i

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN THỊ THU LUYẾN

CÁI TÔI TRỮ TÌNH

TRONG THƠ CHẾ LAN VIÊN SAU 1975

LUẬN VĂN THẠC SĨ: VĂN HỌC VIỆT NAM

Thái Nguyên - 2016

ii

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN THỊ THU LUYẾN

CÁI TÔI TRỮ TÌNH

TRONG THƠ CHẾ LAN VIÊN SAU 1975

Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM

Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN DIỆU LINH

Thái Nguyên - 2016

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết

quả được nêu trong luận văn là trung thực và chưa được ai công bố trong bất kỳ

công trình khoa học nào.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thu Luyến

ii

LỜI CẢM ƠN

Được sự phân công của Khoa Ngữ Văn - Trường Đại học Khoa học - Đại

học Thái Nguyên và được sự đồng ý của cô giáo hướng dẫn TS Nguyễn Diệu Linh

tôi đã thực hiện đề tài: “Cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên sau 1975”.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS Nguyễn Diệu Linh đã tận tình giúp

đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Tôi xin chân thành

cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong Khoa Ngữ Văn - Trường Đại học Khoa học -

Đại học Thái Nguyên đã quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình

học tập, nghiên cứu. Tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã quan tâm,

giúp đỡ, tạo điều kiện tốt để tôi nghiên cứu, học tập và hoàn thành luận văn này.

Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh nhất,

song trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất

định mà bản thân chưa thấy được. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô

giáo để luận văn được hoàn chỉnh hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, tháng 5 năm 2016

Tác giả

Nguyễn Thị Thu Luyến

iii

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................. 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................... 1

3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu ....................................................... 7

3.1. Mục đích nghiên cứu .............................................................................. 7

3.2. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................. 7

3.3. Văn bản nghiên cứu ................................................................................ 7

4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 8

4.1. Phương pháp nghiên cứu loại hình ........................................................ 8

4.2. Phương pháp nghiên cứu lịch sử..............................................................8

4.3. Phương pháp thống kê - phân loại ......................................................... 8

4.4. Phương pháp phân tích - tổng hợp ......................................................... 8

4.5. Phương pháp so sánh - đối chiếu ........................................................... 8

5. Đóng góp mới của đề tài .................................................................................. 8

5.1. Về mặt lý luận ........................................................................................ 8

5.2. Về mặt thực tiễn ..................................................................................... 9

6. Bố cục của đề tài .............................................................................................. 9

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG ........................................ 10

1.1. Thơ trữ tình và cái tôi trữ tình ....................................................................... 10

1.2. Cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên trước năm 1975 ............................. 14

1.2.1. Cái tôi tràn ngập nỗi đau trước Cách mạng tháng Tám 1945 ........... 14

1.2.2. Cái tôi cách mạng đầy nhiệt huyết trong hai cuộc kháng chiến ......... 18

1.3. Những yếu tố tạo nên sự chuyển biến của cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan

Viên sau năm 1975 .............................................................................................. 23

1.3.1. Sự thay đổi về hoàn cảnh xã hội ......................................................... 24

1.3.2. Sự thay đổi trong quan niệm thẩm mỹ về con người ........................... 26

Chương 2. ĐẶC ĐIỂM CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ CHẾ LAN VIÊN

SAU 1975 ............................................................................................................. 33

2.1. Cái tôi thế sự, đời tư ...................................................................................... 33

iv

2.1.1. Những băn khoăn, chiêm nghiệm về các vấn đề vĩnh cửu của cuộc sống..33

2.1.2. Cái tôi đấu tranh không biết mệt mỏi với thời gian ............................ 39

2.2. Cái tôi khao khát tìm về “bản ngã” ............................................................... 47

2.2.1. Cái tôi có nhu cầu sống trung thực với bản thân ................................ 47

2.2.2. Cái tôi bản lĩnh khi dám nói lên suy nghĩ của mình ........................... 52

2.3. Cái tôi nghệ sĩ tài hoa và trách nhiệm ........................................................... 57

2.3.1. Cái tôi ý thức trách nhiệm với nghề .................................................... 57

2.3.2. Cái tôi trân trọng những giá trị văn hóa của dân tộc ......................... 63

Chương 3. NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ

CHẾ LAN VIÊN SAU 1975 ............................................................................... 69

3.1. Sự kế thừa và phát triển các thể thơ .............................................................. 69

3.1.1. Thể thơ tự do ....................................................................................... 69

3.1.2. Thơ tứ tuyệt ......................................................................................... 73

3.2. Giọng điệu tâm tình, triết luận ...................................................................... 78

3.2.1. Giọng điệu trữ tình sâu lắng ............................................................... 78

3.2.2. Giọng độc thoại nội tâm ...................................................................... 83

3.3. Hiện đại hóa ngôn ngữ thơ ............................................................................ 86

3.3.1. Ngôn ngữ thơ đậm chất đời thường .................................................... 86

3.3.2. Sử dụng hợp lý, linh hoạt các biện pháp tu từ từ vựng ....................... 89

KẾT LUẬN .................................................................................................. 92

TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................................

CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Trong nền Văn học Việt Nam hiện đại, Chế Lan Viên luôn được coi là nhà

thơ lớn, có ảnh hưởng sâu rộng tới nền văn học nước nhà. Con đường lịch sử của

dân tộc và con đường thơ của Chế Lan Viên luôn gắn bó chặt chẽ, tạo điều kiện và

bổ sung cho nhau, làm nên một phong cách thơ rất riêng và đầy sức hấp dẫn. Thơ

Chế Lan Viên trên mỗi chặng đường đều có những cách tân nghệ thuật đáng trân

trọng. Nhiều thập kỷ qua, tác phẩm của Chế Lan Viên luôn được đưa vào các

chương trình giảng dạy ở nhiều cấp học (từ bậc phổ thông đến bậc đại học), bởi thơ

ông không chỉ phản ánh lịch sử, phản ánh thời đại mà còn tiêu biểu cho tiến trình

phát triển của thơ ca dân tộc ở thế kỷ XX.

1.2. Trong thơ, vấn đề chủ thể cái tôi trữ tình có một ý nghĩa đặc biệt quan

trọng. Thơ trữ tình luôn gắn với cái “tôi” bởi nó là trung tâm và là giá trị tinh thần

cốt lõi, tạo nên chân dung của nhà thơ. Bởi vậy, khi nghiên cứu cái tôi trữ tình trên

các phương diện thuộc về thể loại, các trào lưu, khuynh hướng, các chặng đường

sáng tác, các tác giả hay ngay cả một tác phẩm thơ cụ thể, người ta thường quan tâm

nhiều đến việc tìm hiểu cái tôi trữ tình.

1.3. Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên phong phú và đa dạng. Đó là một thế

giới ấn tượng với sức biểu cảm mang dấu ấn riêng vô cùng độc đáo. Khi nghiên cứu

thế giới nghệ thuật của nhà thơ thể hiện qua cái tôi trữ tình, chúng ta nhận ra một

hồn thơ giàu có và tràn đầy sức sống. Cái tôi trữ tình của Chế Lan Viên luôn thể

hiện cá tính nghệ thuật bản lĩnh, một phong cách nghệ thuật không ngừng tìm tòi,

sáng tạo. Tất cả những điều ấy đã thể hiện tình yêu thương cuộc sống tràn trề, một

tinh thần lạc quan, một sự gắn bó máu thịt với cuộc đời.

1.4. Trong thơ Chế Lan Viên luôn tồn tại một cái tôi trữ tình không ngừng biến

đổi trên cơ sở kế thừa và cách tân. Đó là sự vận động từ cái tôi lãng mạn trước cách

mạng đến cái tôi trữ tình chính trị trong giai đoạn 1945 - 1975 và đến cái tôi đời tư

thế sự mang nặng cảm xúc trầm tư, suy ngẫm trong những bài thơ được sáng tác sau

năm 1975, đặc biệt là vào giai đoạn cuối đời. Quả là, trong lịch sử phát triển của thơ

2

ca Việt Nam hiện đại thế kỷ XX, hiếm có một nhà thơ nào tạo ra sự chuyển biến

liên tục trong suốt cả sự nghiệp sáng tác, tạo nên được sức hấp dẫn đối với công

chúng yêu thơ như Chế Lan Viên.

Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: Cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên

sau 1975 nhằm thấy được nét độc đáo trong phong cách, những tiến bộ nghệ thuật,

những đóng góp của Chế Lan Viên trong nền thơ Việt Nam hiện đại. Chúng tôi hy

vọng luận văn sẽ góp một phần nhỏ vào việc nhận diện chân dung, tầm vóc của tác

giả Chế Lan Viên giai đoạn sau năm 1975. Đồng thời, góp một mảng tư liệu cho việc

nghiên cứu và giảng dạy về nhà thơ lớn, nhà văn hóa lớn của dân tộc: Chế Lan Viên.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Ngay từ tập thơ đầu tiên Điêu tàn ra đời năm 1937 đến ba tập Di cảo, thơ Chế

Lan Viên luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của độc giả và giới phê bình. Cùng

với chặng đường 52 năm cầm bút của Chế Lan Viên là chặng đường liên tiếp xuất

hiện các bài giới thiệu, các bài phê bình, nghiên cứu, các chuyên luận được in thành

sách với một số lượng lớn mà chúng ta khó có thể thống kê một cách đầy đủ.

Phải khẳng định ngay rằng, tất cả các bài nghiên cứu đã công bố đều muốn

khẳng định sự tiếp tục và đổi mới của hành trình thơ Chế Lan Viên qua các chặng

đường: trước 1945, từ 1945 đến 1975 và sau 1975. Nhưng tập trung nhiều nhất vẫn

là các bài giới thiệu về thơ chống Mỹ và thơ thời kỳ đổi mới của Chế Lan Viên. Đặc

biệt, vấn đề cái tôi trữ tình của Chế Lan Viên cũng được nhiều nhà nghiên cứu tâm

huyết tìm hiểu.

Các công trình nghiên cứu về cái tôi trữ tình của Chế Lan Viên trước năm 1975

đều khẳng định cái tôi trữ tình của Chế Lan Viên là cái tôi vận động từ cái tôi cô

đơn lạc lõng thuở Điêu tàn đã hòa nhập vào cái ta chung trong những năm kháng

chiến. GS. Hà Minh Đức là một trong những nhà nghiên cứu dành nhiều tình cảm

cho Chế Lan Viên. Trong các công trình nghiên cứu của mình, ông đã đề cập đến

cái tôi trữ tình của Chế Lan Viên trong những năm chiến tranh với những nhận định

khá xác đáng. Trong công trình “Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại”,

ông viết: “Với Ánh sáng và phù sa, vấn đề riêng chung được đặt ra trực diện, cái

3

tôi trữ tình bộc lộ khá rõ nét qua những lời thơ tâm tình, chứa chất biết bao suy

nghĩ và cảm xúc tự bên trong” [19, 38].

Cùng với Hà Minh Đức, Trần Đình Sử cũng có ý kiến: “Ánh sáng và phù sa,

Hoa ngày thường chim báo bão đã đánh dấu bước trỗi dậy, đổi mới của thơ Chế

Lan Viên, gắn liền với ý thức về cái tôi của ông…Chế Lan Viên xem cái Tôi như

một điểm xuất phát để nói đến tất cả” [61, 151].

Vũ Tuấn Anh cũng là tác giả có nhiều bài viết về Chế Lan Viên. Trong các công

trình nghiên cứu ấy, ông đặc biệt chú ý đến sự thể hiện cái tôi trữ tình của Chế Lan Viên.

Trong luận án Phó tiến sĩ với đề tài “Sự vận động của cái tôi trữ tình trong thơ Việt

Nam từ 1945 đến nay” ông cho rằng: “Cái tôi có những trầm tư triết học quanh các câu

hỏi Ta là ai? Ta vì ai?”. Hay trong bài Chế Lan Viên với Điêu tàn và Vàng sao, nhà

nghiên cứu đã nhận định: “Cả cái tôi bản thể và cái Tôi nghệ sĩ của tác giả đều muốn

vượt lên cõi tục để tạo nên một Tháp nghĩ; một Đài thơ, để trên đài thơ cao ấy hướng tới

hư vô, tìm trong ấy sức mạnh sáng tạo” [3, 21].

Trong bài Thơ Chế Lan Viên, tác giả Nguyễn Văn Hạnh đã nói đến sự hòa

hợp, thống nhất giữa cái tôi công dân và cái tôi nghệ sĩ của Chế Lan Viên trong

những năm đánh Mỹ: “Cuộc đời và cái tôi không loại trừ nhau, mà xuyên thấm vào

nhau tạo thành thơ hay, thơ rung động sâu sắc người khác” [22, 73].

Sau năm 1975, cái tôi trữ tình của Chế Lan Viên có sự chuyển động mãnh mẽ

hướng tới cảm hứng thế sự - đời tư. Đặc biệt, vào đầu thập kỷ 80 là các tập thơ Hái

theo mùa (1977), Hoa trên đá (1984), Ta gửi cho mình (1986) sự chuyển đổi ấy

càng được thể hiện rõ. Và chặng cuối đường thơ Chế Lan Viên được đánh dấu bằng

ba tập Di cảo thơ do nhà văn Vũ Thị Thường sưu tầm, tuyển chọn vào các năm

1992, 1993, 1996 lại càng khẳng định sự thay đổi của cái tôi trữ tình Chế Lan Viên

là đúng đắn và cần thiết.

Song hành với các tác phẩm ấy cũng là sự ra đời các công trình giới thiệu và khám

phá thế giới nghệ thuật của nhà thơ. Tập thơ đầu tiên có dấu hiệu của sự chuyển hướng

ngòi bút và tư tưởng của Chế Lan Viên là tập Hái theo mùa. Khi giới thiệu tập thơ này,

Trần Ninh Hồ nhận xét: “Phải có một Bình Ngô đại cáo! Ở những ngày này, bằng tiềm

4

lực, suy nghĩ, cảm xúc, Chế Lan Viên đã bắt được cái hơi thở hào hùng sảng khoái dội

lại từ xưa ấy” [29, 367]. Nhà thơ luôn đòi hỏi cái tôi “phải có sự kết hợp nhuần nhuyễn

giữa nghĩ và cảm, tạo nên nhiều bài thơ, tập thơ vừa nồng nhiệt hào hùng vừa thiết tha

lắng đọng, có sức cảm hóa thuyết phục lớn lao” [29, 371].

Tập thơ thứ hai thể hiện sự nỗ lực không mệt mỏi của Chế Lan Viên là tập Hoa

trên đá. Nhà thơ Tế Hanh khẳng định: “Trong một khuôn khổ nhỏ, nhà thơ vẫn gửi

được nhiều xúc cảm của mình từ những đề tài lớn đến những đề tài bình dị”. Và:

“Tập Hoa trên đá là một tập thơ đánh dấu một bước tiến mới của tác giả” [21, 3].

Nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Bình trong bài Chế Lan Viên khi đánh giá sự chuyển

biến của cái tôi trữ tình của nhà thơ cũng nhận định: Thơ Chế Lan Viên “bắt đầu

bộc lộ những trăn trở nhận thức về trách nhiệm của người cầm bút trước nhiều vấn

đề nhân thế mà trước đây thơ còn ít quan tâm” [5, 225]. Trong tập thơ này, nhà thơ

đã gửi gắm, đã “bộc lộ tâm tình và triết luận về các vấn đề muôn thuở của nhân

sinh”, với những “suy tư, chiêm nghiệm làm cho giọng thơ ông trầm xuống phảng

phất một nỗi quan hoài…” [5, 226].

Nguyễn Xuân Nam cho rằng: “Hoa trên đá là tập thơ xứng với tên tuổi tác giả”

và “trong tập thơ này đã gặp một giọng thơ nhân tình hơn, gần gũi tiếng nói hàng

ngày hơn” [48, 3]. Vĩnh Quang Lê cũng khẳng định hướng đi tới của thơ Chế Lan

Viên: “…thơ anh vẫn tiến lên. Có lúc thơ anh bùng cháy lên, và có lúc thơ đi bước

một” [44, 135]. Ngô Văn Phú nhìn suốt hành trình thơ Chế Lan Viên từ Điêu tàn

đến Hoa trên đá và nhận ra “giọng thơ của anh có một phong cách riêng, và vẫn

theo kịp với nhịp đi của đời sống” [56, 10].

Tiếp nối sự chuyển biến về tư tưởng, cảm xúc trong tập Hoa trên đá, năm 1986

Chế Lan Viên cho ra đời tập thơ Ta gửi cho mình, gồm 39 bài. Nếu như ở hai tập

thơ trước vẫn còn đậm chất anh hùng ca, thì giờ đây thơ Chế Lan Viên đã chuyển

hẳn sang khía cạnh đời tư. Tuy nhiên, tập thơ này hầu như chưa có một công trình

nghiên cứu công phu nào. Có chăng chỉ được nhắc đến để so sánh với các tập thơ

khác.

5

Ba tập Di cảo thơ là bước hoàn thiện cái tôi thế sự - đời tư của Chế Lan Viên.

Nhận xét và đánh giá về hai tập Di cảo thơ I và II, Nguyễn Bá Thành trong bài viết

“Đọc hai tập Di cảo thơ” đã nhận định về cảm xúc của Chế Lan Viên trong những

năm cuối đời thật tinh tế và sâu sắc: “Cảm xúc của Chế Lan Viên về “thời gian

sống” là định hướng lớn nhất cuốn hút tư duy của thơ ông trong những năm cuối

đời. Nếu như ở Đối thoại mới nhà thơ vẫn còn đủng đỉnh triết lý về “những chiếc lá

thơm hái lúc về già” thì từ năm 1987, cảm xúc của ông dường như dồn nén hơn,

thúc bách hơn” [63, 410].

Nhân ngày giỗ thứ tư của Chế Lan Viên (tháng 6 năm 1993), Trần Thanh Đạm

có bài Những vần thơ triết lý của Chế Lan Viên qua những trang Di cảo. Ông khẳng

định: “Sự tìm tòi chính mình vẫn là việc phải tiếp tục. Đó là niềm khao khát không

bao giờ nguôi của một hồn thơ không bao giờ tự thỏa mãn mà luôn luôn tự đòi hỏi,

tự đổi mới để đi tìm một tầm cao mới, càng tiến gần hơn đến sự viên mãn, sự tuyệt

đối, tuy không bao giờ có thể đạt tới, song nếu không có nó thì cũng sẽ không bao

giờ có sự sáng tạo nghệ thuật thực sự hướng đến chân, thiện, mỹ” [11, 396]. Như

vậy, Trần Thanh Đạm nhận thấy ý thức tìm lại chính mình của Chế Lan Viên là một

nhu cầu cấp bách, luôn thôi thúc tâm hồn nhà thơ, ngay cả khi bóng đã xế tà.

Hồ Thế Hà là một nhà giáo, một nhà nghiên cứu luôn thể hiện sự yêu mến thơ

Chế Lan Viên. Trong Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, ông viết: “Cái tôi nhà

thơ, cái tôi trữ tình Chế Lan Viên khi bộc lộ khi tiềm tàng, có khi là cuộc phiêu lưu tư

tưởng của thế giới nội tâm, có khi tỏ lộ thông qua các biện pháp đối lập, so sánh,

thông qua cách nói riêng của ông” [23, 35]. Và khi nhận xét về cái tôi trữ tình Chế

Lan Viên qua các chặng đường, nhà nghiên cứu cũng cho rằng: “Cái tôi trữ tình

trong thơ Chế Lan Viên đầy quyến rũ, năng động” [23, 41]. Tác giả luận án cũng

nhận thấy sự phức tạp của thơ Chế Lan Viên trong thời kỳ mới và nhận định: “Khảo

sát toàn bộ các tác phẩm của Chế Lan Viên xuất bản sau năm 1975, ta thấy trong

một số bài, ông có sự to tiếng nuối tiếc, tự mâu thuẫn với mình. (...). Nhưng thực ra,

đó chỉ là những lời tâm sự, tự kiểm điểm chân thành, pha chút chua xót chứ không

phải sự phủ định, oán trách. Phảng phất âm hưởng buồn, tiếc cho thơ mình một thời

không được sống hết cái hồn nhiên vốn có của nó phải cùng con người lao vào trận

6

mạc. (…). Cho nên sự mâu thuẫn, phủ định giai đoạn trước 1975, nếu có, thì đó

chính là sự phủ định biện chứng để tìm hướng mới cho thơ trong hoàn cảnh mới mà

thôi” [23, 36 - 37].

Đoàn Trọng Huy cũng ít nhiều nhắc đến cái tôi trữ tình của Chế Lan Viên

trong các công trình của mình. Ông nhận định: “Từ sau 1975, cái tôi trữ tình đã đổi

khác, hầu như có một sự thức tỉnh cá nhân mới. Đúng là sự thức tỉnh những nhu

cầu xã hội và cá nhân của cái Tôi trong thơ trữ tình” [30, 111]. Đó là đòi hỏi về tất

cả những nhu cầu của cuộc sống đời thường cùng sự khẳng định cá tính mạnh mẽ

trước thế giới, trong các mối quan hệ xã hội và cá nhân.

Nguyễn Quốc Khánh khi nghiên cứu về chặng đường thơ cuối cùng của Chế

Lan Viên qua Di cảo thơ với bài Di cảo thơ Chế Lan Viên hành trình tìm lại

chính mình đã đánh giá: “Suốt ba chục năm đi trên đại lộ cách mạng với niềm vui,

niềm tin phơi phới. Chế Lan Viên rất chân thành gạt bỏ cái tôi cá nhân, hoặc có nói

đến cũng chỉ là những niềm ăn năn hối hận về mình trước Cách mạng (…) để hòa

cái tôi vào cái Ta chung của nhân dân. Đó là chân dung mà chúng ta đã biết, đã

quen thuộc về Chế Lan Viên suốt mấy chục năm qua…” [37, 425]. Và tác giả bài

viết cũng cho rằng, thơ Chế Lan Viên trước và sau 1975 là sự tiếp nối chứ không

phải sự đứt đoạn của cái tôi trữ tình. Bởi “có một Chế Lan Viên vừa quen vừa

lạ…Đọc ba tập Di cảo thơ của Chế Lan Viên người đọc một lần nữa lại phải kinh

ngạc về một Chế Lan Viên mới, khác với chân dung ông đã hiện diện trên ba chục

năm qua các trang thơ ông đã từng công bố” [37, 423].

Nguyễn Diệu Linh trong bài Di cảo thơ và nhu cầu được sống trung thực với

mình của Chế Lan Viên đã nhận định: “Khát vọng “Đời cho anh là anh” luôn cháy

bỏng trong nhiều trang thơ của Chế Lan Viên. Được sống với chính bản thân mình,

với tất cả sự chân thành, trung thực của con người đã làm nên một nét sắc sảo của

ba tập Di cảo thơ” [40, 36].

Như vậy, mặc dù thơ Chế Lan Viên luôn được quan tâm tìm hiểu, nhưng chủ

yếu vẫn là những công trình nghiên cứu về thế giới nghệ thuật và phong cách nghệ

thuật của nhà thơ. Qua thế giới nghệ thuật và phong cách nghệ thuật ấy, cái tôi trữ

7

tình chỉ được đề cập ở một vài khía cạnh nhỏ. Đến nay, chưa có một công trình

nghiên cứu chuyên sâu nào về cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên từ sau năm

1975. Đây là giai đoạn cái tôi có sự chuyển biến rõ rệt từ cái tôi sử thi cách mạng

sang cái tôi thế sự - đời tư. Chính vì vậy, với luận văn này chúng tôi hy vọng sẽ tìm

hiểu những đặc điểm của cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên sau 1975. Qua đó

nhận diện rõ hơn bức chân dung tinh thần mới của một cánh chim đầu đàn trong nền

thơ ca hiện đại Việt Nam.

3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn khảo sát toàn bộ thơ Chế Lan Viên, trong đó tập trung vào các tập thơ

ra đời sau năm 1975, nhằm tìm hiểu một cách tổng thể, bao quát nội dung và nghệ

thuật thơ Chế Lan Viên ở giai đoạn này. Từ đó, làm sáng tỏ sự thể hiện cái tôi trữ

tình của nhà thơ trong những năm tháng cuối đời. Khi đó, sẽ thấy được đặc điểm

phong cách nghệ thuật Chế Lan Viên cùng những đóng góp của ông cho nền thơ

hiện đại sau 1975.

Mục đích cuối cùng của luận văn là góp phần phục vụ việc nghiên cứu và

giảng dạy nhà thơ Chế Lan Viên trong nhà trường.

3.2. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng của luận văn là những biểu hiện của cái tôi trữ tình trong thơ Chế

Lan Viên sau 1975.

3.3. Văn bản nghiên cứu

Văn bản nghiên cứu của luận văn là toàn bộ những sáng tác thơ của Chế Lan

Viên đã được xuất bản bao gồm 14 tập thơ. Trong đó, luận văn tập trung nghiên cứu

các tập ra đời sau năm 1975 gồm: Hái theo mùa (1977), Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội;

Hoa trên đá (1984), Nxb Văn học, Hà Nội; Ta gửi cho mình (1986), Nxb Tác phẩm

mới, Hà Nội và ba tập Di cảo thơ: tập I nhà xuất bản Thuận Hóa - Huế (1992), tập II

nhà xuất bản Thuận Hóa - Huế (1993) và tập III nhà xuất bản Thuận Hóa - Huế

(1996).

8

4. Phương pháp nghiên cứu

4.1. Phương pháp nghiên cứu loại hình

Phương pháp này căn cứ vào những phương diện loại hình của thơ trữ tình để

nghiên cứu ngôn ngữ, giọng điệu, thể loại thơ Chế Lan Viên sau năm 1975. Từ đó,

làm rõ những đặc điểm cơ bản, mang bản chất loại hình.

4.2. Phương pháp nghiên cứu lịch sử

Sử dụng phương pháp này, người viết đặt thơ Chế Lan Viên sau 1975 trong bối

cảnh lịch sử của sự phát triển của thơ Chế Lan Viên nói chung. Từ đó tìm hiểu cái

tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên sau 1975 trong sự vận động của cái tôi trữ tình

qua hành trình sáng tạo nghệ thuật của nhà thơ.

4.3. Phương pháp thống kê - phân loại

Phương pháp này dùng để thống kê các ý kiến về thơ trữ tình và cái tôi trữ tình

trong thơ. Thống kê các tập thơ của Chế Lan Viên để phân loại, chọn những tập thơ

nào, bài thơ nào là tiêu biểu nhất thể hiện rõ cái tôi trữ tình. Trên cơ sở đó sẽ có cái

nhìn chính xác, cụ thể giá trị chính của thơ Chế Lan Viên.

4.4. Phương pháp phân tích - tổng hợp

Thống kê chỉ là một phương tiện, còn nhiệm vụ chính là phân tích các ý kiến,

các chi tiết nghệ thuật, từ đó đưa ra sự nhìn nhận đánh giá về cái tôi trữ tình. Phân

tích tác phẩm sẽ là cơ sở cho việc tổng hợp các vấn đề chính của cái tôi trữ tình

trong thơ Chế Lan Viên sau năm 1975. Bên cạnh việc phân tích, người nghiên cứu

sẽ tổng hợp lại một cách tổng quát sau khi luận giải các vấn đề.

4.5. Phương pháp so sánh - đối chiếu

Đây cũng là phương pháp được sử dụng một cách thường xuyên để thấy được

cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên có sự chuyển biến giữa các chặng đường

sáng tạo, thấy được sự kế thừa và sự cách tân trong thơ ông.

5. Đóng góp mới của đề tài

5.1. Về mặt lý luận

9

Qua việc nghiên cứu, tìm hiểu những đặc điểm cái tôi trữ tình của Chế Lan

Viên sau năm 1975 sẽ giúp người đọc nhận diện rõ hơn bức chân dung tinh thần

mới của một nhà thơ lớn thế kỷ XX với phong cách nghệ thuật tài hoa mà độc đáo.

Luận văn cũng góp phần làm rõ quan niệm, cách cảm, cách nghĩ về cuộc đời, về con

người, về thơ ca của Chế Lan Viên sau năm 1975, đặc biệt là trong những năm

tháng cuối đời.

Luận văn cũng góp thêm một cái nhìn có hệ thống về các sáng tác của Chế Lan

Viên và khẳng định cái tôi nhiều cảm xúc và suy tư độc đáo trong giai đoạn sau

1975. Từ đó khẳng định những giá trị to lớn, đầy tính nhân văn mà nhà thơ Chế Lan

Viên đã để lại cho đời.

5.2. Về mặt thực tiễn

Luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo hữu ích trong việc học tập và giảng dạy,

nghiên cứu tác phẩm của Chế Lan Viên ở các cấp học.

6. Bố cục của đề tài

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, đề tài được triển khai

thành 3 chương:

Chương 1. Những vấn đề lý luận chung

Chương 2. Đặc điểm cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên sau 1975

Chương 3. Nghệ thuật thể hiện cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên sau 1975

10

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG

1.1. Thơ trữ tình và cái tôi trữ tình

Cho đến nay, đã có hàng trăm định nghĩa khác nhau về thơ. Nguyễn Xuân Nam

cho rằng: “Thơ là hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống qua những tâm

trạng những cảm xúc dạt dào, những tưởng tượng mạnh mẽ trong một ngôn ngữ giàu

hình ảnh và nhất là có nhịp điệu rõ ràng”. Các tác giả Nhập môn văn học lại quan

niệm: “Thơ là bộc bạch cảm xúc hoặc suy tư”. Xuân Diệu cũng từng cho rằng: “Thơ

là lọc lấy tinh chất, là sự vật được phản ánh vào tâm tình”. Còn các tác giả trong

nhóm Xuân Thu lại khẳng định: “Thơ là cái gì huyền ảo, tinh khiết, thâm thúy, cao

siêu, cái hình ảnh bất diệt của cõi vô cùng” vv…Có thể nói, có bao nhiêu người làm

thơ, viết về thơ thì có bấy nhiêu quan niệm khác nhau. Mỗi quan niệm đó đều xuất

phát trên một số phương diện nhất định của thơ để khái quát, cho nên đều cho ta một

ý niệm về thơ.

Chúng ta quan niệm thơ là một hình thức sáng tác văn học nghiêng về thể hiện

cảm xúc thông qua một tổ chức ngôn ngữ đặc biệt. Thơ trữ tình cũng như thơ nói

chung luôn bộc lộ cảm xúc một cách mãnh liệt. Không có cảm xúc thì không có thơ.

Chính vì thơ gắn với cảm xúc, bộc lộ cảm xúc nên khi được sử dụng ở các phương

thức khác như tự sự hay kịch thì cũng không mất đi điều đặc biệt này, mà trái lại

càng làm cho các tác phẩm đậm chất thơ, chất trữ tình hơn.

Cảm xúc thơ khác với cảm xúc của văn xuôi. Cảm xúc văn xuôi dù mãnh liệt

đến đâu vẫn mang tính khách quan. Còn cảm xúc thơ, nói như Phan Ngọc là “được

cảm hóa ngay lập tức, đến mức là của chính tôi”. Người ta đọc thơ, tiếp nhận cảm

xúc thơ như là cảm xúc của chính mình. Người ta lấy thơ ra ngâm, ngẫm nghĩ trong

những cảnh ngộ cụ thể, tâm trạng cụ thể của mình. Thơ do đó là tiếng nói tri âm.

Người ta tìm đến thơ như tìm đến tri âm. Chẳng thế mà Hoài Thanh đã từng viết:

“Thích một bài thơ là thích một con người đồng điệu”.

