ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
NGUYỄN THỊ BÍCH HẠNH
CAO BẰNG - ĐẤT VĂN CHƢƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
Thái Nguyên, 2015
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
NGUYỄN THỊ BÍCH HẠNH
CAO BẰNG - ĐẤT VĂN CHƢƠNG
Chuyên ngành: Văn học Việt nam
Mã số: 60.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Thị Việt Trung
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
Thái Nguyên, 2015
LỜI CẢM ƠN
Bằng sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn
PGS.TS Trần Thị Việt Trung - người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, các thầy cô giáo khoa Ngữ
văn, khoa Sau đại học trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã giúp
đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu tại
trường.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Hội văn học nghệ thuật tỉnh Cao Bằng, cảm
ơn nhà thơ, nhà văn Hoàng Triều Ân, nữ nhà văn Đoàn Ngọc Minh đã tận
tình giúp đỡ và cung cấp cho tôi những thông tin, tư liệu quý báu để tôi hoàn
thành luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè đã
động viên, quan tâm, chia sẻ và tạo điều kiện giúp tôi hoàn thành tốt luận
văn này.
Thái Nguyên, tháng 08 năm 2015
TÁC GIẢ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Nguyễn Thị Bích Hạnh
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi dƣới sự hƣớng
dẫn của PGS.TS. Trần Thị Việt Trung. Các kết quả nêu trong luận văn này là
trung thực và chƣa từng công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 08 năm 2015
TÁC GIẢ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Nguyễn Thị Bích Hạnh
ii
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ........................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................... 9
3.1 Mục đích nghiên cứu ............................................................................. 9
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................ 9
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 10
4.1 Đối tƣợng nghiên cứu .......................................................................... 10
4.2. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 10
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................... 10
6. Ý nghĩa và dự kiến đóng góp..................................................................... 11
7. Bố cục luận văn ......................................................................................... 11
PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................ 12
Chƣơng 1 CAO BẰNG - VÙNG ĐẤT BIÊN CƢƠNG GIÀU TRUYỀN
THỐNG ............................................................................................................. 12
LỊCH SỬ, TRUYỀN THỐNG VĂN CHƢƠNG .............................................. 12
1.1. Cao Bằng - mảnh đất vùng cao biên giới hùng vĩ và đa dạng ................ 12
1.2. Cao Bằng - mảnh đất có truyền thống lịch sử hào hùng ........................ 16
1.3. Cao Bằng - mảnh đất giầu truyền thống văn chƣơng ............................. 20
Chƣơng 2 VĂN HỌC CAO BẰNG - DIỆN MẠO VÀ ĐẶC ĐIỂM ............... 26
2.1. Đội ngũ sáng tác ngày càng đông đảo, nối tiếp nhau liên tục phát triển 27
2.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975............................................. 27
2.1.2 Giai đọan từ năm 1975 đến năm 2000 .............................................. 28
2.1.3. Giai đoạn 15 năm đầu thế kỷ XXI ................................................... 29
2.2. Văn học Cao Bằng phát triển một cách toàn tƣơng đối diện và phong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
http://www.lrc.tnu.edu.vn
iii
phú ................................................................................................................. 31
2.2.1. Cao Bằng - mảnh đất giàu truyền thống thơ ca ............................... 31
2.2.2. Văn xuôi Cao Bằng.......................................................................... 40
2.2.3. Nghiên cứu sƣu tầm và phê bình văn học ....................................... 50
2.3. Văn học Cao Bằng - những thành tựu và những thách thức trong thời kỳ
mới ................................................................................................................. 54
Chƣơng 3 MỘT SỐ TÁC GIẢ TIÊU BIỂU ...................................................... 60
3.1. Nhà thơ Dao - Bàn Tài Đoàn ngƣời đặt nền móng cho văn học Cao Bằng
thời kỳ hiện đại .............................................................................................. 60
3.2. Y Phƣơng - nhà thơ Tày xuất sắc của Cao Bằng .................................... 69
3.3. Cao Duy Sơn - ngƣời đƣa văn xuôi DTTS lên một tầm cao mới ........... 80
3.4. Hoàng Triều Ân - Nhà văn hóa, nhà “Tày học” của quê hƣơng Cao Bằng .. 91
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 100
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 104
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
http://www.lrc.tnu.edu.vn
iv
PHỤ LỤC I ...................................................................................................... 111
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Cao Bằng là một tỉnh miền núi vùng cao biên giới phía Bắc của Tổ quốc,
là một vùng non nƣớc hùng vĩ và là nơi chứa đựng đầy các chiến tích, kỳ tích
lịch sử chống giặc giữ nƣớc; nơi chứa đựng những truyền thống văn hóa phong
phú và đặc sắc của các tộc ngƣời dân tộc thiểu số (DTTS) vùng biên viễn của
đất nƣớc. Phải chăng vì thế mà mảnh đất Cao Bằng từ xƣa tới nay đã sinh ra
biết bao võ tƣớng anh hùng, và cũng đã sản sinh ra bao thế hệ nhà thơ, nhà văn
ngƣời DTTS nổi tiếng của địa phƣơng, khu vực cũng nhƣ của cả nƣớc.
Đứng trên phƣơng diện sáng tác văn chƣơng - trong các tỉnh miền núi
phía Bắc nói riêng, các tỉnh có nhiều đồng bào ngƣời DTTS nói chung thì Cao
Bằng là tỉnh có số lƣợng nhà văn, nhà thơ DTTS nhiều nhất và cũng là mảnh
đất sinh ra nhiều cây bút DTTS tiêu biểu, xuất sắc nhất. Từ thế kỷ thứ XVII,
Cao Bằng đã xuất hiện các nhà thơ Tày nhƣ: Bế Văn Phụng, Nông Quỳnh Văn
với các trƣờng ca viết bằng chữ Nôm Tày (nhƣ Tam nguyên luận, và Lƣợn tứ
quý). Đến thế kỷ thứ XIX, văn chƣơng Cao Bằng lại đƣợc ghi nhận với sự xuất
hiện của nhà thơ Tày nổi tiếng Hoàng Đức Hậu - ngƣời đã sáng tác bằng cả ba
thứ ngôn ngữ Tày, Hán và Quốc ngữ với hơn 120 bài thơ đã thu hút đƣợc khá
nhiều nhà nghiên cứu phê bình sƣu tầm và tìm hiểu.
Sang thế kỷ thứ XX, Cao Bằng vẫn tiếp tục khẳng định đây là một địa
phƣơng có truyền thống văn chƣơng khi đã sinh ra các nhà văn, nhà thơ mở đầu
cho bộ phận văn học các DTTS hiện đại của cả nƣớc nhƣ Bàn Tài Đoàn, Vi
Hồng… và một loạt các cây bút thơ, văn xuôi thuộc các thế hệ sau nhƣ: Hoàng
Triều Ân, Bế Thành Long, Hà Ngọc Thắng, Y Phương, Triệu Lam Châu,
Nguyễn Hữu Tiến, Cao Duy Sơn, Trần Hùng, Đoàn Ngọc Minh, Đoàn Lư,
Triệu Thị Mai, Bế Phương Mai...; cùng các cây bút nghiên cứu, sƣu tầm và phê
bình văn học DTTS nhƣ: Triều Ân, Hoàng Quảng Uyên, Thu Bình… Các thế hệ
nhà văn, nhà thơ DTTS Cao Bằng cũng chính là những tác giả có nhiều đóng
1
góp cho sự phát triển của văn học DTTS Việt Nam thời kỳ hiện đại. Trong đó
có những cây bút DTTS tiêu biểu, xuất sắc, có nhiều thành tựu và đã đạt nhiều
giải thƣởng cao về Văn học nghệ thuật của quốc gia, quốc tế nhƣ: Nhà văn Vi
Hồng,nhà thơ Bàn Tài Đoàn, nhà thơ Y Phương, nhà văn Cao Duy Sơn, nhà
nghiên cứu, phê bình Triều Ân… Chính vì thế, có thể nói rằng: Cao Bằng chính
là mảnh đất có truyền thống văn chương, mảnh đất sản sinh ra nhiều thế hệ nhà
văn, nhà thơ DTTS xuất sắc, có nhiều đóng góp cho sự phát triển của văn học
các DTTS nói riêng và cho nền văn học dân tộc Việt nói chung. Vì vậy, nghiên
cứu về văn học Cao bằng cũng chính là nghiên cứu về văn học của một địa
phương miền núi tiêu biểu, có nhiều thành tựu đã đƣợc ghi nhận và khẳng định;
là nghiên cứu một vùng văn chương mang đậm bản sắc văn hóa các DTTS
vùng biên viễn của Tổ quốc Việt Nam.
Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo có chủ trƣơng giảng dạy văn học địa
phƣơng cho học sinh các trƣờng Trung học phổ thông và Trung học cơ sở. Nếu
đề tài nghiên cứu thành công sẽ là một tài liệu tham khảo hữu ích giúp cho việc
giảng dạy văn học địa phƣơng ở Cao Bằng đƣợc hệ thống sâu sắc và đầy đủ
hơn.
Bản thân tôi là một ngƣời con của mảnh đất Cao Bằng, với tình cảm yêu
quý và tự hào về mảnh đất giàu truyền thống văn hóa, văn học, giàu truyền
thống lịch sử của tỉnh mình - tôi đã lựa chọn đề tài này để thể hiện tình yêu của
mình đối với quê hƣơng; đồng thời mong muốn đóng góp một tiếng nói để
khẳng định vẻ đẹp văn về văn hóa, văn học của địa phƣơng mình, khẳng định
sự đóng góp đáng trân trọng của các thế hệ nhà văn, nhà thơ của Cao Bằng đối
với đời sống văn học các DTTS nói riêng và đối với văn học Việt Nam hiện đại
nói chung.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Có thể khẳng định rằng: Văn học Cao Bằng đã đạt đƣợc nhiều thành tựu
trong thời kỳ hiện đại, thế nhƣng việc nghiên cứu văn học ở vùng đất này còn
2
khá khiêm tốn. Cho tới nay, theo khảo sát của chúng tôi thì vẫn chƣa có một
công trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách hệ thống và thấu đáo về văn
học Cao Bằng (cả về văn học dân gian cũng nhƣ văn học viết thời kỳ hiện đại).
Tuy nhiên trong rất nhiều các công trình nghiên cứu chung về văn học các
DTTS Việt Nam nói chung thì văn học Cao Bằng với các cây bút tiêu biểu của
mình đã đƣợc nhiều nhà nghiên cứu nhắc tới. Chúng tôi xin đƣợc điểm qua về
tình hình nghiên cứu về văn học Cao Bằng cụ thể nhƣ sau:
Đầu tiên có thể kể đến tên một số công trình nghiên cứu có sự giới thiệu
một cách khái quát về những thành tựu và hạn chế của văn học DTTS trong đó
có nhắc tới các nhà văn, nhà thơ của Cao Bằng nhƣ các cuốn: Đƣờng ta đi
(1972), Chặng đƣờng thơ mới (1985), Tuyển tập Văn học Dân tộc và miền
núi (1998), và Mấy suy nghĩ về văn học các DTTS ở Việt Bắc (1976) của tác
giả Nông Quốc Chấn (trong tác phẩm của mình, ông đã nhắc đến Hoàng Đức
Hậu - nhà thơ của Cao Bằng nhƣ một nhà tƣ tƣởng tiến bộ: “Trong lúc rất
nhiều người vẫn nghĩ là mọi cảnh vật ở trên mặt đất này đều do ông trời định
ra, thì nhà thơ Hoàng Đức Hậu đã dám nói trái lại “Chúa Vũ đào thác nước”
quả là một nhà tư tưởng tiến bộ, tư tưởng quý trọng con người, rất đáng khâm
phục” [18, tr.72]); 40 năm văn hóa nghệ thuật các DTTS Việt Nam 1945 -
1985 (1985) do Phong Lê chủ biên; Nét đẹp văn hóa trong thơ văn và ngôn
ngữ dân tộc (1999) của Hoàng Văn An,... Đặc biệt, trong khoảng 20 năm trở
lại đây đã xuất hiện khá nhiều những công trình với định hƣớng nghiên cứu về
văn hóa,văn học các DTTS của các nhà nghiên cứu, nhà khoa học thuộc khu
vực miền núi phía Bắc, nhất là của Đại học Thái Nguyên - một Đại học trọng
điểm quốc gia đặt tại khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam.
Trƣớc tiên phải kể đến nhà giáo, nhà nghiên cứu phê bình DTTS Lâm
Tiến với các công trình nghiên cứu: Văn học các DTTS Việt Nam hiện đại (
năm 1995); Văn học các dân tộc thiểu số (năm 1997); Về một mảng văn học
dân tộc (1999); Văn học và miền núi - Phê bình tiểu luận (năm 2002) và
3
Tiếp cận văn học DTTS(năm 2011)… Trong các công trình của mình, tác giả
Lâm Tiến đã phác họa lên cả một diện mạo văn học DTTS Việt Nam thời kỳ
hiện đại với các nhà thơ, nhà văn qua các giai đoạn lịch sử, trong đó các tác giả
ngƣời Cao Bằng đƣợc nhắc đến với những cái tên nhƣ: Hoàng Đức Hậu, Bàn
Tài Đoàn, Triều Ân, Vi Hồng, Y Phương, Cao Duy Sơn, Hoàng Quảng
Uyên…Tác giả đã khẳng định:. “nhờ có nó (Văn học DTTS) mà có những cái
con người ta không thể tìm thấy trong văn học Kinh lại tìm thấy trong văn học
các DTTS. Không ai có thể khắc họa tâm hồn, tính cách của dân tộc Tày như
thơ Hoàng Đức Hậu, Nông Quốc Chấn, Y phương, Dương Thuấn và tiểu thuyết
của Vi Hồng, Cao Duy Sơn.Cũng không ai có thể làm thay Y Phương làm cái
cầu bắc nhịp, giao thoa văn học giữa các dân tộc” [71, Tr.240,241]. Tuy nhiên,
nhà nghiên cứu phê bình Lâm Tiến cũng đã chỉ ra những điểm mạnh cũng nhƣ
hạn chế của bộ phận Văn học DTTS trong thời kỳ này là: “Khác với văn học
dân tộc Kinh, các tác giả trẻ tuổi của văn học các DTTS ngày càng ít đi. Y
Phương, Dương Thuấn, Cao Duy Sơn được coi là lớp nhà văn buổi giao thời
của dân tộc Tày còn được tắm mình một cách tự nhiên trong nguồn mạch văn
hóa trong lành của dân tộc, lại có điều kiện tiếp xúc với văn học Kinh và văn
học thế giới hiện đại, nên đã kết hợp được trong con người họ sự nhuần nhụy
giữa truyền thống và hiện đại” [71, tr.242].
Đặc biệt là tác giả Trần Thị Việt Trung - Một trong những chuyên gia
nghiên cứu về văn học DTTS Việt Nam hiện đại - trong khoảng 10 năm gần
đây đã cho ra đời khá nhiều cuốn sách nghiên cứu, phê bình về mảng văn học
DTTS (với vai trò viết độc lập, Chủ biên hoặc Đồng chủ biên) và công bố trên
20 bài nghiên cứu về văn học DTTS trên các Tạp chí Trung ƣơng và Tạp chí
của các Trƣờng Đại học, trong đó nổi bật là các công trình nghiên cứu về văn
học DTTS nhƣ: Bản sắc dân tộc trong thơ các DTTS Việt Nam hiện đại
(Chủ biên, năm 2010), Văn học DTTS Việt Nam thời kỳ hiện đại - Một số
đặc điểm (Đồng chủ biên, năm 2011), Nghiên cứu, lí luận phê bình văn học
4
DTTS Việt Nam thời kỳ hiện đại (Chủ biên, năm 2013), và mới đây là cuốn
Văn học DTTS Việt Nam - Truyền thống và Hiện đại (Đồng chủ biên, năm
2014)... Trong các công trình nghiên cứu về Văn học DTTS xuất bản trên - có
nhiều lần, nhiều đoạn hoặc là cả một chƣơng tác giả đã giành viết những lời
nhận xét, đánh giá, phân tích và khẳng định về những nét đặc sắc, những đóng
góp quan trọng của các cây bút văn xuôi, thơ, nghiên cứu phê bình ngƣời Cao
Bằng. Tác giả đã nhắc đến Triều Ân - là một “Nhà văn dân tộc Tày đã tận tụy
cả đời với công việc nghiên cứu, sưu tầm VHDG Tày, phong phú và giàu có”
[77, tr.898]; nhà thơ Bàn Tài Đoàn: “hầu như tất cả thơ ông cùng hồn thơ ông
nhập cùng những bài dân ca, những bài hát giao duyên quen thuộc của dân tộc
mình. Họ thấy được tình yêu, mơ ước, khát vọng và lời tâm tình của cộng đồng
vốn đầy sức sống và tràn trề ân nghĩa với cuộc đời, với Đảng, với Bác Hồ” [77,
tr.823]. Tác giả Trần Thị Việt Trung cũng đã giới thiệu và khẳng định: “nhà
văn Hoàng Quảng Uyên - trên vùng đất địa đầu của Tổ quốc cũng là một nhà
văn vừa sáng tác, vừa hăng hái viết phê bình văn học”, và “Khoan hãy nói đến
giá trị khoa họccủa những cuốn sách này, chỉ riêng thái độ dũng cảm của nhà
văn trong việc đặt lại vấn đề hiểu, giảng về thơ Bác như thế nào cho chính xác
trong nhà trường các cấp - với các giáo sư, các nhà khoa học hiện nay cũng đủ
khiến người khác phải nể phục nhà văn của non nước Cao Bằng rồi” [77,
tr.896]…
Tiếp theo là tác giả Đào Thủy Nguyên với cuốn sách: Bản sắc văn hóa
dân tộc trong văn xuôi của các nhà văn DTTS Việt Nam (Chủ biên, năm
2014). Trong cuốn sách này, tác giả đã dành hai mục của chƣơng 4 để nói về 02
nhà văn Cao Bằng: nhà văn Vi Hồng (với tựa đề: Nhà văn Vi Hồng - Bản sắc
văn hóa dân tộc trong cảm hứng nhân văn truyền thống) [71, tr. 252] và nhà
văn Cao Duy Sơn (với tựa đề: Nhà văn Cao Duy Sơn - đến với hiện đại từ cội
ngồn văn hóa truyền thống) [71, tr.273] cùng một số bài nghiên cứu về Văn học
DTTS đăng trên các Tạp chí, trong Kỷ yếu hội thảo quốc gia, quốc tế khác đều có
5
nhắc đến một số tác giả tiêu biểu của Cao Bằng nhƣ: Bản sắc văn hóa dân tộc
trong văn xuôi các DTTS Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập (Tạp chí
Nghiên cứu văn học tháng 3/2013); Bản sắc văn hóa dân tộc qua hình ảnh thiên
nhiên trong văn xuôi các DTTS (Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số 220, tháng
5/2013)... Tác giả Cao Thị Hảo cũng là ngƣời đã giành nhiều tâm huyết cho việc
nghiên cứu văn học DTTS. Ngoài cuốn sách: Văn học DTTS Việt Nam thời kỳ
hiện đại - Một số đặc điểm (Đồng chủ biên với Trần Thị Việt Trung, năm 2011),
tác giả Cao Thị Hảo còn có một số bài nghiên cứu về văn học DTTS trong đó có
điểm đến các tác giả Cao Bằng đƣợc đăng tải trên các Tạp chí Trung ƣơng và của
Đại học Thái Nguyên.
Bên cạnh đó còn có một số tác giả khác cũng rất quan tâm với mảng đề
tài nghiên cứu về Văn học DTTS nhƣ tác giả: Nguyễn Đức Hạnh (Đồng chủ
biên với tác giả Trần Thị Việt Trung cuốn “Văn học Dân tộc thiểu số Việt
Nam - Truyền thống và hiện đại” - trong đó có các phần nghiên cứu về các
tác giả ngƣời Cao Bằng nhƣ: “Nguyên mẫu Hồ Chí Minh và hƣ cấu nghệ thuật
trong 2 tiểu thuyết Mặt trời Pác Bó và Giải phóng của nhà văn Hoàng Quảng
Uyên và Tiểu thuyết Đàn trời của Cao Duy Sơn dƣới góc nhìn văn hóa”, hoặc
tác giả Lê Thị Bích Hồng và Cao Thành Dũng với Bản sắc văn hóa Tày trong
tản văn Y Phƣơng…
Bên cạnh các công trình nghiên cứu chuyên sâu đã kể trên còn có nhiều
bài nghiên cứu lẻ đƣợc đăng trên các Tạp chí: Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam,
Văn học nghệ thuật các DTTS Việt Nam... của các tác giả nhƣ: Nguyễn Long,
Nguyễn Thế Thành, Bùi Thị Thu Trà, Nguyễn Thị Hải Anh…, cùng những bài
viết, những đề tài luận án, luận văn của các học viên Cao học và nghiên cứu
sinh của Đại học Thái Nguyên đã góp phần khẳng định giá trị và vai trò của
văn học các DTTS nói chung, của các nhà văn Cao Bằng nói riêng trong thời
kỳ hiện đại.
6
Là một trong những địa phƣơng có nhiều tên tuổi các cây bút ngƣời
DTTS thành công trong cả nƣớc, văn học Cao Bằng đã thu hút đƣợc khá nhiều
sự quan tâm của các nhà nghiên cứu phê bình văn học, đặc biệt là việc nghiên
cứu về những cây bút nổi tiếng của mảnh đất vùng cao biên giới này. Ví dụ
nhƣ:
Về nhà thơ dân tộc Dao Bàn Tài Đoàn đã có khá nhiều bài viết nhƣ: Văn
học ngƣời Dao - Ngƣời Dao với văn học (Triệu Kim Văn), Bản sắc văn hóa
Dao trong thơ Bàn Tài Đoàn (ThS. Bàn Quỳnh Giao), Bàn Tài Đoàn - Nhà
thơ đầu tiên của Ngƣời Dao (Mai Hoàng - đăng báo An ninh thủ đô ngày
12/4/2014)…cùng hàng chục bài viết về ông của nhiều nhà nghiên cứu trong
Hội thảo về nhà thơ Bàn Tài Đoàn (năm 2004) tại Cao Bằng…
Nhà thơ Y Phương - nhà thơ Tày tiêu biểu và xuất sắc với các tập thơ, tản
văn của mình đã khiến các nhà nghiên cứu phê bình tốn không ít giấy mực để
nghiên cứu và bình luận. Tiêu biểu nhƣ trong Hội thảo về Thơ Việt Nam hiện
đại với chủ đề Hội thảo: Văn học dân tộc miền núi và thiểu số - Từ “đèn dầu
leo lét”, đến xu hƣớng “lạ hóa” nhiều nhà nghiên cứu đã nhắc đến thơ Y
Phƣơng nhƣ một điểm sáng về sức sáng tạo và sự “lạ hóa” độc đáo về cả nội
dung, tƣ tƣởng và hình thức ngôn từ. Bên cạnh đó là hàng chục luận văn Thạc
sỹ ngành Ngữ văn nghiên cứu về các tác giả Cao Bằng nhƣ: Bảo Thu với Thế
giới nghệ thuật thơ Y Phƣơng; Nguyễn Thị Thu Huyền với Bản sắc Tày
trong thơ Y Phƣơng và Dƣơng Thuấn; Sùng Thị Hương với Đặc sắc tản văn
Y Phƣơng… Ngoài ra, trong những công trình nghiên cứu tổng hợp của các
nhà nghiên cứu nhƣ Triều Ân, Nông Quốc Chấn, Lâm Tiến, Trần Thị Việt
Trung, Vi Hồng, Hoàng An… đều có những bài viết, những chƣơng nghiên cứu
riêng về Y Phương,…
Đối với nhà văn Vi Hồng - mặc dù nhà văn xây dựng sự nghiệp chủ yếu
tại Thái Nguyên nhƣng nói về văn học Cao Bằng không thể không nói tới tác
giả đƣợc sinh ra tại mảnh đất này. Có rất nhiều những bài viết, công trình
7
nghiên cứu về nhà văn Vi Hồng, ví dụ nhƣ: Đề tài cấp Bộ của Phạm Mạnh
Hùng - Tìm hiểu sự nghiệp sáng tác của Nhà văn Vi Hồng (2006), và các
Luận văn thạc sĩ của: Hoàng Văn Huyên với đề tài Tính Dân tộc trong tiểu
thuyết của Vi Hồng, Lê Thị Bằng Giang với đề tài Hình tƣợng nhân vật phụ
nữ miền núi trong sáng tác của Vi Hồng và Tô Hoài, Nguyễn Thị Thu Hiền
với đề tài Lời văn nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng hay Thiều Thị
Phương Nga với đề tài Đặc điểm tiểu thuyết của Vi Hồng… Tất cả những
nghiên cứu trên đã chứng tỏ vị trí quan trọng cùng với những đóng góp đáng
đƣợc khẳng định và trân trọng của cây bút tiểu thuyết nổi tiếng của đất Cao
Bằng thời kỳ hiện đại này.
Bên cạnh đó còn rất nhiều bài viết, các công trình nghiên cứu phê bình
về các tác giả khác của Cao bằng nhƣ: Cao Duy Sơn, Triều Ân, Đoàn Lư…
Chẳng hạn nhƣ các bài: “Truyện ngắn Cao Duy Sơn từ góc nhìn văn hóa”
;Cội Nguồn văn hóa dân tộc trong truyện ngắn Cao Duy Sơn của Đào Thủy
Nguyên, cùng nhiều luận văn Thạc sĩ của học viên Cao học, đặc biệt là học viên
cao học của Đại học Thái Nguyên, ví dụ nhƣ: Thế giới nghệ thuật trong
truyện ngắn Cao Duy Sơn của Lý Thị Thu Phương, Tiểu thuyết Đàn Trời
của Cao Duy Sơn từ góc nhìn văn hóa của Cao Thành Dũng; Yếu tố tự sự
dân gian trong tiểu thuyết của Triều Ân của Trần Thị Hồng Nhung; Bản sắc
dân tộc trong văn xuôi Triều Ân của Hoàng Thị Vi…
Tóm lại qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy rằng: Trong các công trình
nghiên cứu chung về văn chƣơng các DTTS Việt Nam thì văn học Cao Bằng
cùng các cây bút tiêu biểu của tỉnh biên giới này đã đƣợc nhiều nhà nghiên cứu
phê bình nhắc tới, thậm chí đã có nhiều tác giả nổi tiếng của Cao Bằng cũng đã
đƣợc chú ý, nghiên cứu một cách khá công phu. Tuy nhiên, cho tới nay vẫn
chƣa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách hệ thống, khái quát và
toàn diện về văn học Cao Bằng - một mảnh đất giàu truyền thống văn chƣơng
và có nhiều đóng góp to lớn cho đời sống văn học các DTTS Việt Nam thời kỳ
8
hiện đại. Chính vì vậy, nghiên cứu về văn học Cao Bằng một cách hệ thống và
toàn diện sẽ làm sáng tỏ những nét đặc trƣng riêng của vùng đất giàu truyền
thống văn học này, cũng nhƣ đánh giá, khẳng định đƣợc những thành tựu cũng
nhƣ những hạn chế (về đội ngũ tác giả, về số lƣợng, chất lƣợng tác phẩm...) của
văn học Cao Bằng đã đạt đƣợc trong suốt hơn nửa thể kỷ qua (Từ 1945 đến
nay).
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu của luận văn là: Khảo sát, nghiên cứu một cách
toàn diện (bao gồm các thể loại chính: Thơ, văn xuôi, nghiên cứu - phê bình)
văn học Cao Bằng thời kỳ hiện đại (từ 1945 đến nay) và một số cây bút tiêu
biểu của Cao Bằng. Để qua đó thấy đƣợc diện mạo và đặc điểm cơ bản của văn
học địa phƣơng này; đồng thời khẳng định: Cao Bằng là mảnh đất có truyền
thống văn chƣơng, có nhiều đóng góp quan trọng đến sự phát triển của văn học
các DTTS Việt Nam nói riêng, của nền văn học Việt Nam thời kỳ hiện đại nói
chung.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Chỉ ra đƣợc những đặc điểm nổi bật về địa lý, lịch sử, về bản sắc văn
hóa tộc ngƣời và truyền thống văn học của Cao Bằng để khẳng định: đây là
vùng đất có nhiều yếu tố thuận lợi cho văn học phát triển một cách mạnh mẽ,
phong phú trong thời kỳ hiện đại.
- Chỉ ra những đặc điểm nổi bật về đội ngũ sáng tác và các thành tựu đã
đạt đƣợc của văn học Cao Bằng thời kỳ hiện đại (từ 1945 đến nay).
- Nghiên cứu một số gƣơng mặt nhà văn tiêu biểu của Cao Bằng để
khẳng định: Đây là mảnh đất đã sản sinh ra nhiều cây bút DTTS xuất sắc và có
nhiều đóng góp quan trọng đối với sự vận động và phát triển của văn học các
DTTS Việt Nam thời kỳ hiện đại.
9
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là:
- Nghiên cứu khái quát về văn học Cao Bằng từ 1945 đến nay - ở các thể
loại: thơ, văn xuôi, nghiên cứu - sƣu tầm và phê bình văn học.
- Nghiên cứu chân dung cụ thể của một số tác giả tiêu biểu có nhiều
thành tựu của Cao Bằng (Bàn Tài Đoàn, Y Phương, Cao Duy Sơn, Triều Ân...).
- Ngoài ra sẽ khảo sát thêm một số tác phẩm văn học của các tác giả
thuộc các địa phƣơng khác trong khu vực miền núi (để so sánh, đối chiếu, chỉ
ra các nét riêng biệt của văn học Cao Bằng, của các tác giả ngƣời Cao Bằng
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Cao Bằng là một vùng đất có truyền thống văn chƣơng, tuy nhiên do
phạm vi nghiên cứu của một Luận văn Thạc sĩ, chúng tôi chỉ xin phép nghiên
cứu văn học Cao Bằng trong thời kỳ hiện đại (tính từ năm 1945 đến nay). Vì
vậy, phạm vi nghiên cứu của luận văn là: văn học Cao Bằng thời kỳ hiện đại,
cụ thể là:
+ Nghiên cứu, tìm hiểu khái quát về văn học Cao Bằng thời kỳ hiện đại ở
các phƣơng diện: đội ngũ sáng tác, diện mạo và đặc điểm.
+ Giới thiệu nghiên cứu cụ thể một số nhà văn tiêu biểu của Cao Bằng
nhƣ: Bàn Tài Đoàn, Triều Ân, Y Phƣơng, Cao Duy Sơn.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài luận văn này, chúng tôi đã sử dụng một số phƣơng
pháp nghiên cứu cơ bản nhƣ:
- Phương pháp khảo sát, thống kê, phân loại;
- Phương pháp nghiên cứu tác gia, tác phẩm văn học;
- Phương pháp so sánh đối chiếu;
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành (Văn học với văn hóa học, lịch sử,
phong tục học, dân tộc học...).
10
6. Ý nghĩa và dự kiến đóng góp
- Khắc họa một cách khái quát về diện mạo, đặc điểm của văn học Cao
Bằng - một vùng đất giàu truyền thống văn chƣơng và có nhiều đóng góp cho
đời sống văn học các DTTS Việt Nam thời kỳ hiện đại. Qua đó khẳng định:
những thành tựu cũng nhƣ một số hạn chế (về đội ngũ tác giả, về số lƣợng, chất
lƣợng tác phẩm...) của văn học Cao Bằng đã đạt đƣợc trong suốt 70 năm hoạt
động của mình. Đặc biệt, bƣớc đầu khắc họa chân dung của một số nhà văn
DTTS tiêu biểu của Cao Bằng, từ đó chỉ ra những nét đặc trƣng riêng trong các
sáng tác của họ và những thành tựu mà họ đã đạt đƣợc.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là một tài liệu tham khảo hữu ích cho
việc giảng dạy văn học Cao Bằng cho học sinh các trƣờng Phổ thông và
Trung học ở Cao Bằng, và là tài liệu tham khảo cho những ngƣời quan tâm
đến văn học Cao Bằng nói chung, đến các cây bút tiêu biểu của văn học Cao
Bằng nói riêng trong cả nƣớc.
7. Bố cục luận văn
Bố cục Luận văn gồm có: Phần Mở đầu, phần Nội dung và phần Kết
luận. Trong phần Nội dung gồm có ba chƣơng:
Chƣơng 1: Cao Bằng - vùng đất biên cƣơng giàu truyền thống lịch sử,
truyền thống văn chƣơng
Chƣơng 2: Văn học Cao Bằng - diện mạo và đặc điểm
Chƣơng 3: Một số tác giả tiêu biểu
3.1. Nhà thơ Dao - Bàn Tài Đoàn người đặt nền móng cho văn học Cao
Bằng thời kỳ hiện đại
3.2. Y Phương - nhà thơ Tày xuất sắc của Cao Bằng
3.3. Cao Duy Sơn - người đưa văn xuôi dân tộc thiểu số lên một tầm cao mới
3.4. Hoàng Triều Ân - Nhà văn hóa, nhà “Tày học” của quê hương
Cao Bằng
Phần cuối cùng là Tài liệu tham khảo.
11
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
CAO BẰNG - VÙNG ĐẤT BIÊN CƢƠNG GIÀU TRUYỀN THỐNG
LỊCH SỬ, TRUYỀN THỐNG VĂN CHƢƠNG
1.1. Cao Bằng - mảnh đất vùng cao biên giới hùng vĩ và đa dạng
Là tỉnh miền núi vùng cao biên giới, xa các trung tâm kinh tế lớn của
vùng Đông Bắc và cả nƣớc, nhƣng Cao Bằng lại có ba cửa khẩu là: Tà Lùng,
Hùng Quốc và Sóc Hà . Cao Bằng có diện tích tự nhiên 6.690,72 km², chiếm
2,12% diện tích cả nƣớc, là địa bàn miền núi cao hùng vĩ. Phía Bắc và Đông
Bắc giáp tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc), có đƣờng biên giới giáp với Trung
Quốc dài 311 km - là tỉnh vùng cao biên giới có đƣờng biên giới dài nhất trong
các 7 tỉnh có đƣờng biên giới giáp ranh với Trung Quốc; phía Tây giáp tỉnh Hà
Giang và Tuyên Quang; phía Nam giáp tỉnh Bắc Kạn; phía Đông Nam giáp tỉnh
Lạng Sơn.. Đây là lợi thế quan trọng, tạo điều kiện cho tỉnh giao lƣu kinh tế,
văn hóa với bên ngoài, nhất là Trung Quốc, nhƣng cũng chứa đựng nhiều nguy
cơ về chiến tranh cũng nhƣ các tranh chấp quốc tế, bởi vậy nên mảnh đất và
con ngƣời nơi đây luôn phải gồng mình lên để gìn giữ yên bình vùng biên
cƣơng của Tổ quốc trong hàng nghìn năm lịch sử.
Nơi đây là một vùng đất vô cùng phong phú và giầu có về danh lam
thắng cảnh và tài nguyên thiên nhiên. Là vùng núi cao có địa hình phân cắt
mạnh tạo nên những mảng địa hình vô cùng phong phú với vùng núi đá vôi ở
phía bắc và đông bắc chiếm 32%, tiểu vùng núi đất ở phía tây và tây nam
chiếm 18%, tiểu vùng núi đất thuộc thƣợng nguồn sông Hiến chiếm 38%; tiểu
vùng bồn địa thị xã Cao Bằng và huyện Hoà An dọc sông Bằng chiếm 12%
diện tích tự nhiên của tỉnh. Cao Bằng là vùng đất có nhiều núi cao, sông hồ,
thác ghềnh và những cánh rừng nguyên sinh tạo nên cảnh quan hùng vĩ và thơ
mộng.
12
Non nước Cao Bằng nhƣ một bức tranh thủy mặc khổng lồ mà thiên
nhiên đã ƣu ái, bạn tặng cho mảnh đất này với bao núi, sông, hồ, thác nhƣ: thác
Bản Giốc, động Ngƣờm Ngao, hồ Thang Hen, hồ Khuổi Lái, hang Pác Bó…
những hang động còn nguyên vẻ hoang sơ và đƣợc đánh giá là những hang
động, thác nƣớc đẹp vào bậc nhất ở Đông Nam Á; đây còn là xứ sở của những
cọn nƣớc, của các suối nguồn trong vắt và những cô gái áo chàm duyên dáng
khéo tay, hay lam hay làm và hát Sli, hát Lƣợn rất ngọt ngào làm say đắm lòng
ngƣời.
Nơi đây còn là mảnh đất có nhiều di tích lịch sử cách mạng đặc biệt. Bác
Hồ đã chọn mảnh đất này làm nơi đầu tiên Ngƣời đặt chân khi trở về Tổ Quốc
sau 30 năm bôn ba hải ngoại, tìm đƣờng cứu nƣớc. Tại nơi đây, Bác Hồ đã mở
nhiều lớp huấn luyện về chính trị, quân sự, dịch và viết nhiều tài liệu cách
mạng quan trọng. Bác đã chủ trì hội nghị Trung ƣơng Đảng lần thứ 8 tại lán
Khuổi Nậm - Pác Bó từ ngày 10-5 đến 19-5-194; quyết định thành lập Mặt trận
Việt Minh, lập các căn cứ địa cách mạng. Pác Bó - nơi Bác ở có phong cảnh
hùng vĩ, hữu tình. Trong hang Cốc Pó có một nhũ đá đƣợc Bác Hồ đặt tên là
Các Mác, bên ngoài hang có dòng suối đẹp, Ngƣời đặt tên là suối Lê Nin. Ngày
nay Pác Bó đã trở thành di tích lịch sử thiêng liêng, là niềm tự hào của mỗi
ngƣời Việt Nam và là địa chỉ du lịch lịch sử, thiên nhiên đặc sắc của tỉnh Cao
Bằng.
Bên cạnh đó là khu di tích lịch sử rừng Trần Hƣng Đạo thuộc xã Tam
Kim, huyện Nguyên Bình là một khu rừng đến nay vẫn giữ đƣợc vẻ nguyên sơ,
với những vách đá trải dài, và uốn lƣợn dƣới chân là dòng suối Tam Kim trong
vắt. Giữa núi rừng lộng gió, nơi đây ngày 22-12-1944 đã chứng kiến sự ra đời
của Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân - tiền thân của Quân đội nhân
dân Việt Nam anh hùng, gồm 34 chiến sĩ là con em của đồng bào các DTTS, do
đồng chí Võ Nguyên Giáp lãnh đạo, chỉ huy.
13
Cao Bằng còn có nhiều di tích lịch sử và thắng cảnh đẹp khác nhƣ: Đền
Xuân Lĩnh, thành Nà Lữ ,Chùa Viên Minh, đồn Pai Khắt, mộ Kim Đồng, đền
Kỳ Sâm, Pháo Đài , Phja Đén... Tƣợng đài Bác Hồ ở giữa trung tâm thị xã
Cao Bằng là một công trình điêu khắc mỹ thuật mang tính nghệ thuật cao, vừa
là niềm tự hào vừa là sự biết ơn sâu sắc của nhân dân các DTTS Cao Bằng đối
với Bác Hồ kính yêu. Gần đây nhất Cao Bằng đã xây dựng Chùa Phật Tích
Trúc Lâm Bản Giốc tọa lạc trên diện tích 2ha ngay tại Thác Bản Giốc. Ngôi
chùa đầu tiên trên mảnh đất biên cƣơng phía Bắc với kiến trúc chùa Việt
truyền thống có ý nghĩ hết sức quan trọng đối với đời sống tâm linh của đồng
bào các DTTS vùng biên viễn của Tổ quốc...
Non nước Cao Bằng đã ghi đậm những dấu ấn lịch sử của thời kỳ cách
mạng vô cùng gian khổ nhƣng cũng lắm vẻ vang, anh hùng. Mỗi địa danh,
mỗi khu rừng, mỗi thôn xóm dƣờng nhƣ đều gắn liền với những chặng đƣờng
phát triển lịch sử của cách mạng Việt Nam và cuộc đời hoạt động của Chủ
tịch Hồ Chí Minh trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp
cứu nƣớc vĩ đại.
Về đặc điểm khí hậu - Cao Bằng mang tính nhiệt đới gió mùa vùng lục
địa núi cao và có đặc trƣng riêng so với các tỉnh miền núi khác thuộc vùng
Đông Bắc. Bên cạnh đó còn có tiểu vùng khí hậu á nhiệt đới. Đặc điểm này đã
tạo cho Cao Bằng những lợi thế để hình thành các vùng sản xuất cây phong phú
đa dạng, trong đó có những cây đặc sản nhƣ: hạt dẻ, hồng không hạt, đậu
tƣơng, thuốc lá, chè đắng… mà nhiều nơi khác không có điều kiện trồng trọt và
phát triển.
