằng các viện Khổng Tử và “tấn công quyến rũ”, làm nhiều nước lo

ngại “con ngựa thành Troy”. Thứ năm, ông thẳng tay trấn áp người Duy Ngô

Nhĩ ở Tân Cương, và nôn nóng triển khai “hệ thống tín nhiệm xã hội”. Đó là

những đại dự án mang “dấu ấn Tập Cận Bình” nhằm thực hiện “Giấc mộng

Trung Hoa”.

Gót chân A-sin

Đại hội 19 (18-24/10/2017) đã đưa “Tư tưởng Tập Cận Bình” vào cương

lĩnh của Đảng. Quốc Hội đã sửa đổi hiến pháp (11/3/2018) bỏ điều khoản giới

hạn hai nhiệm kỳ Chủ tịch nước, để Tập Cận Bình trở thành một “hoàng đế

Trung Hoa”. Nhưng đáng tiếc, đó là một nghịch lý về “giới hạn quyền lực”, vì

Tập Cận Bình làm bộc lộ “gót chân A-sin” của mình. Cuộc chiến thương mại

Mỹ-Trung làm bộc lộ những sai lầm mà Tập Cận Bình nay có nghĩ lại thì đã

quá muộn. David Shambaugh có lý khi dự báo Trung Quốc đang trong “màn

chót” (End Game). Còn Minxin Pei cho rằng Trung Quốc là “người khổng lồ

chân đất sét” (a giant with feet of clay).

Trong khi Đặng Tiểu Bình cho rằng lãnh đạo tập thể (dựa trên đồng

thuận) tốt hơn là một người lãnh đạo (dựa trên độc tài cá nhân), Tập Cận Bình

lại khôi phục mô hình độc tài toàn trị. Ông đã trở thành “chủ tịch của mọi thứ”

(chairman of everything). Có thể nói Tập Cận Bình đã làm ngược lại những lời

khuyên của Đặng Tiểu Bình, khôi phục sự “sùng bái cá nhân” như thời Mao

Trạch Đông và làm “cách mạng giật lùi”. Người ta nói “quyền lực tuyệt đối dẫn

đến tham nhũng tuyệt đối”. Nghịch lý của Tập Cận Bình là ông đang biến

những kỳ tích của mình thành sai lầm lớn. Theo Minxin Pei, Trung Quốc đang

“lầm đường lạc lối”, chế độ độc đảng sẽ “không bền vững” và “chắc sẽ thất

bại”.

Theo Liz Economy, dưới thời Tập Cận Bình, vi phạm nhân quyền ngày

càng nhiều. Khoảng 200 luật sư đã bị bắt và tống giam. Việc kiểm soát công

dân được tối ưu hóa qua “hệ thống tín nhiệm xã hội” dựa trên một kho “dữ liệu

lớn” và các ứng dụng “trí tuệ nhân tạo”. Các biện pháp khen thưởng hay trừng

phạt sẽ tùy theo người dân được cho “điểm tín nhiệm” cao hay thấp. Đặc biệt,

tại khu tự trị Tân Cương, người Duy Ngô Nhĩ theo đạo Hồi đang bị đối xử tàn

bạo dưới một chế độ công an trị hà khắc, với những vụ bắt bớ hàng loạt và một

mạng lưới gồm các trại tập trung cải tạo dầy đặc.

Bắc Kinh còn theo đuổi chính sách đối ngoại nhằm thống trị toàn cầu,

với công cụ chủ yếu là sáng kiến “Vành đai và Con đường” (Belt and Road

Initiative). Trung Quốc cho các nước tham gia vay tiền để đầu tư vào hạ tầng

với các khoản tín dụng hấp dẫn, nhưng trên thực tế nhằm trói buộc các nước đi

vay phải lệ thuộc vào Bắc Kinh. Các nước phương Tây đã từng cố gắng coi

Trung Quốc là một thế lực có thể hợp tác được, nhưng Bắc Kinh đã làm cho họ

thất vọng, và không thể theo đuổi ảo tưởng đó. Nay phương Tây buộc phải

phản kháng, làm không gian hành động của Trung Quốc ngày càng thu hẹp.

Đến nay, Trung Quốc đã kiểm soát tới 80 hải cảng tại 40 nước. Trung

Quốc đã thiết lập căn cứ hậu cần đầu tiên tại Djibouti. Theo các nhà phân tích

quân sự tại Trung Quốc, Bắc Kinh sẽ phát triển khoảng 100 căn cứ như vậy

trên toàn cầu. Liệu Trung Quốc có lập căn cứ hải quân tại Koh Kong

(Cambodia) hay không, chỉ là cách nói. Tuy Trung Quốc nói rằng họ không sử

dụng các hải cảng này vì mục đích quân sự, nhưng chúng ta đã thấy tàu chiến

của họ bắt đầu đến thăm các hải cảng đó. Chỉ có những người ngây thơ mới tin

rằng Trung Quốc không cần lập các căn cứ quân sự tại nước ngoài, và không

xâm phạm chủ quyền các nước khác.