Vì vậy, có thể hiểu thơ trữ tình là một thể loại thơ ca có đặc trưng là bày tỏ, nói

lên tư tưởng tình cảm của tác giả, thông qua đó sẽ phản ánh cuộc sống. Thơ trữ tình

không miêu tả quá trình sự kiện, không kể tình tiết đầy đủ câu chuyện, cũng không

11

miêu tả nhân vật, cảnh vật cụ thể, mà mượn cảnh vật để bày tỏ tình cảm (tả cảnh trữ

tình). Sáng tác thơ là một nhu cầu tự biểu hiện, một sự thôi thúc từ bên trong, nhiều

khi mãnh liệt, dồn dập do sự tác động của đời sống con người gây nên. Sáng tạo

nghệ thuật là hoạt động có ý thức của người nghệ sĩ, bị chi phối bởi “cái tôi” nghệ

sĩ. Nhưng cái tôi ở đây là cái tôi nghệ thuật, không phải là cái tôi nhà thơ. Cái tôi

trữ tình, trước hết là tính cách của bản thân người mang lời nói. Cái tôi nghệ thuật

trong thơ bao gồm nhiều giá trị khác nhau như tài năng, sự sắp xếp các ngôn từ, cấu

trúc nghệ thuật…Cái tôi trữ tình có mối quan hệ thống nhất, nhưng không đồng

nhất với cái tôi nhà thơ.

Đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về cái tôi trữ tình như một hiện

tượng nghệ thuật. Có thể kể đến một loạt các công trình tiêu biểu của Trần Đình Sử

như: Thi pháp thơ Tố Hữu (Hà Nội, 1987); Phẩm chất cái tôi trữ tình (TCVH số

1/1983); Cái tôi và hình tượng trữ tình (Báo Văn nghệ số 19/1993)...Ngoài ra còn

rất nhiều các công trình khác nghiên cứu về cái tôi trữ tình trong thơ. Hầu hết các

bài nghiên cứu đều nhận thấy, cái tôi của nhà thơ luôn luôn có một mối quan hệ trực

tiếp với cái tôi trữ tình trong thơ. Từ cách nhìn, cách nghĩ, cách thể hiện những nỗi

niềm sâu kín, những tình cảm, thái độ của tác giả trước thế giới khách quan, cái tôi

trữ tình của nhà thơ sẽ được bộc lộ. Cái tôi trữ tình là cái tôi nhà thơ đã được nghệ

thuật hóa và trở thành một thành tố quan trọng của thế giới nghệ thuật trong tác

phẩm. Như vậy, nhân vật trữ tình trong thơ chính là người bộc lộ cảm xúc, tâm

trạng, suy nghĩ thông qua một hệ thống các phương tiện như ngôn ngữ, giọng điệu,

hình ảnh…để dẫn dắt người đọc thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của tác giả. Và

thông qua thế giới nhân vật ấy, cái tôi trữ tình của nhà thơ được bộc lộ một cách rõ

nét. Sự hiện diện của cái tôi trữ tình có thể sẽ là một tín hiệu quan trọng để nhận

biết diện mạo, tư tưởng của nhà thơ, thậm chí của cả một thời kỳ văn học.

Trong hành trình sáng tạo của mỗi tác giả, cái tôi trữ tình lại được thể hiện khác

nhau. Điều đó phụ thuộc vào sự chuyển biến trong cá tính sáng tạo của mỗi người

nghệ sĩ, cũng như sự tác động, chi phối của hoàn cảnh lịch sử, xã hội, của các yếu tố

văn hóa, thời đại…Sự thay đổi và chuyển hóa của các kiểu cái tôi trữ tình sẽ tạo

nên sự vận động của thơ. Cái tôi trữ tình thường xuyên xuất hiện dưới dạng chủ thể

12

trữ tình hoặc nhân vật trữ tình. Lê Lưu Oanh trong cuốn Giáo trình Lý luận văn

học, NXB Đại học Sư phạm (2008) đã chỉ rõ: “Nhân vật trữ tình chính là chủ thể

trữ tình, là người tự phát ngôn, tự miêu tả, tự bộc lộ. Nhân vật trữ tình không có tên

tuổi, diện mạo, hành động…nhưng để lại dấu ấn rất rõ qua giọng điệu, cảm xúc,

cách suy tư…” [54, 200].

Trong cuốn 150 thuật ngữ Văn học do Lại Nguyên Ân biên soạn cũng chỉ rõ:

“Nhân vật trữ tình là kẻ song sinh “đồng dạng” với nhà thơ tác giả; nó được hình

thành từ văn bản của kết cấu trữ tình (một trùm thơ, một tập thơ, một trường ca trữ

tình, hoặc toàn bộ sáng tác thơ trữ tình), như một dáng người có đường nét rõ rệt

hoặc một vai sống động; như một gương mặt có tính xác định của số phận cá nhân,

có đường nét tâm lý của thế giới nội tâm, và đôi khi có cả những đường nét tạo

hình…” [4, 252].

Trong quá trình hình thành, cái tôi trữ tình luôn thể hiện những đặc trưng cơ

bản. Thứ nhất, cái tôi trữ tình mang bản chất chủ quan cá nhân. Người làm thơ bao

giờ cũng có nhu cầu tự biểu hiện, giãi bày tâm tư, tình cảm riêng của mình. Hiện

thực cuộc sống rất rộng lớn, nhưng quan tâm đến vấn đề gì, nhìn nhận nó như thế

nào là do nhà thơ thể hiện dựa trên sự trải nghiệm của cuộc sống cùng với sự thôi

thúc cảm hứng sáng tạo nghệ thuật và tài năng của thi nhân. Khi có chất liệu rồi thì

đến lượt xây dựng văn bản trữ tình. Sự lựa chọn, cách thể hiện nào trong văn bản

trữ tình cũng mang rõ nét cá tính sáng tạo của chủ thể. Do thơ trữ tình in đậm dấu

vết cá nhân nên những gì liên quan đến cuộc đời tác giả, từ tiểu sử đến tính cách

đều đóng một vai trò nhất định trong sáng tác.

Thứ hai, cái tôi trữ tình mang bản chất xã hội. Trong đời sống xã hội xuất hiện

những cá thể người như một đơn vị tồn tại độc lập. Điều đó đã khẳng định vị thế

của con người trong cộng đồng. Các Mác đã khẳng định: “Con người là sự tổng hòa

mọi mối quan hệ xã hội”, con người có thể độc lập tự chủ, suy nghĩ và hành động

theo cách riêng của mình, nhưng con người không bao giờ biệt lập với cộng đồng,

với nhân loại. Làm thơ là để bày tỏ tình cảm, là sự giao lưu với mọi người xung

quanh những vấn đề về số phận, về cuộc sống con người. Thơ trữ tình trong lăng

13

kính hẹp nhất của cái nhìn cá thể, lại luôn luôn phản chiếu những vấn đề chung nhất

của con người.

Nếu như ở phương diện cái tôi trữ tình mang tính chủ quan cá nhân, chúng ta

quan tâm đến mối quan hệ giữa cái tôi nhà thơ với cái tôi trữ tình, thì phương diện

cái tôi trữ tình mang bản chất xã hội nhân loại, chúng ta chú ý đến mối quan hệ

giữa cái tôi trữ tình với cái ta cộng đồng. Chúng ta thừa nhận thơ trữ tình là vương

quốc chủ quan, nhưng cái chủ quan này vẫn hướng về cái ta chung mang tính xã

hội, nhân loại. Ở Việt Nam, hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đã cho

ta thấy rõ được khối sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc. Trong hoàn cảnh ấy sẽ ít

có chỗ cho cái tôi cá nhân tồn tại. Nếu như thơ trữ tình lúc đó không phải là những

lời hiệu triệu mọi người xông lên phía trước mà chỉ quay xung quanh những cảm

xúc cá nhân khép kín, cô đơn thì thơ sẽ trở nên lạc lõng. Thơ phải thể hiện sự lo

toan trước vận mệnh nước nhà, phải đề cao ý thức công dân sẵn sàng hy sinh cái

riêng, cái cá nhân cho quyền lợi chung của đất nước.

Thứ ba, cái tôi trữ tình mang bản chất nghệ thuật. Thông qua sự cảm nhận chủ

quan về hiện thực, nhà thơ đã tích lũy cho mình một nguồn tư liệu cần thiết. Nguồn

tư liệu ấy được xem như là nội dung, chất liệu làm nên tác phẩm. Đến lượt nó, cái

tôi trữ tình sẽ sáng tạo ra một thế giới nghệ thuật đặc thù và tổ chức toàn bộ thế giới

nghệ thuật ấy dưới hình thức một văn bản trữ tình. Rõ ràng, việc đưa hiện thực vào

trong tác phẩm thơ trữ tình khác với tác phẩm tự sự hay tác phẩm kịch. Bởi thế cần

phải nắm được bản chất nghệ thuật thẩm mỹ của cái tôi trữ tình và sáng tạo theo

những quy tắc riêng của thể loại.

Tác phẩm trữ tình miêu tả và biểu hiện thế giới chủ quan trong tâm hồn con

người dưới mọi cung bậc tình cảm một cách ý nhị và tinh tế. Cái tôi trữ tình mang

bản chất chủ quan, do đó thơ trữ tình cũng mang bản chất chủ quan của cái tôi nhà

thơ. Thế giới trữ tình của cái tôi là một thế giới mang giá trị thẩm mỹ được cấu

thành bởi những giá trị văn hóa truyền thống và lịch sử. Như vậy, thế giới trữ tình

của cái tôi là một thế giới nghệ thuật giúp người đọc nhận diện cá tính sáng tạo của

nhà văn. Tất cả các bản chất trên sẽ quyết định đến sự hình thành nội dung cũng

như hình thức nghệ thuật của tác phẩm trữ tình.

14

Nội dung, tình cảm của thơ trữ tình nằm bên trong của sự vật và yếu tố ngoại

cảnh được nhắc đến trong thơ chứ không chỉ tồn tại ở trên câu chữ...Cái tôi mang

bản chất chủ quan, do đó thơ trữ tình cũng mang bản chất chủ quan của cái tôi. Thế

giới trữ tình của cái tôi là thế giới mang giá trị thẩm mỹ được kết tinh bởi những giá

trị văn hóa truyền thống và lịch sử. Như vậy, thế giới trữ tình của cái tôi là một thế

giới nghệ thuật giúp chúng ta hình dung được cá tính sáng tạo của cái tôi trữ tình

dựa trên thế giới quan và truyền thống văn hóa. Người ta gọi thơ là tiếng lòng, là

nhịp đập trái tim bởi lẽ trước tiên, thơ xuất phát từ dòng ý thức bên trong, là những

điều sâu kín nhất, bí ẩn nhất mà người ta không thể nói bằng lời mà buộc phải dùng

những ngôn từ đa nghĩa, hàm ẩn. Đằng sau hình thức chính là nội dung chủ quan,

cái tôi chủ thể là yếu tố hiện diện của mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thơ

trữ tình.

Như vậy, cái tôi trữ tình với bản chất chủ quan chi phối mọi hành động, suy

nghĩ của cái tôi nghệ thuật có mối quan hệ mật thiết đối với nội dung và hình thức

của tác phẩm trữ tình.

1.2. Cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên trước năm 1975

Cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên xuất hiện ở nhiều hình thái khác nhau:

khi bộc lộ trực tiếp, khi ẩn khuất, khi như một đối tượng phản ánh, khi thì lại chính

là cái tôi tác giả - chủ thể thẩm mỹ, khi thì thiên về nội dung, có khi lại thiên về

hình thức…và có sự vận động theo thời gian, gắn liền với các mốc son của lịch sử

dân tộc. Về tổng quan, ta có thể thấy sự thể hiện cái tôi trữ tình của Chế Lan Viên

trước năm 1975 qua hai chặng đường: trước Cách mạng tháng Tám và trong những

năm kháng chiến.

1.2.1. Cái tôi tràn ngập nỗi đau trước Cách mạng tháng Tám 1945

Chế Lan Viên làm thơ từ năm 12 - 13 tuổi. Ông cùng với Hàn Mặc Tử, Quách

Tấn, Yến Lan thành lập nhóm thơ Bình Định và đã trở thành một hiện tượng độc

đáo của nền Thơ Mới. Hàn Mặc Tử (1912 - 1940) là con “Rồng” (Long), là “ngôi

sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam”. Thơ Hàn Mặc Tử có hình ảnh đẹp như chính

tâm hồn Việt, nhưng lại có những hình ảnh mang chất khủng hoảng; Yến Lan (1916

15

- 1998) là con “Lân” (Ly), có nhiều thành tựu trong sáng tạo thơ; Quách Tấn (1910

- 1992), là con “Quy”, nghiêng về cổ điển; Còn Chế Lan Viên (1920 - 1989), là con

“Phượng”.

Có thể nói trong “tứ linh” thì “Rồng” và “Phượng” là đặc sắc hơn cả. Chế Lan

Viên và Hàn Mặc Tử đều chọn cho thơ mình đối tượng thẩm mỹ là những thế giới

quái dị, lạ lẫm. Hệ thống hình ảnh trong thơ họ đã đem đến cho người đọc những

rung cảm thẩm mĩ thực sự mà không phải nhà thơ nào cũng có được. Tuy nhiên,

Chế Lan Viên đã sử dụng một cách đậm đặc các hình tượng thơ mà mình theo đuổi

(hình ảnh nước Chàm và dân Hời). Trong Điêu tàn, Chế Lan Viên đã sử dụng

những chất liệu kinh dị từ bóng tối, hồn ma, mồ hoang, sọ người, xương khô, máu

tuỷ...để tạo nên khách thể thẩm mỹ đầy tính Hư cấu - Siêu hình - Kinh dị:

“Và hồn, máu, óc tươi trong suối mực

Đua nhau trào lên trên giấy khúc buồn thương

Như không gian lùa vào ta chẳng dứt

Những hương mơ say đắm mộng ngông cuồng”.

(Tiết trinh) [67, 56]

Cái chết, niềm cô đơn đã trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng của Chế Lan Viên từ

thời niên thiếu. Hình ảnh của một đất nước đã tiêu vong trong lịch sử từ xa xưa

bỗng nhiên trở lại trong thơ ca với những hình ảnh ma quái, với giọng thơ buồn

thương, ảo não pha màu sắc huyền bí kỳ lạ, trở thành nỗi ám ảnh với người đọc.

Người phục dựng lại đất nước Chiêm Thành vàng son ấy đang ngập chìm trong nỗi

buồn thương, ai oán của hồn ma, của máu, của xương khô, huyết tanh, yêu

tinh...khiến chúng ta phải giật mình. Một nỗi cô đơn, lạc lõng đầy đau đớn:

“Chiều hôm nay bỗng nhiên ta lạc bước

Vào nơi đây thế giới vạn cô hồn

Hơi người Chết tỏa đầy trong gió lướt

Tiếng máu kêu rung chuyển cỏ non xanh”.

(Xương khô) [67, 36]

16

Chế Lan Viên đã đi ngược thời gian, với trí tưởng tượng phong phú để tái hiện

lại một thế giới đã suy tàn, chỉ còn lại những ký ức đau buồn và hãi hùng. Một

chàng thanh niên tuổi hoa niên bước vào thế giới siêu thực để cảm và thấu hiểu nỗi

đau của người dân Chàm. Cái chết đã trở thành nỗi ám ảnh trong tâm trí Chế Lan

Viên từ thuở ấy. Âm hưởng chung của Điêu tàn chính là nỗi buồn, nỗi cô đơn, lạc

lõng của nhà thơ trước thời cuộc, mà không biết giãi bày cùng ai nên đã tìm về với

cõi siêu hình, ma quái đầy bí ẩn. Đây cũng chính là tâm trạng chung của cái tôi trữ

tình trong Thơ Mới trước cách mạng tháng Tám. Khi nghiên cứu về thơ Chế Lan

Viên thuở Điêu tàn, nhiều nhà nghiên cứu đã đi tìm căn nguyên của nỗi đau buồn

ấy: có lẽ vì Chế Lan Viên sống trong giai đoạn nước nhà chìm trong màn đêm nô lệ

và một không gian tràn ngập sắc buồn, cho nên tâm hồn của chàng trai trẻ yêu nước

đã bị nỗi đau diệt vong của dân tộc Chàm làm lay động tâm can. Chàng trai trẻ

mười năm, mười sáu tuổi ấy đáng lẽ phải đang say sưa trong những giấc mộng lớn

của cuộc đời bằng những lý tưởng, khát vọng về tuổi trẻ, về tình yêu thì lại “nhập

hồn, hóa cốt” vào dân tộc Chàm để vực dậy những hồn ma xung quanh đống đổ nát

điêu tàn và đưa vào trang thơ của mình. Chàng thi sĩ Phan Ngọc Hoan đã có một

tuổi thơ gắn bó sâu nặng với mảnh đất Bình Định. Ông coi đây là quê hương thứ hai

của mình. Những buổi chiều tan học, chàng thi sĩ thường dừng chân bên những tháp

Chàm đổ nát. Và hình ảnh những đền đài xưa đã ăn sâu vào tâm trí chàng:

“Đây những tháp gầy mòn vì mong đợi

Những đền xưa đổ nát dưới Thời Gian

Những sông vắng lê mình trong bó ng tối

Những tháp chàm lở lói rỉ rên than”.

(Trên đường về) [67, 38]

Với Điêu tàn, Chế Lan Viên đã thể hiện một tình yêu nước thầm kín. Khóc

than về nỗi diệt vong của đất nước Chiêm Thành xưa với những cảnh thê thảm:

“Muôn ma hời sờ soạng dắt nhau đi”, cũng là để “thể hiện thầm kín tấm lòng yêu

đất nước, một đất nước đang tồn tại nhưng thực sự đang điêu tàn trong chế độ và

cảnh đời cũ” (Hà Minh Đức). Điêu tàn không chỉ mở ra một quá khứ đầy bi hận

17

của dân tộc Chàm mà còn khiến ta phải giật mình nhận ra rằng, không riêng dân

Chàm mà ngay cả dân tộc ta cũng đã và đang phải trải qua thời kỳ đen tối. Dân tộc

ta cũng đã bao phen bị kẻ thù đô hộ, thôn tính làm nô lệ. Và hiện tại là sự giày xéo

của thực dân Pháp trên mảnh đất hình chữ S. Hiện thực ấy có lẽ đã chi phối đến tâm

tư tình cảm của thế hệ các nhà Thơ Mới. Họ trốn tránh thực tại và tự tìm cho mình

lối thoát: Xuân Diệu say trong cõi Tình, Lưu Trọng Lư hòa vào cõi Mộng, Hàn Mặc

Tử ẩn mình vào Trăng, Huy Cận buồn thương cùng vũ trụ…Dù trốn tránh hiện thực

nghiệt ngã, nhưng đó không phải là sự phản ứng tiêu cực của các nhà thơ mà đó là

sự phản ứng có ý thức của những thanh niên có lòng yêu nước nhưng bất mãn với

thực tại. Khác với các nhà thơ Mới cùng thời, Chế Lan Viên một mình một nẻo

xuống cõi Âm, đau cùng nỗi đau nhân thế của đất nước Chàm…

Rõ ràng trong thơ Chế Lan Viên giai đoạn này, cái tôi trữ tình đã hiện diện một

cách mạnh mẽ. Tuy nhiên, cái tôi ấy không ca khúc nhạc vui mà chỉ ngân lên điệu

buồn sầu thương. Qua lời ca ấy, chúng ta hiểu được bản chất nỗi buồn thương ấy

chính là cảm hứng yêu nước. Có điều, nhà thơ trẻ tuổi không trực tiếp bày tỏ tinh

thần yêu nước mà thầm kín nói đến nỗi lòng ấy qua nỗi sầu vong quốc của những

người dân Hời. Nói đến tình yêu nước, thể hiện khát vọng thoát khỏi xiềng xích nô

lệ nhưng không nói đến tương lai huy hoàng mà chỉ nói đến cái chết, đến hồn

ma…Có ai ngờ tất cả những đền đài, cung điện nguy nga, tráng lệ xưa kia giờ lại là

những bãi tha ma, gào thét với oan hồn và khóc tìm Chiêm nữ. Hoài niệm về một

thời vàng son không còn nữa cũng là cách để thi nhân bộc lộ nỗi đau mất nước, thể

hiện tình yêu tha thiết với non sông. Nhưng nhìn vào hoàn cảnh chính trị lúc bấy

giờ, một người yêu nước cổ vũ dân chúng vùng lên với bất kỳ hình thức nào cũng

không phải là một việc làm yên ổn. Do đó, muốn bày tỏ nỗi lòng một cách trọn vẹn,

không gì hơn là quay về quá khứ, mượn hình ảnh người làm hình ảnh mình, mượn

tiếng than của người làm tiếng than của mình, mượn nỗi thù hận của người làm nỗi

thù hận của mình. Nhập vào nỗi đau của người để nói về nỗi đau của mình, đó chính

là dụng ý của Chế Lan Viên.

Điêu tàn đã nói lên nỗi đau mất nước của những người dân muốn thoát khỏi

gông cùm nô lệ. Nhà thơ viết: “Điêu tàn có riêng gì đất nước Chiêm thành của tôi

18

đâu! Kia kìa, nó đục sọ dừa anh. Tiếng xương rạn vỡ dội thấu đáy hồn tôi” [67, 8].

Từ cái nhìn bi quan về cuộc đời, Chế Lan Viên đã vực dậy sự đổ nát, điêu tàn của

thời đại để nói về nỗi đau mất nước của dân tộc Việt. Tập thơ đã tạo một hiệu ứng

tâm lý tích cực nơi người đọc lúc bấy giờ, bởi nhìn cảnh đổ nát của nước Chiêm

Thành ai cũng phải có sự suy nghĩ, lo lắng cho số phận của nước Việt Nam trong

tương lai.

Có thể nói, trong chặng đầu tiên của đường thơ Chế lan Viên, cái tôi trữ tình

hiện lên mang đầy sắc buồn ảm đạm, thấm đẫm nỗi cô đơn. Bóng dáng nhân vật trữ

tình lạc lõng giữa nhân gian, tồn tại một sự bế tắc nặng nề trong tâm hồn. Do đó, cái

tôi trữ tình luôn có ý định thoát ly thực tại và đã thoát ly thực tại để tìm về với cõi

siêu hình. Điêu tàn như một tháp thơ dựng lên trên mảnh đất lịch sử đau buồn của đất

nước mang gông cùm nô lệ, được xây bằng những viên gạch siêu hình, gắn liền với

tâm trạng chán nản, u buồn vây phủ tư tưởng và những suy niệm về đời sống của nhà

thơ. Có thể xem Điêu tàn vừa là sự khai mở, nhưng đồng thời cũng là điểm kết thúc

hành trình sáng tạo của một quan niệm thơ. Cuối hành trình ấy nở rộ những bông hoa

lung linh huyền ảo được mọc lên từ một tháp thơ lẻ loi và bí ẩn.

1.2.2. Cái tôi cách mạng đầy nhiệt huyết trong hai cuộc kháng chiến

Trong vòng 30 năm, Chế Lan Viên đã đánh dấu từng chặng đường lịch sử bằng

các tập thơ: Gửi các anh (1955); Ánh sáng và phù sa (1960); Hoa ngày thường,

chim báo bão (1967); Những bài thơ đánh giặc (1972); Đối thoại mới (1973); Hoa

trước lăng Người (1954-1976). Chế Lan Viên là nhà thơ thể hiện sâu sắc nhất cuộc

hành trình đầy gian khổ “từ chân trời một người đến với chân trời tất cả”. Đến với

cách mạng, nhà thơ đã rũ bỏ được quá khứ buồn thương, đoạn tuyệt với thời kỳ

Điêu tàn để hòa mình vào niềm vui của toàn dân tộc, để được trở về với đời sống

của quần chúng nhân dân lao động, để hòa nhập vào cuộc sống mới, được gắn bó

với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc.

Cách mạng tháng Tám thành công đã đưa tâm hồn cô đơn, lạc lõng của Chế

Lan Viên trở về với thực tại dưới ánh sáng soi đường của Đảng và niềm tin mãnh

liệt vào quần chúng nhân dân lao động. Tập Gửi các anh (1955) đã đánh dấu bước

19

chuyển biến lớn trong tư tưởng cũng như sự nghiệp sáng tác của ông sau 1945. Từ

chỗ là một nhà thơ lãng mạn thoát ly hiện thực, giờ đây sau 10 năm không sáng tác

nhà thơ đã trở thành một chiến sĩ say sưa trên mặt trận văn hóa, mang ba lô đi theo

các đoàn dân công, bộ đội ra mặt trận, hòa lòng mình vào lòng người kháng chiến,

để sáng tác phục vụ kháng chiến. Trở về với nhân dân cũng chính là trở về với mạch

nguồn của sáng tạo thi ca. Không còn tìm đến với cõi siêu hình hư vô, cái tôi trữ

tình trong thơ Chế Lan Viên giai đoạn này đã hoàn toàn đổi khác. Chấm dứt những

bi ai, bế tắc, nhà thơ đã hòa nhập vào cuộc đời chung của nhân dân vào những vấn

đề thời sự nóng bỏng: “Sự hồi sinh của cái tôi trữ tình đời tư theo xu hướng hòa

nhập với cái ta chung và sự đậm dần, mở rộng và phát triển mạnh mẽ của cái tôi sử

thi” [81, 258].

Con người nhà thơ thay đổi đã kéo theo sự chuyển biến của hồn thơ. Một thế

giới nghệ thuật mới đã hình thành. Cái tôi trữ tình trong thơ giai đoạn này mang

một vóc dáng mới và đậm dấu ấn của chủ thể sáng tạo. Đó là cái tôi yêu nước, hòa

nhập vào cái ta cộng đồng, cái tôi hành động, cái tôi hiện thực. Trước kia ông nhìn

vào thế giới “điêu tàn” để thể hiện mình, thì nay ông đã nhìn ra xung quanh để thể

hiện cuộc sống kháng chiến, để cảm nhận cái đẹp và cái anh hùng của thời đại.

Nghĩa là cái tôi không còn đóng vai một người siêu phàm siêu thoát mang tính hư

cấu tưởng tượng nữa mà là cái tôi công dân gắn bó sâu sắc với vận mệnh đất nước.

Đánh dấu sự chuyển biến lớn trong tư tưởng và nghệ thuật của nhà thơ phải kể

đến tập Ánh sáng và phù sa (1960). Tập thơ đã ghi một dấu mốc quan trọng trên

hành trình thơ của Chế Lan Viên từ sau Cách mạng. Cũng từ đây, cái tôi trữ tình

của nhà thơ đã thể hiện sự phát triển thêm một bước quan trọng - cái tôi sử thi

kháng chiến. Nhà thơ đã “nới rộng không gian Thơ Mới từ tháp ngà nghệ thuật ra

giữa vòm trời Nhân dân và Tổ quốc” [27, 202]. Đây là lúc ông đoạn tuyệt hoàn toàn

với giai đoạn “điêu tàn”, phá “cô đơn” để hòa nhập với cuộc sống “Lấy cái vui của

cuộc đời đánh bạt mọi đau thương”. Ông đã cố gắng hòa hợp cái tôi vào cái ta

chung và hướng thơ vào cuộc sống kháng chiến sôi nổi để ngợi ca sự thay đổi trên

mọi miền đất nước. Làm thơ là đến với nhân sinh, nhân quần. Chính vì vậy, cái tôi

trữ tình của Chế Lan Viên đã thực sự hòa nhập vào cái ta rộng lớn và ông hiểu rõ

ngòi bút của mình cần phải hướng tới ai:

20

“Tôi viết cho ai? Cho tất cả mọi người

Nhưng rất gần - cho những đứa em tôi

Ngày đau khổ khép tay trong tủi cực

Nay mở tay ra, bến rộng sông dài

Cho ai cũ thơ tôi làm ướt áo

Nay họ về sưởi giữa nắng thơ tôi”

(Nghĩ về thơ) [69, 35]

Cuộc sống mới chứa chan Ánh sáng và phù sa đã giúp Chế Lan Viên “lấn từng

nỗi đau như mùa chiêm lấn vành đai trắng” và “nay trở về ta lấy lại vàng ta”. Khi

đã có hướng rồi, nhà thơ không ngần ngại “Đi ra với sông, đi ra với trời, đi ra với

đời” để cảm nhận được:

“Tôi yêu quá cuộc đời như con đẻ

Như đêm xuân người vợ trẻ yêu chồng

Tôi nối với bạn bè như với bể

Cả lòng tôi là một giải sông Hồng”

(Chim lượn trăm vòng) [69, 38]

Nhà thơ đã “cố gắng vượt khỏi cái tôi cô đơn, bé nhỏ để hòa nhập vào cái ta

chung của mọi người” [20, 323] trong dòng chảy của lịch sử. Ý thức cái tôi cá nhân

đã phát triển cao độ khi mà tiếng nói của nhà thơ là nhân danh cộng đồng, nói với

cộng đồng. Và với cái tôi sử thi hào hùng, ông đã say sưa ngợi ca Tổ Quốc, ca ngợi

Bác Hồ trong tiếng gọi thiết tha với những gì thiêng liêng, tươi đẹp nhất: “Hỡi sông

Hồng tiếng hát bốn nghìn năm / Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng? / Chưa đâu và

ngay cả trong những ngày đẹp nhất / Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc / Hưng

Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng… / Những ngày tôi sống đây là những

ngày đẹp hơn tất cả / Dù mai này đời muôn vạn lần hơn…” (Tổ quốc bao giờ đẹp

thế này chăng?) [69, 142].

21

Bên cạnh những vần thơ về cái chung, cái toàn thể, cái tôi trữ tình của Chế Lan

Viên giai đoạn này còn hướng tới cái riêng với một niềm tin yêu cuộc sống thật

đáng khâm phục và trân trọng. Đó là sự cân bằng cần thiết của cái tôi đã thấm

nhuần tinh thần yêu nước và cảm hứng sử thi. Bởi trong những thời điểm ác liệt

nhất của cuộc chiến, con người có thể sẽ trải qua những giây phút mệt mỏi…và sự

trở về với tình cảm đời thường sẽ làm con người cân bằng trạng thái để có thêm

năng lượng cho những cuộc chiến tiếp theo:

“Đây tôi sống những ngày nhân hậu nhất

Mỗi mai hồng áo trắng đến thăm tôi

Nghiêng những đài sen, nghiêng tiếng hát

Che nỗi đau trong bóng nụ hoa cười”

(Ý nghĩ mùa xuân) [69, 69]

Có thể nói, từ Ánh sáng và phù sa, cái tôi trữ tình của Chế Lan Viên đã có sự

hòa nhập giữa niềm vui chung với niềm vui riêng. Dù đâu đó có những câu thơ, bài

thơ còn mang nặng tâm trạng bùi ngùi, xót xa. Nhưng đây là tập thơ đánh dấu sự

chuyển mình mạnh mẽ nhất của một hồn thơ đã tự nguyện đi theo tiếng gọi của Cách

mạng.

Thơ Chế Lan Viên trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ được xem

như là thứ vũ khí sắc bén để cải tạo tư tưởng, để xung trận chiến đấu. Cuộc kháng

chiến ác liệt đó đã đặt con người, cuộc sống và nghệ thuật vào thế phải tự vươn lên

một tầm cao mới xứng đáng với tinh thần của thời đại. Các tập thơ chống Mỹ của

Chế Lan Viên ra đời trong những ngày tháng ác liệt đó: Hoa ngày thường, chim

báo bão (1967); Những bài thơ đánh giặc (1972); Đối thoại mới (1973)…là minh

chứng cho sự hòa nhập giữa cái tôi và cái ta. Cái tôi (Chế Lan Viên) và cái ta (dân

tộc, nhân loại) hòa quyện làm một, tất cả vì mục đích lớn của dân tộc.

Hiện thực đời sống thời kỳ chống Mỹ là nguồn cảm hứng cho Chế Lan Viên có

thêm nhiều vần thơ tràn đầy sức sống. Tâm hồn nhà thơ rộng mở hướng tới khắp

mọi miền của Tổ quốc để nhạy bén thu nhận chất thơ của đời sống và hòa nhịp sống

22

của mình với nhịp sống của dân tộc. Những nhiệm vụ quan trọng của đất nước ta

được nhà thơ ghi dấu bằng một loạt các bài thơ hay. Từ năm 1965, khi cả nước hòa

chung là một chiến trường chống Mỹ, cái tôi chiến sĩ của Chế Lan Viên lại bùng cháy

với sự hào sảng khi tố cáo tội ác của quân thù với lời kêu gọi: “Hãy giết sạch lũ hung

thần bóng tối”. Không chỉ có vậy, nhà thơ đã nhận thức sâu sắc hơn về vẻ đẹp của Tổ

quốc và sự gắn bó rất đỗi đằm thắm, tha thiết “như máu thịt”, như “mẹ cha ta” như

“vợ như chồng” của con người Việt Nam.

