BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Minh

CẢM THỨC THỜI GIAN TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU VÀ THƠ SONNET SHAKESPEARE

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2010

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Minh

CẢM THỨC THỜI GIAN TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU VÀ THƠ SONNET SHAKESPEARE

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. LÊ THU YẾN

Thành phố Hồ Chí Minh – 2010

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành, sâu sắc đến PGS. TS Lê Thu Yến – người đã tận

tình hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này.

Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn tới TS. Nguyễn Thanh Sơn – người đã có những gợi

ý rất hay về đề tài và là người luôn truyền nhiệt hứng cho tôi trong suốt quá trình học tập,

nghiên cứu. Xin được bày tỏ lòng biết ơn đối với thày Phan Nhật Chiêu đã cung cấp nhiều

tư liệu quý giúp cho tôi có thể tìm hiểu vấn đề toàn diện hơn.

Xin cảm ơn tất cả gia đình, người thân, bạn bè đã luôn động viên, ủng hộ tôi trong quá

trình làm luận văn

Ngày 15/5/2010

Nguyễn Thị Minh

MỤC LỤC

1TLỜI CẢM ƠN1T .............................................................................................................. 3

1TMỤC LỤC1T .................................................................................................................... 4

1TMỞ ĐẦU1T ....................................................................................................................... 6

1T1. Lí do chọn đề tài1T ............................................................................................................. 6

1T2. Lịch sử vấn đề1T ................................................................................................................. 7

1T3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu1T ................................................................. 13

1T4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài1T ................................................................... 14

1T5. Phương pháp nghiên cứu1T ............................................................................................. 14

1T6. Cấu trúc luận văn1T ......................................................................................................... 14

1TCHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG1T .............................................................. 16

1T1.1. Nguyễn Du và thơ chữ Hán1T ...................................................................................... 16

1T1.1.1. Nguyễn Du1T ........................................................................................................... 16

1T1.1.2. Thơ chữ Hán Nguyễn Du1T ..................................................................................... 18

1T1.2. Shakespeare và thơ sonnet1T ....................................................................................... 21

1T1.2.1. Shakespeare1T .......................................................................................................... 21

1T1.2.2. Thơ sonnet Shakespeare1T ....................................................................................... 23

1T1.3. Vấn đề cảm thức thời gian1T ........................................................................................ 27

1TCHƯƠNG 2: NHỮNG GẶP GỠ TÌNH CỜ GIỮA THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU VÀ THƠ SONNET SHAKESPEARE VỀ CẢM THỨC THỜI GIAN1T ......... 33

1T2.1. Bước đi của thời gian1T ................................................................................................ 33

1T2.1.1. Thời gian – nỗi ám ảnh khôn nguôi với thi nhân1T ................................................. 34

1T2.1.2. Bước chân nhanh chóng, vô tình, không chờ đợi của thời gian1T ........................... 37

1T2.2. Sức tàn phá của thời gian1T ......................................................................................... 44

1T2.2.1. Vũ khí của thời gian1T ............................................................................................. 44

1T2.2.2. Thời gian dẫn tới tuổi già1T ..................................................................................... 50

1T2.2.3. Thời gian đưa tới cái chết1T ..................................................................................... 57

1T2.3. Ý thức về sự ngắn ngủi của kiếp người trước cái vô hạn thời gian1T ...................... 61

1T2.3.1. Những suy tư về đời người và cuộc sống trần thế1T ............................................... 61

1T2.3.2. Thời gian hiện tại1T ................................................................................................. 67

1TCHƯƠNG 3 : DẤU ẤN CÁ NHÂN TRONG CẢM THỨC THỜI GIAN Ở THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU VÀ THƠ SONNET SHAKESPEARE1T........................ 72

1T3.1. Hai gương mặt thời gian1T ........................................................................................... 72

1T3.1.1. Thời gian thuần nhất trong thơ Nguyễn Du1T ......................................................... 74

1T3.1.2. Thời gian hai mặt trong thơ Shakespeare1T ............................................................. 82

1T3.2. Hai tâm trạng, hai cách xử thế1T ................................................................................. 95

1T3.2.1. Nỗi tiếc nuối, buồn đau trong thơ chữ Hán Nguyễn Du1T ...................................... 95

1T3.2.2. Những nỗ lực chiến đấu với thời gian trong thơ Shakespeare1T ........................... 103

1T3.3. Hai giọng điệu1T .......................................................................................................... 121

1T3.3.1. Giọng trầm ngâm suy tưởng trong thơ chữ Hán Nguyễn Du1T ............................. 123

1T3.3.2. Giọng đối thoại, tranh luận trong thơ Shakespeare1T ............................................ 132

1TKẾT LUẬN1T .............................................................................................................. 142

1TTÀI LIỆU THAM KHẢO1T ...................................................................................... 145

1TPHỤ LỤC1T ................................................................................................................. 150

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Đầu thế kỉ XX, khi văn hóa phương Tây tràn vào, cô gái Việt như bừng tỉnh sau

một giấc mơ dài trong vòng tay ông hoàng Trung Hoa, hăm hở bứt ra để đón nhận luồng gió

mới, làm đầy chiếc dạ dày tinh thần đang háu đói nhưng đã chán ngấy hương vị cũ của mình

bởi những trải nghiệm mới lạ. Kể từ đó, chúng ta được biết đến một nền văn minh khác

mình về rất nhiều phương diện. Giống như cục nam châm hút những gì trái dấu, nó hấp dẫn

sự quan tâm tìm hiểu của nhiều người, nhiều thế hệ. Trong xu hướng toàn cầu hóa, mở rộng

giao lưu, hợp tác giữa các nước trên thế giới hiện nay, việc biết người để hiểu mình là một

nhu cầu tự thân bức thiết. Khi các nước cùng tề tựu dưới một mái nhà chung, điều làm nên

bộ mặt riêng của mỗi dân tộc chính là các giá trị văn hóa.

1.2. Là một tài năng hiếm có, mang chở cả tâm hồn người mẹ Việt vào những trang

thơ, Nguyễn Du cùng các tác phẩm của ông đã trải qua thật nhiều thăng trầm trước khi được

công nhận là danh nhân văn hóa thế giới. Nhắc đến đại thi hào Nguyễn Du, người ta thường

nhắc đến kiệt tác Truyện Kiều, rất ít người lưu tâm đến mảng thơ chữ Hán đặc sắc và giá trị

của ông. Cũng như vậy, khi nhắc đến Shakespeare “nhà ảo thuật của ngôn ngữ Anh”, người

ta cũng thường chỉ quan tâm đến kịch, mảng thơ sonnet và các trường ca thường không

được để ý đến hoặc nếu có thì cũng chỉ được nhận xét chung chung. Sự tương đồng về số

phận giữa hai mảng sáng tác là khởi đầu của rất nhiều nét chung khác: cả hai nhà thơ đều

xuất hiện trong giai đoạn tỏa sáng của văn học hai dân tộc thời kì chế độ phong kiến suy tàn,

đều là hai nghệ sĩ tài năng trong việc hoàn thiện ngôn ngữ dân tộc, ý thức về sứ mệnh ngòi

bút, khao khát có được sự đồng cảm của người đời và nhất là sáng tác của họ luôn đau đáu

những nỗi niềm nhân sinh muôn thuở. Nếu nét tương đồng đưa hai thi hào ở hai miền xa xứ

lạ đến gần nhau thì sự khác biệt lại cho phép ta suy nghĩ về đặc trưng tiêu biểu của hai con

người thuộc hai nền văn hóa, hai dân tộc.

1.3. Khi Ađam và Êva nhận ra sự trần trụi của mình giữa chốn vườn địa đàng cũng là

lúc họ có ý thức về bản thân, ý thức mình là một con người. Khi con người nhận ra sự hữu

hạn của mình giữa thế giới bao la, họ có ý thức về thời gian. Đằng sau sự cảm nhận ấy là cả

một thế giới quan, nhân sinh quan gắn với khí chất, đời sống riêng tư cũng như đặc điểm

dân tộc, môi trường văn hóa của mỗi cá nhân. Không hẹn mà nên, Shakespeare và Nguyễn

Du trong thơ mình đều dành mối quan tâm đặc biệt tới thời gian, thể hiện nó như một hình

tượng có sức ám ảnh lớn. Cảm thức thời gian có thể xem như một cánh cửa đi vào thế giới

nghệ thuật của hai thi sĩ.

2. Lịch sử vấn đề

Nguyễn Du và Shakespeare đều là hai thi hào lớn của dân tộc, những công trình

nghiên cứu về hai tác giả này rất đồ sộ. Ở đây chúng tôi chỉ quan tâm đến các tài liệu có liên

quan đến đề tài.

Về thơ chữ Hán Nguyễn Du

Để thuận tiện cho việc tìm hiểu, chúng tôi phân tài liệu về thơ chữ Hán Nguyễn Du

làm 2 dạng: dạng tài liệu phân tích một vấn đề trong sáng tác Nguyễn Du nói chung hoặc

nói về các vấn đề khác nhưng có đả động đến thơ chữ Hán; dạng tài liệu lấy thơ chữ Hán

làm đối tượng nghiên cứu chính.

Về dạng tài liệu thứ nhất, ý kiến đầu tiên có thể kể đến là những nhận xét xác đáng

của Trần Đình Sử trong cuốn Thi pháp văn học trung đại Việt Nam. Ở phần phân tích về

thời gian con người trong thơ ca trung đại, tác giả nhận định: “Phải sang thời kì ý thức cá

nhân được khẳng định ở bình diện thân xác như đã nói, ý thức thời gian con người mới

được biểu hiện rõ nét trong thơ và đến thời này con người trong thơ mới bắt được cái mạch

trong thơ các đời Hán, Ngụy, Đường” [42, tr.209]. Nhà nghiên cứu lấy sáng tác thơ chữ

Hán Nguyễn Du làm minh chứng để thấy “Bao trùm lên hết thảy là một cảm thức thời gian

tàn, tạ, phôi pha. Đối với Nguyễn Du các đơn vị đo thời gian như năm, tháng, ngày không

thật có ý nghĩa. Cái có ý nghĩa sâu sắc là sự đổi thay nhanh chóng, cho nên không phải

ngẫu nhiên mà thơ ông đầy mùa thu, buổi chiều, trời đêm, tóc bạc, lá rụng… mọi thứ cứ

phôi pha, tàn tạ mà không cách gì dừng lại được” [42, tr.209]. Xem Nguyễn Du như một

tác giả tiêu biểu giai đoạn cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX để phân biệt với các nhà thơ ở

giai đoạn trước và sau đó, Trần Đình Sử thấy “Nguyễn Du cảm được sự nhỏ nhoi của con

người trước thời gian”, “ông thường sử dụng biểu tượng thời gian khái quát”, “thời gian chỉ

hủy diệt cuộc đời”, “nhà thơ đau tiếc từng giờ”, “thời gian như giấc mộng” và “Nếu so với

thời gian vũ trụ thanh bình, thời gian cá thể là nhỏ nhoi, hữu hạn. Giờ so với sự đổi thay

lịch sử, cá thể trở thành vô nghĩa! Nhà thơ cảm thấy kinh sợ thời gian”. Dù mới chỉ dừng lại

ở những nhận xét sơ lược, khái quát, song đây cũng là một cơ sở để chúng tôi đi vào tìm

hiểu sâu hơn cảm thức thời gian trong thơ chữ Hán Nguyễn Du. Trong luận án tiến sĩ

Nguyễn Du và Đỗ Phủ - những tương đồng và khác biệt về tư tưởng nghệ thuật, tác giả

Hoàng Trọng Quyền từ chỗ lí giải vai trò của cảm hứng chủ đạo trong tư tưởng nghệ thuật

của Nguyễn Du và Đỗ Phủ đã phân tích một số biểu hiện thời gian trong Truyện Kiều và

thơ chữ Hán để thấy ở Nguyễn Du “Các mùa xuân, hạ, thu, đông đều nằm trong các tia

sáng tham chiếu của cảm thức về thân phận con người” [36, tr.162]. Nguyễn Đăng Thục

trong cuốn Thế giới thi ca Nguyễn Du đã gợi lại không khí xã hội thời Lê mạt Nguyễn sơ

qua các dẫn chứng lấy từ Hoàng Lê nhất thống chí, từ đó phân tích tâm hồn Nguyễn Du thể

hiện qua các sáng tác của ông. Khi nhắc đến thơ chữ Hán, tác giả chủ yếu gắn nó với tâm

Thiền như một biện pháp giải thoát của nhà thơ khỏi tình cảnh bế tắc.

Về dạng tài liệu thứ hai, có thể kể đến các bài viết: Thơ chữ Hán Nguyễn Du và tâm

sự của nhà thơ của Nguyễn Lộc, Tâm tình Nguyễn Du qua một số bài thơ chữ Hán của

Hoài Thanh, Con người Nguyễn Du trong thơ chữ Hán của Xuân Diệu, Nguyễn Du và thế

giới nhân vật của ông trong thơ chữ Hán của Nguyễn Huệ Chi, Tâm sự của Nguyễn Du

qua thơ chữ Hán của Trương Chính, Thơ chữ Hán Nguyễn Du của Nguyễn Hữu Sơn,

Nguyễn Du trong những bài thơ chữ Hán của Đào Xuân Quý, Thơ chữ Hán Nguyễn Du

của Mai Quốc Liên… Các bài viết đều đưa ra những nhận định khái quát về thơ chữ Hán

Nguyễn Du, khẳng định bên cạnh Truyện Kiều, thơ chữ Hán là một cứ liệu quan trọng nếu

muốn thực sự đi sâu vào thế giới tâm hồn, thấu hiểu những suy tư kín đáo của Nguyễn Du.

Các tác giả đã phần nào chỉ ra, lí giải thực chất cái gọi là “tâm sự hoài Lê” cùng thái độ

chính trị phức tạp trong thơ cụ Nguyễn Tiên Điền. Dù có khi bất đồng ở chỗ này chỗ khác,

các ý kiến trên thống nhất với nhau ở một điểm: khẳng định giá trị hiện thực, nhân đạo cùng

nét đặc sắc về mặt nghệ thuật của thơ chữ Hán, xem đây như một kho báu còn chưa được

khai thác hết và vẫn hứa hẹn những điều bất ngờ. Nhưng công trình công phu, chi tiết về các

khía cạnh nghệ thuật thơ chữ Hán phải kể đến là luận án tiến sĩ Ngữ Văn của Lê Thu Yến:

Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du. Trên cơ sở xử lí những vấn đề liên quan

đến văn bản thơ, tác giả xem xét thơ chữ Hán Nguyễn Du từ góc độ thi pháp trên các

phương diện: hình tượng nghệ thuật về con người, thời gian, không gian nghệ thuật, ngôn

ngữ. Trong phần thời gian nghệ thuật, tác giả đã phân tích thời gian úa tàn, thời gian kí ức,

thời gian khoảnh khắc để làm rõ cái nhìn riêng của nhà thơ đặt trong hoàn cảnh lịch sử cụ

thể. Tác giả có một số nhận định sâu sắc: “Qua khung thời gian được vẽ ra trong thơ, chúng

ta thấy rõ ràng dấu tích của con người cá nhân với những bứt phá vượt thời đại. Con người

cá nhân ấy luôn vùng vẫy, cựa quậy, quay đầu về quá khứ, trực diện với hiện tại, đánh dấu

hỏi vào tương lai… nhưng chưa đủ mạnh để có thể lật tung mọi ngõ ngách tâm hồn, tự mình

tìm khắc khoải giữa đời hoặc tiến lên một bước đấu tranh giành quyền sống quyết liệt như

con người của thế kỉ XX” [52, tr.140]. Công trình gần đây nhất về thơ chữ Hán là cuốn Đọc

và dịch thơ chữ Hán của Thảo Nguyên. Bên cạnh các bài dịch thơ, tác giả cũng đưa ra một

số lời bình chú có phần nghiệp dư nhưng nếu chú ý ta sẽ thu được một vài suy ngẫm thú vị.

Ngoài ra còn có một số luận văn như luận văn thạc sĩ của Vũ Thu Hường: Tìm hiểu phạm

trù Tha trong việc biểu hiện ý thức cá nhân trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du, luận văn

tốt nghiệp của Nguyễn Thị Thanh Thảo: Giọng điệu nghệ thuật trong thơ chữ Hán

Nguyễn Du cùng một số bài viết đăng trên các báo và tạp chí chủ yếu tìm hiểu một tác

phẩm hoặc một vấn đề riêng.

Về thơ sonnet Shakespeare

Chúng tôi cũng phân chia tài liệu về thơ sonnet Shakespeare thành hai loại: tài liệu

bằng tiếng Việt và tài liệu bằng tiếng Anh.

Tài liệu bằng tiếng Việt

Sonnet là thể thơ rất phổ biến ở phương Tây nhưng ở Việt Nam, thể thơ này chưa

thực sự được biết đến một cách rộng rãi. Shakespeare nổi tiếng ở Việt Nam từ cách đây hơn

một thế kỉ, tuy nhiên người ta biết đến ông chủ yếu với tư cách là nhà viết kịch. Đến nay

1

hầu hết các tác phẩm kịch của ông đã được dịch ra tiếng Việt, còn sonnet Shakespeare thì

P. Tài liệu bằng tiếng Việt về thơ

vẫn chưa có bản dịch nghĩa nào mà chủ yếu là dịch thơP0F

sonnet Shakespeare do vậy càng hiếm hơn nữa. Tài liệu sớm nhất mà chúng tôi tìm được là

cuốn Khái niệm về ngôn ngữ và thi pháp Anh của tác giả Đỗ Khánh Hoan – Trưởng ban

văn hóa Anh – Mĩ Đại học Văn khoa Sài Gòn, xuất bản lần đầu năm 1971, được sửa chữa

và in lần thứ hai năm 1974. Trong cuốn sách này, tác giả đã phân tích quá trình lịch sử của

ngôn ngữ Anh, nêu lên một cách khá đầy đủ các hình thức thi ca Anh, trong đó có sonnet

mà ông gọi là thể “thập tứ hàng thi”. Khi nhận xét sơ bộ tiến trình phát triển của thể sonnet,

ông có nhiều nhận định đáng chú ý: “Thập tứ hàng thi (Anh) kiểu Shakespeare và thập tứ

hàng thi kiểu Milton là những biến đổi đầy tính cách thí nghiệm đã được công nhận, bởi vì

có nhiều bài thơ giá trị đã được sáng tác theo khuôn khổ này; tuy nhiên, nếu không có

Shakespeare và Milton chắc uy tín của chúng chưa hẳn lộng lẫy như thế” [19, tr.117]. Tác

1 Tuyển tập Shakespeare in năm 2006 cũng chỉ có kịch.

giả cũng khẳng định: “Cũng như trong các kịch phẩm, qua tập thập tứ hàng thi gồm 154

bài, Shakespeare tỏ ra hiểu cuộc đời, hiểu trái tim con người hơn ai hết. Thêm vào đó ông

đã sử dụng một thứ ngôn từ thật thi vị đơn giản nhưng trau chuốt. Không kể 37 kịch phẩm

bất hủ, riêng thi phẩm này đã đủ đưa Shakespeare lên hàng thi hào của Anh quốc” [19,

tr.119]. Do giới hạn của một cuốn sách khái quát về một đối tượng thuộc phạm vi rộng, tác

giả không đưa ra dẫn chứng, cũng không phân tích, song các nhận xét của ông đã giúp

chúng tôi rất nhiều trong bước đầu tìm hiểu sonnet Shakespeare. Tài liệu thứ hai có thể kể

đến là cuốn W. Secxpia thơ xônê chọn lọc của dịch giả Thái Bá Tân. Tác giả đã chọn dịch

77 bài sonnet tiêu biểu của Shakespeare kèm theo lời giới thiệu nhiều tâm huyết. Trong

phần này, Thái Bá Tân có giới thiệu sơ bộ về hình thức, bố cục và những yêu cầu nghiêm

nhặt đã trở thành bắt buộc của thể sonnet cùng quá trình phát triển của nó và đi vào sonnet

Shakespeare : “Nhìn chung, mặc dù chủ đề xen kẽ nhau khá phức tạp, đại khái ta có thể chia

toàn tập 154 bài xônê của Shakespeare thành hai phần lớn – một phần nói về người bạn, và

phần kia nói về người yêu. Cụ thể hơn, có thể chia thành từng nhóm như sau:

- Từ xônê 1 đến xônê 26: ca ngợi vẻ đẹp của bạn, thuyết phục bạn lấy vợ, có con để

truyền lại vẻ đẹp ấy cho các thế hệ sau

- Từ xônê 27 đến xônê 32: nỗi buồn xa cách

- Từ xônê 33 đến xônê 42: những nghi ngờ và rạn nứt đầu tiên trong tình bạn

- Từ xônê 43 đến xônê 75: nỗi buồn và lo sợ

- Từ xônê 76 đến xônê 96: lòng ghen tuông và đố kị đối với các nhà thơ khác

- Từ xônê 97 đến xônê 99: mùa đông của sự chia li

- Từ xônê 100 đến xônê 126: niềm vui của tình bạn được khôi phục

- Từ xônê 127 đến xônê 127 đến xônê 152: tình cảm mâu thuẫn của nhà thơ đối với

người yêu: “the Dark Lady”

- Hai bài 153 và 154 là hai xônê kết, ít liên quan đến toàn bộ “cốt truyện”, chủ yếu

phỏng theo các bài xônê cổ điển có trước” [43, tr.14 – 15]. Nhà nghiên cứu cũng chia sẻ

những khó khăn trong quá trình đến với tác phẩm để thấy: “Cho đến nay chưa hề có bản

dịch thơ Sêxpia nào ra tiếng Việt, nghĩa là chúng ta hoàn toàn chưa biết đến một Sêxpia

khác cũng vĩ đại như Sêxpia kịch, đó là Sêxpia thơ trữ tình. Nguyên nhân thì nhiều, nhưng

có lẽ nguyên nhân cơ bản nhất là ở chỗ dịch thơ xônê của Sêxpia rất khó, hầu như vượt ra

ngoài khả năng của người dịch, ngay cả những người dịch tài năng và kinh nghiệm.” [43,

tr.17]. Có thể nói trong tình hình tư liệu tiếng Việt còn ít ỏi, cuốn sách của Thái Bá Tân là

một tư liệu quý đối với quá trình nghiên cứu của chúng tôi. Ngoài ra chúng tôi còn được biết

đến báo cáo khoa học của sinh viên trường Đại học Phú Xuân Nguyễn Thị Thu Cúc: Thời

gian trong sonnet của Shakespeare. Người viết có nêu ra nhận xét về các chiều thời gian

quá khứ, hiện tại, tương lai cùng khát vọng vĩnh cửu của nhà thơ cũng như một số phương

thức thể hiện thời gian trong sonnet. Tuy một số nhận xét chưa thật chính xác vì người tìm

hiểu mới chỉ tiếp cận văn bản qua bản dịch thơ và do giới hạn của một báo cáo khoa học

sinh viên nhưng có thể nhận thấy ở đây niềm say mê và sự cố gắng đưa sonnet đến gần hơn

với độc giả.

Tài liệu bằng tiếng Anh

Về Shakespeare, các tư liệu khi nhắc đến thơ sonnet thường khái quát chúng thành

các nhóm bài có chủ đề chung. Các nhà nghiên cứu chủ yếu chú ý đến vần, nhịp thơ cùng

các nhân vật bí ẩn “a young man” và “a sensual woman” là đối tượng mà Shakespeare muốn

gửi gắm, nhắn nhủ trong các bài thơ của mình. Yếu tố thời gian nếu có được nhắc đến cũng

chỉ được xem là một đề tài bên cạnh các đề tài khác. Công trình nghiên cứu công phu và kĩ

lưỡng về thơ sonnet Shakespeare được nhiều người nhắc đến là của Giáo sư Đại học

Harvard Helen Vendler: The art of Shakespeare’s sonnets. Trong cuốn sách này, bằng việc

diễn giải chi tiết 154 bài sonnet của Shakespeare, nhà nghiên cứu đã chỉ ra những hình

tượng được ẩn giấu và đặc điểm phong cách các bài thơ, nêu lên được những tầng nghĩa

quan trọng trong mỗi dòng thơ cũng như cách các phần kết hợp với nhau để tạo ra ý nghĩa.

Mark Van Doren – nhà Shakespeare học nổi tiếng trong cuốn Shakespeare, phần nghiên

cứu về thơ ca (poems) có nhận xét khái quát: “Đơn chủ đề lớn nhất trong sonnet là Thời

gian với bước chân nhanh chóng, khủng khiếp. Thời gian là thứ có khả năng vẽ đường chết

trên khuôn mặt (tạo ra nếp nhăn), phá sập tận gốc thành quả mọi công trình, làm tàn héo

hoa hồng, mang mùa đông đến sau xuân và tạo ra bản nhạc chung trong đó cả thế giới rên

rỉ bước đi tới điểm kết thúc. Dưới ảnh hưởng của tên bạo chúa khát máu này, Shakespeare

đã sáng tác những bài sonnet được biết đến nhiều nhất, trong chừng mực chuỗi các bài thơ

thống nhất với nhau ở chủ đề sự phá hủy của thời gian. Cái chết của ngày và mùa, sự sinh

sôi và tàn lụi của cây (và của con người giống như cây), gương mặt bị tàn phá, bờ biển bị

tàn phá, cuốn sử biên niên của thời gian bị lãng phí, sự tàn tạ và cái chết của chính nhà thơ,

nỗi mất mát những người bạn quý, nỗi đau buồn, cô đơn và sự hủy diệt – tất cả được viết

2

bằng ngôn ngữ tuyệt nhất của nhà thơ – thứ ngôn ngữ được dùng để nói về những điều

P”[59, tr.6 – 7]. G. Wilson Knight

không thể nói hay hơn, hoặc với một tình yêu sâu sắc hơnP1F

trong cuốn The Mutual Flame on Shakespeare ‘s sonnets and The Phoenix and the

Turtle, ở phần nghiên cứu về sonnet đã dành một chương để nói về vấn đề “time and

eterniry” (thời gian và sự trường tồn bất diệt). Theo tác giả, thời gian, cái chết và sự bất diệt

(time, death and eternity) là ba vấn đề lớn của sonnet. Nhà nghiên cứu đã đi vào các bài thơ

3

xuất hiện hình ảnh thời gian và chỉ ra “Hình ảnh so sánh cuộc sống con người với sự thay

P[63, tr.71], “dù nhanh hay

4

đổi theo mùa hay theo ngày được nhấn mạnh từ đầu chí cuối”P2F

P[63, tr.74], nó “là sự

5 liên tục huyền bí trong đó cả tự nhiên bị bao chứa và giới hạn”P4F

P [63, tr.73]. Tác giả cũng

chậm, có một điều chắc chắn: thời gian không bao giờ ngừng nghỉ”P3F

liên hệ với các vở kịch của Shakespeare: Antony and Cleopatra, Henry IV, Richarch II,

Troilus and Cressida… để cho thấy trong toàn bộ các tác phẩm Shakespeare, thời gian là

một mối quan tâm lớn. Bằng những phân tích sâu sắc và một cái nhìn hệ thống, nhà nghiên

cứu đã chỉ ra các yếu tố truyền thống cũng như cách tân trong sử dụng hình ảnh miêu tả thời

gian của Shakespeare. Trong cuốn Shakespeare’s sonnets, Tiến sĩ James K. Lowers của Đại

học Hawaii có đưa ra những kiến giải về các vấn đề cơ bản nhất của sonnet Shakespeare:

thời điểm sáng tác (date of composition); trật tự và cách sắp xếp (order and arangement);

các nghi vấn mang tính tự truyện (question of autobiography) liên quan tới các nhân vật “the

fair young man”, “the dark lady”, “the rival poet”; các chủ đề nổi trội (dominant themes) và

tập hợp các bài phê bình hay của các nhà nghiên cứu. Tác giả xem ba trong số các chủ đề

nổi trội của sonnet Shakespeare là sự bất tử qua thế hệ sau (immortality through offspring),

sự bất tử qua thơ ca (immortality through verse), sự bất tử qua tình yêu (immortality through

love). Khát vọng bất tử này có nguyên nhân từ việc nhận thức về thời gian như một kẻ thù:

“Trong hầu hết các bài thơ đầu của tập sonnet, thời gian là kẻ thù lớn của tuổi trẻ và cái

đẹp. Nhà thơ, giống như rất nhiều các thi sĩ cùng thời, nhìn với sự đau đớn, lo lắng trước

sức mài mòn của thời gian (đối với vạn vật) và đi tìm câu trả lời làm thế nào đánh bại hắn

2 The great single subject of the sonnets is Time, swift – footed, terrible. Time that writes death on faces, roots out the work of masonry, fades roses, brings winter after spring, and makes in general the music to which all the world marches groaning to its end. Under the wing of this bloody tyrant Shakespeare has composed the sonnet which the world knows best; in so far as the sequence has unity it is organized about the theme of Time’s decay. The death of days and seasons, the springing and the withering of plants (and of men as plants), ravaged faces and ravaged shores, the chronicle of wasted time, the poet’s own decline and death, the loss of precious friends, woe, loneliness, and doom – the are the grammar of the poet’s finest language, a language which he is using to say what has never been said better of with profouder love. 3 The comparison of human life to seasonal or diurnal change is emphatic throughout. 4 Slow or fast, one thing is certain: Time is “never - resting” (sonnet 5). 5 Time is a mysterious continuum within which all nature is contained and limited.

6

để tuổi thanh xuân cũng như vẻ đẹp được bảo tồn. Ở tập thơ của Shakespeare, ba câu trả

P”[64, tr.27]. Không dừng ở các nhận xét, tác giả còn có sự thống kê: “Thật

lời được đưa raP5F

thú vị khi khám phá ra rằng từ sonnet 1 đến sonnet 126 từ “time” được sử dụng 78 lần và

không chỉ xuất hiện một lần trong các bài còn lại. Trong số các bài thơ đầu này, có 9 bài

7

phát triển chủ đề về sức mạnh của thơ ca chiến thắng thời gian, thứ nhiều lần được miêu tả

P” [64, tr.30].

bằng những từ khác nhau như “mau lẹ”, “có khả năng phá hủyP6F

Cũng theo các cuốn sách này, có khá nhiều tài liệu trực tiếp đề cập đến thơ sonnet

Shakespeare nhưng đều xuất bản ở nước ngoài nên chúng tôi chưa có cơ hội tiếp cận.

Các tài liệu đã có đều là những gợi ý quý báu cho chúng tôi trong quá trình thực hiện

đề tài.

Tóm lại qua các tư liệu ta đều thấy được thời gian là một vấn đề rất quan trọng cả

trong sáng tác của Nguyễn Du lẫn Shakespeare. Tuy nhiên, việc phân tích cảm thức thời

gian trong thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ sonnet Shakespeare bằng cái nhìn so sánh vẫn

còn là một mảnh đất trống để chúng tôi tìm hiểu, tuy chắc chắn còn nhiều bập bõm và

không thể toàn diện.

3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu

Mục đích của luận văn là tìm hiểu những nét tương đồng, dị biệt trong cảm thức thời

gian giữa thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ sonnet Shakespeare, cố gắng phần nào phân tích

và lí giải chúng từ nhiều góc độ.

Đối tượng chính của luận văn là ba tập thơ chữ Hán Nguyễn Du: Thanh Hiên thi

tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục và 154 bài thơ sonnet Shakespeare. Các mảng

sáng tác khác chỉ có thể xem là tài liệu tham khảo. Cho nên trong phần trình bày, khi nhắc

đến thơ Nguyễn Du và thơ Shakespeare là chúng tôi muốn nhắc đến các đối tượng này,

không phải thơ hai tác giả nói chung.

Như cái tên của đề tài, trong luận văn này, chúng tôi giới hạn sự tìm hiểu ở vấn đề

thời gian, cụ thể là cảm thức thời gian trong sáng tác của hai nghệ sĩ lớn. Về thơ chữ Hán

6 In the first large division of the Sonnets, Time is the great enemy of youth and beauty. The Poet, like so many of his contemporaries, viewed with pain and sorrow the corrosive effects of Time and sought answers to the question of how it could be defeated and youth and beauty preserved. In Shakespeare’s sequence three answers are propounded. 7 It is not without interest to find that the word time is used sevety – eight times in sonnet 1 – 126 and not once in the remainings sonnets. Of this first large group, nine develop the theme of poetry’s power to conquer Time, which is variously described as “swift - footed” and “devouring”.

Nguyễn Du, chúng tôi sử dụng cuốn Nguyễn Du toàn tập (tập 1) do Mai Quốc Liên,

Nguyễn Quảng Tuân chủ biên. Về văn bản thơ sonnet Shakespeare, do chưa có bản dịch

nghĩa tiếng Việt, chúng tôi sử dụng nguyên bản tiếng Anh từ cuốn Shakespeare’s sonnets

của nhà xuất bản Đại học Yale và mạnh dạn đưa ra một hướng dịch của mình trên cơ sở

tham khảo một số tài liệu đáng tin cậy.

4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Ý nghĩa khoa học: Bằng kết quả khảo sát, phân tích, người viết mong chỉ ra những

nét đặc sắc trong cảm thức thời gian ở hai tác giả, đặc biệt nhấn mạnh những chỗ tương

đồng và dị biệt, phần nào chỉ ra nguyên nhân cũng như ý nghĩa của nó.

Ý nghĩa thực tiễn: góp thêm một phần nhỏ đưa thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ

sonnet Shakespeare đến gần hơn với độc giả, góp phần vào việc tìm hiểu cũng như giảng

dạy thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ sonnet Shakespeare trong trường phổ thông và đại học.

5. Phương pháp nghiên cứu

Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng tổng hợp các phương pháp sau:

- Phương pháp thống kê, phân loại: dùng để thống kê các câu thơ, bài thơ thể hiện

cảm thức thời gian trong thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ sonnet Shakespeare, sau đó hệ

thống hóa, đặt chúng vào các nội dung chung phục vụ cho mục đích nghiên cứu.

- Phương pháp so sánh: đặt sáng tác của Shakespeare và Nguyễn Du trong cái nhìn

tương quan để tìm ra những nét tương đồng, dị biệt. Vì không tìm thấy dấu vết ảnh hưởng

của Shakespeare tới Nguyễn Du, chúng tôi chủ yếu sử dụng phương pháp so sánh về mặt

loại hình, lí giải các tương đồng, dị biệt từ các hiểu biết về tiểu sử nhà văn cũng như đặc

điểm xã hội, môi trường văn hóa mà nhà văn sống. Bên cạnh đó, đặt hai tác giả này trong

mối quan hệ với các nhà thơ xuất hiện trước và sau họ để thấy nét độc đáo trên cái nền

chung của thời đại cũng như trong tiến trình lịch sử văn học.

- Phương pháp phân tích – tổng hợp: được sử dụng xuyên suốt trong luận văn nhằm

kết hợp phân tích dẫn chứng với việc đưa ra những nhận định ở các chương, các phần.

6. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm 3 chương:

- Chương 1: Những vấn đề chung

- Chương 2: Những gặp gỡ tình cờ giữa thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ sonnet

Shakespeare về cảm thức thời gian

- Chương 3: Dấu ấn cá nhân trong cảm thức thời gian ở thơ chữ Hán Nguyễn Du và

thơ sonnet Shakespeare

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1.1. Nguyễn Du và thơ chữ Hán

1.1.1. Nguyễn Du

Người ta đã thấy trong thơ Hồ Xuân Hương nỗi khát khao hạnh phúc của một người

phụ nữ tình duyên dang dở, trong thơ Nguyễn Khuyến một ông lão vừa tha thiết với “vườn

Bùi chốn cũ” vừa đầy tâm sự thời thế nặng sâu..., và cũng không khó để thấy trong thơ

Nguyễn Du những dấu ấn tiểu sử đậm nét, bởi giống như đứa con do người mẹ bao ngày

thai nghén, tác phẩm dù mang tính độc lập đến đâu cũng không thể tách hoàn toàn khỏi

người đã sinh thành ra nó. Cho nên nghiên cứu tác phẩm Nguyễn Du, ta không thể không

tìm hiểu các chi tiết đời tư có ảnh hưởng đến thơ ông. Chúng có thể được trình bày tường

tận trong rất nhiều tài liệu, song ở đây chúng tôi chỉ nhấn mạnh một vài chi tiết có thể ít

nhiều liên quan đến cảm nhận thời gian của thi sĩ.

Nguyễn Du sống vào khoảng 30 năm cuối thế kỉ XVIII, 20 năm đầu thế kỉ XIX –

một thời kì bão táp trong lịch sử dân tộc với những biến thiên khôn lường của thời cuộc.

Những cuộc tranh giành quyền bính diễn ra trong phủ chúa Trịnh, sự nổi lên rồi bị dập tắt

của đám kiêu binh, sấm sét từ triều đại Tây Sơn rồi ngay sau đó là sự suy tàn của triều đại

ấy, sự tiếp nối của nhà Nguyễn, biết bao cuộc khởi nghĩa nông dân, bạo loạn, li tán liên

miên cuốn ông đi như dòng thác cuốn một cánh bèo đơn chiếc. Tưởng như chỉ trong chớp

8

mắt mà đã có bao cuộc tang thương dâu bể diễn ra mà con người lại không thể dự đoán

P. Biến động là vậy mà cuối cùng vẫn là một triều đại phong kiến

được chiều hướng của nóP7F

8 Thời Lê mạt, Nguyễn sơ là một thời kì vô cùng hỗn loạn, khi tất cả các quan hệ rường mối (vua – tôi, quân – thần, phụ - tử…) bị đảo lộn, không còn ý nghĩa. Có thể thấy điều ấy qua đoạn tả cảnh chạy loạn của Lê Chiêu Thống được ghi lại trong Hoàng Lê nhất thống chí: “Hoàng thượng (Lê Chiêu Thống) và Hoàng thái hậu chờ ở bờ sông lâu lắm (sông Như Nguyệt) không thấy có đò, Hoàng thượng liền cho vời Thược (Nguyễn Cảnh Thược trấn thủ Kinh Bắc) đến hỏi, Thược thưa: - Các thuyền đều không ở đây, bệ hạ muốn gấp sang sông, xin hãy cho thần ít nhiều vàng lụa thì mới thuê được. Nếu không dẫu đến sáng mai cũng vẫn ở đây. Giá như quân giặc đuổi đến, thần xin dùng cái chum gỗ để đưa bệ hạ qua sông, chỉ e rằng những đồ ngự dụng không thể giữ được mà thôi. Hoàng thượng nói: - Trẫm có cả nước cũng không giữ nổi, còn tiếc cái gì? Tức thì ngài sai mở hòm cho xem. Trong đó chỉ có một chiếc truyền quốc ngọc tỉ 40 lạng vàng mà thôi. Ngài bảo Cảnh Thược: - Đấy người muốn lấy gì thì lấy. Thược thưa: - Mong ơn bệ hạ ban cho, thần xin chia lấy một nửa.

nối tiếp trị vì, mọi thứ rồi quay về quỹ đạo cũ, không biết bao giờ kết thúc. Thời gian vừa

tuần hoàn lại vừa biến động, con người chẳng thể điềm nhiên nhìn thế sự xoay vần, nhưng

càng không thể lay chuyển được gì, chỉ có thể “trông thấy mà đau đớn lòng”.

Cuộc đời Nguyễn Du do đó cũng thăng trầm theo thời cuộc. Sống sung túc trong

cảnh xa hoa không được bao lâu, ông đã sớm nếm trải cảm giác mất mát của một đứa trẻ mồ

9 nghĩa chẳng ích lợi gì trong thời loạn lạc dù vẫn luôn “vô hạn cảm”P8F

P với đời. Có lẽ cũng

côi, một kẻ sĩ bất đắc chí, một hành nhân lưu lạc khắp chốn cùng nơi, một thi nhân thấy chữ

giống như Kiều, Nguyễn Du cứ mãi đi tìm một chỗ neo đậu trong đời mà kết cục chỉ bị đẩy

lăn vào chốn phong trần. Kiều yêu Kim Trọng nhưng lúc nguy biến Kim Trọng không cứu

vớt được đời nàng. Mối tình với Từ Hải chỉ là một giấc mơ ngắn ngủi, còn tình với Thúc

Sinh không thể vẹn tròn vì Kiều là kẻ đến sau, dẫu chấp nhận tủi hổ bẽ bàng cũng chẳng

được yên thân với duyên thừa phận hẩm. Để rồi cuối cùng cô Kiều truân chuyên hay chính

là chàng Nguyễn đa đoan chấp nhận sự tái hợp muộn màng gượng gạo với người tình xưa –

mà thực chất đã chẳng như xưa. Sự trọng dụng của triều đình nhà Nguyễn sau này không

đem đến cho Nguyễn Du niềm an ủi hay nhiệt huyết cống hiến. Có lẽ quá mệt mỏi, Nguyễn

Du tự khép mình làm một kẻ khờ để tránh sự ghen ghét của hóa công. Đời vừa như mộng

vừa như một cuộc đi đày mãi không hết hạn, người vừa nặng lòng với nhân gian vừa chán

ghét cảnh thị phi, nhà thơ bơ vơ giữa dòng nhân thế mà khóc mà cười mà than thở.

Tiếp thu truyền thống học vấn của gia đình cộng với bao năm trên đường gió bụi, hòa

vào đám người tha hương chạy loạn khắp nơi, Nguyễn Du tinh thông cả Nho, Phật, Đạo.

Các nhà Nho đắn đo trước sự trôi chảy của thời gian nhưng chủ yếu quan tâm đến sự hưng

vong hay thành bại của các triều đại, thời gian đời người trong mắt họ là thời gian để thực

hiện cái tâm, cái chí của bậc quân tử, kẻ trượng phu. Đạo gia lại khuyên con người quay trở

về với bản nguyên, tìm giải thoát giữa thiên nhiên, vũ trụ bao la trong cảm giác “vô thời

gian” ung dung, tự tại. Phật giáo xem thời gian là bánh xe luân hồi không dứt trong đó đời

người chỉ là một khoảnh khắc vô cùng ngắn ngủi. Chỉ có vượt qua được cái nhìn nhị nguyên

phân biệt: quá khứ - hiện tại, già – trẻ, dài – ngắn... con người mới được giải thoát. Cái cố

Nhưng mà Hoàng thượng cho cả. Thược bèn gọi lái đò đến bến, chở Hoàng thượng và Hoàng hậu sang. Khi thuyền đến bờ, Thược lại cho người đuổi theo lột tấm ngự bào của Hoàng thượng đang mặc. Ngài ứa nước mắt cởi ra trao cho hắn” (dẫn lại theo Nguyễn Đăng Thục [45, tr.34 – 35]. 9 Ý thơ Nguyễn Du trong bài Độ Phú Nông giang cảm tác: Du nhân vô hạn cảm Phương thảo biến thiên nhai

10

P, cái thiên hướng “vô vi”, muốn giữ thiên tính tự nhiên

chấp với cương thường của nhà NhoP9F

của Đạo và tinh thần từ bi hỉ xả, thương khắp cả chúng sinh đã trộn lẫn thật kì lạ trong một

con người theo một công thức mà ta không thể lí giải.

Tóm lại, ở Nguyễn Du, người ta thấy một loạt các nghịch lí: sinh ra trong một gia

11

đình đại quý tộc, quyền thế bậc nhất lúc đương thời, có truyền thống cả về văn chương lẫn

P, nhưng Nguyễn Du lại phải sống long đong lận đận, chạy loạn khắp nơi, nhiều khi

khoa cửP10F

đói không cơm ăn, bệnh không thuốc uống, vào tù ra tội; tuổi trẻ từng khao khát đem tài

năng giúp đời giúp nước nhưng vì thời thế nên đành nhìn thanh kiếm mà rơi lệ ; bản tính

vốn thanh sạch, chỉ muốn quanh năm làm bạn với làn mây núi Hồng, với người đánh cá,

người hái củi, nhưng vì miếng cơm manh áo, Nguyễn Du cho đến bạc đầu vẫn mãi bon chen

giữa chốn bụi hồng; là con người nhạy cảm, yêu cái đẹp, vậy mà Nguyễn Du cứ luôn phải

chứng kiến những bất công, ngang trái giáng xuống cho người tài hoa... Vốn kiến thức, vốn

sống hấp thu được từ quê hương, dòng họ, gia đình cũng như từ bao năm tháng lưu lạc đã

khiến ông trở thành một con người trải đời, với “con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ

Các phức hợp đời tư này sẽ khúc xạ một cách đầy đủ qua các sáng tác Nguyễn

suốt nghìn đời” hiếm có.

Du, đặc biệt là thơ chữ Hán mà vấn đề thời gian không là một ngoại lệ. Từ đó ta hiểu được,

những điều được phản ánh trong văn chương của ông đều là các suy tư thấm thía chắt lọc từ

cuộc đời, dù buồn hay vui, chúng không bao giờ có hơi hướng giả tạo.

1.1.2. Thơ chữ Hán Nguyễn Du

Thơ chữ Hán Nguyễn Du gồm ba tập: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm,

Bắc hành tạp lục, được làm trong thời gian từ năm nhà thơ 21 tuổi đến năm 49 tuổi (theo

Lê Thước, Trương Chính). Các tập thơ theo sát cuộc đời gian truân, chìm nổi của nhà thơ.

Thanh Hiên thi tập được làm từ thời kì đầu đến trước khi Nguyễn Du ra làm quan cho nhà

Nguyễn, Nam trung tạp ngâm được viết trong thời gian ông làm quan ở Huế và Quảng

Bình, Bắc hành tạp lục là tập thơ ra đời khi nhà thơ đi sứ ở Trung Quốc. Cho đến nay, có

khá nhiều bản dịch thơ chữ Hán Nguyễn Du của các nhà nghiên cứu Hán học: bản dịch của

10 Theo gia phả họ Nguyễn Tiên Điền, Nguyễn Du từng chạy theo Lê Chiêu Thống nhưng không kịp, cũng đã từng có ý định chống lại Tây Sơn hòng “phục quốc” nên bị bắt giam. 11 Đương thời người ta còn lưu truyền câu ca về dòng họ Nguyễn Tiên Điền: Bao giờ ngàn Hống hết cây Sông Rum hết nước họ này hết quan

Bùi Kỉ, Phan Võ, Nguyễn Khắc Hanh (1959) gồm 102 bài, bản dịch của Lê Thước, Trương

Chính (1965) gồm 249 bài, bản dịch của Quách Tấn (1973) gồm 92 bài, bản dịch của Đào

Duy Anh (1988) gồm 249 bài, bản dịch của nhóm Mai Quốc Liên, Nguyễn Quảng Tuân, Lê

Thu Yến… gồm 250 bài. Ngoài ra còn các bản dịch thơ mang tính ngẫu hứng của những

người yêu mến Nguyễn Du như : Trần Văn Nhĩ (2007), Thảo Nguyên (2009). Có lẽ con số

này đến đây vẫn chưa phải đã chấm dứt. Với sức hấp dẫn của chữ Hán Nguyễn Du, ta hoàn

toàn có cơ sở tin tưởng trong tương lai, các tác phẩm vẫn sẽ tiếp tục giành được sự quan tâm

của người đọc nhiều thế hệ.

Về nguồn gốc và đặc điểm thể loại, trong các tập thơ chữ Hán, Nguyễn Du sử dụng

các thể thơ vay mượn từ Trung Quốc, chủ yếu là tứ tuyệt và bát cú Đường luật. Đây đều là

những thể loại có quy định chặt chẽ về niêm, luật, vận, đối, số chữ trong câu, số câu trong

bài.

Về nội dung, thơ chữ Hán Nguyễn Du viết về số phận cực khổ long đong của những

người dân thường bất hạnh, người tài hoa bạc mệnh và cả những nhân vật mà nhà thơ khi

tán thành, khi phê phán trong lịch sử Trung Quốc. Như có một thiết bị thu phát nhạy cảm từ

trái tim, Nguyễn Du đặc biệt dễ cảm thông với những khó khăn, vất vả của mọi kiếp người.

Nếu Văn chiêu hồn là khúc ca đầy ưu ái dành cho người chết thì thơ chữ Hán là tác phẩm

trong đó Nguyễn Du chia sẻ niềm yêu thương với những con người đang ngày ngày đối mặt

với cõi hồng trần khắc nghiệt. Ông thương cho mẹ con người ăn xin lưu lạc quê người áo

quần lam lũ, trưa rồi vẫn không có gì ăn (Sở kiến hành), ông thay lời người lính thú bao

năm xa nhà bày tỏ tâm sự như Ban Siêu đầu bạc mong chi ngày trở về quê hương (Đại tác

cửu thú tư quy), ông cũng xót xa khi chứng kiến cha con người hát rong miệng sùi bọt, tay

mỏi rời, gắng hết tâm sức gần một trống canh mà chỉ được năm sáu đồng tiền nhưng vẫn rối

rít cảm ơn, trong khi mọi người ăn uống thỏa thuê, còn cơm thừa canh cặn đổ cả xuống sông

(Thái Bình mại ca giả), cho đến cả con ngựa già bị bỏ quên dưới chân thành, con chó

chết… Nguyễn Du cũng dành tình cảm cho chúng. Trong Độc Tiểu Thanh kí, Nguyễn Du

từng thổ lộ: “Phong vận kì oan ngã tự cư” (Ta tự đặt mình vào vị trí những người mắc nỗi

oan lạ lùng vì nết phong nhã). Như một sự “đồng bệnh tương liên”, hay như Thúy Kiều thấy

mộ Đạm Tiên đã có cảm giác của những người cùng hội, nhà thơ tìm thấy rất nhiều người

đồng cảnh ngộ - người tài hoa bạc mệnh, xót thương họ cũng là xót thương cho mình.

Người tài hay khác người, khác đời, và chính cái khác đó đem bi kịch đến cho họ: Khuất

Nguyên một mình tỉnh trong khi những kẻ khác say nên đành ôm hận bên dòng Mịch La,

Đỗ Phủ vì văn chương hơn người mà cả đời cùng khổ… Dường như mang trong mình thiên

tính nữ vốn là một đặc điểm trong tâm hồn người phương Đông, Nguyễn Du cũng hay viết

về những người phụ nữ tài sắc nhưng phải chịu một số phận bi thảm: nàng Tiểu Thanh chết

trong cô độc trên núi Cô Sơn, Tây Hồ, Dương Quý Phi tức tưởi kết thúc cuộc đời ở đền Mã

Ngôi, chịu mang tiếng xấu oan ức chỉ vì cả triều đình bất tài bạc nhược dồn trách nhiệm lên

đầu nàng, người ca nữ đất La Thành như một cành hoa thắm đẹp từ cõi tiên rơi xuống, lúc

sống làm vui cho đời nhưng khi chết đi chỉ mang tiếng là người trăng gió, cô Cầm từng nức

tiếng kinh thành Thăng Long một thời nhưng cảnh huy hoàng chẳng kéo dài mãi, đến khi

nhà thơ gặp lại đã biến đổi cả hình hài vóc dáng, tàn tạ dung nhan, chỉ còn lại tiếng đàn giúp

ông nhận ra người cũ... Trên con đường đi sứ, qua nơi nào Nguyễn Du cũng làm sống lại

các nhân vật tưởng đã chìm trong dòng lịch sử để đánh giá họ từ góc độ văn hóa, nhân văn.

Những con người từng sống và chết: Kinh Kha, Dự Nhượng, Quản Trọng, Kê Khang, Lạn

Tương Như, Liêm Pha, Tào Tháo, Tần Cối, Âu Dương Văn Trung… qua thơ ông khiến

người đọc suy nghĩ khôn nguôi về lẽ biến dịch, cái mất – còn, thịnh – suy, vinh – nhục…

trên đời.

Nguyễn Du viết Truyện Kiều, gửi gắm vào đó bao tâm sự, nhưng vẫn chỉ coi đây là

tác phẩm “lời quê chắp nhặt dông dài” để “mua vui” cho người đọc “một vài trống canh”.

Lời ấy vừa thể hiện sự khiêm tốn, nhưng đồng thời cũng phần nào cho thấy quan niệm của

người xưa: tác phẩm chữ Nôm được viết để giải trí, còn tác phẩm chữ Hán mới thực sự là

tác phẩm chuyển tải hết nỗi niềm nhà thơ. Quả thực, đọc thơ chữ Hán, ta thấy “nhân vật”

chủ yếu vẫn là chân dung tinh thần của chính nhà thơ qua bao thăng trầm cuộc sống. Độc

giả bắt gặp ở đây một con người bản tính thâm trầm lặng lẽ, ý thức rất rõ tài năng, giá trị

của mình nhưng nhiều khi bất lực trước thời cuộc nên chưa già mà tóc đã sớm bạc, không

lúc nào không suy tư với nhiều mặc cảm chất chứa chẳng biết giãi bày cùng ai vì không có

được người tri âm tri kỉ trong hiện tại.

Các tác phẩm thể hiện nhiều tâm sự u uất và những nỗi niềm khó tỏ bày, lí giải.

Phảng phất trong các bài thơ là một tấm lòng xót thương vô hạn trước những bi kịch cõi

nhân sinh, một cái nhìn riêng phần nào vượt thoát ra khỏi giới hạn của thời đại, dù còn chất

chứa không ít bế tắc.

Về nghệ thuật, dù vay mượn thể loại của văn học nước ngoài, nhưng Nguyễn Du đã

thổi vào đó tâm hồn, cách cảm, cách nghĩ của người Việt. Thơ ông có nhiều đóng góp đặc

sắc về ngôn ngữ, kết cấu…Nói như nhà nghiên cứu Mai Quốc Liên: “Thơ chữ Hán Nguyễn

Du là những áng văn chương nghệ thuật trác tuyệt, ẩn chứa một tiềm năng vô tận về ý

nghĩa. Nó mới lạ và độc đáo trong một nghìn năm thơ chữ Hán của ông cha ta đã đành, mà

cũng độc đáo so với thơ chữ Hán của Trung Quốc nữa”(28, 7).

1.2. Shakespeare và thơ sonnet

1.2.1. Shakespeare

Shakespeare sinh ngày 23.4.1564 tại Stratford on Avon, một thị trấn nhỏ miền Trung

nước Anh. Cha ông, John Shakespeare, vốn xuất thân từ một gia đình nông dân, chuyển đến

đây từ năm 1557 và kiếm sống bằng nghề làm bao tay, từng giữ chức Thị trưởng. Thuở nhỏ,

gia đình Shakespeare rất khấm khá. Năm lên 7 tuổi, ông đến học tại trường ngữ pháp

(Grammar school) ở quê nhà. Năm 14 tuổi, vì gia đình sa sút, cha mất chức, Shakespeare

phải bỏ học. Năm 18 tuổi, ông kết hôn với người phụ nữ 26 tuổi Anne Hathaway. Họ có 3

đứa con, hai gái một trai nhưng cậu con trai bị ốm chết năm 11 tuổi. Sự mất mát này có tác

động rất lớn đến cuộc đời và sáng tác của Shakespeare. Năm 1588, Shakespeare rời xa quê

hương và vợ con, một mình đến London lập nghiệp. Đầu tiên, ông làm chân giữ ngựa, nhắc

vở rồi làm diễn viên ở một rạp kịch. Sau đó, từ chỗ cải biên lại các vở kịch cũ, soạn chung

với các tác giả khác một vài vở mới, ông đi đến sáng tác một mình cả kịch, thơ sonnet và

các trường ca, từng bước vươn lên chiếm lĩnh ngôi chủ soái kịch trường và thi đàn dân tộc.

Các nhà nghiên cứu thường chia cuộc đời sáng tác của Shakespeare thành 4 giai đoạn: giai

đoạn tập sự thử sức (từ 1590 - 1594); giai đoạn bùng nổ tài năng với cảm hứng chủ đạo là

lạc quan, yêu đời (1594 - 1600); giai đoạn sáng tác những tác phẩm hiện thực với cảm hứng

phê phán, phô bày mặt đen tối, sự khủng hoảng của xã hội (1601 - 1608); giai đoạn trở lại

với những tác phẩm nhẹ nhàng, kết thúc có hậu (1609 - 1613). Ông qua đời ngày 23.4.1616

tại quê nhà, để lại một sự nghiệp đồ sộ với hơn 40 vở kịch (bao gồm cả kịch lịch sử, bi kịch

và hài kịch), 5 trường ca (A Lover’s Complaint, The Passionate Pilgrim, The Phoenix and

the Turtle, The Rape of Lurece, Venus and Adonis ), 154 bài sonnet.

Shakespeare sống và sáng tác chủ yếu dưới thời nữ hoàng Elizabeth I (1458 - 1603) –

thời kì vẫn được các học giả tư sản Anh ca ngợi là thời kì “nước Anh vui vẻ”. Đó là khi Anh,

sau khi trải qua cuộc chiến tranh 100 năm với Pháp và cuộc nội chiến “hai hoa hồng” đã

từng bước ổn định, thống nhất, vươn lên trở thành một trong những cường quốc trên thế

giới. Đặc biệt, sau chiến thắng của hạm đội Anh trước hạm đội “Ac-ma-đa vô địch” của Tây

Ban Nha vốn bị bão đánh chỉ còn một nửa, các chiến thuyền Anh trở thành bá chủ mặt biển,

mặc sức tung hoành trên Đại Tây Dương. Vàng bạc mà Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha cướp

được của châu Mỹ cũng lọt vào tay người Anh. Tinh thần dân tộc lên cao phơi phới, người

Anh xiết bao tin tưởng vào một cuộc sống tốt đẹp ở phía trước. Sự yêu thích, bảo trợ của nữ

hoàng cùng các quý tộc Anh đối với các hoạt động văn hóa, nghệ thuật cũng là một điều

kiện để những nghệ sĩ tài năng như Shakespeare thỏa sức vẫy vùng. Theo A.L. Rose trong

cuốn tiểu sử về Shakespeare, thời đại có ý nghĩa rất lớn với sáng tác của ông. Nếu

Shakespeare sinh ra trước hoặc sau đó chỉ 20 năm thì có lẽ những gì chúng ta thấy được từ

sáng tác của ông sẽ khác. Shakespeare lại sống ở London – trung tâm kinh tế, chính trị và

văn hóa của đất nước, nơi chủ nghĩa nhân văn Phục Hưng đang phát triển mạnh mẽ, nơi

xuất hiện một loạt các tên tuổi lừng danh, cũng là nơi đầu tiên tiếp nhận mọi thành tựu của

văn học thế giới nhờ sự phát minh ra máy in. Điều này đã phần nào giải thích tại sao

Shakespeare có thể hòa nhập nhanh đến thế vào không khí sáng tác kịch nghệ và thơ ca.

Cũng là điều dễ hiểu khi ta thấy trong sonnet của ông một cái nhìn tươi sáng về cuộc đời,

con người.

Bảy năm ngồi trên ghế nhà trường để học về ngữ pháp, nghệ thuật từ chương, lịch sử,

địa lí, tiếng la tinh… đã cung cấp cho Shakespeare một nền tảng kiến thức cơ bản song còn

quá ít ỏi. Phải bỏ lỡ giấc mộng vào các trường đại học nổi tiếng như Oxfort, Kembritge…,

Shakespeare đã sớm bước vào một ngôi trường lớn hơn, khốc liệt hơn, ít tính hàn lâm, giáo

điều – trường đời - để phấn đấu không mệt mỏi tự tích lũy kiến thức, vốn sống. Bên cạnh

vai trò của những người bạn, người đồng nghiệp như bá tước Southampton, học giả Jovani

Florio…, những cuốn sách như Truyện danh nhân của Pluytac, Sử biên niên của Anh,

Airlen và Xcotlen của Holinshed… có thể thấy điều cơ bản làm nên thành công của

Shakespeare chính là một nghị lực phi thường, một niềm đam mê nghệ thuật cháy bỏng và

một tinh thần lao động hiếm thấy. Cho đến nay các nhà nghiên cứu vẫn còn tranh cãi rất

nhiều về Shakespeare, họ không thể giải thích được tại sao một con người sinh ra trong một

gia đình bình thường, kết thúc sự nghiệp học hành tại nhà trường ở tuổi 14, khởi nghiệp

bằng chân giữ ngựa rồi nhắc vở tại một nhà hát lại có thể viết ra những tác phẩm làm thay

đổi sân khấu kịch của một đất nước, một thời đại cùng những vần thơ say đắm lòng người

bao thế hệ, lưu tên tuổi của mình đến muôn đời. Nhiều chi tiết về cuộc đời cũng như sự

nghiệp sáng tác của Shakespeare vẫn còn là một bí ẩn, chỉ có một điều chắc chắn là ông đã

sống hết mình và đón nhận luồng gió mát lành của thời đại Phục Hưng để viết nên những

tác phẩm bất hủ.

1.2.2. Thơ sonnet Shakespeare

Sonnet là một thể loại đặc biệt của thơ trữ tình phương Tây, xuất hiện vào thời trung

cổ ở Italia (nguyên gốc tiếng Italia “soneto” có nghĩa là bài hát nhỏ) và trở nên nổi tiếng bởi

sáng tác của Dante Alighieri (1265 - 1321) và Francesco Petrarch (1304 - 1374). Thể thơ

này nhanh chóng phổ biến tại Pháp, Tây Ban Nha và trở nên quen thuộc với công chúng vào

cuối thời Phục Hưng. Tại Anh, Petrarch là nhà thơ Ý có ảnh hưởng lớn hơn cả với những

bài thơ tình yêu say đắm đầy ngưỡng mộ dành cho một người phụ nữ xinh đẹp, trinh bạch

và kiêu kì. Thomas Wyatt (1503 – 1542) và Henry Howard, Earl of Surrey (1517 - 1547) là

các nhà thơ Anh đầu tiên viết sonnet. Mặc dù nhiều bài còn mang tính chất phỏng dịch các

bài thơ của Petrarch và phần lớn học theo mô thức có sẵn, ở một mức độ nào đó, họ đã từng

bước mở rộng đề tài cũng như cấu trúc sonnet, gợi ý cách chia khổ, hiệp vần của sonnet

Anh như ngày nay. Tác phẩm của họ được tập hợp trong cuốn Songs and Sonnets (1557).

Tuy vậy, người khuấy động phong trào sáng tác sonnet tại Anh, cũng là người mà

Shakespeare chịu ảnh hưởng trực tiếp là Philip Sydney với tập Astrophel and Stella xuất

bản năm 1590.