Cao Bằng có nhiều DTTS sinh sống với các truyền thống văn hoá, lễ hội
đa dạng, độc đáo. Những điều kiện này sẽ là nền tảng cho văn hóa, văn học
nghệ thuật Cao Bằng ngày càng phát triển một cách bền vững trên cơ sở truyền
thống và hiện đại. Các dân tộc thiểu số ở Cao Bằng bao gồm: Tày, Nùng, Dao,
Sán Chỉ, Kinh, Mông và Hoa… (trong đó dân tộc Tày chiếm 41,0% dân số;
14
Nùng chiếm 31,1 %; H'Mông chiếm 10,1 %, Dao chiếm 10,1 %, Việt chiếm 5,8
%, Sán Chay (1,4 %)... Là một tỉnh miền núi phía Bắc, có nhiều dân tộc sinh
sống và có nền văn hóa truyền thống rất phong phú, các DTTS ở nơi đây cùng
chung sống đoàn kết với nhau trong suốt hàng ngàn năm lịch sử. Mặc dù đặc
điểm văn hóa của mỗi tộc ngƣời có sự khác nhau, nhƣng với tinh thần yêu
nƣớc, tinh thần cố kết cộng đồng, và cùng sinh sống trên mảnh đất hào hùng,
giàu tinh thần thƣợng võ, các dân tộc anh em nơi đây đã cùng nhau trải qua bao
biến cố, những thăng trầm của lịch sử, để xây dựng nên một Cao Bằng tƣơi đẹp
và giầu bản sắc.
Mỗi DTTS ở nơi đây đều có những di sản văn hóa truyền thống độc đáo
của riêng mình. Chiếm số lƣợng đông đảo nhất là ngƣời dân tộc Tày và ngƣời
dân tộc Nùng với những lễ hội truyền thống độc đáo nhƣ: Lễ hội mời Mẹ
Trăng, lễ hội Lồng Tồng, hội Nàng Hai, Thanh Minh, tết Cơm mới… Họ còn
hết sức tự hào với những điệu hát, điệu múa dân ca của dân tộc mình nhƣ: Hát
then, hát lƣợn…; múa Sluông, múa chầu, múa quạt, múa khăn… cùng những
loại nhạc cụ: Đàn tính, đàn nhị, bộ xóc đồng lục lạc… Ngƣời Dao và H’Mông
là hai tộc ngƣời có những bộ trang phục truyền thống vào loại đặc sắc và rực rỡ
nhất, cầu kỳ nhất trong các DTTS ở Việt Nam. Họ có những lễ hội và những
nghi lễ nổi tiếng nhƣ: Lễ cúng Bàn Vƣơng, lễ cấp sắc, lễ hội Pụt Tồng, lễ hội
nhảy lửa (của ngƣời Dao); lễ Nào Sồng, lễ Gầu Tào (của ngƣời H’Mông)....
Vào những dịp lễ hội này họ thƣờng thể hiện những điệu múa truyền thống của
dân tộc mình nhƣ: múa Chuông, múa trống… (ngƣời Dao) với các loại nhạc cụ:
kèn pí lè, trống, chuông…; múa ô, múa khèn (Ngƣời H’Mông), với các loại
nhạc cụ nhƣ: khèn, sáo, kèn lá, kèn môi… Mỗi một dân tộc đều có những lễ
hội, những phong tục tập quán, những nghi lễ truyền thống riêng và đã góp
phần tạo nên bản sắc văn hóa đa sắc màu, phong phú và độc đáo của địa
phƣơng cao Bằng.
15
Cao Bằng còn là vùng đất của một nền ẩm thực phong phú. Những món
ăn của vùng đất này mang hƣơng vị đậm đà của núi rừng, của tình ngƣời nồng
ấm. Ngƣời Cao Bằng đã khéo léo kết hợp nguồn gia vị thực phẩm phong phú sẵn
có của núi rừng để tạo ra nhiều món ngon đặc sắc nhƣ: Lạp xƣờng ƣớp gừng núi,
thịt rừng treo gác bếp, lẩu cá chua, xôi trám đen, rêu đá Tầu Quầy xào, cốm hạt
dẻ, bánh khảo, khẩu sli,…Thƣởng thức những món ăn ấy cùng rƣợu rƣợu Lẩu
Pảng huyện Hà Quảng (thứ rƣợu đƣợc chƣng cất từ bột cây báng lâu năm trên
núi đá, men làm từ quả trầm hƣơng, ủ bột xuống đất gần một tháng, đợi tiết trời
vào thu có nhiều sƣơng thì đem phơi rồi mới đem trƣng cất) hay rƣợu mía Phục
Hòa thì thật khó quên đối với bất kỳ ai đến với vùng đất này.
Vẻ đẹp thiên nhiên tuyệt vời, phong cảnh núi non hùng vĩ cùng nhiều di
tích lịch sử nổi tiếng và những nét sinh hoạt văn hoá đa dạng, đậm đà bản sắc
đã khiến Cao Bằng trở thành niềm tự hào của tất cả những con ngƣời nơi đây,
và đƣợc in dấu trong văn chƣơng của vùng đất này một cách hết sức rõ nét và
độc đáo.
1.2. Cao Bằng - mảnh đất có truyền thống lịch sử hào hùng
Cao Bằng - miền đất địa đầu Tổ quốc , nơi có truyền thống lịch sử và văn
hoá rất đáng tự hào. Lịch sử truyền thống đó của Cao Bằng luôn gắn liền với
lịch sử truyền thống của dân tộc Việt Nam từ những ngày đầu dựng nƣớc và
giữ nƣớc.
Nhƣ đã biết, từ thế kỷ thứ III trƣớc Công Nguyên, Cao Bằng gắn liền với
quá trình hình thành liên minh các bộ lạc Tày cổ (Tây Âu và Âu Việt) phát
triển thành nƣớc Nam Cƣờng. Sau này ngƣời anh hùng Nùng Trí Cao đƣợc nhà
Lý giao cho cai quản đất Quảng Nguyên (nay là huyện Quảng Uyên), châu Tƣ
Lang. Đến năm 1050, Nùng Trí Cao đã lãnh đạo đồng bào các DTTS nơi đây
đứng lên khởi nghĩa chống quân xâm lƣợc nhà Tống, gìn giữ vùng biên cƣơng
Tổ quốc.
16
Đến thế kỷ thứ XV, nhà Minh xâm lƣợc nƣớc ta, bao thế hệ con em dân
tộc ngƣời Cao Bằng đã đứng lên chống giặc ngoại xâm - bảo vệ quê hƣơng, Tổ
quốc, tiêu biểu nhƣ: Bế Khắc Thiệu và Nông Đắc Thái (dân tộc Tày) đã dấy
binh dựng cờ khởi nghĩa chống giặc Minh. Nhiều trận ác chiến xảy ra, trong đó
có trận đánh ở Nà Khuổi (xã Hồng Việt, Hòa An), quân Bế Khắc Thiệu, Nông
Đắc Thái đã tiêu diệt hơn 4.000 tên giặc, buộc giặc Minh phải rút quân. Cuộc
khởi nghĩa của Bế Khắc Thiệu góp phần cùng Lê Lợi đánh đuổi giặc Minh, giữ
lại nền độc lập dân tộc. Thời nhà Mạc, ở Cao Bằng nền kinh tế, văn hóa, giáo
dục phát triển khá mạnh nhƣ: mở trƣờng Quốc học, khuyến khích sáng tác thơ
Nôm Tày, sáng tác lƣợn, then…; mở mang các chợ, giao lƣu buôn bán sầm uất,
đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, thủy lợi, mở rộng đất canh tác để nâng cao đời
sống của nhân dân các dân tộc và xây dựng triều nhà Mạc nơi đây. Nửa đầu thế
kỷ XIX, dƣới chế dộ cai trị của triều đình phong kiến nhà Nguyễn, các cuộc
khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi. Trong những ngƣời anh hùng Cao Bằng
đứng lên khởi nghĩa phải kể đến những cái tên nhƣ: Lê Văn Khôi, Nông Văn
Vân (Nùng Văn Vân)… Từ năm 1886, Pháp từ Lạng Sơn lên đánh chiếm Cao
Bằng, chúng đƣa quân đi chiếm các châu, các bản, càn quét, giết ngƣời và cƣớp
bóc dã man, nhân dân các dân tộc Cao Bằng đã nổi dậy chống Pháp ở nhiều
nơi, trong đó có 3 phong trào chống giặc Pháp diễn ra lâu nhất và gây cho Pháp
nhiều thiệt hại nhất. Đó là vào năm 1887, Triệu Phúc Tinh, Trƣơng Khang,
Lƣơng Tuấn Tú theo đại thần Tôn Thất Thuyết lập căn cứ ở Lũng Tu, Tổng
Cọt, Trà Lĩnh, mua hàng nghìn khẩu súng, diệt 300 tên Pháp do tên quan Năm
ở Lạng Sơn lên đánh vào pháo đài ở Lũng Tu, sau đó tên quan Năm Galieni ở
Cao Bằng phải đƣa đại bác và quân vào chi viện mới hạ đƣợc Lũng Tu. Từ năm
1889 - 1892, trong 4 năm chống Pháp, Lục A Sung ở Phục Hòa, Quảng Uyên,
Trùng Khánh đã đánh Pháp nhiều trận, diệt hàng trăm tên Pháp đi tuần tiễu trên
sông Bằng trên mặt đất. Từ năm 1890 - 1896, thủ lĩnh Mã Quốc Anh và Tằng
A Hợp ở Hạ Lang chiến đấu 6 năm, tiêu diệt hơn 100 tên Pháp...
17
Lịch sử Cao Bằng càng trở nên đẹp đẽ và hào hùng hơn trong những năm
tháng sục sôi chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám. Trong sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc, Cao Bằng đã trở thành căn cứ địa cách mạng đầu tiên của
cả nƣớc, góp phần to lớn đƣa sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc của
Đảng, nhân dân ta đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Nhắc đến Cao Bằng là nói đến nhiều địa danh ghi dấu cho một thời kỳ
lịch sử oai hùng: Pác Bó, Rừng Trần Hƣng Đạo, Đông Khê, Lam Sơn… Những
cái tên thiêng liêng đó đã trở thành nguồn cảm hứng sáng tạo cho thi, ca, nhạc,
hoạ. Những chiến sĩ cách mạng năm xƣa cũng nhƣ thế hệ trẻ hôm nay biết đến
Cao Bằng là cái nôi của cách mạng Việt Nam; nên dấu với Cao Bằng là hành
hương về cội nguồn, thăm lại những khu di tích lịch sử của đất nƣớc, tìm hiểu
về một quá trình lịch sử anh dũng, hào hùng của dân tộc.
Pác Bó - Cao Bằng chính là nơi đầu tiên đƣợc Bác chọn để đặt chân về
nƣớc lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Chính nơi này Bác đã sống, làm việc và
vạch ra con đƣờng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Suối Lê-nin, núi Các-Mác
với non xanh nƣớc biếc ẩn hiện trong sƣơng mờ khiến lòng ngƣời bâng khuâng,
lƣu luyến... Vẫn còn đó cột mốc 108 và cây si già nhƣ chứng tích lịch sử chứng
kiến giây phút đầu tiên Bác trở về Tổ quốc sau 30 năm xa cách; vẫn còn đây
khu rừng Trần Hƣng Đạo, nơi thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải
phóng quân; còn đây di tích đồn Phai Khắt, đồn Nà Ngần, nơi diễn ra hai trận
đánh đầu tiên của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân sau khi thành lập
(25 và 26/12/1944) mở đầu truyền thống đã ra quân là chiến thắng của Quân
đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Nếu Phai Khắt - Nà Ngần là những chiến
thắng đầu tiên của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân thì chiến thắng
Chiến dịch Biên giới năm 1950 cũng là một dấu ấn chói lọi trong lịch sử kháng
chiến chống Pháp của dân tộc đƣợc ghi dấu trên mảnh đất Cao Bằng. “Đồn Đông
Khê” thuộc thị trấn Đông Khê, huyện Thạch An là một chứng tích lịch sử của
Chiến dịch Biên giới. Cuối tháng 8/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên Cao
18
Bằng để cùng Bộ Chỉ huy trực tiếp chỉ đạo Chiến dịch. Hình ảnh Chủ tịch Hồ
Chí Minh đầu mũ cối, quần xắn quá đầu gối cùng chiến sĩ quan sát trận địa đã trở
thành biểu tƣợng sống mãi và gây xúc động mạnh mẽ trong lòng cán bộ, chiến
sỹ, đặc biệt là với nhân dân các dân tộc Cao Bằng, khắp mặt trận nô nức thi đua
“giết giặc lập công”. Chiến thắng Đông Khê vang dội cùng với những tấm
gƣơng dũng cảm đã đi vào sử sách nhƣ: La Văn Cầu, Lý Viết Mƣu, Trần Cừ...,
thể hiện sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân ta trong kháng chiến - nơi
mảnh đất lịch sử này. Còn đây nữa, khu di tích Nặm Lìn - nơi thành lập chi bộ
Đảng Cộng sản đầu tiên tỉnh Cao Bằng (xã Hoàng Trung, huyện Hòa An); Di
tích lƣu niệm Hoàng Đình Giong ở làng Nà Toàn, xã Đề Thám, Thành phố -
nơi sinh ra và nuôi dƣỡng đồng chí Hoàng Đình Giong, một trong những đảng
viên cộng sản đầu tiên của tỉnh Cao Bằng và cũng là ngƣời trực tiếp rèn luyện
và xây dựng Đảng bộ Cao Bằng; Quần thể Khu di tích lịch sử Lam Sơn (Hòa
An), nơi Bác Hồ cùng các đồng chí lãnh đạo cách mạng hoạt động và mở lớp
huấn luyện chính trị (5/1942); Khu di tích Anh hùng liệt sỹ Kim Đồng, nơi có
mộ anh Kim Đồng (tức Nông Văn Dền), ngƣời đội trƣởng đầu tiên của Đội
Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh; Di tích Kéo Oai (Kéo Vai) thôn Lam Sơn
- đây là nơi đồng chí Phạm Văn Đồng thƣờng xuyên mở các lớp huấn luyện, tổ
chức các hội cứu quốc trong những năm 1941 - 1943; đồng thời nơi đây là trạm
giao liên do đồng chí Kế Hùng phụ trách. Tại Bó Kéo Oai tháng 10/1941 thành
lập đội Việt Minh Châu, thành lập đội võ trang của tỉnh và là trạm chờ nhận
nhiệm vụ của các đồng chí cán bộ Trung ƣơng, địa phƣơng...
Và còn rất nhiều nữa những di tích lịch sử gắn với mỗi thời kỳ cách
mạng trên mảnh đất anh hùng này. Lịch sử dân tộc và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
lựa chọn Cao Bằng là căn cứ địa cách mạng, đồng thời cũng giao phó cho mảnh
đất, con ngƣời nơi đây một trọng trách to lớn: "Bác mong tỉnh Cao Bằng sớm
trở thành một trong những tỉnh gương mẫu trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc như trước đây Cao Bằng là một trong những tỉnh đi
19
đầu trong công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc" [Báo Cao Bằng, ngày
29/01/2014]. Hôm nay, trên con đƣờng đổi mới, nhân dân Cao Bằng luôn ghi
nhớ lời dạy của Ngƣời, ra sức xây dựng Cao Bằng ngày càng phát triển, để thế
hệ trẻ Cao Bằng ngày nay nói riêng và nhân dân cả nƣớc nói chung mãi tự hào
về mảnh đất anh hùng với những di tích lịch sử thiêng liêng này.
Và không chỉ có bề dày lịch sử, không chỉ là cái nôi của cách mạng -
Cao Bằng còn là một mảnh đất giàu truyền thống văn hóa, và chính những nét
văn hóa độc đáo này đã tạo nên dấu ấn trong từng trang văn, từng dòng thơ của
các tác giả DTTS ngƣời Cao Bằng thời kỳ hiện đại.
1.3. Cao Bằng - mảnh đất giầu truyền thống văn chƣơng
Đƣợc gieo mầm trên trên mảnh đất có bề dày lịch sử giữ nƣớc hào hùng
cùng với nền văn hóa đa dân tộc đặc sắc, văn học Cao Bằng có điều kiện thuận
lợi để "nảy mầm" và phát triển một cách "tƣơi tốt".
Nhƣ chúng ta đã biết, văn học dân gian là cái nôi, là ngọn nguồn cho
dòng chảy văn học từ văn học dân gian đến văn học hiện đại. Nói đến văn học
dân gian, đầu tiên phải nói đến thể loại trữ tình: Ca dao, dân ca - và Cao Bằng
là mảnh đất rất giầu có về vốn văn hóa, văn học truyền thống này.
Sau hơn 2 năm thực hiện dự án "Sƣu tập, bảo tồn các làn điệu dân ca gốc
các dân tộc Cao Bằng", Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Cao Bằng đã sƣu tập đƣợc
60 làn điệu dân ca của đồng bào dân tộc Tày, Nùng, Mông, Dao, Sán Chỉ, Lô
Lô, Hoa ...trong tỉnh. Các làn điệu dân ca ở Cao Bằng đƣợc chia thành 3 nhóm :
nhóm Ca hát giao duyên với hát lƣợn, hát rọi, hát sli... đây là hình thức hát
xƣớng thể hiện tâm tình giữa thanh niên nam nữ và thể hiện tình yêu đôi lứa;
nhóm Phục vụ nghi lễ, phong tục chủ yếu là những điệu hát mừng thọ, mừng
nhà mới, hát dẫn dâu, rể trong đám cƣới của ngƣời dân tộc Lô Lô, Sán Chỉ,
Tày, Nùng… nhóm Hát ru bao gồm những điệu ru mƣợt mà, có nhiều hình
tƣợng con vật, cây cối gần gũi với đồng bào các dân tộc nơi đây.
20
Các làn điệu dân ca đã thể hiện rõ bản sắc của từng dân tộc khác nhau
nhƣ: điệu Nàng ới, lượn cọi… của dân tộc Tày; đồng bào Mông nổi bật với
múa khèn, đàn môi với các bài hát Chung tình, phận gái, tình anh em…; ngƣời
Dao thì có thổi kèn Pí lè, đánh trống chúm chọc (chụm chọe),...
Bên cạnh mảng ca dao, dân ca văn học dân gian các DTTS Cao Bằng còn
có cả một kho tàng Truyện cổ bao gồm: truyện thần thoại, cổ tích, truyện cƣời...
Văn học thành văn ở nơi đây cũng đã hình thành khá sớm từ những năm cuối thế
kỷ thứ XVII với sự xuất hiện của Nông Quỷnh Văn và Bế Văn Phụng. Đặc biệt
cuối thế kỷ thứ XIX, nhà thơ ngƣời Tày Hoàng Đức Hậu đã sử dụng chữ Nôm
Tày một cách thuần thục, sáng tác rất nhiều bài thơ để lại cho đời sau.
Ngay từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, văn học Cao Bằng đã
đƣợc “khoác trên mình tấm áo mới" và có sự vận động và phát triền đáng kể.
Trên nền móng vững chãi là truyền thống văn hóa, truyền thống cách mạng -
mảnh đất xinh đẹp và hào hùng này tiếp tục là cái nôi sinh ra nhiều nhà thơ,
nhà văn DTTS. Đó là nhà thơ lão thành cách mạng dân tộc Dao: Bàn Tài
Đoàn. Ông đã sáng tác từ trƣớc Cách mạng với tác phẩm Dặn vợ, dặn con
(năm 1944), và sau này là rất nhiều tác phẩm thơ có giá trị đặc sắc nhƣ: bài
thơ nổi tiếng Muối Cụ Hồ (năm 1960); Xuân về trên núi (năm 1963); Có
mắt thấy đƣờng đi (năm 1964); Một giấc mơ (năm 1965); Kể chuyện đời
(năm 1968)…; và tác phẩm ký Đời ngƣời Dao (năm 1958). Sợi chỉ xuyên
suốt quá trình sáng tác của ông là ca ngợi công lao của Đảng và Bác Hồ đã
đƣa dân tộc Việt Nam từ thân phận nô lệ bị lệ thuộc trở thành những chủ nhân
của đất nƣớc độc lập, tự do. Ông đã mang về cho quê hƣơng Cao Bằng nhiều
giải thƣởng văn học cao quý, trong đó có Giải thƣởng Nhà nƣớc về Văn học
Nghệ thuật.
Tiếp đến là tác giả Hoàng Triều Ân. Ông không chỉ là nhà giáo, nhà
nghiên cứu văn nghệ dân gian mà còn là nhà thơ, nhà văn có nhiều tác phẩm
xuất hiện trên văn đàn Cao Bằng cũng nhƣ cả nƣớc. Hoàng Triều Ân bắt đầu
21
sáng tác từ những năm sau cách mạng tháng Tám năm 1945 với những tác
phẩm thơ nhƣ: Tung còn và suối đàn (năm 1963), Kin mác (thơ Tày, năm
1969), Nắng ngàn (năm 1974)… Sau này ông còn sáng tác cả truyện ngắn, tiểu
thuyết nhƣ: Tiếng khèn A Pá (truyện ngắn, năm 1980); Nhƣ cánh chim trời
(truyện ngắn, năm 1982) , Trên vùng mây trắng (tiểu thuyết, năm 2011);
Cuộc chiến vì ngày mai (tiểu thuyết, năm 2013)… Đặc biệt từ những năm 90
trở về đây, khi đi vào lĩnh vực nghiên cứu, sƣu tầm ông đã gặt hái đƣợc rất
nhiều thành công trong sự nghiệp với các tác công trình nghiên cứu sƣu tầm
nhƣ: Ca dao Tày Nùng (năm 1994), Truyện cổ dân tộc Mông (năm 1995),
Văn học Hán Nôm dân tộc Tày (năm 2008), Văn học yêu nƣớc và cách
mạng ở Cao Bằng (năm 2009), Huyền thoại dân tộc Tày (năm 2010). Trong
giới văn sĩ Cao Bằng, ông là ngƣời có nhiều đầu sách nhất (trên 50 đầu sách kể
cả sáng tác và nghiên cứu). Nội dung tƣ tƣởng trong các sáng tác của ông chủ
yếu là ca ngợi con ngƣời, cuộc sống mới, ca ngợi vẻ đẹp của quê hƣơng, đất
nƣớc, ngợi ca công lao to lớn của Đảng và Bác Hồ. Ông đã đƣợc trao nhiều giải
thƣởng về Văn học Nghệ thuật của Trung ƣơng và địa phƣơng.
Nói đến văn học Cao Bằng, không thể không nhắc đến nhà văn Vi Hồng
- thầy giáo dạy Văn học dân gian ở Trƣờng Đại học Sƣ phạm Việt Bắc (nay là
trƣờng Đại học Sƣ phạm thuộc Đại học Thái Nguyên), một nhà văn tiêu biểu
của dân tộc Tày nói riêng, của văn học DTTS nói chung. Ông đã có tới 19 đầu
sách với nhiều tác phẩm văn xuôi tiêu biểu nhƣ: Vãi đàng (năm 1980) , Núi cỏ
yêu thƣơng (1984), Ngƣời, trong ống, Gã ngƣợc đời (1990), tháng năm biết
nói (1993), ... Tuy nhiên Vi Hồng lại là ngƣời thành danh ở trên một vùng đất
khác đó là Thái Nguyên. Và đối với Văn học Thái Nguyên, ông cũng là ngƣời
có những đóng góp hết sức to lớn và quan trọng , vì vậy nên trong luận văn
này, chúng tôi xin phép chỉ điểm qua tác giả Vi Hồng chứ không đi sâu vào tìm
hiểu và giới thiệu nhƣ các nhà văn khác đã gắn bó và thành danh ở trên mảnh
đất Cao Bằng.
22
Trong các nhà văn, nhà thơ Cao Bằng - Tác giả Y Phƣơng là một gƣơng
mặt tiêu biểu, xuất sắc không những chỉ đối với văn học địa phƣơng Cao Bằng
mà còn là một trong những cây bút tiêu biểu xuất sắc đối với văn học DTTS
của cả nƣớc. Y Phƣơng đã có những bài thơ viết từ trƣớc năm 1975 nhƣ: Bếp
nhà trời, Dáng một con sông. Trong sự nghiệp sáng tác của mình ông đã đem
đến cho bạn đọc 6 tập thơ trong đó có những tập thơ đạt giải thƣởng cao của
Hội nhà văn Việt nam nhƣ: Tiếng hát tháng giêng (1986), Lời chúc (1991),
Chín tháng (2001)… Những sáng tác của ông thể hiện một cách hết sức chân
thực, mộc mạc về cuộc sống với cách nói, cách nghĩ, cách cảm giản dị, truyền
thống mà vẫn hiện đại. Thơ ông hồn nhiên, giản dị nhƣng đậm chất núi rừng. Y
Phƣơng là một nhà thơ đa tài, ông không những làm thơ hay mà còn viết tản văn
rất có duyên, Y Phƣơng có những trang tản văn viết về cuộc sống, con ngƣời,
phong tục tập quán ở vùng núi cao biên giới này hết sức độc đáo, ví dụ nhƣ các tác
phẩm: Tháng giêng - tháng giêng một vòng dao quắn, Khảm hải, Kung fu
ngƣời Co Xàu, Về Trùng Khánh mà nghe hạt dẻ… Ông đã đoạt nhiều Giải
thƣởng Văn học có giá trị và đã vinh dự đƣợc nhận Giải thƣởng Nhà nƣớc về
Văn học Nghệ thuật.
Có một nhà văn đang đƣợc vinh danh trên diễn đàn văn học DTTS, đó là
nhà văn Cao Duy Sơn. Ông là ngƣời viết văn xuôi thành công nhất của Cao
Bằng. Đến nay ông đã cho xuất bản nhiều đầu sách, chủ yếu là tiểu thuyết nhƣ:
Ngƣời lang thang (năm 1992), Cực Lạc (năm 1995), Hoa mận đỏ (năm 1999),
Đàn trời (năm 2006), Chòm ba nhà (năm 2009) Và nhiều tập truyện ngắn nhƣ:
Những chuyện ở thung lũng Cô Sầu (1996), Ngôi nhà xƣa bên suối (2007)...
Sáng tác của Cao Duy Sơn chủ yếu về đề tài miền núi vì nhƣ ông đã nói “ Cả
đời tôi chỉ theo đuổi đề tài về miền núi”, đó là tấm lòng của ngƣời con DTTS
đối với quê hƣơng, với dân tộc, với cội nguồn. Các tác phẩm của ông rất đặc
sắc và đã đoạt giải cao của Trung ƣơng, địa phƣơng và của khu vực Acean.
Ngoài ra, Cao Duy Sơn còn viết cả tiểu luận phê bình, với một cái nhìn sâu sắc
23
và thấu đáo của một ngƣời vừa sáng tác, vừa làm nghiên cứu phê bình nên
những trang lý luận phê bình của ông cũng đã gây đƣợc dấu ấn cho ngƣời đọc.
Bên canh đó là nhà văn Hữu Tiến cũng là một tác giả gặt hái đƣợc khá
nhiều thành công. Ông đã có 7 đầu sách đƣợc xuất bản, trong đó đổi bật là tập
truyện Đèo không lặng gió (xuất bản năm 2000, tái bản năm 2003) đoạt giải B
Văn học DTTS Việt Nam (không có giải A). Các tập truyện ngắn đáng chú ý
của Hữu Tiến có thể kể đến nhƣ: Trăng gần (năm 1993), Ngọn suối chân
rừng (năm 1997), Đèo không lặng gió (năm 2000)... Ông còn đƣợc trao 5 giải
thƣởng khác của Trung ƣơng và địa phƣơng.
Nhà văn Hoàng Quảng Uyên có nhiều tác phẩm đƣợc xuất bản. Ông “lấn
sân” trên nhiều lĩnh vực: Viết văn, viết báo, viết kịch bản phim, và phê bình
văn học, có thể kể đến một số tác phẩm ký của ông nhƣ : Thầy giáo đại học
(1998), Vọng tiếng non ngàn (2001)… Và các công trình nghiên cứu của ông
nhƣ: Công tác lý luận, phê bình văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số,
Một mình trong cõi thơ (2000), Đi tìm nhật ký trong tù (2010)… Ông đã
nhận đƣợc một số giải thƣởng của Trung ƣơng và địa phƣơng.
Nhà văn Đoàn Lƣ là một cây bút sáng tác cả văn xuôi và thơ, trong đó
văn xuôi viết về đề tài thiếu nhi của khá nổi trội và đƣợc đánh giá cao. Ông đã
xuất bản gần hai chục đầu sách, trong đó có 4 đầu sách đoạt các giải thƣởng
của Trung ƣơng và địa phƣơng. Các tác phẩm của ông có thể kể đến nhƣ:
Miếng hiểm cuối cùng (năm 1995), Trăng rừng (năm 1996), Ngựa hoang lột
xác (năm 1998), Lena - kitti cô bé siêu nhân (năm 2009)… Tiêu biểu nhất là
Giải ba cuộc thi "Vì tƣơng lai đất nƣớc" lần thứ II do Hội Nhà văn Thành phố
Hồ Chí Minh phối hợp với Nhà xuất bản Trẻ tổ chức năm 1997 với tác phẩm
Kỷ niệm về một dòng sông - tác phẩm này của ông cũng đƣợc Hội Nhà văn
Việt Nam trao tặng thƣởng năm 1998.
Nhà văn Đoàn Ngọc Minh với các bút danh Minh Ngọc, Hoa Lê - là một
cây bút nữ cũng đã gặt hái nhiều thành công. Tác giả đã cho ra đời 8 tập truyện
24
ngắn và 6 tập thơ, đoạt nhiều giải thƣởng của Trung ƣơng và địa phƣơng….
Tiêu biểu là các tập truyện: Dòng sông kỷ niệm (1997), Cánh chim (1999)
Núi Bó Phạ trở về (năm 2003) và Gió xoáy (2004) hiện nay nhà văn nữ này
đang công tác Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Cao Bằng.
Còn có khá nhiều hội viên khác của Hội Văn học Nghệ thuật Cao Bằng
cũng có nhiều đầu sách đƣợc xuất bản và nhận đƣợc các giải thƣởng của địa
phƣơng, của Trung ƣơng nhƣ: nhà thơ Bế Thành Long với hai tập thơ: Cỏ may
(1996), Ở nguồn ( 2005); Trần Thị Mộng Dần với tác phẩm Câu thơ không số
(2003), Chuyện lạ dƣới chân pháo đài cổ (2007)…; Nông Quốc Lập với
Sống muộn (2012), Trƣớc mặt là núi cao (2013)… Ngoài ra còn rất nhiều
nhƣng cây bút khác cũng có những đóng góp cho văn học Cao Bằng thêm
phong phú nhƣ: Trần Hùng Lô Hƣởng Ninh, Nông Đình Ngô, Vũ Thiêm, Hà
Ngọc Thắng, Lê Chí Thánh, Vũ Cẩm Linh, Bế Thu Thuỷ,…
Trong khoảng 15 năm đầu thế kỷ XXI có một thế hệ nhà thơ, nhà văn trẻ
mới ở Cao Bằng đã và đang nối tiếp con đƣờng văn chƣơng của các bậc cha
anh. Đó là các cây bút rất trẻ say mê với sáng tác văn chƣơng và đã có những
tác phẩm đƣợc dƣ luận chú ý nhƣ: Đàm Hải Yến với : Ru giải yếm chàm (năm
2006), Đƣờng mây (năm 2011), và các cây bút khác nhƣ: Bế Phƣơng Mai,
Đinh Thị Mai Lan, Chu văn Thắng, Hàn Thanh Duy… với nhiều tác phẩm đã
đƣợc giới thiệu tới độc giả địa phƣơng và cả nƣớc trong những năm qua.
Có thể nói, mỗi nhà văn, nhà thơ Cao Bằng đều là mỗi bông hoa mang
sắc hƣơng riêng biệt để cùng làm nên một vƣờn hoa văn học “đầy hƣơng sắc”
với sự phong phú và mang bản sắc riêng, độc đáo của xứ sở này.
Điểm qua tình hình chung về văn học Cao Bằng, có thể khẳng định rằng:
Cao Bằng quả thật là một mảnh đất rất giầu truyền thống văn chƣơng, là một
trong những tỉnh miền núi có nền văn học phát triển liên tục và mãnh mẽ nhất.
Văn học Cao bằng đã có những đóng góp quan trọng vào đời sống văn chƣơng
các DTTS Việt Nam, góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng, độc đáo và đậm
đà bản sắc dân tộc cho nền văn học Việt Nam hiện đại.
25
Chƣơng 2
VĂN HỌC CAO BẰNG - DIỆN MẠO VÀ ĐẶC ĐIỂM
Nhƣ đã nói ở trên, Cao Bằng là mảnh đất chứa đựng nhiều tiềm năng cho
công việc sáng tạo văn chƣơng. Ðó là sự phong phú về các giá trị văn hóa, là
vùng lãnh thổ mà các dân tộc cùng chung sống lâu đời và có truyền thống yêu
nƣớc, chống giặc ngoại xâm và là một vùng thiên nhiên tốt tƣơi, hùng vĩ. Trải
qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc - Cao bằng đã và đang thể
hiện mình là một vùng đất đáng tự hào về lịch sử và văn hóa.
So với một số tỉnh miền núi khác trong cả nƣớc, văn học Cao Bằng có
một quá trình phát triển khá lâu dài và toàn diện. Từ thế kỷ thứ XVII, dƣới triều
nhà Mạc, Cao Bằng đã có một số nhà thơ dân tộc Tày sáng tác bằng thơ chữ
Nôm. Đầu thế kỷ XIX lại xuất hiện thêm một số nhà văn ngƣời Tày nhƣ:
Hoàng Ích Uyển, Hoàng Ích Thặng, Hoàng Ích Ngọ … [theo Lâm Tiến - Tiếp
cận văn học dân tộc thiểu số, năm 2011]. Đặc biệt đầu thế kỷ XX sự xuất hiện
của nhà thơ Tày - Hoàng Đức Hậu với hàng trăm bài thơ đƣợc sáng tác bằng
chữ Nôm Tày, chữ Hán và chữ Quốc ngữ - đã đánh dấu một bƣớc chuyển quan
trọng cho nền văn học DTTS nói chung, văn học Cao Bằng nói riêng từ văn
học dân gian sang văn học hiện đại. Nhƣng văn học Cao Bằng thời kỳ hiện đại
chỉ thực sự đƣợc hình thành và phát triển từ sau năm 1945, với sự xuất hiện
những bài thơ yêu nƣớc và Cách mạng của nhà thơ dân tộc Dao - Bàn Tài
Đoàn. Ông sinh ra và lớn lên ở châu Nguyên Bình (nay là huyện Nguyên Bình).
Có thể nói, nếu nhƣ Hoàng Đức Hậu là ngƣời mở đƣờng cho bộ phận văn học
thiểu số xuất hiện trong đời sống văn học nƣớc nhà thời đầu thế kỷ XX, thì Bàn
Tài Đoàn là đại diện đầu tiên và là ngƣời đi đầu, tiên phong cho văn học DTTS
cách mạng hình thành và phát triển ở giai đoạn đầu tiên - không chỉ ở Cao
Bằng mà ở trên cả nƣớc ta. Bắt đầu từ đây, văn học Cao Bằng từng bƣớc vận
động và phát triển với các thế hệ nhà văn nối tiếp nhau và ngày càng gặt hái
26
đƣợc nhiều thành tựu đáng đƣợc khẳng định, tạo dựng nên một diện mạo văn
học vừa phong phú về thể loại, vừa dày dặn về số lƣợng tác phẩm và vừa đông
đảo về đội ngũ sáng tác, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển của văn
học DTTS nói riêng, của văn học hiện đại nói chung. Trƣớc hết xin đƣợc điểm
qua về tình hình đội ngũ sáng tác của văn học Cao Bằng trong suốt gần 70 năm
trôi qua - kể từ năm 1945 đến nay.
2.1. Đội ngũ sáng tác ngày càng đông đảo, nối tiếp nhau liên tục phát triển
2.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975
Ngay từ những ngày đầu của cuộc cách mạng Tháng tám, Cao Bằng đã
có một nhà thơ DTTS đƣợc cả nƣớc biết đến với những bài thơ đậm chất dân
tộc và miền núi của mình - đó là nhà thơ Bàn Tài Đoàn ngƣời mà nhà nghiên
cứu phê bình Lâm Tiến đã trân trọng xếp vào “lớp tác giả khai sinh ra văn học
các DTTS Việt Nam hiện đại” với một số bài thơ viết từ năm 1944 đến năm
1954 nhƣ: Dặn vợ dặn con, Chiến thắng Nghĩa Lộ (năm 1952), Mừng thủ đô
giải phóng, Bác về thủ đô (năm 1954)…
Bên cạnh đó phải kể đến nhà giáo, nhà dịch thuật từ tiếng Quốc ngữ sang
tiếng Tày, Nùng - Thân Văn Lƣ (1908 - 1990). Ông là một ngƣời tâm huyết với
sự nghiệp phát triển ngôn ngữ Tày - Nùng của Khu tự trị Việt Bắc cũ, ông là
ngƣời Hòa An - Cao Bằng (là Trƣởng Ban nghiên cứu chỉ đạo xây dựng chữ
dân tộc Khu tự trị Việt Bắc, Trƣởng phòng chữ Tày - Nùng của Khu, phụ trách
Nhà xuất bản Việt Bắc …). Trong 20 năm liên tục (1956 - 1976) dịch giả Thân
Văn Lƣ đã dành hết khả năng, lòng nhiệt tình và một quyết tâm rất lớn để hoàn
chỉnh bản dịch Truyện Kiều từ tiếng Việt sang tiếng Tày, với mục đích phổ
biến Truyện Kiều - viên ngọc quý của văn học Việt Nam tới tay những ngƣời
đọc là ngƣời DTTS (Tày-Nùng); ngoài ra ông cũng là ngƣời đã dịch tác phẩm
Nhật ký trong tù và Di chúc của Lãnh tụ Hồ Chí Minh sang tiếng Tày. Ông
cũng đã xuất bản một số tác phẩm bằng tiếng Tày và chữ Quốc ngữ nhƣ: Gằm
Bản Slắng sle, Kin mác chứ gần chay… cùng nhiều tác phẩm thơ, văn đăng
27
trên các báo, tạp chí Trung ƣơng và địa phƣơng trong suốt những năm từ 1960
đến 1975.
Tiếp theo là tác giả Hoàng Triều Ân (nhà thơ, nhà văn, nhà nghiên cứu
sƣu tầm văn học dân gian các DTTS), ông là một cây bút đa tài, viết trên nhiều
thể loại và sáng tác liên tục từ những năm 60,70 trở lại đây. Một số tác phẩm
đƣợc tác giả sáng tác thời kỳ này có thể kể đến nhƣ: Tung còn và suối đàn
(1963), Tiếng hát rừng xa (1969), Nắng ngàn (1974), Bốn mùa Hoa (1974),
Kin mác (1975)….
2.1.2 Giai đọan từ năm 1975 đến năm 2000
Đây là giai đoạn văn học các DTTS ở Cao Bằng phát triển mạnh mẽ nhất
với một đội ngũ các nhà văn đông đảo và gặt hái đƣợc nhiều thành tựu đáng tự
hào.
Sau ngày đất nƣớc hoàn toàn giải phóng (năm 1975), trong suốt 25 năm
ra sức khôi phục, xây dựng lại đất nƣớc và mau chóng bƣớc vào thời công cuộc
Đổi mới sâu sắc và toàn diện (trong đó có sự Đổi mới trong lĩnh vực văn học
nghệ thuật), văn học Cao Bằng có sự phát triển mới mạnh mẽ theo hƣớng vừa
mang tính truyền thống vừa có tính hiện đại.