Càng yêu Tổ quốc, nhà thơ càng nhận thức sâu sắc bản chất của kẻ thù và

những nỗi đau mà dân tộc phải trải qua, càng làm bùng lên nỗi khát khao về một

cuộc sống yên bình hạnh phúc. Cái tôi trữ tình đã thực sự gắn bó máu thịt, nặng

nghĩa với lịch sử dân tộc, với cách mạng. Tính thời sự là một trong những đặc điểm

quan trọng của thơ Chế Lan Viên giai đoạn này. Nhà thơ khẳng định sự có mặt của

cách mạng đã làm thay đổi hiện thực, làm tỏa nắng cho tâm hồn một thời u ám của

mình:

“Những năm cách mạng chưa về

Vườn ta có hoa mà không đậu quả

Rặng liễu tâm hồn chưa xanh tơ mà đã úa vàng

Nhiều chim bằng chưa bay đã hóa cu nhà, chim sâu ăn đất

Chưa gặp trời đã gãy cánh giữa lồng nan.”

(Nghĩ về thơ) [69, 102]

Trong những năm kháng chiến ác liệt nhất của lịch sử dân tộc, Chế Lan Viên

luôn là con chim đầu đàn trong việc bám sát vào những vấn đề nóng bỏng nhất của

cuộc chiến. Và cũng từ mảnh đất hiện thực màu mỡ ấy, thơ Chế Lan Viên thực sự là

tiếng kèn xung trận trong mọi cuộc chiến. Nhà thơ nhận ra rằng, hiện thực luôn có

những vẻ đẹp tiềm ẩn, nếu nhà thơ không mở lòng đón nhận thì sẽ không bao giờ

hiểu được cuộc sống, bởi: “Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép”. Nếu không có

sự tìm tòi sáng tạo thì thơ sẽ không thể nói lên điều gì có ích:

23

“Cuộc sống đánh vào thơ trăm nghìn lớp sóng

Chớ ngồi trong phòng ăn bọt bể, anh ơi!

Tâm hồn anh là của đời một nửa

Một nửa kia lại cũng của đời”.

(Nghĩ về thơ) [70, 104]

Sức mạnh của thơ Chế Lan Viên giai đoạn này chính là ở những vấn đề mang

tính khái quát. Cái tôi sử thi thể hiện ngay trong những sự kiện lớn ấy. Từ cảm hứng

về Tổ quốc, về Cách mạng, nhà thơ đã nhìn sâu vào tâm hồn mình rồi nhìn xa ra đời

sống của quần chúng nhân dân và bạn bè thế giới.

Một chặng đường lịch sử khép lại với 30 năm chiến tranh ác liệt, cũng là khép

lại một giai đoạn cái tôi hào sảng và đầy tự hào về dân tộc của Chế Lan Viên. Sau

Cách mạng, hồn thơ Chế Lan Viên đã thực sự trở về với quần chúng nhân dân, với

đất nước. Đi từ siêu thực về hiện thực, đi từ cái tôi bế tắc trong đau khổ nhà thơ đã

hòa vào dàn đồng ca của cái tôi sử thi với giọng điệu chính luận đanh thép. Đây

cũng chính là đặc điểm quan trọng của thơ Chế Lan Viên thời kỳ này.

1.3. Những yếu tố tạo nên sự chuyển biến của cái tôi trữ tình trong thơ Chế

Lan Viên sau năm 1975

Cái tôi trữ tình với tư cách là một hiện tượng nghệ thuật, nó có sự hình thành,

phát triển, kết thúc hoặc chuyển hóa sang một dạng khác. Quá trình vận động ấy sẽ

khó hình dung một cách đầy đủ trong thơ của một số tác giả khi sự nghiệp thơ của

họ quá ngắn ngủi với một vài ấn phẩm. Nhưng với các tác giả có số lượng tác phẩm

nhiều, lại sáng tác qua các giai đoạn lịch sử và văn học có nhiều biến chuyển thì dấu

ấn của sự vận động lại càng rõ nét.

Sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật của Chế Lan Viên kéo dài hơn nửa thế kỷ qua ba

chặng đường lớn của dân tộc và văn học Việt Nam thế kỷ XX. Nghiên cứu, tìm hiểu

thơ Chế Lan Viên, ai cũng dễ dàng nhận thấy, thơ ông giữa giai đoạn trước với giai

đoạn sau đều có những bước tiến triển.

24

Có thể nêu lên đây những yếu tố tạo nên sự chuyển biến của cái tôi trữ tình

trong thơ Chế Lan Viên sau 1975:

1.3.1. Sự thay đổi về hoàn cảnh xã hội

Đây được xem là nguyên nhân khách quan. Giữa hoàn cảnh xã hội và tiến trình

văn học có mối quan hệ khăng khít, gắn bó chặt chẽ với nhau, cho nên, không phải

ngẫu nhiên mà trong các bài văn học sử về giai đoạn văn học này đều phải thông

qua bước tìm hiểu hoàn cảnh xã hội, văn hóa tư tưởng. Hoàn cảnh này có những tác

động nhất định đến cái tôi trữ tình. Bởi vì, cái tôi trữ tình bao giờ cũng là sản phẩm

của một thời đại. Nói đến hoàn cảnh xã hội còn là nói đến sự tiếp nhận của người

đọc. Trong sáng tạo nghệ thuật, không thể không chú ý đến đối tượng tiếp nhận. Có

một thực tế là nhà thơ đã tạo ra công chúng của mình nhưng công chúng cũng có

thể tạo ra nhà thơ của họ.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi, hòa bình được lặp lại, đất

nước ta hoàn toàn thống nhất về mặt lãnh thổ, cả nước bắt tay vào công cuộc xây

dựng xã hội chủ nghĩa với những nhiệm vụ quan trọng cho từng miền. Mặc dù khó

khăn còn nhiều, nhưng với sự quyết tâm không biết mệt mỏi của toàn Đảng, toàn

dân, đất nước ta dần lấy lại được cân bằng và bước đầu có những thành tựu đáng kể.

Thắng lợi đó đã thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân là xây dựng một đất nước

giàu mạnh, thống nhất, từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Trải qua 10 năm thực hiện kế hoạch 5 năm lần 1 và lần 2 (1976 - 1980 và 1981

- 1985), Việt Nam đạt được những kết quả nhất định trên cả hai phương diện xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc, song cũng gặp nhiều khó khăn. Đất nước lâm vào tình

trạng khủng hoảng trầm trọng về kinh tế - xã hội, do những sai lầm nghiêm trọng và

kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực

hiện. Để khắc phục sai lầm, khuyết điểm, đưa đất nước vượt qua khủng hoảng và

vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội, phải tiến hành công cuộc đổi mới. Những thay

đổi của tình hình thế giới và quan hệ giữa các nước do tác động của cuộc cách mạng

khoa học - kĩ thuật trở thành xu thế tất yếu. Trong thời điểm đó, đổi mới là yêu cầu

25

cấp bách, có ý nghĩa sống còn đối với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đồng thời là

vấn đề phù hợp với xu thế chung của thời đại.

Từ Đại hội VI (12/1986) trở đi, Đảng ta đã đề ra những quan điểm đổi mới,

nhưng không phải là thay đổi mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, mà làm cho mục tiêu

ấy được thực hiện có hiệu quả với những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp.

Đồng thời phải đổi mới toàn diện và đồng bộ, từ kinh tế và chính trị đến tổ chức, tư

tưởng, văn hoá. Đảng ta xác định xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,

nhà nước của dân, do dân và vì dân; lấy liên minh công nhân, nông dân và tầng lớp

trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Xây dựng nền dân chủ xã hội

chủ nghĩa, đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân, coi dân chủ vừa là mục tiêu vừa

là động lực của công cuộc đổi mới.

Từ những thay đổi quan trọng về tình hình kinh tế, xã hội và văn hóa xã hội đã

có những tác động tích cực đến nền văn học nói chung và thơ Chế Lan Viên nói

riêng. Sau năm 1986, văn học thực sự đổi mới cùng đất nước. Trong hai ngày, 06 và

07 tháng 10 năm 1987, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã có buổi nói chuyện với

gần 100 văn nghệ sĩ. Không khí dân chủ thực sự được mở rộng. Các nghệ sĩ được

nói lên tiếng nói của chính mình sau một thời gian dài nén chặt. Từ đó, rất nhiều

cuộc hội thảo, các cuộc tranh luận đã diễn ra nhằm xác định hướng đi mới cho nền

văn học hòa bình với nhiều vấn đề lý luận, như: Quan hệ giữa văn học và chính trị;

Vấn đề tự do sáng tác; Vấn đề phản ánh hiện thực; Đánh giá thành tựu văn học

thông qua các hiện tượng văn học…

Các thể loại văn học bắt đầu có những chuyển biến mạnh mẽ trên tinh thần đổi

mới của đất nước. Ký trở thành thể loại xung kích hàng đầu thể hiện những mặt tiêu

cực của đời sống. Cảm hứng phê phán những mặt trái của xã hội đã được bạn đọc

đón nhận. Truyện ngắn và tiểu thuyết cũng thể hiện chiều sâu của các vấn đề thời sự

nóng bỏng với các cây bút tiêu biểu: Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Nguyễn

Quang Lập, Đỗ Chu…Thơ ca cũng đã bắt đầu nói lên tiếng nói của số phận cá nhân

với những buồn vui thường nhật của cuộc sống.

26

Sau ngày đất nước thống nhất (1975), Chế Lan Viên cùng gia đình vào Sài Gòn

sinh sống và tiếp tục con đường sáng tạo nghệ thuật không biết mệt mỏi của mình.

Trong số các nhà thơ trưởng thành từ cách mạng thì Chế Lan Viên vẫn được coi là

người đi đầu trong quá trình đổi mới của văn học nói chung và thơ ca nói riêng.

Nghiên cứu thơ Chế Lan Viên từ sau năm 1975, ta cũng thấy rõ sự ảnh hưởng to lớn

của hoàn cảnh xã hội đối với sự hình thành và phát triển của cái tôi trữ tình trong thơ

ông. Thời kỳ sau 1975, cuộc sống và nghệ thuật trở lại với muôn mặt đời thường, thị

hiếu thẩm mỹ của người đọc thay đổi, người ta quan tâm nhiều đến những tác phẩm

phản ánh đời tư thế sự, đến đời sống cá nhân. Điều đó buộc nhà thơ thay đổi giọng

điệu, từ giọng “vang ngân” chuyển sang “giọng trầm” của cuộc sống thường nhật:

“Xưa tôi hát mà bây giờ tôi tập nói

Chỉ nói thôi mới nói hết được đời.”

(Sổ tay thơ) [72, 131]

Hay:

“Giọng cao bao nhiêu năm, giờ anh hát giọng trầm

Tiếng hát lẫn vào im lìm của đất”

(Giọng trầm) [77, 187]

Trong khoảng vài năm cuối đời (1986, 1987, 1988, 1989), Chế Lan Viên tăng

ngòi bút với số lượng tác phẩm không nhỏ. Điều đó chứng tỏ nhà thơ đã có một giai

đoạn đổi mới cùng đất nước và văn học. Những thay đổi về đời sống - xã hội cũng

đã tác động lớn đến ngòi bút Chế Lan Viên. Trong khung cảnh hòa bình, nhà thơ có

thêm nhiều điều kiện, cả về vật chất lẫn tinh thần và thời gian để sáng tạo nên

những vần thơ có ý nghĩa.

1.3.2. Sự thay đổi trong quan niệm thẩm mỹ về con người

Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, con người được thể hiện khá đa dạng,

phong phú qua các sáng tác của các nghệ sĩ. Trước năm 1945, những nhân vật trong

tác phẩm được xây dựng với những khát vọng vươn lên thật chính đáng. Tuy nhiên,

sống trong bùn lầy của xã hội cũ, họ lại không có lý tưởng thật sự để phấn đấu và

27

vươn lên. Lúc này con người cá nhân còn chưa định hình được rõ nét. Chính vì vậy,

tâm thế cô đơn, vô vọng, buồn chán choáng ngợp trên nhiều trang sách.

Sau năm 1945, dân tộc giành được độc lập, văn học cũng được giải phóng.

Trong văn học đã xuất hiện kiểu con người mới, kiểu con người vừa thoát khỏi bùn

đen nô lệ để bước vào cuộc đời tự do. Họ là những người có ý thức, được giác ngộ

lý tưởng. Lúc đầu, những con người đó được văn học mô tả một cách đơn giản

nhưng đầy nhiệt tình cách mạng. Về sau nhờ được tôi luyện trong các cuộc kháng

chiến và cả trong xây dựng nên dần dần họ trở thành đối tượng thẩm mỹ quan trọng

của văn học.

Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954), con người mới được

văn học miêu tả trên bình diện số đông. Họ là con người quần chúng. Mặc dù đó là

những con người có tên, có tuổi nhưng người ta chỉ nhận ra họ trong tập thể. Trong

các tác phẩm giai đoạn này, nổi bật lên là nhân vật “đám đông” nên vai trò của con

người cá thể bị giới hạn.

Bước sang giai đoạn xây dựng xã hội chủ nghĩa trên miền Bắc và trong cuộc

kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhân vật trung tâm của tác phẩm chính là con

người tập thể, con người của độc lập tự do. Những nhân vật điển hình của văn học

thời kỳ mới đã bắt đầu xuất hiện. Họ là những con người có xương có thịt, có tính

cách rõ ràng. Trong thời kỳ chiến tranh, văn học chỉ quan tâm đến vận mệnh của cả

dân tộc nên con người Việt Nam đã đoàn kết lại thành một khối vững mạnh để

đương đầu với mọi thách thức, có lúc tưởng như không thể vượt qua được. Người

cầm bút lúc này có nghĩa vụ tham gia vào cuộc đấu tranh lớn lao đó của cả dân tộc.

Nhà văn cũng là người chiến sĩ đã làm trọn sứ mạng lịch sử đã giao phó.

Sau ngày đất nước thống nhất, mặc dù hiện thực đã có sự thay đổi nhất định

nhưng con tàu văn học vẫn chưa thoát khỏi quán tính cũ. Văn học đã bắt đầu rũ bỏ

bộ áo khoác cũ nhưng chưa bắt nhịp được với cuộc sống mới. Nhà văn Nguyên

Ngọc gọi đây là khoảng chân không của văn học. Các tác phẩm văn học chủ yếu

vẫn được viết theo khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn và vẫn viết về

những vấn đề lớn của dân tộc. Cảm hứng chính trong thơ ca là ngợi ca những năm

28

tháng hào hùng đã qua. Các nhân vật được các nhà văn xây dựng vẫn thường là đại

diện cho cộng đồng.

Vào đầu những năm 80 của thế kỷ XX, văn học ta bắt đầu xuất hiện những dấu

hiệu đổi mới và đổi mới mạnh mẽ từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986). Cuộc đổi

mới đó đã tạo đà bứt phá cho nhiều nhà văn. Trong không khí dân chủ hoá, văn học

đã gặt hái được nhiều thành tựu nổi bật ở lực lượng sáng tác, ở sự phong phú của đề

tài, ở sự đa phong cách và phương thức thể hiện...Tất cả đã làm cho văn học sự gần

gũi với đời sống hàng ngày của con người thời bình với bao trăn trở, lo toan. Văn

học thế sự - đời tư chiếm ưu thế. Dòng văn học này đặc biệt quan tâm đến con

người. Nếu như trước đây, văn học đã phải tạm gác lại những gì là riêng tư của từng

cá nhân con người thì ngày nay những vấn đề đó lại mang tính thời sự hơn bao giờ

hết. Văn học đã cất cao tiếng nói phục vụ con người và cuộc sống.

Chế Lan Viên là nhà thơ của thời Thơ Mới đi theo cách mạng với những sáng

tác chủ yếu trong kháng chiến. Sau chiến tranh, ông cũng đã nỗ lực hết mình để đi

tìm những biểu hiện mới trong cuộc sống thời bình. Và những bài thơ được sáng tác

sau năm 1975, đặc biệt là trong giai đoạn đổi mới với ba tập Di cảo thơ là thành quả

của quá trình tìm tòi không biết mệt mỏi đó. Đây được xem là một di sản quý mà

nhà thơ đã để lại cho đời. Một trong những vấn đề được giới nghiên cứu và bạn đọc

quan tâm đó chính là tư tưởng về tính phức tạp của con người. Chế Lan Viên nhận

ra rằng, con người ở mỗi giai đoạn lịch sử mang một sứ mệnh khác nhau. Nếu như

trước 1975, mà chủ yếu là trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ con người được

miêu tả còn đơn giản hoặc là con người hoà vào cái ta chung thì trong thời kỳ đổi

mới, quan niệm về con người của Chế Lan Viên đã đổi khác. Con người trở thành

những cá nhân cụ thể. Họ là một kho tàng bí mật không dễ gì khám phá. Con người

với tất cả cảm xúc từ niềm vui - nỗi buồn, cái thiện - cái ác, cái cao cả - cái thấp

hèn, tin tưởng - hoài nghi, hy vọng - thất vọng..., có niềm vui, cô đơn lạnh lẽo, có

những chiêm nghiệm về cuộc đời, có suy nghĩ về sự sống và cái chết đều được nhà

thơ thể hiện một cách sắc sảo trong thơ sau 1975.

Nhận thức tư tưởng về tính phức tạp của con người qua từng thời kỳ và đặc biệt

là trong những năm đổi mới của văn học đã cho ta thấy sự thay đổi trong tư tưởng

29

nhận thức của Chế Lan Viên. Cách mạng tháng Tám thành công đã đem đến cho

Chế Lan Viên nguồn cảm hứng vô tận. Chế Lan Viên luôn là người con trung thành

nhất của Đảng và Cách mạng. Con người hiện hữu trong thơ ông là sự thống nhất

giữa ý chí và hành động. Trên phương diện tư tưởng, người đọc dễ nhận thấy Chế

Lan Viên luôn trung thành với sự nghiệp của cách mạng, luôn “suy nghĩ trong

những điều Đảng nghĩ” và luôn “bay theo đường dân tộc đang bay”. Thơ Chế Lan

Viên xứng đáng là ngọn cờ đầu trong cuộc chiến đấu trên mặt trận tư tưởng. Trước

hiện thực đời sống chiến tranh đầy biến động, nhà thơ như hoà mình vào nỗi đau

nhưng rất hào hùng của dân tộc.

Ở vào thời điểm cuộc chiến tranh chống Mỹ ác liệt nhất, Chế Lan Viên là nhà

thơ đi đầu trong đoàn quân tình nguyện đứng trong hàng ngũ người lính trực diện

đối mặt với quân thù. Nhà thơ nhận thức rõ được vị trí của mình giữa lòng dân tộc:

“Cho tôi sinh giữa những ngày diệt Mỹ,

Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến luỹ

Bên những dũng sĩ đuổi xe tăng ngoài đồng và hạ trực thăng rơi.”

(Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng) [69, 100]

Con người công dân thể hiện rõ nét trong hoàn cảnh cả nước đang sôi sục khí

thế đánh thắng trận đầu, sẵn sàng chiến đấu với quân thù trong những cuộc đọ sức

tiếp theo. Bầu máu nóng ấy đã đi suốt chiều dài của cuộc kháng chiến lần hai của

dân tộc mà không chút băn khoăn.

Trong những năm ác liệt nhất của cuộc chiến tranh, con người hiện lên rất rõ

ràng, thẳng băng trong suy nghĩ và trong hành động. Chế Lan Viên cũng không phải

là một ngoại lệ. Ông dành trọn vẹn tình yêu cho quê hương, đất nước, với gia đình,

bạn bè và hết lòng cổ vũ cho cuộc chiến. Chính vì vậy, thay mặt cho lớp lớp người

dân Việt Nam, Chế Lan Viên đã chạm vào “huyệt thần kinh nhạy bén nhất”, thiêng

liêng nhất của con người, chính là tình yêu Tổ quốc:

“Ôi Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt,

Như mẹ cha ta, như vợ như chồng

30

Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta chết

Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi con sông...”

(Sao chiến thắng) [70, 78]

Những năm tháng chiến tranh ác liệt đã khép lại, chân trời của độc lập - tự do

được mở ra. Con người được sống với ý nghĩa đích thực khi bắt tay vào xây dựng

cuộc đời mới với niềm hy vọng và khát khao một cuộc sống tươi đẹp. Đảng Cộng

sản Việt Nam với vai trò lãnh đạo sáng suốt không chỉ trong những năm tháng chiến

tranh, mà ngay cả trong thời bình cũng thể hiện rõ vai trò của mình với quyết định

đưa đất nước ta vào công cuộc Đổi mới toàn diện (1986).

Cùng với sự đổi mới của đất nước, quan niệm về con người của Chế Lan Viên

cũng thay đổi. Vào đầu những năm 80, Chế Lan Viên từng có ý định: “Vực sự sống

ba chiều - lên trang thơ hai mặt phẳng”. Và đến năm 1988, là năm nhà thơ đang

phải chống chọi lại bệnh tật, ông lại viết:

“Anh là tháp Bay - On bốn mặt

Giấu đi ba, còn lại đấy là anh

Chỉ mặt đó mà nghìn trò cười khóc

Làm đau ba mặt kia trong cõi ẩn hình”

(Tháp Bay - On bốn mặt) [77, 81]

Chính những câu thơ đó đã khơi nguồn cho một quan niệm mới về con người

của Chế Lan Viên. Bạn đọc đã có người không khỏi băn khoăn: “Chế Lan Viên té ra

là người hai mặt trong thơ, rằng trước đây, ông đã có cơ hội che đi, giấu đi bộ mặt thật

của mình. Quả thật, người đọc có quyền hiểu như thế. Nhưng sự thật đâu chỉ có thế.

Xét về ý nghĩa triết học, mỗi con người là cả một vũ trụ đầy bí ẩn với muôn mặt khác

nhau được giấu bên trong” [37, 68]. Quả đúng như vậy, con người giờ đây không

phải là con người tập thể như thời chiến tranh nữa, mà nó là một “tiểu vũ trụ” với

rất nhiều chiều phức tạp. Trong đó, con người chứa đựng nhiều mâu thuẫn nhưng

vẫn trong một chỉnh thể thống nhất. Chế Lan Viên cũng không phải là con người “hai

mặt”, mà những gì trước đây và bây giờ ông nghĩ và hành động vẫn luôn thống nhất

31

trong một con người. Có chăng là sự thể hiện khác nhau sao cho phù hợp với hiện thực

mà thôi. Trước đây, vì yêu cầu của lịch sử, giữa cái chung và cái riêng, nhà thơ đã chọn

cái chung để cao giọng cổ vũ chiến đấu. Chế Lan Viên đã từng nhận ra rằng: “Khi

riêng tây, ta thấy mình xấu hổ / Khi nhìn đời, mỗi lá mỗi tơ non” (Người thay đổi

đời tôi - Người thay đổi thơ tôi) [70, 37].

Con người trong chiến tranh phải dẹp đi mọi riêng tư để tập trung vào nhiệm vụ

lớn. Nhưng bước sang thời kỳ đổi mới, những con người năm xưa ấy lại nhận nhiệm

vụ mới không kém phần quan trọng, đó là đấu tranh với cái đói, cái nghèo, cái lạc

hậu...Điều đó càng làm cho con người bộc lộ rõ những sự phức tạp trong tư tưởng.

Chế Lan Viên nhận ra:

“Chúng ta ở trên đời không phải để ra lộc ra hoa

mà còn để mang thương tích

Cũng không phải chỉ nỗi đau cao sang mà

là hủi cùi ghẻ lở đục hình hài.

...Ở đời không hài thì cũng phải chơi bi kịch

Màn mở, trống rung rồi, anh phải đội mũ mang hia lên,

Mang số phận vào người”.

(Nhiệm vụ) [79, 42]

Bài thơ đã thể hiện và khẳng định ý nghĩa của cái riêng trong mỗi cá nhân trước

cái chung đó. Đây là bước chuyển hoàn toàn biện chứng trong nhận thức về con

người cùng tính phức tạp của nó trong thơ Chế Lan Viên sau 1975. Trước đây, văn

học nhận diện “con người quần chúng, con người tập thể, con người chính trị và

dân tộc” (Trần Đình Sử) thì sau 1975, nhất là khi bước vào công cuộc đổi mới, con

người thế sự - đời tư hiện diện trên từng trang thơ của Chế Lan Viên.

Như vậy, trong suốt hành trình sáng tạo thơ của mình, Chế Lan Viên luôn có

những tìm tòi, khám phá mới mẻ để tìm về cội nguồn bản thể người. Cả một hành

trình dài hơn năm mươi năm sáng tạo nghệ thuật, thực chất thơ Chế Lan Viên chỉ

32

xoay quanh hai câu hỏi: Ta là ai và Ta vì ai? Thuở Điêu tàn, Chế Lan Viên băn

khoăn đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: Ta là ai? Trong những năm kháng chiến, nhà

thơ đã phấn đấu không biết mệt mỏi cho câu hỏi “Ta vì ai?” Đến cuối đời, trong Di

cảo thơ, Chế Lan Viên lại quay trở về với câu hỏi: Ta là ai? Từ Điêu tàn đến Di

cảo thơ, những câu hỏi ấy như một vòng tròn khép kín của bản thể người. Như một

nỗi ám ảnh vô hình, Chế Lan Viên luôn nỗ lực hết mình nhằm tìm ra câu trả lời

thích đáng nhất.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Những vấn đề đã nêu ở chương 1 có ý nghĩa định hướng cho những vấn đề lý

thuyết liên quan đến đề tài. Thơ trữ tình mà hạt nhân là cái tôi trữ tình luôn được

các nhà thơ quan tâm thể hiện. Cái tôi trữ tình trong thơ với những đặc trưng cơ bản

là yếu tố quan trọng để người đọc nhận diện phong cách nghệ thuật của một tác giả

cụ thể, thậm chí là cả một nền thơ.

Cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên luôn có sự vận động theo thời gian. Sau

năm 1975, những thay đổi về đời sống xã hội đã kéo theo những chuyển động trong

ý thức nghề nghiệp cũng như quan niệm thẩm mỹ về con người. Hành trình thơ Chế

Lan Viên luôn song hành cùng thời đại nên mọi sự kiện trọng đại của lịch sử dân

tộc đều được phản ánh một cách chân thực và sống động. Thơ Chế Lan Viên sau

năm 1975, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới luôn thể hiện sự trăn trở của một hồn

thơ lớn trước những thay đổi của cuộc sống.

33

Chương 2. ĐẶC ĐIỂM CÁI TÔI TRỮ TÌNH

TRONG THƠ CHẾ LAN VIÊN SAU 1975

2.1. Cái tôi thế sự, đời tư

2.1.1. Những băn khoăn, chiêm nghiệm về các vấn đề vĩnh cửu của cuộc sống

Nếu như văn học Việt Nam trong giai đoạn kháng chiến trải qua quá trình nhận

thức và thể hiện con người quần chúng, con người tập thể, con người chính trị và

dân tộc, thì sau năm 1975, con người thế sự - đời tư đã hiện lên với dáng vẻ phong

phú, sinh động và phức tạp. Trở về với những âu lo trong đời sống thường nhật là xu

hướng được các nhà thơ quan tâm thể hiện. Số phận của cá nhân, những bất cập trong

xã hội, nỗi lo toan đời thường, sự nghiệt ngã của chiến tranh thời hậu chiến…là

những mảng đề tài lớn trong văn học giai đoạn này. Cảm nhận và thể hiện hiện thực

một cách thẳng thắn, trung thực là một đặc điểm quan trọng trong thơ Chế Lan Viên

sau năm 1975. Nhìn cuộc đời bằng cái nhìn tỉnh táo, và nói lên tiếng nói của cá nhân,

nhà thơ đã chỉ ra những khó khăn của cuộc sống thường nhật và bày tỏ sự phê phán

những mặt trái của xã hội. Cùng với đó, những nhu cầu chính đáng của con người

cũng như sự đa dạng, muôn hình muôn vẻ của cuộc sống lần đầu tiên được biểu hiện

trong thơ của Chế Lan Viên sau 1975.

Ngay từ tập thơ Hái theo mùa (1977), Chế Lan Viên đã bộc lộ những suy

ngẫm, những điều trăn trở về đời. Nhưng phải đến tập Hoa trên đá (1984), những

suy tư ấy mới thật sự bùng nổ. Tập thơ đã phản ánh được quá trình vận động từ văn

học sử thi sang văn học thế sự - đời tư xuất hiện vào đầu thập kỷ 80 và trở nên

mạnh mẽ từ sau Đại hội VI của Đảng. “Những nhu cầu xã hội và cá nhân dần dần

trở thành trung tâm của tiếng nói trữ tình”, nhà thơ “bắt đầu bộc lộ những trăn trở

nhận thức về trách nhiệm của người cầm bút trước nhiều vấn đề nhân thế mà trước

đây thơ còn ít quan tâm” [5, 225]. Cái mới của tập Hoa trên đá chính là ở chỗ nhà

thơ đã gửi gắm, đã “bộc lộ tâm tình và triết luận về các vấn đề muôn thuở của nhân

sinh”. Những “suy tư, chiêm nghiệm làm cho giọng thơ ông trầm xuống phảng phất

một nỗi quan hoài…” [5, 226]. Nhà thơ bắt đầu suy tư về thời gian đời người, về

công việc của mình:

34

“Chiều rồi!

Chim gọi anh về thôi!...

Hãy thu đội hình thi tứ lại

Lùa nghìn câu tản mát của anh vào trang giấy

Bài thơ một đời của anh đâu? Khất mãi

Viết nhanh lên! Nắng hết, chiều rồi”

(Thơ bình phương - Đời lập phương) [75, 80]

Là một trong những nhà thơ tiên phong của nền thơ cách mạng, đã từng trải qua

những giây phút hào hùng nhất của lịch sử dân tộc, Chế Lan Viên có một thời cống

hiến hết mình cho mục tiêu chung của thời đại. Thế nhưng, khi đất nước đã hòa

bình, dân tộc Việt Nam bước vào thời kỳ xây dựng cuộc sống mới, đặc biệt là từ

năm 1986 trở đi, khi Đảng và nhà nước đưa ra những chính sách đổi mới toàn diện,

Chế Lan Viên không khỏi hụt hẫng bởi sự thay đổi quá nhanh của cuộc sống: “Thế

kỷ 20. Nôn mửa thành cổ điển / Và phá phách vào Hàn lâm viện / Họ chia ra buồn

tiền chiến và say hậu chiến / Biến chén rượu hạt mít và cái ao nhà thành ra biển /

Dựng cặp đùi lên thành Khải hoàn môn / Giết hết hoa sen để vạn tuế buồn / Họ lao

trượt ái tình như trẻ con chơi cầu trượt…/ Đồ vật là chúa tể mà / Nhân loại sắp

hoàng hôn” (Mô - đéc) [78, 120].

Nền kinh tế thị trường đã đem lại cho cuộc sống nhiều khởi sắc, nhưng mặt

khác, những lo toan đời thường cũng khiến con người dường dần quên đi những giá trị

nhân văn. Cuộc sống mới với những khó khăn, thiếu thốn đã chi phối không ít đến tư

tưởng nhà thơ:

“Đêm ngủ chỉ toàn lo vật giá

Xa dần truyện ngắn, bớt dần thơ”.

(Cảnh điền viên) [78, 42]

35

Nỗi vất vả của cuộc sống được Chế Lan Viên phản ánh một cách chân thực qua

câu chuyện nhà thơ bị phạt tiền điện, không có tiền trả phải bán đi bảy tấm ván bạn cho

định làm trần nhà. Nghĩ mà thương cho mình:

“Phạt bảy nghìn tiền điện

Lấy gì trả bây giờ?