Hệ thống tín nhiệm xã hội

Gần đây, các cơ quan an ninh của Mỹ, Canada, Anh, Úc, Nhật, v.v. đã

cảnh báo và tẩy chay công nghệ 5G của tập đoàn Huawei vì lý do an ninh quốc

gia. Trong hệ thống kinh tế do nhà nước chỉ đạo tại Trung Quốc, các công ty

công nghệ như Huawei có bổn phận hợp tác với chính quyền, kể cả việc chia sẻ

dữ liệu. Mạnh Vãn Châu (Meng Wanzhou) là giám đốc tài chính của Huawei

đã bị cảnh sát Canada bắt và quản thúc tại gia chờ dẫn độ sang Mỹ. Tháng

1/2019, một quan chức của Huawei đã bị bắt tại Ba Lan với tội danh gián điệp.

Một số tổ chức nghiên cứu có uy tín như Mercator Institute (Berlin),

Asia Society (New York), và Royal United Services Institute (London) đã công

bố báo cáo chi tiết về “chính sách gây ảnh hưởng” của Trung Quốc nhắm vào

các định chế chính trị, giáo dục, truyền thông và xã hội dân sự tại các nước dân

chủ. Nay các trường đại học phương Tây từ chối các Viện Khổng Tử như “con

ngựa thành Troy”. Dư luận phản đối Bắc Kinh ngày càng mạnh lên. Phương

Tây đã tìm được tiếng nói chung để chống lại sự thao túng quyền lực của Trung

Quốc. Hiện tượng nước Ý (thời Giuseppe Conte) hợp tác với Trung Quốc chỉ là

một ngoại lệ như Philippines (thời Rodrigo Duterte).

Đầu năm 2018, theo một khảo sát dư luận của Pew Research Center tại

25 quốc gia, 63% số người được hỏi nói rằng họ muốn một thế giới do Mỹ cầm

đầu, trong khi đó chỉ có 19% muốn Trung Quốc cầm đầu. Trong khi Đặng Tiểu

Bình tìm cách giảm bớt vai trò của Đảng, bỏ bớt hệ thống doanh nghiệp nhà

nước và tăng cường vai trò của thị trường, thì Tập Cận Bình lại tăng cường vai

trò kiểm soát của Đảng đối với Internet bằng cách xây dựng “hệ thống tín

nhiệm xã hội” và mở rộng hệ thống theo dõi công dân như xã hội công an trị.

Trung Quốc đã phát triển cách thức mới để sử dụng máy ảnh. Họ đã lắp

đặt 200 triệu máy ảnh theo dõi để giảm bớt tội phạm và kiểm soát bất ổn xã hội.

Trung Quốc sẽ tăng gấp ba số máy ảnh đó vào năm 2020 trong một “hệ thống

tín nhiệm xã hội” được triển khai trên toàn quốc, để đánh giá độ tin cậy về

chính trị và kinh tế của người dân, làm cơ sở để thưởng/phạt. Họ đã phát triển

những khả năng mới không chỉ qua nhận diện mà còn qua giọng nói, và có thể

nhận dạng qua dáng đi. Việc kết hợp công nghệ mới với cách thức kiểm soát xã

hội truyền thống đã tạo ra khả năng giám sát đặc biệt.

“Hệ thống tín nhiệm xã hội” đã triển khai trên 40 dự án thí điểm, mỗi dự

án đánh giá một nhóm vấn đề nhất định. Đến năm 2020, Trung Quốc sẽ triển

khai thành một chương trình tổng thể trên toàn quốc, tuy vẫn có những khác

biệt về vùng miền nhưng do một lãnh đạo duy nhất điều hành (chứ không phải

lãnh đạo tập thể). Tập còn giống Mao ở chỗ ông tỏ ra gần gũi với quần chúng,

nhưng bỏ qua tầng lớp trí thức và tinh hoa “không đáng tin cậy”. Thái độ đó

không chỉ tác động tới người Trung Quốc mà còn tới người nước ngoài. Đến

nay, số tổ chức phi chính phủ nước ngoài hoạt động tại Trung Quốc đã giảm từ

7.000 xuống còn hơn 400.

