ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------
CẤU TRÚC ĐỘC THOẠI
TRONG NGÔN NGỮ KỂ CHUYỆN CỦA NAM CAO
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Chuyên ngành : Lí luận ngôn ngữ
Mã số : 5 04 08
Người hướng dẫn khoa học : TS Phạm Văn Tình
Người viết: Học viên Lưu Thị Oanh
Hà Nội – 2004
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài .....................................................................................4
2. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu
............................................................6
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
.................................................................……6
4. Ý nghĩa và đóng góp của luận văn ..........................................................7
5. Bố cục của luận văn…....................................................................... … 7
Chương 1
CƠ SỞ LÍ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.Về các khái niệm độc thoại và đối thoại (theo quan điểm giao tiếp)……9
2. Các dạng độc thoại trên văn bản………………………………………11
3. Quan niệm về độc thoại nội tâm của luận văn……………………… 16
4. Tiểu kết……………………………
…………………………………
1
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao
Chương 2
CẤU TRÚC CÁC ĐOẠN ĐỘC THOẠI NỘI TÂM
TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO
1. Hình thức thể hiện các đoạn độc thoại nội tâm trong truyện ngắn
của Nam Cao……………………………………………………………..22
1.1. Các phát ngôn cấu thành các đoạn độc thoại nội tâm …………… .23
1.2. Cấu trúc hình thức của các đoạn độc thoại nội tâm………………. 25
1.3. Cách thức nhập đề của các đoạn độc thoại nội tâm……………… .27
1.4. Cách thức kết thúc của các đoạn độc thoại nội tâm…………………33
2. Tần suất xuất hiện các dạng độc thoại………………………………. 37
2.1. Số lần xuất hiện trong truyện của các đoạn độc thoại nội
tâm……....37
2.2. Độ phân bố các đoạn độc thoại nội tâm…………………………......38
3. Tiểu kết..................................................................................................41
Chương 3
GIÁ TRỊ BIỂU HIỆN CỦA CÁC ĐOẠN ĐỘC THOẠI NỘI TÂM
TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO
1. Mở đầu................................................................................................ 43
2. Khẳng định chủ đề tác phẩm...............................................................44
2.1. Trƣớc Cách mạng.............................................................................44
2.1.1. Đề tài ngƣời nông dân............................................................... ..45
2.1.1.1. Hệ thống chủ đề tƣ tƣởng thứnhất................................................45
2.1.1.2 Hệ thống chủ đề tƣ tƣởng thứ hai..................................................52
2
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao 2.1.2 Đề tài ngƣời trí thức tiểu tƣ sản............................................ 57
2.2. Sau Cách mạng.................................................................................58
2. 2.1.Hệ thống chủ đề tƣ tƣởng thứ nhất…………………………… 61
2.2.2 Hệ thống chủ đề tƣ tƣởng thứ hai……………………… 65
2.3. Tiểu kết.......................................................................................... ..65
3. Khẳng định phong cách tác giả.............................................................68
3.1. Độc thoại nội tâm theo mạch tâm lí nhân vật…………………... 68
3.1.1. Độc thoại nội tâm đƣợc xây dựng dựa trên“cái hàng ngày”...........69
3.1.2. Độc thoại nội tâm diễn tả mạch tâm lí của nhân vật trí thức
tiểu tƣ sản..................................................................................... 70
3.1.3. Độc thoại nội tâm diễn tả mạch tâm lí của nhân vật nông dân 78
3.1.4. Tiểu kết................................................................................... 81
3.2. Từngữ sử dụng, phong cách diễn giải riêng biệt …………… .82
3.2.1. Sửdụng phƣơng ngữ nông dân đồng bằng Bắc Bộ....................... 82
3.2.2. Sử dụng nhiều phátngôn ngắn gọn, tỉnh lƣợc............................... 85
3.2.3. Sửdụng nhiều thành ngữ, tục ngữ, ………………………….... ....87
3.2.4. Sử dụng nhiều từ ngữ của văn nghị luận.......................................
.88
3.2.5. Sử dụng nhiều câu hỏi nghi vấn để diễn giải tâm lí nhân vật........
89
3.2.6. Tiểu kết...................................................................................... ....93
KẾT LUẬN………………………………………………………………94
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………96
3
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do lựa chọn đề tài.
Văn bản nghệ thuật (truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết...) vốn là
một hình thức tổ chức ngôn ngữ có giá trị đặc biệt trong việc lƣu giữ,
truyền đạt truyền thống văn hoá- lịch sử, tƣ tƣởng, phong cách ngôn ngữ,
phong cách nhà văn ở một thời điểm lịch sử nhất định này sang thời điểm
khác. Việc nghiên cứu các cách thức thể hiện ngôn ngữ trong các văn bản
nghệ thuật là một trong những hƣớng nghiên cứu để làm rõ phong cách tác
giả, làm rõ hơn phong cách nhân vật. Vì thế việc nghiên cứu này là cần
thiết nhất là trong thời điểm hiện nay.