Bán đi bảy tấm ván

Bạn cho làm trần nhà

Cảm thông nhà thơ nghèo

Nửa cho và nửa bán,

Sợ nhà lợp mái tôn

Chạy trời không khỏi nắng.”

(Nhà không trần) [77, 69]

Những khó khăn trong cuộc sống cũng được nhà thơ nói đến trong những bài thơ

viết về tình cảm chị em rất chân thành, hết mực yêu thương nhau. Sau bao năm xa

cách, chị từ Đồng Nai về thăm em mà cũng chỉ dám ở lại chốc lát vì sợ nhà em nghèo,

không có gì tiếp đón chị thì ngại ngùng, áy náy:

“Mệt nhọc

Chị ở Đồng Nai về thăm em phút chốc

Rồi lại đi liền

Ở lâu chị sợ em phiền…”

(Chị Ba) [77, 142]

“Sức hút của cái nheo nhóc hàng ngày” đã khiến ông phải thốt lên đau đớn “Làm

sao anh thoát ly được nó?”. Những giá trị, chuẩn mực cũ tưởng chừng đã ổn định cũng

bị thay đổi:

“Chả còn ai yêu vầng trăng và hương lúa ngoài đồng

Yêu bà Tiên hay đám mây trên lầu Hoàng Hạc

36

Giờ là thế giới của xe cúp, ti-vi, phim màu, ngũ sắc

Của quyền lực, tuổi tên, đốp chát…

Vị trí nhà thơ như rác đổ thùng

Chả ai nhớ bà mẹ cắm chông bạc tóc

Nhớ một cô gái chèo đò vượt lửa qua sông.”

(Thời thượng) [77, 205]

Khoảng cách giữa con người với con người giãn dần, thay vào đó là sự giả tạo

trong các mối quan hệ. Có những người chỉ biết dùng lời lẽ đầu môi chót lưỡi mà

không thực tâm ghi nhớ ơn huệ của người khác:

“Để khỏi nhớ ơn, người ta bày ra chữ cảm ơn

Cảm ơn một lần, hai lần thôi thế là rảnh nợ.”

(Cảm ơn) [79, 129]

Trong thời hậu chiến, những nỗi lo toan của cuộc sống hiện hữu, chúng ta

dường như quên đi những người đã hy sinh cả tuổi thanh xuân của mình vì sự

nghiệp chung. Người lính trên chiến trường xưa không tiếc xương máu là vậy,

nhưng khi trở về giữa đời thường họ lại chưa được đền đáp xứng đáng. Chế Lan

Viên không khỏi day dứt bởi nỗi lo cơm, áo, gạo, tiền đang xiết chặt đôi tay người

lính, trong khi mình và những người khác còn bận dạ hội, liên hoan, tình ca, hội

thảo…mà: “Quên rằng chiến thắng đã mười năm / Anh ta vẫn khổ / Con vào trường

không có chỗ / Đến bệnh viện không tiền / Ra đường không ai nhớ / Về làng người

ta quên” (Một người thường) [78, 174]. Có khi con người sống thờ ơ, “vô can”

trước sự hy sinh của những người lính năm xưa. Thế nhưng, trái lại giữa bộn bề lo

toan ấy, vẫn có những con người bình thường dành tấm lòng chân thành và trách

nhiệm cho người đã khuất:

“Người nông dân ấy đã bốc mộ cho hàng trăm thương binh

Xác anh em và xác con mình

Anh xếp trên giường nhà anh như họ còn nằm ngủ (…)

Có khi bản thân anh cũng muốn giữa cuộc đời chật vật.”

(Một người thường) [78, 173]

37

Nhìn thẳng vào bi kịch cá nhân cụ thể bằng lý trí và bằng cả trái tim, phải

chăng Chế Lan Viên muốn gióng lên hồi chuông thức tỉnh lương tri của con người

trong xã hội đầy bon chen, phức tạp. Với cái nhìn nhân bản, nhà thơ đã thể hiện nỗi

đau của con người trước sự thay đổi quá nhanh của các chuẩn mực trong xã hội. Đất

nước đã hòa bình, nhưng những khó khăn còn đeo bám lấy con người, những bất

công luôn hiện hữu giữa cuộc đời. Con người dần bị hút vào những danh vọng tầm

thường, những giá trị vật chất làm cho nhân loại sống vô cảm với nhau hơn. Tình

cảm con người được cân đong đo đếm bằng đồng tiền. Đó chính là bi kịch của số

phận cá nhân.

Khi trở về với cuộc sống thường nhật, Chế Lan Viên cũng quan tâm đến vấn đề

sự sống và cái chết. Trong chiến tranh, cái chết là sự hy sinh vinh quang cho những

ai dám sẵn sàng hiến dâng xương máu của mình cho sự trường tồn của dân tộc. Cái

chết đó thật đáng ca ngợi, biểu dương:

“Ôi Tổ quốc, nếu cần ta chết

Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông…”

(Sao chiến thắng) [70, 78]

Sự hy sinh đó không phải là vô nghĩa, mặc dù đã trở thành cát bụi, hư vô nhưng

chính nó lại gieo mầm cho sự sống ngày mai được nảy nở, sinh sôi. Chế Lan Viên

một lần nữa đã biến cái chết ấy thành vũ khí tiếp tục tấn công, hạ gục kẻ thù:

“Người ngã xuống tựa máu mình đứng dậy

Người sống khiêng người chết để xung phong

Người chết cũng thành vũ khí tấn công.”

(Ở đâu, ở đâu, ở đất anh hùng) [70, 61]

Trong thơ Chế Lan Viên sau 1975, ta nhận thấy con người đời tư của ông được

giãi bày khá sâu sắc, tinh tế. Nhà thơ quan niệm đời người là hữu hạn, cuộc đời là

vô hạn, con người phải tuân theo quy luật đó, dù biết là nghiệt ngã. Nhà thơ nghĩ

đến cái chết một cách nhẹ nhàng không chút sợ hãi. Ông nói đến cái chết bằng

những hình ảnh thực như “ròi bọ”, “thối rữa”, và bằng cả những hình ảnh biểu

38

tượng, biểu trưng “xứ trắng đen”, “bến Lú, sông Mê”, “vùng quên…”. Những hình

ảnh ấy đã diễn tả rất đúng tâm trạng vừa tò mò, nghi hoặc, vừa chống chếnh của

một con người sắp đi xa. Điều đáng quý, đáng trân trọng ở Chế Lan Viên là nói về

cái chết nhưng vẫn có cái nhìn lạc quan về thế giới khác “cũng đầy hoa”:

“Anh không ở lại không yêu hoa mãi được

Thiêu xong, anh về trời khác cũng đầy hoa

Chỉ tiếc không có tình yêu ở đó”.

(Từ thế chi ca) [77, 222]

Nhà thơ đón nhận cái chết một cách điềm tĩnh đến lạ lùng. Không sợ hãi cái

chết (dù là để an ủi người ở lại), nhưng có một điều Chế Lan Viên băn khoăn là thái

độ của người ở lại đối với mình ra sao? Có lúc nhà thơ nghĩ:

“Những kẻ nguyền rủa anh sẽ buồn

Chả còn anh cho họ giết

Dao sẵn rồi, họ không dễ để yên”

(Từ thế chi ca) [77, 222]

Nghĩ vậy có phần bi quan, tiêu cực nhưng rồi ông lại tự an tủi mình: Trong

cuộc đời này, có kẻ ghét thì cũng còn có nhiều người thương ông, yêu ông một cách

chân thành. Nhà thơ hy vọng:

“Những bạn bè yêu anh sẽ gặp anh trong cỏ

Trong hạt sương, trong đá…

Trong những gì không phải anh…”

(Từ thế chi ca) [77, 222]

Có lẽ chỉ những ai đã từng trải qua những giây phút sắp rời xa thế gian mới

hiểu hết được tâm trạng của nhà thơ. Cái băn khoăn, trăn trở về cuộc sống, về con

người luôn thôi thúc nhà thơ dự liệu về sự ra đi của mình. Hơn lúc nào hết, lòng

ham sống trỗi dậy mạnh mẽ, nhưng Chế Lan Viên vẫn đủ tỉnh táo để nhận ra, quy

39

luật của cuộc đời là không thể khác. Có điều chúng ta đón nhận nó như thế nào? Và

nhà thơ đã đúng đắn khi xác định:

“Khi anh gần chạng vạng

Thì có người bình minh

Đừng lấy hoàng hôn anh ngăn cản

Ban mai của họ sinh thành”.

(Đừng ngăn cản) [77, 228]

Trên sợi dây mong manh giữa cuộc đời, giữa sự sống và cái chết, chúng ta

nhận thấy ở Chế Lan Viên một sự chiêm nghiệm, những triết lý suy tư chân thành.

Cái tôi của nhà thơ hơn lúc nào hết đã bộc lộ hết mình trên trang giấy. Khi trở về

với cuộc sống hòa bình, những lo toan thường nhật đã giúp nhà thơ nhận diện mình

rõ hơn. Để từ đó ông có những định hướng đúng đắn cho mình trong những năm

tháng còn lại của cuộc đời.

2.1.2. Cái tôi đấu tranh không biết mệt mỏi với thời gian

Từ điển Thuật ngữ Văn học đã quan niệm: “Thời gian nghệ thuật là một trong

những phạm trù quan trọng nhất của thi pháp học bởi vì nó thể hiện thực chất sáng

tạo nghệ thuật của nghệ sĩ. Nghệ sĩ có thể chọn điểm bắt đầu và kết thúc, có thể

nhanh hay chậm, có thể xuôi hay đảo ngược, có thể chọn điểm nhìn từ quá khứ,

hiện tại, tương lai; có thể chọn độ dài một khoảnh khắc hay nhiều thế hệ, nhiều

cuộc đời” [26, 63]. Đây là một quan niệm tương đối rộng rãi, mà thơ Chế Lan Viên

sau năm 1975 lại vô cùng đồ sộ, nên việc nhận định thời gian nghệ thuật trong thơ

Chế Lan Viên là một việc làm cần có nhiều công sức. Tuy nhiên, ở đây chúng tôi

chỉ đề cập đến một mảng thời gian xuất hiện nhiều nhất trong thơ ông sau 1975, đó

là thời gian đời tư. Để từ đó thấy được những nỗ lực không biết mệt mỏi của nhà

thơ trong những năm tháng cuối đời.

Chế Lan Viên là nhà thơ yêu đời sâu đậm, tha thiết. Nhất là khi phải đối mặt

với căn bệnh hiểm nghèo thì nỗi khao khát được sống, được cống hiến hết mình cho

nghệ thuật lại càng bùng cháy mạnh mẽ. Ông cho rằng cái nghiệp văn chương

40

thường cay nghiệt, trắc trở hơn là xuôi gió thuận buồm. Chế Lan Viên đã phải đấu

tranh hết mình với những lo toan của cuộc sống vật chất hàng ngày, phải đấu tranh

với bệnh tật, tuổi già…để khẳng định quyền sống cho mình và cho thơ ca. Nhà thơ

đã sống một cách có ý nghĩa nhất trên cuộc đời này. Đúng như tên một bài thơ trong

tập Đối thoại mới là Thời gian và nỗ lực, nhà thơ đếm thời gian không phải để

buông xuôi mà để nỗ lực, để cống hiến. Sự nỗ lực đó được đền đáp bằng tập thơ

Hoa trên đá (1984), tập thơ đầu tiên khẳng định sự chuyển mình mạnh mẽ của ngòi

bút Chế Lan Viên sau năm 1975. Ngay trong bài thơ đầu tiên, nhà thơ đã khẳng

định ý chí ấy:

“Đời ngoài tuổi năm mươi

Mong gì hương sắc lạ

Mọc chùm hoa trên đá

Mùa xuân đâu chịu lùi”

(Đề từ) [75, 5]

Suy tư về tuổi tác, suy tư về nghiệp cầm bút của một kiếp người, nhà thơ cất lên

tiếng nói đầy khắc khoải: “Chiều rồi! Gọi chim anh về thôi!...Viết nhanh lên! Nắng

hết, chiều rồi”. Nhà thơ cảm nhận được thời gian đang gấp rút và sức khỏe thì suy

tàn. Có lúc ông thấy mình bất lực trước cuộc đời, trước sự nghiệt ngã của tạo hóa:

“Nửa đời thơ, anh mới chợt hiểu rằng

Lâu nay có nửa phần nhân loại sống giữa màu tuyết trắng

Cái phần nhân loại trong anh cay đắng

Thấy mình xa nhân loại ở bên ngoài”.

(Thơ bình phương - Đời lập phương) [75, 85]

Càng về cuối chuyến tàu cuộc đời, Chế Lan Viên càng cảm nhận được sự quý

giá của thời gian. Nhà thơ nhẩm tính: “Đời tuổi bốn, năm mươi”, “Đời vào tuổi năm

mươi”, “Đời ngoài tuổi năm mươi…” để thấy được cái hữu hạn của kiếp người. Sự

41

thúc bách của thời gian càng làm cho ông cảm nhận được ngày phải ra đi đang đến

gần. Nhất là khi căn bệnh hiểm nghèo đang hoành hành tàn phá cơ thể nhà thơ.

Nói đến tuổi già, nhà thơ Vương Trọng đã nói hộ tâm trạng của tất cả mọi

người khi bước vào tuổi xế chiều: “Dù chưa “cổ lai hy” / Sáu mươi là lên lão /

Chưa rờ rẫm bước đi / Thì cốt xương đã rão / Da mồi là có thật / Tóc đen chỉ giả vờ

/ Ngán thời trang, nhảy nhót / Thích nói chuyện ngày xưa / Ra đường ngại xe cộ /

Về đọc báo một mình / Gặp tin buồn, cáo phó / Để tâm vào năm sinh / Những điều

từng khắc sâu / Nay vùng quên lẫn nhớ / Kỷ niệm là chiêm bao / Thường chập chờn

thức, ngủ”. Chế Lan Viên khi mới ngoài năm mươi tuổi đã nhận ra sự ráo riết của

thời gian đang đuổi sau lưng. Thực ra lúc này nhà thơ đã bị bệnh. Ông thường

xuyên nhức đầu nhưng chỉ nghĩ do làm việc trí óc căng thẳng, không ngờ căn bệnh

đã âm ỉ trong ông:

“Anh như ông vua Thục

Bị đuổi bởi thời gian

Trước mắt là bể lớn

Sau lưng đất không còn

Viết nhanh lên cho kịp

Lũ sắp ập về kia

Đạp tháng ngày mà viết

Còn ậm ừ nỗi chi.”

(Đề từ) [75, 6]

Biết được sự khốc liệt của thời gian, nhưng Chế Lan Viên không hề hoảng sợ

mà đón nhận nó một cách điềm tĩnh và chủ động: “Anh như gõ kiến / Gõ vào thời

gian /Gõ vào số phận / Gõ vào thần kinh / Gõ vào vỏ não / Gõ vào ân tình / Gõ vào

trang giấy / Vào cái cây thơ gầy guộc” (Hóa) [78, 186].

Nhà thơ cũng chủ động đếm từng giọt thời gian: “Còn hai năm, ba năm, thậm

chí vài chục ngày, có kịp cho anh không?”, bởi sắp đến ngày “Chuẩn bị gấp ngày

42

anh thành dòi bọ / Chôn trong mồ rậm cỏ / Cũng nên dầm trong hố sâu” (Chuẩn bị

đi) [78, 193]. Chế Lan Viên còn biết bao điều dang dở chưa hoàn thành. Liệu ngần

ấy thời gian có kịp cho anh làm nốt các công việc xã hội hay không? Nhà thơ ý thức

được không phải từng giờ mà từng phút, từng giây cái “buổi mai chót, hay buổi

chiều chót hay đêm khuya chót đời anh sắp “tuột” khỏi tay anh tất cả”. Là người

sống có trách nhiệm với đời nên ông không cho phép bản thân ngừng nghỉ. Song có

điều, lao động nghệ thuật vốn tuân theo những quy luật riêng, phải làm việc một

cách công tâm và bằng hết khả năng của mình:

“Anh hì hục dậy trước gà và ngủ sau ánh lửa đèn

cạn dầu cháy bấc đêm đêm

Vô ích thôi, uổng công anh đi kiếm đi tìm

Dù anh có để lại gì cho đời sau

Thì đời sau đọc của đời sau chứ cần gì anh đấy.”

(Uổng công) [78, 133]

Đây là cái khó chung đối với những người nghệ sĩ. Với Chế Lan Viên trong

những năm cuối đời, khó khăn, thử thách ấy lại càng nhiều hơn người khác. Nhà thơ

bị ám ảnh bởi sự hủy diệt, cái chết của những người xung quanh: “Sống chết, sống

chết…/ Hai từ ấy như thoi reo, lục diệt” (Gió lật lá sen hồ) [77, 204].

Chế Lan Viên ý thức và hiểu rất rõ từng giai đoạn cuộc đời mình. Tuổi già của

con người là quy luật bất biến của thời gian. Biết mình đã bước vào “hoàng hôn của

tuổi” (Sương móc) [77, 88], nhà thơ chấp nhận “Cái tuổi già ngăn nó thế nào đây?”

(Lại lá bàng) [78, 5]. Con sông thời gian vốn lặng yên mà tất bật. Nó trôi đi từng

giây từng phút ngay chính lúc con người định hình, suy nghĩ. Tuổi già đến có nghĩa

là ông đã đi gần hết con đường đời.

Trong Di cảo thơ, chúng ta nhận thấy thơ Chế Lan Viên chịu sự ám ảnh trước

sự hủy diệt của thời gian, bệnh tật và cái chết. Sự đối lập giữa cái hữu hạn của đời

người với sự vô hạn của thời gian trở thành một vấn đề thường trực và nổi bật trong

thơ ông giai đoạn cuối đời. Nhà thơ biết rõ “Thời gian không thể hóa dòng sông

43

chảy ngược” (Một thời) [78, 141], cho nên “Trên con đường hun hút về vô tận”, ông

đã không hề xa lánh cuộc đời mà luôn cảm nhận sự gắn bó thiết tha sâu đậm với

cuộc sống. Ông xác định rõ: “Đã gần hết thời gian của tôi ở trên trái đất” (Tìm

đường) [77, 230] và có thể đi về xứ trắng đen bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, khi cảm

nhận được thời gian của cuộc đời mình đã sắp hết, Chế Lan Viên cũng không tránh

khỏi tâm trạng tiếc nuối khi còn biết bao điều ông “chưa với tới đã dần xa”. Do đó

trong tâm hồn ông luôn diễn ra cuộc chiến âm thầm mà dữ dội:

“Cuộc chiến tranh màu trắng của tâm hồn

Tuyết nhằm tuyết chia phe mà đối chọi

Tuyết này đòi tan, tuyết kia tồn tại

Phía chấp nhận hóa bùn, phía kỳ vọng cỏ non xanh”

(Cuộc chiến) [77, 41].

Có lẽ vì vậy mà càng về cuối đời, Chế Lan Viên càng hối hả sống, hối hả viết.

Ông ý thức rất rõ từng giây phút của cuộc đời mình đang trôi và cái nút cuối cùng

của sự sống đang đến dần khi “Đã gần hết thời gian của tôi ở trên trái đất” (Tìm

đường) [77, 230]. Nhà thơ là người luôn quý trọng sự sống, lại sống rất trách nhiệm

với mình, với đời, cho nên cảm giác chới với khi đối mặt với cái chết là có thật và

dễ hiểu. Tuy nhiên, đây không phải là âm hưởng chính trong thơ Chế Lan Viên

trong thơ sau năm 1975. Khi đọc thơ ông, độc giả cảm nhận được sự nỗ lực, phấn

đấu không ngừng để vượt qua nỗi đau thể xác do bệnh tật hoành hành. Và quan

trọng là tâm thế của con người khi đối diện với cái chết ra sao, thơ cần phải làm gì

để có ích cho đời…là nỗi băn khoăn lớn nhất trong tâm hồn thơ Chế Lan Viên. Mỗi

giây phút của cuộc đời trôi qua là khi nhà thơ nhận thấy thời gian chính là kẻ hủy

diệt kinh khủng nhất của đời người. Cái đáng quý ở đây là khi chạm tới cái chết,

nhà thơ không hề run sợ, mà bình tĩnh đón nhận nó một cách đầy bản lĩnh. Chế Lan

Viên đã trải qua quá trình đấu tranh không biết mệt mỏi với thời gian, để khẳng

định sự tồn tại và tồn tại một cách có ý nghĩa của cái tôi cá nhân cũng như tài năng

của mình.

44

Trước đây, trong những năm tháng chiến tranh, Chế Lan Viên cũng từng chạy

đua với thời gian, với năm tháng để cống hiến tuổi thanh xuân của mình cho đất

nước. Nhưng nay đã khác, khi sống trong hòa bình, nhà thơ nghiêng về sự đòi hỏi

thể hiện mình, tự khẳng định mình, là để chứng minh sự tồn tại của mình. Trong bài

Đọc hai tập Di cảo thơ, Nguyễn Bá Thành cho rằng: “Phảng phất trong những câu

thơ đó đây có lòng yêu đời, yêu người và những suy nghĩ biện chứng lúc nhà thơ

tỉnh táo” [63, 410]. Có phải những bài thơ phần nhiều là tiêu cực, được viết trong

lúc nhà thơ không tỉnh táo? Đọc những vần thơ cuối cùng của ông, ta bắt gặp cảm

giác cô đơn khi một mình nằm trên giường bệnh, khi từng phút phải đối diện với

chính mình. Những lúc ấy bao kỷ niệm sống đậy. Quay về dĩ vãng, nhà thơ không

khỏi hoài nghi: “Mà ngẫm lại cuộc đời / Quá đỗi phù du” (Kiều) [78, 103].

Rất nhiều lần, câu nói bi lụy từ ngàn xưa “thân cát bụi lại trở về với cát bụi”

vang lên trong tâm khảm của nhà thơ. Con người chỉ là một hạt bụi nhỏ nhoi và vô

danh:

“Huống chi anh tội lỗi, dại khờ, ngu si, bướng bỉnh

Anh là kẻ rất thấp mà, là chổi thôi mà

Sao lại bắt anh quét trời như những chùm sao.”

(Làm sao) [78, 75]

Có thể nói, với tất cả những gì đã trải qua trong cuộc đời, Chế Lan Viên không

khi nào rơi vào tuyệt vọng đến mức xuôi tay chán chường mà đâu đó ta nghe rõ

những lời trấn an mình, nhủ mình để đứng vững, để tồn tại:

“Từ đây xuống mồ

Còn chán thì giờ

Cho anh sống

Miễn anh đừng tuyệt vọng”

(Đừng tuyệt vọng) [78, 239]

45

Nhưng dẫu thế nào cái chết vẫn kề bên, vẫn đi song hành khó thoát khỏi. Bởi

không phải đến lúc này Chế Lan Viên mới bị bệnh tật hành hạ nhưng lúc này là lúc gay

go nhất. Ta vẫn thấy nhà thơ có phần chủ động điềm tĩnh đón chờ cái chết đang nhích

lại dần, ông quả quyết “Tôi cùng thế kỷ này già như nhau, tôi chết trước” (Đoạn cuối

thế kỷ). Và sau đó chừng một năm, nhà thơ nhắc lại: “Chuyến xe sau không còn anh

nữa / Xe vẫn chạy nghìn đời chỉ vắng anh thôi” (Chuyến xe) [78, 171].

Và, đoạn cuối con đường đời, Chế Lan Viên nhận ra, mùa thu quân đã về. Ông

cảm nhận được điều đó và nhiều lần tự nhủ lòng:

“Đời anh sắp tối rồi

Nhưng chả nhẽ anh bó tay vào lúc cuối”

(Mùa thu quân) [78, 144]

Không chỉ có vậy, ông còn muốn vươn lên sự viên mãn, hoàn thiện lúc hoàng

hôn của tuổi. Thơ Chế Lan Viên luôn luôn ẩn chứa một giọng thơ gây nhiều sự chú

ý của dư luận. “Có thể nói Chế lan viên là một nhà thơ không yên ổn, anh không

yên ổn trong các trăn trở sáng tác của mình” (Tế Hanh). Sự trăn trở ấy lại là nét đặc

sắc trong thơ Chế Lan Viên những năm cuối đời. Nhà thơ ví nghề nghiệp như một

cuộc vượt sông và hơn hết phải vượt qua chính lòng mình để hòa nhịp cùng với sự

sáng tạo không ngừng, mang lại giá trị bất diệt cho cuộc sống, cho thơ ca.

Chế Lan Viên không để cho ý niệm về thời gian chi phối và ám ảnh mình. Ý

nguyện hiến dâng cho đời viên ngọc sau cùng luôn cháy bỏng da diết trong tâm hồn

nhà thơ. Ông giành giật từng giây phút với những cơn đau để “tranh thủ làm thơ giữa

hai chớp mắt” (Thời gian nước xiết) [77, 66]. Tận dụng từng hơi thở cuối cùng để thả

hồn mình trên từng con chữ, Chế Lan Viên dùng hết tốc lực để lao động nghệ thuật.

Nhà thơ luôn băn khoăn trăn trở, sống thế nào cho có ý nghĩa, để không uổng phí dù

là những giây phút hiếm hoi của cuộc đời. Thời gian không còn là nỗi ám ảnh đối với

nhà thơ nữa, mà ông nhận ra rằng, sống bao lâu không quan trọng, mà quan trọng là

chúng ta đã và sẽ sống như thế nào? Đọc những vần thơ cuối đời của Chế Lan Viên ta

nhận ra tâm nguyện cuối cùng mà nhà thơ muốn gửi gắm là con người hãy sống và

làm những việc có ích cho đến phút giây cuối cùng của đời mình.

46

Với sự cố gắng miệt mài, với nghị lực phi thường, Chế Lan Viên đã tìm thấy

giá trị của cuộc sống ngay giữa ranh giới mong manh của sự sống và cái chết. Điều

đó càng làm cho chúng ta thêm trân trọng những cố gắng của nhà thơ ở những năm

tháng cuối cùng của cuộc đời. Nhà thơ luôn tin vào sự luân hồi của kiếp người:

“Phải có tro thì mới có ngọn lửa hồi sinh” (Prométhee) [79, 96]. Giành giật sự sống

với thời gian không phải để hưởng thụ mà là để cống hiến cho nghệ thuật chân

chính, Chế Lan Viên tin rằng dù không thể tồn tại mãi trên dương gian, nhưng:

“Cho dù trái đất không còn anh / Anh vẫn còn nguyên trái đất / Tặng cho mình…/

Anh tồn tại mãi / Không bằng tuổi tên, mà như tro bụi / Như ngọn cỏ tàn đến tiết lại

trồi lên” (Từ thế chi ca) [77, 222].

Chế Lan Viên luôn có cái nhìn lạc quan vào cuộc đời, kể cả khi sắp bước vào

cõi vĩnh hằng. Có lẽ đó chính là sự khác biệt và cũng là giá trị của con người Chế

Lan Viên. Nhà thơ cũng quan niệm, thể xác mất nhưng linh hồn thì còn mãi, cho

nên: “ngày mai dù đã là linh hồn…Cha vẫn nhìn thấy con, thấy mẹ, thấy khu

vườn…”. Trong Di cảo thơ, mặc dù nhiều lần Chế Lan Viên quan niệm khi con

người chết đi sẽ thành “dòi bọ”, thành “thối rữa” cho Nhặng Xanh hoành hoành…,

nhưng với ông, thế giới thứ hai ấy cũng “đầy hoa”, “trong sáng”, “người ta không

đau, không dùng nước mắt - người ta trong như thủy tinh, chỉ có tình thương”…

Những ngày tháng cuối cùng, trước khi lên bàn mổ tại Bệnh viện Chợ Rẫy, biết

rằng mình có thể ra đi mãi mãi, lòng ham sống của Chế Lan Viên lại trỗi dậy mạnh

mẽ với niềm tha thiết khôn nguôi với đời. Trong giây phút ấy, nhà thơ nghĩ về

mình:

“Ờ, ở thêm cùng các con, cùng mặt đất này dăm năm, dăm tháng, dăm ngày

Có khi cũng là hay đấy

Nhưng biết đâu chất thủy tinh sau đấy sẽ đục hơn”.

(Từ thế chi ca) [79, 28]

Chế Lan Viên không mảy may vẩn vơ bóng đen của cái chết, chỉ có sự sống,

hơn thế sức sống ấy lại rất tràn trề. Nhà thơ tự vượt qua nỗi sợ hãi, có nhức nhối

đấy, lại trắc trở nữa, nhưng quan trọng là sự đến. Ông đã đến được đỉnh cao của sự

47

sống ngay nơi giáp ranh với cái chết, rồi thăng hoa thành những vần thơ tâm huyết

để lại cho đời. Đó có lẽ là chất ngọc quý nhất của thơ Chế Lan Viên trong những

năm cuối đời. Chế Lan Viên đã nghiền ngẫm một cách sâu sắc về sự sinh tồn của

con người. Ông luôn hy vọng cái nảy nở về sau sẽ vượt trội hơn cái trước, sẽ chói

sáng hơn cái trước. Sự khiêm nhường về sự tồn tại của mỗi cá nhân trong vũ trụ, về

sự ra đi của con người cùng niềm hy vọng vào tươi lai tươi sáng của thế hệ mai sau

đã làm cho mỗi vần thơ cuối đời của Chế Lan Viên giàu tính nhân văn hơn, đáng

khâm phục hơn.

2.2. Cái tôi khao khát tìm về “bản ngã”

2.2.1. Cái tôi có nhu cầu sống trung thực với bản thân

Một nhà thơ chân chính luôn biết nỗ lực vươn lên không ngừng để được sống

đúng với “bản ngã” của mình, để được cống hiến cho sáng tạo nghệ thuật. Để làm

được điều đó phải có sự kiên trì, bền bỉ chứ không phải ngày một ngày hai. Trên

thực tế, Chế Lan Viên đã chứng minh điều này từ khi cầm bút viết cho đến những

năm cuối đời, ông không ngừng sáng tạo, dâng hiến cho đời những “hoa thơm, trái

ngọt” bằng những sản phẩm nghệ thuật đặc sắc như: Điêu tàn, Ánh sáng và phù

sa, Di cảo thơ…Có được thành quả lao động ấy là cả một quá trình phấn đấu không

mệt mỏi mà không phải nhà thơ nào có được.

Từ thuở Điêu tàn, Chế Lan Viên đã ý thức rất cao về bản ngã. Cái tôi ấy luôn

thôi thúc nhà thơ xác định vị trí của mình trong cuộc đời với sự khẳng định mạnh mẽ:

“Đây Cõi Ta rộng rãi đến vô biên

Ta đứng trước cõi Ta khôn thấu hiểu

Như không sao hiểu được nghĩa thời gian”

(Cõi ta) [67, 67]

Nếu như bản ngã trong Điêu tàn là một Cõi ta ngụp lặn trong nỗi cô đơn khôn

thấu hiểu thì trong những năm kháng chiến, cõi Ta ấy đã hòa nhập vào thời cuộc

thành Cái ta trong cuộc đời chung. Cuộc sống kháng chiến đã đưa Chế Lan Viên

thoát khỏi Cõi ta lẻ loi, cô độc. Nhà thơ đã cống hiến hết mình cho sự nghiệp chung

và tìm được câu trả lời thích đáng cho câu hỏi:

48

“Ta là ai? Như ngọn gió siêu hình

Câu hỏi hư vô thổi nghìn nến tắt

Ta vì ai? Khẽ xoay chiều ngọn bấc

Bàn tay người thắp lại triệu trồi xanh”.

(Hai câu hỏi) [69, 14]

Sau năm 1975, đất nước bước sang trang lịch sử mới, cái Ta của nhà thơ đã trở

về với cái Tôi cá nhân để cảm nhận cuộc đời bằng con mắt khác. Như vậy, bản ngã

của nhà thơ luôn có sự vận động không ngừng theo sự phát triển của lịch sử và thời

đại. Mặc dù ở mỗi giai đoạn, bản ngã của nhà thơ được thể hiện khác nhau sao cho

phù hợp với thời cuộc nhưng có thể khẳng định, bản ngã ấy luôn thống nhất trong

con người Chế Lan Viên.

Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới cũng là lúc Chế Lan Viên nhận ra cuộc

sống này đầy những phức tạp. Nhà thơ băn khoăn, trăn trở trước sự đổi thay quá

nhanh của cuộc sống. Hành trình đi tìm về bản ngã của mỗi cá nhân con người lại

càng trở nên khó khăn và phức tạp hơn bao giờ hết. Hành trình ấy của Chế Lan

Viên trong những năm cuối đời diễn ra thật quyết liệt, dữ dội, ráo riết. Nhà thơ luôn

tìm cách đối thoại, tự vấn bản thân để tìm ra bản ngã đích thực. Trong Di cảo thơ,

Chế Lan Viên đã nhận ra sự thay đổi của hiện thực cuộc sống và của chính cá nhân

mình. Ở chỗ đứng này, nhà thơ sẽ có sự nhận định chính xác hơn về quá khứ và

hiện tại để đánh giá cho đúng về con người của một thời đã qua. Cũng từ đó mỗi

người sẽ nhìn nhận mình đã sống trung thực là mình chưa?

Con người chỉ thật sự thanh thản khi được là chính mình. Được bộ lộ hết những

tâm tư, tình cảm của mình trong cuộc sống cũng như trên trang viết là điều hạnh

phúc nhất của mỗi nhà thơ. Đã có lúc Chế Lan Viên giật mình nhận ra: “Cái trang

mơ ước một đời chưa với tới - Xa dần” (Hồi ký bên trang viết) [77, 7] và lo lắng bởi

cả một đời phấn đấu, nay: “mất cả chì lẫn chài ở giữa vô danh” (Sủi tăm) [78, 81].

Và không thể không thừa nhận, có lúc nhà thơ đã lạc mất bản ngã để chạy theo

nhưng ảo tưởng phù du. Đến lúc tỉnh ra thì hối hận vì những năm tháng đã phí hoài.

49

Tuy nhiên, ở đây có đúng là Chế Lan Viên đã “đánh mất mình”? Có chăng ông chỉ

đang nghiêm khắc với bản thân hoặc ông chưa bộc lộ hết mình mà thôi.

Muốn được sống trung thực là mình, con người phải gạt bỏ mọi hoàn cảnh

khách quan. Đó là điều luôn thôi thúc Chế Lan Viên để được trở về với chính mình,

là chính mình. Trước hết là được trở về với cuộc sống bình dị, bỏ lại sau lưng

những danh vọng, ảo tưởng. Nhà thơ viết:

“Đã lâu ta không nghe hồn lau gọi nữa

Xa tiếng gió xạc xào

Xa mùi bùn, mùi trâu, rơm rạ…

Chỉ nghe danh vọng ầm ào

Vinh quang xí xố”.

(Cờ lau Đinh Bộ Lĩnh) [77, 97]

Xa dần những gì gần gũi thân thương, đối mặt với những thay đổi của cuộc

sống mới, Chế Lan Viên có lúc phải vất vả tìm lại chính mình. Những vinh quang

một thời còn len lỏi trong cuộc sống khiến con người bị choáng ngợp…Và, khao

khát được trở về với những gì bình dị nhất, giản dị nhất của cuộc sống luôn thường

trực trong cõi lòng ông:

“Cho tôi về với cành lau

Vàng vọ

Về với con trâu nghé ngọ

Có cặp sừng bỡ ngỡ

Chiều buồn không biết cọ vào đâu?”

(Cờ Lau Đinh Bộ Lĩnh) [77, 97]

Khát vọng ấy của Chế Lan Viên là chính đáng, nhưng nhà thơ cũng thảng thốt

nhận ra: “Hoa Lư ở đâu? / Hoa lau ở đâu? / Hồn lau ở đâu? / Hồn ta ở đâu?” (Cờ

Lau Đinh Bộ Lĩnh) [77, 97]. Nhà thơ cất lên câu hỏi: “Hồn ta ở đâu?” càng khẳng

định khát vọng muôn thuở của con người là muốn giải mã chính mình, để được hòa

50

chung vào cuộc sống lam lũ của quần chúng nhân dân để cảm nhận được nỗi đau

của một con người bình thường. Nếu không cảm nhận được hiện thực muôn màu

muôn vẻ của hiện thực thì nhà thơ chỉ có thể viết về những cái chung chung, chứ

chưa thể nói đến những điều chân thực. Mà muốn trở về với đời thực, cũng có nghĩa

là trở về với bản thể vốn có của con người: “Anh đừng là viên ngọc / Mà là viên sỏi,

cục gạch lẫn lộn cùng cỏ rác / Cũng xoàng xĩnh vô danh nhếch nhác / Hiểu cho hết

cái đau của cuộc đời / Nghe tiếng cười của trẻ con nheo nhóc / Điệu hát những bà

mẹ xanh xao / Rồi lặng lẽ cuốc đào / Miếng đất thơ trong vườn anh / Làm những

câu thơ vũ trụ và cho mình” (Chuẩn bị đi) [78, 194].

Trong hành trình tìm về bản ngã, nhà thơ trở về với những giá trị văn hóa tinh

thần của dân tộc. Khi đọc những trang thơ bất hủ của Nguyễn Du, Chế Lan Viên đã

tìm thấy bóng dáng mình trong cuộc đời bể dâu của nàng Kiều với những xót xa, đau

đớn. Nhà thơ nhận ra mình trong những câu thơ đầy tính nhân văn:

“Một ngày kia TRUYỆN KIỀU mới phóng ra hết lượng tử của mình

Những vỉa thơ nhân loại quên đi, và phát hiện ra những hồn thơ ẩn náu

Hồn ta ơi! Hôm nay ngươi thanh bình mà ngày mai giông bão

Trong câu Kiều xưa ta tìm ra Nguyễn Du mà tìm cả chính mình”

(Đọc Kiều, một ngày kia) [78, 86]

Chiêm nghiệm về lịch sử cha ông, Chế Lan Viên thấy những điều mà trước đây

vì nhiều lý do ông chưa kịp nhận ra. Trăn trở đi tìm mình, nhà thơ tìm về với dân

tộc, với những thay đổi và khó khăn của đất nước trong hàng nghìn năm dựng nước

và giữ nước. Nhà thơ khẳng định:

“Dân tộc muốn sống giữa lửa chiến tranh và lũ lụt của người,

Vỡ đê biển với vỡ đời

Dân tộc không thể biến đi mà chỉ hóa”

(Định nghĩa dân tộc) [79, 53]

Nhà thơ đã nhận ra bản chất và sự vận động cũng tuân theo sự vận động của lịch

sử không bao giờ biến mất mà chỉ “hóa”. Để phù hợp với sự thay đổi của thời cuộc,

bản ngã nhà thơ cũng cần có sự thay đổi và vận động chứ không thể đứng yên. Chính

51

sự vận động không ngừng của lịch sử đã giúp nhà thơ nhận ra “không thể chỉ có một

bề, một mặt”. Cái phức tạp của nhân thế vẫn là nỗi ám ảnh đối với nhà thơ. Những

nỗi đắng cay của cuộc đời đã khiến ông chua xót nhận ra: “Thuyền anh đi giữa bể,

hai trời May, Rủi đó / Không sấp bên này thì ngửa phía kia thôi / Cho đến lúc vào

bóng đêm, anh mới nhận ra chân lý / Cuộc đời là trò chơi / Cuộc sống là trò chơi /

Mà không chơi đau khổ không ù được nụ cười” (Hai chiều) [77, 188].

Bước qua những vấn đề gần gũi của cuộc sống thường ngày và những phạm trù

của dân tộc, văn hóa nước nhà, Chế Lan Viên đã viện đến triết học để lý giải, kiếm

tìm bản ngã:

“Ta là ai? Về đâu? Hạt móc

Là ta chăng? Dòng sông là ta chăng? Tiếng khóc

Là ta chăng? Vì sao lạc phương trời

Là ta chăng? Ta chưa kịp trả lời”

(Hỏi? Đáp) [77, 192]

Câu hỏi vừa cất lên, chưa có câu trả lời thì:

“Thì sông đã cuốn ta vào bóng tối

Cậu bé chơi tùng dinh vụt già trăm tuổi

Câu hỏi thuở bé thơ, miệng huyệt trả lời.”

(Hỏi? Đáp) [77, 192]

Chế Lan Viên suốt một đời kiếm tìm bản ngã với những câu hỏi: “Ta là ai?” và

“Ta vì ai?”. Và dường như để có được câu trả lời đích đáng cũng thật khó khăn, bởi

ông đã thành “già trăm tuổi”. Dù “đời cho anh là anh”, nhưng nhà thơ đã nhận ra

một sự thật: “Có một kẻ vô tình trong gió, nó là ai kia / Có một kẻ hữu tình trong

mùi hương, đấy là anh, chẳng lẽ / Có một cái gì, đâu đó / Anh tìm anh, thử hỏi làm

gì? / Tìm phiên bản nào rồi anh cũng đốt đi…” (Tự tìm mình) [79, 106].

Chế Lan Viên đã cố lý giải mình và ông phải thừa nhận không phiên bản nào là

của mình cả bởi một nhẽ:

52

“Trong mỗi cây ngoài kia có một cây ẩn náu

Trong mùi hương còn mùi hương còn giấu

Trong hồn ta còn trùng điệp hồn ta

Trong đáy của hồn, còn suối tuôn ra”.

(Trong hồn) [78, 221]

Tâm hồn con người vốn vô cùng vô tận, vốn mênh mông trùng điệp những cảm xúc,

vậy làm sao nhà thơ tìm được ra chính mình? Chế Lan Viên đã nghiệm ra một sự thật:

“Trút hết tạp âm của vũ trụ đi, chỉ còn một dây bản ngã của anh thôi…/ Bản ngã của

anh chứa những tạp âm rạn vỡ của sao trời / Bản ngã anh, anh chỉ tìm ra, hiểu rõ / Khi

chạm số phận mình cùng một vì sao lạ đổi ngôi” (Đàn bầu) [79, 20].

Trăn trở và khao khát tìm về bản ngã, Chế Lan Viên đã đi trên con đường đầy

chông gai, đầy hoài nghi nhưng cũng vô cùng dũng cảm và quyết liệt. Vẫn biết bản

ngã là một phạm trù phức tạp và bí ẩn, để hiểu được nó không hề đơn giản, nhưng

Chế Lan Viên chưa bao giờ từ bỏ khát vọng chiếm lĩnh nó. Đôi khi, tưởng như nhà

thơ đã nhận ra mình, nhưng rồi ông lại tự phủ định để kiếm tìm cái mới, bởi: “Cái tôi

của con người là tổng hòa của vô vàn các mối quan hệ, nó luôn luôn vận động, biến

đổi mà người nghệ sĩ lại là người luôn khao khát đi tìm những giá trị tinh thần mới,

vì thế hành trình đi tìm mình là một hành trình vô hạn, vô đích” (Lê Lưu Oanh).

2.2.2. Cái tôi bản lĩnh khi dám nói lên suy nghĩ của mình

Việc sống thực là mình đòi hỏi sự bản lĩnh của mỗi người khi thể hiện cái tôi cá

nhân với những suy nghĩ thành thực. Có thể việc nói lên những suy nghĩ chân thực

ấy sẽ gây phương hại đến bản thân, nhưng một nhà thơ chân chính sẽ biết gạt bỏ tất

cả những sự ràng buộc ấy để tìm ra cách thể hiện mình mà không hề mất đi bản sắc

vốn có.

Thời kỳ đổi mới, khi đứng trước những đổi thay lớn lao của lịch sử, những

thành tựu quan trọng mà đất nước đạt được đã đem lại cho Chế Lan Viên nhiều cảm

xúc, tình cảm rất riêng. Vốn là người sống và làm việc nghiêm túc, nên khi đứng

trước những hiện tượng “bất cập” trong cuộc sống ông không thể làm ngơ mà thẳng

53

thắn bày tỏ quan điểm nói lên suy nghĩ của mình - đó là cái tôi đầy bản lĩnh của nhà

thơ chân chính.

Trước hết là sự nhìn nhận và suy ngẫm về chính bản thân nhà thơ. Việc nhìn

nhận và tìm ra những khuyết điểm của mình để rút ra những bài học cần thiết là

điều không phải ai cũng làm được. Trước đây, Chế Lan Viên cũng đã tự nhận thấy

mình có lúc đang xa rời quần chúng: “Nhân dân ở quanh ta mà ta chẳng thấy”

(Người thay đổi đời tôi, Người thay đổi thơ tôi) [70, 35]. Hoặc nhà thơ cũng nhận

thấy sự nhỏ bé của thế hệ mình so với sự lớn lao của lãnh tụ. Nhà thơ chua xót: “Lũ

chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp / Giấc mơ con đè nát cuộc đời con / Hạnh

phúc đựng trong một tà áo đẹp / Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn” (Người

đi tìm hình của nước) [69, 90].

Sau 1975, ý thức muốn được nói lên những suy nghĩ trung thực của mình trong thơ

Chế Lan Viên càng được thể hiện rõ. Khi đất nước bước vào thời kỳ mở cửa, con người

cũng được “cởi trói” trong suy nghĩ và hành động. Ý thức dân chủ được đề cao trong đời

sống cho nên con người có thể tự do nói lên những suy nghĩ của mình và điều quan trọng

là được sống thực là mình. Nhà thơ có cơ hội nhìn nhận lại bản thân và một lần nữa ông

nhận ra sự nhỏ bé của con người trước mênh mông nhân loại:

“Cười mình vung lưới rộng

Thu về con tép con

Nhặt bốn câu bé bỏng

Sải cánh cả tâm hồn”.

(Tuổi già làm thơ tứ tuyệt) [77, 152]

Đó là những suy nghĩ rất thật và được nhà thơ bày tỏ một cách thẳng thắn. Và

đỉnh cao của những điều giãi bày chân thành ấy là sự phấn đấu thay đổi bản thân

mình trong suy nghĩ và hành động cho phù hợp với thời đại. Và chỉ khi được sống

thực là mình, được cùng trải nghiệm với những điều bình dị nhất của cuộc sống mới

mong nói lên được những điều chân thực:

54

“Ngồi giữa cá tôm, trong xe buýt, xe lam đầy bụi

Ra khỏi sức hút của danh vọng, bản thân tên tuổi

Trộn hạt giống anh vào trăm giống cao sang hay hèn hạ của đời

Ăn miếng ăn ngon, giờ ăn nhục tủi

Đang là ngọc, tự vùi mình là hạt sỏi

Nghĩ sâu vào trong cái đang sống bên ngoài”

(Đổi đời) [77, 171]

Sống trong xã hội thời mở của, nhà thơ luôn tâm niệm trước hết mình phải là một

người công dân có ích. Thế nhưng, những lo toan đời thường đã trở thành gánh nặng

cho nhà thơ khi phải vất vả kiếm miếng cơm, manh áo. Vậy thì còn thời gian và tâm

sức nào để dành cho thơ? Liệu ý thức công dân và ý thức nghệ sĩ có mâu thuẫn với

nhau không? Ở đây đòi hỏi sự bản lĩnh và ý chí của người nghệ sĩ. Võ Tấn Cường

cho rằng: “Sự lựa chọn này xem ra quá nghiệt ngã và không phải bao giờ người nghệ

sĩ cũng vượt qua được và dám gọi đúng tên bi kịch của mình” [7, 421].

Xã hội vốn phức tạp như con người vẫn từng nghĩ. Để phù hợp với hoàn cảnh,

đôi khi con người đã phải “diễn”, nhằm đem lại sự an toàn, hiệu quả nhất định.

Nhưng có lúc nhìn lại vấn đề để tự đánh giá, kiểm điểm mình một cách nghiêm túc

ta cảm thấy vô cùng chua xót, đau đớn. Nếu con người cứ phải “diễn” hay “đóng

kịch” như vậy đến một lúc nào đó họ sẽ tự nhận ra: mình không phải là mình, bản

thân mình không còn tồn tại nữa. Con người thật của mình đã chết hoàn toàn. Bởi

vậy, để sống đích thực là mình không phải là điều đơn giản, nó thật khó trong bất cứ

hoàn cảnh nào.

Trong thời kỳ hội nhập, mở cửa như hiện nay con người được sống trong môi

trường hoàn toàn mới, được sống “thoáng hơn” trong nhận thức, suy nghĩ, hành

động thì nhu cầu sống trung thực với bản thân, sống đúng với ý nghĩa cuộc sống của

nó ngày càng trở nên quyết liệt, mạnh mẽ hơn. Khi không được sống là chính mình

con người sẽ phải trả giá về những gì đã làm sau vai “diễn”.

55

Con người, ai cũng có lúc thành công nhưng khi đạt tới đỉnh vinh quang thì

thường tự thỏa mãn, bằng lòng với những thứ đạt được, nhưng đã lần nào ta nhìn lại

chính mình một cách nghiêm túc, đúng đắn? Chế Lan Viên là nhà thơ sống hết mình

cho sự nghiệp, cho nên ông đau đớn nhận ra một điều: trong cuộc đời này ai đó “tự

đánh mất mình” không dám sống đúng là mình, sống giả tạo, không thật tâm thì đó

là nỗi đau khổ lớn nhất không gì sánh bằng. Đứng trước thực trạng đau lòng ấy, Chế

Lan Viên nói lên tiếng phê phán nghiêm khắc - với tư cách một nhà thơ:

“Người diễn viên ấy đóng trăm vai, vai nào cũng giỏi,

Chỉ một vai không đóng nổi:

- Vai mình!

Lỗi ở ai nào? Chính lỗi ở anh

Cuộc đời anh, quan liêu, anh chả thuộc

Anh nghĩ nó là đời anh, nhớ hay quên lúc nào chả được

Anh đóng giỏi trăm vai, lại đánh mất mình”.

(Thơ về thơ (I)) [77, 124]

Vâng, “người diễn viên” ấy đóng rất thành công nhiều vai, nhưng chỉ có vai duy

nhất không đóng nổi là “vai mình”. Con người ấy đã tự đánh mất mình trong số trăm

vai diễn đó. Đây là nỗi bất hạnh mà mỗi con người đang phải cố gắng vượt qua. Để

đất nước có được cuộc sống như ngày hôm nay không phải là điều dễ dàng, nếu

không có thế hệ cha ông đi trước “mở đường khai lối” thì có lẽ dân tộc Việt Nam vẫn

mãi “đắm chìm” trong xiềng xích nô lệ. Vậy mà vẫn có những con người vô tình hay

cố ý quên đi quá khứ, quên đi một thời kỳ chìm trong “biển máu” nhưng oanh liệt, vẻ

vang của dân tộc. Đó là điều không thể chấp nhận. Nhà thơ bày tỏ những suy ngẫm

chân thành của mình về những điều xung quanh và xã hội thời bình.

Khi đất nước bước sang trang sử mới với việc ổn định kinh tế, chính trị, xã hội,

thì cuộc sống con người hiện đại cũng diễn ra trong sự “xô bồ”. Bên cạnh những

con người chỉ biết lo toan, vun vén cho hạnh phúc cá nhân thì còn có những con

người hàng ngày vẫn chu đáo, tần tảo lo toan cho những người đã hy sinh vì sự

56

nghiệp của dân tộc. Đứng trước thực tế đó, Chế Lan Viên lên tiếng phê phán đanh

thép những người vô tâm, cố tình tỏ ra thờ ơ với những hy sinh của bậc tiền nhân.

Trong sự xô bồ của cuộc sống thời “hội nhập” đã có biết bao vấn đề nảy sinh làm

thay đổi dần những giá trị vốn có, đó là giá trị văn hóa được tích lũy, đúc kết từ bao

đời, vậy mà trong chớp mắt thay đổi hoàn toàn. Nguyên nhân là do đâu? Phải chăng

đó là những vấn đề về danh lợi, quyền lực, địa vị, hay vấn đề tham nhũng…làm cho

xã hội đảo lộn. Tất cả điều đó đều được Chế Lan Viên đề cập một cách sâu sắc và

phản ánh trung thực trong thơ sau 1975.

Trước đây, con người sống với nhau chủ yếu là ở chữ “tình”, họ coi tiền bạc,

vật chất chỉ là phù du, không có nghĩa lý. Giờ đây xã hội đã đổi khác, nhiều vấn nạn

xã hội tồn tại và nổi lên như “sóng” có thể nhấn chìm bất kỳ ai. Đó là vấn đề tham

nhũng. Con người khi đứng trước vấn đề này đều lên tiếng tố cáo đanh thép, mạnh

mẽ. Với Chế Lan Viên thì khác, ông dùng ngòi bút sắc sảo, tinh tế của mình viết lên

trang thơ đầy cảm xúc nhưng mang ý nghĩa tố cáo sâu sắc:

“Không phải vì đất nước mình còn chiến tranh nghèo khó

Mà vì có bao nhiêu thằng đang sống xa hoa

Vì có bọn người thoái hóa

Khiến cho thắng trận rồi

Mà vẫn còn nhặt lá - kẻ làm thơ!”.

(Hốt lá) [78, 105]

Đối tượng mà nhà thơ nói đến ở đây không đơn thuần là con người bình thường

chỉ biết cuốc, cày làm ruộng, mà cao hơn là “lũ người” có chức quyền, có địa vị

trong xã hội. Đáng lẽ họ phải bị pháp luật trừng trị, bị trả giá về những việc làm sai

trái và bị người đời nguyền rủa, phỉ báng. Nói như vậy, không có nghĩa là cả xã hội

này đều chứa những con người đê tiện, mà bên cạnh đó còn có biết bao người sống

trong sáng, lành mạnh, trung thực…

Là một nhà thơ luôn tâm huyết với nghề, Chế Lan Viên không thể không cảm

thấy xót xa trước mặt trái của nghề thơ. Trong lao động nghệ thuật, không ít nhà thơ

57

chưa chân thực với mình, với độc giả. Những bài thơ được dùng nhiều từ ngữ lạ

thực chất chỉ để lừa người đọc chứ không hề có sự sáng tạo trong đó:

“Những nhà thơ mất giá

Lại thường hay đổi tiền

Mong dùng nhiều chữ lạ

Lừa người tiêu quá quen”.

(Mất giá) [77, 75]

Cũng có những nhà thơ không biết cảm nhận những điều hấp dẫn, thú vị của

cuộc sống nên thơ thường nghèo nàn. Sự lười biếng trong sáng tạo nghệ thuật ấy

cũng bị nhà thơ Chế Lan Viên thẳng thắn phê phán:

“Những nhà thơ không biết đầu cây gọi họ

Gặp mùa đào mà không có nỗi buồn Thôi Hộ

Đi qua mùa xuân không ngoái cổ lấy một lần

Họ sống ba trăm sáu chục ngày, không biết một ngày Xuân”

(Lãnh đạm) [78, 158]

Những trang thơ cuối đời của Chế Lan Viên đã cho ta thấy nỗ lực không ngừng

trên hành trình tìm lại chính mình. Giữa ranh giới mong manh của sự sống và cái

chết, nhà thơ đã bình tĩnh đón nhận sự khắc nghiệt của thời gian và lên tiếng khẳng

định cái tôi cá nhân một cách mạnh mẽ, quyết liệt. Điều đó càng làm cho chúng ta

tin yêu và khâm phục ông hơn.

2.3. Cái tôi nghệ sĩ tài hoa và trách nhiệm

2.3.1. Cái tôi ý thức trách nhiệm với nghề

Chế Lan Viên là một nhà thơ tài năng, nhà hoạt động văn hóa có vị trí quan

trọng trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Ngay từ khi cầm bút, ông đã xác định

rõ làm thơ là một nghề - một nghề đặc biệt, nghề cao cả, nghề thiêng liêng nhất chứ

58

không phải một nghề “ngứa cổ hót chơi”. Mà đã là nghề thì nhà thơ phải dành trọn

tâm huyết, cả cuộc đời và niềm tin của mình vào đó.

Chế Lan Viên coi sáng tác thơ là nghề của “bề sâu”, của sự lao động thầm lặng,

nghiêm túc và hết sức sáng tạo. Trong tác phẩm Đời thừa, Nam Cao từng quan

niệm: “Sự cẩu thả trong bất cứ một nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự

cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện”. Còn Lê Đạt thì lại cho rằng: “Theo tôi

thơ là một nghề, đã là nghề thì phải có kỷ luật lao động. Không nên thụ động thắp

hương chờ mà phải chủ động gọi hứng đến. Công việc này đòi hỏi một kỷ luật

nghiệt ngã và gian khổ”. Như vậy, dù là nhà văn hay nhà thơ thì công việc sáng tạo

của người cầm bút luôn đòi hỏi một tinh thần lao động nghiêm túc và trách nhiệm.

Đây cũng là một vấn đề mà Chế Lan Viên rất quan tâm. Lao động sáng tác, theo

ông không phải như nghề làm pháo “Cứ hét lên vì sợ chẳng vào tai” (Nghĩ về nghề,

nghĩ về thơ, nghĩ), mà là sự lao động trong thầm lặng, thậm chí có những lúc rất cô

đơn, đó là kiểu lao động “cày sâu cuốc bẫm” trên từng trang giấy.

Xuất phát từ quan niệm trên, Chế Lan Viên luôn trăn trở, suy nghĩ về trách nhiệm

của mỗi nhà thơ khi đứng trước cuộc đời. Với ý thức sâu sắc về trách nhiệm với nghề,

Chế Lan Viên có một quá trình lao động, sáng tác nghiêm túc, luôn có khát vọng làm

mới mình và thơ mình: “Anh làm việc rất kỹ với cả bài thơ và từng câu thơ, từng ý, từng

hình ảnh, từng chữ. Có thể nói trong thơ Chế Lan Viên có những bài chưa hay, những

bài ta không thích, nhưng bài nào cũng chứa đựng một cái gì đó mới mẻ, hầu như không

có bài nào tẻ nhạt, viết cẩu thả” (Nguyễn Văn Hạnh). Bởi vì là nhà thơ, hơn ai hết Chế

Lan Viên ý thức được rằng sản phẩm cuối cùng mà họ tạo ra là các tác phẩm - đứa con

tinh thần mà nhà thơ để lại cho đời. Tác phẩm ấy là sự kết tinh tài năng, tâm huyết của

nhà thơ và khẳng định sự tồn tại của nghề cũng như vị trí, tầm vóc của họ trong cuộc đời

“Nhà thơ sống là nhà thơ đẻ ra được tác phẩm”.

Trong những năm tháng chiến tranh ác liệt, nhà thơ tự nhận mình là người

chiến sĩ trong trận chiến ấy, nhưng khác ở chỗ là không trực tiếp cầm súng mà dùng

chính ngòi bút làm vũ khí đấu tranh để có thể hạ hàng nghìn quân giặc. Ông coi vị

trí nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy, chiến đấu không khoan nhượng với kẻ thù.

Sau năm 1975, ta nhận thấy một sự thay đổi lớn trong quan niệm về vị trí nhà thơ

59

của Chế Lan Viên. Ông coi việc làm thơ như một việc rất đỗi bình thường, thậm chí “như rác đổ thùng”, như “người diễn xiếc”. Vị trí cao cả của nhà thơ trong thời

chiến đã trở nên khiêm nhường trong đời thường “anh là kẻ rất thấp mà, là chổi

thôi mà” (Làm sao) [78, 75]. Giờ đây, có lúc ông tự cười mình vì “mất cả chì lẫn

chài ở trốn vô danh” và muốn “tìm cả chính mình”. Từ chỗ thấy vị trí người làm thơ cao quý vì đóng góp một phần vào sự nghiệp chung của đất nước trong những năm

tháng chiến tranh, nay ông lại viết:

“Làm thơ ư? Anh chơi cái trò bi kịch không ra bi,

Hài kịch chả ra hài,

Nhưng đã là số phận rồi, cứ phải chơi thôi”

(Nghề của chúng ta) [77, 92]

Mặc dù có sự thay đổi trong quan niệm về nghề thơ như vậy nhưng phần lớn

các bài thơ được viết sau năm 1975 của Chế Lan Viên đều thể hiện trách nhiệm của

nhà thơ với cuộc sống hiện tại. Mà muốn như vậy nhà thơ phải không ngừng tìm

tòi, sáng tạo. Ý thức đó được thể hiện từ cuối tập Ta gửi cho mình Chế Lan Viên có

bài Thơ bình phương - Đời lập phương bộc lộ những suy ngẫm về đời, về thơ, về

nghề thơ thật nghiêm khắc:

“Trăm câu thơ xoá đi cho một câu khỏi ném vào trong gió

Và chắc gì câu kia bay được đến bình minh!

Và thế, khi đánh giá nhà thơ, hãy tính công cho những trang giấy không thành.

Những con phù du chết bên đĩa đèn mà không đổi lấy câu thơ nào cả,

Những vầng trán nghiêng xuống bên đèn mà ý vắng tanh.”

(Thơ bình phương - Đời lập phương) [76, 70]

Đến Di cảo thơ, chúng ta lại bắt gặp nhiều bài thơ nói về công việc làm thơ và

trách nhiệm của người nghệ sĩ. Chế Lan Viên luôn coi làm thơ như cái nghiệp xuất

phát từ cõi tâm con người. Nhà thơ đã dùng định nghĩa về nghiệp của đạo Phật để

quy chiếu cho công việc làm thơ của mình. Chế Lan Viên cho rằng mình đã mắc nợ

nghiệp làm thơ nên suốt đời phải làm thơ để trả nợ dù ông cho rằng tài năng của

mình “chưa đầy nửa giọt”. Nhà thơ viết:

60

“Tôi tài năng chưa đầy nửa giọt

Có hộc tốc chạy đến chân trời cũng là đồ bất lực

Sao chỉ ấy kim kia tôi vẫn phải cầm”

(Xâu kim) [77, 72]

Hay trong bài Ấy…ấy…, nhà thơ cũng khẳng định: “Những ấy ấy, kia kia làm

anh khổ một đời / Anh làm thơ thế ấy / Sang hàng như vậy / Bỏ vần thế kia / Ngỡ

như có một kiếp trước, một tiền nhân / Đã bày ra thế đấy / Và bây giờ anh trả nợ /

Hoài hoài” [78, 96].

Những bài thơ như thế trong thơ Chế Lan Viên giai đoạn sau 1975 không

nhiều, nhưng nó đã cho ta thấy một quan niệm mới mẻ về duyên nghiệp của con

người. Nói như vậy để ta thấy được sự trả nghiệp của Chế Lan Viên là sự công tâm

và ý nghĩa biết bao:

“Theo nghiệp nào đành vác ngà, ngoắt đuôi theo nghiệp đó

Lấy đại ngàn làm đối thủ, lấy trời sao…”

(Đối thủ của voi) [77, 114]

Trong suốt một chặng đường dài sáng tác, Chế Lan Viên trăn trở, suy nghĩ làm

mới mình và thơ mình để phù hợp với thời đại. Nhà thơ đã dành không ít bài thơ để

định nghĩa về nghệ thuật làm thơ. Với ông, hành trình hoàn thiện một bài thơ tiêu

tốn nhiều tâm lực, đòi hỏi sự kiên trì của người nghệ sĩ: “Làm thơ là đem quả ngon

ví với môi người / Gửi tên người vào trong hơi gió / Rồi đem gió nhập vào bão dữ /

Và nhặt bên thềm một nhánh hoa rơi” (Làm thơ) [77, 65].

Hành trình làm thơ lúc gian nan, thử thách như người: “tìm trầm giữa ngàn cao

lắm hổ”, lúc lại thầm lặng như thi sĩ câm “ra hiệu bằng tay, bằng mắt, bằng toàn

thân”. Để tạo nên được những câu thơ hay, người làm thơ phải biết huy động tất cả

các giác quan để cảm nhận cuộc sống, để phát hiện ra cái tài ẩn giấu bên trong của

mình. Làm thơ luôn đòi hỏi sự đấu tranh không ngừng nghỉ trong tâm hồn và luôn

phải đặt ra câu hỏi làm thơ có ích gì?. Đặt ra câu hỏi đó để ta xác định được nhiệm

vụ và nghĩa vụ của thơ ca với đời. Người nghệ sĩ luôn phải là trung tâm của bộ ba

61

nghệ thuật “trang giấy, ngọn đèn và anh”. Có lúc làm thơ giống như một công việc

vô nghĩa, như thò tay vào cái túi thủng để tìm đồng tiền vàng, túi thì rách mà tiền thì

đã rơi mất từ lúc nào. Nhưng có lúc làm thơ là làm một việc phi thường, không phải

ai cũng làm được:

“Thi sĩ vào xứ tuyết tìm ra lửa

Kéo thuyền tình trên lưu vực sông Ngân

Không phải địa chất mà săn tìm kim khí lạ

Mặt rỗ, lưng gù mà muốn hóa tình nhân.”

