ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HOÀNG TÚ ANH
CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC VỚI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÍ HỌC
THÁI NGUYÊN - 2019
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HOÀNG TÚ ANH
CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC VỚI VIỆT NAM Ngành: Địa lí học Mã ngành: 8.31.05.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÍ HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. VŨ NHƯ VÂN
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
THÁI NGUYÊN - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan và chịu trách nhiệm về các kết quả nghiên cứu trong
luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kì một công trình
nào khác. Các nguồn tài liệu tham khảo được trích dẫn đầy đủvới độ tin cậy cao
và được kiểm tra bằng TURNITIN với điểm 14%.
Thái Nguyên, ngày 17 tháng 4 năm 2019
Người thực hiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Hoàng Tú Anh
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của TS. Vũ Như Vân
CBHD hướng dẫn. Tôi cũng xin bày tỏ sự cảm ơn tới BGH Trường ĐHSP -
ĐH Thái Nguyên. Cùng các thầy, cô giáo trong Khoa Địa lí, phòng Đào tạo đã
giúp đỡ, dạy bảo tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã động viên
và tạo điều kiện giúp đỡ tôi để tôi hoàn thành tốt đề tài này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 17 tháng 4 năm 2019
Người thực hiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Hoàng Tú Anh
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii MỤC LỤC .......................................................................................................... iii DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .................................................................... iv DANH MỤC KÊNH HÌNH ................................................................................ v DANH MỤC KÊNH SỐ ..................................................................................... v MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1 1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1 2. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn nghiên cứu của đề tài ................................... 2 3. Tổng quan lịch sử nghiên cứu ......................................................................... 2 4. Quan điểm nghiên cứu ..................................................................................... 4 5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 5 6. Đóng góp của đề tài ......................................................................................... 6 7. Kết cấu luận văn .............................................................................................. 6 NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................................... 7 Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CMCN 4.0 .......................... 7 1.1. Cơ sở lí luận ............................................................................................... 7 1.1.1. Nhận thức chung ........................................................................................ 7 1.1.2. Cách mạng công nghiệp trong tiến trình phát triển kinh tế của một
quốc gia.................................................................................................... 10 1.2. Cơ sở thực tiễn ......................................................................................... 13 1.2.1. CMCN 4.0 trong một thế giới thay đổi ................................................... 13 1.2.2. Nhận diện các tiên đề vật chất để tiếp cận CMCN 4.0 ở Việt Nam ........ 22 Tiểu kết Chương 1 ............................................................................................. 26
Chương 2. TÌNH HÌNH CMCN 4.0 MỘT SỐ NƯỚC VÀ KHU VỰC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
TRÊN THẾ GIỚI .................................................................................. 27 2.1. Châu Âu và cuộc CMCN 4.0 ................................................................... 27 2.2. Một số nước đi tiên phong trong CMCN 4.0 .......................................... 31 2.2.1. Hoa kì ...................................................................................................... 31 2.2.2. Đức........................................................................................................... 33 2.2.3. Trung quốc ............................................................................................... 36
2.3. Một số nước tiêu biểu trong phát triển công nghiệp sáng tạo ................. 39 2.3.1. Công nghiệp sáng tạo - xu hướng tất yếu ................................................ 39 2.3.2. Anh - nơi khởi nguồn của công nghiệp sáng tạo ..................................... 40 2.3.3. Nhật Bản với chiến lược tập trung vào công nghiệp sáng tạo ................ 41 2.3.4. Hàn Quốc - quốc gia dẫn đầu về sáng tạo ............................................... 42 2.3.5. Singapore - từ quốc đảo nghèo trở thành con rồng châu Á ..................... 43 2.4. Sự sẵn sàng của các nước ASEAN đối với cuộc CMCN 4.0 .................. 44 2.4.1. Cộng đồng ASEAN ................................................................................. 44 2.4.2. Sự sẵn sàng bứt phá của Việt Nam trước CMCN 4.0 ............................. 46 Tiểu kết Chương 2 ............................................................................................. 50
Chương 3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY CMCN 4.0 Ở
VIỆT NAM .............................................................................................. 51 3.1. Những cơ hội và thách thức từ CMCN 4.0 đối với Việt Nam ................ 51 3.1.1. Cơ hội và thách thức ................................................................................ 51 3.1.2. Phương châm hành động: Bây giờ hoặc không bao giờ.......................... 53 3.2. Định hướng và một số giải pháp phát triển các ngành và lĩnh vực
then chốt của Việt Nam trong CMCN 4.0 ............................................... 55 3.2.1. Tổng quan về định hướng tái cơ cấu nền kinh tế trong CMCN 4.0 ........ 55 3.2.2. Phát triển ngành nông - lâm nghiệp - thủy sản trong CMCN 4.0 ........... 58 3.2.3. CMCN 4.0 trong phát triển khu vực kinh tế công nghiệp - xây dựng .... 60 3.2.4. CMCN 4.0 trong phát triển khu vực dịch vụ ........................................... 62 3.2.5. CMCN 4.0 với phát triển nguồn nhân lực ............................................... 64 3.3. Một số giải pháp đột phá ......................................................................... 67 3.3.1. Chuyển đổi số 5G: không tuần tự / không truyền thống ......................... 67 3.3.2. Xây dựng Bản đồ quốc gia số ................................................................. 69 3.3.3. Một số giải pháp xây dựng hình ảnh của quốc gia khởi nghiệp Việt Nam
trong tinh thần CMCN 4.0 ......................................................................... 70 3.3.4. Ứng phó với biến đổi khí hậu .................................................................. 71 Tiểu kết Chương 3 ............................................................................................. 73 KẾT LUẬN ....................................................................................................... 74 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 76
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Stt Chữ viết tắt Cụm từ đầy đủ
AI Trí tuệ nhân tạo 1
BigData Dữ liệu lớn 2
BigChain Chuỗi số lớn / Sổ cái 3
CMCN 4.0 Cách mạng công nghiệp lần thứ tư 4
CN 4.0 Công nghiệp hóa lần thứ tư 5
CI Chỉ số năng lực sáng tạo 6
IoT Internet kết nối vạn vật 7
ICT Công nghệ thông tin 8
ID Định danh 9
IIC Chỉ số sáng tạo 10
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
WEF Diễn đàn kinh tế thế giới 11
Hình 1.1. Cuộc CMCN trong lịch sử.......................................................................... 14
Hình 1.2. Công xưởng tương lai, hay Công nghiệp 4.0 (CN4.0) ............................... 20
Hình 1.3. Điểm số các trụ cột của Việt Nam .............................................................. 23
Hình 3.1. IoT & BigDa - biểu tượng của CMCN 4.0. ................................................ 68
DANH MỤC KÊNH HÌNH
DANH MỤC KÊNH SỐ
Bảng 1.1. Mục tiêu đến 2020 và kết quả chỉ số GII 2018 của Việt Nam ................. 24
Bảng 2.1. Xếp hạng GII 2017 của các nước ASEAN được xếp hạng ...................... 45
Bảng 2.2. So sánh thứ hạng các tiểu chỉ số ĐMST của Việt Nam qua các năm 2013,
2014, 2015, 2016 và 2017 ........................................................................ 47
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đầu thế kỉ XVIII - XIX cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên diễn ra tại
Vương quốc Anh với việc thay đổi từ lao động thủ công sang sản xuất cơ khí
nhờ sự ra đời của động cơ hơi nước. Sau đó là cuộc cách mạng lần thứ hai diễn
ra với việc sử dụng năng lượng điện để sản xuất hàng loạt, bắt đầu từ cuối thế
kỉ XIX tới khi Thế chiến 1 bùng nổ. Cuộc cách mạng công nghiệp thứ 3 trong
những năm 1970 đặc trưng bằng sản xuất tự động hóa dựa vào máy tính, thiết
bị điện tử và internet. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0)
đang diễn ra tại nhiều nước phát triển trên 3 lĩnh vực chính gồm Công nghệ
sinh học, Kĩ thuật số và Vật lý. Những yếu tố cốt lõi của kĩ thuật số trong
CMCN 4.0 sẽ là: Trí tuệ nhân tạo (AI), Internet kết nối vạn vật - Internet of
Things (IoT) và Dữ liệu lớn (BigData). Trên lĩnh vực công nghệ sinh học,
CMCN 4.0 tập trung nghiên cứu để tạo ra những bước nhảy vọt trong Nông
nghiệp, Thủy sản, Y dược, chế biến thực phẩm, bảo vệ môi trường, năng lượng
tái tạo, hóa học và vật liệu. Cuối cùng là lĩnh vực Vật lý với robot thế hệ mới,
máy in 3D, xe tự lái, các vật liệu mới (graphene, skyrmions…) và công nghệ
nano. Hiện nay CMCN 4.0 đang diễn ra tại các nước phát triển như Mỹ, châu
Âu, Đông Á. Bên cạnh những cơ hội mới, CMCN 4.0 đặt ra cho nhân loại
nhiều thách thức phải đối mặt.
CMCN 4.0 đang hiện hữu ở Việt Nam, tác động mạnh mẽ đến mọi
ngành, mọi lĩnh vực, mọi doanh nghiệp và người dân, đem lại cho chúng ta
nhiều cơ hội để nâng cao trình độ, năng lực sản xuất và cạnh tranh trong chuỗi
giá trị toàn cầu, tạo ra sự thay đổi lớn về mô hình kinh doanh bền vững và là cơ
hội cho khởi nghiệp sáng tạo. CMCN 4.0 còn có thể rút ngắn quá trình công
nghiệp hoá bằng cách phi truyền thống, phát triển nhảy vọt lên công nghệ cao.
Xuất phát từ những vấn đề lí luận và thực tiễn chúng tôi chọn hướng
nghiên cứu của luận văn với đề tài: “Cách mạng công nghiệp 4.0: Cơ hội và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
thách thức với Việt Nam”.
2. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục tiêu
Nghiên cứu cơ sở lí luận và ý nghĩa thực tiễn của cuộc CMCN 4.0. Phân
tích kinh nghiệm một số nước đi tiên phong trong CMCN 4.0, những cơ hội và
thách thức của CMCN 4.0 đối với Việt Nam, đề xuất các định hướng và giải
pháp thúc đẩy cuộc cách mạng này trong điều kiện Việt Nam
2.2. Nhiệm vụ
Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn CMCN 4.0
Thu thập, xử lí số liệu, tiến hành lập biểu đồ, bản đồ
Phân tích, tổng hợp, đánh giá các tài liệu về CMCN 4.0
Liên hệ với thực tiễn Việt Nam
2.3. Giới hạn nghiên cứu
Về không gian nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu một số quốc gia thực
hiện CMCN 4.0
Về thời gian nghiên cứu: Các số liệu được sử dụng trong luận văn được
cập nhật trong giai đoạn từ năm 2012 - 2019.
Nội dung nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu CMCN 4.0 đối với
một số quốc gia và liên hệ với thực tiễn Việt Nam.
3. Tổng quan lịch sử nghiên cứu
Để thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và Nhà Nước để công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước các nhà nghiên cứu, các nhà hoạt động chính
trị, quản lí nhà nước hết sức quan tâm đến CMCN 4.0. Trong số 13,5 triệu mục
từ / từ khóa CMCN 4.0 trên mạng internet, chúng tôi đã sử dụng 31 nguồn tư
liệu trong nước và thế giới. Nổi bật trong số đó là ấn phẩm “The Fourth
Industrial Revolution” - "Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư” của Klaus
Schwab. Trong ấn phẩm này, tác giả viết: "Cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ tư sẽ thay đổi hoàn toàn cuộc sống của chúng ta. Nó sẽ không chỉ thay đổi
cách chúng ta giao tiếp, cách chúng ta sản xuất, cách chúng ta tiêu dùng. Nó sẽ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
thay đổi chính chúng ta, cung cấp một cuộc sống hiện đại và phát triển như
giao thông thông minh, chính phủ thông minh, thành phố thông minh. Mọi thứ
sẽ được tích hợp vào một hệ sinh thái được vận hành bởi Bigdata và bởi sự hợp
tác của chính phủ với: xã hội và doanh nghiệp. Cuộc cách mạng này sẽ diễn ra
rất nhanh chóng - giống như sóng thần. Trên thực tế, nó không chỉ là một cuộc
cách mạng kĩ thuật số, mà còn là công nghệ nano và công nghệ sinh học.
Những gì WEF đang làm là thúc đẩy sự hợp tác công - tư để dẫn dắt cuộc cách
mạng này". "... Chúng ta cần chuẩn bị thật kĩ lưỡng. Tôi thấy rằng châu Á đang
sở hữu một cơ cấu dân số tương đối trẻ - là lợi thế để có thể dễ dàng đương đầu
với thế giới đang thay đổi...". Theo ông, "... để chuẩn bị cho cuộc cách mạng,
điều đặc biệt quan trọng là hệ thống giáo dục, hướng tới việc phát triển khả
năng kĩ thuật số mà còn nên bổ sung các tiêu chuẩn đạo đức và giáo dục, đào
tạo nguồn lao động chất lượng cao..." [12 /13].
Trước sức lan tỏa và hấp dẫn của CMCN 4.0, nhiều hội thảo quốc tế và
quốc gia được tổ chức ở Việt Nam với sự tham gia của các nhà khoa học trong
nước và quốc tế. Sự kiện lớn nhất trên tầm quốc tế là WEF mà người đứng đầu
là GS Klaus Schwab chính là người khai sinh ra khái niệm CMCN 4.0.
Trong số các xuất bản ấn phẩm tiếng Việt Nạm "Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư, cuộc cách mạng của sự hội tụ và tiết kiệm" do TSKH Phan Xuân
Dũng (chủ biên soạn) / CMCN 4.0 và KTXH, con người Việt Nam / "CMCN 4.).
"Vấn đề đặt ra cho phát triển Con người" của Lương Đình Hải (2018) /."Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư" của Cục Thông tin KHCN quốc gia / "CMCN 4.0
ở châu Âu..." của Nguyễn An Hà. [5] / [9] / [10] / [11] / vv... Nhiều phát biểu
có giá trị của ông Nguyễn Mạnh Hùng, Bộ trưởng Bộ TT&TT và ông Bùi Tiến
Dũng, Bộ trưởng Bộ KH&ĐT Việt Nam. [26(iii)]
Giới địa lí Việt Nam phản ứng tích cực với CMCN 4, 0 bằng Hội thảo
khoa họa Địa lí toàn quốc với tiêu đề "Khoa học Địa lý Việt Nam phục vụ phát
triển bền vững trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0” tại Tp Huế, 4/2019.
Kỉ yếu Hội nghị được sự hưởng hứng của các nhà địa lí, trong đó, đáng chú ý là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
báo cáo " Địa lí Việt Nam chuyển đổi mô hình tư duy Địa lí Việt Nam thời đại
CMCN 4.0 (ĐỊA LÍ VIỆT NAM PARADIGM 4.0). Tác giả báo này cho rằng
cuộc CMCN 4.0 diễn ra với chức năng kép đối với Địa lí Việt Nam: (i) kích
thích sự khám phá tìm tòi khung lí thuyết mới, (ii) khuyến khích đi vào thực
tiễn với tư tưởng sáng tạo trong sự dẫn dắt của paradigm 4.0; điều đó dẫn tới sự
chuyển đổi khung tư duy, theo ngôn ngữ học thuật, là cuộc cách mạng chuyển
đổi hệ thống tư duy (paradigm) [24].
Ngoài ra, còn có nhiều khá nhiều bài viết về CMCN 4.0 đã công bố dưới
dạng online, dựng nên bức tranh chung về thành tựu và diễn biến sôi động
CMCN 4.0 tại các quốc gia tiên phong thế giới, trong đó có Việt Nam nói riêng.
4. Quan điểm nghiên cứu
4.1. Quan điểm tổng hợp
Các yếu tố địa lí KTXH rất phong phú và đa dạng. Chúng có quá trình
hình thành, phát triển trong mối liên hệ nhiều chiều giữa bản thân các hiện
tượng đó với nhau và giữa chúng với các hiện tượng khác. Vì vậy, để có kết
quả nghiên cứu khách quan khoa học, chúng tôi vận dụng quan điểm tổng hợp,
lãnh thổ để nghiên cứu vận dụng CMCN 4.0 trong điều kiện Việt Nam.
4.2. Quan điểm hệ thống
Phương pháp hệ thống là công cụ phương pháp luận giúp nghiên cứu các
đối tượng phức tạp và cho ta một sản phẩm khoa học có cấu trúc và logic trong
một hệ thống.
4.3. Quan điểm kinh tế
Trong nghiên cứu địa lí KTXH, không thể thiếu quan điểm kinh tế. Vận
dụng quan điểm này, khi nghiên cứu về CMCN 4.0 cần nghiên cứu những nét
khác biệt và hiệu quả kinh tế - xã hội mang lại
4.4. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh
Nghiên cứu đặc điểm tự nhiên, đặc điểm KTXH, sự kế thừa và phát triển
qua tất cả các thời kì: quá khứ, hiện tại và tương lai. Từ đó đưa những định
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
hướng phát triển CMCN 4.0 trong điều kiện Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên phương pháp luận khoa học (phép duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử) và bám sát đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong quá trình nghiên cứu, đề
tài còn sử dụng một số phương pháp chủ yếu sau đây:
5.1. Phương pháp thu thập, phân tích tư liệu nguồn
Mặc dù có cảm giác khái niệm CMCN 4.0 khá mới mẻ đối với Việt
Nam. Điều này về cơ bản là đúng do tác động của hai ấn phẩm Cách mạng
công nghiệp lần thứ Tư. (The Fourth Industrial Revolution) của Klaus Schwab
(2016) (Bộ Ngoại giao Việt Nam biên dịch và hiệu đính, NXB Thế giới, Hà
Nội, 2016). Đề tài cần sử dụng nhiều nguồn tài liệu, số liệu khác nhau, đặc biệt
từ nguồn tư liệu truy cập trên mạng internet và nguồn tài liệu xuất bản đang
phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng.Từ nguồn thông tin thứ cấp
của các cơ quan nhà nước, các tài liệu và báo cáo của cơ quan chức năng, các
công trình nghiên cứu đã công bố, các số liệu mới cập nhật. Từ đó có thể đánh
giá thực trạng nền kinh tế và định hướng cũng như giải pháp đột phá cho sự
phát triển KTXH Việt Nam trong giai đoạn mới.
5.2. Phương pháp chuyên gia
Là phương pháp thu thập xử lí những đánh giá, dự báo bằng cách tập hợp
và tham khảo ý kiến các chuyên gia thuộc lĩnh vực kinh tế về vấn đề nghiên
cứu hoặc định hướng cho người nghiên cứu. Sử dụng phương pháp này giúp
đưa ra được những kết luận chính xác và khách quan về cách mạng công
nghiệp 4.0.
5.3. Phương pháp phân tích SWOT
Đây là một công cụ nghiên cứu đem lại hiệu quả trong nghiên cứu với
mục đích cuối cùng là hoạch định chiến lược, chính sách và giải pháp thúc đẩy
CMCN 4.0. Chúng tôi cho rằng phương pháp SWOT nhằm xác định ưu tiên hai
cặp mạnh - yếu / cơ hội - thách thức trong điều kiện cuộc CMCN 4.0. Do đó,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
nhiều khái niệm mới cần được làm rõ trước khi đi vào phân tích chiến lược với
sự ưu tiên là làm sáng tỏ sự chuyển đổi mô hình tư duy về kiến lập các chính
sách, giải pháp thúc đẩy CNCM 4.0 trong điều kiện Việt Nam. Điều đó có
nghĩa là việc học tập vận dụng kinh nghiệm, về bản chất, là sự chuyển đổi bài
học kinh nghiệm khởi nghiệp của các quốc gia tiên phong trong CMCN 4.0
thành hành động sáng tạo và khác biệt trên cơ sở phân tích sự tương đồng và
khác biệt trong hoàn cảnh lịch sử, địa lí, con người Việt Nam.
6. Đóng góp của đề tài
Thu thập, phân tích tài liệu nguồn nhằm cập nhật (update) và làm phong
phú nội hàm khái niệm CMCN 4.0 trong điều kiện Việt Nam. Trên cơ sở đó
cập nhật nội dung lí luận và thực tiễn dạy / học Địa lí nhằm bắt kịp xu thế thời
đại 4.0
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn được chia thành các chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn CMCN 4.0
Chương 2: Tình hình CMCN 4.0 trên thế giới
Chương 3: Định hướng và giải pháp thúc đẩy cuộc CMCN 4.0 trong điều
kiện Việt Nam
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
Từ khóa: CMCN 4.0 / CN 4.0 (công nghiệp 4.0)
NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CMCN 4.0
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Nhận thức chung
Từ khái niệm ban đầu Công nghiệp 4.0 (CN 4.0) đến Cách mạng công
nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) là một khoảnh khắc lịch sử vĩ đại của loài người, bắt
đầu từ điện thoại thông minh đến tủ lạnh thông minh, phổ dụng trong cuộc sống
hàng ngày của chúng ta. Công nghệ mới trên nền tảng kĩ thuật thông minh và
khác biệt đang thay đổi thế giới. CN 4.0 là nhãn hiệu Đức, với sự kết hợp dần
dần giữa thực hành sản xuất và công nghiệp truyền thống với thế giới công
nghệ ngày càng phát triển xung quanh chúng ta. Điều này bao gồm sử dụng các
triển khai M2M và Internet of Things (IoT) với quy mô lớn giúp các nhà sản
xuất và người tiêu dùng cung cấp tự động hóa tăng cường, cải thiện giao tiếp và
giám sát, cùng với tự chuẩn đoán và phân tích cấp độ mới để cung cấp một
tương lai thực sự hiệu quả. Các nhà máy, xí nghiệp tự động hóa sản xuất được
giám sát và kết nối với nhau: máy/máy; người/người; người/máy và được quản
trị liên tục, tức thời và ổn định.
Theo Gartner, trong một Báo cáo của chính phủ Đức năm 2013, CMCN
4.0 xuất phát từ khái niệm "Industrie 4.0" là "... sự kết nối các hệ thống nhúng
và cơ sở sản xuất thông minh để tạo ra sự hội tụ kĩ thuật số giữa công nghiệp,
kinh doanh, chức năng và quy trình bên trong...".Klaus Schwab, người sáng lập
và Chủ tịch điều hành Diễn đàn Kinh tế Thế Giới cho rằng: "Cách mạng công
nghiệp đầu tiên sử dụng năng lượng nước và hơi nước để cơ giới hóa sản xuất.
Cuộc cách mạng lần 2 diễn ra nhờ ứng dụng điện năng để sản xuất hàng loạt.
Cuộc cách mạng lần 3 sử dụng điện tử và công nghệ thông tin để tự động hóa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
sản xuất" [14].
Đúng như nhận định của Klaus Schwab, CMCN 4.0 đã và đang diễn ra
nhanh chóng giống như "sóng thần", thay đổi hoàn toàn cách sống, giao tiếp,
sản xuất và tiêu dùng, đem lại cho loài người một cuộc sống hiện đại, gọi
chung là một xã hội thông minh: giao thông thông minh, chính phủ thông minh,
thành phố thông minh, nông thôn thông minh, ngôi nhà thông minh... bởi vì
mọi thứ được tích hợp trong một "hệ sinh thái thông minh" được vận hành
trong dòng chảy thông tin - năng lượng AI / IoT/ BigData. Mọi nguyện vọng
tìm kiếm thông tin, dữ liệu và quản trị việc riêng / việc nhà / việc cộng đồng /
quốc gia được điện toán đám mây ghi nhận và chia sẻ thông tin được mã hóa.
Trước đây, chúng thường quen với các khải niệm làn sóng công nghiệp hóa.
Hơn thế, chính W. Rostow phân loại các khái niệm xã hội tiền công nghiệp / xã
hội công nghiệp / xã hội hậu công nghiệp, nhưng không thể nhìn ra mỗi thời kì
đó lại tồn tại một dòng chảy vật chất - năng lượng, về bản chất là dòng chảy
thông tin được đo bằng đơn vị entropi (thông lượng) hợp thành cặp đôi thực
(vật chất năng lượng) / ảo (thông tin), cũng tức là ở giai đoạn hậu công nghiệp,
chúng ta cơ hội tư duy lại, không dừng lại ở thực thể vật chất, mà đi xa hơn, là
tiếp cận cái "bóng" của nó - entroipi - do chủ thể của nó chính là con người với
một năng lực, còn gọi là tiềm thức "thông minh".
Năm 2013, trong một báo cáo của chính phủ Đức đề xuất cụm từ
Industrie 4.0 được diễn giải là Công nghiệp 4.0 trên nền tảng công nghệ thông
minh các ngành sản xuất và dịch vụ hỗ trợ cho con người chứ không đòi hỏi sự
có mặt trực tiếp của con người.
Lúc đầu, khái niệm mới này gây ra cuộc tranh luận có tính học thuật.
Những khái niệm mới có tính hấp dẫn như CN 4.0 đồng nghĩa với nhà máy
được thông minh hóa bởi các quy trình công nghệ và quản trị thông qua các
chuỗi sản xuất, phân phối và dịch vụ. Luồng gió mới CN 4.0 lan tỏa sang Mĩ,
Nhật, Trung Quốc, Hàn Quốc và nhiều nước khác. Họ nhận ra lợi thế cạnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
tranh của xu thế mới này. Bắt đầu cuộc đua công nghiệp thông minh tại nhiều
quốc gia. Tại WEF tại Davos - Kloster, Thụy Sĩ lần thứ 46 người ta chính thức
bàn tới chủ đề mới mẻ "Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư" (CMCN 4.0).
Loài người được báo trước bước ngoặt vĩ đại, hoàn toàn khác về chất với các
cuộc cách mạng công nghiệp từng diễn ra trước đây, trong đó người ta hứa hẹn
thay đổi cả chuỗi giá trị dịch vụ, gọi là internet kết nối - IoT / dịch vụ kết nối -
IoS. Vậy là từ trong khuôn khổ một dự án riêng, nước Đức đã thu hút / lôi kéo
vào cuộc các nước công nghiệp phát triển Nhật Bản, Hàn Quốc… và trở thành
một quốc gia đầu tầu / quốc gia dẫn dắt (leader - state quốc gia có sức lan tỏa)
quan trọng của cuộc cách mạng này. Với tầm nhìn rộng lớn và với khung kiến
trúc tham chiếu rõ ràng, Công nghiệp 4.0 chủ yếu đặc trưng bởi sự kết nối các
tài sản công nghiệp vật lí và công nghệ kĩ thuật số trong một hệ thống vật lý -
không gian mạng.
IoT đóng vai trò quan trọng trong phạm vi của IoT công nghiệp 4.0 với
nhiều thành phần, từ nền tảng IoT đến cổng IoT công nghiệp, thiết bị và nhiều
hơn nữa. Tất nhiên không chỉ là IoT: điện toán đám mây (và nền tảng đám
mây), dữ liệu lớn (phân tích dữ liệu tiên tiến, hồ sơ dữ liệu, trí thông minh
biên) với trí tuệ nhân tạo (có liên quan), phân tích dữ liệu ở rìa mạng (điện toán
sương mù và điện toán biên), điện thoại di động, truyền thông dữ liệu / công
nghệ mạng, thay đổi ở hệ thống sản xuất, lập kế hoạch nguồn lực doanh
nghiệp (ERP / iERP), bộ điều khiển logic lập trình (PLC), cảm biến và bộ
truyền động, MEMS và bộ chuyển đổi (cảm biến thứ cấp) và các mô hình trao
đổi dữ liệu sáng tạo.
Ngoài ra, các công nghệ tương tự, chẳng hạn như robot tự động hóa quá
trình (RPA), AI (động cơ AI, học máy), hội tụ của cả hai và cứ thế xuất hiện /
tiếp cận với tất cả các lĩnh vực phần mềm như quản lí thông tin doanh
nghiệp, quản lí quy trình kinh doanh và các ứng dụng trong thị trường tìm
nguồn cung ứng, được hiển thị trong các ứng dụng công nghiệp/sản xuất hỗ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
trợ IoT và các nền tảng AI /IoT/ BigData.
CMCN 4.0 hiện nay không bị hạn chế bởi hệ thống máy móc thông
minh, tự động kết nối trong một nhà máy, mà được kết nối rộng lớn hơn nhiều,
bao quát cả vùng công nghiệp, các đô thị, các hải cảng, kể cả mã hóa chuỗi gen
cho tới công nghệ nano, năng lượng tái tạo bằng cách tính toán điện toán đám
mây và lượng tử...
Trong một dòng chảy từ ảo sang thật, các tương tác con người/con
người, người/máy, máy/máy thu hút các nhà đầu tư mạo hiểm, nhà kinh doanh
kiếm lời, và cuối cùng người tiêu dùng cũng được hưởng lợi nhiều.
1.1.2. Cách mạng công nghiệp trong tiến trình phát triển kinh tế của một
quốc gia
1.1.2.1. Tuần tự
Một trong những thuyết kinh tế phát triển là thuyết về ba gia đoạn tăng
trưởng, bắt đầu bằng (i) giai đoạn cất cánh. Ở giai đoạn này, các nền kinh tế
tập trung vào hai yếu tố quan trọng nhất là tài nguyên đất và lao động hiện hữu
trong nước / thu hút vốn đầu tư trong nước (Hợp tác CÔNG / TƯ - PPP) và
quốc tế (ODA / FDI). Một số nước đã đi quá đà về khai thác tài nguyên, phải
đối mặt với nguy cơ hiện hữu của biến đổi khí hậu toàn cầu (Điển hình là hội
chứng Hà Lan - một bài học đắt giá cho các nước dốc sức khai thác tài nguyên
để tăng trưởng. Người Hà Lan đã chịu hậu quả đau đớn. Họ đã nhận ra thảm
họa này và nhanh chóng khắc phục bằng việc thay đổi tư duy, dựa chủ yếu vào
đầu tư cho quản lý kinh tế nước, sữa bò / hoa tuy-lip nổi tiếng Hà Lan trên thị
trường quốc tế. Sau giai đoạn cất cánh là giai đoạn phát triển (ii) ổn định với đồ
thị tăng trưởng đi ngang. Một thời gian sau, (iii) tiếp tục tăng trưởng đôi khi
với đồ thị tăng ngược. Chính trong giai đoạn này, một số nước đã thành công,
một số khác thất bại vì hiệu ứng phát triển "luẩn quẩn", càng bán tài nguyên
càng cạn kiệt, càng kêu gọi đầu tư bên ngoài (FDI/ODA), gánh nặng nợ công
tăng đến mức không thể trả nổi. Nhiều nước, điển hình là Brazin, Achentina,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
Hy Lạp, Bô Đào Nha... đã trở thành con nợ của các nước phát triển, của IMF.
Hiện tượng này dẫn tới hậu quả nghiêm trọng, đó là cuộc khủng hoảng kinh tế
năm 2008. Việt Nam may mắn không bị tác động quá nặng nề do hậu quả các
cuộc khủng hoảng đó nhờ phát triển nông nghiệp, đánh bắt và nuôi trồng thủy
sản, đã giải quyết được vấn đề tự túc lương thực, nhiều tài nguyên nhiệt đới trở
thành mặt hàng xuất khẩu hàng đầu thế giới như gạo, cà phê, cao su, hồ tiêu,
điều, rau quả...
Thuyết tăng trưởng cất cánh / ổn định / tăng trưởng tiếp như nói trên tỏ
ra không phù hợp trước các tiến bộ mới của CMCN 3.0 / CMCN 4.0. Về mặt lí
thuyết, trong điều kiện CMCN 4.0 người ta nhận ra tầm quan trọng của việc
khai thác các thành tựu công nghệ mới do CMCN 4.0 đem lại, tùy thuộc vào
hoàn cảnh cụ thể một quốc gia / lãnh thổ hiện đang ở thời điểm trong 3 giai
đoạn phát triển sau đây:
Giai đoạn I: Nền kinh tế chủ yếu dựa vào nguồn lực nội tại, trước hết là
tài nguyên, lao động, kể cả vị trí và vị thể địa lí đem lại. Ngay ở giai đoạn đầu
cũng có thể đạt năng lực cạnh tranh ở mức độ cao. VD: sản xuất lúa gạo, thủy
sản, cây công nghiệp nhiệt đới được tổ chức khai thác và tiêu thụ theo chuỗi
cung ứng toàn cầu, được điều hành trên nền tảng IoT / IoS / BigData.
Giai đoạn II: Khác biệt với giai đoạn I là giai đoạn tăng trưởng dựa trên
nguồn đầu tư. Có hai hiện tượng phải chú ý: (i) Việt Nam kêu gọi đầu tư để
mua về những kĩ thuật cũ, lạc hậu. Hệ quả là chúng ta biến đất nước thành bãi
rác công nghiệp (Vụ VINASIN là ví dụ đau đớn !). (ii) Kêu gọi đầu tư ngay
vào công nghệ hiên đại, bắt kịp với trình độ thế giới. Việt Nam đầu tư vào hiện
đại hóa NGÂN HÀNG, MẠNG LƯỚI ĐIỆN QUỐC GIA, VIỄN THÔNG.
Giai đoạn III: Nền kinh tế thông minh / sáng tạo. Đi đầu trong giai đoạn
này là các nước công nghiệp phát triển, tiêu biểu là Mĩ, Đức, trong số các nước
đang phát triển mới nổi là Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapo... Các nước này đã
thành công trong áp dụng công nghệ mới / thông minh như IoT / IoS, bước đầu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
thành công trong AI, BigData và Điện toán đám mây.
Trong ấn phẩm "Thế giới phẳng" của Thomas Freedman đã vẽ lên bức
tranh của nền kinh tế thông minh. Bây giời chúng ta thấy được tầm nhìn của tác
giả trong việc dự báo thế giới hiện thực "gồ gề" bởi các thực thể tự nhiên và
kinh tế quốc gia bị giới hạn cương giới lãnh thổ, thì nay, đã có cơ hội trở nên
"phẳng" hơn do tác động của CMCN 4.0 [20].
