i
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NGUYỄN THỊ THU LUYẾN
CÁI TÔI TRỮ TÌNH
TRONG THƠ CHẾ LAN VIÊN SAU 1975
LUẬN VĂN THẠC SĨ: VĂN HỌC VIỆT NAM
Thái Nguyên - 2016
ii
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NGUYỄN THỊ THU LUYẾN
CÁI TÔI TRỮ TÌNH
TRONG THƠ CHẾ LAN VIÊN SAU 1975
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN DIỆU LINH
Thái Nguyên - 2016
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả được nêu trong luận văn là trung thực và chưa được ai công bố trong bất kỳ
công trình khoa học nào.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Thu Luyến
ii
LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của Khoa Ngữ Văn - Trường Đại học Khoa học - Đại
học Thái Nguyên và được sự đồng ý của cô giáo hướng dẫn TS Nguyễn Diệu Linh
tôi đã thực hiện đề tài: “Cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên sau 1975”.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS Nguyễn Diệu Linh đã tận tình giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Tôi xin chân thành
cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong Khoa Ngữ Văn - Trường Đại học Khoa học -
Đại học Thái Nguyên đã quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình
học tập, nghiên cứu. Tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã quan tâm,
giúp đỡ, tạo điều kiện tốt để tôi nghiên cứu, học tập và hoàn thành luận văn này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh nhất,
song trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất
định mà bản thân chưa thấy được. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô
giáo để luận văn được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2016
Tác giả
Nguyễn Thị Thu Luyến
iii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................... 1
3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu ....................................................... 7
3.1. Mục đích nghiên cứu .............................................................................. 7
3.2. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................. 7
3.3. Văn bản nghiên cứu ................................................................................ 7
4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 8
4.1. Phương pháp nghiên cứu loại hình ........................................................ 8
4.2. Phương pháp nghiên cứu lịch sử..............................................................8
4.3. Phương pháp thống kê - phân loại ......................................................... 8
4.4. Phương pháp phân tích - tổng hợp ......................................................... 8
4.5. Phương pháp so sánh - đối chiếu ........................................................... 8
5. Đóng góp mới của đề tài .................................................................................. 8
5.1. Về mặt lý luận ........................................................................................ 8
5.2. Về mặt thực tiễn ..................................................................................... 9
6. Bố cục của đề tài .............................................................................................. 9
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG ........................................ 10
1.1. Thơ trữ tình và cái tôi trữ tình ....................................................................... 10
1.2. Cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên trước năm 1975 ............................. 14
1.2.1. Cái tôi tràn ngập nỗi đau trước Cách mạng tháng Tám 1945 ........... 14
1.2.2. Cái tôi cách mạng đầy nhiệt huyết trong hai cuộc kháng chiến ......... 18
1.3. Những yếu tố tạo nên sự chuyển biến của cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan
Viên sau năm 1975 .............................................................................................. 23
1.3.1. Sự thay đổi về hoàn cảnh xã hội ......................................................... 24
1.3.2. Sự thay đổi trong quan niệm thẩm mỹ về con người ........................... 26
Chương 2. ĐẶC ĐIỂM CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ CHẾ LAN VIÊN
SAU 1975 ............................................................................................................. 33
2.1. Cái tôi thế sự, đời tư ...................................................................................... 33
iv
2.1.1. Những băn khoăn, chiêm nghiệm về các vấn đề vĩnh cửu của cuộc sống..33
2.1.2. Cái tôi đấu tranh không biết mệt mỏi với thời gian ............................ 39
2.2. Cái tôi khao khát tìm về “bản ngã” ............................................................... 47
2.2.1. Cái tôi có nhu cầu sống trung thực với bản thân ................................ 47
2.2.2. Cái tôi bản lĩnh khi dám nói lên suy nghĩ của mình ........................... 52
2.3. Cái tôi nghệ sĩ tài hoa và trách nhiệm ........................................................... 57
2.3.1. Cái tôi ý thức trách nhiệm với nghề .................................................... 57
2.3.2. Cái tôi trân trọng những giá trị văn hóa của dân tộc ......................... 63
Chương 3. NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ
CHẾ LAN VIÊN SAU 1975 ............................................................................... 69
3.1. Sự kế thừa và phát triển các thể thơ .............................................................. 69
3.1.1. Thể thơ tự do ....................................................................................... 69
3.1.2. Thơ tứ tuyệt ......................................................................................... 73
3.2. Giọng điệu tâm tình, triết luận ...................................................................... 78
3.2.1. Giọng điệu trữ tình sâu lắng ............................................................... 78
3.2.2. Giọng độc thoại nội tâm ...................................................................... 83
3.3. Hiện đại hóa ngôn ngữ thơ ............................................................................ 86
3.3.1. Ngôn ngữ thơ đậm chất đời thường .................................................... 86
3.3.2. Sử dụng hợp lý, linh hoạt các biện pháp tu từ từ vựng ....................... 89
KẾT LUẬN .................................................................................................. 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................................
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong nền Văn học Việt Nam hiện đại, Chế Lan Viên luôn được coi là nhà
thơ lớn, có ảnh hưởng sâu rộng tới nền văn học nước nhà. Con đường lịch sử của
dân tộc và con đường thơ của Chế Lan Viên luôn gắn bó chặt chẽ, tạo điều kiện và
bổ sung cho nhau, làm nên một phong cách thơ rất riêng và đầy sức hấp dẫn. Thơ
Chế Lan Viên trên mỗi chặng đường đều có những cách tân nghệ thuật đáng trân
trọng. Nhiều thập kỷ qua, tác phẩm của Chế Lan Viên luôn được đưa vào các
chương trình giảng dạy ở nhiều cấp học (từ bậc phổ thông đến bậc đại học), bởi thơ
ông không chỉ phản ánh lịch sử, phản ánh thời đại mà còn tiêu biểu cho tiến trình
phát triển của thơ ca dân tộc ở thế kỷ XX.
1.2. Trong thơ, vấn đề chủ thể cái tôi trữ tình có một ý nghĩa đặc biệt quan
trọng. Thơ trữ tình luôn gắn với cái “tôi” bởi nó là trung tâm và là giá trị tinh thần
cốt lõi, tạo nên chân dung của nhà thơ. Bởi vậy, khi nghiên cứu cái tôi trữ tình trên
các phương diện thuộc về thể loại, các trào lưu, khuynh hướng, các chặng đường
sáng tác, các tác giả hay ngay cả một tác phẩm thơ cụ thể, người ta thường quan tâm
nhiều đến việc tìm hiểu cái tôi trữ tình.
1.3. Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên phong phú và đa dạng. Đó là một thế
giới ấn tượng với sức biểu cảm mang dấu ấn riêng vô cùng độc đáo. Khi nghiên cứu
thế giới nghệ thuật của nhà thơ thể hiện qua cái tôi trữ tình, chúng ta nhận ra một
hồn thơ giàu có và tràn đầy sức sống. Cái tôi trữ tình của Chế Lan Viên luôn thể
hiện cá tính nghệ thuật bản lĩnh, một phong cách nghệ thuật không ngừng tìm tòi,
sáng tạo. Tất cả những điều ấy đã thể hiện tình yêu thương cuộc sống tràn trề, một
tinh thần lạc quan, một sự gắn bó máu thịt với cuộc đời.
1.4. Trong thơ Chế Lan Viên luôn tồn tại một cái tôi trữ tình không ngừng biến
đổi trên cơ sở kế thừa và cách tân. Đó là sự vận động từ cái tôi lãng mạn trước cách
mạng đến cái tôi trữ tình chính trị trong giai đoạn 1945 - 1975 và đến cái tôi đời tư
thế sự mang nặng cảm xúc trầm tư, suy ngẫm trong những bài thơ được sáng tác sau
năm 1975, đặc biệt là vào giai đoạn cuối đời. Quả là, trong lịch sử phát triển của thơ
2
ca Việt Nam hiện đại thế kỷ XX, hiếm có một nhà thơ nào tạo ra sự chuyển biến
liên tục trong suốt cả sự nghiệp sáng tác, tạo nên được sức hấp dẫn đối với công
chúng yêu thơ như Chế Lan Viên.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: Cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên
sau 1975 nhằm thấy được nét độc đáo trong phong cách, những tiến bộ nghệ thuật,
những đóng góp của Chế Lan Viên trong nền thơ Việt Nam hiện đại. Chúng tôi hy
vọng luận văn sẽ góp một phần nhỏ vào việc nhận diện chân dung, tầm vóc của tác
giả Chế Lan Viên giai đoạn sau năm 1975. Đồng thời, góp một mảng tư liệu cho việc
nghiên cứu và giảng dạy về nhà thơ lớn, nhà văn hóa lớn của dân tộc: Chế Lan Viên.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ngay từ tập thơ đầu tiên Điêu tàn ra đời năm 1937 đến ba tập Di cảo, thơ Chế
Lan Viên luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của độc giả và giới phê bình. Cùng
với chặng đường 52 năm cầm bút của Chế Lan Viên là chặng đường liên tiếp xuất
hiện các bài giới thiệu, các bài phê bình, nghiên cứu, các chuyên luận được in thành
sách với một số lượng lớn mà chúng ta khó có thể thống kê một cách đầy đủ.
Phải khẳng định ngay rằng, tất cả các bài nghiên cứu đã công bố đều muốn
khẳng định sự tiếp tục và đổi mới của hành trình thơ Chế Lan Viên qua các chặng
đường: trước 1945, từ 1945 đến 1975 và sau 1975. Nhưng tập trung nhiều nhất vẫn
là các bài giới thiệu về thơ chống Mỹ và thơ thời kỳ đổi mới của Chế Lan Viên. Đặc
biệt, vấn đề cái tôi trữ tình của Chế Lan Viên cũng được nhiều nhà nghiên cứu tâm
huyết tìm hiểu.
Các công trình nghiên cứu về cái tôi trữ tình của Chế Lan Viên trước năm 1975
đều khẳng định cái tôi trữ tình của Chế Lan Viên là cái tôi vận động từ cái tôi cô
đơn lạc lõng thuở Điêu tàn đã hòa nhập vào cái ta chung trong những năm kháng
chiến. GS. Hà Minh Đức là một trong những nhà nghiên cứu dành nhiều tình cảm
cho Chế Lan Viên. Trong các công trình nghiên cứu của mình, ông đã đề cập đến
cái tôi trữ tình của Chế Lan Viên trong những năm chiến tranh với những nhận định
khá xác đáng. Trong công trình “Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại”,
ông viết: “Với Ánh sáng và phù sa, vấn đề riêng chung được đặt ra trực diện, cái
3
tôi trữ tình bộc lộ khá rõ nét qua những lời thơ tâm tình, chứa chất biết bao suy
nghĩ và cảm xúc tự bên trong” [19, 38].
Cùng với Hà Minh Đức, Trần Đình Sử cũng có ý kiến: “Ánh sáng và phù sa,
Hoa ngày thường chim báo bão đã đánh dấu bước trỗi dậy, đổi mới của thơ Chế
Lan Viên, gắn liền với ý thức về cái tôi của ông…Chế Lan Viên xem cái Tôi như
một điểm xuất phát để nói đến tất cả” [61, 151].
Vũ Tuấn Anh cũng là tác giả có nhiều bài viết về Chế Lan Viên. Trong các công
trình nghiên cứu ấy, ông đặc biệt chú ý đến sự thể hiện cái tôi trữ tình của Chế Lan Viên.
Trong luận án Phó tiến sĩ với đề tài “Sự vận động của cái tôi trữ tình trong thơ Việt
Nam từ 1945 đến nay” ông cho rằng: “Cái tôi có những trầm tư triết học quanh các câu
hỏi Ta là ai? Ta vì ai?”. Hay trong bài Chế Lan Viên với Điêu tàn và Vàng sao, nhà
nghiên cứu đã nhận định: “Cả cái tôi bản thể và cái Tôi nghệ sĩ của tác giả đều muốn
vượt lên cõi tục để tạo nên một Tháp nghĩ; một Đài thơ, để trên đài thơ cao ấy hướng tới
hư vô, tìm trong ấy sức mạnh sáng tạo” [3, 21].
Trong bài Thơ Chế Lan Viên, tác giả Nguyễn Văn Hạnh đã nói đến sự hòa
hợp, thống nhất giữa cái tôi công dân và cái tôi nghệ sĩ của Chế Lan Viên trong
những năm đánh Mỹ: “Cuộc đời và cái tôi không loại trừ nhau, mà xuyên thấm vào
nhau tạo thành thơ hay, thơ rung động sâu sắc người khác” [22, 73].
Sau năm 1975, cái tôi trữ tình của Chế Lan Viên có sự chuyển động mãnh mẽ
hướng tới cảm hứng thế sự - đời tư. Đặc biệt, vào đầu thập kỷ 80 là các tập thơ Hái
theo mùa (1977), Hoa trên đá (1984), Ta gửi cho mình (1986) sự chuyển đổi ấy
càng được thể hiện rõ. Và chặng cuối đường thơ Chế Lan Viên được đánh dấu bằng
ba tập Di cảo thơ do nhà văn Vũ Thị Thường sưu tầm, tuyển chọn vào các năm
1992, 1993, 1996 lại càng khẳng định sự thay đổi của cái tôi trữ tình Chế Lan Viên
là đúng đắn và cần thiết.
Song hành với các tác phẩm ấy cũng là sự ra đời các công trình giới thiệu và khám
phá thế giới nghệ thuật của nhà thơ. Tập thơ đầu tiên có dấu hiệu của sự chuyển hướng
ngòi bút và tư tưởng của Chế Lan Viên là tập Hái theo mùa. Khi giới thiệu tập thơ này,
Trần Ninh Hồ nhận xét: “Phải có một Bình Ngô đại cáo! Ở những ngày này, bằng tiềm
4
lực, suy nghĩ, cảm xúc, Chế Lan Viên đã bắt được cái hơi thở hào hùng sảng khoái dội
lại từ xưa ấy” [29, 367]. Nhà thơ luôn đòi hỏi cái tôi “phải có sự kết hợp nhuần nhuyễn
giữa nghĩ và cảm, tạo nên nhiều bài thơ, tập thơ vừa nồng nhiệt hào hùng vừa thiết tha
lắng đọng, có sức cảm hóa thuyết phục lớn lao” [29, 371].
Tập thơ thứ hai thể hiện sự nỗ lực không mệt mỏi của Chế Lan Viên là tập Hoa
trên đá. Nhà thơ Tế Hanh khẳng định: “Trong một khuôn khổ nhỏ, nhà thơ vẫn gửi
được nhiều xúc cảm của mình từ những đề tài lớn đến những đề tài bình dị”. Và:
“Tập Hoa trên đá là một tập thơ đánh dấu một bước tiến mới của tác giả” [21, 3].
Nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Bình trong bài Chế Lan Viên khi đánh giá sự chuyển
biến của cái tôi trữ tình của nhà thơ cũng nhận định: Thơ Chế Lan Viên “bắt đầu
bộc lộ những trăn trở nhận thức về trách nhiệm của người cầm bút trước nhiều vấn
đề nhân thế mà trước đây thơ còn ít quan tâm” [5, 225]. Trong tập thơ này, nhà thơ
đã gửi gắm, đã “bộc lộ tâm tình và triết luận về các vấn đề muôn thuở của nhân
sinh”, với những “suy tư, chiêm nghiệm làm cho giọng thơ ông trầm xuống phảng
phất một nỗi quan hoài…” [5, 226].
Nguyễn Xuân Nam cho rằng: “Hoa trên đá là tập thơ xứng với tên tuổi tác giả”
và “trong tập thơ này đã gặp một giọng thơ nhân tình hơn, gần gũi tiếng nói hàng
ngày hơn” [48, 3]. Vĩnh Quang Lê cũng khẳng định hướng đi tới của thơ Chế Lan
Viên: “…thơ anh vẫn tiến lên. Có lúc thơ anh bùng cháy lên, và có lúc thơ đi bước
một” [44, 135]. Ngô Văn Phú nhìn suốt hành trình thơ Chế Lan Viên từ Điêu tàn
đến Hoa trên đá và nhận ra “giọng thơ của anh có một phong cách riêng, và vẫn
theo kịp với nhịp đi của đời sống” [56, 10].
Tiếp nối sự chuyển biến về tư tưởng, cảm xúc trong tập Hoa trên đá, năm 1986
Chế Lan Viên cho ra đời tập thơ Ta gửi cho mình, gồm 39 bài. Nếu như ở hai tập
thơ trước vẫn còn đậm chất anh hùng ca, thì giờ đây thơ Chế Lan Viên đã chuyển
hẳn sang khía cạnh đời tư. Tuy nhiên, tập thơ này hầu như chưa có một công trình
nghiên cứu công phu nào. Có chăng chỉ được nhắc đến để so sánh với các tập thơ
khác.
5
Ba tập Di cảo thơ là bước hoàn thiện cái tôi thế sự - đời tư của Chế Lan Viên.
Nhận xét và đánh giá về hai tập Di cảo thơ I và II, Nguyễn Bá Thành trong bài viết
“Đọc hai tập Di cảo thơ” đã nhận định về cảm xúc của Chế Lan Viên trong những
năm cuối đời thật tinh tế và sâu sắc: “Cảm xúc của Chế Lan Viên về “thời gian
sống” là định hướng lớn nhất cuốn hút tư duy của thơ ông trong những năm cuối
đời. Nếu như ở Đối thoại mới nhà thơ vẫn còn đủng đỉnh triết lý về “những chiếc lá
thơm hái lúc về già” thì từ năm 1987, cảm xúc của ông dường như dồn nén hơn,
thúc bách hơn” [63, 410].
Nhân ngày giỗ thứ tư của Chế Lan Viên (tháng 6 năm 1993), Trần Thanh Đạm
có bài Những vần thơ triết lý của Chế Lan Viên qua những trang Di cảo. Ông khẳng
định: “Sự tìm tòi chính mình vẫn là việc phải tiếp tục. Đó là niềm khao khát không
bao giờ nguôi của một hồn thơ không bao giờ tự thỏa mãn mà luôn luôn tự đòi hỏi,
tự đổi mới để đi tìm một tầm cao mới, càng tiến gần hơn đến sự viên mãn, sự tuyệt
đối, tuy không bao giờ có thể đạt tới, song nếu không có nó thì cũng sẽ không bao
giờ có sự sáng tạo nghệ thuật thực sự hướng đến chân, thiện, mỹ” [11, 396]. Như
vậy, Trần Thanh Đạm nhận thấy ý thức tìm lại chính mình của Chế Lan Viên là một
nhu cầu cấp bách, luôn thôi thúc tâm hồn nhà thơ, ngay cả khi bóng đã xế tà.
Hồ Thế Hà là một nhà giáo, một nhà nghiên cứu luôn thể hiện sự yêu mến thơ
Chế Lan Viên. Trong Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, ông viết: “Cái tôi nhà
thơ, cái tôi trữ tình Chế Lan Viên khi bộc lộ khi tiềm tàng, có khi là cuộc phiêu lưu tư
tưởng của thế giới nội tâm, có khi tỏ lộ thông qua các biện pháp đối lập, so sánh,
thông qua cách nói riêng của ông” [23, 35]. Và khi nhận xét về cái tôi trữ tình Chế
Lan Viên qua các chặng đường, nhà nghiên cứu cũng cho rằng: “Cái tôi trữ tình
trong thơ Chế Lan Viên đầy quyến rũ, năng động” [23, 41]. Tác giả luận án cũng
nhận thấy sự phức tạp của thơ Chế Lan Viên trong thời kỳ mới và nhận định: “Khảo
sát toàn bộ các tác phẩm của Chế Lan Viên xuất bản sau năm 1975, ta thấy trong
một số bài, ông có sự to tiếng nuối tiếc, tự mâu thuẫn với mình. (...). Nhưng thực ra,
đó chỉ là những lời tâm sự, tự kiểm điểm chân thành, pha chút chua xót chứ không
phải sự phủ định, oán trách. Phảng phất âm hưởng buồn, tiếc cho thơ mình một thời
không được sống hết cái hồn nhiên vốn có của nó phải cùng con người lao vào trận
6
mạc. (…). Cho nên sự mâu thuẫn, phủ định giai đoạn trước 1975, nếu có, thì đó
chính là sự phủ định biện chứng để tìm hướng mới cho thơ trong hoàn cảnh mới mà
thôi” [23, 36 - 37].
Đoàn Trọng Huy cũng ít nhiều nhắc đến cái tôi trữ tình của Chế Lan Viên
trong các công trình của mình. Ông nhận định: “Từ sau 1975, cái tôi trữ tình đã đổi
khác, hầu như có một sự thức tỉnh cá nhân mới. Đúng là sự thức tỉnh những nhu
cầu xã hội và cá nhân của cái Tôi trong thơ trữ tình” [30, 111]. Đó là đòi hỏi về tất
cả những nhu cầu của cuộc sống đời thường cùng sự khẳng định cá tính mạnh mẽ
trước thế giới, trong các mối quan hệ xã hội và cá nhân.
Nguyễn Quốc Khánh khi nghiên cứu về chặng đường thơ cuối cùng của Chế
Lan Viên qua Di cảo thơ với bài Di cảo thơ Chế Lan Viên hành trình tìm lại
chính mình đã đánh giá: “Suốt ba chục năm đi trên đại lộ cách mạng với niềm vui,
niềm tin phơi phới. Chế Lan Viên rất chân thành gạt bỏ cái tôi cá nhân, hoặc có nói
đến cũng chỉ là những niềm ăn năn hối hận về mình trước Cách mạng (…) để hòa
cái tôi vào cái Ta chung của nhân dân. Đó là chân dung mà chúng ta đã biết, đã
quen thuộc về Chế Lan Viên suốt mấy chục năm qua…” [37, 425]. Và tác giả bài
viết cũng cho rằng, thơ Chế Lan Viên trước và sau 1975 là sự tiếp nối chứ không
phải sự đứt đoạn của cái tôi trữ tình. Bởi “có một Chế Lan Viên vừa quen vừa
lạ…Đọc ba tập Di cảo thơ của Chế Lan Viên người đọc một lần nữa lại phải kinh
ngạc về một Chế Lan Viên mới, khác với chân dung ông đã hiện diện trên ba chục
năm qua các trang thơ ông đã từng công bố” [37, 423].
Nguyễn Diệu Linh trong bài Di cảo thơ và nhu cầu được sống trung thực với
mình của Chế Lan Viên đã nhận định: “Khát vọng “Đời cho anh là anh” luôn cháy
bỏng trong nhiều trang thơ của Chế Lan Viên. Được sống với chính bản thân mình,
với tất cả sự chân thành, trung thực của con người đã làm nên một nét sắc sảo của
ba tập Di cảo thơ” [40, 36].
Như vậy, mặc dù thơ Chế Lan Viên luôn được quan tâm tìm hiểu, nhưng chủ
yếu vẫn là những công trình nghiên cứu về thế giới nghệ thuật và phong cách nghệ
thuật của nhà thơ. Qua thế giới nghệ thuật và phong cách nghệ thuật ấy, cái tôi trữ
7
tình chỉ được đề cập ở một vài khía cạnh nhỏ. Đến nay, chưa có một công trình
nghiên cứu chuyên sâu nào về cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên từ sau năm
1975. Đây là giai đoạn cái tôi có sự chuyển biến rõ rệt từ cái tôi sử thi cách mạng
sang cái tôi thế sự - đời tư. Chính vì vậy, với luận văn này chúng tôi hy vọng sẽ tìm
hiểu những đặc điểm của cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên sau 1975. Qua đó
nhận diện rõ hơn bức chân dung tinh thần mới của một cánh chim đầu đàn trong nền
thơ ca hiện đại Việt Nam.
3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn khảo sát toàn bộ thơ Chế Lan Viên, trong đó tập trung vào các tập thơ
ra đời sau năm 1975, nhằm tìm hiểu một cách tổng thể, bao quát nội dung và nghệ
thuật thơ Chế Lan Viên ở giai đoạn này. Từ đó, làm sáng tỏ sự thể hiện cái tôi trữ
tình của nhà thơ trong những năm tháng cuối đời. Khi đó, sẽ thấy được đặc điểm
phong cách nghệ thuật Chế Lan Viên cùng những đóng góp của ông cho nền thơ
hiện đại sau 1975.
Mục đích cuối cùng của luận văn là góp phần phục vụ việc nghiên cứu và
giảng dạy nhà thơ Chế Lan Viên trong nhà trường.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng của luận văn là những biểu hiện của cái tôi trữ tình trong thơ Chế
Lan Viên sau 1975.
3.3. Văn bản nghiên cứu
Văn bản nghiên cứu của luận văn là toàn bộ những sáng tác thơ của Chế Lan
Viên đã được xuất bản bao gồm 14 tập thơ. Trong đó, luận văn tập trung nghiên cứu
các tập ra đời sau năm 1975 gồm: Hái theo mùa (1977), Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội;
Hoa trên đá (1984), Nxb Văn học, Hà Nội; Ta gửi cho mình (1986), Nxb Tác phẩm
mới, Hà Nội và ba tập Di cảo thơ: tập I nhà xuất bản Thuận Hóa - Huế (1992), tập II
nhà xuất bản Thuận Hóa - Huế (1993) và tập III nhà xuất bản Thuận Hóa - Huế
(1996).
8
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp nghiên cứu loại hình
Phương pháp này căn cứ vào những phương diện loại hình của thơ trữ tình để
nghiên cứu ngôn ngữ, giọng điệu, thể loại thơ Chế Lan Viên sau năm 1975. Từ đó,
làm rõ những đặc điểm cơ bản, mang bản chất loại hình.
4.2. Phương pháp nghiên cứu lịch sử
Sử dụng phương pháp này, người viết đặt thơ Chế Lan Viên sau 1975 trong bối
cảnh lịch sử của sự phát triển của thơ Chế Lan Viên nói chung. Từ đó tìm hiểu cái
tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên sau 1975 trong sự vận động của cái tôi trữ tình
qua hành trình sáng tạo nghệ thuật của nhà thơ.
4.3. Phương pháp thống kê - phân loại
Phương pháp này dùng để thống kê các ý kiến về thơ trữ tình và cái tôi trữ tình
trong thơ. Thống kê các tập thơ của Chế Lan Viên để phân loại, chọn những tập thơ
nào, bài thơ nào là tiêu biểu nhất thể hiện rõ cái tôi trữ tình. Trên cơ sở đó sẽ có cái
nhìn chính xác, cụ thể giá trị chính của thơ Chế Lan Viên.
4.4. Phương pháp phân tích - tổng hợp
Thống kê chỉ là một phương tiện, còn nhiệm vụ chính là phân tích các ý kiến,
các chi tiết nghệ thuật, từ đó đưa ra sự nhìn nhận đánh giá về cái tôi trữ tình. Phân
tích tác phẩm sẽ là cơ sở cho việc tổng hợp các vấn đề chính của cái tôi trữ tình
trong thơ Chế Lan Viên sau năm 1975. Bên cạnh việc phân tích, người nghiên cứu
sẽ tổng hợp lại một cách tổng quát sau khi luận giải các vấn đề.
4.5. Phương pháp so sánh - đối chiếu
Đây cũng là phương pháp được sử dụng một cách thường xuyên để thấy được
cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên có sự chuyển biến giữa các chặng đường
sáng tạo, thấy được sự kế thừa và sự cách tân trong thơ ông.
5. Đóng góp mới của đề tài
5.1. Về mặt lý luận
9
Qua việc nghiên cứu, tìm hiểu những đặc điểm cái tôi trữ tình của Chế Lan
Viên sau năm 1975 sẽ giúp người đọc nhận diện rõ hơn bức chân dung tinh thần
mới của một nhà thơ lớn thế kỷ XX với phong cách nghệ thuật tài hoa mà độc đáo.
Luận văn cũng góp phần làm rõ quan niệm, cách cảm, cách nghĩ về cuộc đời, về con
người, về thơ ca của Chế Lan Viên sau năm 1975, đặc biệt là trong những năm
tháng cuối đời.
Luận văn cũng góp thêm một cái nhìn có hệ thống về các sáng tác của Chế Lan
Viên và khẳng định cái tôi nhiều cảm xúc và suy tư độc đáo trong giai đoạn sau
1975. Từ đó khẳng định những giá trị to lớn, đầy tính nhân văn mà nhà thơ Chế Lan
Viên đã để lại cho đời.
5.2. Về mặt thực tiễn
Luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo hữu ích trong việc học tập và giảng dạy,
nghiên cứu tác phẩm của Chế Lan Viên ở các cấp học.
6. Bố cục của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, đề tài được triển khai
thành 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận chung
Chương 2. Đặc điểm cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên sau 1975
Chương 3. Nghệ thuật thể hiện cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên sau 1975
10
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Thơ trữ tình và cái tôi trữ tình
Cho đến nay, đã có hàng trăm định nghĩa khác nhau về thơ. Nguyễn Xuân Nam
cho rằng: “Thơ là hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống qua những tâm
trạng những cảm xúc dạt dào, những tưởng tượng mạnh mẽ trong một ngôn ngữ giàu
hình ảnh và nhất là có nhịp điệu rõ ràng”. Các tác giả Nhập môn văn học lại quan
niệm: “Thơ là bộc bạch cảm xúc hoặc suy tư”. Xuân Diệu cũng từng cho rằng: “Thơ
là lọc lấy tinh chất, là sự vật được phản ánh vào tâm tình”. Còn các tác giả trong
nhóm Xuân Thu lại khẳng định: “Thơ là cái gì huyền ảo, tinh khiết, thâm thúy, cao
siêu, cái hình ảnh bất diệt của cõi vô cùng” vv…Có thể nói, có bao nhiêu người làm
thơ, viết về thơ thì có bấy nhiêu quan niệm khác nhau. Mỗi quan niệm đó đều xuất
phát trên một số phương diện nhất định của thơ để khái quát, cho nên đều cho ta một
ý niệm về thơ.
Chúng ta quan niệm thơ là một hình thức sáng tác văn học nghiêng về thể hiện
cảm xúc thông qua một tổ chức ngôn ngữ đặc biệt. Thơ trữ tình cũng như thơ nói
chung luôn bộc lộ cảm xúc một cách mãnh liệt. Không có cảm xúc thì không có thơ.
Chính vì thơ gắn với cảm xúc, bộc lộ cảm xúc nên khi được sử dụng ở các phương
thức khác như tự sự hay kịch thì cũng không mất đi điều đặc biệt này, mà trái lại
càng làm cho các tác phẩm đậm chất thơ, chất trữ tình hơn.
Cảm xúc thơ khác với cảm xúc của văn xuôi. Cảm xúc văn xuôi dù mãnh liệt
đến đâu vẫn mang tính khách quan. Còn cảm xúc thơ, nói như Phan Ngọc là “được
cảm hóa ngay lập tức, đến mức là của chính tôi”. Người ta đọc thơ, tiếp nhận cảm
xúc thơ như là cảm xúc của chính mình. Người ta lấy thơ ra ngâm, ngẫm nghĩ trong
những cảnh ngộ cụ thể, tâm trạng cụ thể của mình. Thơ do đó là tiếng nói tri âm.
Người ta tìm đến thơ như tìm đến tri âm. Chẳng thế mà Hoài Thanh đã từng viết:
“Thích một bài thơ là thích một con người đồng điệu”.
Vì vậy, có thể hiểu thơ trữ tình là một thể loại thơ ca có đặc trưng là bày tỏ, nói
lên tư tưởng tình cảm của tác giả, thông qua đó sẽ phản ánh cuộc sống. Thơ trữ tình
không miêu tả quá trình sự kiện, không kể tình tiết đầy đủ câu chuyện, cũng không
11
miêu tả nhân vật, cảnh vật cụ thể, mà mượn cảnh vật để bày tỏ tình cảm (tả cảnh trữ
tình). Sáng tác thơ là một nhu cầu tự biểu hiện, một sự thôi thúc từ bên trong, nhiều
khi mãnh liệt, dồn dập do sự tác động của đời sống con người gây nên. Sáng tạo
nghệ thuật là hoạt động có ý thức của người nghệ sĩ, bị chi phối bởi “cái tôi” nghệ
sĩ. Nhưng cái tôi ở đây là cái tôi nghệ thuật, không phải là cái tôi nhà thơ. Cái tôi
trữ tình, trước hết là tính cách của bản thân người mang lời nói. Cái tôi nghệ thuật
trong thơ bao gồm nhiều giá trị khác nhau như tài năng, sự sắp xếp các ngôn từ, cấu
trúc nghệ thuật…Cái tôi trữ tình có mối quan hệ thống nhất, nhưng không đồng
nhất với cái tôi nhà thơ.
Đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về cái tôi trữ tình như một hiện
tượng nghệ thuật. Có thể kể đến một loạt các công trình tiêu biểu của Trần Đình Sử
như: Thi pháp thơ Tố Hữu (Hà Nội, 1987); Phẩm chất cái tôi trữ tình (TCVH số
1/1983); Cái tôi và hình tượng trữ tình (Báo Văn nghệ số 19/1993)...Ngoài ra còn
rất nhiều các công trình khác nghiên cứu về cái tôi trữ tình trong thơ. Hầu hết các
bài nghiên cứu đều nhận thấy, cái tôi của nhà thơ luôn luôn có một mối quan hệ trực
tiếp với cái tôi trữ tình trong thơ. Từ cách nhìn, cách nghĩ, cách thể hiện những nỗi
niềm sâu kín, những tình cảm, thái độ của tác giả trước thế giới khách quan, cái tôi
trữ tình của nhà thơ sẽ được bộc lộ. Cái tôi trữ tình là cái tôi nhà thơ đã được nghệ
thuật hóa và trở thành một thành tố quan trọng của thế giới nghệ thuật trong tác
phẩm. Như vậy, nhân vật trữ tình trong thơ chính là người bộc lộ cảm xúc, tâm
trạng, suy nghĩ thông qua một hệ thống các phương tiện như ngôn ngữ, giọng điệu,
hình ảnh…để dẫn dắt người đọc thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của tác giả. Và
thông qua thế giới nhân vật ấy, cái tôi trữ tình của nhà thơ được bộc lộ một cách rõ
nét. Sự hiện diện của cái tôi trữ tình có thể sẽ là một tín hiệu quan trọng để nhận
biết diện mạo, tư tưởng của nhà thơ, thậm chí của cả một thời kỳ văn học.
Trong hành trình sáng tạo của mỗi tác giả, cái tôi trữ tình lại được thể hiện khác
nhau. Điều đó phụ thuộc vào sự chuyển biến trong cá tính sáng tạo của mỗi người
nghệ sĩ, cũng như sự tác động, chi phối của hoàn cảnh lịch sử, xã hội, của các yếu tố
văn hóa, thời đại…Sự thay đổi và chuyển hóa của các kiểu cái tôi trữ tình sẽ tạo
nên sự vận động của thơ. Cái tôi trữ tình thường xuyên xuất hiện dưới dạng chủ thể
12
trữ tình hoặc nhân vật trữ tình. Lê Lưu Oanh trong cuốn Giáo trình Lý luận văn
học, NXB Đại học Sư phạm (2008) đã chỉ rõ: “Nhân vật trữ tình chính là chủ thể
trữ tình, là người tự phát ngôn, tự miêu tả, tự bộc lộ. Nhân vật trữ tình không có tên
tuổi, diện mạo, hành động…nhưng để lại dấu ấn rất rõ qua giọng điệu, cảm xúc,
cách suy tư…” [54, 200].
Trong cuốn 150 thuật ngữ Văn học do Lại Nguyên Ân biên soạn cũng chỉ rõ:
“Nhân vật trữ tình là kẻ song sinh “đồng dạng” với nhà thơ tác giả; nó được hình
thành từ văn bản của kết cấu trữ tình (một trùm thơ, một tập thơ, một trường ca trữ
tình, hoặc toàn bộ sáng tác thơ trữ tình), như một dáng người có đường nét rõ rệt
hoặc một vai sống động; như một gương mặt có tính xác định của số phận cá nhân,
có đường nét tâm lý của thế giới nội tâm, và đôi khi có cả những đường nét tạo
hình…” [4, 252].
Trong quá trình hình thành, cái tôi trữ tình luôn thể hiện những đặc trưng cơ
bản. Thứ nhất, cái tôi trữ tình mang bản chất chủ quan cá nhân. Người làm thơ bao
giờ cũng có nhu cầu tự biểu hiện, giãi bày tâm tư, tình cảm riêng của mình. Hiện
thực cuộc sống rất rộng lớn, nhưng quan tâm đến vấn đề gì, nhìn nhận nó như thế
nào là do nhà thơ thể hiện dựa trên sự trải nghiệm của cuộc sống cùng với sự thôi
thúc cảm hứng sáng tạo nghệ thuật và tài năng của thi nhân. Khi có chất liệu rồi thì
đến lượt xây dựng văn bản trữ tình. Sự lựa chọn, cách thể hiện nào trong văn bản
trữ tình cũng mang rõ nét cá tính sáng tạo của chủ thể. Do thơ trữ tình in đậm dấu
vết cá nhân nên những gì liên quan đến cuộc đời tác giả, từ tiểu sử đến tính cách
đều đóng một vai trò nhất định trong sáng tác.
Thứ hai, cái tôi trữ tình mang bản chất xã hội. Trong đời sống xã hội xuất hiện
những cá thể người như một đơn vị tồn tại độc lập. Điều đó đã khẳng định vị thế
của con người trong cộng đồng. Các Mác đã khẳng định: “Con người là sự tổng hòa
mọi mối quan hệ xã hội”, con người có thể độc lập tự chủ, suy nghĩ và hành động
theo cách riêng của mình, nhưng con người không bao giờ biệt lập với cộng đồng,
với nhân loại. Làm thơ là để bày tỏ tình cảm, là sự giao lưu với mọi người xung
quanh những vấn đề về số phận, về cuộc sống con người. Thơ trữ tình trong lăng
13
kính hẹp nhất của cái nhìn cá thể, lại luôn luôn phản chiếu những vấn đề chung nhất
của con người.
Nếu như ở phương diện cái tôi trữ tình mang tính chủ quan cá nhân, chúng ta
quan tâm đến mối quan hệ giữa cái tôi nhà thơ với cái tôi trữ tình, thì phương diện
cái tôi trữ tình mang bản chất xã hội nhân loại, chúng ta chú ý đến mối quan hệ
giữa cái tôi trữ tình với cái ta cộng đồng. Chúng ta thừa nhận thơ trữ tình là vương
quốc chủ quan, nhưng cái chủ quan này vẫn hướng về cái ta chung mang tính xã
hội, nhân loại. Ở Việt Nam, hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đã cho
ta thấy rõ được khối sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc. Trong hoàn cảnh ấy sẽ ít
có chỗ cho cái tôi cá nhân tồn tại. Nếu như thơ trữ tình lúc đó không phải là những
lời hiệu triệu mọi người xông lên phía trước mà chỉ quay xung quanh những cảm
xúc cá nhân khép kín, cô đơn thì thơ sẽ trở nên lạc lõng. Thơ phải thể hiện sự lo
toan trước vận mệnh nước nhà, phải đề cao ý thức công dân sẵn sàng hy sinh cái
riêng, cái cá nhân cho quyền lợi chung của đất nước.
Thứ ba, cái tôi trữ tình mang bản chất nghệ thuật. Thông qua sự cảm nhận chủ
quan về hiện thực, nhà thơ đã tích lũy cho mình một nguồn tư liệu cần thiết. Nguồn
tư liệu ấy được xem như là nội dung, chất liệu làm nên tác phẩm. Đến lượt nó, cái
tôi trữ tình sẽ sáng tạo ra một thế giới nghệ thuật đặc thù và tổ chức toàn bộ thế giới
nghệ thuật ấy dưới hình thức một văn bản trữ tình. Rõ ràng, việc đưa hiện thực vào
trong tác phẩm thơ trữ tình khác với tác phẩm tự sự hay tác phẩm kịch. Bởi thế cần
phải nắm được bản chất nghệ thuật thẩm mỹ của cái tôi trữ tình và sáng tạo theo
những quy tắc riêng của thể loại.
Tác phẩm trữ tình miêu tả và biểu hiện thế giới chủ quan trong tâm hồn con
người dưới mọi cung bậc tình cảm một cách ý nhị và tinh tế. Cái tôi trữ tình mang
bản chất chủ quan, do đó thơ trữ tình cũng mang bản chất chủ quan của cái tôi nhà
thơ. Thế giới trữ tình của cái tôi là một thế giới mang giá trị thẩm mỹ được cấu
thành bởi những giá trị văn hóa truyền thống và lịch sử. Như vậy, thế giới trữ tình
của cái tôi là một thế giới nghệ thuật giúp người đọc nhận diện cá tính sáng tạo của
nhà văn. Tất cả các bản chất trên sẽ quyết định đến sự hình thành nội dung cũng
như hình thức nghệ thuật của tác phẩm trữ tình.
14
Nội dung, tình cảm của thơ trữ tình nằm bên trong của sự vật và yếu tố ngoại
cảnh được nhắc đến trong thơ chứ không chỉ tồn tại ở trên câu chữ...Cái tôi mang
bản chất chủ quan, do đó thơ trữ tình cũng mang bản chất chủ quan của cái tôi. Thế
giới trữ tình của cái tôi là thế giới mang giá trị thẩm mỹ được kết tinh bởi những giá
trị văn hóa truyền thống và lịch sử. Như vậy, thế giới trữ tình của cái tôi là một thế
giới nghệ thuật giúp chúng ta hình dung được cá tính sáng tạo của cái tôi trữ tình
dựa trên thế giới quan và truyền thống văn hóa. Người ta gọi thơ là tiếng lòng, là
nhịp đập trái tim bởi lẽ trước tiên, thơ xuất phát từ dòng ý thức bên trong, là những
điều sâu kín nhất, bí ẩn nhất mà người ta không thể nói bằng lời mà buộc phải dùng
những ngôn từ đa nghĩa, hàm ẩn. Đằng sau hình thức chính là nội dung chủ quan,
cái tôi chủ thể là yếu tố hiện diện của mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thơ
trữ tình.
Như vậy, cái tôi trữ tình với bản chất chủ quan chi phối mọi hành động, suy
nghĩ của cái tôi nghệ thuật có mối quan hệ mật thiết đối với nội dung và hình thức
của tác phẩm trữ tình.
1.2. Cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên trước năm 1975
Cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên xuất hiện ở nhiều hình thái khác nhau:
khi bộc lộ trực tiếp, khi ẩn khuất, khi như một đối tượng phản ánh, khi thì lại chính
là cái tôi tác giả - chủ thể thẩm mỹ, khi thì thiên về nội dung, có khi lại thiên về
hình thức…và có sự vận động theo thời gian, gắn liền với các mốc son của lịch sử
dân tộc. Về tổng quan, ta có thể thấy sự thể hiện cái tôi trữ tình của Chế Lan Viên
trước năm 1975 qua hai chặng đường: trước Cách mạng tháng Tám và trong những
năm kháng chiến.
1.2.1. Cái tôi tràn ngập nỗi đau trước Cách mạng tháng Tám 1945
Chế Lan Viên làm thơ từ năm 12 - 13 tuổi. Ông cùng với Hàn Mặc Tử, Quách
Tấn, Yến Lan thành lập nhóm thơ Bình Định và đã trở thành một hiện tượng độc
đáo của nền Thơ Mới. Hàn Mặc Tử (1912 - 1940) là con “Rồng” (Long), là “ngôi
sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam”. Thơ Hàn Mặc Tử có hình ảnh đẹp như chính
tâm hồn Việt, nhưng lại có những hình ảnh mang chất khủng hoảng; Yến Lan (1916
15
- 1998) là con “Lân” (Ly), có nhiều thành tựu trong sáng tạo thơ; Quách Tấn (1910
- 1992), là con “Quy”, nghiêng về cổ điển; Còn Chế Lan Viên (1920 - 1989), là con
“Phượng”.
Có thể nói trong “tứ linh” thì “Rồng” và “Phượng” là đặc sắc hơn cả. Chế Lan
Viên và Hàn Mặc Tử đều chọn cho thơ mình đối tượng thẩm mỹ là những thế giới
quái dị, lạ lẫm. Hệ thống hình ảnh trong thơ họ đã đem đến cho người đọc những
rung cảm thẩm mĩ thực sự mà không phải nhà thơ nào cũng có được. Tuy nhiên,
Chế Lan Viên đã sử dụng một cách đậm đặc các hình tượng thơ mà mình theo đuổi
(hình ảnh nước Chàm và dân Hời). Trong Điêu tàn, Chế Lan Viên đã sử dụng
những chất liệu kinh dị từ bóng tối, hồn ma, mồ hoang, sọ người, xương khô, máu
tuỷ...để tạo nên khách thể thẩm mỹ đầy tính Hư cấu - Siêu hình - Kinh dị:
“Và hồn, máu, óc tươi trong suối mực
Đua nhau trào lên trên giấy khúc buồn thương
Như không gian lùa vào ta chẳng dứt
Những hương mơ say đắm mộng ngông cuồng”.
(Tiết trinh) [67, 56]
Cái chết, niềm cô đơn đã trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng của Chế Lan Viên từ
thời niên thiếu. Hình ảnh của một đất nước đã tiêu vong trong lịch sử từ xa xưa
bỗng nhiên trở lại trong thơ ca với những hình ảnh ma quái, với giọng thơ buồn
thương, ảo não pha màu sắc huyền bí kỳ lạ, trở thành nỗi ám ảnh với người đọc.
Người phục dựng lại đất nước Chiêm Thành vàng son ấy đang ngập chìm trong nỗi
buồn thương, ai oán của hồn ma, của máu, của xương khô, huyết tanh, yêu
tinh...khiến chúng ta phải giật mình. Một nỗi cô đơn, lạc lõng đầy đau đớn:
“Chiều hôm nay bỗng nhiên ta lạc bước
Vào nơi đây thế giới vạn cô hồn
Hơi người Chết tỏa đầy trong gió lướt
Tiếng máu kêu rung chuyển cỏ non xanh”.
(Xương khô) [67, 36]
16
Chế Lan Viên đã đi ngược thời gian, với trí tưởng tượng phong phú để tái hiện
lại một thế giới đã suy tàn, chỉ còn lại những ký ức đau buồn và hãi hùng. Một
chàng thanh niên tuổi hoa niên bước vào thế giới siêu thực để cảm và thấu hiểu nỗi
đau của người dân Chàm. Cái chết đã trở thành nỗi ám ảnh trong tâm trí Chế Lan
Viên từ thuở ấy. Âm hưởng chung của Điêu tàn chính là nỗi buồn, nỗi cô đơn, lạc
lõng của nhà thơ trước thời cuộc, mà không biết giãi bày cùng ai nên đã tìm về với
cõi siêu hình, ma quái đầy bí ẩn. Đây cũng chính là tâm trạng chung của cái tôi trữ
tình trong Thơ Mới trước cách mạng tháng Tám. Khi nghiên cứu về thơ Chế Lan
Viên thuở Điêu tàn, nhiều nhà nghiên cứu đã đi tìm căn nguyên của nỗi đau buồn
ấy: có lẽ vì Chế Lan Viên sống trong giai đoạn nước nhà chìm trong màn đêm nô lệ
và một không gian tràn ngập sắc buồn, cho nên tâm hồn của chàng trai trẻ yêu nước
đã bị nỗi đau diệt vong của dân tộc Chàm làm lay động tâm can. Chàng trai trẻ
mười năm, mười sáu tuổi ấy đáng lẽ phải đang say sưa trong những giấc mộng lớn
của cuộc đời bằng những lý tưởng, khát vọng về tuổi trẻ, về tình yêu thì lại “nhập
hồn, hóa cốt” vào dân tộc Chàm để vực dậy những hồn ma xung quanh đống đổ nát
điêu tàn và đưa vào trang thơ của mình. Chàng thi sĩ Phan Ngọc Hoan đã có một
tuổi thơ gắn bó sâu nặng với mảnh đất Bình Định. Ông coi đây là quê hương thứ hai
của mình. Những buổi chiều tan học, chàng thi sĩ thường dừng chân bên những tháp
Chàm đổ nát. Và hình ảnh những đền đài xưa đã ăn sâu vào tâm trí chàng:
“Đây những tháp gầy mòn vì mong đợi
Những đền xưa đổ nát dưới Thời Gian
Những sông vắng lê mình trong bó ng tối
Những tháp chàm lở lói rỉ rên than”.
(Trên đường về) [67, 38]
Với Điêu tàn, Chế Lan Viên đã thể hiện một tình yêu nước thầm kín. Khóc
than về nỗi diệt vong của đất nước Chiêm Thành xưa với những cảnh thê thảm:
“Muôn ma hời sờ soạng dắt nhau đi”, cũng là để “thể hiện thầm kín tấm lòng yêu
đất nước, một đất nước đang tồn tại nhưng thực sự đang điêu tàn trong chế độ và
cảnh đời cũ” (Hà Minh Đức). Điêu tàn không chỉ mở ra một quá khứ đầy bi hận
17
của dân tộc Chàm mà còn khiến ta phải giật mình nhận ra rằng, không riêng dân
Chàm mà ngay cả dân tộc ta cũng đã và đang phải trải qua thời kỳ đen tối. Dân tộc
ta cũng đã bao phen bị kẻ thù đô hộ, thôn tính làm nô lệ. Và hiện tại là sự giày xéo
của thực dân Pháp trên mảnh đất hình chữ S. Hiện thực ấy có lẽ đã chi phối đến tâm
tư tình cảm của thế hệ các nhà Thơ Mới. Họ trốn tránh thực tại và tự tìm cho mình
lối thoát: Xuân Diệu say trong cõi Tình, Lưu Trọng Lư hòa vào cõi Mộng, Hàn Mặc
Tử ẩn mình vào Trăng, Huy Cận buồn thương cùng vũ trụ…Dù trốn tránh hiện thực
nghiệt ngã, nhưng đó không phải là sự phản ứng tiêu cực của các nhà thơ mà đó là
sự phản ứng có ý thức của những thanh niên có lòng yêu nước nhưng bất mãn với
thực tại. Khác với các nhà thơ Mới cùng thời, Chế Lan Viên một mình một nẻo
xuống cõi Âm, đau cùng nỗi đau nhân thế của đất nước Chàm…
Rõ ràng trong thơ Chế Lan Viên giai đoạn này, cái tôi trữ tình đã hiện diện một
cách mạnh mẽ. Tuy nhiên, cái tôi ấy không ca khúc nhạc vui mà chỉ ngân lên điệu
buồn sầu thương. Qua lời ca ấy, chúng ta hiểu được bản chất nỗi buồn thương ấy
chính là cảm hứng yêu nước. Có điều, nhà thơ trẻ tuổi không trực tiếp bày tỏ tinh
thần yêu nước mà thầm kín nói đến nỗi lòng ấy qua nỗi sầu vong quốc của những
người dân Hời. Nói đến tình yêu nước, thể hiện khát vọng thoát khỏi xiềng xích nô
lệ nhưng không nói đến tương lai huy hoàng mà chỉ nói đến cái chết, đến hồn
ma…Có ai ngờ tất cả những đền đài, cung điện nguy nga, tráng lệ xưa kia giờ lại là
những bãi tha ma, gào thét với oan hồn và khóc tìm Chiêm nữ. Hoài niệm về một
thời vàng son không còn nữa cũng là cách để thi nhân bộc lộ nỗi đau mất nước, thể
hiện tình yêu tha thiết với non sông. Nhưng nhìn vào hoàn cảnh chính trị lúc bấy
giờ, một người yêu nước cổ vũ dân chúng vùng lên với bất kỳ hình thức nào cũng
không phải là một việc làm yên ổn. Do đó, muốn bày tỏ nỗi lòng một cách trọn vẹn,
không gì hơn là quay về quá khứ, mượn hình ảnh người làm hình ảnh mình, mượn
tiếng than của người làm tiếng than của mình, mượn nỗi thù hận của người làm nỗi
thù hận của mình. Nhập vào nỗi đau của người để nói về nỗi đau của mình, đó chính
là dụng ý của Chế Lan Viên.
Điêu tàn đã nói lên nỗi đau mất nước của những người dân muốn thoát khỏi
gông cùm nô lệ. Nhà thơ viết: “Điêu tàn có riêng gì đất nước Chiêm thành của tôi
18
đâu! Kia kìa, nó đục sọ dừa anh. Tiếng xương rạn vỡ dội thấu đáy hồn tôi” [67, 8].
Từ cái nhìn bi quan về cuộc đời, Chế Lan Viên đã vực dậy sự đổ nát, điêu tàn của
thời đại để nói về nỗi đau mất nước của dân tộc Việt. Tập thơ đã tạo một hiệu ứng
tâm lý tích cực nơi người đọc lúc bấy giờ, bởi nhìn cảnh đổ nát của nước Chiêm
Thành ai cũng phải có sự suy nghĩ, lo lắng cho số phận của nước Việt Nam trong
tương lai.
Có thể nói, trong chặng đầu tiên của đường thơ Chế lan Viên, cái tôi trữ tình
hiện lên mang đầy sắc buồn ảm đạm, thấm đẫm nỗi cô đơn. Bóng dáng nhân vật trữ
tình lạc lõng giữa nhân gian, tồn tại một sự bế tắc nặng nề trong tâm hồn. Do đó, cái
tôi trữ tình luôn có ý định thoát ly thực tại và đã thoát ly thực tại để tìm về với cõi
siêu hình. Điêu tàn như một tháp thơ dựng lên trên mảnh đất lịch sử đau buồn của đất
nước mang gông cùm nô lệ, được xây bằng những viên gạch siêu hình, gắn liền với
tâm trạng chán nản, u buồn vây phủ tư tưởng và những suy niệm về đời sống của nhà
thơ. Có thể xem Điêu tàn vừa là sự khai mở, nhưng đồng thời cũng là điểm kết thúc
hành trình sáng tạo của một quan niệm thơ. Cuối hành trình ấy nở rộ những bông hoa
lung linh huyền ảo được mọc lên từ một tháp thơ lẻ loi và bí ẩn.
1.2.2. Cái tôi cách mạng đầy nhiệt huyết trong hai cuộc kháng chiến
Trong vòng 30 năm, Chế Lan Viên đã đánh dấu từng chặng đường lịch sử bằng
các tập thơ: Gửi các anh (1955); Ánh sáng và phù sa (1960); Hoa ngày thường,
chim báo bão (1967); Những bài thơ đánh giặc (1972); Đối thoại mới (1973); Hoa
trước lăng Người (1954-1976). Chế Lan Viên là nhà thơ thể hiện sâu sắc nhất cuộc
hành trình đầy gian khổ “từ chân trời một người đến với chân trời tất cả”. Đến với
cách mạng, nhà thơ đã rũ bỏ được quá khứ buồn thương, đoạn tuyệt với thời kỳ
Điêu tàn để hòa mình vào niềm vui của toàn dân tộc, để được trở về với đời sống
của quần chúng nhân dân lao động, để hòa nhập vào cuộc sống mới, được gắn bó
với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc.
Cách mạng tháng Tám thành công đã đưa tâm hồn cô đơn, lạc lõng của Chế
Lan Viên trở về với thực tại dưới ánh sáng soi đường của Đảng và niềm tin mãnh
liệt vào quần chúng nhân dân lao động. Tập Gửi các anh (1955) đã đánh dấu bước
19
chuyển biến lớn trong tư tưởng cũng như sự nghiệp sáng tác của ông sau 1945. Từ
chỗ là một nhà thơ lãng mạn thoát ly hiện thực, giờ đây sau 10 năm không sáng tác
nhà thơ đã trở thành một chiến sĩ say sưa trên mặt trận văn hóa, mang ba lô đi theo
các đoàn dân công, bộ đội ra mặt trận, hòa lòng mình vào lòng người kháng chiến,
để sáng tác phục vụ kháng chiến. Trở về với nhân dân cũng chính là trở về với mạch
nguồn của sáng tạo thi ca. Không còn tìm đến với cõi siêu hình hư vô, cái tôi trữ
tình trong thơ Chế Lan Viên giai đoạn này đã hoàn toàn đổi khác. Chấm dứt những
bi ai, bế tắc, nhà thơ đã hòa nhập vào cuộc đời chung của nhân dân vào những vấn
đề thời sự nóng bỏng: “Sự hồi sinh của cái tôi trữ tình đời tư theo xu hướng hòa
nhập với cái ta chung và sự đậm dần, mở rộng và phát triển mạnh mẽ của cái tôi sử
thi” [81, 258].
Con người nhà thơ thay đổi đã kéo theo sự chuyển biến của hồn thơ. Một thế
giới nghệ thuật mới đã hình thành. Cái tôi trữ tình trong thơ giai đoạn này mang
một vóc dáng mới và đậm dấu ấn của chủ thể sáng tạo. Đó là cái tôi yêu nước, hòa
nhập vào cái ta cộng đồng, cái tôi hành động, cái tôi hiện thực. Trước kia ông nhìn
vào thế giới “điêu tàn” để thể hiện mình, thì nay ông đã nhìn ra xung quanh để thể
hiện cuộc sống kháng chiến, để cảm nhận cái đẹp và cái anh hùng của thời đại.
Nghĩa là cái tôi không còn đóng vai một người siêu phàm siêu thoát mang tính hư
cấu tưởng tượng nữa mà là cái tôi công dân gắn bó sâu sắc với vận mệnh đất nước.
Đánh dấu sự chuyển biến lớn trong tư tưởng và nghệ thuật của nhà thơ phải kể
đến tập Ánh sáng và phù sa (1960). Tập thơ đã ghi một dấu mốc quan trọng trên
hành trình thơ của Chế Lan Viên từ sau Cách mạng. Cũng từ đây, cái tôi trữ tình
của nhà thơ đã thể hiện sự phát triển thêm một bước quan trọng - cái tôi sử thi
kháng chiến. Nhà thơ đã “nới rộng không gian Thơ Mới từ tháp ngà nghệ thuật ra
giữa vòm trời Nhân dân và Tổ quốc” [27, 202]. Đây là lúc ông đoạn tuyệt hoàn toàn
với giai đoạn “điêu tàn”, phá “cô đơn” để hòa nhập với cuộc sống “Lấy cái vui của
cuộc đời đánh bạt mọi đau thương”. Ông đã cố gắng hòa hợp cái tôi vào cái ta
chung và hướng thơ vào cuộc sống kháng chiến sôi nổi để ngợi ca sự thay đổi trên
mọi miền đất nước. Làm thơ là đến với nhân sinh, nhân quần. Chính vì vậy, cái tôi
trữ tình của Chế Lan Viên đã thực sự hòa nhập vào cái ta rộng lớn và ông hiểu rõ
ngòi bút của mình cần phải hướng tới ai:
20
“Tôi viết cho ai? Cho tất cả mọi người
Nhưng rất gần - cho những đứa em tôi
Ngày đau khổ khép tay trong tủi cực
Nay mở tay ra, bến rộng sông dài
Cho ai cũ thơ tôi làm ướt áo
Nay họ về sưởi giữa nắng thơ tôi”
(Nghĩ về thơ) [69, 35]
Cuộc sống mới chứa chan Ánh sáng và phù sa đã giúp Chế Lan Viên “lấn từng
nỗi đau như mùa chiêm lấn vành đai trắng” và “nay trở về ta lấy lại vàng ta”. Khi
đã có hướng rồi, nhà thơ không ngần ngại “Đi ra với sông, đi ra với trời, đi ra với
đời” để cảm nhận được:
“Tôi yêu quá cuộc đời như con đẻ
Như đêm xuân người vợ trẻ yêu chồng
Tôi nối với bạn bè như với bể
Cả lòng tôi là một giải sông Hồng”
(Chim lượn trăm vòng) [69, 38]
Nhà thơ đã “cố gắng vượt khỏi cái tôi cô đơn, bé nhỏ để hòa nhập vào cái ta
chung của mọi người” [20, 323] trong dòng chảy của lịch sử. Ý thức cái tôi cá nhân
đã phát triển cao độ khi mà tiếng nói của nhà thơ là nhân danh cộng đồng, nói với
cộng đồng. Và với cái tôi sử thi hào hùng, ông đã say sưa ngợi ca Tổ Quốc, ca ngợi
Bác Hồ trong tiếng gọi thiết tha với những gì thiêng liêng, tươi đẹp nhất: “Hỡi sông
Hồng tiếng hát bốn nghìn năm / Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng? / Chưa đâu và
ngay cả trong những ngày đẹp nhất / Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc / Hưng
Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng… / Những ngày tôi sống đây là những
ngày đẹp hơn tất cả / Dù mai này đời muôn vạn lần hơn…” (Tổ quốc bao giờ đẹp
thế này chăng?) [69, 142].
21
Bên cạnh những vần thơ về cái chung, cái toàn thể, cái tôi trữ tình của Chế Lan
Viên giai đoạn này còn hướng tới cái riêng với một niềm tin yêu cuộc sống thật
đáng khâm phục và trân trọng. Đó là sự cân bằng cần thiết của cái tôi đã thấm
nhuần tinh thần yêu nước và cảm hứng sử thi. Bởi trong những thời điểm ác liệt
nhất của cuộc chiến, con người có thể sẽ trải qua những giây phút mệt mỏi…và sự
trở về với tình cảm đời thường sẽ làm con người cân bằng trạng thái để có thêm
năng lượng cho những cuộc chiến tiếp theo:
“Đây tôi sống những ngày nhân hậu nhất
Mỗi mai hồng áo trắng đến thăm tôi
Nghiêng những đài sen, nghiêng tiếng hát
Che nỗi đau trong bóng nụ hoa cười”
(Ý nghĩ mùa xuân) [69, 69]
Có thể nói, từ Ánh sáng và phù sa, cái tôi trữ tình của Chế Lan Viên đã có sự
hòa nhập giữa niềm vui chung với niềm vui riêng. Dù đâu đó có những câu thơ, bài
thơ còn mang nặng tâm trạng bùi ngùi, xót xa. Nhưng đây là tập thơ đánh dấu sự
chuyển mình mạnh mẽ nhất của một hồn thơ đã tự nguyện đi theo tiếng gọi của Cách
mạng.
Thơ Chế Lan Viên trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ được xem
như là thứ vũ khí sắc bén để cải tạo tư tưởng, để xung trận chiến đấu. Cuộc kháng
chiến ác liệt đó đã đặt con người, cuộc sống và nghệ thuật vào thế phải tự vươn lên
một tầm cao mới xứng đáng với tinh thần của thời đại. Các tập thơ chống Mỹ của
Chế Lan Viên ra đời trong những ngày tháng ác liệt đó: Hoa ngày thường, chim
báo bão (1967); Những bài thơ đánh giặc (1972); Đối thoại mới (1973)…là minh
chứng cho sự hòa nhập giữa cái tôi và cái ta. Cái tôi (Chế Lan Viên) và cái ta (dân
tộc, nhân loại) hòa quyện làm một, tất cả vì mục đích lớn của dân tộc.
Hiện thực đời sống thời kỳ chống Mỹ là nguồn cảm hứng cho Chế Lan Viên có
thêm nhiều vần thơ tràn đầy sức sống. Tâm hồn nhà thơ rộng mở hướng tới khắp
mọi miền của Tổ quốc để nhạy bén thu nhận chất thơ của đời sống và hòa nhịp sống
22
của mình với nhịp sống của dân tộc. Những nhiệm vụ quan trọng của đất nước ta
được nhà thơ ghi dấu bằng một loạt các bài thơ hay. Từ năm 1965, khi cả nước hòa
chung là một chiến trường chống Mỹ, cái tôi chiến sĩ của Chế Lan Viên lại bùng cháy
với sự hào sảng khi tố cáo tội ác của quân thù với lời kêu gọi: “Hãy giết sạch lũ hung
thần bóng tối”. Không chỉ có vậy, nhà thơ đã nhận thức sâu sắc hơn về vẻ đẹp của Tổ
quốc và sự gắn bó rất đỗi đằm thắm, tha thiết “như máu thịt”, như “mẹ cha ta” như
“vợ như chồng” của con người Việt Nam.