Nhân tố Lighthizer

Vào tháng 8/2017, Robert Lighthizer (USTR) đã thuyết trình về chính

sách của Mỹ đối với Trung Quốc tại Nhà Trắng. Buổi thuyết trình xuất sắc đã

thuyết phục được các quan chức cao cấp của Nhà Trắng ủng hộ một chính sách

cứng rắn hơn đối với Trung Quốc. Các chuyên gia đánh giá tuy Nhà Trắng

không còn cố vấn chiến lược Steve Bannon, một người chống Trung Quốc

quyết liệt, nhưng lại có Robert Lighthizer, một người chống Trung Quốc còn

hơn Steve Bannon, với một chiến lược nhất quán và chủ thuyết rõ ràng. Chủ

thuyết này sẽ xuyên suốt nhiều năm tới, thậm chí sau cả chính quyền Trump.

Lighthizer đã được Trump tín nhiệm giao nhiệm vụ tiến hành điều tra về

Trung Quốc vi phạm sở hữu trí tuệ (theo Khoản 301, Luật Thương Mại Mỹ).

Theo Lighthizer, “mô hình kinh tế Trung Quốc là mối đe dọa chưa từng có đối

với hệ thống thương mại thế giới mà không thể giải quyết bằng các quy tắc

toàn cầu hiện hành”. Trung Quốc là mối đe dọa nổi lên trong bối cảnh hiện nay,

khó khăn hơn nhiều so với những gì đã xảy ra trong quá khứ. “Đó chính là mối

de dọa tới hệ thống thương mại toàn cầu và điều này là chưa từng có tiền lệ”.

Lighthizer đã tiên đoán rằng cuộc chiến tranh thương mại với Trung

Quốc là một cuộc chiến trường kỳ, cần thêm thời gian và các biện pháp chống

trả hữu hiệu, không thể một sớm một chiều mà chiến thắng ngay được. Cuộc

chiến thương mại Mỹ-Trung ngày càng rộng lớn và phức tạp, nhưng Lighthizer

có đủ quyết tâm, kinh nghiệm và bản lĩnh để thắng Trung Quốc. Đến nay, cả

Thượng viện và Hạ viện Mỹ, cùng các cơ quan an ninh như FBI, CIA, NSA…

đều quyết tâm chống Trung Quốc trên mọi mặt. Bà Nancy Pelosi (đảng Dân

Chủ) là chủ tịch Hạ Viện cũng tuyên bố sẽ ủng hộ lập trường chống Trung

Quốc của Donald Trump.

Lighthizer là một người rất am hiểu về chiến thuật “trì hoãn chiến” để

câu giờ của Bắc Kinh nên ông đã dứt khoát ra đòn trừng phạt bằng “áp thuế”.

Khi các quan chức về tài chính và thương mại của Washington đến Bắc Kinh

đàm phán nhưng không có kết quả, tháng 11/2017, Trump đã cử đoàn đàm

phán của Mỹ đến Bắc Kinh, và Lighthizer là người duy nhất có quyền gặp

những quan chức cao cấp nhất của Trung Quốc (kể cả Tập Cận Bình). Hiện nay

trong Nhà Trắng, Robert Lighthizer và Peter Navarro là “cặp bài trùng” chống

Trung Quốc, nhưng Lighthizer được sự ủng hộ của nhiều người trong Nhà

Trắng cũng như Quốc Hội.

Thuyết “tự do thương mại” của Lighthizer không nhằm mục tiêu mở cửa

thị trường tự do không kiểm soát, mà cam kết sử dụng các “vũ khí” công khai

về thương mại để đạt được mục tiêu đó. Lighthizer không chủ trương “bảo hộ

là đắp lũy xây thành” để biến nước Mỹ thành một ốc đảo. Mục đích cơ bản của

Lighthizer là lấy lại những lợi thế của Mỹ cho người Mỹ đang bị thua thiệt trên

thương trường quốc tế. Lighthizer sẽ không “chấm dứt toàn cầu hóa”, mà chuẩn

bị cho một thời kỳ cạnh tranh mới khốc liệt hơn. Ông chủ trương dùng chiến

tranh thương mại làm phương tiện để đạt được tự do thương mại một cách công

bằng và lành mạnh.

Điều chỉnh chiến lược

Kế hoạch “Made in China 2025” (MC 2025) là một khâu then chốt trong

cấu trúc và kế hoạch phức tạp của Bắc Kinh nhằm tạo ra sự phát triển mới theo

định hướng của Tập Cận Bình. Vì vậy, “MC 2025” đã trở thành biểu tượng cho

tham vọng của Trung Quốc trong việc trỗi dậy thanh một đầu tàu công nghệ

cạnh tranh với Mỹ, gây lo ngại sâu sắc về mối đe dọa của Trung Quốc. Vì vậy,

Bắc Kinh có thể phải điều chỉnh lộ trình “MC 2025” (dài hơi hơn) do hệ quả

của chiến tranh thương mại. Mục tiêu cốt lõi của “MC 2025” là nhằm biến

Trung Quốc thành một “siêu cường sản xuất”, trong đó nhấn mạnh 10 lĩnh vực

công nghệ cần được ưu tiên.