1.1.2.2. Bứt phá: Không truyền thống, không tuần tự, bây giờ hoặc không
bao giờ
Theo đề xuất của một số chuyên gia, một quốc gia có thể đi ngay vào
giai đoạn 3 với một số lĩnh vực nhờ tạo lập nền tảng AI / IoT / BigData. Tại
Việt Nam tập đoàn Toyota trang bị dây chuyền hiện đại cho THACO là một ví
dụ điển hình. Cả dây chuyền công nghệ lắp ráp và điều khiển từ xa từ khâu
kiểm tra chất lượng đến sản phẩm cuối cùng của VIFAST điều được điều khiển
từ Cty mẹ ở Nhật Bản. Một ví dụ nữa, đó là việc Indonesia đi ngay vào kinh tế
số bước đầu đã đem lại lợi nhuận gần 30 tỉ USD, khi nước này xây dựng tầu
điện ngầm được điều khiển bằng công nghệ số cải thiện hiện trạng giao thông
nội đô ở Giacacta.
Các nước có trình độ kinh tế hiện nay như của Việt Nam có thể giải
quyết một số nhiệm vụ cấp bách bằng công nghệ số. Ví dụ đó là việc trang bị
máy định vị GPS cho các tầu đánh cá trên Biển Đông nhằm đáp ứng điều kiện
của EU trong việc xóa thẻ vàng cảnh báo nhập khẩu cá biển Việt Nam sang thị
trường EU trong thời gian sớm nhất. Các lĩnh vực khác như kinh tế số, lập bản
đồ số đang được Việt Nam khẩn trương triển khai trong các năm 2019 - 2020
vv và vv... Việt Nam đề nghị Tổ chức Davos thành lập Trung tâm hỗ trợ Khởi
nghiệp 4.0 tại Việt Nam theo hướng đi ngay vào Chương trình quốc gia khởi
nghiệp cho Việt Nam.
Những tín hiệu nói trên cho thấy Chính phủ và các doanh nghiệp Việt
Nam cũng "sốt ruột" đi ngay vào 5G. Nếu 2G/3G/4G kết nối 7 tỷ người thì 5G
sẽ kết nối hàng ngàn tỷ thiết bị, chuyển tải toàn bộ thế giới vật lý vào thế giới
ảo. Các nước ASEAN đang có cơ hội bứt phá với 5G nhưng phải với một tư
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
duy mới, không truyền thống, không tuần tự.
Chúng ta đều có một nhận thức chung là Kinh tế số, 5G sẽ giúp ASEAN
tiếp tục là một khu vực năng động, đổi mới sáng tạo và tăng trưởng. Công nghệ
2G là công nghệ điện thoại thuần tuý. Công nghệ 3G là nửa điện thoại, nửa
data. Công nghệ 4G là thuần túy data, nhưng là cho người với người. Công
nghệ 5G là công nghệ data, nhưng là công nghệ đầu tiên được thiết kế cho kết
nối vạn vật, với một loạt tính năng mới, như độ trễ thấp, tiêu thụ nguồn nhỏ.
Công nghệ 5G sẽ tạo ra một cuộc cách mạng về kết nối. 2G/3G/4G kết nối 7 tỷ
người thì 5G sẽ kết nối hàng ngàn tỷ thiết bị, chuyển tải toàn bộ thế giới vật lý
vào thế giới ảo. Từ đó, thay đổi cơ bản cuộc sống loài người.
Những kì vọng là 5G giúp tăng dung lượng và tốc độ cho thông tin băng
rộng; tạo kết nối vạn vật, nhất là các kết nối đòi hỏi phản ứng trong thời gian
thực. Mạng 5G sẽ làm thay đổi căn bản nhiều ngành công nghiệp như các
ngành công nghiệp sản xuất, giao thông, y tế, nông nghiệp, thành phố thông
minh. Mỗi nước sẽ chọn cho mình một thứ tự ưu tiên riêng để ứng dụng 5G.
Nhưng xét về trung hạn và dài hạn thì tất cả chúng ta sẽ kì vọng thực hiện đủ cả
những ứng dụng trên của 5G.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. CMCN 4.0 trong một thế giới thay đổi
C.Mác đã đúng với luận điểm: "Những thời đại kinh tế khác nhau không
phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào
với những tư liệu lao động nào. Các tư liệu lao động không những là các thước
đo sự phát triển lao động của con người, mà còn là một chỉ tiêu của những
quan hệ xã hội, trong đó lao động được tiến hành. Trong bản thân các tư liệu
lao động, thì những tư liệu lao động cơ khí lại cấu thành những dấu hiệu đặc
trưng tiêu biểu cho một thời đại sản xuất xã hội nhất định".
Thomas Kuhn, tác giả ấn phẩm: Cách mạng chuyển đổi mô hình / khung
tư duy mà ông đặt tên là Paradigm rằng một thời đại mới sẽ xuất hiện với nhiều
tiêu chí mới sẽ dẫn tới thay đổi tiêu chí tư duy / khung tư duy. Tư duy trong thời
đại chúng ta là tư duy sáng tạo và khác biệt. Với Việt Nam, trong thời đại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
CMCN 4.0 phương châm hành động bây giờ là Phi truyền thống, không tuần
tự, bây giờ hoặc không bao giờ. Thay vì xã hội cần tới những người lập nghiệp
bằng kinh nghiệm thì lại cần tới các nhà khởi nghiệp thông minh và khác biệt,
sẵn sàng chấp nhận rủi ro, đi ngay vào nền kinh tế thông minh trên nền tảng AI
/ IoT/ BigData...
Tiêu chí quan trọng hàng đầu để xác định tính cách mạng của một cuộc
cách mạng là tính thay đổi đột ngột và triệt để về cơ cấu và động lực cũng như
các mối liên hệ bên trong và bên ngoài hệ thống.
CMCN 1.0 diễn ra cách đây hơn hai trăm năm, khoảng 1784, nhờ phát
minh máy hơi nước của J.Watt (công bố bản quyền phát minh trong năm 1785)
mở đầu kỉ nguyên sản xuất cơ khí trong lịch sử tiến bộ của nhân loại. Trên đất
Anh và Tây Âu đã xuất hiện hệ thống đường sắt chạy bằng máy hơi nước; các
nhà máy sản xuất bông vải được trang bị bằng động cơ hơi nước với năng suất
cao, nhiều sản phẩm cung vượt cầu trong nước, dẫn tới mở rộng lãnh thổ thuộc
địa tại các châu lục khác trên thế giới. Thành công vang dội của máy hơi nước
là niềm kiêu hãnh của người Anh trong câu nói "Mặt trời không bao giờ lặn
trên quốc kì nước Anh" (!).
Hình 1.1. Cuộc CMCN trong lịch sử: (1) Cơ giới hóa, năng lượng nước,
năng lượng hơi nước. (2) Động cơ điện và dây chuyền sản xuất hàng loạt.
(3) Máy tính và tự động hóa. (4) Các hệ thống liên kết thực - ảo.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
Nguồn: [26 (i)]
Trước CMCN 1.0 sinh kế của loài người chủ yếu bằng sản xuất nông
nghiệp, thủ công nghiệp dựa trên các nguồn gỗ, than củi, sức mạnh cơ bắp, sức
nước, sức gió với điển hình là cối xay gió và sử dụng sức nước. Người dân
miền núi Việt Nam sử dụng năng lượng dòng sông suối để giã gạo (cối nước)
và vận chuyển nước lên cao (cọn). Vậy là sự thống trị hàng ngàn năm của nền
văn minh nông nghiệp được thay thế bởi máy hơi nước, các loại vật liệu mới là
sắt và than đá, khiến cho năng suất lao động tăng lên và sản phẩm tiêu dùng đa
dạng đạt điểm cực thịnh. Những thành phố, những trung tâm thương mại,
những hải cảng sầm uất xuất hiện. Các nhà sản xuất bắt tay với các nhà buôn,
với các nhà chính trị coi đó là chiến thắng của chủ nghĩa tư bản, xét về quan hệ
sản xuất, đó là chiến thắng của cách mạng công nghiệp thực chứng.
CMCN 2.0 diễn ra cho đến trước Thế chiến I bùng nổ (1914-1916) với
việc phát minh ra năng lượng điện công nghiệp, nhanh chóng lan tỏa sang các
ngành công nghiệp thép, hóa chất, cơ khí, giao thông trên quy mô lớn và chiếm
lĩnh thị trường xuyên biên giới.
May mắn nhất trong lịch sử cận đại của Nhật Bản là tư tưởng cách tân
của Nhật Hoàng Minh Trị, người đã cử một đoàn các nhà chính trị và chuyên
gia đi Mĩ và phương Tây để học hỏi kinh nghiệm và tìm giải pháp mở cửa cho
đất nước vốn đóng kín một cách bí hiểm. Trong cuốn sách "Cánh buồm xanh",
người Nhật mô tả chuyến đi lịch sử này với lời nguyền thà chết một lần mở cửa
đón nhận phương Tây còn hơn suốt đời núp dưới bóng người Tàu !.
Những năm cuối TK XX, trên văn đàn Việt Nam, đã thể hiện niềm hối
tiếc xót xa là Việt Nam đã bỏ lỡ cuộc cách mạng này. Gần đây một số nhà kinh
tế và lịch sử, và ngay trong diễn đàn Quốc hội, đã thẳng thắn nói đến sự cần
thiết không thể bỏ qua CMCN 4.0 nếu không sẽ có tội với lịch sử [26 (i)].
CMCN 3.0, bắt đầu từ phát minh ra chất bán dẫn, làm cơ sở sản xuất ra
các điôt, rất phù hợp với hệ nhị phân, tức là chỉ dùng hai số 0 và 1. Trong liên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
kết chuỗi 0 / 1, đưa lạị hệ quả bất ngờ so với hệ thập phân (hệ đếm 10 con số,
từ 0 đến 9). Vậy là xuất hiện máy tính cá nhân (PC) khoảng 1970 - 1980. Ngay
sau đó, thập niên 1990, xuất hiện internet kết nối toàn cầu. Siêu máy tính của
CMCN 3.0, máy móc tự động trong một dây chuyền / một công đoạn sản xuất
đòi hỏi hàm lương trí tuệ cao, ít có sự can thiệp của lao động chân tay / cơ bắp.
Nhiều xí nghiệp trước đây cần nhiều lao động chân tay nay được tự động hóa
một phần hay toàn phần, thì giờ đây người ta chỉ thấy sự vận hành liên tục các
dây chuyền sản xuất. Nhờ đó năng suất lao động được nâng lên đáng kể, giá
thành giảm tới mức thấp bất ngờ với sự can thiệp thông minh người điều hành
và các nhà quản trị sản xuất và phân phối. Một điều bất ngờ nữa trong CMCN
3.0 là các nhà vật lí khám phá nguồn năng lượng tổng hợp nhiệt hạch, hệ quả
cuối cùng là tìm ra nguồn năng lượng sạch lí tưởng năng lượng nhiệt hạch. Sự
cố Tsecnobưn là một điển hình cảnh báo loài người trước nguy cơ rò rỉ phóng
xạ từ các lò phản ứng hạt nhân. Việc khắc phục hậu quả rất tốn kém và lâu
dài...ở Fukushima Nhật Bản là một ví dụ điển hình.
Khác với các cuộc cách mạng trước đó, CMCN 2.0 / CMCN 3.0 diễn ra
chủ yếu ở Anh và Mĩ, cuộc CMCN 4.0 lại nổ ra ở Đức. Sự kiện này bắt nguồn
từ Chiến lược phát triển công nghiệp của Chính phủ Đức với tên gọi Công
nghiệp 4.0 mà sau này sức lan tỏa của nó dẫn tới sự ra đời của khái niệm
CMCN 4.0 Khái niệm mới này được công bố tại Hội chợ Hannover, nhằm
giới thiệu chương trình hiện đại hóa nền công nghiệp Đức trên cơ sở đổi mới
căn bản nền công nghiệp truyền thống (CN 3.0). Tham vọng Đức là đưa ra
một khuôn mẫu mới nhằm tạo lập cách tiếp cận mới trong nền kinh tế. Và ai
muốn, xin mời đến nhận sự trợ giúp của Đức. Nền kinh tế Đức dẫn đầu thế
giới về điều kiện đầu tư và cung cấp kĩ thuật / công nghệ hiện đại cho cuộc
cách mạng này.
Nước Đức tổ chức hàng loạt hội thảo hấp dẫn để thu hút CMCN 4,0
nhằm quảng bá các nhà máy "thông minh". Trên phạm vi toàn cầu với những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
tùy biến sản phẩm theo nhu cầu khách hàng chứ không bị áp đặt bởi người vận
hành (operator) và địa điểm sản xuất cố định, nói cách khác, đó là sự ra đời một
mô hình hoạt động mới về nguyên tắc. Có lẽ điều này đã tác động đến các nhà
khoa học luận mà tiêu biểu là Thomas Kuln đề xuất mô hình / khung tư duy
mới trong thời đại chúng ta.
Không dừng lại hệ thống THỰC / ẢO, các nhà lí thuyết đã phát triển
khái niệm CN4.0 thành CMCN 4.0, với tham vọng đi xa hơn nhiều, và với sức
lan tỏa sang các lĩnh vực khác như mã hóa / giải mã ADN (chuỗi gen) cho tới
công nghệ nano từ tính toán siêu lượng tử, làm nền tảng cho tương tác vật lí số
và sinh học số. Đó chính là sự khác biệt cơ bản của CMCN 4.0 với các cuộc
CMCN 2.0 / 3.0 trước đây.
Người có công làm rõ nội hàm của CMCN 4. 0 là Klaus Schwab, và
chính ông được coi là khai sinh ra khái niệm này, đã diễn giải CMCN 4.0 là “...
một cụm thuật ngữ cho các công nghệ và khái niệm của tổ chức trong chuỗi giá
trị ” đi cùng với các hệ thống vật lý trong không gian ảo, Internet của vạn vật
và Internet của các dịch vụ..." [14].
Từ đây, chúng ta hiểu rằng CMCN 4.0 với nền tảng vật lí thông minh
làm cơ sở để nền sản xuất mới trên nền nền tảng AI / IoT / BigData... trong
chuỗi chuyển đổi các giá trị thực bằng chuỗi giá trị ảo, nhưng sản phẩm cuối
cùng lại là sản phẩm thực.
Người Đức thấy trong CMCN 4.0 là cơ hội để tăng trưởng kinh tế trên
nền tảng mới. Nếu các nền tảng cũ đã "đáo hạn" mà dừng lại thì chỉ chuốc lấy
tụt hậu và nhanh chóng bị bỏ lại sau cuộc chơi. Nắm bắt cơ hội này, người Đức
nỗ lực phổ biến /nói khác đi là quảng bá khái niệm CMCN 4.0 bằng việc soạn
thảo chiến lực và thực thi trên quy mô cả nước với các tiêu chuẩn mới nhằm tạo
ra các hình mẫu cho người khác phải noi theo. Hệ quả là CMCN 4 có bản
quyền / thương hiệu Đức. Từ "made in Germany 3.0", nước Đức bước ra sân
khấu toàn cầu với "made in Germany 4.0". Ai cần thương hiệu mới này phải
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
đến Đức mà học tập, tư vấn và mua công nghệ CMCN 4.0 của Đức !
Từ Đức làn sóng CMCN 4.0 lan truyền đến Hàn Quốc. Chính phủ Hàn
Quốc soạn thảo chiến lược tích hợp - CNTT&TT và các lĩnh vực có lợi nhuận
cao như chế tạo ô tô, đóng tàu, thành lập các vườn ươm công nghệ mới nhằm
hỗ trợ cho các khám phá THỰC / ẢO và đưa vào sản xuất và dịch vụ. 2000
doanh nghiệp cỡ vừa và nhỏ, nơi dễ tiếp thu làn sóng công nghệ mới đã nhanh
nhạy trong việc xây dựng những nhà máy thông minh. Lúc đầu tưởng như quá
tốn kém, nhưng thật bất ngờ là, các sản phẩm Hàn Quốc trở thành có thương
hiệu mạnh. Các máy móc, ô tô của Hàn Quốc có sức cạnh tranh ngang ngửa với
Mĩ. Chớp thời cơ này, các nhà đầu tư tới tấp rót vốn cho Hàn Quốc. Hàn Quốc
mạnh lên ngoài sức tưởng tượng ! Có điều lí thú cũng cần biết, Hàn Quốc
nhanh chóng chuyển giao công nghệ cho Việt Nam như lắp ráp các điện thoại
thông minh, các dây chuyền sản xuất ô tô, dây chuyền đóng tàu cỡ lớn cho Việt
Nam. Về thực chất là Hàn Quốc đẩy CMCN 3.0 sang Việt nam. Cũng đồng
nghĩa là để dọn rác để xây dựng các nhà máy trên nền tảng mới 4.0 trên "đất
nhà mình" (!?).
Điều tương tự cũng diễn ra với nền công nghiệp ở Trung Quốc. Họ soạn
thảo chiến lược "sản xuất tại" Trung Quốc 2025 không phải là Trung Quốc
công xưởng thế giới, mà là một Trung Quốc chế tạo mới tại đất nước 1,5 tỉ dân
này, ngay bây giờ đã nổi tiếng với các thương hiệu có khả năng cạnh tranh
ngang ngửa như HUAWEI, ALIBABA... Đồng thời, nước này tham vọng trở
thành người khổng lồ về sản xuất robot. Được biết, từ năm 2020, Trung Quốc
có dự định sản xuất 100 nghìn robot mỗi năm.
Nhờ kết nối IoT và xử lí tức thời từ trung tâm điều hành, truyền đạt /
nhận chỉ thị trực tuyến của người quản trị sản xuất mà qui mô công xưởng có
cơ hội vượt ra ngoài khuôn khổ hiện hữu, xuyên vùng và xuyên quốc gia, mang
tính toàn cầu. Đó không gì khác hơn là sự giao tiếp online mà không cần can
thiệp trực tiếp của con người; lúc đó dây chuyền sản xuất tự vận hành giảm tải
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
hoặc tăng tốc phù hợp với lượng đầu vào cũng như đầu ra đang tồn kho.
Các doanh nghiệp sản xuất và cung ứng chi tiết tích hợp thống nhất trong
một chuỗi liên hoàn và tự động. Nhờ đó, chi phí cho lao động trực tiếp và quản
trị được giảm nhẹ đáng kể. Nhờ lượng thông tin chuyển hóa tương tác trao đổi
ảo/thực, máy/máy, máy/người tăng gấp nhiều lần, sẽ kì vọng dẫn đến những
thay đổi lớn.
Thứ nhất, nền sản xuất dư thừa cung vượt cầu được thay vào bằng sự
cân bằng đầu ra của dây chuyền sản xuất nhằm đáp ứng kịp thời và vừa đủ với
các đơn đặt hàng thông qua sự truyền tải thông tin theo thời gian thực, tránh
được phải xây dựng các kho / bãi chứa với nhiều rủi ro do thời tiết, cháy nổ và
phá hoại. Vậy là xuất hiện cơ hội cho việc tự động truy cập vào các BigChain /
BigData mà không cần phải tra cứu tốn công, nhưng đạt hiệu quả tức thời và
bất cứ lúc nào cần.
Thư hai, trong CMCN 4.0 khái niệm thiết kế mới một sản phẩm cũng
thay đổi trên căn bản. Nhờ áp dụng phần mềm hệ thống điều khiển mà giá trị
gia tăng từ các khâu gia công vật liệu đến thành phẩm - một công đoạn rất tốn
sức và chi phí lớn, đã tăng lên đáng kể.
Trong tương lai, nhu cầu khách hàng được tiếp nhận tự động và xử lí
nhanh chóng, qua IoT truyền đạt tới cơ sở sản xuất nhanh chóng để có thể lên
đời như những smartphone hiện nay của các nhà xản xuất như SASUNG,
iPHONE,... Được biết, việc AI được tích hợp trong thiết kế thông minh cho
phép hiện thực hóa yêu cầu này.
Thứ ba, sự thay đổi của công nghệ ICT trở thành yếu tố chi phối các
doanh nghiệp vì họ nắm giữ vai trò truyền tài thông tin nguồn. Cũng có ý kiến
cho rằng, các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sẽ bị các doanh nghiệp thông
tin viễn thông biến thành "tay sai" do họ làm chủ IoT. Để tránh tai ương này,
các doanh nghiệp sản xuất chủ động viết phần mềm riêng cho mình, biến các
doanh nghiệp thông tin trở về vị trí "hỗ trợ" chứ không thể làm chủ quen sai
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
bảo nhà sản xuất như trước nữa. Người ta dự báo rằng trong tương lai không xa
sẽ diễn ra cuộc đảo lộn trong nền sản xuất 4.0 bằng việc các doanh nghiệp nắm
trước các nhu cầu khách hàng, tự đưa ra nhu cầu khách hàng, sau đó thuê các xí
nghiệp thông tin truyền tải.
Hình 1.2. Công xưởng tương lai, hay Công nghiệp 4.0 (CN4.0), nơi các hệ
thống thực - ảo xóa mờ ranh giới giữa con người và máy móc, nâng cao đáng
kể hiệu quả sản xuất và cho phép tạo ra sản phẩm riêng biệt cho đại chúng.
Bằng việc khai thác kho tàng đồ sộ của BigData, mạng 5G, nền kinh tế
số hứa hẹn đem đến những thay đổi bất ngờ không thể tưởng tượng được nữa !.
Trong các cuộc CMCN trước đây, chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa đã lạm thu /
sử dụng thành tựu cách mạng công nghiệp cho mình một cách phi lí, dẫn tới sự
dãn cách giàu nghèo, xung đột xã hội và giữa các quốc gia dân tộc. Ai làm chủ
cách mạng công nghiệp sẽ giàu nhanh hơn, ai trong vòng ảnh hưởng của nó, lại
nghèo nhanh hơn. Bất công bằng xã hội trở nên gay gắt. Theo đánh giá của các
nhà tư tưởng CMCN 4.0, lần cách mạng này người tiêu dùng được hưởng lợi
nhiều nhất từ CMCN 4.0 vì cho ra các sản phẩm mới cho người tiêu dùng với
chi phi thấp tới mức không đáng kể. Chẳng hạn, chỉ với 1 PC hoặc 1 ipad, với
khả năng xử lí bằng 5000 PC (máy tính để bàn) trước đây, bạn đã có thể đọc
sách, xem bất kì phim nào mong muốn. Nhớ rằng 1GB lưu trữ trước đây phải
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
chi phí 10 nghìn USD, thế mà ngày nay chỉ tốn khoảng 0,03 USD ! Bạn không
thể tin đó là lợi ích cho người tiêu dùng trong thời đại CMCN 4.0. Hơn thế,
trong tương lai không xa, sẽ diễn ra sự đảo lộn kì diệu của sáng tạo công nghệ
và lợi ích bền vững và năng suất lao động. Các khâu hậu cần trong các chuỗi
cung toàn cầu cũng được đảm bảo an toàn và riêng tư. Và tất nhiên chi phí lưu
kho giảm hẳn, đến lượt chúng đem lại cơ hội mở rộng thị trường và thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, những mặt trái có thể có của cuộc cách mạng này, theo hai
nhà kinh tế Erik Brynjlffsson & Andrrw McAfe cảnh báo, có thể nảy sinh nguy
cơ xung đột giữa lợi nhuận và vốn lao động. Người lao động ở một số nước
đông dân có trình độ phát triển thấp thường gặp rủi ro.
Đương nhiên, ở giai đoạn đầu của CMCN 4.0, khó mà tiên lượng hết,
kịch bản nào sẽ xảy ra. Lịch sử kinh tế học từng cho thấy vẫn có thể diễn ra
đồng thời hai kịch bản, nhưng kịch bản chủ lưu vẫn thắng thế, kịch bản xấu ít
kì vọng hơn. Như vậy, thị trường vốn lao động sẽ phân hóa theo xu hướng kép
"kĩ năng thấp / lương thấp"; "kĩ năng cao / lương cao"; và trong trường hợp
này có thể gia tăng nguy cơ mâu thuẫn trong xã hội.
Các nhà kinh điển của thuyết CMCN 4.0 cũng lo ngại trước sự bất bình
đẳng xã hội ngày càng tăng lên. Hiện nay, những người hưởng lợi là các nhà
cung cấp vốn trí tuệ và vật chất - những nhà sáng tạo, các cổ đông và nhà đầu
tư. Vì trên thực tế sự dãn cách giàu nghèo là có thật, những người yếu thế xuất
hiện như là những người phụ thuộc vào vốn và lao động. Kết cục là thị trường
bị phân cực ở hai đầu cao / thấp, xuất hiện khoảng trống ở giữa. Người lao
động thất vọng và lo lắng về tương lai con cái do không được học hành tử tế,
điều kiện sống eo hẹp...
Đội ngũ người thất nghiệp, xã hội bất bình, tình trạng phản ứng của
người áo vàng ở Pháp hiện nay là gì nếu không phải là những điềm báo trước
cho sự quá hăng hái của các nhà chủ thuyết CMCN 4.0. Thêm nữa, người ta
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
cũng đã nhận ra sự bất bình phổ biến trong tầng lớp trung lưu trước thực tế một
nền kinh tế mà kẻ chiến thắng được tất cả (winner -taker-all economy), kẻ bại
sẽ tay trắng, biết đâu ngày mai đây không đến lượt họ.
Trong chia sẻ thông tin người ta cũng thấy hiện tượng bất công bằng
bởi vì mới có 3/10 người được tiếp cận / chia sẻ các yếu tố nền tảng của ICT.
Nhớ rằng các trang mạng xã hội có thể bị lợi dụng để truyền bá các tư tưởng
cực đoan, phản nhân văn. Ví dụ điển hình là tuyên ngôn 72 trang của tên sát
nhân tại nhà thờ Hồi giáo ở Niu Zilơn vừa cách đây mấy ngày, cho dù nhà
mạng tức thời bóc đi tuyên ngôn đó nhưng nó lại kịp được lưu trữ và truyền
bá qua các cá nhân khác, chờ dịp bùng phát như hiện tượng Brevic ở Na Uy
cách đây nhiều năm.
Trong CMCN 4.0 các yếu tố nền tảng của xã hội như sản xuất / lưu
thông / phân phối đến người tiêu dùng cuối cùng sẽ rất "thông minh", và do quá
"thông minh" thì hiệu quả phát triển lại phụ thuộc vào sự đáp ứng tức thì, buộc
các nhà máy phải thông minh hơn, linh hoạt hơn do được đáp ứng bởi tự động
hóa. Đó là mặt tích cực của vấn đề, nhưng không nên quên rằng chính thời đại
IoT buộc các quốc gia phải chuẩn bị trước nếu không muốn rơi vào hội chứng
lạm dụng / lợi dụng hệ sinh thái IoT để xâm phạm quyền riêng tư. Ở đây công
việc bảo mật trở nên bức xúc, đòi hỏi độ tin cậy và tính ổn định của hệ thống
giao tiếp M2M, kể cả thời gian trễ ngắn và ổn định. Vấn đề an toàn/an ninh
mạng, bảo vệ bí quyết công nghiệp, đề phòng rủi ro trong ICT trở nên cấp thiết
hơn bao giờ hết.
1.2.2. Nhận diện các tiên đề vật chất để tiếp cận CMCN 4.0 ở Việt Nam
So với các quốc gia và vùng lãnh thổ cùng ở vạch xuất phát, bức tranh
phát triển đất nước đầy kịch tính. Một mặt, cơ hội rút ngắn khoảng cách phát
triển, tránh né sa bẫy thu nhập trung bình (có nghĩa là nếu cứ như trước đây, và
hiện nay, càng gia tăng đầu tư với kì vọng tăng trưởng thu nhập, Việt Nam vẫn
không thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, ở đây được hiểu là trung bình thấp,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
chứ không phải trung bình cao. Lúc đó xã hội tiềm ẩn nhiều nguy có bất an xã
hội; xóa đói giảm nghèo không bền vững, BĐKH tác động tiêu cực ở vùng
ĐBSCL và vùng núi, biên giới và hải đảo ngày càng tăng. Nhưng quan trọng
hơn cả là việc giải tỏa bài học lịch sử vì sự lạc hậu bảo thủ của vương triều
Nguyễn và chính sách đô hộ của chế độ thực dân Pháp khiến Việt Nam bỏ lỡ
cơ hội của CMCN 2.0 trong TK XIX. Đã có đại biểu quốc hội cảnh báo rằng
một bộ phận ưu tú Việt Nam vẫn còn chần chừ, dị ứng với những thay đổi,
chưa sẵn sàng đón nhận những thay đổi sáng tạo, dám chấp nhận rủi ro để phát
triển bứt phá, trở thành lực cản đáng kể trên đường xây dựng quốc gia khởi
nghiệp theo tinh thần CMCN 4.0.
Hình 1.3. Điểm số các trụ cột của Việt Nam
Nếu nhìn sâu vào vấn đề, bức tranh Việt Nam đầy tương phản, nhiều
người lạc quan, không ít người sốt ruột trước CMCN 4.0. Diễn đàn của WEF
cảnh báo Việt Nam hiện nằm trong bảng xếp hàng cùng nhóm quốc gia yếu
kém về mức độ sẵn sàng cho nền sản xuất mới.
Xét về yếu tố nhân lực đổi mới, Việt Nam xếp thứ 70, và xếp thứ 81 về
chỉ số lao động có chuyên môn cao; về chất lượng đào tạo các trường đại học
xếp thứ 75. Để thích ứng với CMCN 4.0 phải có 3 tiêu chí quan trọng: (i) Đổi
mới công nghệ sáng tạo / (ii) Năng lực sáng tạo / (iii) Năng lực cạnh tranh
quốc gia. Vậy mà trong 100 quốc gia mà WEF xếp hạng, Việt Nam đứng hàng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
thứ 90 về đổi mới công nghệ và sáng tạo; về công nghệ nền tảng xếp thứ 92, và
về năng lực sáng tạo Việt Nam xếp hàng thứ 77. Về năng lực cạnh tranh toàn
cầu, chỉ số ứng dụng CN TT&TT Việt Nam xếp hạng thứ 95 trên 140 quốc gia,
trên Lào 01 bậc, kém Campuchia 3 bậc.
Bảng 1.1. Mục tiêu đến 2020 và kết quả chỉ số GII 2018 của Việt Nam
2017
2018
Mục tiêu đến 2020
Điểm xếp hạng Điểm xếp hạng Điểm
xếp hạng
38.3
47
Xếp hạng chung
37.94
45
38.5
44
Thể chế
52.8
87
78
56.2
55.0
Nguồn nhân lực và nghiên cứu
31.0
70
66
30.0
31.0
Cơ sở hạ tầng
42.7
77
78
40.4
43.0
Trình độ phát triển của thị trường 52.8
34
33
54.3
51.0
Trình độ phát triển của kinh doanh 29.4
73
30
66
35.0
Sản phẩm kiến thức và công nghệ 35.0
28
35
32.4
33.0
Sản phẩm sáng tạo
34.8
52
46
35
35.0
Nguồn: 26 (iii)
Năm 2017 tỉ lệ sử dụng PC và internet tại các đơn vị kinh tế sự nghiệp sử
dụng mới chiếm 36%; số cơ sở cung cấp hoàn chỉnh dịch vụ công ở mức độ 4
mới chiếm 1,2% thấp nhất theo thang xếp hạng của UNDP.
Nếu nền tảng CMCN 4.0 là tiếp cận sáng tạo và khác biệt được coi là
những tiêu chí cốt lõi thì các nhân tố tài nguyên thiên nhiên và lao động không
còn lợi thế cạnh tranh trong nền kinh tế số nữa. Thêm nữa dân số Việt Nam gia
tăng nhanh và nguy cơ chính là chưa giàu đã già; già trong đói nghèo thì rất
nguy hiểm cho đất nước. Trong thời đại phổ dụng robot, người máy, rào cản
của chủ nghĩa bảo hộ giảm nhẹ, càng nhiều nguồn FDI đổ vào Việt Nam khiến
lợi thế của lao động giá rẻ giảm mạnh, nguy cơ không có việc làm trở thành
nhân tố gây bất ổn xã hội.
Ngay trong lĩnh vực đô thị, đúng lúc Việt Nam phải đô thị hóa trong thời
đại đô thị hóa thông minh, thành phố khoa học, trên hết và trước hết cho các đô
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
thị này là nền tảng mới của đô thị hóa 4.0, nếu không thì đô thị hóa lại có nguy
cơ nông thôn hóa, và rồi lại rơi vào vòng lẩn quẩn đô thị hay nông thôn /nông
thôn hay đô thị.
Vấn đề là trong khó khăn thách thức của CMCN 4.0 dù có thừa quyết
tâm, thì cần phải có bước đi vững chắc, xây dựng môi trường thể chế phù hợp,
nhận diện lại lợi thế cạnh tranh trong thời đại số, tìm ra mô hình khởi nghiệp
CMCN 4.0 cho đất nước. Khâu đột phá bắt đầu từ chuyển đổi số bằng công cụ
mạng 5G và ICT, được coi là yếu tố cấu thành của mọi hoạt động, tương tự như
yếu tố nguồn không khác gì nguồn nhân lực công nghệ cao, nguồn tài chính dồi
dào, nguồn hợp tác từ các quốc gia có quan hệ đối tác chiến lược như EU, Hoa
Kì, Trung Quốc và các nước CPTTP. Tóm lại phải có cơ chế chính sách nhanh,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
mạnh, đúng và kịp thời, không được bỏ lỡ cơ hội CMCN 4.0.
Tiểu kết Chương 1
1. CMCN 4.0 xuất phát từ khái niệm "Industrie 4.0" được hiểu là... " sự
kết nối các hệ thống nhúng và cơ sở sản xuất thông minh để tạo ra sự hội tụ kĩ
thuật số giữa công nghiệp, kinh doanh, chức năng và quy trình bên trong...".