Giống như thơ Đường luật, sonnet cũng là thể thơ có sự quy định rất chặt chẽ về số

câu, chữ, vần, nhịp và bố cục. Một bài sonnet thường có 14 câu. Thông thường người ta hay

nhắc đến hai loại sonnet: the Italian sonnet (sonnet kiểu Ý hay còn gọi là Petrarchian

sonnet) và the Shakespearean sonnet (sonnet kiểu Shakespeare). Sonnet Italia thường chia

làm 4 khổ (hai khổ đầu mỗi khổ 4 câu (còn được gọi là quatrain), hai khổ sau mỗi khổ 3 câu

(tercet) theo cách hiệp vần: abba, abba, cdc, cdc (hoặc cdc, ece) hay 2 khổ (một khổ 8 câu

(octave), một khổ 6 câu (sixain) trong đó 8 câu đầu thường nêu ra một vấn đề, một ý tưởng,

một xúc cảm để rồi nó sẽ được giải quyết ở 6 câu sau. Ví dụ:

I THOUGHT ONCE HOW THEOCRITUS HAD SUNG

Elizabeth Barrett Browning

I thought once how Theocritus had sung a

Of the sweet years, the dear and wished-for years b

Who each one in a gracious hand appears b

To bear a gift for mortals, old or young a

And, as I mused it in his antique tongue, a

b I saw, in gradual vision through my tears,

b The sweet, sad years, the melancholy years,

a Those of my own life, who by turns had flung

c A shadow across me. Straightway I was aware,

d So weeping, how a mystic Shape did move

c Behind me, and drew me backward by the hair;

e And a voice said in mastery, while I strove,

“Guess now who holds thee?”

c - “Death”, I said. But, there,

e The silver answer rang, - “Not Death, but Love”.

(Tôi từng nghe những gì Theocrit đã từng ca

Về những tháng năm đáng yêu và khao khát

Những tháng năm bằng bàn tay dịu mát

Trao tài năng cho hết thảy trẻ già

Và khi say tiếng hát thuở xưa xa

Tôi bỗng thấy hiện lên qua nước mắt

Những tháng năm đượm buồn và tẻ ngắt

Những tháng năm mà đời tôi đi qua

Vụt một bóng đen và liền ngay tôi biết

Cái bóng đen ảo huyền di động khóc than

Từ phía sau túm tóc tôi giật miết

Tôi cố giằng, thì một giọng ngân vang

“Đoán ngay ai túm ngươi?” Tôi đáp liền: “Cái chết”

12

“Lầm đó, Tình yêu” vẳng lời đáp rõ ràng)P11F

Do cách bố cục như vậy, diễn tiến của một bài sonnet Italia thường được so sánh với

sự dâng lên và hạ xuống của một đợt thủy triều. Cảm xúc dâng lên ở phần trước đó, và khi

đạt đến cao điểm ở câu thứ 8 thì sẽ dội lại rồi trải rộng ra.

The Shakespearean sonnet thường chia làm 4 khổ (3 khổ đầu mỗi khổ 4 câu và cặp

câu cuối (couplet) theo cách hiệp vần abab, cdcd, efef, gg trong đó tiêu điểm thường dồn

vào hai câu cuối. Ví dụ:

BEAUTY, SWEET LOVE

Johnson

Beauty, Sweet Love is like the morning dew a

Whose short refresh upon the tender green b

Cheers for atime, but still the sun doth show a

And straight’s gone as it had never been b

Soon doth it fade that makes the fairest flourish c

Short is the glow of the blushing rose d

The hue which thou so carefully dost nourish c

Yet which at length thou must be forced to lose d

When thou, surcharged with burthen of thy years e

Shall bend thy wrinkles homeward to the earth f

And that, in Beauty’s lease expired, appears e

The Date of Age, the Calenda of our Death f

But ah, no more – ‘tis must not be foretold g

And Women grieve to think they must be old g

12 Dẫn lại theo Nguyễn Xuân Thơm [73, tr.32 – 33]

(Sắc đẹp, tình yêu như sương buổi sớm

Treo lung linh trên lá cây dễ vỡ

Vui một lúc cho mặt trời mơn trớn

Rồi tan đi như chẳng có bao giờ

Cái nở bừng là cái nhanh phai nhạt

Ôi ngắn sao thuở bông hồng mê ly

Nên sắc hương em tháng ngày cóp nhặt

Là cái cuối cùng em buộc phải mất đi

Khi dưới gánh thời gian em quằn quại

Chào đất tấm lưng còng và những nếp nhăn

Là lúc sắc đẹp trút hơi tàn, còn lại

Tuổi tác già nua và ngày đến của tử thần

Mà thôi, điều này đâu nên nói

13

Bởi nghĩ mình già Phái Đẹp sầu nhức nhối)P12F

Hình thức này đã tạo sự tự do hơn cho các nhà thơ Anh trong việc khai triển tư tưởng

của mình. Bài thơ không còn chỉ phân đôi như sonnet Italia, mỗi khổ 4 câu có thể được nhà

thơ sử dụng nhằm giãi bày tư tưởng, tình cảm theo nhiều cách để rồi cô đúc lại ở câu thơ

cuối.

Thơ sonnet Shakespeare gồm 154 bài, xuất bản lần đầu năm 1609, có thể được nhà

thơ sáng tác trong khoảng từ năm 1593 đến năm 1604 (theo Bruce MacEvoy). Đây là thời

gian thể sonnet đặc biệt thịnh hành ở Anh.

Về nội dung, 154 bài thơ của Shakespeare là những bài ca về tình bạn, tình yêu đầy

trẻ trung, táo bạo. Theo Đỗ Khánh Hoan “Mặc dù chủ đề trong những bài thơ này của

13 Xem (12).

Shakespeare là những chủ đề có tính cách ước lệ ở thời đại ông – tình yêu, tình bạn là

những chủ đề hầu như thuộc độc quyền khai thác của các nhà thơ thập tứ hàng thi thế kỉ

XVI – song điểm thành công rực rỡ của ông vượt hẳn người đương thời là ở chỗ ông có óc

tưởng tượng phong phú, tư tưởng dồi dào, có kinh nghiệm chín mùi và ngôn từ óng chuốt”

[19, tr.118 – 119]. Tác phẩm thể hiện niềm vui sôi nổi khi được sống trong tình yêu, nỗi

buồn đau thất vọng vì bị phụ bạc, vì cám cảnh trước nhân tình thế thái nhưng chung quy lại

đó là lời tâm sự chân thành, tha thiết của nhà thơ gửi đến hai đối tượng mà đến nay vẫn là

một bí ẩn: một chàng trai trẻ đẹp, hội tụ tất cả những chuẩn mực thẩm mĩ của thời đại và

một người phụ nữ có nước da đen, người khiến nhà thơ vừa hạnh phúc tột cùng vừa đau đớn

cực độ vì tình yêu say đắm. Từ đó, người đọc cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của thi nhân.

Thông qua những lời nhắc nhở, cầu xin, bày tỏ, trách móc, ca ngợi…, Shakespeare

sảng khoái tôn vinh vị thế của cái đẹp giữa thế gian, khẳng định tình yêu, sản phẩm của nó

cùng thơ ca sẽ chiến thắng mọi đau khổ, mọi sức mạnh tàn bạo, kể cả sự tàn phá của thời

gian, quyền lực.

Về nghệ thuật: Tên của Shakespeare được dùng để đặt cho thể thơ mà ông sử dụng,

riêng điều đó đã chứng tỏ đóng góp cũng như tầm ảnh hưởng của thơ ông. Shakespeare có

công lao rất lớn trong việc phát triển, hoàn thiện, tạo ra bộ mặt riêng của thơ sonnet Anh

qua việc mở rộng hệ thống âm, vần, kết cấu… và nhất là tạo cho hai câu cuối bài một ý

nghĩa đặc biệt.

1.3. Vấn đề cảm thức thời gian

Từ thuở sơ khai, con người đã không ngừng quan sát nhằm lí giải những hiện tượng

tự nhiên diễn ra xung quanh mình. Để đo các thời khắc diễn ra trong ngày, người ta lấy

chuẩn mực là ánh sáng mặt trời, từ đó xuất hiện đồng hồ. Nhận thức được sự tương tác giữa

chuyển động của mặt trăng, mặt trời đối với trái đất tạo ra các hiện tượng ngày, đêm, mùa…

theo một chu kì, con người đã làm ra lịch. Theo nhiều nhà nghiên cứu, lịch, đồng hồ dưới

dạng đơn giản nhất đã xuất hiện từ khoảng 6000 – 4000 năm trước công nguyên.

Đo đếm, xác định sự vận động của tự nhiên theo một chu kì để phục vụ cho lao động

sản xuất, con người cũng đồng thời nhận thấy tác động của nó đối với đời sống. Họ tính

toán các ngày lành tháng tốt, ngày hung tháng hạn để dự tính làm những việc quan trọng: đi

xa, cưới vợ, làm nhà… Người ta cũng đã chứng minh các ngày đặc biệt: thảm họa từ thiên

nhiên, sự thay đổi triều đại, tai nạn lớn… đều có liên quan đến các dấu hiệu khác thường

trên bầu trời.

Không chỉ nhận thức vòng quay của tự nhiên, con người cũng ý thức về vòng đời. Ở

phương Tây, người ta kỉ niệm rất long trọng các ngày đánh dấu bước chuyển của con người

từ giai đoạn này sang giai đoạn khác, đặc biệt ngày đánh dấu sự trưởng thành của một cá

nhân – người ta tổ chức cả một nghi lễ ghi nhận nó, họ gọi là “puberty rites”. Ở các nước

phương Đông, ngày giỗ được xem là một ngày có ý nghĩa đặc biệt, là ngày những người còn

sống nhớ đến người đã khuất, nên cũng được tổ chức kỉ niệm như một hoạt động thiêng

liêng.

Đó đều là sự ý thức của con người về một khái niệm mà người ta gọi là thời gian –

một sự ý thức có từ rất sớm và không ngừng được bổ sung, hoàn thiện. Từ xa xưa, con

người đã nhận thức thời gian (cùng với không gian) chính là hình thức tồn tại của thế giới

vật chất, không một vật thể nào có thể tồn tại ngoài thời gian. Theo Gurevich: “Khó mà tìm

được tiêu chí, khắc họa đầy đủ bản chất của văn hóa như là khái niệm thời gian. Trong khái

niệm thể hiện đầy đủ cảm quan và thế giới của thời đại, hành vi của con người, ý thức của

nó, nhịp của cuộc sống, thái độ đối với sự vật”[17, tr.98]. Nhận thức này là cơ sở khách

quan để đi đến khái niệm phần nào mang tính chủ quan: cảm thức thời gian.

Theo Từ điển tiếng Việt, cảm thức là sự nhận thức bằng cảm quan, nhận thức bằng

cảm giác. Cảm thức thời gian là sự cảm nhận, nhận thức riêng của mỗi cá nhân về sự trôi

chảy của thời gian, nhịp độ, biểu hiện của nó... Cảm nhận ấy có thể trùng khít, nhưng

thường khác với thời gian tuyến tính. Đi vào tác phẩm nghệ thuật, cảm thức thời gian của

người nghệ sĩ sẽ được cụ thể hóa, hình tượng hóa, đem đến cho ta thời gian nghệ thuật – “là

thời gian mà ta có thể thể nghiệm được trong tác phẩm nghệ thuật với tính liên tục và độ

dài của nó, với nhịp độ nhanh hay chậm”[39,tr.77]. Thời gian trong cảm thức của nhà văn

mang những đặc trưng riêng, khác với thời gian thực tế.

Thời gian trong cảm thức của nhà văn, do xuất phát từ cái nhìn, sự trải nghiệm cá

nhân, mang tính tâm lí. Nó hoàn toàn tự do và khác về bản chất với thời gian theo nghĩa

thông thường. Vẫn là thời gian với các đặc trưng: tính liên tục, độ dài, hướng, nhịp nhưng

các đặc trưng này có thể co giãn theo dòng tâm trạng, cách nhìn và dụng ý của nhà văn. Các

nhà nghiên cứu đã chỉ ra sự phi lí trong cách tính tuổi nhân vật tương ứng với năm tháng ở

tiểu thuyết Chiến tranh và hòa bình của L. Tônxtôi. Nhân vật Natasa 13 tuổi vào năm

1805, đến năm 1806 cô 15 tuổi và đến năm 1809 cô lại chỉ có 16 tuổi. Cũng như vậy năm

1805 Xônhia 15 tuổi và đến năm 1807 cô lại 16 tuổi. Nhà văn kì thực không quan tâm đến

thời gian thực, cái mà ông chú trọng đào sâu là thời gian trong tâm trạng nhân vật. Trong tác

phẩm văn học, một ngày có khi được miêu tả “dài hơn thế kỉ”, nhưng có khi cả đời người lại

chỉ được hình dung như bóng câu qua cửa sổ. Có khi một khoảnh khắc, một cuộc gặp gỡ

được nhà văn viết thành cuốn tiểu thuyết dài hơi, trong khi khoảng thời gian cả thế kỉ chỉ

được thâu tóm bằng vẻn vẹn một câu ngắn gọn. Quãng đời của Chí Phèo từ sau khi ra tù

được Nam Cao khái quát bằng một chữ “say”: “những cơn say của hắn tràn từ cơn này qua

cơn khác, thành một cơn dài, mênh mông” trong khi sự tiếp nối của các thế hệ dòng họ

Buenđa được hình dung như cả lịch sử hình thành châu Mĩ. Với đôi trai gái đang sống trong

yêu đương, chờ đợi, thời gian sao mà chậm chạp:

Sầu đong càng lắc càng đầy

Ba thu dọn lại một ngày dài ghê

(Truyện Kiều)

còn với những người trong cơn nguy biến, thời gian lại vụt đi như tên bắn:

Hàn huyên chưa kịp dã dề

Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao

Người nách thước, kẻ tay đao

Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi.

(Truyện Kiều)

Trong cảm thức nhà văn, thời gian vẫn có ba chiều: quá khứ - hiện tại – tương lai

nhưng nó không còn tuân theo đúng chiều vận động mà có thể thay đổi trật tự bằng đảo

ngược, đan xen, có khi xuất hiện cùng một lúc (điều mà các nhà nghiên cứu hiện đại gọi là

thời gian đồng hiện). Khi “trao duyên” cho Thúy Vân, Kiều nói với em:

Mất người còn chút của tin

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa

Cuộc gặp gỡ với Kim Trọng, mối tình trong sáng cùng bao thề nguyền hẹn ước chỉ

mới đây thôi nhưng Kiều đã đẩy nó vào quá khứ “ngày xưa” xa lắc, tưởng như đó là chuyện

của một thế giới xa xăm nào không còn vết dấu, như cổ tích, như chuyện thần tiên. Ấy là

bởi đối với nàng, mơ ước hạnh phúc cùng chàng Kim đã trở nên quá xa vời, nàng tha thiết

nhưng vĩnh viễn không có được. Hình bóng chàng giờ chỉ là kỉ niệm, một kỉ niệm Kiều

đành chôn chặt trong tim để nhớ thương đến trọn đời. Một chữ “ngày xưa” đã nói lên tất cả

nỗi đau đớn, tiếc nuối xót xa trong lòng Kiều khi bắt buộc phải chia xa người mình yêu dấu.

Thời gian tâm lí được nhà văn cảm nhận không phải bằng những thước đo thông

thường: ngày, tháng, năm, giờ, phút… mà bằng những tín hiệu riêng, thể hiện con mắt quan

sát tinh tường cùng tâm hồn nhạy cảm. Các nhà thơ xưa thấy mùa thu về qua lá vàng rơi, lá

ngô đồng rụng hay hoa cúc. Nhà thơ Hữu Thỉnh cảm nhận hơi thu qua hương ổi phả vào hơi

gió, qua màn sương giăng mắc trước ngõ:

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về

(Sang thu)

Còn Thanh Hải lại bắt được tín hiệu xuân bởi một bông hoa dại đang bung nở, bởi

tiếng chim chiền chiện hót vang trời, bởi không gian trong lành tươi sáng và cả những tín

hiệu vô hình, không thể nắm bắt bằng giác quan, chỉ có thể thẩm thấu bằng khả năng kì diệu

của trái tim:

Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng

(Mùa xuân nho nhỏ)

Do được cảm nhận một cách đặc biệt như vậy, thời gian trong tác phẩm nghệ thuật

đôi khi trở nên hữu hình, có màu sắc, mùi vị, hương thơm, ánh sáng. Đoàn Phú Tứ miêu tả

hương thời gian, màu thời gian:

Hương thời gian thanh thanh

Màu thời gian tím ngát

(Màu thời gian)

Xuân Diệu cũng thấy thời gian có mùi – mùi vị của chia phôi: “Mùi tháng năm đều

rớm vị chia phôi”, thậm chí có hình hài, dáng vóc “như một cặp môi gần”, hay một quả

chín, một thiếu nữ trong trắng, mơn mởn để nhà thơ phải thốt lên “Hỡi xuân hồng ta muốn

cắn vào ngươi”(Vội vàng).

Không chỉ mang tính tâm lí, thời gian trong cảm thức người nghệ sĩ còn mang tính

quan niệm và có nội hàm triết lí. Đọc các tác phẩm văn học phương Tây, người ta không thể

không có ý niệm về thời gian bởi ngay bản thân từ ngữ dùng để tả, kể đã thuộc về một thì

nào đó, điều này chứng tỏ mối quan tâm đặc biệt của họ đến thời gian hơn là không gian.

Thời gian là phương tiện để nhà văn phản ánh đời sống, thể hiện cảm xúc, tư tưởng. Thông

qua các kiểu thời gian, ta có thể thấy được đặc điểm thời đại hay một giai đoạn trong lịch sử

hoặc một loại hình, một xu hướng văn học: dân gian – trung đại – hiện đại; lãng mạn – hiện

thực; Nho – Phật – Đạo… Thời gian trong truyện cổ tích thường mang tính phiếm chỉ

“Ngày xửa ngày xưa, đã lâu lắm rồi”, “Thuở ấy”… bởi về bản chất, cổ tích là những câu

chuyện “bịa”. Người ta kể chuyện để thể hiện khao khát về lẽ công bằng hay thỏa mãn nhu

cầu giải trí, để cho trí tưởng tượng mặc sức bay bổng. Cho nên họ chỉ quan tâm đến diễn

biến câu chuyện, không cần biết nó có thực hay không, xảy ra vào lúc nào và nếu có người

tin nó là thật, họa chăng chỉ có trẻ em. Ngược lại, thời gian trong truyền thuyết lại thường

rất cụ thể, xác định bởi dân gian tin vào tính hiện thực của những sự kiện, biến cố, nhân vật

lịch sử mà tới nay còn ít nhiều để lại dấu vết. Trong văn học trung đại, thời gian thường là

thời gian tuần hoàn, bốn mùa đắp đổi theo kiểu: “Sen tàn cúc lại nở hoa/ Sầu dài ngày ngắn

đông đà sang xuân”. Điều này xuất phát từ cảm quan của con người về thế giới: con người

nhìn thế giới trong tính toàn vẹn, thống nhất của nó. Bởi vậy, dù bị ám ảnh bởi tính chất

ngắn ngủi của cuộc đời, họ không có ý thức tách mình ra như một thực thể độc lập mà

thường hòa mình trong không gian thời gian vô thủy vô chung. Cách chiêm nghiệm ấy hoàn

toàn khác với con người hiện đại: càng về sau này, thời gian trong các tác phẩm càng có xu

hướng bị phá vỡ, chỉ còn là những mảnh, mẩu được lắp ghép một cách rời rạc trong cố gắng

“phi thời gian hóa”. Cách thể hiện ấy cho thấy cái nhìn thế giới như một thực tế hỗn độn,

không thể tìm ra mối quan hệ nhân quả, không còn tính vẹn nguyên. Cảm thức thời gian, do

đó cũng là một trong những yếu tố góp phần thể hiện phong cách.

Qua cảm thức thời gian, ta còn thấy được nếp cảm, nếp nghĩ của một con người đại

diện cho một dân tộc mà phía sau đó là cội nguồn văn hóa.

CHƯƠNG 2: NHỮNG GẶP GỠ TÌNH CỜ GIỮA THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU VÀ THƠ SONNET SHAKESPEARE VỀ CẢM THỨC THỜI GIAN

Chúng tôi xem điểm chung trong cảm thức thời gian của Nguyễn Du và Shakespeare

là “những gặp gỡ tình cờ” vì hiện chưa có tài liệu nào cho thấy Nguyễn Du đã đọc hay chịu

ảnh hưởng của Shakespeare. Nguyễn Du từng nhiều lần bày tỏ niềm đồng cảm với những

con người cách mình nhiều thế kỉ: Tiểu Thanh, Đỗ Phủ, Khuất Nguyên… nhưng ở thời đại

Nguyễn Du, sự giao lưu chủ yếu là với Trung Quốc và các nước phương Đông, ảnh hưởng

của văn hóa, văn học phương Tây hầu như không có. Theo nhà nghiên cứu Trần Nam Tiến

trong cuốn Ngoại giao giữa Việt Nam và các nước phương Tây dưới triều Nguyễn, đầu

thế kỉ XVII, người Anh bắt đầu lui tới Việt Nam đặt quan hệ thông thương. Năm 1600, công

ty Đông Ấn Anh thành lập ở Ấn Độ, qua đó mở đầu cho việc giao lưu buôn bán với các

nước phương Đông. Khoảng năm 1613 - 1616, phái đoàn công ty này đến Đàng Trong,

Đàng Ngoài dâng tặng phẩm vật xin thông thương buôn bán, nhưng bị các thương nhân

ngoại quốc khác chèn ép nên chưa có cơ hội phát triển việc buôn bán ở Việt Nam. Đến năm

1673, người Anh mới lập được thương điếm ở phố Hiến và năm 1683, lập thương điếm ở

Kẻ Chợ. Sản phẩm đem sang bán của họ chủ yếu là đồ xa xỉ, hàng len dạ, súng còn sản

phẩm mua về chủ yếu là tơ lụa. Cũng theo tác giả này, thời Gia Long, quan hệ Việt Nam –

Anh không thuận lợi vì trước khi lên ngôi, Gia Long đã có xích mích với người Anh. Năm

1803, J.W Robert đến Việt Nam đặt quan hệ thông thương, xin lập phố buôn bán ở Trà Sơn

(Đà Nẵng) nhưng đã bị Nguyễn Ánh từ chối và sai người trả lại tặng vật. Gia Long, trong

khi có thái độ thiện chí với các thương đoàn người Pháp nhưng lại rất kì thị người Anh, cho

họ là man di, lòng dạ khó lường, cần phải ngăn ngừa từ xa. Thời kì này có những lúc quan

hệ giữa triều đình nhà Nguyễn với người Pháp rất tốt nhưng chỉ về mặt chính trị, kinh tế.

Phải đến đầu thế kỉ XX, hầu hết trí thức Việt Nam mới được tiếp xúc với các tác phẩm văn

hóa, văn học phương Tây. Shakespeare sống trước Nguyễn Du hai thế kỉ và rất nổi tiếng

nhưng do không tìm thấy dấu vết ảnh hưởng nên có thể nói đây là một sự trùng hợp hoàn

toàn ngẫu nhiên thú vị. Sự trùng hợp ấy thể hiện trên ba khía cạnh: bước đi của thời gian,

sức tàn phá của thời gian, ý thức về sự ngắn ngủi kiếp người trước cái vô hạn thời gian.

2.1. Bước đi của thời gian

2.1.1. Thời gian – nỗi ám ảnh khôn nguôi với thi nhân

Không hẹn mà nên, cả hai nghệ sĩ đều xáo động tâm tư trước bước đi của thời gian.

Các tín hiệu thời gian: mùa trong năm, thời khắc trong ngày, từng giờ từng phút trôi qua….

được nhận ra ở những biểu hiện tinh tế nhất. Nguyễn Du nghe được tiếng thu vượt qua sông

Lam, thấy được sắc thu trên khóm hoa vàng:

Thu thanh nhất dạ độ Lam hà,

Vô ảnh vô hình nhập ngã gia

Vạn lý tây phong lai bạch phát

Nhất song thu sắc tại hoàng hoa

(Tiếng thu một đêm vượt qua sông Lam,

Không bóng không hình vào nhà ta

Từ muôn dặm gió tây thổi đến với mái tóc bạc,

Sắc thu đầy cửa sổ nơi khóm hoa vàng)

(Tạp ngâm)

Nhà thơ có thể nhìn thấy sắc thu bằng thị giác, đón nhận gió tây bằng xúc giác,

nhưng để thẩm thấu âm thanh tiếng thu “vô ảnh vô hình” chắc chắn không chỉ bằng thính

giác mà có lẽ phải bằng cả trái tim. Tư Mã Thiên từng kể câu chuyện về bạo chúa Trụ Tân

mổ tim người can gián mình làm việc xấu để xem lời đồn có ứng nghiệm: tim kẻ thông thái

14

có 7 khiếu. Câu chuyện ngầm ẩn ý nguyện của người xưa: muốn tìm trong tim người một

P. Phải chăng ở đây, khi miêu tả bước chân

cửa mở thông ra biển tri thức, thông với vũ trụ P13F

mùa thu vượt sông Lam xa xôi lọt vào nhà trong đêm vắng, Nguyễn Du cũng cho thấy một

khả năng tương thông kì diệu với thế giới?

Thu đến, xuân qua, tất cả đều tác động vào trái tim nhạy cảm của thi sĩ:

Xương hạp môn tiền xuân sắc lan,

Cách giang dao đối Ngự Bình san

Xuân tòng giang thượng lai hà xứ,

Nhân ỷ thiên nhai trệ nhất quan

14 Chi tiết xin xem: Li xê vich – Tư tưởng văn học cổ Trung Quốc – NXB Giáo Dục trang 66, 67 (2003)

(Trước cửa hoàng thành sắc xuân sắp tàn,

Cách sông xa nhìn núi Ngự Bình

Xuân theo dòng sông đến nơi nào

Người nương chốn chân trời, một chức quan cột chặt)

(Ngẫu thư công quán bích 2)

Dòng sông đêm ngày cuộn chảy như dòng thời gian đang trôi đi. Nhìn dòng sông,

Nguyễn Du hình dung mùa xuân như đang trôi đi đến điểm tận cùng của nó. Câu hỏi được

thốt ra bất ngờ trong giây phút nhà thơ nhận ra một cách rất hữu hình sự tuôn chảy của thời

gian “Xuân theo dòng sông đến nơi nào?”. Không phải ông không biết “lai hà xứ” mà có lẽ

quá ngỡ ngàng, tiếc nuối nên tự hỏi mình như vậy. Cũng có khi, nhà thơ thao thức trong

đêm nghe tiếng trống canh:

Bất mị thính hàn canh

Hàn canh bất khẳng tận

(Không ngủ lắng nghe từng canh đêm lạnh trôi qua

Canh lạnh dài tưởng chừng không dứt)

(Bất mị)

Ta hình dung ra một con người đang đếm nhịp thời gian, nhưng có vẻ như đây không

phải là thời gian vật lý. Chữ “hàn canh” vắt từ câu trước sang câu sau, trở đi trở lại, day dứt

và lại “bất khẳng tận”. Người ta không thể “thính” được cái “hàn” và âm thanh thì không

lạnh. Đây là nhịp thời gian lạnh lẽo, vô tình, thản nhiên đều bước hay chính là nhịp đời từng

phút từng giây dịch chuyển? Giống như Nguyễn Du, Shakespeare cũng nhìn thấy bước đi

thời gian trên từng sự vật:

When I do count the clock that tells the time,

And see the brave day sunk in hideous night;

When I behold the violet past prime,

And sable curls, all silvered o'er with white;

When lofty trees I see barren of leaves,

Which erst from heat did canopy the herd,

And summer's green all girded up in sheaves,

Borne on the bier with white and bristly beard,

(Khi tôi đếm thời gian từ chiếc đồng hồ

Và thấy ngày đẹp lộng lẫy chìm vào đêm tối tăm

15

Khi tôi ngắm nhìn hoa violet đi qua tuổi thanh xuân

P giờ đều đen cuộn xoắn

Tất cả lớp bạc trắng tinhP14F

Khi tôi nhìn những cây cao trơ trụi lá

Xưa kia từng tỏa bóng che những bầy đàn khỏi cái nóng

Và màu xanh của mùa hè bị cuốn thành từng bó

16

Mang đi trên chiếc quan tài râu bạc trắng tua tủaP15F

(Sonnet 12)

Nhà thơ vẽ ra trước mắt người đọc một loạt các hình ảnh cụ thể, sinh động. Bước

chân thời gian đi đến đâu là in hằn dấu vết đến đó trên cảnh vật qua hình hài, dáng vẻ, màu

sắc. Nó không mơ hồ, huyền ảo mà được đo đếm chính xác qua tiếng tích tắc, tiếng chông

đồng hồ. Những cấu trúc câu được lặp lại (When I see…, And…) như khẳng định một quy

luật không loại trừ một đối tượng nào. Rất nhiều lần, nhà thơ chỉ ra những dấu hiệu mà có

khi ít người để ý:

The wrinkles which thy glass will truly show

Of mouthed graves will give thee memory;

Thou by thy dial's shady stealth mayst know

Time's thievish progress to eternity.

(Tấm gương sẽ phản chiếu những nếp nhăn, sẽ cho thấy

những vết hằn trên khóe miệng, sẽ gợi lại kí ức;

Bằng sự chuyển động thầm lặng của chiếc bóng trên mặt đồng hồ bạn có thể biết

sự thầm lén của thời gian đi tới vĩnh cửu)

15 Của cánh hoa 16 Hình ảnh miêu tả cây cối đến mùa thu hoạch

(Sonnet 77)

Chiếc gương soi, chiếc đồng hồ tái xuất hiện nhiều lần như một nhân chứng có khả

năng phản chiếu, cụ thể hóa sự hiện diện của bước chân thời gian. Nhà thơ giống như một

con người tỉ mẩn không ngừng đo đếm, chi chút từng phút từng giây. Không gì lọt ra khỏi

con mắt quan sát của ông, không một tích tắc nào đi qua mà không để lại dấu vết. “Tên

trộm” thời gian đã bị theo dõi, ghi lại mọi động tĩnh. Thời gian cũng được ghi nhận ở sự đổi

thay các thế hệ:

Thou art thy mother's glass and she in thee

Calls back the lovely April of her prime;

So thou through windows of thine age shalt see,

Despite of wrinkles this thy golden time.

(Anh là chiếc gương soi của mẹ, từ anh mà bà ấy

Gợi lại tháng Tư đẹp đẽ thời thanh xuân

17

Cho nên anh, qua tấm gương tuổi tác có thể thấyP16F

thời hoàng kim của chính mình, bất kể những nếp nhăn)

(Sonnet 3)

Trong thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ sonnet Shakespeare, thời gian đã thực sự trở

thành một đề tài, một nhân vật, một nỗi ám ảnh lớn. Thời gian xuất hiện mọi lúc, mọi nơi

với mọi chiều kích của nó.

2.1.2. Bước chân nhanh chóng, vô tình, không chờ đợi của thời gian

Dù thời gian hiện ra qua những tín hiệu nào thì nó cũng có đặc điểm chung là tính

quá trình, không ngừng nghỉ. Đặc biệt, trong cảm nhận của hai thi sĩ, thời gian trôi vô cùng

nhanh chóng. Dẫu đã đếm từng giây phút, cả hai nghệ sĩ vẫn không khỏi có lúc giật mình

trước tốc độ khủng khiếp và sự vô tình đến ớn lạnh của nó.

Lặng người trước bước chân nhanh chóng của thời gian, có khi Nguyễn Du than thở

bằng một lối ví von quen thuộc: ngày tháng như thoi đưa:

Tứ thời hảo cảnh vô đa nhật

17 Câu này ý muốn nói qua đứa con của mình, anh sẽ thấy lại thời hoàng kim, tác giả dùng cách diễn đạt “windows of thine age”.

Phao trịch như thoa hoán bất hồi

Thiên lí xích thân vi khách cửu,

Nhất đình hoàng diệp tống thu lai

(Cảnh đẹp bốn mùa chẳng được bao ngày,

Ngày tháng thoi đưa, gọi không quay lại

Thân mình trần trụi ngoài nghìn dặm ở lâu nơi đất khách

Một sân lá vàng đưa mùa thu tới)

(Thu dạ 1)

Lục xích câu mi trường dịch dịch,

Tứ thời phao trịch thái thông thông

(Tấm thân sáu thước bị câu thúc cứ phải phục dịch mãi

Bốn mùa như thoi đưa rất là nhanh)

(Ngẫu hứng 2)

Ý thức về tốc độ không gì kìm giữ được của thời gian thường đi liền với sự tự ý thức

về tình cảnh bản thân. Trong khi thời gian không chờ đợi, không thể níu giữ, con người đối

diện với một cuộc sống bế tắc, bất đắc chí. Ta thấy trong thơ chữ Hán Nguyễn Du những

khoảng thời gian cụ thể, cho thấy phút giây thảng thốt vì mới đó thôi mà sao đã chừng ấy

ngày, tháng, năm trôi qua. Ấy là khi nằm bệnh bên sông, chợt một ngày ngậm ngùi:

Giang thành nhất ngọa duyệt tam chu

Bắc vọng gia hương thiên tận đầu

(Nằm ở thành bên sông chốc đã 3 năm

Trông về bắc quê nhà ở tận cuối trời)

(Tân thu ngẫu hứng)

Đa bệnh đa sầu khí bất thư,

Thập tuần khốn ngọa Quế giang cư

(Nhiều bệnh nhiều sầu thần khí không thư thái

Mười tuần nằm co trong nhà bên sông Quế)

(Ngọa bệnh 1)

Đặc biệt, khoảng thời gian 10 năm hay được nhắc đến như một sự tổng kết:

Thiên hạc đàm ngư hà xứ tầm,

La Thành nhất biệt thập niên thâm

Đồng niên đối diện cách thiên nhưỡng,

Vãng sự hồi đầu thành cổ câm

(Hạc trên trời, cá dưới đầm, biết đâu mà tìm?

Từ một lần chia biệt ở La Thành, chốc đã 10 năm

Bạn đồng niên giáp mặt mà tưởng như trời với đất cách xa

Việc cũ quay đầu nhìn lại đã thành ra chuyện đời xưa với chuyện đời nay)

(Phúc Thực Đình 1)

Thập niên dĩ thất hoàn lương mộ

Ná đắc gia hương nhập mộng tần?

(10 năm đã quên mất đường về làng cũ

Sao cho quê nhà luôn đi vào trong giấc mộng)

(Tam giang khẩu đường dạ bạc)

Dù là 3 năm, 10 năm, 30 năm…, những khoảng thời gian ấy cũng đã qua đi thật

chóng vánh. Nhà thơ nhắc đến chúng như nhắc đến một khoảnh khắc, một thứ gì quý giá

không lấy lại được.

Với Shakespeare, thời gian của cả đời người dằng dặc chỉ được so sánh với một

ngày:

Lo! in the orient when the gracious light

Lifts up his burning head, each under eye

Doth homage to his new-appearing sight,

Serving with looks his sacred majesty;

And having climbed the steep-up heavenly hill,

Resembling strong youth in his middle age,

Yet mortal looks adore his beauty still,

Attending on his golden pilgrimage:

But when from highmost pitch, with weary car,

Like feeble age, he reeleth from the day,

The eyes, 'fore duteous, now converted are

From his low tract, and look another way:

(Nhìn kìa! Ở phương Đông khi ánh sáng (mặt trời) tỏa lan

Nhô chiếc đầu rực cháy, dưới mỗi con mắt

Là niềm ngưỡng mộ sự xuất hiện đầy mới mẻ của anh ta

Ngước nhìn vẻ uy nghi thần thánh của anh ta

Và (mặt trời) đang trèo lên trên con dốc của đồi thiên đường

Giống như chàng thanh niên trẻ tráng trong thời kì đẹp nhất của cuộc đời

(Thần chết) vẫn tôn sùng vẻ đẹp của anh

Chăm chú vào chuyến đi thần thánh

Nhưng khi từ trên đồi cao nhất, với chiếc xe đã rệu rã

Giống như khi già yếu, anh ta quay cuồng (trong ánh sáng) ngày,

Những đôi mắt, trước đây biết vâng lời, bây giờ thay đổi

(không còn) chú ý vào anh mà nhìn đi nơi khác)

(Sonnet 7)

Thời trung cổ, người ta chia đời người thành các giai đoạn tương ứng với các thời kì

trong Kinh thánh: “Theo Oguyxtanh, lịch sử có sáu thời đại từ lúc sáng tạo ra Ađam cho tới

đại hồng thủy, từ đại hồng thủy cho tới Abraham, từ Abraham cho tới Đavit, từ Đavit cho

tới sự cầm tù ở Babilon, từ cầm tù ở Babilon cho đến khi Kitô ra đời và cuối cùng từ Kitô

cho đến tận thế. Những thời đại lịch sử thế giới này tương ứng với sáu thời kì của đời

người: tuổi ấu thơ, tuổi nhi đồng, tuổi thiếu niên, tuổi thanh niên, tuổi chín chắn, tuổi già”

[17, tr.127]. Còn với Shakespeare, đời người chỉ có hai giai đoạn: thời huy hoàng và thời tàn

tạ. Nhà thơ miêu tả hành trình của mặt trời từ lúc bắt đầu xuất hiện tới khi tắt ánh hào

quang. Khi mới nhô lên với luồng ánh sáng rực rỡ bao bọc, anh ta thật uy nghi, lộng lẫy, tự

tin, hăm hở bước vào chuyến đi. Tất cả mọi vật xung quanh dường như cũng bị cuốn hút,

dõi theo ánh sáng ấy. Nhưng rất nhanh sau đó, mọi thứ thay đổi. Mặt trời mệt mỏi, rệu rã,

tàn tạ dần và đi đến cuối cuộc hành trình. Đây cũng chính là vòng đời của một con người.

Chỉ có điều, mặt trời mỗi sáng đều mọc để rồi lặn khi chiều xuống, còn con người chỉ có

một cơ hội lên đường. Thời gian của họ mới ngắn ngủi làm sao, không kịp mà nghĩ ngợi,

xoay sở. Thật tình cờ là Nguyễn Du cũng có lúc có liên tưởng tương tự:

Du du vân ảnh biến thần tịch

Cổn cổn lãng hoa phù cổ câm (kim)

(Sáng và chiều đổi thay theo bóng mây trôi lờ lững

Xưa và nay lênh đênh như hoa sóng cuồn cuộn)

(La Phù giang thủy các độc tọa)

“vân ảnh” và “lãng hoa phù ” đều là những thứ trong chốc lát có thể biến dời. Những

hình ảnh ấy khi đặt song song với “sáng” và “chiều”, hơn nữa “xưa” và “nay” tưởng chừng

không thể có dấu bằng ở giữa. Thế nhưng, trong cảm quan của thi nhân, phương trình đó lại

hiện diện. Sự đổi thay “sáng” – “chiều” không chỉ là vòng quay của “bình minh” – “hoàng

hôn” trong ngày, mà còn có thể hiểu là sự lớn lên già đi của một con người, sự biến chuyển

vô chừng của thời thế. Hoảng hốt, có lúc Shakespeare kêu lên:

O fearful meditation! where, alack,

Shall Time's best jewel from Time's chest lie hid?

Or what strong hand can hold his swift foot back?

Or who his spoil of beauty can forbid?

O! none, unless this miracle have might,

That in black ink my love may still shine bright

( Ôi, suy nghĩ thật đáng sợ, ở nơi mà than ôi,

Đồ trang sức đẹp nhất của thời gian được cất giấu trong bộ ngực của nó.

Hay bàn tay mạnh mẽ nào có thể giữ bước chân nhanh chóng của thời gian

Hoặc ai mà có thể ngăn cấm được sự phá hủy của nó với cái đẹp

Ồ, không ai, trừ phi phép màu xảy ra

18

P tình yêu của tôi vẫn tỏa sáng

Đó là trong mực đenP17F

(Sonnet 65)

Tác giả đưa ra một loạt các câu hỏi nhưng thực chất là các câu phủ định. “Time’s

swift foot” là một thực tại hiển nhiên, trong khi để níu giữ nó, người ta cần cả một phép

màu. Trên con đường nó đi qua, ngoại vật chỉ tồn tại trong “a little moment” :

When I consider every thing that grows

Holds in perfection but a little moment,

That this huge stage presenteth nought but shows

Whereon the stars in secret influence comment;

When I perceive that men as plants increase,

Cheered and checked even by the self-same sky,

Vaunt in their youthful sap, at height decrease,

And wear their brave state out of memory;

(Khi tôi quan tâm đến mọi thứ đang lớn lên

Chỉ giữ được vẻ hoàn hảo trong thời gian rất ngắn

Thời khắc huy hoàng ấy chỉ thoáng qua như một ảo ảnh và hiện diện

(Cho thấy) ảnh hưởng bí mật của những ngôi sao

Khi tôi nhận thấy con người cũng như cây cối phát triển

Bị kích thích và ngăn trở bởi cùng một điều kiện thiên nhiên

Hân hoan trong nhựa sống tuổi trẻ (và khi) lên đến đỉnh điểm thì tàn tạ dần đi

Và hao mòn sinh lực một cách vô thức)

(Sonnet 15)

Khi con người vừa kịp nhận ra “a little moment” đó thì nó đã đi mất hút.

Giống như cánh chim bay không biết mỏi, hay như gió thổi mây trôi, thời gian không

đợi một người nào, cũng không bao giờ bị ngáng trở. Mạnh mẽ hơn, Shakespeare còn tưởng

tượng tốc độ của nó như con sóng vỗ bờ:

18 Black ink ở đây được hiểu là những trang thơ (cách nói hoán dụ).

Like as the waves make towards the pebbled shore,

So do our minutes hasten to their end;

(Giống như những con sóng vỗ về phía bờ cát

Thời gian của chúng ta gấp gáp đi đến kết thúc)

(Sonnet 60)

Như có một lực đẩy vô hình, thời gian trong thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ sonnet

Shakespeare lúc nào cũng gấp gáp, vội vã. Người xưa có câu “Ngày vui ngắn chẳng tày

gang”. Cả cụ Nguyễn Tiên Điền và chàng “thiên nga sông Evon” có lẽ đều quý trọng từng

giây phút sống, đều có một tâm hồn hết sức nhạy cảm nên mới có sự gặp gỡ này. Cái nhìn

của họ, có thể nói đậm màu sắc hiện đại. Bởi con người trong văn học cổ thường chỉ thấy ở

thời gian sự tuần hoàn, mà đã tuần hoàn thì thường đều đặn, vì họ lấy thiên nhiên, vũ trụ

làm tâm điểm. Còn Nguyễn Du và Shakespeare dường như đứng từ góc độ con người trần

thế: thời gian không còn mang tính khách quan mà trở thành thời – gian – của – mình cho

nên mới vội vàng làm vậy.

Có một điều đáng chú ý là thông thường ở các xã hội thuần nông, sự nối tiếp đều đặn

của các mùa vụ thường dẫn đến thái độ vô tư trước sự trôi chảy của thời gian, dẫn đến một

nhịp sống khoan thai, đều đều, chậm rãi. Chỉ khi các đô thị bắt đầu phát triển, con người

mới thực sự có nhu cầu đo đếm thời gian một cách chi li “Đô thị trở thành nhân tố mang

thái độ mới đối với thế giới và do đó cũng mang thái độ mới đối với vấn đề thời gian. (…) ở

đô thị đã hình thành một môi trường xã hội có thái độ đối với thời gian hoàn toàn khác thái

độ của những đẳng cấp nông dân phong kiến. Đối với thương nhân, thời gian là tiền, nhà

kinh doanh cần sự xác định giờ giấc trong xưởng của mình. (…) Thời gian có một giá trị

lớn, nó biến thành một nhân tố cốt yếu của sự sản xuất” [17, tr.155]. Shakespeare sống ở đô

thị trong thời kì những mầm mống của chủ nghĩa tư bản đang phát triển mạnh mẽ, thái độ

tính toán, chi chút từng mốc thời gian nhỏ ở ông là hoàn toàn dễ hiểu. Còn Nguyễn Du, nếu

chúng ta tìm hiểu kĩ đặc điểm thời đại của nhà thơ, ta sẽ thấy được những biến đổi đáng lưu

ý của xã hội: “Sự hưng khởi của các đô thị lớn như Kẻ chợ (còn gọi là kinh kì Thăng Long),

Phố Hiến, Thanh Hà (Thừa Thiên), Hội An… đã tạo sự thay đổi cho bộ mặt xã hội. Các

trung tâm buôn bán lớn, các làng mạc có các nghề thủ công được tổ chức lại thành phường

hội để sản xuất chuyên nghiệp về một mặt hàng nào đó như: nghề làm đồ gốm, nghề dệt,

nghề in, nghề khắc tranh, nghề mộc… Các ngành khai thác khoáng sản bước đầu gây được

sự chú ý và có dấu hiệu phát triển rộng rãi. Chính quyền phong kiến còn cho mở những

19

xưởng đóng đóng tàu, xưởng chế tạo súng” [48, tr.18]. Đây cũng có thể xem là các nhân tố

P. Như vậy, sự tương đồng trong cách cảm nhận

manh nha sự phát triển của lối sống đô thịP18F

về bước đi thời gian ở Nguyễn Du và Shakespeare còn có thể được lí giải một phần từ

những gặp gỡ nhất định về hoàn cảnh xã hội.

2.2. Sức tàn phá của thời gian

Không dừng lại ở việc mô tả những bước đi vô hình, cả hai nghệ sĩ trong thơ mình

đều đã cụ thể hóa hình ảnh thời gian bằng sức tàn phá khủng khiếp của nó. Như trên đã nói,

thời gian không còn là một tồn tại khách quan bao chứa mọi vận động, cũng không hẳn chỉ

là khái niệm nhằm ghi lại những ấn tượng “kế tiếp nhau một cách nhịp nhàng chia thành

những khoảng cách đều đặn, có chừng, lặp đi lặp lại” [23, tr.122] mà đã thực sự trở thành

một thế lực có sức mạnh, không đếm xỉa gì đến con người.

2.2.1. Vũ khí của thời gian

Thời gian tàn phá cỏ cây muôn vật và cả con người bằng sự chảy trôi vô tình của nó,

bằng gió, mưa, sương, tuyết, nắng, bằng sự đổi thay:

Tây phong thoát mộc diệp

Bạch lộ tổn hoàng hoa

(Gió tây làm rung lá cây

Móc trắng làm tổn hại hoa vàng)

(Ký giang bắc Huyền Hư tử)

Rough winds do shake the darling buds of May,

And summer's lease hath all too short a date:

Sometime too hot the eye of heaven shines,

And often is his gold complexion dimmed,

And every fair from fair sometime declines,

By chance, or nature's changing course untrimmed:

19 Có thể tìm thấy dấu vết của nó qua hình tượng đồng tiền trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.

(Những cơn gió dữ làm rung những nụ mỏng manh tháng năm

Và thời hạn cho mùa hè quá ngắn

Đôi khi đôi mắt quá gắt của mặt trời chiếu sáng

Và gương mặt rực rỡ bị che mờ

Và tất cả vẻ đẹp đôi khi phai lạt

Một cách ngẫu nhiên hay do quá trình thay đổi của tự nhiên)

(Sonnet 18)

Với Nguyễn Du thời gian mang vẻ vô tình lãnh đạm trước sự hữu tình của con người,

còn với Shakespare thời gian đầy đe dọa bởi nó mang theo vũ khí. Có đến hơn 7 bài sonnet

nhắc đến lưỡi hái, con dao quắm hay bàn tay rách tả tơi của nó. Bằng vũ khí ấy, đi đến đâu

nó reo rắc nỗi sợ hãi, gây ra tàn tạ đến đó, cướp sự sống tựa như người gặt hái mùa màng

khi nó tới độ chín:

And nothing 'gainst Time's scythe can make defence

(Và không gì có thể chống lại lưỡi hái của thời gian)

… who in thy power

Dost hold Time's fickle glass, his sickle, hour;

(Ai mà có sức mạnh

vượt qua tấm gương hay thay đổi của thời gian và cái liềm của hắn khi thời khắc đến)

(Sonnet 126)

Trước sức tàn phá khủng khiếp ấy, thời gian tạo ra những biến chuyển không ngờ:

Bách xích cao đài khuynh Lĩnh Biểu

Thiên niên cổ mộ một Phiên Ngu

(Đài cao trăm thước ở ngoài Lĩnh Biểu đã đổ,

Ngôi mộ cổ nghìn năm ở Phiên Ngung cũng đã mất)

(Triệu Vũ đế cố cảnh)

Hí mã cựu đài thu thảo biến,

Đoạn xà đại trạch mộ vân bình

Nhất thành nhân vật oa trung nghĩ,

Tứ lộ chu xa thủy thượng bình

(Đài đua ngựa cũ, cỏ thu lan tràn

Đầm chém rắn xưa, mây chiều phủ kín

Người vật trong thành như kiến trong tổ

Xe thuyền bốn ngả như bèo trên nước)

(Từ Châu đê thượng vọng)

Đài cao, thành lớn, mộ nghìn năm, chiến công hiển hách… tất cả đều sẽ chìm vào

quên lãng, không gì trụ nổi. Shakespare cũng cùng chung tâm sự này:

When I have seen by Time's fell hand defac'd

The rich proud cost of outworn buried age;

When sometime lofty towers I see down-raz'd,

And brass eternal slave to mortal rage;

When I have seen the hungry ocean gain

Advantage on the kingdom of the shore,

And the firm soil win of the watery main,

Increasing store with loss, and loss with store;

When I have seen such interchange of state,

Or state itself confounded to decay;

(Tôi đã có khi thấy (những sự vật) bị bàn tay của thời gian tàn phá

Những công trình giá trị đồ sộ, đáng tự hào bị hao mòn, bị tuổi tác chôn vùi

Những tòa tháp cao ngất tôi nhìn thấy bị phá trụi

Và ngôi mộ của những người khốn khổ vĩnh viễn (bị phá hủy) bởi cơn giận chết

người

Khi tôi nhìn thấy đại dương háu đói giành được lợi thế hơn vương quốc của bờ biển

Và vùng đất bền vững chiến thắng biển cả mênh mông

Đất tăng lên bằng sự mất đi (của biển) và biển (rộng hơn) bằng sự mất đi của bờ

Khi tôi thấy sự thay thế lẫn nhau của tự nhiên

Hay tự nhiên tự nó phá hủy đến suy tàn

Sự thương tổn khiến tôi suy nghĩ về điều này

Rằng thời gian sẽ đến mang tình yêu của tôi đi)

(Sonnet 64)

Không chỉ có giá trị vật chất bị tiêu tan mà những giá trị tinh thần rồi đây cũng bị đe

dọa.

Nguyễn Du ý thức rất rõ khoảng cách thời gian như một tấm màn vô hình ngăn cản

những con người, những tấm lòng đến với nhau:

Đan tâm nhất điểm lưu kim cổ

Bạch cốt kim niên cách tử sinh

(Một tấm lòng son lưu tiếng xưa nay

Nghìn năm xương trắng chia cách người sống và người chết)

(Bùi Tấn công mộ)

Nguyễn Du dành một sự cảm thông đặc biệt cho Đỗ Phủ - vị thánh thơ. Đó là sự cảm

thông xuất phát từ đáy lòng của những con người cùng cảnh ngộ, cũng chính là niềm thấu

hiểu ông dành cho Tiểu Thanh, người ca nữ La Thành hay nỗi thương tiếc Kiều dành cho

Đạm Tiên. Nhưng tâm sự ấy đành chỉ giấu kín trong lòng bởi “Dị đại tương liên không sái

lệ”(Sống khác thời đại thương nhau chỉ biết rơi nước mắt) – (Lỗi Dương Đỗ Thiếu lăng mộ

1).

Shakespare lo lắng khôn nguôi cho số phận của cái đẹp, cái đẹp vốn mong manh, yếu

ớt thì lấy đâu ra sức mạnh để chống chọi trong khi ngay đến những thứ cứng rắn nhất cũng

không thoát khỏi bàn tay của thời gian:

Since brass, nor stone, nor earth, nor boundless sea,

But sad mortality o'ersways their power,

How with this rage shall beauty hold a plea,

Whose action is no stronger than a flower?

O! how shall summer's honey breath hold out,

Against the wrackful siege of battering days,

When rocks impregnable are not so stout,

Nor gates of steel so strong but Time decays?

(Vì không phải vàng bạc, không phải đá quý, cũng không phải mặt đất, đại dương

bao la càng không

Mà chính là cái chết buồn thảm thống trị sức mạnh của chúng

(Thì) làm sao với sự cuồng bạo này cái đẹp giữ được lời cầu xin

(Trong khi) nội lực của nó không mạnh hơn một bông hoa?

Ôi, làm thế nào hơi thở ngọt ngào của mùa hè giữ được

Chống được sự bao vây khủng khiếp của thời gian

Khi những khối đá vững chắc không đủ kiên cường

Cả những cánh cổng thép cũng không mạnh bằng sự phá hủy của thời gian?

(Sonnet 65)

Trước những vũ khí sắc bén của thời gian, cái đẹp là nạn nhân đáng chú ý nhất, dễ bị

bị tổn thương nhất. Shakespeare mới chỉ dự cảm, còn Nguyễn Du miêu tả cụ thể một trường

hợp mình đã trải qua: ấn tượng không phai mờ của ông về hình ảnh một người ca nữ xinh

tươi, duyên dáng, nức tiếng một thời, người nhà thơ từng chỉ dám nhìn từ xa:

Dư ức thiếu thời tằng nhất kiến,

Giám hồ hồ biên dạ khai yến

Kỳ thời tam thất chính phương niên

Hồng trang yểm ái đào hoa diện

Đà nhan hám thái tối nghi nhân

Lịch loạn ngũ thanh tùy thủ biến

(Tôi nhớ lúc trẻ đã từng gặp một lần

Bên hồ Giám trong một cuộc dạ yến

Lúc ấy nàng còn trẻ, tuổi chừng hai mốt

Áo hồng cũng bị mờ nhạt đi trước vẻ mặt hoa đào

Má hồng men rượu dáng ngây thơ rất đáng yêu

Năm cung réo rắt theo ngón tay đàn mà đổi điệu)

(Long Thành cầm giả ca)

Vẻ đẹp ấy từng khiến cho bao người nghiêng ngả, người chiếm giữ vẻ đẹp ấy từng

được xem là vật báu chốn kinh kì. Thế nhưng, hai mươi năm sau gặp lại, nhà thơ vẽ ra trước

mắt chúng ta một bức tranh tàn tạ đến không ngờ:

Tịch trung ca kĩ giai niên thiếu

Tịch mạt nhất nhân phát bán hoa

Nhan sấu thần khô hình lược tiểu

Lang tạ tàn mi bất sức trang

Thùy tri tựu thị đương thời thành trung đệ nhất diệu

(Trong tiệc các cô đào hát thảy đều trẻ

Riêng ở cuối chiếu có một người tóc đã hoa râm

Nét mặt võ vàng, thần sắc khô khan, thân hình hơi nhỏ

Đôi mày tàn tạ phờ phạc không trang điểm

Ai biết rằng đó chính là người tài danh bậc nhất của kinh thành ngày xưa)

Thời gian đã làm biến dạng một đóa hoa xuân đến mức người ta không còn nhận ra.

Thế mới biết sức mạnh của nó thật khủng khiếp.

Theo nhà nghiên cứu Trương Chính, sự cảm thông đặc biệt của Nguyễn Du đối với

những nàng ca kĩ, những người phụ nữ tài hoa bạc mệnh không đơn thuần là lòng trắc ẩn

thông thường mà xuất phát từ sự chứng kiến số phận của chính người mẹ, người xung quanh

trong đại gia đình phong lưu của mình. Dù vậy, giống như Shakespeare, ta thấy ở đây trước

hết là một trái tim giàu rung cảm của một nghệ sĩ đa tình, không thể ngoảnh mặt làm ngơ,

vô sự khi cái đẹp rơi vào vòng trầm luân.

Tàn bạo nhất, đáng sợ nhất vẫn là sự tấn công của thời gian vào con người. Thời gian

sẽ lấy đi tuổi trẻ, tình yêu, sức sống mà con người không có cách gì níu giữ:

Xuân lan thu cúc thành hư sự

Hạ thử đông hàn đoạt thiếu niên

(Xuân có lan, thu có cúc đã thành chuyện hão

Lần lữa đông rét, hè nóng cướp cả tuổi trẻ)

(Tạp thi 1)

Thời gian trôi đồng nghĩa với bất trắc, làm con người hoảng sợ:

But reckoning Time, whose million'd accidents

Creep in 'twixt vows, and change decrees of kings,

Tan sacred beauty, blunt the sharp'st intents,

Divert strong minds to the course of altering things;

Alas! why, fearing of Time's tyranny,

Might I not then say, 'Now I love you best,'

(Nhưng thời gian dần trôi, thứ có hàng triệu khả năng xảy ra

Len lỏi giữa lời thề, và thay đổi cả bản án của nhà vua

Làm sạm đi vẻ đẹp thiêng liêng, làm nhụt đi những ý định sắc bén nhất

Làm trệch hướng những trí tuệ mạnh mẽ thành quá trình thay đổi

Chao ôi, vì sao, sợ hãi sự bạo ngược của thời gian

Tôi đã không nói: “giờ (là lúc) tôi yêu em nhất”

(Sonnet 115)

Như một viên tướng lão luyện, thời gian chỉ huy cả một đội quân tinh nhuệ ngày,

mùa, tháng, năm… cùng các vũ khí nhiều uy lực luôn sẵn sàng phát huy tác dụng. Đứng sau

nó là cả TỰ NHIÊN đầy thách thức mà con người chưa bao giờ thôi khát khao chinh phục

để rồi chưa một lần đắc thắng. Và hai hậu quả trực tiếp, ghê gớm nhất mà thời gian đưa tới

là tuổi già cùng cái chết.

2.2.2. Thời gian dẫn tới tuổi già

Theo vòng quay vô tận của thời gian, những biến thiên vô chừng sẽ diễn ra. Giống

như một bàn tay vô hình vận hành cỗ máy, thời gian len lỏi vào từng đường gân thớ thịt của

con người, thay thế các tế bào đang tràn trề sinh lực bằng những cái tương tự nhưng cũ kĩ

rệu rã. Trong thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ sonnet Shakespare, ta đều thấy nỗi ám ảnh

tuổi già – một nỗi đau dai dẳng.

Trong ba tập thơ chữ Hán, có đến 43 bài Nguyễn Du nhắc đến hình ảnh tóc bạc –

hình ảnh thể hiện rõ nhất dấu ấn sương tuyết thời gian in hình trên mỗi cá nhân. Tóc bạc là

dấu ấn của tuổi tác. Hơn thế nữa, theo Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới: “Cũng như

móng tay hay các chi của con người, tóc được xem là vẫn giữ quan hệ mật thiết với thân thể

sau khi đã tách rời nó. Tóc tượng trưng cho phẩm chất của một sinh linh, thể hiện tập trung

sức mạnh tinh thần của những phẩm chất ấy. Chúng đã hợp nhất làm nên một cơ thể vì giữa

chúng vốn có sự thông cảm” [6, tr.93]. Với nhiều dân tộc tóc có ý nghĩa rất lớn trong đời

sống tâm linh thể hiện ở các lễ nghi, cách để hay cắt tóc. Người phương Đông cũng nói

“Cái răng cái tóc là gốc con người”, khi kết hôn thì người ta dùng thành ngữ “kết tóc xe tơ”.

Thấm nhuần quan niệm này, Nguyễn Du sử dụng hình ảnh mái tóc như một phương tiện

chuyển tải tâm sự của mình trước thời gian trôi chảy. Tóc bạc không chỉ là dấu hiệu bên

ngoài, sự biến đổi sinh lý mà còn mang yếu tố tâm lý. Nguyễn Du rất ý thức về điều này:

Trù trướng lưu quang thôi bạch phát

Nhất sinh u tứ vị tằng khai

(Bùi ngùi nỗi thời giờ thấm thoắt làm cho tóc chóng bạc

Suốt đời mối u sầu chưa hề gỡ ra)

(Thu chí)

Niên quang ám trục bạch đầu lai

(Tháng năm âm thầm đưa đầu tóc bạc lại)

(Đối tửu)

Cho nên, nhà thơ thường hay soi gương như một hình thức tự chiêm ngắm, mỗi lần

soi là một lần nhận ra biểu hiện không mong muốn ở mình:

Ánh lí tu mi khan lão hỉ

Mộng trung tùng cúc ức qui dư

(Soi gương thấy mày râu, biết mình già rồi

Trong mộng thấy tùng cúc lại nhớ đến chuyện muốn về)

(Lạng Sơn đạo trung)

Minh kính hiểu hàn khai lão sấu

Sài phi dạ tĩnh bế thân ngâm

(Buổi sáng lạnh soi gương sáng thấy mình già và gầy

Cửa sài đóng kín trong đêm vắng nằm rên than)

(Ngọa bệnh 2)

Ta hiểu được, tháng năm không chỉ đưa tới cho nhà thơ mái tóc bạc mà phía sau nó

còn là sự già nua, mệt mỏi. Lúc đầu nhà thơ còn ngỡ ngàng, thảng thốt, đến khi chấp nhận

nó như một thực tế, tóc bạc thành rào cản đối với con người, trở thành một giới hạn ngăn

cách: đã không còn trẻ trung cũng có nghĩa thời gian còn lại rất ngắn, chẳng đủ để làm gì.

“Bạch đầu đa hận tuế thời thiên” (Đầu bạc thường bực vì ngày tháng trôi mau) - thời gian

như không ngừng dồn đuổi, con người bị cuốn vào vô vàn mối lo:

Bạch đầu sở kế duy y thực

Hà đắc cuồng ca tự thiếu niên!