Nghiên cứu cách thức thể hiện của ngôn ngữ trong các văn bản nghệ
thuật có nhiều hƣớng khác nhau nhƣ: chủ đề, cấu tứ, ngôn ngữ, xây dựng
văn bản… Trong đó, xây dựng văn bản có những đoạn độc thoại nội tâm
là một cách thức thể hiện ngôn ngữ hết sức độc đáo. Bởi đó là nét riêng, là
sở trƣờng, là tài năng của nhà văn.
Độc thoại nội tâm là một thủ pháp nghệ thuật nổi trội trong văn bản
nghệ thuật của nhiều nhà văn. Tuy nhiên, thủ pháp này có những đặc thù
riêng về kết cấu và cách thức thể hiện nội dung ở mỗi nhà văn. Trong số
các nhà văn trƣớc Cách mạng, Nam Cao nổi lên nhƣ một cây bút hiện thực
phê phán xuất sắc nhất, ông đã sử dụng rất nhiều đoạn độc thoại nội tâm
trong các tác phẩm của mình để khai thác các khía cạnh tâm lí nhân vật,
phát triển câu truyện theo mạch tâm lí nhân vật. Cả cuộc đời gắn bó với sự
nghiệp văn chƣơng, mƣời lăm năm cầm bút (1936- 1951) nhà văn Nam
Cao đã chứng kiến rất nhiều đổi thay của dân tộc. Trƣớc Cách mạng
4
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao những trang viết của ông là cả tấm lòng và tình yêu thƣơng cực độ những
lớp ngƣời nghèo khổ, những cảnh đời đau khổ, bất hạnh; là nỗi căm giận
xót xa đến cháy lòng trƣớc bao ngang trái , bất công của chế độ cũ; là
những ƣớc mongcháy bỏng về một cuộc sống tốt đẹp hơn, công bằng hơn.
Cũng khai thác đề tài ngƣời nông dân và tầng lớp trí thức tiểu tƣ sản nhƣ
các bậc đàn anh khác nhƣ Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố... nhƣng Nam
Cao đã thổi vào đó những nét rất riêng biệt, trong đó kiếp sống con ngƣời
đau đớn phũ phàng hơn trƣớc những cơn xoáy lốc mới của một thời kì lịch
sử đen tối nặng nề. Cách mạng Tháng tám thành công đã tạo ra một luồng
sinh khí mới trong các tác phẩm của ông mặc dù ông vẫn trung thành với
đề tài ngƣời nông dân và tầng lớp trí thức tiểu tƣ sản. Bút pháp của ông:
“Không nói những cái ngƣời ta đã nói, không tả theo lối ngƣời ta đã tả,
ông đã dám bƣớc vào làng văn với những cạnh sắc riêng của mình”. Độc
thoại nội tâm chính là một thủ pháp nghệ thuật nổi trội tạo nên “cạnh sắc”
riêng của nhà văn Nam Cao. Với độc thoại nội tâm, Nam Cao đã góp một
tiếng nói riêng cách tân và hiện đại hoá nền văn xuôi quốc ngữ, khẳng
định một ngòi bút đầy tài năng, sắc sảo của một nhà văn hiện thực chủ
nghĩa. Với độc thoại nội tâm, ông đã khắc hoạ rất rõ nét nhiều loại nhân
vật đủ mọi tầng lớp trong xã hội với nhiều sự biến động mang tính thời
đại. Với tài năng, tâm huyết và sự say mê đầy trách nhiệm của một trái tim
lớn, một ngƣời nghệ sĩ lớn luôn thức đập với những buồn, vui, đau khổ
của con ngƣời, của cuộc đời, Nam cao đã tạo dựng đƣợc một sự nghiệp
văn chƣơng lớn. Rất nhiều nhân vật trong các tác phẩm của ông đã để lại
những ám ảnh kì lạ đối với nhiều thế hệ công chúng nhƣ: Chí Phèo, Thị
Nở, Lão Hạc, Điền, Hộ, Độ....Và tất cả những tâm tƣ, tình cảm, những
diễn biến tâm lý của các nhân vật ấy thể hiện qua các đoạn độc thoại nội
5
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao tâm đã để lại những ấn tƣợng sâu sắc trong lòng độc giả. Vì thế đã có
nhiều tác phẩm của ông đƣợc chọn lọc giảng dạy ở trƣờng phổ thông.