Theo Klaus Schwab, người sáng lập và chủ tịch điều hành Diễn đàn Kinh tế
Thế Giới nói về CMCN 4.0 như sau: "CMCN 4.0 sẽ thay đổi hoàn toàn cuộc
sống của chúng ta. Nó sẽ không chỉ thay đổi cách chúng ta giao tiếp, cách
chúng ta sản xuất, cách chúng ta tiêu dùng. Cuộc cách mạng này sẽ diễn ra rất
chóng vánh - giống như sóng thần...(!)"
2. Cuộc CMCN 4.0 khởi phát từ 6 năm trước (2011) tại Hội chợ
Hannover, LB Đức với chương trình công nghiệp 4.0 nhằm nâng cao nền công
nghiệp cơ khí truyền thống của nước này. CMCN 4.0 nhanh chóng lan tỏa sang
các nước châu Âu, Mĩ, Đức, Trung Quốc, Hàn Quốc...và các nước phát triển
G7 với những khoản đầu tư lớn để nghiên cứu / triển khai (R/D) các yếu tố nền
tảng cho nền kinh tế thông minh. Một số nước đang phát triển như Ấn Độ,
Brasin, ASEAN tiếp cận nhanh chóng CMCN 4.0.
3. CMCN 4.0 đặt loài người trước nhiều cơ hội tăng trưởng kinh tế, rút
ngắn / thu hẹp khoảng cách phát triển, giảm nghèo bền vững, ứng phó có hiệu
quả với BĐKH toàn cầu. Nhưng thách thức ngày càng lớn do cạnh tranh quyết
liệt giữa các nền kinh tế, dẫn tới nguy cơ xung đột lợi ích giữa các quốc gia
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
phát triển và chậm phát triển.
Chương 2
TÌNH HÌNH CMCN 4.0 MỘT SỐ NƯỚC VÀ KHU VỰC
TRÊN THẾ GIỚI
2.1. Châu Âu và cuộc CMCN 4.0
Năm 2014, trong báo cáo “Vì sự phục hưng của nền công nghiệp châu
Âu” (For a European Industrial Renaissance), Ủy ban châu Âu tuyên bố rằng
các công nghệ số (các ứng dụng internet công nghiệp mới, các nhà máy thông
minh, robot và in 3D) là các yếu tố cơ bản của sự phục hưng châu Âu. Trong
báo cáo về chính sách công nghiệp (Industrial policy Communication) năm
2012, Ủy ban châu Âu đã xác định 6 vấn đề ưu tiên trong lĩnh vực công nghiệp,
ba trong số đó liên quan trực tiếp đến ngành công nghiệp 4.0, cụ thể là công
nghệ chế tạo tiên tiến (advanced manufacturing) / công nghệ then chốt (ví dụ:
pin, vật liệu thông minh và quy trình sản xuất tạo hiệu suất cao) / và hạ tầng kĩ
thuật số. Báo cáo này cũng đặt mục tiêu tăng tỉ lệ sản xuất trong tổng giá trị gia
tăng ở EU lên 20% vào năm 2020 [12]. Bên cạnh đó, EU tổ chức diễn đàn
Chính sách Chiến lược về khởi nghiệp công nghệ số (Strategic Policy Forum
on Digital Entrepreneurship), tập trung thảo luận về sự chuyển đổi số và kinh tế
số. Tại diễn đàn này, đã có nhiều ý kiến đề xuất thành lập các trung tâm ưu tú,
tăng cường tiêu chuẩn, cung cấp tài chính và thúc đẩy phát triển kĩ năng kĩ
thuật số.
Cũng trong báo cáo “Vì sự phục hưng của nền công nghiệp châu Âu ”
(For a European Industrial Renaissance) năm 2014, Ủy ban châu Âu (European
Commission - EC) đã đưa ra các ưu tiên đối với chính sách công nghiệp châu
Âu và kêu gọi các nước châu Âu nhận thức được tầm quan trọng của ngành
công nghiệp trong việc tăng trưởng và tạo ra việc làm. EC cũng tuyên bố việc
áp dụng công nghệ kĩ thuật số (các ứng dụng internet, robot và in 3D) là vô
cùng cần thiết để EU nâng cao năng suất lao động trên toàn bộ hệ thống trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
một chiến lược kinh doanh, phân phối sản phẩm và dịch vụ thống nhất.
Tháng 05/2015, EU đã công bố bản kế hoạch chi tiết để thành lập một
“Thị trường kĩ thuật số chung”. Mục tiêu của thị trường này là dỡ bỏ các bức
rào cản và biến 28 thị trường quốc gia thành một thị trường duy nhất, tạo ra
một khu vực tự do di chuyển hàng hóa, con người, dịch vụ và vốn được đảm
bảo, giúp truy cập trực tuyến một cách liền mạch và không phân biệt quốc tịch.
“Thị trường kĩ thuật số chung” có thể đóng góp 415 tỉ € cho nền kinh tế châu
Âu, thúc đẩy tăng trưởng việc làm, cạnh tranh, đẩu tư và đổi mới.
Ngoài ra, EU thúc đẩy thực hiện chương trình e.Skills để giảm sự thiếu
hụt lao động có kĩ năng về ICT, đặc biệt là tạo ra một quan hệ đối tác nhiều
bên gọi là Liên minh toàn diện về việc làm trong ngành kĩ thuật số để việc đào
tạo ICT trở nên hấp dẫn hơn. EU đã đưa ra kêu gọi đổi mới hơn trong ngành
kĩ thuật số và quản lí dữ liệu, cũng như sử dụng các nguồn tài trợ từ Quỹ kiến
trúc và đầu tư châu Âu (ESIF) để hỗ trợ giáo dục ICT và đào tạo nghề. Bên
cạnh đó, EU đã đưa ra sáng kiến “Dòng chảy dữ liệu miễn phí" (Free flow of
data initiative). Sáng kiến này hứa hẹn sẽ giải quyết vấn đề quyền sở hữu dữ
liệu và khả năng tương tác trong các hoạt động theo mô hình kinh doanh
thương mại điện tử Busines-to-Business (liên doanh nghiệp) và Machine-to-
Machine (công nghệ cho phép các thiết bị có thể trao đổi với các hệ thống
thông qua mạng 5G vô tuyến hoặc hữu tuyến), cũng như khuyến khích các
nước áp dụng các tiêu chuẩn về số hóa vào lĩnh vực công nghiệp và phát triển
chuyên môn và kĩ năng số.
EU cũng hỗ trợ một chương trình hành động thúc đẩy phát triển kinh tế
số kéo dài từ năm 2008 tới năm 2014, tập trung vào việc sử dụng ICT thông
minh, định hướng thị trường toàn cầu. Trong giai đoạn 2014 - 2020, chương
trình nghiên cứu Hoziron của EU sẽ cung cấp gần 80 tỉ € cho nghiên cứu và đổi
mới, bao gồm cả hỗ trợ phát triển các công nghệ then chốt. EU cũng dành
khoản tài trợ đáng kể cho chế tạo nguyên mẫu và trình diễn (prototypes and
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
demonstration projects) [15]. Một số dự án tiêu biểu như "Dự án Nhà máy
tương lai” là một chương trình theo hình thức hợp tác công tư với ngân sách dự
kiến khoảng 1,5 tỷ €; dự án “Công nghiệp chế biến bền vững thông qua hiệu
quả nguồn tài nguyên (Sustainable process industry through resource efficiency
- SPIRE) được cấp ngân sách 0,9 tỉ €. Cùng với đó, sáng kiến khung lần thứ 7
“Sáng tạo ICT cho các doanh nghiệp chế tạo vừa và nhỏ (I4MS)” đã được EU
dành ngân sách 77 triệu € để hỗ trợ cho xuất chế biến trung bình nắm vững
công nghệ chuyển đổi kĩ thuật số trong các lĩnh vực như điện toán đám mây,
robot và mô phỏng. Ngoài ra, ít nhất 100 tỉ € từ Quỹ Đầu tư và Xây dựng Châu
Âu (ESIF) dành cho đầu tư vào đổi mới, thúc đẩy các nước tập trung vào lợi thế
của mình và tạo ra những thay đổi về giá trị của EU.
Trong khuôn khổ EU-15, (trong số 29 nuóc thành viên EU có 15 ngước -
EU được xem là các quốc gia có nền kinh tế thành công). Họ đã chuyển đổi gặt
hái được nhiều thành tựu nhất định kể từ những năm 1990 và thu hẹp khoảng
cách phát triển với các nước phát triển châu Âu. Ba Lan là một điển hình đầy
ấn tượng. Trong 20 năm qua, tỉ lệ tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Ba Lan
đã tăng từ 36% lên 63% so với mức trung bình EU-15. Từng bước một, Ba Lan
đã dần hội nhập với thị trường rộng lớn châu Âu và gia nhập EU năm 2004. Ba
Lan cũng được công nhận đồng thời là nước duy nhất ở châu Âu có nền kinh tế
không bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Gần
26% tổng giá trị gia tăng của Ba Lan cao hơn 19% trung bình của EU-15.
Ngành công nghiệp của Ba Lan bao gồm ba ngành sản xuất, khai thác mỏ và
năng lượng (dầu khí). Đây được xem là các nhóm ngành sử dụng lao động, và
cũng là lợi thế của Ba Lan khi so sánh với các nước trong khu vực. Chi phí
nhân công ở Ba Lan thấp nhất so với các nước EU. Mặc dù vậy, Ba Lan lại là
một nước có lực lượng lao động có trình độ học vấn cao với 43% trong độ tuổi
từ 25-34 có trình độ đại học, so với mức trung bình 38% của EU-15. Với những
lợi thế về chi phí lao động thấp, sự tiếp cận vào các thị trường hấp dẫn Tây Âu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
và cải thiện cơ sở hạ tầng, Ba Lan đã trở thành một điểm đến lý tưởng cho các
trung tâm sản xuất và dịch vụ chung. Sự tăng trưởng này cũng bắt nguồn từ các
quỹ phát triển bền vững của EU, trong đó Ba Lan là nước được nhận nhiều nhất
với 67 tỷ € trong những năm 2007-2013 và được phân bổ 77 tỷ € trong những
năm 2014-2020.
Tuy nhiên, so với các nước khác trong EU, trước ngưỡng cửa của cuộc
CMCN 4.0, Ba Lan vẫn cần một lộ trình và bước đi thích hợp sẽ là một trong
những nước dễ bị tổn thương (khi so sánh với các nước EU) nếu không có
những lộ trình và bước đi phù hợp để thích nghi với sự thay đổi lớn bởi vì chi
phí lao động thấp ở Ba Lan có thể bị thay thế bởi rô bốt - với cường độ làm
việc 24/24, không cần trả lương, đóng thuế hay bảo hiểm. Thậm chí bị đe dọa
khi mở rộng quy mô sản xuất thông minh có khả năng cạnh tranh cao, kể cả các
ngành công nghiệp có tỉ trọng xuất khẩu cao cũng có thể bị ảnh hưởng khi mà
nhu cầu của khách hàng cũng thay đổi, yêu cầu cao hơn để phù hợp với các giải
pháp công nghệ 4.0 (ví dụ ngành sản xuất điện tử), phá vỡ các chuỗi giá trị hiện
có. Ngoài ra, đối với các doanh nghiệp, đòi hỏi cần thiết phải cải thiện kĩ năng
và phát triển nguồn nhân lực nếu như không muốn bị bỏ lại sau cuộc cạnh tranh
toàn cầu. Trong cuộc đua CMCN 4.0 Ba Lan có lợi thế do có lực lượng lao
động trẻ có mặt bằng học vấn và tay nghề cao. Do đó Ba Lan hoàn toàn có thể
chủ động và phát triển trong lĩnh vực công nghệ thông tin (phần mềm, các giải
pháp định hướng dữ liệu...), thúc đẩy nền kinh tế ứng dụng vào lĩnh vực công
nghiệp, góp phần tạo thêm nhiều việc làm mới.
Ba Lan cũng đã bắt đầu các công việc để chuẩn bị cho một chiến lược
dài hạn. Theo đó, Bộ trưởng Bộ KH Ba Lan đã công bố một chương trình chiến
lược với ngân sách 1 tỷ (zloty Ba Lan) nhằm ủng hộ các hoạt động đổi mới và
sáng tạo trong cuộc cách mạng 4.0, bao gồm: quá trình số hóa, tự động hóa,
quản trị số hóa. Và trong suốt một năm qua, Bộ Khoa học Ba Lan đã phối hợp
cùng Trung tâm nghiên cứu và Phát triển Quốc gia cấp kinh phí cho các đơn vị
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
kinh tế - khoa học của Ba Lan khoảng 10 tỷ (zloty Ba Lan), kí được 1492 hợp
đồng với các đơn vị tham gia vào chương trình. Ngoài ra, chính phủ Ba Lan với
lộ trình giảm thuế 30% cho các doanh nghiệp lớn đi đầu trong RD. Các doanh
nghiệp vừa và nhỏ được đặc biệt ưu tiên đến 50%. Cùng với đó, sự thành lập
của Trung tâm nền tảng CMCN 4.0 Ba Lan, khi đi vào hoạt động từ đầu năm
2018 sẽ điều phối và kết nối công / tư giúp các doanh nghiệp chuyển đổi mô
hình hoạt động thông qua việc hỗ trợ thông tin và công nghệ. Ngoài ra, chính
phủ cũng đang nỗ lực thiết lập một Viện công nghệ Quốc gia (NIT) để kết hợp
một cách tốt nhất các viện nghiên cứu của Ba Lan, giúp thực hiện các dự án
phức tạp trong các lĩnh vực chiến lược như công nghệ sinh học, vật liệu hiện
đại và năng lượng. Bên cạnh đó, việc tích cực giới thiệu các công nghệ mới đặc
biệt vào các ngành công nghiệp mũi nhọn của Ba Lan như hàng không, quốc
phòng, ô tô (những ngành đã tham gia sâu rộng vào chuỗi cung ứng) nhằm duy
trì vai trò dẫn đầu trong các xu hướng (trend) của cuộc cách mạng mới.
2.2. Một số nước đi tiên phong trong CMCN 4.0
2.2.1. Hoa kì
Nền kinh tế Hoa Kì là một nền kinh tế phát triển hàng đầu thế giới trên
cơ sở sáng tạo và khác biệt. Tuy không phải là quê hương của hai cuộc cách
mạng 2.0/3.0 nhưng những đóng góp vô cùng to lớn của nhà sáng chế Edison
trên nhiều lĩnh vực làm thay đổi thế giới như bóng đèn điện, xe điện chạy trong
thành phố. Hệ thống quản lí dây chuyền sản xuất của Ford và rất nhiều giải
thưởng Noben hàng năm đều thuộc người Mĩ...
Việc thành lập WEF như người sáng lập tổ chức này Klaus Schwab nói
là để dạy người Đức học cách quản lí kinh tế của người Mĩ cho người Đức.
WEF đi đầu trong tuyên truyền và phổ biến CMCN 4.0.
Đáng chú ý đầu tiên cùng thời kì khởi phát khái niệm CMCN 4.0 Tổng
thống Obama đề xướng "Sáng kiến Đối tác Chế tạo tiên tiến" (AMP) nhằm thu
hút nhiều CEO các doanh nghiệp hàng đầu tham gia. Năm 2012, AMP đưa ra
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
16 khuyến nghị nhằm thu nhiều viện khoa học công / tư vào duy trì vị trí kinh
tế hàng đầu thế giới. Với 2,2 tỉ $ USD, chính quyền Obama chi cho nghiên cứu
R&D để hỗ trợ nghiên cứu các bí quyết sản xuất và thành lập cổng thông tin
điện tử để điều hành RD các sáng kiến trong khu vực công / tư. Hoa Kì thành
lập Liên minh Internet - công nghiệp (IIC) nhằm thúc đẩy công nghiệp phát
triển và sử dụng mạng internet rộng rãi. Nhờ đó, khái niệm IoT được sử dụng
rộng rãi trong chuỗi cung ứng - sản xuất - phân phối sản phẩm tiêu dùng, đảm
bảo các xí nghiệp, mọi thiết bị kể cả đời cũ để được sử dụng trong mạng lưới
điều hành thống nhất. Hệ quả là các công ty, các tập đoàn sáng tạo được IIC cổ
vũ đem lại cơ hội cho các nhà sản xuất và thương mại thống nhất vận hành theo
một hệ thống tiêu chuẩn chung, thông qua các giao thức phổ dụng, xóa đi mọi
rào cản trong nền kinh tế mà công lao đó thuộc về các thành viên IIC như Intel,
Genenral Electric, Cisco System, IBM, AT&T...).
Quỹ đầu tư khoa học quốc gia Mĩ tập trung phát triển Cyber-Physical
Systems (CPS - Hệ thống thực / ảo). Hệ quả là Hoa Kì trở thành cục nam châm
cho sản xuất quốc gia tập khởi nghiệp trong ngành công nghệ cao trên cơ sở
đầu tư công - tư và chia sẻ lợi ích từ các ngành công nghệ có hàm lượng trí tuệ
cao. 2,9 tỉ USD trích từ ngân sách Liên bang tập trung để hiện đại hóa trong sản
xuất quy trình sản xuất / công nghệ / vật liệu / robot /người máy/...
Có điều lí thú tưởng như là nghịch lí, khu vực công nghiệp Mĩ bước sang
giai đoạn tái re-industrialization tức là "tái - công nghiệp hóa", bởi lí do đơn
giản mà người Mĩ đã nhận ra các khu vực dịch vụ và xây dựng hiện đóng góp
rất hạn chế cho tăng trưởng kinh tế. Đã đến lúc phải quay lại xây dựng nền tảng
mới công nghệ hiện đại vào các ngành công nghiệp truyền thống nhằm tạo
thêm nhiều việc làm như công nghiệp chế biến và sản xuất ô tô.
Quốc hội Mĩ cho rằng hiện giá lao động ở Mĩ quá cao, nền kinh tế nội
địa kém sức cạnh tranh. Các doanh nghiệp Mĩ đem thiết bị và công nghệ hiện
đại sang các nước khác có giá nhân công thấp, giá thuê mặt bằng và dịch vụ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
hậu mãi hấp dẫn, và do đó, thu được lợi nhuận cao. Hậu quả là người lao động
Mĩ bất bình vì thiếu việc làm, và đó là lí do chính khiến ứng viên Hilary
Clinton thất cử, Donal Trump với phương châm "Nước Mĩ trên hết", "Các
doanh nghiệp Mĩ trở về đất Mĩ" đã thắng cử, chứ đâu có phải là do sự can thiệp
từ bên ngoài. Gần đây nhiều xí nghiệp Mĩ quay trở về Mĩ, giá lao động bắt đầu
giảm nhẹ so với các nước Anh, Pháp. Tuy nhiên các nước lại có xu hướng tìm
mọi cách để giữ chân người Mĩ, chẳng hạn, trong chiến tranh thương mại Mĩ -
Trung, Trung quốc ra điều kiện người Mĩ phải chuyển giao công nghệ. Tất
nhiên mỗi nước đều có cách riêng của họ vì ai trong số họ đều lấy lợi ích quốc
gia dân tộc lên vị trí hàng đầu.
Sự tái khởi động nền công nghiệp của Mĩ nên hiểu là một cách làm thực
dụng của cuộc CMCN 4.0, trong khi đề xướng khái niệm này Đức nói thẳng ra
là công nghiệp 4.0. Về thực chất người Mĩ đi trước và đi khá xa trong các chiến
lược của AMP. Nhờ đó GDP được tăng mạnh nhờ gia tăng thị phần và tiêu
chuẩn xuất / nhập khẩu và tiêu dùng cao, buộc các nước phụ thuộc vào năng
lực cạnh tranh và sức hấp dẫn vào thị trường Mĩ. Còn việc triệu hồi các tập
đoàn lớn công nghiệp lớn về nước chỉ là một cách để kích cầu sử dụng lao động
trong nước mà các tổng thống khi tranh cử đều hứa hẹn giải quyết vấn đề việc
làm, tăng GDP và giữ vị thế cạnh tranh vượt trội / hơn hẳn các nước khác đều
có lí do riêng của Mĩ và các đồng minh.
Trong điều kiện nền kinh tế cạnh tranh và sáng tạo, CMCN 4.0 diễn ra ở
Mĩ nhanh hơn và hiệu quả hơn, chưa nói là, ảnh hưởng của họ đến các nước
khác cũng lớn hơn khiến nhiều vấn đề phức tạp về địa kinh - tế / địa - chính trị
sẽ trở nên gay gắt hơn trong một thế giới đa cực như ngày nay.
2.2.2. Đức
Với "Industria 4.0" nước Đức được coi là quê hương / nơi nổ ra cuộc
CMCN 4.0, nền công nghiệp mới của Đức được xây dựng trên nền tảng công
nghệ mới và hiện đại AI / IoT / BigData.
Theo khuyến nghị tại Báo cáo về Công nghiệp 4.0, Chính phủ Đức xây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
dựng Nền tảng tổ chức Công nghiệp 4.0 (The industria 4.0 Platphorm). Đó là
việc thành lập Ban chỉ đạo dưới sự điều hành của Ban Thư kí và Hội đồng gồm
đại diện thành viên Chính phủ các bang, các công ty, đại diện các hiệp hội nghề
nghiệp, các nhà khoa học và các chuyên gia công nghiệp hàng đầu đất nước.
Tham gia Hội đồng này gồm đại diện các chính phủ bang,các tập đoàn lớn, cả
nhà nước và khu vực tư nhân với tư cách là cơ quan tối cao có quyền định
hướng hiện đại hóa toàn bộ nền công nghiệp nước Đức.
Trên nền tảng mới, nhóm công tác triển khai chức năng kép: (i) Khẩn
trương triển khai trên phạm vi rộng toàn quốc công nghệ cơ bản hiện đại; (ii)
Công việc cần làm ngay, là triển khai các R/D sáng tạo về nguyên tắc trên một
số phân khúc hoặc một chuỗi cung ứng toàn cầu mang thương hiệu "Made in
Germany 4.0" với quyết tâm chiến lược là nước Đức phải trở thành địa chỉ hấp
dẫn và tin cậy với các đối tác, đồng thời tăng cường năng lực cạnh tranh và
năng lực tự vệ cho các ngành sản xuất trong nước đủ sức cạnh tranh trên bình
diện khu vực và toàn cầu.
Theo tinh thần đó, Đức tập trung vào một số lĩnh vực trọng điểm như:
Tiêu chuẩn hóa / Quản trị băng thông rộng / Đảm bảo an ninh và an toàn mạng
/ Các công việc thiết kế và hiện thực hóa thiết kế trên nền tảng số / Đẩy mạnh
đào tạo và dạy nghề / Đặc biệt coi trọng và coi đó là nguyên tắc nền tảng là tính
hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn lực tài chính, đầu tư và sức lao động
chuyên nghiệp với trình độ cao.
Bây giờ đã đến lúc nước Đức phải thu hút lao động công nghệ cao, đặc
biệt là ICT. Đúng lúc này Hiệp định Selgel bắt đầu có hiệu lực. Đức đón gần 1
triệu người nhập cư đến từ Trung Đông và Bắc Phi trong cuộc khủng hoảng
chính trị vừa qua. Mặc dù bị dư luận trong nước phản đối lúc đầu, nhưng sức
mạnh của chiến lược công ghệ 4.0 đã gần như hóa giải tất cả, và có lẽ hiệp ước
tự do đi lại / di chuyển lao động trong khuôn khổ Hiệp ước SELGEL tỏ ra có
hiệu quả tích cực, đem lại cơ hội tốt nhất để triển khai các nội dung của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
Industrie 4.0.
Cội nguồn của Chiến lược Industria 4.0 của Đức được Thomas Mosh
giải thích rằng mặc dù nền kinh tế Đức đang ở vị trí dẫn đầu nhưng đang đứng
trước nguy cơ đánh mất lợi thế cạnh tranh do toàn cầu hóa đem lại về giá sản
xuất các sản phẩm truyền thống, sử dụng nguồn nhân lực có kĩ thuật cao và kỉ
luật lao động nghiêm túc kiểu Đức đã hình thành từ trong lịch sử kinh tế hàng
thế kỉ. Đức chỉ có thế, nếu không bị tụt hậu trong cuộc chơi toàn cầu, bằng việc
tạo mới các giải pháp công nghệ độc đáo và dịch vụ hấp dẫn hơn so với các sản
phẩm truyền thống. Nếu ta để ý tới nhiều một số quảng cáo ở Hà Nội và các
thành phố lớn sẽ thấy những ngôn từ mới đầy hấp dẫn, và cứ nói đến thương
hiệu Đức, là người tiêu dùng tin tưởng, không kém gì các thương hiệu Made in
Japan / Made in USA / Made in Germany...
Trong Industrie 4.0, khác với các CMCVN 1.0 / 2.0 / 3.0, là IoT được coi
là yếu tố cốt lõi, đại diện cho CMCN 4.0 vì vai trò quan trọng đặc biệt của nó là
khả năng tổ chức / quản lí / quản trị các chu trình công nghệ thiết kế / sản xuất /
thương hiệu / phân phối / dịch vụ hậu mãi.
Hệ quả nhãn tiền của CMCN 4.0 dựa trên yếu tố IoT là cung ứng nhanh,
kịp thời và có hiệu quả các giải pháp công nghệ, các khâu trong chuỗi cung ứng
sản xuất và dịch vụ liên kết thông minh trong một hệ thống máy móc / kho bãi /
người tiêu dùng cuối cùng.
Người Đức biết rằng trong lĩnh vực này, người Mĩ có kinh nghiệm hơn
trong các hoạt động sáng tạo và khác biệt, và đã thành công lớn. Việc học tập
kinh nghiệm ở người Mĩ được đặt ra. Chính phủ Đức triển khai các chương
trình Hỗ trợ doanh nghiệp trẻ / mới kiểu German Silicon Valley Accelarator
dưới sự quản lí của Chính phủ Liên Bang. Hàng năm Chính phủ tổ chức 10
đoàn doanh nghiệp trẻ sang San Francisco, California để tìm hiểu và trình bày
và trao đổi các ý tưởng mới, học hỏi kinh nghiệm Mĩ ngay từ đất Mĩ. Khi về
nước, họ đã có sẵn thực tiễn trải nghiệm và tự tin để triển khai theo tinh thần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
quốc gia khởi nghiệp.
Với tư duy duy lí, người Đức biết rằng "lịch sử phát triển Đức chủ yếu
bằng bộ não con người", cũng tức là bằng năng lực trí tuệ con người. Vậy mà
đến giờ nước Đức lại cảm thấy thiếu nguồn năng lực nhân tài. Vấn nạn này chỉ
có thể được hóa giải bằng việc phát huy trí thông minh Đức, kĩ thuật tinh xảo
Đức và kỉ luật Đức, đồng thời thực hiện chính sách mở cửa thông thoáng với
những ưu đãi đặc biệt để đón nhận nguồn lực trí tuệ từ bên ngoài. Thêm nữa
hàng năm khoảng 7 triệu người nước ngoài, ưu tiên có trình độ khoa học công
nghệ lành nghề, được đến làm việc tại Đức, với thời hạn 12 tháng, sinh sống
với cả gia đình, sau đó họ có nguyện vọng ở lại là công ty có nhu cầu thuê tiếp,
thì Chính phủ sẵn sàng cấp visa dài hạn.
Những cố gắng nói trên cho thấy CMCN nước Đức diễn ra trong hoàn
cảnh của một nước hoàn thành công nghiệp hóa giai đoạn thứ ba (CMCN 3.0),
chuẩn bị đủ điều kiện chín muồi để tiến vào CMCN 4.0. Sự phát triển tuần tự
đó chính là nền tảng sức mạnh công nghiệp, là đảm bảo cho những hứa hẹn do
CMCN 4.0 đem lại trong tư cách là nơi nổ ra phát súng đầu tiên và đưa Đức
vào hàng ngũ người lãnh đạo (leaders) CMCN 4.0.
2.2.3. Trung quốc
Khác Chiến lược Tái công nghiệp hóa (re-industrialization policy) của
Mĩ trong 10 năm với kì vọng đưa nền kinh tế từ kinh tế dịch vụ trở lại kinh tế
công nghiệp trên nền tảng công nghệ cao, và cũng khác với Công nghiệp 4.0
của Đức với kì vọng đặt toàn bộ nền kinh tế trên nền tảng IoT với kì vọng duy
trì năng lực cạnh tranh khu vực và toàn cầu, năm 2915, Kế hoạch "made in
China 2025 của Trung Quốc triển khai với tham vọng trong vòng 10 năm
Trung Quốc trở thành người sản xuất khổng lồ, chứ không phải công xưởng thế
giới, bằng cách sử dụng nề tảng IoT / AI / IoS. Trung Quốc nhận thấy sự cần
thiết phải tập trung vào tự động hóa và kĩ thuật số để điều khiển các quy trình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
trong chuỗi cung ứng sản xuất và tiêu dùng.
Mục đích chiến lược của Made in China - 225 được Elsa B. Kania (2019)
phân tích trong bài báo Đánh giá Kế hoạch ‘Made in China 2025 trên tạp cvhi
Dipplomat, Mĩ: "... Chúng ta sẽ làm việc nhanh hơn để xây dựng Trung Quốc
trở thành nhà sản xuất chất lượng và phát triển sản xuất tiên tiến, thúc đẩy hội
nhập Internet, dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo (AI) vào nền kinh tế thực hơn nữa,
và thúc đẩy các lĩnh vực tăng trưởng mới và thúc đẩy tăng trưởng tiêu dùng
trung bình-cao cấp, phát triển theo định hướng đổi mới, nền kinh tế xanh và khí
thải thấp, nền kinh tế chia sẻ, các chuỗi cung ứng hiện đại và dịch vụ vốn nhân
lực. Chúng ta sẽ hỗ trợ các ngành công nghiệp truyền thống tự nâng cấp bản
thân và đẩy nhanh sự phát triển của các ngành dịch vụ hiện đại để đưa các
ngành công nghiệp Trung Quốc lên đến tầm trung - cao cấp của chuỗi giá trị
toàn cầu và thúc đẩy một số nhóm sản xuất tiên tiến đẳng cấp thế giới..." [8].
Các nhà kinh tế Trung Quốc đang phân vân trước câu hỏi, liệu Made in
China - 2025 có nguy cơ bỏ lỡ cơ hội CMCN 4.0.
Có thể có và cũng có thể không !
Thực ra Trung Quốc đã có phần phản ứng chậm trước CMCN 4.0. Mới
có 10% doanh nghiệp bắt đầu chuyển đổi số, phổ cập IoT, tức là chuyển đổi
sang IoT, mặc dù một số công ty chưa thực sự mặn mà trước xu thế mới này.
Tất nhiên người Trung Quốc không chịu ngồi yên trước làn sóng CMCN 4.0.
Với mục đích nhập thiết bị và quy trình vận hành sản xuất, Trung Quốc đã mua
cả gói một số xí nghiệp công nghệ có sử dụng nền tảng IoT. Nhờ đó họ đã
chiếm chỗ thứ 14 / 20 nước đi đầu trong IoT. Bằng cách này, về bản chất,
Trung Quốc mới chỉ tiếp cận phần ngọn / chỉ là 1/10 của núi băng trôi, còn 9/10
tức là yếu tố nền tảng thì chưa rõ nét.
Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường khẳng định cuộc cạnh tranh
ngày nay trên thương trường là cuộc cạnh tranh sáng tạo và khác biệt, giữa tài
năng và giáo dục. Ông cũng chỉ rõ nhiệm vụ các tổ chức giáo dục chuyển
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
hướng sang cải thiện năng lực trên cơ sở mới tư duy sáng tạo và kinh doanh
năng động. Theo đó, Trung Quốc tiến hành khẩn trương cải cách giáo dục quốc
dân. Với "Made in China - 2025, Trung Quốc tràn đầy tham vọng chiếm vị trí
đứng đầu thế giới với mục đích trong vòng 10 năm, tốc độ tăng trưởng sản xuất
phải tăng mức trung bình đến mức cao. Để hiện thực hóa tham vọng này, Chiến
lược của Trung Quốc là ưu tiên tập trung vào 6 lĩnh vực trọng điểm trong đó có
DA thành lập 15 Trung tâm đổi mới công nghệ sáng tạo trong năm 2020, và
đến năm 2025 là 40 trung tâm xúc tiến công nghiệp thông minh. Một loạt chính
sách được soạn thảo và triển khai không chậm trễ trong cải cách thể chế quản
trị công và huy động các nguồn lực xã hội.
Được biết, mỗi năm Trung Quốc dành 2.5% GDP mỗi năm cho R/D,
tương đương với mức 2,05% /năm của EU-28, do đó 20% GDP của Trung Quốc
được tiến bộ KHKT tạo ra, đồng thời với hạn chế nhập khẩu không quá 30%.
Trung Quốc có tham vọng dẫn đầu thế giới về sở hữu trí tuệ và bản
quyền tác giả, và lúc đó về số lượng bằng sáng chế thuộc nhóm 5 quốc gia dẫn
đầu. Nhớ rằng người Trung Quốc rất giỏi sáng chế, và cũng giỏi sao chép
(coppy) khiến Mĩ và các nước khác rất ganh tị. Chỉ riêng năm 2013 Trung
Quốc có tổng đăng kí bản quyền tác giả lên tới 705 nghìn (cao nhất thế giới,
sau Mĩ) chiếm 84,5% trong số 825,2 nghìn bản quyền tác giả (theo công bố Tổ
chức bản quyền Trí tuệ Thế giới 2016). Dẫn đầu thế giới về trích dẫn nguồn tài
liệu thuộc về các nhà khoa học và công nghệ Trung Quốc.