(Đầu bạc chỉ mải lo chuyện cơm áo

Làm được gì hát ngông như hồi niên thiếu)

(Dạ tọa)

Hai chữ đối lập “bạch đầu” và “thiếu niên” nằm ở hai đầu mỗi câu thơ tạo nên một

khoảng cách xa vời vợi, ngăn cách chúng là hai lối sống: một phóng khoáng tràn trề niềm

tin, tự do “cuồng ca”, một gò bó tù túng “sở kế duy y thực”. Đã bước sang bờ bên này thì

không thể quay trở lại, thế nhưng nhà thơ vẫn nhiều lần ngoái trông:

Dục điển túc sương mưu nhất túy

Nại hà đầu dĩ bạch như ngân

(Muốn gán chiếc áo cừu lông chim túc sương đổi lấy một cuộc say

Nhưng tóc trên đầu đã bạc trắng thì biết làm thế nào)

(Quảng tế ký thắng)

Nhà thơ muốn bằng một cuộc say sống lại ký ức thời trai trẻ, hay cái nhiệt huyết,

chất tài hoa lãng tử được thừa hưởng từ người mẹ, người cha, người anh và những năm sống

ở đất kinh thành vẫn cháy không nguôi trong một cơ thể đã già nua? Chỉ biết rằng, phút

nhận ra “tóc trên đầu đã bạc trắng” khiến ông bối rối, cũng như sự bối rối khi đối diện với

núi xanh:

Đáo đắc thanh sơn tận

Kì như bạch phát hà

(Đến được chỗ tận cùng núi xanh

Đầu bạc biết làm sao)

(Hoàng Mai đạo trung)

Người xưa có câu “Nhân giả ái sơn, trí giả ái thủy” Nguyễn Du đặc biệt yêu quý

núi, ông nhắc đến núi bằng niềm ngưỡng mộ sâu xa, những năm tha hương ông cũng thường

mơ về núi Hồng ở quê nhà. Trong khi đó viết về nước, tâm trạng Nguyễn Du thường gắn

với nỗi lo sợ, hoảng hốt, muốn tránh xa. Phải chăng ông thấy ở dòng nước đang cuồn cuộn

trôi kia bước chân vô tình của thời gian đang vận động nhưng lại gặp ở núi cái trầm tĩnh uy

nghi, vững bền bình lặng. “Đến được chỗ tận cùng núi xanh” lẽ ra là đạt được sở nguyện,

nhưng vì đầu đã bạc, chẳng còn kịp để thỏa sức phiêu du hay săn bắn, tu tiên học đạo lại

càng không. Tóc bạc lúc này đồng nghĩa với thất vọng, bất lực, thậm chí hoảng sợ:

Bạch phát hùng tâm không đốt ta

(Tóc bạc rồi, dù có hùng tâm cũng ngồi than thở suông mà thôi)

(Khai song)

Bạch phát tiêu ma bần sĩ khí

(Tóc bạc làm tiêu ma chí khí kẻ sĩ nghèo)

(Phúc Thực Đình)

Phong trần đội lí lưu bì cốt,

Khách chẩm tiêu tiêu lưỡng mấn bồng

(Vẫn còn thân mình, xương bọc da trong đám người phong trần

Nằm nơi đất khách, hai mái tóc bạc bơ phờ trên gối)

(Trệ khách)

Tiêu tiêu bồng mấn lão phong trần,

Ám lí thiên kinh vật hậu tân

(Mái tóc bơ phờ, già với phong trần,

Thấy thời tiết, cảnh vật đổi thay, lòng riêng những kinh sợ)

(Xuân tiêu lữ thứ)

Cũng nói về ám ảnh tuổi già, nhưng hình ảnh lặp đi lặp lại trong thơ Shakespare là

nếp nhăn trên vầng trán, khuôn mặt. Có 8 bài sonnet ông nhắc đến hình ảnh này một cách

trực tiếp bằng những từ ngữ khác nhau (deep - sunken eyes, trenches, wrinkles, furrow, the

parallels in beauty’s brow) và nhiều bài khác nhắc đến nó một cách gián tiếp.

Cũng giống như mái tóc bạc trong thơ Nguyễn Du, nếp nhăn không chỉ thể hiện sự

biến đổi bên ngoài mà còn là dấu hiệu của tuổi tác:

When forty winters shall besiege thy brow,

And dig deep trenches in thy beauty's field,

Thy youth's proud livery so gazed on now,

Will be a totter'd weed of small worth held:

Then being asked, where all thy beauty lies,

Where all the treasure of thy lusty days;

To say, within thine own deep sunken eyes,

Were an all-eating shame, and thriftless praise.

(Khi bốn mươi mùa đông (rồi) sẽ phủ lên vầng trán,

Và đào những rãnh sâu trên những đường nét đẹp của khuôn mặt

Vẻ bên ngoài đáng tự hào thời trai trẻ bấy giờ được nhìn vào

Sẽ tả tơi rách nát, không giá trị

Khi đó anh tự hỏi vẻ đẹp của mình đã đi đâu

Ở đâu rồi tất cả những thứ quý giá của những ngày trai trẻ đầy sức sống

Để được trả lời, giữa đôi mắt trũng sâu

(Rằng đó) đã là sự tham lam đáng xấu hổ và sự hoang phí lời ngợi khen)

(Sonnet 2)

Có thể hình dung gương mặt người trẻ tuổi khi thời gian đi qua sẽ giống như một

cánh đồng khô nứt nẻ, mọc đầy cỏ dại tả tơi, không còn giá trị để khai thác. Những rãnh sâu

bị đào bới - vốn chẳng còn cơ hội được lấp đầy ngăn cách anh với “lusty day” - những ngày

trẻ trung sôi nổi đầy nhiệt huyết. Gương mặt ấy “vốn là…. phần sống động nhất, nhạy cảm

nhất (trung khu của các giác quan) mà dù muốn dù không, ta để cho người khác nhìn thấy,

đó là cái “tôi” sâu kín đã bóc trần ra một phần, nói lên rất nhiều so với phần còn lại của

thân thể” [6, tr.572]. Hình ảnh ấy cứ trở đi trở lại, khiến nhà thơ luôn phải nhắc nhở, sợ hãi:

Against my love shall be as I am now,

With Time's injurious hand crush'd and o'erworn;

When hours have drain'd his blood and fill'd his brow

With lines and wrinkles; when his youthful morn

Hath travell'd on to age's steepy night;

And all those beauties whereof now he's king

Are vanishing, or vanished out of sight,

Stealing away the treasure of his spring;

( Đề phòng lúc người tôi yêu sẽ giống tôi bây giờ

Bị bàn tay tàn bạo của thời gian nghiền nát làm cho mòn mỏi

Khi thời gian rút hết máu và phủ đầy vầng trán

Bởi những đường rãnh và nếp nhăn, khi buổi sáng tươi trẻ

hành trình đi đến dốc đêm tuổi tác

Và tất cả vẻ đẹp nơi anh tương ứng với một vị vua

Sẽ biến mất, hay ra khỏi tầm nhìn

Bị đánh cắp khỏi kho báu mùa xuân)

(Sonnet 63)

Khi những nếp nhăn xuất hiện cũng là lúc con người có sự thay đổi địa vị khủng

khiếp: từ buổi sáng trong lành thành đêm tối tăm, từ vị vua quyền uy giàu có thành kẻ trắng

tay, từ mùa xuân sức sống sang mùa đông già cỗi. Bởi gương mặt kia đã bị rút hết máu,

chẳng còn nhiệt huyết sống, sinh lực. Thời gian tạo nên sự già nua:

Time doth transfix the flourish set on youth

And delves the parallels in beauty's brow,

Feeds on the rarities of nature's truth,

And nothing stands but for his scythe to mow:

(Thời gian cởi bỏ lớp phấn son tuổi trẻ

Và đào bới những đường song song trên vầng trán đẹp

Nuôi dưỡng bản tính của tự nhiên

Và không gì đứng vững được (tồn tại) trước lưỡi hái thời gian)

(Sonnet 60)

“The flourish set on youth” nhiều khi chỉ là lớp son phấn, đồ trang điểm có thể bị

tước đi rất dễ dàng. Ngày tháng trôi qua, chúng bị thay thế bằng những nếp nhăn, quá trình

ấy thuộc về bản chất của tự nhiên, như một bản án được định sẵn mà thời gian sẽ là kẻ thi

hành. Nếp nhăn trên vầng trán người trẻ tuổi là dấu hiệu chắc chắn, không thể chối cãi của

sự cằn cỗi cả thể xác lẫn tinh thần:

My glass shall not persuade me I am old,

So long as youth and thou are of one date;

But when in thee time's furrows I behold,

Then look I death my days should expiate.

(Tấm gương soi cũng không thể thuyết phục được rằng tôi đã già

Chừng nào tuổi trẻ trong anh còn tồn tại

Nhưng khi tôi nhìn thấy nơi anh những nếp nhăn của thời gian

Đó là lúc tôi thấy thời gian của mình kết thúc)

(Sonnet 22)

Với tuổi trẻ, thời gian là một thách thức, nhưng với tuổi già, nó trở thành kẻ thù –

một kẻ thù quá mạnh. Bởi tuổi trẻ, cho dù nhiều khi đồng nghĩa với bồng bột, non nớt

nhưng tất cả mới chỉ bắt đầu, cánh cửa vừa mở ra, và cuộc hành trình vẫn hứa hẹn đầy bất

ngờ. Ngược lại, tuổi già có thể đi đôi với từng trải, minh triết nhưng đó là khi người ta phải

nghĩ tới sự khép lại. Họ, như vận động viên đến đoạn nước rút đã nhìn thấy đích, chỉ có điều

nó không phải cái đích vinh quang, hay đúng hơn, như người tử tù trên con đường đến nơi

thi hành án. Quỹ thời gian còn lại quá ngắn, họ bị đẩy về phía trước trong niềm tiếc nuối

sống vô bờ.

2.2.3. Thời gian đưa tới cái chết

Không giống như dòng sông có điểm nguồn và đích đến, dòng thời gian vô thủy vô

chung mãi trôi vô tận. Có lẽ đời người như sông, bị gió thời gian cuốn xuôi dòng, sớm

muộn gì cũng đi tới điểm kết thúc. Không dừng lại ở việc miêu tả cái già, cái tàn tạ, cả hai

nhà thơ đều đẩy đến tận cùng sức tàn phá của thời gian – cái chết.

Ám ảnh cái chết xuất hiện nhiều lần trong thơ Shakespare như một điểm cáo chung,

chấm dứt tất cả. Có khi nhà thơ gọi tên một cách trực tiếp (death), cũng có khi dùng cách

diễn đạt khác (when thou feel thy blood cold). Nhưng trong phần lớn trường hợp, nhà thơ cụ

thể hóa cái chết bằng nấm mộ tối tăm và những con giun khủng khiếp, sẽ thành bạn hay

“người thừa kế” của người chết. Có tới 8 bài sonnet Shakespare nhắc đến nấm mộ (the

tomb, grave, sepulchres) và 5 bài nhắc đến giun (worm). Bị chôn vùi dưới mộ sâu là điều

không ai muốn. Nhà thơ dùng hình ảnh này như một lời cảnh báo người trẻ tuổi:

Thy unused beauty must be tombed with thee,

Which, used, lives th' executor to be

(Vẻ đẹp không được sử dụng sẽ bị chôn vùi cùng anh

Cái mà, nếu được sử dụng, sẽ tồn tại như người lưu giữ cái đẹp của anh)

(Sonnet 4)

Be not self-willed, for thou art much too fair

To be death's conquest and make worms thine heir

(Đừng quá cứng nhắc, vì anh quá đẹp

(Nên không thể) để cái chết xâm chiếm và để những con giun làm người thừa kế của

mình)

(Sonnet 6)

Nấm mộ tượng trưng cho sự biến mất, sự chôn vùi vĩnh viễn bí mật:

Who will believe my verse in time to come,

If it were fill'd with your most high deserts?

Though yet heaven knows it is but as a tomb

Which hides your life, and shows not half your parts.

If I could write the beauty of your eyes,

And in fresh numbers number all your graces,

The age to come would say 'This poet lies;

Such heavenly touches ne'er touch'd earthly faces.'

(Ai sẽ tin vào bài thơ của tôi khi thời gian qua đi

Nếu nó được làm đầy bởi những phẩm chất ưu tú của anh?

Dù có trời biết điều đó nhưng giống như nấm mồ

Nơi chôn giấu cuộc sống của anh, và không thể cho thấy một phần cơ thể

Nếu tôi có thể viết về vẻ đẹp đôi mắt anh

Và liệt kê vô số sự ưu tú của anh

Những người sau này có thể nói “Nhà thơ này nói dối, làm sao trên trái đất có thể có

con người với vẻ đẹp như vậy?”

(Sonnet 17)

Khi có chuyện đau buồn, người ta thường an ủi nhau: thời gian sẽ làm lành mọi vết

thương, bởi thời gian là liều thuốc quên lãng, nó sẽ làm mờ nhạt rồi phôi phai tất cả. Không

gì bền bỉ bằng nó. Nhà thơ đặt ra giả thiết: những gì là chân lí hiển nhiên của ngày hôm nay

sẽ trở thành mối nghi ngờ xác đáng của ngày mai. Vì vẻ đẹp – cho dẫu của một con người –

vốn mong manh, chóng tàn, chẳng thể bảo toàn vẹn nguyên hình dạng. Khi anh chết đi, bị

chôn dưới mộ sâu, lòng đất giấu kín thân thể vốn có lẽ từng là khuôn mẫu của thời đại,

thanh nhã xưa nay chưa từng có. Cả trời cũng không thể lên tiếng, không có gì chứng minh

được một vẻ đẹp đến thế đã từng tồn tại trên trái đất này, bởi không có gì làm bằng chứng.

Cho nên, nhà thơ luôn nghĩ về cái chết với một niềm lo sợ khôn nguôi:

Ruin hath taught me thus to ruminate

That Time will come and take my love away.

This thought is as a death which cannot choose

But weep to have that which it fears to lose.

(Sự thương tổn khiến tôi suy nghĩ về điều này

Rằng thời gian sẽ mang tình yêu của tôi đi

Ý nghĩ này giống như cái chết không có sự lựa chọn nào khác

Ngoài việc khóc vì mình có một cái gì đó nhưng rất sợ bị mất đi)

(Sonnet 64)

Cũng giống như Shakespeare, Nguyễn Du nhắc nhiều đến hình ảnh nấm mộ. Trong

ba tập thơ, có tới 20 bài ông nhắc tới hình tượng này, nhưng không phải để cảnh báo mà để

suy tư, chiêm nghiệm. Nguyễn Du buồn rầu khi nhìn thấy những nấm mộ của những người

lừng danh một thuở giờ trơ trọi, hoang tàn:

Bi tàn một tự mai hoang thảo

(Bia tàn chữ mất chôn vùi trong cỏ hoang)

(Liễu Hạ Huệ mộ)

Ngõa lịch Ngô cung hoang đế nghiệp

Kinh trăn cổ mộ thượng hùng danh

(Cung Ngô thành đống gạch vụn, ngiệp đế tan tành

Ngôi mộ cổ gai góc mọc đầy còn nức tiếng anh hùng)

(Chu lang mộ)

Tàn Minh miếu xã đa thu thảo,

Toàn Việt sơn hà tận tịch dương

Cộng đạo Trung Hoa thượng tiết nghĩa,

Như hà hương hỏa thái thê lương?

(Tông miếu xã tắc nhà Minh suy tàn, đầy cỏ thu

Non sông toàn đất Việt đều nhuốm bóng chiều

Ai cũng bảo nước Trung Hoa trọng tiết nghĩa

Sao hương khói lại lạnh lẽo thế này?)

(Quế Lâm cù các bộ)

Ông thương cho Đỗ Phủ:

Cộng tiễn danh sư bách thế

Độc bi dị vực kí cô phần

( Ai cũng khen tài thơ đáng bậc thầy muôn thủa

Riêng ta buồn thương cho ông phải gửi nấm mồ cô đơn nơi đất khách)

(Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ 2)

Đứng trước các nấm mộ, nhà thơ khi mỉa mai châm biếm người này, ca ngợi người

kia, ngậm ngùi thương cảm người khác… nhưng chung quy lại, mộ là một tín hiệu rõ ràng

của cái chết – bi kịch chốn nhân sinh mà ai cũng biết nhưng không ai tránh được, dù đó có

là kẻ ngu, người hiền, vua chúa hay thường dân:

Cổ kim hiền ngu nhất khâu thổ

Sinh tử quan đầu mạc năng độ

(Xưa nay kẻ hiền người ngu cũng chỉ còn trơ lại một nấm đất

Không ai vượt qua được cửa ải sống chết)

(Hành lạc từ 2)

Với Nguyễn Du, điều đáng sợ hơn cả cái chết về thể xác là cái chết tâm hồn, là khi

người ta sống không mộng tưởng, không mơ ước, hay chết rồi mà chẳng làm gì được cho

đời. Khi ông nói “Tha hương bạch phát lão bất tử”(Xa quê đầu bạc già chưa chết) là muốn

nói đến cuộc sống lay lắt qua ngày, không còn niềm vui, hứng thú, chỉ có thể xác vẫn tồn

tại. Cũng có khi ông than thở có phần dằn dỗi: “Bách niên cùng tử văn chương lý”(Cuộc đời

trăm năm chết xác với văn chương). Phải chăng ông muốn nói đến cái mà người ta vẫn gọi

“Sinh ư nghệ, tử ư nghệ”? Dù sao đi nữa, cái chết vẫn là một tất yếu không thể phủ nhận,

càng không thể chống chọi “Thiên cơ vạn xảo tận thành không” (Dù muôn khéo, nghìn

khôn cũng trở thành không hư hết). Với Nguyễn Du, cái chết đáng sợ còn bởi nó là một cái

gì bất trắc, không thể đoán biết. Ông thường băn khoăn:

Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi

(Sau khi chết ai là người rưới chén rượu lên mồ?)

(Đối tửu)

Ninh tri dị nhật tây lăng hạ

Năng ẩm trùng dương nhất trích vô

(Sao biết được ngày khác nằm ở dưới gò tây,

Có thể uống được một giọt rượu nào trong tiết trùng dương không)

(Mạn hứng)

Con người càng tha thiết với đời sống thì càng lo sợ cái chết. Nhưng bản thân cái

chết, đến lượt nó, cũng sẽ trở thành nạn nhân của thời gian, bởi tiếp theo nó là sự quên lãng

của người đời, có nghĩa là quay về với hư vô, cát bụi, như chưa từng tồn tại.

Không giống như các văn nhân lãng mạn đôi khi thi vị hóa cái chết, xem cái chết

“nhẹ tựa lông hồng”, cả Shakespeare và Nguyễn Du đều thấy nó như một hệ quả tất yếu khi

thời gian đặt bước chân qua. Cái chết hoàn toàn chủ động tìm đến con người, còn họ luôn bị

động, yếu ớt chống trả. Chết là kết thúc mọi ước mơ, hoài bão, bị chôn vùi trong lãng quên,

là nguội tắt mọi niềm hi vọng nếu không thể tìm ra giải pháp cho một sự bắt đầu mới. Trong

thơ Shakespeare, đó là sự rời xa vĩnh viễn của cái đẹp khỏi thế gian còn với Nguyễn Du, đó

là sự mất mát các giá trị tinh thần. Tuy nhiên, nói vậy không có nghĩa họ ủy mị, sướt mướt

hay tuyệt vọng. Các nhà thơ chỉ bằng một tinh thần hiện thực nhìn thẳng vào thực tế, để rồi

mỗi người một tâm trạng, một cách ứng xử nhằm tìm ra sự thanh thản cho tâm hồn như

chúng tôi sẽ trình bày ở phần sau.

2.3. Ý thức về sự ngắn ngủi của kiếp người trước cái vô hạn thời gian

2.3.1. Những suy tư về đời người và cuộc sống trần thế

Quan sát những quy luật tự nhiên, con người tất yếu có nhu cầu tự nhận thức: mình là

gì, là ai trong thế giới vô cùng. Trước bước đi nhanh chóng của thời gian cùng sức tàn phá

ghê gớm của nó, cả Shakespeare và Nguyễn Du đều có những giây phút nhận ra: thời gian

và cuộc đời con người trên trần thế thật ngắn ngủi vô chừng.

Nguyễn Du gọi cuộc đời là “phù thế”:

Phù thế công danh khan điểu quá

Nhàn đình tiết tự đái oanh thiên

(Công danh trên phù thế xem như chim bay qua,

Trên sân vắng thời tiết cũng theo chim oanh dời tổ mà đổi dời)

(Mộ xuân mạn hứng)

Phù thế công danh tẩu hác xà

(Công danh trong phù thế như rắn chạy về nấp trong hang)

(Tống Nguyễn Sĩ Hữu nam quy)

Phù thế thao thao tử tuẫn danh

(Cuộc đời trôi nổi thói đời suy kém bao người chết vì danh)

(Nhị sơ cố lý)

Con người sống trong cuộc đời ấy là một kiếp “phù sinh”:

Tiến nhĩ dã âu tùy thủy khứ

Phù sinh lao lục kỉ thời hưu?

(Thèm được như đàn âu kia theo dòng nước lội đi

Còn cảnh phù sinh vất vả (của ta) đến bao giờ mới thôi)

(Đồng Lung giang)

Táp tải phù sinh hoạn hữu thân

(Cuộc phù sinh ba mươi năm có mối lo vì có thân)

(Mạn hứng 1)

Bồi hồi phủ ngưỡng bi phù sinh

(Bồi hồi ngẩng lên cúi xuống, thương kiếp phù sinh)

(Đồng Tước đài)

Tất cả đều thật trôi nổi, bất trắc, không có gì là ổn định, bền vững. Nhà thơ nhiều lúc

hình dung mình như nhánh cỏ bồng lìa gốc:

Đoạn bồng nhất phiến tây phong cấp

Tất cánh phiêu linh hà xứ quy?

(Một nhánh cỏ bồng đứt gốc trước gió tây thổi gấp

Cuối cùng sẽ trôi giạt về đâu?)

(Tự thán)

Bởi con người sống trong đời là đi giữa đám bụi hồng mờ mịt mà không tự biết:

Trướng vọng hồng trần diểu vô tế

Bất tri nhật nhật thử trung hành

(Buồn trông áng bụi hồng mờ mịt không bờ bến

Đâu biết rằng ngày ngày mình vẫn đi lại trong ấy)

(Từ Châu đê thượng vọng)

Vạn cổ nhất hồng trần

Kì trung giai lục lục

(Muôn thuở vẫn đám bụi hồng

Trong đó mọi người đều tất bật)

(Lý gia trại tảo phát)

Nói về thời gian đời người, Nguyễn Du dùng một khái niệm mang tính ước lệ: trăm

20

năm. Từ “bách niên” được lặp lại ở 10 bài thơ là sự suy tư, đúc kết của nhà thơ về kiếp

P:

sống. Với Nguyễn Du, cuộc đời ấy có vẻ không thực mà chỉ như một giấc mộng P19F

Tri giao quái ngã sầu đa mộng

Thiên hạ hà nhân bất mộng trung?

(Bạn bè thân thiết lấy làm lạ rằng sao ta hay sầu mộng

Nhưng thiên hạ ai là người không ở trong mộng?)

(Ngẫu đề)

Ông nhiều lần nhắc lại ý này:

Trần thế bách niên khai nhãn mộng

Hồng sơn thiên lí ỷ lan tâm

20 Shakespeare có khi còn đẩy điều này lên cao hơn, xem cuộc sống con người được xây nên bằng mộng: We are such stuff As dreams are made on and our little life Is rounded with a sleep (Chúng ta cùng một chất, xây từ những giấc mơ Giấc mơ cùng một chất, xây nên ta bao giờ, Và đời ta nhỏ nhặt, tàn theo một giấc thu) (Dẫn lại theo Nhật Chiêu (10, 348).

(Cuộc đời trăm năm trên trần thế chỉ là giấc mộng vừa mở mắt

Lòng nhớ Hồng sơn nơi ngàn dặm trong lúc tựa lan can)

(La Phù giang thủy các độc tọa)

Ông ví cuộc đời với giấc mộng không chỉ bởi tính chất hư ảo, vô nghĩa, khó đoán

biết của nó, mà còn bởi khoảng thời gian “bách niên” tưởng dài dằng dặc ấy thực ra lại quá

ngắn:

Bách tuế vi nhân bi thuấn tức

(Cuộc đời trăm năm thương thay chỉ là chớp mắt)

(Mạn hứng)

Dù ngắn ngủi, nó vẫn là một hiện hữu trong dòng thời gian vô tận chảy trôi. Có lúc,

nhà thơ tự hỏi:

Bách niên ai lạc hà thời liễu?

(Chuyện buồn vui trăm năm bao giờ mới hết)

(Tạp ngâm 1)

Quan niệm này về cơ bản có điểm gần gũi với quan niệm Phật giáo về cuộc sống con

người. Tuệ Trung thượng sĩ từng viết trong thơ mình:

Y cẩu phù vân biến thái đa

Du du đô phó mộng Nam Kha

(Cuộc đời như đám mây nổi, luôn thay đổi nhiều vẻ

Mơ màng đành phó cho giấc mộng Nam Kha)

(Thế thái hư huyễn)

Nhưng Nguyễn Du chỉ nói đến mộng mà không hề nhắc đến sự tỉnh mộng, “đốn

ngộ”, cũng không thấy hứa hẹn về kiếp sau. Nhà thơ chỉ mượn các khái niệm để bộc lộ tâm

tư mình còn thực chất, ông không có cái tâm an nhiên của người đạt đạo. Về bản chất, cảm

xúc ấy có lẽ xuất phát từ lòng yêu đời, yêu cuộc sống tha thiết. Thời trẻ, Nguyễn Du từng tự

hào “Tráng niên ngã diệc vị tài giả” và ôm nhiều mộng lớn cống hiến cho đời. Sau này,

chán chường thế cuộc, một lòng hướng về vị “rau thuần, cá vược” quê hương, muốn trút bỏ

mọi gánh nặng trần gian để về sống an nhàn, di dưỡng tinh thần như ông thuyền chài, đàn

âu trắng, nhưng kì thực nhà thơ chưa bao giờ ngoảnh mặt làm ngơ trước những mảnh đời

bất hạnh, chưa bao giờ thôi đau nỗi đau của mọi kiếp người. Càng yêu cuộc đời, Nguyễn Du

càng thấy khoảng thời gian sống của người ta sao mà chóng vánh. Cho nên, nói đời như

mộng, như chớp mắt không phải để bừng tỉnh rồi quay lưng mà chính là sự thể hiện một

khao khát sống dài hơn.

Giống như Nguyễn Du, Shakespeare cũng không ngừng suy tư về cuộc đời. Ráo riết

hơn, thực tế hơn, ông nhận thấy con người sống giống như kẻ đi vay nặng lãi hay như một

hạt giống của tự nhiên, sống đời cây cỏ, sinh ra, trưởng thành và sẽ vĩnh viễn bị chôn vùi

nếu không ra hoa kết quả:

From fairest creatures we desire increase,

That thereby beauty's rose might never die

(…) Thou that art now the world's fresh ornament,

And only herald to the gaudy spring,

(Chúng ta mong muốn những sinh vật đẹp đẽ sinh sôi

Để những bông hồng đẹp sẽ không bao giờ chết

… Anh giờ là vật tô điểm tươi rói của thế gian

Và là sứ giả duy nhất của mùa xuân rực rỡ)

(sonnet 1)

Con người được Shakespeare gọi là fairest creatures, the world's fresh ornament

giống như hoa hồng giữa mùa xuân. Nhưng tự nhiên tạo ra anh là để nhân giống thêm lên,

để có sự thu hoạch: khi anh chín rụng, sẽ có những chồi non mang dòng máu của anh tiếp

tục nảy nở, tô điểm cho thế gian này. Nếu anh lãng phí, không tận dụng được tinh hoa của

thời thanh xuân ngắn ngủi để tự nhân bản, anh không những có lỗi với bản thân mà còn phụ

tấm lòng của người mẹ đã sinh ra anh – tự nhiên. Ý tưởng này được nhà thơ nuôi dưỡng và

phát triển trong rất nhiều bài sonnet khác. Lại có khi, Shakespeare hình dung người đẹp trên

thế gian giống như kẻ vay nặng lãi, số nợ tăng lên từng khoảnh khắc, ngày càng chồng chất

và đến lượt mình, anh phải sử dụng nguồn vốn ấy sao cho hiệu quả nhất đề không tự hại

mình. Thời gian đời người do đó lúc nào cũng gấp gáp:

Nature's bequest gives nothing, but doth lend,

And being frank she lends to those are free:

Then, beauteous niggard, why dost thou abuse

The bounteous largess given thee to give?

Profitless usurer, why dost thou use

So great a sum of sums, yet canst not live?

For having traffic with thy self alone,

Thou of thy self thy sweet self dost deceive:

Then how when nature calls thee to be gone,

What acceptable audit canst thou leave?

(Tự nhiên không cho không mà chỉ cho mượn

Và rất hào phóng, bà chỉ ban cho những ai có trái tim rộng mở

Bởi thế, người hà tiện đẹp đẽ, vì sao anh sử dụng

Một số vốn lớn như vậy (trong khi) anh không thể tồn tại mãi?

Anh, chính vẻ đẹp của anh đã tự lừa mình

Rồi sẽ ra sao, khi tự nhiên gọi anh ra đi

Sự kiểm toán khả dĩ nào anh có thể để lại?)

(Sonnet 4)

Theo Shakespeare, vẻ đẹp con người, thời gian sống về bản chất không thuộc về họ,

chúng chỉ là những của cải do vay mượn mà có. Lóa mắt hay lầm tưởng về những thứ ấy,

con người sẽ bị chôn vùi và vĩnh viễn là kẻ trắng tay. Ngược lại, nếu khôn ngoan, họ phải

biết tính toán, sử dụng và nhất là làm nhân lên số tài sản này. Vừa là kẻ đi vay vừa là người

đầu tư, con người mải miết trong vòng quay của mình cho tới khi kết thúc. Luôn luôn,

Shakespeare nhắc nhở con người không quên điều ấy:

Then let not winter's ragged hand deface,

In thee thy summer, ere thou be distilled:

Make sweet some vial; treasure thou some place

With beauty's treasure ere it be self-killed.

That use is not forbidden usury,

Which happies those that pay the willing loan;

That's for thy self to breed another thee,

Or ten times happier, be it ten for one;

(Này đừng để bàn tay tơi tả của mùa đông làm biến dạng

Nhiệt tình tuổi trẻ trong anh, trước khi anh được chưng cất

Làm đầy những chiếc li thủy tinh, làm phong phú cho anh ở vài nơi

Bằng kho báu của vẻ đẹp trước khi nó bị tiêu diệt

Sự sử dụng đó là sự cho vay nặng lãi không bị cấm đoán

Bởi hạnh phúc nó tạo ra cho người sẵn lòng vay nợ

Vì món nợ là nòi giống (hình bóng) khác của chính anh

(Sonnet 6)

Look whom she best endow'd, she gave the more;

Which bounteous gift thou shouldst in bounty cherish:

She carv'd thee for her seal, and meant thereby,

Thou shouldst print more, not let that copy die.

(Nhìn xem, có những người được phú cho những phẩm chất tốt nhất, được cho nhiều

hơn

Anh hãy trân trọng sự hào phóng ấy như một món quà quý giá

Tự nhiên khắc vào anh con dấu, và điều đó có nghĩa là

Anh nên nhân bản nhiều hơn, không nên để nó thành một phiên bản chết)

(Sonnet11)

Cũng giống như Nguyễn Du, thái độ này phản ánh mối quan tâm lớn của

Shakespeare đối với cuộc đời.

Người đọc luôn thấy có sự đối lập giữa cái vô cùng với cái hữu hạn, cái nhỏ nhoi yếu

ớt với sức mạnh vô biên, cái nhất thời với cái bất tử qua cảm nhận thời gian của hai thi sĩ,

mà tâm điểm của sự đối lập ấy chính là cuộc sống con người – thời gian vô cùng tận.

2.3.2. Thời gian hiện tại

Thời gian đời người ngắn ngủi, cho nên với cả hai nhà thơ, thời gian hiện tại chỉ là

một khoảnh khắc. Nếu thời gian cuộc đời mang tính chất suy tư chiêm nghiệm thì thời gian

hiện tại gần với hiện thực hơn, mang nhiều yếu tố trực quan, tức thời. Chính vì tức thời nên

đôi khi nó mang tính ranh giới:

Tài qua Long Vĩ thủy

Tiên thị dị hương nhân

(Vừa qua sông Long Vĩ

Đã là người tha hương)

(Độ Long Vĩ giang)

Khi nhà thơ nói “bây giờ”, ta hiểu rằng cái “bây giờ” ấy khác với cái trước đây, và sẽ

khác cái sau này:

In the old age black was not counted fair,

Or if it were, it bore not beauty's name;

But now is black beauty's successive heir,

(Xưa kia làn da đen không được xem là đẹp

Hoặc nếu có người nghĩ vậy, họ cũng chẳng nói ra

Nhưng giờ đây màu đen lại được nhiều người thừa nhận)

(Sonnet 127)

Cho nên bản thân khái niệm “hiện tại” cũng lại mang tính tương đối. Có thể hình

dung đó là những thời khắc mà hai nhà thơ trải qua. Họ đều là những con người âu lo, luôn

trân trọng từng giây phút sống. Cả Nguyễn Du và Shakespeare đều đặt ra vấn đề: những

điều có ý nghĩa ở giây phút này sẽ trở nên vô nghĩa ngay lúc sau:

Sinh tiền bất tận tôn trung tửu

Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi

(Lúc sống không uống cạn bầu rượu

Khi chết đi ai là người rưới chén rượu lên mồ cho)

(Đối tửu)

Then hate me when thou wilt; if ever, now;

(Hãy ghét tôi khi nào em muốn, nhưng nếu có khả năng ấy, hãy để ngay bây giờ)

(Sonnet 90)

Con người ngay phút chốc đã chẳng còn được là mình:

O! that you were your self; but, love, you are

No longer yours, than you your self here live:

(Ồ, (tất nhiên) anh là chính mình, nhưng này người yêu dấu

Anh sẽ chẳng còn là anh khi không còn sống trên cõi đời)

(Sonnet 13)

Số phận con người luôn là niềm băn khoăn trăn trở xuyên suốt các sáng tác của

Nguyễn Du và Shakespeare. Không chỉ đặt con người trước cơn gió thời đại hay trong các

mối quan hệ xã hội, cả hai nhà thơ đều thấy ở họ sự mong manh chẳng khác gì một chấm

nhỏ trên dòng xoáy lốc thời gian. Gióng lên hồi chuông cảnh báo, hai thi sĩ nhắc nhở ta

dừng một phút để tự nhìn lại, tự xác định vị trí của mình trong đời sống.

Các vấn đề vừa được nhắc đến trên đây thực ra là những vấn đề muôn thuở trong đời

sống con người. Không chỉ có Nguyễn Du và Shakespeare, từ xa xưa, đứng trước vũ trụ

mênh mông, thấy thời gian chảy trôi vô cùng, Trần Tử Ngang từng cảm khái:

Tiền bất kiến cổ nhân

Hậu bất kiến lai giả

Niệm thiên địa chi du du

Độc thương nhiên nhi lệ hạ

(Ai người trước đã qua

Ai người sau chưa tới

Ngẫm trời đất vô cùng

Một mình tuôn giọt lệ)

(Đăng U Châu đài ca)

Ý thức về thời gian cũng được nhà triết học Heraclite nói một cách hình ảnh: “Không

ai có thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông”. G. Loris – một nhà tiểu thuyết kị sĩ thời

trung cổ trong cuốn Tiểu thuyết về hoa hồng, bằng một sự nhạy cảm đặc biệt đã viết : “...

nó vận động ngày và đêm, không ngừng không nghỉ, nó chạy nhưng ta không thấy nó chạy,

tưởng như là nó không vận động tí nào cả, nhưng thực ra nó không ngừng giây lát nào cả

và nó chạy liên miên đến nỗi không thể nào hiểu được thế nào là giây lát hiện tại, hỏi các vị

học giả tu sĩ họ cũng chịu thôi; bởi vì chưa kịp nghĩ về giây lát thì đã mất ba lần thời gian

rồi. Thời gian luôn chạy, không thể nào ngừng, không quay trở lại được cũng giống như

nước nhỏ từng giọt, từng giọt sẽ nhỏ mãi. Thời gian, chẳng có thể trụ lại được nó, sắt cũng

vậy, sự vật nào cứng rắn nhất cũng chịu thôi, bởi vì nó ăn mòn, xói mòn tất cả, thời gian

làm cho mọi sự vật biến đổi, nuôi lớn tất cả làm cho mọi sự vật hao mòn và diệt vong. Thời

gian làm cho cha ông ta, làm cho các vị vua, các hoàng đế già đi, thời gian cũng sẽ làm cho

tất cả chúng ta sẽ già nếu như tử thần không sớm đến lôi chúng ta đi” [17, tr.141]. Các nhà

thơ đời Trần cũng luôn miêu tả thời gian như mũi tên bay, như bóng ngựa qua kẽ vách... Sau

Nguyễn Du và Shakespeare, thời gian vẫn là nỗi ám ảnh, là niềm lo âu khắc khoải. Điều ấy

thể hiện rõ qua thơ Xuân Diệu :

Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua

Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già

(Vội vàng)

và:

Già sẽ đến giơ tay xua ánh sáng

Đuổi bướm chim làm sợ cả hoa hương

Và dần dà càng rõ rệt bộ xương

Mà bạn hữu sẽ đặt nằm dưới đất

(Thanh niên)

cũng như Xuân Quỳnh:

Em đâu dám nghĩ là vĩnh viễn

Hôm nay yêu mai có thể xa rồi

Niềm đau đớn tưởng như vô tận

Bỗng có ngày thay thế một niềm vui

(Nói cùng anh)

Bởi con người dù sống ở thời đại nào cũng đều khao khát thấu hiểu mối quan hệ giữa

bản thân với thế giới, rồi khi hiểu ra, họ đều nhận thấy sự nhỏ bé của mình trong trời đất vô

cùng. Chỉ có điều, ở hai nghệ sĩ này, thời gian đã thực sự hiện hữu thành một chủ đề lớn. Ý

thức về thời gian thể hiện một con người cá nhân đang cựa quậy, không còn bằng lòng, tìm

cách thích ứng với những quy chuẩn có sẵn mà đang oằn mình trong dự cảm đổi thay, tự

tách mình ra khỏi thế giới để mà chiêm nghiệm, suy ngẫm, ngắm nghía. Sự gặp gỡ của họ

có thể xem như sự gặp gỡ của hai trái tim lớn, không chấp nhận dừng lại ở thời đại mình mà

đã cất lên tiếng kêu than cho con người mọi thời đại.

CHƯƠNG 3 : DẤU ẤN CÁ NHÂN TRONG CẢM THỨC THỜI GIAN Ở THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU VÀ THƠ SONNET SHAKESPEARE

Như những con sóng dù nhỏ to, thuộc đại dương nào vẫn khôn nguôi khao khát vỗ

bờ, thơ Sonnet Shakespeare và thơ chữ Hán Nguyễn Du đều khắc khoải trong nỗi ám ảnh

trước thời gian chảy trôi, sức tàn phá của nó, trước nỗi buồn thân phận người mong manh

nhỏ bé. Nhưng cũng giống như vầng trăng u huyền phương Đông và vầng mặt trời rực rỡ

phương Tây, trong cách cảm nhận thời gian, hai nhà thơ có sự khác biệt. Sự khác biệt ấy thể

hiện ở hai gương mặt thời gian, hai tâm trạng, hai cách xử thế và hai giọng điệu.

3.1. Hai gương mặt thời gian

Về bản chất, thời gian trong thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ sonnet Shakespeare có

sự phân biệt rõ thời gian thực tế với thời gian con người. Thời gian thực tế mang hai đặc

tính: sự chảy trôi nhanh chóng không ngừng và tính tuần hoàn theo một vòng quay, chu kì.

Nguyễn Du miêu tả bốn mùa đắp đổi, ngày tháng tiếp nối để cho thấy quy luật không thể

nào hoán cải :

Hoạn khí kinh thời hộ bất khai

Thuân tuần hoàn thử cố tương thôi

( Lâu nay khí trời xấu không mở cửa

Mùa rét mùa nóng lần lữa theo nhau trôi qua)

( Xuân nhật ngẫu hứng)

Thư kiếm vô thành sinh kế xúc,

Xuân thu đại tự bạch đầu tân.

( Thư ( văn) kiếm ( võ) đều không thành, sinh kế bức bách,

Xuân thu lần lữa qua, bạc đầu thêm)

( Tự thán 2)

Xuân hàn hạ thử cố tương xâm

Nhất ngoạ Hồng sơn tuế nguyệt thâm

( Xuân lạnh hè nóng cứ xâm phạm nhau

Vừa về nằm bệnh ở non Hồng thế mà đã nhiều năm tháng)

( Ngọa bệnh 2)

Đông hàn hạ thử cố xâm tầm,

Lão đại đầu lô tuế nguyệt thâm.

( Đông lạnh, hạ nóng cứ lần lữa thay nhau

Trên mái đầu già nhiều năm tháng trôi qua)

( Phúc Thực Đình 2)

Shakespear cũng nhìn thấy vòng quay ấy đang diễn ra từng ngày, thậm chí từng giây

từng phút:

For never-resting time leads summer on

To hidrous winter, and confounds him there

( Bởi thời gian không bao giờ ngừng nghỉ đã khiến cho mùa hè

đi vào mùa đông gớm ghiếc và làm tiêu tan nó ở đây.)

( Sonnet 5)

… Three winters cold,

Have from the forests shook three summers' pride,

Three beauteous springs to yellow autumn turn'd,

In process of the seasons have I seen,

Three April perfumes in three hot Junes burn'd,

( …Ba mùa đông lạnh giá

Từ cánh rừng làm run rẩy ba mùa hè đang độ chín

Ba mùa xuân xinh đẹp tới mùa thu vàng

Trong quá trình thay đổi của mùa tôi trông thấy

Ba tháng tư ngát hương bị đốt cháy trong ba tháng sáu nóng bỏng)

(sonnet 104)

Điều này phản ánh sự nhận thức của mỗi tác giả về chu trình tự nhiên diễn ra xung

quanh. Nhưng trên cái nền chung ấy, mỗi nhà thơ lại chọn cho mình một đặc điểm để khắc

sâu, tô đậm. Giống như cùng quan sát bầu trời, có họa sĩ chỉ thấy những đám mây ngũ sắc

của một ngày đẹp đẽ, có người lại chỉ quan tâm đến những cánh chim lạc đàn bay cô đơn,

Shakespear và Nguyễn Du trong thơ của mình đã dựng lên những khuôn mặt khác nhau của

thời gian, đó đồng thời là tấm gương phản chiếu đặc điểm thời đại cũng như cá tính mỗi thi

nhân.

3.1.1. Thời gian thuần nhất trong thơ Nguyễn Du

Thời gian trong thơ Nguyễn Du nhìn chung mang bộ mặt thuần nhất, không phức tạp,

mâu thuẫn. Đó là gương mặt buồn, ủ rũ, ở cuối cuộc hành trình của nó. Nhìn vòng quay vô

tận của thời gian, Nguyễn Du ít lưu tâm đến điểm khởi đầu mà thường chỉ chú mục vào

phần kết thúc. Thơ ông do đó không miêu tả sự vật ở thời khắc huy hoàng rực rỡ hay hứa

hẹn phát triển mà đặc biệt nhạy cảm với những thời điểm cuối: cuối ngày, cuối mùa, cuối

năm và cuối đời con người.

Có những khoảnh khắc tưởng chừng ngẫu nhiên nhà thơ tỉnh dậy và nhận ra ngày sắp

hết:

Ngọ mộng tỉnh lai vãn

Tà nhật yểm song phi

( Tỉnh giấc mộng trưa trời đã muộn

Mặt trời xế bóng thôi chiếu lên cửa sổ)

( Sơn Đường dạ bạc)

nhưng ngẫm cho kỹ nếu nhà thơ không đặc biệt quan tâm đến thời khắc ấy, nếu điểm kết

thúc một ngày không tác động đến mọi giác quan thì ông khó lòng đón nhận để đưa nó vào

thơ được. Cũng như vậy, khi đứng trước cửa Hoàng thành Nguyễn Du thấy mùa xuân đang

tàn:

Xương hạp môn tiền xuân sắc lan

(Trước cửa Hoàng thành sắc xuân đang tàn)

( Ngẫu thư công quán bích 2)

Mùa thu, mùa hạ trong thơ ông cũng thường được miêu tả ở giai đoạn cuối, khi đã

qua thời điểm sung mãn:

Mạc mạc thu quang bát nguyệt thâm

Mang mang thiên khí bán tình âm

(Tháng tám lặng lẽ ánh thu già

Khí trời mênh mông nửa tạnh ráo nửa âm u)

(Tạp ngâm 3)

Thời điểm sắp kết thúc của năm cũng luôn khiến ông lưu tâm:

Hành sắc thông thông tuế vân mộ,

Bất câm bằng thức thán “Quy dư”

(Dáng đi vội vã vì năm đã sắp hết,

Không ngăn được việc tựa vào chiếc đòn ngáng ở trước xe mà than câu “về thôi”)

(Đông lộ)

Khứ biến đông nam lộ,

Thông thông tuế dục chu

(Đi khắp đường đông nam

Vèo vèo năm sắp hết)

(Chu phát)

Theo nhiều tài liệu để lại, Nguyễn Du viết ba tập thơ chữ Hán khoảng từ năm 21 tuổi

đến năm 49 tuổi, chưa phải lúc con người đối diện với lẽ mất – còn, với giới hạn của sự tồn

tại. Thế nhưng, trong thơ ông lại luôn nhắc đến “những ngày cuối”, phút cuối cuộc đời:

Tiễn đăng độc chiếu sơ trường dạ,

Ác phát kinh hoài mạt nhân tâm

(Một mình khêu ngọn đèn soi đêm mới bắt đầu dài,

Vắt óc thường lo chí nguyện của mình trong những ngày cuối)

(Thu dạ)

Trắc thân bất xuất hữu hình ngoại,

Thiên tuế trường ưu vị tử tiền

(Tấm thân không thể ra ngoài vòng hữu hình,

Trước khi chết còn lo mãi chuyện ngàn năm)

(Mộ xuân mạn hứng)

Nói đến cuối ngày, Nguyễn Du không hứa hẹn một buổi mai bình minh rực rỡ. Nhắc

đến cuối mùa, ông cũng không hi vọng sự khởi đầu của mùa sau. Miêu tả cuối năm, ông

chẳng để dòng thơ mình vắt sang năm mới. Và nhắc đến cuối đời, thi nhân không tin tưởng,

trông đợi gì ở kiếp sau. Thời gian trong thơ Nguyễn Du thường chỉ có một chiều: đi về phía

tàn tạ, héo úa, cái mà Trần Đình Sử gọi là “cảm thức thời gian tàn tạ, phôi pha” và Lê Thu

Yến định danh “thời gian úa tàn”. Thơ ông hay miêu tả mùa thu, buổi chiều, vốn là những

thời gian gợi buồn, gợi sự tàn phai mất mát.

Mùa thu trong thơ chữ Hán Nguyễn Du

Trong thơ chữ Hán, Nguyễn Du rất hiếm khi nhắc đến mùa hạ (chỉ có 2 bài) và mùa

đông (2 bài). Hai mùa xuất hiện với tần số lớn là mùa xuân (26 bài) và mùa thu (57 bài).

Mùa thu trong thơ chữ Hán Nguyễn Du thường gắn liền với những hình ảnh quen

thuộc đã trở thành ước lệ trong thơ cổ: lá vàng rụng rơi lả tả (Thu chí, Thu dạ 1), hoa cúc

nở vàng (Tạp ngâm 1, 3, Ngẫu hứng 2), rừng phong (Tạp ngâm 3, Nhiếp khẩu đạo trung),

hơi lạnh giục người giặt vải may áo (Đại tác cửu thú tư quy), mái tóc bạc và sự già nua hay

được hình dung như làn sương thu (Thu dạ, Bát muộn, Thu chí, Thu nhật ký hứng…)…

Mùa thu không chỉ báo hiệu hoàng hôn trong một năm mà còn gắn liền với nỗi buồn về sự

phai úa của đời người, một cuộc đời mông lung, vô định như cỏ bồng, như gió thu chẳng

biết đâu là chốn dừng chân. Nguyễn Du cũng hay miêu tả cỏ thu tiêu điều, xơ xác: cỏ thu

tàn úa nơi đài Đồng Tước (Đồng Tước đài), cỏ thu tiêu điều bên ngoài thành Nghiệp gió

đồng thổi (Thất thập nhị nghi trủng), ngôi đình Tô Tần trong cảnh thu muộn cỏ rậm rạp

(Tô Tần đình), cỏ thu xơ xác bên cầu Dự Nhượng (Dự Nhượng kiều), cỏ thu lan tràn trên

đài đua ngựa thời Tần (Từ châu đê thượng vọng)… Đó đều là những cảnh thực nhà thơ

nhìn thấy trên con đường đi sứ sang đất nước Trung Hoa xa xôi. Tơi tả trong mùa thu, xuất

hiện ở những nơi từng ghi dấu bao chiến công oanh liệt của những con người lẫy lừng một

thủơ, chúng tạo ấn tượng về sự đối lập giữa hiện tại và quá khứ, giữa cái còn với cái mất, về

một thời đã qua không bao giờ quay trở lại. Cảnh ấy khiến con người chợt nhận ra sự vô

nghĩa của công danh, tranh đoạt, và tính tất yếu của cuộc hành trình thời gian đi đến lụi tàn.

Điều đặc biệt trong các bài thơ mùa thu của Nguyễn Du là cách phối hợp màu sắc. Nhắc đến

lá vàng, hoa vàng, nhưng ông ít khi lấy nó làm màu chủ đạo mà thường kết hợp với sắc

xanh hay trắng:

Bạch lộ vi sương thu khí thâm

Giang thành thảo mộc cộng tiêu sâm

(Móc trắng thành sương, hơi thu lạnh già

Cây cỏ quanh thành bên sông thảy tiêu điều)

(Thu dạ 2)

Hồi thủ cố hương thu sắc viễn

Hoành Sơn vân thụ chính thương thương

(Ngoảnh đầu nhìn quê nhà, màu thu xa

Khói mây cây cối trên Hoành Sơn đương một màu xanh xanh)

(Giang đầu tản bộ 2)

Tam quân cựu bích phi hoàng diệp

Bách chiến tàn hài ngọa lục vu

(Trên lũy cũ ba quân lá vàng bay lả tả

Xương tàn trăm trận đánh nằm trong bãi cỏ xanh)

(Độ Linh giang)

Yến đảo thu hàn thanh nhập hải

Nễ giang trào trướng bạch hàm thiên

(Hòn Yến hơi thu lạnh, sắc xanh chiếu xuống biển

Cửa sông Ròn lúc triều lên, sóng trắng xóa như ôm lấy trời)

(Nễ giang khẩu hương vọng)

Tín Dương thành thượng động bi già,

Thu mãn Hà Nam bách tính gia

Vạn lí hương tâm hồi thủ xứ,

Bạch vân nam hạ bất thăng đa!

(Trên thành Tín Dương vang lên tiếng khèn buồn thảm

Hơi thu tràn ngập nhà dân Hà Nam

Lòng nhớ quê nhà cách xa vạn dặm, quay đầu nhìn lại

Phía nam mây trắng nhiều không kể xiết)

(Ngẫu hứng)

Cách kết hợp này khiến ta nhớ đến chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến: cụ Tam

Nguyên Yên Đổ miêu tả mùa thu nhưng lại lấy gam màu chủ đạo là màu xanh, vừa gợi nên

cái dịu mát, thanh sơ của không gian làng quê yên ắng, vừa cho thấy cái lạnh lẽo toát ra từ

cảnh vật và cả con người. Có lẽ không phải ngẫu nhiên khi viết về thu, Nguyễn Du đã chọn

xanh, trắng làm nền cho những chiếc lá, hoa vàng. Trắng, xanh đều là những gam màu lạnh,

sâu, gợi ý niệm về tính phi vật chất, có khả năng trung hòa, làm mất hút các màu khác khi ta

nhìn sâu vào đó. Bên cạnh ấn tượng về một miền không gian mông lung, sâu thẳm, vời vợi,

nó còn tạo ra ấn tượng về thời gian vĩnh cửu. Chính bởi có sự xuất hiện của hai sắc màu

này, khi đọc thơ thu Nguyễn Du, ta vừa thấy mênh mông rợn ngợp trước cái lạnh lẽo âm u,

vừa như bị nhấn chìm trong dự cảm về một cái hư vô vĩnh viễn sắp đến. Mùa thu trong thơ

Nguyễn Du không chỉ hiện ra để được cảm nhận trực tiếp bằng các giác quan. “Khí thu”,

“tiếng thu” thực sự đến với người đọc từ trái tim thi sĩ. Mùa thu trở thành nguồn thi hứng

không bao giờ vơi cạn, đến mức khi nằm bệnh, Nguyễn Du vẫn không thôi nhớ nhung nó:

Tái bệnh thượng tu điều nhiếp lực,

Bất tri thu tứ đáo thùy gia

(Bệnh tái phát nên phải gắng sức điều trị

Chẳng biết tứ thu đến nhà ai?)

(Khai song)

Buổi chiều trong thơ chữ Hán Nguyễn Du

Có ai đó đã từng nói lúc hấp hối buồn hơn là đã chết, cũng giống như lúc chiều tà

buồn hơn đêm khuya, ấy là khi trên mặt đất vẫn còn ánh sáng, nhưng là thứ ánh sáng yếu ớt

hắt lên một lần để rồi tàn lụi. Chiều tà là cơn hấp hối của ngày, người ta càng nuối tiếc ánh

sáng thì lại càng không thể níu giữ được nó, không thể ngăn một cuộc biến chuyển tất yếu

sắp diễn ra. Trong 3 tập thơ chữ Hán, có tới 27 bài Nguyễn Du viết về buổi chiều. Cái nhìn

của thi sĩ như lúc nào cũng nhuốm sắc hoàng hôn, ông ngắm cảnh trời chiều, đi trong chiều,

luôn đắm mình vào suy tư lúc mặt trời xế bóng.

Sau một ngày làm việc hay đi xa, khi chiều xuống là lúc các gia đình sum họp vui

vầy bên mâm cơm, dưới mái nhà. Với những con người phương Đông trọng đời sống gia

đình, điều ấy càng đặc biệt có ý nghĩa. Nhưng đời Nguyễn Du lại là những ngày tha hương,

lưu lạc trên đất khách. Buổi chiều trong thơ ông do vậy thường gắn với một tâm sự rất cổ

điển: nỗi sầu nhớ quê hương. Ông từng thổ lộ:

Nhật mộ hương quan cộng nhất sầu

( Trời chiều ai cũng chung một mối sầu nhớ quê hương)

( Hán Dương vãn diểu)

Quê hương có thể hiểu là ngọn núi Hồng, dòng sông Lam thân thuộc mà Nguyễn Du

hằng tơ tưởng trong những giấc mơ, cũng có thể hiểu là một bến đỗ êm đềm nâng giấc tâm

hồn con người khi yếu lòng, sa cơ lỡ bước. Tuy nhiên, với một người cả đời phiêu dạt “đi

hết phía Nam sông lại phía Bắc sông”, quanh năm ở nhờ nhà người như Nguyễn Du, bến đỗ

ấy thật quá xa vời. Cho nên, mỗi khi chiều xuống, hình bóng quê nhà mất hút trong đám

mây, cành cây ngọn cỏ càng dấy lên trong lòng nhà thơ mặc cảm cô đơn, lạc loài giữa

không gian mênh mông rợn ngợp và thời gian tàn tạ:

Cực mục hương quan tại hà xứ?

Chinh hồng sổ điểm bạch vân biên

(Nhướn mắt nhìn xem quê nhà ở chốn nào,

Chỉ thấy vài con chim hồng như vài nét chấm bên đám mây trắng)

( Thanh Quyết giang vãn diểu)

Cố quốc hà sơn khan lạc nhật

Tha hương thân thế thác phù vân

( Sông núi quê nhà nhìn trong cảnh mặt trời lặn

Thân thế nơi đất khách gửi đám mây nổi)

( Thu nhật kí hứng)

Vu đồ thiên lí chính tư quy

Ba ba bạch phát hồng trần lộ,

Nhật mộ đăng cao bi mạc bi

( Đường đi vòng quanh ngàn dặm, thêm giục lòng nhớ quê hương

Mái tóc bạc phơ trên đường bụi đỏ,

Chiều tà, trèo lên đỉnh núi cao không gì buồn bằng)

( Tổ Sơn đạo trung)

Không hiểu vô tình hay hữu ý, Nguyễn Du rất hay miêu tả những thành quách, lăng

miếu lẻ loi, trơ trọi ủ rũ trong bóng chiều. Thời gian buổi chiều vì thế thường gợi ra nỗi

buồn chiến tranh, mất mát. Thấp thoáng phía sau, người đọc cảm nhận được bóng dáng

hoàng hôn của xã hội phong kiến với sự điêu tàn, đổ nát vì biết bao cuộc tranh giành quyền

lực, địa vị để rồi cuối cùng chỉ còn lại cảnh thê lương, tan nát:

Cô thành nhật mộ khởi âm vân,

Thanh thảo man man đáo hải tần

Khoáng dã biến mai vô chủ cốt

( Chiều tà trên thành lẻ loi mây đen nổi

Cỏ xanh rờn lan tận bờ bể

Trên đồng ruộng khắp nơi vùi xương vô chủ)

( Ngẫu đắc)

Thạch lũy thu hàn kinh thảo đoản

Sa trường nhật mộ trận vân thâm

(Trên lũy đá hơi thu lạnh cỏ ở đường ngắn,

Chốn bãi cát trời chiều mây kéo dày đặc)

( Thành hạ khí mã)

Trướng vọng Lâm An cựu lăng miếu,

Thê Hà sơn tại mộ yên trung

( Buồn trông về lăng miếu cũ ở Lâm An

Núi Thê Hà chìm trong khói chiều)

( Nhạc Vũ Mục mộ)

Trong bóng chiều tựa như bức màn che phủ tất cả ấy, hình ảnh một bóng người xiêu

vẹo, mệt mỏi với cuộc hành trình không biết khi nào kết thúc thật thảm thương. Đọc thơ chữ

Hán, độc giả nhiều lần bắt gặp “bức chân dung tự họa” của Nguyễn Du nhạt nhòa trong

mây khói chiều tà:

Trường đồ nhật mộ tân du thiểu

Nhất thất xuân hàn cựu bệnh đa

(Đường dài, trời chiều, bạn mới ít

Một nhà xuân lạnh bệnh cũ nhiều)

(U cư 2)

Nhà thơ miêu tả nơi u tịch, nơi ông đang chịu phận ăn nhờ ở đậu nhưng lại dựng lên

hình ảnh “đường dài, trời chiều”. Như vậy con đường rõ ràng mang ý nghĩa biểu tượng: là

đường đời, là hành trình cuộc sống mà trời chiều chính là hoàn cảnh sống, là tuổi tác. Hình

ảnh biểu tượng này xuất hiện rất nhiều lần:

Vạn lý hoàng quan tương mộ cảnh

Nhất đầu bạch phát tản tây phong

(Đội chiếc mũ vàng nơi muôn dặm trong cảnh chiều tối

Một đầu tóc bạc bay tung trước gió tây)

(Mạn hứng 2)

Tản phát cuồng ca tứ sở chi

Lục tần phong khởi tịch dương vi

(Xõa tóc hát ngông đi khắp nơi

Gió thổi trên đám rau tần xanh, bóng chiều nhạt)

(Giang đầu tản bộ 1)

Tế giản thủy thanh lưu tích vũ,

Bình sa nhân ảnh tại tà dương

(Lạch nhỏ mưa nhiều tiếng nước reo,

Bóng người trên bãi cát phẳng lúc chiều tà)

(Giang đầu tản bộ 2)

Nguyễn Du cũng có lần viết về buổi sáng. Nhưng cũng giống như mùa xuân thơ ông

đầy ai oán, biệt li, lạnh lẽo chẳng khác gì thu, buổi sáng trong thơ Nguyễn Du cũng bị ám

ảnh bởi bóng chiều: đó là một sớm nghe tiếng tù và bi thương (Thu dạ 1), một sớm soi

gương thấy mình già mà kinh sợ (Thu nhật ký hứng)….

Miêu tả cuộc hành trình thời gian đi về phía tàn tạ, Nguyễn Du đã phủ lên những

trang thơ một cái nhìn ảm đạm, héo hắt về cuộc đời, phơi trải một tâm hồn nhiều góc khuất,

đầy phức tạp và cũng rất đỗi tinh tế, mong manh, dễ xúc động. Đó là cái nhìn nhất quán có

khả năng thấu thị quy luật dẫu tàn khốc nhưng không thể cưỡng lại của thời gian, của đời

người

3.1.2. Thời gian hai mặt trong thơ Shakespeare

Trái ngược với Nguyễn Du, Shakespeare nhìn sự vật, hiện tượng và con người ở

điểm khởi đầu rực rỡ của nó. Ông thường quan sát và ghi lại thời khắc tươi sáng, đầy sức

thu hút của ngoại vật. Đến với sonnet Shakespeare, ta sẽ bắt gặp những bình minh - khởi

đầu một ngày đầy hy vọng:

Full many a glorious morning have I seen

Flatter the mountain tops with sovereign eye,

Kissing with golden face the meadows green,

Gilding pale streams with heavenly alchemy;

(Tôi đã nhìn thấy rất nhiều buổi bình minh rực rỡ

Làm đẹp thêm đỉnh núi bằng đôi mắt mênh mông

Hôn (bằng gương mặt vàng) lên những đồng cỏ xanh

Mạ vàng ánh sáng yếu ớt một cách tài tình bằng ma thuật thiên đường)

(Sonnet 33)

Người đọc hình dung ra một không gian tràn đầy màu sắc và ánh sáng, được bao phủ

bởi ánh vàng kỳ diệu, có sức hấp dẫn, lan tỏa. Bình minh ấy gắn liền với niềm vui, sự hân

hoan, như nhà thơ có lần thổ lộ:

Haply I think on thee, and then my state,

Like to the lark at break of day arising

From sullen earth, sings hymns at heaven's gate;

(Bỗng nhiên tôi nghĩ đến em, và từ đó hoàn cảnh của tôi

giống như con chim chiền chiện lúc rạng đông thức dậy

từ mặt đất buồn rầu, hát bài thánh ca trước cổng thiên đường)

(Sonnet 29)

Miêu tả con người, Shakespeare cũng làm bật lên ở họ tuổi thanh xuân, khi mọi thứ

mới bắt đầu, tinh khôi, nguyên vẹn và trong trắng. Một số lượng lớn các bài sonnet của

Shakespeare được viết để gửi cho “the fair youth” – người trẻ tuổi đẹp đẽ kết tinh trong

mình mọi tiêu chuẩn thẩm mĩ của thời đại, thậm chí là hình mẫu cho tinh chất cái đẹp muôn

đời. Có rất nhiều giả thiết về nguyên mẫu của nhân vật này. Tới nay, các nhà nghiên cứu

vẫn đang tranh cãi. Nhưng dù nhân vật ấy có nguồn gốc từ một con người thật ngoài đời hay

chỉ là tưởng tượng của Shakespeare, ta đều thấy sức sống, nhiệt huyết tuổi trẻ là đề tài, là

cảm hứng bất tận của nhà thơ. Ông ca ngợi:

Thou that art now the world's fresh ornament,

And only herald to the gaudy spring,

(Anh, giờ là đồ trang sức tươi mơn mởn của thế gian

Và là sứ giả duy nhất của mùa xuân rực rỡ)

(Sonnet 1)

Now stand you on the top of happy hours,

And many maiden gardens, yet unset,

With virtuous wish would bear you living flowers,

Much liker than your painted counterfeit:

(Giờ anh đang đứng trên đỉnh của những ngày hạnh phúc

Và có rất nhiều khu vườn trinh nữ chưa được gieo trồng

Với vô vàn những điểm tốt mong mang đến cho anh những bông hoa tươi

Giống anh hơn bức vẽ của anh)

(Sonnet 16)

Cùng với tuổi trẻ là bầu nhiệt huyết sôi nổi và khát khao cháy bỏng được hưởng thụ

hết mọi lạc thú trần gian. Những vần thơ của Shakespeare xôn xao trìu mến cuộc đời. Ông

nhìn con người như một mầm non vươn ra trong nắng và nhìn tình yêu như một đứa trẻ:

Love is a babe, then might I not say so,

To give full growth to that which still doth grow?