Bƣớc vào thời kì hòa bình, các nhà văn nhà thơ có điều kiện tập trung
hơn cho việc sáng tạo nghệ thuật. Ngoài những cây bút vẫn tiếp tục sáng tác từ
giai đoạn trƣớc nhƣ Triều Ân, Bàn tài Đoàn - ở giai đoạn này, văn học các
DTTS số Việt Nam hiện đại có sự phát triển khá mạnh mẽ về mặt lực lƣợng
sáng tác. Một loạt các nhà văn mới xuất hiện với các tác phẩm đƣợc nhiều
ngƣời biết tới (không chỉ là bạn đọc ngƣời DTTS mà còn là bạn đọc của cả
nƣớc) nhƣ: Vi Hồng với các sáng tác chủ yếu là thể loại truyện ngắn và tiểu
thuyết, đặc biệt ông là ngƣời đã đƣa tiểu thuyết trong văn học các DTTS đạt
đƣợc những thành tựu đáng tự hào; bên cạnh đó giai đoạn này có một số tác giả
nổi bật nhƣ: Nhà thơ Y Phƣơng - một cây bút thơ xuất sắc của văn học DTTS
Việt Năm thời kỳ hiện đại đã có những bài thơ, tập thơ để lại dấu ấn sâu đậm
28
trong long ngƣời đọc ở chính giai đoạn này. Đoàn Lƣ - cây bút văn xuôi chuyên
viết cho thiếu nhi miền núi cũng đƣợc biết đến với 5 tập truyện và 1 tập thơ đã
đƣợc xuất bản từ năm 1995 đến trƣớc năm 2000. Tác giả Đoàn Ngọc Minh -
Cây bút nữ dân tộc Tày cũng đã sáng tác trên cả hai thể loại văn xuôi và thơ ở
giai đoạn này với 3 tập truyện ngắn và 1 tập thơ đã xuất bản từ năm 1997. Đặc
biệt phải kể đến cây bút viết truyện ngắn Cao Duy Sơn - ngƣời đã đem lại niềm
tự hào cho văn học Cao Bằng nói riêng, cho văn học các DTTS Việt Nam thời
kỳ hiện đại nói chung với các giải thƣởng văn học lớn (giải thƣởng Quốc gia và
Quốc tế) - cũng đã xuất hiện vào thời kỳ này với rất nhiều những tác phẩm
đƣợc bạn đọc yêu thích và đƣợc đánh giá cao. Cây bút Hoàng Quảng Uyên
cũng là một cây bút vừa sáng tác văn xuôi vừa nghiên cứu phê bình xuất hiện
trong giai đoạn này và cũng đã có một số tác phẩm đƣợc xuất bản và gây đƣợc
chú ý nhƣ: Dòng sông kỷ niệm, Cánh chim, Lời hẹn…
Bên cạnh đó là sự xuất hiện của một đội ngũ các nhà văn, nhà thơ đã ghi
tên mình vào đời sống văn học Cao Bằng giai đoạn những năm cuối thế kỷ XX
nhƣ: Bế Thành Long, Hữu Tiến, Lô Hƣởng Ninh, Trần Hùng, Triệu Thị Mai,
Triệu Lam Châu, Trần Thị Mộng Dần, Hàn Thái Lang, Hà Ngọc Thắng, Chu Sĩ
Liên, Ngô Lƣơng Ngôn, Nguyễn Đức Dụ…
Có thể thấy, đây là giai đoạn văn học Cao Bằng phát triển mạnh mẽ nhất,
một đội ngũ sáng tác bao gồm các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu, sƣu tầm
và phê bình văn học đã xuất hiện và trƣởng thành ở giai đoạn lịch sử đặc biệt
này. Và cũng chính từ đội ngũ “hùng mạnh” ấy, bƣớc sang thế kỷ thứ XXI -
văn học Cao Bằng lại có một bƣớc phát triển mới mạnh mẽ và mới mẻ hơn,
hiện đại hơn nhƣng vẫn mang dấu ấn rõ rệt của những giá trị truyền thống của
các DTTS vùng cao biên giới này.
2.1.3. Giai đoạn 15 năm đầu thế kỷ XXI
Vào đầu thế kỉ XXI; các nhà văn lớp trƣớc thuộc diện cao niên nhƣ:
Triều Ân, Bế Thành Long… vẫn tiếp tục cống hiến với những tác phẩm văn
29
xuôi và nghiên cứu sƣu tầm có giá trị nhƣ: Văn học Hán Nôm dân tộc Tày
(Nghiên cứu, năm 2008), Trên đỉnh núi Phƣợng Hoàng (Tiểu thuyết, năm
2013), Truyện kể dân gian dân tộc thiểu số (sƣu tầm, nghiên cứu năm 2014)
của Triều Ân; và Bế Thành Long với: Ở nguồn (2005). Tiếp đến là thế hệ các
nhà văn đã trƣởng thành từ giai đoạn trƣớc năm 2000 đến nay vẫn còn sung sức
và tiếp tục phát triển, đạt đến độ chín của tài năng, và đạt đƣợc nhiều thành tựu
vang dội trong cả nƣớc, ví dụ nhƣ: nhà thơ Y Phƣơng với các tập thơ :Thơ Y
Phƣơng (2000), Thất Tàng Lồm - Ngƣợc gió (thơ song ngữ, 2006) và đã xuất
bản 2 tác phẩm tản văn là: Tháng giêng, tháng giêng một vòng dao quắm
2009) và Kungfu ngƣời Co Xàu (2011); Nhà văn Cao Duy Sơn tiếp tục với
các sáng tác đặc sắc và hấp dẫn hơn ở thời kỳ này nhƣ: Tập truyện ngắn Những
đám mây hình ngƣời, tiểu thuyết Đàn trời, tập truyện ngắn Ngôi nhà xƣa
bên suối, tiểu thuyết Chòm ba nhà, tập truyện ngắn Ngƣời chợ. Anh đã vinh
dự nhận giải thƣởng Acean về văn học cho tập truyện Ngôi nhà xƣa bên suối
năm 2009; Nhà văn Hữu Tiến thời kỳ này vẫn rất “phong độ” và đã cho ra 2 tập
truyện ngắn, 2 tiểu thuyết và 2 tập thơ song ngữ; Nhà văn Đoàn Lƣ có các tác
phẩm nhƣ: Bên dòng Quây Sơn, Những giấc mơ thời thơ ấu, và bộ tiểu
thuyết Khoa học viễn tƣởng gồm ba tập giành cho thiếu nhi: Lêna - kitty (viết
từ năm 2011 đến năm 2013)…; Nữ nhà văn Đoàn Ngọc Minh càng tỏ ra chín
chắn, sung sức hơn với các tác phẩm: Núi Bó Phạ trở về, Gió Xoáy, Gọi
nắng…; Tác giả Hoàng Quảng Uyên ngày càng mạnh mẽ hơn và xông xáo trên
nhiều thể loại và cũng đã ghi đƣợc dấu ấn của mình với các tác phẩm: Một
mình trong cõi thơ (phê bình văn học, năm 2000), Vọng tiếng non ngàn (kí,
năm 2001), Nhật Ký trong tù - số phận lịch sử (Nghiên cứu, phê bình năm
2010, tiểu thuyết Mặt trời Pác Bó (năm 2010) và Giải phóng (2013); bên cạnh
đó là một loạt các cây bút trẻ sinh vào những năm 70 và thậm chí là những năm
80 của thế kỷ trƣớc với niềm đam mê với văn học đã cống hiến cho văn học
Cao Bằng những thành tựu đáng tự hào nhƣ : Bế Phƣơng Mai (con gái của nhà
30
thơ Bế Thành Long), Đinh Thị Mai Lan, Đàm Thị Hải Yến, Hàn Thanh Duy…
với các tác phẩm mang màu sắc hiện đại nhƣ: Đất quê, Bài thơ của Cha (Bế
Phƣơng Mai); Tiếng đàn đêm, Đôi mắt trong veo (Đinh Thị Mai Lan); hai tập
thơ Ru giải yếm chàm, và Đƣờng Mây (Đàm Hải Yến)…
Qua khảo sát tình hình đội ngũ sáng tác của văn học Cao Bằng, chúng ta
nhận thấy rất rõ một đặc điểm nổi bật: Đó là Cao bằng có một đội ngũ sáng tác
văn chƣơng đông đảo, các nhà văn DTTS thuộc nhiều thế hệ, liên tục nối tiếp
nhau, tích cực sáng tạo làm nên một diện mạo văn học địa phƣơng phong phú
và nhiều thành tựu vào loại bậc nhất trong các tỉnh dân tộc miền núi của nƣớc
ta hiện nay.
2.2. Văn học Cao Bằng phát triển một cách toàn tƣơng đối diện và phong
phú
Khi nói về văn học Cao Bằng, nhà nghiên cứu phê bình Lâm Tiến đã
khẳng đinh “Cao Bằng là một tỉnh miền núi có sự nghiệp phát triển văn học -
nghệ thuật DTTS nhất cả nước” [73, tr. 33]. Quả thật là nhƣ vậy - văn học Cao
Bằng phát triển khá toàn diện và phong phú với sự có mặt của tất cả các thể
loại ( văn xuôi gồm có truyện ngắn, tiểu thuyết, ký, tản văn; thơ và trƣờng ca;
nghiên cứu, sƣu tầm và phê bình văn học). Ở thể loại nào cũng có những tác giả
tiêu biểu, xuất sắc, có những đóng góp quan trọng đối với sự vận động và phát
triển của văn học DTTS Việt Nam hiện đại nói chung.
Trƣớc hết xin nói về Thơ:
2.2.1. Cao Bằng - mảnh đất giàu truyền thống thơ ca
Có thể khẳng định ngay một điều: Cao Bằng là mảnh đất có truyền thống
thơ ca từ lâu đời. Ngay từ đầu thế kỉ XVII với hai bản trƣờng ca “Lƣợn tứ
quý” và “Tam nguyên luận” của Bế Văn Phủng, Nông Quỳnh (đều đƣợc viết
bằng chữ Nôm Tày với thể thơ 7 chữ). Đặc biệt đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế
kỷ XX với sự xuất hiện của nhà thơ Hoàng Đức Hậu - ngƣời đƣợc chú ý nhiều
nhất trong thời kì này và đƣợc coi là một hiện tƣợng văn học DTTS độc đáo,
31
khi nhà thơ Tày - Cao bằng này sáng tác thơ bằng cả 3 loại ngôn ngữ : Tày,
Hán, chữ Quốc ngữ với hơn 120 bài thơ đã đƣợc công bố. Và theo đánh giá của
Triều Ân, Nông Quốc Chấn, Nông Viết Toại thì số lƣợng tác phẩm của Hoàng
Đức Hậu phải nhiều hơn nữa. Có thể kể đến các bài thơ tiêu biểu của ông nhƣ
nhƣ “Thói đời”, “Điệu Quyên”, “Đắng phu”, “Đi buôn”, “Đánh bạc”, “Mỏ
nƣớc Meng”, “Thác quan làng”, “Cấm mở đƣờng”, “Đuổi nhƣ trâu”, “Đài
quan”, “Khau vài”, “Ngày buồn”, “Con ve rừng”, “Bâng khuâng”… Thơ
Hoàng Đức Hậu có phong cách riêng, có sự tìm tòi đổi mới, sáng tạo mặc dù
chƣa thoát ra hẳn đƣợc cái bóng thơ Đƣờng luật, nhƣng ở một khía cạnh nào đó
thơ ông đã tạo đƣợc tiếng thơ riêng mới mẻ và độc đáo. Thơ Hoàng Đức Hậu
đã tạo sự ảnh hƣởng sâu rộng đến các sáng tác của các nhà thơ Tày - Nùng thế
hệ sau này. Ông đƣợc coi là cầu nối quan trọng giữa văn học dân gian và văn
học viết của các DTTS Việt Nam thời kỳ hiện đại.
Giai đoạn trƣớc và sau trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945, vào
những năm 30 - 40 của thế kỷ XX khi phong trào cách mạng của cả nƣớc dâng
cao, thơ ca của các trí thức, chiến sĩ ngƣời DTTS cũng bắt đầu xuất hiện hòa
vào dòng thơ yêu nƣớc cách mạng cả nƣớc. Và đại diện tiêu biểu xuất hiện đầu
tiên trên địa bàn tỉnh Cao Bằng đó là nhà thơ ngƣời dân tộc Dao - Bàn Tài
Đoàn. Ông đƣợc coi là một trong những ngƣời đặt nền móng cho thơ ca Cách
mạng và Kháng chiến yêu nƣớc của các DTTS Việt Nam. Ở thời điểm này, Bàn
Tài Đoàn có tác phẩm Dặn vợ, dặn con (1944). Sau năm 1945, trong cuộc
kháng chiến chống Pháp oanh liệt của toàn Dân tộc, với tƣ cách ngƣời con sinh
ra từ “cái nôi” của cách mạng Việt Nam, nhà thơ Bàn Tài Đoàn cũng ra sức góp
thêm tiếng nói của mình cũng nhƣ tiếng nói của con em DTTS Cao Bằng vào
công cuộc cách mạng của cả nƣớc. Đồng thời, ông cũng chính là một trong
những tác giả ngƣời DTTS có vai trò tiên phong hình thành nên một bộ phận
văn học mới trong nền văn học dân tộc thời kỳ hiện đại - văn học các DTTS
Việt Nam. Giai đoạn này sức sáng tác của Bàn Tài Đoàn hết sức mạnh mẽ, có
32
thể kể đến các tác phẩm của ông nhƣ: Xuân về trên núi (1963), Một giấc mơ
(1964), Trùm xấy cấu (kể truyện đời)(1968), Rừng Xanh (1973)… Mặc dù
thơ Bàn Tài Đoàn giai đoạn đầu còn có sự ảnh hƣởng khá nặng nề của thơ ca
dân gian và thơ ca truyền thống của dân tộc Dao (chủ yếu là thể thơ cổ phong 7
chữ, nặng về phƣơng thức tự sự, kể về cuộc đời mình, kể về cuộc đời của ngƣời
dân tộc Dao, kể về “Chiến thắng Nghĩa Lộ”, về “Mừng thủ đô giải phóng”),
nhƣng những sáng tác này của ông đều phản ánh một cách chân thực lòng yêu
nƣớc, yêu quê hƣơng, lòng tự hào dân tộc, lòng tự tôn của một con ngƣời miền
núi, tuy mộc mạc, thật thà chất phác nhƣng đầy nhiệt huyết với cuộc sống mới,
với Cách mạng:
Mẹ lại được nghe anh cán bộ
Báo tin mừng giải phóng thủ đô
Bộ đội ta vào như nước chảy
Rầm rầm cờ đỏ cắm đầy khắp nơi…
([21, tr. 22] - Mừng Thủ đô giải phóng)
Bên cạnh đó là nhà thơ Triều Ân với các tác phẩm nhƣ: Tung còn và
suối đàn (1963), Tiếng hát rừng xa (1969), Nắng ngàn (1974), Bốn mùa hoa
(1974)… Thơ Triều Ân chủ yếu là thơ trữ tình, tác giả không quá trăn trở với
vấn đề truyền thống hay hiện đại trong thi pháp - với ông, làm thơ chỉ cần quan
tâm làm sao để có bài thơ hay, làm sao để có thể viết về cuộc sống, về con
người về quê hương, dân tộc cho đúng cho hay, cho sâu sắc để người đọc
không tìm thấy sự khác biệt quá lớn giữa người DTTS và người Kinh [71, tr.
68]. Nhà nghiên cứu phê bình Lâm Tiến đã có nhận định rằng: thơ ông có thế
mạnh là nhanh chóng và dễ dàng hòa nhập với nghệ thuật và thơ ca thời kì
hiện đại, nhưng lại thiếu bản sắc và thiếu đi nét truyền thống cần thiết của
người DTTS, nên về mặt thơ ca ông không có nhiều tác phẩm đạt đến đỉnh cao.
Tuy nhiên cũng cần phải khẳng định ông đã có những đóng góp ban đầu trong
sự nghiệp thơ ca các DTTS Việt Nam hiện đại [71, tr. 46]. Đây là một nhận
33
định rất chính xác của nhà nghiên cứu phê bình Lâm Tiến về ƣu điểm cũng nhƣ
nhƣợc điểm của tác giả Hoàng Triều Ân.
Từ năm 1975 đến nay - thời kỳ các tác giả ngƣời DTTS xuất hiện đông
đảo nhất và thành tựu văn học của nó cũng rực rỡ nhất. Giai đoạn này Văn học
Cao Bằng đã góp một phần không nhỏ vào sự phát triển đội ngũ các nhà thơ
DTTS Việt Nam hiện đại. Thời điểm này, thơ ca DTTS nói chung mới thực sự
phát triển mạnh về số lƣợng cũng nhƣ chất lƣợng (khiến ngƣời đọc có thể nhận
diện rõ ràng và thấy đƣợc sự độc đáo của bộ phận thơ ca đặc biệt này) và khẳng
định đƣợc vị trí quan trọng của nó trong nền văn học Việt Nam hiện đại nói
chung. Đến giai đoạn này, hai cây bút gạo cội Bàn Tài Đoàn, Triều Ân vẫn
không ngừng miệt mài sáng tác, nhiều tác phẩm thơ của họ đƣợc công bố rộng
rãi nhƣ các tác phẩm: Đồng bào Dao (1979), Nơi ta ở (1979), Bƣớc đƣờng tôi
đi (1985)… của Bàn Tài Đoàn; Triều Ân có các tập thơ nhƣ: Kin mác (1975),
Chốn xa xăm(1990), Hoa vông (1994), Hoa và nắng(2000), Một lần thăm
Trung Quốc (2005) và các tuyển tập thơ đƣơc xuất bản trong những năm gần
đây nhƣ: Tuyển tập thơ văn Triều Ân (2006), Triều Ân thơ (tuyển tập,
2007),… Nếu nhƣ thời kỳ này thơ Bàn Tài Đoàn vẫn tập trung vào cảm hứng ca
ngợi cách mạng, ca ngợi cuộc sống mới và vẫn đậm nét truyền thống thì Triều
Ân đã có những biến đổi theo hƣớng vừa truyền thống vừa hiện đại. Thơ Triều
Ân giai đoạn này vẫn hồn nhiên, nhƣng tinh tế và có những liên tƣởng mới: Xa
cách lâu em mong/ Buồn như cành lá trụi; Nếu tóc anh điểm sương/ Lòng em
buồn lá úa. Hình ảnh con ngƣời, hình ảnh thiên nhiên trong thơ Triều Ân cũng
rất miền núi và “rất Tày”, nhƣng cũng có lúc, thơ Triều Ân có những hình ảnh
mới hiện đại và lạ: Đủng đỉnh đàn bò lưng khoác nắng/ Suối Chiềng Đông cạn
như bầu sữa lép/ Tiếng ngựa hí như tiếng dao… Có thể thấy, từ Triều Ân thơ
Cao Bằng đã bắt đầu đi theo xu hƣớng vừa truyền thống, vừa hiện đại.
Bên cạnh hai tác giả lớn là Bàn Tài Đoàn và Triều Ân, văn học Cao
Bằng thời kỳ này đã xuất hiện một đội ngũ các nhà thơ trẻ, sôi nổi, trẻ trung,
34
hồn nhiên, đầy nhiệt huyết với một sức sáng tạo mới phong phú và mới mẻ,
nhƣng vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Xin đƣợc điểm qua một số gƣơng mặt tiêu
biểu của thơ ca Cao Bằng thời kỳ nay nhƣ:
Đầu tiên phải kể đến nhà thơ Y Phƣơng - ngƣời đã có những bài thơ đầu
tiên đƣợc in báo năm 1973 là “Bếp nhà trời”, “Dáng một con sông”. Đặc biệt
từ những năm 80 trở lại đây Y Phƣơng đã đạt đƣợc những thành công vang dội
và đƣợc bạn đọc nhắc đến với tƣ cách là Người kê cao văn hóa Tày, người đưa
thơ ca dân tộc Tày lên đến đỉnh cao của văn học các DTTS Việt Nam hiện đại.
Thơ Y Phƣơng chủ yếu viết về quê hƣơng, về con ngƣời miền núi dƣới góc
nhìn văn hóa, với những cảm nhận có phần trầm tƣ, sâu lắng nhƣng vẫn là
những bài thơ vừa mang tính hiện đại, vừa đậm đà bản sắc dân tộc. Ông đã
sáng tác và công bố 6 tập thơ: Tiếng hát tháng Giêng (1986); Lời chúc
(1987); Đàn then (1996); Chín tháng (trƣờng ca, 1998), Thơ Y Phƣơng
(2000); Thất tàng lồm - Ngƣợc gió (song ngữ Tày-Việt, 2006). Y Phƣơng
từng đƣợc Giải A cuộc thi thơ của Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Giải thƣởng
loại A của Hội Nhà văn Việt Nam (1987) với tập thơ "Tiếng hát tháng giêng"
(1986); Giải A của Hội đồng Văn học dân tộc - Hội Nhà văn Việt nam với tập
thơ "Lời chúc"(1991); Giải B của UBTQ Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ
thuật Việt, Giải B của Bộ Quốc phòng (2001) với tập trƣờng ca "Chín tháng".
Ông đƣợc vinh dự nhận Giải thƣởng Nhà nƣớc về Văn học Nghệ thuật năm
2007.
Nhà thơ Triệu Lam Châu có các tác phẩm nhƣ: Trăng sáng trên non
(1998), Ngọn lửa rừng (1999). Giọt Khèn (2001). Thầm hát trên đồi (2004).
Triệu Lam Châu còn là một dịch giả khá nổi tiếng với rất nhiều tập thơ dịch từ
thơ nƣớc ngoài sang tiếng Việt nhƣ: Nửa phần sự thật (Thơ dịch của
X.Mikhancốp - Nga, năm 2000). Đêm trắng (Thơ dịch của nhiều tác giả Liên
Xô, năm 2002)... Ông đã vinh dự đƣợc nhận Giải Nhất toàn quốc Cuộc thi dịch
văn học nƣớc ngoài ra tiếng Việt năm 1994, do Hội nhà văn Việt Nam và Tuần
35
báo Văn nghệ cùng Nhà xuất bản Văn học tổ chức - với truyện dịch "Vƣơng
quốc chim hoạ mi" của nhà văn Nga Pauxtốpxky; Giải thƣởng Thơ năm 1998
của Hội Văn học Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam - với tập thơ
"Trăng sáng trên non”… Cùng rất nhiều những giải thƣởng khác nữa của
Trung ƣơng và địa phƣơng. Thơ ông đã thẩm thấu đƣợc
này đã ; trong các bài thiên nhiên
thơ của mình ông luôn
quen thuộc nhƣ: núi Khau Mi-à, Khuổi Phước, Nà
Sáng, Thang Dào, Mèng Vần, Chon Uai, cánh đồng: Nà Roỏng, Bó Gảy, Khau
Mụ, Bó Xum, thác Nặm Thoong, đèo Kiéo Pỉt… Trong các sáng tác của Triệu
Lam Châu - một ngƣời con xa quê đi lập nghiệp nơi khác - quê hƣơng Cao
Bằng hiện lên sao mà thân thƣơng gần gũi, da diết nỗi nhớ và đau đáu hoài
niệm về quê hƣơng, về ngƣời mẹ DTTS đã nằm lại ở quê nhà. Tình yêu con
ngƣời và thiên nhiên vẫn luôn lung linh trong ký ức của nhà thơ Tày này:
Em đi tìm anh khắp vùng núi Khau Mi-à
Vẫn tinh khiết mạch nguồn Khuổi Phước
Suối Bó Toòng vẫn vô tư cất giọng ngàn róc rách
Giọt lệ dài theo suối tới xa xăm
Em đi tìm anh khắp Nà Sáng đầy trăng
Suối ngọt lịm tình anh từ độ ấy
Vườn ổi Thang Dào sao mà run rẩy vậy
Bao trái tròn thơm lấp loáng như trăng
( Núi Khau Mi à!)
Tác giả Bế Thành Long có hai tập thơ chính là: Cỏ may (1996), Ở
nguồn (2005) và rất nhiều những bài thơ đăng trên Tuyển tập thơ, các báo, các
trang Tạp chí nhƣ: Nói với vợ, Trẩy hội với rừng, Hƣ không, Cô gái mang
bình, Tiếng ngỗng trời, Thảo Nguyên xanh… Thơ ông không hƣớng tới
những cái gì lãng mạn, xa vời mà hồn nhiên, bình dị, “lãng đãng” với những lời
36
mộc mạc nhƣng ngọt ngào nhƣ lời ru, câu hát: Ai gọi đấy! / Hỡi âm vang vách
núi / Có theo ta trẩy hội với rừng / Cầu bên núi xa chênh bóng nước / Mây
ngàn gieo tải nắng nương xa ( Trẩy hội với rừng). Tác giả Hữu Tiến - mặc dù
sở trƣởng của ông là văn xuôi nhƣng vốn đa tài và yêu thơ, muốn góp phần gìn
giữ và phát huy ngôn ngữ dân tộc Tày - Nùng trong văn chƣơng, ông cũng đã
xuất bản 2 tập thơ song ngữ Tày - Việt: Sau đêm - Gừn muổt (2008) và Phân
đét noọng đai - Mƣa nắng mình em (2014)... Mỗi tác phẩm của ông đều là
một sự say mê lao động, sáng tạo đầy nghiêm túc. Chính vì vậy, ông đã đạt
đƣợc rất nhiều giải thƣởng về văn học (trong đó có Giải B, năm 2008 cho tập
thơ Sau đêm - Gừn muổt của Hội Văn học Nghệ thuật các Dân tộc thiểu số
Việt Nam trao tặng).
Cây Bút Đoàn Lƣ với thế mạnh là văn xuôi viết cho thiếu nhi, nhƣng ở
thể loại thơ, ông cũng là một cây bút có sức viết khá dồi dào, ông đã xuất bản 5
tập thơ: Mùa khẩu lam (năm1997); Dòng sông nghiêng (năm 2003); Ổi
trái mùa (năm 2013); Tiếng lạ (năm 2013); Dự cảm (năm 2013). Một số bài
thơ hay đƣợc đăng trong các tuyển tập “Những bài thơ hay viết cho thiếu nhi
dân tộc miền núi” và “Tuyển tập văn học dân tộc và miền núi”. Đọc thơ Đoàn
Lƣ, ngƣời ta có thể nhận thấy yếu tố truyền thống và hiện đại cùng hòa quyện -
thơ ông chất chứa bao trăn trở và những “dự cảm” đầy ám ảnh về những vấn
đề con người ngày nay đang phải đối mặt. Những bài thơ còn đi vào
lòng ngƣời đọc bởi cảm hứng nhân văn, chất triết lí và đầy sự trải nghiệm cùng
giọng điệu trữ tình nhƣng sâu lắng và luôn khiến ngƣời đọc phải suy ngẫm:
"Trên thế giới/Nơi nào/Có bức tranh/Đẹp Lãng mạn/Như tôi thấy/Từ sâu
thẳm/Chiến tranh? (...) Ký ức/Chiến trường khốc liệt/Cũng bình yên/Bên hố
bom tiên nữ soi mình" (Bức tranh). Một số các Tác giả khác nhƣ: Trần Hùng
với tập Mơ Quê (1998), Vƣờn Khuya…; Lô Hƣởng Ninh có tập Gió núi
(2006) với rất nhiều bài thơ viết cho chiến trƣờng, viết cho quê hƣơng, đặc biệt,
là nhiều bài thơ viết cho con; nhà thơ Ngô Lƣơng Ngôn có 3 tập thơ, trong đó
37
có tập Lên Đèn, Tốc lả (Muộn màng); Ngô Ngọc Khánh với 2 tập thơ: Phƣơng
trời tím và Dòng sông tìm lại …
Đồng hành cùng với các nhà thơ nam, các nhà thơ nữ Cao Bằng cũng tỏ
ra mạnh mẽ, đam mê sáng tạo và có thành tựu không kém nhƣ: Trần Thị Mộng
Dần với các bài thơ, các tác phẩm thơ nhƣ: Đêm biển cho em, Đảo xa, Hội,
Cổ tích một truyện tình, Thần thoại trắng…; Đoàn Ngọc Minh đã xuất bản 6
tập thơ, trong đó có các tập thơ để lại ấn tƣợng nhƣ: Sông ngàn lau (2001)
(giải khuyến khích hội VHNT các DTTS Việt Nam), Lời hẹn (2007), Gọi
nắng, Mƣa và em, Thức với mƣa, đáng chú ý là tập thơ song ngữ Lồm hoằn
muổt - Gió hoàng hôn (năm 2011) của chị đã đƣợc nhận giải thƣởng của Hội
văn học nghệ thuật các DTTS Việt Nam năm 2012, và đã gây đƣợc sự chú ý
đối với bạn đọc DTTS trong cả nƣớc.
Nhà thơ nữ Triệu Thị Mai đã viết khá nhiều bài thơ từ những năm 1981,
đến năm 2013 tác giả mới “gom góp” lại và cho xuất bản tập thơ Lời ru của
trăng - Tập thơ nhƣ cuốn nhật ký điểm lại những dấu son cảm xúc đƣợc khắc
tạc vào tim của tác giả Triệu Thị Mai. Dù những bài thơ đƣợc tập hợp lại trong
hơn 30 năm, nhƣng bằng lối viết giản đơn, mộc mạc, thả lỏng quy phạm, không
truy cầu sự trau chuốt trong ngôn từ, thơ Triệu Thị Mai đến với ngƣời đọc dễ
dàng nhƣ câu hát của ngƣời Tày, thấm vào lòng ngƣời bằng sự hồn nhiên, chân
thực và đáng yêu: Phụ nữ miền núi/Nói tiếng Kinh không sõi/Chẳng ưa nói lời
gập, lời cong/Lòng thẳng như mạy mốc/Chẳng bao giờ giận lâu... (Phụ nữ
miền núi).
Còn với các nhà thơ trẻ nhƣ: Bế Phƣơng Mai, Đinh Thị Mai Lan, Đàm
Hải Yến, Hàn Thanh Duy đã tiếp nhận sự đổi mới một cách tự nhiên chứ không
nhọc nhằn đi tìm cái tôi như thế hệ cha anh. Họ viết thơ như chính cuộc đời họ,
mọi vui, buồn, yêu, ghét đều là của chính họ [74, Tr.32] nên thế hệ này tuy bề
dày sáng tác chƣa nhiều nhƣng tạo đƣợc giọng điệu riêng, phong cách riêng,
gây dấu ấn trong lòng bạn đọc. Nhà thơ Bế Phƣơng Mai với niềm đam mê thơ
38
đƣợc thừa hƣởng từ cha (nhà thơ Bế Thành Long) - với một cô gái làm thơ, nét
khác biệt ở chị đƣợc thể hiện trong giọng điệu mềm mại nhƣng đầy đam mê và
quyến rũ đầy nữ tính; là sự ám ảnh bởi những ấn tƣợng của tuổi thơ, tình yêu
của một thời thiếu nữ. Đối tƣợng đầu tiên trong những ký ức tuổi thơ là ngƣời
cha - ngƣời đem đến những thông điệp đầu tiên của tình yêu cuộc sống - có lẽ
vì vậy mà tập thơ: “Bài thơ của cha” (2003) của Bế Phƣơng Mai đã lọt vào
vòng chung kết của Hội Nhà văn Việt Nam (năm 2004). Bên cạnh đó chị còn
những bài thơ khá ấn tƣợng bởi tính hiện đại nhƣ: Cộng vào em mùa đông,
Gió cháy, Cỏ thơm, Định Nghĩa, Hẹn, Tình yêu, Gió Tam Đảo… tác giả
Đinh Thị Mai Lan - tuy mới có tập thơ đầu tay Tiếng Đàn Đêm (2005), nhƣng
là một cây bút trẻ ngƣời DTTS lại sử dụng ngôn ngữ phổ thông để viết nhƣng
ngƣời đọc rất ít gặp những “câu yếu, những từ lệch, ý non” trong thơ Đinh Thị
Mai Lan. Bốn mƣơi bảy bài thơ trong tập thơ là bốn mƣơi bảy “nốt đàn” rành
rõ từng âm tiết, từng giai điệu, đủ sức ngân vang tạo những sóng nhạc du
dƣơng trong lòng ngƣời đọc. Bên cạnh đó là Đàm Hải Yến với hai tập thơ: Ru
dải yếm chàm (2006) và Đƣờng mây (2011), và Hàn Thanh Duy với tập thơ
Trăng trong phố (2011) - cũng đã bƣớc đầu khẳng định đƣợc sự có mặt của
mình trong đời sống thơ ca của Cao Bằng cũng nhƣ trong cả nƣớc. Hai tập thơ
“Ru dải yếm chàm”, “Tiếng đàn đêm” của Đàm Hải Yến và Đinh Thị Mai
Lan nhận đƣợc giải thƣởng của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học -
Nghệ thuật Việt Nam năm 2006.
Mặc dù mỗi nhà thơ ở Cao Bằng đều có phong cách sáng tác riêng, một
tiếng thơ riêng, nhƣng ta vẫn có thể thấy đƣợc những nét chung - đó là sự phản
ánh một cách trung thực và sinh động đời sống lao động và đấu tranh của đồng
bào các DTTS nơi đây; thể hiện đời sống tâm hồn, tình cảm phong phú của
đồng bào DTTS. Đồng thời, bộc lộ tính nhân văn cao với tình xóm làng, tình
đoàn kết và tinh thần lạc quan của con ngƣời miền núi trƣớc cuộc sống. Đặc
biệt, tình yêu nam nữ, lòng thủy chung đƣợc thể hiện rất đẹp trong nhiều áng
39
thơ trữ tình đằm thắm, chứa đựng nhiều giá trị mang bản sắc dân tộc và truyền
thống văn học vô cùng phong phú. Nội dung và cảm hứng sáng tác của thơ ca
Cao Bằng đƣợc thể hiện rõ ở 2 giai đoạn: Từ 1945 -1975 tập trung vào việc
phản ánh cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm (Pháp, Mỹ) của đồng bào các
DTTS nơi đây và ca ngợi cuộc sống mới, con ngƣời mới, lòng biết ơn Đảng,
Bác Hồ của đồng bào các DTTS nói chung. Từ sau năm 1975, đất nƣớc hoàn
toàn giải phóng, hòa bình trở lại với miền núi cùng với sự lo lắng bởi bao khó
khăn chồng chất của dân tộc; đặc biệt bƣớc vào thời kỳ Đổi mới, thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa với cơ chế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa đầy
thuận lợi và thách thức đã khiến cho văn chƣơng Cao Bằng vận động, phát triển
mạnh hơn, đa dạng hơn, đề cập tới nhiều vấn đề nóng bỏng hơn. Do đó thơ ca
Cao Bằng giai đoạn này có nhiều đổi mới. Đó là sự mở rộng các đề tài (con
ngƣời cá nhân với bao nỗi buồn riêng tƣ; mặt trái mang nét tiêu cực của xã hội
thời hiện đại…) bên cạnh những đề tài truyền thống nhƣ: tình yêu quê hƣơng,
con ngƣời miền núi, lòng tự hào về các nét đẹp truyền thống văn hóa dân tộc.
Về nghệ thuật: thơ Cao Bằng rất giàu bản sắc văn hóa các tộc ngƣời DTTS
vùng biên của Tổ quốc (Tày, Dao, Hmông…), có sự ảnh hƣởng rõ nét của thi
pháp thơ dân gian DTTS. Tuy nhiên vào cuối thế kỉ XX, đầu thế kỷ XXI thơ
Cao Bằng đã có sự đổi mới rõ rệt trong cả tƣ duy thơ và trong cả thi pháp.
Từ những khảo sát khái quát trên, chúng tôi thấy rằng: Cao Bằng chính
là một miền thơ phong phú, đa thanh, đa sắc, rất đáng tự hào; thơ Cao Bằng đã
vƣơn tới những thành tựu đáng khẳng định của thơ DTTS Việt Nam hiện đại
nói chung. Và điều đáng quý là thơ Cao Bằng vẫn giữ đƣợc những nét truyền
thống bên cạnh những yếu tố hiện đại, mới mẻ và hấp dẫn. Vì thế mà Cao Bằng
đã có những nhà thơ DTTS tiêu biểu, xuất sắc trong cả nƣớc.
2.2.2. Văn xuôi Cao Bằng
Nếu nhƣ trƣớc năm 1945 thơ ca các DTTS đã từng xuất hiện, thì văn
xuôi các DTTS chỉ mới đƣợc hình thành và phát triển từ sau Cách mạng tháng
40
Tám. Mặc dù từ những năm 40 của thế kỷ XX, trên văn đàn nƣớc nhà cũng đã
xuất hiện một số tác phẩm viết về đời sống sinh hoạt của ngƣời DTTS ở vùng
núi cao. Nhƣng những tác giả viết về mảng đề tài này đều là ngƣời Kinh, ví dụ
nhƣ: Thế Lữ với tập truyện Vàng và máu; Lan Khai với Truyện đƣờng rừng;
Nhất Linh với Lan rừng; Nguyễn Tuân với Đỉnh non Tản, Cô Dó; Thanh
Tịnh với Ngậm ngải tìm trầm; Lê Văn Trƣơng với Tôi là mẹ, Những đồng
tiền siết máu…. Đương thời, những tác phẩm này cũng đã thu hút sự chú ý
của người đọc bởi sự mới lạ, kì dị về cảnh và người miền núi; đã kích thích trí
tò mò của độc giả trước những miền đất lạ xa xôi, hoang dã với những phong
tục tập quán kì lạ, bí hiểm, hoặc những hủ tục mông muội, thậm chí man rợ của
những tộc người miền núi (Thổ, Mán,…) trên vùng núi non xanh thẳm. Nhà văn
giống như một du khách, một kẻ lãng tử đi khám phá những miền đất xanh
thẳm, thâm u, hoang dã, phát hiện ra nhiều điều kì bí trong cuộc sống của
những tộc người sống trong rừng thẳm còn nhiều bí ẩn với con người trong xã
hội văn minh [75, tr. 75]. Tiếp nối và kế thừa những tác phẩm văn xuôi của các
nhà văn dân tộc Kinh, các nhà văn DTTS đã bƣớc đầu đến với việc sáng tác
văn xuôi. Ở Cao Bằng - tác giả Bàn Tài Đoàn đã có tác phẩm “văn xuôi tập sự”
đầu tiên viết theo kiểu ký: Cuộc đời của Đoàn năm 1950. Tiếp đó là vào
những năm 60, văn xuôi Cao Bằng đƣợc đánh dấu bởi những truyện ngắn của
Triều Ân nhƣ “Bên bờ suối tiên” (Giải nhì cuộc thi truyện của Tạp chí Văn
nghệ Việt Bắc năm 1962), của Vi Hồng với “Nƣớc suối tiên đào” (Giải nhì
cuộc thi truyện của Tạp chí Văn nghệ Việt Bắc năm 1963) …
Nhƣng phải đến cuối những năm 60 và những năm 70, 80 (thế kỷ XX).
văn xuôi Cao Bằng mới thức sự có những thành tựu đáng kể. Sau năm 1975,
trong không khí hòa bình, thống nhất đất nƣớc, khắc phục hậu quả của chiến
tranh và xây dựng cuộc sống mới, nhìn chung văn xuôi DTTS đã có một sự
phát triển mới. Đội ngũ tác giả là ngƣời DTTS nói chung đông đảo hơn và
thành tựu sáng tác cũng rực rỡ hơn. Thời kì này, văn học Cao Bằng có sự phát
41
triển khá mạnh về số lƣợng cũng nhƣ chất lƣợng, giúp chúng ta có thể nhận
diện một cách rõ ràng, khẳng định nó nhƣ một thực tế riêng, độc đáo trong đời
sống văn học DTTS Việt Nam hiện đại. Các tác giả, tác phẩm tiêu biểu có:
Triều Ân với Tuyển tập Văn học 1969, Tiếng Hát rừng xa (truyện ngắn, bút
ký, năm 1969), Tiếng khèn A Pá (1980), Đƣờng qua đèo mây (1988), Vi
Hồng có các tác phẩm: Đất Bằng (1980), Núi cỏ yêu thƣơng (1984), Đuông
Thang (1988), Thung lũng đá rơi (1985)… Cách mạng, nhân dân và văn hóa,
văn học dân gian chính là nguồn mạch vô tận nuôi dƣỡng những cây bút văn
xuôi ngƣời DTTS trong quá trình sáng tác của mình. Họ luôn bám sát công
cuộc cách mạng của dân tộc trong chiến đấu và trong công cuộc xây dựng, bảo
vệ đất nƣớc và đã thể hiện sâu sắc tình cảm, ý chí của ngƣời dân miền núi trong
những tháng ngày gian khổ đầy mất mát, hi sinh, nhƣng cũng đầy oanh liệt, đầy
niềm tin và hy họng. Thời kỳ này, phạm vi phản ánh trong các tác phẩm văn
xuôi khá rộng và toàn diện. Các tác giả DTTS không chỉ viết về cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nƣớc ở cả hai miền Nam - Bắc, mà còn quan tâm cả tới
việc ngợi ca sự đổi mới lớn lao của đất nƣớc, của cuộc sống nhân dân các
DTTS ở miền Bắc thân yêu.