Những thành tựu nói trên một lần nữa khẳng định CMCN 4.0 đang diễn
ra ở Trung Quốc khá bài bản, quyết liệt và bước đầu đem lại thành công. Trong
những năm gần đây Trung Quốc đã thiết lập mới được 7 ngành công nghiệp
công nghệ "cốt lõi", góp phần gia tăng GDP từ 8% năm 2015 lên 16% trong
năm 2020. Với nguồn vốn đầu tư 4 nghìn tỉ NDT cho 7 ngành công nghiệp
chiến lược này, các nhà hoạch định chính sách kì vọng Trung Quốc sẽ gia nhập
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
hàng ngũ các quốc gia thành công nhất trên toàn cầu.
Trung Quốc cho rằng trong lĩnh vực CMCN 4.0, CNTT&TT được coi là
yếu tố hạ tầng của hạ tầng. Đúng như với người Mĩ và người Đức đang làm. Đó
là triển khai rộng rãi IoT bằng việc đầu tư trọng điểm cho R&D cho ứng dụng
điện toán đám mây, BigData và triển khai công nghệ kĩ thuật số. Chính phủ
Trung Quốc kêu gọi các doanh nghiệp nước ngoài tham gia và cùng chia sẻ lợi
ích trong các ngành công nghiệp trọng điểm mới nổi. Người Trung Quốc nung
nấu làm nên sự nghiệp lớn với các thương hiệu mạnh như ALIBABA,
HUAWEI.., chuyển đổi Trung Quốc từ "công xưởng thế giới" (Manuafacturing
China) sang "Made in China 2025" (Chế tạo thế giới) và nhằm khảng định một
Thương hiệu mới đầy hấp dẫn "Thiết kế tại Trung Quốc" (make in China) tầm
cỡ thế giới. (Phụ lục 1).
2.3. Một số nước tiêu biểu trong phát triển công nghiệp sáng tạo
2.3.1. Công nghiệp sáng tạo - xu hướng tất yếu
Nhiều quốc gia đã nhận thức rõ hơn về phát triển công nghiệp sáng tạo,
công nghiệp văn hóa và coi văn hóa, tri thức như là một tài sản, là sự bổ sung
giá trị trong cả nền kinh tế. Trong xã hội hiện đại, công nghiệp sáng tạo được
xem là một lĩnh vực tăng trưởng chính của kinh tế toàn cầu. Và hiện nay, nhiều
quốc gia trên thế giới đã nhận thức rõ hơn về phát triển công nghiệp sáng tạo,
công nghiệp văn hóa và coi văn hóa, tri thức như là một tài sản, là sự bổ sung
giá trị trong cả nền kinh tế là điều cần thiết.
Thuật ngữ “công nghiệp sáng tạo” (creative industry CI) đã xuất hiện ở
Anh vào giữa những năm 90 của thế kỷ XX. Theo định nghĩa của UNESCO,
công nghiệp sáng tạo bao gồm những sản phẩm mang tính sáng tạo thuộc lĩnh
vực văn hóa và nghệ thuật. Đó là hoạt động bắt nguồn từ sự sáng tạo, kỹ năng
và năng khiếu của cá nhân, có tiềm năng tạo ra của cải, việc làm qua quá trình
khai thác quyền sở hữu trí tuệ.
Công nghiệp sáng tạo bao gồm các chu trình, sản phẩm và dịch vụ rộng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
lớn mà ở đó sự sáng tạo là trung tâm. Hiện nay, 11 ngành đã được coi là thuộc
về công nghiệp sáng tạo gồm: quảng cáo, kiến trúc, giải trí kỹ thuật số, mỹ
thuật đồ cổ và thủ công mỹ nghệ, thiết kế mỹ thuật, phim ảnh và video, in ấn
xuất bản, âm nhạc, nghệ thuật biểu diễn, phát thanh truyền hình và phần mềm
vi tính. Là một trong những ngành tăng trưởng nhanh và lớn nhất, vài năm gần
đây, mặc dù sự tăng trưởng này không nhanh ở một số khu vực do khủng hoảng
kinh tế toàn cầu và hệ quả của nó, song, nhìn tổng thể ngành này vẫn phát triển,
đặc biệt là ở các thị trường tiêu thụ chính. Châu Âu, ngành công nghiệp sáng
tạo có sự đóng góp lớn cho nền kinh tế, tạo ra khoảng 3% GDP (theo giá thị
trường khoảng 500 tỷ Euro) và tạo công việc cho khoảng 6 triệu người. Ở Anh,
xuất khẩu dịch vụ bởi các ngành công nghiệp sáng tạo chiếm hơn 10% tổng số
kim ngạch xuất khẩu dịch vụ. Ở Hong Kong (Trung Quốc), 85% thu nhập quốc
dân có được từ nguồn thu dịch vụ giải trí, truyền hình, quảng cáo…
2.3.2. Anh - nơi khởi nguồn của công nghiệp sáng tạo
Từ cuối những năm 60 của thế kỷ XX, máy thu hình màu xuất hiện đã
được các doanh nghiệp tư nhân kinh doanh giải trí khai thác triệt để. Sự phát
triển của nước Anh trong lĩnh vực này trở nên nổi bật kể từ những năm 90 khi
các nước tiên tiến đã chuyển sản xuất sang các nước đang phát triển nhằm giảm
chi phí lao động và Anh cũng đã tìm kiếm một động cơ tăng trưởng kinh tế
mới. Và việc chuyển hướng sang phát triển các ngành công nghiệp sáng tạo dựa
trên nguồn tri thức và tiềm năng sáng tạo để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ
mới, có giá trị gia tăng cao là bước đi đúng đắn của nước này.
Có thể khẳng định, nước Anh chính là một trong những quốc gia đi đầu
trong phát triển các ngành công nghiệp sáng tạo trên thế giới. Phát triển các
ngành công nghiệp sáng tạo là hướng đi tất yếu của Anh khi những ngành công
nghiệp nổi tiếng ở đây như đóng tàu, sản xuất máy móc cơ khí,… khó có thể
cạnh tranh với những nước có nền kinh tế mới phát triển với nguồn nguyên liệu
phong phú, nguồn nhân lực dồi dào, giá rẻ. Ở Anh, ngành công nghiệp văn hóa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
được xem là một lĩnh vực thuộc kinh tế sáng tạo. Kinh tế sáng tạo là một trong
những thành công của nền kinh tế nước này với tốc độ tăng trưởng bình quân
hằng năm gấp hai lần so với các ngành kinh tế khác, đóng góp đáng kể vào sự
hồi phục, cũng như trở thành động lực phát triển của nền kinh tế Anh trong
những năm vừa qua. Theo số liệu thống kê năm 2016 của Chính phủ Anh,
ngành công nghiệp sáng tạo của Anh đã đem lại cho nước này 84,1 tỷ bảng
Anh, một con số kỷ lục và chiếm 5,2% GVA (tổng giá trị gia tăng) của toàn
nền kinh tế Anh. Trong đó, ngành sản xuất phim của Anh, âm nhạc, trò chơi
video, đồ thủ công và xuất bản là những ngành công nghiệp sáng tạo có quy mô
lớn nhất và có ảnh hưởng về văn hóa mạnh mẽ nhất của Anh. Đây là những
ngành giữ vai trò dẫn đầu trong việc thúc đẩy phục hồi kinh tế Anh.
Bên cạnh đó, số lượng việc làm trong ngành công nghiệp sáng tạo tại
nước Anh trong vòng 5 năm trở lại đây đã tăng gần 20%, thu hút 1,9 triệu nhân
công. Ngành này đã tạo ra nhiều việc làm, tăng doanh thu từ xuất khẩu sản
phẩm công nghiệp sáng tạo, phát triển kinh tế địa phương thông qua các ngành,
nghề điển hình của mỗi nơi, tạo ra các trung tâm văn hóa nghệ thuật thu hút
khách du lịch. Đây được xem là ngành thu hút lao động nhanh nhất, đồng thời
là một trong những ngành thành công nhất tại Anh.
2.3.3. Nhật Bản với chiến lược tập trung vào công nghiệp sáng tạo
Nhật Bản là một trong những quốc gia chú trọng phát triển kinh tế theo
hướng kích thích sự phát triển các ngành công nghiệp sáng tạo. Các sản phẩm
sáng tạo không những đem lại lợi ích cho việc quảng bá văn hóa mà còn thúc
đẩy kinh tế Nhật Bản tăng trưởng mạnh.
Còn nhớ trong buổi lễ bế mạc của Olympic Rio 2016, khán giả đã không
lấy làm lạ với sự xuất hiện của đại diện đất nước Mặt trời mọc với tư cách chủ
nhà của Olympic 2020. Tuy nhiên, điều đặc biệt diễn ra khi Thủ tướng Nhật
Bản Shinzo Abe bất ngờ khoác lên mình bộ trang phục của nhân vật trò chơi
điện tử huyền thoại Super Mario, vốn được coi là biểu tượng xuất khẩu văn hóa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
lớn nhất của Nhật Bản. Điều này khiến khán giả nhiều nơi trên thế giới cảm
thấy thích thú và ngay lập tức những hình ảnh trên được chia sẻ rất nhiều trên
các trang mạng xã hội, thu hút sự quan tâm đầy hào hứng của dư luận.
Ngoài sự hứng thú tạo ra cho khán giả trên khắp thế giới khi họ nhận ra hình
ảnh quen thuộc của chú thợ sửa ống nước Super Mario, việc xuất hiện của Thủ
tướng Shinzo Abe còn đem lại điểm cộng cho hãng sản xuất trò chơi điện tử
Nintendo, tác giả của nhượng quyền thương mại của tựa trò chơi Mario, Zelda
hay đồng sở hữu của Pokémon GO.
Không phải ngẫu nhiên khi nước Nhật Bản nổi tiếng với các sản phẩm
văn hóa liên quan đến hoạt hình, trò chơi hay truyện tranh, mà tất cả đều nằm
trong một chiến lược xuất khẩu văn hóa của đất nước này trong những năm gần
đây - chính sách “Cool Japan”. Chính sách này nhằm chiếm thiện cảm của thế
giới đối với Nhật Bản thậm chí nó còn có thể giải quyết các vấn đề kinh tế suy
thoái dựa trên một số sản phẩm ví dụ như món sushi hay hình ảnh hoạt hình.
Chính sách “Cool Japan” xuất phát từ sự yếu thế dần của ngành công
nghiệp điện tử và xe hơi của Nhật Bản trước sự cạnh tranh lớn đến từ các đối
thủ châu Á. Chính sách này khởi xướng từ năm 2013, được Thượng viện Nhật
Bản thông qua với ngân sách 500 triệu USD cho kế hoạch 20 năm. Chiến lược
tập trung vào các ngành “công nghiệp sáng tạo” của Nhật Bản còn bao gồm
nhiều lĩnh vực như: ẩm thực, hàng thủ công, thời trang, hoạt hình hay âm
nhạc… Các nội dung này được cho là sẽ giúp tăng trưởng việc bán hàng hóa
của Nhật Bản.
Bộ Kinh tế thương mại và Công nghiệp Nhật Bản hy vọng chính sách
này sẽ tạo thuận lợi khi gia nhập thị trường toàn cầu cho các công ty vừa và
nhỏ của Nhật Bản. Hơn nữa, gia tăng sự hiện diện của các sản phẩm văn hóa
Nhật Bản sẽ thu hút nhiều du khách quốc tế đến với nước này hơn.
2.3.4. Hàn Quốc - quốc gia dẫn đầu về sáng tạo
Hàn Quốc là quốc gia đặt phát triển văn hóa thành một trong những chính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
sách trọng điểm của Nhà nước. Thậm chí, đất nước này còn chủ trương nâng
ngành công nghiệp văn hóa lên vị trí dẫn dắt các ngành công nghiệp khác. Năm
2016, Hàn Quốc cùng với Đức, Thụy Sĩ, Nhật Bản và Thụy Điển đã lọt vào top 5
quốc gia dẫn đầu về các ý tưởng (theo xếp hạng chỉ số sáng tạo Bloomberg).
Để có được vị trí này, Hàn Quốc đã thực hiện một cuộc cách mạng công
nghệ và quản trị để chấn hưng đất nước. Trọng tâm của cuộc cách mạng này là
đổi mới sáng tạo ở mọi cấp bậc. Điển hình là sự thành lập viện Nghiên cứu
khoa học và Công nghệ (KIST) năm 1966. Các nghiên cứu của KIST được
triển khai theo hướng hợp đồng, để kết quả nghiên cứu có thể ngay lập tức
được ứng dụng vào sản xuất kinh doanh. Các nhà nghiên cứu của KIST đã chủ
động đi tìm khách hàng thay vì ngồi chờ doanh nghiệp tìm đến. Ngày nay, hệ
thống xây dựng và đánh giá chính sách khoa học công nghệ của Hàn Quốc đã
phát triển rất nhiều so với thời KIST mới được thành lập. Có thể kể đến như
Viện đánh giá và quy hoạch Khoa học và Công nghệ Hàn Quốc (KISTEP) đang
đóng vai trò lớn trong việc xây dựng các chính sách khoa học công nghệ của
Hàn Quốc, đặc biệt trong việc hoạch định, dự báo, đánh giá và điều phối các
chính sách.
Theo các chuyên gia, có 3 bài học lớn ở Hàn Quốc. Thứ nhất là chọn
người có đức có tài, tin tưởng họ và giao cho họ toàn quyền tự chủ trong các
hoạt động khoa học công nghệ, hướng đến mục tiêu lớn là chấn hưng đất nước.
Thứ hai là bắt tay với cộng đồng doanh nghiệp ngay từ khi khởi động các
nghiên cứu. Tốt nhất là nghiên cứu theo các đơn đặt hàng của doanh nghiệp.
Bài học thứ ba là các nhà nghiên cứu cần chủ động đi tìm các doanh nghiệp để
giải các bài toán thực tế mà doanh nghiệp đang gặp phải.
2.3.5. Singapore - từ quốc đảo nghèo trở thành con rồng châu Á
Singapore là một nước không có tài nguyên, nên nước này đã xác định
chỉ có thể phát triển nhờ nguồn lực con người. Vì thế, chính phủ nước này đầu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
tư rất mạnh cho giáo dục và phát triển khoa học, công nghệ. Trong chiến lược
khoa học- công nghệ năm 2015 đã nêu rõ: “Cùng với tri thức, đổi mới sáng tạo
là hai động lực đảm bảo cho Singapore phát triển bền vững”.
Singapore có hệ thống viện nghiên cứu trực thuộc cơ quan phát triển
Khoa học, Công nghệ và Nghiên cứu của Singapore. Cơ quan này được thành
lập năm 1991 để thúc đẩy sự phát triển của khoa học và công nghệ, đồng thời
thu hút tài năng nước ngoài đến làm việc tại Singapore, với ưu đãi về thu nhập,
nhằm phát triển nền kinh tế tri thức của Singapore.
Ở Singapore, doanh nghiệp được tham gia vào các nghiên cứu từ khâu
đầu tiên và theo sát trong quá trình nghiên cứu, nhất là phần đánh giá, nghiệm
thu kết quả. Có như thế, họ mới đủ tin tưởng để triển khai các kết quả này ra
thực tiễn kinh doanh. Nổi bật nhất là phát triển các nghiên cứu về xử lý nước.
Ngày nay, công nghệ xử lý nước của Singapore được coi là dẫn đầu thế giới.
Cũng vì thế, năng lực đổi mới sáng tạo của Singapore đạt mức rất cao trong
bảng xếp hạng toàn cầu, luôn duy trì ở trong top 10 quốc gia dẫn đầu.
2.4. Sự sẵn sàng của các nước ASEAN đối với cuộc CMCN 4.0
2.4.1. Cộng đồng ASEAN
Trước sự tác động lan tỏa của CMCN 4.0, các nước ASEAN nhận thấy
sự cần thiết phải sẵn sàng đón nhận cơ hội và thách thức trước tác động của
cuộc cách mạng công nghiệp mới này đến các nước phát triển, đặc biệt từ Đức
và Hàn Quốc. Ngày 24/4/2017 các nhà lãnh đạo ASEAN đã nhất trí đồng thuận
chỉ đạo các nước thành viên thực hiện với kì vọng CMCN 4.0 đem lại những cơ
hội cho cả cộng đồng ASEAN nhờ những yếu tố nền tảng như IoT. AI /
BigData, BigChain, in 3D, robot, điện toán đám mây.
Trên thực tế, một bộ phận của CMCN 4.0 đã bắt đầu tác động đến
ASEAN tại Malayxia, Philippin, Thái Lan. Nổi bật nhất là Singapo với Chiến
lược xây dựng quốc đảo thông minh và kết nối trực tiếp với Mĩ, một nước có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
nền kinh tế sáng tạo và đang đẩy mạnh trong CMCN 4.0.
Bảng 2.1: Xếp hạng GII 2017 của các nước ASEAN được xếp hạng
2015 2016 2017
STT Các nước ASEAN được xếp hạng 2014
1 Singapo 7 7 6 7
2 Malaixia 33 32 35 37
Việt Nam 71 52 59 47 3
4 Thái Lan 48 55 52 51
5 Philippin 100 83 74 73
6 Indonesia 87 97 88 87
Nguồn: GCI 2014, 2015, 2016, 2017, WIPO
7 Campuchia 106 91 95 101
ASEAN phải làm gì để tận dụng lợi thế của cuộc CMCN 4.0?
ASEAN với dân số 630 triệu người và độ tuổi trung bình chỉ 25 tuổi
có lực lượng lao động trẻ. Trong Hội nghị Diễn đàn Kinh tế thế giới về
ASEAN (WEF ASEAN 2018) vừa được tổ chức tại Hà Nội, các nhà lãnh đạo
của khu vực đã tuyên bố: "CMCN 4.0 là cơ hội và động lực để ASEAN trở
thành khu vực kinh tế lớn thứ tư trên thế giới vào năm 2030, chỉ sau Mỹ,
Trung Quốc và EU.
Vậy, ASEAN nên làm gì để có được những lợi thế vượt trội do CMCN
4.0 mang lại? Để hiện thực hóa tuyên bố của các nhà lãnh đạo, ban đầu, các
quốc gia thành viên ASEAN nên kết nối với nhau trên tinh thần của những
người làm việc cùng nhau, cùng nhau phát triển".
Đầu tiên, CMCN 4.0 là cuộc cách mạng Internet với sự bùng nổ của các
sản phẩm xuyên biên giới. ASEAN cần phát triển một cơ chế chung cho phép
việc áp dụng chính sách sandbox (thử nghiệm để tự phát triển trong phạm vi
không gian và thời gian nhất định) cho các sản phẩm 4.0 và các mô hình kinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
doanh mới. Châu Âu có một mô hình tương tự. Đó là Nền tảng Sáng kiến Quốc
gia Châu Âu, Trong đó, mỗi sản phẩm 4.0 sẽ được thử nghiệm trong các môi
trường chính sách khác nhau, ở các quốc gia khác nhau dưới dạng sandbox.
Thứ hai, ASEAN cần tạo ra một thị trường chung dựa trên sự tương đồng
về văn hóa và kết nối địa lý để đưa các sản phẩm 4.0 vào thực tiễn. Ví dụ, các
quốc gia trong khu vực sông Mê Kông, nơi có nhiều cảnh quan đẹp, vùng đất
màu mỡ, người dân thông minh, chăm chỉ và kết nối giao thông tốt, có thể cùng
nhau tạo ra một khu vực Mekong 4.0.
Trong khu vực này, chính phủ sẽ tập trung phát triển các công nghệ mới
để áp dụng trong ngành nông nghiệp, du lịch, hậu cần và CNTT. Đây là những
ngành mà các nước khu vực sông Mê Kông có lợi thế.
Thứ ba, ASEAN phải có một số doanh nghiệp lớn, dẫn đầu về CMCN
4.0 trong khu vực. Những doanh nghiệp này cần được cung cấp với điều kiện
thuận lợi để phát triển ở cấp khu vực. Một số nước ASEAN đã có thể phát triển
các giải pháp và sản phẩm công nghiệp 4.0 và đạt được thành công tại quốc gia
của họ. Và từ đây, họ phải mở rộng kinh doanh tại thị trường khu vực, các
doanh nghiệp ASEAN này sẽ phát triển lớn hơn. Grab là một ví dụ điển hình.
Cuối cùng, để tận dụng cơ hội tuyệt vời này, các nước ASEAN phải
chung tay với tinh thần "cùng làm việc, cùng phát triển" để tạo ra một ASEAN
kỹ thuật số: Một thị trường chung ASEAN, Một khung chính sách ASEAN cho
CMCN 4.0, Một ASEAN roaming chung giá cước, Một trường đại học ICT
ASEAN, Một trung tâm đổi mới ASEAN, Một trung tâm an ninh mạng
ASEAN, v.v. [25 (iii)}.
2.4.2. Sự sẵn sàng bứt phá của Việt Nam trước CMCN 4.0
Rất lấy làm tiếc tại Báo cáo của WEF, Việt Nam đứng ở mức thấp nhất
theo các chỉ số tiếp cận CMCN 4.0. Qua đó người ta có thể nghĩ rằng Việt Nam
chưa thật sẵn sàng CMCN 4.0. (Bảng 2.1 / 2.2). Tại Bảng 2.1 là thứ hạng trên
100 quốc gia, thứ hạng càng thấp thì ngôi vị càng cao và ngược lại. Bảng dưới
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
đây trích ra vài số liệu (thứ hạng tính trên 100 quốc gia) liên quan đến giáo dục
và khoa học. Về phẩm chất đại học, Việt Nam đứng hạng 75/100 (thực ra, điểm
là 0), trong khi đó Malaysia và Indonesia, thậm chí Philippines cũng hơn Việt
Nam về điểm này.
Cũng không có gì đáng ngạc nhiên ngay cả về phẩm chất giáo dục khoa
học và toán học Việt Nam cũng đứng hạng 68/100 (điểm chỉ 3.7), thấp hơn tất
cả các nước cùng trình độ trong vùng như Thái Lan (hạng 66/100), Malaysia
(16), Indonesia (35) và Philippines (60)
Bảng 2.2: So sánh thứ hạng các tiểu chỉ số ĐMST của Việt Nam qua các
năm 2013, 2014, 2015, 2016 và 2017
2013
2014
2015
2016
2017
(vị trí từng tiểu chỉ số/141 nước và vùng lãnh thổ)
(vị trí từng tiểu chỉ số/128 nước và vùng lãnh thổ)
(vị trí từng tiểu chỉ số/127 nước và vùng lãnh thổ)
Nhóm tiểu chỉ số đầu
89
100
78
79
71
vào của ĐMST
1. Thể chế/Tổ chức
122
121
101
93
87
2. Nguồn nhân
lực,
98
89
78
74
70
nghiên cứu
3. Cơ sở hạ tầng
80
99
88
90
77
4. Trình độ phát triển
73
92
67
64
34
của thị trường
5. Trình độ phát triển
67
59
40
72
73
kinh doanh
Nhóm tiểu chỉ số đầu
54
47
39
42
38
ra của ĐMST
6. Đầu ra công nghệ và
51
49
28
39
28
tri thức
7. Đầu ra sáng tạo
66
58
62
52
52
Tỷ lệ hiệu quả ĐMST
17
5
9
11
10
Chỉ số ĐMST
76
71
52
59
47
Nguồn: GCI 2013, 2014, 2015, 2016 và 2017, WIPO
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
Về chỉ số sáng tạo công nghệ và giáo dục Việt Nam đứng thứ hạng thấp
9/10. Tình hình cũng như vậy với các chỉ số về Công nghệ và Đổi mới
(Technology & Innovation) / Công nghệ nền (Technology Platform) / Năng lực
sáng tạo / Nguồn lực con người, tính trên 100 tương ứng 90/ 92 / 77/ 70.
Phải chăng bức tranh ảm đạm nói trên cản trở những ý chí quyết tâm
không bỏ lỡ cơ hội cuộc cách mạng lần này. Còn đó nỗi đau lịch sử vì bỏ qua
cơ hội các cuộc cách mạng công nghiệp trước đó. Mọi người đều kì vọng
CMCN 4.0 đến với Việt Nam bằng sự cuốn hút về IoT/AI/BigData, điện toán
đám mây hay BlockChain. Vẫn biết chúng ta kém hơn các nước trong vùng về
chỉ số bằng sáng chế. Riêng công bố khoa học tính trên dân số Việt Nam cao
hơn Indonesia và Philippin. Về tỉ số bằng sáng chế tính trên dân số Việt Nam
cao hơn Indonesia và Philippines.
Dường như người Việt Nam hiểu rõ sự tác động của CMCN 4.0. Trên
khía cạnh khác của vấn đề, trong nhóm thành viên mới của ASEAN, gồm Việt
Nam/Lào/Campuchia/Myanma - gọi tắt là CLMV - cũng bắt đầu chú trọng
nâng cao năng lực chuẩn bị cho CMCN 4.0.
Đến năm 2020, Việt Nam sẽ hoàn thành xong DA chuyển đổi băng thông
rộng làm cơ sở triển khai Chính phủ điện tử/Thương mại điện tử/Phòng chống
thiên tai. Theo đó, 95% lãnh thổ sẽ được phủ sóng 3G/4G cũng như kết nối
băng thông rộng cố định cho hơn 40% hộ gia đình và thuê bao cá nhân. Cục
phát triển thị trường và doanh nghiệp KHCN đã tổ chức TECHFEST để tập
hợp các nhà phát minh sáng chế, doanh nhân, các nhà đầu tư, chuyên gia công
nghệ truyền thông. Với hơn 47 triệu USD dành cho nghiên cứu các yếu tố nền
tảng AI / IoT / BigChain.
Trong khuôn khổ hợp tác với các nước Phần Lan, Đức, Australia,
UNICEF, WB đang tiến hành thí điểm các chương trình thúc đẩy đổi mới sáng
tạo công nghệ hướng trọng tâm các doanh nghiệp khởi nghiệp và các lĩnh vực
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
quan trọng như nông nghiệp, ICT...
Giờ đây, Việt Nam đã bắt đầu thực hiện các sáng kiến CMCN 4.0 và sẵn
sàng hợp tác với các nước thành viên khác trong khu vực.
Về hoạch định chính sách, Việt Nam đang hợp tác với Diễn đàn kinh tế
thế giới để thành lập Trung tâm liên kết 4.0 có trụ sở tại Việt Nam. Việt Nam
mong muốn sự tham gia của tất cả các nước thành viên ASEAN vào trung tâm.
Đó là nền tảng “Do-tank”, thay vì “think-tank”. Các nước thành viên
ASEAN cũng có thể cử đại diện sang làm việc và tiến hành nghiên cứu tại
Trung tâm để phát triển khung chính sách cho các mô hình kinh doanh hoặc
công nghệ mới như thanh toán di động, kinh tế chia sẻ hay dữ liệu mở.
Về cơ sở hạ tầng viễn thông, Việt Nam sẽ thử nghiệm 5G vào năm 2019
và sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm với các quốc gia khác trong việc phát triển
công nghệ 5G.
Trong chương trình Make in Vietnam, Việt Nam tập trung phát triển các
doanh nghiệp công nghệ và sản xuất các thiết bị IoT, thiết bị viễn thông,
Chipset 5G, camera giám sát,... Việt Nam sẵn lòng hợp tác với các nước trong
ASEAN để thành lập liên doanh và các nhà máy sản xuất sản phẩm CNTT-TT.
Đặc biệt, Việt Nam sẽ mở và chia sẻ tất cả các bí quyết công nghệ với
các quốc gia khác để tất cả các quốc gia thành viên ASEAN có thể làm chủ các
thiết bị đảm bảo an ninh mạng quốc gia.
Với chủ trương khi thế giới triển khai 5G thì Việt Nam cũng sẽ là một
trong những nước đầu tiên triển khai 5G, ngay từ đầu năm 2019, Bộ TT&TT đã
triển khai cấp phép tần số cho các doanh nghiệp để triển khai thử nghiệm 5G tại
Hà Nội và TPHCM. Việt Nam sẵn sàng hợp tác với các nước thành viên
ASEAN khác, và các quốc gia đi tiên phong trong CMCN4.0, để triển khai 5G
và thúc đẩy chuyển đổi số. Khi cuộc Cách mạng Kỹ thuật số hay cuộc Cách
mạng Công nghiệp lần thứ 4 diễn ra, tương lai không cần phải nằm trên dòng
chảy của quá khứ. Với tư duy mới, phi truyền thống và không tuần tự, các nước
ASEAN sẽ có cơ hội. Cả chính phủ và doanh nghiệp đều cần một bước đột phá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
về tư duy, trong hoạch định chính sách và phương pháp điều chỉnh [26 (iii)].
Tiểu kết Chương 2
1. Với vai trò dẫn đầu CMCN 4.0, Liên minh Châu Âu có tham vọng lớn
trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh kinh tế của toàn khối bằng việc đề ra
nhiều chương trình, DA đổi mới công nghệ hiện đại trên cơ sở và nguyên tắc
mới của nền công nghiệp AI / IoT. BigData. Đáng chú ý là Ba Lan, một thành
viên EU đã sớm nhận ra vai trò CMCN 4.0 bằng việc tập trung vào các ngành
có hàm lượng trí tuệ cao, đồng thời giảm dần sự phụ thuộc vào khai thác than,
sắt, muối khoáng và lao động với giá tương đối thấp.
2. Trong số các nước đi tiên phong trong CMCN 4.0, Mĩ luôn ở vị trí dẫn
đầu trong nền kinh tế sáng tạo. CMCN 4.0 sẽ giữ cho họ ở vị trí dẫn đầu thế
giới. Đức là quê hương của Công nghiệp 4.0 với việc thiết kế lại các quy trình
công nghệ trên nền tảng AI/IoT/ Điện toán đám mây. Nổi bật sau hai nước nói
trên là Trung Quốc với tham vọng chuyển đổi một Trung Quốc công xưởng thế
giới sang Trung Quốc chế tạo/thiết kế tầm cỡ thế giới trên nền tảng mới.
3. Trong số các nước công nghiệp phát triển và mới nổi như Anh, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Singapo đi đầu trong công nghiệp sáng tạo. Các nước đang
phát tiển mới nổi như Ấn Độ, Braxin, Mehico, Thổ Nhĩ Kì... đều có bước tiến
lớn trong phát triển nguồn nhân lực có chất lượng và trình độ cao.
4. Đi đầu trong lĩnh vực CMCN 4.0 ở Đông Á là Hàn Quốc, Đài Loan
với nhiều DA công nghệ trên nền tảng CPS với tham vọng cạnh tranh với ngay
cả các nước lớn như Mĩ, Nhật, Úc... Ở ĐNA là Singapor với Chương trình xây
dựng quốc đảo này có nền kinh tế thông minh. Theo hướng này, Malaixia, Thái
Lan, Indonesia, Việt Nam đang triển khai DA chuyển đổi số với mạng 5G và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
phát triển kinh tế số.
Chương 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY CMCN 4.0 Ở VIỆT NAM
3.1. Những cơ hội và thách thức từ CMCN 4.0 đối với Việt Nam
3.1.1. Cơ hội và thách thức
Đối với Việt Nam, một số ngành nghề ở Việt Nam trong cuộc CMCN
4.0 có thể bị tác động tiêu cực, như nhóm ngành năng lượng, công nghiệp chế
tạo, dệt may, điện tử. Một số lĩnh vực cũng có cơ hội tăng trưởng nếu đi đúng
hướng và bắt được nhịp, như du lịch, thương mại nội địa, ICT, giáo dục, y tế,
xây dựng, chính phủ điện tử. Vấn đề là kế hoạch tái cơ cấu phải phù hợp và
khách quan và phù hợp với xu thế mới. Trong bài phát biểu tại Hội thảo quốc tế
tại Việt Nam hồi tháng 11/2016, một quan chức của FPT cho rằng, cuộc
CMCN 4.0 mang tên “Cách mạng số” khiến diện mạo, cách ứng xử và phong
cách lao động của con người thay đổi theo.
Và theo khảo sát mới đây của Mỹ về sự phát triển kinh tế số trong tương
lai thì Việt Nam cũng được xếp vào nhóm nước “đột phá” khi có cơ hội lớn để
trở nên nổi bật về nền kinh tế số. Trước những cơ hội và thách thức của cuộc
CMCN 4.0, Việt Nam cần thúc đẩy hoạt động công nghệ sáng tạo, khuyến
khích khởi nghiệp nhằm tạo ra những thay đổi cơ cấu nền kinh tế theo hướng
kinh tế số và triển khai rộng rãi 5G.
CMCN 4.0 mở ra nhiều cơ hội cho các nước, đặc biệt là các nước đang
phát triển để nâng cao năng suất và rút ngắn khoảng cách phát triển. Tại buổi
triển lãm “Vietnam Manufacturing Expo (VME) 2017” với nội dung “Công
nghiệp sản xuất Việt Nam - hành trình hướng tới ngành công nghiệp 4.0”,
Giám đốc điều hành công ti ReedTradex (Thái Lan), cho rằng nhờ triển khai
CMCN 4.0 Việt Nam sẽ kì vọng giảm 3,6% chi phí sản xuất và tăng hiệu suất
4,1% / năm cho các doanh nghiệp do sự nhạy bén của các doanh nhân, sự thông
minh và lành nghề của công nhân lao động. Cuộc CMCN 4.0 là xu hướng phát
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
triển dựa trên nền tảng số hóa và kết nối, tác động mạnh mẽ tới mọi mặt của
đời sống KTXH, quá trình hội nhập quốc tế; đặc biệt khi Việt Nam triển khai
hiệp định thương mại tự do quy mô lớn như CPTPP, các FTA với các nước
châu Âu, Liên minh kinh tế Á - Âu...thì việc bắt kịp xu hướng mới, giúp nâng
cao hiệu quả của việc tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.[16 (iii)].