Càng yêu Tổ quốc, nhà thơ càng nhận thức sâu sắc bản chất của kẻ thù và
những nỗi đau mà dân tộc phải trải qua, càng làm bùng lên nỗi khát khao về một
cuộc sống yên bình hạnh phúc. Cái tôi trữ tình đã thực sự gắn bó máu thịt, nặng
nghĩa với lịch sử dân tộc, với cách mạng. Tính thời sự là một trong những đặc điểm
quan trọng của thơ Chế Lan Viên giai đoạn này. Nhà thơ khẳng định sự có mặt của
cách mạng đã làm thay đổi hiện thực, làm tỏa nắng cho tâm hồn một thời u ám của
mình:
“Những năm cách mạng chưa về
Vườn ta có hoa mà không đậu quả
Rặng liễu tâm hồn chưa xanh tơ mà đã úa vàng
Nhiều chim bằng chưa bay đã hóa cu nhà, chim sâu ăn đất
Chưa gặp trời đã gãy cánh giữa lồng nan.”
(Nghĩ về thơ) [69, 102]
Trong những năm kháng chiến ác liệt nhất của lịch sử dân tộc, Chế Lan Viên
luôn là con chim đầu đàn trong việc bám sát vào những vấn đề nóng bỏng nhất của
cuộc chiến. Và cũng từ mảnh đất hiện thực màu mỡ ấy, thơ Chế Lan Viên thực sự là
tiếng kèn xung trận trong mọi cuộc chiến. Nhà thơ nhận ra rằng, hiện thực luôn có
những vẻ đẹp tiềm ẩn, nếu nhà thơ không mở lòng đón nhận thì sẽ không bao giờ
hiểu được cuộc sống, bởi: “Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép”. Nếu không có
sự tìm tòi sáng tạo thì thơ sẽ không thể nói lên điều gì có ích:
23
“Cuộc sống đánh vào thơ trăm nghìn lớp sóng
Chớ ngồi trong phòng ăn bọt bể, anh ơi!
Tâm hồn anh là của đời một nửa
Một nửa kia lại cũng của đời”.
(Nghĩ về thơ) [70, 104]
Sức mạnh của thơ Chế Lan Viên giai đoạn này chính là ở những vấn đề mang
tính khái quát. Cái tôi sử thi thể hiện ngay trong những sự kiện lớn ấy. Từ cảm hứng
về Tổ quốc, về Cách mạng, nhà thơ đã nhìn sâu vào tâm hồn mình rồi nhìn xa ra đời
sống của quần chúng nhân dân và bạn bè thế giới.
Một chặng đường lịch sử khép lại với 30 năm chiến tranh ác liệt, cũng là khép
lại một giai đoạn cái tôi hào sảng và đầy tự hào về dân tộc của Chế Lan Viên. Sau
Cách mạng, hồn thơ Chế Lan Viên đã thực sự trở về với quần chúng nhân dân, với
đất nước. Đi từ siêu thực về hiện thực, đi từ cái tôi bế tắc trong đau khổ nhà thơ đã
hòa vào dàn đồng ca của cái tôi sử thi với giọng điệu chính luận đanh thép. Đây
cũng chính là đặc điểm quan trọng của thơ Chế Lan Viên thời kỳ này.
1.3. Những yếu tố tạo nên sự chuyển biến của cái tôi trữ tình trong thơ Chế
Lan Viên sau năm 1975
Cái tôi trữ tình với tư cách là một hiện tượng nghệ thuật, nó có sự hình thành,
phát triển, kết thúc hoặc chuyển hóa sang một dạng khác. Quá trình vận động ấy sẽ
khó hình dung một cách đầy đủ trong thơ của một số tác giả khi sự nghiệp thơ của
họ quá ngắn ngủi với một vài ấn phẩm. Nhưng với các tác giả có số lượng tác phẩm
nhiều, lại sáng tác qua các giai đoạn lịch sử và văn học có nhiều biến chuyển thì dấu
ấn của sự vận động lại càng rõ nét.
Sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật của Chế Lan Viên kéo dài hơn nửa thế kỷ qua ba
chặng đường lớn của dân tộc và văn học Việt Nam thế kỷ XX. Nghiên cứu, tìm hiểu
thơ Chế Lan Viên, ai cũng dễ dàng nhận thấy, thơ ông giữa giai đoạn trước với giai
đoạn sau đều có những bước tiến triển.
24
Có thể nêu lên đây những yếu tố tạo nên sự chuyển biến của cái tôi trữ tình
trong thơ Chế Lan Viên sau 1975:
1.3.1. Sự thay đổi về hoàn cảnh xã hội
Đây được xem là nguyên nhân khách quan. Giữa hoàn cảnh xã hội và tiến trình
văn học có mối quan hệ khăng khít, gắn bó chặt chẽ với nhau, cho nên, không phải
ngẫu nhiên mà trong các bài văn học sử về giai đoạn văn học này đều phải thông
qua bước tìm hiểu hoàn cảnh xã hội, văn hóa tư tưởng. Hoàn cảnh này có những tác
động nhất định đến cái tôi trữ tình. Bởi vì, cái tôi trữ tình bao giờ cũng là sản phẩm
của một thời đại. Nói đến hoàn cảnh xã hội còn là nói đến sự tiếp nhận của người
đọc. Trong sáng tạo nghệ thuật, không thể không chú ý đến đối tượng tiếp nhận. Có
một thực tế là nhà thơ đã tạo ra công chúng của mình nhưng công chúng cũng có
thể tạo ra nhà thơ của họ.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi, hòa bình được lặp lại, đất
nước ta hoàn toàn thống nhất về mặt lãnh thổ, cả nước bắt tay vào công cuộc xây
dựng xã hội chủ nghĩa với những nhiệm vụ quan trọng cho từng miền. Mặc dù khó
khăn còn nhiều, nhưng với sự quyết tâm không biết mệt mỏi của toàn Đảng, toàn
dân, đất nước ta dần lấy lại được cân bằng và bước đầu có những thành tựu đáng kể.
Thắng lợi đó đã thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân là xây dựng một đất nước
giàu mạnh, thống nhất, từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trải qua 10 năm thực hiện kế hoạch 5 năm lần 1 và lần 2 (1976 - 1980 và 1981
- 1985), Việt Nam đạt được những kết quả nhất định trên cả hai phương diện xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, song cũng gặp nhiều khó khăn. Đất nước lâm vào tình
trạng khủng hoảng trầm trọng về kinh tế - xã hội, do những sai lầm nghiêm trọng và
kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực
hiện. Để khắc phục sai lầm, khuyết điểm, đưa đất nước vượt qua khủng hoảng và
vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội, phải tiến hành công cuộc đổi mới. Những thay
đổi của tình hình thế giới và quan hệ giữa các nước do tác động của cuộc cách mạng
khoa học - kĩ thuật trở thành xu thế tất yếu. Trong thời điểm đó, đổi mới là yêu cầu
25
cấp bách, có ý nghĩa sống còn đối với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đồng thời là
vấn đề phù hợp với xu thế chung của thời đại.
Từ Đại hội VI (12/1986) trở đi, Đảng ta đã đề ra những quan điểm đổi mới,
nhưng không phải là thay đổi mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, mà làm cho mục tiêu
ấy được thực hiện có hiệu quả với những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp.
Đồng thời phải đổi mới toàn diện và đồng bộ, từ kinh tế và chính trị đến tổ chức, tư
tưởng, văn hoá. Đảng ta xác định xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
nhà nước của dân, do dân và vì dân; lấy liên minh công nhân, nông dân và tầng lớp
trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân, coi dân chủ vừa là mục tiêu vừa
là động lực của công cuộc đổi mới.
Từ những thay đổi quan trọng về tình hình kinh tế, xã hội và văn hóa xã hội đã
có những tác động tích cực đến nền văn học nói chung và thơ Chế Lan Viên nói
riêng. Sau năm 1986, văn học thực sự đổi mới cùng đất nước. Trong hai ngày, 06 và
07 tháng 10 năm 1987, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã có buổi nói chuyện với
gần 100 văn nghệ sĩ. Không khí dân chủ thực sự được mở rộng. Các nghệ sĩ được
nói lên tiếng nói của chính mình sau một thời gian dài nén chặt. Từ đó, rất nhiều
cuộc hội thảo, các cuộc tranh luận đã diễn ra nhằm xác định hướng đi mới cho nền
văn học hòa bình với nhiều vấn đề lý luận, như: Quan hệ giữa văn học và chính trị;
Vấn đề tự do sáng tác; Vấn đề phản ánh hiện thực; Đánh giá thành tựu văn học
thông qua các hiện tượng văn học…
Các thể loại văn học bắt đầu có những chuyển biến mạnh mẽ trên tinh thần đổi
mới của đất nước. Ký trở thành thể loại xung kích hàng đầu thể hiện những mặt tiêu
cực của đời sống. Cảm hứng phê phán những mặt trái của xã hội đã được bạn đọc
đón nhận. Truyện ngắn và tiểu thuyết cũng thể hiện chiều sâu của các vấn đề thời sự
nóng bỏng với các cây bút tiêu biểu: Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Nguyễn
Quang Lập, Đỗ Chu…Thơ ca cũng đã bắt đầu nói lên tiếng nói của số phận cá nhân
với những buồn vui thường nhật của cuộc sống.
26
Sau ngày đất nước thống nhất (1975), Chế Lan Viên cùng gia đình vào Sài Gòn
sinh sống và tiếp tục con đường sáng tạo nghệ thuật không biết mệt mỏi của mình.
Trong số các nhà thơ trưởng thành từ cách mạng thì Chế Lan Viên vẫn được coi là
người đi đầu trong quá trình đổi mới của văn học nói chung và thơ ca nói riêng.
Nghiên cứu thơ Chế Lan Viên từ sau năm 1975, ta cũng thấy rõ sự ảnh hưởng to lớn
của hoàn cảnh xã hội đối với sự hình thành và phát triển của cái tôi trữ tình trong thơ
ông. Thời kỳ sau 1975, cuộc sống và nghệ thuật trở lại với muôn mặt đời thường, thị
hiếu thẩm mỹ của người đọc thay đổi, người ta quan tâm nhiều đến những tác phẩm
phản ánh đời tư thế sự, đến đời sống cá nhân. Điều đó buộc nhà thơ thay đổi giọng
điệu, từ giọng “vang ngân” chuyển sang “giọng trầm” của cuộc sống thường nhật:
“Xưa tôi hát mà bây giờ tôi tập nói
Chỉ nói thôi mới nói hết được đời.”
(Sổ tay thơ) [72, 131]
Hay:
“Giọng cao bao nhiêu năm, giờ anh hát giọng trầm
Tiếng hát lẫn vào im lìm của đất”
(Giọng trầm) [77, 187]
Trong khoảng vài năm cuối đời (1986, 1987, 1988, 1989), Chế Lan Viên tăng
ngòi bút với số lượng tác phẩm không nhỏ. Điều đó chứng tỏ nhà thơ đã có một giai
đoạn đổi mới cùng đất nước và văn học. Những thay đổi về đời sống - xã hội cũng
đã tác động lớn đến ngòi bút Chế Lan Viên. Trong khung cảnh hòa bình, nhà thơ có
thêm nhiều điều kiện, cả về vật chất lẫn tinh thần và thời gian để sáng tạo nên
những vần thơ có ý nghĩa.
1.3.2. Sự thay đổi trong quan niệm thẩm mỹ về con người
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, con người được thể hiện khá đa dạng,
phong phú qua các sáng tác của các nghệ sĩ. Trước năm 1945, những nhân vật trong
tác phẩm được xây dựng với những khát vọng vươn lên thật chính đáng. Tuy nhiên,
sống trong bùn lầy của xã hội cũ, họ lại không có lý tưởng thật sự để phấn đấu và
27
vươn lên. Lúc này con người cá nhân còn chưa định hình được rõ nét. Chính vì vậy,
tâm thế cô đơn, vô vọng, buồn chán choáng ngợp trên nhiều trang sách.
Sau năm 1945, dân tộc giành được độc lập, văn học cũng được giải phóng.
Trong văn học đã xuất hiện kiểu con người mới, kiểu con người vừa thoát khỏi bùn
đen nô lệ để bước vào cuộc đời tự do. Họ là những người có ý thức, được giác ngộ
lý tưởng. Lúc đầu, những con người đó được văn học mô tả một cách đơn giản
nhưng đầy nhiệt tình cách mạng. Về sau nhờ được tôi luyện trong các cuộc kháng
chiến và cả trong xây dựng nên dần dần họ trở thành đối tượng thẩm mỹ quan trọng
của văn học.
Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954), con người mới được
văn học miêu tả trên bình diện số đông. Họ là con người quần chúng. Mặc dù đó là
những con người có tên, có tuổi nhưng người ta chỉ nhận ra họ trong tập thể. Trong
các tác phẩm giai đoạn này, nổi bật lên là nhân vật “đám đông” nên vai trò của con
người cá thể bị giới hạn.
Bước sang giai đoạn xây dựng xã hội chủ nghĩa trên miền Bắc và trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhân vật trung tâm của tác phẩm chính là con
người tập thể, con người của độc lập tự do. Những nhân vật điển hình của văn học
thời kỳ mới đã bắt đầu xuất hiện. Họ là những con người có xương có thịt, có tính
cách rõ ràng. Trong thời kỳ chiến tranh, văn học chỉ quan tâm đến vận mệnh của cả
dân tộc nên con người Việt Nam đã đoàn kết lại thành một khối vững mạnh để
đương đầu với mọi thách thức, có lúc tưởng như không thể vượt qua được. Người
cầm bút lúc này có nghĩa vụ tham gia vào cuộc đấu tranh lớn lao đó của cả dân tộc.
Nhà văn cũng là người chiến sĩ đã làm trọn sứ mạng lịch sử đã giao phó.
Sau ngày đất nước thống nhất, mặc dù hiện thực đã có sự thay đổi nhất định
nhưng con tàu văn học vẫn chưa thoát khỏi quán tính cũ. Văn học đã bắt đầu rũ bỏ
bộ áo khoác cũ nhưng chưa bắt nhịp được với cuộc sống mới. Nhà văn Nguyên
Ngọc gọi đây là khoảng chân không của văn học. Các tác phẩm văn học chủ yếu
vẫn được viết theo khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn và vẫn viết về
những vấn đề lớn của dân tộc. Cảm hứng chính trong thơ ca là ngợi ca những năm
28
tháng hào hùng đã qua. Các nhân vật được các nhà văn xây dựng vẫn thường là đại
diện cho cộng đồng.
Vào đầu những năm 80 của thế kỷ XX, văn học ta bắt đầu xuất hiện những dấu
hiệu đổi mới và đổi mới mạnh mẽ từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986). Cuộc đổi
mới đó đã tạo đà bứt phá cho nhiều nhà văn. Trong không khí dân chủ hoá, văn học
đã gặt hái được nhiều thành tựu nổi bật ở lực lượng sáng tác, ở sự phong phú của đề
tài, ở sự đa phong cách và phương thức thể hiện...Tất cả đã làm cho văn học sự gần
gũi với đời sống hàng ngày của con người thời bình với bao trăn trở, lo toan. Văn
học thế sự - đời tư chiếm ưu thế. Dòng văn học này đặc biệt quan tâm đến con
người. Nếu như trước đây, văn học đã phải tạm gác lại những gì là riêng tư của từng
cá nhân con người thì ngày nay những vấn đề đó lại mang tính thời sự hơn bao giờ
hết. Văn học đã cất cao tiếng nói phục vụ con người và cuộc sống.
Chế Lan Viên là nhà thơ của thời Thơ Mới đi theo cách mạng với những sáng
tác chủ yếu trong kháng chiến. Sau chiến tranh, ông cũng đã nỗ lực hết mình để đi
tìm những biểu hiện mới trong cuộc sống thời bình. Và những bài thơ được sáng tác
sau năm 1975, đặc biệt là trong giai đoạn đổi mới với ba tập Di cảo thơ là thành quả
của quá trình tìm tòi không biết mệt mỏi đó. Đây được xem là một di sản quý mà
nhà thơ đã để lại cho đời. Một trong những vấn đề được giới nghiên cứu và bạn đọc
quan tâm đó chính là tư tưởng về tính phức tạp của con người. Chế Lan Viên nhận
ra rằng, con người ở mỗi giai đoạn lịch sử mang một sứ mệnh khác nhau. Nếu như
trước 1975, mà chủ yếu là trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ con người được
miêu tả còn đơn giản hoặc là con người hoà vào cái ta chung thì trong thời kỳ đổi
mới, quan niệm về con người của Chế Lan Viên đã đổi khác. Con người trở thành
những cá nhân cụ thể. Họ là một kho tàng bí mật không dễ gì khám phá. Con người
với tất cả cảm xúc từ niềm vui - nỗi buồn, cái thiện - cái ác, cái cao cả - cái thấp
hèn, tin tưởng - hoài nghi, hy vọng - thất vọng..., có niềm vui, cô đơn lạnh lẽo, có
những chiêm nghiệm về cuộc đời, có suy nghĩ về sự sống và cái chết đều được nhà
thơ thể hiện một cách sắc sảo trong thơ sau 1975.
Nhận thức tư tưởng về tính phức tạp của con người qua từng thời kỳ và đặc biệt
là trong những năm đổi mới của văn học đã cho ta thấy sự thay đổi trong tư tưởng
29
nhận thức của Chế Lan Viên. Cách mạng tháng Tám thành công đã đem đến cho
Chế Lan Viên nguồn cảm hứng vô tận. Chế Lan Viên luôn là người con trung thành
nhất của Đảng và Cách mạng. Con người hiện hữu trong thơ ông là sự thống nhất
giữa ý chí và hành động. Trên phương diện tư tưởng, người đọc dễ nhận thấy Chế
Lan Viên luôn trung thành với sự nghiệp của cách mạng, luôn “suy nghĩ trong
những điều Đảng nghĩ” và luôn “bay theo đường dân tộc đang bay”. Thơ Chế Lan
Viên xứng đáng là ngọn cờ đầu trong cuộc chiến đấu trên mặt trận tư tưởng. Trước
hiện thực đời sống chiến tranh đầy biến động, nhà thơ như hoà mình vào nỗi đau
nhưng rất hào hùng của dân tộc.
Ở vào thời điểm cuộc chiến tranh chống Mỹ ác liệt nhất, Chế Lan Viên là nhà
thơ đi đầu trong đoàn quân tình nguyện đứng trong hàng ngũ người lính trực diện
đối mặt với quân thù. Nhà thơ nhận thức rõ được vị trí của mình giữa lòng dân tộc:
“Cho tôi sinh giữa những ngày diệt Mỹ,
Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến luỹ
Bên những dũng sĩ đuổi xe tăng ngoài đồng và hạ trực thăng rơi.”
(Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng) [69, 100]
Con người công dân thể hiện rõ nét trong hoàn cảnh cả nước đang sôi sục khí
thế đánh thắng trận đầu, sẵn sàng chiến đấu với quân thù trong những cuộc đọ sức
tiếp theo. Bầu máu nóng ấy đã đi suốt chiều dài của cuộc kháng chiến lần hai của
dân tộc mà không chút băn khoăn.
Trong những năm ác liệt nhất của cuộc chiến tranh, con người hiện lên rất rõ
ràng, thẳng băng trong suy nghĩ và trong hành động. Chế Lan Viên cũng không phải
là một ngoại lệ. Ông dành trọn vẹn tình yêu cho quê hương, đất nước, với gia đình,
bạn bè và hết lòng cổ vũ cho cuộc chiến. Chính vì vậy, thay mặt cho lớp lớp người
dân Việt Nam, Chế Lan Viên đã chạm vào “huyệt thần kinh nhạy bén nhất”, thiêng
liêng nhất của con người, chính là tình yêu Tổ quốc:
“Ôi Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt,
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
30
Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi con sông...”
(Sao chiến thắng) [70, 78]
Những năm tháng chiến tranh ác liệt đã khép lại, chân trời của độc lập - tự do
được mở ra. Con người được sống với ý nghĩa đích thực khi bắt tay vào xây dựng
cuộc đời mới với niềm hy vọng và khát khao một cuộc sống tươi đẹp. Đảng Cộng
sản Việt Nam với vai trò lãnh đạo sáng suốt không chỉ trong những năm tháng chiến
tranh, mà ngay cả trong thời bình cũng thể hiện rõ vai trò của mình với quyết định
đưa đất nước ta vào công cuộc Đổi mới toàn diện (1986).
Cùng với sự đổi mới của đất nước, quan niệm về con người của Chế Lan Viên
cũng thay đổi. Vào đầu những năm 80, Chế Lan Viên từng có ý định: “Vực sự sống
ba chiều - lên trang thơ hai mặt phẳng”. Và đến năm 1988, là năm nhà thơ đang
phải chống chọi lại bệnh tật, ông lại viết:
“Anh là tháp Bay - On bốn mặt
Giấu đi ba, còn lại đấy là anh
Chỉ mặt đó mà nghìn trò cười khóc
Làm đau ba mặt kia trong cõi ẩn hình”
(Tháp Bay - On bốn mặt) [77, 81]
Chính những câu thơ đó đã khơi nguồn cho một quan niệm mới về con người
của Chế Lan Viên. Bạn đọc đã có người không khỏi băn khoăn: “Chế Lan Viên té ra
là người hai mặt trong thơ, rằng trước đây, ông đã có cơ hội che đi, giấu đi bộ mặt thật
của mình. Quả thật, người đọc có quyền hiểu như thế. Nhưng sự thật đâu chỉ có thế.
Xét về ý nghĩa triết học, mỗi con người là cả một vũ trụ đầy bí ẩn với muôn mặt khác
nhau được giấu bên trong” [37, 68]. Quả đúng như vậy, con người giờ đây không
phải là con người tập thể như thời chiến tranh nữa, mà nó là một “tiểu vũ trụ” với
rất nhiều chiều phức tạp. Trong đó, con người chứa đựng nhiều mâu thuẫn nhưng
vẫn trong một chỉnh thể thống nhất. Chế Lan Viên cũng không phải là con người “hai
mặt”, mà những gì trước đây và bây giờ ông nghĩ và hành động vẫn luôn thống nhất
31
trong một con người. Có chăng là sự thể hiện khác nhau sao cho phù hợp với hiện thực
mà thôi. Trước đây, vì yêu cầu của lịch sử, giữa cái chung và cái riêng, nhà thơ đã chọn
cái chung để cao giọng cổ vũ chiến đấu. Chế Lan Viên đã từng nhận ra rằng: “Khi
riêng tây, ta thấy mình xấu hổ / Khi nhìn đời, mỗi lá mỗi tơ non” (Người thay đổi
đời tôi - Người thay đổi thơ tôi) [70, 37].
Con người trong chiến tranh phải dẹp đi mọi riêng tư để tập trung vào nhiệm vụ
lớn. Nhưng bước sang thời kỳ đổi mới, những con người năm xưa ấy lại nhận nhiệm
vụ mới không kém phần quan trọng, đó là đấu tranh với cái đói, cái nghèo, cái lạc
hậu...Điều đó càng làm cho con người bộc lộ rõ những sự phức tạp trong tư tưởng.
Chế Lan Viên nhận ra:
“Chúng ta ở trên đời không phải để ra lộc ra hoa
mà còn để mang thương tích
Cũng không phải chỉ nỗi đau cao sang mà
là hủi cùi ghẻ lở đục hình hài.
...Ở đời không hài thì cũng phải chơi bi kịch
Màn mở, trống rung rồi, anh phải đội mũ mang hia lên,
Mang số phận vào người”.
(Nhiệm vụ) [79, 42]
Bài thơ đã thể hiện và khẳng định ý nghĩa của cái riêng trong mỗi cá nhân trước
cái chung đó. Đây là bước chuyển hoàn toàn biện chứng trong nhận thức về con
người cùng tính phức tạp của nó trong thơ Chế Lan Viên sau 1975. Trước đây, văn
học nhận diện “con người quần chúng, con người tập thể, con người chính trị và
dân tộc” (Trần Đình Sử) thì sau 1975, nhất là khi bước vào công cuộc đổi mới, con
người thế sự - đời tư hiện diện trên từng trang thơ của Chế Lan Viên.
Như vậy, trong suốt hành trình sáng tạo thơ của mình, Chế Lan Viên luôn có
những tìm tòi, khám phá mới mẻ để tìm về cội nguồn bản thể người. Cả một hành
trình dài hơn năm mươi năm sáng tạo nghệ thuật, thực chất thơ Chế Lan Viên chỉ
32
xoay quanh hai câu hỏi: Ta là ai và Ta vì ai? Thuở Điêu tàn, Chế Lan Viên băn
khoăn đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: Ta là ai? Trong những năm kháng chiến, nhà
thơ đã phấn đấu không biết mệt mỏi cho câu hỏi “Ta vì ai?” Đến cuối đời, trong Di
cảo thơ, Chế Lan Viên lại quay trở về với câu hỏi: Ta là ai? Từ Điêu tàn đến Di
cảo thơ, những câu hỏi ấy như một vòng tròn khép kín của bản thể người. Như một
nỗi ám ảnh vô hình, Chế Lan Viên luôn nỗ lực hết mình nhằm tìm ra câu trả lời
thích đáng nhất.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Những vấn đề đã nêu ở chương 1 có ý nghĩa định hướng cho những vấn đề lý
thuyết liên quan đến đề tài. Thơ trữ tình mà hạt nhân là cái tôi trữ tình luôn được
các nhà thơ quan tâm thể hiện. Cái tôi trữ tình trong thơ với những đặc trưng cơ bản
là yếu tố quan trọng để người đọc nhận diện phong cách nghệ thuật của một tác giả
cụ thể, thậm chí là cả một nền thơ.
Cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên luôn có sự vận động theo thời gian. Sau
năm 1975, những thay đổi về đời sống xã hội đã kéo theo những chuyển động trong
ý thức nghề nghiệp cũng như quan niệm thẩm mỹ về con người. Hành trình thơ Chế
Lan Viên luôn song hành cùng thời đại nên mọi sự kiện trọng đại của lịch sử dân
tộc đều được phản ánh một cách chân thực và sống động. Thơ Chế Lan Viên sau
năm 1975, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới luôn thể hiện sự trăn trở của một hồn
thơ lớn trước những thay đổi của cuộc sống.
33
Chương 2. ĐẶC ĐIỂM CÁI TÔI TRỮ TÌNH
TRONG THƠ CHẾ LAN VIÊN SAU 1975
2.1. Cái tôi thế sự, đời tư
2.1.1. Những băn khoăn, chiêm nghiệm về các vấn đề vĩnh cửu của cuộc sống
Nếu như văn học Việt Nam trong giai đoạn kháng chiến trải qua quá trình nhận
thức và thể hiện con người quần chúng, con người tập thể, con người chính trị và
dân tộc, thì sau năm 1975, con người thế sự - đời tư đã hiện lên với dáng vẻ phong
phú, sinh động và phức tạp. Trở về với những âu lo trong đời sống thường nhật là xu
hướng được các nhà thơ quan tâm thể hiện. Số phận của cá nhân, những bất cập trong
xã hội, nỗi lo toan đời thường, sự nghiệt ngã của chiến tranh thời hậu chiến…là
những mảng đề tài lớn trong văn học giai đoạn này. Cảm nhận và thể hiện hiện thực
một cách thẳng thắn, trung thực là một đặc điểm quan trọng trong thơ Chế Lan Viên
sau năm 1975. Nhìn cuộc đời bằng cái nhìn tỉnh táo, và nói lên tiếng nói của cá nhân,
nhà thơ đã chỉ ra những khó khăn của cuộc sống thường nhật và bày tỏ sự phê phán
những mặt trái của xã hội. Cùng với đó, những nhu cầu chính đáng của con người
cũng như sự đa dạng, muôn hình muôn vẻ của cuộc sống lần đầu tiên được biểu hiện
trong thơ của Chế Lan Viên sau 1975.
Ngay từ tập thơ Hái theo mùa (1977), Chế Lan Viên đã bộc lộ những suy
ngẫm, những điều trăn trở về đời. Nhưng phải đến tập Hoa trên đá (1984), những
suy tư ấy mới thật sự bùng nổ. Tập thơ đã phản ánh được quá trình vận động từ văn
học sử thi sang văn học thế sự - đời tư xuất hiện vào đầu thập kỷ 80 và trở nên
mạnh mẽ từ sau Đại hội VI của Đảng. “Những nhu cầu xã hội và cá nhân dần dần
trở thành trung tâm của tiếng nói trữ tình”, nhà thơ “bắt đầu bộc lộ những trăn trở
nhận thức về trách nhiệm của người cầm bút trước nhiều vấn đề nhân thế mà trước
đây thơ còn ít quan tâm” [5, 225]. Cái mới của tập Hoa trên đá chính là ở chỗ nhà
thơ đã gửi gắm, đã “bộc lộ tâm tình và triết luận về các vấn đề muôn thuở của nhân
sinh”. Những “suy tư, chiêm nghiệm làm cho giọng thơ ông trầm xuống phảng phất
một nỗi quan hoài…” [5, 226]. Nhà thơ bắt đầu suy tư về thời gian đời người, về
công việc của mình:
34
“Chiều rồi!
Chim gọi anh về thôi!...
Hãy thu đội hình thi tứ lại
Lùa nghìn câu tản mát của anh vào trang giấy
Bài thơ một đời của anh đâu? Khất mãi
Viết nhanh lên! Nắng hết, chiều rồi”
(Thơ bình phương - Đời lập phương) [75, 80]
Là một trong những nhà thơ tiên phong của nền thơ cách mạng, đã từng trải qua
những giây phút hào hùng nhất của lịch sử dân tộc, Chế Lan Viên có một thời cống
hiến hết mình cho mục tiêu chung của thời đại. Thế nhưng, khi đất nước đã hòa
bình, dân tộc Việt Nam bước vào thời kỳ xây dựng cuộc sống mới, đặc biệt là từ
năm 1986 trở đi, khi Đảng và nhà nước đưa ra những chính sách đổi mới toàn diện,
Chế Lan Viên không khỏi hụt hẫng bởi sự thay đổi quá nhanh của cuộc sống: “Thế
kỷ 20. Nôn mửa thành cổ điển / Và phá phách vào Hàn lâm viện / Họ chia ra buồn
tiền chiến và say hậu chiến / Biến chén rượu hạt mít và cái ao nhà thành ra biển /
Dựng cặp đùi lên thành Khải hoàn môn / Giết hết hoa sen để vạn tuế buồn / Họ lao
trượt ái tình như trẻ con chơi cầu trượt…/ Đồ vật là chúa tể mà / Nhân loại sắp
hoàng hôn” (Mô - đéc) [78, 120].
Nền kinh tế thị trường đã đem lại cho cuộc sống nhiều khởi sắc, nhưng mặt
khác, những lo toan đời thường cũng khiến con người dường dần quên đi những giá trị
nhân văn. Cuộc sống mới với những khó khăn, thiếu thốn đã chi phối không ít đến tư
tưởng nhà thơ:
“Đêm ngủ chỉ toàn lo vật giá
Xa dần truyện ngắn, bớt dần thơ”.
(Cảnh điền viên) [78, 42]
35
Nỗi vất vả của cuộc sống được Chế Lan Viên phản ánh một cách chân thực qua
câu chuyện nhà thơ bị phạt tiền điện, không có tiền trả phải bán đi bảy tấm ván bạn cho
định làm trần nhà. Nghĩ mà thương cho mình:
“Phạt bảy nghìn tiền điện
Lấy gì trả bây giờ?
Bán đi bảy tấm ván
Bạn cho làm trần nhà
Cảm thông nhà thơ nghèo
Nửa cho và nửa bán,
Sợ nhà lợp mái tôn
Chạy trời không khỏi nắng.”