Từ những năm 90 trở về đây, văn xuôi Cao Bằng tiếp tục phát triển mạnh
mẽ về cả đội ngũ tác giả, về số lƣợng và chất lƣợng tác phẩm. Thời kỳ này văn
xuôi đã có một bƣớc phát triển mới về mọi mặt: từ phạm vi phản ánh đến ngôn
ngữ, bút pháp nghệ thuật. Một số vấn đề lớn của xã hội với tất cả những mặt
thuận lợi và khó khăn ở vùng DTTS đã đƣợc các tác giả đề cập tới. Các cây bút
nữ ở Cao Bằng cũng đã xuất hiện nhiều hơn và họ đã đem đến cho văn học
DTTS nói chung, cho nền văn xuôi Cao Bằng nói riêng nhiều tác phẩm khá đặc
sắc và có giá trị, ví dụ nhƣ: Tác giả Đoàn Ngọc Minh với Dòng sông kỷ niệm
(1997), Cánh chim (1999)… nữ nhà văn Trần Thị Mộng dần với Bình yên
thời con gái (1998)…
42
Và một điều đáng quý là: Văn xuôi Cao Bằng đã phát triển khá toàn diện
với nhiều thể loại nhƣ: truyện ngắn, tiểu thuyết, ký và sau này là cả tản văn
nữa, nhƣng phát triển mạnh và đạt đến đỉnh cao chính là truyện ngắn và tiểu
thuyết của vùng đất này.
Về Truyện ngắn, đây là một trong những thể loại thành công nhất của
văn học các DTTS Việt Nam cũng nhƣ của văn học Cao Bằng thời kỳ Đổi mới.
Mặc dù xuất hiện sau thơ ca, nhƣng văn xuôi lại có những bƣớc phát triển
“nhảy vọt”, bắt kịp với trình độ phát triển của văn xuôi Việt Nam thời kỳ hiện
đại.
Nhƣ đã nói ở trên, truyện ngắn ở Cao Bằng đã xuất hiện từ những năm
50, 60 của thế kỉ XX với những gƣơng mặt quen thuộc nhƣ Bàn Tài Đoàn,
Triều Ân, nhƣng đó mới chỉ là những tác phẩm “tập sự” nên vẫn còn có những
non yếu nhất định về mặt nghệ thuật. Tuy nhiên, đó cũng đƣợc coi là bƣớc khởi
đầu cần thiết cho sự phát triển của truyện ngắn Cao Bằng sau này. Từ những
năm 70, 80 và 90 của thế kỷ trƣớc đến những năm đầu của thế kỷ XXI, Cao
Bằng là một trong những địa phƣơng đi đầu và thành công nhất ở thể loại
truyện ngắn. Mở đầu là tác giả Triều Ân với các tập truyện ngắn: Tiếng khèn
A Pá (1980), Nhƣ cánh chim trời (1982), Đƣờng qua đèo Mây (1988) Xứ
sƣơng mù (2000),Chuyện đời thƣờng (2012),… Và sau này là những tác giả
khác của Cao Bằng nhƣ:
Nhà văn Hữu Tiến với tập truyện ngắn đầu tiên là Trăng gần (1993),
đến nay, các tập truyện của ông đã xuất bản gồm: Ngọn suối chân
rừng (1997); Đèo không lặng gió (2003); Cô gái nhặt bông gạo (2006)…
Hữu Tiến đã nhận đƣợc nhiều giải thƣởng cho sự nghiệp văn chƣơng của mình
nhƣ: Giải B (năm 2008) cho tập thơ Sau đêm - Gừn muổt do Hội Văn học
Nghệ thuật các DTTS Việt Nam trao tặng; Giải Nhất cho tập truyện ngắn Đèo
không lặng gió (giải thƣởng Pác Bó lần thứ nhất) của UBND tỉnh Cao Bằng...
Hơn 30 năm cầm bút sáng tác nhiều thể loại khác nhau nhƣng ở các tác phẩm
43
của ông đều có chung đặc điểm là đã dựng lên một không gian thiên nhiên và
không gian văn hóa Tày với những con ngƣời miền núi chân thật giàu tình
nghĩa. Thiên nhiên núi rừng trong tác phẩm của ông đƣợc hiện lên với vẻ hùng
vĩ, hoang dã mà tráng lệ thấm đƣợm tình ngƣời. Và chính thiên nhiên vừa bí ẩn,
vừa gần gũi, vừa dữ dội, vừa hiền hoà ấy đã nuôi dƣỡng, chở che đồng bào các
dân tộc Tày nói riêng, cho Việt Bắc nói chung trong suốt những chặng đƣờng
lịch sử của dân tộc.
Cao Duy Sơn thuộc thế hệ thứ hai trong đội ngũ các nhà văn DTTS Việt
Nam hiện đại. Về Truyện ngắn, Cao Duy Sơn có 4 tập truyện ngắn đó là:
Những chuyện ở lũng Cô Sầu (1996), Những đám mây hình ngƣời (2002),
Ngôi nhà xƣa bên suối (2007), Ngƣời chợ (2010). Nhƣng chỉ với 4 tập truyện
ngắn ấy thôi, tác giả này đã đƣợc đánh giá là cây bút tiêu biểu nhất của nền văn
xuôi các DTTS hiện nay. Cao Duy Sơn là nhà văn ngƣời dân tộc Tày, sinh ra
và lớn lên ở đất Trùng Khánh - Cao Bằng. Cuộc sống khó khăn nhƣng đầy thơ
mộng ở vùng đất miền biên viễn xa xôi với những con ngƣời hiền lành, chân
thật mà dũng cảm, mạnh mẽ… ở nơi đây đã trở thành một phần máu thịt của
tâm hồn nhà văn. Viết văn là cơ hội để Cao Duy Sơn bày tỏ tình yêu thiết tha
của mình với quê mẹ thân thƣơng. Và ông đã viết nhƣ một sự "trả nợ" tình cảm
thiêng liêng dành cho quê hƣơng ấy. Để có thể khám phá vào tận bề sâu những
giá trị văn hóa, giá trị nhân văn của dân tộc mình, Cao Duy Sơn tâm niệm: "Cả
đời tôi chỉ đeo đuổi đề tài miền núi". Và đó chính là định hướng rõ nét cho con
đường nghệ thuật của Cao Duy Sơn. Trong tác phẩm của anh, hiện lên bức
tranh đời sống miền núi với đủ các gam màu sáng - tối, trắng - đen; với đủ các
phận người giàu - nghèo, tốt - xấu, hạnh phúc - bất hạnh; với đủ các âm điệu
vui - buồn, yêu thương - giận hờn - tha thứ; với đủ cả nước mắt và tiếng cười,
cả bình yên và bão tố, cả phong tục và hủ tục [53, tr.274]... Nhƣng dù viết về
vấn đề gì, những tác phẩm của ông cũng mang nặng một tình yêu với con ngƣời
44
cùng quê hƣơng xứ sở, và thái độ trân trọng tự hào về những giá trị văn hóa
truyền thống của dân tộc mình.
Nhà văn Đoàn Lƣ có 8 tập truyện ngắn (trong đó có nhiều tập truyện viết
cho thiếu nhi) nhƣ: Miếng hiểm cuối cùng (1995), Tƣớng cƣớp hoàn lƣơng
(1997); Kỉ niệm về một dòng sông (1997); Ngựa hoang lột xác (1998); và 2
tập Truyện dài: Quái cẩu Pi-tơ-chun (1999), Bên dòng Quây Sơn (Truyện
dài), NXB Kim Đồng (2000); Những giấc mơ thời thơ ấu (2001); Li kì
Xuyên Sơn (2013)… Từ tập truyện đầu tay xuất bản 1995 cho đến nay, các
sáng tác của Đoàn Lƣ đã trở thành món quà tinh thần quý giá theo chân của các
em thiếu nhi dân tộc ở Cao Bằng cũng nhƣ trong cả nƣớc trên hành trình gian
nan đi tìm tri thức. Qua các tác phẩm của ông biết bao nhiêu bài học, bao
nhiêu kiến thức thú vị đã đến đƣợc với trẻ em của nhiều vùng quê lam lũ,
nghèo khó. Với những câu chuyện của mình, nhà văn Đoàn Lƣ đã thể hiện khát
vọng: giữ gìn, phát huy và quảng bá vốn văn hóa truyền thống; bên cạnh việc
luôn tôn vinh cái đẹp, cái thiện và khát vọng khám phá những chân trời khoa
học mới. Đó là khát vọng chân chính của một trí thức vùng cao tiêu biểu, của
một nhà văn miền núi luôn hết lòng vì quê hƣơng, vì hạnh phúc trẻ thơ.
Nhà văn Trần Thị Mộng Dần với các tập truyện ngắn nhƣ: Bình yên thời
con gái (1998), Cầu thủ không số (2003), Chuyện lạ dƣới chân pháo đài cổ
(2007)… Đặc biệt là cây bút nữ Đoàn Ngọc Minh đã với 8 tập truyện ngắn và
đã giành một số Giải thƣởng của các Báo, Tạp chí, của Hội Liên hiệp VHNT
Việt Nam…, ), Đó là các tác phẩm: Dòng sông kỷ niệm (1997), Cánh
Chim(1999), Phía sau đỉnh Khau Khoang, Núi Bó Phạ trở về (Giải C, Hội
VHNT các DTTS Việt Nam, 2003), Nắng cuối Đông (Giải C, Hội VHNT các
DTTS Việt Nam, 2013), Nắng muộn, Gió xoáy, Hành trình của Mèo
hoang…(Hai tập truyện ngắn Nắng muộn và Gió xoáy của nhà văn Đoàn
Ngọc Minh đƣợc giải thƣởng Ủy ban Toàn Quốc các Hội Văn học Nghệ thuật
45
Việt Nam). Có thể nói, Đoàn Ngọc Minh là cây bút văn xuôi nữ nổi bật và có
nhiều cống hiến của Cao Bằng, nhất là ở thể loại truyện ngắn viết cho thiếu nhi.
Nhà văn Nông Quốc Lập cũng là một tác giả văn xuôi khá tiêu biểu của
Cao Bằng thời kỳ đầu thế kỷ XXI. Đây là cây bút đang độ sung sức đến nay anh
đã có ba tập truyện ngắn: Sống mƣợn (2012), Trƣớc mặt là núi cao (2013),
Chiếc hộp gỗ bí mật (2014) và nhiều truyện ngắn lẻ đăng trên các trang tạp chí
văn học nhƣ: Mộng cuối đƣờng (2015), Báu vật, chiếc vòng tay kỳ lạ… Bên
cạnh đó còn khá nhiều những tên tuổi cây bút văn xuôi viết truyện ngắn khác
nhƣ: Nông Quyết Tiến, Mông Văn Bốn,… Với những nỗ lực không mệt mỏi qua
nhiều thế hệ cầm bút, các tác giả trên đã góp phần làm cho truyện ngắn Cao
Bằng ngày càng trở nên phong phú, phát triển mạnh mẽ và đạt đƣợc nhiều thành
tựu đáng ghi nhận, đáng tự hào.
Về Tiểu thuyết, ra đời sau truyện ngắn khoảng vài năm nhƣng lại sớm
đƣợc dƣ luận quan tâm và đánh giá cao- với cây bút gạo cội “Vi Hồng”. Ông
cũng là ngƣời giữ vai trò “kiện tƣớng” trong thể loại này. Bắt đầu từ những
năm 80 của thế kỷ XX, Vi Hồng cho ra đời ba cuốn tiểu thuyết là: Đất bằng
(1980), Núi cỏ yêu thƣơng (1984), Thung lũng đá rơi (1985); từ thập niên 90
trở về đây, Vi Hồng đã khẳng định tài năng của mình với 12 cuốn tiểu thuyết:
Ngƣời trong ống, Gã ngƣợc đời, Vào hang (năm1990), Lòng dạ đàn bà
(1992), Dòng sông nƣớc mắt (1993), Ái tình và kẻ hành khất (1993), Tháng
năm biết nói (1993), Phụ tình (1994) , Chồng thật vợ giả (1994), Đi tìm giàu
sang (1995), Đọa đầy (1997), Mùa hoa Bioóc loỏng (1997). Những tác phẩm
ủa Vi Hồng đƣợc “gieo trồng tư tưởng nhân văn trên mảnh đất truyền thống
mà ông bà xưa để lại”, “Đào sâu vào cội nguồn văn hóa dân tộc” [53, Tr.272],
chính những điều này đã làm nên giá trị của tiểu thuyết Vi Hồng, khơi gợi
trong tâm hồn ngƣời đọc tình yêu thƣơng con ngƣời, quê hƣơng, làng bản. Tiểu
thuyết của ông gợi mở những giá trị văn hóa truyền thống, nhắc nhở con ngƣời
về một lối sống đúng đắn trong cuộc đời đầy những tốt - xấu, đúng - sai, thật -
46
giả… của hôm nay. Nhà phê bình Lâm Tiến khẳng định: “Thành công lớn nhất
trong tiểu thuyết của Vi Hồng là viết về những kỉ niệm, những mảng cuộc sống
mà ông đã từng trải… Đó là những mối tình đẹp đẽ của người lao động. Vi
Hồng đã biết kết hợp trong tác phẩm của mình giữa cuộc sống và chiến đấu,
lao động sản xuất và tình yêu” [71, tr. 52].
Đối với nhà văn Cao Duy Sơn, bên cạnh thể loại truyện ngắn là đỉnh cao,
ông cũng là một cây bút tiểu thuyết “cừ khôi” của mảnh đất Cao Bằng với các
tác phẩm nhƣ: Ngƣời Lang Thang (1992) (giải A văn xuôi các DTTS của hội
nhà văn Việt Nam),Cực lạc (1995), Đàn trời (2006), Hoa mận đỏ (1999) (giải
thƣởng Giải A của Hội Văn học nghệ thuật các DTTS Việt Nam,2007), Chòm
ba nhà (2009)… Cao Duy Sơn đã có nhiều đóng góp cho nền học DTTS
đƣơng đại Việt Nam. Tác phẩm của ông đã mở ra một thế giới nghệ thuật mới
lạ và hấp dẫn. Hiện thực cuộc sống, con ngƣời miền núi hiện ra dƣới ngòi bút
của nhà văn thật sự đa diện, đa chiều. Sức mạnh của ngòi bút Cao Duy Sơn ở
chỗ, ông đã làm thay đổi cái nhìn của ngƣời đọc, của công chúng về cuộc sống,
con ngƣời các DTTS vùng núi cao. Phải thực sự tài năng và tâm huyết, nhà văn
mới có thể sáng tác nên những tác phẩm nghệ thuật chân thực, sống động và
hấp dẫn, làm ngƣời đọc xúc động đến nhƣ vậy.
Tiểu thuyết Cao Bằng cũng đƣợc ghi nhận bởi một số những cây bút
khác nữa, ví dụ nhƣ: Hoàng Quảng Uyên với Bộ tiểu thuyết về Chủ Tịch Hồ
Chí Minh gồm 2 cuốn: Mặt trời Pắc Bó (đã đƣợc trao Giải năm 2010), và Giải
phóng (đƣợc tặng Giải thƣởng của Hội nhà văn Việt Nam (2013)); Hữu Tiến
với tiểu thuyết Hữu hạn (2012); Dòng đời (2007); Đoàn Lƣ với bộ tiểu thuyết
khoa học viễn tƣởng viết cho thiếu nhi Lêna - Kitti gồm ba tập …
Về Tản Văn nổi bật nhất phải kể đến cây bút của “Làng Hiếu Lễ” - Y
Phƣơng với hai tập tản văn Tháng Giêng - tháng Giêng một vòng dao quắm
(2009) và Kungfu ngƣời Co Xàu (2010) và hiện nay ông đã hoàn thành bản
thảo cuốn tản văn thứ ba: “Fừn Nèn - Củi Tết”. Thừa kế và sở hữu một kho
47
tàng văn hóa Tày truyền thống vững chắc, hai tập tản văn “Kungfu ngƣời Co
Xàu” và “Tháng Giêng - tháng Giêng một vòng dao quắm” của ông đã bám
sát những vấn đề của đời sống đa sắc màu với bao phong tục, tập quán, bao
cảnh sinh hoạt đời thƣờng vừa quen, vừa lạ của con ngƣời miền núi. Đó là
những lát cắt muôn màu về đời sống, sinh hoạt, phong tục tập quán, ngôn
ngữ… của con ngƣời vùng cao đậm bản sắc văn hóa tộc ngƣời. Chất Tày đƣợc
bộc lộ độc đáo trong trải nghiệm cuộc đời, trong tầm cao và chiều sâu văn hóa
của tác giả này. Y Phƣơng hiểu hơn ai hết văn hóa là sức mạnh nội sinh, là cội
cuồn giá trị của làng Tày “Vách nhà ken câu hát” với niềm tin vững chắc
“Còn quê hương thì làm phong tục”. Nhƣng điều đáng trân trọng là tản văn của
nhà thơ Tày ấy không: "đóng đinh" bó hẹp trong cuộc sống sinh hoạt của
người Tày mà vượt lên, vươn xa như một dấu nối với thơ ca các dân tộc khác
(Tạp chí Văn hóa - Văn nghệ Cao Bằng, 5/12/2008). Tản văn của ông phản ánh
một cách phong phú về đề tài cuộc sống, con ngƣời miền núi và cả quá trình đô
thị hóa; về tình yêu đất nƣớc - quê hƣơng; về tình cảm gia đình - bạn bè - tình
yêu lứa đôi… tất cả đều thẫm đẫm bản sắc văn hóa “ngƣời đồng mình”. Sinh ra
và lớn lên ở đất Co Xàu gắn bó với núi rừng, với “đồng mình” tâm hồn nhà văn
đƣợc nuôi dƣỡng trong bầu khí quyển văn hóa dân tộc, chính vì thế mà cảnh
sắc thiên nhiên, cuộc sống con ngƣời vùng cao cùng với những phong tục tập
quán của dân tộc đã đƣợc nhà văn phản ánh một cách cụ thể, sinh động, phong
phú và tràn đầy tình cảm. Đó không chỉ là quê hƣơng Trùng Khánh, đó còn là
cả non nước Cao Bằng , là nơi các ngọn núi từ thấp đến cao đều lao vút lên trời
nhọn hoắt. Tình yêu máu thịt ấy đƣợc Y Phƣơng nhìn “bằng đôi mắt thơ ngây
của hoa lá dân tộc mình, rung động bằng trái tim suối nguồn và tư duy bằng
sừng đá”. Vì thế chăng mà ông đã luôn đƣa vào tản văn của mình tất cả những
chất liệu dung dị của quê hƣơng đã gắn bó máu thịt với ông nhƣ: dòng sông,
dáng núi, cây tre, cây trúc, quả trám, hạt dẻ… Nhà văn luôn có ý thức bảo tồn
và giới thiệu đến bạn đọc tất cả những điều đó bằng thứ ngôn ngữ, tƣ duy của
48
ngƣời Tày. Điều này không chỉ làm phong phú thêm cho ngôn ngữ bản xứ mà
còn thể hiện niềm tự hào về ngôn ngữ dân tộc, văn hóa dân tộc của tác giả khi
viết về cuộc sống, con ngƣời của dân tộc mình.
Có thể thấy, dấu ấn văn hóa Tày trong tản văn Y Phƣơng không chỉ
biểu hiện ở việc miêu tả về ẩm thực, lễ tết, tâm linh, mà còn in đậm trong
phƣơng thức thể hiện: từ ngôn ngữ, giọng điệu cho đến hình ảnh đều mang
dáng dấp lối tƣ duy của ngƣời vùng cao. Bên cạnh Y Phƣơng cũng có một vài
tác giả khác viết tản văn nhƣ Nông Thị Hồng Cƣ… Tuy nhiên những cây bút
này chƣa gây đƣợc nhiều sự chú ý đối với ngƣời đọc, song cũng cần phải nhìn
nhận những cố gắng của họ trong việc xây dựng và phát triển thể loại tản văn
trong đời sống văn học Cao Bằng hôm nay.
Thể loại Ký ở Cao Bằng đã xuất hiện từ khá sớm với tác phẩm đầu tiên
của Bàn Tài Đoàn: Đời ngƣời Dao (NXB Hội Nhà văn, 1958), và hồi ký Khu
Hoàng Hoa Thám (Chƣa in - dẫn theo “Tuyển tập Bàn tài Đoàn”, NXB Văn
Học, H 1992). Tuy nhiên ký Cao Bằng chỉ thật sự ghi đƣợc dấu ấn với sự xuất
hiện của cây bút Hoàng Quảng Uyên với các tác phẩm ký một thời gây xôn xao
dƣ luận nhƣ: Thầy giáo đại học (1998), Buồn…Vui (1999), Vọng tiếng non
ngàn (2001)… có thể nói ký là sở trƣờng của ông, và đến sau này trong thể loại
tiểu thuyết, sáng tác của ông vẫn bị ảnh hƣởng bởi chất ký khá rõ nét.
Có thể khẳng định rằng, Cao Bằng là một trong những mảnh đất sản sinh
ra những cây bút văn xuôi gạo cội và “cừ khôi” nhất của văn học các DTTS
Việt Nam hiện đại. Từ chỗ tập trung cho nhiệm vụ tuyên truyền cách mạng, ca
ngợi quê hƣơng, đất nƣớc, con ngƣời mới thì hiện nay biên độ phản ánh của
văn xuôi Cao Bằng đã mở rộng hơn. Văn học Cao Bằng đã từng bƣớc bắt nhịp
với đời sống văn học chung của đất nƣớc, ca ngợi cái mới, cái tốt đẹp đồng thời
cũng phê phán cái xấu, cái lạc hậu, cái ác; cổ vũ động viên con ngƣời luôn biết
hƣớng đến cái đẹp, cái thiện, đi sâu vào khai thác thân phận những con ngƣời
cá nhân vùng dân tộc miền núi. Bên cạnh đó, nghệ thuật viết truyện ngắn, viết
49
tiểu thuyết của các tác giả Cao Bằng ngày càng hiện đại hơn, phù hợp hơn với
nhu cầu, thị hiếu của ngƣời đọc ngƣời DTTS cũng nhƣ bạn đọc cả nƣớc trong
thời kỳ Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa và Hội nhập quốc tế ngày nay.
2.2.3. Nghiên cứu sƣu tầm và phê bình văn học
Nằm trong dòng chảy chung của công tác nghiên cứu sƣu tầm phê bình
văn học DTTS của cả nƣớc (Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên
Quang…), nghiên cứu sƣu tầm và phê bình văn học của địa phƣơng Cao Bằng
cũng mang những nét tƣơng đồng về cả ƣu điểm và hạn chế nhƣng vẫn có
những nét riêng của văn học địa phƣơng mình. Từ những năm 50 của thế kỷ
trƣớc, đặc biệt là vào những năm 70, 80 đã xuất hiện một số cây bút nghiên
cứu, sƣu tầm và phê bình văn học là ngƣời DTTS Cao Bằng. Họ là những nhà
văn, nhà thơ vừa sáng tác, vừa viết nghiên cứu, sƣu tầm và phê bình văn học.
Vì vậy, ở họ thƣờng có một sự am hiểu sâu sắc, tinh tế về chính tiếng nói văn
học của mình. Đại diện cho thế hệ đầu tiên của đội ngũ những ngƣời nghiên
cứu, phê bình DTTS phải kể đến tên tuổi của các vị Trưởng lão với một số
cuốn sách mang tính nghiên cứu, sƣu tầm và phê bình văn học nhƣ: Bàn Tài
Đoàn với tiểu luận: Vấn đề văn nghệ miền núi (NXB Việt Bắc, năm 1958);
Triều Ân với: Thơ ca cách mạng Việt Bắc 1936-1945 (1977), Giới thiệu thơ
Hoàng Đức Hậu (1974); Vi Hồng với: Sli lƣợn dân ca trữ tình Tày -
Nùng (1979)…
Từ những năm 90 trở đi nghiên cứu, sƣu tầm và phê bình văn học ở Cao
Bằng có những bƣớc tiến đáng kể. Với sự phát triển khá mạnh mẽ trên tất cả
các thể loại của văn học ở Cao Bằng nói riêng, văn học DTTS nói chung đã thu
hút một số nhà nghiên cứu đi vào tìm hiểu, nghiên cứu, sƣu tầm và phê bình
mảng văn học này. Đội ngũ những cây bút nghiên cứu, sƣu tầm và phê bình
văn học thời kỳ này đã tăng lên đáng kể. Đã xuất hiện những nhà nghiên cứu,
sƣu tầm và phê bình văn học cùng với những tác phẩm có chiều sâu, mang tính
khoa học hơn so với các thời kì trƣớc. Không chỉ dừng lại ở việc sƣu tầm, giới
50
thiệu các tác giả tác phẩm văn học thiểu số Việt Nam (dân gian và hiện đại) đến
với bạn đọc mà các cây bút nghiên cứu, phê bình thời kỳ này đã kịp thời bám
sát các hoạt động sáng tác cũng nhƣ ghi nhận những đóng góp của các tác giả
trong thời kỳ mới. Đồng thời cũng đã thực hiện đƣợc khá tốt chức năng chính
của nghiên cứu, sƣu tầm và phê bình văn học là: tích cực sƣu tầm vốn văn hóa,
văn học dân gian, định hƣớng, tổ chức cho văn học thời kỳ hiện đại đi đúng
hƣớng, tiến tới hòa nhập với dòng chảy chung của văn học DTTS Việt Nam
thời kỳ hiện đại. Thời kỳ này ngoài những cây bút đã có những thành tựu trong
nghiên cứu, sƣu tầm và phê bình văn học từ trƣớc, Cao Bằng đã xuất hiện
những cái tên mới nhƣ: Hoàng Quảng Uyên với: Một mình trong cõi thơ
(2000), Đi tìm nhật ký trong tù (2010)…, Thu Bình với Một khúc ru
Tày…Hai tác giả Triều Ân và Vi Hồng giai đoạn này vẫn tiếp tục cho ra đời
các công trình nghiên cứu sƣu tầm nhƣ: Triều Ân với Ca dao Tày
Nùng(1994), Truyện thơ nôm tày (1995)… Vi Hồng với Khảm Hải (1993),
Thì thầm dân ca nghi lễ (2001),và 6 tập Truyện cổ Tày Nùng (Sƣu tầm trong
nhiều năm)… cùng một số công trình nghiên cứu sƣu tầm về sli lƣợn, dân ca,
nghi lễ ngƣời Tày, Nùng Việt Bắc của các tác giả khác.
Tuy nhiên, nói đến mảng nghiên cứu, sƣu tầm và phê bình văn học
DTTS trên địa phƣơng Cao Bằng phải nói đên nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên
cứu Triều Ân. Xuất hiện từ những năm 50 của thế kỷ trƣớc - là một ngƣời đa
tài, tác giả Triều Ân đã thử sức mình trên nhiều lĩnh vực: từ thơ, văn xuôi đến
lý luận phê bình, nghiên cứu sƣu tầm văn học dân gian, và hầu nhƣ ở lĩnh vực
nào ông cũng gặt hái đƣợc những thành công nhất định. Ông bắt đầu sự nghiệp
nghiên cứu, sƣu tầm và phê bình văn học với tác phẩm: Giới thiệu thơ Hoàng
Đức Hậu năm 1974 và sau đó là Thơ ca cách mạng Việt Bắc 1936 -1945 viết
năm 1977. Sau này ông đi sâu vào mảng sƣu tầm văn học dân gian các DTTS.
Ông đƣợc bạn đọc biết đến với nhiều công trình, tác phẩm nhƣ: “Ca dao Tày
Nùng” (sƣu tầm, nghiên cứu năm 1994),Từ điển thành ngữ, tục ngữ dân tộc
51
Tày (1996). “Lễ hội Hằng Nga” (sƣu tầm nghiên cứu năm 1997), “Then Tày,
những khúc hát” (sƣu tầm nghiên cứu năm 1998), “Nôm Tày và Truyện
thơ” (nghiên cứu sƣu tầm năm 2003), “Ba áng thơ Nôm Tày và thể loại”
(nghiên cứu sƣu tầm năm 2004)… Với những đóng góp to lớn đó ông đã nhận
đƣợc nhiều Giải thƣởng và Huy chƣơng các loại nhƣ: Huy chƣơng Vì sự nghiệp
giáo dục, Huy chƣơng Vì sự nghiệp Văn nghệ dân gian dân gian Việt Nam,
Huy chƣơng Vì sự nghiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, Huy chƣơng Vì sự
nghiệp Văn học Nghệ thuật các DTTS Việt Nam. Kỷ niệm chƣơng Vì sự nghiệp
đoàn kết và phát triển các DTTS Việt Nam, Bằng khen của Trung ƣơng Hội
Văn nghệ dân gian, Trung ƣơng Hội Văn học Nghệ thuật các DTTS Việt Nam,
của UBND tỉnh Cao Bằng. Và ông đã vinh dự đƣợc tặng Giải thƣởng Nhà
nƣớc về Văn học Nghệ thuật năm 2012.
Tiếp đến là Hoàng Quảng Uyên, theo nhận xét của nhà nghiên cứu phê
bình Trần Thị Việt Trung thì ông là một nhà văn vừa sáng tác vừa hăng hái
viết phê bình văn học, ông có ba cuốn sách nghiên cứu, phê bình văn học là:
Một mình trong cõi thơ (2000), Đi tìm Nhật ký trong tù (tập 1 và tập 2 -
năm 2010). Đây là một sự cố gắng rất lớn của Hoàng Quảng Uyên bởi ông
không phải là người được đào tạo cơ bản về ngành văn học và nghiên cứu văn
học, nhưng với tình yêu với văn chương, với thơ và với lãnh tụ Hồ Chí Minh,
Hoàng Quảng Uyên đã nỗ lực tìm tòi, khám phá để tìm ra được cái hay, các
đặc sắc trong tác phẩm của từng nhà thơ mà ông đề cập đến như: Nông Quốc
Chấn, Pờ Sảo Mìn, Lâm Quý, Mai Liễu… (Trong cuốn Một mình trong cõi
thơ), và nỗ lực để khám phá, để hiểu đúng hơn, chính xác hơn những bài thơ
mà Bác Hồ đã viết trong những ngày tháng bị cầm tù năm xưa (trong cuốn Đi
tìm Nhật ký trong tù) [78, tr.896].
Bên cạnh đó, tác giả Thu Bình với cuốn tiểu luận “Một khúc ru Tày”
(năm 2012) đã truyền tải đến bạn đọc những bài giới thiệu, phê bình văn học về
các tác phẩm của các tác giả ngƣời Cao Bằng nhƣ: Bàn Tài Đoàn, Y phƣơng,
52
Hữu Tiến, Lô Hƣởng Ninh, Đoàn Ngọc Minh, Trần Hùng, Ngô Ngọc Khánh,
Trần Thị Mộng dần, Đàm Hải Yến… Có thể nói rằng Một khúc ru Tày là một
“bản hợp ca” chứa đựng nhiều cung bậc âm thanh và cảm xúc bằng sự cảm nhận
của ngƣời sáng tác, để khẳng định và chỉ ra những nét đẹp, những nét đặc sắc
của các cây bút thơ Cao Bằng trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc trong các sáng tác của mình.
Cây bút Triệu Thị Mai cũng là một trong những cây bút có khá nhiều
những bài viết và công trình nghiên cứu, sƣu tầm về văn hóa, văn nghệ dân
gian của Cao Bằng. Tác giả bày tỏ: “VHDG truyền thống luôn luôn gắn liền với
đời sống của cộng đồng các dân tộc. Nó là hơi thở, là máu thịt, niềm đam mê
sáng tạo, không bao giờ ngưng nghỉ. Càng tìm hiểu, tôi càng bị lôi cuốn. Cho
dù đã đọc, đã xem ở đâu đó trên thông tin đại chúng, nhưng khi ta trực tiếp hòa
mình trong dòng chảy mới cảm nhận được nét độc đáo đa sắc màu”. Còn với
các độc giả nhỏ tuổi, các em lại háo hức đón đọc ở tác giả những bộ truyện cổ và
truyền thuyết dân gian nhƣ “Hòn đá thần kỳ”; “Dƣới chân núi Phja Đán”,
“Nàng Tiên Trứng”... do Triệu Thị Mai sƣu tầm và biên soạn. Mỗi mẩu truyện
giúp các bạn nhỏ am hiểu hơn về truyền thống lịch sử đấu tranh của nhân dân
các dân tộc Cao Bằng. Sau hơn 20 năm miệt mài, năm 2001 lần đầu tiên chị cho
xuất bản cuốn “Lễ cầu tự của ngƣời Tày Cao Bằng”, do Nhà xuất bản Khoa
học xã hội phát hành và nhận đƣợc Giải thƣởng Pác Bó đầu tiên của tỉnh. Các tác
phẩm “Lễ vun hoa của ngƣời Nùng An”, “Lƣợn Ngạn và văn hóa Ngạn”,
“Hèo Phƣơn dân ca Nùng An”, “Lƣợn Nàng ới”... của chị đều nhận đƣợc giải
thƣởng của Hội VNDG Việt Nam. Bên cạnh đó, Đoàn Ngọc Minh cũng viết tiểu
luận phê bình, các bài viết của chị khá sâu sắc và đã đăng trên các báo, trang tạp
chí, các diễn đàn văn nghệ của Trung ƣơng và địa phƣơng nhƣ: Lối đi riêng qua
tập thơ “Khoảnh khắc thời gian” của Chu Văn Thắng; Bế Thành Long và
thơ; Hãy kỳ vọng ở các nhà thơ trẻ; Sắc mầu kỳ ảo trong tập thơ Vƣờn
khuya của nhà thơ Trần Hùng; Mùa Xuân thắp sáng thi ca… tuy đây chỉ là
53
những bài viết lẻ nhƣng đã cho thấy sự quan tâm của tác giả đối với nền văn học
của địa phƣơng.
Có thể thấy mảng nghiên cứu, sƣu tầm vốn văn hóa, văn học dân gian
của Cao Bằng có phần nổi trội hơn một số tỉnh miền núi lân cận khác trong
vùng (ví dụ nhƣ: Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Lạng Sơn…) -
Bởi căn cứ vào số lƣợng và chất lƣợng các công trình nghiên cứu, sƣu tầm văn
hóa, văn học dân gian các DTTS ở Cao Bằng nhƣ đã nói trên.
Qua những tìm hiểu bƣớc đầu về văn học Cao Bằng nhƣ đã trình bày ở
trên, có thể khẳng định rằng: Cao Bằng thật sự là “mảnh đất văn chƣơng”, là
nơi có truyền thống văn chƣơng lâu đời và liên tục phát triển, đạt đƣợc nhiều
thành tự đáng tự hào trong thời kỳ hiện đại. Văn chƣơng Cao Bằng đã góp phần
quan trọng vào quá trình hình thành và phát triển của văn học các DTTS Việt
Nam. Địa phƣơng Cao Bằng đã đóng góp nhiều tên tuổi các nhà văn, nhà thơ,
nhà nghiên cứu, sƣu tầm và phê bình văn học ngƣời DTTS tiêu biểu cho đất
nƣớc, cũng nhƣ đã cống hiến cho độc giả ngƣời DTTS nói riêng, cho độc giả cả
nƣớc nói chung nhiều tác phẩm đặc sắc, mang dấu ấn dân tộc và miền núi rõ
rệt. Các thế hệ tác giả Cao Bằng - bằng tình yêu quê hƣơng đất nƣớc, với lòng
tự hào về truyền thống văn hóa, lịch sử của mình đã và đang tiếp tục sáng tác
trong sự đổi mới tƣ duy và hiện đại hơn trong nghệ thuật thể hiện để có thể đƣa
văn học Cao Bằng phát triển lên một bƣớc mới, phù hợp với nhu cầu, thị hiếu
văn học của đồng bào các dân tộc vùng cao trong thời đại mới.
2.3. Văn học Cao Bằng - những thành tựu và những thách thức trong thời
kỳ mới
Nhƣ trên đã nói, trong suốt gần 70 năm vận động và phát triển của mình
văn học địa phƣơng Cao Bằng đã tự khắc họa nên diện mạo của đời sống văn
học tỉnh nhà. Đó là một đời sống văn chƣơng khá sôi nổi, phong phú và đạt
nhiều thành tựu vào loại bậc nhất của các tỉnh miền núi của nƣớc ta hiện nay.
Các thế hệ nhà văn, nhà thơ Cao Bằng đã phát huy truyền thống văn chƣơng
54
của cha ông mình để đƣa văn học Cao Bằng phát triển lên một bƣớc mới rất
đáng tự hào. Có nhiều nhà văn, nhà thơ đƣợc sinh ra ở nơi đây, đã trƣởng thành
và đƣợc bạn đọc cả nƣớc biết đến với những tác phẩm văn chƣơng độc đáo,
thấm đẫm bản sắc dân tộc mà vẫn mang màu sắc hiện đại rõ rệt. Có nhiều nhà
nghiên cứu, sƣu tầm và phê bình văn học đã giành trọn cuộc đời của mình giữ
gìn vốn quý văn hóa, văn học dân gian các DTTS bằng hàng chục công trình
nghiên cứu, sâu sắc, công phu, đầy ý nghĩa. Văn học Cao Bằng chƣa bao giờ
đứt quãng, gián đoạn bởi các thế hệ nhà văn Cao Bằng luôn tiếp nối nhau bằng
các sáng tác đầy tâm huyết, đầy sáng tạo và cùng đƣợc xuất phát từ tình yêu
quê hƣơng và lòng tự hào dân tộc của mình.Văn học Cao Bằng phát triển liên
tục và khá toàn diện trên tất cả các thể loại: văn xuôi, thơ, nghiên cứu, sƣu tầm
và phê bình văn học; và ở thể loại nào cũng đều có những thành tựu đáng
khẳng định. Trong suốt quá trình vận động và phát triển, văn học Cao Bằng
luôn bám sát thực tế của đời sống, phản ảnh chân thực và cảm động đời sống
lịch sử, đời sống kinh tế, chính trị và đời sống văn hóa tinh thần, đời sống tâm
linh của cộng đồng các DTTS vùng cao biên giới. Chính vì lý do bám sát thực
tiễn cuộc sống, phản ảnh một cách chân thực, sinh động cuộc sống của đồng
bào các DTTS trong các thời kỳ lịch sử của đất nƣớc. Và với quan điểm sáng
tác vừa truyên thống, vừa hiện đại (trong cả nội dung phản ánh và nghệ thuật
thể hiện) mà rất nhiều tác giả Cao Bằng đã ghi đƣợc dấu ấn của mình vào đời
sống văn chƣơng của các DTTS vùng nói nói riêng, của cả nƣớc nói chung.
Những cái tên nhƣ: Bàn Tài Đoàn, Vi Hồng, Y Phƣơng, Cao Duy Sơn, Hoàng
Triều Ân đã không còn xa lạ với ngƣời đọc nữa, từ khá lâu họ đã trở thành
nhƣng gƣơng mặt hết sức thân quen đối với bao bạn đọc gần, xa trong cả nƣớc.
Đó chính là những thành tựu mà văn học Cao Bằng đã đạt đƣợc trong
suốt hơn nửa thế kỷ vận động tích cực của mình.
Tuy nhiên, văn học địa phƣơng Cao Bằng không phải là không có
những nhƣợc điểm, những hạn chế cần phải chỉ ra để khắc phục, nhất là để
55
trong thời gian tới có thể vẫn là một địa phƣơng có đời sống văn chƣơng
phát triển mạnh mẽ và có thành tựu nổi bật nhất so với các địa phƣơng miền
núi khác trong cả nƣớc.