Tuy vậy, ở Việt Nam, CMCN 4.0 vẫn còn nằm ở dạng khái niệm, và
chính phủ, các doanh nghiệp hay người lao động vẫn chưa định hình chính xác
được sự tồn tại của cuộc cách mạng này trong quá trình phát triển của đất nước.
Và điều kiện cần để một quốc gia sẵn sàng đón nhận lực do sự lan tỏa của
CMCN 4.0 trong chiến lược tổng thể của quốc gia. Tuy nhiên, khi chúng ta vẫn
chưa thực sự đi vào giai đoạn chín muồi của cuộc CMCN 4.0 thì việc chủ động
thay đổi chính sách phát triển cần nhiều thời gian để thích ứng. Ngoài ra, đối mặt
với CMCN 4.0 sẽ là vô vàn thách thức cho Việt Nam khi những yếu tố mà chúng
ta đang tự coi là ưu thế như lực lượng lao động thủ công trẻ, dồi dào sẽ không
còn là thế mạnh nữa, thậm chí bị đe dọa nghiêm trọng. Trong tương lai, ngành
nước ta có lợi thế về lao động như dệt may, sản xuất thực phẩm chế biến vốn là
nhưng ngành và lĩnh vực sản xuất sử dụng lao động, phù hợp với lợi thế tài
nguyên và lao đông, được thay thế bởi những lĩnh vực mà trí tuệ nhân tạo có thể
tác động tới. Không chỉ việc làm ở trong các ngành sản xuất bị ảnh hưởng ngay
cả với các công việc cần trí tuệ của con người như giáo dục, y tế, dịch vụ. Việt
Nam có lợi thế lớn về nguồn nhân lực cho tăng trưởng, nhưng chất lượng chưa
tương xứng với tốc độ tăng về quy mô, về mức độ hội nhập kinh tế khu vực và
thế giới. Tuy nhiên, lao động chủ yếu ở khu vực nông thôn chưa được đào tạo
nghề và chuyên môn kĩ thuật. Bức tranh không mấy sáng sủa, nếu không nói là,
tiềm ẩn nhiều rủi ro do nhiều tiêu chí đang ở mức độ thấp lao động phổ thông
không có chuyên môn kĩ thuật/ lao động đã qua đào tạo nghề / lao động có trình
độ trung cấp chuyên nghiệp / lao động có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
tương ứng 82,28 % / 4,84 % / 3.61 % / 8,26%. Đến năm 2016, con số này chỉ
giảm khoảng 3% tương ứng với số lao động không có CMKT chiếm đến 78,6%
lực lượng lao động, trong đó có đến hơn 37 triệu lao động ở nông thôn và hơn
17,5 triệu lao động ở thành thị. Cả nước chỉ có khoảng 10,9 triệu người có việc
làm, tương ứng với 20,6%, đã được đào tạo. Có sự chênh lệch đáng kể về tỉ lệ
lao động đang làm việc đã qua đào tạo giữa thành thị và nông thôn, mức chênh
lệch này là 24,4% (thành thị là 37,2% và nông thôn là 12,8%). Tương tự như
vây, trong giai đoạn 2005-2015, mặc dù lao động làm việc trong lĩnh vực nông
nghiệp có giảm, nhưng vẫn chiếm tỉ trọng cao nhất, nông nghiệp giảm từ 55,09%
năm 2005, xuống 45,19% năm 2015; lần lượt công nghiệp tăng từ 17,59% lên
21,78%; dịch vụ tăng từ 27,32% lên 33,03%. Điều này sẽ gây khó khăn cho Việt
Nam trước sự lan tỏa của CMCN 4.0.
3.1.2. Phương châm hành động: Bây giờ hoặc không bao giờ
Cần có phương châm hành động là “bây giờ hoặc không bao giờ”, vì cơ
hội chỉ đến một lần và không bao giờ quay lại. Đây là ý kiến của Bộ trưởng Bộ
Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng tại Diễn đàn Cấp cao về Công nghệ
thông tin Việt Nam - VietNam ICT Summit 2018.[26(iii)].
Cuộc CMCN 4.0 đang diễn ra nhanh chóng, tác động sâu rộng đến mọi
mặt của đời sống kinh tế - xã hội của tất cả các quốc gia trên toàn thế giới,
khiến tổ chức sản xuất, cung ứng dịch vụ, phương thức kinh doanh đến cách
thức tiêu dùng, cách thức giao tiếp biến đổi mạnh mẽ, kể cả cách ứng xử của
con người. CMCN 4.0 hình thành và phát triển trong quá trình tích hợp của
hàng loạt công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo, Internet vạn vật, dữ liệu lớn, điện
toán đám mây... Điều này có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc tạo ra bước phát
triển nhảy vọt của nhân loại, xóa bỏ dần các giới hạn truyền thống về khan
hiếm nguồn lực, làm thay đổi không gian kinh tế - xã hội theo hướng hòa trộn
giữa không gian vật lý và không gian số.
Có thể nói, cơ hội là rất rõ ràng. Theo nghiên cứu sơ bộ của Công ty tư
vấn BCG cho thấy, CMCN 4.0 có thể giúp GDP của Việt Nam tăng thêm từ 8-
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
18 tỷ USD mỗi năm, là động lực để thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế
gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng cũng như thúc đẩy các nỗ lực cải cách
hiện nay mà Chính phủ đang thực hiện một cách mạnh mẽ hơn, hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, cơ hội không tự nhiên đến với một quốc gia thụ động chờ đợi, thụ
động tiếp nhận những thay đổi do cuộc cách mạng đem lại.
Ngược lại, Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đòi hỏi chúng ta phải chủ
động, tích cực, quyết liệt đổi mới, sáng tạo, thực hiện hàng loạt chương trình
cải cách trên 4 yếu tố nền tảng và 4 trụ cột chuyển đổi. Chúng ta không chỉ tiếp
nhận, tận dụng cơ hội mà còn phải tạo ra cơ hội mới với tư duy và phương
châm hành động là “bây giờ hoặc không bao giờ”. Vì cơ hội chỉ đến một lần
và không bao giờ quay lại. Bốn (04) yếu tố nền tảng gồm: Đột phá về thể chế;
phát triển và nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin; xây dựng cơ sở dữ liệu
quốc gia; phát triển nguồn nhân lực. Cơ sở dữ liệu quốc gia cần phải được
nhanh chóng xây dựng và phát triển một cách thống nhất, phù hợp với thông lệ
quốc tế về lưu trữ, phân tích, kết nối, lưu chuyển, tiếp cận và khai thác sử dụng
thông tin. Phát triển nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu của cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ 4, đi đôi với chuyển đổi cơ cấu lao động phù hợp và thích
ứng với yêu cầu của thị trường lao động trong thời đại 4.0 theo hướng đào tạo
kỹ năng đa ngành. Người lao động phải được trang bị nhiều loại kỹ năng đa
dạng để thích ứng với môi trường thời đại 4.0 và dễ dàng dịch chuyển công
việc phù hợp với nhu cầu của thị trường. Trên cơ sở 4 yếu tố nền tảng trên,
chúng ta cần thúc đẩy chuyển đổi quản trị và sản xuất theo 04 trụ cột sau đây:
Thứ nhất, chuyển đổi nền quản trị quốc gia, trước hết là xây dựng Chính
phủ điện tử, dần tiến tới Chính phủ số và phát triển thành phố thông minh; nâng
cao hiệu lực, hiệu quả điều hành kinh tế bằng các công nghệ hiện đại; giảm
thiểu chi phí tuân thủ và tạo cơ hội kinh doanh cho doanh nghiệp trong các
ngành kinh tế mới.
Thứ hai, chuyển đổi phương thức tổ chức sản xuất kinh doanh theo
hướng thông minh hơn, nhanh hơn, hiệu quả hơn và năng lực cạnh tranh cao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
hơn; áp dụng phổ biến các phương thức kinh doanh mới như kinh tế chia sẻ,
dịch vụ ship hàng online door - to - door... Thu hút các tập đoàn công nghệ
hàng đầu thế giới kết hợp với khuyến khích và hỗ trợ phát triển các công ty
công nghệ trong nước; hỗ trợ nâng cao kỹ năng của doanh nghiệp nhỏ và vừa
trong tiếp cận, áp dụng các công nghệ, các mô hình quản lý và kinh doanh phổ
biến trong thời đại 4.0 để họ tiếp cận được thị trường toàn cầu.
Thứ ba, áp dụng các công nghệ và phương thức tổ chức kinh doanh của
CMCN 4.0 để nhanh chóng chuyển đổi sản xuất trong các ngành có lợi thế, có
tiềm năng phát triển, có thể đóng góp lớn vào phát triển đất nước, ví dụ như:
Sản xuất nông nghiệp, công nghệ thông tin, dịch vụ hậu cần - Logistics, dịch vụ
tài chính, dịch vụ y tế, giáo dục...
Thứ tư, xây dựng hệ sinh thái đổi mới, sáng tạo và khởi nghiệp để phát
triển các công nghệ tiên tiến, giúp Việt Nam vượt lên ở một số lĩnh vực của
công nghệ 4.0. đặc biệt là nghiên cứu triển khai trí tuệ nhân tạo, chế tạo thông
minh, an ninh mạng... Hệ sinh thái phải được xây dựng theo chuẩn mực quốc
tế, trong đó, hạt nhân là chuỗi các Trung tâm đổi mới sáng tạo theo các mô hình
tốt nhất thế giới. Các trung tâm đổi mới sáng tạo với hệ sinh thái như đã đề cập
phải là nơi sống, làm việc tốt, đủ sức cạnh tranh quốc tế để thu hút các tài năng
công nghệ 4.0. Đó sẽ là nơi kiến tạo và phát triển năng lực công nghệ quốc gia,
tạo ra những sản phẩm công nghệ “Made in Việt Nam” và “Made by Việt
Nam”. Đó cũng là cách để chúng ta vươn lên hàng đầu trong các ngành, lĩnh
vực công nghệ mà Việt Nam có tiềm năng, lợi thế.
3.2. Định hướng và một số giải pháp phát triển các ngành và lĩnh vực then
chốt của Việt Nam trong CMCN 4.0
3.2.1. Tổng quan về định hướng tái cơ cấu nền kinh tế trong CMCN 4.0
Việt Nam có nhiều tiềm năng và cơ hội lớn để hưởng lợi từ cuộc CMCN
4.0. Tuy nhiên, để tận dụng được thời cơ cho phát triển bền vững, Việt Nam
cần có những định hướng phù hợp để tái cơ cấu nền kinh tế gắn với cuộc cách
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
mạng này. Trong bối cảnh CMCN 4.0, Việt Nam cần định hướng tái cơ cấu
trên một số lĩnh vực chủ đạo như: chuyển dịch cơ cấu lao động; thu hút đầu tư
FDI; sự sẵn sàng của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; đổi mới sáng tạo và
nâng cao năng suất ngành, hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và
nền kinh tế…
Đối với cơ cấu lao động, một số ngành nghề và lĩnh vực của Việt Nam
dự báo có nguy cơ bị robot thay thế là lao động trong lĩnh vực nông, lâm
nghiệp và thủy sản; công nghiệp chế biến, chế tạo; vận tải kho bãi; giáo dục
đào tạo và y tế… Theo dự báo, đến năm 2025, có khoảng 42,8 triệu người lao
động thuộc các lĩnh vực bị ảnh hưởng mạnh bởi CMCN 4.0 và sẽ có khoảng 31
triệu lao động cần được đào tạo mới hoặc đào tạo lại để đáp ứng được yêu cầu
về tay nghề/kỹ năng.
Trong lĩnh vực công thương, Viện Nghiên cứu Chiến lược, chính sách
công thương, Bộ Công Thương cho biết, Việt Nam chưa đạt được nhiều mục
tiêu khi thu hút FDI, đơn cử như: tỷ lệ nội địa hóa, việc nâng cao trình độ quản
lí, tay nghề cho đội ngũ lao động; phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ cũng như
không cải thiện được nhiều năng lực cạnh tranh nội tại của các ngành sản xuất
công nghiệp trong nước… Bên cạnh đó, với xu hướng siêu tự động hóa và sự
tham gia của các robot thông minh, thế hệ mới, có khả năng tùy chỉnh cao,
CMCN 4.0 sẽ có những tác động lớn trong việc thay đổi mô hình tổ chức sản
xuất của các ngành công nghiệp chính của Việt Nam trong thời gian tới.
Theo dự báo, đến năm 2025, có khoảng 42,8 triệu người lao động thuộc
các lĩnh vực bị ảnh hưởng mạnh bởi CMCN 4.0 và sẽ có khoảng 31 triệu lao
động cần được đào tạo mới hoặc đào tạo lại để đáp ứng được yêu cầu về tay
nghề/kỹ năng. Hệ lụy tất yếu sẽ diễn ra là năng lực đầu tư, đổi mới hoạt động
sản xuất và khả năng thích ứng nhanh chóng với những thay đổi công nghệ và
thị trường của các doanh nghiệp (DN), đặc biệt là DN nhỏ.
Trong bối cảnh CMCN 4.0, Việt Nam cần phải có chiến lược thu hút đầu
tư FDI mới, phải khắc phục được những tồn tại, hạn chế trong thời gian qua và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
tận dụng được những tiến bộ của cuộc CMCN 4.0. Theo đó, ưu tiên thu hút
FDI vào các ngành, lĩnh vực công nghệ tiên tiến, công nghệ thân thiện với môi
trường, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; sản xuất thiết bị y tế, dịch vụ tài
chính, logistics và các dịch vụ hiện đại khác. Ưu tiên thu hút vào sản xuất nông
nghiệp công nghệ cao và hiệu quả; phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật hiện đại;
đặc biệt là các ngành nghề mới trên nền tảng CMCN 4.0.
Đổi mới là chìa khóa để nâng cao năng suất và cải thiện sức cạnh tranh
của DN. Trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0 đang diễn ra sôi động, đổi mới sáng
tạo là yếu tố cốt lõi để DN không bị tụt hậu và ra khỏi thị trường. DN sẽ tiếp
cận được những công nghệ hiện đại và khối lượng dữ liệu khổng lồ về thị
trường, khách hàng để xây dựng chiến lược kinh doanh hiệu quả. Đồng thời, tối
ưu hóa quy trình sản xuất, nâng cao năng suất lao động, cải thiện chất lượng
sản phẩm, nâng cao chất lượng của phân khúc tiêu thụ sản phẩm và chính sách
hậu mãi.
Trong lĩnh vực sản xuất, cần xây dựng và triển khai đánh giá toàn diện
về mức độ sẵn sàng tham gia vào CMCN 4.0 đối với từng lĩnh vực cụ thể của
toàn ngành công thương. Từ đó, xem xét và lựa chọn những ngành/lĩnh vực,
các khâu của quá trình sản xuất để đầu tư, áp dụng trí tuệ nhân tạo nhằm nâng
cao hiệu quả sản xuất, chất lượng sản phẩm và giảm chi phí, tăng khả năng
cạnh tranh…
Chính sách của Việt Nam cần theo hướng tăng cường đầu tư cho RD các
sản phẩm ứng dụng trí tuệ nhân tạo phục vụ cho sản xuất công nghiệp và phát
triển thương mại. Ngoài ra, Việt Nam cần hoàn thiện hạ tầng pháp lí, tạo môi
trường phát triển và nâng cấp hạ tầng kỹ thuật cho thanh toán điện tử trong giao
dịch thương mại và hỗ trợ phát triển các hình thức kinh doanh mới, phát triển
lĩnh vực dịch vụ.
Đáng chú ý, ngoài các chính sách hỗ trợ cho việc tăng cường khả năng
sẵn sàng tham gia CMCN 4.0, cũng cần phải có những chính sách nhằm khắc
phục mặt trái của CMCN 4.0 như ô nhiễm môi trường, thất nghiệp, phân hóa xã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
hội, an ninh thông tin và các tác động không mong muốn khác.
3.2.2. Phát triển ngành nông - lâm nghiệp - thủy sản trong CMCN 4.0
Để nắm bắt cơ hội và hành động kịp thời cho nền Nông nghiệp 4.0 trước
CMCN 4.0 trước hết phải xác lập nhận thức đúng. Nông nghiệp số là sự kết hợp
đồng bộ giữa các công nghệ về giống; nuôi trồng, chăm sóc, chăn nuôi; tưới tiêu;
thu hoạch, sau thu hoạch, bảo quản; công nghệ chế biến; công nghệ tự động hóa;
công nghệ quản lí... Tất cả các công đoạn nêu trên được tích hợp và điều khiển
bởi công nghệ thông tin dùng Internet... Cần được hiểu là kết nối toàn chuỗi, qua
mạng bên trong và bên ngoài đơn vị, trong và ngoài nước. Thông tin số hóa kết
nối tất cả các đối tác và mọi quá trình sản xuất và phân phối đến hộ tiêu dùng
cuối cùng. Tiếp theo, cần đặt ra từng nội dung cụ thể với đối tượng và công nghệ
cụ thể chứ không thể hô hào như đã từng nói nhiều về nông nghiệp ứng dụng
công nghệ cao hay nông nghiệp hữu cơ mấy năm gần đây.
Chiến lược cho từng ngành hàng phải chỉ rõ cơ cấu các sản phẩm chủ lực
để có quy hoạch và đầu tư theo mục tiêu nhất quán, ổn định và dài hạn. Tiếp
sau là biến các chiến lược, phương án áp dụng NN 4.0 thành các giải pháp ứng
dụng mà mỗi đối tác phải thực hiện trong từng phân khúc giá trị. Đối với nông
hộ, giải pháp phải phù hợp có thể tiếp nhận và hiệu quả sớm nhất có thể.
Để tận dụng lợi thế là Việt Nam có 53% dân số tiếp cận được internet
(năm 2016), công nghệ số, nhất là công nghệ internet, Việt Nam sẽ cần tiếp tục
đầu tư hạ tầng cơ sở ICT để ứng dụng IoT trong khu vực nông thôn, nông
nghiệp theo hướng hiện đại.
Khả năng tiếp thu công nghệ của nông dân và doanh nghiệp hiện đang là
một khâu yếu trong hệ thống nông nghiệp Việt Nam. WB khuyến nghị tăng
cường hiệu quả tiếp thu công nghệ, không chỉ của nông dân mà của cả khối
doanh nghiệp vừa và nhỏ [6]. Từ mô hình “Canh tác lúa tốt nhất” của HTX Mỹ
Đông (Đồng Tháp), ông Michael Battaglia của Tổ chức Khoa học - Công
nghiệp Úc (CSIRO) cho rằng cách giúp người nông dân tiếp cận nông nghiệp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
4.0 là tạo điều kiện để họ tiếp cận được tri thức, thông tin và để họ tự quyết
định mức độ tiếp thu theo khả năng của mình [6]. Trong bối cảnh hội nhập
quốc tế sâu rộng như hiện nay, khi 70% cư dân vẫn dựa vào nông nghiệp là chủ
yếu thì việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực
nông thôn nói riêng là yêu cầu cần thiết.
Nhà nước đã có chính sách về vốn cho nông dân và doanh nghiệp, gói tín
dụng 100 nghìn tỉ đồng cho nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch với
lãi suất thấp hơn từ 0,5 - 1,5% so với lãi suất thị trường. Để có hiệu quả và
giảm rủi ro, gói này cũng như gói khác trong tương lai, cần được hiểu là dành
cho mô hình NN 4.0 toàn diện như nói trên, không nên chỉ giới hạn trong phân
khúc sản xuất ra sản phẩm sạch hay xanh. Nếu không tiêu thụ được thì rủi ro
cực lớn. Chẳng hạn, xây dựng một trang trại chăn nuôi quy mô vừa theo mô
hình CNC cần khoảng 140-150 tỉ đồng, cao gấp 4-5 lần so với chăn nuôi
thường; đầu tư 1 ha nhà kính hoàn chỉnh với hệ thống tưới, bón phân tự động
theo công nghệ của Israel cần ít nhất từ 10-15 tỉ đồng [8]. Nếu không có lãi thì
phá sản biết trước. Tuy vậy, thủ tục vay vốn rườm rà, phức tạp, vướng mắc,
kinh phí đầu tư cho Nông nghiệp 4.0 rất lớn trong khi vay vốn ngân hàng chỉ
định giá bằng 20-25% giá trị thực tài sản... đã khiến người nông dân khó tiếp
cận vốn, nhiều nông dân phải chịu cảnh “lực bất tòng tâm”.
Cần đổi mới đào tạo nguồn nhân lực: Trong nông nghiệp, chỉ riêng xuất
khẩu rau củ quả kim ngạch đã vượt cả xuất khẩu dầu mỏ, sẽ vượt cả dệt may;
song việc đào tạo nông dân không được coi là mũi nhọn. Nông dân chưa thể
tiếp cận những kỹ năng sản xuất theo NN 4.0; họ vẫn mới chỉ nghe nói, thậm
chí chưa từng được thấy. Đào tạo lớp học sinh trẻ ở nông thôn để họ nắm được
những kỹ năng lao động nông nghiệp công nghệ cao là việc cần làm ngay và
phải bắt đầu những hướng nghiệp ngay từ trường phổ thông.
Việc ứng dụng thành tựu của CMCN 4.0 vào sản xuất nông nghiệp sẽ
phải cân nhắc sao cho nông dân Việt Nam không bị đe dọa bởi nguy cơ mất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
dần việc làm và nguồn tiêu thụ vào tay nông dân các nước có công nghệ cao.
Chính vì vậy, ứng dụng KHCN vào nông nghiệp, tạo ra nền nông nghiệp 4.0 là
việc không thể chậm trễ, khi tác động trực tiếp và mạnh mẽ của công nghệ đối
với lĩnh vực nông nghiệp đang và sẽ diễn ra trong thời gian tới trên quy mô
toàn cầu.
3.2.3. CMCN 4.0 trong phát triển khu vực kinh tế công nghiệp - xây dựng
CMCN 4.0 đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu, vừa là thách thức nhưng
cũng là cơ hội tốt để Việt Nam có thể tận dụng để xử lý các vấn đề lớn trong
phát triển kinh tế đất nước và tái cơ cấu ngành công nghiệp nhằm đẩy nhanh
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững.
CMCN 4.0 dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp các công nghệ
thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất; đặc biệt là những
công nghệ đang và sẽ có tác động lớn như công nghệ in 3D trong chế tạo sản
phẩm, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa,
robot,... trở thành nhân tố chi phối nền kinh tế toàn cầu. Việc nắm bắt kịp thời
các thành quả của cuộc CMCN 4.0 có thể coi là chìa khóa, cơ hội để tạo bước
phát triển mang tính đột phá cho nền kinh tế nước ta trong thời gian tới nhằm
thực hiện thành công quá trình công nghiệp hóa. Sự phong phú, đa dạng tài
nguyên thiên nhiên, nguồn lao động dồi dào và chi phí thấp không còn là lợi thế
cạnh tranh nữa.
Trong thời gian qua, chính sách thu hút đầu tư FDI đã khiến cho khu vực
đầu tư nước ngoài có những bước phát triển hết sức nhanh chóng và sôi động,
đóng góp một phần quan trọng cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thời gian
qua. Tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 5 năm 2011-2015 đạt
trên 59,5 tỷ USD, tăng 33,4% so với 5 năm 2006-2010. Tại thời điểm cuối năm
2016 con số này đã gần đạt ngưỡng 200 tỉ USD với quy mô khối doanh nghiệp
FDI tăng rất nhanh, chiếm khoảng 70% tỉ trọng xuất khẩu cả nước, trở thành
động lực tăng trưởng ngoại sinh hơn là các nhân tố nội sinh trong khi năng lực
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
nội tại của các ngành sản xuất công nghiệp nước ta còn yếu do yếu kém về khả
năng hấp thụ công nghệ. Đây cũng là một nguyên nhân khiến các doanh nghiệp
FDI trở thành tác nhân gia tăng / dãn cách về trình độ kinh doanh và công nghệ
giữa các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước. Ngoài ra, tăng trưởng
ở khu vực FDI tiếp tục tập trung ở các ngành khai thác tài nguyên, sử dụng
nhiều lao động, hạn chế trong chuyển giao công nghệ. Từ góc nhìn CMCN 4.0,
việc FDI sẽ đem lại những bất lợi cho Việt Nam, đặc biệt trong cán cân thương
mại, bởi vì hầu hết các xí nghiệp FDI thường phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu
thiết bị, nguyên phụ liệu, kể cả các nhân công kĩ thuật và quản lí điều hành
trong khi nguyên liệu và lao động nội địa không được sử dụng hoặc sử dụng
hạn chế về thời gian và tuổi tác.
Ngoài ra, CMCN 4.0 sẽ tạo ra những thay đổi lớn trong cơ cấu của các
ngành công nghiệp cũng như đóng góp của mỗi ngành trong tăng trưởng của
toàn bộ nền kinh tế của nước ta thời gian tới. Trong cơ cấu sản xuất công
nghiệp hiện nay, các ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn là các ngành chế
biến thực phẩm (luôn chiếm tỷ trọng cao nhất, mặc dù có xu hướng giảm nhẹ ở
mức trên 17%), tiếp theo ngành sản xuất điện tử, máy vi tính và thiết bị viễn
thông (trên 12%). Ngoài ra, phải kể đến các ngành như dệt may (8,12%), thiết
bị giao thông (4,85%), máy tính và điện tử (3,54%), v.v… Các ngành công
nghiệp công nghệ thấp tiếp tục chiếm tỷ trọng cao, chiếm khoảng 65% tổng sản
phẩm chế biến, chế tạo ở Việt Nam, trong khi của toàn cầu chỉ là 18%.
CMCN 4.0 sẽ góp phần chuyển dịch sản xuất công nghiệp quốc gia theo
hướng từ nền kinh tế năng suất thấp (với ít cơ hội cho cải tiến công nghệ và đạt
được giá trị gia tăng cao trong sản xuất) sang nền kinh tế năng suất cao (với
nhiều cơ hội hơn cho các sáng kiến và giá trị gia tăng cao hơn). CMCN 4.0 sẽ
có tác động cụ thể lên ba nhóm ngành công nghiệp chính, như sau:
- Các ngành công nghiệp thâm dụng lao động như dệt may, da giày…:
lao động có tác động lớn hơn công nghệ, hiện nay vẫn là ưu thế của các nước
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
đang phát triển trong đó có Việt Nam. Trước làn sóng CMCN 4.0, đây sẽ là
một trong những thách thức lớn, khi lao động được dần thay thế bằng robot và
các nhà máy thông minh.
- Các ngành công nghiệp trung bình (hàng hóa trung gian): Ngành sắt
thép, xi măng, cao su, bao bì và các ngành công nghiệp khoáng sản phi kim
loại. Đối với các ngành này, các quốc gia công nghiệp tập trung vào công nghệ
trong khi các nước đang phát triển như Việt Nam vẫn dựa vào tài nguyên, năng
lượng nhưng chủ yếu là xuất khẩu tài nguyên thô (ở Việt Nam là xuất khẩu
khoáng sản thô). Công nghệ, lao động và tài nguyên là các yếu tố cần tác động,
đây là các ngành có thị trường phát triển mạnh và nhu cầu cao từ các nước phát
triển. Dưới tác động của CMCN 4.0, cần tập trung cải tiến để nâng cao năng
suất và chất lượng lao động.
- Nhóm các ngành công nghệ cao: Các quốc gia công nghiệp có lợi thế
cao, với các quốc gia đang phát triển, bên cạnh công nghệ, yếu tố vốn được cần
tập trung đầu tư phát triển KHCN, đổi mới và ứng dụng công nghệ tiến tiến.
Trong bối cảnh của CMCN 4.0 dự kiến sẽ có nhiều thay đổi, đòi hỏi quá trình
tái cơ cấu ngành công nghiệp cần có những bước đi thận trọng.
3.2.4. CMCN 4.0 trong phát triển khu vực dịch vụ
Khu vực du lịch cấu thành nền kinh tế hiện đại gồm: nông- lâm nghiệp-
thủy sản / công nghiệp - xây dựng / dịch vụ. Đến lượt nó, khu vực dịch vụ gồm
các hoạt động: dịch vụ sản xuất / dịch vụ tiêu dùng / dịch vụ xã hội... Xuyên
suốt giữa các hoạt động dịch vụ này là dòng chảy thông tin hữu hình và vô
hình, dưới ánh sáng của CMCN 4.0, được phân tích tác động hai chiều / tương
tác thông tin thực / ảo của các ngành dịch vụ thông tin viễn thông với các ngành
dịch vụ tài chính ngân hàng / dịch vụ thương mại - đầu tư / dịch vụ giao thông /
du lịch...
Thành công lớn nhất của Việt Nam là chủ động ổn định vĩ mô bằng việc
kiểm soát lạm phát, ổn định tỉ giá nội tệ và ngoại tệ do sử dụng công cụ ngân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
hàng điện tử kết nối e.banking, thị trường chứng khoán. Nhờ đó chủ động
được lưu chuyển tiền, định hướng vào sản xuất và tiêu dùng, kích thích tăng
trưởng kinh tế với tốc độ, trên dưới 7% / năm trong một thời gian khá dài.
Hoạt động ngân hàng được hỗ trợ kết nối mạng thông tin 3G / 4G bước đầu
phát huy tác dụng tích cực. Người tiêu dùng Việt Nam đang quen dần với
ATM, IMS... Nhà đầu tư rót tiền vào các ngân hàng và thị trường chứng
khoán với kì vọng tìm kiếm lợi nhuận tối đa. Kết quả là hệ thống dịch vụ ngân
hàng hoạt động sôi động, kích hoạt các ngành công nghiệp chế biến, xuất
khẩu, Ngân hàng xã hội phát huy vai trò tích cực trong giảm nghèo bền vững
và xây dựng nông thôn mới.
Hoạt động thương mại được đa dạng hóa nhờ kết nối internet, e.banking.
Nhờ đó, một số nông nhiệt đới vốn là thế mạnh của Việt Nam như gạo, thủy
sản, cà phê, cao su, hồ tiêu, điều, rau quả, xác lập các thị trường trọng điểm
Đông Á, Tây Á - Châu Phi, Bắc Mĩ, Nam Mĩ, đặc biệt là thị trường Á - ÂU,
EU... Thông tin hai chiều, vận chuyển lưu kho, phân phối hàng hóa Việt Nam
trên các thị trường đối tác vận hành thông thoáng, đồng tiền lưu chuyển tự do,
không có rào cản.
Cũng tương tự như vậy với các hoạt động đầu tư nhờ hoạt động thông tin
viễn thông an toàn và ổn định. Mạng cáp quang kết nối Việt Nam với các cổng
quốc tế vận hành hiệu quả và ổn định góp phần phát triển các dịch vụ phát sinh
như chuyển tiền ngoại tệ mạnh về nước, chuyển tiền tức thời của các nhà đầu tư
nước ngoài qua VietCombank. Điều hành các luồng khách du lịch kết nối. Kết
nối theo chuẩn quốc tế, bước đầu các nhà đầu tư có cơ hội lựa chọn cạnh tranh
tại Việt Nam. Điển hình là các tập đoàn SAMSUNG, TOYOTA, SUZUKI,
FORD.... đã thành công trên thương trường Việt Nam.
Kết nối giao thông thủy - bộ - hàng không - hải cảng trong nước và quốc
tế đã tiến bộ vượt bậc nhờ hệ thống kết nối Internet và các phần mềm phái sinh.
Xuất sắc nhất là mạng lưới vận tải hàng không nội địa và quốc tế Việt Nam
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
được đánh giá cao nhờ an toàn và cơ sở vật chất từng bước nâng cấp theo tiêu
chuẩn quốc tế. Các hội nghị tầm cỡ quốc tế với nhiều nhà lãnh đạo hàng đầu
thế giới tới Việt Nam được đảm bảo an toàn và trách nhiệm cao (ASEAN - 22 /
Hội đàm Mĩ - Triều Tiên..).
Có một điều lí thú là hoạt động thông tin giao thông nhân dân đã phát
triển rất có hiệu quả nhờ mạng smarphone và internet phát triển rộng khắp. Gần
đây UBER và GRAB bắt đầu cạnh tranh với thị trường vận tải ô tô khách nội
địa. Các kinh doanh bao cấp độc quyền bước đầu được kiểm soát...
Ngày nay hoạt động du lịch nội địa và quốc tế không thể phát triển nếu
không có kết nối, nhất là gần đây Chính phủ Việt Nam chuyển sang cấp visa
điện tử khiến dòng khách quốc tế tăng lên đáng kể, hoạt động du lịch nội địa và
quốc tế trở nên sôi động hơn. Nhiều tiềm năng du lịch như các di sản thiên
nhiên, văn hóa, lịch sử, nhân văn được giới thiệu, bước đầu thu hút khách du
lịch, và nguồn thu của người dân bản địa cũng được cải thiện.
Theo nhận định của Bộ TT&TT Việt Nam, một khi đi vào mạng 5G, IoT
kết nối vạn vật sẽ phát huy tác dụng, thì hầu hết các ngành dịch vụ sẽ có bước
ngoặt về chất, sẽ phát triển bứt phá, và nhờ đó kinh tế sẽ tăng trưởng nhanh
hơn, chất lượng hơn. Và lúc đó sẽ xuất hiện tài nguyên số. Nền kinh tế số cũng
giả định các dịch vụ sản xuất số / tiêu dùng số và kinh doanh số. Đó cũng là lí
do để giải thích cho phương châm bây giờ hay không bao giờ / không truyền
thống, không tuần tự, hay đi ngay vào chuyển đổi số 5G và kinh tế số, dịch vụ
số... trong CMCN 4.0 của Việt Nam [25 (iii)].