Việc Tập Cận Bình củng cố quyền lực tuyệt đối trong nước và triển khai

Sáng kiến “Vành đai và Con đường” (BRI) ra thế giới không chỉ làm tổn hại về

kinh tế, mà còn làm tăng sự ngờ vực của các nước. Một số nước như Malaysia,

Myanmar, Pakistan, Bangladesh và Sierra Leone đòi xem xét lại các hợp đồng

đã ký với Trung Quốc. Sáng kiến “BRI” đầy tham vọng có thể bị xem xét và

điều chỉnh trước sự phản ứng từ bên trong và bên ngoài.

Nhà Trắng đã tăng cường quan hệ với Đài Loan, tăng tần suất tuần tra

FONOP tại Biển Đông, siết chặt đầu tư của Trung Quốc vào các lĩnh vực công

nghệ cốt lõi của Mỹ, tăng cường giám sát quốc tế đối với vấn đề nhân quyền,

và bắt đầu cạnh tranh trực tiếp với sáng kiến “Vành đai và Con đường” qua các

dự án đầu tư vào hạ tầng, liên kết với các nước khác như Australia, Nhật, và

New Zealand, cũng như qua việc thiết lập một tổ chức tín dụng mới để phục vụ

phát triển hạ tầng gọi là “US International Development Finance Cooperation”.

Có nhiều dấu hiệu cho thấy các thành tích của mô hình Tập Cận Bình

đang dần phản tác dụng. Việc Đảng kiểm soát quá nhiều góp phần làm cho nền

kinh tế trì trệ và xã hội bất ổn. Trong khi đó, Bắc Kinh quá tham vọng nên làm

giảm nhiệt tình ban đầu của cộng đồng quốc tế đã từng đón nhận tầm nhìn của

Tập Cận Bình về một trật tự thế giới mới “với đặc sắc Trung Quốc”. Bắc Kinh

đã huy động sinh viên của họ ở nước ngoài vào các mục đích chính trị và kinh

tế như báo cáo về các sinh viên khác không làm theo đường lối của Đảng, dẫn

đến những phản ứng ngược lại. Nhưng mặt khác, hầu hết những vấn đề của

Trung Quốc đều xuất phát từ sự nôn nóng của Tập Cận Bình nên ông vẫn có

thời gian và quyền lực để điều chỉnh được.

Theo Liz Economy, để đối phó với những vấn đề ngày càng lớn, do mô

hình chính trị của Tập Cận Bình, Bắc Kinh cần điều chỉnh chiến lược một cách

cơ bản. Về chính trị, hình ảnh và quyền lực mềm của Trung Quốc sẽ được cải

thiện nếu Bắc Kinh giảm bớt việc sử dụng công dân Trung Quốc ở nước ngoài

làm công cụ phục vụ các mục đích chính trị và kinh tế; không áp đặt các chính

sách áp đặt đối với Hong Kong và Đài Loan; giảm thiểu đàn áp người dân địa

phương ở Tân Cương và Tây Tạng. Hậu quả tiêu cực của tư tưởng Tập Cận

Bình; sự tê liệt của chính quyền địa phương; tỷ lệ sinh sản suy giảm; và phản

ứng mạnh lên của quốc tế bắt đầu có tác dụng làm Trung Quốc không thể đạt

được các mục tiêu đề ra. Vì vậy, Tập Cận Bình cần điều chỉnh lại chiến lược,

hoặc giao quyền lãnh đạo đất nước cho người khác…

Thay lời kết

Từ đầu năm 2018, quan hệ Mỹ-Trung đã chuyển sang đối đầu sau 4 thập

niên hợp tác. Cuộc chiến thương mại là “phần nổi của tảng băng chìm”, với hình

thái “vừa đánh vừa đàm”, có thể kéo dài. Cuộc chiến này tuy do chính quyền

Trump khởi xướng, nhưng nguyên nhân lại do Bắc Kinh gây ra, với sai lầm

chiến lược của Tập Cận Bình, nay có muốn dừng lại cũng không được. Sau

Donald Trump, một tổng thống Mỹ khác chắc vẫn chống Trung Quốc, đối đầu

Mỹ-Trung vẫn là đặc điểm quan trọng nhất của quan hệ quốc tế trong thế kỷ này.

Điều đáng lo ngại là Biển Đông đã trở thành tâm điểm của đối đầu Mỹ-

Trung, trong đó Việt Nam có thể bị tác động từ ván cờ địa chính trị giữa các

nước lớn. Nếu muốn phát triển bền vững và bảo vệ chủ quyền quốc gia, Việt

Nam phải cải cách thể chế để có thể điều chỉnh mối quan hệ Việt-Trung và

Việt-Mỹ một cách hiệu quả hơn. Hy vọng chuyến thăm Mỹ sắp tới của CTN

Nguyễn Phú Trọng sẽ tạo ra một bước ngoặt mới trong tam giác chiến lược

Mỹ-Trung-Việt.

3. Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng: 'Sứ mạng của 5G đặt lên vai ngành ICT

Việt Nam'

Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng khẳng định, 5G là cơ hội để

Việt Nam thay đổi thứ hạng trên thế giới. Việt Nam sẽ cho thử nghiệm 5G năm

2019 và thương mại năm 2020 và sẽ là những nước đầu tiên triển khai 5G.

Ngày 14/11/2018, Ban Kinh tế Trung ương phối hợp với Bộ TT&TT tổ

chức Tọa đàm chuyên đề “Đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực viễn thông”. Tọa

đàm là cơ hội thảo luận các vấn đề công nghệ thông tin - viễn thông và xây

dựng phát triển hệ sinh thái thúc đẩy đổi mới sáng tạo khoa học công nghệ,

nhận định các cơ hội và thách thức tiềm năng, đưa ra các giải pháp nhằm phát

triển đổi mới sáng tạo tại Việt Nam.

Việt Nam sẽ dẫn đầu về 5G

Phát biểu tại tọa đàm, Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng cho

biết, năm 1990, thế giới xuất hiện công nghệ 2G thì chỉ 3 năm sau, năm 1993,

Việt Nam đã khai trương mạng điện thoại di động công nghệ số 2G. Năm 2000,

thế giới xuất hiện công nghệ 3G, nhưng phải đến năm 2010, tức là 10 năm sau cả

ba nhà mạng lớn nhất mới khai trương mạng điện thoại di động 3G. Khi 4G xuất

hiện thì lại có câu chuyện tương tự. Đến nay, năm 2018, tức là 8 năm sau khi thế

giới xuất hiện công nghệ 4G, chúng ta vẫn chưa cấp được tần số mới để làm 4G.

Mạng 4G mà các nhà mạng khai trương năm 2017 là do dồn dịch tần số 2G.

Sớm chấp nhận công nghệ 2G và thúc đẩy cạnh tranh, mạng di động Việt

Nam đã từng vào top 20 thế giới. Tuy nhiên, khi chuyển sang công nghệ 3G,

4G vì sự đi sau về công nghệ và thiếu nhân tố cạnh tranh mới mà viễn thông

của Việt Nam đang xếp hạng ở thứ 100. Về mật độ thuê bao di động băng rộng,

năm 2017, ITU xếp Việt Nam đứng thứ 115/193 quốc gia và vùng lãnh thổ, tức

là dưới trung bình của thế giới.

Đánh giá về công nghệ 5G đang tới, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho

rằng, đây là cơ hội để Việt Nam thay đổi thứ hạng. Muốn thay đổi thứ hạng thì

phải đi đầu. Chưa đi đầu được trên phạm vi toàn quốc thì đi đầu ở Hà Nội và

thành phố Hồ Chí Minh.

"Bộ TT&TT chủ trương cấp tần số 5G để thử nghiệm từ năm 2019 và

đến năm 2020, khi thế giới bắt đầu triển khai 5G thì Việt Nam sẽ là những

nước đầu tiên triển khai 5G", Bộ trưởng khẳng định.

Sứ mạng của 5G đặt lên vai ngành ICT Việt Nam

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng, trước đây thiết bị mạng 2G và

3G phải nhập ngoại 100% còn khi triển khai 4G thì lần đầu tiên chúng ta có

thiết bị 4G Việt Nam, nhưng cũng phải chờ đến 8 năm sau khi công nghệ 4G

xuất hiện. Tuy nhiên, với 5G, chúng ta sẽ có thiết bị ngay từ ngày đầu triển

khai chính thức năm 2020. Đây là sự thay đổi lớn nhất, sự thay đổi ý nghĩa nhất

và cũng là sự chuyển đổi về chất lớn nhất trong ngành công nghiệp điện tử viễn

thông nước nhà.

Bộ TT&TT khích lệ và tạo mọi điều kiện để các doanh nghiệp công nghệ

Việt Nam, cả nhà nước và tư nhân, cả to và nhỏ, nghiên cứu sản xuất được thiết

bị viễn thông, kể cả thiết bị mạng và thiết bị đầu cuối, để lần đầu tiên trong lịch

sử nước nhà, mạng viễn thông Việt Nam được xây lên bởi thiết bị Việt Nam.

Việt Nam cũng phải trở thành nước thứ 5 trên thế giới xuất khẩu được thiết bị

viễn thông Made in Vietnam, bao gồm tất cả thiết bị mạng và đầu cuối.