(Thơ về thơ) [77, 124]

Chế Lan Viên quan niệm, thơ phải là tiếng nói cất lên từ chính cuộc sống.

Nhiệm vụ của thơ là phải thêm vị muối cho đời, thêm tiếng cười cho cuộc sống nở

hoa, thơ phải có trách nhiệm tìm kiếm và khám phá những ngóc ngách sâu kín nhất

của tâm hồn với sự nhân văn sâu sắc. Nhà thơ cho rằng, thơ phải có ích, có giá trị

cho đời, đem hương thơm mật ngọt để dâng cho đời. Có như vậy thì thơ mới thật có

ý nghĩa:

“Câu thơ có nghĩa đơn mà tâm hồn phải kép

Viết cái ấm của ta mà không quên cái rét của mình”

(Hai xứ) [77, 190]

Song không chỉ có vậy, điều Chế Lan Viên lo sợ nhất là những tác phẩm của

mình không giúp gì được cho đời. Nỗi đau ấy không chỉ riêng Chế Lan Viên mà là

nỗi đau chung cho cả thời đại bấy giờ, nó xuất phát từ trái tim, trách nhiệm của nhà

thơ chân chính đối với nghề. Điều đó làm ông đau khổ mà thốt lên:

“Ngăn con đê ùa vỡ bằng các câu thơ mệnh yểu

Hãy trồng một nhành cây buông trái ngọt bên thềm”

(Thời gian xuôi chảy) [77, 217].

62

Một trong những quan niệm mới mẻ nữa của Chế Lan Viên trong quan niệm về

thơ là thơ phải hướng tới những độc giả bình thường. Thơ cao cả là thơ dành cho

mọi tầng lớp trong xã hội bởi lúc này hoàn cảnh đã thay đổi. Những điều trước kia

chưa có cơ hội nói đến hay những người chưa được quan tâm đến thì nay được giãi

bày một cách chân thật, không né tránh:

“Những phong thư anh gửi cho hư vô đều bị trả về

Dù tem vẽ vĩ nhân, thần thánh

Chi bằng anh đưa cho cô hàng xóm ở hàng rào bên cạnh

Viết cho độc giả bình thường gần gụi đọc thơ anh.”

(Thơ cao cả) [78, 129]

Chế Lan Viên cũng xác định thơ và nhà thơ ở giai đoạn này phải khác với thơ

của thế kỷ trước. Thơ phải là sự đồng điệu trong tâm hồn con người, và nhà thơ phải

để hồn mình hòa quện cùng nhiều yếu tố thì thơ mới thật sự có giá trị:

“Ta lôi thơ xuống bùn, chạm vào đất đen

Nói chuyện thường ngày, vặt vãnh, quàng xiên

Lột trần áo bào và mũ triều thiên

Thơ cầm bị gậy đi ăn xin ở bên đường nhân loại trẩy.”

(Thơ thế kỷ 21) [78, 205]

Trong Di cảo thơ có rất nhiều bài thơ liên quan đến nghề thơ, tất cả đều thể

hiện những nỗi day dứt khôn nguôi, sự trách nhiệm nghiêm túc của ông trước cuộc

sống. Tuy nhiên điều mà Chế Lan Viên nhận thấy, sống trong cuộc sống hiện đại

với nhiều đổi thay, nhà thơ không thể chỉ biết áp dụng cái cũ mà phải biết nắm bắt

nhanh cuộc sống để phản ánh và sáng tạo kịp thời. Có như vậy tác phẩm của mình

sẽ được làm mới, sẽ đứng vững và trường tồn với thời gian. Nhà thơ không thấy

mình lạc hậu trước thời đại. Và để đạt được điều đó, Chế Lan Viên cho rằng cần

phải đổi mới, cả trong hình thức nghệ thuật lẫn nội dung.

63

Việc thay đổi thơ ca sao cho phù hợp với thời đại là yêu cầu bức thiết nhằm đáp

ứng được những vấn đề mới của xã hội. Đề hòa nhập được vào cuộc sống mới, cả nhà

thơ và nghệ thuật đều phải tự thay đổi mình, nếu không, thơ ca sẽ chết mòn. Cái cũ

không thể làm nên được những vần thơ có giá trị, do đó phải từ bỏ những cái cũ, thậm

chí là phải lộn trái mình để tìm ra cái mới:

“Làm thơ như đồng thuộc

Sức ì luôn trói buộc

Cái cũ đã thành thần

Cóc khô thành tài năng!

Hay là ta lộn trái

May có gì mới chăng.”

(Lộn trái) [77, 105]

Việc đổi mới thơ ca phải diễn ra trên mọi phương diện, từ thể tài đến ngôn ngữ,

giọng điệu, hình ảnh, từ nội dung đến hình thức. Trong đó, giọng điệu là phương diện

thay đổi lớn nhất trong thơ ca Chế Lan Viên sau năm 1975: “Giọng cao bao nhiêu

năm, giờ anh hát giọng trầm / Tiếng hát lẫn với im lìm của đất / Vườn lặng yên mà

thơm mùi mít mật / Còn hơn anh rồ giọng hát vang ngân” (Giọng trầm) [77, 187].

Bên cạnh đó, Chế Lan Viên còn rất quan tâm đến việc thay đổi ngôn ngữ thơ để tạo

cảm hứng và trải nghiệm mới của thơ. Việc tìm tòi những thể loại mới sao cho phù

hợp với việc truyền tải những nội dung mới cũng được nhà thơ chú trọng thể hiện.

Như vậy, đi suốt hành trình năm mươi năm sáng tạo, Chế Lan Viên được đánh

giá không những là nhà thơ lớn, mà còn là người có tài, có tâm và có ý thức trách

nhiệm đối với nghề, ông “Dấn thân hết mình” với thơ, vì thơ và cho thơ. Những vần

thơ như thế sẽ mãi là “Những lá thơm hái lúc về già” luôn được các thế hệ sau nâng

niu, trân trọng.

2.3.2. Cái tôi trân trọng những giá trị văn hóa của dân tộc

Trong hành trình sáng tạo nghệ thuật của mình, Chế Lan Viên hiểu được tầm quan

trọng của bản sắc văn hóa dân tộc nên với sự say mê và trân trọng, ông đã luôn có ý thức

tìm hiểu và gìn giữ nét đẹp đó. Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là sự kết tinh của lịch

64

sử bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước. Đó là truyền thống yêu nước, là tinh thần

nhân văn sâu sắc, là tinh thần uống nước nhớ nguồn, là sự đoàn kết một lòng cùng nhau

vượt qua bao gian nan, vất vả.

Từ rất sớm, Chế Lan Viên đã ý thức rõ được tầm quan trọng của văn hóa dân

tộc. Ngay từ tập Điêu tàn, nỗi đau đớn trước họa diệt vong của dân tộc, sự chà đạp

những giá trị văn hóa vĩnh hằng của bọn đế quốc đã hiện diện. Nỗi đau của dân Hời

trên mảnh đất Chàm cũng chính là nỗi đau của một tâm hồn mang nặng tinh thần

yêu nước. Nước mất thì những giá trị văn hóa nghìn đời mà cha ông gây dựng cũng

bị phá bỏ. Và đến những năm cuối đời, niềm tự hào về bản sắc văn hóa dân tộc là âm

hưởng vọng về từ quá khứ, vọng ra từ tâm hồn yêu tha thiết truyền thống lịch sử dân

tộc, là cách tri ân những chiến công của người xưa để phục vụ đời nay.

Những vần thơ viết về truyền thống lịch sử đã cho ta thấy cái nhìn mới mẻ của

Chế Lan Viên về vấn đề này. Từ trước đến nay, khi nói về lịch sử chúng ta thường

nói đến truyền thống dựng nước và giữ nước hào hùng của dân tộc. Nhưng Chế Lan

Viên lại nhận thấy, từ khi sinh ra đất nước ta đã phải chịu nhiều vất vả, phải đương

đầu với biết bao khó khăn, với những âm mưu đầy toan tính…Lịch sử Việt Nam

chìm đắm trong đau thương mất mát: “Đất nước gì mà tuổi trong nôi đã phải nhảy

lên mình ngựa thép đi đánh giặc / Đang cưỡi trâu, chơi cờ lau cũng phải bỏ chơi

mà đánh giặc / Chiếc gối lông nga cũng có âm mưu của giặc trộn vào / Yêu mà bị

chém rơi đầu Mỵ Châu hóa giặc! /Cho đến cùng phải hóa Sơn Tinh, Thủy Tinh /

Đánh giặc cùng nhau huy động núi non, lũ lụt vào vòng chiến tình yêu / Mà cướp

một cô Nàng” (Đất nước ta) [78, 153].

Chế Lan Viên cũng cho ta thấy đất nước mình có một di sản văn học dân gian

vô cùng phong phú, đó là truyền thuyết An Dương Vương, Mỵ Châu - Trọng Thủy,

truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh, truyền thuyết Thánh Gióng, truyền thuyết Lạc

Long Quân và Âu Cơ làm say lòng bao người…Câu chuyện Mỵ Châu - Trọng Thủy

là mối tình nhiều ngang trái. Chế Lan Viên nhắc đến tình yêu ấy như một lời cảnh

báo về những âm mưu do chính trị đem lại. Biết và hiểu được nó để tránh sự tái

diễn không đáng có: “Còn cái lông nga ấy bây giờ ở đâu? / Ai biết? / Có lẽ nó bay

65

trên đầu những người oan khuất / Đang chờ người yêu và vết chém sau lưng” (Lông

nga máu) [78, 107].

Hay khi nhắc đến truyền thuyết về Lạc Long Quân và Âu Cơ, Chế Lan Viên

cũng nhắc ta cần nhìn nhận lại cho đúng lịch sử. Sự chia ly ở đây là cần thiết cho sự

tồn tại và duy trì giống nòi. Đây là nhận thức đầy tính nhân văn mà không phải ai

cũng hiểu được: “Chúng ta là con của mây cha ta và sóng bể mẹ ta từng ly biệt /

Xoắn lòng ta như Loa Thành tự buổi An Dương Vương / Mẹ Âu Cơ nghe lòng trong

bể động và bể im không tiếng sóng / Trăm trứng hồng của mẹ kia, trứng nào sẽ

thoát khỏi đau thương?” (Sử) [78, 79].

Sự quan tâm của Chế Lan Viên đến văn hóa dân tộc không chỉ dừng lại ở

những giá trị lịch sử dân tộc. Mà với ông, vấn đề cốt lõi của di sản văn hóa chính là

con người. Chế Lan Viên rất tâm đắc với quan niệm coi con người là một bộ phận

của văn hóa dân tộc, trong đó có văn chương nghệ thuật. Đó là những con người cụ

thể sinh ra và tồn tại trong một không gian, thời gian cụ thể của một dân tộc, một

thời đại. Với ý niệm như vậy, Chế Lan Viên đã nhìn nhận các danh nhân Việt Nam

như một phần không thể thiếu của văn hóa Việt Nam. Những bài thơ viết về

Nguyễn Trãi và Nguyễn Du trong thơ Chế Lan Viên sau 1975 đã cho ta thấy sự trăn

trở của ông về những di sản tinh thần vô giá của dân tộc.

Khi viết về Nguyễn Trãi, nhà thơ như thấm thía nỗi oan khuất của thi hào. Mỗi

trang thơ đều nhuộm đỏ máu của hồn oan. Nhưng đằng sau nỗi đau ấy, con người

Nguyễn Trãi và thơ ông vẫn như “ngọc sáng ngời”, bền bỉ tồn tại cùng thời gian.

Chế Lan Viên đã khẳng định thêm một lần nữa, Nguyễn Trãi là một nhà thơ lớn,

một nhà văn hóa lỗi lạc của dân tộc. Cuộc đời và sự nghiệp của ông là sự kết tinh

của những giá trị tinh thần không gì thay thế được:

“Giọt máu thấm từ trang sách ra bìa hay vào ruột sách

Từ trang đầu đến trang chót thơ kia đều thấm máu đỏ lòm

Chúng tru di máu, tru di người, chứ tru di thơ sao được?

Ngọc sáng ngời là hóa thân của máu, của hồn oan.”

(Thơ Nguyễn Trãi) [79, 190]

66

Bên cạnh Nguyễn Trãi, đại thi hào Nguyễn Du cùng Truyện Kiều cũng là

nguồn cảm hứng cho Chế Lan Viên viết nên những vần thơ kiệt tác. Số lượng các

bài thơ viết về Nguyễn Du và Truyện Kiều của Chế Lan Viên tuy không nhiều

(khoảng gần mười bài), nhưng có thể kể đến một số bài thơ nổi tiếng theo thời gian

như: Đọc Kiều, Gửi Kiều cho em năm đánh Mỹ, Nghĩ thêm về Nguyễn, trong Di cảo

thơ viết sau năm 1975, có hai bài Kỷ niệm Nguyễn Du…

Truyện Kiều của Nguyễn Du có sức sống lâu bền và có sức lan tỏa vượt qua

mọi không gian và thời gian với những giá trị hiện thực và nhân văn sâu sắc. Ca

ngợi Truyện Kiều, Chế Lan Viên đã dành những lời thơ trân trọng nhất, yêu mến

nhất. Văn hóa Việt Nam trở nên giàu có hơn, phong phú hơn nhờ Truyện Kiều.

Cũng nhờ có Truyện Kiều mà thế giới biết đến văn hóa dân tộc Việt Nam nhiều

hơn. Nhà thơ đánh giá Truyện Kiều là một bể ngôn từ đầy bí ẩn, càng khám phá

càng cảm thấy thú vị. Những giá trị nhân văn, hiện thực của Truyện Kiều đã cho ta

thấy được cái tâm, cái tài của Nguyễn Du: “Nguyễn Du có ngờ không? / Người ta

dịch vầng trăng ông / Qua các biên thùy ngôn ngữ / Ông có bao giờ nghĩ / Cỏ non

thơ ông xanh / Ra ngoài thế kỷ vẫn còn xanh? / Tôi hiểu lắm mỗi thời mỗi khác / Ta

suy tư dưới ánh đèn nê-ông / Ông thương nhớ màu lam/ Nỗi buồn ta ngũ sắc” (Kỷ

niệm Nguyễn Du (2)) [79, 198].

Nhắc đến Nguyễn Du, Chế Lan Viên không chỉ dành cho Người những vẫn thơ

thể hiện lòng yêu mến, mà qua đó, nhà thơ còn muốn gửi đến nhân loại một thông

điệp: hãy quan tâm đến những nhân tài của đất nước khi họ còn sống, khi họ còn

đang cống hiến cho đời những trái ngọt. Còn khi họ đã mất rồi, sự quan tâm ấy đôi

khi chỉ “thỏa lòng ta thôi”, chứ không còn có ích gì cho các danh nhân nữa:

- “Khi ta kỷ niệm Nguyễn Du chả ích gì cho Nguyễn

Chả qua để kẻ yêu thơ khỏi tủi trong lòng.”

(Kỷ niệm Nguyễn Du ) [77, 90]

- “Ta có thương ông thì ông cũng đã chết lâu rồi.”

(Kỷ niệm Nguyễn Du (2)) [79, 199]

67

Khi chiến tranh đã lùi xa, đứng ở vị thế hôm nay, Chế Lan Viên không khỏi băn

khoăn khi nghĩ về một thời kỳ chiến tranh gian khổ, nhiều hy sinh mất mát của dân

tộc. Mặc dù cuộc sống của mỗi người đã đổi khác, nhưng nhà thơ luôn ý thức được

món nợ “xương máu, cơm áo...” xưa. Nên mỗi khi nhắc đến những lầm than của

dân tộc, Chế Lan Viên vẫn một giọng hào hùng, đầy trách nhiệm. Có thể coi những

bài thơ viết về chiến tranh sau năm 1975 là thơ hậu chiến. Đó là “âm vang của chiến

tranh”. Nhưng ông đã có một định giá mới: “Anh chiêm nghiệm về sự hy sinh, cân

lại “giá máu”...Anh triết lý về cảnh giác..., suy nghĩ về sự sống trên cái chết, về văn

minh thắng tàn bạo, về bản chất nhân đạo của chiến tranh cách mạng” [31, 7]. Sự

thật về những mất mát của quân đội ta trong những năm chiến tranh thường không

bao giờ được nhắc đến. Nhưng lúc này, sự thật lịch sử ấy đã được nhắc đến trong

thơ ca Việt Nam như lời nhắc nhở phải biết trân trọng những gì ta đang có hôm nay:

“Bom tấn nện thường xuyên / Lòng ta thành tọa độ / .../ Còn ta thì bị giết / Dưới một

trời bom tấn / Dưới một trời hỏa châu” (Ly biệt ngày nay) [77, 73].

Cái mất mát lớn nhất của chiến tranh không chỉ được tính bằng những số liệu bộ

đội hy sinh cụ thể, mà cái mất mát lớn nhất, đeo đẳng con người lâu dài nhất chính là

sự mất mát của những con người còn sống sót sau cuộc chiến. Khi nhắc đến vấn đề

này, bản thân Chế Lan Viên cũng đã từng bị đưa ra mổ xẻ về tư tưởng. Có người

không hiểu ông hoặc cố tình không hiểu ông thì cho rằng ở đây có sự “phản tỉnh”,

“sám hối”...Khi bài thơ Ai? Tôi ra đời đã tạo nên nhiều cách hiểu khác nhau. Bài thơ

nói đến sự hy sinh quá lớn của bộ đội ta trong chiến dịch Mậu Thân: “Mậu Thân

2000 người xuống đồng bằng / Chỉ một đêm, còn sống có 30”. Và ông cũng thẳng

thắn nhận trách nhiệm về mình sau những mất mát đó: “Tôi! Tôi - người viết những

câu thơ cổ võ / Ca tụng người không tiếc mạng mình trong mọi cuộc xung phong”

[77, 227].

Nguyễn Bá Thành đã nhận định: “...Ở bài thơ Ai? Tôi thì ông oán trách thơ

mình đã cổ vũ mọi người xông lên chiến trận, làm cho hàng ngàn người không trở

về. Tình cảm của ông trong những bài thơ đó trở lại với tinh thần nhân đạo chung

chung của Điêu tàn...Ý nghĩa lịch sử, và giai cấp, dân tộc bị gạt bỏ” [63, 410]. Và

điều nhà thơ trăn trở, đau đớn nhất là những khó khăn, vất vả của 30 con người còn

sống sót đó trong cuộc sống thời hậu chiến. Họ vẫn đang hàng ngày mưu sinh đầy

68

chật vật, dù: “Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ / Chả huân chương nào nuôi

được người lính cũ!”. Và nhà thơ lại một lần nữa lên tiếng nhận trách nhiệm về

mình khi nhận ra văn chương không giúp ích gì cho người lính trong cuộc sống

hôm nay. Bài thơ là lời giãi bày chân thành của nhà thơ đối với những mất mát đã

qua. Một lần nữa, Chế Lan Viên lại nhắc lại thông điệp: hãy quan tâm hơn nữa đến

cuộc sống của những con người đã vì đất nước mà hy sinh cả tuổi trẻ, thậm chí là

xương máu của mình.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Có thể khẳng định, cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên sau 1975 là cái tôi

đạo đức, cái tôi thế sự đời tư với những chiêm nghiệm, băn khoăn về tất cả các vấn

đề của cuộc sống, của nghề nghiệp. Những năm cuối đời, nhà thơ mang một tâm thế

mới, một tâm trạng mới trước sự chuyển vần của thời cuộc. Giờ đây, nhà thơ trở lại

là cái tôi cá nhân tự nói về mình, nói với chính mình, về nhân tình thế thái, về cuộc

đời, về những số phận riêng có trong xã hội. Từ đó, những vướng mắc, những trăn

trở, cả những nghiệt ngã của bệnh tật, với cái chết đang gần kề được bộc lộ một

cách chân thành. Và, bức chân dung tinh thần mới của nhà thơ hiện hữu đầy cá tính

trước những thách thức của cuộc đời.

69

Chương 3. NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CÁI TÔI TRỮ TÌNH

TRONG THƠ CHẾ LAN VIÊN SAU 1975

3.1. Sự kế thừa và phát triển các thể thơ

Ngay từ khi mới cầm bút, Chế Lan Viên đã rất có ý thức trong việc tìm tòi và

sáng tạo các thể loại thơ. Ông đã thể nghiệm hầu hết các thể thơ dân tộc, như thể lục

bát, thể tứ tuyệt, thể 7, 8 chữ…Trong đó, hai thể thơ được ông sử dụng một cách

nhuần nhuyễn là thơ tự do và thơ tứ tuyệt. Một mặt ông đã kế thừa và phát huy

những giá trị truyền thống của văn học dân tộc, đồng thời nhà thơ có những cách tân

nhất định, tạo nên sự đổi mới cho những thể thơ ấy. Điều này thể hiện rất rõ trong

thơ Chế Lan Viên sau năm 1975.

3.1.1. Thể thơ tự do

Bằng tài năng sáng tạo nghệ thuật của mình, Chế Lan Viên đã góp phần khẳng

định vai trò, vị trí của thơ tự do trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Đây cũng là thể

thơ thể hiện rất rõ tính hiện đại hóa của thơ ở giai đoạn đổi mới. Tính từ năm 1980

đến năm 1988, số lượng bài viết theo thể tự do chiếm ưu thế hơn cả. Các bài thơ tự

do trong Di cảo thơ được ông viết với nhiều đề tài khác nhau. Nhưng tất cả đều có

chung một nhận đinh, Chế Lan Viên chính là “người mở đường và dẫn đường cho

thể thơ tự do, đã có những thể nghiệm đầu tiên và đi đến cùng của sự sáng tạo thể

loại” [30, 167].

Những bài thơ tự do của Chế Lan Viên sau năm 1975, đặc biệt là trong Di cảo

thơ chịu ảnh hưởng nhiều của thể thơ văn xuôi nên giọng điệu có phần thô ráp, nhưng

lại tạo nên sự bất ngờ cho người đọc. Sự phóng khoáng của câu chữ, niêm luận cộng

với tài sáng tạo nghệ thuật của Chế Lan Viên đã tạo cho thơ tự do một phong cách

mới, một diện mạo mới. Các bài thơ đều thể hiện những vấn đề mang tính thế sự: từ

những tình cảm thiêng liêng của gia đình, bạn bè, tình cảm với quê hương, đất nước

đến những vấn đề siêu hình khi nhìn về thế giới bên kia…Nhà thơ thường sử dụng

những hình ảnh mới lạ, vừa thực vừa ảo, mang tính cách tân rõ rệt. Có thể nói, thơ tự

do rất phù hợp với sự chuyển động không ngừng trong tư tưởng Chế Lan Viên những

năm cuối đời. Trong Di cảo thơ, cho dù là các bài thơ hoàn chỉnh hay mới ở dạng

70

phác thảo thì Chế Lan Viên cũng luôn có ý thức trau dồi nghệ thuật để vừa đảm bảo

tính hình tượng, cấu trúc, niên luật nhưng cũng vừa mang tính hiện đại. Đây cũng là

điều ông tâm niệm:

“Tự do quá cũng giết chết thơ như gò bó

Kỷ luật bắt ta tìm vào ở ngay trong đất thó

Còn tuyệt đối tự do thì biến hoa thành ra cỏ

Bởi xô bô.”

(Tự do và thơ) [79, 143]

Đồng thời, có thể thấy thể tự do cũng hoàn toàn thích ứng với phong cách triết

luận về nhân thế của Chế Lan Viên. Điểm mới là những câu thơ tự do đều có độ dài

vừa phải, kiểu như: “Những hòn bi tuổi nhỏ / Lớn lên, tay cầm nguyên đó / Chưa

thể nào ném vào / Một lỗ bi nào / Cho đắt / Vào một trang thơ nào / Đẹp mắt / Biết

làm sao?...” (Những hòn bi) [79, 141].

Hoặc trong bài thơ có sự biến đổi về số lượng các chữ trong câu:

“Huống nỗi thời sau ấy, người ta bay lên trời, chơi trong vũ trụ, thiết gì thơ

Ấy vậy mà anh vẫn hò ơ

Chống con thuyền, con đò anh trên bến thời gian

Anh cứ hát

Cố quên mình mặt rỗ.”

(Mặt rỗ) [79, 246]

Điều này khác hẳn với những bài thơ tự do ở giai đoạn trước, khi nhà thơ

thường có xu hướng mở rộng câu thơ. Thậm chí, ở ngay tập Ta gửi cho mình

(1984), ở bài Thơ bình phương, đời lập phương xu hướng ấy vẫn là chủ đạo:

“Chữ được mùa - chữ ủ chua - chữ phóng xạ -

chữ mùa trăng và chữ đêm rằm, - chữ lên men

chữ thành “gien”, mật mã - chữ đu bay, voi lồng

71

- chữ múa kiếm trên dây - chữ thành tượng đá

- chữ thành tượng đá - chữ lặng theo cách thiền tông

- tất cả làm tâm hồn đảo ngược vào trong - chữ hừng đông

và chữ chớp dông - chữ ra đòng - chữ hồng huyết cầu

tế bào vỏ não - chữ thụ phấn, thụ tinh sáng tạo…”

(Thơ bình phương - đời lập phương) [76, 70-71]

Tuy nhiên, trong Di cảo thơ có một bài thơ được cho là rất đặc biệt, bởi nó

được cấu tạo không theo một quy tắc nào. Bài thơ Ấy gồm 133 chữ nhưng viết liền,

không xuống dòng, chỉ có 21 dấu phẩy ngắt và một dấu chấm than:

“Năm ấy, ngõ ấy, mặt người ấy, hoa đào ấy, gió đông ấy, thơ Thôi Hộ ấy, và

mùa thôi ủng hộ ấy, lòng người chảy trôi mặc dù câu thơ tồn tại ấy, sự phục hồi của

hoa đào năm ngoái ấy, cái hồn ma của ngõ cũ năm xưa ấy, sự vắng tanh vắng ngắt

mặt người năm nay, năm sau, năm nữa ấy, cái hủy diệt của gió đông đến đông cả

người ấy, và dù máu người đông lại dưới mồ, nhưng cái không chết của hoa hoa,

người người trong thơ Thôi Hộ ấy, dù tất cả ta ta mình mình đi về cõi ấy, bằng con

đường ấy, dòng sông và ngọn đèn ngọn gió ấy, hỡi ơi, thế mà ta vẫn làm thơ ấy”

(Ấy) [79, 244].

Bài thơ cho thấy sự phá vỡ mọi quy tắc thể loại thơ. Nhưng chúng ta cũng nhận

thấy trong bài thơ này có âm hưởng và giọng điệu của thể loại văn xuôi. Chính sự

đan xen giữa các thể loại giúp cho thơ tự do Chế Lan Viên có được sự mới mẻ về

hình thức nhưng vẫn cô đọng và hàm xúc.

Mặc dù thơ tự do của Chế Lan Viên phần lớn có sự tiết chế tối đa về mặt câu

chữ nhưng ông lại không giới hạn về mặt số lượng câu trong bài. Điều đó cho phép

nhà thơ có thể mở rộng chiều liên tưởng của mình trong các vấn đề dù lớn hay nhỏ.

Trong thơ Chế Lan Viên sau năm 1975, chúng ta bắt gặp một số bài thơ dài có khi

lên đến hàng trăm câu, như: Calley Sơn Mỹ tháng 3 - 68 dài 234 câu, hay bài Gửi

Trạng Thông họ Hoàng dài 166 câu. Tuy nhiên điều này chỉ diễn ra ở một số bài

thơ cá biệt, còn lại, các bài thơ tự do có độ dài ngắn khác nhau tùy theo tâm trạng

72

của tác giả, thường là 3, 5, 6, 7, 8, 9 dòng thơ…Cách phân chia các khổ thơ cũng

không theo bất cứ một quy tắc nào, mà nhà thơ chủ yếu thể hiện làm sao cho hiệu

quả nhất. Chính vì vậy số khổ thơ trong một bài thơ cũng không bị giới hạn thành

bốn khổ như trước mà có thể nhiều hơn, từ 5 khổ (Từ thế chi ca (1)), đến 14 khổ

(Thơ về thơ (1))…

Một điểm mới nữa trong thơ Chế Lan Viên là lời kết của mỗi bài thơ thường

bỏ ngỏ để người đọc có thể tự do suy ngẫm, suy luận về những điều mà nhà thơ triết

lý. Chế Lan Viên hướng đến tất cả các vấn đề của đời sống xã hội, các vấn đề nhân

sinh với những nỗi buồn, niềm vui, sự hy vọng, thất vọng…với tất cả sự suy tư chân

thành nhất:

- “Chú tiểu xuất gia

Đi về ô đó

Vì ta.”

(Chú tiểu) [79, 108]

- “Anh là kẻ rất thấp mà, là chổi thôi mà

Sao lại bắt anh quét trời như những chùm sao

Ở tận trên cao.”

(Đánh lạc hướng) [78, 74]

Như vậy, có thể thấy, thể thơ tự do là sự minh chứng sinh động nhất cho sự kế

thừa và đổi mới của thơ Chế Lan Viên sau năm 1975. Những quy tắc về số câu, số

chữ, niêm luật vốn đã không bị bó buộc nay lại càng được tung phá giúp cho Chế

Lan Viên có thêm nhiều cơ hội để sáng tạo. Sự mở rộng và không giới hạn số lượng

câu thơ, chất văn xuôi được đan cài trong các câu thơ, ý thơ đã tạo cho thơ tự do của

Chế Lan Viên một diện mạo mới, đầy tính nhạc. Với những cách tân đổi mới ở thể

thơ tự do, Chế Lan Viên đã góp phần vào công cuộc hiện đại hóa thơ ca Việt Nam

những năm đổi mới.

73

3.1.2. Thơ tứ tuyệt

Thơ tứ tuyệt được coi là đặc sản của Chế Lan Viên sau 1975. Khi cuộc sống có

sự thay đổi lớn, những vấn đề thường nhật là những vấn đề mang tính thế sự, đời tư,

có thể sẽ không cần thiết phải sử dụng đến những thể thơ dài. Hơn nữa đây cũng là

khoảng thời gian Chế Lan Viên đang phải chống chọi với căn bệnh hiểm nghèo,

hơn ai hết ông hiểu được mình đang bị thời gian dồn vào chân tường, nên nhà thơ

muốn làm những bài thơ ngắn gọn.

Khảo sát thơ ông giai đoạn này, ta thấy số lượng thơ tứ tuyệt được sáng tác theo

đúng quy định về hình thức là rất ít (chỉ khoảng trên dưới 20 bài). Đó là những bài

thơ bốn câu, mỗi câu có năm hoặc 7 chữ. Còn lại, các bài thơ tứ tuyệt viết sau năm

1975 đều có sự cách tân nhất định cả về nội dung lẫn hình thức: “Chúng ta có thể xem

thơ tứ tuyệt Chế Lan Viên là những bài thơ bốn câu không hạn chế về số từ, thể

thơ…nhưng luôn tuân thủ nguyên tắc độc đáo của thể loại, triển khai một tứ thơ trọn

vẹn: xoáy sâu vào một trạng thái tình cảm đặc biệt, phát hiện một ý tưởng có tính

chất triết lý bất ngờ và cuối cùng là gây hứng thú cho người đọc” (25, 204-205).