Dễ nhận thấy một nhƣợc điểm về đề tài sáng tác của các cây bút Cao
Bằng (và cũng là nhƣợc điểm chung của văn học dân tộc thiểu số hiện đại nói
chung) là: ít có những tác phẩm có quy mô lớn (số lƣợng từ 500 trang trở lên)
viết về đề tài đấu tranh cách mạng- nhất là viết về cuộc đấu tranh chống Pháp
của đồng bào các dân tộc thiểu số trong suốt 80 năm đô hộ cua Thực dân Pháp
xâm lƣợc. Bởi đây là một hiện thực lớn lao của dân tộc mà đất Cao Bằng lại là
nơi có truyền thống đấu tranh cách mạng, có nhiều cuộc khởi nghĩa, có nhiều
ngƣời anh hùng dân tộc thiểu số đứng lên lãnh đạo ngƣời dân chống Pháp. Đặc
biệt là những sự kiện lịch sử hết sức quan trọng trong giai đoạn Bác Hồ hoạt
động ở Cao Bằng, đến sự kiện thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng
quân ở khu rừng Trần Hƣng Đạo, và việc Bác lãnh đạo nhân dân, quân đội ta
đánh thắng Pháp xâm lƣợc với các chiến thắng lừng lẫy ở trận địa biên giới Cao
- Bắc - Lạng. Nếu các tác giả Cao Bằng đi vào khai thác kỹ, sâu các đề tài lịch
sử này, chắc chắn sẽ có nhiều tác phẩm đặc sắc, mang nhiều giá trị. Riêng ở
mảng đề tài này, văn học địa phƣơng Lạng Sơn lại có phần nổi trội hơn, bởi
Lạng Sơn có một tác giả đã giành trọn cả cuộc đời, tình cảm và tâm huyết của
mình để viết về mảng đề tài lịch sử - đó là nhà văn Nguyễn Trƣờng Thanh. Hầu
nhƣ các sự kiện lịch sử lớn từ thời xa xƣa cho đến tận ngày nay (cuộc đấu tranh
bảo vệ biên giới phía Bắc những năm 79-80 của thế kỷ XX) đã đƣợc nhà tiểu
thuyết lịch sử Nguyễn Trƣờng Thanh của Lạng Sơn đƣa vào trong các sáng tác
của mình. Đã có những tác phẩm viết về đề tài lịch sử của ông đƣợc chuyển thể
sang ngôn ngữ điện ảnh và gây đƣợc sự chú ý của nhiều độc giả, khán giả cả
nƣớc. Mặc dù những năm gần đây đã có một số nhà văn Cao Bằng bắt đầu chú ý
đi vào khai thác mảng đề tài lịch sử của tỉnh nhà, ví dụ nhƣ: bộ tiểu thuyết Mặt
trời Bác Pó (2010), và Giải phóng (2013) của Hoàng Quảng Uyên. Tuy nhiên,
56
bộ tiểu thuyết này còn mang nặng chất ký (chất sở trƣờng của nhà văn Hoàng
Quảng Uyên), nên vẫn rất cần có nhiều hơn các cây bút văn xuôi viết về mảng đề
tài lịch sử của mảnh đất anh hùng đã sản sinh ra biết bao võ tƣớng lừng danh
cùng các chiến công hiển hách trong suốt bao năm gìn giữ biên cƣơng của Tổ
quốc.
Bên cạnh đó là những đề tài mang tính thời sự khác nhƣ: vấn đề thực
hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc với sự chuyển đổi từ
nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trƣờng… với những “cái đƣợc, cái
mất” đối với đồng bào các DTTS vùng cao; các vấn đề về an ninh, quốc phòng,
giáo dục, tôn giáo..trong thời kỳ hội nhập quốc tế… Tất cả những vấn đề phức
tạp đó dù đã đƣợc đề cập đến ít nhiều trong các sáng tác của các nhà văn Cao
Bằng, nhƣng để có những tác phẩm có quy mô lớn, phản ánh một cách sâu sắc
các vấn đề thời sự trên rất cần phải có sự đầu tƣ thích đáng từ phía chính các
nhà văn (đầu tƣ công sức, trí tuệ, tình cảm…), từ phía các nhà quản lý (đầu tƣ
điều kiện sáng tác, kinh phí sáng tác, bồi dƣỡng về trình độ viết và trình độ
nhận thức chính trị của nhà văn…).
Nhƣợc điểm thứ hai cũng nổi lên khá rõ trong các sáng tác của các nhà
văn Cao Bằng đó chính là về sự chuyển đổi chậm về mặt thi pháp. Dễ nhận
thấy là: hầu hết trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện, xây dựng nhân vật trong
các tác phẩm (văn xuôi) của các cây bút Cao Bằng đều có sự ảnh hƣởng khá
nặng nề của thi pháp dân gian. Kiểu cốt truyện diễn ra tuần tự theo thời gian
tuyến tính và với kết thúc “có hậu” cũng vẫn đƣợc các tác giả “ƣa chuộng”
trong các sáng tác cụ thể của mình. Hệ thống nhân vật thƣờng vẫn đƣợc chia ra
làm 2 tuyến rõ ràng : xấu/tốt (hay chính diện/phản diện) đại diện cho cái
thiện/ác trong cuộc sống. Ví dụ nhƣ: đại diện cho cái tốt, cái thiện trong tiểu
thuyết của Vi Hồng có thể thấy qua các nhân vật Tú và Huy (trong Ngƣời
trong ống), Quản (trong Gã ngƣợc đời);… Của Triều Ân có nhân vật cô giáo
Tày - Ngọc Lan (trong Nơi ấy biên thùy); Hoán (trong Thằng Hoán), lão Phủ
57
(Hoa bay cuối trời) của Cao Duy Sơn; Đoàn Ngọc Minh có Ò Piu, Tẻ Nự
(trong truyện ngắn Ò Piu); hay nhân vật bác sĩ Hòa (trong truyện ngắn Cuộn
dây chun) của Đoàn Lƣ… Tƣơng phản với các nhân vật chính diện là các nhân
vật phản diện, đại diện cho những cái xấu xa, tha hóa của cuộc sống nhƣ Phó
Hiệu trƣởng Ba (Ngƣời trong ống), Đoác (Vào Hang), Đƣơng, Hỷ (Gã ngƣợc
đời) của Vi Hồng ;Lìn (Dặm ngàn rong ruổi) của Triều Ân; Bàn Uy (Gặp
lại), thầy Sơn (Sóng gió cuộc đời) của Đoàn Ngọc Minh… Chính vì vậy, ngƣời
đọc nhiều khi cũng chƣa thấy “thỏa mãn” khi tiếp cận với hiện thực cuộc sống
vùng cao thời kỳ hiện đại thông qua các tác phẩm này.
Tuy nhiên, bƣớc sang thế kỷ XXI, có một số nhà văn của Cao Bằng đã
“bứt phá” vƣợt lên , tự đổi mới trong tƣ duy và trong cách viết của mình. Ví dụ:
những sáng tác mới của Cao Duy Sơn nhƣ “Đàn trời” (2006) “Ngôi nhà xƣa
bên suối” (2008), “Chòm ba nhà” (2009)… Đây là những tác phẩm đặc sắc,
phản ánh hiện thực cuộc sống của đồng bào các dân tộc thiểu số trong thời kỳ
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế với bao thách thức, bao sự “đƣợc, mất”, bao
đổi thay đến chóng mặt của những con ngƣời vốn rất mộc mạc, chân thực,
trong sáng ở nơi này. Có lẽ chính vì sự đổi mới trong thi pháp (xây dựng hình
tƣợng nhân vật ngƣời DTTS với một cái nhìn đa chiều, phong phú, phức tạp…)
đã khiến cho tác phẩm của Cao Duy Sơn trở nên hấp dẫn, mới mẻ hơn. Tác
phẩm Đàn trời của ông đã đƣợc chuyển thể thành kịch bản phim. Và bộ phim
đó đã giành đƣợc rất nhiều cảm tình và sự chú ý, đánh giá cao của khán giả.
Đó là một số hạn chế của văn học Cao Bằng và cũng là những thách thức
mới mà văn học Cao Bằng cần phải vƣợt qua chính mình trong giai đoạn mới.
Để tiếp tục phát triển và đạt tới những đỉnh cao mới, các thế hệ nhà văn (nhất là
các nhà văn trẻ) của Cao Bằng cần phải có một sức sáng tạo mới, có một sự đổi
mới về cả nội dung và nghệ thuật. Đặc biệt, để có thể tiếp nối các thế hệ cha
anh và phát triển ở một tầm cao mới cho văn học tỉnh nhà - các cây bút trẻ (độ
tuổi dƣới 35) cần phải đƣợc bồi dƣỡng nhiều hơn về vốn văn hóa, văn học
58
truyền thống bên cạnh việc cập nhật các tri thức mới, cách viết mới hiện đại.
Nếu không nhƣ vậy, e rằng văn học Cao Bằng sẽ dần nhạt phai đi những yếu tố
truyền thồng (bản sắc dân tộc) trong các tác phẩm của những cây bút trẻ trong
thời gian tới.
Để văn học Cao Bằng phát triển mạnh hơn trên cơ sở khắc phục những
nhƣợc điểm (nhƣ đã nêu trên) cũng rất cần phải có sự tạo điều kiện từ phía các
nhà quản lý văn hóa, văn học của địa phƣơng. Cần phải có các chủ trƣơng, các
chính sách, các định hƣớng cụ thể (về hỗ trợ kinh phí sáng tác, bồi dƣỡng thực
tế, tổ chức các lớp bồi dƣỡng, nâng cao trình độ sang tác, và tạo một không khí
tự do, dân chủ thực sự cho ngƣời viết…) để các nhà văn có đủ các điều kiện
sáng tác tốt hơn, dài hơi hơn…và cuối cùng là để có thể có đƣợc những tác
phẩm xứng tầm với mảnh đất xinh đẹp, giàu truyền thống văn chƣơng này hơn.
59
Chƣơng 3
MỘT SỐ TÁC GIẢ TIÊU BIỂU
3.1. Nhà thơ Dao - Bàn Tài Đoàn ngƣời đặt nền móng cho văn học Cao
Bằng thời kỳ hiện đại
Nhà thơ Bàn Tài Đoàn tên thật là Bàn Tài Tuyên, ngƣời dân tộc Dao.
Ông sinh ngày 28 tháng 9 năm 1913 tại xã Quang Thành, huyện Nguyên Bình,
tỉnh Cao Bằng và mất vào ngày 17 tháng 11 năm 2007. Bàn Tài Đoàn tham gia
hoạt động cách mạng từ năm 1942, và ông đã từng giữ các chức vụ nhƣ: Ủy
viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn
Việt Nam, Chủ tịch Hội Văn nghệ khu tự trị Việt Bắc, ủy viên Hội đồng văn
học các DTTS (của Hội Nhà văn Việt Nam). Ông đƣợc nhà nƣớc tặng nhiều
danh hiệu cao quý nhƣ: Huân chƣơng lao động hạng Nhất... cùng nhiều giải
thƣởng văn học do Hội Nhà văn, Ủy ban dân tộc Trung ƣơng ... trao tặng; và
đến năm 2001 ông đã vinh dự đƣợc nhận Giải thƣởng Nhà nƣớc về Văn học
Nghệ thuật.
Bàn Tài Đoàn là cây bút thuộc thế hệ đầu tiên của văn học các DTTS
thời kỳ hiện đại. Là một trí thức ngƣời dân tộc Dao, từ nhỏ đã sớm đƣợc làm
quen và tiếp xúc với chữ Nôm Dao nên trong hầu hết các sáng tác của ông đều
đƣợc viết bằng chữ Nôm Dao. Đến năm 1942, khi tham gia cách mạng ông mới
đƣợc học chữ Quốc ngữ, mặc dù biết chữ Quốc ngữ nhƣng ông vẫn sử dụng
chữ Nôm Dao sáng tác là chính, chỉ những bài thơ đƣợc dùng vào mục đích
tuyên truyền hoặc in báo cho tất cả mọi ngƣời cùng đọc thì ông mới dịch những
bài thơ đó ra chữ Quốc ngữ. Bàn Tài Đoàn là một trong số rất ít nhà thơ DTTS
của Việt Nam đƣợc Nhà nƣớc trao tặng Huân chƣơng Lao động hạng Nhất - vì
thế chúng ta càng khẳng định rằng ông có những đóng góp to lớn đối với thơ ca
DTTS nói riêng và với nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung.
60
Tác giả Bàn Tài Đoàn sáng tác trên nhiều thể loại: thơ, hồi kí, tiểu luận
phê bình - trong đó chiếm số lƣợng tác phẩm nhiều nhất và thành công nhất là
thể loại thơ. Trong suốt cuộc đời làm thơ của mình, ông đã xuất bản đƣợc 13
tập thơ, đó là: Muối của cụ Hồ (1960), Xuân về trên núi (1963), Có mắt thấy
đƣờng đi (1962), Một giấc mơ (1964), Kể chuyện đời (1968), Tháng Tám
đổi mới (1971), Rừng xanh (1973), Sáng cả hai miền (1975), Gửi đồng bào
Dao (1979), Nơi ta ở (1979), Bƣớc đƣờng tôi đi (1985), Tìm bạn rừng
(1990), Bó đuốc sáng (2002). Trong các tập thơ này đã có nhiều tập thơ để lại
những ấn tƣợng sâu đậm trong lòng bạn đọc; Bên cạnh đó là các tác phẩm ký
và tiểu luận phê bình nhƣ: Đời Ngƣời Dao (ký,1958), Vấn đề văn nghệ miền
núi (tiểu luận, 1958); Hồi ký khu Quang Trung (1994)…
Về mặt nội dung, các sáng tác thơ của nhà thơ Bàn Tài Đoàn tập trung ở
hai mảng đề tài, đó là: Phản ánh một cách chân thực cuộc sống của đồng bào
dân tộc Dao cũng nhƣ đồng bào DTTS nói chung từ những ngày tháng lầm
than, cơ cực, dƣới ách áp bức của chế độ phong kiến miền núi hà khắc và bọn
thực dân Pháp đến khi có cuộc sống mới bởi sự “đƣa đƣờng chỉ lối” của Đảng,
của Bác Hồ (ví dụ nhƣ các bài thơ: Đêm không ngủ, Ngƣời Dao suy nghĩ
gì?)… Hai là những bài thơ viết về cuộc đời hoạt động cách mạng của nhà thơ
gắn liền với hệ vận động của cách mạng Việt Nam, gắn liền với những kỷ niệm
về các chiến sĩ cách mạng lão thành, với những cảm xúc vui mừng, tràn đầy
tình yêu trƣớc một cuộc đời mới - tự do, hạnh phúc. Bên cạnh đó là sự biết ơn
to lớn và những lời thơ ca ngợi Đảng, Cách mạng và ca ngợi vị lãnh tụ kính yêu
- Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tiêu biểu là các bài thơ: Muối cụ Hồ, Khuổi Sao, Từ
rừng Trần Hƣng Đạo, Gặp đồng chí Văn, Đƣờng sáng, Kể chuyện với
đời…
Về mặt nghệ thuật, đáng chú ý là về thể thơ. Thể thơ mà Bàn Tài Đoàn
hay sử dụng trong hầu hết các sáng tác của mình là lối thơ cổ phong 7 chữ (thể
thơ truyền thống của dân tộc Dao). Trong thơ cổ phong ngƣời ta chia ra làm hai
61
loại - đó là cổ phong ngũ ngôn và cổ phong thất ngôn. Vì vậy mà thơ cổ phong
có thể dài, ngắn khác nhau, có những bài thơ ngắn ngƣời ta gọi là đoản thiên
nhƣng cũng có những bài đƣợc viết dài gọi là trường thiên. Thể thơ này rất hợp
với lối hát Páo Dung của ngƣời Dao (hát Páo Dung cũng có nhiều thể loại nhƣ:
hát giao duyên, hát răn dạy, hát mời uống rƣợu, hát tiễn đƣa,…) nên rất dễ đến
với bạn đọc là ngƣời dân tộc Dao (có nhiều ngƣời Dao sống trên núi, mỗi khi
xuống chợ phiên là lại đến xin thơ của ông để làm lời hát Páo Dung). Bàn Tài
Đoàn đã vận dụng rất thành thạo ngôn ngữ dân tộc để sáng tạo ra các tác phẩm
nghệ thuật của mình. Điều làm nên sự độc đáo, khác lạ trong thơ Bàn Tài Đoàn
chính là cách nói mộc mạc, giản dị, là lối tƣ duy trực tiếp, không vòng vo, cầu
kỳ của ngƣời Dao đã đƣợc nhà thơ sử dụng một cách hồn nhiên mà rất hiệu quả
trong các bài thơ của ông.
Là cây bút gạo cội thuộc thế hệ đầu tiên của văn học các DTTS Việt
Nam hiện đại và cũng là nhà thơ cách mạng đầu tiên của Cao Bằng, Bàn Tài
Đoàn chính là một trong những ngƣời đã đặt viên gạch đầu tiên cho văn học
các DTTS Việt Nam và cũng là ngƣời đặt nền móng cho văn học Cao Bằng
thời kỳ hiện đại. Chính vì vậy thơ ông thể hiện rất rõ đặc điểm của thơ ca
DTTS Việt Nam giai đoạn đầu này (cả về những mặt thành công và hạn chế).
Thơ Bàn Tài Đoàn phản ánh một cách chân thực và mộc mạc cuộc sống
của đồng bào DTTS nói chung và của đồng bào ngƣời dân tộc Dao nói riêng.
Là một nhà thơ miền núi sống qua hai chế độ, ông thấu hiểu một cách sâu sắc
nỗi khổ cực, lầm than của đồng bào các DTTS (trong đó có dân tộc Dao). Dƣới
chế độ thực dân phong kiến, ngƣời dân phải chịu bao nỗi khổ cực do thiên tai,
do chiến tranh, do sự bóc lột tàn ác của bọn phong kiến thực dân: Cây chuối
trên rừng biến thành củi / Rêu xanh dưới xuối cháy thành tro / Cây chuối trên
rừng lửa đốt cháy / Rêu xanh dưới biển đốt nấu cơm. (Đại hạn)[21, tr.12].
Thiên nhiên đã khắc nghiệt với con ngƣời nhƣng chế độ phong kiến còn tàn
bạo, khắc nghiệt hơn:“Vua đổ vua lên cũng gọi vua / Rước voi dẫm nát tổ trong
62
mồ / Phu phen thuế má dân nai chịu / Giặc dã, thiên tai dân tự lo… (Hai mƣơi
lăm năm) [27, tr.76]...; Đặc biệt khi ngƣời dân phải sống dƣới 2 tầng áp bức thì
cuộc sống lại càng đói khát khổ đau: Con khóc đòi ăn cơm chấm muối / Mẹ tìm
đâu hột muối cho con? / Mẹ dỗ: con ơi đừng khóc nữa / Bố gánh củi đi chợ đổi
muối rồi.../ Cánh cửa nát xơ kẹt hé mở / Vui sướng biết bao thấy bố về / Nhưng
sao bố im lặng không nói / Con hỏi muối đâu bố lắc đầu / Không đủ tiền người
giàu không bán... [21, tr.39]
Là một ngƣời Dao ông luôn tự hào về những phong tục, tập quán tốt đẹp
nhƣng cũng luôn day dứt, trăn trở về những hủ tục lạc hậu của dân tộc mình.
Bởi chính những hủ tục đó cũng là một nguyên nhân chính dẫn đến cuộc sống
nghèo đói, khổ cực của ngƣời Dao từ xƣa cho tới nay. Ví dụ nhƣ: Trong tục
cƣới xin của ngƣời Dao, nhà thơ đã kêu gọi đồng bào hãy từ bỏ hủ tục thách
cƣới nặng, ép gả để ngƣời Dao có đƣợc một cuộc sống thực sự hạnh phúc: “Lệ
làng bạc trắng mấy chục lạng / Rượu thịt mấy gánh đè lên đầu” hay “Rượu tan
vợ chồng đeo nặng nợ / Bao nhiêu vui sướng biến nghèo nàn / Có người bố mẹ
qua đời hết / Nợ vẫn còn dây con cháu đeo” [21, tr.89]; Tập tục du canh, du cư
cũng là một trong những nguyên nhân gây nên đói nghèo, đau khổ để rồi: Nhớ
mẹ kể từ thời còn nhỏ / Chuyện đời tổ tiên họ Bàn ta / Trên lưng cái địu đeo
nghèo khổ / Quanh quẩn núi rừng chẳng lối ra…/… Người sinh ra người chẳng
sinh ruộng / Cuốc rẫy đất gầy lại đi thôi [21, tr.13]. Cái cuộc sống quẩn quanh
ấy cứ đeo bám mãi những ngƣời dân nơi đây: “Đã trải qua bao đời ta cực khổ/
Chặt gốc, ăn ngọn, sống du cư/ Mưa hoà gió thuận còn tạm đủ/ Gặp năm hạn
hán đói bơ vơ” [21, tr.14], vậy nên ông đã kêu gọi ngƣời Dao hãy thực hiện
chính sách định canh định cư do chính phủ đề ra để có đƣợc một cuộc sống
bình yên, no ấm: “Chính phủ đề ra nhiều chính sách/ Người Dao nghe bảo
nhau yên lòng/ Định cư định canh theo kế hoạch” [21, tr.109]
Tệ nạn mê tín dị đoan xuất phát từ sự thiếu hiểu biết cũng là một nguyên
nhân nữa gây nên bao đau khổ cho ngƣời Dao. Nhà thơ đã nhận ra tính chất
63
tiêu cực của hủ tục này nên ông đã lên án, phê phán và khuyên bảo mọi ngƣời
hãy loại bỏ hủ tục đó ra khỏi đời sống cộng đồng để cuộc sống đƣợc tốt đẹp
hơn: “Quỉ thần không phải là chân thật/ Vì rằng không ai nhìn thấy ma… Chỉ
nghe lời nói ông thầy bói/ Ông thầy cũng chẳng nhìn thấy ma/ Bói bừa, bói láo
cho ta sợ/ Không cúng thì sợ ma không tha” [21, tr.45]...
Ngoài những phong tục, tập quán cổ hủ, lạc hậu đè nặng lên cuộc sống
thì việc sử dụng thuốc phiện cũng là nguyên nhân khiến cuộc sống của đồng
bào Dao rơi vào cảnh nhà tan, cửa nát. Nhà thơ đã chỉ rõ cho ngƣời Dao thấy
tác hại to lớn của thuốc phiện và kêu gọi mọi ngƣời hãy tránh xa nó. Bởi nó
chính là “giặc khói” phá hoại cuộc sống hạnh phúc của ngƣời Dao: “Xin đừng
mó! Xin đừng mó!/ Mó phải nó dính vào người khó cởi/ Làm cho con nhỏ, vợ
hiền khổ thân/ Xưa nay thuốc phiện vẫn là giặc khói” [21, tr.32]. Theo nhà thơ,
nạn “giặc khói” phải bị đánh tan ở trong cộng đồng dân tộc Dao nếu không thì
cuộc sống của ngƣời Dao sẽ mãi chìm trong đói nghèo, lạc hậu và tan nát bao
mái ấm gia đình.
Chính vì nhận thức đƣợc cái nghèo cái khổ của đồng bào Dao xuất phát
từ đâu nên tác giả luôn trăn trở, luôn mong mỏi đồng bào mình sớm thay đổi
suy nghĩ, có tƣ tƣởng tiến bộ để bắt nhịp với cuộc sống mới, để tránh cái đói
nghèo, đến với cuộc sống ấm no hạnh phúc: Gác tay lên trán lòng tôi nghĩ /
Đêm nằm khó ngủ nhớ đồng bào / bao nhiêu đời bước chân chưa nghỉ / Cuộc
sống du canh dân tộc Dao…/… Lòng người Dao ta suy nghĩ gì / Chọn lấy
đường nào là đường đi / Đường nào nghèo đói ta nên tránh / Đường nào ấm no
ta tiến mạnh [21, tr.112]. Ông khuyên răn con cháu sống định canh, định cư,
không đốt phá rừng và sống du canh nữa: Mấy nhà người Dao thành một bản /
Sống chết thế nào cũng ở đây / Người già khuyên trẻ làm nương ruộng / Bám
đất ở tiếp đến ngày nay [21, tr.59]. Và những suy nghĩ trăn trở đó còn lặp đi lặp
lại ở nhiều bài thơ của ông nhƣ một tâm nguyện, một ƣớc mong để ngƣời Dao
không phải chịu cảnh đói rách, mù chữ, tăm tối nữa: “ Người Dao đã khổ lại
64
đói nghèo / Đời đói rách lại thêm mù chữ / Quanh năm tăm tối giữa rừng đèo”
[21, tr.96], và “Nghĩ đến anh em người Dao ta / Rải rác vùng cao khắp gần
xa…/… Có người đã hiểu đường cách mạng / Có người chưa rõ việc nước nhà”
[21, tr.88]... Chính vì thế, khi gặp đƣợc Bác Hồ, đƣợc Đảng và Cách mạng giác
ngộ, dẫn đƣờng - ông cũng nhƣ cả đồng bào dân tộc Dao của ông đã nhƣ đƣợc
“sáng mắt, sáng lòng”, đƣợc đổi đời trong niềm vui ấm no, hạnh phúc :“Người
Dao gặp cách mạng vui mừng / Đời được đổi mới trăm thứ đủ [21, tr.38], “Từ
khi cán bộ cụ Hồ đến / Có hàng bán muối tha hồ chọn / Có hàng bán vải đỏ vải
xông / Cụ Hồ mang áo về, dân mặc / Cụ Hồ đem muối về, dân ăn”[21, tr.40].
Với tấm lòng chân thành và biết ơn sâu sắc của một ngƣời con DTTS,
ông luôn đặt niềm tin tuyệt đối vào Đảng và Bác Hồ, ông tâm sự: “Tôi cố gắng
nói sao cho đồng bào Dao hiểu được con đường cách mạng của Đảng là đúng
đắn, cần phải theo đến cùng… Do đó tôi rất tự hào, dù trình độ kém nhưng
cũng đã giúp đồng bào hiểu và tin tưởng vào Đảng, vào Bác Hồ.”[72, tr.58].
Đây cũng chính là nội dung thứ hai đƣợc phản ánh trong thơ Bàn Tài Đoàn và
cũng là cảm hứng xuyên suốt trong những năm tháng hoạt động cách mạng của
ông - đó là niềm tin tƣởng tuyệt đối của ông vào cách mạng, vào Đảng và Bác
Hồ; là tấm lòng biết ơn, ca ngợi công lao của của Đảng, Bác Hồ đã giải phóng
cho nhân dân và dân tộc, đã đƣa đồng bào thoát khỏi đói nghèo, tăm tối, khổ
nhục. Chính vì vậy, những câu thơ của ông đƣợc viết ra đều bắt nguồn từ tấm
lòng của ông đối với Đảng, với Bác Hồ và cũng đã thể hiện đƣợc lòng yêu cuộc
sống, yêu quê hƣơng, yêu Đảng và yêu Bác Hồ: Mẹ tôi không còn sống /
Nhưng tôi vẫn còn người mẹ thân yêu / Ngày đêm chăm sóc tôi nhiều / Hơn cả
mẹ tôi ngày trước / Đó là Đảng / Đó là Bác Hồ Chí Minh [21,tr.30]. Thơ ông
trong sáng, hồn hậu thể hiện rõ tình cảm, lòng tin và sự thủy chung nhất mực
của ngƣời dân tộc miền núi cao với Đảng và Bác kính yêu. Ông cũng có những
câu thơ chan chứa nghĩa tình khi viết về Đại tƣớng Võ Nguyên Giáp - ngƣời
anh, ngƣời thầy đã dìu dắt ông đến với cách mạng, với thơ: Ngày trước gặp
65
nhau trong rừng rậm / Khao bạn tiệc khúc củ mài / Lá chuối lợp nhà làm cung
điện / Mấy người bàn chuyện đánh Nhật Tây…/ Đồng chí tình thân như ruột
thịt / Dìu dắt tôi đi bước đường thơ / Giấy bằng lá, chuối dao làm bút / Ngày
nay nên người nhớ lại xưa.[21. Tr.83,84]. Bài Đồng chí vẫn nhớ đƣờng rừng
núi (sáng tác năm 1989) ông viết rất thật thà, cảm động về về hình ảnh ngƣời
anh cả thân thiết, đầy yêu thƣơng khi xƣa: “Đồng chí không quên đường rừng
núi / Xuống xe chân vẫn bước như xưa / Tiếng Dao đồng chí vẫn còn nói / Kể
chuyện Việt Minh, chuyện Bác Hồ.” [21. Tr.119].
Có thể thấy rất rõ mỗi quan hệ mật thiết, gắn bó hữu cơ (tuy 2 mà 1) giữa
Bàn Tài Đoàn và Cách mạng “Có cách mạng mới có nhà thơ Bàn Tài Đoàn và
có nhà thơ Bàn Tài Đoàn mới có thơ cách mạng của người Dao”[72. Tr.61].
Cho đến tận hôm nay, mỗi bài thơ viết ra với ông đều là một phần máu thịt của
cuộc đời ông - cuộc đời của ngƣời con DTTS đi theo cách mạng, làm thơ phục
vụ cách mạng, phục vụ đồng bào dân tộc miền núi thân yêu của ông: Con nhập
Việt Minh, con nhập Đảng / Làm thơ phục vụ đến ngày nay…/ ý đẹp lời hay ai
cũng nhớ / Thơ soi nghìn mắt, động nghìn tay [21. Tr.114]. Trong kháng chiến
ông làm thơ ca ngợi tình đồng chí, đồng bào, tinh thần vƣợt khó khăn gian khổ,
chiến đấu, hy sinh để giành cuộc sống độc lập tự do cho quê hƣơng, cho đất
nƣớc. Trong hoàn cảnh đất nƣớc hoà bình ông lại làm thơ ca ngợi cuộc sống
mới, xƣa là bóng đêm nay là ngày, xƣa là tăm tối nay là tươi sáng, xƣa là nô lệ
nay là độc lập tự do... những hình ảnh này thƣờng lặp đi lặp lại trong thơ ông
nhƣ một điệp khúc, nhƣ một tiếng reo ca hân hoan, vui sƣớng. Đƣờng lên
Đồng Văn là một bài thơ tiêu biểu cho cách nghĩ, cách nói đó của ông: xƣa là -
Khát nước kiếm đâu ra một giọt / Lã chã mồ hôi nghỉ mấy hồi... / Về đến Đồng
Văn chưa thấy chết / Mới biết ta còn sống đấy thôi; nay là - Có ai muốn lên
Đồng Văn chơi / Ra đường lên xe đi nghe thấy / Còn muốn ngồi thêm đã tới
nơi... / Đường này Chính phủ Cụ Hồ mở / Mở thành đường tốt cho người
dân... [21. Tr.49,50]
66
Bên cạnh đó, ông còn luôn tự hào về cuộc sống, con ngƣời miền núi nơi
quê hƣơng ông. Trong thơ Bàn Tài Đoàn con ngƣời miền núi nói chung và
những ngƣời dân tộc Dao nói riêng luôn có lối sống hồn nhiên, thật thà, thủy
chung và có một tâm hồn vui tƣơi, trong trẻo, luôn yêu thƣơng, đùm bọc lẫn
nhau: “Nhớ đến làng xưa những bạn thân/…Nhớ đến trong làng chị em bạn /
Ngồi bên nhà thêu áo màu chàm”…; “Người Dao nghèo khổ mà hiên ngang
/…Dũng cảm, yêu thương, lòng chân thật / Thuỷ chung với bạn, với nước non!”
[21, tr.24]. Trong thơ ông có những hình ảnh nổi bật, làm xúc động lòng ngƣời
đó chính là hình ảnh ngƣời mẹ, ngƣời vợ, ngƣời bạn, ngƣời đồng chí…của ông.
Khi nƣớc nhà độc lập nhìn lên tấm Huân chƣơng do Nhà nƣớc tặng cho mình,
ông đã rƣng rƣng nhớ đến mẹ: “Một tấm huân chương đeo trước ngực / Con
nhớ ơn mẹ nhớ đồng bào”[21, tr.114]..., nhớ đến ngƣời vợ yêu thƣơng tần tảo
đã “một nắng hai sương” lo lắng gia đình để ông yên tâm làm cách mạng:“Mấy
chục năm trời cùng xa cách / Để nàng khác chống cái gia đình”[21, tr. 47]...;
nhớ đến công sức, tình cảm lớn lao của những ngƣời đồng chí đã giúp đỡ, giác
ngộ và đồng hành cùng ông trên dƣờng đến với cách mạng, đến với con đƣờng
thơ:“Đồng chí tình thân như ruột thịt / Dìu dắt tôi đi bước đường thơ” [21, tr.
83]. Chính vì “tình sâu nghĩa nặng” nhƣ vậy nên hình ảnh của Đảng, Bác Hồ
và những con ngƣời thân yêu đó cứ luôn trở đi, trở lại trong thơ ông nhƣ một
hình ảnh đầy sức ám ảnh trong những tác phẩm thơ của tác giả ngƣời Dao này.
Về nghệ thuật, có thể nói không một nhà thơ nào lại giữ nguyên đƣợc nét
truyền thống về cả thể thơ và ngôn ngữ thơ nhƣ Bàn Tài Đoàn. Ông sử dụng
thành thạo ngôn ngữ dân tộc mình (chữ Nôm Dao), và vận dụng một cách hết
sức linh hoạt thể thơ cổ phong truyền thống (7 chữ) để sáng tác thơ. Với một
giọng thơ mộc mạc, chân thành, không cầu kỳ, trau chuôt mà cứ “thật thà nhƣ
đếm” với những lời kể, lời tâm sự chất phác của một ngƣời dân tộc thiểu số
trƣớc hiện thực xã hội đầy tăm tối, khổ đau cũng nhƣ trƣớc sự đổi thay của
cuộc sống mới, tƣơi sáng, ấm no, hạnh phúc. Sự đổi thay đó đƣợc nhà thơ miêu
67
tả một cách cụ thể, giản dị với những hình ảnh rất đặc trƣng của miền núi
nhƣ: Người Dao thay đổi không đói rách/Móng ngựa, củ mài được sống yên /
Không sợ sớm chiều người đến cậy / Măng non trên rừng cũng nên cây”; “
/ Cây được đổi lá, gà đổi lông / Nhà lợp ngói đỏ
thay gianh cỏ / Ngẫm nghĩ đời ta quá sướng vui” (Tháng Tám đổi thay)...
Tuy nhiên thơ Bàn Tài Đoàn cũng có những hạn chế nhất định - cũng là
hạn chế chung của các cây bút DTTS thời kỳ đầu, ví dụ nhƣ: về nội dung, thơ
Bàn Tài Đoàn nặng về kể lể và ca ngợi cuộc sống của đồng bào dân tộc Dao
trƣớc và sau cách mạng Tháng tám. Hiên thực phản ánh trong thơ ông chƣa
phong phú, nhất là hiện thực cuộc sống của đồng DTTS trong 2 cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ; Về nghệ thuật, thơ ông chịu ảnh hƣởng rất sâu
sắc của lối thơ cổ phong (truyền thống), rất ít có sự đổi mới, hơn nữa giọng
điệu thơ chủ yếu là giọng kể lể, ca ngợi nên nhiều chi tiết rất dài dòng, nặng nề,
gây sự nhàm chán, sự cô đọng và hàm súc trong thơ không cao.
Nhƣng vƣợt lên trên tất cả những hạn chế đó, thơ Bàn Tài Đoàn luôn rất
giản dị, gần gũi, chiếm đƣợc cảm tình của đông đảo bạn đọc ngƣời DTTS nhất
là đồng bào dân tộc Dao. Qua thơ ông, ngƣời đọc nhận ra đƣợc hình ảnh của
tác giả - một tâm hồn Dao đích thực: chân chất, mộc mạc, giàu tình cảm, thủy
chung ân tình với nhân dân, với Đảng, với Bác Hồ, với đồng chí, với gia đình...
Có thể nói Bàn Tài Đoàn là ngƣời có công lớn trong việc đặt nền móng
cho thơ ca của Cao Bằng, của ngƣời Dao thời kỳ hiện đại nói riêng và văn học
các dân tộc thiểu số Việt Nam nói chung. Sau này, đã có khá nhiều ngƣời Dao
làm thơ nhƣng có lẽ chƣa có một ngƣời Dao nào viết nhiều và nói nhiều về
cuộc sống của đồng bào Dao cũng nhƣ ca ngợi Cách mạng, ca ngợi Đảng, Bác
Hồ một cách nhiệt thành nhƣ ông. Ông có nhiều đóng góp quan trọng cho thơ
các DTTS nói chung và văn học Cao Bằng nói riêng; ông đã góp phần làm nên
một nền móng, một điểm tựa vững chắc để văn học Cao Bằng ngày càng phát
68
triển, nở hoa và kết trái. Ông chính là “cây cao bóng cả” rợp bóng mát trên
mảnh đất văn chƣơng Cao Bằng thời kỳ hiện đại.
3.2. Y Phƣơng - nhà thơ Tày xuất sắc của Cao Bằng
Tên khai sinh của Y Phƣơng là Hứa Vĩnh Sƣớc, ngoài ra ông có các bút
danh khác nhƣ: Chu Văn Păn, Hứa Hiếu Lễ. Ông sinh ngày 24 tháng 12 năm
1948, quê ở xã Lăng Hiếu, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Sinh trƣởng
trong một gia đình dân tộc Tày, ông cụ thân sinh là Hứa Văn Cƣờng - một thầy
tào chữa bệnh trong vùng, là ngƣời giỏi chữ Nôm Tày. Mẹ ông là Nông Thọ
Lộc - một phụ nữ Tày đảm đang hết lòng vì chồng con. Y Phƣơng đƣợc thừa
hƣởng từ cha nhiều kiến thức, đặc biệt là về những bài cúng, bài then cổ cùng
sự hiểu biết chung về văn hóa Tày khá dày dặn, sâu sắc. Niềm đam mê văn
chƣơng đã có trong ông từ rất sớm, bạn bè thời ấu thơ của ông chính là sách. Y
Phƣơng đã trải qua cuộc đời của một ngƣời lính và đến với thơ ca “thật tình cờ
giống như là duyên số”.
Những bài thơ đầu tiên đƣợc in báo năm 1973 là: “Bếp nhà trời”,
“Dáng một con sông” - đã bắt đầu cho sự nghiệp văn chƣơng của ông. Y
Phƣơng nhập ngũ năm 1968, phục vụ quân đội đến năm 1981 thì chuyển về
công tác tại Cao Bằng. Ông bắt đầu thực hiện giấc mơ hồi trẻ là đƣợc đi học,
trƣớc hết học Trƣờng Điện ảnh Việt Nam từ 1976 đến 1979, rồi học khóa II
(1982-1986) Trƣờng Viết văn Nguyễn Du. Năm 1986 ông về công tác tại Sở
Văn hóa Thông tin Cao Bằng và từ năm 1991 ông là Phó Giám đốc tại Sở Văn
hóa Thông tin; Năm 1993, ông là Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Cao Bằng,
Ủy viên Ban chấp hành, Trƣởng Ban Kiểm tra Hội Nhà văn Việt Nam khóa VI.
Trong suốt quá trình hoạt động văn chƣơng của mình Y Phƣơng đã viết
một cách miệt mài, say mê, đầy tâm huyết. Ông đã cho công bố rất nhiều tác
phẩm tập thuộc nhiều lĩnh vực bao gồm: 1 tập kịch “Ngƣời núi Hoa” (1982); 8
tập thơ, trƣờng ca là: “Tiếng hát tháng Giêng” (1986), “Lời chúc” (1987),
“Đàn then” (1996), “Chín tháng” (trƣờng ca, 1998), “Thơ Y
69
Phƣơng”(2000), Thất tàng lồm - Ngƣợc gió, (song ngữ Tày-Việt, 2006), “Đò
trăng” (2009), “Bài hát cho Sa” (2011); 2 tập tản văn “Tháng Giêng - tháng
Giêng một vòng dao quắm” (2009) và “Kungfu ngƣời Co Xàu” (2010). Hiện
ông đã hoàn thành bản thảo cuốn tản văn thứ ba: “Fừn Nèn - Củi Tết”; hai tập
thơ song ngữ “Vũ khúc Tày - Tủng Tày” (108 bài thơ tình), “Hoa quả
chuông- Bjooc ăn lình”.
Y Phƣơng từng đạt Giải A cuộc thi thơ Tạp chí Văn nghệ Quân đội năm
1984; Giải thƣởng loại A của Hội Nhà văn Việt Nam (1987) với tập thơ "Tiếng
hát tháng Giêng"; Giải A của Hội đồng Văn học dân tộc - Hội Nhà văn Việt
Nam với tập thơ "Lời chúc"; Giải B của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội
Văn học, Nghệ thuật Việt Nam; Giải B của Bộ Quốc phòng với trƣờng ca
"Chín tháng" (2001); Giải thƣởng Hội văn học, nghệ thuật các DTTS Việt
Nam năm 2011 cho tản văn “Kungfu ngƣời Co Xàu”; Bằng khen của Hội Nhà
văn Việt Nam cho “Tháng Giêng - tháng Giêng một vòng dao quắm” (năm
2010). Và nhà thơ dân tộc Tày - Y Phƣơng đã vinh dự đƣợc nhận Giải thƣởng
Nhà nƣớc về Văn học Nghệ thuật năm 2007.
Có thể khẳng định, núi non Cao Bằng hùng vĩ, xinh đẹp và nên thơ cùng
những tri thức văn hóa bản địa đã góp phần không nhỏ tạo nên chất nghệ sĩ dồi
dào để làm nên những trang thơ, trang văn đặc sắc chứa đựng đầy nét văn hóa
“đồng mình” trong văn thơ Y Phƣơng. Từng thể nghiệm qua nhiều nghề, nhƣng
cuối cùng: “Tất cả sự thể nghiệm ấy chỉ cho ông câu trả lời diễu cợt, nếu không
trở thành nhà thơ thì ông sẽ chẳng thành gì hết”. Và từ đó, Y Phƣơng tập trung
vào việc sáng tác thơ, sáng tác văn chƣơng - viết về quê hƣơng, về cuộc sống,
con ngƣời DTTS thật thà chất phác của đất Cao Bằng. Y Phƣơng là một nhà
thơ có phong cách riêng, ông luôn đi tìm cái mới, cái độc đáo nhƣng luôn thấm
đậm chất dân tộc và chất truyền thống của ngƣời “đồng mình”.