"Công nghệ 2G là công nghệ điện thoại thuần túy. Công nghệ 3G là nửa

điện thoại, nửa data. Công nghệ 4G là thuần túy data, nhưng là cho người với

người. Công nghệ 5G là công nghệ data, nhưng là công nghệ đầu tiên được

thiết kế cho kết nối vạn vật, với một loạt tính năng mới như độ trễ thấp, tiêu thụ

nguồn nhỏ. Công nghệ 5G sẽ tạo ra một cuộc cách mạng về kết nối. Công nghệ

2G, 3G, 4G đã kết nối 7 tỷ người thì 5G sẽ kết nối hàng ngàn tỷ thiết bị, chuyển

tải toàn bộ thế giới vật lý vào thế giới ảo. Và thay đổi cơ bản cuộc sống loài

người. Đây là sứ mạng của 5G và sứ mạng ấy đặt lên vai ngành ICT Việt

Nam", Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nói.

Người đứng đầu Bộ TT&TT nhấn mạnh, kết nối vạn vật sẽ yêu cầu một

sự đầu tư hoàn toàn khác so với mạng điện thoại di động dành cho kết nối chỉ

con người với nhau. Vì vậy, các nhà mạng di động phải nhận thức được trách

nhiệm của mình đối với đất nước, đối với dân tộc.

"Mạng 5G là hạ tầng kết nối vạn vật - hạ tầng quan trọng nhất của cách

mạng công nghiệp 4.0. Việt Nam muốn đi đầu trong cách mạng 4.0 thì mạng

5G phải đi trước và đi đầu. Mạng lưới phải có trước, hạ tầng kết nối phải có

trước. Đầu tư trước kinh doanh sau, đây phải là triết lý kinh doanh của tất cả

các nhà mạng. Mạng 5G cho kết nối vạn vật của Việt Nam phải vào loại tốt

nhất trên thế giới. Số lượng trạm BTS cho 5G sẽ phải lớn hơn rất nhiều so với

các công nghệ trước đó. Do vậy, dùng chung hạ tầng, chia sẻ hạ tầng viễn

thông với các hạ tầng điện, nước, giao thông là rất quan trọng để giảm chi phí

xã hội", Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh.

Vẫn theo phân tích của Bộ trưởng Bộ TT&TT, 5G không chỉ là cơ hội về

dịch vụ kết nối, cơ hội để thay đổi thứ hạng viễn thông Việt Nam, mà còn là cơ

hội để phát triển ngành công nghiệp ICT nước nhà. Với nhu cầu rất lớn về thiết

bị mạng lưới và đặc biệt lớn về thiết bị đầu cuối, nhu cầu mang tính quyết định

của an toàn, an ninh mạng, nhu cầu toàn dân về ứng dụng, sẽ tạo ra thị trường

vô hạn cho các công ty công nghệ Việt Nam. Vì vậy, chúng ta hãy coi Việt

Nam là cái nôi để phát triển công nghệ và sản phẩm, để từ đây đi ra chinh phục

thế giới. Cơ hội này rơi lên thế hệ chúng ta và chúng ta phải coi đây là trách

nhiệm lịch sử của mình đối với dân tộc.

Ông Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng, thị trường viễn thông Việt Nam cũng

cần những nhân tố cạnh tranh mới để thúc đẩy phát triển, để có những đột phá

mới về phát triển thuê bao băng rộng, để đến năm 2020 đạt mật độ thuê bao di

động băng rộng 100%. Cơ cấu dịch vụ của các nhà mạng cũng sẽ thay đổi để

thoại và nhắn tin chỉ còn chiếm dưới 30% tổng doanh thu và tăng tiêu dùng dữ

liệu trên đầu người, để Việt Nam vào Top 30-50 trên thế giới. Về chuyển đổi số,

các nhà mạng phải là những công ty đầu tiên thực hiện chuyển đổi số triệt để, và

cũng sẽ là người ứng dụng đầu tiên hiệu quả các công nghệ AI, Big Data, IoT.

Về đổi mới sáng tạo, các nhà mạng phải đóng vài trò phát triển các X-Tech như

FinTech, AgriTech, EduTech, nhằm tạo ra sự thay đổi lớn của các ngành.

Kết thúc bài phát biểu của mình, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng khẳng

định, đề chính sách viễn thông, chính sách ICT, chính sách cho cách mạng công

nghiệp 4.0, chúng ta phải đi đầu để thu hút con người, công nghệ, sản phẩm của

thế giới về với Việt Nam để Việt Nam trở thành trung tâm của thế giới.

Bình luận về phát biểu này của Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, ông Cao

Đức Phát, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Kinh tế Trung ương cho biết ông

được khích lệ bởi tầm nhìn của người đứng đầu Bộ TT&TT. Ông Cao Đức Phát

cho rằng, người Việt đã làm và có thể làm được nhiều điều. Vì vậy, ông sẽ kiến

nghị với lãnh đạo Đảng và Nhà nước đề cao hơn nữa khát vọng của dân tộc và

thiết lập môi trường ủng hộ các sản phẩm Việt.