Sử dụng độc thoại nội tâm là bút pháp nghệ thuật hết sức độc đáo
của nhà văn Nam Cao. Đã có nhiều bài viết về thủ pháp độc đáo này của
Nam Cao nhƣng chƣa có một công trình nào, nghiên cứu đầy đủ và hệ
thống về cấu trúc hình thức và giá trị nội dung của độc thoại nội tâm trong
các văn bản nghệ thuật Nam Cao, giúp độc giả có thể hiểu một cách chi
tiết, sâu sắc ý nghĩa đóng góp của sự nghiệp văn chƣơng Nam Cao cho
nền văn xuôi hiện thực nƣớc ta; giúp độc giả có thể cảm nhận đúng, sâu
hơn các tác phẩm văn học Nam Cao. Vì vậy, chúng tôi mạnh dạn chọn cho
mình đề tài luận văn này.
Và một điều hết sức đặc biệt thôi thúc tôi tiến hành luận văn này. Đó
là việc tôi đƣợc may mắn sinh ra và lớn lên ở vùng chiêm trũng Hà Nam-
quê hƣơng của nhà văn Nam Cao. Từ thuở còn là học sinh cắp sách tới
trƣờng, những tác phẩm văn học của Nam Cao trong chƣơng trình học phổ
thông đã để lại trong tôi nhiều ấn tƣợng sâu sắc. Đọc các tác phẩm của
ông tôi đã biết và hiểu đƣợc tƣ duy, tình cảm, ngôn ngữ đặc trƣng của
những con ngƣời đã sống trên mảnh đất quê hƣơng tôi cách tôi gần một
thế kỉ. Tôi đã rất cảm ơn nhà văn Nam Cao và tự hỏi rằng: cái gì đã tạo ra
sức mạnh trƣờng tồn cho các tác phẩm văn học Nam Cao? Không cái gì
khác đó chính là giá trị biểu hiện của ngôn ngữ. Đƣợc may mắn học tập và
rèn luyện tại khoa Ngôn ngữ, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, tôi hy vọng rằng việc nghiên cứu cấu trúc
độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao sẽ góp một phần công
sức nhỏ bé của mình vào việc nghiên cứu giá trị đóng góp to lớn về mặt
ngôn ngữ của sự nghiệp văn học Nam Cao.
6
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao
2. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu.
Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là tất cả các đoạn độc
thoại nội tâm trong truyện ngắn, bút ký của Nam Cao, trong hai tập Nam
Cao toàn tập (I & II), cụ thể là qua 22 truyện ngắn, bút ký, nhà xuất bản
Văn học 2002. Tất cả các đoạn độc thoại nội tâm đƣợc chúng tôi xem xét
trong phạm vi ngữ cảnh cần thiết trong toàn bộ văn bản.
3. Phương pháp nghiên cứu.
Luận văn sẽ sử dụng phƣơng pháp thống kê, miêu tả, so sánh và phân tích
ngôn ngữ ở hai mặt:
- Cấu trúc hình thức của các đoạn độc thoại nội tâm.
- Nội dung thể hiện các đoạn độc thoại nội tâm.
Ứng dụng các kiến thức lí luận để miêu tả chuẩn xác ngôn ngữ độc
thoại nội tâm trong truyện ngắn, bút ký của Nam Cao. Từ đó thấy đƣợc:
- Giá trị biểu hiện của các đoạn độc thoại nội tâm (giá trị ngữ nghĩa, giá trị
liên kết, tính hợp lí, chặt chẽ, mạch lạc…).
- Nét độc đáo, riêng biệt của bút pháp Nam Cao.
4. Ý nghĩa và đóng góp của luận văn.
Những kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ:
- Góp một cách nhìn cụ thể, chi tiết, đầy đủ và hệ thống về nghệ thuật của
Nam Cao
- Giúp cho việc cảm nhận cũng nhƣ giảng dạy các tác phẩm Nam Cao tốt
hơn, toàn diện hơn, sâu sắc hơn.
7
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao
- Góp thêm một tiếng nói trong việc đi sâu nghiên cứu phong cách Nam
Cao nói chung. Đó là ý nghĩa đóng góp về mặt thực tiễn của luận văn.
- Về mặt lí luận: những nghiên cứu của luận văn sẽ bổ sung vào mảng lí
luận đối với việc nghiên cứu văn bản và phân tích diễn ngôn.