Với Y Phƣơng, điều quan trọng nhất là phải biết sống tốt, sống có hiếu,
có lễ nghĩa và có tình người, kể cả trong văn thơ và đời sống thực. Y Phƣơng
70
quan niệm về văn chƣơng rất giản dị nhƣng cũng rất sâu sắc: “Văn chương là
một việc làm trả ơn những người sinh thành và nuôi dưỡng mình”. Trong suốt
quá trình sáng tác, Y Phƣơng luôn quan sát, chiêm nghiệm cuộc sống từ nhiều
phía, nhiều chiều khác nhau với cái nhìn đầy nhân hậu, đầy tự tôn về con
ngƣời, về văn hóa cội nguồn và những khao khát vƣơn cao, vƣơn xa của những
trí thức, những nhà văn ngƣời Tày thời hiện đại
Đọc thơ Y Phƣơng, ta thấy đƣợc vẻ đẹp của văn hóa Tày qua lời nói,
phong tục và tâm tƣ tình cảm, lối sống của con ngƣời trong cảnh thiên nhiên
tƣơi đẹp và hùng vĩ nơi đây. Trong quan hệ giao tiếp cộng đồng, ngƣời Tày
thƣờng hay sử dụng cách nói ẩn dụ, so sánh, ví von giầu hình ảnh để thể hiện
nội dung câu nói, học cũng rất hay sử dụng những câu thành ngữ, tục ngữ, dân
ca của dân tộc. Một số từ ngữ thƣờng dùng của ngƣời Tày đã đƣợc Y Phƣơng
đƣa vào thơ một cách tự nhiên và tạo hiệu quả cao nhƣ: Mây móc hì hà ùa vào
nhà (Chín tháng) ("Mƣơi móc" hai từ nguyên của tiếng Tày); hoặc câu: "Gió
phù phì phú phí" là một cách nói mô tả về sự tràn trề của ngƣời Tày; hay là
"Cột kèo bắc làm khàm" chỉ sự tạm bợ của căn nhà... Bên cạnh đó nhiều nét
phong tục tập quán khác của ngƣời Tày cũng đã đƣợc thể hiện trong các bài thơ
viết về nghi lễ cúng tổ, hoặc nghi lễ mừng cháu nhỏ đƣợc tròn tháng tuổi:
"Ngày đầy tháng/Ba mâm hương bày ra/Bày mâm đèn đặt tới/Cỗ bàn lao xao
khói... Cờ phướn tung bay đón/Mời bố trời đặt tên..." (Chín tháng)...
Hình ảnh con ngƣời và cuộc sống miền núi đƣợc Y Phƣơng khắc họa
trong các tác phẩm vừa có nét đặc trƣng riêng của ngƣời Tày, vừa có nét chung
của đồng bào ngƣời DTTS vùng cao. Đó là ngƣời đàn ông mạnh mẽ kiên
cƣờng ; là ngƣời phụ nữ lành, hiền, ít nói, sống có nghĩa, có tình, lãng mạn
nhƣng cũng là những ngƣời có nghị lực, có sức mạnh, vƣợt qua bao gian lao,
bao vất vả và hi sinh để bảo vệ làng bản, quê hƣơng, đất nƣớc và hạnh phúc gia
đình. Hình ảnh chàng trai Tày trong bài “Bài ca thứ hai”, “Những đứa con
71
của đá”; hoặc hình ảnh ngƣời phụ nữ Tày trong bài “Em - cơn mƣa rào -
ngọn lửa”… là những hình ảnh sinh động, cụ thể về những con ngƣời nhƣ vậy.
Những nét đặc trƣng trong bản sắc văn hóa Tày đƣợc in đậm trong từng
tác phẩm của Y Phƣơng đã thể hiện rất rõ tầm cao và chiều sâu văn hóa dân tộc
trong con ngƣời ông. Ông hiểu rõ một điều: Văn hóa là sức mạnh, là cội nguồn
của những giá trị mang đậm mầu sắc nhân văn của ngƣời Tày, của cộng đồng
Tày - với “Vách nhà ken câu hát” và một niềm tin “Còn quê hương thì làm
phong tục”. Nhƣng không chỉ dừng lại ở việc nói về, viết về bản sắc văn hóa
của ngƣời Tày mà Y Phƣơng còn vƣơn xa hơn tới những nền văn hóa của các
dân tộc khác - nhƣ là một dấu nối giữa thơ ca Tày và thơ ca của toàn dân tộc.
Chính vì thế thế mà tác phẩm của ông luôn có sự phong phú trong việc phản
ánh các mặt về cuộc sống, con ngƣời miền núi nói chung… nhƣng điều quan
trọng nhất là dù nói về vấn đề gì thì văn chƣơng Y Phƣơng vẫn thấm đẫm bản
sắc văn hóa của “ngƣời đồng mình”.
Kế thừa và sở hữu vốn tri thức khá dày dặn về văn hóa Tày truyền thống
giầu có và vững chắc, ông đã sử dụng một cách sáng tạo trong các thể loại thơ,
trong tản văn để giãi bày, truyền tải những lát cắt muôn màu về đời sống, sinh
hoạt, phong tục tập quán, ngôn ngữ, ẩm thực, trang phục, trò chơi dân gian…
của quê hƣơng, dân tộc mình. Ông viết về những kỷ niệm sinh hoạt thƣờng
ngày ở ngôi làng ngƣời Tày của mình với những phong tục tập quán từ đời này
truyền sang đời khác với niềm tự hào chân chính: “Sống trên đá không chê đá
gập ghềnh-Sống trong thung không chê thung nghèo đói” (Nói với con). Sinh
ra ở vùng đất Trùng Khánh gần biên giới Việt - Trung, Y Phƣơng luôn có ý
thức hòa nhập cùng đại gia đình các dân tộc Việt Nam, vì vậy dù lớn lên trên
mảnh đất Cao Bằng, với dòng Quây Sơn xanh nhƣ ngọc, với thác Bản Giốc,
động Ngƣờm Ngao… nhƣng ông cũng sớm đã hƣớng ra những dòng sông
khác, những miền đất khác để mở rộng tầm mắt, tầm hiểu biết của mình. Vƣơn
ra ngoài khỏi vùng văn hóa Tày, Y Phƣơng mang văn hóa làng bản mình hòa
72
cùng với dòng sông văn hóa chung của đất Việt: “Chúng con là lính Bác Hồ /
Là con đẻ trăm miền phù xa đỏ / Những vùng quan họ / Những miền sli lượn
trên cao” (Thƣa mẹ chúng con đã lớn)...
Thơ Y Phƣơng luôn mang bóng dáng quê hƣơng, vùng non nƣớc Cao
Bằng mà ở đó có những con ngƣời giản dị, trong trẻo, hồn nhiên nhƣ đất đai,
cây cỏ trên non ngàn. Hình ảnh ngƣời phụ nữ miền núi trong thơ ông mạnh
khỏe, chân chất, đầy tính phồn thực và ẩn chứa sức mạnh (chứ không mảnh
mai và thƣớt tha nhƣ hình ảnh của ngƣời phụ nữ thành thị ta thƣờng thấy):
“Người đàn ông tựa lưng vào người đàn bà / Còn người đàn bà tựa lưng biển
cả”… (Mùa hoa) hay “Em hiền lành / Em chậm chạp / Em đội chum rượu
đến với anh / Người con gái có bàn chân to khoẻ / Đạp qua bao nhiêu đau khố
/ Đến với anh” (Em -cơn mƣa rào - ngọn lửa) ,.
Y Phƣơng mang một khát vọng lớn là bảo tồn những giá trị tốt đẹp của
văn hóa Tày vào từng trang thơ, trang tản văn của mình. Ông tự hào với với
những truyền thống văn hóa, cùng những phong tục tập quán từ bao đời của
ngƣời Tày. Do đó ông rất nhạy cảm với sự phôi phai, sự mai một của những nét
đẹp văn hóa đó trong cuộc sống hiện đại hôm nay. Những trang thơ, trang văn
của ông luôn có sự tự hào xen lẫn với sự tiếc nuối những vẻ đẹp truyền thống
về con ngƣời, về phong tục, về thiên nhiên … của mảnh đất Cao Bằng . Ông
luôn băn khoăn, luôn đau đáu, xót xa bởi những cảnh sinh hoạt văn hóa làng xã
của bà con Tày - Nùng đang dần dần mai một. Chính vì lẽ đó Y Phƣơng đã đƣa
văn hóa, lễ tết của ngƣời Tày vào trong tản văn của ông nhƣ một cách bảo tồn
bằng “chữ nghĩa”. Nào là “Tết cả”, “Tết thanh minh”, “Tết Slip Sli thịt vịt”,
“Tết Hạ chí”, “Tết trâu”, “Tết cốm”,… có một nhà nghiên cứu phê bình đã rất
tinh tế khi viết về Y Phƣơng: “Sống cùng đá, thở cùng cây, xênh xang chốn non
nước Cao Bằng, ông khéo léo giới thiệu văn hóa ẩm thực như một “vị đại sứ”
quảng bá văn hóa Tày”[85]. Với những tác phẩm cùng những tiêu đề khá ấn
tƣợng nhƣ: “Nghe hạt dẻ rơi”, “Trám mang thai”, “Tết cốm”, “Bánh xì
73
chen chạy lung tung”… ngƣời ta biết thêm một số phong tục tập quán của
ngƣời Tày nhƣ: trong mâm cúng rằm tháng Bảy của ngƣời Tày ở Cao Bằng và
các vùng khác thì thịt vịt là món không thể thiếu. Bởi thế mới có câu cửa miệng
về ẩm thực phong tục Tày: “Bươn Chiêng kin nựa Cáy, bươn Chêt kin nựa pết”
(Tết tháng Giêng ăn thịt gà, Tết tháng Bảy ăn thịt vịt). Y Phƣơng còn tự hào
khoe với thiên hạ món bánh cuốn đặc sản nhƣ cái tình ngƣời Cao Bằng “Người
nào thì vật nấy" nên "gọi bánh cuốn là đặc sản Cao Bằng không sai. Nhưng
đúng ra phải gọi bánh cuốn là hồn cốt Cao Bằng thì mới hẳn" (Ăn cái tình)…
Để trả ơn nơi đã sinh ra mình - đất Trùng Khánh - vùng đất xinh đẹp, hùng vĩ
với thác Bản Giốc, động Ngƣờm Ngao, những núi, rừng trùng điệp và cũng là
vùng đất rất giàu truyền thống văn hóa - nơi bảo tồn những làn điệu dân ca
dung dƣỡng tâm hồn nhà thơ, ông đã viết nên những bài thơ tràn đầy cảm xúc
gắn liền với cái tên làng, tên bản, với một tình cảm yêu thƣơng, tự hào: “Lên
Cao Bằng”, “Phòng tuyến Khau Liêu”, “Tên làng”, “Nói với con”, "Chợ
Co Xàu”, “Dân Co Xàu hát”, “Từ Phủ Trùng xa xôi tôi đến”…
Bên cạnh đó còn có một điều cứ trăn trở văn trong chƣơng của Y Phƣơng
đó là nỗi lo trƣớc sự mai một của ngôn ngữ, tiếng nói dân tộc Tày. Rời Cao
Bằng về sống giữa thủ đô Hà Nội là một dịp để nhà thơ "tự nhận thức về bản
thân và dân tộc mình". Ông có ý thức giao tiếp với vợ con, ngƣời thân bằng
tiếng Tày hằng ngày với mong muốn giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Niềm tự
hào tiếng nói của dân tộc đã cho ông niềm đam mê để viết tập thơ song ngữ đầu
tiên “Ngƣợc gió” (Thất tàng lồm) và chuẩn bị cho ra mắt hai tập thơ song ngữ
tiếp theo là hai tập thơ song ngữ: “Vũ khúc Tày - Tủng Tày”; “Hoa quả
chuông- Bjooc ăn lình”. Ông ý thức đƣợc sáng tác thơ bằng tiếng dân tộc là
rất cần thiết. Đó cũng là một cách tốt nhất để góp phần bảo tồn văn hóa và chữ
viết “Riêng tôi, tôi tự phải có trách nhiệm với việc bảo tồn văn hóa và chữ viết
của dân tộc mình nên dẫu nhuận bút có thấp, thậm chí không có thù lao, tôi
vẫn tiếp tục sáng tác bằng cả hai thứ tiếng…”[Y Phƣơng]. Tình yêu và lòng tự
74
hào về dân tộc mình, quê hƣơng mình trong ông thật đậm đà, tha thiết và mãnh
liệt.
Bản sắc văn hóa dân tộc trong sáng tác của Y Phƣơng đƣợc thể hiện rất
sinh động, cụ thể trong cách sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật của ông. So với các
nhà văn, nhà thơ Tày khác, Y Phƣơng là ngƣời sử dụng tiếng Tày nhiều nhất và
cũng nhuần nhụy nhất trong các sáng tác của mình. Ông biết Tày hóa tiếng Việt
trên cơ sở thông thạo cả hai thứ tiếng Tày và Việt. Nên tuy viết bằng tiếng Việt,
nhƣng sắc thái Tày vẫn thể hiện rõ. Ông có biệt tài dùng những từ ngữ sóng đôi
vừa Kinh, vừa Tày làm cho ý nghĩa của tiếng Việt khái quát, mở rộng hơn,
vƣợt qua ý nghĩa ban đầu bởi đã pha thêm nghĩa của tiếng Tày, tâm hồn Tày,
văn hóa Tày. Tác giả Lê thị Bích Hồng đã có nhận định rất chính xác về điều
này nhƣ : Thơ ông bao giờ cũng mang thông điệp giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc Tày. Nhà thơ đã đến và chinh phục những người yêu nền văn hóa Tày rực
rỡ, độc đáo, tràn đầy sức sống với một vẻ đẹp mới từ những góc nhìn mới về
văn hóa Tày trong sự giao thoa, nối kết, thống nhất với văn hóa của 54 dân tộc
ông em trong “Ngôi nhà chung” mà không ai khác ông chính là “cầu nối” đó.
Tác phẩm của Y Phương nhờ thế góp phần làm giàu bản sắc văn hóa Tày nói
riêng và văn hóa Việt Nam nói chung. [85]
Nếu nhƣ thơ của các tác giả đi trƣớc nhƣ Bàn Tài Đoàn, Triều Ân đã kế
thừa và ảnh hƣởng sâu sắc bởi nghệ thuật thơ ca truyền thống thì thơ Y phƣơng
lại có những nét đặc sắc riêng mà nói nhƣ tác giả Trần Thị Việt Trung thì “thơ
Y Phương đã góp một phần quan trọng đưa thơ Tày lên một tầm cao mới, vừa
chiếm lĩnh tư duy và thi pháp thơ hiện đại, vừa góp phần làm giàu bản sắc dân
tộc trong thời đại mới”[75, Tr.207]
Văn, thơ Y Phƣơng thấm đẫm tình yêu quê hƣơng, yêu làng bản, yêu đất
nƣớc, tỉnh yêu đó đƣợc thể hiện trong các sáng tác của ông một cách hết sức
giản dị, mộc mạc và rất chân thật, ông viết về quê hƣơng, về con ngƣời nơi đây
với vẻ đẹp cũng nhƣ sự khắc nghiệt vốn có của nó - chứ không phải vì quá yêu
75
mà ca ngợi 1 chiều hoặc lý tƣởng hóa lên: Cái làng của mẹ sinh con / Có ngôi
nhà xây bằng đá hộc / Có con đường trâu bò đi vàng đen kìn kịt / Có niềm vui
lúa chín tràn trề / Có tình yêu tan tành tiếng thác (Tên làng).
Một điểm đáng lƣu ý là: hình tƣợng con ngƣời xuyên suốt trong các tác
phẩm của Y Phƣơng chính là hình tƣợng ngƣời lính xuất thân là ngƣời DTTS
và hình tƣợng ngƣời phụ nữ miền núi. Y Phƣơng đã trải qua cuộc đời ngƣời
lính, những trải nghiệm trong chiến tranh đã tạo cho Y Phƣơng có cái nhìn rất
chân thật, sống động về ngƣời lính, nên có thể xem Y Phƣơng bắt đầu đời thơ
của mình bằng những bài thơ viết về ngƣời lính. Ngƣời lính trong thơ Y
Phƣơng cũng nhƣ trong văn học viết về chiến tranh nói chung là những con
ngƣời có ý chí lớn sẵn sàng đạp bằng mọi gian khổ, hy sinh để chiến đấu giữ
nƣớc giữ nhà. Rời bản làng, các anh - những ngƣời con ƣu tú của đồng bào
các DTTS vùng cao xuống núi làm nhiệm vụ cao cả của ngƣời con đối với
quê hƣơng đất nƣớc. Trong kí ức của ngƣời dân trong làng bản, các chàng trai
làng ra đi là đến một nơi xa xôi, mang theo nỗi nhớ của bản làng: Ngày xuống
núi / Mây vướng chân / Lá trúc non cánh ong / Tiếng lượn đi vòng / Rồi chui
vào quả lê ngọt / Làm người ăn cũng xinh / Núi như trăm voi rùng mình / Suối
như bạc ào ào chảy / Đâu phải đi chợ xa / Cũng không vào rừng đốn gỗ /
Mang đùm xôi bjooc phón khá to / Bọn con trai bản mình đi đâu / Chắc là xa
lắm (Ngƣời vùng cao). Và nhà thơ đã khắc họa hình ảnh họ nhƣ những ngôi
sao trên núi dẫu phải trải qua bao sƣơng gió buốt lạnh mà vẫn kiên cƣờng tuần
tra bảo vệ vùng biên cƣơng của Tổ quốc: Các anh đi tuần / Buốt từ sáng / Run
đến chiều / Con chim không kêu được / Các anh đi tuần còn lâu / Ngôi sao
thắp lửa trên đầu / Từ thung hoa lũng sâu / Đến bản Mèo / Bản Hẻo (Tiếng
vó ngựa trên cao). Đôi khi ông khắc họa cụ thể một bức chân dung sống
động về ngƣời lính - ngƣời thanh niên vùng cao một cách hết sức chân thực,
sâu sắc và cảm động, đó là ngƣời chiến sĩ tên Quế. Nhà thơ mô tả rất kỹ ngƣời
chiến sĩ đó từ hình dáng bên ngoài và cả đời sống nội tâm bên trong: Trán dô
76
/Mũi thô / Môi dày / Chân đi dép bốn hai vẫn thừa năm ngón / Nhịn đói không
kêu / Nhịn khát không kêu / Thiếu ngủ không kêu / Hành quân bé cả người
không kêu / Nhớ mẹ quá thì ngồi lên đá / Có lúc khóc không cho ai biết / Trốn
ra sông vầy nước / Vẽ lên cát hình thù dãy núi quê hương / Vẽ lên cát mái
trường phố huyện / Vẽ lên cát nhà sàn thoáng rộng / Vẽ lên cát người con gái
cao cao / Vẽ lên cát thằng bạn đen đen / Vẽ lên cát con trâu bú mẹ / Chỉ có
cát mới hiểu lời tôi vẽ / Cát ấm lên tươi tốt dưới nắng vàng (Hồi ức chiến
tranh).
Là ngƣời thanh niên sinh ra và lớn lên trong thời chiến tranh chống mỹ
và đã đƣợc tôi luyện, thử thách qua cả hai cuộc chiến đấu chống Mỹ và bảo vệ
biên giới phía Bắc - Y Phƣơng sớm nhận thức về trách nhiệm của thế hệ mình
với đất nƣớc và dân tộc: Chúng con là lính Bác Hồ / Sinh ra từ trăm miền phù
sa đỏ / Có người xinh tươi câu quan họ / Có người cao to sli, lượn, Nàng ơi /
Nhận khẩu súng, đeo ngôi sao / Đi dép lốp đạp bao thằng xâm lược / Ăn cơm
muối vừng mà thắng giặc / Lớn lên chân rắn đá mềm (Thƣa mẹ chúng con đã
lớn) và: Mùa xuân này / Không có tháng giêng / Anh em ra chiến hào / Chiến
hào mới đào / Đất bừng máu đỏ …/ Mười tám tuổi lần đầu lo gạo muối / Cõng
nước lên lưng / Giữ Nước cao vời (Tiếng hát tháng giêng). Nhƣng những
ngƣời chiến sĩ trẻ trung ấy đã sớm trƣởng thành và đã anh dũng chiến đấu khiến
quân thù khiếp sợ: Rét thì mặc rét / Run thì mặc run / Dầm mình trong nước /
Nhè nhẹ bơi / Mặt sông im như gương / Chỉ một giây thôi / Quân thù không kịp
ôm mặt khóc (Dáng một dòng sông)...
Không chỉ viết về hình tƣợng ngƣời lính trong chiến tranh với vẻ hào
hùng, với lòng dũng cảm và sự hy sinh anh dũng của họ, Y Phƣơng còn khắc
họa thành công hình tƣợng ngƣời lính DTTS sau chiến tranh. Trong thơ ông họ
là những ngƣời anh hùng trong chiến đấu nhƣng lại rất hiền lành, rất “ngây
thơ” trong trẻo trong cuộc sống đời thƣờng: Con là con trai của mẹ / Người đàn
ông ở làng Hiếu Lễ / Ba mươi tuổi từ mặt trận trở về / Vội vàng cưới vợ / Ba
77
mốt tuổi tập tành nhà cửa / Rào miếng vườn trồng cây rau / Hạnh phúc xinh
xinh nho nhỏ ban đầu (Tên Làng). Có thể thấy hình tƣợng ngƣời lính DTTS
trong thơ Y Phƣơng hiện lên thật rõ ràng, chân thành và cảm động. Là một
ngƣời DTTS trải qua những năm tháng chiến đấu gian nan - Y Phƣơng viết về
ngƣời lính nhƣ viết về chính cuộc đời mình nên rất cụ thể, sinh động và sâu sắc
khiến ngƣời đọc cảm động và yêu mến.
Viết về hình tƣợng ngƣời phụ nữ là đề tài quen thuộc của tất cả các nhà
thơ, nhà văn nói chung. Mỗi tác giả khai thác hình tƣợng ngƣời phụ nữ ở một
khía cạnh khác nhau với những quan niệm thẩm mỹ và tình cảm khác nhau.
Với Y Phƣơng ông đã khai thác hình tƣợng ngƣời phụ nữ miền núi với vẻ đẹp
thuần phác, vẻ đẹp của sự sinh sôi, vẻ đẹp của sự hy sinh và vẻ đẹp của sự vĩ
đại khi chính họ là ngƣời đã sinh ra con ngƣời, sinh ra làng bản…họ là cội
nguồn của cuộc sống: Người đàn bà vun trồng/ Toàn thân cúi xuống như khung
cửa/ Người từ đó đi ra (Ngƣời đàn bà vun trồng). Hình ảnh ngƣời mẹ còn
chịu bao vất vả, gian nan, cả đời hy sinh vì con cái nhƣng không một lời kêu
than khiến ngƣời đọc vừa nể phục, vừa nhoi nhói con tim: Vừa đi vừa ôm ngực
/ Toàn thân cúi gập / Như con sâu đo / Mẹ mùi măng chua / Tám mươi tuổi /
Mẹ không dám ốm một ngày / Không dám mỏi một ngày (Chín tháng); và mẹ
dù yêu con, thƣơng con đến thế nào thì mẹ vẫn luôn mong con vƣơn cao, vƣơn
xa hơn đến những miền đất mới : Mé thương con bằng trời / Nhưng không nói /
Mé thả con mình theo nước về xuôi (Ngƣời vùng cao).
Ngƣời phụ nữ trong thơ Y Phƣơng còn là những ngƣời vợ, họ mang một
vẻ đẹp phồn thực, khỏe khoắn, mạnh mẽ và tháo vát, đảm đang nhƣng cũng đầy
vất vả, lo toan: Nặng nhọc người đàn bà đeo gùi / Nặng nhọc một bầu vú phì
nhiêu như đất / Nặng nhọc một bầu vú mọng căng như nước (Chín tháng); và
Mùa hoa / Người đàn bà / Mặt đỏ phừng / Đủ sức vác ông chồng / Chạy phăm
phăm lên núi (Mùa hoa)…
78
Nhƣng bên cạnh sự kỳ vĩ, lớn lao đó, ngƣời phụ nữ cũng chính là những
gì gần gũi nhất, giản dị nhất nhƣng không thể thiếu trong đời sống của mỗi con
ngƣời, mỗi ngƣời đàn ông miền núi : “ Em là mực trong ngòi / Là cơm trong
nồi / Là gà gáy / Cũng là quả ớt” và họ cũng mang những nét đẹp mềm mại,
dịu dàng không kém những cô gái miền xuôi: “Bàn tay mềm ra suối mọc thành
cây/ Cầm ngọn khói dựng lên trời thẳng tắp” (Em - cơn mƣa rào - ngọn
lửa)…
Bên cạnh hình ảnh ngƣời mẹ, ngƣời vợ là hình ảnh ngƣời bà đầy yêu
thƣơng gần gũi với ông, tuy bà đã đi xa nhƣng hình bóng ngƣời bà yêu thƣơng
con cháu, hết lòng hi sinh vì con cháu vẫn còn sống mãi trong tâm khảm của
nhà thơ : Ngày ấy / Lưng bà còng / Mái đầu chạm đất / Cặp mắt đục / Bà lê tấm
thân ra tận cửa / Giơ cả hai tay run run như cọng lá giông / Cháu của bà còn
bé kin kin / Chạy trốn nhông như sóc / Bà cười / Miệng méo xệch / Dấn ra hai
ngấn nước (Con ốc của bà), ngƣời bà ấy: Cả một đời chắp vá / Cả một đời tạm
bợ / Bà cụ cười giòn tan / Tám mươi năm sống trong thế gian (Đá)...
Có thể thấy hình ảnh ngƣời phụ nữ miền núi trong thơ Y Phƣơng đƣợc
hiện lên thật rõ nét, sinh động và cũng thật đẹp - đó là một vẻ đẹp khỏe mạnh
đầy sức sống; một vẻ đẹp mộc mạc, chân chất nhƣng cũng đầy sâu lắng, cảm
động. Đọc thơ, văn Y phƣơng ta càng thấy kính trọng, yêu thƣơng, cảm phục
hơn những ngƣời phụ nữ vùng cao - họ nhƣ bông hoa rừng, nhƣ dòng suối mát
lành, nhƣ “chum rƣợu” nhƣ “quả ớt”...thật quen thuộc, gần gũi, giản dị, chân
thành nhƣng cũng thật lớn lao, vĩ đại. Họ chính là những ngƣời mẹ của núi
rừng, là ngƣời gìn giữ những nét đẹp văn hóa truyền thống của quê hƣơng
truyền lại cho muôn đời con cháu.
Y Phƣơng là nhà thơ, nhà văn Tày xuất sắc trong đời sống văn chƣơng
của các DTTS Việt Nam thời kỳ hiện đại nói chung của văn văn học Cao Bằng
nói riêng. Sự thành công của thơ, văn Y Phƣơng cũng nhƣ những cái làm nên
sự hấp dẫn, mới lạ mà hết sức quen thuộc, gần gũi của thơ, văn ông đối với bạn
79
đọc cả nƣớc cũng nhƣ bạn đọc ngƣời DTTS chính là: tính truyền thống đậm đà
và tính hiện đại, mới mẻ đầy sự sáng tạo xen lẫn nhau trong các sáng tác của
cây bút này (cả trong tƣ duy và trong nghệ thuật thể hiện). Với sự thành công
của Y Phƣơng - một lần nữa chúng ta cần khẳng định một điều là: ông đã giúp
các nhà văn, nhà thơ DTTS hiện nay có một hƣớng đi đúng đắn trong sáng tác
văn chƣơng thời kỳ hiện đại đó là: luôn hƣớng đến sự đổi mới, đến sự hiện đại
trong sáng tác nhƣng không rời xa, cắt đứt với truyền thống, không quên đi
nguồn cội.
3.3. Cao Duy Sơn - ngƣời đƣa văn xuôi DTTS lên một tầm cao mới
Nhà văn Cao Duy Sơn sinh ra ở quê hƣơng Trùng Khánh, Cao Bằng, là
một ngƣời con dân tộc Tày, tên thật là Nguyễn Cao Sơn, sinh năm 1956. Tác
giả từng tâm sự: “Tôi sinh ra và lớn lên ở thị trấn Cô Sầu (huyện Trùng Khánh,
Cao Bằng). Đó là một thị trấn cổ nổi tiếng. Nghiệp văn chương của tôi cứ bám
lấy thị trấn Cô Sầu mà khám phá, viết mãi vẫn chưa thấy đủ, chưa thấy cái
tầng sâu văn hóa tiềm ẩn của vùng đất này. Tôi viết như một sự trả nợ quê
hương, trả nợ những người đã sinh ra mìn, bạn bè, xóm giềng... Cả đời tôi, sẽ
vẫn là những cuộc khám phá về Cô Sầu với những con người miền núi chân
chất” [86]. Trùng Khánh - nhất là ở cái thị trấn Cô Sầu vùng biên viễn này là
một mảnh đất rất “phát” về văn chƣơng - nơi đã sinh ra 3 nhà văn, nhà thơ lớn
của Cao Bằng (cũng nhƣ của các DTTS trong cả nƣớc). Đó là nhà thơ Y
Phƣơng, nhà văn Cao Duy Sơn và nhà thơ Bế Thành Long. Nhà văn Cao Duy
Sơn hiện là ngƣời “đứng đầu” trong các nhà văn DTTS Việt Nam - ông là Phó
Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật các DTTS Việt Nam; Tổng biên tập Tạp chí
Văn hóa các dân tộc và là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
Nhà văn Cao Duy Sơn xuất hiện và nổi tiếng trong đời sống văn học các
DTTS Việt Nam ngay từ những năm 90 của thế kỷ XX, với một loạt các tác
phẩm nhƣ: Các tiểu thuyết “Ngƣời lang thang”(Giải A của Hội đồng Văn học
Dân tộc miền núi 1993), “Cực lạc” (xuất bản năm 1994), “Hoa mận
80
đỏ”(1999), “Đàn trời” (Giải A-Hội VHNT các DTTS Việt Nam 2007 - tác
phẩm đã đƣợc chuyển thể thành bộ phim cùng tên và công chiếu năm 2012),
Chòm ba nhà (2009); và các tập truyện ngắn “Những chuyện ở Lũng Cô
Sầu” (Gải thƣởng Hội Nhà văn Việt Nam 1997), “Những đám mây hình
ngƣời” (Giải B của Hội VHNT các DTTS VN 2002), “Ngôi nhà xƣa bên
suối” (Giải thƣởng Hội Nhà văn Việt Nam 2008), “Hoa bay cuối trời” (2008).
Tập truyện ngắn Ngôi nhà xƣa bên suối của ông đã vƣợt ra ngoài các giải
thƣởng văn học trong nƣớc đạt Giải thƣởng Văn học ASEAN năm 2009, qua
đó cái tên Cao Duy Sơn càng đƣợc đóng dấu rõ rệt là một nhà văn DTTS xuất
sắc và văn chƣơng của ông đã đƣợc ví nhƣ “đặc sản” trong “bữa tiệc” văn
chƣơng của dân tộc Việt thời kỳ hiện đại.
Cao Duy Sơn là một nhà văn DTTS chuyên viết về đề tài miền núi. Hầu
nhƣ toàn bộ các tác phẩm của ông đều bắt nguồn từ tình cảm gắn bó yêu
thƣơng với quê hƣơng và con ngƣời miền núi nơi ông sinh ra. Cao Duy Sơn
luôn quan niệm: “Viết văn nhất định phải có sự ám ảnh. Không có sự ám ảnh
sẽ không thể nào tạo ra được một tác phẩm, vì mọi cái đều trở nên hời hợt” và
“Văn chương đó là một chuyến đi dài. Chuyến đi dài ấy,chỉ khi nào người viết
dừng lại, không còn sống nữa thì mới biết đâu là tác phẩm hay nhất của đời
người cầm bút ấy. Mình đã viết về vùng đất được sinh ra, lớn lên, gắn bó suốt
mấy chục năm đầu đời đầy ắp những kỷ niệm . Bây giờ viết ra, mình thấy vui,
vì qua đó, đã có nhiều người hơn biết, nhiều người tìm về cái lũng Cô Sầu heo
hút của mình. Mình đã giới thiệu được vùng quê nghèo khó ấy, ghi dông nó
trong văn học” [Báo Văn hóa Văn nghệ - ngày 22/11/2008]. Đó là lý do vì sao
các tác phẩm của ông gắn chặt với vùng đất quê hƣơng Cô Sầu - Trùng Khánh,
với đề tài dân tộc và miền núi, với những con ngƣời vùng cao trong thời kỳ đổi
mới trƣớc bao đổi thay của thời cuộc.
Với các tập truyện ngắn và tiểu thuyết viết về miền núi, Cao Duy Sơn đã
khẳng định đƣợc bƣớc phát triển vƣợt bậc của văn xuôi miền núi những năm
81
cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XIX. Ngòi bút của Cao Duy Sơn đã phác thảo nên
những bức tranh sinh động về cuộc sống ở vùng cao miền núi thời kỳ đổi mới
trong không khí hội nhập và hiện đại hóa. Cuộc sống của những con ngƣời
DTTS miền núi với những phong tục tập quán đặc trƣng hiện lên chân thực và
sinh động trong các tác phẩm của ông. Tác giả còn chú ý hƣớng ngòi bút của
mình đến số phận và bi kịch của mỗi con ngƣời cá nhân trong cuộc sống thời
hiện đại nhất là trong cơ chế thị trƣờng, trong quá trình đô thị hóa với bao rối
ren và biến động, khiến cho bức tranh về miền núi hoàn thiện hơn, đa chiều
hơn. Với Đàn trời, nhà văn đã khắc họa nên một bức tranh sắc nét về cuộc
sống đầy thử thách của những con ngƣời miền núi trong thời kì đổi mới: Ở đó
có những nhà báo trẻ đầy tâm huyết, trách nhiệm với nghề nhƣ Vƣơng, Thức,
nhƣng cũng có những kẻ nắm giữ quyền lực năng lực lại yếu kém, thiếu bản
lĩnh chính trị, luồn cúi, nịnh bợ cấp trên và tự đánh mất nhân cách của mình
nhƣ Tổng Biên tập Tuệ, và những vị “quan tham”, “doanh nghiệp đen” luôn
bày mƣu tính kế để thao túng quyền lực, bòn rút tiền của của Nhà nƣớc và nhân
dân, bƣng bít tội lỗi và sẵn sàng trù dập bất kể ai dám đứng lên đấu tranh với
những biểu hiện tiêu cực - nhƣ vị Chủ tịch tỉnh Đinh Xuân Ấn, Giám đốc
doanh nghiệp Lƣơng Nhân...
Mặc dù trƣớc Cao Duy Sơn đã có khá nhiều nhà văn viết về con ngƣời
và cuộc sống vùng cao nhƣng phải đến Cao Duy Sơn, văn xuôi DTTS mới có
thể khắc họa sắc nét, đa chiều về con ngƣời, cuộc sống miền núi với tất cả
những mặt tốt đẹp cũng nhƣ những mặt khuất lấp đầy u ám của nó. Cao Duy
Sơn rất chú ý trong việc miêu tả nhân vật dƣới góc độ đời tƣ, có số phận riêng
và một sự tự ý thức sâu sắc về bản thân mình và giá trị của cuộc sống.
Nếu nhƣ hình tƣợng con ngƣời lao động miền núi đã từng hiện lên mạnh
mẽ, tráng kiện, tài ba trong các tác phẩm: “Ngƣời lái đò Sông Đà” của Nguyễn
Tuân, “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành, “Gặp lại anh hùng Núp” của
Nguyễn Khắc Trƣờng, “Miền rừng lửa đỏ” của Xuân Thiều… thì đến Cao
82
Duy Sơn - con ngƣời đó càng đƣợc hiện lên sống động, cụ thể, sinh động với
những suy tƣ, những hành động, lời nói... nhƣ vốn có của ngƣời miền núi vậy.
Đó là Nùng Chấn và Nùng Sinh trong tác phẩm “Ngƣời lang thang”; ông
Thim, bà Phón trong “Ngƣời săn gấu”; lão Sinh, bà Ếm trong “Chợ tình”; lão
Vƣợc trong “Cuộc báo thù cuối cùng”. Nếu nhƣ với các tác giả ở giai đoạn
trƣớc khắc họa nhân vật của mình thƣờng dựa theo tính cách và phẩm chất
nhân vật (nhân vật chính diện thƣờng đẹp đẽ, có nhân cách lớn lao; nhân vật
phản diện thì lại có ngoại hình xấu xí, có đời sống tâm hồn đen tối…) thì các
nhân vật trong tác phẩm của Cao Duy Sơn thƣờng hiện lên sống động, giàu cá
tính: “Lão Nọong có thân hình nhỏ thó như một đứa trẻ…. Còn lão Lâm, chủ
tịch thị trấn lại có cái đầu cắt cua, tròn như quả bưởi, cặp môi dầy xì, thân
hình béo căng… (Ngƣời lang thang); hay Sắn Pì (Đàn trời) đƣợc miêu tả:
“Đúng ra mụ phải là đàn ông mới hợp nhẽ! Mép có râu, tuy không đen nhưng
có màu hung hung như long bò…”; hoặc thằng Pồn (Cực lạc): “đôi mắt thì bên
to bên bé, đầu và mặt như bị ép dẹp vào nhau, vành ra như một cái đĩa, tuy đã
căng ra hết cỡ nhưng vẫn còn thua cái miệng kéo xếch ngang tai, hoác ra một
cách khó nhìn…”. Đến San trong “Chòm ba nhà” (2009), Cao Duy Sơn đã xây
dựng nên loại nhân vật tính cách trong văn xuôi DTTS. Trƣớc hết đó là nhân
vật có cá tính nổi bật, có quan hệ ứng xử và cách cảm nhận đánh giá riêng đối
với các sự vật, hiện tƣợng (nhƣ việc xƣng hô “tôi” với “ông Hồ” vừa kính mến
vừa dân chủ theo quan niệm của nhân vật và theo phong tục tập quán của dân
tộc Tày; sự cảm phục và mến mộ của San đối với ông Chu, một nhân vật vừa
mang tính lịch sử, vừa huyền thoại, vừa có tài, dũng mãnh trong cầm quân đánh
giặc Pháp, vừa mang đầy nỗi oan khiên...). Nhân vật San có quá trình phát triển
tính cách một cách độc đáo, cá biệt, cụ thể. Đồng thời đây cũng là loại nhân vật
vận động, phát triển theo cách quan niệm về đạo lí, văn hóa của dân tộc Tày, đó
là: sống chân thành và đôn hậu, ghét sự giả dối, ác độc, rất mạnh mẽ và dũng
cảm nên ghét sự yếu đuối và đớn hèn. San còn là con ngƣời có khí phách, dám
83
nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm và thể hiện ý nghĩ, hành động
đó một cách mạnh mẽ, rõ ràng, dứt khoát, tự tin. Do đó, San là nhân vật đã thể
hiện rõ tâm hồn, tính cách của ngƣời con trai Tày thời kỳ hiện đại.
Cũng nhƣ các cây bút ngƣời DTTS khác viết văn xuôi, Cao Duy Sơn
hƣớng sáng tác của mình đi tìm hiểu, khám phá, thể hiện vẻ đẹp nhân văn cùng
bản sắc văn hóa của con ngƣời các dân tộc miền núi. Nét tƣơng đồng của đa số
tác phẩm văn xuôi miền núi là cố gắng qua cách cảm, cách nghĩ, cách nói của
ngƣời miền núi đích thực để thể hiện tƣ tƣởng tình cảm, khắc họa tính cách
nhân vật từ những câu chuyện về cuộc sống, con ngƣời các dân tộc ít ngƣời.