(Tình yêu như một đứa trẻ, nên tôi không thể nói

một cái gì đã trưởng thành với thứ vẫn đang phát triển)

(Sonnet 115)

Nhưng sự trẻ trung, mới mẻ ấy không phải chỉ có một chiều và càng không vĩnh viễn.

Shakespeare thấy ở sự vật tính hai mặt của nó. Ngay trong buổi bình minh, ông đã hình

dung ra lúc hoàng hôn, ngay khi con người còn trẻ, ông đã tiên đoán lúc về già, và cũng

luôn luôn thấy trước sự phai nhạt, cằn cỗi của tình yêu.

Khi ánh sáng từ phương đông tỏa lan, tất cả đều ngưỡng mộ vẻ uy nghi thần thánh từ

sự xuất hiện đầy mới mẻ của nó, nhưng ngay lập tức, vầng ánh sáng ấy quay cuồng xuống

con dốc đồi thiên đường (Sonnet 7), cũng như vậy, ánh sáng bình minh rực rỡ kia sẽ nhanh

chóng bị mây che phủ:

Anon permit the basest clouds to ride

With ugly rack on his celestial face,

And from the forlorn world his visage hide,

Stealing unseen to west with this disgrace:

(Nhưng) chẳng bao lâu nữa nó sẽ để cho những đám mây cưỡi

với sự xấu xí tra tấn gương mặt thiên thần

Bị lấy cắp về phương tây trong tình trạng bị ghét bỏ)

(Sonnet 33)

Người trẻ tuổi ngỡ giữ được mãi vẻ thanh tân:

To me, fair friend, you never can be old,

For as you were when first your eye I ey'd,

Such seems your beauty still.(…)

( Với tôi, người bạn đẹp đẽ, anh không bao giờ già

Bởi từ lần đầu tôi nhìn thấy đôi mắt anh

(nó) vẫn giữ nguyên vẻ đẹp như vậy (…)

(Sonnet 101)

Nhưng thực chất không phải thế:

Ah! yet doth beauty like a dial-hand,

Steal from his figure, and no pace perceiv'd;

So your sweet hue, which methinks still doth stand,

Hath motion, and mine eye may be deceiv'd:

(Chao ôi, nhưng vẻ đẹp ấy, giống bàn tay chiếc đồng hồ

Bị lấy trộm từ hình ảnh của nó, và không thể nhận thấy bước chân

Cũng như vậy, hương sắc ngọt ngào của anh, trong ý nghĩ của tôi vẫn đứng im

Đã dịch chuyển, và đôi mắt tôi bị nhầm tưởng)

(Sonnet 104)

Nhà thơ luôn thấy hai quá trình song song: đứa con lớn lên nghĩa là người cha già đi,

một sản phẩm mới ra đời nghĩa là có cái khác đang cũ mòn, cái tàn tạ song song với cái sinh

sôi:

This were to be new made when thou art old,

And see thy blood warm when thou feel'st it cold.

(Đây (đứa trẻ) là một sáng tạo mới khi anh già đi

Và thấy được dòng máu nóng của mình khi anh cảm thấy lạnh giá)

(Sonnet 2)

As fast as thou shalt wane, so fast thou grow'st

In one of thine, from that which thou departest;

(Anh tàn tạ nhanh chừng nào, anh lớn nhanh chừng ấy

Trong thế hệ sau của anh, từ đó mà anh ra đi (từ giã vẻ trai tráng)

(Sonnet 11)

That thou among the wastes of time must go,

Since sweets and beauties do themselves forsake

And die as fast as they see others grow;

(Theo sự lãng phí của anh thời gian trôi đi

Theo đó sự tươi trẻ (ngọt ngào) và cái đẹp tự chúng cũng ra đi

Và chết nhanh như những cái khác đang lớn lên)

(Sonnet 12)

Tình yêu có thể rất trẻ, không phải theo nghĩa đen mà trong tâm hồn con người, thậm

chí hai người tự lừa dối nhau, lừa dối một cách ngọt ngào rằng mình rất trẻ trung, thành thật

(Sonnet 138), nhưng không thể tránh khỏi những dự cảm về già cỗi, tan vỡ:

Against that time, if ever that time come,

When I shall see thee frown on my defects,

(…) Against that time when thou shalt strangely pass,

And scarcely greet me with that sun, thine eye,

(Đoán trước thời gian ấy, khi nào nó đến

Khi tôi thấy em khó chịu vì những khuyết điểm của tôi

(…) Đoán trước thời gian khi em đi qua tôi giống như người xa lạ,

Và chắc chắn không chào đón tôi bằng mặt trời ấy, đôi mắt em)

(Sonnet 49)

Tuy nhiên, điều kì diệu của tình yêu là ở khả năng tái sinh. Trong tình yêu,

Shakespeare cũng nhìn thấy tính hai mặt: sự nồng nhiệt thiết tha đi bên cái nhạt nhẽo chán

nản, sự sôi nổi bồng bột đi cùng nguy cơ tắt nguội, ông kêu gọi:

Let this sad interim like the ocean be

Which parts the shore, where two contracted new

Come daily to the banks, that when they see

Return of love, more blest may be the view;

As call it winter, which being full of care,

Makes summer's welcome, thrice more wished, more rare

(Hãy để nỗi buồn tạm thời giống như đại dương

chia thành các cửa biển, nơi hai bộ phận nhỏ mới

Ngày ngày tới bờ, nơi chúng thấy (nhau)

tình yêu quay lại, hạnh phúc hơn

Hay xem nó như mùa đông, đầy gian khổ

bắt đầu một mùa hè, đáng mơ ước hơn, hiếm có hơn gấp 3 lần)

(Sonnet 56)

Nếu thời gian trong thơ Nguyễn Du mang bộ mặt ảm đạm, già cỗi thì ngược lại,

gương mặt thời gian trong thơ Shakespeare rất trẻ trung, cường tráng. Thời gian không lặng

lẽ, ủ dột mà rất ồn ào, mạnh mẽ thực hiện nhiệm vụ trên mỗi bước đường nó đi qua. Với

Shakespeare, thời gian là kẻ cho vay nặng lãi, đôi khi rất hào phóng, thứ nó cho vay chính là

xuân sắc, tuổi trẻ cùng nhựa sống căng tràn. Tất nhiên, như một “nhà đầu tư” đầy tính toán,

nó luôn luôn tính đến khoản lãi suất mà các con nợ sẽ bồi hoàn khi hết thời hạn, đó là muôn

vạn mầm sống, nòi giống tốt sinh sôi nảy nở. Bởi tính thương mại này, khi cho vay, thời

gian rộng rãi, hào phóng bao nhiêu thì khi đòi nợ, nó khắc nghiệt, lạnh lẽo, vô tình bấy

nhiêu, không cho ai một cơ hội để gỡ lại. Đặc biệt, với những ai đã tiêu phí toàn bộ vốn

liếng được thời gian tạm thời cấp cho mà không tạo ra thêm được gì, số phận của họ thật

thảm hại. Trong trí tưởng tượng của thi nhân thời gian còn là người đi gieo hạt và cũng

đồng thời là ông chủ với lưỡi hái sắc trong tay, thu hoạch mùa màng. Những bông hoa tươi

thắm, những cây trái xum xuê, những con người bằng xương bằng thịt mang trong mình

dòng máu nóng… đều sống, sinh trưởng dưới cùng một bầu trời, bị chi phối bởi cùng những

điều kiện như nhau. Để rồi đến một ngày, dẫu ra hoa kết quả hay đơn độc tàn héo, chúng

đều bị đưa lên chiếc xe tang theo bóng thời gian. Quá trính ấy diễn ra một cách hết sức tự

nhiên và không gì đẩy lùi được nó. Như một tên bạo chúa đầy quyền uy, thời gian trong thơ

Shakespeare vừa đóng vai trò là người sáng tạo vĩ đại đồng thời cũng chính là kẻ hủy diệt

tàn bạo, khát máu nhất. Thời gian, bằng công việc hết sức công phu, nhẫn nại đã tạo ra

những đôi mắt đẹp, những sinh vật rực rỡ tô điểm cho thế gian, những công trình kiến trúc

tưởng đứng vững đến muôn đời… Thế rồi cũng chính nó lại ra tay hủy hoại không thương

tiếc kho báu của mình để thay thế chúng bằng cái khác. Thời gian thúc đẩy, tạo điều kiện

cho bệnh thối mục trong hoa có dịp hoành hành, nhấn chìm mọi tòa tháp, đánh đổ bất cứ

chiếc cổng nào dù vững chắc nhất, đào rãnh sâu, khắc vết nhăn trên vầng trán, khuôn mặt

người… để rồi sẽ vây phủ tất cả bằng cái chết. Khi tô điểm cho cái này, nó đang bào mòn

tàn phá cái kia. Khi nhìn một nụ hoa chớm nở xinh tươi là ta biết một (hay nhiều) nụ hoa

khác đang tàn úa. Không chỉ có thời gian, mọi vật đều được Shakespeare nhìn nhận trong

tính tương đối của nó, không chỉ có một mặt, bên trong chúng luôn có những khía cạnh đối

lập đấu tranh với nhau, ông quan niệm:

Roses have thorns, and silver fountains mud:

Clouds and eclipses stain both moon and sun,

And loathsome canker lives in sweetest bud.

All men make faults, and even I in this,

(Hoa hồng có gai, bạc nguyên gốc vốn có cặn

Mây và thiên thực làm biến màu cả mặt trăng lẫn mặt trời

Và bệnh thối mục gớm ghiếc (tồn tại) trong những chồi mầm đẹp đẽ nhất

Tất cả mọi người đều mắc sai lầm, bao gồm cả tôi)

(Sonnet 35)

Sự khác biệt trong cảm thức thời gian ở Shakespeare và Nguyễn Du có nguồn gốc từ

đặc điểm thời đại, cuộc đời và nét riêng trong tâm tính mỗi nhà thơ. Nguyễn Du sống vào

khoảng thời gian chế độ phong kiến Việt Nam rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Chỉ trong

thời gian ngắn, các triều đại lần lượt đổi chủ, kèm theo nó là chiến tranh, chết chóc, đói khổ

liên miên. Cuộc đời Nguyễn Du cũng thăng trầm theo thời cuộc, không ít lần rơi xuống tầng

đáy của xã hội. Bóng đêm của một thời tàn kéo dài quá lâu khiến Nguyễn Du hình dung nó

như một thực tại đông cứng, không lối thoát. Bản thân ông, mang trong mình dòng máu tài

hoa nghệ sĩ từ người mẹ xứ Kinh Bắc, lại hấp thụ nền học vấn phong kiến cộng với bao kinh

nghiệm đau thương từ cuộc đời gió bụi nên càng dễ đồng cảm với mất mát, tan tác điêu tàn.

Tất cả những yếu tố ấy đã phủ lên một màn sương mờ tối, u ám - dù chan chứa yêu thương -

lên cái nhìn của nhà thơ. Khác với Nguyễn Du, Shakespeare sống trong thời kỳ Phục Hưng,

thấm đẫm tư tưởng chủ nghĩa nhân văn, khi giai cấp tư sản trỗi dậy mạnh mẽ với khát khao

vươn lên thoát khỏi bóng ma nhà thờ trung cổ. Chủ nghĩa nhân văn Phục Hưng tìm thấy ở

thời cổ đại những phát minh kỳ diệu, những quan niệm sống cởi mở, tiến bộ, những tri thức

lỗi lạc cần được làm sống lại dù không phải rập khuôn nó một cách máy móc. Shakespeare

tuy không được học hành nhiều nhưng đã sớm trải đời, tạo dựng một sự nghiệp huy hoàng.

Ánh sáng thời đại cùng với sự thành công của bản thân thổi vào sáng tác của ông một niềm

hân hoan, sảng khoái. Trong hình tượng thời gian ở thơ sonnet, ta thấy bóng dáng của chủ

nghĩa nhân văn Phục Hưng, tinh thần thời đại Phục Hưng: trong cái lụi tàn có cái đang nảy

nở, trong cái cũ có cái mới đang trồi ra, con người tự nhìn sâu vào đáy tâm hồn, vừa biết tự

ngợi ca nhưng cũng biết chỉ ra cái xấu, cái hữu hạn, vừa tự hào ngẩng mặt với trăng sao vũ

trụ, vừa cúi đầu trước giới hạn nhỏ nhoi, trong cái tốt chứa đựng mầm sống của cái đồi bại

Bởi vậy, nếu trong thơ Nguyễn Du, ta luôn chỉ thấy hình bóng thời gian hiển hiện ở

buổi chiều, mùa thu thê lương, tê tái thì trong thơ Shakespeare ta luôn gặp những cặp hình

ảnh sóng đôi: mùa đông - mùa hè, bình minh - hoàng hôn, ngày - đêm…

Cặp hình ảnh sóng đôi mùa đông- mùa hè; ngày – đêm trong thơ Shakespeare

Trong thơ sonnet, có mười bài Shakespeare nhắc đến mùa đông, 15 bài xuất hiện

mùa hè, và hai hình ảnh này thường không đứng riêng rẽ mà đồng thời xuất hiện, soi chiếu

cho nhau. Mùa đông, mùa hè là sự nối tiếp vòng quay thời gian trong năm, nhưng phần

nhiều chúng là hình ảnh ẩn dụ cho những giai đoạn của cuộc đời con người. Mùa đông trong

thơ Shakespeare thường đi kèm với sương tuyết, giá lạnh, sự cằn cỗi:

Who lets so fair a house fall to decay,

Which husbandry in honour might uphold,

Against the stormy gusts of winter's day

And barren rage of death's eternal cold?

(Mảnh đất nào có thể chống lại

Những cơn gió giận dữ của những ngày mùa đông

Và cơn thịnh nộ không thương tiếc của cái lạnh vĩnh viễn đầy chết chóc?)

(Sonnet 13)

Mùa đông vì vậy là biểu tượng của sự suy tàn, nên nói về tuổi tác Shakespeare dùng

chữ “forty winters” (Sonnet 2), so sánh nỗi buồn như mùa đông (Sonnet 56). Trái lại mùa

hè được xem là “the golden time” với màu xanh của cây cối, với nhiệt huyết tuổi trẻ và

những bông hoa thơm ngát “mở những nụ còn phong nhụy” (Sonnet 54) “When summer’s

breath their masked buds diccloses”, đi kèm với nó là niềm vui (Sonnet 56), tuổi thanh

xuân chói sáng (Sonnet 3). Nói về một con người đẹp đẽ, Shakespeare muốn so sánh với

một ngày hè (Sonnet 18), miêu tả niềm vui sáng tạo đỉnh điểm của người nghệ sĩ, ông cũng

liên tưởng đến con chim sơn ca hót đầu hè và tắt tiếng khi mùa hết (Sonnet 102). Đông – hè

không còn là một hiện tượng tự nhiên tách rời con người: khi xa cách người yêu, nhà thơ lúc

nào cũng mường tượng mình đang ở trong mùa đông dằng dặc giá buốt và chỉ có thể thoát

ra để bước sang hè bằng sự tái ngộ với giai nhân. Mùa hè trở thành đối tượng cho sự xâm

chiếm của mùa đông như một thực tế phũ phàng đáng sợ, biểu hiện tính hai mặt của thời

gian:

For never-resting time leads summer on

To hideous winter, and confounds him there;

Sap checked with frost, and lusty leaves quite gone,

Beauty o'er-snowed and bareness every where:

(Bởi thời gian không bao giờ ngừng nghỉ đã khiến cho mùa hè

Đi vào mùa đông gớm ghiếc và làm tiêu tan nó ở đây

Nhựa sống tuôn trào (của mùa hè) bị ngăn cản bởi sương giá, những chiếc lá xanh lìa

cành

Cái đẹp bị tuyết bao phủ và (phơi ra) vẻ trơ trụi ở khắp mọi nơi)

(Sonnet 5)

Bởi mùa đông chính là tuổi già, là sự cạn kiệt nguồn sinh lực trong khi mùa hè được

xem như giai đoạn đẹp đẽ, trẻ trung, sung sức nhất của đời người:

Then let not winter's ragged hand deface,

In thee thy summer, ere thou be distilled:

(Này đừng để bàn tay rách tả tơi của mùa đông làm biến dạng

Trong anh nhiệt tình tuổi trẻ, trước khi anh được chưng cất)

(Sonnet 6)

Song song với cặp đối lập đông – hè là cặp ngày – đêm. Có 10 bài Shakespeare tả

ngày và 13 bài miêu tả đêm. Cũng giống như mùa đông – mùa hè, hai hình ảnh này luôn

cùng hiện diện, đổi thay qua lại. Ngày gắn liền với ánh sáng, do đó nó là biểu tượng của

niềm vui, tuổi trẻ. Ngược lại, đêm tăm tối, mịt mù là lúc con người rơi vào điểm kết thúc

của cuộc đời. Với nhà thơ, ngày có hình hài, bằng ánh sáng chói, nó ban ân huệ cho thế gian

khi mây vấy bẩn bầu trời (Sonnet 28), còn đêm cũng có khuôn mặt – một khuôn mặt già cỗi

“her old face” (Sonnet 27) và nước da đen (Sonnet 28). Hành trình của ngày lộng lẫy chìm

vào đêm tăm tối (the brave day sunk in hideous night – Sonnet 12) cũng chính là hành trình

con người dần đi hết tuổi thanh xuân, tới dốc bên kia của đời (when his youthful morn hath

travell’d on to age’s steepy night – Sonnet 63). Ngược lại, sự thay đổi từ đêm sang ngày là

khi quỷ sứ bị dồn đuổi về địa ngục, con người thoát ra khỏi tình trạng bi kịch, được cứu vớt

(Sonnet 145).

Các cặp hình ảnh này tạo ra ấn tượng về sự vận động không ngừng của thời gian hai

mặt.

Cùng viết về sự tàn phai héo úa nhưng nếu Nguyễn Du chọn mùa thu làm biểu tượng

thì Shakespeare lại chọn mùa đông. Để miêu tả mùa của sự sống, sự sinh sôi nảy nở,

Nguyễn Du mong đợi ở xuân còn Shakespeare chọn mùa hè. Điều này hé lộ những khác biệt

thú vị về đặc điểm tâm hồn mỗi thi nhân, đồng thời cho thấy đặc trưng riêng của hai nền văn

hóa Đông – Tây.

Trong tâm thức người phương Đông, mùa thu luôn là mùa gợi nhiều thi hứng.

Khoảnh khắc mùa đi qua hạ nồng cháy, đứng trước thềm đông băng giá khiến người phương

Đông – những con người sợ sự đổi thay không khỏi bồi hồi. Cho nên, nhắc đến thu, như một

phản ứng tự nhiên, người ta cảm thấy một nỗi buồn man mác. Hai nhà nghiên cứu Cao Hữu

Công, Mai Tổ Lân từng viết: “Một người đọc Trung Quốc có thể không cảm thấy một tình

cảm buồn thảm trước gió thu lá rụng hay không? Sự thực là đối với một người đọc thơ

Trung Quốc, đem gió thu lá rụng tách khỏi tình cảm buồn thảm chỉ là một khả năng logic,

chứ thực tế người đó không làm như vậy”. Trong văn tự Hán, chữ thu kết hợp với chữ tâm

thành chữ sầu. Điều ấy ngầm chứa một triết lí: mùa thu đậu trên trái tim thi nhân kết đọng

thành một mối sầu. Với người Nhật, mùa thu và nỗi buồn không tách rời nhau. Basho viết:

Tiếng vượn hú não nề

hay tiếng trẻ bị bỏ rơi than khóc?

Gió mùa thu tái tê

Người Việt cũng dành cho thu một nỗi niềm sầu thảm từ Thu vịnh, Thu ẩm, Thu

điếu của Nguyễn Khuyến đến Cảm thu, tiễn thu của Tản Đà và Đây mùa thu tới của Xuân

Diệu, Thơ tình cuối mùa thu của Xuân Quỳnh sau này. Theo quy luật âm dương, thu được

xếp vào số các sự vật hiện tượng mang âm tính, mềm, lạnh. Trong ngũ hành, thu thuộc hành

kim với vị cay, khí táo. Trong ngũ âm, thu thuộc cung thương. “Đồng thanh tương ứng,

đồng khí tương cầu”, người nghệ sĩ bao giờ cũng có thiên hướng tìm đến những đề tài, đối

tượng phù hợp với khí chất, với cái tạng của mình. Nguyễn Du từng viết:

Giang thượng tây phong mộc diệp hy,

Hàn thiền chung nhật táo cao chi

Kỳ trung tự hữu thanh thương điệu

Bất thị sầu nhân bất hứa tri

(Gió tây thổi trên sông, lá cây thưa thớt

Ve sầu bị lạnh suốt ngày kêu trên cành cao

Trong tiếng ve kêu có điệu thanh thương,

Không phải người có nỗi buồn thì không phân biệt được )

(Sơ thu cảm hứng 2)

Rõ ràng, nhà thơ đã bắt được một cách rất tinh nhạy tín hiệu đau thương của đời để

viết nên những vần thơ tê tái, trong đó mùa thu có thể xem như một “bầu khí quyển” phù

hợp.

Trái ngược với thu, mùa xuân được xếp vào những sự vật hiện tượng mang dương

khí. Cơn gió xuân, nụ hoa mùa xuân thường đem đến cho người phương Đông ấn tượng về

sự sinh sôi, nảy nở, về sự khởi đầu. Những người có khí chất mạnh mẽ, sôi nổi thường có

khuynh hướng miêu tả mùa này. Nguyễn Trãi có thể xem là một ví dụ. Dù cuộc đời trải qua

rất nhiều thăng trầm, ông không lúc nào nguôi tâm niệm “trí quân trạch dân” bằng một

quan điểm sống: “Khó bền mới phải người quân tử/ Mạnh gắng thì nên kẻ trượng phu”, tình

nguyện làm con ngựa già rong ruổi đường xa không mệt mỏi. Đọc thơ ông, ta ít khi thấy

sương thu, gió thu ảm đạm mà chủ yếu là hoa xuân, lá xuân đầy sinh khí, sinh ý: một nõn

chuối xanh bén hơi xuân phơi phới như một bức thư tình nhiều hứa hẹn (Cây chuối), những

đóa xoan nở muộn trong mưa bụi khi nhà thơ “nhàn nhã khép phòng văn” (Mộ xuân tức

sự), một bông mai nở tượng trưng cho khí chất thanh cao (Mai)… Tuy nhiên, cũng phải

nhân thấy rằng, mối duyên giữa mùa thu và nhà thơ sông Lam núi Hồng một phần do khí

chất, phần khác cũng do hoàn cảnh đưa đẩy. Nguyên ủy, Nguyễn Du rất yêu mùa xuân. Ông

từng dựng lên những bức tranh tuyệt đẹp:

Mục nhi giác chủy hoang giao mộ

Cấp nữ đồng liên ngọc tỉnh xuân

(Trẻ chăn trâu gõ sừng giữa đồng hoang chiều hôm

Cô gái kéo gàu nước ở giếng ngọc ngày xuân)

(Sơn thôn)

Xuân nhật thương thuyền hợp,

Tây phong cổ lũy khai

Du nhân vô hạn cảm

Phương thảo biến thiên nhai

(Ngày xuân thuyền buôn tụ họp

Gió tây lũy xưa mở ra

Du khách cảm xúc vô hạn

Cỏ thơm xanh tận chân trời)

(Độ Phú Nông giang cảm tác)

Có những khi vì khí trời xấu không mở cửa, ông vẫn cảm nhận sinh ý của chúa xuân

trên đóa hoa mai và tự hỏi “Xuân ở Quỳnh Hải từ đâu lại”(Xuân nhật ngẫu hứng). Thấy cỏ

trên sân bị rẫy sạch, ông băn khoăn “Mai mốt gió xuân biết từ nơi nào đến”(Ngẫu hứng 3).

Thế nhưng, Nguyễn Du cũng thừa nhận mùa xuân tươi đẹp, tràn đầy sức sống ấy không phải

dành cho mình:

Cộng chỉ mai hoa báo tiêu tức

Xuân hà tằng đáo dị hương nhân!

(Cùng trỏ hoa mai báo tin xuân

Nhưng xuân có bao giờ đến với người từ nơi đất khách)

(An Huy đạo trung)

Lao lạc xuân vô phận

Sa đà lão tự kinh

(Lo buồn mãi, xuân không đến với mình

Lẫn lữa năm tháng trôi qua thêm sợ tuổi già)

(Quế Lâm công quán)

Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm?

Tiểu song khai xứ liễu âm âm

(Đêm tối đen, tìm đâu ánh sáng mùa xuân

Trước song cửa sổ mở chỉ thấy bóng liễu âm u)

(Xuân dạ)

Một người trong đời gặp quá nhiều bất hạnh, chứng kiến nhiều cảnh loạn li tan tác,

bãi bể hóa nương dâu, biến dịch khôn lường, lại luôn ôm mối lo cơm áo, lo chí nguyện

không thành, lo bệnh tật, ám ảnh về tuổi già, cái chết như Nguyễn Du không thể an nhiên

đón nhận một thời khắc rất mới mẻ, tươi sáng là mùa xuân được. Cho nên dù yêu xuân,

mong xuân đến mấy, Nguyễn Du cũng chỉ thấy một mùa xuân lạnh (Sơn cư mạn hứng),

xuân tàn (Ngẫu thư công quán bích), xuân với lá rụng, hoa rơi (U cư 1)…

Bị mùa xuân quay lưng lại, Nguyễn Du đã tìm đến với thu như tìm về chính tâm hồn

mình. Càng về sau này, mùa thu xuất hiện càng dày đặc. Trong số 57 bài có hình ảnh thu,

tập Bắc hành tạp lục chiếm tới 25 bài.

Khi nhắc đến Anh quốc, người ta nhắc đến một đất nước ôn đới với sự phân chia các

mùa rất rõ rệt, nhất là hai cực đông – hè. Vào mùa đông, nhiệt độ có khi xuống đến - 10º C,

còn mùa hè thường không vượt quá 32º C. Mùa đông với người Anh, do vậy thường gắn

liền với sự khô cằn lạnh giá, mọi thứ đóng băng, nhiều hoạt động bị cản trở. Ngược lại, mùa

hè là mùa con người cảm thấy dễ chịu nhất, mùa có nắng đẹp, thời tiết ấm áp, mọi thứ như

bừng tỉnh sau giấc ngủ. Điều này để lại dấu ấn cả trong lời ăn tiếng nói, nhất là cách nói ẩn

dụ của người Anh: “Khi trời có nắng, mặt trời đang chiếu sáng. Hầu hết mọi người nghĩ

rằng thời tiết có nắng thật dễ chịu, và nó thường khiến con người cảm thấy vui vẻ hơn.

“Sunny” được sử dụng như một ẩn dụ để miêu tả những người hoặc những tình huống vui

vẻ, đáng mến. Người có tính cách sunny là người vui vẻ, thân thiện, và khiến những người

xung quanh cảm thấy hạnh phúc. Nếu người nào đang trong tâm trạng sunny, họ thường lạc

21

quan và hạnh phúc. Ta cũng có thể nói một triển vọng hay một tương lai sunny khi cảm thấy

P”. Cho nên khi nói “sunny girl” là ta nhắc đến

chắc chắn và lạc quan về nó [53, tr.230] P20F

một cô gái sống động, linh hoạt, nói “the sunny side of his character” là nói đến mặt lạc

quan trong tính cách con người… Trái lại, “thời tiết lạnh bị xem là kém dễ chịu hơn thời tiết

22

ấm áp. Những từ được sử dụng để nói về thời tiết lạnh thường là các ẩn dụ để miêu tả

P” [53, tr.231]. Đây là một trong những lí do

những người hay cách ứng xử gây khó chịuP21F

Shakespeare dùng cặp hình ảnh đối lập đông – hè như trên đã phân tích.

Như vậy, hai gương mặt thời gian với hai mùa chủ đạo được miêu tả phải chăng cũng

phản ánh điệu hồn, gương mặt tinh thần của hai nghệ sĩ: Nguyễn Du đắm trong mùa thu sầu

mộng còn Shakespeare luôn rạo rực với hè rực rỡ và chói nắng?

3.2. Hai tâm trạng, hai cách xử thế

Ở trên chúng tôi đã chỉ ra, cả Shakespeare và Nguyễn Du đều có chung cảm nhận về

dấu ấn thời gian in hằn trên sự vật, con người, sức tàn phá của nó, ý thức được sự phù du

của kiếp người trong dòng chảy vô tận, đầy khắc nghiệt. Đứng trước thời gian ấy, mỗi người

mang một tâm trạng, từ đó dẫn đến cách ứng xử khác nhau: Nguyễn Du buồn tiếc nuối, còn

Shakespeare nỗ lực không ngừng chiến đấu với thời gian.

3.2.1. Nỗi tiếc nuối, buồn đau trong thơ chữ Hán Nguyễn Du

Bên cạnh thời gian hiện tại, quá khứ là chiều thời gian được Nguyễn Du lưu tâm,

dành cho nhiều ưu ái. Những chữ “cổ”, “cựu”, “cố”, “khứ”, “vãng”… xuất hiện với tần số

lớn cho thấy cái ngoái nhìn của nhà thơ về những ngày xa xôi. Quá khứ là cái đã qua, cái

không thể thay đổi, cũng có nghĩa đó là khoảng thời gian ngưng đọng trong tâm trí. Nhưng

với Nguyễn Du, quá khứ luôn hiện diện ở cuộc sống thực, dù nhà thơ đang đứng ở cái ngày

– hôm - nay:

21 When it is sunny, the sun is shining. Most people think that sunny weather is pleasant, and it often makes people feel happier. Sunny is used as a metaphor to describe people and situations that are cheerful and pleasant. Someone who has a sunny personality is cheerful and friendly, and makes people around them feel happy. If someone is in a sunny mood, they feel optimistic and happy. You can also say that the outlook or the future is sunny if you feel positive and optimistic about it. 22 Cold is generally considered to be less pleasant than warm, sunny weather, and words used to talk about cold weather are usually used metaphorically to describe unpleasant people or behaviour.

Vị Hoàng giang thượng Vị Hoàng doanh,

Lâu cối sâm si tiếp thái thanh

Cổ độ tà dương khan ẩm mã

(Trên sông Vị Hoàng có quân doanh Vị Hoàng

Bên lầu gác những cây cối chạy dài nhấp nhô như liền với trời xanh

Trên bến đò xưa, trong bóng chiều, xem ngựa uống nước)

(Vị Hoàng doanh)

Cảnh vật được nhìn ở hiện tại, nhưng trong tâm trí nhà thơ, nó vẫn nhuốm sắc màu

quá khứ, bến đò là bến đò xưa, hoa cúc năm nay nở nhưng vẫn là hoa năm cũ (Tạp ngâm),

những dấu vết từ nghìn năm trước xa xôi giờ vẫn còn đây (Thương Ngô tức sự). Với

Nguyễn Du, mỗi ngày tháng, giờ phút qua đi đều để lại nhiều dấu ấn khó phai, ông từ biệt

năm cũ như từ biệt người bạn đầy lưu luyến (Xuân nhật ngẫu hứng) và khó chịu, đau lòng

trước sự thay đổi, khi cái mới che mờ cái cũ:

Cù hạng tứ khai mê cựu tích,

Quản huyền nhất biến tạp tân thanh

(Đường phố mở khắp bốn bề làm lạc dấu vết cũ,

Tiếng đàn sáo nhất loạt thay đổi chen vào những âm điệu mới)

(Thăng Long 2)

Người xưa hướng về quá khứ để chiêm ngưỡng một vẻ đẹp vĩnh hằng, chuẩn mực mà

họ không tìm thấy được trong cuộc đời thực, còn Nguyễn Du xem quá khứ như một cái gì

đó khiến ông không đành lòng dứt ra, nên cứ mãi bị ám ảnh. Nhìn cảnh thấy hiện lên cảnh

cũ, Nguyễn Du cũng không ngừng khơi lại việc cũ để mà suy tư, đối chiếu với hiện tại:

Lý Trần cựu sự yểu nan tầm

(Việc cũ đời Lý, Trần mờ mịt khó tìm)

(Trấn nam quan)

Thanh sơn thương vãng sự

(Nhìn núi xanh thương việc cũ)

(Độ Phú Nông giang cảm tác)

Thiên cổ khởi nhân ti (tư)

(Việc xưa, nay người ta vẫn nhớ)

(Vinh Khải Kì thập tuệ xứ)

Vãng sự hồi đầu thành cổ câm (kim)

(Việc cũ quay đầu nhìn lại đã thành ra chuyện đời xưa với chuyện đời nay)

(Phúc Thực Đình)

Vãng sự bi thanh trủng

(Chuyện cũ bi thương nấm mồ cỏ xanh)

(Thu chí)

Dường như không tìm được người đồng cảm trong hiện tại, Nguyễn Du hay hướng

tới trò chuyện, suy nghĩ về những người xưa, người cách mình bao nhiêu thế kỷ, những

Kinh Kha, Khuất Nguyên , Đỗ Phủ, Hoài Âm hầu, Tào Tháo… Nhớ về cảnh cũ người xưa,

cảm xúc thường thấy ở ông là buồn thương, tiếc nuối, ngậm ngùi:

Lưu thủy phù vân thất bá đồ

Tôn sách Lưu phân hà xứ tại?

Thương nhiên nhất vọng tẫn bình vu

(Nước chảy mây trôi cuốn sạch mọi mưu đồ bá chủ

Đâu là đất họ Tôn đòi, họ Lưu chiếm giữ?

Buồn trông chỉ thấy xanh um một vùng cỏ hoang )

(Sở vọng)

Tịch liêu kim dạ vọng

Thiên trích cổ nhân tình

(Đêm nay vời trông khung cảnh hiu quạnh

Chạnh nhớ người xưa bị giáng chức đi đày )

(Tương Âm dạ)

Tây phong ỷ cô hạm,

Hồng nhạn hữu dư ai

(Trước ngọn gió tây, một mình đứng dựa lan can,

Vẳng tiếng chim hồng, chim nhạn bay qua thêm buồn )

(Đăng Nhạc Dương lâu)

Ngã tư cổ nhân thương ngã tình

Bồi hồi phủ ngưỡng bi phù sinh

(Ta nghĩ đến người xưa, xót nỗi mình

Bồi hồi ngẩng lên cúi xuống, thương kiếp phù sinh)

(Đồng Tước đài)

Sự nhạy cảm đặc biệt của cụ Nguyễn với quá khứ xuất phát từ nhiều nguyên nhân.

Khi con người buồn vì hiện tại và lại chẳng mong gì ở tương lai thì thường nghĩ nhiều đến

quá khứ. Quá khứ, với Nguyễn Du dù sao cũng gợi ra một thời kì huy hoàng khi gia đình

còn vinh hiển, quyền thế. Bên cạnh đó, việc nặng lòng với quá khứ còn phản ánh tâm thức

của người Việt: trọng yếu tố cộng đồng hơn yếu tố cá nhân. Vì trọng yếu tố cộng đồng, họ

có ý hướng trân trọng các giá trị được tạo ra trong quá khứ. Người Việt có tục thờ cúng tổ

tiên, quan tâm đến mồ mả, nghi lễ dành cho người đã khuất và luôn tin rằng những thành

quả mình đạt được trong hiện tại cần phải có sự phù trợ của cha ông mới đạt được. Khi gặp

khó khăn, họ khấn ông bà cha mẹ “phù hộ” cho con cháu tai qua nạn khỏi. Trong các truyền

thuyết Việt, ta luôn thấy xuất hiện hình ảnh thế hệ trước hiện về hỗ trợ con cháu trong các

tình huống nguy nan: khi chống giặc ngoại xâm hay xây dựng đất nước: Thần Hồ cho Lê

Lợi mượn kiếm thần chống giặc Minh, Rùa Vàng giúp An Dương Vương xây thành, chế

nỏ… trong khi ở các truyền thuyết phương Tây, không thấy có hiện tượng này. Truyền

thuyết Anh có kể câu chuyện vị vua Arthur nổi tiếng sau khi thất bại đã ném kiếm xuống hồ

chứ không trao lại nó cho thế hệ sau để tiếp tục sự nghiệp. Hành động ấy hàm chứa quan

điểm: với người Anh, mỗi cá nhân ở mỗi thời đại phải bằng nỗ lực của chính mình tạo dựng

thành công. Còn với người Việt, quá khứ chính là điểm tựa để họ có thể bước tiếp trong đời.

Tuy nhiên, dù nghĩ về quá khứ hay nhìn về hiện tại, nhà thơ vẫn không tránh khỏi

buồn rầu. Buồn dường như là tâm trạng thường trực của Nguyễn Du, nó có nguồn gốc từ khí

chất của nhà thơ cộng thêm với sự trải nghiệm quãng đời lưu lạc:

Đông phong trú dạ động giang thành

Nhân tự bi thê thảo tự thanh

(Ngày đêm gió đông lay động thành bên sông

Người cứ buồn thương, cỏ cứ xanh )

(Thanh minh ngẫu hứng )

Con người hữu tình mà cỏ cây vô ý. Cỏ vẫn xanh, mùa vẫn tiếp mùa mặc người bi

lụy, hay nỗi buồn của con người cũng tự nhiên và vĩnh hằng như màu cỏ xanh. Chỉ biết

rằng, “nguồn thơ đã sẵn trong lòng” lại chứng kiến bóng thời gian phủ mờ lên vạn vật, nhà

thơ càng được dịp “anh hoa phát tiết ra ngoài”. Tâm trạng nhà thơ có khi ẩn kín trong màu

cây cỏ, có khi bùng phát để người đọc thấy rõ nỗi lo sợ, hoảng hốt, bi thương, buồn rầu:

Bạch phát thu hà hạn

Tây phong biến dị hương

(Tóc bạc, thu đến, giận làm sao

Gió tây thổi khắp trên đất khách )

(Tín Dương tức sự)

Trù trướng lưu quang thôi bạch phát

(Buồn rầu vì tháng năm trôi giục mái tóc bạc thêm)

(Thu chí)

Bách tuế vi nhân bi thuấn tức

Mộ niên hành lạc tích tu du

(Cuộc đời trăm năm thương thay chỉ là chớp mắt

Cuộc vui chơi lúc tuổi già, tiếc chỉ là thoáng chốc)

(Mạn hứng)

Nhà thơ cũng có khi tự đi tìm giải pháp vượt thoát khỏi tâm trạng ấy bằng vui chơi

hưởng thụ, bằng cách trốn vào văn chương, bằng vịn vào thiên nhiên vĩnh cửu .

Hai trong số vài bài thơ được xem là tươi sáng trong ba tập thơ chữ Hán của Nguyễn

Du là Hành lạc từ. Bài này có lẽ được làm khi tác giả vẫn còn trai trẻ, ngông nghênh và

đầy nhiệt huyết. Ông khuyên con người hãy tận hưởng mọi lạc thú trên đời :

Nhân sinh vô bách tải,

Hành lạc đương cập kì

Hữu khuyển thả tu sát,

Hữu tửu thả tu khuynh

Nhãn tiền đắc táng dĩ nan nhận

Hà sự mang mang thân hậu danh

(Đời người không ai sống trăm tuổi

Nên vui chơi cho kịp thì

... Có chó cứ nên giết

Có rượu cứ nghiêng bầu

Được mất trước mắt còn khó biết

Việc gì bận tâm đến cái danh xa xôi sau khi chết )

(Hành lạc từ 1)

Hảo hoa vô bách nhật,

Nhân thọ vô bách tuế

Thế sự đa suy di

Phù sinh hành lạc sự

(Hoa đẹp chẳng trăm ngày

Người thọ chẳng trăm tuổi

Việc đời lắm đổi dời

Kiếp phù sinh nên hành lạc)

(Hành lạc từ 2)

Tuy câu thơ rất hào sảng nhưng ta vẫn cảm nhận một nỗi lo phảng phất. Nhà thơ

dùng cách cổ vũ việc hành lạc để đối phó với sự vô thường của cuộc đời, sự trôi qua của

thời gian song đó là một cách đối phó hoàn toàn bị động trong trạng thái chờ đợi những tình

thế bất trắc. Nguyễn Du cũng có khi tin vào sức sống của văn chương, nghệ thuật. Ông đã

rất táo bạo khi viết :

Tây Sơn cơ nghiệp tận tiêu vong

Ca vũ không di nhất nhân tại

(Cơ nghiệp Tây Sơn tiêu tan hết cả rồi,

Chỉ còn sót lại một người ca múa)

(Long Thành cầm giả ca)

Cả một triều đại lừng lẫy cuối cùng tiêu vong, cái còn lại là một người ca múa. Thì ra

nghệ thuật có sức sống lâu bền hơn mọi quyền lực. Ông nhiều lần xem văn chương như

chốn náu mình cho những ngày buồn chán:

Bách niên ai lạc hà thời liễu?

Tứ bích đồ thư bất yếm đa

(Chuyện buồn chuyện vui trăm năm biết đến bao giờ hết?

Sách vở đầy bốn vách nhiều mấy cũng không chán)

(Tạp ngâm 1)

Văn chương với ông còn là người bạn, là tài sản duy nhất lúc đau yếu, buồn rầu (Tạp

ngâm 2). Trong bài Hán Dương vãn diểu, ông nhắc lại câu thơ của Lí Bạch ca ngợi sức

mạnh bất tử hóa của văn chương:

Thi thành thảo thụ giai thiên cổ

(Thơ làm xong, cỏ cây cũng cùng thơ được truyền đến ngàn năm)

Nhưng nếu Shakespeare hoàn toàn tin vào sức mạnh của văn chương thì Nguyễn Du

luôn đứng giữa đôi bờ ngờ vực. Một mặt ông tự hào về tài năng văn chương của mình, xem

văn chương là niềm an ủi. Mặt khác, với ông, văn chương còn là cái nghiệp, cái nợ, là

nguồn cơn gây nên bi kịch đời người. Nhà thơ tự hỏi Đỗ Phủ cùng quẫn đến thế phải chăng

vì giỏi thơ và cũng nhiều lần tự vấn, sao văn chương cứ lụy đến mình. Điều này có nguồn

gốc từ quan niệm của ông: tạo vật đố tài, cái tài khiến cho trời đất ghen ghét nên người tài

hoa lại hay bạc mệnh. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du trăn trở mãi về lẽ bất công này:

“Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”, “Chữ tài liền vời chữ tai một vần”, “Tài tình chi lắm

cho trời đất ghen”… Văn chương suy cho cùng không thể là điểm tựa để nhà thơ chống

chọi với cái khắc nghiệt thời gian. Chán nản trước mọi đổi thay diễn ra trước mắt, Nguyễn

Du hay vịn vào những sự vật tồn tại vĩnh hằng để giữ cho mình cái tâm an nhiên, tự tại, để

tự cân bằng. Đứng trước không gian cô tịch, nghĩ suy về bao lẽ đổi thay, biến dời, nhà thơ

tự an ủi mình:

Mạc hướng Phù Hoa thôn khẩu vọng,

Điệp sơn bất cải cựu thời thanh

(Thôi đừng nhìn về phía thôn xóm vùng Phù Hoa nữa,

Kìa núi Tam Điệp vẫn không thay đổi màu xanh xưa )

(Vị Hoàng doanh)

Ngụy vong Tấn tục canh triều đại,

Tự thử hất kim kỷ thiên tải

Kỳ trung hưng phế tri kỉ nhân

Nga nga thành điệp hà tằng cải

Thành ngoại, thanh sơn tự cựu thì

(Ngụy mất, Tấn nối, đổi thay triều đại,

Từ ấy đến nay đã mấy ngàn năm rồi?

Trong khoảng thời gian ấy biết bao kẻ dấy lên và sụp đổ

Ngoài thành núi vẫn xanh như thời xưa

(Cựu Hứa đô)

Lấy vẻ xanh của núi để tìm chốn bình an, nhưng cũng có lúc nhà thơ nhận thấy cái

vĩnh hằng ấy quá vô tình, bởi nó là nơi chứng kiến bao cảnh thương tâm:

Vô cùng kim cổ thương tâm xứ

Y cựu thanh sơn tịch chiếu hồng

(Nơi gợi bao chuyện đau lòng xưa nay

Là dãy núi xanh vẫn nhuốm bóng chiều hồng như cũ )

(Mạn hứng 2)

Lại cũng có khi, Nguyễn Du quay về với bản nguyên vĩnh cửu, ví lòng mình như

trăng sáng chiếu giếng xưa, không động ba đào dù chịu bao tác động của ngoại vật:

Trạm trạm nhất phiến tâm

Minh nguyệt cổ tỉnh thủy

(Một tấm lòng thanh trong

Như trăng sáng chiếu giếng xưa )

(Đạo ý)

Tuy nhiên, thường trực trong thơ ông vẫn là một nỗi buồn mênh mang, một tiếng thở

dài không dứt. Nhà thơ không muốn chấp nhận thực tế, không muốn thỏa hiệp nhưng lại

chẳng biết làm sao để thoát ra khỏi cái quy luật nghiệt ngã của nó. Không giống như các nhà

thơ thiền điềm nhiên trước vòng sinh – trụ - dị - diệt, Nguyễn Du là con người đầy lo âu,

luôn trăn trở, khổ đau, luôn than thở:

Thế sự phù vân chân khả ai

(Đời như mây nổi thật đáng buồn )

(Đối tửu )

Bất tri tam bách dư niên hậu

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như

(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa

Người đời ai khóc Tố Như chăng)

(Độc Tiểu Thanh kí)

3.2.2. Những nỗ lực chiến đấu với thời gian trong thơ Shakespeare

Nếu Nguyễn Du luôn ngóng vọng về quá khứ thì trái lại Shakespeare không ngừng

trăn trở về tương lai. Thời gian tương lai thường xuyên xuất hiện trong thơ ông kèm theo sợi

dây nối liền hiện tại và quá khứ. Nhà thơ đặt ra các giả định về thì tương lai còn chưa đến để

từ đó định hướng cho hành động trong hiện tại. Quá khứ với Nguyễn Du là một giá trị, một

nỗi nhớ thương, khắc khoải. Với Shakespeare, quá khứ chỉ là một lăng kính giúp nhà thơ có

cơ sở nhìn thấu tương lai và sống có ý nghĩa hơn ở hiện tại. Nếu quá khứ là cái đã hoàn kết,

ngưng đọng, bất biến thì trái lại, tương lai là cái luôn ở thế khả năng, chỉ ra các khả năng ấy,

nhà thơ cho thấy triển vọng thay đổi nó.

Tương lai đồng nghĩa với sự thay đổi các trạng thái. Với người trẻ tuổi đẹp đẽ, tương

lai là tuổi già, nếp nhăn, mệt mỏi, với những người đang yêu, tương lai là sự hờ hững, nhạt

phai:

Against that time, if ever that time come,

When I shall see thee frown on my defects,

(…) Against that time when thou shalt strangely pass,

And scarcely greet me with that sun, thine eye,

When love, converted from the thing it was,

(Đoán trước thời gian ấy, nếu có khi nào nó đến

Khi tôi thấy em khó chịu vì những khuyết điểm của tôi

(…) Đoán trước thời gian khi em đi qua tôi giống như người xa lạ

Và chắc chắn không còn chào đón tôi bằng mặt trời ấy – đôi mắt em

Khi tình yêu, thay đổi, không còn như nó đã từng)

(Sonnet 49)

Với nhà thơ, tương lai là sự cạn kiệt nguồn cảm hứng, tệ hơn nữa, là sự quên lãng

của người đời:

So should my papers, yellow'd with their age,

Be scorn'd, like old men of less truth than tongue,

(Vì thế những trang thơ của tôi, úa vàng theo thời gian

Sẽ bị coi thường (như người ta coi thường) một người già nói những lời không thật)

(Sonnet 17)

Và hơn hết, cái chết đang chờ đón mỗi người ở cuối con đường. Không chỉ hình

dung một cách mơ hồ, mông lung, nhà thơ đã dựng lên thật cụ thể, sinh động thời khắc ấy:

That time of year thou mayst in me behold

When yellow leaves, or none, or few, do hang

Upon those boughs which shake against the cold,

Bare ruined choirs, where late the sweet birds sang.

In me thou see'st the twilight of such day

As after sunset fadeth in the west;

Which by and by black night doth take away,

Death's second self, that seals up all in rest.

In me thou see'st the glowing of such fire,

That on the ashes of his youth doth lie,

As the death-bed, whereon it must expire,

Consum'd with that which it was nourish'd by.

(Em có thể thấy thời gian đó của năm trong tôi

Khi những chiếc lá vàng, hoặc không, vài chiếc, lủng lẳng

trên cành cây, run lên trước cái lạnh

sự trống rỗng làm tổn thương giàn hợp xướng, nơi những chú chim non hót muộn

Trong tôi em có thể thấy lúc chạng vạng như vậy của ngày

Sau khi mặt trời lặn, mờ dần về phía tây,

Tương lai là đêm đen, tượng trưng cho

gương mặt thứ hai của tử thần, đóng kín tất cả trong sự nghỉ ngơi

Trong tôi em có thể thấy ngọn lửa rực rỡ đến vậy

từ trong đám tro tàn nơi tuổi thanh xuân

giống như chiếc giường người chết – mà ở đó kết thúc

bị phá hủy giống như từng được nuôi dưỡng )

(Sonnet 73)

Trong khi Nguyễn Du đầy lưu luyến với quá khứ thì Shakespeare đặc biệt quan tâm

đến tương lai. Điều này thêm một lần soi sáng điểm khác biệt trong văn hóa Đông – Tây.

Nếu với người phương Đông, cái mới ra đời không bao giờ là mới hoàn toàn và nếu muốn

được chấp nhận, nó phải kế thừa một phần dáng vóc của cái cũ, cái đã trở nên quen thuộc

với cộng đồng nếu không muốn bị coi là ngoại lai, lập dị thì ngược lại, với người phương

Tây, cái mới ra đời bằng sự phủ nhận cái cũ. Điều họ quan tâm hơn hết là tương lai chứ

không phải cái đã qua. Lý Bạch từng khẳng định “Khuất Bình từ phú huyền nhật nguyệt”

(Từ phú của Khuất Nguyên vẫn sáng với mặt trời mặt trăng – Giang thượng ngâm), người

đời sau lại nói: Văn chương Lí Đỗ còn, ánh sáng chiếu muôn trượng; trong khi nhà thơ Tây

ban Nha nổi tiếng Garxia Lorca còn để lại lời thơ nổi tiếng: “Khi tôi chết hãy chôn tôi với

cây đàn” thể hiện mong muốn thế hệ sau sẽ vượt lên bằng cách vùi chôn tên tuổi của mình.

Lịch sử thế giới phương Tây đã chứng kiến những cuộc thay đổi lớn lao trong nhận thức:

đầu tiên, theo Aristotle, người ta tin rằng trái đất là trung tâm của vũ trụ. Nhưng khi

Newton, bằng toán học cho thấy sự thống nhất của giới tự nhiên và chứng minh mặt trời là

trung tâm của hệ mặt trời, niềm tin trước kia trở thành một trò cười thảm hại. Đến thế kỉ

XX, với việc phát hiện ra nguyên tử và sự ra đời thuyết tương đối của Einstein, người ta lại

nhận ra sự cân bằng toán học đơn giản của Newton không phải là chìa khóa giải quyết mọi

vấn đề. Trong khi lí thuyết về các yếu tố vật chất cấu thành vũ trụ: nước, lửa, đất, gió… đã

không còn giá trị ở phương Tây, người phương Đông vẫn kiên trì với nhận định của cha ông

mình, sửa chữa, hoàn thiện nó bằng cách trừu tượng hóa 5 thành tố cơ bản của ngũ hành:

“mộc, hỏa, thủy, kim, thổ”. Đầu thế kỉ XX, chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, nhiều

người ủng hộ phong trào thơ mới, để chắc chắn cho sự toàn thắng của mình đã xem Tản Đà

như một đại diện tiêu biểu của thơ cũ để mà chế giễu, hạ thấp đến mức ông phải bỏ nghề

thơ, sống bần bạc bằng nghề xem tướng. Nhưng khi thơ mới đã thật sự thống soái thi đàn,

Hoài Thanh, đại diện của cái mới đã mở đầu cuốn Thi nhân Việt Nam bằng bài “Cung

chiêu hồn anh Tản Đà” như lời tạ lỗi với người đi trước: “Nhưng dầu sao, với chúng tôi tiên

sinh vẫn là một bực đàn anh” và “cần phải có tiên sinh trong cuộc hội họp hôm nay. Có tiên

sinh người ta sẽ thấy rõ chúng tôi không phải là những quái thai của thời đại, những đứa

thất cước không có liên lạc gì với quá khứ của giống nòi. Có tiên sinh, trên Tao đàn sẽ còn

23

phảng phất chút bình yên trong tin tưởng, chút thích thảng mà từ lâu chúng tôi đã mất” [50,

P. Nói như vậy để thấy rằng, với người phương Đông, quá khứ dù hay dở vẫn mang

tr.8]P22F

một ý nghĩa thiêng liêng không thể bôi xóa. Còn người phương Tây có thể sẵn sàng nở nụ

cười với cái đã qua để tiến về phía trước bởi điều thực sự và trước hết có giá trị với họ là

tương lai.

Tương lai đồng nghĩa với thay đổi nhưng như thế không có nghĩa nó chỉ toàn một

màu tối, Shakespeare dù có những lúc hoang mang, ngồi thu lu trên sa mạc lòng mình

23 Điều này không có nghĩa là người phương Đông chỉ biết thủ cựu, nhìn về quá khứ. Thực ra, với bản chất dung hòa, họ sẵn sàng đón nhận những cái mới – nhất là cái phù hợp với mình – cũng nhiệt thành như đã bảo vệ cái cũ. Điều chúng tôi muốn nhấn mạnh ở đây là quá khứ với người phương Đông bao giờ cũng là một giá trị.

(Sonnet 73) hay nhỏ nước mắt khóc (Sonnet 71,72) nhưng rồi điều ông quan tâm, nỗ lực

hơn hết chính là sự chủ động chiến đấu với thời gian. Thời gian có lưỡi hái, dao quắm, gió

mưa, sương tuyết, có nấm mồ, những con giun xấu xí khủng khiếp cùng quy luật của lãng

quên làm phương tiện hỗ trợ. Còn Shakespeare, qua quá trình suy tư trăn trở, cũng tìm được

ba vũ khí hữu dụng để chiến đấu với “tên bạo chúa” ấy, đó là tình yêu và sản phẩm của nó

là những thế hệ sau đầy sinh lực cùng với một phương tiện hỗ trợ khác - thơ ca.

Chiến đấu với thời gian bằng tình yêu

Tình yêu là một đề tài lớn xuyên suốt các tác phẩm của Shakespeare, từ hài kịch, bi

kịch đến thơ sonnet và các trường ca. Nhà thơ đã viết về tình yêu bằng tất cả niềm say mê

của một trái tim trong lồng ngực trẻ. Người đọc thấy trong thơ ông mọi cung bậc cảm xúc

khi yêu : xao xuyến, nhớ nhung, hờn giận, hạnh phúc, tuyệt vọng… Có cả tình yêu trong

sáng, thuần túy tinh thần lẫn thứ tình yêu đan xen, đấu tranh với dục vọng xác thịt và quyền

lực…Trong thơ sonnet, có nhiều bài nhà thơ viết về nỗi đau chia cắt, sự bất lực, đau khổ

cũng như giằng xé giữa tình yêu chân chính với xúc cảm nhục dục nhưng hơn hết, ông thấy

được ở tình yêu giá trị vĩnh hằng. Nhà thơ ca ngợi vẻ đẹp của nó:

O, no! it is an ever-fixed mark,

That looks on tempests and is never shaken;

(Ồ không, nó là cái mốc vĩnh cửu

Khi đối diện với giông tố và không bao giờ run rẩy )

(Sonnet 116)

Ông tuyệt đối tin tưởng vào khả năng tình yêu đem đến cho con người niềm vui,

khiến họ hài lòng, hạnh phúc hơn tất cả mọi lạc thú vật chất tầm thường. Nhà thơ thổ lộ với

người yêu: có những người tự hào vì họ giàu có, người khác vì vẻ đẹp hình thể, có người

kiêu hãnh vì quyền thế. Còn nhà thơ, sung sướng hơn tất cả bọn họ, vì có được tình yêu.

Tình cảm ấy cao sang hơn mọi bộ quần áo đắt tiền và đáng tự hào hơn việc có nhiều của cải

hay dòng dõi cao quý (Sonnet 91). Bởi vì trước kẻ thù thời gian, mọi thứ rồi sẽ bị chôn vùi:

những ông hoàng cao sang từng ban phát nhiều ân huệ, những người chiến binh lập bao

chiến công hiển hách… chỉ có tình yêu là không sức mạnh gì cướp đi được:

Then happy I, that love and am beloved,

Where I may not remove nor be removed

(Nên tôi hạnh phúc vì là người yêu và được yêu

Tôi không thay đổi và cũng không thể bị thay đổi)

(Sonnet 25)

Không vụ lợi toan tính, không dễ dàng đổi thay, tình yêu khiến con người sống có ý

nghĩa, vững tin xua đi mọi bóng tối, điềm nhiên trước bất kỳ mối đe dọa nào và vì vậy, nó

chứa đựng sức mạnh vĩnh cửu có thể chiến đấu với thời gian. Với Shakespeare, tình yêu

không còn là tình yêu nếu nó bị thay đổi theo hoàn cảnh hay lung lay trước âm mưu phá

hoại (Sonnet 16), tình yêu có thể nguội tắt hôm nay nhưng ngày mai sẽ lại bùng lên (Sonnet

56). Tình yêu bất tử bởi nó không quan tâm đến tuổi già, nếp nhăn:

So that eternal love in love's fresh case,

Weighs not the dust and injury of age,

Nor gives to necessary wrinkles place,

(Nên tình cảm vĩnh cửu và trong sáng

Không quan tâm đến lớp bụi thời gian và sự phai tàn

Cũng không cần thiết quan tâm đến tuổi tác, những nếp nhăn)

(Sonnet 108)

Tình yêu sâu sắc không nô lệ quyền lực, luôn bền vững bởi nó không dễ dàng chịu sự

tác động của các nhân tố bên ngoài (Sonnet 124).

Có được tình yêu, con người sẽ không bị thời gian đe dọa. Nhà thơ khẳng định điều

ấy như một chân lí, đảm bảo nó bằng cách nói như đinh đóng cột:

Love's not Time's fool, though rosy lips and cheeks

Within his bending sickle's compass come;

Love alters not with his brief hours and weeks,

But bears it out even to the edge of doom.

If this be error and upon me proved,

I never writ, nor no man ever loved.

(Tình yêu không nô lệ thời gian, dù môi đỏ má hồng

(sẽ thay đổi) trên con đường lưỡi hái thời gian đi qua

Tình yêu không thay đổi giống như giờ và ngày trôi qua

Mà sẽ tồn tại cho đến khi chạm lưỡi sắc của sự bạc phận

Nếu tôi được thấy những điều này sai

Tôi sẽ không bao giờ còn viết (bất cứ bài thơ nào) và không một người

nào từng yêu)

(Sonnet 116)

Cho nên, khổ đau, mất mát, dự cảm không lành chỉ càng khiến con người nên yêu

nhiều hơn:

This thou perceiv'st, which makes thy love more strong,

To love that well, which thou must leave ere long

(Những điều người thấy này, điều sẽ khiến tình yêu của anh mạnh hơn

để yêu nhiều hơn, tình cảm mà chẳng bao lâu anh sẽ mất )

(Sonnet 73)

Chiến đấu với thời gian bằng thế hệ sau

Nhưng tình yêu trong quan niệm Shakespeare không chỉ dừng ở giận hờn nhớ nhung

trách móc, ở cảm xúc mãnh liệt, ở giá trị an ủi về mặt tinh thần mà còn cần hứa hẹn khả

năng đơm hoa kết quả. Trong các bài thơ gửi cho “The fain youth”, Shakespeare, bằng nhiều

cách nói khác nhau, lặp lại giả định cùng các khả năng kèm theo nó: nếu người trẻ tuổi sinh

con đẻ cái, để lại cho đời thế hệ sau của mình và ngược lại, anh chỉ sống rong chơi đến khi

tuổi trẻ qua đi. Người trẻ tuổi được tự nhiên đầy sáng tạo ưu đãi, phú cho những vẻ đẹp ngời

sáng, phẩm chất ưu tú mà người khác - dù muốn – cũng không có được. Đó là vẻ đẹp được

xem là hình mẫu của muôn đời, chỉ có thể tìm thấy trong con người đẹp nhất ở các văn bản

cổ xưa, thậm trí trong hiện tại, anh sống động hơn, tuyệt vời hơn. Bởi thế, đến lượt mình,

anh trở thành người có trách nhiệm phải giữ gìn, bảo vệ, nhân giống vẻ đẹp ấy, không để

cho nó trở thành uổng phí, vô nghĩa. Nếu anh không lấy vợ sinh con, anh sẽ trở thành một

người keo kiệt, tham lam, một kẻ háu ăn, chiếm hết cả phần đáng được nhận của thế giới và

do đó, sẽ lãnh nhận hậu quả là một cái chết cô đơn, lạnh giá, tuyệt vọng:

Within thine own bud buriest thy content,

And, tender churl, mak'st waste in niggarding:

Pity the world, or else this glutton be,

To eat the world's due, by the grave and thee.