Sự đổi mới thơ tứ tuyệt của Chế Lan Viên được thể hiện trước hết ở hình thức

nghệ thuật với sự thay đổi lớn về số lượng chữ trong một câu. Không chỉ là những

câu thơ 7 tiếng với hình dáng quen thuộc mà nhiều câu thơ được mở rộng với số

tiếng từ 10 trở lên, tạo nên sự độc đáo trong thơ Chế Lan Viên sau 1975. Có thể kể

tên một loạt các bài thơ như: Gió mùa đông bắc, Tự trách mình, Ong và mật, Sân

bay, Ra hoa và đậu củ…Nhưng cũng có những câu thơ đặc biệt với sự mở rộng bất

ngờ tới 22 tiếng như: “Sao chổi vinh quang kia, quỹ đạo nó cắt ngang qua quỹ đạo

tất cả các hành tinh trong hệ mặt trời” (Vĩ mô và vi mô), hoặc có câu thơ kéo dài tới

24 tiếng: “Chẳng qua là anh sợ cặp sừng kềnh càng chơi trội kia đi ngang rừng có

làm phiền cho lá cành, cho đồng loại?” (Cẩn thận).

Sự mở rộng câu thơ tứ tuyệt trong thơ Chế Lan Viên ngày càng được bộc lộ rõ

nét. Dường như thời gian cuối đời đã khiến ông nhận ra ưu thế của thể thơ, nó phù

hợp với việc diễn tả cảm xúc mới mẻ, sâu lắng như: nhớ thương, nuối tiếc, đợi chờ,

cô đơn…Đó là khoảnh khắc được gọi thành tên:

74

“Chỉ một ngày nữa thôi. Em sẽ

trở về. Nắng sáng cũng mong. Cây

cũng nhớ. Ngõ cũng chờ. Và bướm

cũng thêm màu trên cánh đang bay”.

(Tập qua hàng) [74, 54]

Có những câu thơ trải dài, không hạn định số chữ:

“Miền nội tâm anh, dặm tinh thần anh là ngàn lau xao xác ấy

Bạc trắng ngàn lau cũng là tuổi thơ anh thường nhắn gọi anh về”

(Lau) [79, 37]

Nhà thơ Tố Hữu đã nhận định: “Sự tràn ra hay hụt đi của số từ trong câu là

biến thái của tứ tuyệt Chế Lan Viên” [35, 206]. Cho nên trong một bài thơ tứ tuyệt

bảy chữ, Chế Lan Viên cũng tạo ra sự phá cách khi để một câu tám chữ xem vào

giữa:

“Vườn anh mặt trời hào hoa qua lại

Rủ nhau mơ mộng những vầng trăng

Hè rủ thu về cho quả chín

Bướm tìm đến cỏ để du xuân.”

(Vườn anh) [79, 122]

Đây là sự trải nghiệm mới đầy thú vị của Chế Lan Viên với một thể loại vốn

vẫn được coi là rất nghiêm nhặt. Mặc dù cấu trúc bị phá vỡ nhưng thơ tứ tuyệt Chế

Lan Viên vẫn có đầy đủ các đặc điểm vốn có của thể thơ, thậm chí còn tạo nên sự

bất ngờ, độc đáo. Trong thơ tứ tuyệt mới của Chế Lan Viên, nhịp điệu và tiết tấu

luôn có sự thay đổi theo tâm trạng tác giả, chứ không bị bó buộc trong sự khuôn

phép của câu thơ. Hình thức thơ tứ tuyệt của Chế Lan Viên đã “xóa nhòa niêm luật,

biết phá để thay và làm mới bằng nhiều cách, không chịu gò bó trong một cái khuôn

cố định nào” [33, 204):

75

- “Lên gác nhìn quanh kiếm dáng xuân

Mai vừa trụi lá, nhánh khô cành

Hồng không. Cúc cũng không. Duy chỉ

Gương mặt nhà ai thoáng nét trăng”

(Lên gác) [77, 193]

- “Rồi ta sẽ cách xa nhau như hai tượng gỗ trong chùa,

siêu hình và bất tử

Cũng hít một mùi hương, cùng nghe một tiếng chuông mà

gỗ anh và gỗ em cùng chết khô để tróc sơn dầu”

(Tượng) [78, 152]

Thơ tứ tuyệt Chế Lan Viên vừa mang tính truyền thống lại vừa mang tính hiện đại.

Hiện đại không chỉ ở hình thức nghệ thuật mà còn hiện đại trong nội dung thể hiện.

Nếu như trong thơ tứ tuyệt trung đại thường lại gắn với các chủ đề như trăng, gió, hoa,

tuyết…thì trong thơ tứ tuyệt hiện đại thường gắn liền với cuộc sống đời thường. Thơ tứ

tuyệt Chế Lan Viên cũng vậy, nhà thơ đã lấy con người làm chủ thể sáng tạo. Đây

được cho là sự chuyển hướng tích cực trong việc thâu nhận thế giới quan, nhân sinh

quan của nhà thơ. Trong thơ Chế Lan Viên xuất hiện những hình ảnh vô cùng gần gũi,

thân thuộc với cuộc sống hàng ngày của con người trong thời bình:

“Còng lưng tưới nước vạt rau khô

Bơm hỏng đâm ra khổ cả nhà

Đêm ngủ chỉ toàn lo vật giá

Xa dần truyện ngắn, bớt dần thơ”

(Cảnh điền viên) [78, 41]

Chế Lan Viên đã “chiếm lĩnh chiều sâu hiện thực bằng cách tăng tính khái

quát, triết lý ở chủ đề và sự thể hiện con người ở nhiều chiều” [53, 180] để thể hiện

sự phong phú của tứ thơ trong một khuôn khổ hạn hẹp của thể thơ tứ tuyệt. Thơ tứ

76

tuyệt Chế Lan Viên như “một góc hẹp nhìn ra thế giới vô cùng” [53,182] Những

cảm hứng thế sự về tình cảm với mẹ, với vợ, với con, với các chị hay với bạn

văn…đều được thể hiện một cách chân thành trong thơ Chế Lan Viên. Thơ tứ tuyệt

Chế Lan Viên đã vươn tới mọi khía cạnh của hiện thực cuộc sống và hiện thực tâm

trạng con người: “Chim cu gù ánh sáng / Sương trên cành chưa rơi / Tôi ở hoàng

hôn của tuổi / Nên yêu sương móc của đời” (Sương trên cành) [77, 88].

Bên cạnh những hình ảnh quen thuộc của cuộc sống hàng ngày, thơ tứ tuyệt Chế

Lan Viên sau năm 1975, đặc biệt là trong Di cảo thơ còn chứa đựng những hình ảnh

mang tầm vóc vũ trụ dẫn dắt người đọc vào một thế giới lạ, đầy mê hoặc: “một không

gian vô chiều, mơ hồ, hư ảo với những cõi trường sinh, cõi ẩn hình, cõi không, cõi quen,

xứ không màu, miền xưa, miền quá vãng, rừng nhân ảnh, bến Lú, sông Tương, trời mây

dĩ vãng đền kỷ niệm”. Từ đó, không gian thực trong các bài thơ tứ tuyệt được mở rộng

thành không gian siêu tưởng. Không gian thực và không gian tâm tưởng với nhiều kiểu

ẩn dụ là ẩn dụ đơn, ẩn dụ kép và ẩn dụ nhiều tầng. Chính vì vậy mà thế giới thơ Chế Lan

Viên vừa thực vừa ảo với nhiều tầng nghĩa, đan cài nhau:

- “Rực rỡ mùa hoa giấy suốt hè

Miền Nam xóm lạ hóa thành quê

Dẫu vui muôn dặm trời mây khác

Chỉ một màu hoa đủ gọi về.”

(Hoa giấy) [77, 89]

- “Miền nội tâm anh, dặm tinh thần anh là

ngàn lau xao xác ấy

Bạc trắng màu lau cũng là tuổi thơ anh

thường nhắn gọi anh về.”

(Lau) [79, 37]

Từ hình ảnh cây lau, chúng ta nhận thấy lau không chỉ là “miền nội tâm, dặm

tinh thần” mà nó còn là ký ức tuổi thơ, là cõi tâm linh, là cõi siêu thực, hư vô, là

hạnh phúc đã mất đi và là cả tâm hồn của nhà thơ…Sức hấp dẫn của thơ tứ tuyệt

77

Chế Lan Viên không chỉ nằm trong vẻ đẹp gợi cảm, sinh động ở cảnh sắc thiên

nhiên mà ẩn chứa bao nỗi niềm tâm sự của nhà thơ về cuộc sống. Vẻ đẹp của thiên

nhiên và tình người được hòa quyện trong hình ảnh tạo cho bài thơ mang sắc thái

thẩm mỹ phong phú:

“Bốn năm đạn lửa chim bay hết

Nay tiếng bom im cánh biếc về

Tiếng hót đầu tiên ơ lạ lắm

Cả làng rưng lệ đứng nghe im.”

(Cánh biếc Vĩnh Linh) [77, 80]

Chỉ qua một tiếng chim hót cũng làm cho con người nhận ra sự sống đang dần

được hồi sinh trên mảnh đất quê hương. Đó là khoảnh khắc rưng rưng lệ, là khoảnh

khắc bừng tỉnh, cũng là khoảnh khắc có ý nghĩa trong nhận thức về cuộc đời. Từ sự

thấm thía cái lạnh vừa và lạnh gắt của hai đợt gió mùa trong những lúc cô đơn, con

người chợt nghĩ đến một cái lạnh khác còn đáng sợ hơn tất cả, đó là sự lạnh lòng, sự

thay đổi tình cảm:

“Từ lúc em ra đi, hai lần gió mùa đông bắc thổi qua phòng

Lần trước lạnh vừa, lần sau lạnh gắt

Ở đất nước đánh giặc này, ta chỉ sợ gió mùa, không sợ giặc

Chỉ sợ lòng mình, ai sợ gió mùa đông.”

(Gió mùa đông bắc) [74, 67]

Hay đứng trước vẻ đẹp của thành cổ khi Về thăm xứ Huế, Chế Lan Viên bùi

ngùi xúc động viết lên những dòng thơ: “Thơm ngát mùa sen trắng cổ thành / Về

thăm xứ Huế chỉ mình anh / Lăng vua hoa đại rơi đầy lối / Chen bóng cành hoa, chỉ

bóng mình” (Về thăm xứ Huế) [78, 67].

Thơ tứ tuyệt truyền thống thường mang tính phổ quát cao, thường lược đi chủ

thể để thực hiện cái nhìn siêu cá thể: “Nó chỉ biểu hiện cái nhìn và sự trầm tư nội tại

nên cũng ít có khả năng thể hiện cụ thể giọng điệu, tiếng nói của con người” (Trần

78

Đình Sử). Mặt khác nhà thơ cũng ít xuất hiện, nếu có thì họ tự gọi mình bằng những

danh từ chung: thi nhân, khách, lữ khách…Còn trong thơ tứ tuyệt của Chế Lan

Viên, chủ thể sáng tạo lại được thể hiện rất rõ, thậm chí là đầy cá tính. Thơ tứ tuyệt

Chế Lan Viên được giải phóng khỏi sự gò bó của niêm luật, được tạo dáng thành

câu thơ điệu nói, thành lời nói có chủ thể với các đại từ xác định: “Anh trút tình

thương trong sắc biếc / Ru cho em ngủ giấc trưa lành”.

Có thể nói, Chế Lan Viên đã thực sự đóng góp cho thơ tứ tuyệt những bước

chuyển đáng kể theo hướng hiện đại. Việc kế thừa vẻ đẹp hài hòa giữa truyền thống

và hiện đại được thể hiện nổi bật ở cách nhìn, cách nghĩ và cảm nhận của nhà thơ.

Mặt khác, nó còn là biểu hiện sinh động của một tâm hồn thơ phong phú, đa dạng,

đầy bản lĩnh và giàu sức sáng tạo. Nhà thơ quan tâm đến những ước mơ của con

người trong cuộc sống thường. Thơ tứ tuyệt của Chế Lan Viên độc đáo trong “cách

xử lý đề tài, tổ chức hình ảnh, xây dựng tứ thơ, ở sức khái quát, tính triết lý, vừa

thực vừa ảo” [32, 204], nhằm tạo ra những bài thơ hay mà “không sử dụng cạn kiệt

thể loại” [32, 204].

Như vậy, nhìn từ phương diện thể loại, ta nhận thấy Chế Lan Viên đã tìm đến

nhiều thể thơ khác nhau và ở thể thơ nào ông cũng đạt được thành công nhất định,

nhưng chủ yếu nhà thơ “đi hai chân song hành trên hai thể tứ tuyệt và tự do”

[33,187]. Với bản lĩnh nghệ thuật và sự say mê tìm tòi, thể nghiệm trong sáng tạo,

ông đã tạo được những đặc điểm nghệ thuật riêng ở những thể thơ mà ông sử dụng.

Chính điều đó đã góp phần làm nên vẻ đẹp độc đáo và sức sống lâu bền cho thơ

ông, đồng thời, những tìm tòi, sáng tạo của ông cũng góp phần hiện đại hóa thơ Việt

Nam hiện đại.

3.2. Giọng điệu tâm tình, triết luận

3.2.1. Giọng điệu trữ tình sâu lắng

Từ điển Thuật ngữ Văn học định nghĩa: “Giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập

trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời

văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ…” (26,

91). Giọng điệu chính là cảm hứng chủ đạo của tác giả, thể hiện qua giọng riêng của

79

mình trước đối tượng thẩm mỹ. Đó là tư tưởng, là thái độ của nhà thơ trước hiện thực

với những dấu hiệu, sắc điệu riêng của nó: tự hào, vui sướng, giận dữ, đau khổ…được

biểu hiện cụ thể qua hình ảnh, nhịp điệu, đề tài, tư tưởng, hình tượng…Yếu tố giọng

điệu là biểu hiện cụ thể của cảm hứng sáng tạo đối với hiện thực.

Thời chiến tranh, do yêu cầu của lịch sử, thơ trữ tình của Chế Lan Viên giàu

chất chính trị, chính luận. Nhà thơ cao giọng trong những bài thơ chống giặc với âm

hưởng hào sảng, không lẫn với một ai:

- “Ôi trường Sơn vĩ đại của ta ơi

Ta tựa vào Người, kéo pháo lên đồi

Ta tựa vào Đảng ta, lên tiếng hát”.

(Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?) [68, 97]

- “Ta đổ máu lòng ta không vay mượn

Như Hồng Lĩnh tự mình xây núi lớn

Cửu Long dài đảm nhận lấy phù sa.”

(Con mắt Bạch Đằng - Con mắt Đống Đa) [70, 142]

Nhưng càng về sau, thơ Chế Lan Viên chuyển sang giọng điệu triết luận với cảm

hứng thế sự, đời tư. Nhà thơ chuyển dần rồi chuyển hẳn sang giọng trầm. Ông nhận

thấy đây là sự thay đổi phù hợp với hoàn cảnh thời bình. Điều đó đã làm nên cái hay,

cái đẹp trong thơ Chế Lan Viên sau 1975. Nguyễn Bá Thành đã nhận thấy sự thay đổi

giọng điệu trong thơ Chế Lan Viên: “Nhà thơ đã hai lần đổi giọng. Lần thứ nhất là từ

“than” thành “hỏi” và lần này là từ “hát” thành “nói”” [63, 408]. Tuy nhiên, việc

chuyển đổi giọng điệu này không phải chỉ đến những năm sau 1975, mà ta đã thấy sự

thay đổi này ngày từ tập Đối thoại mới (1973). Nhà thơ viết: “Xưa tôi hát mà bây giờ

tôi tập nói / Chỉ nói thôi mới nói hết được đời” (Sổ tay thơ) [72, 131].

Cũng từ đây, các tập thơ tiếp theo đều mang âm hưởng giọng trầm. Từ Hoa

trên đá, Ta gửi cho mình đến Di cảo thơ, Chế Lan Viên đã chuyển sang giọng triết

luận sâu sắc. Không còn giọng điệu âm vang, hào sảng kiểu: “Hỡi sông Hồng tiếng

80

hát bốn nghìn năm / Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?”, mà giờ đây, người đọc

đón nhận một giọng thơ khác lạ, như tâm tình, giãi bày tấm lòng của nhà thơ:

“Giọng cao bao nhiêu năm, giờ anh hát giọng trầm / Tiếng hát lẫn với im lìm của

đất” (Giọng trầm) [77, 1987]. Trần Thanh Đạm đã nhận xét: “Cái hay của các bài thơ

triết lý như trên thường ở giọng thơ. Cái khác nhau cũng ở đó. Có giọng than thở đau

buồn. Có giọng ung dung thanh thản. Giọng thơ Chế Lan Viên thuộc loại thứ hai.

Lẫn trong các câu thơ, thấp thoáng một nụ cười” [5, 390].

Từ sau 1975, đất nước ở giai đoạn hậu chiến với ngổn ngang trăm mối. Con

đường mà Việt Nam đang đi cần phải có một sự đổi mới. Chế Lan Viên không còn

mê say hát những khúc ca ca ngợi Tổ quốc, nhân dân theo cảm hứng sử thi như

trước nữa mà nhà thơ đã chuyển giọng sao cho phù hợp với tình hình, đó là giọng

thơ trữ tình thế sự. Nhà thơ bây giờ tỉnh táo hơn khi nhìn thẳng vào thực tế xã hội,

vào chính mình và thơ để nghiền ngẫm, suy nghĩ. Những năm tháng cuối đời, khi

lâm trọng bệnh, trong tâm thế của một người sắp đi xa những tâm sự của ông càng

trở nên tha thiết, nhân bản lạ lùng. Ông như muốn gửi cả con tim, cả điêu hồn của

mình ở lại cùng cõi nhân gian, cùng cuộc đời mà ông từng yêu quý, gắn bó. Nguyễn

Bá Thành đã rất chính xác khi nhận định: “Từ tâm thế một người sắp từ giã cõi đời,

Chế Lan Viên chủ động đổi giọng thơ. Giờ đây là giọng thơ đơn lẻ, não nùng và có

phần chua chát” [63, 407].

Việc thay đổi giọng điệu cũng đòi hỏi nhà thơ phải có bản lĩnh, phải có sự nhạy

bén nhất định. Đặc biệt là trong những chủ đề quen thuộc. Thời chiến tranh, Chế Lan

Viên đã dùng hết sinh lực của ngòi bút để cổ vũ cho cuộc chiến chống ngoại xâm:

“Trong trăm lứa đây là lứa con yêu mẹ nhất / Đứa giữa vườn rau, Việt Nam thành

tiếng nấc / Đứa trên hạm tàu, Tổ quốc hóa lời ca / Ở mỗi kho xăng, ở mỗi bến phà /

Đâu chẳng có thịt xương ta liền với đất” (Suy nghĩ 1966) [70, 157].

Chuyển sang thời bình, vẫn là ngợi ca những con người ấy, nhưng nhà thơ lại đằm

giọng xuống, tạo nên sự suy tư cho người đọc: “Ví dụ sáng ấy Trỗi hy sinh ở pháp

trường rồi mà không có câu thơ nào nói đến cỏ non / Ví dụ sáng ấy tiếng hô của Trỗi

không người nghe thấy / Thì giọt máu Trỗi cứ là giọt máu / Nỗi đau cứ là nỗi đau / Áo

trắng người anh hùng muôn đời vẫn trắng / Ấy là số phận nghìn người như Trỗi / Vạn

81

người như Trỗi / Ôi! Văn chương có lỗi / Với bao người!” (Ví dụ) [78, 47]. Hoặc khi nhớ

đến những người đã khuất, nhà thơ thể hiện sự tiếc thương đầy xúc động: “Bỗng dưng tôi

nghĩ đến những nắm xương Trường Sơn / Không người lượm nhặt / Những anh hùng

đến chết vẫn vô danh” (Chiều châu Âu) [78, 35].

Bước vào những năm hòa bình, đặc biệt là từ những năm đổi mới, thơ Chế Lan

Viên thể hiện rất rõ giọng trầm của muôn mặt đời sống. Trong hòa bình, không thể

sống, suy nghĩ và cảm xúc như thời chiến tranh. Giờ đây thơ ca cần phải có sự thức

tỉnh những nhu cầu mới và ý thức cá nhân mới. Cuộc đời không phải toàn vinh

quang, chiến thắng như cảm hứng lãng mạn hóa, lý tưởng hóa hiện thực thời thơ trữ

tình sử thi nữa. Nhà thơ cảm nhận được tất cả các trạng thái tinh thần của xã hội

đang có bước chuyển biến dữ dội. Ông đã phát hiện những nỗi bất hạnh, sự tàn nhẫn

mà chiến tranh đem lại cho con người. Đó là sự đói nghèo, khổ sở, bất công, là

những ước mơ bị lụi tàn, là tài năng cạn kiệt bởi những nhu cầu đời thường. Nhà

thơ nói nhiều đến sự phức tạp của con người trong đối nhân xử thế với một giọng

trầm tư sâu lắng nhưng mang nặng tâm sự:

“Cuộc đời là trò chơi

Cuộc sống là trò chơi

Mà không chơi đau khổ thì không ù được nụ cười.”

(Hai chiều) [77, 113]

Hoặc khi đối diện với căn bệnh hiểm nghèo, nhắc về cái chết, mặc dù không

nhận thấy sự ai oán, tiếc thương cuộc đời nhưng người đọc cũng nhận ra một giọng

trầm buồn, chua xót, pha chút hài hước như để an ủi mình và an ủi những người ở

lại: “Sáng đưa xác vào, trưa lấy xương ra / Đều đặn như bánh vào lò / Mỗi ngày hai

suất / Người gia đình buổi sáng xe, vòng hoa, kèn…đầy nghi lễ / Giấu che cái chết /

Đưa người vào lò / Chiều đến nhặt xương như ta nhặt thóc / Tương, hạnh phúc, ước

mơi, bao nhiêu xương thịt tâm tư một đời / Khét lẹt bay trên trên trời mây đục” (Lò

thiêu) [77, 241].

82

Không còn là giọng thơ hùng tráng vang dội như tiếng kèn xung trận, mà giờ

đây là giọng tỉnh táo đến sắc lạnh, biết chấp nhận đau đớn, may - rủi, bất hạnh, tai

ương, ngang trái…

“Hạnh phúc đến thình lình và ở thế đơn côi

Còn tai ương thì dồn dập đánh vu hồi

Thuyền anh đi giữa hai bể, hai trời may - rủi đó

Không sấp bên này thì ngửa phía kia thôi.”

(Hai chiều) [77, 188]

Rõ ràng cuộc sống không còn là một chiều thẳng băng như trước và con người

phải biết chấp nhận những thử thách mà cuộc đời đem lại. Cho nên chỗ đứng của

nhà thơ lúc này không phải là “ngang tầm chiến lũy” mà đứng giữa cuộc đời sóng

gió để khẳng định lẽ sống, bản thân.

Không phải trước đây thơ Chế Lan Viên không mang giọng trầm, nhưng nó

không phải là chủ yếu, thế mạnh. Giai đoạn 1945 - 1975 cũng có giọng tâm tình nhỏ

nhẹ khi nói về thiên nhiên, con người…Cũng có cả giọng ngậm ngùi trầm lắng khi

nói về quá khứ, nỗi buồn và cả cuộc đấu tranh chống bệnh tật…Nhưng tất cả những

cái đó chỉ là điểm xuyết, không át được giọng cao trong những bài thơ tự do ca ngợi

Tổ quốc, nhân dân, cách mạng…

Sự thay đổi về giọng điệu thơ sang giọng trầm tư thế sự khiến cho giọng điệu

thơ của Chế Lan Viên giai đoạn sau 1975 (nhất là trong Di cảo thơ) trở nên phong

phú, đa dạng: vẫn có giọng cao (nhưng ít), giọng trầm là chủ yếu, có giọng vui

nhưng cũng có giọng buồn, có giọng đối thoại nhưng nhiều hơn là giọng độc thoại,

có giọng nghiêm trang nhưng cũng có giọng tự trào, hóm hỉnh, thâm trầm…tất cả

đều biểu hiện “điệu hồn” của nhà thơ những năm cuối đời. Trước sóng gió của cuộc

đời, điệu hồn của nhà thơ đã tìm được điểm tựa ở chính tâm mình, thơ mình để vượt

lên dâng hiến cho đời những bài thơ xuất sắc.

83

3.2.2. Giọng độc thoại nội tâm

Nếu như trước đây, thơ Chế Lan Viên là tiếng nói với mọi người, nói cho mọi

người thì nay khi chuyển sang thời bình nhà thơ lại nói với chính mình, nói cho

mình. Đây là điểm quan trọng tạo nên sự thay đổi giọng điệu của Chế Lan Viên

trước và trong thời kỳ đổi mới. Bên cạnh nỗi lo chung cho sự nghiệp phát triển của

đất nước là những lo toan bảo đảm nhu cầu của đời sống cá nhân con người. Mà

mỗi con người là một “tiểu vũ trụ” với những suy nghĩ, hành động rất riêng. Trong

con người ấy có cả nỗi buồn vui, trăn trở để tồn tại cùng cộng đồng. Muốn thể hiện

có hiệu quả những vấn đề ấy, cần phải có chất giọng thay đổi về cơ bản.

Trong những năm chiến tranh, với tư thế đứng ở tầm cao thời đại, thời thơ trữ

tình sử thi thì nhà thơ thường đưa tầm mắt hướng ngoại: hướng về nhân dân, Tổ

quốc, tương lai, trong đó điểm tựa vững chắc là Tổ quốc đang chiến đấu, đang dựng

xây. Nhưng giờ đây với chỗ đứng “trong cuộc đời sóng gió để nhìn lên”, điểm tựa

của con người chính là niềm tin vào cái tâm của mình. Cho nên lúc này Chế Lan

Viên chủ yếu là hướng nội. Nhà thơ đang “tự vấn”, đang xoáy vào chiều sâu thăm

thẳm của nội tâm để tìm điểm tựa cho thơ và cho con người. Càng xoáy vào chiều

sâu nhân bản, Chế Lan Viên càng phát hiện ra những chiều phong phú của con

người đó là những nẻo khuất tối, u uẩn của tiềm thức, vô thức. Tâm hồn giờ đây

không phải ở trạng thái say sưa tự hào với thực tại “Những ngày tôi sống đây là

những ngày đẹp hơn tất cả”, mà là tâm hồn lúc nào cũng “bất ổn, xôn xao”, một

tâm hồn có nhiều “vết thương nội tâm”.

Giọng điệu trong thơ Chế Lan Viên sau năm 1975 thể hiện rõ bản lĩnh nghệ

thuật của ông. Từ chỗ có lúc ông hiện diện như một nhà tư tưởng, nhân danh cộng

đồng cãi lý, lên án, chửi rủa kẻ xâm lược, thức tỉnh lương tri những người tiến bộ

đồng tình, ủng hộ cuộc chiến đấu chính nghĩa của ta, đến khi trở về đời thường, với

tiếng nói bình thường, nhà thơ ít khi bị hụt hẫng. Trong Ngày vĩ đại Chế Lan Viên

viết về những người anh hùng đã hy sinh vì dân tộc như sự đối thoại với mọi người:

“Ở ngày cuối cùng, giây phút cuối cùng, tích tắc cuối cùng,

Vẫn có người cuối cùng phải ngã.

84

Đấy là cái giá cuối cùng ta phải trả,

Để quân giặc kéo cờ trắng đầu hàng trên mọi chỗ,

Phải có người chấm dứt trang thơ bằng giọt máu anh hùng”.

(Ngày vĩ đại) [74, 118]

Bước vào những năm 80, âm điệu của những vần thơ ấy có phần trầm lắng, sâu

sắc hơn, như đang nói với chính tâm hồn mình:

“Nhớ ơn những người chưa kịp kết tinh viên ngọc của mình

Anh trai ngọc, họ chỉ mới là máu rỏ

Họ ra đi với một đời dang dở

Ở một trọng điểm chiến hào nay cũng vô danh”.

(Nhớ ơn) [77, 131]

Trước đây, yêu cầu của cuộc kháng chiến là phải truyền thẳng tới người đọc

những suy nghĩ của tác giả trước những sự kiện lớn thì bây giờ, nhờ có những

khoảng lặng về thời gian mà nhà thơ cũng suy ngẫm thấu đáo hơn, nên giọng thơ

Chế Lan Viên trầm tĩnh mà vẫn đạt hiệu quả cao:

“Những em bé tiểu sử dày bom bi và dặm đường sơ tán,

Ngủ trên các giường xa lạ mênh mông quá sớm…

Ngân sách Mỹ chi tiền bom là cho cả những mục tiêu này…”

(Trẻ con Việt Nam) [75, 89]

Đứng trước công cuộc đổi mới với biết bao lo toan, những bài thơ Chế Lan

Viên viết trong hai năm sau ngày phát động đổi mới đã không ngừng thể hiện những

kiểm nghiệm. Đây cũng là những năm nhà thơ phải chống chọi với căn bệnh hiểm

nghèo nên từ giọng trầm đã chuyển sang giọng trầm buồn. Lời thơ như câu hỏi với

những người xung quanh nhưng thực chất là tự nhủ với lòng mình:

“Anh có cho tôi làm hoa sen không, tôi trong lý lịch có bùn?

Thân phận người mà, ai chả có bùn đen?

Giết chết một mùi hương, dễ thôi, cứ quậy bùn lên để giết

85

Nhưng vượt lên bùn, sen cứ ngát hương sen.”

(Hương sen) [75, 79].

Thời kỳ đổi mới của đất nước đòi hỏi nhà thơ từ chỗ chủ yếu đối thoại (thời

Điêu tàn đến những năm chiến tranh), sang độc thoại trong các vấn đề lớn của cuộc

sống ở Di cảo thơ. Điều đó càng làm gia tăng chất giọng trầm. Có những câu thơ như

một dạng đối thoại ngầm nhưng sức lan toả của ý thơ vô cùng mạnh mẽ:

“Cả một đời không có một phút giây hạnh phúc

Cái hạnh phúc lớn lao là cuộc đấu tranh

Giờ lại vô danh trong nấm mồ bằng cát

Hoa dại mọc bên mồ, màu tím vô danh”.

(Mộ cát vô danh) [77, 219]

Câu đầu có thể hiểu là sự thương cảm của tác giả đối với những người chiến sĩ

hy sinh cả cuộc đời mình cho tổ quốc mà: “không có một phút giây hạnh phúc”. Câu

thứ hai có thể hiểu là lời đáp của liệt sĩ: có chứ! “Cái hạnh phúc lớn lao (của tôi) là

cuộc đấu tranh…”. Nhà thơ hỏi người chiến sĩ và được người chiến sĩ đáp lại,

nhưng thực chất là tự hỏi mình và tự tìm câu trả lời cho mình.

Bên cạnh sự đối thoại với cuộc sống và con người thì một trong những thủ pháp

thường xuyên xuất hiện trong thơ Chế Lan Viên là độc thoại với chính mình. Đứng

trước cái chết đang gần kề nhà thơ suy ngẫm: “Giá ta được chết như người trong

kịch / Bị giết vai này, liền sống dậy làm vai khác / Và vai khác nữa, tất thể cũng là

mình / Khốn nỗi, ta chỉ có một ta thôi / Dù phía trước cười, phía sau đau thì cũng là

nó đấy / Nó không lần lượt thay vai mà cùng lúc, đồng thời” (Kịch giả) [73, 149].

Bích Thu đã nhận định: “Hình ảnh cái chết, cảm giác về sự tiêu tan, về ngày

tận số của cuộc đời đè nặng trên khá nhiều trang thơ trong Di cảo thơ của Chế Lan

Viên. Luôn trong tâm thế của một người sắp từ biệt cõi đời, giọng điệu trữ tình của

ông buồn thảm, ảo não và chua xót”. Quả đúng như vậy, giọng điệu trầm buồn đã

choán ngợp trên nhiều trang thơ Chế Lan Viên những năm cuối đời. Ranh giới giữa

86

cái sống và cái chết trở nên quá mong manh. Nhà thơ đã có sự chuẩn bị rất kỹ cho

chuyến đi xa nhưng không khỏi bùi ngùi:

“Xếp dần đôi tay

Hãm bớt đôi chân

Ít dần tiếng nói

Tắt dần đi các ngọn nến trong lòng

…Cho người ta quên dần anh, xoá sổ”.