Qua đó, các nhà văn thƣờng nêu lên những nhận xét đậm chất triết lý. Và cũng
nhƣ một số tác phẩm văn xuôi miền núi xuất hiện trong thời kỳ đổi mới, truyện
ngắn và tiểu thuyết của Cao Duy Sơn kịp thời tái hiện bộ mặt mới mẻ của xã
hội miền núi trong thời kỳ kinh tế thị trƣờng, dƣới tác động của chính sách, dự
án của Chính phủ cùng các dự án tƣ nhân, với những vui - buồn, đƣợc - mất
trong đời sống vật chất và tinh thần của con ngƣời vùng cao, những khởi sắc và
cả những bất ổn đang ngày càng rõ nét của nó. Thực trạng xã hội miền núi
trƣớc những tác động ghê gớm của nền “kinh tế mở” cửa khiến cho Cao Duy
Sơn - một nhà văn đƣợc coi là “ngƣời giữ lửa” của văn hóa truyền thống hết
sức lo âu, trăn trở. Thông thạo cuộc sống, con ngƣời vùng đất quê hƣơng, nhà
văn đã thể hiện hình tƣợng ngƣời lao động miền núi một cách rất cụ thể, sống
động, nhƣ nó vốn có, với bút pháp vừa dung dị, vừa hồn nhiên, nhƣng cũng vừa
sâu sắc và tinh tế. Nhân vật của Cao Duy Sơn thƣờng có cuộc sống nội tâm
phong phú, mạnh mẽ, dữ dội nhƣng lại lặng lẽ, kín đáo, nói ít, nghĩ nhiều và
hành động quyết liệt. Đó là ông Thim trong Ngƣời săn gấu, là Thức trong Đàn
trời, là Pồn trong Cực lạc, là lão Vƣợc trong Cuộc báo thù cuối cùng… họ là
những con ngƣời can đảm, mạnh mẽ kiên cƣờng dù gặp nhiều khó khăn trắc trở
trong cuộc sống dù gặp hoàn cảnh bất lợi thế nào họ vẫn luôn ngẩng cao đầu
không chấp nhận đầu hàng, bỏ cuộc. Ví dụ nhƣ: tâm trạng của của lão Vƣợc khi
84
hạ đƣợc con thú dữ báo thù cho vợ mình: “Xong rồi! Món nợ suốt bao năm đau
đáu nay đã được thông toán. Tâm trạng lúc này mừng hay buồn lão không sao
tách bạch được rõ ràng. Tự nhiên lão muốn khóc. Vẫn tư thế nửa nằm, nửa
ngồi không thay đổi, lão muốn nỗi lòng được tận hưởng trọn vẹn những giây
phút huy hoàng của cuộc đời. Nhưng có gì đó không theo ý lão. Buồn có, mừng
có, trống rỗng hoang mang cũng có. Cả đắng cay, tủi nhục và nhớ thương cũng
ào đến như những cơn sóng lũ” (Cuộc báo thù cuối cùng). Hay khi diễn tả nỗi
đau của Pồn (Cực Lạc) khi tự dằn vặt bản thân mình rằng nó chính là nguyên
nhân gây ra bao đau khổ bất hạnh của những ngƣời thân yêu nhất: “Vì nó mà
mẹ nó phải chết, vì nó mà cậu nó bị điên, tại sao tạo hóa lại nặn ra các thằng
người có tên là Pồn, mà lại không cố công nặn ra một thằng nào đó khác nó?
Để mẹ nó, cậu nó những người tốt nhất trên đời lâm vào cảnh bất hạnh?...” có
thể thấy Pồn là một nhân vật sống rất tình cảm, chân thành và hết mực yêu
thƣơng những ngƣời thân của mình. Ở cái thằng “xấu xí như con ma rừng” ấy
đã hiện lên vẻ đẹp cao thƣợng và dũng khí đáng nể phục khi kiên cƣờng bảo vệ
ngƣời cậu bất hạnh và bảo vệ hài cốt của ngƣời mẹ xấu số. Pồn đã cứng rắn và
kiên quyết khi đứng ra chất vấn những kẻ đã hại đời mẹ mình là lão Khóa và
Sáng; hay Sắn Pì (Đàn trời) - ngƣời đàn bà có thân thể thô kệch nhƣ đàn ông
với “cái dáng cao to đến mét bảy lăm…” lại là một con ngƣời có trái tim nhân
hậu, cao thƣợng, có một thái độ và cách sống “song phẳng”, Sắn Pì đã vì Thức
mà “chịu bao khổ hạnh, vì Thức mà suýt mất mạng. người đã đút vào miệng
anh những thứ có thể ăn được để cứu sống anh...”,nhƣng lại “Gần hết cuộc đời
vẫn luôn tự dằn vặt và không tha thứ cho bản thân vì một phút sơ sểnh đã bị
người khác cướp mất thằng bé. Để mất nó là mất đi niềm tin của những người
tốt bụng. Bà tự sửa mình bằng cuộc sống khổ hạnh và quyết tìm lại nó trên đôi
chân tàn tật vượt rừng, vượt núi dằng dặc những tháng năm qua.”. Điển hình
hơn có thể kể đến nhân vật San (Chòm ba nhà) - một “một gã dân tộc Tày”, có
sự “hăng hái xuẩn ngốc của kẻ ngố rừng”. Và quả đúng nhƣ vậy, San cũng
85
mang nét điển hình của ngƣời con trai Tày về cả cách nói, cách cảm, cách nghĩ
và cả hành động . Đối với San, dù trong tình huống nào, dù phải đổi cả tính
mạng vẫn phải bảo vệ, giữ gìn đƣợc đạo lý trong sáng của ngƣời Tày, vẫn phải
tìm bằng đƣợc chị Lƣơng, ngƣời chị giàu lòng vị tha đã giúp San trƣởng thành
trong cuộc sống. Đó là tình yêu thƣơng đối với bạn bè, ngƣời thân, với đồng
đội, lòng căm ghét không khoan nhƣợng đối với kẻ ác độc, gian giảo, xảo trá,
đớn hèn, vô liêm sỉ. Cuộc đấu khẩu và đấu lực giữa San và tên chuẩn uý đầu
hói, kẻ núp dƣới danh nghĩa sĩ quan thể hiện rõ tâm hồn, tính cách, khí phách
đó của nhân vật này.
Không chỉ có những nhân vật chính diện mới có đời sống nội tâm phong
phú, thậm chí ngay cả nhƣng kẻ xấu xa, tha hóa trong xã hội hiện nay ở tác
phẩm của Cao Duy Sơn cũng có những lúc quay cuồng trong sự giằng xé nội
tâm: trong Song sinh, qua bao ngày tháng Du vắng nhà, Sìu luôn đắm mình
trong suy nghĩ làm thế nào để chiếm đoạt đƣợc Lu - vợ của Du, có những lúc
hắn cũng tự biết rằng đó là chị dâu của mình, là vợ của anh trai mình nhƣng mà
sự khao khát thèm muốn Lu trong hắn khiến hắn không thể ngừng ý nghĩ chiếm
đoạt Lu. Và sau cùng hắn đã dùng cái ngoại hình giống hệt anh trai cùng với bộ
quân phục của Du để lừa gạt và chiếm đoạt ngƣời chị dâu của mình nhƣng rồi
hắn đã phải trả giá đắt cho hành động trái luận thƣờng đạo lý của mình - hắn đã
phải sống quãng đời còn lại trong sự tàn phế cùng những nỗi day dứt, đau đớn.
Trong Đàn trời, lão Chủ tịch Ấn lúc nào cũng mang trong đầu những suy nghĩ
toan tính để làm sao có lợi cho bản thân mình nhất và không từ mọi thủ đoạn để
giành đƣợc những thứ và lão muốn. Cũng chính bởi hắn luôn muốn chiếm đoạt
những gì của ngƣời khác nên trong tâm tƣởng hắn luôn lo lắng bị phản bội, bị
ngƣời khác trả thù, ví dụ nhƣ: Khi hắn nghĩ về Tuệ - một “Thằng cán bộ loại
ba” chuyên đi nịnh bợ những ngƣời nhƣ hắn: “hạng người này rất dai và phản
trắc. Ta đã nẫng mất của gã người đàn bà mà gã cũng rất mực yêu. Liệu gã
đang nghĩ gì về ta?”… Trong Hấp hối, lão Kình đã gây ra bao nhiêu tội lỗi,
86
làm khổ biết bao nhiêu con ngƣời và lão vẫn thản nhiên sống, thản nhiên sung
sƣớng trƣớc những số phận bất hạnh đó, thế nhƣng khi đêm xuống lão thƣờng
xuyên phải đối mặt với những giấc mơ khủng khiếp, với tòa án lƣơng tâm luôn
giày vò lão, với những suy nghĩ rối bời: “khi còn sống có những lúc nào đó ta
đã phạm phải những sai lầm, gây điều bất hạnh cho người khác thì đến khi hấp
hối cũng nên làm một điều tốt đẹp cho đời. Làm được như vậy chẳng lẽ không
tốt hơn sao?”…
“Các nhà văn người DTTS là đại diện tiêu biểu cho tâm hồn các tộc
người miền núi” [51, tr. 77], Cao Duy Sơn cũng nhƣ vậy sống gần gũi, chan
hòa với tự nhiên, cái hồn của đất trời cỏ cây nhƣ thấm sâu vào con ngƣời ông.
Bên cạnh đó, do gắn bó sâu sắc, máu thịt với những con ngƣời miền núi nên
ông đã rất am hiểu, rất thân thuộc từ hình dung, diện mạo đến tâm hồn, cốt
cách, lối sống của “ngƣời đồng mình”… Ông ca ngợi lối sống, lối ứng xử tình
nghĩa, giầu chất nhân văn, hƣớng con ngƣời ta tới vẻ đẹp của lòng vị tha, của
tình yêu trong sáng đầy sự hy sinh, của lòng thủy chung son sắt. Đó là Thầy
Hạc (Ngôi nhà xƣa bên suối), là thằng Hoán (Thằng Hoán)... - những nhân
vật đã vất vả nuôi con hộ cho những kẻ đã từng phản bội mình, mà không hề để
hận thù xen vào; và rồi sau đó lại mở lòng khoan dung trả lại con cho họ khi họ
đã sa chân, lâm vào bƣớc đƣờng cùng phải tìm đến những ngƣời con khi xƣa họ
đã từng nhẫn tâm vứt bỏ để nƣơng tựa. Đó còn là sự giúp đỡ, bao bọc những
con ngƣời cùng cảnh ngộ với nhau trong cuộc sống đầy khó khăn và đầy bất
công nhƣ Thức đã gặp đƣợc nhƣ Sắn Pì, lão Mạc (Đàn trời) “họ không phải
gốc rễ sinh ra nó nhưng đã nâng đỡ nó đi qua những ngày tháng khó nhọc… vì
nó mà gánh chịu bao nhiêu nỗi khổ”, Lão Mạc thì “hiện thân của sự hiền
thành chất phác, trung thực và nhân hậu, kiệm lời nhưng rắn rỏi, không bao
giờ thất hứa với ai khi nhận lời, không bao giờ làm phiền ai…”. Có lẽ bởi
những “tấm lòng vàng” ấy mà Thức trở thành một chàng trai mạnh mẽ, kiên
cƣờng không chịu nhún nhƣờng trƣớc cái xấu xa, hèn hạ, dám dũng cảm đứng
87
ra bảo vệ lẽ phải. Hay trong Chòm ba nhà những con ngƣời đã giúp đỡ San
cũng đã truyền cho anh những phẩm tính tốt đẹp nhất của những con ngƣời nơi
đây, đó là lòng yêu thƣơng hết mình của chị Lƣơng đối với ngƣời thân cũng
nhƣ sự căm ghét và phản kháng mãnh liệt của chị đối với kẻ ác, ngƣời xấu; đó
là lòng dũng cảm và niềm tin, lạc quan của Lùng trƣớc mọi hiểm nguy “khắc đi
khắc đến”… Một điển hình nữa về tình yêu cao thƣợng, về đức hy sinh phải kể
đến Dình (Hoa bay cuối trời) - chuyện tình yêu của Khơ và Dình có lẽ sẽ là rất
đẹp, rất có hậu giống nhƣ một câu truyện cổ tích, nhƣng sau một trận sốt li bì
suốt năm ngày, đôi chân Dình không thể cử động đƣợc nữa. Vì không muốn
ngƣời yêu phải khổ, Dình đã nhờ anh trai nói dối để Khơ tin rằng cô là kẻ bội
tình để quên Dình đi, gây dựng một hạnh phúc mới. Nhƣng tình yêu ấy vẫn
luôn âm ỉ cháy trong lòng Khơ và Dình. Rồi để mấy chục năm sau khi biết
Dình bị bệnh và sắp ra đi mãi mãi, Khơ đã đánh chiếc xe ngựa ngày xƣa (đóng
để đón dâu mà chƣa thực hiện đƣợc) đi đón Dình - cho dù đây là cỗ xe ngựa
đón Dình “về nơi cuối trời” đầy niềm vui và đẫm nƣớc mắt. Hay bà Lơ (Những
đám mây hình ngƣời) dù phải đem thân bán cho lũ đàn ông xấu xa để tồn tại
nhƣng vẫn luôn một lòng hƣớng về ông Ký và cuối cũng bà cũng đợi đƣợc ông
trở về. Nhƣng hạnh phúc ấy lại quá ngắn ngủi bởi mặc cảm với quá khứ nên bà
lại lặng lẽ ra đi bởi với bà: “Người ta có thể quan hệ với nhiều người, nhưng
tình yêu thì chỉ dành cho một người thôi !”… Tình yêu son sắt thủy chung, đầy
cảm động của những cặp tình nhân già trên núi cao đƣợc Cao Duy Sơn nâng
niu trân trọng và ngợi ca qua nhiều tác phẩm khác nhƣ: Chợ tình (với mối tình
của lão Sinh và bà Ếm), Súc Hỷ (với Súc Hỷ và bà Dinh), hay trong Ngƣời săn
gấu - ngƣời đọc cảm thƣơng cho mối tình của Thim và Phón - ngƣời con gái
“con nhà quyền thế nhất vùng” với chàng trai mồ côi nghèo khổ có tài săn gấu.
Tình yêu ấy đã vấp phải rào cản của tƣ tƣởng phân chia đẳng cấp trong xã hội
phong kiến miền núi, nhƣng nó mãi bất diệt trong trái tim của hai ngƣời...
88
Bằng những câu chuyện giản dị và cảm động, nhà văn Cao Duy Sơn đã
đƣa ngƣời đọc tiếp cận với những con ngƣời DTTS vốn rất thật thà, mộc mạc,
cả tin nhƣng vẫn rất đỗi lãng mạn, cao thƣợng và mạnh mẽ. Dù gặp bao thăng
trầm trong cuộc sống, nhân vật của Cao Duy Sơn vẫn không nguôi khát vọng
về tình yêu, vẫn trọn vẹn niềm tin sắt son vào ngày mai tốt đẹp. Súc Hỷ từng có
một thời trai trẻ lỡ đƣờng duyên phận, phải chôn chặt mối tình trong lòng để
mấy chục
năm sau nối lại, ông cùng Mú Dinh bâng khuâng trong hạnh phúc muộn mằn
(Súc Hỷ). Sinh và Ếm yêu nhau nhiều lắm, “tưởng sẽ chết nếu không lấy được
nhau”, nhƣng Ếm bị gia đình ép gả cho ngƣời khác. Theo thời gian, nỗi buồn
dần nguôi ngoai “nhưng thương nhớ vẫn hằn sâu trong ngực”. Khi về già, lão
Sinh và mú Ếm mới có thể gặp nhau mỗi năm 1 lần vào phiên chợ tình, và “chỉ
cần được ngồi bên nhau chẳng nói gì cũng thấy ấm lòng”(Chợ tình). Hay Dình
và Khơ dù cả đời không đƣợc ở bên nhau, nhƣng những phút giây hạnh phúc
ngắn ngủi rực rỡ nhƣ nắng chiều muộn mằn, chợt lóe lên lần cuối cũng khiến
ngƣời đọc phải ghi nhớ mãi, “Niềm vui trong ngày cưới không phù dâu phù rể
sóng bước hai bên chiếc xe ngựa” của nhân vật Dình (Hoa bay cuối trời) ở
cuối truyện khiến những trái tim đã yêu hay chƣa từng biết đến sự ngọt ngào và
cay đắng của tình yêu cũng cảm thấy xúc động nghẹn ngào. Khơ và Dình đã
từng hò hẹn: “nếu không lấy được nhau cả hai sẽ cùng chết”, thế nhƣng để
ngƣời mình yêu đƣợc hạnh phúc và không phải vất vả, đau khổ vì mình, Dình
đã mạnh mẽ và kiên cƣờng tự mình nhận lấy sự cô độc cả cuộc đời.
Trong các sáng tác của Cao Duy Sơn, ta còn thấy những con ngƣời mang
trong mình vẻ đẹp tâm hồn và tài năng nghệ sĩ, cả đời sống gần gũi với núi
rừng, với thiên nhiên vùng nên tâm hồn họ đã đƣợc hấp thụ những tinh hoa của
núi rừng hùng vĩ. Đó là An - ngƣời con gái của “Cha Trời Mẹ Đất” trong “Cực
lạc” - là một ngƣời con gái của núi rừng, đẹp từ ngoại hình đến tâm hồn bên
trong với “bước đi uyển chuyền như ngọn gió rừng mùa thu”, và “ Giọng nói
89
thì được cấy từ một loài chim sơn ca có tiếng hót làm nao lòng nhân thế” và
còn có “Một giọng hát hệt như tiên hát”. Đặc biệt nàng còn là một ngƣời nghệ
sĩ có tài đánh đàn Tính và hát then làm rung động cả núi rừng. Trong Đàn trời
ta cũng bắt gặp những con ngƣời có tâm hồn nghệ sĩ nhƣ vậy. Đó là ngƣời nghệ
sĩ dân gian thổi sáo - Xẩm Ky đã mang đến cho những con ngƣời DTTS nơi
đây “âm thanh tiếng sao trầm tựa tiếng tiêu, không luyến láy điệu nghệ như
những nghệ sĩ tài ba nhưng nó vuốt thẳng, chậm rãi, giản dị chứa một nỗi buồn
sang trọng”, hƣớng con ngƣời ta đến những niềm hy vọng vào một ngày mai
tốt đẹp hơn; và hình ảnh “một lão già mặc áo chàm khuy ngang đã bạc màu,
ngực đeo một túi vải đựng đầy những ống sáo trúc đủ kích cỡ, mắt đeo kính
đen, miệng say sưa thổi cây sao làm bằng ống mạy tàn” đã trở thành một hình
anh quen thuộc hết sức giản dị nhƣng đẹp tinh khiết trong cái xã hội xô bồ đầy
biến động của “Đàn trời”; ở đó ta còn thấy anh chàng Thức - một con ngƣời
mạnh mẽ, quyết liệt trƣớc những cái xấu xa, tha hóa của xã hội, một kẻ “Trời
đánh không chết” nhƣng lại có những lúc hết sức lãng mạn và ngây ngô khi
đứng trƣớc ngƣời con gái mình yêu, Thức đã tỏ tình với Mỷ bằng chính những
lời hát “Páo dung” của ngƣời Dao: “Nếu không có những con đường, anh sẽ tìm
đến em bằng con tim trong ngực, em ở đâu tim anh ở đó, chỉ e anh không xứng
đáng với em”. Trong Ngƣời lang thang Cao Duy Sơn cũng đƣa ta đến với
những khung cảnh lãng mạn bay bổng và hết sức hồn nhiên chân thành của
những đôi lứa đang yêu. Đó là: khi Ngấn đến gặp Diên, để bày tỏ lòng mình
chàng đã cất tiếng hát - “ giọng hát trầm buồn như con suối thu trườn qua rừng
vắng, lúc da diết khắc khoải như tiếng chim cô đơn gọi bạn”. Nhƣng chỉ vì quá
cả tin, và mải mê với tình yêu mà họ đã bị sập bẫy và hãm hãi bởi tên Phắn độc
ác, gian xảo, khiến cho hạnh phúc của họ dở dang, khiến tình yêu nơi họ không
đƣợc trọn vẹn…
Cuộc đời đầy trái ngang, trắc trở của các nhân vật trong truyện ngắn Cao
Duy Sơn có lúc khiến ngƣời đọc có cảm giác đó là những mảnh vụn đời tƣ
90
đầy dở dang trong xã hội hôm nay. Song con ngƣời không bao giờ cam chịu bó
tay. Vì tha thiết với hạnh phúc có lúc đã tuột khỏi tầm tay nên ngƣời chồng
trong “Mùa én gọi bầy” tuy là một ngƣời cố chấp, cứng rắn và quyết liệt
nhƣng vẫn đủ sự cao thƣợng, bao dung để tha thứ và chấp nhận ngƣời vợ đã
một lần lầm lỡ... Với cái nhìn tinh tế và sâu sắc, nhà văn Cao Duy Sơn đã nhận
ra phía sau những tâm trạng còn nhiều day dứt, xót xa kia là niềm tha thiết với
tình yêu, hạnh phúc, niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống. Cho dù kết thúc truyện
có những lúc buồn hoặc dở dang nhƣng ngƣời đọc không cảm thấy bi quan,
mệt mỏi. Bởi sau tất cả những mất mát, đắng cay, con ngƣời vẫn không thôi
nghĩ tới những điều tốt đẹp, đặt hy vọng và niềm tin cháy bỏng vào một tƣơng
lai phía trƣớc.
Là một trong những tác giả DTTS chuyên viết về đề tài miền núi và đã
có những thành tự đáng đƣợc ghi nhận, Cao Duy Sơn đã khẳng định đƣợc
phong cách riêng rất độc đáo của mình trong sáng tác văn chƣơng. Ông đƣợc
đánh giá là một nhà văn DTTS xuất sắc nhất của văn học DTTS Việt Nam hiện
nay. Điều đáng quý ở tác giả này là: ông vẫn luôn không ngừng cố gắng vƣợt
lên chính mình. Nhà văn vẫn viết về đề tài miền núi, nhƣng luôn có ý thức mở
rộng và nâng tầm tƣ duy của mình về cuộc sống, con ngƣời miền núi cùng
những đổi mới về nghệ thuật thể hiện. Cao Duy Sơn đã có những đóng góp
quan trọng sự phát triển của văn xuôi DTTS nói riêng và đồng thời cũng đã góp
phần làm phong phú và giàu có hơn nền văn cho nền văn xuôi Việt Nam hiện
đại nói chung. Ông thật xứng đáng là nhà văn, là ngƣời con dân tộc Tày ƣu tú
của đất văn chƣơng Cao Bằng
3.4. Hoàng Triều Ân - Nhà văn hóa, nhà “Tày học” của quê hƣơng Cao
Bằng
Nhà nghiên cứu phê bình Triều Ân - tên đầy đủ là Hoàng Triều Ân, ông
sinh ngày 01/12/1931 tại xã Hồng Việt, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng. Ông là
91
nhà thơ, nhà văn, nhà nghiên cứu sƣu tầm văn học thiểu số nổi tiếng của Cao
Bằng và của các tỉnh miền núi phía Bắc.
Ông từng làm giáo viên dạy văn ở các trƣờng cấp II, cấp III và giảng dạy
cho trƣờng Sƣ phạm ở Cao Bằng; là cán bộ Quản lý Giáo dục của Sở Giáo dục
tỉnh Cao Bằng. Ông tham gia hoạt động văn chƣơng khá sớm: Từ những năm
60 của thế kỷ XX ông đã gia nhập vào Hội Văn học Nghệ thuật khu Tự trị Việt
Bắc, và đƣợc bầu vào Ban chấp hành Hội Văn học nghệ thuật khóa II và III
(1961); Ông đã đi học một khóa bồi dƣỡng viết văn ở Quảng Bá (Hà Nội); và là
Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
Năm 1985 - 1993 ông đƣợc Ban thƣờng vụ Tỉnh ủy điều lên sáng lập Hội
Văn học Nghệ thuật tỉnh Cao Bằng, đảm nhiệm Phó Chủ tịch thƣờng trực
chuyên trách; ông là Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Cao Bằng. Khoảng thời
gian này ông tham gia Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam trong nhiệm kỳ 1; là
ủy viên Ban chấp hành Trung ƣơng Hội Văn nghệ dân gian hai khóa II và III
(từ 1989 đến 2000); là hội viên sáng lập Hội Văn hóa các dân tộc Việt Nam
năm 1992 (tiền thân của Hội Văn học Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt
Nam. Tháng 9/1993 ông nghỉ hƣu, về sống tại quê nhà là huyện Hòa An, tỉnh
Cao Bằng và vẫn tiếp tực nghiên cứu, sƣu tầm và viết sách.
Có thể nói, Triều Ân là một cây bút có sức sáng tạo dồi dào, có thể sáng
tác trên nhiều thể loại và ở thể loại nào ông cũng có đƣợc những thành công
đáng đƣợc ghi nhận. Với tƣ chất thông minh, thêm vào đó là sự ham học hỏi,
có kiến thức sâu sắc trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, tác giả Triều Ân đã
cống hiến cho nền văn học các DTTS nói chung và cho văn học Cao Bằng nói
riêng nhiều tác phẩm có giá trị. Hiện nay, tuy đã bƣớc sang tuổi 85 nhƣng tác
giả Hoàng Triều Ân vẫn không ngừng cống hiến cho sự nghiệp văn học tỉnh
nhà cũng nhƣ nền văn học của cả nƣớc.
Cho đến nay, Triều Ân là tác giả của 54 đầu sách trong đó có tới 28 công
trình nghiên cứu, sƣu tầm văn hóa, văn học dân gian( và nhiều tác phẩm, công
92
trình nghiên cứu sƣu tầm khác đƣợc in chung trong các sách, Tạp chí và nhất
trong cuốn: Tổng tập Truyện thơ Nôm dân tộc thiểu số Việt Nam). Đó là một
thành quả lao động trí tuệ hiếm có không nhiều ngƣời có thể làm làm đƣợc
trong cuộc đời theo đuổi văn nghiệp của mình.
Tác giả Triều Ân đƣợc bạn đọc biết đến từ những tác phẩm thơ ca đƣợc
sáng tác từ những năm 60, 70, với 4 tập thơ: Tung còn và suối đàn (1963),
Nắng ngàn (1969), Bốn mùa hoa (1974) và Kin mác ( tập thơ bằng tiếng Tày
- 1975); từ những năm 90 trở về đây ông còn sáng tác và công bố thêm 5 tập
thơ nữa là: Chốn xa xăm (1990), Hoa vông (1994), Hoa và nắng (2000), Một
lần thăm Trung Quốc (2005) và Triều Ân Thơ (2007). Ông đã khẳng định
đƣợc vị trí của mình trong đời sống thơ ca các DTTS Việt Nam thời kỳ hiện đại
ở giai đoạn đầu tiên. Ngoài sáng tác thơ ông còn viết văn xuôi (cả truyện ngắn
và tiểu thuyết) khá thành công với các tập truyện ngắn, tiểu thuyết nhƣ: Tiếng
khèn A Pá (tập Truyện ngắn, 1980); Nhƣ cánh chim trời (Truyện ngắn,
1982); Đƣờng qua đèo mây (tập Truyện ngắn, 1988); Nắng vàng bản Dao
(Tiểu thuyết, 1992); Nơi ấy biên thùy (Tiểu thuyết, 1994); Dặm ngàn dong
duổi (Tiểu thuyết, 2000) Xứ sƣơng mù (tập Truyện ngắn, 2000); Trên vùng
mây trắng , 2011); Chuyện đời thƣờng , 2012);
Trên đỉnh núi Phƣợng Hoàng (Tiểu thuyết, 2013); Cuộc chiến vì ngày mai
(Tiểu thuyết, 2013); và một tập Hồi ký
(2014)…
Tuy nhiên, mảng nghiên cứu, sƣu tầm văn hóa văn học dân gian mới là
lĩnh vực ông gặt hái nhiều thành công và ghi dấu ấn sâu đậm nhất đối với bạn
đọc cả nƣớc nói chung và đối với đồng bào Cao Bằng nói riêng. Trong suốt
cuộc hành trình đến với văn chƣơng, ông đã viết 28 công trình nghiên cứu, sƣu
tầm lớn nhỏ về văn hóa, văn học các DTTS, có thể kể đến tên các công trình
nghiên cứu nhƣ: Thơ ca cách mạng Việt Bắc 1936-1945 (1977); Hoàng Đức
Hậu một đời thơ; Truyện thơ Nôm Tày (Sƣu tầm, nghiên cứu, 1994); Tục
93
cƣới xin của ngƣời Tày (Nghiên cứu, 1995); Từ điển thành ngữ tục ngữ dân
tộc Tày (1996); Trƣờng ca Nông Văn Vân khởi nghĩa (Sƣu tầm - dịch,
2005); Văn học Hán Nôm dân tộc Tày (Nghiên cứu, 2008); Văn học yêu
nƣớc và cách mạng ở Cao Bằng (Sƣu tầm nghiên cứu, 2009); Cây đàn then
ngƣời Tày và bài hát dân gian (Nghiên cứu, 2013);
(2014)…
Chính những đóng góp to lớn của ông đối với nền văn học nghệ thuật
nƣớc nhà đã đem lại cho ông rất nhiều phần thƣởng và danh hiệu cao quý nhƣ:
Huân chƣơng Độc lập hạng Ba, Huân chƣơng kháng chiến chống Pháp hạng
Hai, Huy chƣơng Vì sự nghiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, Huy chƣơng Vì
sự nghiệp Văn học Nghệ thuật các DTTS Việt Nam…; đƣợc tăng Bằng khen
của: Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật các DTTS Việt
Nam, Ủy ban Nhân dân tỉnh Cao Bằng… Thật vinh dự và xứng đáng khi ông
đƣợc nhận Giải thƣởng Nhà nƣớc về Văn học Nghệ thuật (năm 2012).
Nhƣ đã nói ở trên, lĩnh vực nghiên cứu, phê bình và sƣu tầm văn hóa,
văn học dân gian là lĩnh vực mà tác giả Triều Ân có nhiều đóng góp nhất cho
văn học các DTTS Việt Nam cũng nhƣ văn học Cao Bằng. Chỉ riêng lĩnh vực
này thôi ông đã xứng đáng là “cây đại thụ có sức sống cùng thời gian” của địa
phƣơng Cao Bằng. Ông đã tự khẳng định vị trí, vai trò của một nhà văn hóa lớn
trên mảnh đất Cao Bằng nói riêng và của đồng bào các DTTS nói chung. Ông
là Hội viên tiêu biểu của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, và đƣợc tín nhiệm
bầu vào Ban chấp hành (2 khoá), nhiều công trình nghiên cứu của ông đã góp
phần quan trọng vào việc bảo tồn, phát huy những giá trị văn hoá truyền thống
của dân tộc Tày - Nùng ở nƣớc ta hiện nay, khiến cho nhiều nhà nghiên cứu có
tên tuổi phải kính nể. Ví dụ nhƣ các công trình: Ca dao Tày- Nùng; Tục cƣới
xin của ngƣời Tày; Chữ Nôm Tày và truyện thơ; Cây đàn then ngƣời Tày
và bài hát dân gian; ... Và đỉnh cao là cụm tác phẩm: Ca dao Tày - Nùng; Lễ
hội Hằng Nga; Ba áng thơ Nôm Tày và thể loại; Chữ Nôm Tày và truyện
94
thơ; Then Tày những khúc hát - bởi những công trình này đã đƣa ông đến
với Giải thƣởng Nhà nƣớc về Văn học Nghệ thuật. Ngoài ra, tác giả Triều Ân
còn là ngƣời có những đóng góp có giá trị cao trong việc bảo tồn tinh hoa ngôn
ngữ của dân tộc mình, mà tiêu biểu là các cuốn sách:Từ điển thành ngữ, tục
ngữ dân tộc Tày (1996); Từ điển văn hoá cổ truyền dân tộc Tày (1996); Từ
điển chữ Nôm Tày (2013); Thành ngữ, tục ngữ, ca dao dân tộc Tày (2014),
trong đó cuốn sách Từ điển chữ Nôm Tày đã đoạt loại xuất sắc - Giải thƣởng
Pác Bó lần thứ nhất và sẽ là nguồn tài liệu vô cùng quí giá cho các thế hệ
những ngƣời con dân tộc Tày của Cao Bằng của cả nƣớc mai sau có thể sử
dụng.
Những tác phẩm nghiên cứu, sƣu tầm của Triều Ân đã mang đến cho
ngƣời đọc những hiểu biết cụ thể, sâu sắc về văn hóa ngƣời Tày - Nùng ở Cao
Bằng cũng nhƣ ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Ông kể về quá trình nghiên cứu,
sƣu tầm đầy công phu và tâm huyết của mình với mục đích thật lớn lao, đáng
trân trọng: “Từ xa xưa Cao Bằng là đất người Tày, Nùng cổ có nghìn năm lịch
sử. Từ trong lao động sản xuất, đời sống sinh hoạt, tình cảm con người..., các
thế hệ người Tày, Nùng sáng tác ca dao, dân ca rất phong phú. 50 năm trước
(1963), sau khi tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, tôi dạy môn Văn
Trường Trung cấp Sư phạm Cao Bằng. Khi dạy Văn học dân gian liên hệ đến
văn học dân gian địa phương, tôi dày công sưu tầm ca dao, dân ca người Tày,
Nùng đưa vào giảng dạy. Phân tích cái hay, cái đẹp, giá trị văn học dân gian
Tày, Nùng trong cuộc sống, lịch sử, văn học dân tộc… Sau đó được sinh viên
phát động thành phong trào sưu tầm các làn điệu ca dao, dân ca Tày, Nùng các
huyện: Trùng Khánh, Quảng Uyên, Hòa An, Hà Quảng, Thạch An..., đến lễ hội
dân gian, như: Lễ hội Cầu mùa, Nàng hai, Lồng tồng... Tôi háo hức lặn lội đi
tìm hiểu, gặp nghệ nhân ghi chép lại các làn điệu dân gian, câu chuyện cổ, sự
tích lễ hội… Càng tìm hiểu, nghiên cứu, tôi càng phát hiện ra nhiều giá trị
nghệ thuật, nhân sinh, lịch sử, triết học phong phú trong kho tàng văn học dân
95
gian người Tày, Nùng. Tình yêu văn học dân gian Tày, Nùng đã hối thúc tôi
thực hiện sứ mệnh, đặt ngòi bút tâm huyết văn chương viết tác phẩm sưu tầm,
nghiên cứu gìn giữ kho báu văn học quê hương” [Báo Cao Bằng, ngày
12/02/2013]. Xin đƣợc giới thiệu một số công trình nghiên cứu tiêu biểu của
ông:
Cuốn sách Ca dao Tày - Nùng (trên 300 trang - xuất bản năm 1994)
đƣợc ông dày công sƣu tầm gần 40 năm và viết với nhiều nội dung: ca ngợi
tình yêu quê hƣơng, tình cảm gia đình, xã hội, lao động sản xuất, sinh hoạt…
tái hiện lại tinh hoa văn hóa cổ xƣa của ngƣời Tày, Nùng. Có thể nói mỗi trang
sách ông sƣu tầm đã thể hiện đƣợc cả một niềm say mê tâm huyết của một
ngƣời con dân tộc Tày đối với nền văn hóa giầu có, phong phú của dân tộc
mình.
Trong cuốn sách Lễ hội Hằng nga (xuất bản năm 1997), ông đã mô tả
cụ thể, sinh động về lễ hội Hằng Nga ở xã Tiên Thành, huyện Phục Hòa, tỉnh
Cao Bằng. Từ xa xƣa, ngƣời Tày làm lúa nƣớc đã rất chú ý đến việc quan sát
thời tiết để cầu cho mùa màng bội thu, qua đó thể hiện quan niệm nhân sinh của
con ngƣời về thế giới tự nhiên. Khúc hát Lễ hội Hằng Nga phản ánh nguyện
vọng, ƣớc mơ và những tình cảm lãng mạn của ngƣời dân tộc Tày (dù hoàn
cảnh, điều kiện sản xuất miền núi khó khăn nhƣng họ vẫn ƣớc mơ táo bạo: Xin
trời (đại diện là Nàng Hai - Hằng Nga) giúp đỡ). Sau phần” lễ” là phần “hội”
vui tƣơi, náo nhiệt với những khúc hát Lƣợn slƣơng đầm ấm, thiết tha, khiến
cho trai gái các bản xa gần tìm đến gần nhau, nảy sinh tình cảm, tình yêu. Tác
giả Triều Ân không những miêu tả tỷ mỉ lễ hội cổ xƣa mà qua đó còn sƣu tầm
đƣợc nhiều câu, nhiều bài hát then, hát lƣợn của ngƣời Tày rất hay, lôi cuốn
lòng ngƣời.
Với cuốn sách “Chữ Nôm Tày và Truyện thơ” (xuất bản năm 2004),
tác giả Triều Ân dẫn dắt bạn đọc tiếp cận với chữ và văn học Nôm - Tày đặc
sắc. Sách “Chữ Nôm Tày và Truyện thơ” do ông chủ biên, chia làm 2 phần:
96
Phần nghiên cứu gồm: chữ Nôm Tày và Truyện thơ Nôm Tày; phần 2 - ông
dành để giới thiệu 5 truyện thơ Nôm Tày tiêu biểu: Nàng Kim, nàng Hán,
nàng Quyển, nàng Ngọc Long và nàng Ngọc Dong. Các truyện thơ Nôm Tày
do ông sƣu tầm và dịch có nội dung sâu sắc, đầy tính nhân văn, thể hiện
những khát vọng để con ngƣời vƣơn tới cái đẹp, cái thiện của con ngƣời nói
chung và của ngƣời phụ nữ dân tộc Tày nói riêng.
Cuốn sách “Ba áng thơ Nôm Tày và thể loại”, ông đã lựa chọn đem
đến cho bạn đọc 3 thể loại tiêu biểu, hấp dẫn nhất của văn hóa, văn học dân
gian Tày đó là: hát lƣợn, hát then và truyện thơ. Ông giới thiệu khá kỹ phần
hát: Hát lƣợn, ông đã chỉ ra: có làn điệu thì ấm áp trữ tình; có làn điệu thì véo
von uyển chuyển, bay bổng tha thiết; có làn điệu thì ngọt ngào, tình cảm, quyến
rũ mê hồn… (đặc sắc nhất là “Lƣợn hồng nhan tứ quý” của tác giả Nông
Quỳnh Văn); Hát then là những bài hát về thờ cúng, đƣợc diễn xƣớng bởi các
thầy Mo, Pựt… khi thực hiện nghi lễ chúc thọ, chúc phúc, cấp sắc, giải xung,
giải hạn…; Còn truyện thơ Nôm Tày đã thể hiện rất rõ những niềm khát khao
cũng nhƣ khả năng tự vƣợt qua mọi khó khăn, gian khổ để vƣơn tới cái đẹp, cái
thiện trong cuộc sống và ca ngợi tình ngƣời, tình yêu cao đẹp, son sắt thủy
chung của ngƣời Tày từ xa xƣa cho tới tận ngày nay.
Cuốn sách “Then Tày những khúc hát” cũng đã đƣợc Triều Ân dành
nhiều tâm huyết. Với ngƣời Tày - Then không chỉ là khúc hát đầu Xuân cầu an
lành, may mắn mà còn gắn liền với sinh hoạt tín ngƣỡng mang mầu sắc tâm
linh của ngƣời Tày. Hát Then luôn có sức sống mãnh liệt trong đời sống văn
hóa, trong chiều sâu tâm thức, tình cảm của cộng đồng dân tộc Tày, và nó còn
là niềm tự hào của ngƣời dân tộc Tày, Nùng. Hát Then có sức lan toả mạnh mẽ
trong cộng đồng các DTTS Việt Nam cho tới tận hôm nay...
Đó là những tác phẩm nổi bật đạt Giải thƣởng Nhà nƣớc của nhà nghiên
cứu, sƣu tầm văn hóa, văn học Triều Ân. Ông đã tái hiện một cách sinh động và
cụ thể những nét đẹp của bản sắc văn hóa dân tộc Tày - Nùng. Và cũng chính
97
ông đã góp phần lƣu giữ kho báu văn hóa, văn học dân gian của quê hƣơng Cao
Bằng cho hôm nay và cho mai sau...
Không chỉ viết về văn hóa, văn học dân gian, Triều Ân còn nghiên cứu
sƣu tầm và giới thiệu đến bạn đọc những tác phẩm của các tác giả thế hệ trƣớc
để bạn đọc hiểu thêm về văn hóa văn học ngƣời Tày - Nùng. Cuốn sách Hoàng
Đức Hậu - một đời thơ (1994) là công trình nghiên cứu sƣu tầm, tuyển chọn,
dịch thuật khá nghiêm túc và công phu của nhà thơ Hoàng Triều Ân. Sau này
cũng về nhà thơ Hoàng Đức Hậu, Triều Ân cho ra đời cuốn sách Hoàng Đức
Hậu, Thơ tiếng Tày (Sƣu tầm, giới thiệu, năm 2010) nhằm đƣa đến cho bạn
đọc những bài thơ Tày đặc sắc tƣởng chừng đã thất lạc của nhà thơ Hoàng Đức
Hậu - nhà thơ Tày xuất sắc đầu thế kỷ XX.