(Chôn vùi chồi non của anh trong khát vọng chính mình

Và, người bủn xỉn non trẻ, tạo ra sự lãng phí trong sự hà tiện

Động lòng trắc ẩn trước thế giới, hay giống như người háu ăn

Ăn hết cả phần thế giới đáng được hưởng bằng nấm mồ của anh)

(Sonnet 1)

But if thou live, remember'd not to be,

Die single and thine image dies with thee

(Nhưng nếu anh sống mà không được nhớ đến

(Anh sẽ) chết trong cô độc và hình ảnh của anh sẽ chết theo anh)

(Sonnet 3)

Vẽ ra mảng tối, đầy đe dọa, nhà thơ đồng thời cũng dựng lên, hứa hẹn mảng sáng

nhiều triển vọng, đáng tự hào nếu người thanh niên nghe theo lời khuyên của ông:

How much more praise deserv'd thy beauty's use,

If thou couldst answer 'This fair child of mine

Shall sum my count, and make my old excuse,'

Proving his beauty by succession thine!

(Sẽ có biết bao lời khen xứng đáng với vẻ đẹp hữu dụng của anh

nếu anh có thể trả lời: “Những đứa trẻ đẹp đẽ này của tôi

là tất cả những gì tôi có được, và là nguyên nhân khiến tôi già đi”

Bằng sự kế thừa, chúng chứng tỏ những nét đẹp anh đã từng có)

(Sonnet 2)

Lúc đó, anh ta sẽ không còn băn khoăn, đau khổ cho dù đã già nua, cận kề cái chết.

Luôn luôn, ta thấy tác giả đặt chàng trai của mình trước sự lựa chọn này:

Thy unused beauty must be tombed with thee,

Which, used, lives th' executor to be

(Vẻ đẹp lãng phí sẽ bị chôn vùi cùng anh

Cái mà, nếu được sử dụng, sẽ trở thành người thừa kế cho anh)

(Sonnet 4)

So thou, thyself outgoing in thy noon

Unlooked on diest unless thou get a son

(Cho nên anh, đi qua buổi trưa của đời mình

Sẽ chết trong cô độc, trừ phi anh có một đứa con)

(Sonnet 7)

Như một người dẫn đường sáng suốt, chỉ rõ cho người đi hướng đúng đắn, phân tích

từng điểm lợi, hại, từng nhánh rẽ, nhà thơ - tựa như một nhà thông thái, người có khả năng

tiên tri - nhắn nhủ bạn mình:

And that fresh blood which youngly thou bestow'st,

Thou mayst call thine when thou from youth convertest.

Herein lives wisdom, beauty, and increase;

Without this folly, age, and cold decay:

(Và dòng máu tươi nóng anh đã cho người trẻ tuổi

Anh có thể xem đó là chính mình khi đi qua thời thanh xuân

(Chấp nhận điều này) nghĩa là sự sáng suốt, vẻ đẹp, sinh sôi tồn tại

Không chấp nhận nó có nghĩa là điên rồ, tuổi tác, sự suy tàn lạnh giá)

(Sonnet 11)

Không chỉ thuyết phục đối tượng bằng lý luận suông, Shakespeare còn dùng những

hình ảnh ví von so sánh. Ông hình dung con người trong độ thanh xuân giống như những

bông hoa rực rỡ trong mùa hè. Khi đông đến, chúng bị bao trùm bởi tuyết sương lạnh giá, sự

hủy diệt. Nhưng tinh chất của chúng khi đã được chưng cất sẽ vẫn tồn tại một cách thơm tho

đến tận mùa sau:

But flowers distill'd, though they with winter meet,

Leese but their show; their substance still lives sweet

(Nhưng tinh chất của hoa, dù trong cuộc đối đầu với mùa đông

đã bị tiêu diệt chỉ mất đi vẻ bề ngoài, thực chất chúng vẫn sống và không ngừng tỏa

hương thơm )

(Sonnet 5)

Cũng có khi ông dùng hình ảnh thật đau thương, tang tóc: thế giới giống như bà quả

phụ bất hạnh sẽ hoàn toàn mất dấu người chồng vì anh không để lại đứa con trong khi

những người vợ khác, khi đức lang quân không còn trên thế gian này, vẫn có thể ngắm bóng

dáng chồng – và do đó giữ được tình yêu, lòng chung thủy – qua đôi mắt đứa con chung:

The world will be thy widow and still weep

That thou no form of thee hast left behind,

When every private widow well may keep

By children's eyes, her husband's shape in mind:

(Thế giới sẽ là người quả phụ của anh và tiếp tục nhỏ nước mắt

Vì anh không để hình mẫu của mình ở lại

Trong khi tất cả những quả phụ may mắn khác có thể giữ,

Hình bóng người chồng trong tâm trí bằng đôi mắt đứa trẻ thơ)

(Sonnet 9)

Đau xót, lo sợ cho sự tàn phai, mai một của cái đẹp, Shakespeare đã thấy ở thế hệ sau

một nguồn sinh lực thật dồi dào đủ sức chống chọi, thách thức cả kẻ thù dữ tợn, hung bạo

nhất – thời gian. Bởi thế hệ ấy sẽ được thừa hưởng tất cả những nét ưu tú, những gì tinh túy

nhất do cha mẹ truyền cho:

This were to be new made when thou art old,

And see thy blood warm when thou feel'st it cold

(Đó là một sáng tạo mới khi anh già đi

Và thấy được dòng máu nóng của mình khi anh cảm thấy lạnh giá)

(Sonnet 2)

Đó không chỉ là sự tái tạo mà còn là một sáng tạo vô cùng giá trị, bởi đứng trước nó,

cái chết cũng sẽ bị vô hiệu hóa:

Then what could death do if thou shouldst depart,

Leaving thee living in posterity?

24

(Khi đó cái chết có thể làm được gì nếu anh từ biệt (thế giới để ra đi)

P)

(nhưng vẫn) để lại nòi giống cho hậu thếP23F

(Sonnet 6)

And nothing 'gainst Time's scythe can make defence

Save breed, to brave him when he takes thee hence

(Không gì có thể chống lại lưỡi hái của thời gian, (anh) chỉ có thể phòng thủ

(bằng cách) giữ lấy nòi giống phòng khi hắn bắt anh đi)

(Sonnet 12)

To give away yourself, keeps yourself still,

And you must live, drawn by your own sweet skill

25

(Tạo ra bản sao của chính mình, giữ cho mình tồn tại

P)

Và anh sẽ sống mãi, tự đúc ra mình bằng sự khéo léo của anh P24F

(Sonnet 16)

Nó sẽ đem đến cho con người sự tái sinh trong một cuộc sống khác, cuộc sống thứ

hai, trong trường hợp khi thời gian qua đi, mọi người quên lãng, những trang thơ úa vàng

bất lực:

But were some child of yours alive that time,

You should live twice, in it, and in my rhyme

(Nhưng nếu đứa con của anh sống vào lúc ấy

Anh sẽ sống hai lần, trong chúng, và trong những vần thơ của tôi)

(Sonnet 17)

24 Câu này có nghĩa là: nếu anh để lại một phần thân thể mình trong thế hệ sau, thì cho dù thần chết lấy được thể xác anh, hắn vẫn là kẻ thất bại 25 Câu này có thể hiểu: khi tạo ra bản sao (đứa con), anh trở thành người họa sĩ vẽ bức chân dung sống của mình.

Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà Shakespeare nhiều lần so sánh con người như cây

cỏ, như những sinh vật trong thiên nhiên. Các thi nhân thường mang niềm sầu thảm vì sao

mùa xuân của đất trời ra đi rồi lại quay về, còn xuân của đời người chỉ một đi không trở lại.

Chỉ ra sức sống vĩnh cửu, sức chiến đấu với thời gian qua thế hệ sau, phải chăng

Shakespeare đã tìm được câu trả lời cho sự so sánh ấy: bằng việc tạo ra những đứa trẻ xinh

đẹp, bằng cách di truyền cho chúng những gien tốt cả về thể chất lẫn tinh thần, con người sẽ

không còn nhỏ bé, bất lực, có đủ sức sánh ngang quyền tạo hóa và tạo ra vòng quay vô tận

của chính thế hệ mình. Cứ mỗi hè về là nắng lên, mỗi đứa trẻ ra đời sẽ bắt đầu một mùa hè

rực rỡ mà cha mẹ chúng đã đi qua. Như thế là lấy chính vũ khí của thời gian, của thiên

nhiên để vô hiệu hóa sức mạnh của hắn vậy. Thời gian với lưỡi hái tử thần chỉ có thể gặt hái

cây trái và cả con người khi chúng đã đến độ chín và nếu các đối tượng đó kịp để lại mầm

sống cho tương lai, sự ra đi ấy sẽ thật nhẹ nhàng.

Chiến đấu với thời gian bằng thơ ca

Tình yêu giúp con người thoát ra khỏi bóng tối của nỗi sợ hãi và chuỗi những ngày

vô nghĩa. Sản phẩm của nó – những đứa trẻ nối tiếp nhau sẽ chứng minh cho một nguồn

sống quý giá đã tồn tại trên thế gian. Bên cạnh đó, Shakespeare cũng tìm thấy một phương

tiện hỗ trợ đắc lực chống lại sự phôi pha của thời gian - thơ ca.

Trong cuộc chạy đua bất tận, ngòi bút nhà thơ và lưỡi hái thời gian diễn ra hai quá

trình ngược nhau:

And all in war with Time for love of you,

As he takes from you, I engraft you new

(Và trong cuộc chiến với thời gian, vì tình yêu dành cho anh

Trong khi thời gian tước đoạt (mọi thứ của anh), mang anh đi, tôi tái tạo (anh, vẻ đẹp

của anh) bằng những bài thơ của mình)

(Sonnet 15)

Trong khi thời gian khắc sâu những nếp nhăn, cướp đi tuổi trẻ con người, nhà thơ,

bằng khả năng sáng tạo, đem đến cho họ một cuộc sống khác, khắc họa hình hài họ trên

trang giấy. Cũng có khi Shakespeare cho rằng, vẻ đẹp đích thực của con người, cuộc sống

không gì tô vẽ được, ta chỉ có thể cảm nhận nó một cách chính xác nhất bằng trực quan sinh

động hay qua tấm qương soi. Mặc dù vậy, cố gắng làm một tấm gương - dù chưa thật hoàn

hảo - thi sĩ miêu tả lại thật chi tiết những gì mình thấy, như người ta chưng cất phần thơm

tho giá trị nhất của hoa hồng phòng khi cánh hoa phai màu, nhụy hoa tàn rữa:

But thy eternal summer shall not fade,

Nor lose possession of that fair thou ow'st,

Nor shall death brag thou wander'st in his shade,

When in eternal lines to time thou grow'st,

(Nhưng mùa hè vĩnh viễn của anh sẽ chẳng bao giờ tàn

Vẻ đẹp mà anh sở hữu cũng sẽ không mất đi

Thần Chết cũng không thể khoe khoang anh đã bị bao vây trong bóng tối của hắn

Khi trong những vần thơ vĩnh cửu, dù thời gian qua đi, anh (vẫn) tồn tại)

(Sonnet 18 )

Như bông hoa đã được bảo toàn hương sắc, được cất giữ ở một nơi tin cậy, mặc kệ

những cơn gió dữ, nắng chói, người trẻ tuổi sẽ mãi giữ được vẻ trẻ trung trong vần thơ bất

tử. Thần chết khi ấy cũng sẽ trở thành một kẻ bất lực bởi hắn không mang theo được gì.

Giấy trắng mực đen tưởng chừng yếu ớt, không nanh vuốt, lại dễ dàng bị ố vàng nhưng hóa

ra nó còn tồn tại lâu hơn cả đá, tượng thần hay các công trình kiến trúc nguy nga:

Not marble, nor the gilded monuments

Of princes, shall outlive this powerful rhyme;

But you shall shine more bright in these contents

Than unswept stone, besmear'd with sluttish time.

When wasteful war shall statues overturn,

And broils root out the work of masonry,

Nor Mars his sword, nor war's quick fire shall burn

The living record of your memory.

(Ôi chao, không phải đá cẩm thạch, cũng không phải những nấm mộ mạ vàng

của những ông hoàng sẽ tồn tại trong những vần thơ đầy sức mạnh này

Mà chính anh sẽ tỏa sáng rực rỡ hơn trong những trang giấy

Hơn là viên đá không được quét bụi (bị phủ lên lớp bụi thời gian)

Khi những cuộc chiến tranh lãng phí có thể lật đổ những pho tượng

và đốt cháy tận rễ công trình của người thợ nề

Không phải gươm của thần chiến tranh, cũng không phải ngọn lửa của nó đốt cháy

được

Bản ghi chép sống động về anh

(Sonnet 55)

Khi tất cả đều trở nên bất lực, những câu thơ vẫn kiên cường, cho tận đến ngày phán

quyết:

Even in the eyes of all posterity

That wear this world out to the ending doom.

So, till the judgment that yourself arise,

You live in this, and dwell in lovers' eyes.

(Thậm chí trong mắt tất cả hậu thế

Sống lâu trong thế giới này cho đến ngày tận thế

Vì vậy, cho đến ngày phán quyết chính anh sống lại

Anh sống trong những bài thơ này, và sống trong đôi mắt người yêu (người đọc)

(Sonnet 55)

And yet to times in hope, my verse shall stand

Praising thy worth, despite his cruel hand.

(Cho đến ngày tận thế, thơ tôi vẫn tồn tại

Ca ngợi giá trị anh, bất kể bàn tay tàn bạo thời gian)

(Sonnet 60)

Bởi sự tồn tại của nó song song với sự tồn tại của con người. Khi nào con người còn

sống, còn yêu cái đẹp thì thơ ca còn giữ mãi giá trị:

So long as men can breathe, or eyes can see,

So long lives this, and this gives life to thee

(Khi nào con người còn thở và những đôi mắt có thể nhìn

Thì anh vẫn sống trong nó (những bài thơ) và chúng đem cuộc sống đến cho anh)

(Sonnet 18)

When you entombed in men's eyes shall lie.

Your monument shall be my gentle verse,

Which eyes not yet created shall o'er-read;

And tongues to be, your being shall rehearse,

When all the breathers of this world are dead;

You still shall live, such virtue hath my pen,

Where breath most breathes, even in the mouths of men.

(Khi anh bị chôn vùi trong mắt người đời

Kỉ niệm về anh chính là bài thơ trang nhã của tôi

(bài thơ mà) những đôi mắt còn chưa được sinh ra sẽ đọc

Và những cái miệng (cũng chưa được sinh ra) sẽ kể lại

Khi tất cả những người sống trong thế gian này chết đi

Anh vẫn sẽ sống, ngòi bút của tôi có tác dụng (khả năng) như vậy

Khi sự sống hiển nhiên nhất: trên miệng thế gian)

(Sonnet 81)

Nhà thơ từng lập luận: muốn níu giữ được bước chân nhanh chóng của thời gian,

ngăn chặn sự phá hủy của nó với cái đẹp, trừ phi có một phép màu (Sonnet 65). Và phép

màu ấy chính là tình yêu tỏa sáng trong thơ. Từ đâu thơ ca có sức mạnh diệu kỳ như vậy?

Shakespeare giải thích nó ở chỗ: thơ chính là những đứa trẻ được tách ra từ trí óc, và khi nó

thoát ra khỏi người anh, được trao cho y tá chăm sóc, nó có một đời sống riêng, sinh mạng

riêng giữa cuộc đời. Thơ có thể giúp con người bày tỏ những điều bình thường họ không thể

nói, không dám thốt ra lời. Thơ được chắt lọc từ phần tốt nhất, giàu có nhất, phần sẽ được

giữ lại sau khi thể xác bị chôn vùi dưới ba tấc đất. Rất chân thành, nhà thơ tâm sự với người

đọc:

But be contented when that fell arrest

Without all bail shall carry me away,

My life hath in this line some interest,

Which for memorial still with thee shall stay.

When thou reviewest this, thou dost review

The very part was consecrate to thee:

The earth can have but earth, which is his due;

My spirit is thine, the better part of me:

So then thou hast but lost the dregs of life,

The prey of worms, my body being dead;

The coward conquest of a wretch's knife,

Too base of thee to be remembered.

The worth of that is that which it contains,

And that is this, and this with thee remains

(Hãy bằng lòng khi kẻ thù đáng sợ

Mang tôi đi đến nơi không còn chỗ dựa

Cuộc sống của tôi vẫn tiếp tục trong phạm vi những dòng chữ này

(những dòng chữ) sống cùng bạn như một kỉ niệm

Khi bạn đọc lại nó, bạn sẽ nhớ lại

Rất nhiều phần trong tôi đã hiến dâng cho bạn

Thế giới chỉ có thể là thế giới trong tôi, như tôi cảm nhận nó

Thế giới tinh thần của tôi thuọc về bạn, phần tốt hơn trong tôi

Có nghĩa là khi có nó, bạn chỉ mất đi phần bỏ đi trong cuộc sống của tôi

Đó là phần sẽ trở thành nạn nhân của loài giun – thân thể tôi ruỗng nát

Phần nhát gan bị khuất phục bởi lưỡi dao độc ác

Quá tầm thường đối với bạn để được nhớ đến

Giá trị của nó chính là phần được giữ lại

Và đó chính là những vần thơ này, chúng cùng bạn tồn tại)

(Sonnet 74)

Là một giá trị tinh thần, thơ ca, tự bản thân nó có một linh hồn, một trí tuệ. Ta thấy

trong sonnet, đôi khi Shakespeare tự phân thân để cầu khẩn, thuyết phục nàng thơ thực thi

nhiệm vụ, phát huy khả năng của mình:

Where art thou Muse that thou forget'st so long,

To speak of that which gives thee all thy might?

(…) Return forgetful Muse, and straight redeem,

In gentle numbers time so idly spent;

Sing to the ear that doth thy lays esteem

And gives thy pen both skill and argument.

(Người ở đâu, nữ thần thơ, mà quá lâu rồi quên

nói những lời truyền cảm hứng cho nhà thơ

(…) Trở lại nàng thơ dễ quên và bù đắp

Những thời gian quý giá đã trôi qua vô ích

Hát bên tai những bài nâng giá trị thơ

Và mang đến cho nhà thơ cả khả năng lẫn đề tài

(Sonnet 100)

Có lẽ không với vũ khí nào như thơ ca, Shakespeare thấy mình mạnh mẽ đến thế,

quyết liệt đến thế trong nỗ lực khuất phục sức mạnh bạo tàn của thời gian. Nhà thơ trực tiếp

tuyên chiến với hắn:

Devouring Time, blunt thou the lion's paws,

And make the earth devour her own sweet brood;

Pluck the keen teeth from the fierce tiger's jaws,

And burn the long-liv'd phoenix, in her blood;

Make glad and sorry seasons as thou fleet'st,

And do whate'er thou wilt, swift-footed Time,

To the wide world and all her fading sweets;

But I forbid thee one most heinous crime:

O! carve not with thy hours my love's fair brow,

Nor draw no lines there with thine antique pen;

Him in thy course untainted do allow

For beauty's pattern to succeeding men.

Yet, do thy worst old Time: despite thy wrong,

My love shall in my verse ever live young

(Sự phá hủy của thời gian làm mòn móng vuốt sư tử

Và làm cho trái đất ngấu nghiến chính những đứa con xinh đẹp của mình

Nhổ đi hàm răng đẹp từ hàm con hổ hung dữ

Và đốt cháy quãng thời gian sống của chim phượng hoàng bằng máu nó

Và hãy làm bất kì điều gì ngươi muốn, vì bước chân mau lẹ của thời gian

(sẽ đi qua) thế giới rộng lớn, và tất cả những sinh vật đẹp đẽ trên trái đất

Nhưng ta cấm ngươi gây ra tội ác này:

Ồ, đừng khắc (những vết hằn) vào vầng trán đẹp của người yêu ta

Cũng không được kẻ những đường nét ở đây bằng cây bút lỗi thời của ngươi

(người trẻ tuổi ) trong sự phá hủy của ngươi vẫn còn xuân sắc để cho phép

Hình mẫu về vẻ đẹp của con người tiếp tục tồn tại

Nhưng, (dù ngươi) làm điều tồi tệ nhất, hỡi thời gian già nua: bất kể những điều gây

hại của ngươi

Tình yêu của ta vẫn sẽ giữ tuổi trẻ sống trong những bài thơ)

(Sonnet 19)

Thy registers and thee I both defy,

Not wondering at the present nor the past,

(…) This I do vow and this shall ever be;

I will be true despite thy scythe and thee.

(Cả sổ ghi chép của ngươi, cả ngươi ta đều thách thức

Không băn khoăn về hiện tại hay quá khứ

(...) Đây là lời ta hứa và nó sẽ mãi là thế:

Ta có sự thật trong những bài thơ, bất chấp ngươi và lưỡi hái của ngươi)

(Sonnet 123)

Trong cả ba thứ vũ khí mà Shakespeare nhắc đến để chiến đấu với thời gian, không

có vũ khí nào liên quan đến tôn giáo, đến sự tu hành, khổ luyện nhằm được giải thoát về mặt

tinh thần nhờ đấng siêu nhiên. Trái lại, dù là tình yêu, thế hệ sau hay thơ ca thì chúng đều là

sản phẩm sự sáng tạo của con người. Ở thời Shakespeare, đây có thể xem là một quan điểm

có tính cách mạng và ngày càng chiếm ưu thế. Nó cho thấy một niềm lạc quan phơi phới,

một khí thế tiến công mạnh mẽ của chủ nghĩa nhân văn Phục Hưng trong việc đặt niềm tin

tuyệt đối vào vẻ đẹp hình thể, trí tuệ con người, giải phóng họ khỏi mọi tín điều, ràng buộc

cổ hủ. Con người không cần đến Chúa mà hoàn toàn có thể bằng chính năng lực của mình

vươn đến sự bất tử.

Hai thái độ, hai cách ứng xử của hai nhà thơ cũng cho phép ta suy nghĩ về nét khác

biệt có nguồn gốc từ hai loại hình văn hóa. Người Việt thuộc nền văn hóa gốc nông nghiệp

với cây lương thực chính là cây lúa nước. Theo GS Nguyễn Tấn Đắc, việc chọn loại cây này

làm cây trồng chính dẫn đến ba hệ quả quan trọng: thứ nhất, nó thúc đẩy quá trình đi tìm và

khai thác các đồng bằng châu thổ; thứ hai, nó thúc đẩy quá trình hình thành các tổ chức xã

hội, làng và các quốc gia nông nghiệp; thứ ba, cây lúa nước thúc đẩy hình thành nền văn

hóa nông nghiệp với những đặc điểm nhìn từ mối quan hệ với đất đai: bám đất, tự túc,

hướng nội, đóng cửa. Do phải định cư lâu dài ở một địa điểm nhất định, cuộc sống lại phụ

thuộc nhiều vào thiên nhiên, người dân vùng văn hóa nông nghiệp thường có xu hướng

trọng sự hài hòa. Trong mối quan hệ với thiên nhiên, họ thiên về tôn trọng, sùng bái hơn là

xung đột. Trong các thần thoại, cổ tích Việt, quan hệ giữa người và thần thường là quan hệ

hòa hợp: thần giúp người khai phá đất đai, diệt trừ yêu ma quỷ quái, người đi tìm lời đáp

cho thắc mắc và được thần giải đáp... Ngược lại, người Anh xuất phát từ nền văn hóa gốc du

mục điển hình với phương thức sản xuất chính là chăn nuôi, thường xuyên di chuyển từ nơi

này đến nơi khác. Lối sống ấy dẫn đến tâm lí coi thường thiên nhiên và khao khát muốn

chinh phục, chế ngự thiên nhiên. Trong Thần thoại Hy Lạp, ta thấy người ta miêu tả các vị

thần rất “người” và không ít lần con người dám thi tài hoặc có thái độ xấc xược với cả thần

thánh : nàng Arakhnê dám thi tài dệt lụa với nữ thần Atêna nên bị biến thành con nhện,

Niobê khinh thị thần linh nên phải chịu mất con...

3.3. Hai giọng điệu

Trong đời sống hằng ngày, một trong những yếu tố để nhận diện các cá nhân, bên

cạnh màu da, tóc, mắt, dáng vẻ, tính cách... là giọng nói. Đôi khi không cần nhìn tận mắt,

chỉ cần nghe giọng, ta vẫn có thể nhận ra người thân quen. Trong văn chương, một trong

những yếu tố làm nên nét riêng của nhà văn là giọng điệu nghệ thuật. Mỗi nhà văn tài năng,

dù là vô thức hay có chủ ý, đều có chất giọng riêng của mình, không dễ nhầm lẫn với người

khác. Thậm chí có những nhà văn đa giọng điệu, đa phong cách thì về cơ bản, trong tác

phẩm của anh vẫn có một giọng chủ đạo. Giọng điệu, theo Từ điển thuật ngữ văn học, là

“thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu

tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách

cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm...”[22, tr.134].

Như vậy thông qua giọng điệu, người đọc cảm nhận được thái độ, tình cảm, cảm xúc, cách

đánh giá... của nhà văn trước các đối tượng phản ánh cũng như trước đời sống. Giọng điệu

góp phần bộc lộ hình tượng tác giả và là một yếu tố thể hiện phong cách. Theo các nhà

nghiên cứu, giọng điệu không phải phép cộng giản đơn của các phương tiện ngôn ngữ,

nhưng ta có thể nhận ra dấu hiệu của giọng điệu thông qua điểm nhìn chủ thể, qua các mô

típ, hình tượng, cách lựa chọn từ ngữ, xử lí câu, nhịp điệu... Theo Nguyễn Đăng Điệp, kĩ

thuật phân tích giọng điệu phải trải qua các thao tác cơ bản: xác định tư thế của người nói và

điểm nhìn nghệ thuật trong tác phẩm; khảo sát nghệ thuật xây dựng lời văn để biểu hiện

giọng điệu; vai trò của hình tượng và môtip trong việc thể hiện giọng điệu; lí giải chức năng

và vai trò giọng điệu trong chỉnh thể tác phẩm. Giọng điệu của nhà văn cũng khác nhau khi

miêu tả từng đối tượng. Nói đến những vấn đề cao cả, có ý nghĩa trọng đại, người nói

thường lựa chọn một giọng nghiêm trang, ngược lại nói về những gì gần gũi thân thiết người

ta có thể dùng một giọng suồng sã thân mật. Cũng là điều dễ hiểu khi ta thấy trong sử thi

một giọng thành kính, thiêng liêng cả khi miêu tả thất bại của người anh hùng bởi người kể

xác định mình đang nói về cha ông, tổ tiên, về những người đi trước, còn giọng trong tiểu

thuyết đa dạng và phong phú hơn, đó là giọng đời tư, có khi mỉa mai châm biếm, có khi

thương xót ngậm ngùi bởi khoảng cách giữa nhân vật với tác giả là một khoảng cách rất

gần. Bakhtin nhận thấy trong các tác phẩm F. Rabelais một ngôn ngữ “chợ búa, quảng

trường” do ảnh hưởng của nền văn hóa dân gian trung cổ, Phục Hưng trong các lễ hội Các –

26

na – van ở đó người ta thoải mái phỉ nhổ, hạ thấp những gì tầm thường, lạc hậu để chuẩn bị

P. Trong văn học Việt Nam 1930 – 1945 ta thường bắt gặp giọng sầu

cho một cuộc tái sinhP25F

bi, thể hiện một cái nhìn phần nào bi quan về đời sống trong khi với văn học 1945 – 1975,

26 Nhìn từ góc độ này, người ta mới thấy hết cái hay của tác phẩm Rabelais và lí giải được cũng như bỏ đi những thiên kiến về các hình tượng vật chất – thân xác vốn được các nhà đạo đức dùng để đánh giá, xếp Rabelais vào hàng những nhà văn tục tĩu đến khó hiểu.

giọng chủ đạo là ngợi ca, tin tưởng... Ở luận văn này, chúng tôi không có tham vọng tìm

hiểu giọng điệu nghệ thuật của Nguyễn Du và Shakespeare trong toàn bộ thơ chữ Hán, thơ

sonnet mà chỉ giới hạn việc nhận diện giọng điệu các nhà thơ đối với vấn đề thời gian. Theo

đó, có thể thấy, để thể hiện cảm thức thời gian, giọng chủ đạo của Nguyễn Du là giọng trầm

ngâm suy tưởng còn ở Shakespeare, đó là giọng đối thoại, tranh luận.

3.3.1. Giọng trầm ngâm suy tưởng trong thơ chữ Hán Nguyễn Du

Tác phẩm trữ tình thường là tác phẩm trong đó nhà văn bộc lộ tình cảm, cảm xúc một

cách trực tiếp. Nhưng trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, khi miêu tả thời gian, điểm nhìn của

nhà thơ về cơ bản mang tính khách quan. Điều này phù hợp với đặc điểm về kiểu tác giả

của văn học trung đại đã được Trần Đình Sử chỉ ra một cách chi tiết trong công trình Thi

pháp văn học trung đại Việt Nam và Nguyễn Đăng Điệp lược thuật: “Cách biểu hiện chủ

thể nhà thơ trung đại là cách biểu hiện chủ thể một cách gián tiếp. Nó không biểu thị trực

tiếp chủ thể với các dạng thức “tôi”, “ta”, “chúng ta” như thơ trữ tình hiện đại. Nói theo

Đoàn Phú Tứ, điều này khiến cho câu thơ mang một cảm nhận mơ hồ, phiếm chỉ, một chủ

thể có tính tổng hợp. Nhân vật trữ tình trong thơ trung đại vừa xuất hiện dưới dạng chủ thể,

vừa xuất hiện dưới dạng khách thể” [42, tr.151]. Do đó, ta thấy nhân vật trữ tình thường

không nói mà chỉ lặng lẽ quan sát. Cảnh vật tự bày ra trước mắt chúng ta với nhiều ám ảnh,

để rồi sau đó, nhà thơ đi đến một nhận định:

Xa mã kim ngọc dĩ vô tích

Đình tiền chi thảo không thanh thanh

Thế nhân đa độc Tô Tần Truyện

Do vi vị thế phú quý thương kì sinh

(Ngựa xe vàng ngọc không còn dấu vết)

Trước đình chỉ thấy cỏ mọc xanh tươi

Người đời lắm kẻ đọc truyện Tô Tần

Thế mà còn để cho địa vị giàu sang làm hại đời mình

(Tô Tần đình)

Thiên giáng kì tài vô dụng xứ

Nhật tà dị vật hữu lai thì

Tương Đàm chỉ xích tương lân cận

Thiên cổ tương phùng lưỡng bất vi

(Trời ban cho tài lạ mà không có chỗ dùng

Trong bóng chiều tà có lúc chim lạ đến

Tương Đàm với đây gần nhau chỉ trong gang tấc

Sống cách nhau nghìn năm, gặp nhau hai bên không có gì trái nhau)

(Trường Sa Giả Thái phó)

Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo,

Đoàn thành thành hạ nhất triêm cân

(Người cứ tiêu điều, xuân vẫn tươi đẹp

Dưới Đoàn thành, nước mắt thấm khăn)

(Xuân tiêu lữ thứ)

Ngay cả khi trong bài thơ xuất hiện những chữ ngã, ngô, dư… đặt nhân vật trữ tình ở

ngôi thứ nhất, sự bộc lộ trực tiếp của chủ thể vẫn rất hạn chế, bởi đối tượng giao tiếp của

ông trước hết hoặc là những vật vô tri: mây núi, cỏ cây, sông nước, hoặc là người đã khuất,

hoặc là chính bản thân mình, hoặc cả vũ trụ bao la, tóm lại đều là các đối tượng không có

khả năng trả lời:

Biên chu giang thượng đa thu tứ

Trướng vọng Lỗi Dương nhật mộ vân

(Ta thả chiếc thuyền con trên sông, tứ thu dào dạt

Buồn trông đám mây chiều trên đất Lỗi Dương )

(Lỗi Dương Đỗ Thiếu lăng mộ 2)

Ngã tư cổ nhân thương ngã tình

Bồi hồi phủ ngưỡng bi phù sinh

(Ta nghĩ đến người xưa xót nỗi mình

Bồi hồi ngẩng lên cúi xuống, thương kiếp phù sinh)

(Đồng Tước Đài)

Thông qua đó, nhà thơ mới gián tiếp giao tiếp với người đọc. Ông như cố tình đứng ở

một góc khuất để mà chiêm nghiệm, suy ngẫm về mọi lẽ biến dời. Ông quan sát thời gian

trôi, thấy người và đời thay đổi, hiểu thấu tất cả. Những cử chỉ, cách thể hiện ấy tạo nên một

không khí lặng lẽ, u tịch.

Người đọc còn thu được tín hiệu âm thanh trầm, giàu chất suy tưởng triết lý này qua

hệ thống hình ảnh, từ ngữ, nhịp thơ, câu thơ.

Bên cạnh các hình tượng thời gian buổi chiều, mùa thu như trên đã phân tích, một

khoảng thời gian hay được Nguyễn Du chú ý miêu tả là thời gian đêm khuya. Tâm sự bật ra

trong đêm tĩnh lặng, cô tịch tạo ra một chất giọng đặc biệt: giọng trầm như tiếng thì thầm

đầy sức dư vang. Đêm khuya là lúc tiếng động ban ngày lắng xuống, nhường chỗ cho thế

giới tâm hồn con người mở ra. Nguyễn Du cũng có khi miêu tả âm thanh trong đêm (tiếng

dế kêu, tiếng lá rơi, tiếng chim Hồng, tiếng sáo…) nhưng bút pháp “lấy động tả tĩnh” ấy chỉ

càng làm nổi bật sự hoang vắng, yên tĩnh. Đêm đi kèm với sự tối tăm, u ám:

Thanh thảo thôn tiền ngọa lão ông

Giang Nam dạ sắc thướng liêm lung

(Trước thôn Thanh thảo một ông già nằm,

Sắc đêm ở phía nam sông phủ lên bức rèm cửa)

(Thôn dạ)

Bạch địa đình trì dạ sắc không,

Thâm đường tiễu tiễu há liêm lung

(Sân thềm trống trơn, màn đêm tĩnh lặng

Nhà sâu lặng lẽ, rèm buông xuống)

(Ngẫu đề)

Nếu có ánh sáng, đó cũng chỉ là thứ ánh sáng leo lét của ngọn đèn hay mảnh trăng

càng làm tăng thêm nỗi cô đơn của con người. Đã vậy, đêm lại dài dằng dặc tựa như chẳng

bao giờ dứt, triền miên, mù mịt:

Tiễn đăng độc chiếu sơ trường dạ

(Một mình khêu ngọn đèn soi đêm mới bắt đầu dài)

(Thu dạ 2)

Hắc dạ hà kỳ mê thất hiểu

(Đêm đen tối, lúc này là lúc nào, mãi không thấy sáng)

(Dạ hành)

Thiên lí hương tâm dạ cộng trường

(Lòng nhớ quê nơi ngàn dặm xa cùng dài với đêm dài)

(Ngẫu hứng 2)

Nhất là đêm gắn liền với cái lạnh, đôi khi khiến nhà thơ không sao chịu nổi:

Mãn địa phồn thanh văn dạ vũ

Nhất sàng cô muộn địch xuân hàn

(Đêm nghe tiếng mưa sầm sập khắp mặt đất

Trên một chiếc giường, nỗi buồn đơn côi chọi lại cái rét đêm xuân)

(Ngẫu thư công quán bích 2)

Trù trướng thâm tiêu cô đối ảnh

Mãn sàng trệ vũ bất kham thinh

(Trong đêm khuya cô tịch buồn rầu 1 mình đối bóng

Nghe mưa dầm đầy giường không sao chịu nổi)

(Tống nhân)

Đây thường là lúc con người nghỉ ngơi, lấy lại sức lực cho một ngày mệt nhọc. Thế

nhưng, ta luôn thấy ở thơ Nguyễn Du những đêm không ngủ, nằm thao thức đếm nhịp thời

gian:

Sơ canh cổ giác ngũ canh kê

Chung dạ bồi hồi tứ chuyển mê

(Canh một nghe tiếng trống, tiếng tù và, canh 5 nghe tiếng gà gáy

Suốt đêm bồi hồi, nghĩ ngợi mê man)

(Ngẫu hứng 1)

Quan tâm nhất dạ khổ vô thụy

(Suốt đêm bận lòng khổ tâm không ngủ được)

(Thăng Long 1)

Triệt dạ la thanh bất tạm đình,

Cô đăng tương đối đáo thiên minh

(Suốt đêm tiếng thanh la chẳng tạm dừng

Ngọn đèn cô đơn đối diện với mình cho đến sáng)

(Mạc phủ tức sự)

Đêm không ngủ vì trong lòng người quá nhiều lo buồn: lo chuyện vợ con, lo chuyện

cơm áo, lo mình già mà vẫn vụng về, lận đận, buồn vì phải sống trái với bản tính tự nhiên

của mình, muốn được trở về với hươu nai, sông núi mà không được.

Nhà thơ nhiều khi miêu tả người đi trong đêm mờ mịt, không biết giờ là lúc nào,

khiến ta liên tưởng đến màn đêm của đời người, của thời đại “mãi không thấy sáng”.

Thao thức trong đêm, con người vừa đối diện với mình vừa đối diện với đất trời.

Đêm yên tĩnh tạo một môi trường thích hợp để suy tư. Nguyễn Du ngày thường đã lặng im

không nói, lúc đêm khuya lại càng trầm tĩnh hơn. Hơi thơ do đó cứ trầm lắng, u uẩn, người

đọc phải lắng tai, phải để lòng thật yên tĩnh mới mong cảm hết được. Lặng người trong đêm

khuya, Nguyễn Du thường đối diện với trăng. Khi nhìn trăng như một thực thể vô tri trên

bầu trời cao rộng, Nguyễn Du có khi xem trăng là bạn từ xa đến thăm nhà thơ trong cảnh

khốn cùng (Quỳnh Hải nguyên tiêu), trăng chứng kiến cuộc sống nghèo khổ, u ám, lận đận

của nhà thơ (U cư 2, Dạ hành, Thôn dạ…) nhưng suy cho cùng, trăng cũng không thể chia

sẻ hết nỗi niềm cô đơn, đau khổ của ông: trong đêm nhà thơ mơ về người vợ đã khuất tội

nghiệp, trăng sáng chỉ soi chiếu quần áo chứ không thấu tỏ được lòng người đang tê tái (Kí

mộng), trăng vẫn như xưa, vẫn sáng một cách vô tình dù con người đang lạnh giá (Ngẫu

hứng). Tuy nhiên, khi Nguyễn Du tự ví lòng mình với trăng, trăng trở thành một hình ảnh

thời gian mang ý nghĩa biểu tượng cho cái tâm trong sáng, vĩnh hằng vẫn đời đời soi chiếu

mặc lòng người thay đổi, mặc thời gian trôi. Nhà thơ cũng giống như một vầng trăng đang

mở lòng lắng nghe, quan sát, nhìn thấu mọi góc khuất của đời sống bằng một trái tim đa

cảm. Trăng thuộc về đêm với bản chất âm tính, lạnh, tự nó đã là một biểu tượng không lời

có khả năng gợi suy tư rất lớn.

Bên cạnh hình tượng thời gian đêm, hệ thống từ ngữ cũng góp phần làm nổi bật

giọng điệu. Nguyễn Du rất hay dùng những từ chỉ thời gian dài mang tính đúc kết: kim cổ,

thiên niên, thiên cổ… Những từ này cho thấy chủ thể đứng ở vị trí một người đánh giá, suy

luận trên cơ sở suy nghĩ sâu sắc thông qua quá trình trải nghiệm. Từ hiện thực trước mắt, từ

những gì đã trôi qua, nhà thơ thường có khuynh hướng khái quát thành quy luật. Ta thấy ở

đây giọng điệu của một con người từng trải, ưa triết lí, không bao giờ chỉ nhìn sự vật ở vẻ bề

ngoài hay ở tính nhất thời của nó. Có những thứ khi đang cực thịnh, tưởng chừng có thể

khuynh thành đảo quốc, làm mờ trăng sao nhưng rồi cũng đến lúc tàn lụi bởi:

Cổ kim vị kiến thiên niên quốc

(Xưa nay chưa thấy triều đại nào tồn tại ngàn năm)

(Vị Hoàng doanh)

Quyền lực chẳng thể đứng vững mãi, có thịnh rồi có suy, có minh rồi có hối… Giàu

sang, danh lợi, quyền thế vốn là những ảo vọng mà con người cố công theo đuổi, thậm chí

giẫm đạp lên nhau để có được. Thế nhưng, họ đâu biết rằng hóa ra cái còn lại chỉ là một chữ

“không”, bởi đó là những vật ngoài thân, sớm muộn gì cũng bay biến, thậm chí còn là

nguyên nhân gây ra khổ đau oan trái:

Thiên niên phú quý cung tranh đoạt

(Giàu sang tự nghìn xưa chỉ để cung cấp cho sự tranh đoạt)

(Thăng Long 2)

Nhân sinh quyền lợi thành vô vị

Kim cổ thùy năng phá thử mê

(Đời người, quyền lợi thật vô vị

Xưa nay ai có thể phá được cái mê muội ấy)

(Tô Tần đình)

Thế gian phú quý đẳng phù vân

Bách niên đáo để giai như thị

(Giàu sang trên đời chỉ là mây nổi

Trăm năm rốt cuộc đều như thế cả)

(Đồ trung ngẫu hứng)

Nhà thơ luôn luôn nghĩ về cái mất – còn, vô vị - có ý nghĩa trong cuộc đời. Có những

người sống cả đời không để lại được dư âm, ngược lại có những người chỉ trong một

khoảnh khắc mà ghi danh đến nghìn năm. Cái khoảng cách “nhất triêu” với “thiên cổ”

tưởng xa vời vợi mà đôi khi lại thật gần :

Dự nhượng kí sát Triệu diệc diệt

Kiều biên thu thảo không tiêu tiêu

Quân thần chính luận kham thiên cổ

Thiên địa toàn kinh tận nhất triêu

(Dự Nhượng bị giết rồi, nước Triệu cũng diệt vong

Cỏ thu bên cầu luống xơ xác

Lời bàn đúng đắn về nghĩa vua tôi đáng để muôn đời

Làm trọn đạo trời đất trong một sớm mai)

(Dự Nhượng Kiều)

Thành quách, đền đài, mộ bia, lăng tẩm... cả những triều đại hùng mạnh rồi cũng

không tránh khỏi bị lãng quên, nhưng có những con người dù thân xác tan hòa cùng cát bụi

mà tên tuổi vẫn được đời đời khắc ghi. Đó là những Khuất Nguyên, Liễu Hạ Huệ, Kinh

Kha, Sở Bá Vương... bởi họ đã sống một cuộc đời thật hiển hách. Khuynh hướng suy tư triết

lí khiến Nguyễn Du đứng nhìn hiện tại mà kéo dài thời gian tới tận nghìn, vạn năm :

Khuất Nguyên, Tương giang thủy

Thiên thu vạn thu thanh kiến đê

(Lòng Khuất Nguyên và nước sông Tương

Nghìn năm vạn năm vẫn trong suốt thấy đáy)

(Biện giả)

Bia tàn một tự mai hoang thảo

Thiên cổ văn phong nhất há xa

(Bia tàn chữ mất chôn vùi trong cỏ hoang

Nghìn năm sau, nghe danh tiếng ông, tôi xuống xe (để tỏ lòng kính trọng)

(Liễu Hạ Huệ mộ)

Hậu nhân đồ hữu thiên niên cảm

(Người đời sau luống xúc cảm về việc nghìn năm cũ)

(Hoàng Châu trúc lâm)

Nguyễn Du ít khi nói về những hình ảnh trực quan mà thường có khuynh hướng trừu

tượng hóa, khái quát hóa. Điều này tạo cho thơ ông một giọng già dặn, trải đời, giọng của

con người đã chịu nhiều phong ba bão táp, thấu triệt lẽ hanh thông, am tường kim cổ. Nhà

thơ có khi khẳng định điều này, phủ định điều kia, nhưng về bản chất đó là những câu đúc

kết về một hiện tượng, một chân lí đời sống mà ông hoặc chứng kiến hoặc tự mình thể

nghiệm

Tương ứng với giọng điệu ấy là nhịp thơ chậm rãi, nhiều khoảng trống, khoảng trắng.

Có những chữ dùng tưởng như thừa nhưng phải đọc kĩ mới nhận ra giá trị, ví dụ như bài

Quỳnh Hải Nguyên tiêu :

Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên

Y y bất cải cựu thiền quyên

Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc

Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên

(Đêm rằm tháng Giêng, sân vắng, trăng đầy trời

Trăng như cô gái đẹp, vẫn như xưa, không thay đổi dáng vẻ xinh tươi

Một trời xuân hứng rơi vào nhà ai ?

Muôn dặm Quỳnh Châu đêm nay trăng tròn)

Mở đầu bài thơ tác giả viết: “Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên” là đã giới

thiệu thời gian, không gian cụ thể nhưng sau đó lại lặp lại “thử dạ viên”. Vẻ đẹp của thơ

đường luật nằm ở chỗ “lời ít, ý nhiều”, nó tối kị sự rườm rà. Nguyễn Du là người thông

thuộc từ chương, không thể không rõ điều này. Tại sao ông lại cố ý nêu thừa thông tin như

vậy? Thì ra, đây là một sự lặp lại đầy hữu ý của tác giả: nhắc lại thêm một lần chữ trăng

tròn, nhà thơ khắc sâu thêm ấn tượng về sự đồng nhất của thời gian: đêm xưa – đêm nay, nó

đối lập với nỗi chua xót trong lòng người vì vật dời sao đổi. Trăng lúc nào cũng như vậy,

chỉ có con người là bị thời gian nhào nặn. Thiên nhiên thì “viên”, “mãn”, chỉ có con người

“cùng đồ”. Nhà thơ dù có đi đâu, ở đâu vẫn phải đối mặt với nghịch cảnh ấy, cho nên nhìn

trăng tròn mà lòng riêng những xót xa. Câu thơ tưởng đơn thuần tả cảnh, cứ đều đều chậm

rãi mà thực chất chứa đựng rất nhiều tâm sự.

Thêm vào đó, tác giả hay sử dụng câu hỏi không lời đáp, câu cảm thán gợi ra cả một

trời suy tư, liên tưởng, nhất là khi chúng được đặt ở cuối bài:

Vạn lí hương tâm hồi thủ xứ

Bạch vân anm hạ bất thăng đa!

(Lòng nhớ quê nhà cách xa vạn dặm, quay đầu nhìn lại

Phía nam mây trắng nhiều không kể xiết!)

(Ngẫu hứng)

Khả liên đối diện bất tương tri!

(Thương thay giáp mặt mà chẳng nhận ra nhau!)

(Long Thành cầm giả ca)

Trung tình vô hạn bằng thùy tố?

Minh nguyệt thanh phong dã bất tri

(Biết cùng ai bày tỏ niềm cảm xúc từ trong đáy lòng?

Trăng trong gió mát cũng không biết được (nỗi niềm đó).

(Hoàng Hạc lâu)

Các kiểu câu này khiến bài thơ thường không phải một đơn vị khép kín mà có khả

năng mở ra nhiều ý nghĩa. Và vì không thể được trả lời, không có ai đáp lời nên chúng vẫn

mang tính chất một cảm xúc dồn nén, suy tư một chiều. Đọc Nguyễn Du do đó phải đọc thật

chậm, lâu lâu dừng lại để suy ngẫm mới thấy thấm thía.

Giọng điệu này có lẽ có nguồn gốc từ sự tự xác định vị thế của nhà thơ. Cũng như

các thi nhân xưa, Nguyễn Du xem mình là một tiểu vũ trụ, một phần nhỏ bé hư vô trong thế

27

giới vô cùng. Do đó, đối diện với đại vũ trụ, tiếng nói của ông chỉ như tiếng kêu khi con ếch

P, có dư vang mà chẳng rõ lời. Nó cũng

trong thơ Basho nhảy vào ao đời tuyệt đối tĩnh lặng P26F

27 Thơ Basho : Ao cũ Con ếch nhảy vào

liên quan đến thái độ đối với đối tượng được miêu tả: Với Nguyễn Du, thời gian là một quy

luật tất yếu không thể thay đổi. Thời gian có lẽ cũng nằm trong hệ thống mà ông gọi là sự

xoay vần của con tạo, là Trời. Trời ở quá xa, con người không thể tiếp xúc, như nhà thơ

nhiều lần bày tỏ :

Thiên cao hà xứ vấn ?

(Muốn hỏi trời) nhưng trời cao làm sao mà hỏi)

(Bất mị)

Cổ kim hận sự thiên nam vấn

(Mối hận cổ kim khó mà hỏi trời được)

(Độc Tiểu Thanh kí)

Cho nên con người chỉ có thể chấp nhận, chấp nhận một cách vô điều kiện cái đã rồi,

cái không có triển vọng xê dịch. Nhà thơ suy nghĩ về nó, buồn rầu nhận ra nó nhưng không

thể đối thoại với nó.

3.3.2. Giọng đối thoại, tranh luận trong thơ Shakespeare

Không giống Nguyễn Du, vị thế của Shakespeare là vị thế của con người ý thức được

vẻ đẹp, giá trị của mình, con người nhân văn thời Phục Hưng đầy tự tin khi đứng trước thiên

nhiên, vũ trụ. Thần thánh, luật lệ, những điều trước đây tưởng chừng thiêng liêng, bất di bất

dịch nay đã phần nào mất đi ưu thế của nó, phơi ra bộ mặt phàm trần. Thời gian với tư cách

là một quy luật của thiên nhiên, tạo hóa do vậy cũng không phải là cái gì quá xa vời - dù nó

vô cùng ghê gớm, có sức mạnh. Với Nguyễn Du, thời gian là đối tượng để luận bàn, suy tư,

còn với Shakespeare, thời gian là đối tượng để trao đổi, trò chuyện, thậm chí thách thức.

Trong công trình Những vấn đề thi pháp Đôtxtôiepxki, Bakhtin đã phân tích tính đối thoại

như là môi trường sống đích thực của ngôn ngữ “trong tính toàn vẹn, cụ thể và sinh động

của nó” và đề xuất ngành siêu ngôn ngữ học để nghiên cứu “các quan hệ đối thoại (kể cả

các quan hệ đối thoại giữa người nói với lời nói của chính nó)” của lời văn nghệ thuật [1,

tr.171]. Ông lấy đối tượng nghiên cứu là “lời văn hai giọng” để phân tích lời văn phong

cách hóa, lời nhại, lời kể miệng hay khẩu thuật và lời đối thoại để phát hiện ra tính nhiều

Vang tiếng nước xao

khuynh hướng nghĩa, tính hướng đến lời người khác, tóm lại là tính đa âm trong tiểu thuyết

Đôtxtôiepxki. Do vậy, xưa nay khi nhắc đến giọng đối thoại, tranh luận là người ra nhắc đến

“lời văn hai giọng”, tính đa thanh trong tiểu thuyết. Ở đây chúng tôi dùng từ “giọng đối

thoại, tranh luận” không phải với nghĩa như trên trên bởi sonnet là một tác phẩm trữ tình

với tính đơn thanh rất rõ. Giọng đối thoại, tranh luận ở đây nên hiểu là xu hướng của nhà

thơ hướng về đối tượng phản ánh bằng sự sôi nổi, nguồn nhiệt hứng không che giấu. Nó đối

lập với giọng trầm ngâm, suy tưởng, giàu tính hướng nội trong thơ chữ Hán Nguyễn Du.

Giọng điệu này thể hiện qua hệ thống từ ngữ, cách tổ chức hình ảnh, tổ chức câu, cách kết

cấu bài thơ và nhịp điệu thơ.

Khác với thơ chữ Hán Nguyễn Du, điểm nhìn nghệ thuật trong thơ sonnet

Shakespeare mang tính chủ quan. Nhà thơ miêu tả thời gian từ ngôi thứ nhất và đặt các đối

tượng ở ngôi thứ hai như trong đối thoại trực tiếp. Trừ một số bài thuần túy bộc lộ tâm

trạng, cảm xúc của nhân vật trữ tình, còn lại tính “hướng ngoại” thể hiện rất rõ qua việc các

bài thơ luôn hướng đến một đối tượng cụ thể, xác định: the fair youth, the dark lady hay tên

bạo chúa khát máu thời gian hoặc bạn đọc thế hệ sau, hoặc một nhà thơ khác… Các từ xưng

hô dùng trong đối thoại hai chiều: I – thou, thee khiến mỗi bài thơ là một cuộc trò chuyện

thú vị. Ta nghe trong đó không chỉ có lời của nhà thơ mà còn có cả âm vang của người đối

diện. Nhà thơ trò chuyện với người trẻ tuổi khi bằng giọng tâm tình, đầy cảm thông thấu

hiểu:

Is it for fear to wet a widow's eye,

That thou consum'st thy self in single life?

(Có phải vì sợ làm ướt đôi mắt một quả phụ

Nên anh phí hoài đời mình trong cuộc sống độc thân?)

(Sonnet 9)

khi nài nỉ thuyết phục:

Make sweet some vial; treasure thou some place

With beauty's treasure ere it be self-killed.

That use is not forbidden usury,

Which happies those that pay the willing loan;

That's for thy self to breed another thee,

(Làm đầy những chiếc ly thủy tinh, làm phong phú cho anh ở vài nơi

Bằng kho báu của vẻ đẹp trước khi nó bị tiêu diệt

Vẻ đẹp ấy khi được sử dụng là sự cho vay nặng lãi không bị cấm đoán

Bởi hạnh phúc nó tạo ra cho người sẵn lòng vay nợ

Vì món nợ là nòi giống khác của chính anh )

(Sonnet 6)

khi trách móc:

But thou contracted to thine own bright eyes,

Feed'st thy light's flame with self-substantial fuel,

Making a famine where abundance lies,

Thy self thy foe, to thy sweet self too cruel:

(Nhưng anh, chỉ quan tâm tới đôi mắt đẹp của mình

Tiếp nhiên liệu cho ngọn lửa ánh sáng đôi mắt bằng hình ảnh của chính mình

Tạo ra nạn đói ở nơi sự giàu có tồn tại

Anh là kẻ thù của chính anh, tự độc ác với chính mình)

(Sonnet 1)

Ông cũng nói với the dark lady bằng những lời đầy tha thiết:

How like a winter hath my absence been

From thee, the pleasure of the fleeting year!

What freezings have I felt, what dark days seen!

What old December's bareness everywhere!

(Thật giống như mùa đông khi tôi xa cách em

Từ khi em cho tôi những ngày vui ngắn ngủi

Tôi cảm thấy lạnh giá làm sao, những ngày đầy bóng tối

Tháng 12 già cỗi trơ trụi ở khắp mọi nơi)

(Sonnet 97)

Với đối tượng nào, Shakespeare cũng đầy nhiệt hứng, như khi ông cầu khẩn nữ thần

thơ:

Rise, resty Muse, my love's sweet face survey,

If Time have any wrinkle graven there;

If any, be a satire to decay,

And make time's spoils despised every where.

Give my love fame faster than Time wastes life,

So thou prevent'st his scythe and crooked knife.

(Tỉnh lại, nàng thơ lười biếng, xem lại gương mặt dịu dàng của người tôi yêu

Xem thời gian có in một chút nếp nhăn nào ở đây

Nếu có một chút nào, như một nhà thơ trào phúng, hãy tiêu diệt

Và làm cho sự tàn phá của thời gian bị coi thường ở khắp mọi nơi

Đem đến cho tình yêu của tôi tiếng tăm hơn thời gian làm lãng phí cuộc sống

Để người có thể ngăn cản lưỡi hái và con dao quắm của hắn )

(Sonnet 100)

Thêm vào các từ xưng hô là hệ thống các từ cảm thán, từ hô gọi (O, lo, ah, alack…)

tác động trực tiếp vào người đọc, thuyết phục họ nhìn cái này, thúc đẩy họ nghĩ cái kia. Nếu

đọc Nguyễn Du, ta phải dành ra những khoảng lặng để suy tư, chiêm nghiệm, phải từ từ

chậm rãi thì khi đọc thơ Shakespeare, ta lập tức bị cuốn theo mạch suy tưởng của tác giả,

mặc nhà thơ lôi đi trong dòng thác ngôn từ cho đến lúc kết thúc. Giọng điệu ấy cho thấy sự

nghĩ suy, day dứt không ngừng trước bước đi của thời gian và hệ quả của nó. Cho nên, các

hình ảnh tượng trưng cho sự trôi chảy của thời gian, khoảnh khắc nhà thơ oằn mình giữa

vòng xoay của nó luôn hiện ra sinh động như tranh vẽ, như ta được chứng kiến tận mắt:

Lo! in the orient when the gracious light

(Nhìn kìa! Ở phương Đông khi ánh sáng (mặt trời) tỏa lan)

(Sonnet 7)

Lo! thus, by day my limbs, by night my mind,

For thee, and for myself, no quiet find

(Hãy xem, vì vậy, ban ngày tay chân (thể xác), ban đêm trí óc tôi

vì em, và vì chính tôi, (chúng) không tìm thấy sự yên tĩnh )

(Sonnet 27)

Nhà thơ không che giấu những lo lắng, buồn rầu, thôi thúc trong nội tâm mà bộc lộ

một cách tự nhiên với người trước mặt, với người đọc:

O! carve not with thy hours my love's fair brow,

(Ồ, đừng khắc (những vết hằn) vào vầng trán đẹp của người yêu tôi)

(Sonnet 19)

But out, alack, he was but one hour mine,

(Nhưng chao ôi, nó chỉ là của tôi trong một giờ)

(Sonnet 33)

O! how shall summer's honey breath hold out,

… O fearful meditation! where, alack,

… O! none, unless this miracle have might,

That in black ink my love may still shine bright

(Ôi, làm thế nào hơi thở của mùa hè giữ được

… Ôi, suy nghĩ thật đáng sợ, ở nơi mà, than ôi

… Ồ, không gì cả, trừ phi phép màu này xảy ra

đó là trong mực đen, tình yêu của tôi vẫn tỏa sáng )

(Sonnet 65)

Để có được hiệu quả giao tiếp tối ưu, Shakespeare còn thông qua cách tổ chức hệ

thống hình ảnh tạo ra một không khí dồn dập, khẩn trương. Hình ảnh thơ Shakespeare

thường không đơn lẻ mà xuất hiện thành từng chùm theo từng nhóm chủ đề. Để diễn tả ý

tưởng về sự ngắn ngủi của kiếp sống con người trên trần thế, ông dùng một loạt các hình

ảnh liên quan đến thương mại, luật pháp: increase (sự tăng lên của lợi nhuận), heir (người

thừa kế), contract (hợp đồng, khế ước), famine (sự khan hiếm), abundance (sự giàu có,

phong phú), churl (kẻ keo kiệt), niggard (người hà tiện), glutton (kẻ tham lam), unthrift (sự

hoang phí), legacy (tài sản), lend (cho vay), abuse (lạm dụng), usurer (kẻ cho vay nặng lãi),

sum (tiền), deceive (lừa gạt), audit (kiểm toán)… Bằng cách đó, nhà thơ gợi ra được tính

khốc liệt của cuộc sống như cuộc vật lộn trên thương trường: khi anh sinh ra là đã kí vào

bản hợp đồng vay nợ tự nhiên, anh sẽ luôn phải đối mặt với nó, không có cách nào khác, dù

có người vay nhiều, người vay ít, người được ưu ái, người không… Để người trẻ tuổi thấy

sức mạnh, sự tàn phá của thời gian, nhà thơ cũng dựng lên trước mắt người đọc hình ảnh về

những công trình vĩ đại là sản phẩm sáng tạo của con người hay vốn là tinh túy rất cứng rắn,

vững bền của tự nhiên: lofty towers (những tòa tháp cao ngất), stones (những tảng đá vững

chắc), rocks impregnable (bia đồng khắc mộ), the kingdom of the shore (vương quốc của bờ

biển)… Đến chúng còn bị bàn tay thời gian phá nát, huống gì một con người nhỏ bé, yếu ớt,

không vũ khí, không thần bảo hộ. Để cụ thể hóa tiến trình tất yếu thời gian đưa con người

đến với cái chết, Shakespeare lại dùng các hình ảnh liên quan đến việc thu hoạch mùa màng

trong nông nghiệp : garden (vườn), gird (bao bọc), sheave (bó thành lượm), borne (mang

đi), scythe (hái cắt cỏ), defence (hàng rào)…Con người khi già cỗi thì phải trở về với hư vô

cũng tất yếu tựa cây cối đến thì phải thu hoạch, không thể tránh được, và tự nhiên luôn trong

tư thế sẵn sàng thực thi bản án ấy. Các chuỗi hình ảnh không chỉ xuất hiện trong một bài mà

còn liên tiếp trong nhiều bài tạo ra các bài sonnet cùng một chủ đề. Cách tổ chức hình ảnh

này là một dụng ý của nhà thơ, như trong thơ sonnet 76, ông giải thích:

Why is my verse so barren of new pride,

So far from variation or quick change?

Why with the time do I not glance aside

To new-found methods, and to compounds strange?

Why write I still all one, ever the same,

And keep invention in a noted weed,

That every word doth almost tell my name,

Showing their birth, and where they did proceed?

O! know sweet love I always write of you,

And you and love are still my argument;

So all my best is dressing old words new,

Spending again what is already spent:

For as the sun is daily new and old,

So is my love still telling what is told

(Vì sao những bài thơ của tôi cằn cỗi, (thiếu) những hình ảnh mới

Quá xa sự phong phú hay linh hoạt

Vì sao với thời gian tôi không thể lướt qua một bên

Để tìm những phương pháp mới, những điều mới lạ?

Vì sao tôi vẫn chỉ viết về một điều, đã từng xuất hiện tương tự

Và giữ ý tưởng sáng tạo trong một vỏ bọc ai cũng biết?