3.2.5. CMCN 4.0 với phát triển nguồn nhân lực
Một trong những bài học thành công của các quốc gia đi tiên phong trong
CNCN 4,0 như Mĩ, Đức, Trung Quốc, Hàn Quốc và một số quốc gia khác, đặc
biệt là Bắc Âu là họ có nguồn lao động tác nghiệp (operator) và các nhà quản
trị có trình độ chuyên nghiệp và tay nghề cao, có năng lực thích ứng và tiếp thu
các yếu tố nền tảng AI / IoT / BigData. Chưa hết, họ cũng học nhau một cách
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
khiêm tốn có hiệu quả, và chịu chi phí lớn. VD, Đức cử các đoàn cán bộ và
nhân viên nhiều công ty sang Mĩ, đến tận nơi để tìm hiểu / trao đổi các ý tưởng,
mua sắm thiết bị công nghệ, còn ở trong nước, chính phủ, các công ty công
nghệ, đầu tư cho IoT tiên tiến, chủ yếu là băng thông rộng 5G bằng ngân sách
của chính phủ.
Câu hỏi, Việt Nam, trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực
cho CMCN 4.0 nên hiểu như thế nào và nên bắt đầu từ đâu?
Trước hết cần nhận rõ, thế giới chúng ta đang ở giai đoạn bước ngoặt /
bản lề của sự chuyển động từ CMCN 3.0 sang CMCN 4.0 với vai trò khác về
chất của các nhân tố mới, mà ta gọi là nhân tố nền tảng. Đó là trí tuệ nhân tạo /
internet kết nối vạn vật / robot, công nghệ na no, công nghệ sinh học... Các yếu
tố mới này đem lại cơ hội giải quyết vấn đề nâng cao năng suất lao động, giảm
thiểu tác động ô nhiễm môi trường biến động thất thường của khí hậu, đảm bảo
cho đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Trong điều kiện dân số đông và nguồn nhân lực mặc dù dồi dào nhưng
chất lượng thấp nâng cao năng suất lao động là nhiệm vụ rất khó khăn. Đó chưa
nói là nguồn tài nguyên đang cạn kiệt, không đáp ứng nhu cầu nâng cao mức
sống và cải thiện chất lượng sống của người dân. Ở đây, nhìn từ góc độ thị
trường tài nguyên thiên nhiên / lao động, chúng ta cần tới CMCN 4.0 như là
một sự lựa chọn mới nhằm tạo các bước đột phá về tốc độ nhằm biến đổi cơ
bản hệ thống sản xuất và quản trị xã hội cả chiều rộng lẫn chiều sâu.
Trong điều kiện CMCN 4.0 thị trường lao động cần tới sự hợp nhất
nhiều, nếu không nói là tất cả có thể, hầu hết lĩnh vực kĩ thuật số để giải quyết
các vấn đề trong hệ thống THỰC - ẢO và IoT. Điều này sẽ dẫn tới sự thay đổi
mạnh mẽ phương thức sản xuất và cách thức quản trị sản xuất các nhà máy trên
nền tảng mới - gọi chung là các nhà máy thông minh / công sở thông minh /
cuối cùng là thành phố / nông thôn thông minh được kết nối internet qua mạng
4G/5G. Phương pháp quản trị hành chính văn phòng trước đây không còn phù
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
hợp. Khi đó chúng ta hình dung một sự nhảy vọt trên các lĩnh vực từ lao động
văn phòng, đến người bán hàng, ship hàng, những người điều khiển các phương
tiện giao thông. Để dễ hiểu, những tranh chấp giữa vận tải taxi truyền thống -
thật với UBER và GRAB - ảo là có thật trong giao thông đô thị rất sôi động.
Đó là sự sôi động giữa thực và ảo - một đặc trưng thời đại CMCN 4.0. Rồi đây
khi robot được áp dụng phổ cập, hệ điều hành mạng này không phải là người
thật - các operator mà là các robot - người ảo...
Hệ thống giáo dục / dạy nghề, gọi chung là đào tạo nguồn nhân lực thời
đại 4.0 phải định hướng lại theo hướng kết hợp kép kiến thức và kĩ năng.
Cơ cấu và thị trường lao động chịu ảnh hưởng lớn từ CMCN 4.0 do sự
chuyển dịch từ nhân công lao động giản đơn sang lao động sử dụng máy móc,
dẫn tới gia tăng thất nghiệp và số lớn người lao động giản đơn bị trả lương
thấp, đời sống khó khăn, tâm lí xã hội căng thẳng. Những vấn đề nhãn tiền có
nguy cơ lớn là: sự bất đối xứng giữa trong thị trường lao động kĩ năng cao / thị
trường kĩ năng thấp; nhu cầu đào tạo / tạo lập việc làm mới liên tục và tốn kém.
Trước đây việc học một lần là cho cả đời, bây giờ, trái lại, cả đời học để cả đời
tìm việc làm... Trong một nền kinh tế thị trường tự phát, gánh nặng lại thuộc về
nhà nước. Các phân khúc thị trường lao động luôn biến động, cần tới sự kết
hợp công tư (Khu vực công / Nhà nước - PPP).
Sự thật là đất nước đang đứng trước ngưỡng CMCN 4.0 khó mà đoán
biết hết được trình độ và kĩ năng theo tín hiệu thị trường diễn biến chóng mặt.
Tuy nhiên các trường đại học, các việc nghiên cứu vẫn theo phương pháp
truyền thống, không phản ứng mau lẹ với sự thay đổi tư duy /cơ cấu kiến thức /
kĩ năng / năng lực trước sự khủng hoảng có tính phát triển của sự chuyển đổi hệ
tư duy cũ sang hệ tư duy mới. Điểm yếu nhất của Việt Nam hiện nay là chưa
hình thành hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo, và như vậy lại trở thành rào cản
nhạy cảm hơn là thúc đẩy đổi mới và sáng tạo, đặc biệt trong các R/D. Phê
phán thì dễ, nhưng làm mới là khó. Về thực chất, CMCN 4.0 cũng ra đời trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
những khó khăn như vậy. Những kinh nghiệm các nước tiên phong trong
CMNCN 4.0 cho thấy, không gì là không thể nếu bạn quyết chí sẽ thành công,
chỉ có điều CMCN 4.0 cũng phải được vận dụng trong điều kiện lịch sử cụ thể,
giai đoạn phát triển quốc gia cụ thể có thể bằng cách tuần tự hoặc đi tắt đón
đầu. Cách nào đi nữa, phải nhớ rằng bạn phải chấp nhận rủi ro. Sau thất bại sẽ
là thắng lơi. Cơn sóng thần CMCN 4.0 sẽ quét sạch rào cản mở đường cho sự
tiến bộ về phía trước. [14].
3.3. Một số giải pháp đột phá
3.3.1. Chuyển đổi số 5G: không tuần tự / không truyền thống
Gần đây trên các phương tiện thông tin truyền thông nước ta xuất hiện
khái niệm mới về sự cần thiết phải chuyển đổi số. Theo cách nhìn chuyển đổi
mô hình tư duy và hành động, chúng tôi cho rằng đây chính là cơ hội cho các
doanh nghiệp khởi nghiệp, quốc gia khởi nghiệp. Có sáu (5) cách tiếp cận
chuyển đổi số sau đây: (i) Chatbot / (ii) iCloud / (iii) Công nghệ BigChain / (iv)
Xu hướng công nghệ tương tác ảo (VR) / (v) Dữ liệu / (vi) Kết nối mạng 5G.
Mỗi cách tiếp cận nói trên ngoài các đặc thù, thì nét chung là nền tảng mới của
công nghệ thực - ảo, giúp doanh nghiệp khởi nghiệp, các nhà quản lí cơ hội
chia sẻ thông tin nhanh, tức thì, chính xác và an toàn.
Cũng có cách tiếp cận khác là: (i) tư duy bứt phá, không tuyền thống,
không tuần tự. (ii) Học trong khi làm / trong hành động (Learning in doing).
Nhiệm vụ cấp bách hiện nay là triển khai chuyển đổi số bằng việc triển
khai mạng 5G. Dẫu biết rằng trên nhiều chỉ số "sẵn sàng cho CMCN 4.0", Việt
Nam nằm ở top cuối so với nhiều quốc gia trên thế giới và khu vực. Lịch sử
Việt Nam từng dạy chúng ta bài học trước kẻ thù mạnh, trước khó khăn trăm
bề, đối mặt với đối thủ mạnh hơn ta nhiều lần (nhà Nguyễn trước đây, chủ
nghĩa thực dân của Pháp và chủ nghĩa thực dân mới của Mĩ), chúng ta vẫn có
cách, đó là sự sáng tạo của Việt Nam. Và trên tất cả, không được bỏ lỡ cơ hội
chấn hưng đất nước như từng xảy ra trong TK XIX (!). Đó là tư duy bứt phá,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
không truyền thống, không tuần tự - mà điều này lại là thuộc tính của CMCN
4.0, giúp ta vượt qua mặc cảm rằng nước ta chưa sẵn sàng cho CMCN 4.0. Đột
phá từ đâu và ở nơi nào để thay đổi thứ hạng thế giới / để xây dựng các yếu tố
nền tảng CMCN 4.0 ?
Câu trả lời: Từ 5G / Từ hai đầu tàu Hà Nội và TP Hồ Chí Minh.
"Mạng 5G là hạ tầng kết nối vạn vật - hạ tầng quan trọng nhất của cách
mạng công nghiệp 4.0. Việt Nam muốn đi đầu trong cách mạng 4.0 thì mạng
5G phải đi trước và đi đầu. Mạng lưới phải có trước, hạ tầng kết nối phải có
trước. Đầu tư trước kinh doanh sau, đây phải là triết lý kinh doanh của tất cả
các nhà mạng.
Mạng 5G cho kết nối vạn vật của Việt Nam phải vào loại tốt nhất trên
thế giới. Số lượng trạm BTS cho 5G sẽ phải lớn hơn rất nhiều so với các công
nghệ trước đó. Do vậy, dùng chung hạ tầng, chia sẻ hạ tầng viễn thông với các
hạ tầng điện, nước, giao thông là rất quan trọng để giảm chi phí xã hội
Hình 3.1. IoT & BigDa - biểu tượng của CMCN 4.0.
Nguồn: [26 (i)]
Sự khẳng định của Bộ trưởng Bộ TT&TT Việt Nam được diễn giải chi
tiết hơn: "Thị trường viễn thông Việt Nam cũng cần những nhân tố cạnh tranh
mới để thúc đẩy phát triển, để có những đột phá mới về phát triển thuê bao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
băng rộng, để đến năm 2020 đạt mật độ thuê bao di động băng rộng 100%. Cơ
cấu dịch vụ của các nhà mạng cũng sẽ thay đổi để thoại và nhắn tin chỉ còn
chiếm dưới 30% tổng doanh thu và tăng tiêu dùng dữ liệu trên đầu người, để
Việt Nam vào Top 30-50 trên thế giới. Về chuyển đổi số, các nhà mạng phải là
những công ty đầu tiên thực hiện chuyển đổi số triệt để, và cũng sẽ là người
ứng dụng đầu tiên hiệu quả các công nghệ AI, Big Data, IoT. Về đổi mới sáng
tạo, các nhà mạng phải đóng vài trò phát triển các X-Tech như FinTech,
AgriTech, EduTech, nhằm tạo ra sự thay đổi lớn của các ngành. Trong chính
sách viễn thông, chính sách ICT, chính sách cho cách mạng công nghiệp 4.0,
chúng ta phải đi đầu để thu hút con người, công nghệ, sản phẩm của thế giới về
với Việt Nam để Việt Nam trở thành trung tâm của thế giới..." [26 (iii)].
3.3.2. Xây dựng Bản đồ quốc gia số
Trước đây chúng ta đón chào Atlat quốc gia Việt Nam như một dấu
mốc quan trọng trong khoa học Trái đất và Việt Nam. Atlat quốc gia đó nhanh
chóng đi vào lịch sử và kém giá trị sử dụng do các số liệu điều tra và phương
pháp xây dựng bản đồ chủ yếu dựa vào phương pháp luận và phương pháp
biên vẽ của Liên Xô cũ, đến nay không con thích hợp nữa. Nhưng quan trọng
hơn cả, bản đồ đó dựa trên những thành quả của CMCN 2.0, cũng tức là
những kết quả điều tra cơ bản và xử lí số liệu dùng cho để luận chứng cho nền
kinh tế kế hoạch.
Ngày nay, yêu cầu cuộc sống là kết nối nhanh, tức thì và hữu dụng trên
các phương tiện internet mới đem lại cơ hội xây dựng nền tảng IoT, bản đồ quốc
gia số sẽ lưu trữ các ID về tài nguyên, lao động và tài sản quốc dân trong một
BigChain, sẵn sàng cho chia sẻ thông tin quản lí kinh tế và các quá trình xã hội,
nhân văn. Nhiều lĩnh vực trước đây tưởng như không thể số hóa được thì nay
trên nền tảng mới, cùng lúc có thể truy cập khai thác các dữ liệu về quá khứ, hiện
tại và tương lai. Do được biên vẽ trên nền 2D, Bản đồ Atlat quốc gia tỏ ra không
phù hợp. Được xây dựng trên nền tảng mới điện toán đám mây Bản đồ quốc gia
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
số ngày nay sẽ mở ra cơ hội lớn cho quản lí kinh tế và quản trị xã hội.
Đương nhiên lúc đó việc học Địa lí cũng phải trên nền tảng mới của công
nghệ AI / IoT / BigChain... Bản đồ số quốc gia Việt Nam đem lại cơ hội đổi
mới Địa lí học nói chung, giảng dạy và học tập Địa lí trong nhà trường sẽ phải
thay đổi căn bản và toàn diện. Đây cũng là cơ hội mới để hiện đại hóa Địa lí
Việt Nam khi được tiếp cận CMCN 4.0.
3.3.3. Một số giải pháp xây dựng hình ảnh của quốc gia khởi nghiệp Việt Nam
trong tinh thần CMCN 4.0
Trong thời đại CMCN 4.0 mọi hoạt động khởi nghiệp phải được xây
dựng trên nền tảng mới nhất để tiếp cận với thị trường các nước quốc tế và khu
vực. Nhớ rằng các đối tác chiến lược của Việt Nam (EU, Hoa Kì, Trung Quốc,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapo, Ấn Độ) đều tiến mạnh vào công nghệ sản xuất
và dịch vụ trên nền tảng mới không khẩn trương và chủ động đón nhận xu
hướng này, chúng ta sẽ bỏ mất cơ hội phục hưng đất nước như chúng ta từng
bỏ lỡ các CMCN 1.0 / 2.0 / 3.0 với giá đắt phải trả cho sự tụt hậu và yếu kém,
trong khi Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc từng ở vạch xuất phát ban đầu đâu
có hơn Việt Nam, vậy mà bây giờ tiến bộ thần kì, và chúng ta đi sau họ, đi học
họ (!). Với nhận thức như vậy Mô hình quôc gia khởi nghiệp Việt Nam phải
được đặt trên nền tảng mới của CMCN 4.0.
"... Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường tự do, trong
đó trọng tâm là tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh nhằm tạo ra một sân
chơi thực sự bình đẳng giữa các DN thuộc mọi thành phần kinh tế.
Thứ hai, xây dựng và thực thi Luật Hỗ trợ DN nhỏ và vừa, trong đó cần
thể hiện quan điểm hỗ trợ có trọng điểm, hỗ trợ có chọn lọc trong đó có ưu tiên
đối với khởi nghiệp nói chung và khởi nghiệp sáng tạo nói riêng nhằm thúc đẩy
các doanh nhân trẻ, doanh nhân có nhiệt huyết kinh doanh tham gia vào hoạt
động kinh doanh.
Thứ ba, kiên định định hướng chuyển từ Chính phủ điều hành sang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
Chính phủ kiến tạo phát triển. Chính phủ cần xác định lại vai trò của mình
nhằm phù hợp với yêu cầu và thực tiễn phát triển của đất nước, phải chuyển từ
vị thế quản lý sang vai trò mới là “phục vụ” doanh nghiệp và người dân với
mục đích phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Thứ tư, xây dựng cơ chế, chính sách cụ thể, minh bạch nhằm khuyến
khích việc hình thành và phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm để hỗ trợ cho các
DN, đặc biệt là DN khởi sự có tiềm năng lớn.
Thứ năm, tiếp tục đẩy mạnh cải cách khu vực DN nhà nước theo hướng
chỉ giữ lại những DN hoạt động trong những ngành, lĩnh vực chiến lược có giá
trị gia tăng cao, mang tính dẫn dắt, định hướng phát triển đất nước về dài hạn,
mà khu vực tư nhân không muốn hoặc không có khả năng tham gia. Các DN
nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh thương mại thuần túy cần tiến hành cổ
phần hóa và thoái vốn nhà nước xuống tỷ lệ thiểu số.
Thứ sáu, thực hiện đúng lộ trình về cải cách hành chính, giảm biên chế.
Hoàn thiện các quy định, chế độ liên quan đến công chức, công vụ, minh bạch
hóa hệ thống công chức công vụ để hạn chế tối đa “thu nhập ngoài lương” như
hiện nay.
Thứ bảy, cải cách hệ thống đào tạo, đặc biệt là đào tạo khởi nghiệp tại
các trường, các trung tâm đào tạo…, mời những nhà DN nổi tiếng, các doanh
nhân trẻ giảng dạy, để chia sẻ kinh nghiệm, kiến thức để đem đến những bài
học quý cho những doanh nhân tương lai khi bắt đầu khởi nghiệp.
Thứ tám, có chính sách nhập tịch cho công dân nước ngoài cũng như
người gốc Việt phù hợp. Bên cạnh đó, cũng cần có chính sách khuyến khích
người Việt ở nước ngoài có đóng góp lớn hơn cho sự phát triển của Việt Nam,
đặc biệt là thông qua các chương trình đóng góp sáng kiến cho phát triển, hỗ
trợ, liên kết kinh doanh.. [30].
3.3.4. Ứng phó với biến đổi khí hậu
Tổng Thư kí LHQ, ông Guterres cho rằng: "... BĐKH là thách thức thứ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
nhất do bão tố và nhiều thiên tai khác ngày càng xảy đến nhiều hơn, với cường
độ ngày một cao hơn, sức tàn phá ngày càng lớn hơn. Sự biến đổi khí hậu cũng
làm cho nạn sa mạc hóa lan rộng tại nhiều châu lục, đặc biệt tại châu Phi, tạo ra
những đợt sóng người di cư rộng lớn, ảnh hưởng đến tiến độ phát triển chung
của thế giới. Thách thức thứ hai là sự bất bình đẳng giữa các thành phần trong
xã hội, khi chỉ tám người giàu nhất làm chủ khối tài sản bằng với tài sản của
một nửa nhân loại nghèo nhất. Điều này làm sút giảm niềm tin của nhiều người
vào mối quan hệ với chính phủ, với các tổ chức quốc tế và các định chế chính
trị chi phối mọi hoạt động trên toàn cầu..." [26 (i)].
Để giải quyết thách thức thứ nhất, đã có Thỏa thuận Paris về Biến đổi khí
hậu và Chương trình Hoạt động đến năm 2030 được tất cả các nước trên thế
giới thông qua trong khuôn khổ chiến lược PTBV.
Để giải quyết thách thức thứ hai, cần tới việc triển khai CMCN 4.0. Tiếp
theo ba cuộc cách mạng công nghiệp vào những năm 1784, 1870 và 1969. Đó
là cuộc cách mạng về công nghệ thông tin kết hợp với trí thông minh nhân tạo,
công nghệ sinh học, công nghệ nano và các hình thức canh tân khác. Đây sẽ là
lời giải cho hai vấn đề nêu trên là sự biến đổi khí hậu và những bất bình đẳng
trong xã hội. Trước tiên nó giúp cải tiến mạnh mẽ lĩnh vực giáo dục đào tạo,
làm giảm thiểu số người thất nghiệp, thu hẹp chênh lệch biên độ thu nhập giữa
các thành phần dân cư. Soạn thảo các kế hoạch hợp tác dài hạn, tranh thủ sự hỗ
trợ của LHQ và các cơ quan trực thuộc tổ chức này.
Là một trong 5 nước chịu hưởng lớn do BĐKH, Việt Nam không chờ tới
cuối TK XXI, đã đối mặt ngay với một bộ phận lớn diện tích ĐBSCL Việt Nam
bị ngập chìm dưới mực nước biển, đe dọa đến sinh kế của 18 triệu dân, đến vựa
lúa, hoa quả, thủy sản xuất khẩu. Vấn đề là các nhà quản lí cần tìm cách tiếp
cận thông minh sáng tạo để kiến giải những thách thức do BĐKH diễn biến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
ngày càng phức tạp với nhiều hệ lụy xã hội khó lường...
1. Trong quá trình hội nhập và phát triển cơ hội lớn nhất CMCN 4.0 để
Tiểu kết Chương 3
Việt Nam rút ngắn khoảng cách phát tiển trên nền tảng AI/IoT/BigData và điện
toán đám mây. Thách thức lớn nhất là trình độ nền kinh tế còn khó khăn và cơ
sở hạ tầng, năng suất lao động, điều kiện phức tạp và khó lường về mặt địa -
chính trị.
2. CMCN 4.0 tác động tới nhiều để nền kinh tế tái cơ cấu bằng việc soạn
thảo chiến lược và hiện thực hóa trên nền tảng mới của chuyển đổi số và kinh tế
số, sao cho có thể kết nối hiệu quả với nền kinh tế của các nước trong khuôn
khổ đối tác chiến lược trước hết là EU, Hoa Kì, Mĩ, Nhật, Hàn Quốc... Bình
đẳng trong hợp tác, cùng phát triển, cùng thắng trên nền tảng công nghệ số, trí
tuệ nhân tạo, internet kết nối vạn vật.
3. Để tiếp cận CMCN 4.0 cần tập trung hiện thực hóa 5 nhiệm vụ có tầm
quan trọng hàng đầu: ưu tiên đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực /cải cách luật
pháp/chiến lược và chính sách KHCN/chất lượng nguồn nhân lực/bảo vệ môi
trường sinh thái và ứng phó với BĐKH.
4. CMCN 4.0 được đột phá bởi (i) Chuyển đổi số mạnh mẽ trong kinh tế
số và quản trị xã hội / (ii) Xây dựng bản đồ quốc gia số / (iii) Hướng các doanh
nhân, các nhà đầu tư mạo hiểm vào chương trình khởi nghiệp quốc gia / (iv) Số
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
hóa các dữ liệu quản lí để ứng phó với BĐKH.
KẾT LUẬN
1. Trên nền tảng chiến lược "Industrie 4.0" cội nguồn từ thực tiễn công
nghiệp ở Đức, CMCN 4.0 được hiểu là... "Kết nối các hệ thống nhúng và cơ sở
sản xuất thông minh để tạo ra sự hội tụ kĩ thuật số giữa Công nghiệp, Kinh
doanh, chức năng và quy trình bên trong..". "... sự thay đổi hoàn toàn cuộc
sống của chúng ta, không chỉ thay đổi cách giao tiếp, cách thức sản xuất,
phong cách tiêu dùng.
Cuộc cách mạng này sẽ diễn ra rất nhanh chóng - giống như sóng thần".
Với vai trò dẫn đầu CMCN 4.0, năng lực cạnh tranh toàn khối Liên minh
Châu Âu được nâng lên bằng việc đề ra nhiều chương trình, DA đổi mới công
nghệ hiện đại trên nguyên tắc của nền công nghiệp AI / IoT / BigData. Điều
đặc biệt lí thú là một số thành viên EU (Ba Lan) đã sớm nhận ra sự cần thiết
sớm tiếp cận CMCN 4.0.
2. Trong số các nước dẫn đầu/tiên phong trong CMCN 4.0 phải kể tới
Mĩ, Đức, Trung Quốc và Hàn Quốc. Mĩ luôn ở vị trí dẫn đầu trong nền kinh tế
sáng tạo. CMCN 4.0 sẽ chắp cánh cho họ luôn dẫn đầu thế giới. Liên bang Đức
là quê hương của khái niệm Công nghiệp 4.0 với việc thiết kế lại các quy trình
công nghệ trên nên tảng AI/IoT. Nổi bật sau hai nước nói trên là Trung Quốc
đang quá độ từ công xưởng thế giới sang sản xuất / chế tạo / thiết kế tại Trung
Quốc; Hàn Quốc, Đài Loan với nhiều DA công nghệ trên nền tảng mới với
tham vọng cạnh tranh với ngay cả các nước lớn như Mĩ, Nhật, Úc... Ở ĐNA là
Singapo với Chương trình xây dựng Singapor có nền kinh tế thông minh, quản
lí xã hội hiện đại. Theo hướng này, Malaixia, Thái Lan, Inđônexia đang triển
khai chuyển đổi số và kinh tế số.
3. CMCN 4.0 được coi là cơ hội "rút ngắn khoảng cách phát triển" trên
nền tảng AI / IoT /GigData /... Trong tiếp cận cuộc cách mạng này gặp nhiều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
rào cản, đó là: (i) lao động xã hội với năng suất hạn chế / (ii) dân số đông, già
hóa nhanh / (iii) cơ sở hạ tầng mới ở giai đoạn bắt đầu / (iv) biến đổi khí hậu /
(v) môi trường địa -chính trị / địa - kinh tế thế giới phức tạp, khó lường.
CMCN 4.0 tác động tới nhiều lĩnh vực ngày càng mạnh mẽ đến nhiều
lĩnh vực như tái cơ cầu nền kinh tế, tái cơ cấu nông nghiệp, dịch vụ và GD-ĐT/
PTBV, tập trung hiện thực hóa 5 nhiệm vụ: Đầu tư hiệu quả cho giáo dục - đào
tạo / Cải cách luật pháp / Soạn thảo chiến lược và chính sách KHCN / Phát
triển nguồn nhân lực / Hội nhập quốc tế một cách chủ động...
Một số giải pháp phát triển đột phá: (i) Chuyển đổi số trên 5G / (ii) Bản
đồ quốc gia số / (iii) Hướng các doanh nhân, các nhà đầu tư vào Chương trình
khởi nghiệp quốc gia / (iv) Số hóa các dữ liệu quản lí môi trường / Chủ động
ứng phó với BĐKH.
4. Kiến nghị: (i) Tăng cường truyền thông những kiến thức cơ bản về
CMCN 4.0; (ii) Đào tạo nguồn nhân lao động khởi nghiệp CMCN 4.0 Trọng
tâm là nguồn nhân lực được đào tạo trên trình độ cao. Ba giải pháp đột phá: (i)
Chuyển đổi số và quản trị xã hội số / (ii) Hướng mọi hoạt động khởi nghiệp vào
Quốc gia khởi nghiệp trên nền tảng CMCN 4.0 / (iii) Ứng phó tích cực với biến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
đổi khí hậu toàn cầu...
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bamard Marr 2015). Dữ Liệu Lớn. NBXB Công Thương, 2017.
2. Nguyễn Thị Quế Anh (2018). CMCN 4.0 và cải cách pháp luật ở Việt Nam.
NXB CTQG Sự Thật.
3. CMCN 4.0: Xu hướng vẩn phẩm. T/c chí Tự động hóa5/2016.
4. Cục Thông tin KHCN quốc gia (2018). Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
TTX Việt Nam /Trung tâm Phân tích thông tin
5. Dan Senor & Saul Singer (2016). Quốc gia khởi nghiệp, Câu chuyện về nền
kinh tế thần kì của Israel (STARTUP NATION, The story of Israel's
economic miracle). Trí Vương Dịch, NXB Thế giới, 2015.
6. Dorie Clark (2016). Khởi nghiệp 4.0 - Kinh doanh thông minh trong CMCN
4.0. NXB Lao Động, Hn, 2019.
7. Phan Xuân Dũng (biên soạn) (2018) "CMCN 4.0, cuộc cách mạng của sự hội
tụ và tiết kiệm". Google.com / phanxuandung.../
8. Elsa B. Kania (2019). Đánh giá Kế hoạch ‘Made in China 2025’. Biên dịch
Trần Quang, T/c Quan hệ quốc tế, 2/2019
9. Nguyễn An Hà... (2018) CMCN 4.0 ở châu Âu., tác động lan tỏa đến Ba Lan...
Viện Nghiên cứu châu Âu.
10. Lương Đình Hải (2018), CMCN 4.0 và KTXH, Con người VN.. Viện
NCCN.
11. Trần Vân Hoa (chủ biên) (2018). CMCN 4.) Vấn đề đặt ra cho phát triển
KTXH và hội nhập quốc tế của Việt Nam. NXB CTQG, HN,
12. Klaus Schwab (2016). CMCN 4.0 (The Fourth Industrial Revolution). Bộ
Ngoại giao dịch và hiệu đính, NXB Thế giới, Hà Nội, 2016. NXB Lao động.
13. Klaus Schwab (2016). Định hình CMCN 4.0 (Shaping 4th IR). Chân dung
người khai sinh ra khái niệm CMCN4.0 NXB Trí thức TRẺ).
14. Đặng Mộng Lân (2018). Cách mạng khoa học - sự thay đổi khuôn mẫu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
(Paradigm). Google.com / dangmonglan...10:03:2019.
15. Lisa Arthur (2016), Maketing Theo Dữ Liệu Lớn, NXB Trẻ. 2018
16. Nguyễn Đình Tuấn, Nguyễn Tử Xiêm (2018). NN Việt Nam và CMCN 4.0
T/c NNJ&PTNN. 8/2018.
17. Rodall Tross (2019). Hướng nghiệp trong thời đại CMCN 4. NXB Lao
Động, 2018
18. Thomas S. Kuhn (1962). Cấu trúc cuộc cách mạng khoa học ("The
Structure of Scientific Revolutions). Google.com /Thomas S. Kuhn /...
/02:2019.
19. Moceij Kranz (21018), Thiết lập IoT (Inernet kết nối vạn vật) trong doanh
nghiệp. NXB Thế Giới.
20. Thomas L. Friedman (2005). Thế giới phẳng (The World Flat - A brief
history of the twenty-First centure). Nxb TRẺ, Tp HCM. 2007.
21. Philip Kotler (2018). Makerting trong thời địa 4.0. NXB Thế Giới, 2019.
22. Ngô Doãn Vịnh (2010). Phát triển - Điều kì diệu và bí ẩn, NXB CTQG,
HN, 220 tr.
23. Yoshitaka (2016) FINTRCH 4.0 - Những điển hình thành công trong
CMCN 4.0. NXB Lao Động.
24. Vũ Như Vân (2019). Địa lí Việt Nam Paradigm 4.0. Kỉ yếu HNKHĐLTQ
XI, Huế, 2019.
25. VICCI (2014). Báo cáo Chỉ số khởi nghiệp Việt Nam năm 2014. NXB
THÔNG TẤN, Hà Nội, 2015.
26. WEBSITS: https:// www.chinhphu.org,vn / (i) Những biện pháp thúc đẩy
CMCN 4.0 /(ii) chuyển đổi số và kinh tế số.../ (iii) Bộ trưởng TT&TT Việt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
`
Nam Nnguyễn Mạnh Hùng... /
PHỤ LỤC
1. Đánh giá Kế hoạch ‘Made in China 2025’
Elsa B. Kania (2019). Đánh giá Kế hoạch ‘Made in China 2025’. Biên
dịch Trần Quang, T/c Quan hệ quốc tế.
Khi các cuộc đàm phán thương mại tiếp tục mà chưa biết đến bao giờ
mới kết thúc, “kỷ nguyên mới” của quan hệ Mỹ-Trung này có đặc trưng là
những bất đồng về công nghệ và sản xuất nổi bật hơn bao giờ hết. Đặc biệt, kế
hoạch “Made in China 2025” tiếp tục chi phối các tiêu đề báo chí. Kể từ khi ra
mắt vào năm 2015, sáng kiến này đã trở thành chủ đề gây lo ngại căng thẳng và
tranh cãi tái diễn, dẫn đến một mức độ nổi bật khá kỳ lạ đối với một vấn đề khá
khó hiểu về chính sách công nghiệp. “Made in China 2025” là một phần then
chốt trong cấu trúc phức tạp gồm các kế hoạch và chính sách nhằm mục đích
tạo ra “sự phát triển theo định hướng đổi mới”, một chương trình nghị sự nổi
lên như một ưu tiên rõ ràng dưới sự lãnh đạo của Tập Cận Bình.
Trong nhiều khía cạnh, việc sáng kiến này ra mắt phản ánh một sự phản
ứng lại năng lực sản xuất yếu kém của Trung Quốc so với các nước dẫn đầu
toàn cầu, đồng thời tìm cách tận dụng cơ hội được công nhận để đạt được
nguồn tăng trưởng mới. Càng ngày, “Made in China 2025” càng trở thành
biểu tượng cho những tham vọng này, gây ra sự quan ngại sâu sắc của Mỹ về
việc Trung Quốc nổi lên như một đầu tàu công nghệ kình địch với sự lãnh đạo
của Mỹ. Mục tiêu cốt lõi của việc thúc đẩy “đổi mới bản địa” nhằm cho phép
Trung Quốc “chấn hưng dân tộc” đã rất nhất quán trong các thế hệ lãnh đạo
gần đây của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ). Về vấn đề này, khía cạnh
công nghệ của sự trỗi dậy của Trung Quốc là không thể thiếu trong quỹ đạo
tương lai của nước này như là một cường quốc đang trỗi dậy với những tham
vọng toàn cầu.
Về cốt lõi, “Made in China 2025” nhằm mục đích biến Trung Quốc
thành một “siêu cường sản xuất”. Cụ thể, kế hoạch này nhấn mạnh 10 lĩnh vực
ưu tiên, bao gồm công nghệ thông tin thế hệ mới; các công cụ máy móc và
rôbốt điều khiển số tiên tiến; công nghệ hàng không vũ trụ, bao gồm cả động cơ
máy bay lẫn thiết bị hàng không; dược phẩm sinh học và thiết bị y tế hiệu suất
cao. Tại thời điểm nền kinh tế Trung Quốc đang giảm tốc, việc nắm bắt những
ngành công nghiệp và công nghệ mới nổi như vậy được coi là phương tiện then
chốt để duy trì và cải thiện tăng trưởng. Chẳng hạn, việc theo đuổi những tiến
bộ trong sản xuất thông minh được cho là mang tính sống còn để đảm bảo khả
năng cạnh tranh trong tương lai trong bối cảnh diễn ra một cuộc cách mạng
công nghiệp mới.