4. Bộ trưởng Bộ TT&TT Việt Nam Nguyễn Mạnh Hùng: "Khi cuộc cách

mạng số xảy ra, 5G xuất hiện thì ASEAN có cơ hội bứt phá, nhưng cần sự

đột phá trong tư duy và chính sách"

Phát biển tại Diễn đàn mở 5G và sự phát triển ASEAN số tại Hà Nội vào

sáng ngày 22/3/2019, Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng đã nhấn

mạnh, các nước ASEAN phải liên kết lại với nhau trên tinh thần “cùng làm,

cùng phát triển”, nhằm tạo ra một Asean số: Một thị trường ICT chung cho

ASEAN; Một khung chính sách ICT chung cho Asean; Một Asean phẳng về

roaming; Một trường đại học ICT của Asean; Một trung tâm đổi mới sáng tạo

của Asean; Một trung tâm của Asean về an ninh không gian mạng".

Đây là hội nghị đầu tiên của Asean về 5G và đã gửi đi thông điệp về việc

các nước ASEAN sẽ cùng đi đầu với thế giới về công nghệ mới. Sẽ không còn

chuyện, có những nước ASEAN đi sau thế giới như đã xảy ra với công

nghệ 3G, 4G từ 6 đến 8 năm nữa. Đây cũng là hội nghị đầu tiên, khi các nước

ASEAN cùng nhau trên tinh thần, làm việc cùng nhau, cùng nhau phát triển

và cùng nhau bàn bạc về lộ trình cho một công nghệ mới.

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho biết, hội nghị đầu tiên của

ASEAN về 5G là một sáng kiến Việt Nam. Cũng như những sáng kiến Việt

Nam khác về: ASEAN Flat Roaming, một mức cước roaming chung cho các

nước ASEAN để biến ASEAN thành khu vực đầu tiên trên thế giới sẽ phẳng

hóa về viễn thông; ASEAN Hub về Cybersecurity, để cũng nhau chia sẻ thông

tin về an toàn trên không gian mạng; Trao học bổng ICT cho các sinh viên

ASEAN đến Việt Nam học tập, để tiến tới có một trường đại học ASEAN về

ICT. Rồi đây, mỗi nước ASEAN sẽ nhận một số sáng kiến để thực hiện, và khi

thành công thì sẽ chia sẻ kinh nghiệm ra các nước còn lại. Bằng cách này, sức

mạnh của ASEAN sẽ tăng lên hàng chục lần.

"Ngày hôm qua, các nước ASEAN, các nước đối thoại, các chuyên gia

và doanh nghiệp đã chia sẻ cả ngày về 5 chủ đề quan trọng về chính sách của

các nước ASEAN về 5G, qui hoạch tần số cho 5G, chiến lược phát triển mạng

lưới và an ninh mạng, các ứng dụng của 5G và các khuyến nghị về hợp tác

ASEAN trong lĩnh vực 5G. Ngày hôm nay, chúng ta sẽ bàn về vai trò của 5G

với các ngành công nghiệp của một nền kinh tế số. Hầu hết các nước Asean đã

tuyên bố chiến lược của mình về kinh tế số. Thái Lan thậm chí đã đổi tên Bộ

ICT thành Bộ kinh tế và xã hội số, thể hiện cam kết mạnh mẽ của chính phủ về

kinh tế số, đặt mục tiêu ngành công nghiệp số chiếm tới 25% GDP vào năm

2025. Gần đây nhất, Campuchia đã lần đầu tiên tổ chức diễn đàn Digital

Cambodia để đẩy mạnh chuyển đổi số và hướng tới một nền kinh tế số. Chúng

ta sẽ bàn về vai trò của 5G đối với kinh tế số, chính phủ số và xã hội số. Về vai

trò của 5G đối với Digital ASEAN. Chúng ta đều có một nhận thức chung là

Kinh tế số, 5G sẽ giúp ASEAN tiếp tục là một khu vực năng động, đổi mới

sáng tạo và tăng trưởng" Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nói.

Người đứng đầu Bộ TT&TT cho rằng, công nghệ 2G là công nghệ điện

thoại thuần túy. Công nghệ 3G là nửa điện thoại, nửa data. Công nghệ 4G là thuần

túy data, nhưng là cho người với người. Công nghệ 5G là công nghệ data, nhưng

là công nghệ đầu tiên được thiết kế cho kết nối vạn vật, với một loạt tính năng

mới, như độ trễ thấp, tiêu thụ nguồn nhỏ. Công nghệ 5G sẽ tạo ra một cuộc cách

mạng về kết nối. Công nghệ 2G, 3G và 4G đkết nối 7 tỷ người thì 5G sẽ kết nối

hàng ngàn tỷ thiết bị, chuyển tải toàn bộ thế giới vật lý vào thế giới ảo. Và thay

đổi cơ bản cuộc sống loài người, khi vạn vật cất tiếng nói như con người. Đây là

sứ mạng của 5G, và sứ mạng ấy đặt lên vai ngành ICT của chúng ta.