Để tất cả mỗi từ hầu như gọi ra tên tôi

Cho thấy nơi chúng sinh ra, và chúng sẽ diễn biến như thế nào

Ồ, em biết đấy, người yêu dấu, tôi luôn viết về em

Em và tình yêu vẫn là đề tài của thơ tôi

Cho nên công việc tốt nhất của tôi là gọt giũa những từ cũ thành mới

Dùng lại những từ đã được sử dụng

Bởi vì như mặt trời ngày ngày mới rồi cũ

Cũng vậy tình yêu của tôi vẫn nói về những điều đã được nói)

Giống như nhiều mũi tên cùng hướng về một đích, hình ảnh góp phần thúc đẩy người

đối thoại hướng về nội dung chính. Ta có thể hình dung chúng như những nếp gấp xếp

chồng lên nhau của chiếc quạt giấy, khi đến một độ nhất định sẽ đủ lực tạo ra gió mát. Suy

cho cùng việc cứ nói mãi về một vài vấn đề bằng những hình ảnh quen thuộc chắc chắn

không thể tránh gây sự nhàn chán cho người đọc, nhưng đọc thơ Shakespeare, ta vẫn luôn

cảm thấy mới mẻ, hấp dẫn. Đó là do nhiệt huyết của nhà thơ thổi vào từng trang viết. Hệ

thống hình ảnh tầng tầng lớp lớp góp phần gây ấn tượng về một giọng điệu sôi nổi, tràn đầy

nhiệt hứng nhưng cái hồn của giọng có lẽ vẫn là nội tâm nhà thơ.

Hỗ trợ cho hệ thống hình ảnh là các kiểu câu, cấu trúc câu: kiểu câu phổ biến nhất trong

sonnet Shakespeare là câu cầu khiến. Nhà thơ không ngừng quan sát, suy nghĩ và đi đến

khuyên răn, nài nỉ, thuyết phục các đối tượng của mình:

Look in thy glass and tell the face thou viewest

Now is the time that face should form another;

(Nhìn vào tấm gương và nói với gương mặt anh nhìn thấy

Giờ là lúc nên tạo ra một gương mặt khác)

(Sonnet 3)

Save breed, to brave him when he takes thee hence

(Giữ lấy nòi giống để đương đầu với hắn (thời gian) khi hắn mang anh đi)

(Sonnet 12)

Ông cũng hay dùng các câu hỏi. Chúng thường đi liền với nhau làm tăng thêm sự dồn

dập của lời thơ. Trong thơ chữ Hán, Nguyễn Du cũng hay dùng câu hỏi, nhưng nếu câu hỏi

trong thơ Nguyễn Du thường không có lời đáp, chỉ được nêu ra để mà than thở, cật vấn trời

cao, để nhấn mạnh những nghịch lý tồn tại không bao giờ thay đổi thì trong thơ Shakespeare

đó đều là các câu hỏi đã có sẵn câu trả lời. Nhà thơ nêu nó ra chỉ để xác nhận tính hiển

nhiên của câu trả lời, hay thúc giục người đối diện đi tới hành động đúng đắn. Do vậy trên

thực tế, câu hỏi trong thơ Shakespeare vẫn mang tính chất câu cầu khiến:

Unthrifty loveliness, why dost thou spend

Upon thy self thy beauty's legacy?

(Vì sao anh sử dụng hoang phí vẻ đẹp

Có thể để lại cho thế giới?)

(Sonnet 4)

But wherefore do not you a mightier way

Make war upon this bloody tyrant, Time?

(Nhưng này sao anh không chọn một cách mạnh mẽ hơn

Để tiến hành cuộc chiến với tên bạo chúa khát máu – Thời gian?)

(Sonnet 16)

Who will believe my verse in time to come,

If it were fill'd with your most high deserts?

(Ai sẽ tin vào những bài thơ của tôi khi thời gian qua đi

Dù nó thể hiện đầy những phẩm chất ưu tú của anh?)

(Sonnet 17)

Shall I compare thee to a summer's day?

(Nên chăng tôi so sánh em với một ngày mùa hè?)

(Sonnet 18)

Bên cạnh đó, tác giả còn dùng một loạt các cấu trúc câu điều kiện, khẳng định, phủ

định, cấu trúc lặp (When… And...; Neither… Nor…; Either…Or...; Unless…) để nhấn

mạnh điều mình muốn thể hiện, tăng tính thuyết phục cho ý tưởng. Giọng điệu thơ

Shakespeare do vậy thường chắc, khỏe, đanh thép, đầy sức mạnh, sự tự tin.

Kiểu kết cấu bài thơ của Shakespeare cũng mang tính chất một lập luận, trong đó

trọng tâm dồn vào hai câu cuối. Trong bài sonnet số 54, ở ba khổ đầu, tác giả nói vòng vo

về hoa hồng, nụ tầm xuân… và đến hai câu cuối ông mới kết vào vấn đề chính: nói hoa, nói

thiên nhiên chẳng qua là muốn nói về con người:

And so of you, beauteous and lovely youth

When that shall vade, my verse distills your truth

(Và anh cũng vậy, người trẻ tuổi đẹp đẽ đáng yêu

Khi anh tàn úa, những vần thơ tôi sẽ chưng cất phần tinh túy của anh)

(Sonnet 54)

Lối vắt dòng cũng tạo cho nhịp thơ trở nên dồn dập, gấp gáp như những con sóng vỗ

bờ. Trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, số dòng thơ thường trùng với câu thơ, cho nên mỗi câu

tự nó là một vũ trụ khép kín, có khả năng gợi ra ý nghĩa hoàn chỉnh. Điều này, cộng thêm

với quy tắc về niêm (sự kết dính theo chiều dọc), luật (kết cấu câu thơ theo chiều ngang),

vận, đối của thơ Đường tạo nên nhịp khoan thai, chậm rãi, đều đặn. Trái lại, trong thơ

sonnet Shakespeare, câu thơ không trùng với dòng thơ, có khi rất nhiều dòng mới hoàn

chỉnh một câu, ví dụ như trong bài này:

When I perceive that men as plants increase,

Cheered and checked even by the self-same sky,

Vaunt in their youthful sap, at height decrease,

And wear their brave state out of memory;

(Khi tôi nhận thấy con người cũng giống như cây cỏ sinh sôi

được kích thích và bị ngăn trở bởi cùng một điều kiện thiên nhiên

hân hoan trong nhựa sống tuổi trẻ và khi phát triển đỉnh điểm thì tàn tạ dần đi

và hao mòn dần sinh lực một cách vô thức)

(Sonnet 15)

Người đọc do đó có cảm giác phải đuổi theo mới nắm bắt được hết ý thơ.

Giọng chủ đạo này khiến thơ ông lúc nào cũng tràn đầy nhiệt hứng. Nhà thơ kêu gọi

con người sống hết mình trong tình yêu, tuổi trẻ nhưng không phải với một xu thế buông thả

mà cần luôn luôn toan tính cho tương lai.

KẾT LUẬN

Nguyễn Du và Shakespeare đều sống trong một thời đại nhiều biến động, đều sử

dụng những thể loại vay mượn từ nước ngoài và đều đã đứng lại trong lòng dân tộc như một

biểu tượng của tình yêu thơ ca, biểu tượng của tinh thần lao động sáng tạo đáng kinh ngạc.

Sẽ thật thiếu sót nếu nhắc đến Nguyễn Du ta chỉ nhắc đến Truyện Kiều mà quên đi mảng

thơ chữ Hán và nhắc đến Shakespeare ta bị ấn tượng quá lớn bởi kịch, không nhớ đến phần

thơ sonnet. Những “đứa con tinh thần” này đã phần nào cho thấy nỗi buồn, vui, yêu ghét,

xúc cảm mãnh liệt cũng như rung động thiết tha của nhà thơ trên hành trình sống – những

trải nghiệm chân thật vừa thấm đẫm chất nhân văn vừa có giá trị về mĩ cảm.

Thuần Vu Phần tan cơn mơ trở dậy mới biết đời như mộng, Crônôs tiêu diệt chính

những sản phẩm sáng tạo của mình. Từ xa xưa, trong tâm thức của người phương Đông và

người phương Tây, thời gian đã là một niềm băn khoăn, trăn trở lớn. Có điều, ở mỗi thời

đại, xuất phát từ quan niệm khác nhau về thế giới, các nghệ sĩ thể hiện cảm nhận về thời

gian cũng như ứng xử với nó theo các cách khác nhau. Suy cho cùng, ý thức về thời gian

cũng chính là ý thức về kiếp sống, về sự tồn tại, là một trong những tiêu chí đánh giá sự

phát triển ý thức cá nhân cũng như sự khác biệt của các thời đại.

Bằng sự nhạy cảm của những sợi tơ đàn trước gió đời, Nguyễn Du và Shakespeare đã

diễn tả thật tinh tế bước chân thời gian cùng sự tơi tả của ngoại vật nơi nó đi qua. Thời gian

tuyến tính vẫn luân phiên, đều đặn xoay vòng nhưng trong cảm nhận của hai thi sĩ, tốc độ

trôi của nó thật khủng khiếp. Đây là một dấu hiệu cho thấy con người chuyển từ nhịp sống

thuần nông đều đều tuần tự sang lối sống đô thị đo đếm, chi chút từng khoảnh khắc, chuyển

từ tâm lí điềm nhiên vô sự hay tìm cách thích nghi thời trung cổ sang tâm lí lo âu rất hiện

đại. Và hơn hết, nó phản ánh một quan niệm thẩm mĩ lấy cuộc sống con người làm thước đo

cho mọi biến dời, dịch chuyển. Với những vũ khí đầy uy lực, thời gian tàn phá cỏ cây, muôn

vật trong đó có cả sinh vật đẹp đẽ nhất vốn là sản phẩm sáng tạo kì diệu của hóa công, đem

đến cho họ tuổi già và cái chết cùng sự lãng quên khắc nghiệt. Sống với hiện tại, đếm từng

nhịp thời gian, cả hai nhà thơ đều thể hiện phút ngậm ngùi đầy nhân bản khi nhận ra giới

hạn sự tồn tại của mình. Bởi quá yêu đời, yêu người, yêu cái đẹp, họ thức tỉnh trong ta niềm

trân trọng đối với từng giây phút sống. Về bản chất, sự gặp gỡ của hai thi sĩ là sự gặp gỡ của

những con người không còn nhìn thế giới như một khối thống nhất, tĩnh tại, tuần hoàn, lặp

đi lặp lại để rồi xem bản thân là một phần trong đó mà đã có ý thức tách mình ra như một cá

thể độc lập, có tiếng nói, cảm nhận riêng. Họ thấy rõ sự tách biệt quá khứ - hiện tại – tương

lai, sự không đồng nhất của con người – vũ trụ.

Nhưng cũng giống như tuyết sinh ra từ xứ lạnh và nắng rực vàng vùng nhiệt đới, mỗi

nhà thơ có những cách khác nhau đem đến cho người đọc ấn tượng mùa. Ở Nguyễn Du, thời

gian mang nét buồn lặng lẽ cổ kính như dòng sông cố giấu bao đợt sóng dưới lòng sâu, để

cho đời hình ảnh “tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên” với một giọng trầm ngâm suy tưởng. Ở

Shakespeare, trái lại, thời gian mang tinh thần thời đại Phục Hưng và cội nguồn văn hóa

phương Tây – mạnh mẽ sinh sôi để rồi tàn lụi và vẫn sẽ hứa hẹn sinh sôi với xu hướng đối

thoại, tranh luận không che giấu. Thời gian trong thơ chữ Hán Nguyễn Du là thời gian của

những buổi chiều, mùa thu thê lương, tê tái trong cuộc hành trình đi về phía tàn tạ. Nó cũng

phần nào phản ánh sự tàn tạ của một cuộc đời nhiều mộng tưởng mà rốt cuộc tơi tả giữa

sương gió, phong ba; sự tàn tạ của một thời đại theo quy luật đang đứng trước cơn hấp hối,

chuẩn bị cho một cuộc biến đổi khôn lường. Trong tình cảnh ấy, nhà thơ, với một trái tim

giàu yêu thương, chỉ biết buồn đau tiếc nuối ngậm ngùi. Phù hợp với tình cảm đó là giọng

điệu đầy triết lí suy tư, phản ánh một con người từng trải, sớm hiểu nhiều éo le ngang trái

của đời, vọng cổ hướng kim, mang bao câu hỏi không lời đáp. Thời gian trong thơ

Shakespeare là “tên bạo chúa” hai mặt, mang bóng dáng của thần Dớt uy quyền trong thần

thoại Hy Lạp, có khả năng sáng tạo, đồng thời cũng có sức hủy diệt tới không ngờ. Như một

chiến sĩ đấu tranh không mệt mỏi cho quyền sống, quyền tự do của con người thời đại mới,

sẵn mang trong mình nguồn sinh lực dồi dào, nhà thơ đưa ra ba vũ khí có khả năng cùng

phối hợp chiến đấu với “tên bạo chúa” ấy – chính là các vũ khí có được từ sức mạnh tiềm

tàng của con người: tình yêu, thế hệ sau và thơ ca. Để thuyết phục người khác, Shakespeare

đã dùng một giọng đối thoại, tranh luận hết sức sôi nổi, mạnh mẽ, hướng về các đối tượng

giao tiếp. Khi nài nỉ, khi trách móc, khi một mực quả quyết…, thi nhân cho người đọc thấy

một nỗ lực phi thường bắt nguồn từ một khí chất cứng rắn.

Thấy được những nét tương đồng và dị biệt trong cảm thức thời gian ở hai thi sĩ cũng

là thấy được phần nào hai tâm hồn, hai nếp cảm, nếp nghĩ vừa chảy bỏng suy tư của con

người muôn thuở, vừa là sản phẩm của quá trình hút nhụy, uống sương, bắt rễ trong môi

trường văn hóa dân tộc, thời đại.

Luận văn mới chỉ đi sâu vào một vấn đề trong thơ của hai tác giả, còn rất nhiều vấn

đề khác: cách xây dựng hình ảnh thơ, những đóng góp về thể loại… nếu được khai thác sẽ

đem đến cho người đọc nhiều khám phá thú vị. Thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ sonnet

Shakespeare vẫn là đề tài hứa hẹn nhiều cánh cửa hấp dẫn cho người tìm hiểu.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. M. Bakhtin (1993), Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki, Nxb Giáo dục.

2. M. Bakhtin (2006), Francois Rabelais và nền văn hóa dân gian Trung cổ và

Phục Hưng, Nxb Khoa học Xã hội.

3. Mashuo Basho (2007), Nẻo đường sâu thẳm lên miền Oku, Nxb Tam Tỉnh

đường thư điếm.

4. Trương Chính, Lê Thước (1978), Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb Văn học,

Hà Nội.

5. Nguyễn Thị Thu Cúc (2008), Thời gian trong sonnet của Shakespeare, Báo

cáo khoa học sinh viên, Đại học Phú Xuân.

6. Jean Chevalier Alain Gheerbrant (2002), Từ điển biểu tượng văn hóa thế

giới, Nxb Đà Nẵng.

7. Nguyễn Phan Cảnh (2006), Ngôn ngữ thơ, Nxb Văn học, Hà Nội.

8. Trần Văn Cơ (2007), Ngôn ngữ học tri nhận, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

9. Cao Hữu Công, Mai Tổ Lân (2000), Nghệ thuật ngôn ngữ thơ Đường, Nxb

Văn học, Hà Nội.

10. Nhật Chiêu (2007), Ba nghìn thế giới thơm, Nxb Văn nghệ.

11. Xuân Diệu (1996), Thơ Xuân Diệu, Nxb văn học, Hà Nội.

12. Nguyễn Du (1999), Truyện Kiều, Nxb Văn học, Hà Nội

13. Nguyễn Tấn Đắc (2005), Văn hóa Đông Nam Á, Nxb ĐHQG TP. HCM.

14. Nguyễn Sĩ Đại (1996), Một số đặc trưng nghệ thuật của thơ tứ tuyệt đời

Đường, Nxb Văn học, Hà Nội.

15. Hữu Đạt (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

16. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học.

17. A. JA. Gurevich (1996), Các phạm trù văn hóa trung cổ, Nxb Giáo dục

18. Kate Hamburger (2004), Logic học về các thể loại văn học, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

19. Đỗ Khánh Hoan (1974), Khái niệm về ngôn ngữ và thi pháp Anh, Nxb Ba

Vì.

20. Bùi Biên Hòa (2004), Khám phá quy luật thời gian, Nxb Văn hóa dân tộc.

21. Nguyễn Thị Bích Hải (2004), Thi pháp thơ Đường, Nxb Giáo dục.

22. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2006), Từ

điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục.

23. Cao Xuân Huy (1995), Tư tưởng văn hóa phương Đông gợi những điểm

nhìn tham chiếu, Nxb Văn học.

24. Doãn Thị Hồng (2009), Cảm thức thời gian trong thơ đời Trần, Luận văn

Thạc sĩ Trường Đại học Sư phạm TPHCM.

25. Nguyễn Văn Khỏa (biên soạn) (2004), Thần thoại Hy Lạp, Nxb Văn học.

26. Phương Lựu (chủ biên) (2003), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục.

27. I. X. Lixêvich (2003), Tư tưởng văn học cổ Trung Quốc, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

28. Mai Quốc Liên, Nguyễn Quảng Tuân (chủ biên) (2001), Nguyễn Du toàn

tập (tập1), Nxb Văn học, Hà Nội.

29. Nguyễn Hiến Lê (1994) (chú dịch và giới thiệu), Trang Tử - Nam Hoa

Kinh, Nxb Văn hóa.

30. Nhiều tác giả (2006), William Shakespeare Tuyển tập tác phẩm, Nxb Sân

khấu, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây.

31. Nguyễn Đức Nam, Lương Duy Trung (1976), Sexpia, Nxb Văn hóa.

32. Nguyễn Đức Nam, Lương Duy Trung (chủ biên) (2002), Văn học phương

Tây, Nxb Giáo dục.

33. Thảo Nguyên (2009), Đọc và dịch thơ chữ Hán của Nguyễn Du, Nxb Hội

nhà văn.

34. Trần Văn Nhĩ (2007), Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb Văn nghệ.

35. Hoàng Phê (chủ biên) (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.

36. Hoàng Trọng Quyền (2005), Nguyễn Du và Đỗ Phủ - những tương đồng

và khác biệt về tư tưởng nghệ thuật, Luận án Tiến sĩ Ngữ Văn, Đại học Sư phạm

TPHCM.

37. Nguyễn Hữu Sơn (tuyển chọn và giới thiệu) (2000), Nguyễn Trãi về tác

gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục.

38. Trần Đình Sử, Lã Nhâm Thìn, Lê Lưu Oanh (tuyển chọn) (2005), Văn học

so sánh nghiên cứu và triển vọng, Nxb ĐHSP, Hà Nội.

39. Trần Đình Sử (2005), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

40. Nguyễn Hữu Sơn (2006), Thi hào Nguyễn Du từ thơ chữ Hán đến kiệt tác

Truyện Kiều, Nxb Trẻ.

41. Nguyễn Ngọc San, Đinh Văn Thiện (1998), Từ điển điển cố văn học, Nxb

Giáo dục.

42. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

43. Thái Bá Tân (dịch) (1995), W. Sexpia – Thơ xônê chọn lọc, Nxb Văn học,

Hà Nội.

44. Trường Đại học KHXH&NV (2003), Văn học so sánh nghiên cứu và dịch

thuật, Nxb ĐHQGHN, Hà Nội.

45. Nguyễn Đăng Thục (1971), Thế giới thi ca Nguyễn Du, Nxb Kinh Thi.

46. Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb TPHCM.

47. Trần Nam Tiến (2006), Ngoại giao giữa Việt Nam và các nước phương

Tây dưới triều Nguyễn, Nxb ĐHQG TPHCM.

48. Trịnh Thị Ngọc Thúy (2001), Những nhân tố Phục Hưng trong sáng tác

của Nguyễn Du, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư phạm TPHCM.

49. Nguyễn Thị Thanh Thảo (1998), Giọng điệu nghệ thuật trong thơ chữ Hán

Nguyễn Du, Luận văn tốt nghiệp, Đại học Sư phạm TPHCM.

50. Hoài Thanh, Hoài Chân (2002), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học.

51. Tuệ Trung (1996), Thơ Tuệ Trung, Nguồn: www. thivien. Net.

52. Lê Thu Yến (1999), Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb

Thanh niên, TP. HCM.

53. Nguyễn Thành Yến (dịch và chú giải) (1999), Lối nói ẩn dụ trong tiếng

Anh, Nxb TPHCM.

Tiếng Anh

54. M. C. Brandbrook (1965), Shakespeare and Elizabethan poetry, Chatto

and Windus, London.

55. Seymour Chatman (1968), An introduction to the language of poetry, New

York Atlanta Gevena, Ill, Dallas palo Alto.

56. Dr Sandra Clark (1999), The Penguin Shakespeare Dictionary, Penguin

Books, USA.

57. David Mc Dowall (1999), Britain in close – up, Long man.

58. James O’driscoll (1995), Britain, Oxford University Press.

59. Mark Van Doren (1955), Shakespeare, Double day Anchor books,

NewYork.

60. Richard Dutton (1989), William Shakespeare, Aliterary life, Macmillan

Press Ltd, London.

61. Christopher Garwood, Gugliel mo Gardani, Edda Peris (1992), Aspects of

Britain and the USA, Oxford University Press.

62. R.A. Foakes (1989), Coleridge’s criticism of Shakespeare, Wayne State

University Press, Michigan.

63. G. Wilson Knight (1955), The mutual flame on Shakespeare’s sonnets and

The Phoenix and the Turtle, Methuen and Co. Ltd, London.

64. James. K. Lowers, Ph. D (1965), Shakespeare’s sonnets, Cliff’s notes.

65.BruceMacEvoy(2005),Shakespeare’s sonnets, nguồn: 1Twww.handprint.com1T.

66. Patrogers (1987), An outline of English Literature, Oxford University

Press.

67. A. L. Rowse (1963), William Shakespeare – A Biography, Harper and

Row Publishers, New York and Evanston.

68. Mick Short (1996), Exploring the language of poems, plays and prose,

Longman, United State.

69. Shakespeare (1996), Shakespeare’s sonnets, Yale University Press.

70. J. Thomas Looney (1920), Shakespeare Identified, New York.

71. Ngô Thị Phương Thiện (chủ biên) (2003), Giáo trình văn hóa và xã hội

Anh, Nxb ĐHQG TPHCM.

72. Nguyễn Thị Kiều Thu, Nguyễn Thị Ngọc Dung (2003), Giáo trình văn học

Anh, Nxb ĐHQG TPHCM.

73. Nguyễn Xuân Thơm (1997), A history of English and American

Literature, Thế giới Publisher.

74. G.C. Thornley and Gwuyneth Roberts (1968), An outline of English

literature, Longman, England.

75. Helend vendler (1999), The art of Shakespeare’s sonnets, The Belknap

Press of Harvard University Press.

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1

THỐNG KÊ CÁC BÀI THƠ XUẤT HIỆN CÁC HÌNH ẢNH ĐÃ

ĐƯỢC PHÂN TÍCH

A. Về thơ chữ Hán Nguyễn Du

I. Các bài thơ xuất hiện hình ảnh trăng

1. Sơn cư mạn hứng

2. Lưu biệt Nguyễn đại lang 1

3. U cư 2

4. Xuân dạ

5. Tống Nguyễn Sĩ Hữu nam quy

6. Hoàng Mai Kiều vãn diểu

7. Ký mộng

8. Thôn dạ

9. Kí hữu

10. Kí Huyền Hư tử

11. Biệt Nguyễn Đại lang 2

12. Biệt Nguyễn Đại lang 3

13. Đạo ý

14. Tạp thi 2

14. Ngọa bệnh 2

15. Dạ hành

16. Tạp ngâm 2

17. Kí hữu

18. Sơ nguyệt

19. Ngẫu hứng

20. Thanh Quyết giang vãn diếu

21. Đồng lung giang

22. Đồng Lư lộ thượng dao kiến Sài Sơn

23. Quỷ môn đạo trung

24. Phượng Hoàng lộ thượng tảo hành

25. Thu chí

26. Ngẫu hứng 2

27. Ngẫu đề

28. Dạ tọa

29. Giản công bộ Thiêm sự Trần 2

30. Đại tác cửu thú tư quy 2

31. Thăng Long

32. Thái Bình thành hạ văn xuy địch

33. Sơn đường dạ bạc

34. Tương giang dạ bạc

35. Tương âm dạ

36. Hoàng Hạc lâu

37. Từ Châu dạ

II. Các bài thơ xuất hiện hình ảnh mùa thu

1. Tự thán 2

2. Thu chí

3. Thu chí 1

4. Thu chí 2

5. Bát muộn

6. Đại nhân ký bút

7. Dạo vọng Càn Hải từ

8. Ký hữu

9. Kí giang bắc Huyền Hư tử

10. Biệt Nguyễn Đại lang 1

11. Biệt Nguyễn Đại lang 3

12. Lam giang

13. Khai song

14. Tạp ngâm 1

15. Tạp ngâm 3

16. Ngẫu hứng 2

17. Đồng Lung giang

19. Thu chí

20. Ngẫu hứng 2

21. Tân thu ngẫu hứng

22. Dạ tọa

23. Tăng nhân

24. Tạp ngâm

25. Giang đầu tản bộ 1

26. Giang đầu tản bộ 2

27. Thành hạ khí mã

28. Giản công bộ Thiên sự Trần 1

29. Giản công bộ Thiên sự Trần 2

30. Thu nhật ký hứng

31. Độ linh giang

32. Nễ giang khẩu hương vọng

33. Đại tác cửu thú tư quy 1

34. Đại tác cửu thú tư quy 2

35. Sơ thu cảm hứng 1

36. Sơ thu cảm hứng 2

37. Sở vọng

38. Lỗi Dương Đỗ Thiếu lăng mộ 1

39. Lỗi Dương Đỗ Thiếu lăng mộ 2

40. Tương Âm dạ

41. Đăng Nhạc Dương lâu

42. Nhiếp Khẩu đạo trung

43. Vũ Thắng quan

44. Tín Dương tức sự

45. Ngẫu hứng

46. Hà Nam đạo trung khốc thử

47. Bùi Tấn Công mộ

48. Hoàng Hà

49. Hoàng Hà trở lạo

50. Kê Thị Trung từ

51. Đồng Tước đài

52. Thất thập nhị nghi trủng

53. Hàm Đan tức sự

54. Tô Tần đình

55. Dự Nhượng kiều

56. Kinh Kha cố lý

57. Từ Châu đê thượng vọng

58. Á phụ mộ

59. Chu phát

III. Các bài thơ xuất hiện hình ảnh mùa xuân

1. Sơn cư mạn hứng

2. U cư 2

3. Xuân dạ

4. Tạp ngâm

5. Đại nhân hý bút

6. Độ Phú Nông giang cảm tác

7. Đối tửu

8. Sơn thôn

9. Tạp ngâm 1

10. Mộ xuân mạn hứng

11. Thanh minh ngẫu hứng

12. Thanh Quyết giang vãn diểu

13. Xuân tiêu lữ thứ

14. Ngẫu thư công quán bích 1

15. Ngẫu thư công quán bích 2

16. Ngẫu hứng 1

17. Tặng nhân

18. Quế Lâm công quán

19. Sở Bá Vương mộ 2

20. Nhị Sơ cố lý

21. An Huy đạo trung

22. Quảng Tế ký thắng

23. Đỗ trung ngẫu hứng

24. Hoàng Mai đạo trung

25. Ngọa bệnh 2

26. Tự thán 2

27. Nam quan đạo trung

IV. Các bài thơ xuất hiện chữ “kim cổ”

1. Mạn hứng 2

2. Xuân dạ

3. Tạp ngâm

4. Tặng Thực Đình

5. La Phù giang thủy các độc tọa

6. Đồng Lung giang

7. Vọng phu thạch

8. Độc Tiểu Thanh ký

9. Thu chí

10. Dạ tọa

11. Biện giả

12. Độ Hoài hữu cảm Hoài Âm hầu

13. Cựu Hứa đô

14. Bùi Tấn Công mộ

15. Dự Nhượng kiều chủy thủ hành

16. Kinh Kha cố lý

17. Sở Bá Vương mộ 2

V. Các bài thơ xuất hiện hình ảnh thời gian đêm

1. Bất mị

2. Sơn cư mạn hứng

3. Lưu biệt Nguyễn Đại lang 1

4. Thu dạ 1

5. Thu dạ 2

6. Trệ khách Ức gia huynh

7. Kí mộng

8. Thôn dạ

9. Kí Huyền Hư tử

10. Biệt Nguyễn Đại lang

11. Ngọa bệnh 2

12. Dạ hành

13. Kí hữu

14. Sơ nguyệt

15. Phượng Hoàng lộ thượng tảo hành

16. Tống nhân

17. Ngẫu hứng 1

18. Ngẫu hứng 2

19. Ngẫu đề

20. Dạ tọa

21. Giản công bộ Thiêm sự Trần 2

22. Y nguyên vận kí Thanh Oai Ngô Tử Nguyên

23. Đại tác cửu thú tư quy 2

24. Thăng Long

25. Mạc phủ tức sự

26. Vọng Quan âm miếu

27. Tam giang khẩu đường dạ bạc

28. Vãn há Đại Than tân lạo bạo trướng chư hiểm câu thất

29. Thương Ngô trúc chi ca 2

30. Thương Ngô trúc chi ca 7

31. Thương Ngô trúc chi ca 9

32. Vọng Tương Sơn tự

33. Tương giang dạ bạc

34. Sơ thu cảm hứng 1

35. Từ châu dạ

36. Đào Hoa dịch đạo trung

37. Tương âm dạ

38 .Ngẫu thư công quán bích

39. Thủy liên đạo trung tảo hành

VI. Các bài thơ xuất hiện hình ảnh chiều

1. U cư 2

2. Mạn hứng 2

3. Hoàng Mai kiều vãn diểu

4. Dao vọng Càn Hải từ

5. Sơn thôn

6. Thanh Quyết giang vãn diểu

7. Đồng Lung giang

8. Tạp ngâm

9. Giang đầu tản bộ 1

10. Giang đầu tản bộ 2

11. Ngẫu đắc

12. Thành hạ khí mã

13. Thu nhật ký hứng

14. Minh giang chu phát

15. Sơn Đường dạ bạc

16. Đề Đại Than Mã Phục Ba miếu

17. Vãn há Đại Than tân lao bạo trướng chu hiểm câu thất

18. Hạ Than hỷ phú

19. Thương Ngô mộ vũ

20. Vọng Tương Sơn tự

21. Tương giang dạ bạc

22. Lỗi Dương Đỗ Thiếu lăng mộ 2

23. Hán Dương vãn diểu

24. Hàm Đan tức sự

25. Từ Châu đê thượng vọng

26. Tổ Sơn đạo trung

27. Nhạc Vũ Mục mộ

VII. Các bài thơ có hình ảnh tóc bạc

1. Tự thán 1

2. Tự thán 2

3. U cư 1

4. U cư 2

5. Mạn hứng 1

6. Mạn hứng 2

7. Thu chí

8. Tống Nguyễn Sĩ Hữu Nam quy

9. Xuân tiêu lữ thứ

10. Thu dạ 1

11. Trệ khách

12. Độ Phú Nông giang cảm tác

13. Họa hải ông Đoàn Nguyễn Tuấn “Giáp Dần phụng mệnh nhập Phú Xuân kinh,

đăng trình lưu biệt đắc thành chư hữu” chi tác

14. Độ Long Vĩ giang

15. Khai song

16. Đối tửu

17. Tạp thi 1

18. Dạ hành

19. Tạp ngâm

20. Phúc Thực Đình 1

21. Phúc Thực Đình 2

22. La Phù giang thủy các độc tọa

23. Dạ tọa

24. Giang đầu tản bộ 2

25. Vọng Thiên Thai tự

26. Thu nhật kí hứng

27. Đại tác cửu thú tư quy 1

28. Thăng Long 1

29. Thăng Long 2

30. Nam quan đạo trung

31. Bất tiến hành

32. Tam liệt miếu

33. Vĩnh Châu Liễu Tử Hậu cố trạch

34. Nhiếp Khẩu đạo trung

35. Tín Dương tức sự

36. Đông A sơn lộ hành

37. Từ Châu đạo trung

38. Tổ Sơn đạo trung

39. Quảng Tế ký thắng

40. Long Thành cầm giả ca

41. Hoàng Mai đạo trung

42. Hoàng Mai sơn thượng thôn

43. Hàm Đan tức sự

B. Về thơ sonnet Shakespeare

I. Các bài thơ xuất hiện chữ time (thời gian)

Sonnet 4, 5, 11, 15, 16, 19, 39, 44, 47, 49, 52, 55, 57, 58, 60, 63, 64, 65, 70, 73, 76,

77, 82, 97, 100, 106, 107, 108, 109, 115, 116, 117, 120, 123, 124, 126

II. Các bài thơ xuất hiện hình ảnh day (ngày)

Sonnet 12, 15, 27, 28, 43, 63, 90, 102, 113, 145, 149

III. Các bài thơ xuất hiện hình ảnh night (đêm)

Sonnet 12, 15, 27, 28, 30, 43, 61, 63, 73, 90, 102, 120, 145.

IV. Các bài thơ xuất hiện hình ảnh winter (mùa đông)

Sonnet 2, 6, 13, 97, 104, 5, 56, 97, 98, 104.

V. Các bài thơ xuất hiện hình ảnh summer (mùa hè)

Sonnet 18, 3, 5, 6, 12, 21, 54, 56, 65, 68, 94, 97, 98, 102, 104

VI. Các bài thơ xuất hiện hình ảnh worm (giun)

Sonnet 74, 71, 99, 6, 146.

VII. Các bài thơ xuất hiện hình ảnh scythe (lưỡi hái), sickle (cái liềm) và

crooked knife (con dao quắm)

Sonnet 12, 60, 100, 116, 123, 126, 63.

VIII. Các bài thơ xuất hiện hình ảnh trench, wrinkle, furrow (nếp nhăn)

Sonnet 2, 3, 22, 60, 63, 77, 100, 108.

IX. Các bài thơ xuất hiện hình ảnh tomb, grave, sepulchre (nấm mộ)

Sonnet 1, 3, 4, 17, 68, 101, 107, 131.

X. Các bài thơ xuất hiện hình ảnh sun (mặt trời)

Sonnet 7, 18, 21, 24, 33, 35, 43, 49, 59, 73, 76, 130, 132, 148.

PHỤ LỤC 2

BẢN DỊCH NGHĨA CÁC BÀI SONNET SHAKESPEARE

Sonnet 1

From fairest creatures we desire increase,

That thereby beauty's rose might never die,

But as the riper should by time decease,

His tender heir might bear his memory:

But thou contracted to thine own bright eyes,

Feed'st thy light's flame with self-substantial fuel,

Making a famine where abundance lies,

Thy self thy foe, to thy sweet self too cruel:

Thou that art now the world's fresh ornament,

And only herald to the gaudy spring,

Within thine own bud buriest thy content,

And, tender churl, mak'st waste in niggarding:

Pity the world, or else this glutton be,

To eat the world's due, by the grave and thee.

Chúng ta mong muốn những sinh vật đẹp đẽ (trên trái đất) sinh sôi

Nhưng giống như quả chín đến lúc phải rụngP27F Để vẻ đẹp của hoa hồng sẽ không bao giờ tàn 28

Thế hệ sau sẽ tiếp tục mang kí ức về anh

Nhưng anh, chỉ chăm chăm vào đôi mắt đẹp của mình

29

Tiếp nhiên liệu cho ngọn lửa đôi mắt bằng hình ảnh của chính mìnhP28F

28 Câu này cũng có thể hiểu: Nhưng giống như người già đến lúc lìa bỏ cõi đời

Tạo ra nạn đói ở nơi sự giàu có đang tồn tại)

Anh là kẻ thù của chính anh, tự độc ác với mình

Anh, giờ là đồ trang sức tươi mơn mởn của thế gian

Và là sứ giả duy nhất của mùa xuân rực rỡ

Chôn vùi chồi non của anh trong khát vọng chính mình

Và, người bủn xỉn non trẻ, tạo ra sự lãng phí trong sự hà tiện

Động lòng trắc ẩn trước thế giới, hay giống như kẻ phàm ăn

Ăn hết cả phần thế giới đáng được hưởng, bằng nấm mộ của anh

Sonnet 2

When forty winters shall besiege thy brow,

And dig deep trenches in thy beauty's field,

Thy youth's proud livery so gazed on now,

Will be a totter'd weed of small worth held:

Then being asked, where all thy beauty lies,

Where all the treasure of thy lusty days;

To say, within thine own deep sunken eyes,

Were an all-eating shame, and thriftless praise.

How much more praise deserv'd thy beauty's use,

If thou couldst answer 'This fair child of mine

Shall sum my count, and make my old excuse,'

Proving his beauty by succession thine!

This were to be new made when thou art old,

And see thy blood warm when thou feel'st it cold.

Khi bốn mươi mùa đông (rồi) sẽ phủ lên vầng trán,

Và đào những rãnh sâu trên những đường nét đẹp của khuôn mặt

Vẻ bên ngoài đáng tự hào thời trai trẻ bấy giờ được nhìn vào

Sẽ chỉ còn lại phần tả tơi rách nát, không giá trị

Khi đó anh tự hỏi vẻ đẹp của mình đã đi đâu

Ở đâu rồi tất cả những thứ quý giá của những ngày trai trẻ đầy sức sống

29 Hay như ngọn nến tự đốt cháy mình, chỉ nhìn thấy mình

Để được trả lời, giữa đôi mắt trũng sâu

(Rằng đó) đã là sự tham lam đáng xấu hổ và sự hoang phí lời ngợi khen)

Sẽ có biết bao lời khen xứng đáng với vẻ đẹp hữu dụng của anh

nếu anh có thể trả lời: “Những đứa trẻ đẹp đẽ này của tôi

là tất cả những gì tôi có được, và là nguyên nhân khiến tôi già đi”

Bằng sự kế thừa, chúng chứng tỏ những nét đẹp anh đã từng có)

Đây (đứa trẻ) là một sáng tạo mới khi anh già đi

Và thấy được dòng máu nóng của mình khi anh cảm thấy lạnh giá

Sonnet 3

Look in thy glass and tell the face thou viewest

Now is the time that face should form another;

Whose fresh repair if now thou not renewest,

Thou dost beguile the world, unbless some mother.

For where is she so fair whose unear'd womb

Disdains the tillage of thy husbandry?

Or who is he so fond will be the tomb

Of his self-love, to stop posterity?

Thou art thy mother's glass and she in thee

Calls back the lovely April of her prime;

So thou through windows of thine age shalt see,

Despite of wrinkles this thy golden time.

But if thou live, remember'd not to be,

Die single and thine image dies with thee.

Nhìn vào tấm gương, và nói với khuôn mặt mà anh nhìn thấy

Giờ là lúc nên tạo ra một khuôn mặt khác

Phục hồi phần tươi tắn nếu anh không được tái tạo lại

Anh sẽ tiêu phí thời gian trên thế giới, không cho những người phụ nữ hạnh phúc

được làm mẹ

Vì làm gì ở đâu có người phụ nữ quá xuẩn ngốc với tử cung trống rỗng

30

P?

Khinh thường sự canh tác của nghề nông anhP29F

Hay anh là ai mà quá thích thú với nấm mồ

Của tình yêu ích kỉ, để ngừng tạo ra thế hệ sau?

Anh là chiếc gương soi của mẹ, từ anh mà bà ấy

Gợi lại tháng Tư đẹp đẽ thời thanh xuân

31

Cho nên anh, qua tấm gương tuổi tác có thể thấyP30F

thời hoàng kim của chính mình, bất kể những nếp nhăn

Nhưng nếu anh sống mà không được nhớ đến

(Anh sẽ) chết trong cô độc và hình ảnh của anh sẽ chết theo anh

Sonnet 4

Unthrifty loveliness, why dost thou spend

Upon thy self thy beauty's legacy?

Nature's bequest gives nothing, but doth lend,

And being frank she lends to those are free:

Then, beauteous niggard, why dost thou abuse

The bounteous largess given thee to give?

Profitless usurer, why dost thou use

So great a sum of sums, yet canst not live?

For having traffic with thy self alone,

Thou of thy self thy sweet self dost deceive:

Then how when nature calls thee to be gone,

What acceptable audit canst thou leave?

Thy unused beauty must be tombed with thee,

Which, used, lives th' executor to be.

Vẻ đẹp lãng phí, vì sao anh sử dụng

Lãng phí chính mình vẻ đẹp anh có thể để lại cho thế giới?

Tự nhiên không cho không mà chỉ cho mượn

Và rất hào phóng, bà chỉ ban cho những ai có trái tim rộng mở

Bởi thế, người hà tiện đẹp đẽ, vì sao anh sử dụng

Một số vốn lớn như vậy (trong khi) anh không thể tồn tại mãi?

30 So sánh việc để lại mầm sống trong tử cung người phụ nữ với việc canh tác, gieo hạt trên đất trồng, tác giả khẳng định không có người phụ nữ nào lại không sung sướng được làm mẹ của những đứa trẻ, đón nhận sự canh tác này. 31 Câu này ý muốn nói qua đứa con của mình, anh sẽ thấy lại thời hoàng kim, tác giả dùng cách diễn đạt “windows of thine age”.

Anh, chính vẻ đẹp của anh đã tự lừa mình

Rồi sẽ ra sao, khi tự nhiên gọi anh ra đi

Sự kiểm toán khả dĩ nào anh có thể để lại?

Vẻ đẹp lãng phí sẽ bị chôn vùi cùng anh

Cái mà, nếu được sử dụng, sẽ trở thành người thừa kế cho anh

Sonnet 5

Those hours, that with gentle work did frame

The lovely gaze where every eye doth dwell,

Will play the tyrants to the very same

And that unfair which fairly doth excel;

For never-resting time leads summer on

To hideous winter, and confounds him there;

Sap checked with frost, and lusty leaves quite gone,

Beauty o'er-snowed and bareness every where:

Then were not summer's distillation left,

A liquid prisoner pent in walls of glass,

Beauty's effect with beauty were bereft,

Nor it, nor no remembrance what it was:

But flowers distill'd, though they with winter meet,

Leese but their show; their substance still lives sweet.

Thời gian, với công việc đầy cẩn trọng đã tạo nên

Những đôi mắt đẹp khiến mọi đôi mắt khác phải ngưỡng mộ ngắm nhìn

Sẽ trở thành bạo chúa với rất nhiều đôi mắt tương tự

Và làm chúng rõ ràng xấu đi hơn hẳn

Bởi thời gian không bao giờ ngừng nghỉ đã khiến cho mùa hè

Đi vào mùa đông gớm ghiếc và làm tiêu tan nó ở đây

Nhựa sống tuôn trào (của mùa hè) bị ngăn cản bởi sương giá, những chiếc lá xanh lìa

cành

Cái đẹp bị tuyết bao phủ và (phơi ra) vẻ trơ trụi ở khắp mọi nơi

Khi đó tinh chất của mùa hè sẽ không ra đi

(mà giống như) người tù chất lỏng bị nhốt trong bức tường thủy tinh

Ấn tượng về cái đẹp cùng với bản thân nó đã bị mất

Cả nó, cả kí ức về nó (đều không được giữ lại)

Nhưng tinh hoa đã được chưng cất, dù trong cuộc đương đầu với mùa đông

Đã trở nên tàn tạ nhưng đó chỉ là vẻ bề ngoài, thực chất chúng vẫn tồn tại một cách

32

thuần khiếtP31F

Sonnet 6

Then let not winter's ragged hand deface,

In thee thy summer, ere thou be distilled:

Make sweet some vial; treasure thou some place

With beauty's treasure ere it be self-killed.

That use is not forbidden usury,

Which happies those that pay the willing loan;

That's for thy self to breed another thee,

Or ten times happier, be it ten for one;

Ten times thy self were happier than thou art,

If ten of thine ten times refigured thee:

Then what could death do if thou shouldst depart,

Leaving thee living in posterity?

Be not self-willed, for thou art much too fair

To be death's conquest and make worms thine heir.

Này đừng để bàn tay tơi tả của mùa đông làm biến dạng

Nhiệt tình tuổi trẻ trong anh, trước khi anh được chưng cất

Làm đầy những chiếc li thủy tinh, làm phong phú cho anh ở vài nơi

Bằng kho báu của vẻ đẹp trước khi nó bị tiêu diệt

Sự sử dụng đó là sự cho vay nặng lãi không bị cấm đoán

Bởi hạnh phúc nó tạo ra cho người sẵn lòng vay nợ

Vì món nợ là nòi giống (hình bóng) khác của chính anh

Hoặc hạnh phúc hơn gấp 10 lần, (nếu) lợi tức là 10 ăn 1

10 lần bản thân anh sẽ hạnh phúc hơn chỉ một mình anh

Nếu như 10 hình ảnh của anh, 10 lần được tái xuất hiện

32 Câu này cũng có thể hiểu: Nhưng tinh chất của hoa, dù trong cuộc đối đầu với mùa đông

đã bị tiêu diệt chỉ mất đi vẻ bề ngoài, thực chất chúng vẫn sống và không ngừng tỏa hương thơm

Khi đó cái chết có thể làm được gì nếu anh từ biệt (thế giới để ra đi)

33

(nhưng vẫn) để lại nòi giống cho hậu thếP32F

Đừng quá cứng nhắc, vì anh quá đẹp

(Nên không thể) để cái chết xâm chiếm và để những con giun làm người thừa kế của

mình.

Sonnet 7

Lo! in the orient when the gracious light

Lifts up his burning head, each under eye

Doth homage to his new-appearing sight,

Serving with looks his sacred majesty;

And having climbed the steep-up heavenly hill,

Resembling strong youth in his middle age,

Yet mortal looks adore his beauty still,

Attending on his golden pilgrimage:

But when from highmost pitch, with weary car,

Like feeble age, he reeleth from the day,

The eyes, 'fore duteous, now converted are

From his low tract, and look another way:

So thou, thyself outgoing in thy noon

Unlooked on diest unless thou get a son.

Nhìn kìa! Ở phương Đông khi ánh sáng (mặt trời) tỏa lan

Nhô chiếc đầu rực cháy, dưới mỗi con mắt

Là niềm ngưỡng mộ sự xuất hiện đầy mới mẻ của anh ta

Ngước nhìn vẻ uy nghi thần thánh của anh ta

Và (mặt trời) đang trèo lên trên con dốc của đồi thiên đường

Giống như chàng thanh niên trẻ tráng trong thời kì đẹp nhất của cuộc đời

(Thần chết) vẫn tôn sùng vẻ đẹp của anh

Chăm chú vào chuyến đi thần thánh

Nhưng khi từ trên đồi cao nhất, với chiếc xe đã rệu rã

Giống như lúc già yếu, anh ta quay cuồng (trong ánh sáng) ngày,

Những đôi mắt, trước đây biết vâng lời, bây giờ thay đổi

33 Câu này có nghĩa là: nếu anh để lại một phần thân thể mình trong thế hệ sau, thì cho dù thần chết lấy được thể xác anh, hắn vẫn là kẻ thất bại

(không còn) chú ý vào anh mà nhìn đi nơi khác

Cho nên anh, đi qua buổi trưa của đời mình

Sẽ chết trong cô độc, trừ phi anh có một đứa con

Sonnet 8

Music to hear, why hear'st thou music sadly?

Sweets with sweets war not, joy delights in joy:

Why lov'st thou that which thou receiv'st not gladly,

Or else receiv'st with pleasure thine annoy?

If the true concord of well-tuned sounds,

By unions married, do offend thine ear,

They do but sweetly chide thee, who confounds

In singleness the parts that thou shouldst bear.

Mark how one string, sweet husband to another,

Strikes each in each by mutual ordering;

Resembling sire and child and happy mother,

Who, all in one, one pleasing note do sing:

Whose speechless song being many, seeming one,

Sings this to thee: 'Thou single wilt prove none.'

Âm nhạc là để nghe, vì sao anh nghe những khúc nhạc buồn bã ?

Sự ngọt ngào không xung đột với ngọt ngào, niềm vui hài hòa với niềm vui

Vì sao anh lại yêu những gì không làm anh vui vẻ

Hay mong nhận được những gì làm anh phiền lòng?

Nếu như sự hòa âm thích hợp của những giai điệu đẹp

Giống như cuộc hôn nhân, xúc phạm đôi tai của anh

Đó là một lời quở trách nhẹ nhàng đối với anh, người đã để mất

Phần nhạc anh phải chơi bằng cách sống cô đơn

Hãy lắng nghe dây đàn căng lên

Tác động vào nhau (cùng hòa âm) phát ra tiếng nhạc

Giống như người cha với đứa con và bà mẹ hạnh phúc

Những người mà, tất cả trong một, mỗi nốt nhạc vui đều được hát lên

Bài hát không lời của họ, được tạo thành từ rất nhiều phần, có vẻ chỉ là một

(Còn) bài hát dành cho anh: sống một mình, anh không là gì cả (không có gì, là con

34

số 0)P33F

Sonnet 9

Is it for fear to wet a widow's eye,

That thou consum'st thy self in single life?

Ah! if thou issueless shalt hap to die,

The world will wail thee like a makeless wife;

The world will be thy widow and still weep

That thou no form of thee hast left behind,

When every private widow well may keep

By children's eyes, her husband's shape in mind:

Look what an unthrift in the world doth spend

Shifts but his place, for still the world enjoys it;

But beauty's waste hath in the world an end,

And kept unused the user so destroys it.

No love toward others in that bosom sits

That on himself such murd'rous shame commits.

Có phải vì sợ làm ướt đôi mắt một quả phụ,

Nên anh tự lãng phí mình trong cuộc sống độc thân ?

Ồ, nếu ngẫu nhiên anh chết đi không để lại giống nòi

Thế giới sẽ than khóc anh tựa như một người vợ cô quả

Thế giới sẽ là góa phụ của anh và tiếp tục nhỏ nước mắt

Vì anh không để hình mẫu của mình ở lại

Trong khi tất cả những quả phụ may mắn khác có thể giữ,

Hình bóng người chồng trong tâm trí bằng đôi mắt đứa trẻ thơ

Khi (người ta) sử dụng lãng phí (một số tiền)

Nó chỉ thay đổi vị trí (từ túi người này sang túi người khác) còn thực chất số tiền ấy

vẫn tồn tại

Nhưng vẻ đẹp bị lãng phí sẽ biến mất khỏi thế giới

Và bằng việc không sử dụng, người sở hữu tiêu diệt nó

34 Trong bài này, Shakespeare so sánh người thanh niên đẹp đẽ với một nốt nhạc. Nốt nhạc ấy chỉ có giá trị (chỉ được cất lên) khi nó kết hợp hài hòa với những nốt khác, cũng như con người sẽ tạo nên một bản giao hưởng tuyệt vời nếu anh ta lập gia đình, có con.

Không có tình yêu dành cho người khác trong trái tim

Của người tự giết mình mà không xấu hổ

Sonnet 11

As fast as thou shalt wane, so fast thou grow'st

In one of thine, from that which thou departest;

And that fresh blood which youngly thou bestow'st,

Thou mayst call thine when thou from youth convertest.

Herein lives wisdom, beauty, and increase;

Without this folly, age, and cold decay:

If all were minded so, the times should cease

And threescore year would make the world away.

Let those whom nature hath not made for store,

Harsh, featureless, and rude, barrenly perish:

Look whom she best endow'd, she gave the more;

Which bounteous gift thou shouldst in bounty cherish:

She carv'd thee for her seal, and meant thereby,

Thou shouldst print more, not let that copy die.

Anh tàn tạ nhanh chừng nào, anh lớn nhanh chừng ấy

Trong thế hệ sau của anh, cho nên khi anh ra đi

Dòng máu tươi nóng anh đã cho người trẻ tuổi

Anh có thể xem đó là chính mình khi đi qua thời thanh xuân

(Chấp nhận điều này) nghĩa là sự sáng suốt, vẻ đẹp, sinh sôi tồn tại

Không chấp nhận nó có nghĩa là điên rồ, tuổi tác, sự suy tàn lạnh giá

Nếu tất cả đều nghĩ như anh, thời gian sẽ chấm dứt

Và 60 năm là kết thúc một cuộc đời

Hãy để cho những người mà tự nhiên không cần có sự dự trữ

Thô lỗ, không có gì đặc biệt (tầm thường) tàn lụi trong cằn cỗi

Nhìn xem, có những người được phú cho những phẩm chất tốt nhất, được cho nhiều

hơn

Anh hãy trân trọng sự hào phóng ấy như một món quà quý giá

Tự nhiên khắc vào anh con dấu, và điều đó có nghĩa là

Anh nên nhân bản nhiều hơn, không nên để nó thành một phiên bản chết

Sonnet 12

When I do count the clock that tells the time,

And see the brave day sunk in hideous night;

When I behold the violet past prime,

And sable curls, all silvered o'er with white;

When lofty trees I see barren of leaves,

Which erst from heat did canopy the herd,

And summer's green all girded up in sheaves,

Borne on the bier with white and bristly beard,

Then of thy beauty do I question make,

That thou among the wastes of time must go,

Since sweets and beauties do themselves forsake

And die as fast as they see others grow;

And nothing 'gainst Time's scythe can make defence

Save breed, to brave him when he takes thee hence.

(Khi tôi đếm thời gian từ chiếc đồng hồ

Và thấy ngày đẹp lộng lẫy chìm vào đêm tối tăm

35

Khi tôi ngắm nhìn hoa violet đi qua tuổi thanh xuân

P giờ đều đen cuộn xoắn

Tất cả lớp bạc trắng tinhP34F

Khi tôi nhìn những cây cao trơ trụi lá

Xưa kia từng tỏa bóng che những bầy đàn khỏi cái nóng

Và màu xanh của mùa hè bị cuốn thành từng bó

36

Mang đi trên chiếc quan tài râu bạc trắng tua tủaP35F

Từ đó tôi đặt ra câu hỏi về vẻ đẹp của anh

Theo sự lãng phí của anh thời gian trôi đi

Theo đó sự tươi trẻ (ngọt ngào) và cái đẹp tự chúng cũng ra đi

Và chết nhanh như những cái khác đang lớn lên

Không gì có thể chống lại lưỡi hái của thời gian, (anh) chỉ có thể phòng thủ

(bằng cách) giữ lấy nòi giống phòng khi hắn bắt anh đi

Sonnet 13

35 Của cánh hoa 36 Hình ảnh miêu tả cây cối đến mùa thu hoạch

O! that you were your self; but, love, you are

No longer yours, than you your self here live:

Against this coming end you should prepare,

And your sweet semblance to some other give:

So should that beauty which you hold in lease

Find no determination; then you were

Yourself again, after yourself's decease,

When your sweet issue your sweet form should bear.

Who lets so fair a house fall to decay,

Which husbandry in honour might uphold,

Against the stormy gusts of winter's day

And barren rage of death's eternal cold?

O! none but unthrifts. Dear my love, you know,

You had a father: let your son say so.

Ồ, (tất nhiên) anh là chính mình, nhưng này người yêu dấu

Anh sẽ chẳng còn là anh khi không còn sống trên cõi đời

Đoán trước sự chấm dứt này anh nên chuẩn bị

Cho ra đời những sinh thể giống anh

Vẻ đẹp mà anh được cho mượn

Sẽ không thể tồn tại mãi, nên anh hãy

Tái tạo mình sau khi anh chết

Để thế hệ sau sẽ mang hình dáng đẹp của anh

Khi sự giữ gìn có thể chống lại

Những cơn gió giận dữ của những ngày mùa đông

Và cơn thịnh nộ không thương tiếc của cái lạnh vĩnh viễn đầy chết chóc?

Ồ, không ai, này người yêu dấu, anh biết đấy

Anh có một người cha, hãy để con anh được nói như vậy

Sonnet 14

Not from the stars do I my judgement pluck;

And yet methinks I have Astronomy,

But not to tell of good or evil luck,

Of plagues, of dearths, or seasons' quality;

Nor can I fortune to brief minutes tell,

Pointing to each his thunder, rain and wind,

Or say with princes if it shall go well

By oft predict that I in heaven find:

But from thine eyes my knowledge I derive,

And, constant stars, in them I read such art

As truth and beauty shall together thrive,

If from thyself, to store thou wouldst convert;

Or else of thee this I prognosticate:

Thy end is truth's and beauty's doom and date.

Tôi không lấy sự sáng suốt từ những ngôi sao

Nhưng tôi cho rằng tôi có hiểu biết về thiên văn học

Tôi không đoán được những tình thế may mắn hay đen đủi

Hay bệnh dịch, nạn đói, hay bất cứ cái gì tương tự như thế

Tôi cũng không thể chỉ ra những giây phút tình cờ bất chợt

Chỉ ra mỗi (hiện tượng, tiếng) sấm, mưa và gió

Hoặc nói với người cầm quyền liệu thời thế sẽ diễn biến thế nào

Bằng cách tiên đoán những gì tôi nhìn thấy trên bầu trời

Nhưng từ đôi mắt anh tôi biết rằng tôi thấy tận đáy

Và, như những ngôi sao không đổi, trong chúng tôi đọc được

Rằng sự thật và cái đẹp sẽ cùng nhau lớn lên

37

Nếu anh có thể thay đổi từ việc chỉ chú ý vào bản thân đến dự trữ P36F

Hoặc tạo ra hình ảnh khác của anh, tôi tiên đoán

Cái chết của anh sẽ là sự kết thúc của sự thật và vẻ đẹp

Sonnet 15

When I consider every thing that grows

Holds in perfection but a little moment,

That this huge stage presenteth nought but shows

Whereon the stars in secret influence comment;

When I perceive that men as plants increase,

Cheered and checked even by the self-same sky,

37 ở đây tác giả muốn nói đến việc tạo ra thế hệ sau

Vaunt in their youthful sap, at height decrease,

And wear their brave state out of memory;

Then the conceit of this inconstant stay

Sets you most rich in youth before my sight,

Where wasteful Time debateth with decay

To change your day of youth to sullied night,

And all in war with Time for love of you,

As he takes from you, I engraft you new.

Khi tôi quan tâm đến mọi thứ đang lớn lên

Chỉ giữ được vẻ hoàn hảo trong thời gian rất ngắn

Thời khắc huy hoàng ấy thoáng qua như một ảo ảnh và hiện diện

(Cho thấy) ảnh hưởng bí mật của những ngôi sao

Khi tôi nhận thấy con người cũng như cây cỏ sinh sôi

Bị kích thích và ngăn trở bởi cùng một điều kiện thiên nhiên

Hân hoan trong nhựa sống tuổi trẻ (và khi) lên đến đỉnh điểm thì tàn tạ dần đi

Và hao mòn sinh lực một cách vô thức

Khi ý thức được sự không vĩnh viễn này

Tôi có thể xem anh như một người giàu trong tuổi thanh niên

Khi thời gian bị lãng phí bắt tay với tử thần

Để thay đổi những ngày tươi trẻ của anh thành đêm tăm tối

Và trong cuộc chiến với thời gian, vì tình yêu dành cho anh

Trong khi thời gian tước đoạt (mọi thứ của anh), mang anh đi, tôi tái tạo (anh, vẻ đẹp

của anh) bằng những bài thơ của mình

Sonnet 16

But wherefore do not you a mightier way

Make war upon this bloody tyrant, Time?

And fortify your self in your decay

With means more blessed than my barren rhyme?

Now stand you on the top of happy hours,

And many maiden gardens, yet unset,

With virtuous wish would bear you living flowers,

Much liker than your painted counterfeit:

So should the lines of life that life repair,

Which this, Time's pencil, or my pupil pen,

Neither in inward worth nor outward fair,

Can make you live your self in eyes of men.

To give away yourself, keeps yourself still,

And you must live, drawn by your own sweet skill.

Nhưng này sao anh không chọn một cách mạnh mẽ hơn

Để tiến hành cuộc chiến với tên bạo chúa khát máu – Thời gian?

Và bảo vệ chính mình khỏi sự tàn phá

Một cách hiệu quả hơn những vần thơ trống rỗng của tôi ?

Giờ anh đang đứng trên đỉnh của những ngày hạnh phúc

Và có rất nhiều khu vườn trinh nữ chưa được gieo trồng

Với vô vàn những điểm tốt mong mang đến cho anh những bông hoa tươi

Giống anh hơn bức vẽ của anh

Và sẽ kéo dài cuộc sống cho anh

Cái mà, cả bút vẽ của thời gian, cả ngòi bút của tôi

Cả giá trị bên trong lẫn vẻ đẹp bên ngoài (của anh đều không vẽ được)

Không làm anh sống trong mắt mọi người

Tạo ra bản sao của chính mình, giữ cho mình tồn tại

38

Và anh sẽ sống mãi, tự đúc ra mình bằng sự khéo léo của anh P37F

Sonnet 17

Who will believe my verse in time to come,

If it were fill'd with your most high deserts?

Though yet heaven knows it is but as a tomb

Which hides your life, and shows not half your parts.

If I could write the beauty of your eyes,

And in fresh numbers number all your graces,

The age to come would say 'This poet lies;

Such heavenly touches ne'er touch'd earthly faces.'

So should my papers, yellow'd with their age,

Be scorn'd, like old men of less truth than tongue,

38 Câu này có thể hiểu: khi tạo ra bản sao (đứa con), anh trở thành người họa sĩ vẽ bức chân dung sống của mình.

And your true rights be term'd a poet's rage

And stretched metre of an antique song:

But were some child of yours alive that time,

You should live twice, in it, and in my rhyme.

Ai sẽ tin vào bài thơ của tôi khi thời gian qua đi

Nếu nó được làm đầy bởi những phẩm chất ưu tú của anh?

Dù có trời biết điều đó nhưng giống như nấm mồ

Nơi chôn giấu cuộc sống của anh, và không thể cho thấy một phần cơ thể

Nếu tôi có thể viết về vẻ đẹp đôi mắt anh

Và liệt kê vô số sự ưu tú của anh

Những người sau này có thể nói “Nhà thơ này nói dối, làm sao trên trái đất có thể có

con người với vẻ đẹp như vậy?”

Vì thế những trang thơ của tôi, úa vàng theo thời gian

Sẽ bị coi thường (như người ta coi thường) một người già nói những lời không thật

Và hình ảnh đích thực của anh sẽ bị hạn chế trong cảm hứng của nhà thơ

Và kéo dài nhịp thơ của một sáng tác lỗi thời

Nhưng nếu đứa con của anh sống vào lúc ấy

Anh sẽ sống hai lần, trong chúng, và trong những vần thơ của tôi

Sonnet 18

Shall I compare thee to a summer's day?