(Chuẩn bị đi) [78, 193]

Như vậy, từ giọng thơ mang màu sắc chính luận với các vấn đề thời sự nóng

bỏng, thơ Chế Lan Viên sau năm 1975 đã chuyển sang giọng triết luận sâu sắc.

Trong cuộc sống đời thường sau chiến tranh, nhất là từ khi đổi mới, nhà thơ đã

không ngừng thể hiện những kiểm nghiệm lạc quan và tin tưởng vào cách tiếp cận

chân lý. Chế Lan Viên đã có cách xử lý nghệ thuật đúng đắn, tự làm mới mình và

thơ mình trước những đòi hỏi của cuộc sống.

3.3. Hiện đại hóa ngôn ngữ thơ

3.3.1. Ngôn ngữ thơ đậm chất đời thường

Văn học là nghệ thuật ngôn từ, bởi thế khi nghiên cứu văn học nói chung và thơ nói

riêng, không thể không nghiên cứu về phương diện ngôn ngữ. Trên cơ sở ngôn ngữ toàn

dân, ngôn ngữ văn học ra đời. Nó chính là sự kết tinh cao nhất, là sự thăng hoa từ ngôn

ngữ nhân dân và vì thế mà xây dựng ngôn ngữ văn học là cả một quá trình nhiều công

phu, thời gian, sức lực. Từ ý thức ngôn ngữ là yếu tố quan trọng trong sáng tạo nghệ

thuật, nhà thơ đã nghệ thuật hóa ngôn ngữ bình dân biến nó thành ngôn ngữ nghệ thuật.

Mặt khác, sự phát triển của ngôn ngữ nghệ thuật mang dấu ấn thời đại và nhu cầu thẩm

mỹ của người đọc. Trên thực tế không ai có thể phủ nhận giá trị bền vững của một tác

phẩm văn học một phần nhờ vào sức sống của ngôn từ.

Nhận thức sâu sắc về vai trò, tầm quan trọng của ngôn ngữ trong sáng tạo nghệ

87

thuật, Chế Lan Viên đã dày công trong việc lựa chọn và sử dụng ngôn ngữ nghệ

thuật nhằm tạo nên vẻ đẹp riêng, mang đậm cá tính sáng tạo của ông. Những năm

tháng cuối đời, ta nhận thấy một Chế Lan Viên vẫn giữ được những nét đặc sắc của

ngôn ngữ thơ từ các giai đoạn trước. Song do hoàn cảnh đổi thay, nhà thơ lại quan

tâm nhiều đến thế sự - đời tư nên ngôn ngữ thơ có xu hướng gần với văn xuôi và

ngôn ngữ đời thường hơn: “Thơ thế kỷ XX mà! Đừng quá lọc. Phải văn xuôi” (Thơ

thế kỷ XX) [77, 201], hay: “Thơ không thể cần cù / Các chữ hóa thần / Các chữ

thành nghiêng / Mà thơ cần cà chớn / Đấy là một cách đa nghi thơ” (Thơ thế kỷ

XXI) [78, 205].

Trước đây, thơ Chế Lan Viên mang đậm tính triết luận chính trị nên đôi khi

ngôn ngữ thơ ông rơi vào tình trạng khô khan do phải chuyển tải quá nhiều vấn đề

thời sự. Nhưng sang đến các giai đoạn sau này, tiếp cận với nhiều vấn đề của cuộc

sống thường nhật nên nhạc tính trong thơ ông gia tăng đáng kể. Ngôn ngữ thơ ông

có sự chuyển biến đầy nhạy bén và thích ứng cao với những thay đổi của thời đại để

bám sát vào cuộc sống đời thường: “Anh giàu thêm con sông nữa đó là Em / Anh

phụ lưu, em mới là sông Cái / Lụt dòng anh từng ngày từng bữa / Ngập bãi bờ

trong những đợt thuỷ triều đêm” (Giàu thêm) [78, 188].

Từ quan niệm về vẻ đa sắc của ngôn ngữ cũng như sức mạnh của thơ, Chế Lan

Viên đã tiếp tục đi theo hướng sử dụng đa dạng ngôn ngữ tiếng Việt. Trên bình diện

của ngữ âm học, nhà thơ thường chú ý khai thác âm thanh để tạo cảm giác chuyển

tải có hiệu quả nội dung:

- “Bao sóng cồn cào là sóng nhớ chớ quên đâu.”

(Nhẫn) [78, 172]

- “Yêu người, người đi xa

Yêu gió, gió lại về

Nửa đêm từng đập cửa

Thổi tốc tận màn khuya.”

(Yêu gió) [78, 241]

Không phải đến tận sau năm 1975, ngôn ngữ thơ Chế Lan Viên mới là ngôn

ngữ mang đậm tính thời sự, thời đại. Nhưng trong hoàn cảnh mới, sự kết hợp hài

88

hòa giữa ngôn ngữ truyền thống và ngôn ngữ hiện đại đã tạo cho ngôn ngữ thơ Chế

Lan Viên mang âm hưởng vừa lạ vừa quen, nhưng vẫn đảm bảo cá tính sáng tạo của

nhà thơ: “Dòng sông ấy khi hóa tình yêu, khi hóa sử / Sáng nay Bạch Đằng quên

mình làm sử để thành sông / Không ai đến cắm cọc, sông cứ xuôi dòng / Chỉ có tình

nhân soi mặt vào sông và ném những cành hoa lãng tử / Và nó vẫn gọi nó là Bạch

Đằng như cũ / Vui không” (Sông sử thi và sông tình ca) [78, 143].

Chế Lan Viên đã tạo cho thơ mình phát triển theo quy luật hiện đại hóa ngôn

ngữ. Việc “lột xác” cho thơ có thể dựa vào nguyên tắc thường xuyên đưa vào thơ

những ngôn ngữ của đời sống thường nhật với lớp nghĩa thực, hoặc làm “lạ hóa”

ngôn ngữ thơ bằng cách ghép nó với các từ khác:

- “Cái sân cỏ Trang thơ nghìn năm giống nhau.”

(Đá bóng) [78, 40]

- “Rồi ta vướng vào cái suối đen của sự chết

Quên đi các môi hồng của tình yêu.”

(Rồi ta sẽ lạ nhau) [78, 220]

Trong mỗi bài thơ của mình, Chế Lan Viên luôn có xu hướng tìm tòi và khám

phá ra những điều bất ngờ trong mỗi bài thơ bằng cách đối lập và chuyển hóa từ

ngữ, chuyển đổi loại từ…Ông thường sử dụng các từ gây ấn tượng mạnh như thời

gian nghiệt ngã, mùa hè đỏ như môi, thu vàng rộm, trắng sáng màu hoa sữa, nhà

thơ mất giá, cành huệ vô ý thức, sen hương tỏa…

Ngôn ngữ thơ Chế Lan Viên sau năm 1975, đặc biệt là trong Di cảo thơ là ngôn

ngữ mang tính bác học. Nhà thơ luôn chú ý khám phá ra những điều thú vị bất ngờ

mà ngôn từ mang lại, nên ngôn ngữ thơ ông luôn có sự vận động, biến đổi để phù

hợp với cuộc sống. Nhìn nhận sự vật, hiện tượng ở thế đối lập nên ngôn ngữ thơ

Chế Lan Viên luôn là ngôn ngữ đối lập. Ông sử dụng ngôn ngữ đối lập để vừa

khẳng định, vừa phủ định vấn đề một cách linh hoạt và sáng tạo.

Bên cạnh những bài thơ được gọt giũa, cầu kỳ, trau truốt trong việc sử dụng

ngôn từ thì thơ Chế Lan Viên giai đoạn này ta cũng thường xuyên bắt gặp thứ ngôn

ngữ đời thường, tự nhiên, thậm chí là suồng xã, trần trụi: “Người trong phòng họp /

89

Quay ra nhìn anh, nhà thơ bị gạt / Cho anh một bạt tai đánh bốp / Cút đi! Cút đi /

Đừng có đứng đấy nghe / Rồi tưởng bở / Nghĩ mình cũng là thi sĩ / Đến tự thiên ha,

thiên hả, thiên hà” (Đón người thiên hà) [78, 91].

Có thể thấy, ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ đời thường đã trở nên gần gũi, không tách

biệt. Chế Lan Viên là người am hiểu và tuân thủ các quy tắc của thơ ca. Ông cũng hiểu

rõ, mục đích của thơ ca chính là để phục vụ con người. Muốn làm được điều đó, ngôn

ngữ thơ phải thay đổi nhằm phản ánh đúng và đủ mọi hiện thực của cuộc sống. Chính vì

vậy, ngôn ngữ thơ Chế Lan Viên sau 1975 là ngôn ngữ hiện đại và tạo ra hiệu ứng nghệ

thuật cao. Điều đó đã góp phần tạo nên sự mới lạ trong Di cảo thơ.

3.3.2. Sử dụng hợp lý, linh hoạt các biện pháp tu từ từ vựng

Ngôn ngữ thơ Chế Lan Viên sắc sảo vào bậc nhất trong nền thơ ca Việt Nam

hiện đại. Đó là thứ ngôn ngữ lấp lánh trí tuệ với các biện pháp tu từ được nhà thơ

huy động và sử dụng triệt để. Tất cả các thành phần của ngôn ngữ từ ngữ âm đến từ

vựng, ngữ pháp, các phương tiện chuyển nghĩa cho đến các thủ pháp so sánh đối lập

đều được sử dụng rộng rãi và có giá trị cao. Chính vì vậy mà Đoàn Trọng Huy đã

khẳng định: “Chế Lan Viên là một trong những cây bút chiếm tỉ số cao nhất về tỉ lệ

sử dụng mĩ từ, tu từ” [32, 88].

Trong thơ sau 1975, Chế Lan Viên đã đưa vào thơ một hệ thống từ ngữ vô cùng

phong phú, đặc biệt là lớp từ khẩu ngữ được sử dụng dày đặc: ích gì, nó còn tha gì

ai, ra quái gì đâu,...Những từ khẩu ngữ ấy được đặt trong hình thức của câu hỏi tu

từ và gắn kết với bài thơ một cách linh hoạt tạo ra những trường liên tưởng thú vị

cho người đọc. Là một nhà thơ uyên bác, am hiểu tất cả các ngôn thuộc nhiều lĩnh

vực khác nhau nên Chế Lan Viên đã huy động mọi loại ngôn ngữ của khoa học vào

trong thơ của mình như: lịch sử, triết học, tôn giáo, hình học, hóa học, sinh học,

quân sự, kinh tế…Chính vì vậy, ngôn ngữ thơ ông là sự tổng hợp của những kiến

thức bác học và được vận dụng một cách tự nhiên để nâng cao những nhận thức

trong đời thường thành nhận thức thơ ca.

Trong thơ sau 1975, Chế Lan Viên đã sử dụng triệt để tu từ âm thanh để tạo nên

tính nhạc bằng sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố vần, nhịp điệu, tiết tấu: “Trăng sáng

màu hoa sữa / Mùi hương rọi khắp nơi / Nằm một mình anh sợ / Hương và trăng

90

đến soi” (Hoa sữa) [77, 77]. Hay “Trên lá sen rám nắng / Ái tình từng đọng sương /

Hoa trên hồ rụng cả / Chỉ lá còn thơm hương” (Sen hồ) [77, 78].

Thông qua các biện pháp nhân hóa, vật hóa, ẩn dụ, hoán dụ…tu từ ngữ nghĩa

xuất hiện thường xuyên trong thơ Chế Lan Viên. Trong đó, tổ hợp điệp và đối lập,

tương phản là những phương tiện biểu hiện cơ bản. Thủ pháp so sánh là thủ pháp

được nhà thơ sử dụng nhiều nhất với các kiểu: A như B, A là B, A/B:

- “Cuộc đời chẳng ba lơn như một chú hề”

(Kịch) [77, 113]

- “Một chút nắng như con sóc đầu cây rồi khuất”

(Ngày trống không) [79, 24]

- “Gặp nhau như mùa sen”

(Sen) [79, 15]

Khi muốn tăng sự chuyển động và biến đổi không ngừng của ngôn ngữ nhằm

tạo cho người đọc cảm giác mới lạ, Chế Lan Viên lại dùng một sự vật để so sánh

với nhiều sự vật khác: “Trời như ngọc, như hồn, như bể” (Đo) [77, 117]. Trong một

số bài thơ, vế so sánh đươc ẩn đi, chỉ còn lại vế được so sánh: “Như nhân loại làm

ra tên lửa, anh làm ra tài năng anh được chứ?” (Làm sao anh thoát ly được nó) [78,

155]. Hay trong cấu trúc so sánh A là B, Chế Lan Viên đã có những hình ảnh liên

tưởng thật độc đáo: “Một chút nắng ở đầu ngọn gió / Là ta đấy mà ai có biết đâu”

(Người mai sau) [77, 186].

Chế Lan Viên đã tạo cho thơ mình sự độc đáo trong cách thể hiện với việc sử

dụng biện pháp so sánh A như B, A là B với tần suất đặc biệt: “Làm thơ xưa như

ông Từ trịnh trọng vào đền / Như chú rể lần đầu tiên sang nhà bố vợ tiên / Như thần

tử quỳ trước ngôi mặt chúa / Như là người mọc cánh thành tiên…/ Làm thơ ngày

nay như người diễn xiếc / Như chú rể lùn yêu cô nàng mắt biếc / Có cái gì quỷ quái

ngây ngô…/ Thơ là chưa bay mà đã đến / Là đang yêu bỗng giã từ / Là ba chữ thôi

mà là bể, là giếng, là kho vàng hiển hiện / Là hoa sen cười nửa miệng mà chân

như…” (Quan niệm thơ) [79, 228].

91

Trong một bài thơ ngắn mà nhà thơ đã sử dụng đến 7 lần từ như, 7 lần từ là để

so sánh. Cách so sánh một cách sâu chuỗi và dồn dập như trên giúp người đọc có

cách nhìn và trải nghiệm rất thú vị về quan niệm thơ của Chế Lan Viên xưa và nay.

Cách so sánh nghệ thuật trong thơ Chế Lan Viên vừa mang tính độc đáo, phong

phú, vừa mang giá trị nhận thức để đem lại cho người đọc một dung lượng thông tin

nhất định cùng những rung cảm thẩm mỹ to lớn. Ngôn ngữ thơ Chế Lan Viên mang

đậm tính triết luận sâu sắc. Với tài năng và sự sáng tạo, nhà thơ đã tạo cho ngôn ngữ

thơ mình sự mới lạ mà không phải nhà thơ nào cũng làm được. Chính vì vậy mà thơ

Chế Lan Viên vẫn được coi là có ngôn ngữ sắc sảo vào bậc nhất nền thơ Việt Nam.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Xuất phát từ quan niệm: “Hình thức dân tộc không có nghĩa cố định”, Chế Lan

Viên luôn có những sáng tạo nghệ thuật không ngừng, góp phần tạo nên sức mạnh

mới cho thơ ca. Mỗi bài thơ của Chế Lan Viên luôn có một vẻ đẹp riêng. Thể thơ

của Chế Lan Viên có sự vận động mang tính quy luật chung. Bên cạnh việc vận

dụng nhuần nhuyễn các thể thơ dân tộc, nhà thơ đồng thời có những đổi mới từ bên

trong cấu trúc thơ để tạo nên vẻ đẹp và sức mạnh riêng.

Là một nhà thơ dày công trong quá trình tu dưỡng nghệ thuật, ngôn ngữ thơ

Chế Lan Viên mang rõ nét dấu ấn cá tính sáng tạo. Chính cuộc sống đầy màu sắc là

mảnh đất tạo nên sự thay đổi ngôn ngữ trong thơ ông. Việc chọn chữ, chọn lời và

sắp xếp sao cho hợp lý là một công việc đòi hỏi nhiều dụng công. Nếu trước đổi

mới, ngôn ngữ thơ Chế Lan Viên là thứ ngôn ngữ giàu tính chính luận, thì sau năm

1975, thơ ông chuyển sang triết luận với hệ thống tu từ dày đặc, chất duy lý sắc sảo

và mang đậm tính thời sự.

Bên cạnh đó, chúng ta còn thấy thơ Chế Lan Viên có sự đổi mới về giọng điệu.

Từ giọng cao trong những năm chống Mỹ cứu nước hào hùng, khi trở về với cuộc

sống đời thường, nhà thơ đã chuyển sang bè trầm và chứa đựng những nội dung tư

tưởng thẩm mỹ phong phú.

92

KẾT LUẬN

1. Chế Lan Viên là một nhà thơ, một nhà văn hóa lớn của dân tộc Việt Nam.

Trong suốt hành trình sáng tạo nghệ thuật kéo dài hơn 50 năm, nhà thơ đã để lại cho

nền văn học Việt Nam một khối lượng tác phẩm đồ sộ. Hành trình ấy gắn liền với

những mốc chuyển quan trọng của lịch sử dân tộc. Thơ Chế Lan Viên sau năm 1975

(đặc biệt là ba tập Di cảo thơ) đã tạo nên một sự đột phá trong tiến trình đổi mới

văn học. Cùng với đó là sự chuyển động không ngừng của cái tôi trữ tình của Chế

Lan Viên. Từ cái tôi bế tắc thuở Điêu tàn sang cái tôi sử thi kháng chiến trong

những năm kháng chiến rồi trở về cái tôi thế sự đời tư, cái tôi công dân trong những

năm sau 1975 là cả một quá trình phấn đấu không ngừng nghỉ của một hồn thơ nặng

nỗi đau đời.

2. Tiếp cận với thơ Chế Lan Viên sau năm 1975, ta thấy được phần nào bức

chân dung mới nhưng không xa lạ của nhà thơ. Ông đã hướng ngòi bút của mình tới

những giá trị của đời và của nghề. Trước hết, đó là cái tôi luôn khao khát khẳng

định cá tính mạnh mẽ. Nhà thơ luôn cố gắng để được sống trung thực là mình, với

chính mình. Chế Lan Viên đã không ngần ngại nói lên những suy nghĩ về mặt trái

của nghề, mặt trái của xã hội trong thời kỳ đổi mới, cho dù điều đó có thể tổn hại

đến bản thân. Càng về cuối cuộc đời, khi bệnh tật hành hạ, thơ ông càng thể hiện

khát vọng sống và bản lĩnh phi thường trước cuộc đời. Nhu cầu được thể hiện cá

tính đã thôi thúc Chế Lan Viên tìm về bản ngã trong một hành trình đầy đau đớn và

dũng cảm. Trăn trở về những vấn đề thế sự, đời tư, nhà thơ hướng ngòi bút của

mình vào những vấn đề sinh tồn của cuộc sống như số phận mỗi cá nhân trong thời

kỳ mới, mối quan hệ giữa con người với con người, rồi những chiêm nghiệm về sự

phù du của kiếp người, những nghĩ suy về các giá trị văn hóa dân tộc…Tất cả đều

được thể hiện một cách sắc nét trong thơ Chế Lan Viên sau năm 1975.

3. Bên cạnh những thành công về mặt giá trị nội dung, thơ Chế Lan Viên còn

đánh dấu sự chuyển biến về phương thức thể hiện. Nhà thơ đã làm nên một cuộc

cách mạng cả về ngôn ngữ, giọng điệu và có những cách tân quan trọng trong các

thể loại thơ. Ngôn ngữ thơ Chế Lan Viên đặc sắc, độc đáo, mới lạ mang đậm cá tính

sáng tạo. Bên cạnh đó, sự thay đổi giọng điệu từ giọng cao chuyển sang giọng trầm,

93

rồi thành giọng trầm buồn cũng là sự chuyển hướng đáng ghi nhận của Chế Lan

Viên giai đoạn sau 1975. Cùng với việc sử dụng nhuần nhuyễn các thể thơ truyền

thống, Chế Lan Viên đã có sự đổi mới trong việc hiện đại hóa các thể thơ tự do và

thơ tứ tuyệt.

4. Chế Lan Viên đã ra đi gần 30 năm, nhưng những giá trị văn chương mà ông

để lại cho đời thì mãi mãi trường tồn với thời gian. Sự nghiệp của ông đã góp phần

không nhỏ vào việc bồi đắp và làm phong phú thêm diện mạo thơ ca thế kỷ XX.

Với những đóng góp như thế, Chế Lan Viên hoàn toàn xứng đáng với nhận định của

Hoài Thanh: “Con người này quả là người của Trời đất, của bốn phương, không thể

lấy kích tấc thường mà hòng đo được” [62, 228].

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Vũ Tuấn Anh (1984), Chế Lan Viên, Nhà thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

2. Vũ Tuấn Anh (2000), Chế Lan Viên - một tâm hồn thi sĩ, một chân dung văn hoá,

Chế Lan Viên, về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

3. Vũ Tuấn Anh (2007), Chế Lan Viên với Điêu tàn và Vàng sao, Nghiên cứu văn

học, (8).

4. Lại Nguyên Ân (1999), 150 từ điển thuật ngữ Văn học, Nxb Đại học Quốc gia

Hà Nội.

5. Nguyễn Thị Bình (2000), Chế Lan Viên, Lịch sử văn học Việt Nam tập III, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

6. Nông Quốc Chấn (1989), Chế Lan Viên và đời người đời thơ, Văn nghệ TP Hồ

Chí Minh, (593), 7 - 7 - 1989.

7. Võ Tấn Cường (2000), Di cảo thơ Chế Lan Viên, Chế Lan Viên, về tác gia và

tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

8. Hoàng Diệp (2000), Điêu tàn - thoát ra cõi ta để tìm về với cái ta, Chế Lan Viên,

về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

9. Xuân Diệu (2000), Đọc Ánh sáng và phù sa, Chế Lan Viên, về tác gia và tác

phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

10. Lê Chí Dũng (2000), Chế Lan Viên: Hoa tôi hái trên trời cũng chính là nước mắt

dưới xa kia, Chế Lan Viên, về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

11. Trần Thanh Đạm (2000), Những vần thơ triết lý của Chế Lan Viên qua những

trang Di cảo, Chế Lan Viên, về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

12. Nguyễn Lâm Điền (2001), Đặc trưng nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, Luận án

Tiến sĩ Ngữ văn, TP Hồ Chí Minh.

13. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học, Hà

Nội.

14. Nguyễn Đăng Điệp (2003), Vọng từ con chữ, Nxb Văn học, Hà Nội.

15. Nguyễn Đăng Điệp (2006), Bí ẩn ngọn tháp Chế Lan Viên, Văn học và tuổi trẻ,

(1, 245).

16. Nguyễn Đăng Điệp (2006), Thơ Việt Nam sau 1975 - Từ cái nhìn toàn cảnh,

Nghiên cứu Văn học, (11).

17. Anh Đức (1999), Nhà thơ Chế Lan Viên vẫn tồn tại giữa cuộc đời và giữa

chúng ta, Văn TP Hồ Chí Minh, (92), 6 - 1999.

18. Hà Minh Đức (1971), Hoa ngày thường, chim báo bão, bước phát triển mới của

một phong cách thơ, Nhà văn và tác phẩm, Nxb Văn học, Hà Nội.

19. Hà Minh Đức (1974), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nxb

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

20. Hà Minh Đức (2000), Ánh sáng và phù sa - Sự kết hợp giữa rung cảm tế nhị với ý

tưởng trong thơ, Chế Lan Viên, về tác gia tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

21. Tế Hanh (1986), Hoa trên đá và Ánh trăng, Báo Văn nghệ, số 15.

22. Nguyễn Văn Hạnh (2000), Thơ Chế Lan Viên, Chế Lan Viên về tác gia và tác

phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

23. Hồ Thế Hà (2004), Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, Luận án Tiến sĩ

Ngữ văn, Hà Nội.

24. Hồ Thế Hà (1998), Tìm trong trang viết, Nxb Thuận Hóa.

25. Hồ Thế Hà (2009), Hình thức nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, Thơ Chế Lan Viên

và những lời bình, Nxb Giáo dục, H.

26. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi - chủ biên (1992), Từ điển thuật

ngữ Văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

27. Trần Mạnh Hảo (1995), Chế Lan Viên, người làm vườn vĩnh cửu, Nxb Hội

Nhà văn, Hà Nội.

28. Phạm Hổ (1989), Con đường và tầm vóc thơ Chế Lan Viên, Tác phẩm Văn học, (2).

29. Trần Ninh Hồ (2000), Nhân đọc Hái theo mùa, Chế Lan Viên, về tác gia và tác

phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

30. Đoàn Trọng Huy (1993), Khuynh hướng vận động thơ Chế Lan Viên từ sau

1975, Tạp chí Văn học, (6).

31. Đoàn Trọng Huy (1993), Đọc những trang để lại, thêm hiểu một hồn thơ Di cảo,

Văn nghệ, (11), 23 - 3 - 1993.

32. Đoàn Trọng Huy (2009), Chế Lan Viên - một ngọn cờ cách tân thơ ca, Văn

nghệ, (25), 20 - 6 - 2009.

33. Đoàn Trọng Huy (2009), Ngọn kỳ quan Chế Lan Viên - nhìn từ hôm nay, Hồn

Việt (24), 6.

34. Đoàn Trọng Huy (2010), Đọc lại Di cảo thơ Chế Lan Viên, Tạp chí Thơ, (11).

35. Tố Hữu (2000), Với Chế Lan Viên, Chế Lan Viên về tác gia và tác phẩm, Nxb

Giáo dục, H.

36. Nguyễn Khải (1999), Chế Lan Viên - một nghệ sĩ, một chiến sĩ, Văn hoá thể

thao, (49), 18 - 6 - 1999.

37. Nguyễn Quốc Khánh (2000), Di cảo thơ Chế Lan Viên, hành trình tìm lại chính

mình, Chế Lan Viên, về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

38. Lê Đình Kỵ (1969), Chặng đường tiến lên của thơ Chế Lan Viên: Ánh sáng và

phù sa, Đường vào thơ, Nxb Văn học, Hà Nội.

39. Mai Quốc Liên (1997), Thơ Chế Lan Viên - chất anh hùng ca và trí tuệ, Các

nhà văn được giải thưởng Hồ Chí Minh, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

40. Nguyễn Diệu Linh, Di cảo thơ và nhu cầu được sống trung thực với mình của

Chế Lan Viên, Tạp chí Nhà văn, Hội nhà văn Việt Nam, 1 / 2008.

41. Phong Lê (1997), Văn học trên hành trình của thế kỷ XX, Nxb ĐHQG Hà Nội.

42. Phong Lê (2001), Chế Lan Viên - trải nghiệm và kiếm tìm, Một số gương mặt

văn chương học thuật Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

43. Phong Lê (2001), Văn học Việt Nam hiện đại - Những chân dung tiêu biểu,

Nxb ĐHQG Hà Nội.

44. Vĩnh Quang Lê (2000), Mùa xuân đâu chịu lùi, Chế Lan Viên, về tác gia và tác

phẩm, Nxb Giáo dục, H.

45. Nguyễn Văn Long - Lã Nhâm Thìn (đồng Chủ biên - 2006), Văn học Việt Nam

sau 1975 - những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

46. Vân Long (2008), Nét độc đáo trong thơ Chế Lan Viên, Nxb Văn hoá Thông tin,

Hà Nội.

47. Nguyễn Lộc (1970), Chế Lan Viên và những tìm tòi trong nghệ thuật thơ, Tác

phẩm mới, (9).

48. Nguyễn Xuân Nam (1985), Đọc Hoa trên đá của Chế Lan Viên, Báo Văn nghệ

(13), 30 - 3 - 1985.

49. Nguyễn Xuân Nam (1993), Đọc Di cảo thơ của Chế Lan Viên, Nhân dân chủ

nhật, (8), 21 - 2 - 1993.

50. Nguyễn Xuân Nam (2000), Những bài thơ đánh giặc của Chế Lan Viên, Chế

Lan Viên, về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

51. Bùi Mạnh Nhị (1999), Chế Lan Viên - nhà thơ không thể lấy kích tấc thường mà

đo được, Tạp chí Văn học, (7).

52. Nguyễn Gia Nùng (1999), Chế Lan Viên: Đời và thơ cần có ích, Văn TP Hồ Chí

Minh, số 21, 17 - 6 - 1999).

53. Lê Lưu Oanh (2000), Thơ tứ tuyệt Chế Lan Viên, Chế Lan Viên, về tác gia và

tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

54. Lê Lưu Oanh (2008), Lý luận văn học, Nxb Đại học Sư phạm, H.

55. Hoàng Phê (chủ biên - 1996), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm

Từ điển học.

56. Ngô Văn Phú (1986), Từ Điêu tàn đến Hoa trên đá, Văn nghệ, (15).

57. Ngô Văn Phú (1999), Nghĩ thêm về thơ Chế Lan Viên, Giáo dục và thời đại,

(28), 11 - 7 - 1999.

58. Vũ Quần Phương (1985), Hoa trên đá - một khía cạnh trữ tình trong thơ Chế

Lan Viên, Nhân Dân, 26 - 5 - 1985.

59. Vũ Quần Phương (1999), Chế Lan Viên trong Di cảo, Văn nghệ, (26), 26 - 6 -

1999.

60. Trần Đăng Suyền (2003), Nhà văn, hiện thực đời sống và cá tính sáng tạo,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

61. Trần Đình Sử (2000), Đôi điều về mỹ học của nhà thơ Chế Lan Viên, Chế Lan

Viên, về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, H.

62. Hoài Thanh - Hoài Chân (1988), Thi nhân Việt Nam (1932 - 1941), Nxb Văn

học tái bản, in theo bản in lần đầu - 1942.

63. Nguyễn Bá Thành (2000), Đọc hai tập Di cảo thơ, Chế Lan Viên, về tác gia và

tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

64. Phạm Quang Trung (2000), Đọc Chế Lan Viên và Di cảo thơ, Chế Lan Viên, về

tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

65. Lưu Khánh Thơ (2005), Thơ và một số gương mặt thơ Việt Nam hiện đại, Nxb

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

66. Lưu Khánh Thơ (2007), Chế Lan Viên - nhà thơ song hành cùng thời đại, Nxb

Trẻ, TP Hồ Chí Minh.

67. Chế Lan Viên (1937), Điêu tàn, Nxb Hội Nhà văn và Hội Nghiên cứu - Giảng

dạy văn học TP Hồ Chí Minh, theo bản in lần đầu.

68. Chế Lan Viên (1955), Gửi các anh, Nxb Văn nghệ.

69. Chế Lan Viên (1960), Ánh sáng và phù sa, Nxb Văn học, Hà Nội.

70. Chế Lan Viên (1967), Hoa ngày thường, chim báo bão, Nxb Văn học, Hà Nội.

71. Chế Lan Viên (1972), Những bài thơ đánh giặc, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

72. Chế Lan Viên (1973), Đối thoại mới, Nxb Văn học, Hà Nội.

73. Chế Lan Viên (1977), Hoa trước lăng Người, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

74. Chế Lan Viên (1977), Hái theo mùa, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.

75. Chế Lan Viên (1984), Hoa trên đá, Nxb Văn học, Hà Nội.

76. Chế Lan Viên (1986), Ta gửi cho mình, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.

77. Chế Lan Viên (1992), Di cảo thơ, tập I, Nxb Thuận Hoá, Huế.

78. Chế Lan Viên (1993), Di cảo thơ, tập II, Nxb Thuận Hoá, Huế.

79. Chế Lan Viên (1996), Di cảo thơ, tập III, Nxb Thuận Hoá, Huế.

80. Thọ Xuân (1994), Chế Lan Viên: Từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui,

Văn nghệ, (17), 23 - 4 - 1994.

81. Trần Đăng Xuyền (1996), Về một đặc điểm của thơ Việt Nam từ 1955 đến 1975,

50 năm văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám, Nxb ĐH Quốc gia.

CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN

1. Nguyễn Diệu Linh, Nguyễn Thị Thu Luyến - Sự thể hiện cái tôi trữ tình của

Chế Lan Viên trong thơ sau năm 1975 (Tạp chí Khoa học & công nghệ - Đại học

Thái Nguyên, Tập 148, số 03/2, 2016).