(Nhà không trần) [77, 69]
Những khó khăn trong cuộc sống cũng được nhà thơ nói đến trong những bài thơ
viết về tình cảm chị em rất chân thành, hết mực yêu thương nhau. Sau bao năm xa
cách, chị từ Đồng Nai về thăm em mà cũng chỉ dám ở lại chốc lát vì sợ nhà em nghèo,
không có gì tiếp đón chị thì ngại ngùng, áy náy:
“Mệt nhọc
Chị ở Đồng Nai về thăm em phút chốc
Rồi lại đi liền
Ở lâu chị sợ em phiền…”
(Chị Ba) [77, 142]
“Sức hút của cái nheo nhóc hàng ngày” đã khiến ông phải thốt lên đau đớn “Làm
sao anh thoát ly được nó?”. Những giá trị, chuẩn mực cũ tưởng chừng đã ổn định cũng
bị thay đổi:
“Chả còn ai yêu vầng trăng và hương lúa ngoài đồng
Yêu bà Tiên hay đám mây trên lầu Hoàng Hạc
36
Giờ là thế giới của xe cúp, ti-vi, phim màu, ngũ sắc
Của quyền lực, tuổi tên, đốp chát…
Vị trí nhà thơ như rác đổ thùng
Chả ai nhớ bà mẹ cắm chông bạc tóc
Nhớ một cô gái chèo đò vượt lửa qua sông.”
(Thời thượng) [77, 205]
Khoảng cách giữa con người với con người giãn dần, thay vào đó là sự giả tạo
trong các mối quan hệ. Có những người chỉ biết dùng lời lẽ đầu môi chót lưỡi mà
không thực tâm ghi nhớ ơn huệ của người khác:
“Để khỏi nhớ ơn, người ta bày ra chữ cảm ơn
Cảm ơn một lần, hai lần thôi thế là rảnh nợ.”
(Cảm ơn) [79, 129]
Trong thời hậu chiến, những nỗi lo toan của cuộc sống hiện hữu, chúng ta
dường như quên đi những người đã hy sinh cả tuổi thanh xuân của mình vì sự
nghiệp chung. Người lính trên chiến trường xưa không tiếc xương máu là vậy,
nhưng khi trở về giữa đời thường họ lại chưa được đền đáp xứng đáng. Chế Lan
Viên không khỏi day dứt bởi nỗi lo cơm, áo, gạo, tiền đang xiết chặt đôi tay người
lính, trong khi mình và những người khác còn bận dạ hội, liên hoan, tình ca, hội
thảo…mà: “Quên rằng chiến thắng đã mười năm / Anh ta vẫn khổ / Con vào trường
không có chỗ / Đến bệnh viện không tiền / Ra đường không ai nhớ / Về làng người
ta quên” (Một người thường) [78, 174]. Có khi con người sống thờ ơ, “vô can”
trước sự hy sinh của những người lính năm xưa. Thế nhưng, trái lại giữa bộn bề lo
toan ấy, vẫn có những con người bình thường dành tấm lòng chân thành và trách
nhiệm cho người đã khuất:
“Người nông dân ấy đã bốc mộ cho hàng trăm thương binh
Xác anh em và xác con mình
Anh xếp trên giường nhà anh như họ còn nằm ngủ (…)
Có khi bản thân anh cũng muốn giữa cuộc đời chật vật.”
(Một người thường) [78, 173]
37
Nhìn thẳng vào bi kịch cá nhân cụ thể bằng lý trí và bằng cả trái tim, phải
chăng Chế Lan Viên muốn gióng lên hồi chuông thức tỉnh lương tri của con người
trong xã hội đầy bon chen, phức tạp. Với cái nhìn nhân bản, nhà thơ đã thể hiện nỗi
đau của con người trước sự thay đổi quá nhanh của các chuẩn mực trong xã hội. Đất
nước đã hòa bình, nhưng những khó khăn còn đeo bám lấy con người, những bất
công luôn hiện hữu giữa cuộc đời. Con người dần bị hút vào những danh vọng tầm
thường, những giá trị vật chất làm cho nhân loại sống vô cảm với nhau hơn. Tình
cảm con người được cân đong đo đếm bằng đồng tiền. Đó chính là bi kịch của số
phận cá nhân.
Khi trở về với cuộc sống thường nhật, Chế Lan Viên cũng quan tâm đến vấn đề
sự sống và cái chết. Trong chiến tranh, cái chết là sự hy sinh vinh quang cho những
ai dám sẵn sàng hiến dâng xương máu của mình cho sự trường tồn của dân tộc. Cái
chết đó thật đáng ca ngợi, biểu dương:
“Ôi Tổ quốc, nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông…”
(Sao chiến thắng) [70, 78]
Sự hy sinh đó không phải là vô nghĩa, mặc dù đã trở thành cát bụi, hư vô nhưng
chính nó lại gieo mầm cho sự sống ngày mai được nảy nở, sinh sôi. Chế Lan Viên
một lần nữa đã biến cái chết ấy thành vũ khí tiếp tục tấn công, hạ gục kẻ thù:
“Người ngã xuống tựa máu mình đứng dậy
Người sống khiêng người chết để xung phong
Người chết cũng thành vũ khí tấn công.”
(Ở đâu, ở đâu, ở đất anh hùng) [70, 61]
Trong thơ Chế Lan Viên sau 1975, ta nhận thấy con người đời tư của ông được
giãi bày khá sâu sắc, tinh tế. Nhà thơ quan niệm đời người là hữu hạn, cuộc đời là
vô hạn, con người phải tuân theo quy luật đó, dù biết là nghiệt ngã. Nhà thơ nghĩ
đến cái chết một cách nhẹ nhàng không chút sợ hãi. Ông nói đến cái chết bằng
những hình ảnh thực như “ròi bọ”, “thối rữa”, và bằng cả những hình ảnh biểu
38
tượng, biểu trưng “xứ trắng đen”, “bến Lú, sông Mê”, “vùng quên…”. Những hình
ảnh ấy đã diễn tả rất đúng tâm trạng vừa tò mò, nghi hoặc, vừa chống chếnh của
một con người sắp đi xa. Điều đáng quý, đáng trân trọng ở Chế Lan Viên là nói về
cái chết nhưng vẫn có cái nhìn lạc quan về thế giới khác “cũng đầy hoa”:
“Anh không ở lại không yêu hoa mãi được
Thiêu xong, anh về trời khác cũng đầy hoa
Chỉ tiếc không có tình yêu ở đó”.
(Từ thế chi ca) [77, 222]
Nhà thơ đón nhận cái chết một cách điềm tĩnh đến lạ lùng. Không sợ hãi cái
chết (dù là để an ủi người ở lại), nhưng có một điều Chế Lan Viên băn khoăn là thái
độ của người ở lại đối với mình ra sao? Có lúc nhà thơ nghĩ:
“Những kẻ nguyền rủa anh sẽ buồn
Chả còn anh cho họ giết
Dao sẵn rồi, họ không dễ để yên”
(Từ thế chi ca) [77, 222]
Nghĩ vậy có phần bi quan, tiêu cực nhưng rồi ông lại tự an tủi mình: Trong
cuộc đời này, có kẻ ghét thì cũng còn có nhiều người thương ông, yêu ông một cách
chân thành. Nhà thơ hy vọng:
“Những bạn bè yêu anh sẽ gặp anh trong cỏ
Trong hạt sương, trong đá…
Trong những gì không phải anh…”
(Từ thế chi ca) [77, 222]
Có lẽ chỉ những ai đã từng trải qua những giây phút sắp rời xa thế gian mới
hiểu hết được tâm trạng của nhà thơ. Cái băn khoăn, trăn trở về cuộc sống, về con
người luôn thôi thúc nhà thơ dự liệu về sự ra đi của mình. Hơn lúc nào hết, lòng
ham sống trỗi dậy mạnh mẽ, nhưng Chế Lan Viên vẫn đủ tỉnh táo để nhận ra, quy
39
luật của cuộc đời là không thể khác. Có điều chúng ta đón nhận nó như thế nào? Và
nhà thơ đã đúng đắn khi xác định:
“Khi anh gần chạng vạng
Thì có người bình minh
Đừng lấy hoàng hôn anh ngăn cản
Ban mai của họ sinh thành”.
(Đừng ngăn cản) [77, 228]
Trên sợi dây mong manh giữa cuộc đời, giữa sự sống và cái chết, chúng ta
nhận thấy ở Chế Lan Viên một sự chiêm nghiệm, những triết lý suy tư chân thành.
Cái tôi của nhà thơ hơn lúc nào hết đã bộc lộ hết mình trên trang giấy. Khi trở về
với cuộc sống hòa bình, những lo toan thường nhật đã giúp nhà thơ nhận diện mình
rõ hơn. Để từ đó ông có những định hướng đúng đắn cho mình trong những năm
tháng còn lại của cuộc đời.
2.1.2. Cái tôi đấu tranh không biết mệt mỏi với thời gian
Từ điển Thuật ngữ Văn học đã quan niệm: “Thời gian nghệ thuật là một trong
những phạm trù quan trọng nhất của thi pháp học bởi vì nó thể hiện thực chất sáng
tạo nghệ thuật của nghệ sĩ. Nghệ sĩ có thể chọn điểm bắt đầu và kết thúc, có thể
nhanh hay chậm, có thể xuôi hay đảo ngược, có thể chọn điểm nhìn từ quá khứ,
hiện tại, tương lai; có thể chọn độ dài một khoảnh khắc hay nhiều thế hệ, nhiều
cuộc đời” [26, 63]. Đây là một quan niệm tương đối rộng rãi, mà thơ Chế Lan Viên
sau năm 1975 lại vô cùng đồ sộ, nên việc nhận định thời gian nghệ thuật trong thơ
Chế Lan Viên là một việc làm cần có nhiều công sức. Tuy nhiên, ở đây chúng tôi
chỉ đề cập đến một mảng thời gian xuất hiện nhiều nhất trong thơ ông sau 1975, đó
là thời gian đời tư. Để từ đó thấy được những nỗ lực không biết mệt mỏi của nhà
thơ trong những năm tháng cuối đời.
Chế Lan Viên là nhà thơ yêu đời sâu đậm, tha thiết. Nhất là khi phải đối mặt
với căn bệnh hiểm nghèo thì nỗi khao khát được sống, được cống hiến hết mình cho
nghệ thuật lại càng bùng cháy mạnh mẽ. Ông cho rằng cái nghiệp văn chương
40
thường cay nghiệt, trắc trở hơn là xuôi gió thuận buồm. Chế Lan Viên đã phải đấu
tranh hết mình với những lo toan của cuộc sống vật chất hàng ngày, phải đấu tranh
với bệnh tật, tuổi già…để khẳng định quyền sống cho mình và cho thơ ca. Nhà thơ
đã sống một cách có ý nghĩa nhất trên cuộc đời này. Đúng như tên một bài thơ trong
tập Đối thoại mới là Thời gian và nỗ lực, nhà thơ đếm thời gian không phải để
buông xuôi mà để nỗ lực, để cống hiến. Sự nỗ lực đó được đền đáp bằng tập thơ
Hoa trên đá (1984), tập thơ đầu tiên khẳng định sự chuyển mình mạnh mẽ của ngòi
bút Chế Lan Viên sau năm 1975. Ngay trong bài thơ đầu tiên, nhà thơ đã khẳng
định ý chí ấy:
“Đời ngoài tuổi năm mươi
Mong gì hương sắc lạ
Mọc chùm hoa trên đá
Mùa xuân đâu chịu lùi”
(Đề từ) [75, 5]
Suy tư về tuổi tác, suy tư về nghiệp cầm bút của một kiếp người, nhà thơ cất lên
tiếng nói đầy khắc khoải: “Chiều rồi! Gọi chim anh về thôi!...Viết nhanh lên! Nắng
hết, chiều rồi”. Nhà thơ cảm nhận được thời gian đang gấp rút và sức khỏe thì suy
tàn. Có lúc ông thấy mình bất lực trước cuộc đời, trước sự nghiệt ngã của tạo hóa:
“Nửa đời thơ, anh mới chợt hiểu rằng
Lâu nay có nửa phần nhân loại sống giữa màu tuyết trắng
Cái phần nhân loại trong anh cay đắng
Thấy mình xa nhân loại ở bên ngoài”.
(Thơ bình phương - Đời lập phương) [75, 85]
Càng về cuối chuyến tàu cuộc đời, Chế Lan Viên càng cảm nhận được sự quý
giá của thời gian. Nhà thơ nhẩm tính: “Đời tuổi bốn, năm mươi”, “Đời vào tuổi năm
mươi”, “Đời ngoài tuổi năm mươi…” để thấy được cái hữu hạn của kiếp người. Sự
41
thúc bách của thời gian càng làm cho ông cảm nhận được ngày phải ra đi đang đến
gần. Nhất là khi căn bệnh hiểm nghèo đang hoành hành tàn phá cơ thể nhà thơ.
Nói đến tuổi già, nhà thơ Vương Trọng đã nói hộ tâm trạng của tất cả mọi
người khi bước vào tuổi xế chiều: “Dù chưa “cổ lai hy” / Sáu mươi là lên lão /
Chưa rờ rẫm bước đi / Thì cốt xương đã rão / Da mồi là có thật / Tóc đen chỉ giả vờ
/ Ngán thời trang, nhảy nhót / Thích nói chuyện ngày xưa / Ra đường ngại xe cộ /
Về đọc báo một mình / Gặp tin buồn, cáo phó / Để tâm vào năm sinh / Những điều
từng khắc sâu / Nay vùng quên lẫn nhớ / Kỷ niệm là chiêm bao / Thường chập chờn
thức, ngủ”. Chế Lan Viên khi mới ngoài năm mươi tuổi đã nhận ra sự ráo riết của
thời gian đang đuổi sau lưng. Thực ra lúc này nhà thơ đã bị bệnh. Ông thường
xuyên nhức đầu nhưng chỉ nghĩ do làm việc trí óc căng thẳng, không ngờ căn bệnh
đã âm ỉ trong ông:
“Anh như ông vua Thục
Bị đuổi bởi thời gian
Trước mắt là bể lớn
Sau lưng đất không còn
Viết nhanh lên cho kịp
Lũ sắp ập về kia
Đạp tháng ngày mà viết
Còn ậm ừ nỗi chi.”
(Đề từ) [75, 6]
Biết được sự khốc liệt của thời gian, nhưng Chế Lan Viên không hề hoảng sợ
mà đón nhận nó một cách điềm tĩnh và chủ động: “Anh như gõ kiến / Gõ vào thời
gian /Gõ vào số phận / Gõ vào thần kinh / Gõ vào vỏ não / Gõ vào ân tình / Gõ vào
trang giấy / Vào cái cây thơ gầy guộc” (Hóa) [78, 186].
Nhà thơ cũng chủ động đếm từng giọt thời gian: “Còn hai năm, ba năm, thậm
chí vài chục ngày, có kịp cho anh không?”, bởi sắp đến ngày “Chuẩn bị gấp ngày
42
anh thành dòi bọ / Chôn trong mồ rậm cỏ / Cũng nên dầm trong hố sâu” (Chuẩn bị
đi) [78, 193]. Chế Lan Viên còn biết bao điều dang dở chưa hoàn thành. Liệu ngần
ấy thời gian có kịp cho anh làm nốt các công việc xã hội hay không? Nhà thơ ý thức
được không phải từng giờ mà từng phút, từng giây cái “buổi mai chót, hay buổi
chiều chót hay đêm khuya chót đời anh sắp “tuột” khỏi tay anh tất cả”. Là người
sống có trách nhiệm với đời nên ông không cho phép bản thân ngừng nghỉ. Song có
điều, lao động nghệ thuật vốn tuân theo những quy luật riêng, phải làm việc một
cách công tâm và bằng hết khả năng của mình:
“Anh hì hục dậy trước gà và ngủ sau ánh lửa đèn
cạn dầu cháy bấc đêm đêm
Vô ích thôi, uổng công anh đi kiếm đi tìm
Dù anh có để lại gì cho đời sau
Thì đời sau đọc của đời sau chứ cần gì anh đấy.”
(Uổng công) [78, 133]
Đây là cái khó chung đối với những người nghệ sĩ. Với Chế Lan Viên trong
những năm cuối đời, khó khăn, thử thách ấy lại càng nhiều hơn người khác. Nhà thơ
bị ám ảnh bởi sự hủy diệt, cái chết của những người xung quanh: “Sống chết, sống
chết…/ Hai từ ấy như thoi reo, lục diệt” (Gió lật lá sen hồ) [77, 204].
Chế Lan Viên ý thức và hiểu rất rõ từng giai đoạn cuộc đời mình. Tuổi già của
con người là quy luật bất biến của thời gian. Biết mình đã bước vào “hoàng hôn của
tuổi” (Sương móc) [77, 88], nhà thơ chấp nhận “Cái tuổi già ngăn nó thế nào đây?”
(Lại lá bàng) [78, 5]. Con sông thời gian vốn lặng yên mà tất bật. Nó trôi đi từng
giây từng phút ngay chính lúc con người định hình, suy nghĩ. Tuổi già đến có nghĩa
là ông đã đi gần hết con đường đời.
Trong Di cảo thơ, chúng ta nhận thấy thơ Chế Lan Viên chịu sự ám ảnh trước
sự hủy diệt của thời gian, bệnh tật và cái chết. Sự đối lập giữa cái hữu hạn của đời
người với sự vô hạn của thời gian trở thành một vấn đề thường trực và nổi bật trong
thơ ông giai đoạn cuối đời. Nhà thơ biết rõ “Thời gian không thể hóa dòng sông
43
chảy ngược” (Một thời) [78, 141], cho nên “Trên con đường hun hút về vô tận”, ông
đã không hề xa lánh cuộc đời mà luôn cảm nhận sự gắn bó thiết tha sâu đậm với
cuộc sống. Ông xác định rõ: “Đã gần hết thời gian của tôi ở trên trái đất” (Tìm
đường) [77, 230] và có thể đi về xứ trắng đen bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, khi cảm
nhận được thời gian của cuộc đời mình đã sắp hết, Chế Lan Viên cũng không tránh
khỏi tâm trạng tiếc nuối khi còn biết bao điều ông “chưa với tới đã dần xa”. Do đó
trong tâm hồn ông luôn diễn ra cuộc chiến âm thầm mà dữ dội:
“Cuộc chiến tranh màu trắng của tâm hồn
Tuyết nhằm tuyết chia phe mà đối chọi
Tuyết này đòi tan, tuyết kia tồn tại
Phía chấp nhận hóa bùn, phía kỳ vọng cỏ non xanh”
(Cuộc chiến) [77, 41].
Có lẽ vì vậy mà càng về cuối đời, Chế Lan Viên càng hối hả sống, hối hả viết.
Ông ý thức rất rõ từng giây phút của cuộc đời mình đang trôi và cái nút cuối cùng
của sự sống đang đến dần khi “Đã gần hết thời gian của tôi ở trên trái đất” (Tìm
đường) [77, 230]. Nhà thơ là người luôn quý trọng sự sống, lại sống rất trách nhiệm
với mình, với đời, cho nên cảm giác chới với khi đối mặt với cái chết là có thật và
dễ hiểu. Tuy nhiên, đây không phải là âm hưởng chính trong thơ Chế Lan Viên
trong thơ sau năm 1975. Khi đọc thơ ông, độc giả cảm nhận được sự nỗ lực, phấn
đấu không ngừng để vượt qua nỗi đau thể xác do bệnh tật hoành hành. Và quan
trọng là tâm thế của con người khi đối diện với cái chết ra sao, thơ cần phải làm gì
để có ích cho đời…là nỗi băn khoăn lớn nhất trong tâm hồn thơ Chế Lan Viên. Mỗi
giây phút của cuộc đời trôi qua là khi nhà thơ nhận thấy thời gian chính là kẻ hủy
diệt kinh khủng nhất của đời người. Cái đáng quý ở đây là khi chạm tới cái chết,
nhà thơ không hề run sợ, mà bình tĩnh đón nhận nó một cách đầy bản lĩnh. Chế Lan
Viên đã trải qua quá trình đấu tranh không biết mệt mỏi với thời gian, để khẳng
định sự tồn tại và tồn tại một cách có ý nghĩa của cái tôi cá nhân cũng như tài năng
của mình.
44
Trước đây, trong những năm tháng chiến tranh, Chế Lan Viên cũng từng chạy
đua với thời gian, với năm tháng để cống hiến tuổi thanh xuân của mình cho đất
nước. Nhưng nay đã khác, khi sống trong hòa bình, nhà thơ nghiêng về sự đòi hỏi
thể hiện mình, tự khẳng định mình, là để chứng minh sự tồn tại của mình. Trong bài
Đọc hai tập Di cảo thơ, Nguyễn Bá Thành cho rằng: “Phảng phất trong những câu
thơ đó đây có lòng yêu đời, yêu người và những suy nghĩ biện chứng lúc nhà thơ
tỉnh táo” [63, 410]. Có phải những bài thơ phần nhiều là tiêu cực, được viết trong
lúc nhà thơ không tỉnh táo? Đọc những vần thơ cuối cùng của ông, ta bắt gặp cảm
giác cô đơn khi một mình nằm trên giường bệnh, khi từng phút phải đối diện với
chính mình. Những lúc ấy bao kỷ niệm sống đậy. Quay về dĩ vãng, nhà thơ không
khỏi hoài nghi: “Mà ngẫm lại cuộc đời / Quá đỗi phù du” (Kiều) [78, 103].
Rất nhiều lần, câu nói bi lụy từ ngàn xưa “thân cát bụi lại trở về với cát bụi”
vang lên trong tâm khảm của nhà thơ. Con người chỉ là một hạt bụi nhỏ nhoi và vô
danh:
“Huống chi anh tội lỗi, dại khờ, ngu si, bướng bỉnh
Anh là kẻ rất thấp mà, là chổi thôi mà
Sao lại bắt anh quét trời như những chùm sao.”
(Làm sao) [78, 75]
Có thể nói, với tất cả những gì đã trải qua trong cuộc đời, Chế Lan Viên không
khi nào rơi vào tuyệt vọng đến mức xuôi tay chán chường mà đâu đó ta nghe rõ
những lời trấn an mình, nhủ mình để đứng vững, để tồn tại:
“Từ đây xuống mồ
Còn chán thì giờ
Cho anh sống
Miễn anh đừng tuyệt vọng”
(Đừng tuyệt vọng) [78, 239]
45
Nhưng dẫu thế nào cái chết vẫn kề bên, vẫn đi song hành khó thoát khỏi. Bởi
không phải đến lúc này Chế Lan Viên mới bị bệnh tật hành hạ nhưng lúc này là lúc gay
go nhất. Ta vẫn thấy nhà thơ có phần chủ động điềm tĩnh đón chờ cái chết đang nhích
lại dần, ông quả quyết “Tôi cùng thế kỷ này già như nhau, tôi chết trước” (Đoạn cuối
thế kỷ). Và sau đó chừng một năm, nhà thơ nhắc lại: “Chuyến xe sau không còn anh
nữa / Xe vẫn chạy nghìn đời chỉ vắng anh thôi” (Chuyến xe) [78, 171].
Và, đoạn cuối con đường đời, Chế Lan Viên nhận ra, mùa thu quân đã về. Ông
cảm nhận được điều đó và nhiều lần tự nhủ lòng:
“Đời anh sắp tối rồi
Nhưng chả nhẽ anh bó tay vào lúc cuối”
(Mùa thu quân) [78, 144]
Không chỉ có vậy, ông còn muốn vươn lên sự viên mãn, hoàn thiện lúc hoàng
hôn của tuổi. Thơ Chế Lan Viên luôn luôn ẩn chứa một giọng thơ gây nhiều sự chú
ý của dư luận. “Có thể nói Chế lan viên là một nhà thơ không yên ổn, anh không
yên ổn trong các trăn trở sáng tác của mình” (Tế Hanh). Sự trăn trở ấy lại là nét đặc
sắc trong thơ Chế Lan Viên những năm cuối đời. Nhà thơ ví nghề nghiệp như một
cuộc vượt sông và hơn hết phải vượt qua chính lòng mình để hòa nhịp cùng với sự
sáng tạo không ngừng, mang lại giá trị bất diệt cho cuộc sống, cho thơ ca.
Chế Lan Viên không để cho ý niệm về thời gian chi phối và ám ảnh mình. Ý
nguyện hiến dâng cho đời viên ngọc sau cùng luôn cháy bỏng da diết trong tâm hồn
nhà thơ. Ông giành giật từng giây phút với những cơn đau để “tranh thủ làm thơ giữa
hai chớp mắt” (Thời gian nước xiết) [77, 66]. Tận dụng từng hơi thở cuối cùng để thả
hồn mình trên từng con chữ, Chế Lan Viên dùng hết tốc lực để lao động nghệ thuật.
Nhà thơ luôn băn khoăn trăn trở, sống thế nào cho có ý nghĩa, để không uổng phí dù
là những giây phút hiếm hoi của cuộc đời. Thời gian không còn là nỗi ám ảnh đối với
nhà thơ nữa, mà ông nhận ra rằng, sống bao lâu không quan trọng, mà quan trọng là
chúng ta đã và sẽ sống như thế nào? Đọc những vần thơ cuối đời của Chế Lan Viên ta
nhận ra tâm nguyện cuối cùng mà nhà thơ muốn gửi gắm là con người hãy sống và
làm những việc có ích cho đến phút giây cuối cùng của đời mình.
46
Với sự cố gắng miệt mài, với nghị lực phi thường, Chế Lan Viên đã tìm thấy
giá trị của cuộc sống ngay giữa ranh giới mong manh của sự sống và cái chết. Điều
đó càng làm cho chúng ta thêm trân trọng những cố gắng của nhà thơ ở những năm
tháng cuối cùng của cuộc đời. Nhà thơ luôn tin vào sự luân hồi của kiếp người:
“Phải có tro thì mới có ngọn lửa hồi sinh” (Prométhee) [79, 96]. Giành giật sự sống
với thời gian không phải để hưởng thụ mà là để cống hiến cho nghệ thuật chân
chính, Chế Lan Viên tin rằng dù không thể tồn tại mãi trên dương gian, nhưng:
“Cho dù trái đất không còn anh / Anh vẫn còn nguyên trái đất / Tặng cho mình…/
Anh tồn tại mãi / Không bằng tuổi tên, mà như tro bụi / Như ngọn cỏ tàn đến tiết lại
trồi lên” (Từ thế chi ca) [77, 222].
Chế Lan Viên luôn có cái nhìn lạc quan vào cuộc đời, kể cả khi sắp bước vào
cõi vĩnh hằng. Có lẽ đó chính là sự khác biệt và cũng là giá trị của con người Chế
Lan Viên. Nhà thơ cũng quan niệm, thể xác mất nhưng linh hồn thì còn mãi, cho
nên: “ngày mai dù đã là linh hồn…Cha vẫn nhìn thấy con, thấy mẹ, thấy khu
vườn…”. Trong Di cảo thơ, mặc dù nhiều lần Chế Lan Viên quan niệm khi con
người chết đi sẽ thành “dòi bọ”, thành “thối rữa” cho Nhặng Xanh hoành hoành…,
nhưng với ông, thế giới thứ hai ấy cũng “đầy hoa”, “trong sáng”, “người ta không
đau, không dùng nước mắt - người ta trong như thủy tinh, chỉ có tình thương”…
Những ngày tháng cuối cùng, trước khi lên bàn mổ tại Bệnh viện Chợ Rẫy, biết
rằng mình có thể ra đi mãi mãi, lòng ham sống của Chế Lan Viên lại trỗi dậy mạnh
mẽ với niềm tha thiết khôn nguôi với đời. Trong giây phút ấy, nhà thơ nghĩ về
mình:
“Ờ, ở thêm cùng các con, cùng mặt đất này dăm năm, dăm tháng, dăm ngày
Có khi cũng là hay đấy
Nhưng biết đâu chất thủy tinh sau đấy sẽ đục hơn”.
(Từ thế chi ca) [79, 28]
Chế Lan Viên không mảy may vẩn vơ bóng đen của cái chết, chỉ có sự sống,
hơn thế sức sống ấy lại rất tràn trề. Nhà thơ tự vượt qua nỗi sợ hãi, có nhức nhối
đấy, lại trắc trở nữa, nhưng quan trọng là sự đến. Ông đã đến được đỉnh cao của sự
47
sống ngay nơi giáp ranh với cái chết, rồi thăng hoa thành những vần thơ tâm huyết
để lại cho đời. Đó có lẽ là chất ngọc quý nhất của thơ Chế Lan Viên trong những
năm cuối đời. Chế Lan Viên đã nghiền ngẫm một cách sâu sắc về sự sinh tồn của
con người. Ông luôn hy vọng cái nảy nở về sau sẽ vượt trội hơn cái trước, sẽ chói
sáng hơn cái trước. Sự khiêm nhường về sự tồn tại của mỗi cá nhân trong vũ trụ, về
sự ra đi của con người cùng niềm hy vọng vào tươi lai tươi sáng của thế hệ mai sau
đã làm cho mỗi vần thơ cuối đời của Chế Lan Viên giàu tính nhân văn hơn, đáng
khâm phục hơn.
2.2. Cái tôi khao khát tìm về “bản ngã”
2.2.1. Cái tôi có nhu cầu sống trung thực với bản thân
Một nhà thơ chân chính luôn biết nỗ lực vươn lên không ngừng để được sống
đúng với “bản ngã” của mình, để được cống hiến cho sáng tạo nghệ thuật. Để làm
được điều đó phải có sự kiên trì, bền bỉ chứ không phải ngày một ngày hai. Trên
thực tế, Chế Lan Viên đã chứng minh điều này từ khi cầm bút viết cho đến những
năm cuối đời, ông không ngừng sáng tạo, dâng hiến cho đời những “hoa thơm, trái
ngọt” bằng những sản phẩm nghệ thuật đặc sắc như: Điêu tàn, Ánh sáng và phù
sa, Di cảo thơ…Có được thành quả lao động ấy là cả một quá trình phấn đấu không
mệt mỏi mà không phải nhà thơ nào có được.
Từ thuở Điêu tàn, Chế Lan Viên đã ý thức rất cao về bản ngã. Cái tôi ấy luôn
thôi thúc nhà thơ xác định vị trí của mình trong cuộc đời với sự khẳng định mạnh mẽ:
“Đây Cõi Ta rộng rãi đến vô biên
Ta đứng trước cõi Ta khôn thấu hiểu
Như không sao hiểu được nghĩa thời gian”
(Cõi ta) [67, 67]
Nếu như bản ngã trong Điêu tàn là một Cõi ta ngụp lặn trong nỗi cô đơn khôn
thấu hiểu thì trong những năm kháng chiến, cõi Ta ấy đã hòa nhập vào thời cuộc
thành Cái ta trong cuộc đời chung. Cuộc sống kháng chiến đã đưa Chế Lan Viên
thoát khỏi Cõi ta lẻ loi, cô độc. Nhà thơ đã cống hiến hết mình cho sự nghiệp chung
và tìm được câu trả lời thích đáng cho câu hỏi:
48
“Ta là ai? Như ngọn gió siêu hình
Câu hỏi hư vô thổi nghìn nến tắt
Ta vì ai? Khẽ xoay chiều ngọn bấc
Bàn tay người thắp lại triệu trồi xanh”.
(Hai câu hỏi) [69, 14]
Sau năm 1975, đất nước bước sang trang lịch sử mới, cái Ta của nhà thơ đã trở
về với cái Tôi cá nhân để cảm nhận cuộc đời bằng con mắt khác. Như vậy, bản ngã
của nhà thơ luôn có sự vận động không ngừng theo sự phát triển của lịch sử và thời
đại. Mặc dù ở mỗi giai đoạn, bản ngã của nhà thơ được thể hiện khác nhau sao cho
phù hợp với thời cuộc nhưng có thể khẳng định, bản ngã ấy luôn thống nhất trong
con người Chế Lan Viên.
Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới cũng là lúc Chế Lan Viên nhận ra cuộc
sống này đầy những phức tạp. Nhà thơ băn khoăn, trăn trở trước sự đổi thay quá
nhanh của cuộc sống. Hành trình đi tìm về bản ngã của mỗi cá nhân con người lại
càng trở nên khó khăn và phức tạp hơn bao giờ hết. Hành trình ấy của Chế Lan
Viên trong những năm cuối đời diễn ra thật quyết liệt, dữ dội, ráo riết. Nhà thơ luôn
tìm cách đối thoại, tự vấn bản thân để tìm ra bản ngã đích thực. Trong Di cảo thơ,
Chế Lan Viên đã nhận ra sự thay đổi của hiện thực cuộc sống và của chính cá nhân
mình. Ở chỗ đứng này, nhà thơ sẽ có sự nhận định chính xác hơn về quá khứ và
hiện tại để đánh giá cho đúng về con người của một thời đã qua. Cũng từ đó mỗi
người sẽ nhìn nhận mình đã sống trung thực là mình chưa?
Con người chỉ thật sự thanh thản khi được là chính mình. Được bộ lộ hết những
tâm tư, tình cảm của mình trong cuộc sống cũng như trên trang viết là điều hạnh
phúc nhất của mỗi nhà thơ. Đã có lúc Chế Lan Viên giật mình nhận ra: “Cái trang
mơ ước một đời chưa với tới - Xa dần” (Hồi ký bên trang viết) [77, 7] và lo lắng bởi
cả một đời phấn đấu, nay: “mất cả chì lẫn chài ở giữa vô danh” (Sủi tăm) [78, 81].
Và không thể không thừa nhận, có lúc nhà thơ đã lạc mất bản ngã để chạy theo
nhưng ảo tưởng phù du. Đến lúc tỉnh ra thì hối hận vì những năm tháng đã phí hoài.
49
Tuy nhiên, ở đây có đúng là Chế Lan Viên đã “đánh mất mình”? Có chăng ông chỉ
đang nghiêm khắc với bản thân hoặc ông chưa bộc lộ hết mình mà thôi.
Muốn được sống trung thực là mình, con người phải gạt bỏ mọi hoàn cảnh
khách quan. Đó là điều luôn thôi thúc Chế Lan Viên để được trở về với chính mình,
là chính mình. Trước hết là được trở về với cuộc sống bình dị, bỏ lại sau lưng
những danh vọng, ảo tưởng. Nhà thơ viết:
“Đã lâu ta không nghe hồn lau gọi nữa
Xa tiếng gió xạc xào
Xa mùi bùn, mùi trâu, rơm rạ…
Chỉ nghe danh vọng ầm ào
Vinh quang xí xố”.
(Cờ lau Đinh Bộ Lĩnh) [77, 97]
Xa dần những gì gần gũi thân thương, đối mặt với những thay đổi của cuộc
sống mới, Chế Lan Viên có lúc phải vất vả tìm lại chính mình. Những vinh quang
một thời còn len lỏi trong cuộc sống khiến con người bị choáng ngợp…Và, khao
khát được trở về với những gì bình dị nhất, giản dị nhất của cuộc sống luôn thường
trực trong cõi lòng ông:
“Cho tôi về với cành lau
Vàng vọ
Về với con trâu nghé ngọ
Có cặp sừng bỡ ngỡ
Chiều buồn không biết cọ vào đâu?”
(Cờ Lau Đinh Bộ Lĩnh) [77, 97]
Khát vọng ấy của Chế Lan Viên là chính đáng, nhưng nhà thơ cũng thảng thốt
nhận ra: “Hoa Lư ở đâu? / Hoa lau ở đâu? / Hồn lau ở đâu? / Hồn ta ở đâu?” (Cờ
Lau Đinh Bộ Lĩnh) [77, 97]. Nhà thơ cất lên câu hỏi: “Hồn ta ở đâu?” càng khẳng
định khát vọng muôn thuở của con người là muốn giải mã chính mình, để được hòa
50
chung vào cuộc sống lam lũ của quần chúng nhân dân để cảm nhận được nỗi đau
của một con người bình thường. Nếu không cảm nhận được hiện thực muôn màu
muôn vẻ của hiện thực thì nhà thơ chỉ có thể viết về những cái chung chung, chứ
chưa thể nói đến những điều chân thực. Mà muốn trở về với đời thực, cũng có nghĩa
là trở về với bản thể vốn có của con người: “Anh đừng là viên ngọc / Mà là viên sỏi,
cục gạch lẫn lộn cùng cỏ rác / Cũng xoàng xĩnh vô danh nhếch nhác / Hiểu cho hết
cái đau của cuộc đời / Nghe tiếng cười của trẻ con nheo nhóc / Điệu hát những bà
mẹ xanh xao / Rồi lặng lẽ cuốc đào / Miếng đất thơ trong vườn anh / Làm những
câu thơ vũ trụ và cho mình” (Chuẩn bị đi) [78, 194].
Trong hành trình tìm về bản ngã, nhà thơ trở về với những giá trị văn hóa tinh
thần của dân tộc. Khi đọc những trang thơ bất hủ của Nguyễn Du, Chế Lan Viên đã
tìm thấy bóng dáng mình trong cuộc đời bể dâu của nàng Kiều với những xót xa, đau
đớn. Nhà thơ nhận ra mình trong những câu thơ đầy tính nhân văn:
“Một ngày kia TRUYỆN KIỀU mới phóng ra hết lượng tử của mình
Những vỉa thơ nhân loại quên đi, và phát hiện ra những hồn thơ ẩn náu
Hồn ta ơi! Hôm nay ngươi thanh bình mà ngày mai giông bão
Trong câu Kiều xưa ta tìm ra Nguyễn Du mà tìm cả chính mình”
(Đọc Kiều, một ngày kia) [78, 86]
Chiêm nghiệm về lịch sử cha ông, Chế Lan Viên thấy những điều mà trước đây
vì nhiều lý do ông chưa kịp nhận ra. Trăn trở đi tìm mình, nhà thơ tìm về với dân
tộc, với những thay đổi và khó khăn của đất nước trong hàng nghìn năm dựng nước
và giữ nước. Nhà thơ khẳng định:
“Dân tộc muốn sống giữa lửa chiến tranh và lũ lụt của người,
Vỡ đê biển với vỡ đời
Dân tộc không thể biến đi mà chỉ hóa”
(Định nghĩa dân tộc) [79, 53]
Nhà thơ đã nhận ra bản chất và sự vận động cũng tuân theo sự vận động của lịch
sử không bao giờ biến mất mà chỉ “hóa”. Để phù hợp với sự thay đổi của thời cuộc,
bản ngã nhà thơ cũng cần có sự thay đổi và vận động chứ không thể đứng yên. Chính
51
sự vận động không ngừng của lịch sử đã giúp nhà thơ nhận ra “không thể chỉ có một
bề, một mặt”. Cái phức tạp của nhân thế vẫn là nỗi ám ảnh đối với nhà thơ. Những
nỗi đắng cay của cuộc đời đã khiến ông chua xót nhận ra: “Thuyền anh đi giữa bể,
hai trời May, Rủi đó / Không sấp bên này thì ngửa phía kia thôi / Cho đến lúc vào
bóng đêm, anh mới nhận ra chân lý / Cuộc đời là trò chơi / Cuộc sống là trò chơi /
Mà không chơi đau khổ không ù được nụ cười” (Hai chiều) [77, 188].
Bước qua những vấn đề gần gũi của cuộc sống thường ngày và những phạm trù
của dân tộc, văn hóa nước nhà, Chế Lan Viên đã viện đến triết học để lý giải, kiếm
tìm bản ngã:
“Ta là ai? Về đâu? Hạt móc
Là ta chăng? Dòng sông là ta chăng? Tiếng khóc
Là ta chăng? Vì sao lạc phương trời
Là ta chăng? Ta chưa kịp trả lời”
(Hỏi? Đáp) [77, 192]
Câu hỏi vừa cất lên, chưa có câu trả lời thì:
“Thì sông đã cuốn ta vào bóng tối
Cậu bé chơi tùng dinh vụt già trăm tuổi
Câu hỏi thuở bé thơ, miệng huyệt trả lời.”
(Hỏi? Đáp) [77, 192]
Chế Lan Viên suốt một đời kiếm tìm bản ngã với những câu hỏi: “Ta là ai?” và
“Ta vì ai?”. Và dường như để có được câu trả lời đích đáng cũng thật khó khăn, bởi
ông đã thành “già trăm tuổi”. Dù “đời cho anh là anh”, nhưng nhà thơ đã nhận ra
một sự thật: “Có một kẻ vô tình trong gió, nó là ai kia / Có một kẻ hữu tình trong
mùi hương, đấy là anh, chẳng lẽ / Có một cái gì, đâu đó / Anh tìm anh, thử hỏi làm
gì? / Tìm phiên bản nào rồi anh cũng đốt đi…” (Tự tìm mình) [79, 106].
Chế Lan Viên đã cố lý giải mình và ông phải thừa nhận không phiên bản nào là
của mình cả bởi một nhẽ:
52
“Trong mỗi cây ngoài kia có một cây ẩn náu
Trong mùi hương còn mùi hương còn giấu
Trong hồn ta còn trùng điệp hồn ta
Trong đáy của hồn, còn suối tuôn ra”.
(Trong hồn) [78, 221]
Tâm hồn con người vốn vô cùng vô tận, vốn mênh mông trùng điệp những cảm xúc,
vậy làm sao nhà thơ tìm được ra chính mình? Chế Lan Viên đã nghiệm ra một sự thật:
“Trút hết tạp âm của vũ trụ đi, chỉ còn một dây bản ngã của anh thôi…/ Bản ngã của
anh chứa những tạp âm rạn vỡ của sao trời / Bản ngã anh, anh chỉ tìm ra, hiểu rõ / Khi
chạm số phận mình cùng một vì sao lạ đổi ngôi” (Đàn bầu) [79, 20].
Trăn trở và khao khát tìm về bản ngã, Chế Lan Viên đã đi trên con đường đầy
chông gai, đầy hoài nghi nhưng cũng vô cùng dũng cảm và quyết liệt. Vẫn biết bản
ngã là một phạm trù phức tạp và bí ẩn, để hiểu được nó không hề đơn giản, nhưng
Chế Lan Viên chưa bao giờ từ bỏ khát vọng chiếm lĩnh nó. Đôi khi, tưởng như nhà
thơ đã nhận ra mình, nhưng rồi ông lại tự phủ định để kiếm tìm cái mới, bởi: “Cái tôi
của con người là tổng hòa của vô vàn các mối quan hệ, nó luôn luôn vận động, biến
đổi mà người nghệ sĩ lại là người luôn khao khát đi tìm những giá trị tinh thần mới,
vì thế hành trình đi tìm mình là một hành trình vô hạn, vô đích” (Lê Lưu Oanh).
2.2.2. Cái tôi bản lĩnh khi dám nói lên suy nghĩ của mình
Việc sống thực là mình đòi hỏi sự bản lĩnh của mỗi người khi thể hiện cái tôi cá
nhân với những suy nghĩ thành thực. Có thể việc nói lên những suy nghĩ chân thực
ấy sẽ gây phương hại đến bản thân, nhưng một nhà thơ chân chính sẽ biết gạt bỏ tất
cả những sự ràng buộc ấy để tìm ra cách thể hiện mình mà không hề mất đi bản sắc
vốn có.
Thời kỳ đổi mới, khi đứng trước những đổi thay lớn lao của lịch sử, những
thành tựu quan trọng mà đất nước đạt được đã đem lại cho Chế Lan Viên nhiều cảm
xúc, tình cảm rất riêng. Vốn là người sống và làm việc nghiêm túc, nên khi đứng
trước những hiện tượng “bất cập” trong cuộc sống ông không thể làm ngơ mà thẳng
53
thắn bày tỏ quan điểm nói lên suy nghĩ của mình - đó là cái tôi đầy bản lĩnh của nhà
thơ chân chính.
Trước hết là sự nhìn nhận và suy ngẫm về chính bản thân nhà thơ. Việc nhìn
nhận và tìm ra những khuyết điểm của mình để rút ra những bài học cần thiết là
điều không phải ai cũng làm được. Trước đây, Chế Lan Viên cũng đã tự nhận thấy
mình có lúc đang xa rời quần chúng: “Nhân dân ở quanh ta mà ta chẳng thấy”
(Người thay đổi đời tôi, Người thay đổi thơ tôi) [70, 35]. Hoặc nhà thơ cũng nhận
thấy sự nhỏ bé của thế hệ mình so với sự lớn lao của lãnh tụ. Nhà thơ chua xót: “Lũ
chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp / Giấc mơ con đè nát cuộc đời con / Hạnh
phúc đựng trong một tà áo đẹp / Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn” (Người
đi tìm hình của nước) [69, 90].
Sau 1975, ý thức muốn được nói lên những suy nghĩ trung thực của mình trong thơ
Chế Lan Viên càng được thể hiện rõ. Khi đất nước bước vào thời kỳ mở cửa, con người
cũng được “cởi trói” trong suy nghĩ và hành động. Ý thức dân chủ được đề cao trong đời
sống cho nên con người có thể tự do nói lên những suy nghĩ của mình và điều quan trọng
là được sống thực là mình. Nhà thơ có cơ hội nhìn nhận lại bản thân và một lần nữa ông
nhận ra sự nhỏ bé của con người trước mênh mông nhân loại:
“Cười mình vung lưới rộng
Thu về con tép con
Nhặt bốn câu bé bỏng
Sải cánh cả tâm hồn”.
(Tuổi già làm thơ tứ tuyệt) [77, 152]
Đó là những suy nghĩ rất thật và được nhà thơ bày tỏ một cách thẳng thắn. Và
đỉnh cao của những điều giãi bày chân thành ấy là sự phấn đấu thay đổi bản thân
mình trong suy nghĩ và hành động cho phù hợp với thời đại. Và chỉ khi được sống
thực là mình, được cùng trải nghiệm với những điều bình dị nhất của cuộc sống mới
mong nói lên được những điều chân thực:
54
“Ngồi giữa cá tôm, trong xe buýt, xe lam đầy bụi
Ra khỏi sức hút của danh vọng, bản thân tên tuổi
Trộn hạt giống anh vào trăm giống cao sang hay hèn hạ của đời
Ăn miếng ăn ngon, giờ ăn nhục tủi
Đang là ngọc, tự vùi mình là hạt sỏi
Nghĩ sâu vào trong cái đang sống bên ngoài”
(Đổi đời) [77, 171]
Sống trong xã hội thời mở của, nhà thơ luôn tâm niệm trước hết mình phải là một
người công dân có ích. Thế nhưng, những lo toan đời thường đã trở thành gánh nặng
cho nhà thơ khi phải vất vả kiếm miếng cơm, manh áo. Vậy thì còn thời gian và tâm
sức nào để dành cho thơ? Liệu ý thức công dân và ý thức nghệ sĩ có mâu thuẫn với
nhau không? Ở đây đòi hỏi sự bản lĩnh và ý chí của người nghệ sĩ. Võ Tấn Cường
cho rằng: “Sự lựa chọn này xem ra quá nghiệt ngã và không phải bao giờ người nghệ
sĩ cũng vượt qua được và dám gọi đúng tên bi kịch của mình” [7, 421].
Xã hội vốn phức tạp như con người vẫn từng nghĩ. Để phù hợp với hoàn cảnh,
đôi khi con người đã phải “diễn”, nhằm đem lại sự an toàn, hiệu quả nhất định.
Nhưng có lúc nhìn lại vấn đề để tự đánh giá, kiểm điểm mình một cách nghiêm túc
ta cảm thấy vô cùng chua xót, đau đớn. Nếu con người cứ phải “diễn” hay “đóng
kịch” như vậy đến một lúc nào đó họ sẽ tự nhận ra: mình không phải là mình, bản
thân mình không còn tồn tại nữa. Con người thật của mình đã chết hoàn toàn. Bởi
vậy, để sống đích thực là mình không phải là điều đơn giản, nó thật khó trong bất cứ
hoàn cảnh nào.
Trong thời kỳ hội nhập, mở cửa như hiện nay con người được sống trong môi
trường hoàn toàn mới, được sống “thoáng hơn” trong nhận thức, suy nghĩ, hành
động thì nhu cầu sống trung thực với bản thân, sống đúng với ý nghĩa cuộc sống của
nó ngày càng trở nên quyết liệt, mạnh mẽ hơn. Khi không được sống là chính mình
con người sẽ phải trả giá về những gì đã làm sau vai “diễn”.
55
Con người, ai cũng có lúc thành công nhưng khi đạt tới đỉnh vinh quang thì
thường tự thỏa mãn, bằng lòng với những thứ đạt được, nhưng đã lần nào ta nhìn lại
chính mình một cách nghiêm túc, đúng đắn? Chế Lan Viên là nhà thơ sống hết mình
cho sự nghiệp, cho nên ông đau đớn nhận ra một điều: trong cuộc đời này ai đó “tự
đánh mất mình” không dám sống đúng là mình, sống giả tạo, không thật tâm thì đó
là nỗi đau khổ lớn nhất không gì sánh bằng. Đứng trước thực trạng đau lòng ấy, Chế
Lan Viên nói lên tiếng phê phán nghiêm khắc - với tư cách một nhà thơ:
“Người diễn viên ấy đóng trăm vai, vai nào cũng giỏi,
Chỉ một vai không đóng nổi:
- Vai mình!
Lỗi ở ai nào? Chính lỗi ở anh
Cuộc đời anh, quan liêu, anh chả thuộc
Anh nghĩ nó là đời anh, nhớ hay quên lúc nào chả được
Anh đóng giỏi trăm vai, lại đánh mất mình”.
(Thơ về thơ (I)) [77, 124]
Vâng, “người diễn viên” ấy đóng rất thành công nhiều vai, nhưng chỉ có vai duy
nhất không đóng nổi là “vai mình”. Con người ấy đã tự đánh mất mình trong số trăm
vai diễn đó. Đây là nỗi bất hạnh mà mỗi con người đang phải cố gắng vượt qua. Để
đất nước có được cuộc sống như ngày hôm nay không phải là điều dễ dàng, nếu
không có thế hệ cha ông đi trước “mở đường khai lối” thì có lẽ dân tộc Việt Nam vẫn
mãi “đắm chìm” trong xiềng xích nô lệ. Vậy mà vẫn có những con người vô tình hay
cố ý quên đi quá khứ, quên đi một thời kỳ chìm trong “biển máu” nhưng oanh liệt, vẻ
vang của dân tộc. Đó là điều không thể chấp nhận. Nhà thơ bày tỏ những suy ngẫm
chân thành của mình về những điều xung quanh và xã hội thời bình.
Khi đất nước bước sang trang sử mới với việc ổn định kinh tế, chính trị, xã hội,
thì cuộc sống con người hiện đại cũng diễn ra trong sự “xô bồ”. Bên cạnh những
con người chỉ biết lo toan, vun vén cho hạnh phúc cá nhân thì còn có những con
người hàng ngày vẫn chu đáo, tần tảo lo toan cho những người đã hy sinh vì sự
56
nghiệp của dân tộc. Đứng trước thực tế đó, Chế Lan Viên lên tiếng phê phán đanh
thép những người vô tâm, cố tình tỏ ra thờ ơ với những hy sinh của bậc tiền nhân.
Trong sự xô bồ của cuộc sống thời “hội nhập” đã có biết bao vấn đề nảy sinh làm
thay đổi dần những giá trị vốn có, đó là giá trị văn hóa được tích lũy, đúc kết từ bao
đời, vậy mà trong chớp mắt thay đổi hoàn toàn. Nguyên nhân là do đâu? Phải chăng
đó là những vấn đề về danh lợi, quyền lực, địa vị, hay vấn đề tham nhũng…làm cho
xã hội đảo lộn. Tất cả điều đó đều được Chế Lan Viên đề cập một cách sâu sắc và
phản ánh trung thực trong thơ sau 1975.
Trước đây, con người sống với nhau chủ yếu là ở chữ “tình”, họ coi tiền bạc,
vật chất chỉ là phù du, không có nghĩa lý. Giờ đây xã hội đã đổi khác, nhiều vấn nạn
xã hội tồn tại và nổi lên như “sóng” có thể nhấn chìm bất kỳ ai. Đó là vấn đề tham
nhũng. Con người khi đứng trước vấn đề này đều lên tiếng tố cáo đanh thép, mạnh
mẽ. Với Chế Lan Viên thì khác, ông dùng ngòi bút sắc sảo, tinh tế của mình viết lên
trang thơ đầy cảm xúc nhưng mang ý nghĩa tố cáo sâu sắc:
“Không phải vì đất nước mình còn chiến tranh nghèo khó
Mà vì có bao nhiêu thằng đang sống xa hoa
Vì có bọn người thoái hóa
Khiến cho thắng trận rồi
Mà vẫn còn nhặt lá - kẻ làm thơ!”.
(Hốt lá) [78, 105]
Đối tượng mà nhà thơ nói đến ở đây không đơn thuần là con người bình thường
chỉ biết cuốc, cày làm ruộng, mà cao hơn là “lũ người” có chức quyền, có địa vị
trong xã hội. Đáng lẽ họ phải bị pháp luật trừng trị, bị trả giá về những việc làm sai
trái và bị người đời nguyền rủa, phỉ báng. Nói như vậy, không có nghĩa là cả xã hội
này đều chứa những con người đê tiện, mà bên cạnh đó còn có biết bao người sống
trong sáng, lành mạnh, trung thực…
Là một nhà thơ luôn tâm huyết với nghề, Chế Lan Viên không thể không cảm
thấy xót xa trước mặt trái của nghề thơ. Trong lao động nghệ thuật, không ít nhà thơ
57
chưa chân thực với mình, với độc giả. Những bài thơ được dùng nhiều từ ngữ lạ
thực chất chỉ để lừa người đọc chứ không hề có sự sáng tạo trong đó:
“Những nhà thơ mất giá
Lại thường hay đổi tiền
Mong dùng nhiều chữ lạ
Lừa người tiêu quá quen”.
(Mất giá) [77, 75]
Cũng có những nhà thơ không biết cảm nhận những điều hấp dẫn, thú vị của
cuộc sống nên thơ thường nghèo nàn. Sự lười biếng trong sáng tạo nghệ thuật ấy
cũng bị nhà thơ Chế Lan Viên thẳng thắn phê phán:
“Những nhà thơ không biết đầu cây gọi họ
Gặp mùa đào mà không có nỗi buồn Thôi Hộ
Đi qua mùa xuân không ngoái cổ lấy một lần
Họ sống ba trăm sáu chục ngày, không biết một ngày Xuân”
(Lãnh đạm) [78, 158]
Những trang thơ cuối đời của Chế Lan Viên đã cho ta thấy nỗ lực không ngừng
trên hành trình tìm lại chính mình. Giữa ranh giới mong manh của sự sống và cái
chết, nhà thơ đã bình tĩnh đón nhận sự khắc nghiệt của thời gian và lên tiếng khẳng
định cái tôi cá nhân một cách mạnh mẽ, quyết liệt. Điều đó càng làm cho chúng ta
tin yêu và khâm phục ông hơn.
2.3. Cái tôi nghệ sĩ tài hoa và trách nhiệm
2.3.1. Cái tôi ý thức trách nhiệm với nghề
Chế Lan Viên là một nhà thơ tài năng, nhà hoạt động văn hóa có vị trí quan
trọng trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Ngay từ khi cầm bút, ông đã xác định
rõ làm thơ là một nghề - một nghề đặc biệt, nghề cao cả, nghề thiêng liêng nhất chứ
58
không phải một nghề “ngứa cổ hót chơi”. Mà đã là nghề thì nhà thơ phải dành trọn
tâm huyết, cả cuộc đời và niềm tin của mình vào đó.
Chế Lan Viên coi sáng tác thơ là nghề của “bề sâu”, của sự lao động thầm lặng,
nghiêm túc và hết sức sáng tạo. Trong tác phẩm Đời thừa, Nam Cao từng quan
niệm: “Sự cẩu thả trong bất cứ một nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự
cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện”. Còn Lê Đạt thì lại cho rằng: “Theo tôi
thơ là một nghề, đã là nghề thì phải có kỷ luật lao động. Không nên thụ động thắp
hương chờ mà phải chủ động gọi hứng đến. Công việc này đòi hỏi một kỷ luật
nghiệt ngã và gian khổ”. Như vậy, dù là nhà văn hay nhà thơ thì công việc sáng tạo
của người cầm bút luôn đòi hỏi một tinh thần lao động nghiêm túc và trách nhiệm.
Đây cũng là một vấn đề mà Chế Lan Viên rất quan tâm. Lao động sáng tác, theo
ông không phải như nghề làm pháo “Cứ hét lên vì sợ chẳng vào tai” (Nghĩ về nghề,
nghĩ về thơ, nghĩ), mà là sự lao động trong thầm lặng, thậm chí có những lúc rất cô
đơn, đó là kiểu lao động “cày sâu cuốc bẫm” trên từng trang giấy.
Xuất phát từ quan niệm trên, Chế Lan Viên luôn trăn trở, suy nghĩ về trách nhiệm
của mỗi nhà thơ khi đứng trước cuộc đời. Với ý thức sâu sắc về trách nhiệm với nghề,
Chế Lan Viên có một quá trình lao động, sáng tác nghiêm túc, luôn có khát vọng làm
mới mình và thơ mình: “Anh làm việc rất kỹ với cả bài thơ và từng câu thơ, từng ý, từng
hình ảnh, từng chữ. Có thể nói trong thơ Chế Lan Viên có những bài chưa hay, những
bài ta không thích, nhưng bài nào cũng chứa đựng một cái gì đó mới mẻ, hầu như không
có bài nào tẻ nhạt, viết cẩu thả” (Nguyễn Văn Hạnh). Bởi vì là nhà thơ, hơn ai hết Chế
Lan Viên ý thức được rằng sản phẩm cuối cùng mà họ tạo ra là các tác phẩm - đứa con
tinh thần mà nhà thơ để lại cho đời. Tác phẩm ấy là sự kết tinh tài năng, tâm huyết của
nhà thơ và khẳng định sự tồn tại của nghề cũng như vị trí, tầm vóc của họ trong cuộc đời
“Nhà thơ sống là nhà thơ đẻ ra được tác phẩm”.
Trong những năm tháng chiến tranh ác liệt, nhà thơ tự nhận mình là người
chiến sĩ trong trận chiến ấy, nhưng khác ở chỗ là không trực tiếp cầm súng mà dùng
chính ngòi bút làm vũ khí đấu tranh để có thể hạ hàng nghìn quân giặc. Ông coi vị
trí nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy, chiến đấu không khoan nhượng với kẻ thù.
Sau năm 1975, ta nhận thấy một sự thay đổi lớn trong quan niệm về vị trí nhà thơ
59
của Chế Lan Viên. Ông coi việc làm thơ như một việc rất đỗi bình thường, thậm chí “như rác đổ thùng”, như “người diễn xiếc”. Vị trí cao cả của nhà thơ trong thời
chiến đã trở nên khiêm nhường trong đời thường “anh là kẻ rất thấp mà, là chổi
thôi mà” (Làm sao) [78, 75]. Giờ đây, có lúc ông tự cười mình vì “mất cả chì lẫn
chài ở trốn vô danh” và muốn “tìm cả chính mình”. Từ chỗ thấy vị trí người làm thơ cao quý vì đóng góp một phần vào sự nghiệp chung của đất nước trong những năm
tháng chiến tranh, nay ông lại viết:
“Làm thơ ư? Anh chơi cái trò bi kịch không ra bi,
Hài kịch chả ra hài,
Nhưng đã là số phận rồi, cứ phải chơi thôi”
(Nghề của chúng ta) [77, 92]
Mặc dù có sự thay đổi trong quan niệm về nghề thơ như vậy nhưng phần lớn
các bài thơ được viết sau năm 1975 của Chế Lan Viên đều thể hiện trách nhiệm của
nhà thơ với cuộc sống hiện tại. Mà muốn như vậy nhà thơ phải không ngừng tìm
tòi, sáng tạo. Ý thức đó được thể hiện từ cuối tập Ta gửi cho mình Chế Lan Viên có
bài Thơ bình phương - Đời lập phương bộc lộ những suy ngẫm về đời, về thơ, về
nghề thơ thật nghiêm khắc:
“Trăm câu thơ xoá đi cho một câu khỏi ném vào trong gió
Và chắc gì câu kia bay được đến bình minh!
Và thế, khi đánh giá nhà thơ, hãy tính công cho những trang giấy không thành.
Những con phù du chết bên đĩa đèn mà không đổi lấy câu thơ nào cả,
Những vầng trán nghiêng xuống bên đèn mà ý vắng tanh.”
(Thơ bình phương - Đời lập phương) [76, 70]
Đến Di cảo thơ, chúng ta lại bắt gặp nhiều bài thơ nói về công việc làm thơ và
trách nhiệm của người nghệ sĩ. Chế Lan Viên luôn coi làm thơ như cái nghiệp xuất
phát từ cõi tâm con người. Nhà thơ đã dùng định nghĩa về nghiệp của đạo Phật để
quy chiếu cho công việc làm thơ của mình. Chế Lan Viên cho rằng mình đã mắc nợ
nghiệp làm thơ nên suốt đời phải làm thơ để trả nợ dù ông cho rằng tài năng của
mình “chưa đầy nửa giọt”. Nhà thơ viết:
60
“Tôi tài năng chưa đầy nửa giọt
Có hộc tốc chạy đến chân trời cũng là đồ bất lực
Sao chỉ ấy kim kia tôi vẫn phải cầm”
(Xâu kim) [77, 72]
Hay trong bài Ấy…ấy…, nhà thơ cũng khẳng định: “Những ấy ấy, kia kia làm
anh khổ một đời / Anh làm thơ thế ấy / Sang hàng như vậy / Bỏ vần thế kia / Ngỡ
như có một kiếp trước, một tiền nhân / Đã bày ra thế đấy / Và bây giờ anh trả nợ /
Hoài hoài” [78, 96].
Những bài thơ như thế trong thơ Chế Lan Viên giai đoạn sau 1975 không
nhiều, nhưng nó đã cho ta thấy một quan niệm mới mẻ về duyên nghiệp của con
người. Nói như vậy để ta thấy được sự trả nghiệp của Chế Lan Viên là sự công tâm
và ý nghĩa biết bao:
“Theo nghiệp nào đành vác ngà, ngoắt đuôi theo nghiệp đó
Lấy đại ngàn làm đối thủ, lấy trời sao…”
(Đối thủ của voi) [77, 114]
Trong suốt một chặng đường dài sáng tác, Chế Lan Viên trăn trở, suy nghĩ làm
mới mình và thơ mình để phù hợp với thời đại. Nhà thơ đã dành không ít bài thơ để
định nghĩa về nghệ thuật làm thơ. Với ông, hành trình hoàn thiện một bài thơ tiêu
tốn nhiều tâm lực, đòi hỏi sự kiên trì của người nghệ sĩ: “Làm thơ là đem quả ngon
ví với môi người / Gửi tên người vào trong hơi gió / Rồi đem gió nhập vào bão dữ /
Và nhặt bên thềm một nhánh hoa rơi” (Làm thơ) [77, 65].
Hành trình làm thơ lúc gian nan, thử thách như người: “tìm trầm giữa ngàn cao
lắm hổ”, lúc lại thầm lặng như thi sĩ câm “ra hiệu bằng tay, bằng mắt, bằng toàn
thân”. Để tạo nên được những câu thơ hay, người làm thơ phải biết huy động tất cả
các giác quan để cảm nhận cuộc sống, để phát hiện ra cái tài ẩn giấu bên trong của
mình. Làm thơ luôn đòi hỏi sự đấu tranh không ngừng nghỉ trong tâm hồn và luôn
phải đặt ra câu hỏi làm thơ có ích gì?. Đặt ra câu hỏi đó để ta xác định được nhiệm
vụ và nghĩa vụ của thơ ca với đời. Người nghệ sĩ luôn phải là trung tâm của bộ ba
61
nghệ thuật “trang giấy, ngọn đèn và anh”. Có lúc làm thơ giống như một công việc
vô nghĩa, như thò tay vào cái túi thủng để tìm đồng tiền vàng, túi thì rách mà tiền thì
đã rơi mất từ lúc nào. Nhưng có lúc làm thơ là làm một việc phi thường, không phải
ai cũng làm được:
“Thi sĩ vào xứ tuyết tìm ra lửa
Kéo thuyền tình trên lưu vực sông Ngân
Không phải địa chất mà săn tìm kim khí lạ
Mặt rỗ, lưng gù mà muốn hóa tình nhân.”