Thou art more lovely and more temperate:

Rough winds do shake the darling buds of May,

And summer's lease hath all too short a date:

Sometime too hot the eye of heaven shines,

And often is his gold complexion dimmed,

And every fair from fair sometime declines,

By chance, or nature's changing course untrimmed:

But thy eternal summer shall not fade,

Nor lose possession of that fair thou ow'st,

Nor shall death brag thou wander'st in his shade,

When in eternal lines to time thou grow'st,

So long as men can breathe, or eyes can see,

So long lives this, and this gives life to thee.

Nên chăng tôi so sánh em với một ngày mùa hè?

Em đáng yêu hơn và hiền hòa hơn

Những cơn gió dữ làm rung những nụ mỏng manh tháng năm

Và thời gian cho mùa hè quá ngắn

Đôi khi đôi mắt quá gắt của mặt trời chiếu sáng

Và gương mặt rực rỡ bị che mờ

Và tất cả vẻ đẹp đôi khi phai lạt

Một cách ngẫu nhiên hay do quá trình thay đổi của tự nhiên

Nhưng mùa hè vĩnh viễn của em sẽ chẳng bao giờ tàn

Vẻ đẹp mà em sở hữu cũng sẽ không mất đi

Thần Chết cũng không thể khoe khoang em đã bị bao vây trong bóng tối của hắn

Khi trong những vần thơ vĩnh cửu, dù thời gian qua đi, em (vẫn) tồn tại

Khi nào con người còn thở và những đôi mắt có thể nhìn

Thì em vẫn sống trong nó (những bài thơ) và chúng đem cuộc sống đến cho em.

Sonnet 19

Devouring Time, blunt thou the lion's paws,

And make the earth devour her own sweet brood;

Pluck the keen teeth from the fierce tiger's jaws,

And burn the long-liv'd phoenix, in her blood;

Make glad and sorry seasons as thou fleet'st,

And do whate'er thou wilt, swift-footed Time,

To the wide world and all her fading sweets;

But I forbid thee one most heinous crime:

O! carve not with thy hours my love's fair brow,

Nor draw no lines there with thine antique pen;

Him in thy course untainted do allow

For beauty's pattern to succeeding men.

Yet, do thy worst old Time: despite thy wrong,

My love shall in my verse ever live young.

Sự phá hủy của thời gian làm mòn móng vuốt sư tử

Và làm cho trái đất ngấu nghiến chính những đứa con xinh đẹp của mình

Nhổ đi hàm răng đẹp từ hàm con hổ hung dữ

Và đốt cháy quãng thời gian sống của chim phượng hoàng bằng máu nó

Tạo ra niềm vui, gây nên nỗi buồn rất nhanh chóng

Và hãy làm bất kì điều gì ngươi muốn, vì bước chân mau lẹ của thời gian

(sẽ đi qua) thế giới rộng lớn, và tất cả những sinh vật đẹp đẽ trên trái đất

Nhưng ta cấm ngươi gây ra tội ác này:

Ồ, đừng khắc (những vết hằn) vào vầng trán đẹp của người yêu ta

Cũng không được kẻ những đường nét ở đây bằng cây bút lỗi thời của ngươi

(người trẻ tuổi) trong sự phá hủy của ngươi vẫn còn xuân sắc để cho phép

Hình mẫu về vẻ đẹp của con người tiếp tục tồn tại

Nhưng, (dù ngươi) làm điều tồi tệ nhất, hỡi thời gian già nua: bất kể những sự gây

hại của ngươi

Tình yêu của ta vẫn sẽ giữ tuổi trẻ sống trong những bài thơ

Sonnet 22

My glass shall not persuade me I am old,

So long as youth and thou are of one date;

But when in thee time's furrows I behold,

Then look I death my days should expiate.

For all that beauty that doth cover thee,

Is but the seemly raiment of my heart,

Which in thy breast doth live, as thine in me:

How can I then be elder than thou art?

O! therefore love, be of thyself so wary

As I, not for myself, but for thee will;

Bearing thy heart, which I will keep so chary

As tender nurse her babe from faring ill.

Presume not on thy heart when mine is slain,

Thou gav'st me thine not to give back again.

Tấm gương soi cũng không thể thuyết phục được rằng tôi đã già

Chừng nào tuổi trẻ trong anh còn tồn tại

Nhưng khi tôi nhìn thấy nơi anh những nếp nhăn của thời gian

Đó là lúc tôi thấy thời gian của mình kết thúc

Vì tất cả vẻ đẹp bao quanh anh

Tồn tại nhưng chúng là y phục của trái tim tôi

Chúng sống trong ngực anh cũng giống như trái tim anh sống trong tôi

Làm thế nào tôi có thể già hơn anh?

Ồ, vì thế, này người yêu, hãy thận trọng với bản thân

Giống như tôi, không phải cho bản thân tôi mà cho anh

Mang trái tim anh, tôi sẽ giữ thật cẩn thận

Giống như người y tá dịu dàng nâng niu đứa trẻ sơ sinh biếng ăn

Chớ cho rằng trái tim anh sống khi trái tim tôi bị tiêu diệt

Anh đã trao nó cho tôi, không bao giờ được trả lại

Sonnet 23

As an unperfect actor on the stage,

Who with his fear is put beside his part,

Or some fierce thing replete with too much rage,

Whose strength's abundance weakens his own heart;

So I, for fear of trust, forget to say

The perfect ceremony of love's rite,

And in mine own love's strength seem to decay,

O'ercharg'd with burthen of mine own love's might.

O! let my looks be then the eloquence

And dumb presagers of my speaking breast,

Who plead for love, and look for recompense,

More than that tongue that more hath more express'd.

O! learn to read what silent love hath writ:

To hear with eyes belongs to love's fine wit.

Giống như người diễn viên không hoàn hảo trên sân khấu

Người mà với nỗi sợ kè kè bên vai diễn

Hoặc điều sôi nổi nào đó tràn đầy với quá nhiều nhiệt hứng

Sự mạnh mẽ của anh làm chính trái tim thiếu tự tin yếu đi

Cho nên tôi, do nỗi sợ quên không nói

39

Những lời thiêng liêng của nghi thức tình yêuP38F

Và trong trái tim tôi sự mạnh mẽ của tình yêu có vẻ như giảm đi

Quá tải bởi sức nặng của sức mạnh tình yêu

Ồ, hãy để tôi trông đợi ở sức mạnh những vần thơ thay cho trái tim không lời

thứ nài xin tình yêu và chờ đợi sự đáp lại

có sức thuyết phục hơn những biểu hiện thông thường

nghe bằng mắt là khả năng đặc biệt của tình yêuP39F Ôi, thử đọc cuốn sách mà tình yêu câm lặng đã viết 40

Sonnet 24

Mine eye hath play'd the painter and hath steel'd,

Thy beauty's form in table of my heart;

My body is the frame wherein 'tis held,

And perspective it is best painter's art.

For through the painter must you see his skill,

To find where your true image pictur'd lies,

Which in my bosom's shop is hanging still,

That hath his windows glazed with thine eyes.

Now see what good turns eyes for eyes have done:

Mine eyes have drawn thy shape, and thine for me

Are windows to my breast, where-through the sun

Delights to peep, to gaze therein on thee;

Yet eyes this cunning want to grace their art,

They draw but what they see, know not the heart.

Đôi mắt tôi đã đóng vai trò một họa sĩ và khắc tạc

Vẻ đẹp của em trong bức tranh trái tim tôi

Thân thể tôi là cái khung chức đựng nó (bức tranh ấy)

Và trong tương lai nó là bức tranh đẹp nhất

Vì qua bức tranh người ta có thể thấy kĩ thuật

(để) thấy nơi đâu hình ảnh thực của em được tô vẽ

Trong shop bộ ngực tôi vẫn còn đang treo

39 Những lời mà người yêu nhau thường âu yếm nói với nhau 40 Thay vì nghe những lời nói miệng, nhà thơ khuyên người yêu hãy “nghe bằng mắt” qua việc đọc những vần thơ chân thật của anh.

Nơi có đôi mắt mơ màng cửa sổ tâm hồn em

Giờ hãy nhìn vào ánh phản chiếu trong mắt nhau

Đôi mắt tôi đã vẽ hình dáng đôi mắt em, và mắt em với tôi

Là những cửa sổ đi vào lồng ngực tôi, nơi xuyên qua mặt trời

Vui lòng ló rạng, để nhìn chằm chằm vào em

Nhưng đôi mắt tôi không có được nghệ thuật

Chúng chỉ vẽ được những gì chúng nhìn thấy, mà không hiểu được những gì trong

trái tim

Sonnet 25

Let those who are in favour with their stars

Of public honour and proud titles boast,

Whilst I, whom fortune of such triumph bars

Unlook'd for joy in that I honour most.

Great princes' favourites their fair leaves spread

But as the marigold at the sun's eye,

And in themselves their pride lies buried,

For at a frown they in their glory die.

The painful warrior famoused for fight,

After a thousand victories once foiled,

Is from the book of honour razed quite,

And all the rest forgot for which he toiled:

Then happy I, that love and am beloved,

Where I may not remove nor be removed.

Hãy để cho người khác, những người hài lòng với danh tiếng của họ

Với địa vị xã hội và niềm kiêu hãnh về danh hiệu quý tộc

Trong khi tôi, người bị cản trở bởi vận may chiến thắng ấy

Không chờ đợi niềm vui mà tôi đáng được nhận

Những ông hoàng vĩ đại thích thú khi vẻ đẹp được ban phát khắp nơi

Song cũng giống như bông cúc vạn thọ dưới ánh mắt của mặt trời

Trong chúng sự kiêu hãnh bị chôn vùi

Vì trước sự khắc nghiệt chúng ở trong danh tiếng chết

Người chiến binh đau khổ từng nổi tiếng vì chiến trận

Sau hàng nghìn chiến thắng, một lần thất bại

Từ địa vị cao quý với niềm tự hào bị san bằng

Và tất cả những gì anh cố gắng đều bị quên lãng

Nên tôi hạnh phúc vì là người yêu và được yêu

Tôi không thay đổi và cũng không thể bị thay đổi

Sonnet 26

Lord of my love, to whom in vassalage

Thy merit hath my duty strongly knit,

To thee I send this written embassage,

To witness duty, not to show my wit:

Duty so great, which wit so poor as mine

May make seem bare, in wanting words to show it,

But that I hope some good conceit of thine

In thy soul's thought, all naked, will bestow it:

Till whatsoever star that guides my moving,

Points on me graciously with fair aspect,

And puts apparel on my tottered loving,

To show me worthy of thy sweet respect:

Then may I dare to boast how I do love thee;

Till then, not show my head where thou mayst prove me.

Chúa tể tình yêu của tôi, người tôi lệ thuộc

Sự xứng đáng của em đã là một ràng buộc chắc chắn cho sự tận tụy của tôi

Tới em, tôi gửi thông điệp này

Để cho thấy lòng thành tâm dâng hiến, không phải để chứng tỏ trí tuệ của tôi

41

Sự tận tụy quá lơn, so với trí tuệ quá nghèo nàn như của tôiP40F

Có vẻ như mọi lời dùng để bày tỏ nó đều trở nên trống rỗng

Nhưng tôi hi vọng rằng, những ý tưởng tôi muốn gửi gắm

Sẽ thấm vào suy nghĩ sâu thẳm tâm hồn em, tất cả không che đậy, em sẽ làm giàu

cho nó

Cho đến khi có một vì sao nào đó chỉ đường cho tôi đi

Bất ngờ cho tôi nguồn cảm hứng

41 Ngòi bút với kĩ thuật và sự khéo léo đến mức nào cũng không thể diễn tả hết lòng thành tâm dâng hiến của tôi dành cho em.

Và mặc y phục cho tình yêu của tôi đang quằn quại

Để cho em thấy tôi xứng đáng với sự quan tâm ngọt ngào của em

Lúc đó tôi mới dám để lộ ra tôi yêu em thế nào

Cho đến lúc đó, tôi không để lộ để em có thể thử thách tôi (hay đặt tình yêu trước sự

thử thách).

Sonnet 27

Weary with toil, I haste me to my bed,

The dear repose for limbs with travel tired;

But then begins a journey in my head

To work my mind, when body's work's expired:

For then my thoughts--from far where I abide--

Intend a zealous pilgrimage to thee,

And keep my drooping eyelids open wide,

Looking on darkness which the blind do see:

Save that my soul's imaginary sight

Presents thy shadow to my sightless view,

Which, like a jewel hung in ghastly night,

Makes black night beauteous, and her old face new.

Lo! thus, by day my limbs, by night my mind,

For thee, and for myself, no quiet find.

Mệt mỏi với công việc cực nhọc, vội vàng tôi lên giường ngủ

(Ngỡ đó là) sự nghỉ ngơi thoải mái sau cuộc hành trình nặng nề

Nhưng khi đó lại bắt đầu cuộc hành trình trong tâm trí

Tinh thần làm việc, khi công việc thể xác kết thúc

Vì khi đó, những suy nghĩ của tôi – xa nơi tôi - tiếp tục

Sắp đặt một chuyến đi hăng hái tới em

Và giữ cho mí mắt tôi đang rũ xuống mở rộng ra

Nhìn vào bóng tối, giống như người mù

Ghi lại những hình ảnh tưởng tượng do mình vẽ ra

Làm hiện hữu bóng em trước tầm nhìn hạn hẹp

Cái mà, giống như vật trang sức quý giá treo trong đêm tối

Làm đêm đen trở nên đẹp đẽ, và gương mặt già nua của mụ bỗng như mới lên

Hãy xem, vì vậy, ban ngày tay chân (thể xác), ban đêm trí óc tôi

vì em, và vì chính tôi, (chúng) không tìm thấy sự yên tĩnh

Sonnet 28

How can I then return in happy plight,

That am debarred the benefit of rest?

When day's oppression is not eas'd by night,

But day by night and night by day oppress'd,

And each, though enemies to either's reign,

Do in consent shake hands to torture me,

The one by toil, the other to complain

How far I toil, still farther off from thee.

I tell the day, to please him thou art bright,

And dost him grace when clouds do blot the heaven:

So flatter I the swart-complexion'd night,

When sparkling stars twire not thou gild'st the even.

But day doth daily draw my sorrows longer,

And night doth nightly make grief's length seem stronger.

Làm sao tôi có thể trở về trong hạnh phúc

Khi tôi bị tước đi quyền được nghỉ ngơi ?

Khi áp lực ban ngày không kết thúc vào ban đêm

Mà ngày lại đêm, đêm lại ngày đè nặng

Và mỗi trong số chúng, dù là kẻ thù của uy quyền lẫn nhau

Đều ưng thuận bắt tay để hành hạ tôi

Một bằng sự cực nhọc, cái khác bằng sự làm phiền

Tôi đã lê bước vất vả biết bao, cho tới ngày xa em

Tôi nói với ngày, để làm vui lòng hắn rằng anh thật chói sáng

Và anh đã ban ân huệ khi mây vấy bẩn bầu trời

Tôi cũng tâng bốc đêm có nước da đen

Rằng khi những ngôi sao lấp lánh không tỏa sáng, người tô điểm cho buổi chiều

Nhưng ngày vẫn ngày ngày khiến nỗi đau khổ của tôi kéo dài

Và đêm gieo bóng tối khiến nỗi đau buồn ngày càng lớn hơn

Sonnet 29

When in disgrace with fortune and men's eyes

I all alone beweep my outcast state,

And trouble deaf heaven with my bootless cries,

And look upon myself, and curse my fate,

Wishing me like to one more rich in hope,

Featured like him, like him with friends possessed,

Desiring this man's art, and that man's scope,

With what I most enjoy contented least;

Yet in these thoughts my self almost despising,

Haply I think on thee, and then my state,

Like to the lark at break of day arising

From sullen earth, sings hymns at heaven's gate;

For thy sweet love remembered such wealth brings

That then I scorn to change my state with kings.

Khi bị thần may mắn ghét bỏ, người đời khinh khi

Tôi một mình cô đơn rơi nước mắt trước tình cảnh bơ vơ của mình

Và làm phiền đôi tai điếc của Thượng đế bằng những tiếng khóc vô ích

Và tự đối diện với mình, và nguyền rủa số phận

Mong ước rằng tôi giống như ai đó, giàu có, nhiều hi vọng

Được đề cao giống ai kia, giống người ấy có thật nhiều bè bạn

Thèm muốn sự khéo léo của người này, cơ hội của người kia

Hay những điều tôi muốn được tận hưởng tối thiểu nhất

Nhưng khi nghĩ đến điều này tôi lại khinh bỉ chính mình

Bỗng nhiên tôi nghĩ đến em, và từ đó hoàn cảnh của tôi

giống như con chim chiền chiện lúc rạng đông thức dậy

từ mặt đất buồn rầu, hát bài thánh ca trước cổng thiên đường

vì tình yêu ngọt ngào của em được nhớ đến đã mang tới cho tôi sự giàu có đến nỗi

tôi không màng đổi vị trí của mình với cả một ông vua

Sonnet 30

When to the sessions of sweet silent thought

I summon up remembrance of things past,

I sigh the lack of many a thing I sought,

And with old woes new wail my dear time's waste:

Then can I drown an eye, unused to flow,

For precious friends hid in death's dateless night,

And weep afresh love's long since cancell'd woe,

And moan the expense of many a vanish'd sight:

Then can I grieve at grievances foregone,

And heavily from woe to woe tell o'er

The sad account of fore-bemoaned moan,

Which I new pay as if not paid before.

But if the while I think on thee, dear friend,

All losses are restor'd and sorrows end.

Vào một lúc trong sự yên tĩnh một mình suy nghĩ

Tôi gợi lại trong trí nhớ về những điều đã qua

Tôi thấy rất nhiều điều mình theo đuổi mà không đạt được

Và thêm vào những bất hạnh cũ tiếng kêu than mới vì thời gian quý giá của tôi bị

lãng phí

Rồi tôi giàn giụa nước mắt, thường không chảy

Vì những người bạn quý chìm vào đêm xa xôi không quay trở lại

Và lại khóc thêm một lần vì nỗi đau của tình yêu đã xa

Và than van vì sự tiêu phí của rất nhiều cảnh tượng đã biến mất

Tôi đã có thể đau buồn vì những nỗi bất bình đã qua

Và nặng nề nói về hết nỗi đau này đến nỗi đau khác

Than van rên rỉ một cách buồn rầu đếm những tiếng than trước đó

Như thể tôi phải chịu đựng chúng lần đầu tiên, như thể chưa từng phải chịu trước đó

Nhưng khi tôi nghĩ tới anh, người bạn yêu quý

Tất cả mất mát được phục hồi và những nỗi đau buồn chấm dứt

Sonnet 31

Thy bosom is endeared with all hearts,

Which I by lacking have supposed dead;

And there reigns Love, and all Love's loving parts,

And all those friends which I thought buried.

How many a holy and obsequious tear

Hath dear religious love stol'n from mine eye,

As interest of the dead, which now appear

But things remov'd that hidden in thee lie!

Thou art the grave where buried love doth live,

Hung with the trophies of my lovers gone,

Who all their parts of me to thee did give,

That due of many now is thine alone:

Their images I lov'd, I view in thee,

And thou (all they) hast all the all of me.

Bộ ngực quý giá bởi nó chứa tất cả những trái tim

Mà tôi cho rằng đã chết

Và nơi đây ngự trị tình yêu cùng tất cả những gì thuộc về tình yêu

Và tất cả (tình cảm của) những người bạn mà tôi nghĩ đã bị chôn vùi

Biết bao nhiêu giọt nước mắt thành tâm và thương tiếc

Từ đôi mắt tôi đã nhỏ

Ngỡ đã thuộc về cái chết, giờ xuất hiện

(Thì ra) mọi thứ đã ra đi được che giấu trong nơi ẩn là em

Em là nấm mồ nơi chôn giấu tình yêu tôi vẫn sống

Treo những kỉ vật của những người tôi yêu đã ra đi

Những người mà tất cả những gì của họ trong tôi (tình cảm của tôi đối với họ) đã

được trao cho em

Tất cả tình cảm tôi dành cho họ giờ thuộc về một mình em

Tất cả hình ảnh những người tôi yêu, giờ tôi nhìn thấy trong em

Và em, bao gồm tất cả họ, có tất cả (tình cảm) của tôi

Sonnet 32

If thou survive my well-contented day,

When that churl Death my bones with dust shall cover

And shalt by fortune once more re-survey

These poor rude lines of thy deceased lover,

Compare them with the bett'ring of the time,

And though they be outstripped by every pen,

Reserve them for my love, not for their rhyme,

Exceeded by the height of happier men.

O! then vouchsafe me but this loving thought:

'Had my friend's Muse grown with this growing age,

A dearer birth than this his love had brought,

To march in ranks of better equipage:

But since he died and poets better prove,

Theirs for their style I'll read, his for his love'.

Nếu anh vẫn sống khi những ngày hạnh phúc của tôi qua đi

Khi thần chết thô bạo hòa lẫn xương tôi cùng cát bụi

Và tình cờ một lần đọc lại

Những dòng chữ nghèo nàn thô vụng của người yêu đã chết

So sánh chúng với những bài thơ hay hơn hiện thời

Và mặc dù chúng bị bỏ xa bởi mọi nhà thơ mới

Hãy lưu giữ chúng vì tình yêu với tôi không phải vì vần điệu (cái hay của chúng)

(cái mà) bị vượt qua bởi tầm cao của những nhà thơ giỏi hơn

Ồ, chiếu cố đến tôi bởi ý nghĩ đáng yêu này:

Nếu như nàng thơ của những người bạn tôi được nuôi dưỡng trong thời gian này

Tình yêu của anh ấy sẽ mang đến những bài thơ tốt hơn

Được đặt vào vị trí những bài thơ có kĩ thuật hơn

Nhưng khi anh chết và các nhà thơ mới hơn chứng tỏ được mình

Tôi sẽ đọc chúng (những bài thơ) vì phong cách của chúng và vì tình cảm của anh

Sonnet 33

Full many a glorious morning have I seen

Flatter the mountain tops with sovereign eye,

Kissing with golden face the meadows green,

Gilding pale streams with heavenly alchemy;

Anon permit the basest clouds to ride

With ugly rack on his celestial face,

And from the forlorn world his visage hide,

Stealing unseen to west with this disgrace:

Even so my sun one early morn did shine,

With all triumphant splendour on my brow;

But out, alack, he was but one hour mine,

The region cloud hath mask'd him from me now.

Yet him for this my love no whit disdaineth;

Suns of the world may stain when heaven's sun staineth.

Tôi đã nhìn thấy rất nhiều buổi bình minh rực rỡ

Làm đẹp thêm đỉnh núi bằng đôi mắt mênh mông

Hôn (bằng gương mặt vàng) lên những đồng cỏ xanh

Mạ vàng ánh sáng yếu ớt một cách tài tình bằng ma thuật thiên đường

(Nhưng) chẳng bao lâu nữa nó sẽ để cho những đám mây cưỡi

với sự xấu xí tra tấn gương mặt thiên thần

và nét mặt giấu kín thế giới cô độc của anh ta

Bị lấy cắp về phương tây trong tình trạng bị ghét bỏ

Giống như vậy mặt trời một bình minh chiếu sáng

Với tất cả sự hoan hỉ, tráng lệ trên vầng trán tôi

Nhưng chao ôi, anh ấy (mặt trời) chỉ là của tôi một giờ

Đám mây đã ngăn cách anh ấy với tôi bằng một lớp mặt nạ

Nhưng tình yêu của tôi không mảy may kết tội anh

Mặt trời của thế giới (anh) có thể biến màu

Khi mặt trời của thiên đường (cũng như vậy) biến màu

Sonnet 34

Why didst thou promise such a beauteous day,

And make me travel forth without my cloak,

To let base clouds o'ertake me in my way,

Hiding thy bravery in their rotten smoke?

'Tis not enough that through the cloud thou break,

To dry the rain on my storm-beaten face,

For no man well of such a salve can speak,

That heals the wound, and cures not the disgrace:

Nor can thy shame give physic to my grief;

Though thou repent, yet I have still the loss:

The offender's sorrow lends but weak relief

To him that bears the strong offence's cross.

Ah! but those tears are pearl which thy love sheds,

And they are rich and ransom all ill deeds.

Vì sao em lại hứa một ngày đẹp đẽ như vậy

Và khiến tôi phiêu lưu về phía trước không chút đề phòng

Khiến đám mây bất ngờ ập đến trên con đường tôi đi

Che mất sự lộng lẫy của em trong làn khói xấu xa

Vẫn là không đủ khi qua đám mây em thoát ra

Lau khô giọt mưa trên gương mặt bị bão đánh của tôi

Vì không một người nào thoải mái với cách chữa trị

Làm lành được vết thương thịt da, nhưng không được cứu thoát ra khỏi tình trạng bị

ruồng bỏ

Nỗi xấu hổ của em cũng không thể đưa ra liều thuốc cho nỗi đau khổ của tôi

Dù em có hối tiếc, nhưng tôi vẫn mất mát

Nỗi đau buồn của người xúc phạm làm tăng thêm chứ không giảm đi

đối với người phải chịu đựng vết thương lớn như vậy

Ôi chao, những giọt nước mắt là ngọc của tình yêu em tuôn ra

Chúng thật quý giá và có thể chuộc lại mọi hành động độc ác

Sonnet 36

Let me confess that we two must be twain,

Although our undivided loves are one:

So shall those blots that do with me remain,

Without thy help, by me be borne alone.

In our two loves there is but one respect,

Though in our lives a separable spite,

Which though it alter not love's sole effect,

Yet doth it steal sweet hours from love's delight.

I may not evermore acknowledge thee,

Lest my bewailed guilt should do thee shame,

Nor thou with public kindness honour me,

Unless thou take that honour from thy name:

But do not so, I love thee in such sort,

As thou being mine, mine is thy good report.

Tôi thừa nhận rằng chúng ta là hai

mặc dù tình yêu không phân biệt của chúng ta là một (chúng ta hòa hợp, là một, hợp

nhất trong tình yêu)

cho nên những điều không tốt tôi giữ (trong lòng)

Không phải do em, chỉ do một mình tôi

Trong tình cảm của chúng ta chỉ có một điều đáng lưu tâm

Dù trong cuộc sống chúng ta có thể bị chia cắt

Dù nó không thay đổi được tính duy nhất của tình yêu

Nhưng nó lấy đi những giờ phút ngọt ngào đáng quý

Có thể tôi không bao giờ đền đáp tình cảm của em

Để không cho sự than phiền về những điểm xấu của tôi có thể làm em xấu hổ

Cũng không để điểm tốt của em trước cộng đồng làm vinh dự cho tôi

Trừ phi em có được điều đó từ chính tên tuổi mình

Nhưng đừng như vậy, tôi yêu em như thế

Tôi quý trọng tiếng tăm em như thể của chính mình

Sonnet 37

As a decrepit father takes delight

To see his active child do deeds of youth,

So I, made lame by Fortune's dearest spite,

Take all my comfort of thy worth and truth;

For whether beauty, birth, or wealth, or wit,

Or any of these all, or all, or more,

Entitled in thy parts, do crowned sit,

I make my love engrafted to this store:

So then I am not lame, poor, nor despis'd,

Whilst that this shadow doth such substance give

That I in thy abundance am suffic'd,

And by a part of all thy glory live.

Look what is best, that best I wish in thee:

This wish I have; then ten times happy me!

Như một người cha già yếu lụ khụ vui mừng

Nhìn đứa con năng động trẻ trung

Tôi, người bị sự thù oán của thần may mắn làm kiệt quệ

Vui sướng trước giá trị và sự thành thật của anh

Vì bất kể vẻ đẹp, dòng dõi, hay sự giàu có, hay thông minh

Hoặc bất kì cái nào trong đó, hoặc tất cả số đó, hay hơn nữa

Đều góp phần làm sáng chói cho vị trí của anh

Tôi gắn tình yêu của mình vào chúng

Nên tôi không còn nghèo khổ, què quặt và cũng không bị xem thường

Trong khi ảo ảnh này cho tôi một tài sản lớn đến nỗi sự giàu có của anh đủ thỏa mãn

tôi

Bằng một phần của tất cả danh tiếng của anh tồn tại

Anh cho rằng điều gì tốt nhất, điều ấy tôi mong ước ở anh

Mong ước này khiến tôi hạnh phúc hơn gấp 10 lần

Sonnet 38

How can my muse want subject to invent,

While thou dost breathe, that pour'st into my verse

Thine own sweet argument, too excellent

For every vulgar paper to rehearse?

O! give thy self the thanks, if aught in me

Worthy perusal stand against thy sight;

For who's so dumb that cannot write to thee,

When thou thy self dost give invention light?

Be thou the tenth Muse, ten times more in worth

Than those old nine which rhymers invocate;

And he that calls on thee, let him bring forth

Eternal numbers to outlive long date.

If my slight muse do please these curious days,

The pain be mine, but thine shall be the praise.

Làm sao nàng thơ của tôi còn cần chủ đề sáng tạo nào

Khi anh sống và tràn vào những vần thơ của tôi

Chẳng phải chủ đề hấp dẫn là chính anh, quá xuất sắc

Cho những trang giấy thô vụng ghi lại hay sao?

Ồ, hãy cảm ơn mình, nếu có chút nào cảm động (vì những vần thơ của tôi)

Sự suy nghĩ chính xác về cái nhìn của anh

Vì ai mà có thể quá câm lặng đến nỗi không thể viết về anh

Khi chính anh đã cho ra sự phát minh về ánh sáng?

Anh là nữ thần thơ thứ 10, đáng giá hơn gấp 10 lần

Hơn 9 nàng thơ xưa mà thi nhân hay cầu khẩn

Bất cứ ai cầu khẩn anh, hãy để anh ta viết ra

những bài thơ vĩnh cửu sống lâu dài

nếu nàng thơ mỏng manh của tôi vui sướng trong những ngày kì lạ này

Đó là nỗi đau của tôi, nhưng dành cho anh là sự ca tụng

Sonnet 49

Against that time, if ever that time come,

When I shall see thee frown on my defects,

When as thy love hath cast his utmost sum,

Called to that audit by advis'd respects;

Against that time when thou shalt strangely pass,

And scarcely greet me with that sun, thine eye,

When love, converted from the thing it was,

Shall reasons find of settled gravity;

Against that time do I ensconce me here,

Within the knowledge of mine own desert,

And this my hand, against my self uprear,

To guard the lawful reasons on thy part:

To leave poor me thou hast the strength of laws,

Since why to love I can allege no cause.

Đoán trước thời gian ấy, khi nào nó đến

Khi tôi thấy em khó chịu vì những khuyết điểm của tôi

Khi sự suy ngẫm chín chắn

Nói với em rằng tình yêu với tôi đã đến hồi kết thúc

Đoán trước thời gian khi em đi qua tôi giống như người xa lạ,

Và chắc chắn không chào đón tôi bằng mặt trời ấy, đôi mắt em

Khi tình yêu, thay đổi, không còn như nó đã từng

Những điều tạo nên sự hấp dẫn đã hết

Đoán trước thời gian ấy, tôi ngồi thu lu nơi đây

Trong ý thức về sa mạc lòng mình

Và đôi tay này, giơ lên chống lại chính tôi

Để bảo vệ quyền lợi chính đáng nơi em

Để rời khỏi người khốn khổ là tôi, em có lí lẽ rất đanh thép

Vì tôi có thể tuyên bố không có lí do gì khiến em yêu tôi

Sonnet 50

How heavy do I journey on the way,

When what I seek, my weary travel's end,

Doth teach that ease and that repose to say,

'Thus far the miles are measured from thy friend!'

The beast that bears me, tired with my woe,

Plods dully on, to bear that weight in me,

As if by some instinct the wretch did know

His rider lov'd not speed being made from thee.

The bloody spur cannot provoke him on,

That sometimes anger thrusts into his hide,

Which heavily he answers with a groan,

More sharp to me than spurring to his side;

For that same groan doth put this in my mind,

My grief lies onward, and my joy behind.

Thật nặng nề làm sao trên đường tôi bước

Khi những gì tôi tìm kiếm, kết thúc cuộc hành trình mệt mỏi

Trong sự thanh thản và nghỉ ngơi mang thông điệ :

Còn quá nhiều dặm đường xa cách bạn của ngươi

Con ngựa chở tôi, mệt mỏi vì nỗi thống khổ của tôi

Lê bước nặng nề buồn tẻ, để mang gánh nặng trong tôi

Như thể bằng bản năng con vật khốn khổ có thể hiểu được

Rằng người cưỡi nó không sung sướng tăng tốc để xa em

Chiếc đinh thúc ngựa đẫm máu không thể khích lệ được nó

Mà đôi khi sự tức giận bị thúc đẩy bởi những điều thầm kín

Một cách nặng nề nó trả lời bằng tiếng rên rỉ

Còn sắc nhọn (đau đớn) hơn việc thúc đinh vào hông nó

Vì nó giống như tiếng rên rỉ trong đầu tôi

(nhắc nhở rằng) nỗi đau của tôi ở phía trước, còn niềm vui đã rớt lại phía sau

Sonnet 54

O! how much more doth beauty beauteous seem

By that sweet ornament which truth doth give.

The rose looks fair, but fairer we it deem

For that sweet odour, which doth in it live.

The canker blooms have full as deep a dye

As the perfumed tincture of the roses,

Hang on such thorns, and play as wantonly

When summer's breath their masked buds discloses:

But, for their virtue only is their show,

They live unwoo'd, and unrespected fade;

Die to themselves. Sweet roses do not so;

Of their sweet deaths are sweetest odours made:

And so of you, beauteous and lovely youth,

When that shall vade, my verse distills your truth.

Ôi, một vật đẹp đẽ sẽ đẹp hơn thế nào

Nếu được thêm vào bởi mộ đồ trang sức đẹp đẽ

Hoa hồng nhìn thật đẹp, nhưng chúng còn đẹp hơn ta tưởng

Bởi hương thơm thanh khiết bên trong chúng

Hoa tầm xuân cũng có đầy đủ cả màu sắc thắm tươi

Cũng như hương thơm thoang thoảng của hoa hồng

Treo trên những bụi gai, và xum xuê vươn ra (hấp dẫn)

Khi hơi thở của mùa hè mở những nụ còn phong nhụy

Nhưng vì sự trong trắng của chúng chỉ chúng thấy được

Chúng không sống trong rừng và bị tàn héo không mong đợi

Chết trong cô đơn. Hoa hồng không như vậy

Xác chúng được làm thành nước hoa

Và anh cũng như vậy, vẻ đẹp và sự đáng yêu tuổi trẻ

Khi anh chết đi, những bài thơ của tôi sẽ chưng cất vẻ đẹp đích thực của anh

Sonnet 55

Not marble, nor the gilded monuments

Of princes, shall outlive this powerful rhyme;

But you shall shine more bright in these contents

Than unswept stone, besmear'd with sluttish time.

When wasteful war shall statues overturn,

And broils root out the work of masonry,

Nor Mars his sword, nor war's quick fire shall burn

The living record of your memory.

'Gainst death, and all oblivious enmity

Shall you pace forth; your praise shall still find room

Even in the eyes of all posterity

That wear this world out to the ending doom.

So, till the judgment that yourself arise,

You live in this, and dwell in lovers' eyes.

Không phải đá cẩm thạch, cũng không phải những nấm mộ mạ vàng

của những ông hoàng sẽ tồn tại trong những vần thơ đầy sức mạnh này

Mà chính anh sẽ tỏa sáng rực rỡ hơn trong những trang giấy

Hơn là viên đá không được quét bụi (bị phủ lên lớp bụi thời gian)

Khi những cuộc chiến tranh lãng phí có thể lật đổ những pho tượng

và đốt cháy tận rễ công trình của người thợ nề

Không phải gươm của thần chiến tranh, cũng không phải ngọn lửa của nó đốt cháy

được

Bản ghi chép sống động về anh

Chống lại cái chết, và sự thản nhiên trước sự thù địch

Anh vẫn sẽ tiếp tục sống

Thậm chí trong mắt tất cả hậu thế

Sống lâu trên thế giới này cho đến ngày tận thế

Vì vậy, cho đến ngày phán quyết, khi anh sống lại

Anh sống trong những bài thơ này, và sống trong đôi mắt người yêu thơ (người đọc

những bài thơ ấy)

Sonnet 56

Sweet love, renew thy force; be it not said

Thy edge should blunter be than appetite,

Which but to-day by feeding is allay'd,

To-morrow sharpened in his former might:

So, love, be thou, although to-day thou fill

Thy hungry eyes, even till they wink with fulness,

To-morrow see again, and do not kill

The spirit of love, with a perpetual dulness.

Let this sad interim like the ocean be

Which parts the shore, where two contracted new

Come daily to the banks, that when they see

Return of love, more blest may be the view;

As call it winter, which being full of care,

Makes summer's welcome, thrice more wished, more rare.

Này người yêu, làm mới sức mạnh của em, chớ để người ta nói rằng

Tình yêu của em nhỏ hơn dục vọng

Chỉ có thể dịu đo hôm nay

Nhưng rồi sẽ bùng lên như cũ vào ngày mai

Cho nên, người yêu, là em, dù hôm nay no đủ

Đôi mắt háu đói của em thậm chí thỏa mãn

Ngày mai nhìn lại, và đừng giết đi

Tinh thần của tình yêu bằng sự ngu muội không thay đổi

Hãy để nỗi buồn tạm thời giống như đại dương

chia thành các cửa biển, nơi hai bộ phận nhỏ mới

Ngày ngày tới bờ, nơi chúng thấy (nhau)

tình yêu quay lại, hạnh phúc hơn

Hay xem nó như mùa đông, đầy gian khổ

bắt đầu một mùa hè, đáng mơ ước hơn, hiếm có hơn gấp 3 lần)

Sonnet 60

Like as the waves make towards the pebbled shore,

So do our minutes hasten to their end;

Each changing place with that which goes before,

In sequent toil all forwards do contend.

Nativity, once in the main of light,

Crawls to maturity, wherewith being crowned,

Crooked eclipses 'gainst his glory fight,

And Time that gave doth now his gift confound.

Time doth transfix the flourish set on youth

And delves the parallels in beauty's brow,

Feeds on the rarities of nature's truth,

And nothing stands but for his scythe to mow:

And yet to times in hope, my verse shall stand

Praising thy worth, despite his cruel hand.

Giống như những con sóng vỗ về phía bờ cát

Thời gian của chúng ta gấp gáp đi đến kết thúc

Mỗi giờ phút đều làm thay đổi những thứ đã tồn tại trước đó

Đấu tranh để dịch chuyển, đưa tất cả đến tương lai

Những thứ được sinh ra, dù đã từng trôi trong dòng ánh sáng

Rồi cũng đến lúc trưởng thành

(Chúng) phải đối mặt với đám mây hiểm ác che mờ phút huy hoàng

Và thời gian, đã từng ban tặng, sẽ hủy diệt chính món quà hắn cho đi

Thời gian cởi bỏ lớp phấn son tuổi trẻ

Và đào bới những đường song song trên vầng trán đẹp

Ngấu nghiến thứ từng là vật quý của tự nhiên

Và không gì đứng vững được (tồn tại) trước lưỡi hái thời gian

Cho đến ngày tận thế, thơ tôi vẫn tồn tại

Ca ngợi giá trị anh, bất kể bàn tay tàn bạo thời gian

Sonnet 63

Against my love shall be as I am now,

With Time's injurious hand crush'd and o'erworn;

When hours have drain'd his blood and fill'd his brow

With lines and wrinkles; when his youthful morn

Hath travell'd on to age's steepy night;

And all those beauties whereof now he's king

Are vanishing, or vanished out of sight,

Stealing away the treasure of his spring;

For such a time do I now fortify

Against confounding age's cruel knife,

That he shall never cut from memory

My sweet love's beauty, though my lover's life:

His beauty shall in these black lines be seen,

And they shall live, and he in them still green.

Đề phòng lúc người tôi yêu sẽ giống tôi bây giờ

Bị bàn tay tàn bạo của thời gian nghiền nát làm cho mòn mỏi

Khi thời gian rút hết máu và phủ đầy vầng trán

Bởi những đường rãnh và nếp nhăn, khi buổi sáng tươi trẻ

hành trình đi đến dốc đêm tuổi tác

Và tất cả vẻ đẹp nơi anh tương ứng với một vị vua

Sẽ biến mất, hay ra khỏi tầm nhìn

Bị đánh cắp khỏi kho báu mùa xuân

Vì thời khắc ấy, giờ tôi chuẩn bị

Chống lại con dao tàn bạo của tuổi tác

Để hắn không bao giờ có thể lấy đi khỏi kí ức

Vẻ đẹp người tôi yêu, dù cuộc sống của anh chấm dứt

Vẻ đẹp ấy sẽ vẫn hiện diện trong những dòng chữ này

Chúng sẽ tồn tại, và trong chúng anh sẽ trẻ mãi

Sonnet 64

When I have seen by Time's fell hand defac'd

The rich proud cost of outworn buried age;

When sometime lofty towers I see down-raz'd,

And brass eternal slave to mortal rage;

When I have seen the hungry ocean gain

Advantage on the kingdom of the shore,

And the firm soil win of the watery main,

Increasing store with loss, and loss with store;

When I have seen such interchange of state,

Or state itself confounded to decay;

Ruin hath taught me thus to ruminate

That Time will come and take my love away.

This thought is as a death which cannot choose

But weep to have that which it fears to lose.

Tôi đã có khi thấy (những sự vật) bị bàn tay của thời gian tàn phá

Những công trình giá trị đồ sộ, đáng tự hào bị hao mòn, bị tuổi tác chôn vùi

Những tòa tháp cao ngất tôi nhìn thấy bị phá trụi

Và ngôi mộ của những người khốn khổ vĩnh viễn (bị phá hủy) bởi cơn giận chết

người

Khi tôi nhìn thấy đại dương háu đói giành được lợi thế hơn vương quốc của bờ biển

Và vùng đất bền vững chiến thắng biển cả mênh mông

Đất tăng lên bằng sự mất đi (của biển) và biển (rộng hơn) bằng sự mất đi của bờ

Khi tôi thấy sự thay thế lẫn nhau của tự nhiên

Hay tự nhiên tự nó phá hủy đến suy tàn

Sự thương tổn khiến tôi suy nghĩ về điều này

Rằng thời gian sẽ đến mang tình yêu của tôi đi

Ý nghĩ này giống như cái chết không thể có lựa chọn nào khác

Ngoài việc khóc vì mình có một cái gì đó nhưng rất sợ bị mất đi

Sonnet 65

Since brass, nor stone, nor earth, nor boundless sea,

But sad mortality o'ersways their power,

How with this rage shall beauty hold a plea,

Whose action is no stronger than a flower?

O! how shall summer's honey breath hold out,

Against the wrackful siege of battering days,

When rocks impregnable are not so stout,

Nor gates of steel so strong but Time decays?

O fearful meditation! where, alack,

Shall Time's best jewel from Time's chest lie hid?

Or what strong hand can hold his swift foot back?

Or who his spoil of beauty can forbid?

O! none, unless this miracle have might,

That in black ink my love may still shine bright.

Vì không phải vàng bạc, không phải đá quý, cũng không phải mặt đất, đại dương bao

la càng không

Mà chính là cái chết buồn thảm thống trị sức mạnh của chúng

(Thì) làm sao với sự cuồng bạo này cái đẹp giữ được lời cầu xin

(Trong khi) nội lực của nó không mạnh hơn một bông hoa?

Ôi, làm thế nào hơi thở ngọt ngào của mùa hè giữ được

Chống được sự bao vây khủng khiếp của thời gian

Khi những khối đá vững chắc không đủ kiên cường

Cả những cánh cổng thép cũng không mạnh bằng sự phá hủy của thời gian?

Ôi, suy nghĩ thật đáng sợ, ở nơi mà than ôi,

Đồ trang sức đẹp nhất của thời gian được cất giấu trong bộ ngực của nó.

Hay liệu bàn tay mạnh mẽ nào có thể giữ bước chân nhanh chóng của thời gian

Hoặc ai mà có thể ngăn cấm được sự phá hủy của nó với cái đẹp

42

Ồ, không ai, trừ phi phép màu xảy ra

P tình yêu của tôi vẫn tỏa sáng

Đó là trong mực đenP41F

Sonnet 66

Tired with all these, for restful death I cry,

As to behold desert a beggar born,

And needy nothing trimm'd in jollity,

And purest faith unhappily forsworn,

And gilded honour shamefully misplac'd,

And maiden virtue rudely strumpeted,

And right perfection wrongfully disgrac'd,

And strength by limping sway disabled

And art made tongue-tied by authority,

And folly, doctor-like, controlling skill,

42 Black ink ở đây được hiểu là những trang thơ (cách nói hoán dụ).

And simple truth miscall'd simplicity,

And captive good attending captain ill:

Tir'd with all these, from these would I be gone,

Save that, to die, I leave my love alone.

Mệt mỏi với tất cả những điều này, vì cái chết nhẹ nhàng tôi khóc

Khi trông thấy những người xứng đáng hưởng hạnh phúc sinh ra trong cảnh nghèo

hèn

Và những người (lẽ ra) nghèo túng được tô điểm bằng những bộ quần áo đẹp

Và niềm tin trong trẻo bị phản bội đầy bất hạnh

Và danh dự được mạ vàng (được đặt) không đúng chỗ một cách đáng xấu hổ

Và những cô gái trong trắng đức hạnh trở thành gái điếm thô lỗ

Và những điều đúng đắn hoàn hảo bị ruồng bỏ một cách sai trái

Và nghệ thuật bị làm cho câm nín bởi nhà cầm quyền

Và sự điên rồ, giả dối điều khiển tri thức

Và những sự thật đơn giản bị gọi nhầm tên một cách cũng rất đơn giản

Mệt mỏi với tất cả những điều này, tôi muốn được ra đi

để chết, nhưng lại sợ bỏ rơi người yêu của mình trong nỗi cô đơn

Sonnet 67

Ah! wherefore with infection should he live,

And with his presence grace impiety,

That sin by him advantage should achieve,

And lace itself with his society?

Why should false painting imitate his cheek,

And steal dead seeming of his living hue?

Why should poor beauty indirectly seek

Roses of shadow, since his rose is true?

Why should he live, now Nature bankrupt is,

Beggar'd of blood to blush through lively veins?

For she hath no exchequer now but his,

And proud of many, lives upon his gains.

O! him she stores, to show what wealth she had

In days long since, before these last so bad.

Chao ôi, vì sao anh bị bao vây bởi sự mua chuộc

Làm vinh dự cho những kẻ xấu xa bằng sự có mặt của

Để họ có thể lợi dụng anh

Thông qua sự giao thiệp với anh

Vì sao những thợ vẽ tồi phải bắt chước má anh

Và ăn trộm cái vô hồn từ màu sắc sống động ở anh?

Vì sao phải gián tiếp đi tìm cái đẹp nghèo nàn

Bóng của hoa hồng, khi hoa hồng trong anh là thực?

Vì sao anh nên sống, giờ tự nhiên là người thiếu nợ

Ăn mày dòng giống, đỏ mặt trước dáng điệu sống động

Vì nay tự nhiên không có tài sản nào ngoài anh

Vì bà ta không có ngân khố quốc gia nào ngoài anh

Và tự hào vì rất nhiều điều, sống dựa vào những gì anh có được

Ồ, tự nhiên cất giữ anh, để cho thấy sự giàu có của bà ấy

Sonnet 71

No longer mourn for me when I am dead

Than you shall hear the surly sullen bell

Give warning to the world that I am fled

From this vile world with vilest worms to dwell:

Nay, if you read this line, remember not

The hand that writ it, for I love you so,

That I in your sweet thoughts would be forgot,

If thinking on me then should make you woe.

O! if, I say, you look upon this verse,

When I perhaps compounded am with clay,

Do not so much as my poor name rehearse;

But let your love even with my life decay;

Lest the wise world should look into your moan,

And mock you with me after I am gone.

Khi tôi chết sẽ chẳng có ai than khóc tôi

Sau khi anh nghe thấy tiếng chuông ảm đạm cáu kỉnh

báo hiệu với thế gian là tôi đang rời bỏ

cuộc sống cực kì ghê tởm này để đến sống với những con giun ghê tởm nhất

Không những thế, nếu anh đọc những dòng này, đừng nhớ

Đến bàn tay đã viết nó, vì tôi quá yêu quý anh

Đến mức tôi trong ý nghĩ dễ chịu muốn bị quên lãng

Nếu như nhớ đến tôi có thể khiến anh đau buồn

Ồ, nếu như, tôi nhấn mạnh, anh nhìn vào vần thơ này,

Khi có lẽ tôi đã trộn lẫn vào đất

Anh không nhắc đến tên tuổi tầm thường của tôi

Nhưng hãy để tình yêu của anh thậm chí hủy diệt cuộc sống của tôi

Vì sợ rằng thế giới khôn ngoan nhìn vào tiếng than van rền rĩ của anh

Và chế nhạo anh vì tôi sau khi tôi ra đi

Sonnet 72

O! lest the world should task you to recite

What merit lived in me, that you should love

After my death,--dear love, forget me quite,

For you in me can nothing worthy prove.

Unless you would devise some virtuous lie,

To do more for me than mine own desert,

And hang more praise upon deceased I

Than niggard truth would willingly impart:

O! lest your true love may seem false in this

That you for love speak well of me untrue,

My name be buried where my body is,

And live no more to shame nor me nor you.

For I am shamed by that which I bring forth,

And so should you, to love things nothing worth.

Ôi, vì sợ thế giới có thể nghi ngờ khi em kể lại

Sự xuất sắc của tôi đã khiến em yêu

sau khi tôi chết – này người yêu dấu, quên tôi đi thật nhẹ nhàng

Vì em không thể chứng minh được điều giá trị trong tôi

Trừ phi em tạo ra những lời nói dối )

Để nâng tôi lên hơn mức bản thân tôi xứng đáng

Và đưa ra nhiều lời ca ngợi về tôi – người đã chết

Hơn người bần tiện thực sự có thể vui lòng nói ra

Ôi, vì sợ rằng tình yêu của em có thể thành sai trái theo cách đó

Cách mà em vì tình yêu đã nói không đúng về tôi

Tên tôi bị chôn vùi cùng với thể xác

Và không thể sống lâu hơn sự xấu hổ cho em cũng như cho tôi

Bởi tôi xấu hổ vì điều tôi tạo ra

Cho nên em cũng hãy như vậy, với điều vô giá trị ấy của tình yêu

Sonnet 73

That time of year thou mayst in me behold

When yellow leaves, or none, or few, do hang

Upon those boughs which shake against the cold,

Bare ruined choirs, where late the sweet birds sang.

In me thou see'st the twilight of such day

As after sunset fadeth in the west;

Which by and by black night doth take away,

Death's second self, that seals up all in rest.

In me thou see'st the glowing of such fire,

That on the ashes of his youth doth lie,

As the death-bed, whereon it must expire,

Consum'd with that which it was nourish'd by.

This thou perceiv'st, which makes thy love more strong,

To love that well, which thou must leave ere long.

Em có thể thấy thời gian đó của năm trong tôi

Khi những chiếc lá vàng, hoặc không, vài chiếc, lủng lẳng

trên cành cây, run lên trước cái lạnh

sự trống rỗng làm tổn thương giàn hợp xướng, nơi những chú chim non hót muộn

Trong tôi em có thể thấy lúc chạng vạng như vậy của ngày

Sau khi mặt trời lặn, mờ dần về phía tây,

Tương lai là đêm đen, tượng trưng cho

gương mặt thứ hai của tử thần, đóng kín tất cả trong sự nghỉ ngơi

Trong tôi em có thể thấy ngọn lửa rực rỡ đến vậy

từ trong đám tro tàn nơi tuổi thanh xuân

giống như chiếc giường người chết – mà ở đó kết thúc

bị phá hủy giống như từng được nuôi dưỡng

Những điều người thấy này, điều sẽ khiến tình yêu của anh mạnh hơn

để yêu nhiều hơn, tình cảm mà chẳng bao lâu anh sẽ mất

Sonnet 74

But be contented when that fell arrest

Without all bail shall carry me away,

My life hath in this line some interest,

Which for memorial still with thee shall stay.

When thou reviewest this, thou dost review

The very part was consecrate to thee:

The earth can have but earth, which is his due;

My spirit is thine, the better part of me:

So then thou hast but lost the dregs of life,

The prey of worms, my body being dead;

The coward conquest of a wretch's knife,

Too base of thee to be remembered.

The worth of that is that which it contains,

And that is this, and this with thee remains.

Hãy bằng lòng khi kẻ thù đáng sợ

Mang tôi đi đến nơi không còn chỗ dựa

Cuộc sống của tôi vẫn tiếp tục trong phạm vi những dòng chữ này

(những dòng chữ) sống cùng bạn như một kỉ niệm

Khi bạn đọc lại nó, bạn sẽ nhớ lại

Rất nhiều phần trong tôi đã hiến dâng cho bạn

Thế giới chỉ có thể là thế giới trong tôi, như tôi cảm nhận nó

Thế giới tinh thần của tôi thuộc về bạn, phần tốt hơn trong tôi

Có nghĩa là khi có nó, bạn chỉ mất đi phần bỏ đi trong cuộc sống của tôi

Đó là phần sẽ trở thành nạn nhân của loài giun – thân thể tôi ruỗng nát

Phần nhát gan bị khuất phục bởi lưỡi dao độc ác

Quá tầm thường đối với bạn để được nhớ đến

Giá trị của nó chính là phần được giữ lại

Và đó chính là những vần thơ này, chúng cùng bạn tồn tại

Sonnet 75

So are you to my thoughts as food to life,

Or as sweet-season'd showers are to the ground;

And for the peace of you I hold such strife

As 'twixt a miser and his wealth is found.

Now proud as an enjoyer, and anon

Doubting the filching age will steal his treasure;

Now counting best to be with you alone,

Then better'd that the world may see my pleasure:

Sometime all full with feasting on your sight,

And by and by clean starved for a look;

Possessing or pursuing no delight

Save what is had, or must from you be took.

Thus do I pine and surfeit day by day,

Or gluttoning on all, or all away.

Bạn với suy nghĩ của tôi cũng giống như thức ăn với cuộc sống

Hay như mùa xuân với trái đất

Và vì sự bình yên của bạn, tôi gánh lấy xung đột

Giống như người keo kiệt giữa sự giàu có của mình

Giờ tự hào như một người khoái trá, và chẳng bao lâu nữa

Nghi ngờ tuổi tác sẽ ăn trộm kho báu của anh ta

Giờ tính toán cách tốt nhất để một mình chiếm hữu bạn

Và cách tốt hơn là thế giới có thể thấy được sự vui thích của tôi

Có khi tất cả đầy như một bữa tiệc trước cái nhìn của chúng ta

Nhưng rồi sau đó lại hoàn toàn khổ sở vì thèm khát, kiếm tìm

Sở hữu hay theo đuổi không bao giờ bằng lòng

Bảo vệ những gì mình có, hay bị lấy đi

Vì vậy tôi vừa khao khát vừa thừa mứa

Hoặc tham lam nhồi nhét tất cả, hoặc tất cả đều ra đi

Sonnet 76

Why is my verse so barren of new pride,

So far from variation or quick change?

Why with the time do I not glance aside

To new-found methods, and to compounds strange?

Why write I still all one, ever the same,

And keep invention in a noted weed,

That every word doth almost tell my name,

Showing their birth, and where they did proceed?

O! know sweet love I always write of you,

And you and love are still my argument;

So all my best is dressing old words new,

Spending again what is already spent:

For as the sun is daily new and old,

So is my love still telling what is told.

Vì sao những bài thơ của tôi cằn cỗi, (thiếu) những hình ảnh mới

Quá xa sự phong phú hay linh hoạt

Vì sao với thời gian tôi không thể lướt qua một bên

Để tìm những phương pháp mới, những điều mới lạ?

Vì sao tôi vẫn chỉ viết về một điều, đã từng xuất hiện tương tự

Và giữ ý tưởng sáng tạo trong một vỏ bọc ai cũng biết?

Để tất cả mỗi từ hầu như gọi ra tên tôi

Cho thấy nơi chúng sinh ra, và chúng sẽ diễn biến như thế nào

Ồ, em biết đấy, người yêu dấu, tôi luôn viết về em

Em và tình yêu vẫn là đề tài của thơ tôi

Cho nên công việc tốt nhất của tôi là gọt giũa những từ cũ thành mới

Dùng lại những từ đã được sử dụng

Bởi vì như mặt trời ngày ngày mới rồi cũ

Cũng vậy tình yêu của tôi vẫn nói về những điều đã được nói)

Sonnet 77

Thy glass will show thee how thy beauties wear,

Thy dial how thy precious minutes waste;

The vacant leaves thy mind's imprint will bear,

And of this book, this learning mayst thou taste.

The wrinkles which thy glass will truly show

Of mouthed graves will give thee memory;

Thou by thy dial's shady stealth mayst know

Time's thievish progress to eternity.

Look what thy memory cannot contain,

Commit to these waste blanks, and thou shalt find

Those children nursed, deliver'd from thy brain,

To take a new acquaintance of thy mind.

These offices, so oft as thou wilt look,

Shall profit thee and much enrich thy book.

Tấm gương soi sẽ cho thấy bạn mặc đẹp thế nào

Mặt đồng hồ sẽ cho thấy bạn lãng phí thời gian quý giá như thế nào

Bộ óc cho thấy những vết hằn trong tâm trí bạn

Và cuốn sách này sẽ cho thấy (giúp bạn học được) những gì bạn trải nghiệm

Tấm gương sẽ phản chiếu những nếp nhăn, sẽ cho thấy

những vết hằn trên khóe miệng, sẽ gợi lại kí ức;

Bằng sự chuyển động thầm lặng của chiếc bóng trên mặt đồng hồ bạn có thể biết

sự thầm lén của thời gian đi tới vĩnh cửu

hãy xem điều gì trí nhớ của bạn không thể giữ lại

ghi vào những trang giấy trắng, và bạn sẽ thấy

những đứa trẻ được trao cho cô y tá chăm sóc, tách ra từ trí óc bạn

sẽ trở thành một người quen mới của tinh thần

Những điều này, như bạn thường thấy

Sẽ mang lại lợi ích cho bạn và làm giàu thêm cuốn sách của bạn

Sonnet 79

Whilst I alone did call upon thy aid,

My verse alone had all thy gentle grace;

But now my gracious numbers are decay'd,

And my sick Muse doth give an other place.

I grant, sweet love, thy lovely argument

Deserves the travail of a worthier pen;

Yet what of thee thy poet doth invent

He robs thee of, and pays it thee again.

He lends thee virtue, and he stole that word

From thy behaviour; beauty doth he give,

And found it in thy cheek: he can afford

No praise to thee, but what in thee doth live.

Then thank him not for that which he doth say,

Since what he owes thee, thou thyself dost pay.

Đã có khi chỉ mình tôi tìm nguồn cảm hứng ở anh

Chỉ những bài thơ của tôi có được ân huệ cao quý của anh

Nhưng giờ tất cả đã bị tiêu diệt

Và nàng thơ mệt mỏi của tôi đã quay sang hướng khác

Tôi thừa nhận, hỡi người yêu dấu, rằng một đề tài đáng yêu là anh

Xứng đáng với công việc của những cây bút tài năng hơn

Nhưng những điều ở anh được nhà thơ (khác tôi) viết ra

(là do) anh ta lấy trộm ở anh và trả nó lại cho anh

Anh ta mượn của anh sự thuần khiết, và ăn trộm những từ ngữ

Từ cách cư xử của anh, vẻ đẹp anh cho

Và tìm nó trên đôi má anh, anh ta không có khả năng

Ca ngợi anh, mà chỉ tìm chúng ở trong anh

Vì vậy đừng cảm ơn anh ta vì những điều đã nói về anh

Bởi những gì anh ta sở hữu của anh, anh đã tự trả

Sonnet 80

O! how I faint when I of you do write,

Knowing a better spirit doth use your name,

And in the praise thereof spends all his might,

To make me tongue-tied speaking of your fame.

But since your worth, wide as the ocean is,

The humble as the proudest sail doth bear,

My saucy bark, inferior far to his,

On your broad main doth wilfully appear.

Your shallowest help will hold me up afloat,

Whilst he upon your soundless deep doth ride;

Or, being wrack'd, I am a worthless boat,

He of tall building, and of goodly pride:

Then if he thrive and I be cast away,

The worst was this, my love was my decay.

Chao ôi, tôi thấy bối rối làm sao khi viết về anh

(vì) biết rằng các nhà thơ sáng giá hơn có thể thỉnh cầu sự bảo trợ của anh

Và trong những lời ca ngợi (dành cho anh, anh ta) sử dụng tất cả những gì có thể

Làm cho tôi câm lặng (trong việc nói về danh tiếng của anh)

Nhưng, vì giá trị của anh rộng lớn như đại dương

Có thể chứa cả những con thuyền nhỏ và to lớn

Lời thô kệch của tôi, thấp kém hơn nhiều so với của anh ta

Một mực (cố ý) xuất hiện trên biển mênh mông

Sự giúp đỡ rất nhỏ của anh có thể giữ tôi nổi trên nước

Trong khi anh ấy lái trên sự bảo trợ sâu sắc của anh

Nhưng, nếu bị tan thành mảnh vụn, tôi là con thuyền không giá trị

Anh ấy thật cao và kiêu hãnh

Nên nếu anh ấy cường tráng còn tôi bị ném đi xa

Điều tồi tệ nhất là người yêu tôi đã tiêu diệt tôi

Sonnet 81

Or I shall live your epitaph to make,

Or you survive when I in earth am rotten,

From hence your memory death cannot take,

Although in me each part will be forgotten.

Your name from hence immortal life shall have,

Though I, once gone, to all the world must die:

The earth can yield me but a common grave,

When you entombed in men's eyes shall lie.

Your monument shall be my gentle verse,

Which eyes not yet created shall o'er-read;

And tongues to be, your being shall rehearse,

When all the breathers of this world are dead;

You still shall live, such virtue hath my pen,

Where breath most breathes, even in the mouths of men.