Là một cây bút không những tâm huyết với văn học DTTS, Triều Ân còn
hết sức quan tâm đến văn học cách mạng vùng Việt Bắc - thời kỳ ông đã tham
gia và chứng kiến. Công trình nghiên cứu Thơ ca cách mạng ở Việt Bắc của
ông xuất bản năm 1974 đã giúp cho nhiều ngƣời hiểu hơn về cuộc cách mạng
đầy gian khổ, hy sinh của đồng bào Việt Bắc những năm kháng chiến chống
Pháp xâm lƣợc.
Và đặc biệt, năm 2009 Triều Ân đã xuất bản công trình nghiên cứu riêng
về mảng căn học Cao Bằng đó là cuốn Văn học yêu nƣớc và cách mạng ở
Cao Bằng. Đây là công trình nghiên cứu mà Triều Ân coi nhƣ món quà dành
tặng quê hƣơng Cao Bằng của mình và để giới thiệu, để đem đến cho bạn đọc
một cái nhìn toàn cảnh về văn học cách mạng ở một vùng đất biên cƣơng anh
hùng và giầu tiềm năng văn chƣơng này.
Ông là ngƣời có vốn kiến thức văn hóa, lịch sử sâu rộng và uyên bác,
ông biết nhiều thứ ngôn ngữ (tiếng Pháp, Trung Quốc, và rất thông thạo tiếng
Tày, Nùng,…). Nhƣng nhƣ thế chƣa đủ, ngoài vốn kiến thức sâu rộng, ở ông
còn có một tình yêu, một niềm đam mê mãnh liệt và một sự tâm huyết hết mình
với sự nghiệp văn hóa, văn học của quê hƣơng. Ông tâm sự: Tôi yêu văn học
98
dân gian quê hương nên cứ mải miết đi theo nghiệp viết sách văn học. Hơn 50
năm gắn bó với văn học các DTTS, gắn bó với mảnh đất văn chƣơng Cao
Bằng, ông đã không ngại gian khó, đã bỏ tiền túi của mình và khăn gói đi bộ
đến các bản làng xa xôi hàng trăm km để ăn, ở với bà con Tày, Nùng, đến gặp
các nghệ nhân để tìm hiểu, sƣu tầm về vốn văn hóa, văn học dân gian các
DTTS… Sau mỗi chuyến đi là hàng nghìn đêm dài ông cần mẫn ngồi đọc,
nghiền ngẫm và phân tích tài liệu để rồi viết lên những tác phẩm đồ sộ, đầy ý
nghĩa này.
Nhà văn hóa, văn học Triều Ân còn luôn có một mong muốn cháy lòng
đó là có một đội ngũ trẻ tiếp tục tìm hiểu văn hóa, văn học dân gian của quê
hƣơng, đặc biệt là văn học chữ Nôm Tày. Vì văn hóa, văn học dân gian Tày,
Nùng nói chung và văn học chữ Nôm Tày nói riêng còn có nhiều giá trị chƣa
đƣợc nghiên cứu, đƣợc phát hiện. Đặc biệt, ngƣời hiểu và đọc đƣợc chữ Nôm
Tày hiện nay ngày càng ít đi và đều ở tuổi cao niên nên rất cần lớp trẻ kế cận.
Cũng vì thế mà ông đã hết sức cố gắng biên soạn cuốn “Từ điển chữ Nôm
Tày” - mong thế hệ trẻ hôm nay và mai sau có cơ sở để tiến hành khảo cứu các
tác phẩm văn hóa, văn học truyền thống của ngƣời Tày của quê hƣơng.
Với trên 50 đầu sách trong đó có gần 30 đầu sách nghiên cứu, sƣu tầm,
giới thiệu văn hóa, văn học dân gian DTTS (chủ yếu là của ngƣời dân tộc Tày,
Nùng) tác giả Hoàng Triều Ân thực sự là một nhà văn hóa, văn học lớn - không
những của mảnh đất Cao Bằng xinh đẹp và giầu truyền thống văn chƣơng - mà
còn là một nhà “Tày học” cần mẫn và xuất sắc của cả nƣớc. Ông đã có những
đóng góp quan trọng vào việc bảo tồn, giữ gìn, phát huy vốn văn hóa, văn học
dân gian Tày trong đời sống văn học các DTTS thời kỳ hiện đại. Các thế hệ con
cháu (trong đó có tôi) luôn biết ơn ông và nguyện sẽ cố gắng đáp lại sự mong
mỏi của ông - dù chỉ là một chút bé nhỏ, góp phần tôn vinh những giá trị truyền
thống mang đậm bản sắc dân tộc đáng tự hào của quê hƣơng Cao Bằng yêu quý
của mình.
99
KẾT LUẬN
1. Cao Bằng là mảnh đất vùng cao biên giới hùng vĩ, giàu truyền thống
lịch sử, văn hóa và truyền thống văn chƣơng. Non nước Cao Bằng đƣợc thiên
nhiên ƣu ái với nhiều danh lam thắng cảnh đẹp đẽ và nên thơ cùng nguồn tài
nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng với những thác nƣớc, những hang
động, những vách núi đá và những cách rừng xanh thẳm, cùng những cọn nƣớc,
những con suối trong lành, những ruộng bậc thang, những nƣơng ngô bát
ngát... tất cả những cảnh đẹp đó đã tạo nên bức tranh phong cảnh Cao Bằng
khoáng đạt, hùng vĩ, tƣơi đẹp - và nó đã đi vào văn chƣơng nhƣ một lẽ tự
nhiên. Nơi đây còn là mảnh đất thiêng với lịch sử đấu tranh hào hùng của các
dân tộc trong sự nghiệp giữ gìn, bảo vệ vùng biên cƣơng của Tổ quốc. Vùng
đất ấy cũng đã sản sinh ra biết bao vị tƣớng tài, những ngƣời con tuấn kiệt của
Cao Bằng nói riêng và của dân tộc Việt Nam nói chung với những cái tên đã đi
vào lịch sử trong niềm tự hào của nhân dân các DTTS Cao Bằng nhƣ: Nùng Trí
Cao, Bế Khắc Thiệu, Nông Đắc Thái, Lê Văn Khôi, Nùng Văn Vân… Những
trang sử đó càng chói lọi và vẻ vang hơn trong những năm tháng kháng chiến
chống Pháp oanh liệt, găn liền với tên tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đại
tƣớng Võ Nguyên Giáp và Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân - tiền
thân của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, cùng các địa danh lịch sử, các
chiến công lẫy lừng nhƣ: hang Pác Bó, rừng Trần Hƣng Đạo, Đông Khê, Lam
Sơn, Phai Khắt, Nà Ngần… Bên cạnh đó, Cao Bằng còn tự hào là mảnh đất
giầu bản sắc văn hóa các DTTS Việt Nam - một vùng văn hóa đa dạng, phong
phú và độc đáo với những phong tục, tập quán, lễ hội đặc sắc nhƣ: Lễ hội mời
Mẹ Trăng, lễ hội Lồng Tồng, hội Nàng Hai, Lễ cúng Bàn Vương, lễ cấp sắc, lễ
hội Pụt Tồng, lễ hội nhảy lửa…; Cao Bằng còn là “ mảnh đất có truyền thống
văn hóa, văn chƣơng phong phú” với kho tàng văn hóa văn học dân gian giầu
có và đặc sắc (những làn điệu dân ca nhƣ: hát Then, hát Sli, hát lƣợn...; các
điệu múa: múa Xòe, múa Khèn, múa Ô, múa Quạt…; cùng một kho tàng truyện
100
cổ dân gian DTTS, kho tàng truyện thơ Nôm Tày, Nôm Dao... phong phú. Tất
cả những yếu tố đó đã tạo điều kiện cho văn chƣơng Cao Bằng phát triển mạnh
mẽ và tƣơi tốt. Vẻ đẹp hùng vĩ, lãng mạn của thiên nhiên, con ngƣời kết hợp
với truyền thống lịch sử, truyền thống văn hóa, văn học của Cao Bằng chính là
nền móng vững chãi và là cảm hứng bất tận để văn học Cao Bằng thời kỳ hiện
đại nảy mầm và phát triển mạnh mẽ.
2. Văn học Cao Bằng đã xuất hiện từ rất sớm với những cái tên nhƣ Bế
Văn Phủng, Nông Quỷnh Văn (thế kỷ XVII), Hoàng Đức Hậu (cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX)… Từ khoảng giữa thế kỷ XX trở về đây, trong các tỉnh
miền núi phía Bắc nói riêng, các tỉnh có nhiều đồng bào ngƣời DTTS trong cả
nƣớc nói chung thì Cao Bằng là tỉnh có số lƣợng nhà văn, nhà thơ DTTS nhiều
nhất và cũng là mảnh đất sinh ra nhiều cây bút DTTS tiêu biểu, xuất sắc nhất.
Văn học Cao Bằng thời kỳ hiện đại (từ năm 1945) đã sinh ra các nhà văn nhà
thơ mở đầu cho sự nghiệp văn học các DTTS hiện đại của cả nƣớc nhƣ: Bàn
Tài Đoàn và một loạt các cây bút thuộc các thế hệ sau nhƣ: Hoàng Triều Ân, Vi
Hồng, Bế Thành Long, Hà Ngọc thắng, Y Phương, Triệu Lam Châu, Nguyễn
Hữu Tiến, Cao Duy Sơn, Trần Hùng, Đoàn Ngọc Minh, Đoàn Lư, Triệu Thị
Mai, Bế Phương Mai...; cùng các cây bút nghiên cứu, sƣu tầm và phê bình văn
học DTTS nhƣ: Triều Ân, Hoàng Quảng Uyên, Thu Bình, Triệu Thị Mai… Văn
học địa phƣơng Cao Bằng phát triển toàn diện và phong phú với đội ngũ sáng
tác đông đảo và sung sức liên tục đƣợc bổ sung qua các thời kỳ, với một số
lƣợng lớn các tác phẩm mang nhiều giá trị trên hầu hết các thể loại (truyện
ngắn, tiểu thuyết, ký, tản văn; thơ và trƣờng ca; nghiên cứu, sƣu tầm và phê
bình văn học). Ở thể loại nào cũng có những tác giả tiêu biểu, xuất sắc, có
những đóng góp quan trọng đối với sự vận động và phát triển của văn học
DTTS Việt Nam hiện đại nói chung. Dễ nhận thấy một điều: những mặt mạnh
cũng nhƣ những hạn chế của văn học Cao Bằng cũng chính là mặt mạnh, mặt
hạn chế của văn học các DTTS nói chung. Nên ở một mức độ nào đó, có thể
101
nói văn học Cao Bằng có tính điển hình cho văn học các DTTS Việt Nam thời
kỳ hiện đại.
3. Văn học Cao Bằng thời kỳ hiện đại đƣợc đánh dấu bởi những tác giả
xuất sắc và tiêu biểu của địa phƣơng và cũng là xuất sắc tiêu biểu của văn học
các DTTS cả nƣớc. Mỗi tác giả đều có phong cách và thế mạnh ở một thể loại
riêng nhƣng đều có những đóng góp quan trọng cho bộ phận văn học DTTS
Việt Nam hiện đại cũng nhƣ văn học địa phƣơng Cao bằng. Nếu nhƣ Bàn Tài
Đoàn - nhà thơ ngƣời Dao, là nhà thơ đi tiên phong, mở đƣờng cho văn học các
DTTS thời kỳ hiện đại phát triển - thì Y Phƣơng lại là ngƣời đƣa thơ ca DTTS
lên đến đỉnh cao và là ngƣời “kê cao văn hóa Tày”. Không những thế, Y
Phƣơng còn khẳng định sự thành công của mình một lĩnh vực sáng tác nữa - đó
là tản văn. Thơ và tản văn Y Phƣơng tƣơi mới, hiện đại nhƣng rất đậm đà bản
sắc dân tộc thu hút đƣợc nhiều sự chú ý và yêu mến của bạn đọc. Văn xuôi Cao
Bằng đƣợc ghi dấu ấn mạnh mẽ bởi cái những tên nhƣ: Vi Hồng, Cao Duy Sơn,
Hữu Tiến, Đoàn Ngọc Minh... Đặc biệt là tác giả Cao Duy Sơn dù viết truyện
ngắn hay tiểu thuyết, cây bút tài hoa này cũng đạt đƣợc những thành công đáng
trân trọng với những tác phẩm có giá trị nhân văn, giá trị hiện thực và giá trị
nghệ thuật cao. Tác giả gạo cội Triều Ân lại thể hiện tâm huyết của mình với
văn học Cao Bằng qua nhiều thể loại: ông vừa là nhà thơ, nhà văn vừa là nhà
nghiên cứu, sƣu tầm và phê bình văn học, ở thể loại nào ông cũng viết một cách
hết sức say mê, nghiêm túc, nhƣng đáng nể trọng và cũng là thành công nhất
trong sự nghiệp văn chƣơng của ông đó là lĩnh vực nghiên cứu, sƣu tầm văn
hóa, văn học dân gian DTTS.
4. Văn học Cao Bằng đã tự mình khắc họa nên diện mạo của đời sống
văn học một địa phƣơng miền núi khá sôi nổi, phong phú và đạt nhiều thành
tựu vào loại bậc nhất của các tỉnh miền núi của nƣớc ta hiện nay. Trong suốt
quá trình vận động và phát triển, văn học Cao Bằng luôn bám sát thực tế của
đời sống các DTTS vùng đất biên cƣơng của Tổ quốc. Các nhà văn, nhà thơ
102
Cao Bằng đã phản ảnh chân thực và cảm động đời sống lịch sử, đời sống kinh
tế, chính trị và đời sống văn hóa tinh thần, đời sống tâm linh của cộng đồng các
DTTS vùng cao biên giới. Và với xu hƣớng sáng tác vừa mang tính truyền
thống, vừa mang tính hiện đại (trong cả nội dung phản ánh và nghệ thuật thể
hiện) văn học Cao Bằng đang ngày càng vận động, phát triển tích cực hơn và
có tính chuyên nghiệp hơn. Với nền móng vững chắc về truyền thống văn hóa,
lịch sử, và đội ngũ sáng tác đông đảo, liên tục nối tiếp nhiều thế hệ, văn học
Cao Bằng trong thời kỳ mới hứa hẹn sẽ tiếp tục đi lên và giữ vững vị trí là địa
phƣơng đi đầu trong cả nƣớc về văn học, nghệ thuật các DTTS Việt Nam.
103
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân ( Biên soạn - 2003), 150 Thuật ngữ văn học, NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội.
2. Triều Ân (2006), Tuyển tập thơ văn Triều Ân, NXB Văn học Hà Nội.
3. Triều Ân tác giả tác phẩm (2009), (Hồng Thanh tuyển chọn), NXB
Văn hóa dân tộc Hà Nội.
4. Triều Ân (1963) Tung còn và suối đàn, NXB Văn học Hà Nội
5. Triều Ân (1974) Bốn mùa hoa, NXB Việt Bắc
6. Triều Ân (1994) Hoa vông, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội
7. Triều Ân (2007) Triều Ân thơ, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội
8. Triều Ân (1994) Hoàng Đức Hậu một đời thơ, NXB Văn hóa dân tộc
9. Triều Ân (1995) Truyện thơ Nôm Tày, NXB Văn hóa dân tộc
10. Triều Ân (2003) Chủ biên , Chữ Nôm Tày và truyện thơ, Trung tâm
nghiên cứu Quốc học xuất bản
11. Triều Ân (2004), Ba áng thơ Nôm Tày và thể loại, Trung tâm nghiên
cứu Quốc học xuất bản
12. Triều Ân (2011), Huyền thoại dân tộc Tày, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
13. Triều Ân (2000), Then Tày những khúc hát, Nxb Văn hoá dân
tộc, Hà Nội.
14. Trần Lê Bảo (2008), Giải mã văn hóa trong tác phẩm văn học,
http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/ly-luan-van-hoa-hoc
15. Nguyễn Phan Cảnh (2001), Ngôn ngữ thơ, NXB Văn hóa thông tin.
16. Nông Quốc Chấn (1995), Văn học các Dân tộc thiểu số Việt Nam
Hiện đại, NXB Văn hóa dân tộc.
17. Nông Quốc Chấn (1964), Mấy vấn đề về văn học các dân tộc thiểu
số, Tạp chí Văn học, số 10
18. Nông Quốc Chấn (1972), Đường ta đi, NXB Việt Bắc
104
19. Nông Quốc Chấn (1977), Một vườn hoa nhiều hương sắc, NXB Văn
hóa dân tộc
20. Nông Quốc Chấn (1998), Tuyển tập Văn học Dân tộc và miền núi,
NXB giáo dục, Hà Nội.
21. Nông Quốc Chấn sƣu tầm, tuyển chọn và giới thiệu (1992), Tuyển
tập Bàn Tài Đoàn, NXB văn học, Hà Nội.
22. Nông Quốc Chấn (chủ biên), Tuyển tập văn học dân tộc và miền núi
(II), NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998.
23. Nông Quốc Chấn (chủ biên), Tuyển tập văn học dân tộc và miền núi
(III), NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999.
24. Hoàng Tuấn Cƣ - Văn học các dân tộc thiểu số và vấn đề đội ngũ tác
giả người dân tộc (bài viết)
25. Nguyễn Văn Dân (2000), Lý luận văn học so sánh, NXB đại học
Quốc gia Hà Nội.
26. Gia Dũng ( Biên soạn - 2007), Tuyển tập thơ các Dân tộc thiểu số
Việt Nam thế kỉ XX, NXB Văn hóa dân tộc.
27. Bàn Thị Quỳnh Dao (2010), Bản sắc văn hóa trong thơ Bàn Tài
Đoàn, luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn, trƣờng ĐHSP Thái Nguyên.
28. Bàn Thị Quỳnh Dao, Bàn Tài Đoàn - Người giữ hồn dân tộc trong
thơ - báo Điện tử Tổ quốc.
29. Nguyễn Đăng Duy (2004), Nhận diện văn hóa các dân tộc thiểu số
Việt Nam, NXB Văn hóa dân tộc, H
30. Phan Cƣ Đệ ( chủ biên, 2004) Văn học Việt Nam thế kỉ XX, NXB
Văn học.
31. Đinh Văn Định (1997), Văn học DTTS mười năm qua với vấn đề
truyền thống và hiện đại, NXB Văn Hóa, H
105
32. Vi Hồng(1980), Bước phát triển mới của văn học các dân tộc ít
người Việt Nam: con đường trữ tình đến văn xuôi kịch bản, Tạp chí Văn học số
5.
33. Cao Thị Hảo - Ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn của Cao Duy
Sơn
34. Đinh Thị Minh Hảo - Luận văn thạc sĩ Đặc điểm Truyện ngắn Cao
Duy Sơn
35. Đỗ Thị Thu Huyền (2008), Thơ ca Tày hiện đại qua một số gương
mặt tiêu biểu, Tạp chí nghiên cứu văn học số 5.
36. Phạm Mạnh Hùng(2006), Tìm hiểu sự nghiệp sáng tác của nhà văn
Vi Hồng, đề tài nghiên cứu KH cấp Bộ.
37. Inrasara (2012), Văn xuôi dân tộc thiểu số, khác biệt từ vùng
miền, Tạp chí Văn nghệ Cao Bằng, số Tết.
38. Phong Lê (1985), 40 năm văn hóa nghệ thuật các dân tộc thiểu số
Việt Nam 1945 - 1985, NXB Văn hóa, Hà Nội.
39. Phong Lê (1998), Nhà văn các dân tộc thiểu số Việt Nam, NXB Văn
hóa dân tộc.
40. Hứa Hiếu Lễ (2008), Nhà văn người cô xàu đoạt giải văn chương,
Tạp chí Văn hóa - Văn nghệ Cao Bằng, 5/12/2008.
41. Mai Liễu (2010), Khoảng trống lí luận phê bình VHNT dân tộc thiểu
số, báo văn nghệ số 20, 15/5/2010.
42. Triệu Thị Mai, Cao Duy Sơn - Nét văn hóa dân tộc Tày trong thơ Y
Phương
43. Nguyễn Đăng Mạnh (1993), Dẫn luận nghiên cứu tác gia văn học,
NXB Đại học Sƣ phạm, Hà Nội
44. Phạm Duy Nghĩa, Văn xuôi miền núi và vấn đề truyền thống - hiện
đại, Văn nghệ Quân đội, 17/7/2009.
106
45. Phan Đăng Nhật (1981) - Văn học các dân tộc thiểu số VN trước
cách mạng tháng Tám năm 1945, NXB văn hóa dân tộc, H, 1981
46. Nguyên Ngọc (1994), Mấy suy nghĩ về tình hình văn học các dân tộc
thiểu số hiện nay, tạp chí Văn học số 9
47. Nhiều tác giả (2007), Văn học nghệ thuật các DTTS thời kỳ đổi mới,
NXB Văn hóa dân tộc
48. Nhiều tác giả (1998), Tuyển tập văn học các dân tộc miền núi tâp 1,
tập 2, NXB Giáo dục
49. Nhiều tác giả, Văn học các dân tộc thiểu số - Từ một diễn đàn, NXB
văn hóa dân tộc, H, 1981
50. Nhiều Tác giả (1998), Nhà văn Dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại,
NXB Văn hóa dân tộc.
51. Đào Thủy Nguyên (2014) , Bản sắc văn hóa dân tộc trong văn xuôi
của các nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam, NXB Đại học Thái Nguyên
52. Đào Thủy Nguyên (2011), Nhà văn Cao Duy Sơn với non nước Cao
Bằng, tạp chí Non nƣớc Cao Bằng
53. Đào Thủy Nguyên, Bản sắc văn hóa dân tộc trong văn xuôi các dân
tộc thiểu số Việt Nam thời kì đổi mới và hội nhập, Tạp chí Nghiên cứu văn học,
tháng 03/2013
54. Đào Thủy Nguyên, Bản sắc văn hóa dân tộc qua hình ảnh thiên
nhiên trong văn xuôi dân tộc thiểu số, Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, số 220
tháng 05/2013
55. Đào Thủy Nguyên (2010), Cội nguồn văn hóa dân tộc trong truyện
ngăn Cao Duy Sơn, Tạp chí nghiên cứu văn học số 6.
56. Đào Thủy Nguyên - Dƣơng Thu Hằng - Văn xuôi các dân tộc thiểu
số Việt Nam trên hành trình hội nhập
57. Y Phƣơng (2002), Thơ Y Phương, NXB Hội nhà văn, H.
58. Cao Duy Sơn (1992), Người lang thang, NXB Hội nhà văn, H
107
59. Cao Duy Sơn (1996), Những chuyện lũng ở Cô Sầu, NXB Quân đội
nhân dân, H
60. Cao Duy Sơn (1999), Hoa mận đỏ, NXB Quân đội nhân dân, H
61. Cao Duy Sơn (2006), Đàn Trời, NXB văn hóa dân tộc, H
62. Cao Duy Sơn (2007), Ngôi nhà xưa bên suối, NXB văn hóa dân tộc,
H
63. Trần Đình Sử (1994), Bản sắc dân tộc trong văn học Việt Nam và
con đường của thơ, Tạp chí văn học số 1.
64. Trần Đình Sử (1996), Lý luận và phê bình văn học, NXB Hội nhà
văn.
65. Hồng Thanh (tuyển chọn) (2009), Triều Ân - tác giả tác phẩm, NXB
Văn hóa dân tộc, H
66. Dƣơng Thuấn - Nhìn lại văn học Tày, tạp chí Nghiên cứu văn học số
9-2006
67. Dƣơng Thuấn - cần nâng cao chất lượng văn học viết về dân tộc
và miền núi
68. Hà Văn Thƣ (1960), Mấy nét về văn học các DTTSVN từ Cách mạng
tháng Tám đến nay, Tạp chí Văn học số 1
69. Luận văn Bảo Thu: Thế giới nghệ thuật thơ Y Phương
70. Nghiêm Thị Hồ Thu, Ngô Thị Thắm - Bản sắc văn hóa Tày trong thơ
Triều Ân
71. Lâm Tiến (1995), Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại,
NXB Văn hóa dân tộc.
72. Lâm Tiến (2011), Tiếp cận văn học dân tộc thiểu số, NXB Văn hóa
thông tin.
73. Lâm Tiến (2002), Văn học và miền núi - Phê bình tiểu luận, NXB
Văn hóa dân tộc.
108
74. Hữu Tiến (2014), Cao Bằng - Một miền thơ, Báo Cao bằng, số ra
ngày 30/08/2014
75. Trần Thị Việt Trung (chủ biên - 2010), Bản sắc dân tộc trong thơ các
dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, NXB Đại học Thái Nguyên.
76. Trần Thị Việt Trung - TS. Cao Thị Hảo (Đồng chủ biên - 2011), Văn
học Dân tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại - Một số đặc điểm,NXB Đại học
Thái Nguyên.
77. Trần Thị Việt Trung (chủ biên - 2013), Nghiên cứu Lý luận phê bình
Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại - Diện mạo và đặc điểm,
NXB Đại học Thái Nguyên.
78. Trần Thị Việt Trung - PGS.TS Nguyễn Đức Hạnh (Đồng chủ biên
- 2014), Văn học DTTS Việt Nam truyền thống và hiện đại, NXB Đại học
Thái Nguyên.
79. Hoàng Thị Vi (2009), Bản sắc trong văn xuôi Triều Ân, luận văn thạc
sĩ khoa học ngữ văn, trƣờng ĐHSP Thái Nguyên.
80. Trần Công Văn, Y Phương Và dấu ấn văn hóa Tày , tạp chí Nhà Văn
TP.HCM ngày 17/7/2011
81. Chẩm Hƣơng Việt - Chương trình trọng tâm đối với Văn học nghệ
thuật các dân tộc thiểu số
82. http://doc.edu.vn/tai-lieu/luan-van-ban-sac-dan-toc-trong-van-xuoi-
trieu-an-57111/
83. http://doc.edu.vn/tai-lieu/khoa-luan-dac-diem-truyen-ngan-trieu-
an-57127/
84. http://www.baocaobang.vn/Tu-tuong-Ho-Chi-Minh/Tinh-cam-cua-
Bac-Ho-voi-nhan-dan-cac-dan-toc-Cao-Bang/22792.bcb
85. http://www.baocaobang.vn/Van-hoc-Nghe-thuat/Nha-tho-Tay-tu-
duc-da-ke-cao-que-huong/35317.bcb
109
86. http://vietvan.vn/vi/bvct/id720/Nha-van-Cao-Duy-Son--Ca-doi-toi-
chi-deo-duoi-de-tai-ve-nguoi-mien-nui/
87. http://baocaobang.vn/Ky-Phong-su/Nha-van-Trieu-An-hon-que-
huong-phia-sau-giai-thuong-nha-nuoc/12891.bcb
110
PHỤ LỤC I
TỔNG HỢP CÁC SÁNG TÁC VÀ CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
SƢU TẦM CỦA TRIỀU ÂN (DO TÁC GIẢ CUNG CẤP)
I. VĂN HỌC HIỆN ĐẠI ĐƢƠNG ĐẠI
(TÁC GIẢ TRIỀU ÂN)
. 80 tr. 13x19. 1* Tung còn và suối đàn
NXB Vă . H. 1963.
)
- H- 1969
3* Nắng ngàn . H. 1974
4* Bốn mùa hoa , 1974
5* Kin mác (th - 1975
6* Tiếng khèn A Pá - H-
1980)
7* Như cánh chim trời . H - 1982)
8* Đường qua đèo mây (tập truyện ngắn) 218 tr. 13 .
1988
9* Chốn xa xăm (tập thơ) 76 tr. NXB Thanh Niên – H -, 1990)
10* Hoa vông –H -, 1994
11 * Hoa và nắng - H -, 2000
12* Xứ sương mù (tập - H - 2000
13* Một lần thăm Trung Quốc
- 2005
14* Tuyển tập Thơ văn Triều Ân .H. 2006
15* Triều Ân Văn tuyển 700 tr. 14,5x2 -H- 2007
16* Triều Ân Thơ .H. 2007
17* Tiểu thuyết Triều Ân . H-2009
111
– 18* Trên vùng mây trắng )
H- 2011
, H. 19* Chuyện đời thường
2012
20* Trên đỉnh núi Phượng Hoàng
, H. 2013)
21* Cuộc chiến vì ngày mai (tiểu thuyết) 264 tr. 14,5x20,5. NXB Văn h
. H . 2013)
. H. 2014)
II. CÔNG TRÌNH SƢU TẦM NGHIÊN CƢU VĂN HỌC DÂN GIAN,
VĂN HÓA DÂN GIAN
1. VĂN HỌC DÂN GIAN
23* Ca dao Tày Nùng (sƣu tầm nghiên cứu, 316 trang, khổ 13X19.NXB Văn
hóa Dân tộc – H – 1994).
24* Huyền thoại dân tộc Tày (sƣu tầm, 228 trang, khổ 13X19. NXB Văn hóa
Dân tộc – H - 2010),
25* Truyện cổ dân tộc Mông (sƣu tầm giới thiệu, 2 tập, 304 trang,Khổ 13x19.
NXB Văn Học. H. 1995),
26* Từ điển thành ngữ tục ngữ dân tộc Tày (320 trang, 13x19. NXB Văn hóa
Dân tộc - H - 1996).
27* Truyện thơ Nôm Tày (sƣu tầm nghiên cứu, 926 trang, khổ 13X19.NXB
Văn hóa Dân tộc – H -1994),
37* Từ điển chữ Nôm Tày (biên soạn với góc đô dân gian) (704 trang, khổ
14,5x20,5 . NXB KHXH. H. 2003)
38* Chữ Nôm Tày và truyện thơ (sƣu tầm nghiên cứu, 524 trang, khổ 16x24 –
Trung tâm NCQH và NXB Văn Học – H - 2003),
112
39* Ba áng thơ nôm Tày và thể loại (nghiên cứu, 280 trang, khổ16x24 – Trung
tâm NCQH & NXB Văn Học – H - 2004),
40* Văn học Hán Nôm dân tộc Tày (Nghiên cứu, 652 trang, khổ16X24. NXB
Văn hóa Dân tộc- H – 2008)
28* Bióoc Lả (truyện thơ nôm Tày- 94 trang- khổ 16x24- in trong tổng tập
truyện thơ Nôm dân tộc thiểu số Việt Nam - tập 2,NXB Khoa học Xã hội-
H- 2008 - 3 tác giả in chung )
29* Nho Hương & Chiêu Đức (hai truyện thơ nôm Tày – in trong tổng tập
truyện thơ Nôm DTTSVN tập 3, 400 trang, khổ 16X24. NXB Khoa học Xã
hội . H 2008)
30* Lý Thế Khanh & Nhân Lăng (hai truyện thơ nôm Tày – in trong tổng tập
truyện thơ Nôm DTTSVN - tập 4, 384 trang, khổ 16X24.NXB Khoa học
Xã hội - H - 2008)
31* Nàng Kim & Nàng Ngọc Dong (Hai truyện thơ Nôm Tày – in trong tổng
tập truyện thơ Nôm DTTSVN - tập 6 - 386 trang, khổ 16X24. NXB Khoa
học Xã hội - .H 2010)
32* Truyện Nàng Quyển & Truyện Thị Đan (Hai truyện thơ nôm Tày in trong
tổng tập truyện thơ Nôm DTTSVN - tập 7 - 370 trang, khổ 16X24. NXB
Khoa học Xã hội- H 2010)
33* Nàng Ngọc Long & Truyện Thạch Sanh (Hai truyện thơ nôm Tày- in trong
tổng tập truyện thơ nôm DTTSVN - tập 9 - 408 trang, khổ 16X24 . NXB
Khoa học Xã hội - H 2010)
34* Tống Trân- Cúc Hoa & Phạm Tử- Ngọc Hoa (Hai truyện thơ nôm Tày – in
trong tổng tập truyện thơ nôm DTTSVN - tập 10 – 500 trang, khổ 16 X
24. Khoa học Xã hội - H 2010)
35* Ba truyện thơ nôm Tày có nguồn gốc từ truyện thơ nôm khuyết danh Việt
Nam (Nghiên cứu- 460 trang khổ 14,5X20,5, NXB Văn hóa Thông tin- H.
2011)
113
36* Truyện Lương Nhân con côi (truyện thơ nôm Tày – in trong tổng tập
truyện thơ nôm DTTSVN - tập 14 - 142 trang- khổ 16X24. NXB Khoa học
Xã hội - H. 2012)
– 41*
14,5x20,5. NXB VHTT – H- 2014
14,5x20,5).NXB 42*
VHTT. H. 2014,
43.
- H- 2014
2. VĂN HÓA DÂN GIAN
44* Từ điển văn hoá cổ truyền dân tộc Tày (284 trang, NXB VHDT- H - 1996),
45* Mo lên trời- Pụt Nùng (Nghiên cứu hát Then – in trong tổng tập truyện thơ
Nôm DTTSVN - tập 1, 346 trang, khổ 16X24. NXB Khoa học Xã hội . H
2008)
46* Tục cưới xin của dân tộc Tày (sƣu tầm, nghiên cứu – 218 trang,khổ
14,5x20,5 – NXB Đại học Quốc gia – H- 2010) ...
47* Lễ hội Hằng Nga (nghiên cứu- sƣu tầm – 402 trang , 14,5X20,5 NXB Dân
trí. H . 2010)
48* Khảm Hải & Lễ hội Hằng Nga (tổng tập truyện thơ nôm DTTSVN - tập 11.
278 trang. Khổ 16 X 24 . Khoa học Xã hội - H. 2010)
49* Lễ hội dàng then (Nghiên cứu, 568 trang, 14,5X20,5 - NXB Vănhóa
Thông tin. H. 2011)
50* Địa chí xã Hồng Việt - huyện Hoà An - tỉnh Cao Bằng (340trang.14,5x20,5
– NXB Lao Động – 2011)
51* Then Tày những khúc hát (nghiên cứu sƣu tầm- 644 trang Khổ 14,X 20,5 -
NXB Văn hóa Dân tộc – H - 2012)
114
52* Then Tày giải hạn (nghiên cứu- sƣu tầm. 500 trang. khổ 16x24 trong bộ
Tổng tập Truyện thơ nôm CDTTS VN, tập 12. NXB KHXH - H- 2012)
53* Then Tày giải hạn (Nghiên cứu sƣu tầm) 656 trang. Khổ 14,5x 20,5 - NXB
Văn hóa Thông tin. H. 2013
54* Cây đàn then người Tày và bài hát dân gian (nghiên cứu) 260 tr khổ
14,5x20.5 – NXB VĂN HÓA THÔNG TIN. H. 2013.
3. CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU NGOÀI PHẠM TRÙ DÂN GIAN (
TÁC PHẨM CÓ TÁC GIẢ - BÁC HỌC )
55* Triều Ân – tác giả, tác phẩm (Cùng Hồng Thanh tuyển chọn) 312 trang
khổ 14,5x20,5 NXB Văn hóa Dân tộc – H - 2009
56* Văn học chữ Hán Dân tộc Tày. 340 trang khổ 14,5 x 20,5 / NXB Văn học
và TTNCQH – H - 2006.
57* Trường ca Nông Văn Vân khởi nghĩa 1833 – 1836 / sƣu tầm trong dân gian
– nghiên cứu, 128 trang khổ 13x20,5. NXB VHDT, H, 2006.
58*Thơ Hoàng Đức Hậu (sƣu tầm nghiên cứu, 316 -
1974)
59* Thơ ca cách mạng ở Việt Bắc (sƣu tầm, nghiên cứu, 256 trang, khổ13x19.
NXB Văn hóa Dân tộc- H- 1977),
60* Hoàng Đức Hậu một đời thơ (nghiên cứu, 340 trang, khổ 13x18, NXB Hội
Nhà Văn- H-1994),
61*Bác Hồ về nước (hồi k -
– H - 2006),
62* Những bài thuốc dân gian vùng dân tộc thiểu số (sƣu tầm, 168 trang, khổ
13x19 NXB Văn hóa Dân tộc- H- 2006),
63* Văn học yêu nước và cách mạng ở Cao Bằng (sƣu tầm nghiên cứu, 460
trang, khổ 14,5x20,5 NXB VHDT – H - 2009)
115
64* An Định, Sam tả sí pù- Tam giang tứ trụ (sƣu tầm, 132 trang, (khổ 13x19
NXB VHDT – H - 6/2010),
65* Hoàng Đức Hậu, Thơ tiếng Tày (sƣu tầm, giới thiệu, 148 trang, khổ 13x19
NXB VHDT – H - 11/2010),
116
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
BÁO CÁO GIẢI TRÌNH
CÁC NỘI DUNG CẦN BỔ SUNG, CHỈNH SỬA LUẬN VĂN THEO KẾT
LUẬN CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM LUẬN VĂN THẠC SĨ
Họ tên học viên: Nguyễn Thị Bích Hạnh
Đề tài: Cao Bằng – Đất văn chƣơng
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam. Mã số: 60.14.01.11
Quyết định thành lập Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ số:3382 /QĐ-ĐHSP,
ngày 01 tháng 10 năm 2015 của Hiệu trƣởng Trƣờng ĐH Sƣ phạm - ĐHTN.
Sau khi nghiên cứu những ý kiến trao đổi của các phản biện, thành viên
Hội đồng và kết luận tại Biên bản họp Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ năm
2015 khóa (2013 - 2015) phiên họp ngày 24 tháng 10 năm 2015 và đối chiếu
những nội dung luận văn, tôi xin trình bày chi tiết những nội dung đã bổ sung,
chỉnh sửa và các ý kiến bảo lƣu với những lý giải, bổ sung vào những vấn đề
chƣa rõ nhằm làm sáng tỏ hơn các kết quả nghiên cứu đề tài luận văn nhƣ sau:
1. Ý kiến phản biện 1: PGS.TS. Trƣơng Đăng Dung
- Ý kiến 1: Tên đề tài luận văn chƣa khoanh vùng đƣợc vấn đề một cách
cụ thể, không gợi ra tính vấn đề của luận văn...
Giải trình của học viên: Tên đề tài luận văn “Cao Bằng – Đất văn
chƣơng” tác giả giữ nguyên vì đã đƣợc duyệt qua hội đồng chấm luận văn.
- Ý kiến 2: Không đồng quan điểm với tác giả về phần hạn chế (ít có
những tác phẩm dày dặn trên 500 trang viết về đề tài đấu tranh Cách mạng, về
117
Bác Hồ) vì theo PGS.TS Trƣơng Đăng Dung: văn học có thể viết về bất cứ điều
gì và không cần viết dài...
Giải trình của học viên: Phần hạn chế của văn học Cao Bằng theo tác giả:
Lịch sử đấu tranh Cách mạng là một yếu tố quan trọng trong văn học Cao Bằng
vậy nên văn học cần phản ảnh đầy đủ hơn về đề tài này.
- Ý kiến 3: Một số câu văn hơi sáo, nhƣ ở trang 20.
Giải trình của học viên: Một số câu văn “hơi sáo”, tác giả luận văn đã
sửa lại cho phù hợp với văn phong khoa học
2. Ý kiến phản biện 2: TS. Lê Hồng My
- Ý kiến 1: Chƣa có nhiều sự đối sánh văn học Cao Bằng trong mối quan
hệ với văn học các địa phƣơng khác nhƣ Bác Kạn, Thái Nguyên, Tuyên
Quang...
Giải trình của học viên: Phần đối chiếu so sánh: Do giới hạn của một
luận văn Thạc sĩ nên tác giả chƣa có điều kiện đƣa nhiều phần so sánh với các
địa phƣơng khác vào.
-Ý kiến 2: Xem lại phần tài liệu tham khảo
Giải trình của học viên: Tác giả luận văn đã xem lại và chỉnh sửa phần
tài liệu tham khảo.
-Ý kiến 3: Phụ lục nên thêm danh mục thống kê tác giả, tác phẩm của
Cao Bằng
Giải trình của học viên: thêm phụ lục “TỔNG HỢP CÁC SÁNG TÁC
VÀ CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU SƢU TẦM CỦA TRIỀU ÂN (DO TÁC
GIẢ CUNG CẤP)”
-Ý kiến 4: Sửa lỗi đánh máy, in ấn
Giải trình của học viên: Đã sửa lỗi Đánh máy, in ấn
118
3. Ý kiến khác của thành viên Hội đồng: (Họ tên, chức danh, học vị)
- Ý kiến 1: Không
- Giải trình của học viên: Không
4. Ý kiến bảo lƣu (nếu có):
Trên đây là toàn bộ các giải trình của học viên về các ý kiến đóng góp
của các thành viên Hội đồng. Xin trân trọng cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 10 tháng 10 năm 2015
Chủ tịch hội đồng Cán bộ hƣớng dẫn Học viên
PGS.TS Cao Thị Hảo GS.TS. Trần Thị Việt Trung Nguyễn Thị Bích Hạnh
XÁC NHẬN CỦA CƠ SỞ ĐÀO TẠO
119