(Thơ về thơ) [77, 124]
Chế Lan Viên quan niệm, thơ phải là tiếng nói cất lên từ chính cuộc sống.
Nhiệm vụ của thơ là phải thêm vị muối cho đời, thêm tiếng cười cho cuộc sống nở
hoa, thơ phải có trách nhiệm tìm kiếm và khám phá những ngóc ngách sâu kín nhất
của tâm hồn với sự nhân văn sâu sắc. Nhà thơ cho rằng, thơ phải có ích, có giá trị
cho đời, đem hương thơm mật ngọt để dâng cho đời. Có như vậy thì thơ mới thật có
ý nghĩa:
“Câu thơ có nghĩa đơn mà tâm hồn phải kép
Viết cái ấm của ta mà không quên cái rét của mình”
(Hai xứ) [77, 190]
Song không chỉ có vậy, điều Chế Lan Viên lo sợ nhất là những tác phẩm của
mình không giúp gì được cho đời. Nỗi đau ấy không chỉ riêng Chế Lan Viên mà là
nỗi đau chung cho cả thời đại bấy giờ, nó xuất phát từ trái tim, trách nhiệm của nhà
thơ chân chính đối với nghề. Điều đó làm ông đau khổ mà thốt lên:
“Ngăn con đê ùa vỡ bằng các câu thơ mệnh yểu
Hãy trồng một nhành cây buông trái ngọt bên thềm”
(Thời gian xuôi chảy) [77, 217].
62
Một trong những quan niệm mới mẻ nữa của Chế Lan Viên trong quan niệm về
thơ là thơ phải hướng tới những độc giả bình thường. Thơ cao cả là thơ dành cho
mọi tầng lớp trong xã hội bởi lúc này hoàn cảnh đã thay đổi. Những điều trước kia
chưa có cơ hội nói đến hay những người chưa được quan tâm đến thì nay được giãi
bày một cách chân thật, không né tránh:
“Những phong thư anh gửi cho hư vô đều bị trả về
Dù tem vẽ vĩ nhân, thần thánh
Chi bằng anh đưa cho cô hàng xóm ở hàng rào bên cạnh
Viết cho độc giả bình thường gần gụi đọc thơ anh.”
(Thơ cao cả) [78, 129]
Chế Lan Viên cũng xác định thơ và nhà thơ ở giai đoạn này phải khác với thơ
của thế kỷ trước. Thơ phải là sự đồng điệu trong tâm hồn con người, và nhà thơ phải
để hồn mình hòa quện cùng nhiều yếu tố thì thơ mới thật sự có giá trị:
“Ta lôi thơ xuống bùn, chạm vào đất đen
Nói chuyện thường ngày, vặt vãnh, quàng xiên
Lột trần áo bào và mũ triều thiên
Thơ cầm bị gậy đi ăn xin ở bên đường nhân loại trẩy.”
(Thơ thế kỷ 21) [78, 205]
Trong Di cảo thơ có rất nhiều bài thơ liên quan đến nghề thơ, tất cả đều thể
hiện những nỗi day dứt khôn nguôi, sự trách nhiệm nghiêm túc của ông trước cuộc
sống. Tuy nhiên điều mà Chế Lan Viên nhận thấy, sống trong cuộc sống hiện đại
với nhiều đổi thay, nhà thơ không thể chỉ biết áp dụng cái cũ mà phải biết nắm bắt
nhanh cuộc sống để phản ánh và sáng tạo kịp thời. Có như vậy tác phẩm của mình
sẽ được làm mới, sẽ đứng vững và trường tồn với thời gian. Nhà thơ không thấy
mình lạc hậu trước thời đại. Và để đạt được điều đó, Chế Lan Viên cho rằng cần
phải đổi mới, cả trong hình thức nghệ thuật lẫn nội dung.
63
Việc thay đổi thơ ca sao cho phù hợp với thời đại là yêu cầu bức thiết nhằm đáp
ứng được những vấn đề mới của xã hội. Đề hòa nhập được vào cuộc sống mới, cả nhà
thơ và nghệ thuật đều phải tự thay đổi mình, nếu không, thơ ca sẽ chết mòn. Cái cũ
không thể làm nên được những vần thơ có giá trị, do đó phải từ bỏ những cái cũ, thậm
chí là phải lộn trái mình để tìm ra cái mới:
“Làm thơ như đồng thuộc
Sức ì luôn trói buộc
Cái cũ đã thành thần
Cóc khô thành tài năng!
Hay là ta lộn trái
May có gì mới chăng.”
(Lộn trái) [77, 105]
Việc đổi mới thơ ca phải diễn ra trên mọi phương diện, từ thể tài đến ngôn ngữ,
giọng điệu, hình ảnh, từ nội dung đến hình thức. Trong đó, giọng điệu là phương diện
thay đổi lớn nhất trong thơ ca Chế Lan Viên sau năm 1975: “Giọng cao bao nhiêu
năm, giờ anh hát giọng trầm / Tiếng hát lẫn với im lìm của đất / Vườn lặng yên mà
thơm mùi mít mật / Còn hơn anh rồ giọng hát vang ngân” (Giọng trầm) [77, 187].
Bên cạnh đó, Chế Lan Viên còn rất quan tâm đến việc thay đổi ngôn ngữ thơ để tạo
cảm hứng và trải nghiệm mới của thơ. Việc tìm tòi những thể loại mới sao cho phù
hợp với việc truyền tải những nội dung mới cũng được nhà thơ chú trọng thể hiện.
Như vậy, đi suốt hành trình năm mươi năm sáng tạo, Chế Lan Viên được đánh
giá không những là nhà thơ lớn, mà còn là người có tài, có tâm và có ý thức trách
nhiệm đối với nghề, ông “Dấn thân hết mình” với thơ, vì thơ và cho thơ. Những vần
thơ như thế sẽ mãi là “Những lá thơm hái lúc về già” luôn được các thế hệ sau nâng
niu, trân trọng.
2.3.2. Cái tôi trân trọng những giá trị văn hóa của dân tộc
Trong hành trình sáng tạo nghệ thuật của mình, Chế Lan Viên hiểu được tầm quan
trọng của bản sắc văn hóa dân tộc nên với sự say mê và trân trọng, ông đã luôn có ý thức
tìm hiểu và gìn giữ nét đẹp đó. Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là sự kết tinh của lịch
64
sử bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước. Đó là truyền thống yêu nước, là tinh thần
nhân văn sâu sắc, là tinh thần uống nước nhớ nguồn, là sự đoàn kết một lòng cùng nhau
vượt qua bao gian nan, vất vả.
Từ rất sớm, Chế Lan Viên đã ý thức rõ được tầm quan trọng của văn hóa dân
tộc. Ngay từ tập Điêu tàn, nỗi đau đớn trước họa diệt vong của dân tộc, sự chà đạp
những giá trị văn hóa vĩnh hằng của bọn đế quốc đã hiện diện. Nỗi đau của dân Hời
trên mảnh đất Chàm cũng chính là nỗi đau của một tâm hồn mang nặng tinh thần
yêu nước. Nước mất thì những giá trị văn hóa nghìn đời mà cha ông gây dựng cũng
bị phá bỏ. Và đến những năm cuối đời, niềm tự hào về bản sắc văn hóa dân tộc là âm
hưởng vọng về từ quá khứ, vọng ra từ tâm hồn yêu tha thiết truyền thống lịch sử dân
tộc, là cách tri ân những chiến công của người xưa để phục vụ đời nay.
Những vần thơ viết về truyền thống lịch sử đã cho ta thấy cái nhìn mới mẻ của
Chế Lan Viên về vấn đề này. Từ trước đến nay, khi nói về lịch sử chúng ta thường
nói đến truyền thống dựng nước và giữ nước hào hùng của dân tộc. Nhưng Chế Lan
Viên lại nhận thấy, từ khi sinh ra đất nước ta đã phải chịu nhiều vất vả, phải đương
đầu với biết bao khó khăn, với những âm mưu đầy toan tính…Lịch sử Việt Nam
chìm đắm trong đau thương mất mát: “Đất nước gì mà tuổi trong nôi đã phải nhảy
lên mình ngựa thép đi đánh giặc / Đang cưỡi trâu, chơi cờ lau cũng phải bỏ chơi
mà đánh giặc / Chiếc gối lông nga cũng có âm mưu của giặc trộn vào / Yêu mà bị
chém rơi đầu Mỵ Châu hóa giặc! /Cho đến cùng phải hóa Sơn Tinh, Thủy Tinh /
Đánh giặc cùng nhau huy động núi non, lũ lụt vào vòng chiến tình yêu / Mà cướp
một cô Nàng” (Đất nước ta) [78, 153].
Chế Lan Viên cũng cho ta thấy đất nước mình có một di sản văn học dân gian
vô cùng phong phú, đó là truyền thuyết An Dương Vương, Mỵ Châu - Trọng Thủy,
truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh, truyền thuyết Thánh Gióng, truyền thuyết Lạc
Long Quân và Âu Cơ làm say lòng bao người…Câu chuyện Mỵ Châu - Trọng Thủy
là mối tình nhiều ngang trái. Chế Lan Viên nhắc đến tình yêu ấy như một lời cảnh
báo về những âm mưu do chính trị đem lại. Biết và hiểu được nó để tránh sự tái
diễn không đáng có: “Còn cái lông nga ấy bây giờ ở đâu? / Ai biết? / Có lẽ nó bay
65
trên đầu những người oan khuất / Đang chờ người yêu và vết chém sau lưng” (Lông
nga máu) [78, 107].
Hay khi nhắc đến truyền thuyết về Lạc Long Quân và Âu Cơ, Chế Lan Viên
cũng nhắc ta cần nhìn nhận lại cho đúng lịch sử. Sự chia ly ở đây là cần thiết cho sự
tồn tại và duy trì giống nòi. Đây là nhận thức đầy tính nhân văn mà không phải ai
cũng hiểu được: “Chúng ta là con của mây cha ta và sóng bể mẹ ta từng ly biệt /
Xoắn lòng ta như Loa Thành tự buổi An Dương Vương / Mẹ Âu Cơ nghe lòng trong
bể động và bể im không tiếng sóng / Trăm trứng hồng của mẹ kia, trứng nào sẽ
thoát khỏi đau thương?” (Sử) [78, 79].
Sự quan tâm của Chế Lan Viên đến văn hóa dân tộc không chỉ dừng lại ở
những giá trị lịch sử dân tộc. Mà với ông, vấn đề cốt lõi của di sản văn hóa chính là
con người. Chế Lan Viên rất tâm đắc với quan niệm coi con người là một bộ phận
của văn hóa dân tộc, trong đó có văn chương nghệ thuật. Đó là những con người cụ
thể sinh ra và tồn tại trong một không gian, thời gian cụ thể của một dân tộc, một
thời đại. Với ý niệm như vậy, Chế Lan Viên đã nhìn nhận các danh nhân Việt Nam
như một phần không thể thiếu của văn hóa Việt Nam. Những bài thơ viết về
Nguyễn Trãi và Nguyễn Du trong thơ Chế Lan Viên sau 1975 đã cho ta thấy sự trăn
trở của ông về những di sản tinh thần vô giá của dân tộc.
Khi viết về Nguyễn Trãi, nhà thơ như thấm thía nỗi oan khuất của thi hào. Mỗi
trang thơ đều nhuộm đỏ máu của hồn oan. Nhưng đằng sau nỗi đau ấy, con người
Nguyễn Trãi và thơ ông vẫn như “ngọc sáng ngời”, bền bỉ tồn tại cùng thời gian.
Chế Lan Viên đã khẳng định thêm một lần nữa, Nguyễn Trãi là một nhà thơ lớn,
một nhà văn hóa lỗi lạc của dân tộc. Cuộc đời và sự nghiệp của ông là sự kết tinh
của những giá trị tinh thần không gì thay thế được:
“Giọt máu thấm từ trang sách ra bìa hay vào ruột sách
Từ trang đầu đến trang chót thơ kia đều thấm máu đỏ lòm
Chúng tru di máu, tru di người, chứ tru di thơ sao được?
Ngọc sáng ngời là hóa thân của máu, của hồn oan.”
(Thơ Nguyễn Trãi) [79, 190]
66
Bên cạnh Nguyễn Trãi, đại thi hào Nguyễn Du cùng Truyện Kiều cũng là
nguồn cảm hứng cho Chế Lan Viên viết nên những vần thơ kiệt tác. Số lượng các
bài thơ viết về Nguyễn Du và Truyện Kiều của Chế Lan Viên tuy không nhiều
(khoảng gần mười bài), nhưng có thể kể đến một số bài thơ nổi tiếng theo thời gian
như: Đọc Kiều, Gửi Kiều cho em năm đánh Mỹ, Nghĩ thêm về Nguyễn, trong Di cảo
thơ viết sau năm 1975, có hai bài Kỷ niệm Nguyễn Du…
Truyện Kiều của Nguyễn Du có sức sống lâu bền và có sức lan tỏa vượt qua
mọi không gian và thời gian với những giá trị hiện thực và nhân văn sâu sắc. Ca
ngợi Truyện Kiều, Chế Lan Viên đã dành những lời thơ trân trọng nhất, yêu mến
nhất. Văn hóa Việt Nam trở nên giàu có hơn, phong phú hơn nhờ Truyện Kiều.
Cũng nhờ có Truyện Kiều mà thế giới biết đến văn hóa dân tộc Việt Nam nhiều
hơn. Nhà thơ đánh giá Truyện Kiều là một bể ngôn từ đầy bí ẩn, càng khám phá
càng cảm thấy thú vị. Những giá trị nhân văn, hiện thực của Truyện Kiều đã cho ta
thấy được cái tâm, cái tài của Nguyễn Du: “Nguyễn Du có ngờ không? / Người ta
dịch vầng trăng ông / Qua các biên thùy ngôn ngữ / Ông có bao giờ nghĩ / Cỏ non
thơ ông xanh / Ra ngoài thế kỷ vẫn còn xanh? / Tôi hiểu lắm mỗi thời mỗi khác / Ta
suy tư dưới ánh đèn nê-ông / Ông thương nhớ màu lam/ Nỗi buồn ta ngũ sắc” (Kỷ
niệm Nguyễn Du (2)) [79, 198].
Nhắc đến Nguyễn Du, Chế Lan Viên không chỉ dành cho Người những vẫn thơ
thể hiện lòng yêu mến, mà qua đó, nhà thơ còn muốn gửi đến nhân loại một thông
điệp: hãy quan tâm đến những nhân tài của đất nước khi họ còn sống, khi họ còn
đang cống hiến cho đời những trái ngọt. Còn khi họ đã mất rồi, sự quan tâm ấy đôi
khi chỉ “thỏa lòng ta thôi”, chứ không còn có ích gì cho các danh nhân nữa:
- “Khi ta kỷ niệm Nguyễn Du chả ích gì cho Nguyễn
Chả qua để kẻ yêu thơ khỏi tủi trong lòng.”
(Kỷ niệm Nguyễn Du ) [77, 90]
- “Ta có thương ông thì ông cũng đã chết lâu rồi.”
(Kỷ niệm Nguyễn Du (2)) [79, 199]
67
Khi chiến tranh đã lùi xa, đứng ở vị thế hôm nay, Chế Lan Viên không khỏi băn
khoăn khi nghĩ về một thời kỳ chiến tranh gian khổ, nhiều hy sinh mất mát của dân
tộc. Mặc dù cuộc sống của mỗi người đã đổi khác, nhưng nhà thơ luôn ý thức được
món nợ “xương máu, cơm áo...” xưa. Nên mỗi khi nhắc đến những lầm than của
dân tộc, Chế Lan Viên vẫn một giọng hào hùng, đầy trách nhiệm. Có thể coi những
bài thơ viết về chiến tranh sau năm 1975 là thơ hậu chiến. Đó là “âm vang của chiến
tranh”. Nhưng ông đã có một định giá mới: “Anh chiêm nghiệm về sự hy sinh, cân
lại “giá máu”...Anh triết lý về cảnh giác..., suy nghĩ về sự sống trên cái chết, về văn
minh thắng tàn bạo, về bản chất nhân đạo của chiến tranh cách mạng” [31, 7]. Sự
thật về những mất mát của quân đội ta trong những năm chiến tranh thường không
bao giờ được nhắc đến. Nhưng lúc này, sự thật lịch sử ấy đã được nhắc đến trong
thơ ca Việt Nam như lời nhắc nhở phải biết trân trọng những gì ta đang có hôm nay:
“Bom tấn nện thường xuyên / Lòng ta thành tọa độ / .../ Còn ta thì bị giết / Dưới một
trời bom tấn / Dưới một trời hỏa châu” (Ly biệt ngày nay) [77, 73].
Cái mất mát lớn nhất của chiến tranh không chỉ được tính bằng những số liệu bộ
đội hy sinh cụ thể, mà cái mất mát lớn nhất, đeo đẳng con người lâu dài nhất chính là
sự mất mát của những con người còn sống sót sau cuộc chiến. Khi nhắc đến vấn đề
này, bản thân Chế Lan Viên cũng đã từng bị đưa ra mổ xẻ về tư tưởng. Có người
không hiểu ông hoặc cố tình không hiểu ông thì cho rằng ở đây có sự “phản tỉnh”,
“sám hối”...Khi bài thơ Ai? Tôi ra đời đã tạo nên nhiều cách hiểu khác nhau. Bài thơ
nói đến sự hy sinh quá lớn của bộ đội ta trong chiến dịch Mậu Thân: “Mậu Thân
2000 người xuống đồng bằng / Chỉ một đêm, còn sống có 30”. Và ông cũng thẳng
thắn nhận trách nhiệm về mình sau những mất mát đó: “Tôi! Tôi - người viết những
câu thơ cổ võ / Ca tụng người không tiếc mạng mình trong mọi cuộc xung phong”
[77, 227].
Nguyễn Bá Thành đã nhận định: “...Ở bài thơ Ai? Tôi thì ông oán trách thơ
mình đã cổ vũ mọi người xông lên chiến trận, làm cho hàng ngàn người không trở
về. Tình cảm của ông trong những bài thơ đó trở lại với tinh thần nhân đạo chung
chung của Điêu tàn...Ý nghĩa lịch sử, và giai cấp, dân tộc bị gạt bỏ” [63, 410]. Và
điều nhà thơ trăn trở, đau đớn nhất là những khó khăn, vất vả của 30 con người còn
sống sót đó trong cuộc sống thời hậu chiến. Họ vẫn đang hàng ngày mưu sinh đầy
68
chật vật, dù: “Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ / Chả huân chương nào nuôi
được người lính cũ!”. Và nhà thơ lại một lần nữa lên tiếng nhận trách nhiệm về
mình khi nhận ra văn chương không giúp ích gì cho người lính trong cuộc sống
hôm nay. Bài thơ là lời giãi bày chân thành của nhà thơ đối với những mất mát đã
qua. Một lần nữa, Chế Lan Viên lại nhắc lại thông điệp: hãy quan tâm hơn nữa đến
cuộc sống của những con người đã vì đất nước mà hy sinh cả tuổi trẻ, thậm chí là
xương máu của mình.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Có thể khẳng định, cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên sau 1975 là cái tôi
đạo đức, cái tôi thế sự đời tư với những chiêm nghiệm, băn khoăn về tất cả các vấn
đề của cuộc sống, của nghề nghiệp. Những năm cuối đời, nhà thơ mang một tâm thế
mới, một tâm trạng mới trước sự chuyển vần của thời cuộc. Giờ đây, nhà thơ trở lại
là cái tôi cá nhân tự nói về mình, nói với chính mình, về nhân tình thế thái, về cuộc
đời, về những số phận riêng có trong xã hội. Từ đó, những vướng mắc, những trăn
trở, cả những nghiệt ngã của bệnh tật, với cái chết đang gần kề được bộc lộ một
cách chân thành. Và, bức chân dung tinh thần mới của nhà thơ hiện hữu đầy cá tính
trước những thách thức của cuộc đời.
69
Chương 3. NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CÁI TÔI TRỮ TÌNH
TRONG THƠ CHẾ LAN VIÊN SAU 1975
3.1. Sự kế thừa và phát triển các thể thơ
Ngay từ khi mới cầm bút, Chế Lan Viên đã rất có ý thức trong việc tìm tòi và
sáng tạo các thể loại thơ. Ông đã thể nghiệm hầu hết các thể thơ dân tộc, như thể lục
bát, thể tứ tuyệt, thể 7, 8 chữ…Trong đó, hai thể thơ được ông sử dụng một cách
nhuần nhuyễn là thơ tự do và thơ tứ tuyệt. Một mặt ông đã kế thừa và phát huy
những giá trị truyền thống của văn học dân tộc, đồng thời nhà thơ có những cách tân
nhất định, tạo nên sự đổi mới cho những thể thơ ấy. Điều này thể hiện rất rõ trong
thơ Chế Lan Viên sau năm 1975.
3.1.1. Thể thơ tự do
Bằng tài năng sáng tạo nghệ thuật của mình, Chế Lan Viên đã góp phần khẳng
định vai trò, vị trí của thơ tự do trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Đây cũng là thể
thơ thể hiện rất rõ tính hiện đại hóa của thơ ở giai đoạn đổi mới. Tính từ năm 1980
đến năm 1988, số lượng bài viết theo thể tự do chiếm ưu thế hơn cả. Các bài thơ tự
do trong Di cảo thơ được ông viết với nhiều đề tài khác nhau. Nhưng tất cả đều có
chung một nhận đinh, Chế Lan Viên chính là “người mở đường và dẫn đường cho
thể thơ tự do, đã có những thể nghiệm đầu tiên và đi đến cùng của sự sáng tạo thể
loại” [30, 167].
Những bài thơ tự do của Chế Lan Viên sau năm 1975, đặc biệt là trong Di cảo
thơ chịu ảnh hưởng nhiều của thể thơ văn xuôi nên giọng điệu có phần thô ráp, nhưng
lại tạo nên sự bất ngờ cho người đọc. Sự phóng khoáng của câu chữ, niêm luận cộng
với tài sáng tạo nghệ thuật của Chế Lan Viên đã tạo cho thơ tự do một phong cách
mới, một diện mạo mới. Các bài thơ đều thể hiện những vấn đề mang tính thế sự: từ
những tình cảm thiêng liêng của gia đình, bạn bè, tình cảm với quê hương, đất nước
đến những vấn đề siêu hình khi nhìn về thế giới bên kia…Nhà thơ thường sử dụng
những hình ảnh mới lạ, vừa thực vừa ảo, mang tính cách tân rõ rệt. Có thể nói, thơ tự
do rất phù hợp với sự chuyển động không ngừng trong tư tưởng Chế Lan Viên những
năm cuối đời. Trong Di cảo thơ, cho dù là các bài thơ hoàn chỉnh hay mới ở dạng
70
phác thảo thì Chế Lan Viên cũng luôn có ý thức trau dồi nghệ thuật để vừa đảm bảo
tính hình tượng, cấu trúc, niên luật nhưng cũng vừa mang tính hiện đại. Đây cũng là
điều ông tâm niệm:
“Tự do quá cũng giết chết thơ như gò bó
Kỷ luật bắt ta tìm vào ở ngay trong đất thó
Còn tuyệt đối tự do thì biến hoa thành ra cỏ
Bởi xô bô.”
(Tự do và thơ) [79, 143]
Đồng thời, có thể thấy thể tự do cũng hoàn toàn thích ứng với phong cách triết
luận về nhân thế của Chế Lan Viên. Điểm mới là những câu thơ tự do đều có độ dài
vừa phải, kiểu như: “Những hòn bi tuổi nhỏ / Lớn lên, tay cầm nguyên đó / Chưa
thể nào ném vào / Một lỗ bi nào / Cho đắt / Vào một trang thơ nào / Đẹp mắt / Biết
làm sao?...” (Những hòn bi) [79, 141].
Hoặc trong bài thơ có sự biến đổi về số lượng các chữ trong câu:
“Huống nỗi thời sau ấy, người ta bay lên trời, chơi trong vũ trụ, thiết gì thơ
Ấy vậy mà anh vẫn hò ơ
Chống con thuyền, con đò anh trên bến thời gian
Anh cứ hát
Cố quên mình mặt rỗ.”
(Mặt rỗ) [79, 246]
Điều này khác hẳn với những bài thơ tự do ở giai đoạn trước, khi nhà thơ
thường có xu hướng mở rộng câu thơ. Thậm chí, ở ngay tập Ta gửi cho mình
(1984), ở bài Thơ bình phương, đời lập phương xu hướng ấy vẫn là chủ đạo:
“Chữ được mùa - chữ ủ chua - chữ phóng xạ -
chữ mùa trăng và chữ đêm rằm, - chữ lên men
chữ thành “gien”, mật mã - chữ đu bay, voi lồng
71
- chữ múa kiếm trên dây - chữ thành tượng đá
- chữ thành tượng đá - chữ lặng theo cách thiền tông
- tất cả làm tâm hồn đảo ngược vào trong - chữ hừng đông
và chữ chớp dông - chữ ra đòng - chữ hồng huyết cầu
tế bào vỏ não - chữ thụ phấn, thụ tinh sáng tạo…”
(Thơ bình phương - đời lập phương) [76, 70-71]
Tuy nhiên, trong Di cảo thơ có một bài thơ được cho là rất đặc biệt, bởi nó
được cấu tạo không theo một quy tắc nào. Bài thơ Ấy gồm 133 chữ nhưng viết liền,
không xuống dòng, chỉ có 21 dấu phẩy ngắt và một dấu chấm than:
“Năm ấy, ngõ ấy, mặt người ấy, hoa đào ấy, gió đông ấy, thơ Thôi Hộ ấy, và
mùa thôi ủng hộ ấy, lòng người chảy trôi mặc dù câu thơ tồn tại ấy, sự phục hồi của
hoa đào năm ngoái ấy, cái hồn ma của ngõ cũ năm xưa ấy, sự vắng tanh vắng ngắt
mặt người năm nay, năm sau, năm nữa ấy, cái hủy diệt của gió đông đến đông cả
người ấy, và dù máu người đông lại dưới mồ, nhưng cái không chết của hoa hoa,
người người trong thơ Thôi Hộ ấy, dù tất cả ta ta mình mình đi về cõi ấy, bằng con
đường ấy, dòng sông và ngọn đèn ngọn gió ấy, hỡi ơi, thế mà ta vẫn làm thơ ấy”
(Ấy) [79, 244].
Bài thơ cho thấy sự phá vỡ mọi quy tắc thể loại thơ. Nhưng chúng ta cũng nhận
thấy trong bài thơ này có âm hưởng và giọng điệu của thể loại văn xuôi. Chính sự
đan xen giữa các thể loại giúp cho thơ tự do Chế Lan Viên có được sự mới mẻ về
hình thức nhưng vẫn cô đọng và hàm xúc.
Mặc dù thơ tự do của Chế Lan Viên phần lớn có sự tiết chế tối đa về mặt câu
chữ nhưng ông lại không giới hạn về mặt số lượng câu trong bài. Điều đó cho phép
nhà thơ có thể mở rộng chiều liên tưởng của mình trong các vấn đề dù lớn hay nhỏ.
Trong thơ Chế Lan Viên sau năm 1975, chúng ta bắt gặp một số bài thơ dài có khi
lên đến hàng trăm câu, như: Calley Sơn Mỹ tháng 3 - 68 dài 234 câu, hay bài Gửi
Trạng Thông họ Hoàng dài 166 câu. Tuy nhiên điều này chỉ diễn ra ở một số bài
thơ cá biệt, còn lại, các bài thơ tự do có độ dài ngắn khác nhau tùy theo tâm trạng
72
của tác giả, thường là 3, 5, 6, 7, 8, 9 dòng thơ…Cách phân chia các khổ thơ cũng
không theo bất cứ một quy tắc nào, mà nhà thơ chủ yếu thể hiện làm sao cho hiệu
quả nhất. Chính vì vậy số khổ thơ trong một bài thơ cũng không bị giới hạn thành
bốn khổ như trước mà có thể nhiều hơn, từ 5 khổ (Từ thế chi ca (1)), đến 14 khổ
(Thơ về thơ (1))…
Một điểm mới nữa trong thơ Chế Lan Viên là lời kết của mỗi bài thơ thường
bỏ ngỏ để người đọc có thể tự do suy ngẫm, suy luận về những điều mà nhà thơ triết
lý. Chế Lan Viên hướng đến tất cả các vấn đề của đời sống xã hội, các vấn đề nhân
sinh với những nỗi buồn, niềm vui, sự hy vọng, thất vọng…với tất cả sự suy tư chân
thành nhất:
- “Chú tiểu xuất gia
Đi về ô đó
Vì ta.”
(Chú tiểu) [79, 108]
- “Anh là kẻ rất thấp mà, là chổi thôi mà
Sao lại bắt anh quét trời như những chùm sao
Ở tận trên cao.”
(Đánh lạc hướng) [78, 74]
Như vậy, có thể thấy, thể thơ tự do là sự minh chứng sinh động nhất cho sự kế
thừa và đổi mới của thơ Chế Lan Viên sau năm 1975. Những quy tắc về số câu, số
chữ, niêm luật vốn đã không bị bó buộc nay lại càng được tung phá giúp cho Chế
Lan Viên có thêm nhiều cơ hội để sáng tạo. Sự mở rộng và không giới hạn số lượng
câu thơ, chất văn xuôi được đan cài trong các câu thơ, ý thơ đã tạo cho thơ tự do của
Chế Lan Viên một diện mạo mới, đầy tính nhạc. Với những cách tân đổi mới ở thể
thơ tự do, Chế Lan Viên đã góp phần vào công cuộc hiện đại hóa thơ ca Việt Nam
những năm đổi mới.
73
3.1.2. Thơ tứ tuyệt
Thơ tứ tuyệt được coi là đặc sản của Chế Lan Viên sau 1975. Khi cuộc sống có
sự thay đổi lớn, những vấn đề thường nhật là những vấn đề mang tính thế sự, đời tư,
có thể sẽ không cần thiết phải sử dụng đến những thể thơ dài. Hơn nữa đây cũng là
khoảng thời gian Chế Lan Viên đang phải chống chọi với căn bệnh hiểm nghèo,
hơn ai hết ông hiểu được mình đang bị thời gian dồn vào chân tường, nên nhà thơ
muốn làm những bài thơ ngắn gọn.
Khảo sát thơ ông giai đoạn này, ta thấy số lượng thơ tứ tuyệt được sáng tác theo
đúng quy định về hình thức là rất ít (chỉ khoảng trên dưới 20 bài). Đó là những bài
thơ bốn câu, mỗi câu có năm hoặc 7 chữ. Còn lại, các bài thơ tứ tuyệt viết sau năm
1975 đều có sự cách tân nhất định cả về nội dung lẫn hình thức: “Chúng ta có thể xem
thơ tứ tuyệt Chế Lan Viên là những bài thơ bốn câu không hạn chế về số từ, thể
thơ…nhưng luôn tuân thủ nguyên tắc độc đáo của thể loại, triển khai một tứ thơ trọn
vẹn: xoáy sâu vào một trạng thái tình cảm đặc biệt, phát hiện một ý tưởng có tính
chất triết lý bất ngờ và cuối cùng là gây hứng thú cho người đọc” (25, 204-205).