Những mục tiêu này không phải chỉ có ở Trung Quốc. “Made in China
2025” được lấy cảm hứng từ một nghiên cứu chặt chẽ về sáng kiến “Công
nghiệp 4.0” của Đức. Về vấn đề này, không phải là trọng tâm của sáng kiến
này, mà là những ý định được phản ánh trong các mục tiêu của nó và việc thực
hiện là đáng quan ngại. Trong một thế giới trong đó công nghệ và đổi mới đã
trở nên toàn cầu hóa cao, Trung Quốc đã tìm kiếm “sự tự cung tự cấp” trong
các công nghệ cốt lõi khắp một loạt các ngành công nghiệp ưu tiên. Một cách
ngấm ngầm và thường tương đối rõ ràng, mục tiêu trở thành một siêu cường
sản xuất của Trung Quốc cho thấy tham vọng không chỉ đơn thuần là bắt kịp
các nền kinh tế tiên tiến khác mà còn vượt qua và thay thế họ để đạt được vị trí
thống trị trong các ngành này trên toàn thế giới.
Khi nền kinh tế Trung Quốc giảm tốc và Bắc Kinh tìm cách đảm bảo sự
phát triển bền vững hơn trong dài hạn, việc nắm bắt các công nghệ và sự đổi
mới mới nổi này được coi là một nhu cầu quốc gia ở cấp cao nhất. “Made in
China 2025” phải được đặt trong bối cảnh truyền thống có một loạt rộng lớn
các chính sách công nghiệp, mà phần lớn trong đó vẫn ít tai tiếng hơn nhưng
tuy thế cũng đáng kể, bao gồm Chương trình phát triển khoa học và công nghệ
quốc gia trong trung và dài hạn (2006-2020), trong đó nhấn mạnh tầm quan
trọng của việc cải thiện các năng lực đổi mới bản địa của Trung Quốc để nâng
cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Sự nỗ lực cho đổi mới bản địa này bị ảnh
hưởng bởi những quan ngại mạnh mẽ về những sự nguy hiểm của việc tụt lại
phía sau hoặc vẫn phụ thuộc vào các công nghệ nước ngoài, được thấm nhuần
bởi ký ức lịch sử về sự yếu kém và lạc hậu về công nghệ của Trung Quốc trong
quá khứ.
Từ góc độ lịch sử, cách tiếp cận theo định hướng nhà nước với việc thúc
đẩy sự đổi mới này hầu như không gây ngạc nhiên, tiếp tục di sản của chương
trình “Hai quả bom, một vệ tinh” trong thời đại những năm 1960. Tuy nhiên,
Tập Cận Bình rõ ràng đã nâng chương trình nghị sự này lên một tầm cao mới.
Thời điểm hiện tại được coi là một cơ hội lịch sử duy nhất dành cho Trung
Quốc, tại đó có sự hội tụ giữa một cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mới
và cuộc chuyển đổi công nghiệp với mô hình phát triển kinh tế đang tiến triển
của chính Trung Quốc. Tất nhiên, điểm cuối dự định và đích đến cuối cùng cho
các kế hoạch này là vào năm 2049, năm mà Trung Quốc dự định thực sự trở
nên “có đẳng cấp thế giới” với tư cách là một siêu cường về khoa học và công
nghệ. Đồng thời, các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc cũng thường
thẳng thắn thừa nhận một số thiếu sót tiếp tục, như trong các chu kỳ hội nhập,
vẫn tồn tại đến hiện nay, dẫn đến sự phụ thuộc vào việc tiếp cận với “các nguồn
lực đổi mới quốc tế” mà vẫn còn thiếu ở trong nước.
Chiến lược kết nối tất cả các sáng kiến này xuất phát từ một đường lối
chỉ đạo cho sự phát triển “định hướng đổi mới”, liên kết một số sáng kiến có
liên quan với nhau làm nổi bật một loạt các công nghệ đột phá. Chiến lược
đáng chú ý này, do Ủy ban Trung ương ĐCSTQ và Quốc vụ viện cùng đưa ra,
tuyên bố “sự đổi mới thúc đẩy và định hình số phận của quốc gia”. Chương
trình nghị sự này đã định hình theo Kế hoạch 5 năm lần thứ 13 (2016-2020),
một khung thời gian trong đó Trung Quốc rõ ràng đang ngày càng nhấn mạnh
vào việc nắm bắt “các đỉnh cao vượt trội” của sự đổi mới, tìm cách đạt được lợi
thế gia nhập đầu tiên trong một số công nghệ chiến lược nhất định. Thông qua
Kế hoạch đổi mới khoa học và công nghệ quốc gia, Trung Quốc đã đưa ra 15
dự án lớn, ưu tiên một số công nghệ chiến lược nhất định để đạt được những
tiến bộ lớn vào năm 2030, bao gồm từ rôbốt và khoa học về trí não đến một
trạm không gian và điện toán lượng tử và truyền thông. Ưu tiên cao dành cho
các công nghệ này đã dẫn đến việc đưa hàng tỷ đầu tư vào nghiên cứu và phát
triển dài hạn, bao gồm thông qua việc thành lập các phòng thí nghiệm quốc gia
mới, như cho khoa học thông tin lượng tử.
Đồng thời, có một sự nhấn mạnh tiếp tục lại vào một số “ngành công
nghiệp chiến lược mới nổi”, bao gồm năng lượng mới, công nghệ sinh học và
công nghệ thông tin thế hệ kế tiếp. Ngoài các sáng kiến quốc gia, một số thành
phố đã thực hiện các biện pháp của riêng họ ở cấp địa phương, cạnh tranh để
thiết lập đặc trưng và lợi thế địa phương của riêng họ, trong đó có kế hoạch của
Tế Nam tạo ra “Thung lũng Lượng tử”. Thông thường, sự tài trợ này kết hợp
chuyên môn và các nguồn lực của các nhà đầu tư theo định hướng của chính
phủ, trong đó có một quỹ hướng dẫn đầu tư mạo hiểm mới được thành lập vào
năm 2016 đang nhắm mục tiêu vào các ngành công nghiệp chiến lược mới nổi,
đã huy động tiền lên đến mức 17,85 tỷ nhân dân tệ (hơn 2,6 tỷ USD).
Báo cáo công tác của Tập Cận Bình tại Đại hội Đảng 19 vào tháng
10/2017 có lẽ đã đưa ra đánh giá có thẩm quyền nhất về tính định hướng của
các kế hoạch và ý định của Trung Quốc. Trong bài phát biểu của mình, Tập
Cận Bình nhấn mạnh:
Chúng ta sẽ làm việc nhanh hơn để xây dựng Trung Quốc trở thành nhà
sản xuất chất lượng và phát triển sản xuất tiên tiến, thúc đẩy hội nhập Internet,
dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo (AI) vào nền kinh tế thực hơn nữa, và thúc đẩy
các lĩnh vực tăng trưởng mới và thúc đẩy tăng trưởng tiêu dùng trung bình-cao
cấp, phát triển theo định hướng đổi mới, nền kinh tế xanh và khí thải thấp, nền
kinh tế chia sẻ, các chuỗi cung ứng hiện đại và dịch vụ vốn nhân lực. Chúng ta
sẽ hỗ trợ các ngành công nghiệp truyền thống tự nâng cấp bản thân và đẩy
nhanh sự phát triển của các ngành dịch vụ hiện đại để nâng chúng lên các tiêu
chuẩn quốc tế. Chúng ta sẽ đưa các ngành công nghiệp Trung Quốc lên đến
tầm trung-cao cấp của chuỗi giá trị toàn cầu và thúc đẩy một số nhóm sản xuất
tiên tiến đẳng cấp thế giới.
Tất nhiên, những ý tưởng và chủ đề này không phải là duy nhất đối với
cá nhân Tập Cận Bình; thay vào đó đã có một sự nhất quán hợp lý trong cách
các nhà lãnh đạo Trung Quốc giải quyết và theo đuổi các mục tiêu này. Chẳng
hạn, Hồ Cẩm Đào trong báo cáo công tác của ông tại Đại hội Đảng lần thứ 18
vào tháng 11/2012 đã nhấn mạnh các mục tiêu tương tự, kêu gọi Trung Quốc
“thúc đẩy sự tăng trưởng mạnh mẽ của các ngành công nghiệp chiến lược mới
nổi và các ngành sản xuất tiên tiến, [và] tăng tốc quá trình chuyển đổi và nâng
cấp các ngành công nghiệp truyền thống”. Tuy nhiên, Tập Cận Bình phê chuẩn
sự đổi mới theo một cách và ở một mức độ cho thấy rằng khái niệm này không
chỉ đơn thuần là một từ thông dụng mà cần được coi là một yếu tố cốt lõi trong
hệ tư tưởng của ông.
Những kế hoạch và mục tiêu này cần được coi trọng như một dấu hiệu có
căn cứ cho thấy những khát vọng và mong muốn của Trung Quốc. Tuy nhiên,
tầm quan trọng của chúng có thể bị nói quá, so với vai trò then chốt của lĩnh
vực công nghệ của Trung Quốc trong việc hiện thực hóa chương trình nghị sự
này. Sự thành công của Trung Quốc về các công nghệ đột phá ngày nay có thể
góp phần vào động lực của các công ty công nghệ của Trung Quốc, những công
ty tự mình nổi lên như những công ty hàng đầu toàn cầu thực sự. Những nhà
quán quân mới này bao gồm các công ty hàng đầu như Baidu, Alibaba, Tencent
và iFlytek, là các công ty lớn tham gia trong lĩnh vực AI và là những công ty có
những đóng góp quan trọng cho những cơ sở và phòng thí nghiệm quốc gia để
phát triển AI. Không như các doanh nghiệp nhà nước đã và vẫn là các yếu tố
chính trong sự phát triển của Trung Quốc, lĩnh vực công nghệ mới này khởi
đầu chủ yếu là tư nhân và tương đối độc lập với định hướng của nhà nước,
trong khi thường được hưởng lợi từ sự hỗ trợ và đầu tư mạnh mẽ của nhà nước.
Tuy nhiên, sự cân bằng đó đang bắt đầu thay đổi theo những cách có thể
làm suy yếu sự thành công trong tương lai của các công ty công nghệ này. Hiện
tại, ĐCSTQ dường như đang trong quá trình khẳng định sự kiểm soát chặt chẽ
hơn bao giờ hết đối với các công ty công nghệ Trung Quốc. Những mâu thuẫn
quan trọng này mở rộng đến khoảng cách giữa những lời hoa mỹ cao cả về sự
đổi mới và các công nghệ mà thông qua đó Chính phủ Trung Quốc tìm cách đạt
được điều đó, cụ thể là gián điệp công nghiệp quy mô rộng lớn và đang diễn ra.
Trong lịch sử gần đây, các phương tiện mà nhờ đó Trung Quốc theo đuổi sự
tiến bộ công nghệ đã gây ra sự quan ngại mạnh mẽ trong các nhà lãnh đạo Mỹ
và ngày càng trên toàn thế giới về các thực tiễn “trục lợi”. Những chiến thuật
này đã bao gồm trộm cắp tài sản trí tuệ (IP), chuyển giao công nghệ ép buộc và
các khoản trợ cấp có mục tiêu có thể bị bóp méo và đã được chứng minh là gây
hại nghiêm trọng, như được ghi lại trong báo cáo Mục 301 do Văn phòng Đại
diện thương mại Mỹ công bố dựa trên một cuộc điều tra về những thực tiễn của
Trung Quốc liên quan đến IP và chuyển giao công nghệ. Rõ ràng, như các vụ
việc gần đây đã chứng minh, các hoạt động này vẫn tiếp tục, và các kỹ thuật
được sử dụng đã phát triển, trong đó có cả việc dường như sử dụng sự hợp tác
khoa học và những cộng tác học thuật để tiếp cận kiến thức tiềm ẩn và những
tiến bộ mới nhất. Vào mùa Thu năm 2018, Bộ Tư pháp Mỹ đã công bố một loạt
các bản cáo trạng chống lại các sĩ quan và đặc vụ của Bộ An ninh Nhà nước
(MSS), những người thường nhắm đến nhiều trong cùng các ngành công
nghiệp chiến lược mới nổi mà các kế hoạch khoa học và công nghệ của Trung
Quốc ưu tiên. Trong khi đó, một số luật pháp và chính sách của Trung Quốc đã
che đậy một cách mỏng manh xu hướng hướng tới chủ nghĩa bảo hộ trong việc
biện minh cho việc loại trừ các công ty công nghệ nước ngoài với một ưu tiên
dành cho các công nghệ “bảo mật và có thể kiểm soát được”. Bất chấp các cam
kết, bao gồm cả “Made in China 2025”, nhằm cải thiện khả năng bảo vệ IP,
thành công rõ ràng của Trung Quốc trong việc biến thành một nước dẫn đầu
toàn cầu trong các ngành công nghiệp chiến lược mới nổi nào đó sẽ luôn đi
kèm với dấu hiệu cho thấy di sản của những thông lệ này.
Tuy nhiên, mối đe dọa ngắn hạn do các công nghệ gian lận và gây thiệt
hại này thể hiện đang bắt đầu bị lu mờ bởi một nhận thức về thách thức trong
dài hạn của việc Trung Quốc trỗi dậy như một đầu tàu về các công nghệ mới
nổi. Mô hình đổi mới này của Trung Quốc đang mở rộng sang tập trung vào
chuỗi công nghệ mới mà vượt ra ngoài lĩnh vực sản xuất để nhận ra tiềm năng
của nền kinh tế số là một động lực phát triển mới. Chẳng hạn, vào năm 2018,
các ngành công nghiệp chiến lược mới nổi được ước tính đã đóng góp khoảng
20% tăng trưởng GDP hàng năm của Trung Quốc trong thập kỷ qua. Đặc biệt,
AI, ban đầu không được đưa vào kế hoạch “Made in China 2025”, chỉ mới nổi
lên gần đây như là một ưu tiên rõ ràng đối với Chính phủ Trung Quốc. Ở đây,
Trung Quốc cũng học hỏi được từ các nước khác trong việc tạo ra những chính
sách công nghiệp của riêng mình. Đặc biệt, Văn phòng chính sách khoa học và
công nghệ của Mỹ (OSTP) đã công bố một số kế hoạch và lộ trình vào giữa và
cuối năm 2016 mà dường như làm nguồn cảm hứng cho các nhà hoạch định
chính sách Trung Quốc vài một thời điểm khi Bắc Kinh ngày càng quan ngại về
AI, một phần để đối phó với “thời khắc Sputnik” trí tuệ nhân tạo AlphaGo đã
đánh bại Lee Sedol trong trò chơi cờ vây vào mùa Xuân năm 2016.
Nhìn lại, mỉa mai là Trung Quốc có thể được hưởng lợi từ những nỗ lực
ban đầu này nhiều hơn so với Mỹ cho đến nay trong việc xây dựng được dựa
trên nền tảng chính sách đó để thúc đẩy sự đổi mới, với một tốc độ và quy mô
thực hiện có xu hướng làm cho Mỹ ghen tị. Trung Quốc đang nhiệt tình theo
đuổi AI. Đặc biệt, Kế hoạch phát triển AI thế hệ mới, được công bố tháng
7/2017, phù hợp với một sự huy động lớn các nguồn tài chính và tài nguyên
quốc gia để hỗ trợ siêu dự án AI này theo các cách có thể rất không hiệu quả,
nhưng có lẽ hiệu quả cao trong dài hạn.
Trong những phát biểu của ông tại một phiên họp nghiên cứu của Bộ
Chính trị về việc thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của AI, ông Tập nhấn mạnh:
“thúc đẩy sự phát triển của một thế hệ AI mới là một tay nắm chiến lược quan
trọng để Trung Quốc đạt được thế chủ động trong cuộc cạnh tranh về khoa học
và công nghệ toàn cầu”. Ông thúc giục rằng Trung Quốc “phải chiếm lĩnh các
đỉnh cao” của “công nghệ then chốt và cốt lõi”. Trong khi những tham vọng
này chỉ mới bắt đầu chi phối các tiêu đề báo chí trên khắp thế giới, thì việc Tập
Cận Bình nhấn mạnh vào “các công nghệ cốt lõi” là một chủ đề nhất quán
xuyên suốt nhiệm kỳ của ông, bao gồm trong một bài phát biểu quan trọng tại
một hội nghị về an ninh mạng và thông tin hóa vào tháng 4/2016, tại đó ông
đăm chiêu suy ngẫm:
Các công nghệ cốt lõi là gì? Như tôi thấy, có 3 lĩnh vực mà chúng ta có
thể nắm bắt. Đầu tiên là công nghệ cơ bản, công nghệ thường được sử dụng.
Thứ hai là công nghệ bất đối xứng, hay công nghệ ‘con át chủ bài’. Thứ ba là
công nghệ tiên tiến, hay công nghệ đột phá. Ở những lĩnh vực này, chúng ta
đang ở cùng một vạch xuất phát với thế giới bên ngoài, nếu chúng ta có thể đi
đầu trong việc triển khai và tập trung vào cuộc tấn công của mình, chúng ta rất
có thể thực hiện một sự chuyển biến từ chạy theo họ sang sánh ngang hoặc
thậm chí đi trước họ.
Theo truyền thống, các nhà lãnh đạo Trung Quốc có xu hướng sử dụng
ngôn ngữ quân sự rõ rệt trong các cuộc thảo luận về cạnh tranh công nghệ.
Chẳng hạn, Tập Cận Bình đã tuyên bố trong cùng một bài phát biểu, “Chúng ta
phải tấn công các con đường độc đạo chiến lược theo một cách phối hợp.
Chúng ta phải tấn công mạnh các pháo đài nghiên cứu và phát triển công nghệ
cốt lõi… Chúng ta phải tập trung các lực lượng mạnh mẽ nhất để cùng hành
động, tạo ra các đội quân thần tốc và các lực lượng đặc biệt nhằm đột chi
những con đường độc đạo đó”.
Nếu Trung Quốc tự nhận thấy “đang trong cuộc chiến” nắm bắt “trình độ
đổi mới cao”, thì các chính sách của Mỹ có thể chỉ làm tăng thêm ý chí và
quyết tâm chiến đấu của họ. Đặc biệt, những quan ngại về các công nghệ “then
chốt và cốt lõi” thậm chí còn sâu sắc hơn sau lệnh cấm xuất khẩu chất bán dẫn
của Mỹ cho ZTE, khiến công ty này phải khuất phục trước khi bị thay đổi hoàn
toàn. Ngay cả khi tác động của cuộc chiến thương mại đối với nền kinh tế
Trung Quốc, trong đó có một số ngành công nghiệp được ưu tiên trong chính
kế hoạch “Made in China 2025”, đã trở nên sâu sắc hơn, các nhà lãnh đạo
Trung Quốc cho đến nay chỉ có những động thái mang tính tượng trưng để
phản ứng lại sự chống trả của Mỹ trước các yếu tố trục lợi và có vấn đề của các
chính sách và hành vi của Trung Quốc. Sự phản ứng mạnh mẽ đối với “Made
in China 2025” đã dẫn đến ít nhất là những thay đổi ở bề ngoài đối với các cách
tiếp cận của Trung Quốc với các chính sách công nghiệp, chẳng hạn như bỏ
nhấn mạnh vào cụm từ và cái mác “Made in China 2025” trong một số tài liệu
mới nhất. Tuy nhiên, vẫn có những dấu hiệu mạnh mẽ cho thấy các sáng kiến
cơ bản đang tiếp tục mà không có sự thay đổi đáng kể nào. Ngay cả khi cụm từ
“Made in China 2025” trở nên ít nổi bật hơn, thì việc nó biến mất giỏi lắm cũng
chỉ là một dấu hiệu bề ngoài, vì mô hình phát triển này vẫn ăn sâu.
Những phản ứng chính sách của Mỹ đối với thách thức này của Trung
Quốc phải được thấm nhuần bởi nhận thức có sắc thái về những lợi ích và thiếu
sót của mô hình đổi mới này. Quả thực, suy nghĩ nghiêm túc về giai đoạn cạnh
tranh công nghệ mới này phải tính đến một đánh giá thực tế về các điểm mạnh
và điểm yếu của Trung Quốc và Mỹ.
Chẳng hạn, khái niệm được nhiều người ca tụng rằng Trung Quốc có lợi
thế quan trọng về AI nhờ vào dữ liệu. Nhà đầu tư mạo hiểm Trung Quốc và là
chuyên gia AI Kai-Fu Lee thường tuyên bố “Dữ liệu là dầu lửa mới còn Trung
Quốc là Saudi Arabia mới”. Các nhà hoạch định chính sách của Trung Quốc đã
nhấn mạnh tương tự rằng Trung Quốc ở vào vị trí thuận lợi để dẫn đầu về AI vì
nước này đang đi đúng hướng để sở hữu khoảng 30% dữ liệu của thế giới vào
năm 2030. Tuy nhiên, khả quan nhất cũng không có khả năng là Trung Quốc có
thể có một lợi thế lâu dài chỉ nhờ vào dữ liệu. Có một số lợi ích duy nhất đối
với chiều sâu và số lượng dữ liệu có sẵn, bao gồm cả những lợi ích được tạo ra
nhờ hệ sinh thái công nghệ nhảy vọt của Trung Quốc, trong đó dịch vụ và thanh
toán di động đã nhanh chóng trở thành trào lưu chính. Tuy nhiên, phần lớn dữ
liệu này chỉ liên quan trực tiếp đến các kỹ thuật và ứng dụng học máy cụ thể.
Chẳng hạn, Trung Quốc đã đạt được những thế mạnh cụ thể trong nhận diện
khuôn mặt, trong số các loại thị giác máy tính khác, và xử lý ngôn ngữ tự
nhiên, mà khối lượng dữ liệu khổng lồ có sẵn đã đóng góp vào đó. Việc công
nhận dữ liệu là một nguồn tài nguyên chiến lược quan trọng, bao gồm thông
qua việc tạo ra các nền tảng mở và thúc đẩy chia sẻ dữ liệu, có lợi cho Trung
Quốc để đạt được sự phối hợp độc nhất giữa khu vực tư nhân và những phát
triển AI của quốc gia. Tuy nhiên, lợi thế này có thể tỏ ra chỉ là một hiện tượng,
vì những tiến bộ ngày nay trong học máy liên quan đến sự tiến bộ nhanh chóng
về các kỹ thuật mà không đòi hỏi lượng dữ liệu khổng lồ như vậy. Về khía cạnh
này, Mỹ, nơi vẫn là ngôi nhà của một số công ty và nhà nghiên cứu AI hàng
đầu thế giới, vẫn giữ được lợi thế lớn, ít nhất là trong thời điểm hiện tại.
Thông thường, các đánh giá của Mỹ về năng lực công nghệ của Trung
Quốc dao động giữa việc gạt bỏ và đánh giá quá cao. Thậm chí gần đây, có một
nhận thức sai lầm nhưng thường xuyên ở Mỹ rằng Trung Quốc thực tế không
có khả năng đổi mới và chỉ đạt được tiến bộ trên cơ sở gián điệp mạng thương
mại và đánh cắp tài sản trí tuệ. Mức độ quan tâm và quan ngại về kế hoạch
“Made in China 2025” được chứng thực trong chừng mức sáng kiến này và tinh
thần thời đại mà nó thể hiện phải được xem xét hoàn toàn nghiêm túc như là
một chỉ số về phạm vi và quy mô của những khát vọng công nghệ-chiến lược
của Trung Quốc. Gạt bỏ những biện pháp này như là các chính sách công
nghiệp sẽ thất bại trong dài hạn phản ánh mức độ tự tin thái quá và một quan
điểm phi lịch sử. Tồi tệ nhất, một cách tiếp cận định hướng nhà nước có thể tỏ
ra là phản tác dụng, thậm chí gây tổn hại sâu sắc đến tiềm năng kinh tế của một
nước. Khả quan nhất, sự can thiệp thận trọng của chính phủ có thể là một yếu
tố hỗ trợ quan trọng cho sự đổi mới.
Hiện tại, có những quan ngại sâu sắc rằng Trung Quốc đang “chiến
thắng” trong “cuộc chạy đua”, dù là về AI, điện toán lượng tử hay viễn thông
thế hệ thứ năm (5G). Vấn đề đánh giá sự cân bằng thực tế trong các công nghệ
này luôn luôn phức tạp, vì các đánh giá có thể khác nhau tùy thuộc vào các
thước đo được sử dụng và sự phân tích chi tiết hơn về các công nghệ bị nghi
ngờ. Chẳng hạn, Trung Quốc là nước đi đầu trong việc phát triển cơ sở hạ tầng
truyền thông lượng tử, như thể hiện qua việc phóng vệ tinh lượng tử đầu tiên
của thế giới, nhưng không có lợi thế không thể tranh cãi trong lĩnh vực này.
Hơn nữa, việc là nước khởi xướng không nhất thiết là yếu tố quyết định quan
trọng nhất của khả năng cạnh tranh lâu dài, đặc biệt khi tính đến sự an toàn và
an ninh đang bị đe dọa, như trong 5G.
Là một đối thủ cạnh tranh, Trung Quốc có lẽ là thách thức duy nhất,
nhưng không phải là không thể bác bỏ. Mô hình đổi mới nằm ở trung tâm của
cách tiếp cận của Trung Quốc với cuộc cạnh tranh chiến lược có những điểm
mạnh nhất định nhưng cũng có thể chứng minh tự giới hạn hoặc tự chuốc lấy
thất bại do những mâu thuẫn cơ bản. Mặc dù chính sách công nghiệp có thể bị
chê bai là một cách tiếp cận không hiệu quả với việc phân bổ nguồn lực, nhưng
có một số yếu tố nhất định trong chính sách của Trung Quốc là thông minh và
trên thực tế, dường như được truyền cảm hứng từ những gì Mỹ đã thực hiện
thành công trong quá khứ. Về vấn đề này, Trung Quốc có thể đã học được
những bài học đúng đắn từ các chính sách của Mỹ trong Chiến tranh Lạnh, bao
gồm cả việc công nhận giáo dục là một đòi hỏi quốc gia để cạnh tranh, và các
nhà hoạch định chính sách Mỹ ngày nay cũng phải xem lại di sản đó.
Mức độ quan ngại và chú ý đối với kế hoạch “Made in China 2025” cũng
nên được hướng vào các sáng kiến mới của Trung Quốc trong giáo dục STEM
(một chương trình giảng dạy dựa trên ý tưởng trang bị cho người học những
kiến thức, kỹ năng liên quan đến các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kỹ thuật và
toán học) bao gồm cả phát triển tài năng AI. Trong nhiều khía cạnh, Mỹ và
Trung Quốc ngày nay đang ở trong một “cuộc chạy đua tài năng” hơn là một
cuộc chạy đua vũ trang. Chẳng hạn, cá nhân Tập Cận Bình đã tuyên bố rằng
“cạnh tranh về sức mạnh quốc gia toàn diện là cạnh tranh tài năng. Bất cứ quốc
gia nào có lợi thế về tài năng cuối cùng cũng sẽ sở hữu lợi thế về sức mạnh”.
Thái độ này thể hiện khá rõ trong việc tuyển dụng nhân tài hàng đầu được đặt
mục tiêu cao trong các lĩnh vực then chốt thông qua một loạt các kế hoạch tài
năng, điều trái ngược hoàn toàn với việc Mỹ hạn chế nhập cư mà đang bắt đầu
ngăn cản các sinh viên và nhà khoa học hàng đầu đến và ở lại. Mỹ cũng phải
coi trọng cuộc cạnh tranh này, thừa nhận rằng việc khôi phục nền giáo dục Mỹ
và đánh giá lại các chính sách của chúng ta về nhập cư là một trong những phản
ứng chính sách quan trọng - và rõ ràng - nhất mà tác động đối với chúng có thể
kéo dài.
Cuối cùng, Mỹ không thể kiểm soát các chính sách của Trung Quốc hoặc
kiềm chế những tham vọng của nước này. Hơn nữa, mình Mỹ chỉ có các lựa
chọn đòn bẩy có giới hạn, điều sẽ làm cho sự phối hợp với các đồng minh và
đối tác để gây áp lực lớn hơn là một tiến trình hành động quan trọng trong
tương lai. Mặc dù các nhà hoạch định chính sách của Mỹ phải nhận ra sự nguy
hiểm của sự tự mãn khi đối mặt với những tiến bộ và khát vọng của Trung
Quốc, nhưng cũng có những lý do để nhận ra khả năng là những căng thẳng và
mâu thuẫn tiềm ẩn phía dưới những thành công của nước này có thể làm xói
mòn mô hình đổi mới của nó trong thời gian dài. Trong khi đó, các nhà lãnh
đạo Mỹ có thể chọn phản ứng lại theo những cách tập trung trước hết và quan
trọng nhất vào việc thúc đẩy sự đổi mới và khả năng cạnh tranh của Mỹ.
Elsa B. Kania là nghiên cứu viên thực tập của Chương trình Công nghệ
và An ninh Quốc gia, Trung tâm An ninh Mỹ Mới (CNAS). Bài viết được đăng
trên The Diplomat.
2. Kế hoạch “Made in China 2025 : Góc nhìn từ chuyên gia Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Quang Dy (ICT NEWS)
Tập Cận Bình (Xi Jinping) được nhiều người coi là một chính trị gia
giỏi, với kỳ tích chống tham nhũng, củng cố quyền lực, cải tổ quân đội, phát
triển đất nước, vì “Giấc mộng Trung Hoa”. Đặc biệt, Tập Cận Bình còn muốn
“làm Trung Quốc vĩ đại trở lại”, vượt Mỹ làm bá chủ thế giới. Nhưng mặt khác,
cũng có thể nói Tập Cận Bình đã mắc phải mấy sai lầm lớn.
Thứ nhất, ông không chỉ nắm 3 chức vụ cao nhất của Đảng, Nhà nước,
và Quân đội, như “lãnh đạo nòng cốt”, mà còn bỏ giới hạn hai nhiệm kỳ để trở
thành “Hoàng đế đỏ” Trung Hoa. Thứ hai, ông tự tin khởi động kế hoạch
“Made in China 2025” làm Mỹ và phương Tây lo lắng chống lại. Thứ ba, ông
chủ quan theo đuổi sáng kiến “Vành đai và Con đường”, làm nhiều nước khác
phản ứng “bẫy nợ”. Thứ tư, ông thiếu nhạy cảm triển khai “chính sách gây ảnh
hưởng” bằng các viện Khổng Tử và “tấn công quyến rũ”, làm nhiều nước lo
ngại “con ngựa thành Troy”. Thứ năm, ông thẳng tay trấn áp người Duy Ngô
Nhĩ ở Tân Cương, và nôn nóng triển khai “hệ thống tín nhiệm xã hội”. Đó là
những đại dự án mang “dấu ấn Tập Cận Bình” nhằm thực hiện “Giấc mộng
Trung Hoa”.
Gót chân A-sin
Đại hội 19 (18-24/10/2017) đã đưa “Tư tưởng Tập Cận Bình” vào cương
lĩnh của Đảng. Quốc Hội đã sửa đổi hiến pháp (11/3/2018) bỏ điều khoản giới
hạn hai nhiệm kỳ Chủ tịch nước, để Tập Cận Bình trở thành một “hoàng đế
Trung Hoa”. Nhưng đáng tiếc, đó là một nghịch lý về “giới hạn quyền lực”, vì
Tập Cận Bình làm bộc lộ “gót chân A-sin” của mình. Cuộc chiến thương mại
Mỹ-Trung làm bộc lộ những sai lầm mà Tập Cận Bình nay có nghĩ lại thì đã
quá muộn. David Shambaugh có lý khi dự báo Trung Quốc đang trong “màn
chót” (End Game). Còn Minxin Pei cho rằng Trung Quốc là “người khổng lồ
chân đất sét” (a giant with feet of clay).
Trong khi Đặng Tiểu Bình cho rằng lãnh đạo tập thể (dựa trên đồng
thuận) tốt hơn là một người lãnh đạo (dựa trên độc tài cá nhân), Tập Cận Bình
lại khôi phục mô hình độc tài toàn trị. Ông đã trở thành “chủ tịch của mọi thứ”
(chairman of everything). Có thể nói Tập Cận Bình đã làm ngược lại những lời
khuyên của Đặng Tiểu Bình, khôi phục sự “sùng bái cá nhân” như thời Mao
Trạch Đông và làm “cách mạng giật lùi”. Người ta nói “quyền lực tuyệt đối dẫn
đến tham nhũng tuyệt đối”. Nghịch lý của Tập Cận Bình là ông đang biến
những kỳ tích của mình thành sai lầm lớn. Theo Minxin Pei, Trung Quốc đang
“lầm đường lạc lối”, chế độ độc đảng sẽ “không bền vững” và “chắc sẽ thất
bại”.
Theo Liz Economy, dưới thời Tập Cận Bình, vi phạm nhân quyền ngày
càng nhiều. Khoảng 200 luật sư đã bị bắt và tống giam. Việc kiểm soát công
dân được tối ưu hóa qua “hệ thống tín nhiệm xã hội” dựa trên một kho “dữ liệu
lớn” và các ứng dụng “trí tuệ nhân tạo”. Các biện pháp khen thưởng hay trừng
phạt sẽ tùy theo người dân được cho “điểm tín nhiệm” cao hay thấp. Đặc biệt,
tại khu tự trị Tân Cương, người Duy Ngô Nhĩ theo đạo Hồi đang bị đối xử tàn
bạo dưới một chế độ công an trị hà khắc, với những vụ bắt bớ hàng loạt và một
mạng lưới gồm các trại tập trung cải tạo dầy đặc.