5G sẽ tạo ra những thay đổi lớn như: tăng dung lượng và tốc độ cho

thông tin băng rộng, tạo kết nối cho vạn vật, IoT, nhất là các kết nối đòi hỏi

phản ứng thời gian thực và sẽ thay đổi căn bản nhiều ngành công nghiệp, giao

thông, y tế, nông nghiệp, thành phố thông minh và tạo ra một ngành công

nghiệp mới, công nghiệp sản xuất hàng ngàn tỷ thiết bị, sensors, cũng như kích

hoạt đổi mới sáng tạo trong hầu hết các ngành và cuối cùng, nó tạo ra sự kết nối

không giới hạn cho tất cả. Mỗi nước sẽ chọn cho mình một thứ tự ưu tiên riêng

để ứng dụng 5G.

Theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, một sự tiếp cận được khuyến nghị

cho 5G là cách tiếp cận theo các pha. Pha đầu là sự bổ sung tăng dung lượng

của 5G cho 4G tại các thành phố lớn, các trung tâm thành phố, và khi đó 4G

vẫn là mạng chính. Đây chính là ứng dụng nâng cao chất lượng di động băng

rộng của 5G - Enhanced Mobile Broadband. Pha tiếp theo sẽ là ứng dụng IoT

diện rộng - Massive IoT, và ứng dụng IoT với tính năng độ trễ thấp, độ tin cậy

cao. Và cuối cùng sẽ là sự xuất hiện của 5G trong tất cả các lĩnh vực.

"Khi cuộc cách mạng số, cách mạng công nghiệp 4.0 xảy ra, khi một

công nghệ mới như 5G xuất hiện thì tương lai không nằm trên đường kéo dài

của quá khứ. Các nước ASEAN chúng ta có cơ hội bứt phá. Nhưng phải là một

tư duy mới, không truyền thống, không tuần tự. Cả quản lý nhà nước, cả doanh

nghiệp, đều cần một sự đột phá trong tư duy, trong chính sách và trong cách

tiếp cận. Hội nghị về 5G của chúng ta lần này cũng là để bàn về cách tiếp cận

của ASEAN. Khi một cái mới xuất hiện thì cách học hỏi tốt nhất là cùng nhau

chia sẻ. Khi chia sẻ thì một tri thức mới được sinh ra. Tri thức cũng thường

được sinh ra trong những bối cảnh cụ thể. Các nước ASEAN có nhiều nét

tương đồng. Về phát triển ICT thì lại càng có nhiều nét tương đồng hơn, bởi

vậy chúng ta sẽ cùng phát triển hệ tri thức ICT ASEAN. Các vấn đề như khi

nào triển khai 5G, triển khai ban đầu thì nên ở qui mô nào; ứng dụng đầu tiên

cho 5G là gì, qui hoạch tần số cho 5G ra sao, hài hòa tần số 5G trong ASEAN

thế nào, đặt giá tần số cho 5G cao hay thấp, cấp tần số theo khu vực địa lý để

khuyến khích ứng dụng 5G cho các nhà máy tự động hóa, các khu công nghệ

cao, các qui định về chia sẻ hạ tầng để giảm chi phí đầu tư, mối liên hệ 5G và

thúc đẩy kinh tế số là gì... sự đóng góp công nghệ của ASEAN cho 5G là gì"

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nói.

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng, chưa ai đi đầu về tất cả các vấn

đề nêu trên. Có những vấn đề được bàn bạc tại hội nghị này là vấn đề lần đầu

tiên được nêu ra. Bằng cách bàn bạc và chia sẻ những vấn đề mới nhất giữa các

nước ASEAN với các nước đối tác, với các tổ chức quốc tế, với các chuyên gia

và doanh nghiệp, rồi thử nghiệm tại nước mình, học hỏi thông qua triển khai

- Learning by Doing, chúng ta sẽ là những người đi đầu. ASEAN phải là

những nước đi đầu, bởi vì chúng ta là khu vực năng động nhất trên thế giới.

Để tận dụng cơ hội to lớn mà 5G đem lại, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh

Hùng nhấn mạnh, các nước ASEAN phải liên kết lại với nhau trên tinh thần

“cùng làm, cùng phát triển”, nhằm tạo ra một Asean số: Một thị trường ICT

chung cho ASEAN, một khung chính sách ICT chung cho ASEAN, một

ASEAN phẳng về roaming, một trường đại học ICT của ASEAN, một trung

tâm đổi mới sáng tạo của ASEAN và một trung tâm của ASEAN về an ninh

không gian mạng.