Sự đổi mới thơ tứ tuyệt của Chế Lan Viên được thể hiện trước hết ở hình thức
nghệ thuật với sự thay đổi lớn về số lượng chữ trong một câu. Không chỉ là những
câu thơ 7 tiếng với hình dáng quen thuộc mà nhiều câu thơ được mở rộng với số
tiếng từ 10 trở lên, tạo nên sự độc đáo trong thơ Chế Lan Viên sau 1975. Có thể kể
tên một loạt các bài thơ như: Gió mùa đông bắc, Tự trách mình, Ong và mật, Sân
bay, Ra hoa và đậu củ…Nhưng cũng có những câu thơ đặc biệt với sự mở rộng bất
ngờ tới 22 tiếng như: “Sao chổi vinh quang kia, quỹ đạo nó cắt ngang qua quỹ đạo
tất cả các hành tinh trong hệ mặt trời” (Vĩ mô và vi mô), hoặc có câu thơ kéo dài tới
24 tiếng: “Chẳng qua là anh sợ cặp sừng kềnh càng chơi trội kia đi ngang rừng có
làm phiền cho lá cành, cho đồng loại?” (Cẩn thận).
Sự mở rộng câu thơ tứ tuyệt trong thơ Chế Lan Viên ngày càng được bộc lộ rõ
nét. Dường như thời gian cuối đời đã khiến ông nhận ra ưu thế của thể thơ, nó phù
hợp với việc diễn tả cảm xúc mới mẻ, sâu lắng như: nhớ thương, nuối tiếc, đợi chờ,
cô đơn…Đó là khoảnh khắc được gọi thành tên:
74
“Chỉ một ngày nữa thôi. Em sẽ
trở về. Nắng sáng cũng mong. Cây
cũng nhớ. Ngõ cũng chờ. Và bướm
cũng thêm màu trên cánh đang bay”.
(Tập qua hàng) [74, 54]
Có những câu thơ trải dài, không hạn định số chữ:
“Miền nội tâm anh, dặm tinh thần anh là ngàn lau xao xác ấy
Bạc trắng ngàn lau cũng là tuổi thơ anh thường nhắn gọi anh về”
(Lau) [79, 37]
Nhà thơ Tố Hữu đã nhận định: “Sự tràn ra hay hụt đi của số từ trong câu là
biến thái của tứ tuyệt Chế Lan Viên” [35, 206]. Cho nên trong một bài thơ tứ tuyệt
bảy chữ, Chế Lan Viên cũng tạo ra sự phá cách khi để một câu tám chữ xem vào
giữa:
“Vườn anh mặt trời hào hoa qua lại
Rủ nhau mơ mộng những vầng trăng
Hè rủ thu về cho quả chín
Bướm tìm đến cỏ để du xuân.”
(Vườn anh) [79, 122]
Đây là sự trải nghiệm mới đầy thú vị của Chế Lan Viên với một thể loại vốn
vẫn được coi là rất nghiêm nhặt. Mặc dù cấu trúc bị phá vỡ nhưng thơ tứ tuyệt Chế
Lan Viên vẫn có đầy đủ các đặc điểm vốn có của thể thơ, thậm chí còn tạo nên sự
bất ngờ, độc đáo. Trong thơ tứ tuyệt mới của Chế Lan Viên, nhịp điệu và tiết tấu
luôn có sự thay đổi theo tâm trạng tác giả, chứ không bị bó buộc trong sự khuôn
phép của câu thơ. Hình thức thơ tứ tuyệt của Chế Lan Viên đã “xóa nhòa niêm luật,
biết phá để thay và làm mới bằng nhiều cách, không chịu gò bó trong một cái khuôn
cố định nào” [33, 204):
75
- “Lên gác nhìn quanh kiếm dáng xuân
Mai vừa trụi lá, nhánh khô cành
Hồng không. Cúc cũng không. Duy chỉ
Gương mặt nhà ai thoáng nét trăng”
(Lên gác) [77, 193]
- “Rồi ta sẽ cách xa nhau như hai tượng gỗ trong chùa,
siêu hình và bất tử
Cũng hít một mùi hương, cùng nghe một tiếng chuông mà
gỗ anh và gỗ em cùng chết khô để tróc sơn dầu”
(Tượng) [78, 152]
Thơ tứ tuyệt Chế Lan Viên vừa mang tính truyền thống lại vừa mang tính hiện đại.
Hiện đại không chỉ ở hình thức nghệ thuật mà còn hiện đại trong nội dung thể hiện.
Nếu như trong thơ tứ tuyệt trung đại thường lại gắn với các chủ đề như trăng, gió, hoa,
tuyết…thì trong thơ tứ tuyệt hiện đại thường gắn liền với cuộc sống đời thường. Thơ tứ
tuyệt Chế Lan Viên cũng vậy, nhà thơ đã lấy con người làm chủ thể sáng tạo. Đây
được cho là sự chuyển hướng tích cực trong việc thâu nhận thế giới quan, nhân sinh
quan của nhà thơ. Trong thơ Chế Lan Viên xuất hiện những hình ảnh vô cùng gần gũi,
thân thuộc với cuộc sống hàng ngày của con người trong thời bình:
“Còng lưng tưới nước vạt rau khô
Bơm hỏng đâm ra khổ cả nhà
Đêm ngủ chỉ toàn lo vật giá
Xa dần truyện ngắn, bớt dần thơ”
(Cảnh điền viên) [78, 41]
Chế Lan Viên đã “chiếm lĩnh chiều sâu hiện thực bằng cách tăng tính khái
quát, triết lý ở chủ đề và sự thể hiện con người ở nhiều chiều” [53, 180] để thể hiện
sự phong phú của tứ thơ trong một khuôn khổ hạn hẹp của thể thơ tứ tuyệt. Thơ tứ
76
tuyệt Chế Lan Viên như “một góc hẹp nhìn ra thế giới vô cùng” [53,182] Những
cảm hứng thế sự về tình cảm với mẹ, với vợ, với con, với các chị hay với bạn
văn…đều được thể hiện một cách chân thành trong thơ Chế Lan Viên. Thơ tứ tuyệt
Chế Lan Viên đã vươn tới mọi khía cạnh của hiện thực cuộc sống và hiện thực tâm
trạng con người: “Chim cu gù ánh sáng / Sương trên cành chưa rơi / Tôi ở hoàng
hôn của tuổi / Nên yêu sương móc của đời” (Sương trên cành) [77, 88].
Bên cạnh những hình ảnh quen thuộc của cuộc sống hàng ngày, thơ tứ tuyệt Chế
Lan Viên sau năm 1975, đặc biệt là trong Di cảo thơ còn chứa đựng những hình ảnh
mang tầm vóc vũ trụ dẫn dắt người đọc vào một thế giới lạ, đầy mê hoặc: “một không
gian vô chiều, mơ hồ, hư ảo với những cõi trường sinh, cõi ẩn hình, cõi không, cõi quen,
xứ không màu, miền xưa, miền quá vãng, rừng nhân ảnh, bến Lú, sông Tương, trời mây
dĩ vãng đền kỷ niệm”. Từ đó, không gian thực trong các bài thơ tứ tuyệt được mở rộng
thành không gian siêu tưởng. Không gian thực và không gian tâm tưởng với nhiều kiểu
ẩn dụ là ẩn dụ đơn, ẩn dụ kép và ẩn dụ nhiều tầng. Chính vì vậy mà thế giới thơ Chế Lan
Viên vừa thực vừa ảo với nhiều tầng nghĩa, đan cài nhau:
- “Rực rỡ mùa hoa giấy suốt hè
Miền Nam xóm lạ hóa thành quê
Dẫu vui muôn dặm trời mây khác
Chỉ một màu hoa đủ gọi về.”
(Hoa giấy) [77, 89]
- “Miền nội tâm anh, dặm tinh thần anh là
ngàn lau xao xác ấy
Bạc trắng màu lau cũng là tuổi thơ anh
thường nhắn gọi anh về.”
(Lau) [79, 37]
Từ hình ảnh cây lau, chúng ta nhận thấy lau không chỉ là “miền nội tâm, dặm
tinh thần” mà nó còn là ký ức tuổi thơ, là cõi tâm linh, là cõi siêu thực, hư vô, là
hạnh phúc đã mất đi và là cả tâm hồn của nhà thơ…Sức hấp dẫn của thơ tứ tuyệt
77
Chế Lan Viên không chỉ nằm trong vẻ đẹp gợi cảm, sinh động ở cảnh sắc thiên
nhiên mà ẩn chứa bao nỗi niềm tâm sự của nhà thơ về cuộc sống. Vẻ đẹp của thiên
nhiên và tình người được hòa quyện trong hình ảnh tạo cho bài thơ mang sắc thái
thẩm mỹ phong phú:
“Bốn năm đạn lửa chim bay hết
Nay tiếng bom im cánh biếc về
Tiếng hót đầu tiên ơ lạ lắm
Cả làng rưng lệ đứng nghe im.”
(Cánh biếc Vĩnh Linh) [77, 80]
Chỉ qua một tiếng chim hót cũng làm cho con người nhận ra sự sống đang dần
được hồi sinh trên mảnh đất quê hương. Đó là khoảnh khắc rưng rưng lệ, là khoảnh
khắc bừng tỉnh, cũng là khoảnh khắc có ý nghĩa trong nhận thức về cuộc đời. Từ sự
thấm thía cái lạnh vừa và lạnh gắt của hai đợt gió mùa trong những lúc cô đơn, con
người chợt nghĩ đến một cái lạnh khác còn đáng sợ hơn tất cả, đó là sự lạnh lòng, sự
thay đổi tình cảm:
“Từ lúc em ra đi, hai lần gió mùa đông bắc thổi qua phòng
Lần trước lạnh vừa, lần sau lạnh gắt
Ở đất nước đánh giặc này, ta chỉ sợ gió mùa, không sợ giặc
Chỉ sợ lòng mình, ai sợ gió mùa đông.”
(Gió mùa đông bắc) [74, 67]
Hay đứng trước vẻ đẹp của thành cổ khi Về thăm xứ Huế, Chế Lan Viên bùi
ngùi xúc động viết lên những dòng thơ: “Thơm ngát mùa sen trắng cổ thành / Về
thăm xứ Huế chỉ mình anh / Lăng vua hoa đại rơi đầy lối / Chen bóng cành hoa, chỉ
bóng mình” (Về thăm xứ Huế) [78, 67].
Thơ tứ tuyệt truyền thống thường mang tính phổ quát cao, thường lược đi chủ
thể để thực hiện cái nhìn siêu cá thể: “Nó chỉ biểu hiện cái nhìn và sự trầm tư nội tại
nên cũng ít có khả năng thể hiện cụ thể giọng điệu, tiếng nói của con người” (Trần
78
Đình Sử). Mặt khác nhà thơ cũng ít xuất hiện, nếu có thì họ tự gọi mình bằng những
danh từ chung: thi nhân, khách, lữ khách…Còn trong thơ tứ tuyệt của Chế Lan
Viên, chủ thể sáng tạo lại được thể hiện rất rõ, thậm chí là đầy cá tính. Thơ tứ tuyệt
Chế Lan Viên được giải phóng khỏi sự gò bó của niêm luật, được tạo dáng thành
câu thơ điệu nói, thành lời nói có chủ thể với các đại từ xác định: “Anh trút tình
thương trong sắc biếc / Ru cho em ngủ giấc trưa lành”.
Có thể nói, Chế Lan Viên đã thực sự đóng góp cho thơ tứ tuyệt những bước
chuyển đáng kể theo hướng hiện đại. Việc kế thừa vẻ đẹp hài hòa giữa truyền thống
và hiện đại được thể hiện nổi bật ở cách nhìn, cách nghĩ và cảm nhận của nhà thơ.
Mặt khác, nó còn là biểu hiện sinh động của một tâm hồn thơ phong phú, đa dạng,
đầy bản lĩnh và giàu sức sáng tạo. Nhà thơ quan tâm đến những ước mơ của con
người trong cuộc sống thường. Thơ tứ tuyệt của Chế Lan Viên độc đáo trong “cách
xử lý đề tài, tổ chức hình ảnh, xây dựng tứ thơ, ở sức khái quát, tính triết lý, vừa
thực vừa ảo” [32, 204], nhằm tạo ra những bài thơ hay mà “không sử dụng cạn kiệt
thể loại” [32, 204].
Như vậy, nhìn từ phương diện thể loại, ta nhận thấy Chế Lan Viên đã tìm đến
nhiều thể thơ khác nhau và ở thể thơ nào ông cũng đạt được thành công nhất định,
nhưng chủ yếu nhà thơ “đi hai chân song hành trên hai thể tứ tuyệt và tự do”
[33,187]. Với bản lĩnh nghệ thuật và sự say mê tìm tòi, thể nghiệm trong sáng tạo,
ông đã tạo được những đặc điểm nghệ thuật riêng ở những thể thơ mà ông sử dụng.
Chính điều đó đã góp phần làm nên vẻ đẹp độc đáo và sức sống lâu bền cho thơ
ông, đồng thời, những tìm tòi, sáng tạo của ông cũng góp phần hiện đại hóa thơ Việt
Nam hiện đại.
3.2. Giọng điệu tâm tình, triết luận
3.2.1. Giọng điệu trữ tình sâu lắng
Từ điển Thuật ngữ Văn học định nghĩa: “Giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập
trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời
văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ…” (26,
91). Giọng điệu chính là cảm hứng chủ đạo của tác giả, thể hiện qua giọng riêng của
79
mình trước đối tượng thẩm mỹ. Đó là tư tưởng, là thái độ của nhà thơ trước hiện thực
với những dấu hiệu, sắc điệu riêng của nó: tự hào, vui sướng, giận dữ, đau khổ…được
biểu hiện cụ thể qua hình ảnh, nhịp điệu, đề tài, tư tưởng, hình tượng…Yếu tố giọng
điệu là biểu hiện cụ thể của cảm hứng sáng tạo đối với hiện thực.
Thời chiến tranh, do yêu cầu của lịch sử, thơ trữ tình của Chế Lan Viên giàu
chất chính trị, chính luận. Nhà thơ cao giọng trong những bài thơ chống giặc với âm
hưởng hào sảng, không lẫn với một ai:
- “Ôi trường Sơn vĩ đại của ta ơi
Ta tựa vào Người, kéo pháo lên đồi
Ta tựa vào Đảng ta, lên tiếng hát”.
(Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?) [68, 97]
- “Ta đổ máu lòng ta không vay mượn
Như Hồng Lĩnh tự mình xây núi lớn
Cửu Long dài đảm nhận lấy phù sa.”
(Con mắt Bạch Đằng - Con mắt Đống Đa) [70, 142]
Nhưng càng về sau, thơ Chế Lan Viên chuyển sang giọng điệu triết luận với cảm
hứng thế sự, đời tư. Nhà thơ chuyển dần rồi chuyển hẳn sang giọng trầm. Ông nhận
thấy đây là sự thay đổi phù hợp với hoàn cảnh thời bình. Điều đó đã làm nên cái hay,
cái đẹp trong thơ Chế Lan Viên sau 1975. Nguyễn Bá Thành đã nhận thấy sự thay đổi
giọng điệu trong thơ Chế Lan Viên: “Nhà thơ đã hai lần đổi giọng. Lần thứ nhất là từ
“than” thành “hỏi” và lần này là từ “hát” thành “nói”” [63, 408]. Tuy nhiên, việc
chuyển đổi giọng điệu này không phải chỉ đến những năm sau 1975, mà ta đã thấy sự
thay đổi này ngày từ tập Đối thoại mới (1973). Nhà thơ viết: “Xưa tôi hát mà bây giờ
tôi tập nói / Chỉ nói thôi mới nói hết được đời” (Sổ tay thơ) [72, 131].
Cũng từ đây, các tập thơ tiếp theo đều mang âm hưởng giọng trầm. Từ Hoa
trên đá, Ta gửi cho mình đến Di cảo thơ, Chế Lan Viên đã chuyển sang giọng triết
luận sâu sắc. Không còn giọng điệu âm vang, hào sảng kiểu: “Hỡi sông Hồng tiếng
80
hát bốn nghìn năm / Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?”, mà giờ đây, người đọc
đón nhận một giọng thơ khác lạ, như tâm tình, giãi bày tấm lòng của nhà thơ:
“Giọng cao bao nhiêu năm, giờ anh hát giọng trầm / Tiếng hát lẫn với im lìm của
đất” (Giọng trầm) [77, 1987]. Trần Thanh Đạm đã nhận xét: “Cái hay của các bài thơ
triết lý như trên thường ở giọng thơ. Cái khác nhau cũng ở đó. Có giọng than thở đau
buồn. Có giọng ung dung thanh thản. Giọng thơ Chế Lan Viên thuộc loại thứ hai.
Lẫn trong các câu thơ, thấp thoáng một nụ cười” [5, 390].
Từ sau 1975, đất nước ở giai đoạn hậu chiến với ngổn ngang trăm mối. Con
đường mà Việt Nam đang đi cần phải có một sự đổi mới. Chế Lan Viên không còn
mê say hát những khúc ca ca ngợi Tổ quốc, nhân dân theo cảm hứng sử thi như
trước nữa mà nhà thơ đã chuyển giọng sao cho phù hợp với tình hình, đó là giọng
thơ trữ tình thế sự. Nhà thơ bây giờ tỉnh táo hơn khi nhìn thẳng vào thực tế xã hội,
vào chính mình và thơ để nghiền ngẫm, suy nghĩ. Những năm tháng cuối đời, khi
lâm trọng bệnh, trong tâm thế của một người sắp đi xa những tâm sự của ông càng
trở nên tha thiết, nhân bản lạ lùng. Ông như muốn gửi cả con tim, cả điêu hồn của
mình ở lại cùng cõi nhân gian, cùng cuộc đời mà ông từng yêu quý, gắn bó. Nguyễn
Bá Thành đã rất chính xác khi nhận định: “Từ tâm thế một người sắp từ giã cõi đời,
Chế Lan Viên chủ động đổi giọng thơ. Giờ đây là giọng thơ đơn lẻ, não nùng và có
phần chua chát” [63, 407].
Việc thay đổi giọng điệu cũng đòi hỏi nhà thơ phải có bản lĩnh, phải có sự nhạy
bén nhất định. Đặc biệt là trong những chủ đề quen thuộc. Thời chiến tranh, Chế Lan
Viên đã dùng hết sinh lực của ngòi bút để cổ vũ cho cuộc chiến chống ngoại xâm:
“Trong trăm lứa đây là lứa con yêu mẹ nhất / Đứa giữa vườn rau, Việt Nam thành
tiếng nấc / Đứa trên hạm tàu, Tổ quốc hóa lời ca / Ở mỗi kho xăng, ở mỗi bến phà /
Đâu chẳng có thịt xương ta liền với đất” (Suy nghĩ 1966) [70, 157].
Chuyển sang thời bình, vẫn là ngợi ca những con người ấy, nhưng nhà thơ lại đằm
giọng xuống, tạo nên sự suy tư cho người đọc: “Ví dụ sáng ấy Trỗi hy sinh ở pháp
trường rồi mà không có câu thơ nào nói đến cỏ non / Ví dụ sáng ấy tiếng hô của Trỗi
không người nghe thấy / Thì giọt máu Trỗi cứ là giọt máu / Nỗi đau cứ là nỗi đau / Áo
trắng người anh hùng muôn đời vẫn trắng / Ấy là số phận nghìn người như Trỗi / Vạn
81
người như Trỗi / Ôi! Văn chương có lỗi / Với bao người!” (Ví dụ) [78, 47]. Hoặc khi nhớ
đến những người đã khuất, nhà thơ thể hiện sự tiếc thương đầy xúc động: “Bỗng dưng tôi
nghĩ đến những nắm xương Trường Sơn / Không người lượm nhặt / Những anh hùng
đến chết vẫn vô danh” (Chiều châu Âu) [78, 35].
Bước vào những năm hòa bình, đặc biệt là từ những năm đổi mới, thơ Chế Lan
Viên thể hiện rất rõ giọng trầm của muôn mặt đời sống. Trong hòa bình, không thể
sống, suy nghĩ và cảm xúc như thời chiến tranh. Giờ đây thơ ca cần phải có sự thức
tỉnh những nhu cầu mới và ý thức cá nhân mới. Cuộc đời không phải toàn vinh
quang, chiến thắng như cảm hứng lãng mạn hóa, lý tưởng hóa hiện thực thời thơ trữ
tình sử thi nữa. Nhà thơ cảm nhận được tất cả các trạng thái tinh thần của xã hội
đang có bước chuyển biến dữ dội. Ông đã phát hiện những nỗi bất hạnh, sự tàn nhẫn
mà chiến tranh đem lại cho con người. Đó là sự đói nghèo, khổ sở, bất công, là
những ước mơ bị lụi tàn, là tài năng cạn kiệt bởi những nhu cầu đời thường. Nhà
thơ nói nhiều đến sự phức tạp của con người trong đối nhân xử thế với một giọng
trầm tư sâu lắng nhưng mang nặng tâm sự:
“Cuộc đời là trò chơi
Cuộc sống là trò chơi
Mà không chơi đau khổ thì không ù được nụ cười.”
(Hai chiều) [77, 113]
Hoặc khi đối diện với căn bệnh hiểm nghèo, nhắc về cái chết, mặc dù không
nhận thấy sự ai oán, tiếc thương cuộc đời nhưng người đọc cũng nhận ra một giọng
trầm buồn, chua xót, pha chút hài hước như để an ủi mình và an ủi những người ở
lại: “Sáng đưa xác vào, trưa lấy xương ra / Đều đặn như bánh vào lò / Mỗi ngày hai
suất / Người gia đình buổi sáng xe, vòng hoa, kèn…đầy nghi lễ / Giấu che cái chết /
Đưa người vào lò / Chiều đến nhặt xương như ta nhặt thóc / Tương, hạnh phúc, ước
mơi, bao nhiêu xương thịt tâm tư một đời / Khét lẹt bay trên trên trời mây đục” (Lò
thiêu) [77, 241].
82
Không còn là giọng thơ hùng tráng vang dội như tiếng kèn xung trận, mà giờ
đây là giọng tỉnh táo đến sắc lạnh, biết chấp nhận đau đớn, may - rủi, bất hạnh, tai
ương, ngang trái…
“Hạnh phúc đến thình lình và ở thế đơn côi
Còn tai ương thì dồn dập đánh vu hồi
Thuyền anh đi giữa hai bể, hai trời may - rủi đó
Không sấp bên này thì ngửa phía kia thôi.”
(Hai chiều) [77, 188]
Rõ ràng cuộc sống không còn là một chiều thẳng băng như trước và con người
phải biết chấp nhận những thử thách mà cuộc đời đem lại. Cho nên chỗ đứng của
nhà thơ lúc này không phải là “ngang tầm chiến lũy” mà đứng giữa cuộc đời sóng
gió để khẳng định lẽ sống, bản thân.
Không phải trước đây thơ Chế Lan Viên không mang giọng trầm, nhưng nó
không phải là chủ yếu, thế mạnh. Giai đoạn 1945 - 1975 cũng có giọng tâm tình nhỏ
nhẹ khi nói về thiên nhiên, con người…Cũng có cả giọng ngậm ngùi trầm lắng khi
nói về quá khứ, nỗi buồn và cả cuộc đấu tranh chống bệnh tật…Nhưng tất cả những
cái đó chỉ là điểm xuyết, không át được giọng cao trong những bài thơ tự do ca ngợi
Tổ quốc, nhân dân, cách mạng…
Sự thay đổi về giọng điệu thơ sang giọng trầm tư thế sự khiến cho giọng điệu
thơ của Chế Lan Viên giai đoạn sau 1975 (nhất là trong Di cảo thơ) trở nên phong
phú, đa dạng: vẫn có giọng cao (nhưng ít), giọng trầm là chủ yếu, có giọng vui
nhưng cũng có giọng buồn, có giọng đối thoại nhưng nhiều hơn là giọng độc thoại,
có giọng nghiêm trang nhưng cũng có giọng tự trào, hóm hỉnh, thâm trầm…tất cả
đều biểu hiện “điệu hồn” của nhà thơ những năm cuối đời. Trước sóng gió của cuộc
đời, điệu hồn của nhà thơ đã tìm được điểm tựa ở chính tâm mình, thơ mình để vượt
lên dâng hiến cho đời những bài thơ xuất sắc.
83
3.2.2. Giọng độc thoại nội tâm
Nếu như trước đây, thơ Chế Lan Viên là tiếng nói với mọi người, nói cho mọi
người thì nay khi chuyển sang thời bình nhà thơ lại nói với chính mình, nói cho
mình. Đây là điểm quan trọng tạo nên sự thay đổi giọng điệu của Chế Lan Viên
trước và trong thời kỳ đổi mới. Bên cạnh nỗi lo chung cho sự nghiệp phát triển của
đất nước là những lo toan bảo đảm nhu cầu của đời sống cá nhân con người. Mà
mỗi con người là một “tiểu vũ trụ” với những suy nghĩ, hành động rất riêng. Trong
con người ấy có cả nỗi buồn vui, trăn trở để tồn tại cùng cộng đồng. Muốn thể hiện
có hiệu quả những vấn đề ấy, cần phải có chất giọng thay đổi về cơ bản.
Trong những năm chiến tranh, với tư thế đứng ở tầm cao thời đại, thời thơ trữ
tình sử thi thì nhà thơ thường đưa tầm mắt hướng ngoại: hướng về nhân dân, Tổ
quốc, tương lai, trong đó điểm tựa vững chắc là Tổ quốc đang chiến đấu, đang dựng
xây. Nhưng giờ đây với chỗ đứng “trong cuộc đời sóng gió để nhìn lên”, điểm tựa
của con người chính là niềm tin vào cái tâm của mình. Cho nên lúc này Chế Lan
Viên chủ yếu là hướng nội. Nhà thơ đang “tự vấn”, đang xoáy vào chiều sâu thăm
thẳm của nội tâm để tìm điểm tựa cho thơ và cho con người. Càng xoáy vào chiều
sâu nhân bản, Chế Lan Viên càng phát hiện ra những chiều phong phú của con
người đó là những nẻo khuất tối, u uẩn của tiềm thức, vô thức. Tâm hồn giờ đây
không phải ở trạng thái say sưa tự hào với thực tại “Những ngày tôi sống đây là
những ngày đẹp hơn tất cả”, mà là tâm hồn lúc nào cũng “bất ổn, xôn xao”, một
tâm hồn có nhiều “vết thương nội tâm”.
Giọng điệu trong thơ Chế Lan Viên sau năm 1975 thể hiện rõ bản lĩnh nghệ
thuật của ông. Từ chỗ có lúc ông hiện diện như một nhà tư tưởng, nhân danh cộng
đồng cãi lý, lên án, chửi rủa kẻ xâm lược, thức tỉnh lương tri những người tiến bộ
đồng tình, ủng hộ cuộc chiến đấu chính nghĩa của ta, đến khi trở về đời thường, với
tiếng nói bình thường, nhà thơ ít khi bị hụt hẫng. Trong Ngày vĩ đại Chế Lan Viên
viết về những người anh hùng đã hy sinh vì dân tộc như sự đối thoại với mọi người:
“Ở ngày cuối cùng, giây phút cuối cùng, tích tắc cuối cùng,
Vẫn có người cuối cùng phải ngã.
84
Đấy là cái giá cuối cùng ta phải trả,
Để quân giặc kéo cờ trắng đầu hàng trên mọi chỗ,
Phải có người chấm dứt trang thơ bằng giọt máu anh hùng”.
(Ngày vĩ đại) [74, 118]
Bước vào những năm 80, âm điệu của những vần thơ ấy có phần trầm lắng, sâu
sắc hơn, như đang nói với chính tâm hồn mình:
“Nhớ ơn những người chưa kịp kết tinh viên ngọc của mình
Anh trai ngọc, họ chỉ mới là máu rỏ
Họ ra đi với một đời dang dở
Ở một trọng điểm chiến hào nay cũng vô danh”.
(Nhớ ơn) [77, 131]
Trước đây, yêu cầu của cuộc kháng chiến là phải truyền thẳng tới người đọc
những suy nghĩ của tác giả trước những sự kiện lớn thì bây giờ, nhờ có những
khoảng lặng về thời gian mà nhà thơ cũng suy ngẫm thấu đáo hơn, nên giọng thơ
Chế Lan Viên trầm tĩnh mà vẫn đạt hiệu quả cao:
“Những em bé tiểu sử dày bom bi và dặm đường sơ tán,
Ngủ trên các giường xa lạ mênh mông quá sớm…
Ngân sách Mỹ chi tiền bom là cho cả những mục tiêu này…”
(Trẻ con Việt Nam) [75, 89]
Đứng trước công cuộc đổi mới với biết bao lo toan, những bài thơ Chế Lan
Viên viết trong hai năm sau ngày phát động đổi mới đã không ngừng thể hiện những
kiểm nghiệm. Đây cũng là những năm nhà thơ phải chống chọi với căn bệnh hiểm
nghèo nên từ giọng trầm đã chuyển sang giọng trầm buồn. Lời thơ như câu hỏi với
những người xung quanh nhưng thực chất là tự nhủ với lòng mình:
“Anh có cho tôi làm hoa sen không, tôi trong lý lịch có bùn?
Thân phận người mà, ai chả có bùn đen?
Giết chết một mùi hương, dễ thôi, cứ quậy bùn lên để giết
85
Nhưng vượt lên bùn, sen cứ ngát hương sen.”
(Hương sen) [75, 79].
Thời kỳ đổi mới của đất nước đòi hỏi nhà thơ từ chỗ chủ yếu đối thoại (thời
Điêu tàn đến những năm chiến tranh), sang độc thoại trong các vấn đề lớn của cuộc
sống ở Di cảo thơ. Điều đó càng làm gia tăng chất giọng trầm. Có những câu thơ như
một dạng đối thoại ngầm nhưng sức lan toả của ý thơ vô cùng mạnh mẽ:
“Cả một đời không có một phút giây hạnh phúc
Cái hạnh phúc lớn lao là cuộc đấu tranh
Giờ lại vô danh trong nấm mồ bằng cát
Hoa dại mọc bên mồ, màu tím vô danh”.
(Mộ cát vô danh) [77, 219]
Câu đầu có thể hiểu là sự thương cảm của tác giả đối với những người chiến sĩ
hy sinh cả cuộc đời mình cho tổ quốc mà: “không có một phút giây hạnh phúc”. Câu
thứ hai có thể hiểu là lời đáp của liệt sĩ: có chứ! “Cái hạnh phúc lớn lao (của tôi) là
cuộc đấu tranh…”. Nhà thơ hỏi người chiến sĩ và được người chiến sĩ đáp lại,
nhưng thực chất là tự hỏi mình và tự tìm câu trả lời cho mình.
Bên cạnh sự đối thoại với cuộc sống và con người thì một trong những thủ pháp
thường xuyên xuất hiện trong thơ Chế Lan Viên là độc thoại với chính mình. Đứng
trước cái chết đang gần kề nhà thơ suy ngẫm: “Giá ta được chết như người trong
kịch / Bị giết vai này, liền sống dậy làm vai khác / Và vai khác nữa, tất thể cũng là
mình / Khốn nỗi, ta chỉ có một ta thôi / Dù phía trước cười, phía sau đau thì cũng là
nó đấy / Nó không lần lượt thay vai mà cùng lúc, đồng thời” (Kịch giả) [73, 149].
Bích Thu đã nhận định: “Hình ảnh cái chết, cảm giác về sự tiêu tan, về ngày
tận số của cuộc đời đè nặng trên khá nhiều trang thơ trong Di cảo thơ của Chế Lan
Viên. Luôn trong tâm thế của một người sắp từ biệt cõi đời, giọng điệu trữ tình của
ông buồn thảm, ảo não và chua xót”. Quả đúng như vậy, giọng điệu trầm buồn đã
choán ngợp trên nhiều trang thơ Chế Lan Viên những năm cuối đời. Ranh giới giữa
86
cái sống và cái chết trở nên quá mong manh. Nhà thơ đã có sự chuẩn bị rất kỹ cho
chuyến đi xa nhưng không khỏi bùi ngùi:
“Xếp dần đôi tay
Hãm bớt đôi chân
Ít dần tiếng nói
Tắt dần đi các ngọn nến trong lòng
…Cho người ta quên dần anh, xoá sổ”.