Bắc Kinh còn theo đuổi chính sách đối ngoại nhằm thống trị toàn cầu,
với công cụ chủ yếu là sáng kiến “Vành đai và Con đường” (Belt and Road
Initiative). Trung Quốc cho các nước tham gia vay tiền để đầu tư vào hạ tầng
với các khoản tín dụng hấp dẫn, nhưng trên thực tế nhằm trói buộc các nước đi
vay phải lệ thuộc vào Bắc Kinh. Các nước phương Tây đã từng cố gắng coi
Trung Quốc là một thế lực có thể hợp tác được, nhưng Bắc Kinh đã làm cho họ
thất vọng, và không thể theo đuổi ảo tưởng đó. Nay phương Tây buộc phải
phản kháng, làm không gian hành động của Trung Quốc ngày càng thu hẹp.
Đến nay, Trung Quốc đã kiểm soát tới 80 hải cảng tại 40 nước. Trung
Quốc đã thiết lập căn cứ hậu cần đầu tiên tại Djibouti. Theo các nhà phân tích
quân sự tại Trung Quốc, Bắc Kinh sẽ phát triển khoảng 100 căn cứ như vậy
trên toàn cầu. Liệu Trung Quốc có lập căn cứ hải quân tại Koh Kong
(Cambodia) hay không, chỉ là cách nói. Tuy Trung Quốc nói rằng họ không sử
dụng các hải cảng này vì mục đích quân sự, nhưng chúng ta đã thấy tàu chiến
của họ bắt đầu đến thăm các hải cảng đó. Chỉ có những người ngây thơ mới tin
rằng Trung Quốc không cần lập các căn cứ quân sự tại nước ngoài, và không
xâm phạm chủ quyền các nước khác.
Hệ thống tín nhiệm xã hội
Gần đây, các cơ quan an ninh của Mỹ, Canada, Anh, Úc, Nhật, v.v. đã
cảnh báo và tẩy chay công nghệ 5G của tập đoàn Huawei vì lý do an ninh quốc
gia. Trong hệ thống kinh tế do nhà nước chỉ đạo tại Trung Quốc, các công ty
công nghệ như Huawei có bổn phận hợp tác với chính quyền, kể cả việc chia sẻ
dữ liệu. Mạnh Vãn Châu (Meng Wanzhou) là giám đốc tài chính của Huawei
đã bị cảnh sát Canada bắt và quản thúc tại gia chờ dẫn độ sang Mỹ. Tháng
1/2019, một quan chức của Huawei đã bị bắt tại Ba Lan với tội danh gián điệp.
Một số tổ chức nghiên cứu có uy tín như Mercator Institute (Berlin),
Asia Society (New York), và Royal United Services Institute (London) đã công
bố báo cáo chi tiết về “chính sách gây ảnh hưởng” của Trung Quốc nhắm vào
các định chế chính trị, giáo dục, truyền thông và xã hội dân sự tại các nước dân
chủ. Nay các trường đại học phương Tây từ chối các Viện Khổng Tử như “con
ngựa thành Troy”. Dư luận phản đối Bắc Kinh ngày càng mạnh lên. Phương
Tây đã tìm được tiếng nói chung để chống lại sự thao túng quyền lực của Trung
Quốc. Hiện tượng nước Ý (thời Giuseppe Conte) hợp tác với Trung Quốc chỉ là
một ngoại lệ như Philippines (thời Rodrigo Duterte).
Đầu năm 2018, theo một khảo sát dư luận của Pew Research Center tại
25 quốc gia, 63% số người được hỏi nói rằng họ muốn một thế giới do Mỹ cầm
đầu, trong khi đó chỉ có 19% muốn Trung Quốc cầm đầu. Trong khi Đặng Tiểu
Bình tìm cách giảm bớt vai trò của Đảng, bỏ bớt hệ thống doanh nghiệp nhà
nước và tăng cường vai trò của thị trường, thì Tập Cận Bình lại tăng cường vai
trò kiểm soát của Đảng đối với Internet bằng cách xây dựng “hệ thống tín
nhiệm xã hội” và mở rộng hệ thống theo dõi công dân như xã hội công an trị.
Trung Quốc đã phát triển cách thức mới để sử dụng máy ảnh. Họ đã lắp
đặt 200 triệu máy ảnh theo dõi để giảm bớt tội phạm và kiểm soát bất ổn xã hội.
Trung Quốc sẽ tăng gấp ba số máy ảnh đó vào năm 2020 trong một “hệ thống
tín nhiệm xã hội” được triển khai trên toàn quốc, để đánh giá độ tin cậy về
chính trị và kinh tế của người dân, làm cơ sở để thưởng/phạt. Họ đã phát triển
những khả năng mới không chỉ qua nhận diện mà còn qua giọng nói, và có thể
nhận dạng qua dáng đi. Việc kết hợp công nghệ mới với cách thức kiểm soát xã
hội truyền thống đã tạo ra khả năng giám sát đặc biệt.
“Hệ thống tín nhiệm xã hội” đã triển khai trên 40 dự án thí điểm, mỗi dự
án đánh giá một nhóm vấn đề nhất định. Đến năm 2020, Trung Quốc sẽ triển
khai thành một chương trình tổng thể trên toàn quốc, tuy vẫn có những khác
biệt về vùng miền nhưng do một lãnh đạo duy nhất điều hành (chứ không phải
lãnh đạo tập thể). Tập còn giống Mao ở chỗ ông tỏ ra gần gũi với quần chúng,
nhưng bỏ qua tầng lớp trí thức và tinh hoa “không đáng tin cậy”. Thái độ đó
không chỉ tác động tới người Trung Quốc mà còn tới người nước ngoài. Đến
nay, số tổ chức phi chính phủ nước ngoài hoạt động tại Trung Quốc đã giảm từ
7.000 xuống còn hơn 400.
Nhân tố Lighthizer
Vào tháng 8/2017, Robert Lighthizer (USTR) đã thuyết trình về chính
sách của Mỹ đối với Trung Quốc tại Nhà Trắng. Buổi thuyết trình xuất sắc đã
thuyết phục được các quan chức cao cấp của Nhà Trắng ủng hộ một chính sách
cứng rắn hơn đối với Trung Quốc. Các chuyên gia đánh giá tuy Nhà Trắng
không còn cố vấn chiến lược Steve Bannon, một người chống Trung Quốc
quyết liệt, nhưng lại có Robert Lighthizer, một người chống Trung Quốc còn
hơn Steve Bannon, với một chiến lược nhất quán và chủ thuyết rõ ràng. Chủ
thuyết này sẽ xuyên suốt nhiều năm tới, thậm chí sau cả chính quyền Trump.
Lighthizer đã được Trump tín nhiệm giao nhiệm vụ tiến hành điều tra về
Trung Quốc vi phạm sở hữu trí tuệ (theo Khoản 301, Luật Thương Mại Mỹ).
Theo Lighthizer, “mô hình kinh tế Trung Quốc là mối đe dọa chưa từng có đối
với hệ thống thương mại thế giới mà không thể giải quyết bằng các quy tắc
toàn cầu hiện hành”. Trung Quốc là mối đe dọa nổi lên trong bối cảnh hiện nay,
khó khăn hơn nhiều so với những gì đã xảy ra trong quá khứ. “Đó chính là mối
de dọa tới hệ thống thương mại toàn cầu và điều này là chưa từng có tiền lệ”.
Lighthizer đã tiên đoán rằng cuộc chiến tranh thương mại với Trung
Quốc là một cuộc chiến trường kỳ, cần thêm thời gian và các biện pháp chống
trả hữu hiệu, không thể một sớm một chiều mà chiến thắng ngay được. Cuộc
chiến thương mại Mỹ-Trung ngày càng rộng lớn và phức tạp, nhưng Lighthizer
có đủ quyết tâm, kinh nghiệm và bản lĩnh để thắng Trung Quốc. Đến nay, cả
Thượng viện và Hạ viện Mỹ, cùng các cơ quan an ninh như FBI, CIA, NSA…
đều quyết tâm chống Trung Quốc trên mọi mặt. Bà Nancy Pelosi (đảng Dân
Chủ) là chủ tịch Hạ Viện cũng tuyên bố sẽ ủng hộ lập trường chống Trung
Quốc của Donald Trump.
Lighthizer là một người rất am hiểu về chiến thuật “trì hoãn chiến” để
câu giờ của Bắc Kinh nên ông đã dứt khoát ra đòn trừng phạt bằng “áp thuế”.
Khi các quan chức về tài chính và thương mại của Washington đến Bắc Kinh
đàm phán nhưng không có kết quả, tháng 11/2017, Trump đã cử đoàn đàm
phán của Mỹ đến Bắc Kinh, và Lighthizer là người duy nhất có quyền gặp
những quan chức cao cấp nhất của Trung Quốc (kể cả Tập Cận Bình). Hiện nay
trong Nhà Trắng, Robert Lighthizer và Peter Navarro là “cặp bài trùng” chống
Trung Quốc, nhưng Lighthizer được sự ủng hộ của nhiều người trong Nhà
Trắng cũng như Quốc Hội.
Thuyết “tự do thương mại” của Lighthizer không nhằm mục tiêu mở cửa
thị trường tự do không kiểm soát, mà cam kết sử dụng các “vũ khí” công khai
về thương mại để đạt được mục tiêu đó. Lighthizer không chủ trương “bảo hộ
là đắp lũy xây thành” để biến nước Mỹ thành một ốc đảo. Mục đích cơ bản của
Lighthizer là lấy lại những lợi thế của Mỹ cho người Mỹ đang bị thua thiệt trên
thương trường quốc tế. Lighthizer sẽ không “chấm dứt toàn cầu hóa”, mà chuẩn
bị cho một thời kỳ cạnh tranh mới khốc liệt hơn. Ông chủ trương dùng chiến
tranh thương mại làm phương tiện để đạt được tự do thương mại một cách công
bằng và lành mạnh.
Điều chỉnh chiến lược
Kế hoạch “Made in China 2025” (MC 2025) là một khâu then chốt trong
cấu trúc và kế hoạch phức tạp của Bắc Kinh nhằm tạo ra sự phát triển mới theo
định hướng của Tập Cận Bình. Vì vậy, “MC 2025” đã trở thành biểu tượng cho
tham vọng của Trung Quốc trong việc trỗi dậy thanh một đầu tàu công nghệ
cạnh tranh với Mỹ, gây lo ngại sâu sắc về mối đe dọa của Trung Quốc. Vì vậy,
Bắc Kinh có thể phải điều chỉnh lộ trình “MC 2025” (dài hơi hơn) do hệ quả
của chiến tranh thương mại. Mục tiêu cốt lõi của “MC 2025” là nhằm biến
Trung Quốc thành một “siêu cường sản xuất”, trong đó nhấn mạnh 10 lĩnh vực
công nghệ cần được ưu tiên.
Việc Tập Cận Bình củng cố quyền lực tuyệt đối trong nước và triển khai
Sáng kiến “Vành đai và Con đường” (BRI) ra thế giới không chỉ làm tổn hại về
kinh tế, mà còn làm tăng sự ngờ vực của các nước. Một số nước như Malaysia,
Myanmar, Pakistan, Bangladesh và Sierra Leone đòi xem xét lại các hợp đồng
đã ký với Trung Quốc. Sáng kiến “BRI” đầy tham vọng có thể bị xem xét và
điều chỉnh trước sự phản ứng từ bên trong và bên ngoài.
Nhà Trắng đã tăng cường quan hệ với Đài Loan, tăng tần suất tuần tra
FONOP tại Biển Đông, siết chặt đầu tư của Trung Quốc vào các lĩnh vực công
nghệ cốt lõi của Mỹ, tăng cường giám sát quốc tế đối với vấn đề nhân quyền,
và bắt đầu cạnh tranh trực tiếp với sáng kiến “Vành đai và Con đường” qua các
dự án đầu tư vào hạ tầng, liên kết với các nước khác như Australia, Nhật, và
New Zealand, cũng như qua việc thiết lập một tổ chức tín dụng mới để phục vụ
phát triển hạ tầng gọi là “US International Development Finance Cooperation”.
Có nhiều dấu hiệu cho thấy các thành tích của mô hình Tập Cận Bình
đang dần phản tác dụng. Việc Đảng kiểm soát quá nhiều góp phần làm cho nền
kinh tế trì trệ và xã hội bất ổn. Trong khi đó, Bắc Kinh quá tham vọng nên làm
giảm nhiệt tình ban đầu của cộng đồng quốc tế đã từng đón nhận tầm nhìn của
Tập Cận Bình về một trật tự thế giới mới “với đặc sắc Trung Quốc”. Bắc Kinh
đã huy động sinh viên của họ ở nước ngoài vào các mục đích chính trị và kinh
tế như báo cáo về các sinh viên khác không làm theo đường lối của Đảng, dẫn
đến những phản ứng ngược lại. Nhưng mặt khác, hầu hết những vấn đề của
Trung Quốc đều xuất phát từ sự nôn nóng của Tập Cận Bình nên ông vẫn có
thời gian và quyền lực để điều chỉnh được.
Theo Liz Economy, để đối phó với những vấn đề ngày càng lớn, do mô
hình chính trị của Tập Cận Bình, Bắc Kinh cần điều chỉnh chiến lược một cách
cơ bản. Về chính trị, hình ảnh và quyền lực mềm của Trung Quốc sẽ được cải
thiện nếu Bắc Kinh giảm bớt việc sử dụng công dân Trung Quốc ở nước ngoài
làm công cụ phục vụ các mục đích chính trị và kinh tế; không áp đặt các chính
sách áp đặt đối với Hong Kong và Đài Loan; giảm thiểu đàn áp người dân địa
phương ở Tân Cương và Tây Tạng. Hậu quả tiêu cực của tư tưởng Tập Cận
Bình; sự tê liệt của chính quyền địa phương; tỷ lệ sinh sản suy giảm; và phản
ứng mạnh lên của quốc tế bắt đầu có tác dụng làm Trung Quốc không thể đạt
được các mục tiêu đề ra. Vì vậy, Tập Cận Bình cần điều chỉnh lại chiến lược,
hoặc giao quyền lãnh đạo đất nước cho người khác…
Thay lời kết
Từ đầu năm 2018, quan hệ Mỹ-Trung đã chuyển sang đối đầu sau 4 thập
niên hợp tác. Cuộc chiến thương mại là “phần nổi của tảng băng chìm”, với hình
thái “vừa đánh vừa đàm”, có thể kéo dài. Cuộc chiến này tuy do chính quyền
Trump khởi xướng, nhưng nguyên nhân lại do Bắc Kinh gây ra, với sai lầm
chiến lược của Tập Cận Bình, nay có muốn dừng lại cũng không được. Sau
Donald Trump, một tổng thống Mỹ khác chắc vẫn chống Trung Quốc, đối đầu
Mỹ-Trung vẫn là đặc điểm quan trọng nhất của quan hệ quốc tế trong thế kỷ này.
Điều đáng lo ngại là Biển Đông đã trở thành tâm điểm của đối đầu Mỹ-
Trung, trong đó Việt Nam có thể bị tác động từ ván cờ địa chính trị giữa các
nước lớn. Nếu muốn phát triển bền vững và bảo vệ chủ quyền quốc gia, Việt
Nam phải cải cách thể chế để có thể điều chỉnh mối quan hệ Việt-Trung và
Việt-Mỹ một cách hiệu quả hơn. Hy vọng chuyến thăm Mỹ sắp tới của CTN
Nguyễn Phú Trọng sẽ tạo ra một bước ngoặt mới trong tam giác chiến lược
Mỹ-Trung-Việt.
3. Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng: 'Sứ mạng của 5G đặt lên vai ngành ICT
Việt Nam'
Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng khẳng định, 5G là cơ hội để
Việt Nam thay đổi thứ hạng trên thế giới. Việt Nam sẽ cho thử nghiệm 5G năm
2019 và thương mại năm 2020 và sẽ là những nước đầu tiên triển khai 5G.
Ngày 14/11/2018, Ban Kinh tế Trung ương phối hợp với Bộ TT&TT tổ
chức Tọa đàm chuyên đề “Đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực viễn thông”. Tọa
đàm là cơ hội thảo luận các vấn đề công nghệ thông tin - viễn thông và xây
dựng phát triển hệ sinh thái thúc đẩy đổi mới sáng tạo khoa học công nghệ,
nhận định các cơ hội và thách thức tiềm năng, đưa ra các giải pháp nhằm phát
triển đổi mới sáng tạo tại Việt Nam.
Việt Nam sẽ dẫn đầu về 5G
Phát biểu tại tọa đàm, Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng cho
biết, năm 1990, thế giới xuất hiện công nghệ 2G thì chỉ 3 năm sau, năm 1993,
Việt Nam đã khai trương mạng điện thoại di động công nghệ số 2G. Năm 2000,
thế giới xuất hiện công nghệ 3G, nhưng phải đến năm 2010, tức là 10 năm sau cả
ba nhà mạng lớn nhất mới khai trương mạng điện thoại di động 3G. Khi 4G xuất
hiện thì lại có câu chuyện tương tự. Đến nay, năm 2018, tức là 8 năm sau khi thế
giới xuất hiện công nghệ 4G, chúng ta vẫn chưa cấp được tần số mới để làm 4G.
Mạng 4G mà các nhà mạng khai trương năm 2017 là do dồn dịch tần số 2G.
Sớm chấp nhận công nghệ 2G và thúc đẩy cạnh tranh, mạng di động Việt
Nam đã từng vào top 20 thế giới. Tuy nhiên, khi chuyển sang công nghệ 3G,
4G vì sự đi sau về công nghệ và thiếu nhân tố cạnh tranh mới mà viễn thông
của Việt Nam đang xếp hạng ở thứ 100. Về mật độ thuê bao di động băng rộng,
năm 2017, ITU xếp Việt Nam đứng thứ 115/193 quốc gia và vùng lãnh thổ, tức
là dưới trung bình của thế giới.
Đánh giá về công nghệ 5G đang tới, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho
rằng, đây là cơ hội để Việt Nam thay đổi thứ hạng. Muốn thay đổi thứ hạng thì
phải đi đầu. Chưa đi đầu được trên phạm vi toàn quốc thì đi đầu ở Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh.
"Bộ TT&TT chủ trương cấp tần số 5G để thử nghiệm từ năm 2019 và
đến năm 2020, khi thế giới bắt đầu triển khai 5G thì Việt Nam sẽ là những
nước đầu tiên triển khai 5G", Bộ trưởng khẳng định.
Sứ mạng của 5G đặt lên vai ngành ICT Việt Nam
Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng, trước đây thiết bị mạng 2G và
3G phải nhập ngoại 100% còn khi triển khai 4G thì lần đầu tiên chúng ta có
thiết bị 4G Việt Nam, nhưng cũng phải chờ đến 8 năm sau khi công nghệ 4G
xuất hiện. Tuy nhiên, với 5G, chúng ta sẽ có thiết bị ngay từ ngày đầu triển
khai chính thức năm 2020. Đây là sự thay đổi lớn nhất, sự thay đổi ý nghĩa nhất
và cũng là sự chuyển đổi về chất lớn nhất trong ngành công nghiệp điện tử viễn
thông nước nhà.
Bộ TT&TT khích lệ và tạo mọi điều kiện để các doanh nghiệp công nghệ
Việt Nam, cả nhà nước và tư nhân, cả to và nhỏ, nghiên cứu sản xuất được thiết
bị viễn thông, kể cả thiết bị mạng và thiết bị đầu cuối, để lần đầu tiên trong lịch
sử nước nhà, mạng viễn thông Việt Nam được xây lên bởi thiết bị Việt Nam.
Việt Nam cũng phải trở thành nước thứ 5 trên thế giới xuất khẩu được thiết bị
viễn thông Made in Vietnam, bao gồm tất cả thiết bị mạng và đầu cuối.
"Công nghệ 2G là công nghệ điện thoại thuần túy. Công nghệ 3G là nửa
điện thoại, nửa data. Công nghệ 4G là thuần túy data, nhưng là cho người với
người. Công nghệ 5G là công nghệ data, nhưng là công nghệ đầu tiên được
thiết kế cho kết nối vạn vật, với một loạt tính năng mới như độ trễ thấp, tiêu thụ
nguồn nhỏ. Công nghệ 5G sẽ tạo ra một cuộc cách mạng về kết nối. Công nghệ
2G, 3G, 4G đã kết nối 7 tỷ người thì 5G sẽ kết nối hàng ngàn tỷ thiết bị, chuyển
tải toàn bộ thế giới vật lý vào thế giới ảo. Và thay đổi cơ bản cuộc sống loài
người. Đây là sứ mạng của 5G và sứ mạng ấy đặt lên vai ngành ICT Việt
Nam", Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nói.
Người đứng đầu Bộ TT&TT nhấn mạnh, kết nối vạn vật sẽ yêu cầu một
sự đầu tư hoàn toàn khác so với mạng điện thoại di động dành cho kết nối chỉ
con người với nhau. Vì vậy, các nhà mạng di động phải nhận thức được trách
nhiệm của mình đối với đất nước, đối với dân tộc.
"Mạng 5G là hạ tầng kết nối vạn vật - hạ tầng quan trọng nhất của cách
mạng công nghiệp 4.0. Việt Nam muốn đi đầu trong cách mạng 4.0 thì mạng
5G phải đi trước và đi đầu. Mạng lưới phải có trước, hạ tầng kết nối phải có
trước. Đầu tư trước kinh doanh sau, đây phải là triết lý kinh doanh của tất cả
các nhà mạng. Mạng 5G cho kết nối vạn vật của Việt Nam phải vào loại tốt
nhất trên thế giới. Số lượng trạm BTS cho 5G sẽ phải lớn hơn rất nhiều so với
các công nghệ trước đó. Do vậy, dùng chung hạ tầng, chia sẻ hạ tầng viễn
thông với các hạ tầng điện, nước, giao thông là rất quan trọng để giảm chi phí
xã hội", Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh.
Vẫn theo phân tích của Bộ trưởng Bộ TT&TT, 5G không chỉ là cơ hội về
dịch vụ kết nối, cơ hội để thay đổi thứ hạng viễn thông Việt Nam, mà còn là cơ
hội để phát triển ngành công nghiệp ICT nước nhà. Với nhu cầu rất lớn về thiết
bị mạng lưới và đặc biệt lớn về thiết bị đầu cuối, nhu cầu mang tính quyết định
của an toàn, an ninh mạng, nhu cầu toàn dân về ứng dụng, sẽ tạo ra thị trường
vô hạn cho các công ty công nghệ Việt Nam. Vì vậy, chúng ta hãy coi Việt
Nam là cái nôi để phát triển công nghệ và sản phẩm, để từ đây đi ra chinh phục
thế giới. Cơ hội này rơi lên thế hệ chúng ta và chúng ta phải coi đây là trách
nhiệm lịch sử của mình đối với dân tộc.
Ông Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng, thị trường viễn thông Việt Nam cũng
cần những nhân tố cạnh tranh mới để thúc đẩy phát triển, để có những đột phá
mới về phát triển thuê bao băng rộng, để đến năm 2020 đạt mật độ thuê bao di
động băng rộng 100%. Cơ cấu dịch vụ của các nhà mạng cũng sẽ thay đổi để
thoại và nhắn tin chỉ còn chiếm dưới 30% tổng doanh thu và tăng tiêu dùng dữ
liệu trên đầu người, để Việt Nam vào Top 30-50 trên thế giới. Về chuyển đổi số,
các nhà mạng phải là những công ty đầu tiên thực hiện chuyển đổi số triệt để, và
cũng sẽ là người ứng dụng đầu tiên hiệu quả các công nghệ AI, Big Data, IoT.
Về đổi mới sáng tạo, các nhà mạng phải đóng vài trò phát triển các X-Tech như
FinTech, AgriTech, EduTech, nhằm tạo ra sự thay đổi lớn của các ngành.
Kết thúc bài phát biểu của mình, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng khẳng
định, đề chính sách viễn thông, chính sách ICT, chính sách cho cách mạng công
nghiệp 4.0, chúng ta phải đi đầu để thu hút con người, công nghệ, sản phẩm của
thế giới về với Việt Nam để Việt Nam trở thành trung tâm của thế giới.
Bình luận về phát biểu này của Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, ông Cao
Đức Phát, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Kinh tế Trung ương cho biết ông
được khích lệ bởi tầm nhìn của người đứng đầu Bộ TT&TT. Ông Cao Đức Phát
cho rằng, người Việt đã làm và có thể làm được nhiều điều. Vì vậy, ông sẽ kiến
nghị với lãnh đạo Đảng và Nhà nước đề cao hơn nữa khát vọng của dân tộc và
thiết lập môi trường ủng hộ các sản phẩm Việt.
4. Bộ trưởng Bộ TT&TT Việt Nam Nguyễn Mạnh Hùng: "Khi cuộc cách
mạng số xảy ra, 5G xuất hiện thì ASEAN có cơ hội bứt phá, nhưng cần sự
đột phá trong tư duy và chính sách"
Phát biển tại Diễn đàn mở 5G và sự phát triển ASEAN số tại Hà Nội vào
sáng ngày 22/3/2019, Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng đã nhấn
mạnh, các nước ASEAN phải liên kết lại với nhau trên tinh thần “cùng làm,
cùng phát triển”, nhằm tạo ra một Asean số: Một thị trường ICT chung cho
ASEAN; Một khung chính sách ICT chung cho Asean; Một Asean phẳng về
roaming; Một trường đại học ICT của Asean; Một trung tâm đổi mới sáng tạo
của Asean; Một trung tâm của Asean về an ninh không gian mạng".
Đây là hội nghị đầu tiên của Asean về 5G và đã gửi đi thông điệp về việc
các nước ASEAN sẽ cùng đi đầu với thế giới về công nghệ mới. Sẽ không còn
chuyện, có những nước ASEAN đi sau thế giới như đã xảy ra với công
nghệ 3G, 4G từ 6 đến 8 năm nữa. Đây cũng là hội nghị đầu tiên, khi các nước
ASEAN cùng nhau trên tinh thần, làm việc cùng nhau, cùng nhau phát triển
và cùng nhau bàn bạc về lộ trình cho một công nghệ mới.
Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho biết, hội nghị đầu tiên của
ASEAN về 5G là một sáng kiến Việt Nam. Cũng như những sáng kiến Việt
Nam khác về: ASEAN Flat Roaming, một mức cước roaming chung cho các
nước ASEAN để biến ASEAN thành khu vực đầu tiên trên thế giới sẽ phẳng
hóa về viễn thông; ASEAN Hub về Cybersecurity, để cũng nhau chia sẻ thông
tin về an toàn trên không gian mạng; Trao học bổng ICT cho các sinh viên
ASEAN đến Việt Nam học tập, để tiến tới có một trường đại học ASEAN về
ICT. Rồi đây, mỗi nước ASEAN sẽ nhận một số sáng kiến để thực hiện, và khi
thành công thì sẽ chia sẻ kinh nghiệm ra các nước còn lại. Bằng cách này, sức
mạnh của ASEAN sẽ tăng lên hàng chục lần.
"Ngày hôm qua, các nước ASEAN, các nước đối thoại, các chuyên gia
và doanh nghiệp đã chia sẻ cả ngày về 5 chủ đề quan trọng về chính sách của
các nước ASEAN về 5G, qui hoạch tần số cho 5G, chiến lược phát triển mạng
lưới và an ninh mạng, các ứng dụng của 5G và các khuyến nghị về hợp tác
ASEAN trong lĩnh vực 5G. Ngày hôm nay, chúng ta sẽ bàn về vai trò của 5G
với các ngành công nghiệp của một nền kinh tế số. Hầu hết các nước Asean đã
tuyên bố chiến lược của mình về kinh tế số. Thái Lan thậm chí đã đổi tên Bộ
ICT thành Bộ kinh tế và xã hội số, thể hiện cam kết mạnh mẽ của chính phủ về
kinh tế số, đặt mục tiêu ngành công nghiệp số chiếm tới 25% GDP vào năm
2025. Gần đây nhất, Campuchia đã lần đầu tiên tổ chức diễn đàn Digital
Cambodia để đẩy mạnh chuyển đổi số và hướng tới một nền kinh tế số. Chúng
ta sẽ bàn về vai trò của 5G đối với kinh tế số, chính phủ số và xã hội số. Về vai
trò của 5G đối với Digital ASEAN. Chúng ta đều có một nhận thức chung là
Kinh tế số, 5G sẽ giúp ASEAN tiếp tục là một khu vực năng động, đổi mới
sáng tạo và tăng trưởng" Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nói.
Người đứng đầu Bộ TT&TT cho rằng, công nghệ 2G là công nghệ điện
thoại thuần túy. Công nghệ 3G là nửa điện thoại, nửa data. Công nghệ 4G là thuần
túy data, nhưng là cho người với người. Công nghệ 5G là công nghệ data, nhưng
là công nghệ đầu tiên được thiết kế cho kết nối vạn vật, với một loạt tính năng
mới, như độ trễ thấp, tiêu thụ nguồn nhỏ. Công nghệ 5G sẽ tạo ra một cuộc cách
mạng về kết nối. Công nghệ 2G, 3G và 4G đkết nối 7 tỷ người thì 5G sẽ kết nối
hàng ngàn tỷ thiết bị, chuyển tải toàn bộ thế giới vật lý vào thế giới ảo. Và thay
đổi cơ bản cuộc sống loài người, khi vạn vật cất tiếng nói như con người. Đây là
sứ mạng của 5G, và sứ mạng ấy đặt lên vai ngành ICT của chúng ta.
5G sẽ tạo ra những thay đổi lớn như: tăng dung lượng và tốc độ cho
thông tin băng rộng, tạo kết nối cho vạn vật, IoT, nhất là các kết nối đòi hỏi
phản ứng thời gian thực và sẽ thay đổi căn bản nhiều ngành công nghiệp, giao
thông, y tế, nông nghiệp, thành phố thông minh và tạo ra một ngành công
nghiệp mới, công nghiệp sản xuất hàng ngàn tỷ thiết bị, sensors, cũng như kích
hoạt đổi mới sáng tạo trong hầu hết các ngành và cuối cùng, nó tạo ra sự kết nối
không giới hạn cho tất cả. Mỗi nước sẽ chọn cho mình một thứ tự ưu tiên riêng
để ứng dụng 5G.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, một sự tiếp cận được khuyến nghị
cho 5G là cách tiếp cận theo các pha. Pha đầu là sự bổ sung tăng dung lượng
của 5G cho 4G tại các thành phố lớn, các trung tâm thành phố, và khi đó 4G
vẫn là mạng chính. Đây chính là ứng dụng nâng cao chất lượng di động băng
rộng của 5G - Enhanced Mobile Broadband. Pha tiếp theo sẽ là ứng dụng IoT
diện rộng - Massive IoT, và ứng dụng IoT với tính năng độ trễ thấp, độ tin cậy
cao. Và cuối cùng sẽ là sự xuất hiện của 5G trong tất cả các lĩnh vực.
"Khi cuộc cách mạng số, cách mạng công nghiệp 4.0 xảy ra, khi một
công nghệ mới như 5G xuất hiện thì tương lai không nằm trên đường kéo dài
của quá khứ. Các nước ASEAN chúng ta có cơ hội bứt phá. Nhưng phải là một
tư duy mới, không truyền thống, không tuần tự. Cả quản lý nhà nước, cả doanh
nghiệp, đều cần một sự đột phá trong tư duy, trong chính sách và trong cách
tiếp cận. Hội nghị về 5G của chúng ta lần này cũng là để bàn về cách tiếp cận
của ASEAN. Khi một cái mới xuất hiện thì cách học hỏi tốt nhất là cùng nhau
chia sẻ. Khi chia sẻ thì một tri thức mới được sinh ra. Tri thức cũng thường
được sinh ra trong những bối cảnh cụ thể. Các nước ASEAN có nhiều nét
tương đồng. Về phát triển ICT thì lại càng có nhiều nét tương đồng hơn, bởi
vậy chúng ta sẽ cùng phát triển hệ tri thức ICT ASEAN. Các vấn đề như khi
nào triển khai 5G, triển khai ban đầu thì nên ở qui mô nào; ứng dụng đầu tiên
cho 5G là gì, qui hoạch tần số cho 5G ra sao, hài hòa tần số 5G trong ASEAN
thế nào, đặt giá tần số cho 5G cao hay thấp, cấp tần số theo khu vực địa lý để
khuyến khích ứng dụng 5G cho các nhà máy tự động hóa, các khu công nghệ
cao, các qui định về chia sẻ hạ tầng để giảm chi phí đầu tư, mối liên hệ 5G và
thúc đẩy kinh tế số là gì... sự đóng góp công nghệ của ASEAN cho 5G là gì"
Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nói.
Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng, chưa ai đi đầu về tất cả các vấn
đề nêu trên. Có những vấn đề được bàn bạc tại hội nghị này là vấn đề lần đầu
tiên được nêu ra. Bằng cách bàn bạc và chia sẻ những vấn đề mới nhất giữa các
nước ASEAN với các nước đối tác, với các tổ chức quốc tế, với các chuyên gia
và doanh nghiệp, rồi thử nghiệm tại nước mình, học hỏi thông qua triển khai
- Learning by Doing, chúng ta sẽ là những người đi đầu. ASEAN phải là
những nước đi đầu, bởi vì chúng ta là khu vực năng động nhất trên thế giới.
Để tận dụng cơ hội to lớn mà 5G đem lại, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh
Hùng nhấn mạnh, các nước ASEAN phải liên kết lại với nhau trên tinh thần
“cùng làm, cùng phát triển”, nhằm tạo ra một Asean số: Một thị trường ICT
chung cho ASEAN, một khung chính sách ICT chung cho ASEAN, một
ASEAN phẳng về roaming, một trường đại học ICT của ASEAN, một trung
tâm đổi mới sáng tạo của ASEAN và một trung tâm của ASEAN về an ninh
không gian mạng.