Hoặc tôi sẽ sống để viết bia mộ cho anh

Hoặc anh sẽ cứu sống tôi khi tôi mục nát trong đất

Vì thế kí ức anh Thần Chết không thể lấy đi

Mặc dù mọi thứ về tôi đã bị quên lãng

Tên tuổi của anh từ đó sẽ sống mãi

Dù tôi, đã từng ra đi sẽ chết trong lòng thế gian này

Thế giới có thể sinh ra tôi chỉ với ân huệ thông thường

Khi anh bị chôn vùi trong mắt người đời

Kỉ niệm về anh chính là bài thơ trang nhã của tôi

(bài thơ mà) những đôi mắt còn chưa được sinh ra sẽ đọc

Và những cái miệng (cũng chưa được sinh ra) sẽ kể lại

Khi tất cả những người sống trong thế gian này chết đi

Anh vẫn sẽ sống, ngòi bút của tôi có tác dụng (khả năng) như vậy

Khi sự sống hiển nhiên nhất: trên miệng thế gian

Sonnet 83

I never saw that you did painting need,

And therefore to your fair no painting set;

I found, or thought I found, you did exceed

The barren tender of a poet's debt:

And therefore have I slept in your report,

That you yourself, being extant, well might show

How far a modern quill doth come too short,

Speaking of worth, what worth in you doth grow.

This silence for my sin you did impute,

Which shall be most my glory being dumb;

For I impair not beauty being mute,

When others would give life, and bring a tomb.

There lives more life in one of your fair eyes

Than both your poets can in praise devise.

Tôi không bao giờ thấy rằng anh cần sự tô vẽ

Và vì thế với vẻ đẹp của anh không cần phải sắp đặt vẽ vời

Tôi thấy, hay tôi nghĩ rằng tôi thấy, anh vượt lên trên

Ngòi bút yếu ớt trống rỗng của một nhà thơ mang đầy lòng biết ơn

Vì thế, tôi không cần cố gắng khi miêu tả

Anh giống như chính anh, như hiện tại có thể chứng minh

Những vần thơ có cánh hiện đại quá ngắn như thế nào

(trong việc) nói về giá trị của anh, nó lớn lên (phát triển) ra sao

Anh có thể đổ lỗi cho sự im lặng của tôi, cái mà tôi tự hào

Vì nó không làm mất đi vẻ đẹp anh có

Khi những nhà thơ khác muốn cho nó cuộc sống, nhưng thực chất lại chôn vùi

Trong đôi mắt đẹp của anh chứa nhiều sức sống

Hơn tất cả những gì nhà thơ có thể ca tụng

Sonnet 84

Who is it that says most, which can say more,

Than this rich praise, that you alone, are you,

In whose confine immured is the store

Which should example where your equal grew?

Lean penury within that pen doth dwell

That to his subject lends not some small glory;

But he that writes of you, if he can tell

That you are you, so dignifies his story.

Let him but copy what in you is writ,

Not making worse what nature made so clear,

And such a counterpart shall fame his wit,

Making his style admired every where.

You to your beauteous blessings add a curse,

Being fond on praise, which makes your praises worse.

Ai có thể nói nhiều nhất, nhà thơ nào có thể nói nhiều hơn

Những lời ca tụng này: anh là duy nhất, hỡi anh?

Trong anh chứa tất cả vẻ đẹp

Ví dụ nào có thể dùng so sánh với anh ngoài anh ra?

Thật tầm thường ngòi bút của nhà thơ

Với chủ đề là anh mà không thể làm nổi bật một chút danh tiếng

Nhưng bất kì người nào viết về anh, nếu anh có thể nói

Rằng anh là anh, quá đề cao câu chuyện (ngòi bút?) của anh ta

Để anh ta copy những gì đã được viết về anh

Không làm tệ đi những gì mà tự nhiên đã tạo ra quá rõ ràng

Và tạo ra một bản sao có thể làm nổi tiếng sự thông minh của anh ta

Làm cho phong cách của anh ta được say mê ở khắp nơi

Sonnet 85

My tongue-tied Muse in manners holds her still,

While comments of your praise richly compiled,

Reserve thy character with golden quill,

And precious phrase by all the Muses filed.

I think good thoughts, whilst others write good words,

And like unlettered clerk still cry 'Amen'

To every hymn that able spirit affords,

In polished form of well-refined pen.

Hearing you praised, I say ''tis so, 'tis true,'

And to the most of praise add something more;

But that is in my thought, whose love to you,

Though words come hindmost, holds his rank before.

Then others, for the breath of words respect,

Me for my dumb thoughts, speaking in effect.

Nàng thơ câm lặng của tôi vẫn lịch thiệp giữ im lặng

Trong khi những lời ca ngợi anh được thành tuyển tập dồi dào

Ca ngợi nét ưu tú nơi anh bằng lời vàng có cánh

Và những cụm từ trân trọng được sáng tạo bằng tất cả cảm hứng

Tôi nghĩ những suy nghĩ tốt, trong khi các nhà thơ khác viết những lời tốt đẹp

Và giống như người tu sĩ mù chữ giữ tiếng kêu “A men”

Với những bài thánh ca có khả năng tâm linh

Giữa những cây bút (những bài thơ) được đánh bóng, gọt giũa

Nghe những lời ca ngợi anh, tôi nói: “quả vậy”, “đúng là thế”

Và thêm vào những lời ca ngợi nhiều hơn

Nhưng chỉ trong lòng tôi biết rõ tôi yêu quý anh hết mực

Dù cho tôi không nói ra lời

Cho nên, (hãy) quý trọng người khác vì những lời ca ngợi của họ

Quý trọng tôi bằng suy nghĩ lặng câm, (thứ) chỉ thể hiện bằng hành động

Sonnet 88

When thou shalt be dispos'd to set me light,

And place my merit in the eye of scorn,

Upon thy side, against myself I'll fight,

And prove thee virtuous, though thou art forsworn.

With mine own weakness being best acquainted,

Upon thy part I can set down a story

Of faults concealed, wherein I am attainted;

That thou in losing me shalt win much glory:

And I by this will be a gainer too;

For bending all my loving thoughts on thee,

The injuries that to myself I do,

Doing thee vantage, double-vantage me.

Such is my love, to thee I so belong,

That for thy right, myself will bear all wrong.

Bất cứ khi nào em sẵn sàng coi nhẹ tôi

Và đặt tôi trước con mắt coi thường

Đứng về phía em, tôi sẽ đấu tranh chống lại chính mình

Và chứng tỏ là em đức hạnh, cho dù em nói dối

Tôi sẽ cho biết những nhược điểm của mình

Về phần em tôi có thể nói

Về những sai lầm bị giấu giếm của mình, ở phần tôi bị buộc tội

Khiến em trong việc mất tôi sẽ có được niềm tự hào

Và tôi, bằng việc đó, cũng là người được

Vì làm nổi bật tất cả những yêu thương dành cho em

Sự tổn thương tôi gây cho mình

Mang lại cho em ưu thế, và cho tôi ưu thế gấp đôi

Tôi yêu em như vậy, phụ thuộc vào em đến mức

Vì lẽ phải của em, tôi sẵn sàng nhận tất cả sai lầm

Sonnet 89

Say that thou didst forsake me for some fault,

And I will comment upon that offence:

Speak of my lameness, and I straight will halt,

Against thy reasons making no defence.

Thou canst not, love, disgrace me half so ill,

To set a form upon desired change,

As I'll myself disgrace; knowing thy will,

I will acquaintance strangle, and look strange;

Be absent from thy walks; and in my tongue

Thy sweet beloved name no more shall dwell,

Lest I, too much profane, should do it wrong,

And haply of our old acquaintance tell.

For thee, against my self I'll vow debate,

For I must ne'er love him whom thou dost hate.

Hãy nói rằng em bỏ rơi tôi vì lỗi lầm gì,

Tôi sẽ tự chỉ trích mình vì sai lầm ấy

Nói rằng tôi què quặt, tôi sẽ trở thành người như vậy không do dự

Không cãi lại trước lí do em đưa ra

Em không thể, này người yêu, ruồng bỏ tôi giữa chừng trong cố gắng thay đổi tôi

Khi tôi tự ghét bỏ chính mình, nếu biết rằng em muốn vậy

Tôi sẽ từ bỏ những người quen, và trở thành người xa lạ

Sẽ biến mất khỏi đường em đi, và trên miệng tôi

Sẽ không còn ngự trị cái tên ngọt ngào đáng yêu của em

Trong trường hợp tôi, quá vô dụng, có thể làm sai

Nói một cách tình cờ rằng chúng ta là người quen cũ khiến mọi người thấy

Vì em, là kẻ thù của chính mình tôi cũng thề sẽ làm

Bởi tôi không bao giờ yêu người mà em ghét

Sonnet 90

Then hate me when thou wilt; if ever, now;

Now, while the world is bent my deeds to cross,

Join with the spite of fortune, make me bow,

And do not drop in for an after-loss:

Ah! do not, when my heart hath 'scaped this sorrow,

Come in the rearward of a conquered woe;

Give not a windy night a rainy morrow,

To linger out a purposed overthrow.

If thou wilt leave me, do not leave me last,

When other petty griefs have done their spite,

But in the onset come: so shall I taste

At first the very worst of fortune's might;

And other strains of woe, which now seem woe,

Compared with loss of thee, will not seem so.

Hãy ghét tôi khi nào em muốn, nhưng nếu có khả năng ấy, hãy để ngay bây giờ

Bây giờ, khi tất cả thế giới đều làm hỏng (bẻ cong) tất cả việc làm của tôi

Tham gia cùng sự ác ý của thần may mắn, khiến tôi khuất phục (gục ngã)

Và đừng bỏ rơi tôi sau những mất mát

Ồ, khi trái tim tôi vừa thoát khỏi nỗi đau khổ này

Đến từ phía sau (Đánh tôi) của nỗi đau buồn đã bị chinh phục

Đừng là một buổi sáng mưa bão sau một đêm gió nổi

Đừng kéo dài sự đánh bại được sắp đặt

Nếu em định rời xa tôi, đừng xa rời tôi vào phút chót

Khi những nỗi buồn nhỏ mọn khác đã thực hiện xong cơn trút giận

Hãy làm điều ấy đầu tiên để tôi nếm trải

Trước nhất sự tồi tệ nhất của số mệnh có thể có

Và tất cả những đau khổ khác giáng xuống

Nếu được so sánh với nỗi đau mất em, không thể thấm vào đâu

Sonnet 91

Some glory in their birth, some in their skill,

Some in their wealth, some in their body's force,

Some in their garments though new-fangled ill;

Some in their hawks and hounds, some in their horse;

And every humour hath his adjunct pleasure,

Wherein it finds a joy above the rest:

But these particulars are not my measure,

All these I better in one general best.

Thy love is better than high birth to me,

Richer than wealth, prouder than garments' cost,

Of more delight than hawks and horses be;

And having thee, of all men's pride I boast:

Wretched in this alone, that thou mayst take

All this away, and me most wretched make.

Có những người tự hào vì dòng dõi của họ, hoặc vì khả năng

Có những người (tự hào) vì sự giàu có, và những người khác vì vẻ đẹp hình thể

Có những người vì những bộ áo quần thậm chí mới lạ một cách kinh dị

Có những người vì diều hâu, chó săn (tay chân, thuộc hạ) hay lừa ngựa

Mỗi sở thích đều đem lại niềm vui riêng

Họ tìm niềm vui trên sự nghỉ ngơi

Nhưng những điều này không phải thước đo của tôi

Tôi có một niềm tự hào hơn tất cả những thú vui bình thường đó

Tình yêu của em, với tôi còn tốt hơn cả dòng dõi cao quý

giàu sang hơn việc nhiều của cải, đáng tự hào hơn những bộ quần áo đắt tiền

Và làm hài lòng hơn diều hâu cùng ngựa

Và có được em, hơn tất cả sự kiêu hãnh của con người tôi khoe khoang

Chỉ có một điều khốn khổ, là em có thể lấy đi

Tất cả mọi thứ, biến tôi thành người bất hạnh nhất trên đời

Sonnet 93

So shall I live, supposing thou art true,

Like a deceived husband; so love's face

May still seem love to me, though altered new;

Thy looks with me, thy heart in other place:

For there can live no hatred in thine eye,

Therefore in that I cannot know thy change.

In many's looks, the false heart's history

Is writ in moods, and frowns, and wrinkles strange.

But heaven in thy creation did decree

That in thy face sweet love should ever dwell;

Whate'er thy thoughts, or thy heart's workings be,

Thy looks should nothing thence, but sweetness tell.

How like Eve's apple doth thy beauty grow,

If thy sweet virtue answer not thy show!

Bởi tôi vẫn tiếp tục cho rằng em đứng đắn

Giống như người chồng bị lừa dối bởi gương mặt vợ yêu

Vẫn cho thấy dường như em yêu tôi, dù thực chất em đã tháy đổi

Em nhìn tôi, nhưng trái tim em ở nơi khác

Vì không hề có sự hận thù trong đôi mắt em

Cho nên tôi không thể biết sự thay đổi của em

Trong nét mặt của nhiều người, quá trình một trái tim tội lỗi

Được thể hiện bằng sự buồn rầu hay tư lự hay nhăn nhó khác thường

Nhưng trời phú cho một mặc định

Là gương mặt em chỉ thể hiện một tình yêu ngọt ngào

Bất kể em nghĩ gì, trái tim em đập thế nào

Nhưng vẻ mặt em không nói lên điều gì ngoài vẻ đáng yêu (dịu dàng)

Vẻ đẹp của em thật hấp dẫn giống quả táo của Eva

Trong khi thực chất bên trong (đức hạnh, sự trong trắng) quả không giống như vẻ bề

ngoài (những gì nhìn thấy được).

Sonnet 94

They that have power to hurt, and will do none,

That do not do the thing they most do show,

Who, moving others, are themselves as stone,

Unmoved, cold, and to temptation slow;

They rightly do inherit heaven's graces,

And husband nature's riches from expense;

They are the lords and owners of their faces,

Others, but stewards of their excellence.

The summer's flower is to the summer sweet,

Though to itself, it only live and die,

But if that flower with base infection meet,

The basest weed outbraves his dignity:

For sweetest things turn sourest by their deeds;

Lilies that fester, smell far worse than weeds.

Họ, những người có khả năng gây tổn thương nhưng sẽ không làm như vậy

Không làm điều (người ta nghĩ rằng, cho thấy rằng) họ làm

Những người mà, khuấy động người khác, nhưng bản thân lại giống như tảng đá

Không thể lay chuyển, lạnh lùng, và khó bị cám dỗ

Họ thừa hưởng một cách chính đáng vẻ duyên dáng thiên phú

Và tiết kiệm để những báu vật của tự nhiên khỏi bị lãng phí

Họ là chúa tể và là người sở hữu gương mặt mình

Những người khác chỉ là người quản gia cho sự xuất sắc của họ

Những bông hoa mùa hè thơm ngát cho mùa

Dù chúng chỉ sống và chết cho bản thân

Nhưng nếu bông hoa đó bị nhiễm bệnh từ gốc

Thì loài cỏ dại tầm thường nhất lại có giá trị hơn

Vì những vật ngọt ngào nhất cũng trở nên chua cay nhất bởi những việc làm của

chúng

Hoa huệ tây khi bị thối rữa, mùi của nó còn khủng khiếp hơn loài cỏ dại

Sonnet 95

How sweet and lovely dost thou make the shame

Which, like a canker in the fragrant rose,

Doth spot the beauty of thy budding name!

O! in what sweets dost thou thy sins enclose.

That tongue that tells the story of thy days,

Making lascivious comments on thy sport,

Cannot dispraise, but in a kind of praise;

Naming thy name blesses an ill report.

O! what a mansion have those vices got

Which for their habitation chose out thee,

Where beauty's veil doth cover every blot

And all things turns to fair that eyes can see!

Take heed, dear heart, of this large privilege;

The hardest knife ill-used doth lose his edge.

Thật hấp dẫn và đáng yêu biết bao em tạo ra vết nhơ (sự xấu hổ)

Cái mà, giống như bệnh thối rữa trong hoa hồng thơm ngát

Dấu ấn đẹp của tiếng tăm em bắt đầu nảy nở

Ồ, với những gì đẹp đẽ em dựng tường rào cho tội lỗi của mình

Những người kể chuyện về em

Chỉ trích sự dâm đãng mà em chưng diện

Không thể không ca ngợi, bằng ngôn ngữ của lời ngợi ca

Gọi tên em cầu may một tiếng xấu

Ôi, thật là một lâu đài chứa bên trong sự trụy lạc

Nơi lựa chọn em trong sự cư trú của họ

Nơi vẻ đẹp bề ngoài chứa đựng bên trong rất nhiều vết nhơ

Và tất cả mọi thứ mắt người đời nhìn thấy đều trở nên đẹp

Hãy chú ý, em yêu dấu, đến đặc ân lớn này:

Ngay cả con dao tốt nhất cũng có thể mất lưỡi sắc nếu nó bị lạm dụng

Sonnet 96

Some say thy fault is youth, some wantonness;

Some say thy grace is youth and gentle sport;

Both grace and faults are lov'd of more and less:

Thou mak'st faults graces that to thee resort.

As on the finger of a throned queen

The basest jewel will be well esteem'd,

So are those errors that in thee are seen

To truths translated, and for true things deem'd.

How many lambs might the stern wolf betray,

If like a lamb he could his looks translate!

How many gazers mightst thou lead away,

If thou wouldst use the strength of all thy state!

But do not so; I love thee in such sort,

As, thou being mine, mine is thy good report.

Có người nói tội lỗi của em là ở tuổi trẻ, có người nói là ở sự phóng đãng

Có người nói vẻ duyên dáng của em là do tuổi thanh xuân (vẻ trẻ trung), có người

nói đó là ở sự hóm hỉnh vui đùa

Cả vẻ đẹp và sự tệ hại của em đều được yêu, dù là những người có địa vị thấp

hay cao

Em làm cho tội lỗi và sự chói sáng theo cách của mình

Giống như trên ngón tay của nữ hoàng tối cao

Vật trang sức tầm thường nhất cũng trở nên được quý trọng

Cũng vậy tất cả khiếm khuyết được nhìn thấy ở em

Đều được cảm thông và xem là thật

Biết bao con cừu ngây thơ đã bị sói hung dữ lừa dối

Bằng cách làm nó trông giống cừu

Biết bao nhiêu người ngưỡng mộ bị em điều khiển

Khi em sử dụng thế mạnh của địa vị

Nhưng đừng làm thế, tôi yêu em như vậy

Tôi coi tiếng tăm em như của chính mình

Sonnet 97

How like a winter hath my absence been

From thee, the pleasure of the fleeting year!

What freezings have I felt, what dark days seen!

What old December's bareness everywhere!

And yet this time removed was summer's time;

The teeming autumn, big with rich increase,

Bearing the wanton burden of the prime,

Like widow'd wombs after their lords' decease:

Yet this abundant issue seemed to me

But hope of orphans, and unfathered fruit;

For summer and his pleasures wait on thee,

And, thou away, the very birds are mute:

Or, if they sing, 'tis with so dull a cheer,

That leaves look pale, dreading the winter's near.

Thật giống như mùa đông khi tôi xa cách em

Từ khi em cho tôi những ngày vui ngắn ngủi

Tôi cảm thấy lạnh giá làm sao, những ngày đầy bóng tối

Tháng 12 già cỗi trơ trụi ở khắp mọi nơi

Thời gian thực tế là mùa hè

Mùa thu chín rộ thu hoạch

Mang gánh nặng phóng đãng của tuổi thanh xuân

Giống như tử cung của bà quả phụ sau cái chết của người chồng

Nhưng tình thế này với tôi có vẻ

Giống như hi vọng của đứa trẻ mồ côi, đứa con ngoài giá thú

Bởi mùa hè và niềm vui trông đợi ở em

Và, em xa, những con chim cũng câm nín

Hoặc nếu chúng hót, đó chỉ là tiếng kêu buồn tẻ

Những chiếc lá nhợt nhạt (không còn màu xanh) gợi ra cảm giác sợ hãi trước sự ngột

ngạt của mùa đông

Sonnet 98

From you have I been absent in the spring,

When proud-pied April, dress'd in all his trim,

Hath put a spirit of youth in every thing,

That heavy Saturn laughed and leapt with him.

Yet nor the lays of birds, nor the sweet smell

Of different flowers in odour and in hue,

Could make me any summer's story tell,

Or from their proud lap pluck them where they grew:

Nor did I wonder at the lily's white,

Nor praise the deep vermilion in the rose;

They were but sweet, but figures of delight,

Drawn after you, you pattern of all those.

Yet seemed it winter still, and you away,

As with your shadow I with these did play.

Từ khi em xa cách tôi vào mùa xuân

Khi tháng Tư chói lọi rực rỡ khoác lên mình tất cả y phục

Mang nhiệt tình tuổi trẻ phủ lên khắp mọi nơi

Khiến thần Nông cũng cười và nhảy múa với anh ta

Nhưng không có tiếng chim hót, cũng không có mùi tỏa ngát

Của những loài hoa khác nhau trong hương thơm và màu sắc

Có thể khiến tôi nhận ra gương mặt mùa hè

Hay kéo vạt áo khi chúng nở (ngắt hoa)

Tôi cũng không quan tâm đến màu trắng hoa huệ tây

Không ngợi ca màu đỏ thẫm hoa hồng

Chúng ngọt ngào, dễ chịu nhưng chỉ thu hút vì là hình ảnh của em, em là hình mẫu

của tất cả

Mùa trong cảm nhận tôi vẫn là mùa đông và em ra đi (cách xa)

Tôi chơi với chúng như thể với

cái bóng của em

Sonnet 99

The forward violet thus did I chide:

Sweet thief, whence didst thou steal thy sweet that smells,

If not from my love's breath? The purple pride

Which on thy soft cheek for complexion dwells

In my love's veins thou hast too grossly dy'd.

The lily I condemned for thy hand,

And buds of marjoram had stol'n thy hair;

The roses fearfully on thorns did stand,

One blushing shame, another white despair;

A third, nor red nor white, had stol'n of both,

And to his robbery had annex'd thy breath;

But, for his theft, in pride of all his growth

A vengeful canker eat him up to death.

More flowers I noted, yet I none could see,

But sweet, or colour it had stol'n from thee.

Tôi trách mắng hoa violet như thế này:

Kẻ trộm đáng yêu, từ đâu ngươi ăn trộm mùi hương thơm ngát

Nếu không phải từ hơi thở người ta yêu? Màu tía rực rỡ

Trên những cánh nhung mịn của ngươi

Do lấy từ huyết quản người ta yêu

Tôi kết tội màu trắng bông huệ tây vì sử dụng (làn da) bàn tay em

Và những nụ kinh giới ô đã ăn trộm mái tóc em

Những bông hoa hồng trong bụi gai đầy sợ hãi

Một số đỏ mặt, xấu hổ, số khác trắng bệch thất vọng

Số thứ ba, không đỏ cũng không trắng, đã ăn trộm cả (từ làn da em)

Và thêm vào vụ trộm hơi thở em

Nhưng, những tên trộm ấy

Loài giun trừng phạt làm chúng chết

Tôi đã quan sát nhiều loài hoa nữa, nhưng không ở đâu tôi thấy

Chúng không ăn trộm hoặc hương thơm hoặc màu sắc từ em

Sonnet 100

Where art thou Muse that thou forget'st so long,

To speak of that which gives thee all thy might?

Spend'st thou thy fury on some worthless song,

Darkening thy power to lend base subjects light?

Return forgetful Muse, and straight redeem,

In gentle numbers time so idly spent;

Sing to the ear that doth thy lays esteem

And gives thy pen both skill and argument.

Rise, resty Muse, my love's sweet face survey,

If Time have any wrinkle graven there;

If any, be a satire to decay,

And make time's spoils despised every where.

Give my love fame faster than Time wastes life,

So thou prevent'st his scythe and crooked knife.

Người ở đâu, nữ thần thơ, mà quá lâu rồi quên

nói những lời truyền cảm hứng cho nhà thơ

đem đến cho người tất cả sức mạnh

sử dụng năng lực của người vào những bài thơ không giá trị

làm tối đi nguồn sức mạnh của người bằng việc cho mượn làm thắp sáng những chủ

đề tầm thường?

Trở lại nàng thơ dễ quên và bù đắp

Những thời gian quý giá đã trôi qua vô ích

Hát bên tai những bài nâng giá trị thơ

Và mang đến cho nhà thơ cả khả năng lẫn đề tài

Tỉnh lại, nàng thơ lười biếng, xem lại gương mặt dịu dàng của người tôi yêu

Xem thời gian có in một chút nếp nhăn nào ở đây

Nếu có một chút nào, như một nhà thơ trào phúng, hãy tiêu diệt

Và làm cho sự tàn phá của thời gian bị coi thường ở khắp mọi nơi

Đem đến cho tình yêu của tôi tiếng tăm hơn thời gian làm lãng phí cuộc sống

Để người có thể ngăn cản lưỡi hái và con dao quắm của hắn

Sonnet 101

O truant Muse what shall be thy amends

For thy neglect of truth in beauty dyed?

Both truth and beauty on my love depends;

So dost thou too, and therein dignified.

Make answer Muse: wilt thou not haply say,

'Truth needs no colour, with his colour fixed;

Beauty no pencil, beauty's truth to lay;

But best is best, if never intermixed'?

Because he needs no praise, wilt thou be dumb?

Excuse not silence so, for't lies in thee

To make him much outlive a gilded tomb

And to be praised of ages yet to be.

Then do thy office, Muse; I teach thee how

To make him seem, long hence, as he shows now.

Ôi, nàng thơ lười biếng, điều gì sẽ là sự bồi thường

Cho sự hờ hững của nàng trước sự kết hợp của cái thật và cái đẹp?

Cả sự thật và cái đẹp đều phụ thuộc vào (trông mong vào) người tôi yêu

Và cả vào nàng nữa, và được ca ngợi (đánh giá cao)

Trả lời đi Muse: nàng sẽ không ngẫu hứng nói:

Cái thật không cần màu mè, với những màu sắc phù hợp của chúng

Cái thật không cần tô vẽ (ngòi bút tô điểm chúng), cái thật (giá trị thực) của cái đẹp

tự phơi bày

Nhưng cái hoàn hảo có còn hoàn hảo, nếu không được trộn lẫn sự thức và cái đẹp?

Bởi vì không cần lời ca ngợi, nên nàng sẽ câm lặng?

Đừng bào chữa cho sự im lặng, vì khả năng của nàng

(là) khiến cho anh sống lâu hơn cả những ngôi mộ mạ vàng

Và được ca ngợi bởi những thế hệ còn chưa ra đời

Nên hãy làm việc của mình, Muse, ta sẽ chỉ cho nàng cách làm thế nào

Để khiến anh ấy cho đến mãi sau này còn sáng chói hơn anh ấy ngày nay

Sonnet 102

My love is strengthened, though more weak in seeming;

I love not less, though less the show appear;

That love is merchandized, whose rich esteeming,

The owner's tongue doth publish every where.

Our love was new, and then but in the spring,

When I was wont to greet it with my lays;

As Philomel in summer's front doth sing,

And stops his pipe in growth of riper days:

Not that the summer is less pleasant now

Than when her mournful hymns did hush the night,

But that wild music burthens every bough,

And sweets grown common lose their dear delight.

Therefore like her, I sometime hold my tongue:

Because I would not dull you with my song.

Tình yêu của tôi mạnh thêm lên, dù có vẻ nó yếu đi

Tôi không yêu ít đi một chút nào, dù vẻ ngoài là như vậy

Tình yêu trở thành hàng hóa, thứ được kính trọng

Khi lời của người sở hữu nó được công bố khắp mọi nơi

Tình cảm của đôi ta đã từng mới mẻ, nhưng chỉ trong mùa xuân (thuở ban đầu)

Khi tôi đã quen chào đón nó bằng những bài thơ

Giống như chim sơn ca trước mùa hè đã hót

Và dừng tiếng hót vào độ chín của ngày

Không phải bây giờ mùa hè bớt thú vị hơn

Khi bài thánh ca ảm đạm của nó vang lên trong đêm yên tĩnh

Mà khi những âm thanh hoang dại choán đầy mỗi cành cây

Và cái ngọt ngào trở nên phổ biến (trở thành bình thường)

Chúng mất đi sự thú vị thiết tha

Bởi thế giống như nó, tôi đôi khi giữ im tiếng

Vì tôi không muốn làm buồn nản em bởi bài hát của tôi

Sonnet 104

To me, fair friend, you never can be old,

For as you were when first your eye I ey'd,

Such seems your beauty still. Three winters cold,

Have from the forests shook three summers' pride,

Three beauteous springs to yellow autumn turn'd,

In process of the seasons have I seen,

Three April perfumes in three hot Junes burn'd,

Since first I saw you fresh, which yet are green.

Ah! yet doth beauty like a dial-hand,

Steal from his figure, and no pace perceiv'd;

So your sweet hue, which methinks still doth stand,

Hath motion, and mine eye may be deceiv'd:

For fear of which, hear this thou age unbred:

Ere you were born was beauty's summer dead.

Với tôi, người bạn đẹp đẽ, anh không bao giờ già

Bởi từ lần đầu tôi nhìn thấy đôi mắt anh

(nó) vẫn giữ nguyên vẻ đẹp như vậy. Ba mùa đông lạnh giá

Từ cánh rừng làm run rẩy ba mùa hè đang độ chín

Ba mùa xuân xinh đẹp tới mùa thu vàng

Trong quá trình thay đổi của mùa tôi trông thấy

Ba tháng tư ngát hương bị đốt cháy trong ba tháng sáu nóng bỏng

Từ khi tôi nhìn thấy sự trong sáng của anh, vẫn nguyên màu xanh

Chao ôi, nhưng vẻ đẹp ấy, giống bàn tay chiếc đồng hồ

Bị lấy trộm từ hình ảnh của nó, và không thể nhận thấy bước chân

Cũng như vậy, hương sắc ngọt ngào của anh, trong ý nghĩ của tôi vẫn đứng im

Đã dịch chuyển, và đôi mắt tôi bị nhầm tưởng

Vì lo sợ điều ấy, nghe này, nếu anh không duy trì nòi giống

Trước khi anh sinh ra, đỉnh cao của vẻ đẹp đã chết

Sonnet 105

Let not my love be called idolatry,

Nor my beloved as an idol show,

Since all alike my songs and praises be

To one, of one, still such, and ever so.

Kind is my love to-day, to-morrow kind,

Still constant in a wondrous excellence;

Therefore my verse to constancy confined,

One thing expressing, leaves out difference.

Fair, kind, and true, is all my argument,

Fair, kind, and true, varying to other words;

And in this change is my invention spent,

Three themes in one, which wondrous scope affords.

Fair, kind, and true, have often lived alone,

Which three till now, never kept seat in one.

Chớ để tình yêu của tôi bị gọi là sự sùng bái thần tượng

Cũng đừng để người ta nói tôi xem người yêu như là thần tượng

Vì tất cả những bài thơ của tôi đều giống nhau và ca ngợi

Một người, của một người, vẫn luôn như vậy, và sẽ như vậy

Người yêu của tôi tốt đẹp hôm nay, và tốt đẹp ngày mai

Vẫn kiên định sự xuất sắc tuyệt vời

Cho nên thơ tôi hạn chế trong sự vĩnh cửu

Những điều tương tự nhau, không thay đổi

Cái đẹp, lòng tốt và cái thật là tất cả chủ đề của tôi

Cái đẹp, lòng tốt và cái thật diễn đạt bằng những từ khác nhau

Và sự thay đổi này là cách sử dụng óc sáng tạo của tôi

Ba chủ đề trong một, hiến dâng tầm kiến thức tuyệt vời

Vẻ đẹp, lòng tốt và cái thật thường tồn tại tách biệt nhau

Chưa bao giờ cùng tồn tại trong một con người, cho đến hôm nay.

Sonnet 106

When in the chronicle of wasted time

I see descriptions of the fairest wights,

And beauty making beautiful old rhyme,

In praise of ladies dead and lovely knights,

Then, in the blazon of sweet beauty's best,

Of hand, of foot, of lip, of eye, of brow,

I see their antique pen would have express'd

Even such a beauty as you master now.

So all their praises are but prophecies

Of this our time, all you prefiguring;

And for they looked but with divining eyes,

They had not skill enough your worth to sing:

For we, which now behold these present days,

Have eyes to wonder, but lack tongues to praise.

Trong cuốn sử biên niên của thời gian trôi

Tôi thấy sự mô tả những người đẹp nhất

Và cái đẹp tạo nên những vần thơ mĩ lệ xưa cũ

Ca ngợi những quý bà đã khuất và những hiệp sĩ đáng yêu

Trong những lời ca ngợi bằng những từ hay nhất dành cho cái đẹp

Của tay, chân, môi, mắt, trán

Tôi thấy bài thơ xưa của họ đã miêu tả

Chính vẻ đẹp mà anh có bây giờ

Nên tất cả những lời ca ngợi của họ chỉ là lời tiên tri

Về thời gian này của chúng ta, tất cả đều hình dung trước về anh

Và trừ phi họ có khả năng tiên tri

Nếu không họ không thể có năng lực nói về giá trị của anh,

vì chúng tôi, những người sống trong thời đại này

Có đôi mắt để choáng ngợp, nhưng không có đủ lời để ca ngợi vẻ đẹp của anh

Sonnet 108

What's in the brain, that ink may character,

Which hath not figured to thee my true spirit?

What's new to speak, what now to register,

That may express my love, or thy dear merit?

Nothing, sweet boy; but yet, like prayers divine,

I must each day say o'er the very same;

Counting no old thing old, thou mine, I thine,

Even as when first I hallowed thy fair name.

So that eternal love in love's fresh case,

Weighs not the dust and injury of age,

Nor gives to necessary wrinkles place,

But makes antiquity for aye his page;

Finding the first conceit of love there bred,

Where time and outward form would show it dead.

Những điều trong trí óc mà bút mực có thể vẽ ra

Không thể mô tả tấm lòng thực sự của tôi đối với anh

Điều gì mới để nói, điều gì để biểu lộ

Có thể thể hiện tình yêu của tôi, hay sự xuất sắc đáng yêu của anh?

Không gì cả, chàng trai đáng yêu, nhưng không giống như người cầu nguyện thần

linh

Mỗi ngày tôi phải nói lại những điều giống nhau

Không tính toán chúng cũ mòn thế nào, anh là của tôi, tôi là của anh

Kể từ lần đầu tiên tôi kính trọng tên tuổi anh

Nên tình cảm vĩnh cửu và trong sáng

Không quan tâm đến lớp bụi thời gian và sự phai tàn

Cũng không cần thiết quan tâm đến tuổi tác, những nếp nhăn

Ngoài việc tạo ra sự vĩnh viễn những trang giấy

Tìm kiếm cội nguồn đầu tiên của tình yêu ở đây

Khi thời gian và vẻ ngoài của anh có thể cho thấy cái chết

Sonnet 109

O! never say that I was false of heart,

Though absence seem'd my flame to qualify,

As easy might I from my self depart

As from my soul which in thy breast doth lie:

That is my home of love: if I have ranged,

Like him that travels, I return again;

Just to the time, not with the time exchanged,

So that myself bring water for my stain.

Never believe though in my nature reigned,

All frailties that besiege all kinds of blood,

That it could so preposterously be stained,

To leave for nothing all thy sum of good;

For nothing this wide universe I call,

Save thou, my rose, in it thou art my all.

Ồ, đừng bao giờ nói rằng trái tim tôi không thành thật

Dù sự xa cách người yêu cho thấy tôi bình thản

Cũng dễ dàng như xa lìa chính mình

Khi trong tâm hồn tôi bầu ngực (trái tim) em vẫn ở

Đó là ngôi nhà của tình yêu, như tôi xếp loại

Giống như người đi xa, tôi quay trở lại

Đúng giờ, không thay đổi

Cho nên chính tôi mang nước rửa vết nhơ của mình

Sonnet 111

O! for my sake do you with Fortune chide,

The guilty goddess of my harmful deeds,

That did not better for my life provide

Than public means which public manners breeds.

Thence comes it that my name receives a brand,

And almost thence my nature is subdued

To what it works in, like the dyer's hand:

Pity me, then, and wish I were renewed;

Whilst, like a willing patient, I will drink

Potions of eisell 'gainst my strong infection;

No bitterness that I will bitter think,

Nor double penance, to correct correction.

Pity me then, dear friend, and I assure ye,

Even that your pity is enough to cure me.

Ôi, vì lợi ích của tôi anh nguyền rủa thần may mắn

Vị thần đáng trách vì những hành động có hại của tôi

Đã không cho cuộc sống của tôi điều tốt hơn

Hơn là xuất hiện trước công chúng để ảnh hưởng đến cách tôi cư xử

Từ đó tên tôi nhận tiếng xấu

Và hầu như từ đó bản tính tự nhiên của tôi biến đổi

Theo nơi mình làm việc, giống như bàn tay người thợ nhuộm

Thương lấy tôi, và tôi ước tôi được tái sinh

Trong khi giống như người bệnh ngoan ngoãn tôi sẽ uống

Thuộc độc chống lại sự đầu độc mạnh hơn

Không có sự cay đắng nào tôi sẽ nghĩ

Cũng không phải sự hối hận gấp đôi để chỉnh lại sự đúng đắn

Thương lấy tôi, bạn yêu mến, tôi đảm bảo với anh rằng

Chỉ sự thương xót của anh cũng đủ chữa trị cho tôi

Sonnet 112

Your love and pity doth the impression fill,

Which vulgar scandal stamped upon my brow;

For what care I who calls me well or ill,

So you o'er-green my bad, my good allow?

You are my all-the-world, and I must strive

To know my shames and praises from your tongue;

None else to me, nor I to none alive,

That my steeled sense or changes right or wrong.

In so profound abysm I throw all care

Of others' voices, that my adder's sense

To critic and to flatterer stopped are.

Mark how with my neglect I do dispense:

You are so strongly in my purpose bred,

That all the world besides methinks y'are dead.

Tình yêu và lòng thương của em đủ đền bù

Cho những hành động đáng xấu hổ đóng dấu lên vầng trán tôi

Vì tôi quan tâm gì đến những người nói tôi tốt hay xấu

Miễn là em phớt lờ những điều xấu và chỉ quan tâm đến điều tốt

Em là cả thế giới của tôi, và tôi phải cố gắng

Biết được những điều đáng hổ thẹn và những lời ca ngợi dành cho tôi từ miệng em

Không ai bận tâm đến tôi, tôi cũng không bận tâm đến ai

Cảm giác của tôi/ sự thay đổi đúng hay sai

Trong thẳm sâu tôi ném đi tất cả mối bận tâm

Về những lời của người khác, mà cảm giác buốt nhói phê phán hay tâng bốc

Sonnet 113

Since I left you, mine eye is in my mind;

And that which governs me to go about

Doth part his function and is partly blind,

Seems seeing, but effectually is out;

For it no form delivers to the heart

Of bird, of flower, or shape which it doth latch:

Of his quick objects hath the mind no part,

Nor his own vision holds what it doth catch;

For if it see the rud'st or gentlest sight,

The most sweet favour or deformed'st creature,

The mountain or the sea, the day or night,

The crow, or dove, it shapes them to your feature.

Incapable of more, replete with you,

My most true mind thus maketh mine eye untrue.

43

Từ khi tôi rời xa em, những gì trong mắt tôi nằm trong đầuP42F

Đôi mắt cho phép tôi nhìn ra xung quanh

Chỉ tập trung một nửa, và một nửa bị mù

Có vẻ nhìn, nhưng không hiệu quả

Vì nó không đi đến trọng tâm

Như chim, hoa hay bất kì hình dạng nào

Trí óc không thể nhanh chóng nắm bắt sự vật

Cũng không thể giữ những gì mình nhìn thấy

Bởi bất cứ thứ gì nó nhìn thấy, ở dạng nguyên thủy hay dịu dàng nhất hay đã bị biến

dạng

Là núi hay biển, là ngày hay đêm

Là quạ hay bồ câu nó đều tạo hình ảnh chúng giống với đặc điểm của em

Không thể làm gì khác, chứa đầy hình ảnh em,

Cái đầu chân thật của tôi khiến tôi nhìn mọi thứ trở nên không thật

Sonnet 114

Or whether doth my mind, being crowned with you,

Drink up the monarch's plague, this flattery?

Or whether shall I say, mine eye saith true,

And that your love taught it this alchemy,

To make of monsters and things indigest

Such cherubins as your sweet self resemble,

Creating every bad a perfect best,

43 Tôi quá bận tâm vì suy nghĩ, nên không nhìn mọi thứ bằng đôi mắt thông thường.

As fast as objects to his beams assemble?

O! 'tis the first, 'tis flattery in my seeing,

And my great mind most kingly drinks it up:

Mine eye well knows what with his gust is 'greeing,

And to his palate doth prepare the cup:

If it be poisoned, 'tis the lesser sin

That mine eye loves it and doth first begin.

Liệu có phải trí óc tôi, bị bao trùm bởi hình ảnh em

Uống lấy lời xu nịnh, vốn là bệnh của nhà vua?

Hay tôi nên nói rằng đôi mắt tôi nói thật

Và tình yêu của em đã cho nó một sức mạnh kì diệu

Khiến cho quái vật và những thứ hỗn độn

Trở nên thiên thần như sự đáng yêu của em

Làm mọi thứ tồi tệ trở nên hoàn hảo nhất

Nhanh chóng như những đối tượng hiện ra trước mắt

Ôi đó là thứ đầu tiên, lời tâng bốc trong mắt tôi

Và tâm trí tôi đã uống nó như ông vua nhận những lời xu nịnh

Đôi mắt tôi biết rõ tôi thích nhìn gì

Và đó là chiếc chén chuẩn bị cho khẩu vị của nó

Nếu đó là chén thuốc độc, cũng không có gì tội lỗi

Đôi mắt tôi sẽ nếm nó trước tiên

Sonnet 115

Those lines that I before have writ do lie,

Even those that said I could not love you dearer:

Yet then my judgment knew no reason why

My most full flame should afterwards burn clearer.

But reckoning Time, whose million'd accidents

Creep in 'twixt vows, and change decrees of kings,

Tan sacred beauty, blunt the sharp'st intents,

Divert strong minds to the course of altering things;

Alas! why, fearing of Time's tyranny,

Might I not then say, 'Now I love you best,'

When I was certain o'er incertainty,

Crowning the present, doubting of the rest?

Love is a babe, then might I not say so,

To give full growth to that which still doth grow?

Những dòng trước đây tôi viết là dối

Nhất là khi tôi nói không thể yêu em tha thiết hơn

Nhưng lương tâm tôi không biết rằng

Ngọn lửa sáng tạo ở đỉnh cao của tôi sau đó cháy hoàn toàn

Nhưng thời gian dần trôi, thứ có hàng triệu khả năng xảy ra

Len lỏi giữa lời thề, và thay đổi cả bản án của nhà vua

Làm sạm đi vẻ đẹp thiêng liêng, làm nhụt đi những ý định sắc bén nhất

Làm trệch hướng những trí tuệ mạnh mẽ thành quá trình thay đổi

Chao ôi, vì sao, sợ hãi sự bạo ngược của thời gian

Tôi đã không nói: “giờ (là lúc) tôi yêu em nhất”

Khi tôi chắc chắn vượt qua sự mông lung của thời gian

Tin tưởng vào sự hoàn thiện hiện tại, nghi ngờ tương lai

Tình yêu như một đứa trẻ, nên tôi không thể nói

một cái gì đã trưởng thành với thứ vẫn đang phát triển

Sonnet 116

Let me not to the marriage of true minds

Admit impediments. Love is not love

Which alters when it alteration finds,

Or bends with the remover to remove:

O, no! it is an ever-fixed mark,

That looks on tempests and is never shaken;

It is the star to every wandering bark,

Whose worth's unknown, although his height be taken.

Love's not Time's fool, though rosy lips and cheeks

Within his bending sickle's compass come;

Love alters not with his brief hours and weeks,

But bears it out even to the edge of doom.

If this be error and upon me proved,

I never writ, nor no man ever loved.

Tôi không tin rằng sự đính ước (tình yêu) của hai người (yêu nhau) chân chính

Có thể bị trở ngại (vì lí do gì). Tình yêu không còn là tình yêu

Nếu nó thay đổi theo hoàn cảnh

Hay bị biến dạng bởi người nào đó muốn dịch chuyển (nó)

Ồ không, nó là cái mốc vĩnh cửu

Khi đối diện với giông tố và không bao giờ run rẩy

Nó là ngôi sao cho những con thuyền lạc lối

Giá trị của nó không thể đo đếm, dù có thể thấy được sự mãnh liệt

Tình yêu không nô lệ thời gian, dù môi đỏ má hồng

(sẽ thay đổi) trên con đường lưỡi hái thời gian đi qua

Tình yêu không thay đổi giống như giờ và ngày trôi qua

Mà sẽ tồn tại cho đến khi chạm lưỡi sắc của sự bạc phận

Nếu tôi được thấy những điều này sai

Tôi sẽ không bao giờ còn viết (bất cứ bài thơ nào) và không một người nào từng yêu

Sonnet 117

Accuse me thus: that I have scanted all,

Wherein I should your great deserts repay,

Forgot upon your dearest love to call,

Whereto all bonds do tie me day by day;

That I have frequent been with unknown minds,

And given to time your own dear-purchased right;

That I have hoisted sail to all the winds

Which should transport me farthest from your sight.

Book both my wilfulness and errors down,

And on just proof surmise accumulate;

Bring me within the level of your frown,

But shoot not at me in your waken'd hate;

Since my appeal says I did strive to prove

The constancy and virtue of your love.

Kết tội tôi thế này: rằng tôi đã thờ ơ

Trong khi lẽ ra tôi nên đáp lại những gì em xứng đáng được hưởng

Quên đi tình yêu thắm thiết (chân thành) của em

Khi mối quan hệ ràng buộc thêm ngày lại ngày

Tôi đã thường xuyên cùng với những người xa lạ

Và sử dụng thời gian lẽ ra dành cho em

Giống như lái con thuyền trước gió

Có thể đưa tôi xa khuất tầm nhìn em

Ghi lại tất cả sự cố ý và lỗi lầm của tôi

Và xem là chứng cớ cho những sai lầm chồng chất

Đặt tôi trước sự lạnh lùng của em

Nhưng đừng mang đến cho tôi sự ghét bỏ (tôi) đánh thức nơi em

Vì tự bảo vệ mình, tôi cố gắng chứng tỏ

Sự bền lòng và đức hạnh nơi tình yêu cảu em

Sonnet 123

No, Time, thou shalt not boast that I do change:

Thy pyramids built up with newer might

To me are nothing novel, nothing strange;

They are but dressings of a former sight.

Our dates are brief, and therefore we admire

What thou dost foist upon us that is old;

And rather make them born to our desire

Than think that we before have heard them told.

Thy registers and thee I both defy,

Not wondering at the present nor the past,

For thy records and what we see doth lie,

Made more or less by thy continual haste.

This I do vow and this shall ever be;

I will be true despite thy scythe and thee.

Không đâu, thời gian, ngươi không thể nói khoác rằng ta thay đổi

Kim tự tháp của ngươi được xây mới,

Với ta chẳng có vấn đề gì, không có gì lạ

Chúng chỉ là bộ quần áo mới của hình dáng cũ

Thời gian của chúng ta ngắn, vì vậy ta ngưỡng mộ

Những gì ngươi gán cho là già

Cả sổ ghi chép của ngươi, cả ngươi ta đều thách thức

Không băn khoăn về hiện tại hay quá khứ

Vì cả sổ sách của ngươi hay cái gì ta thấy đều là nói dối

Bị thêm hoặc bớt bởi sự vội vàng hấp tấp của ngươi

Đây là lời ta hứa và nó sẽ mãi là thế:

Ta có sự thật trong những bài thơ, bất chấp ngươi và lưỡi hái của ngươi

Sonnet 128

How oft when thou, my music, music play'st,

Upon that blessed wood whose motion sounds

With thy sweet fingers when thou gently sway'st

The wiry concord that mine ear confounds,

Do I envy those jacks that nimble leap,

To kiss the tender inward of thy hand,

Whilst my poor lips which should that harvest reap,

At the wood's boldness by thee blushing stand!

To be so tickled, they would change their state

And situation with those dancing chips,

O'er whom thy fingers walk with gentle gait,

Making dead wood more bless'd than living lips.

Since saucy jacks so happy are in this,

Give them thy fingers, me thy lips to kiss.

Bao lâu một lần thì em, niềm vui của tôi, chơi đàn

Trên phím gỗ hạnh phúc mà sự chuyển động của nó

Cùng với những ngón tay ngọc ngà của em khi em đu đưa thanh nhã

Những hòa âm tuyệt diệu khuất phục đôi tai tôi

Tôi thật ghen tị với những phím đàn nhảy nhót nhanh nhẹn

Được hôn phần da mềm mại trong lòng tay em

Trong khi đôi môi bạc phận của tôi nên được hưởng điều đó

Nhìn vào sự trơ trẽn của cây đàn bên em mà đỏ mặt

Được thỏa mãn như vậy, chúng (môi tôi) sẵn sàng thay đổi địa vị

Và vị trí bởi thứ đang nhảy nhót

Trên những ngón tay em đang dạo những nốt thiên thần

Thành một cây gỗ chết hạnh phúc hơn làn môi sống

Vì những phím đàn bảnh chọe quá hạnh phúc trong trường hợp này

Hãy đưa chúng ngón tay em và cho tôi làn môi em để hôn

Sonnet 131

Thou art as tyrannous, so as thou art,

As those whose beauties proudly make them cruel;

For well thou know'st to my dear doting heart

Thou art the fairest and most precious jewel.

Yet, in good faith, some say that thee behold,

Thy face hath not the power to make love groan;

To say they err I dare not be so bold,

Although I swear it to myself alone.

And to be sure that is not false I swear,

A thousand groans, but thinking on thy face,

One on another's neck, do witness bear

Thy black is fairest in my judgment's place.

In nothing art thou black save in thy deeds,

And thence this slander, as I think, proceeds.

Em như thể một bạo chúa, cũng giống như

Những người phụ nữ mà vẻ đẹp lộng lẫy làm họ trở nên tàn nhẫn

Vì em hiểu rõ trong trái tim yêu thương tha thiết của tôi

Em là người đẹp nhất và là báu vật quý giá nhất

Nhưng, một cách thành thật, một số người nói rằng họ thấy

Gương mặt em không có sức mạnh để khiến người khác rên rỉ vì yêu

Tôi không đủ dũng cảm để nói rằng họ sai lầm

Dù tôi tự nói với mình như vậy

Và tôi chắc chắn không chỉ tôi nói sai

Mà hàng ngàn người như vậy, khi nhìn gương mặt em

Sonnet 138

When my love swears that she is made of truth,

I do believe her though I know she lies,

That she might think me some untutored youth,

Unlearned in the world's false subtleties.

Thus vainly thinking that she thinks me young,

Although she knows my days are past the best,

Simply I credit her false-speaking tongue:

On both sides thus is simple truth suppressed:

But wherefore says she not she is unjust?

And wherefore say not I that I am old?

O! love's best habit is in seeming trust,

And age in love, loves not to have years told:

Therefore I lie with her, and she with me,

And in our faults by lies we flattered be.

Khi người yêu tôi thề rằng cô ấy chỉ nói sự thật

Tôi tin tưởng cô ấy mặc dù biết cô nói dối

Đến mức cô ấy có thể nghĩ rằng tôi là một người trẻ tuổi ngây thơ

Mù mờ về sự phức tạp mơ hồ (huyền hoặc sai lầm) của thế giới

Với ý nghĩ tự phụ (tôi xem như) cô ấy nghĩ tôi trẻ

Mặc dù cô biết rằng những ngày đẹp nhất của tôi đã trôi qua

Tôi tin một cách đơn giản vào những lời nói dối của nàng

Cả hai chúng tôi đều giấu sự thật với người kia

Nhưng vì sao cô không nhận cô không đúng ?

Và vì sao tôi không thừa nhận tôi đã già ?

ồ, thói quen tốt nhất của tình yêu là có vẻ thành thật

và tuổi tác trong tình yêu, người yêu không muốn nói

Vì thế tôi nói dối cô ấy, và cô ấy cũng làm thế với tôi

Và bằng lời nói dối chúng tôi được nịnh nọt

Sonnet 139

O! call not me to justify the wrong

That thy unkindness lays upon my heart;

Wound me not with thine eye, but with thy tongue:

Use power with power, and slay me not by art,

Tell me thou lov'st elsewhere; but in my sight,

Dear heart, forbear to glance thine eye aside:

What need'st thou wound with cunning, when thy might

Is more than my o'erpressed defence can bide?

Let me excuse thee: ah! my love well knows

Her pretty looks have been mine enemies;

And therefore from my face she turns my foes,

That they elsewhere might dart their injuries:

Yet do not so; but since I am near slain,

Kill me outright with looks, and rid my pain.

Ồ, đừng yêu cầu tôi thanh minh cho sai lầm

Mà sự lạnh lùng của em đánh vào trái tim tôi

Dừng làm tổn thương tôi bằng đôi mắt mà hãy nói ra lời

Dùng sức mạnh bằng khả năng, đừng giết tôi bằng nghệ thuật

Nói cho tôi biết rằng em đã yêu người khác, nhưng trong tầm mắt tôi

Người yêu dấu, kìm chế cái nhìn của em về hướng khác

Sao em cần phải làm tổn thương tôi bằng sự khéo léo, trong khi sức mạnh của em

Lớn hơn khả năng tôi có thể đương đầu ?

Hãy để tôi bào chữa cho em : à, người yêu của tôi biết rằng

Cái nhìn đẹp của cô ấy có thể gây hại cho tôi

Và vì thế từ gương mặt tôi cô ấy nhìn sang kẻ thù của tôi

Để chúng có thể phóng lao về phía khác

Nhưng đừng làm thế, bởi từ khi tôi tiến gần đến cái chết

Giết tôi chết tươi bằng cái nhìn, và giải thoát cho tôi khỏi đau khổ

Sonnet 141

In faith I do not love thee with mine eyes,

For they in thee a thousand errors note;

But 'tis my heart that loves what they despise,

Who, in despite of view, is pleased to dote.

Nor are mine ears with thy tongue's tune delighted;

Nor tender feeling, to base touches prone,

Nor taste, nor smell, desire to be invited

To any sensual feast with thee alone:

But my five wits nor my five senses can

Dissuade one foolish heart from serving thee,

Who leaves unswayed the likeness of a man,

Thy proud heart's slave and vassal wretch to be:

Only my plague thus far I count my gain,

That she that makes me sin awards me pain.

Thật lòng tôi không yêu em bằng đôi mắt

Vì chúng nhìn thấy ở em hàng nghìn khiếm khuyết

Mà đó là trái tim tôi, trái tim yêu những gì đôi mắt xem thường

Thứ mà, bất chấp vẻ bề ngoài của em

Không phải đôi tai hài lòng với giọng nói của em

Cũng không phải cảm giác dựa trên sự tiếp xúc

Không phải hương vị, mùi, ham muốn được mời gọi

Tới bất cứ ham muốn xác thịt nào

Nhưng cả thần trí và năm giác quan của tôi cũng không thể

Can ngăn trái tim rồ dại phục vụ em

Sonnet 143

Lo, as a careful housewife runs to catch

One of her feather'd creatures broke away,

Sets down her babe, and makes all swift dispatch

In pursuit of the thing she would have stay;

Whilst her neglected child holds her in chase,

Cries to catch her whose busy care is bent

To follow that which flies before her face,

Not prizing her poor infant's discontent;

So runn'st thou after that which flies from thee,

Whilst I thy babe chase thee afar behind;

But if thou catch thy hope, turn back to me,

And play the mother's part, kiss me, be kind;

So will I pray that thou mayst have thy 'Will,'

If thou turn back and my loud crying still.

Trông kìa, giống như bà mẹ chu đáo chạy đuổi bắt

Một trong những đứa trẻ thiên thần chạy thoát

Đặt đứa trẻ của cô ấy xuống, và mải mê nhanh chóng

Đuổi theo thứ mà cô ấy muốn có

Trong khi đứa trẻ bị thờ ơ đuổi theo giữ cô ấy

Khóc vì cố gắng bắt kịp cô ấy, người bận rộn quan tâm đến sở thích

Đuổi theo những thứ bay qua trước mặt cô ấy

Không quan tâm đến đứa bé bất hạnh

Giống như vậy, em chạy sau thứ rời bỏ em

Trong khi tôi giống như đứa trẻ của em chạy theo xa phía sau

Nhưng nếu em bắt kịp hi vọng, quay lại với tôi

Và làm phần việc của người mẹ, hôn tôi một cách nhẹ nhàng

Tôi sẽ cầu nguyện rằng em có thể đạt được mong muốn

Miễn là em quay lại và làm ngừng tiếng khóc tôi

Sonnet 144

Two loves I have of comfort and despair,

Which like two spirits do suggest me still:

The better angel is a man right fair,

The worser spirit a woman coloured ill.

To win me soon to hell, my female evil,

Tempteth my better angel from my side,

And would corrupt my saint to be a devil,

Wooing his purity with her foul pride.

And whether that my angel be turned fiend,

Suspect I may, yet not directly tell;

But being both from me, both to each friend,

I guess one angel in another's hell:

Yet this shall I ne'er know, but live in doubt,

Till my bad angel fire my good one out.

Tôi yêu hai người, một người mang đến cho tôi sự dễ chịu, một người làm tôi thất

vọng

Giống như hai thiên thần vẫn gợi hứng cho tôi

Thiên thần tốt hơn là một người đàn ông có mái tóc vàng xinh đẹp

Người tệ hơn là một phụ nữ màu da xấu

Dể đưa tôi nhanh chóng về địa ngục, người phụ nữ độc ác (xấu xí)

Gắng sức quyến rũ thiên thần đẹp hơn bên cạnh tôi

Và khiến cho vị thánh của tôi thành ma quỷ

Ve vãn sự thuần khiết của anh bằng sự kiêu hãnh xấu xa của cô

Và liệu thiên thần của tôi có biến thành quỷ sứ

Tôi chỉ có thể nghi ngờ mà không nói được chính xác

Nhưng từ khi họ rời khỏi tôi, làm bạn với nhau

Tôi đoán một thiên thần đang ở địa ngục của người còn lại

Điều này tôi không bao giờ biết được, chỉ sống trong nghi ngờ

Cho đến khi thiên thần xấu xí đuổi người tốt ra

Sonnet 145

Those lips that Love's own hand did make,

Breathed forth the sound that said 'I hate',

To me that languished for her sake:

But when she saw my woeful state,

Straight in her heart did mercy come,

Chiding that tongue that ever sweet

Was used in giving gentle doom;

And taught it thus anew to greet;

'I hate' she altered with an end,

That followed it as gentle day,

Doth follow night, who like a fiend

From heaven to hell is flown away.

'I hate', from hate away she threw,

And saved my life, saying 'not you'.

Những lời trên đôi môi mà nữ thần tình yêu tạo ra

Thở ra âm thanh mang lời : tôi ghét

Với tôi, người héo mòn vì yêu cô ấy

Nhưng khi cô ấy nhìn thấy trạng thái khốn khổ của tôi

Lòng tốt (sự thương cảm) đã xuất hiện trong trái tim cô ấy

Xem lại những người đã từng ngọt ngào

Từng sử dụng cái miệng để đưa ra những lời dịu dàng

Và bảo nó một lần nữa chào hỏi

Tôi ghét cô ấy cuối cùng thay đổi

Giống như sự tiếp theo của ngày

Thay thế đêm, giống như quỷ sứ

Từ thiên đường bị đuổi về địa ngục

“Tôi ghét” – từ ghét bỏ cô ấy ném ra

Một lời cứu sống tôi: không phải anh

Sonnet 147

My love is as a fever longing still,

For that which longer nurseth the disease;

Feeding on that which doth preserve the ill,

The uncertain sickly appetite to please.

My reason, the physician to my love,

Angry that his prescriptions are not kept,

Hath left me, and I desperate now approve

Desire is death, which physic did except.

Past cure I am, now Reason is past care,

And frantic-mad with evermore unrest;

My thoughts and my discourse as madmen's are,

At random from the truth vainly expressed;

For I have sworn thee fair, and thought thee bright,

Who art as black as hell, as dark as night.

Tình yêu của tôi giống như cơn sốt, vẫn tiếp tục khao khát

Những thứ gây nên bệnh tật

Nuôi dưỡng để kéo dài cơn bệnh

Làm hài lòng ham muốn bệnh tật của mình

Lí trí tôi, vị bác sĩ của tình yêu

Giận dữ vì đơn thuốc của ông ta không được sử dụng

Rời xa tôi, và tôi tuyệt vọng chấp nhận

Ham muốn là chết, cái mà thuốc đã loại trừ

Tôi đã được cứu chữa một nửa, nhưng giờ lí trí tôi không đề phòng

Và điên cuồng bởi sự bồn chồn không thôi

Suy nghĩ và lời nói của tôi giống như một người điên

Nói ra những lời bất chợt từ những biểu hiện vô nghĩa

Vì tôi đã thừa nhận rằng em đẹp, nghĩ rằng em lộng lẫy

Trong khi em đen như địa ngục, tối như đêm

Sonnet 150

O! from what power hast thou this powerful might,

With insufficiency my heart to sway?

To make me give the lie to my true sight,

And swear that brightness doth not grace the day?

Whence hast thou this becoming of things ill,

That in the very refuse of thy deeds

There is such strength and warrantise of skill,

That, in my mind, thy worst all best exceeds?

Who taught thee how to make me love thee more,

The more I hear and see just cause of hate?

O! though I love what others do abhor,

With others thou shouldst not abhor my state:

If thy unworthiness raised love in me,

More worthy I to be beloved of thee.

Chao ôi, từ đâu em có được nguồn sức mạnh (không thể tưởng tượng, khó tin)

Để thống trị trái tim tôi bất kể sự bất toàn nơi em?

Để khiến tôi lừa dối chính cái nhìn của mình (những gì mình nhìn thấy)

Và nói rằng (cam đoan) sự rực rỡ không tỏa sáng trong ngày?

Do đâu em làm cho những điều xấu trong những hành động cua rem

Có sức mạnh và sự bảo đảm của năng lực

Khiến trong tâm trí tôi, những hành động tồi tệ nhất của em còn tốt hơn những hành

động tốt nhất của người khác

Ai đã chỉ cho em cách khiến tôi yêu em càng nhiều hơn

Khi tôi càng nghe và nhìn thấy những lí do để ghét em ?

Ôi, dù tôi yêu những gì người khác ghét

Em không nên hùa theo họ khinh bỉ tôi

Nếu như sự không đáng giá của em làm nảy sinh tình yêu trong tôi

Tôi càng đáng được em yêu nhiều hơn