(Chuẩn bị đi) [78, 193]
Như vậy, từ giọng thơ mang màu sắc chính luận với các vấn đề thời sự nóng
bỏng, thơ Chế Lan Viên sau năm 1975 đã chuyển sang giọng triết luận sâu sắc.
Trong cuộc sống đời thường sau chiến tranh, nhất là từ khi đổi mới, nhà thơ đã
không ngừng thể hiện những kiểm nghiệm lạc quan và tin tưởng vào cách tiếp cận
chân lý. Chế Lan Viên đã có cách xử lý nghệ thuật đúng đắn, tự làm mới mình và
thơ mình trước những đòi hỏi của cuộc sống.
3.3. Hiện đại hóa ngôn ngữ thơ
3.3.1. Ngôn ngữ thơ đậm chất đời thường
Văn học là nghệ thuật ngôn từ, bởi thế khi nghiên cứu văn học nói chung và thơ nói
riêng, không thể không nghiên cứu về phương diện ngôn ngữ. Trên cơ sở ngôn ngữ toàn
dân, ngôn ngữ văn học ra đời. Nó chính là sự kết tinh cao nhất, là sự thăng hoa từ ngôn
ngữ nhân dân và vì thế mà xây dựng ngôn ngữ văn học là cả một quá trình nhiều công
phu, thời gian, sức lực. Từ ý thức ngôn ngữ là yếu tố quan trọng trong sáng tạo nghệ
thuật, nhà thơ đã nghệ thuật hóa ngôn ngữ bình dân biến nó thành ngôn ngữ nghệ thuật.
Mặt khác, sự phát triển của ngôn ngữ nghệ thuật mang dấu ấn thời đại và nhu cầu thẩm
mỹ của người đọc. Trên thực tế không ai có thể phủ nhận giá trị bền vững của một tác
phẩm văn học một phần nhờ vào sức sống của ngôn từ.
Nhận thức sâu sắc về vai trò, tầm quan trọng của ngôn ngữ trong sáng tạo nghệ
87
thuật, Chế Lan Viên đã dày công trong việc lựa chọn và sử dụng ngôn ngữ nghệ
thuật nhằm tạo nên vẻ đẹp riêng, mang đậm cá tính sáng tạo của ông. Những năm
tháng cuối đời, ta nhận thấy một Chế Lan Viên vẫn giữ được những nét đặc sắc của
ngôn ngữ thơ từ các giai đoạn trước. Song do hoàn cảnh đổi thay, nhà thơ lại quan
tâm nhiều đến thế sự - đời tư nên ngôn ngữ thơ có xu hướng gần với văn xuôi và
ngôn ngữ đời thường hơn: “Thơ thế kỷ XX mà! Đừng quá lọc. Phải văn xuôi” (Thơ
thế kỷ XX) [77, 201], hay: “Thơ không thể cần cù / Các chữ hóa thần / Các chữ
thành nghiêng / Mà thơ cần cà chớn / Đấy là một cách đa nghi thơ” (Thơ thế kỷ
XXI) [78, 205].
Trước đây, thơ Chế Lan Viên mang đậm tính triết luận chính trị nên đôi khi
ngôn ngữ thơ ông rơi vào tình trạng khô khan do phải chuyển tải quá nhiều vấn đề
thời sự. Nhưng sang đến các giai đoạn sau này, tiếp cận với nhiều vấn đề của cuộc
sống thường nhật nên nhạc tính trong thơ ông gia tăng đáng kể. Ngôn ngữ thơ ông
có sự chuyển biến đầy nhạy bén và thích ứng cao với những thay đổi của thời đại để
bám sát vào cuộc sống đời thường: “Anh giàu thêm con sông nữa đó là Em / Anh
phụ lưu, em mới là sông Cái / Lụt dòng anh từng ngày từng bữa / Ngập bãi bờ
trong những đợt thuỷ triều đêm” (Giàu thêm) [78, 188].
Từ quan niệm về vẻ đa sắc của ngôn ngữ cũng như sức mạnh của thơ, Chế Lan
Viên đã tiếp tục đi theo hướng sử dụng đa dạng ngôn ngữ tiếng Việt. Trên bình diện
của ngữ âm học, nhà thơ thường chú ý khai thác âm thanh để tạo cảm giác chuyển
tải có hiệu quả nội dung:
- “Bao sóng cồn cào là sóng nhớ chớ quên đâu.”
(Nhẫn) [78, 172]
- “Yêu người, người đi xa
Yêu gió, gió lại về
Nửa đêm từng đập cửa
Thổi tốc tận màn khuya.”
(Yêu gió) [78, 241]
Không phải đến tận sau năm 1975, ngôn ngữ thơ Chế Lan Viên mới là ngôn
ngữ mang đậm tính thời sự, thời đại. Nhưng trong hoàn cảnh mới, sự kết hợp hài
88
hòa giữa ngôn ngữ truyền thống và ngôn ngữ hiện đại đã tạo cho ngôn ngữ thơ Chế
Lan Viên mang âm hưởng vừa lạ vừa quen, nhưng vẫn đảm bảo cá tính sáng tạo của
nhà thơ: “Dòng sông ấy khi hóa tình yêu, khi hóa sử / Sáng nay Bạch Đằng quên
mình làm sử để thành sông / Không ai đến cắm cọc, sông cứ xuôi dòng / Chỉ có tình
nhân soi mặt vào sông và ném những cành hoa lãng tử / Và nó vẫn gọi nó là Bạch
Đằng như cũ / Vui không” (Sông sử thi và sông tình ca) [78, 143].
Chế Lan Viên đã tạo cho thơ mình phát triển theo quy luật hiện đại hóa ngôn
ngữ. Việc “lột xác” cho thơ có thể dựa vào nguyên tắc thường xuyên đưa vào thơ
những ngôn ngữ của đời sống thường nhật với lớp nghĩa thực, hoặc làm “lạ hóa”
ngôn ngữ thơ bằng cách ghép nó với các từ khác:
- “Cái sân cỏ Trang thơ nghìn năm giống nhau.”
(Đá bóng) [78, 40]
- “Rồi ta vướng vào cái suối đen của sự chết
Quên đi các môi hồng của tình yêu.”
(Rồi ta sẽ lạ nhau) [78, 220]
Trong mỗi bài thơ của mình, Chế Lan Viên luôn có xu hướng tìm tòi và khám
phá ra những điều bất ngờ trong mỗi bài thơ bằng cách đối lập và chuyển hóa từ
ngữ, chuyển đổi loại từ…Ông thường sử dụng các từ gây ấn tượng mạnh như thời
gian nghiệt ngã, mùa hè đỏ như môi, thu vàng rộm, trắng sáng màu hoa sữa, nhà
thơ mất giá, cành huệ vô ý thức, sen hương tỏa…
Ngôn ngữ thơ Chế Lan Viên sau năm 1975, đặc biệt là trong Di cảo thơ là ngôn
ngữ mang tính bác học. Nhà thơ luôn chú ý khám phá ra những điều thú vị bất ngờ
mà ngôn từ mang lại, nên ngôn ngữ thơ ông luôn có sự vận động, biến đổi để phù
hợp với cuộc sống. Nhìn nhận sự vật, hiện tượng ở thế đối lập nên ngôn ngữ thơ
Chế Lan Viên luôn là ngôn ngữ đối lập. Ông sử dụng ngôn ngữ đối lập để vừa
khẳng định, vừa phủ định vấn đề một cách linh hoạt và sáng tạo.
Bên cạnh những bài thơ được gọt giũa, cầu kỳ, trau truốt trong việc sử dụng
ngôn từ thì thơ Chế Lan Viên giai đoạn này ta cũng thường xuyên bắt gặp thứ ngôn
ngữ đời thường, tự nhiên, thậm chí là suồng xã, trần trụi: “Người trong phòng họp /
89
Quay ra nhìn anh, nhà thơ bị gạt / Cho anh một bạt tai đánh bốp / Cút đi! Cút đi /
Đừng có đứng đấy nghe / Rồi tưởng bở / Nghĩ mình cũng là thi sĩ / Đến tự thiên ha,
thiên hả, thiên hà” (Đón người thiên hà) [78, 91].
Có thể thấy, ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ đời thường đã trở nên gần gũi, không tách
biệt. Chế Lan Viên là người am hiểu và tuân thủ các quy tắc của thơ ca. Ông cũng hiểu
rõ, mục đích của thơ ca chính là để phục vụ con người. Muốn làm được điều đó, ngôn
ngữ thơ phải thay đổi nhằm phản ánh đúng và đủ mọi hiện thực của cuộc sống. Chính vì
vậy, ngôn ngữ thơ Chế Lan Viên sau 1975 là ngôn ngữ hiện đại và tạo ra hiệu ứng nghệ
thuật cao. Điều đó đã góp phần tạo nên sự mới lạ trong Di cảo thơ.
3.3.2. Sử dụng hợp lý, linh hoạt các biện pháp tu từ từ vựng
Ngôn ngữ thơ Chế Lan Viên sắc sảo vào bậc nhất trong nền thơ ca Việt Nam
hiện đại. Đó là thứ ngôn ngữ lấp lánh trí tuệ với các biện pháp tu từ được nhà thơ
huy động và sử dụng triệt để. Tất cả các thành phần của ngôn ngữ từ ngữ âm đến từ
vựng, ngữ pháp, các phương tiện chuyển nghĩa cho đến các thủ pháp so sánh đối lập
đều được sử dụng rộng rãi và có giá trị cao. Chính vì vậy mà Đoàn Trọng Huy đã
khẳng định: “Chế Lan Viên là một trong những cây bút chiếm tỉ số cao nhất về tỉ lệ
sử dụng mĩ từ, tu từ” [32, 88].
Trong thơ sau 1975, Chế Lan Viên đã đưa vào thơ một hệ thống từ ngữ vô cùng
phong phú, đặc biệt là lớp từ khẩu ngữ được sử dụng dày đặc: ích gì, nó còn tha gì
ai, ra quái gì đâu,...Những từ khẩu ngữ ấy được đặt trong hình thức của câu hỏi tu
từ và gắn kết với bài thơ một cách linh hoạt tạo ra những trường liên tưởng thú vị
cho người đọc. Là một nhà thơ uyên bác, am hiểu tất cả các ngôn thuộc nhiều lĩnh
vực khác nhau nên Chế Lan Viên đã huy động mọi loại ngôn ngữ của khoa học vào
trong thơ của mình như: lịch sử, triết học, tôn giáo, hình học, hóa học, sinh học,
quân sự, kinh tế…Chính vì vậy, ngôn ngữ thơ ông là sự tổng hợp của những kiến
thức bác học và được vận dụng một cách tự nhiên để nâng cao những nhận thức
trong đời thường thành nhận thức thơ ca.
Trong thơ sau 1975, Chế Lan Viên đã sử dụng triệt để tu từ âm thanh để tạo nên
tính nhạc bằng sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố vần, nhịp điệu, tiết tấu: “Trăng sáng
màu hoa sữa / Mùi hương rọi khắp nơi / Nằm một mình anh sợ / Hương và trăng
90
đến soi” (Hoa sữa) [77, 77]. Hay “Trên lá sen rám nắng / Ái tình từng đọng sương /
Hoa trên hồ rụng cả / Chỉ lá còn thơm hương” (Sen hồ) [77, 78].
Thông qua các biện pháp nhân hóa, vật hóa, ẩn dụ, hoán dụ…tu từ ngữ nghĩa
xuất hiện thường xuyên trong thơ Chế Lan Viên. Trong đó, tổ hợp điệp và đối lập,
tương phản là những phương tiện biểu hiện cơ bản. Thủ pháp so sánh là thủ pháp
được nhà thơ sử dụng nhiều nhất với các kiểu: A như B, A là B, A/B:
- “Cuộc đời chẳng ba lơn như một chú hề”
(Kịch) [77, 113]
- “Một chút nắng như con sóc đầu cây rồi khuất”
(Ngày trống không) [79, 24]
- “Gặp nhau như mùa sen”
(Sen) [79, 15]
Khi muốn tăng sự chuyển động và biến đổi không ngừng của ngôn ngữ nhằm
tạo cho người đọc cảm giác mới lạ, Chế Lan Viên lại dùng một sự vật để so sánh
với nhiều sự vật khác: “Trời như ngọc, như hồn, như bể” (Đo) [77, 117]. Trong một
số bài thơ, vế so sánh đươc ẩn đi, chỉ còn lại vế được so sánh: “Như nhân loại làm
ra tên lửa, anh làm ra tài năng anh được chứ?” (Làm sao anh thoát ly được nó) [78,
155]. Hay trong cấu trúc so sánh A là B, Chế Lan Viên đã có những hình ảnh liên
tưởng thật độc đáo: “Một chút nắng ở đầu ngọn gió / Là ta đấy mà ai có biết đâu”
(Người mai sau) [77, 186].
Chế Lan Viên đã tạo cho thơ mình sự độc đáo trong cách thể hiện với việc sử
dụng biện pháp so sánh A như B, A là B với tần suất đặc biệt: “Làm thơ xưa như
ông Từ trịnh trọng vào đền / Như chú rể lần đầu tiên sang nhà bố vợ tiên / Như thần
tử quỳ trước ngôi mặt chúa / Như là người mọc cánh thành tiên…/ Làm thơ ngày
nay như người diễn xiếc / Như chú rể lùn yêu cô nàng mắt biếc / Có cái gì quỷ quái
ngây ngô…/ Thơ là chưa bay mà đã đến / Là đang yêu bỗng giã từ / Là ba chữ thôi
mà là bể, là giếng, là kho vàng hiển hiện / Là hoa sen cười nửa miệng mà chân
như…” (Quan niệm thơ) [79, 228].
91
Trong một bài thơ ngắn mà nhà thơ đã sử dụng đến 7 lần từ như, 7 lần từ là để
so sánh. Cách so sánh một cách sâu chuỗi và dồn dập như trên giúp người đọc có
cách nhìn và trải nghiệm rất thú vị về quan niệm thơ của Chế Lan Viên xưa và nay.
Cách so sánh nghệ thuật trong thơ Chế Lan Viên vừa mang tính độc đáo, phong
phú, vừa mang giá trị nhận thức để đem lại cho người đọc một dung lượng thông tin
nhất định cùng những rung cảm thẩm mỹ to lớn. Ngôn ngữ thơ Chế Lan Viên mang
đậm tính triết luận sâu sắc. Với tài năng và sự sáng tạo, nhà thơ đã tạo cho ngôn ngữ
thơ mình sự mới lạ mà không phải nhà thơ nào cũng làm được. Chính vì vậy mà thơ
Chế Lan Viên vẫn được coi là có ngôn ngữ sắc sảo vào bậc nhất nền thơ Việt Nam.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Xuất phát từ quan niệm: “Hình thức dân tộc không có nghĩa cố định”, Chế Lan
Viên luôn có những sáng tạo nghệ thuật không ngừng, góp phần tạo nên sức mạnh
mới cho thơ ca. Mỗi bài thơ của Chế Lan Viên luôn có một vẻ đẹp riêng. Thể thơ
của Chế Lan Viên có sự vận động mang tính quy luật chung. Bên cạnh việc vận
dụng nhuần nhuyễn các thể thơ dân tộc, nhà thơ đồng thời có những đổi mới từ bên
trong cấu trúc thơ để tạo nên vẻ đẹp và sức mạnh riêng.
Là một nhà thơ dày công trong quá trình tu dưỡng nghệ thuật, ngôn ngữ thơ
Chế Lan Viên mang rõ nét dấu ấn cá tính sáng tạo. Chính cuộc sống đầy màu sắc là
mảnh đất tạo nên sự thay đổi ngôn ngữ trong thơ ông. Việc chọn chữ, chọn lời và
sắp xếp sao cho hợp lý là một công việc đòi hỏi nhiều dụng công. Nếu trước đổi
mới, ngôn ngữ thơ Chế Lan Viên là thứ ngôn ngữ giàu tính chính luận, thì sau năm
1975, thơ ông chuyển sang triết luận với hệ thống tu từ dày đặc, chất duy lý sắc sảo
và mang đậm tính thời sự.
Bên cạnh đó, chúng ta còn thấy thơ Chế Lan Viên có sự đổi mới về giọng điệu.
Từ giọng cao trong những năm chống Mỹ cứu nước hào hùng, khi trở về với cuộc
sống đời thường, nhà thơ đã chuyển sang bè trầm và chứa đựng những nội dung tư
tưởng thẩm mỹ phong phú.
92
KẾT LUẬN
1. Chế Lan Viên là một nhà thơ, một nhà văn hóa lớn của dân tộc Việt Nam.
Trong suốt hành trình sáng tạo nghệ thuật kéo dài hơn 50 năm, nhà thơ đã để lại cho
nền văn học Việt Nam một khối lượng tác phẩm đồ sộ. Hành trình ấy gắn liền với
những mốc chuyển quan trọng của lịch sử dân tộc. Thơ Chế Lan Viên sau năm 1975
(đặc biệt là ba tập Di cảo thơ) đã tạo nên một sự đột phá trong tiến trình đổi mới
văn học. Cùng với đó là sự chuyển động không ngừng của cái tôi trữ tình của Chế
Lan Viên. Từ cái tôi bế tắc thuở Điêu tàn sang cái tôi sử thi kháng chiến trong
những năm kháng chiến rồi trở về cái tôi thế sự đời tư, cái tôi công dân trong những
năm sau 1975 là cả một quá trình phấn đấu không ngừng nghỉ của một hồn thơ nặng
nỗi đau đời.
2. Tiếp cận với thơ Chế Lan Viên sau năm 1975, ta thấy được phần nào bức
chân dung mới nhưng không xa lạ của nhà thơ. Ông đã hướng ngòi bút của mình tới
những giá trị của đời và của nghề. Trước hết, đó là cái tôi luôn khao khát khẳng
định cá tính mạnh mẽ. Nhà thơ luôn cố gắng để được sống trung thực là mình, với
chính mình. Chế Lan Viên đã không ngần ngại nói lên những suy nghĩ về mặt trái
của nghề, mặt trái của xã hội trong thời kỳ đổi mới, cho dù điều đó có thể tổn hại
đến bản thân. Càng về cuối cuộc đời, khi bệnh tật hành hạ, thơ ông càng thể hiện
khát vọng sống và bản lĩnh phi thường trước cuộc đời. Nhu cầu được thể hiện cá
tính đã thôi thúc Chế Lan Viên tìm về bản ngã trong một hành trình đầy đau đớn và
dũng cảm. Trăn trở về những vấn đề thế sự, đời tư, nhà thơ hướng ngòi bút của
mình vào những vấn đề sinh tồn của cuộc sống như số phận mỗi cá nhân trong thời
kỳ mới, mối quan hệ giữa con người với con người, rồi những chiêm nghiệm về sự
phù du của kiếp người, những nghĩ suy về các giá trị văn hóa dân tộc…Tất cả đều
được thể hiện một cách sắc nét trong thơ Chế Lan Viên sau năm 1975.
3. Bên cạnh những thành công về mặt giá trị nội dung, thơ Chế Lan Viên còn
đánh dấu sự chuyển biến về phương thức thể hiện. Nhà thơ đã làm nên một cuộc
cách mạng cả về ngôn ngữ, giọng điệu và có những cách tân quan trọng trong các
thể loại thơ. Ngôn ngữ thơ Chế Lan Viên đặc sắc, độc đáo, mới lạ mang đậm cá tính
sáng tạo. Bên cạnh đó, sự thay đổi giọng điệu từ giọng cao chuyển sang giọng trầm,
93
rồi thành giọng trầm buồn cũng là sự chuyển hướng đáng ghi nhận của Chế Lan
Viên giai đoạn sau 1975. Cùng với việc sử dụng nhuần nhuyễn các thể thơ truyền
thống, Chế Lan Viên đã có sự đổi mới trong việc hiện đại hóa các thể thơ tự do và
thơ tứ tuyệt.
4. Chế Lan Viên đã ra đi gần 30 năm, nhưng những giá trị văn chương mà ông
để lại cho đời thì mãi mãi trường tồn với thời gian. Sự nghiệp của ông đã góp phần
không nhỏ vào việc bồi đắp và làm phong phú thêm diện mạo thơ ca thế kỷ XX.
Với những đóng góp như thế, Chế Lan Viên hoàn toàn xứng đáng với nhận định của
Hoài Thanh: “Con người này quả là người của Trời đất, của bốn phương, không thể
lấy kích tấc thường mà hòng đo được” [62, 228].
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Tuấn Anh (1984), Chế Lan Viên, Nhà thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
2. Vũ Tuấn Anh (2000), Chế Lan Viên - một tâm hồn thi sĩ, một chân dung văn hoá,
Chế Lan Viên, về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
3. Vũ Tuấn Anh (2007), Chế Lan Viên với Điêu tàn và Vàng sao, Nghiên cứu văn
học, (8).
4. Lại Nguyên Ân (1999), 150 từ điển thuật ngữ Văn học, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội.
5. Nguyễn Thị Bình (2000), Chế Lan Viên, Lịch sử văn học Việt Nam tập III, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
6. Nông Quốc Chấn (1989), Chế Lan Viên và đời người đời thơ, Văn nghệ TP Hồ
Chí Minh, (593), 7 - 7 - 1989.
7. Võ Tấn Cường (2000), Di cảo thơ Chế Lan Viên, Chế Lan Viên, về tác gia và
tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
8. Hoàng Diệp (2000), Điêu tàn - thoát ra cõi ta để tìm về với cái ta, Chế Lan Viên,
về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
9. Xuân Diệu (2000), Đọc Ánh sáng và phù sa, Chế Lan Viên, về tác gia và tác
phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
10. Lê Chí Dũng (2000), Chế Lan Viên: Hoa tôi hái trên trời cũng chính là nước mắt
dưới xa kia, Chế Lan Viên, về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
11. Trần Thanh Đạm (2000), Những vần thơ triết lý của Chế Lan Viên qua những
trang Di cảo, Chế Lan Viên, về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
12. Nguyễn Lâm Điền (2001), Đặc trưng nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, Luận án
Tiến sĩ Ngữ văn, TP Hồ Chí Minh.
13. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học, Hà
Nội.
14. Nguyễn Đăng Điệp (2003), Vọng từ con chữ, Nxb Văn học, Hà Nội.
15. Nguyễn Đăng Điệp (2006), Bí ẩn ngọn tháp Chế Lan Viên, Văn học và tuổi trẻ,
(1, 245).
16. Nguyễn Đăng Điệp (2006), Thơ Việt Nam sau 1975 - Từ cái nhìn toàn cảnh,
Nghiên cứu Văn học, (11).
17. Anh Đức (1999), Nhà thơ Chế Lan Viên vẫn tồn tại giữa cuộc đời và giữa
chúng ta, Văn TP Hồ Chí Minh, (92), 6 - 1999.
18. Hà Minh Đức (1971), Hoa ngày thường, chim báo bão, bước phát triển mới của
một phong cách thơ, Nhà văn và tác phẩm, Nxb Văn học, Hà Nội.
19. Hà Minh Đức (1974), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
20. Hà Minh Đức (2000), Ánh sáng và phù sa - Sự kết hợp giữa rung cảm tế nhị với ý
tưởng trong thơ, Chế Lan Viên, về tác gia tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
21. Tế Hanh (1986), Hoa trên đá và Ánh trăng, Báo Văn nghệ, số 15.
22. Nguyễn Văn Hạnh (2000), Thơ Chế Lan Viên, Chế Lan Viên về tác gia và tác
phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
23. Hồ Thế Hà (2004), Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, Luận án Tiến sĩ
Ngữ văn, Hà Nội.
24. Hồ Thế Hà (1998), Tìm trong trang viết, Nxb Thuận Hóa.
25. Hồ Thế Hà (2009), Hình thức nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, Thơ Chế Lan Viên
và những lời bình, Nxb Giáo dục, H.
26. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi - chủ biên (1992), Từ điển thuật
ngữ Văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
27. Trần Mạnh Hảo (1995), Chế Lan Viên, người làm vườn vĩnh cửu, Nxb Hội
Nhà văn, Hà Nội.
28. Phạm Hổ (1989), Con đường và tầm vóc thơ Chế Lan Viên, Tác phẩm Văn học, (2).
29. Trần Ninh Hồ (2000), Nhân đọc Hái theo mùa, Chế Lan Viên, về tác gia và tác
phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
30. Đoàn Trọng Huy (1993), Khuynh hướng vận động thơ Chế Lan Viên từ sau
1975, Tạp chí Văn học, (6).
31. Đoàn Trọng Huy (1993), Đọc những trang để lại, thêm hiểu một hồn thơ Di cảo,
Văn nghệ, (11), 23 - 3 - 1993.
32. Đoàn Trọng Huy (2009), Chế Lan Viên - một ngọn cờ cách tân thơ ca, Văn
nghệ, (25), 20 - 6 - 2009.
33. Đoàn Trọng Huy (2009), Ngọn kỳ quan Chế Lan Viên - nhìn từ hôm nay, Hồn
Việt (24), 6.
34. Đoàn Trọng Huy (2010), Đọc lại Di cảo thơ Chế Lan Viên, Tạp chí Thơ, (11).
35. Tố Hữu (2000), Với Chế Lan Viên, Chế Lan Viên về tác gia và tác phẩm, Nxb
Giáo dục, H.
36. Nguyễn Khải (1999), Chế Lan Viên - một nghệ sĩ, một chiến sĩ, Văn hoá thể
thao, (49), 18 - 6 - 1999.
37. Nguyễn Quốc Khánh (2000), Di cảo thơ Chế Lan Viên, hành trình tìm lại chính
mình, Chế Lan Viên, về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
38. Lê Đình Kỵ (1969), Chặng đường tiến lên của thơ Chế Lan Viên: Ánh sáng và
phù sa, Đường vào thơ, Nxb Văn học, Hà Nội.
39. Mai Quốc Liên (1997), Thơ Chế Lan Viên - chất anh hùng ca và trí tuệ, Các
nhà văn được giải thưởng Hồ Chí Minh, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
40. Nguyễn Diệu Linh, Di cảo thơ và nhu cầu được sống trung thực với mình của
Chế Lan Viên, Tạp chí Nhà văn, Hội nhà văn Việt Nam, 1 / 2008.
41. Phong Lê (1997), Văn học trên hành trình của thế kỷ XX, Nxb ĐHQG Hà Nội.
42. Phong Lê (2001), Chế Lan Viên - trải nghiệm và kiếm tìm, Một số gương mặt
văn chương học thuật Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
43. Phong Lê (2001), Văn học Việt Nam hiện đại - Những chân dung tiêu biểu,
Nxb ĐHQG Hà Nội.
44. Vĩnh Quang Lê (2000), Mùa xuân đâu chịu lùi, Chế Lan Viên, về tác gia và tác
phẩm, Nxb Giáo dục, H.
45. Nguyễn Văn Long - Lã Nhâm Thìn (đồng Chủ biên - 2006), Văn học Việt Nam
sau 1975 - những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
46. Vân Long (2008), Nét độc đáo trong thơ Chế Lan Viên, Nxb Văn hoá Thông tin,
Hà Nội.
47. Nguyễn Lộc (1970), Chế Lan Viên và những tìm tòi trong nghệ thuật thơ, Tác
phẩm mới, (9).
48. Nguyễn Xuân Nam (1985), Đọc Hoa trên đá của Chế Lan Viên, Báo Văn nghệ
(13), 30 - 3 - 1985.
49. Nguyễn Xuân Nam (1993), Đọc Di cảo thơ của Chế Lan Viên, Nhân dân chủ
nhật, (8), 21 - 2 - 1993.
50. Nguyễn Xuân Nam (2000), Những bài thơ đánh giặc của Chế Lan Viên, Chế
Lan Viên, về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
51. Bùi Mạnh Nhị (1999), Chế Lan Viên - nhà thơ không thể lấy kích tấc thường mà
đo được, Tạp chí Văn học, (7).
52. Nguyễn Gia Nùng (1999), Chế Lan Viên: Đời và thơ cần có ích, Văn TP Hồ Chí
Minh, số 21, 17 - 6 - 1999).
53. Lê Lưu Oanh (2000), Thơ tứ tuyệt Chế Lan Viên, Chế Lan Viên, về tác gia và
tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
54. Lê Lưu Oanh (2008), Lý luận văn học, Nxb Đại học Sư phạm, H.
55. Hoàng Phê (chủ biên - 1996), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm
Từ điển học.
56. Ngô Văn Phú (1986), Từ Điêu tàn đến Hoa trên đá, Văn nghệ, (15).
57. Ngô Văn Phú (1999), Nghĩ thêm về thơ Chế Lan Viên, Giáo dục và thời đại,
(28), 11 - 7 - 1999.
58. Vũ Quần Phương (1985), Hoa trên đá - một khía cạnh trữ tình trong thơ Chế
Lan Viên, Nhân Dân, 26 - 5 - 1985.
59. Vũ Quần Phương (1999), Chế Lan Viên trong Di cảo, Văn nghệ, (26), 26 - 6 -
1999.
60. Trần Đăng Suyền (2003), Nhà văn, hiện thực đời sống và cá tính sáng tạo,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
61. Trần Đình Sử (2000), Đôi điều về mỹ học của nhà thơ Chế Lan Viên, Chế Lan
Viên, về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, H.
62. Hoài Thanh - Hoài Chân (1988), Thi nhân Việt Nam (1932 - 1941), Nxb Văn
học tái bản, in theo bản in lần đầu - 1942.
63. Nguyễn Bá Thành (2000), Đọc hai tập Di cảo thơ, Chế Lan Viên, về tác gia và
tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
64. Phạm Quang Trung (2000), Đọc Chế Lan Viên và Di cảo thơ, Chế Lan Viên, về
tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
65. Lưu Khánh Thơ (2005), Thơ và một số gương mặt thơ Việt Nam hiện đại, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
66. Lưu Khánh Thơ (2007), Chế Lan Viên - nhà thơ song hành cùng thời đại, Nxb
Trẻ, TP Hồ Chí Minh.
67. Chế Lan Viên (1937), Điêu tàn, Nxb Hội Nhà văn và Hội Nghiên cứu - Giảng
dạy văn học TP Hồ Chí Minh, theo bản in lần đầu.
68. Chế Lan Viên (1955), Gửi các anh, Nxb Văn nghệ.
69. Chế Lan Viên (1960), Ánh sáng và phù sa, Nxb Văn học, Hà Nội.
70. Chế Lan Viên (1967), Hoa ngày thường, chim báo bão, Nxb Văn học, Hà Nội.
71. Chế Lan Viên (1972), Những bài thơ đánh giặc, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
72. Chế Lan Viên (1973), Đối thoại mới, Nxb Văn học, Hà Nội.
73. Chế Lan Viên (1977), Hoa trước lăng Người, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
74. Chế Lan Viên (1977), Hái theo mùa, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
75. Chế Lan Viên (1984), Hoa trên đá, Nxb Văn học, Hà Nội.
76. Chế Lan Viên (1986), Ta gửi cho mình, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
77. Chế Lan Viên (1992), Di cảo thơ, tập I, Nxb Thuận Hoá, Huế.
78. Chế Lan Viên (1993), Di cảo thơ, tập II, Nxb Thuận Hoá, Huế.
79. Chế Lan Viên (1996), Di cảo thơ, tập III, Nxb Thuận Hoá, Huế.
80. Thọ Xuân (1994), Chế Lan Viên: Từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui,
Văn nghệ, (17), 23 - 4 - 1994.
81. Trần Đăng Xuyền (1996), Về một đặc điểm của thơ Việt Nam từ 1955 đến 1975,
50 năm văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám, Nxb ĐH Quốc gia.
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN
1. Nguyễn Diệu Linh, Nguyễn Thị Thu Luyến - Sự thể hiện cái tôi trữ tình của
Chế Lan Viên trong thơ sau năm 1975 (Tạp chí Khoa học & công nghệ - Đại học
Thái Nguyên, Tập 148, số 03/2, 2016).