5. Bố cục của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và thƣ mục tham khảo, luận văn đƣợc
chia thành 3 chƣơng theo trình tự sắp xếp nhƣ sau:
Chương 1:
CƠ SỞ LÍ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
CẤU TRÚC CÁC ĐOẠN ĐỘC THOẠI NỘI TÂM
Chương 2:
TRONG NGÔN NGỮ KỂ TRUYỆN CỦA NAM CAO
Chương 3: GIÁ TRỊ BIỂU HIỆN CỦA CÁC ĐOẠN ĐỘC THOẠI NỘI TÂM
TRONG NGÔN NGỮ KỂ CHUYỆN CỦA NAM CAO
8
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1. Về các khái niệm độc thoại, đối thoại (theo quan điểm giao tiếp)
Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt, là phƣơng tiện giao tiếp
quan trọng nhất của con ngƣời. Nhờ ngôn ngữ mà con ngƣời có thể hiểu
nhau trong quá trình lao động và sinh hoạt, nhờ ngôn ngữ mà con ngƣời có
thể diễn đạt cho nhau hiểu đƣợc tƣ tƣởng, tình cảm, trạng thái và nguyện
vọng của mình. Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tƣ tƣởng, trực tiếp
tham gia vào quá trình hình thành tƣ tƣởng. Là công cụ giao tiếp, ngôn
ngữ còn là công cụ của tƣ duy. Theo R. Jakobson, ngôn ngữ là hệ thống
tín hiệu để truyền đạt qua một kênh thông tin giữa hai bên: thể phát và thể
nhận (và ngƣợc lại). Đó chính là các hình thức giao tiếp bằng lời giữa
ngƣời nói (SP1) với ngƣời nghe (SP2). Trong quá trình giao tiếp, có hai
loại hình thức giao tiếp chủ yếu. Đó là giao tiếp một chiều và giao tiếp
nhiều chiều. Thế nào là giao tiếp một chiều, thế nào là giao tiếp nhiều
chiều? Hình thức giao tiếp một chiều là hình thức giao tiếp chỉ có một bên
nói, truyền thông tin, truyền đạt các tƣ tƣởng khác... và không quan tâm
đến sự phản hồi; còn một bên chỉ tiếp nhận. Hình thức này thƣờng gặp
trong mệnh lệnh quân sự, trong diễn văn, trong các bản báo cáo, trong các
bài nói của phát thanh viên truyền thanh, truyền hình... Không có sự hiện
diện của hai đối tƣợng tham gia vào cuộc trao đổi (một chiều, cách mặt).
Đó chính là độc thoại (còn gọi là đơn thoại, monologue). Với đơn thoại
“ngƣời ta chỉ quan tâm tới... lời nói hay là diễn ngôn của anh ta mà không
quan tâm tới phản ứng hồi đáp” [Đỗ Hữu Châu & Bùi Minh Toán 1993:
226]. Còn trong hình thức giao tiếp bình thƣờng thì có ngƣời nói, ngƣời
9
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao nghe và có sự hồi đáp qua lại (luân phiên lƣợt lời). Sự phản hồi này đã
thay đổi vai trò của các đối tƣợng tham gia giao tiếp: bên nghe trở thành
bên nói và bên nói trở thành bên nghe. Đó là hội thoại (dialogue). Hoạt
động giao tiếp phổ biến nhất, căn bản nhất của con ngƣời là hội thoại.
Thực tế, đã nói tới giao tiếp ngôn ngữ là nói tới hội thoại (ngƣời nói phải
có ngƣời nghe). Ngƣời nói, với mục đích chuyển tải những suy nghĩ, tình
cảm... (theo chiến lƣợc giao tiếp cụ thể) của mình và mong nhận đƣợc sự
phản hồi từ phía “đối tác”. Cứ thế, sự hồi đáp xuất hiện và cuộc trao đổi
đƣợc duy trì. Vì vậy, vấn đề hội thoại đƣợc đặc biệt quan tâm trong ngữ
dụng học. Nó là bộ phận chủ yếu của ngữ dụng học vĩ mô (A:
macropragmatics).
Tuy nhiên trong luận văn này chúng tôi chủ yếu chỉ đề cập tới khái
niệm độc thoại mà thôi. Nhƣ vậy, độc thoại đƣợc hiểu là hình thức giao
tiếp trong đó chỉ một bên nói còn một bên tiếp nhận. Không có phản ứng
của một ngƣời thứ hai và không bị tác động và chi phối bởi các nhân tố
ngôn cảnh. Chủ đề, bố cục, diễn biến theo mạch nội dung hoàn toàn có thể
tuân thủ theo một logic định trƣớc của ngƣời nói (hoặc ngƣời viết). Độc
thoại, chiết tự có nghĩa là “nói một mình”. Đó là một trong những hoạt
động giao tiếp khá phổ biến mà ta thƣờng hay gặp trong khá nhiều trƣờng
hợp, đặc biệt là khi tiếp nhận văn bản. Vấn đề đặt ra là: ngôn ngữ độc
thoại có đặc trƣng gì (tƣơng đồng và khác biệt) so với ngôn ngữ giao tiếp
nói chung? Nhƣ chúng ta đã biết ngôn ngữ đƣợc coi là một hoạt động
quan trọng của con ngƣời “Nói chính là hành động” (J. Austin). Ngôn ngữ
mang bản chất xã hội. rõ nét. Chức năng giao tiếp xã hội của ngôn ngữ thể
hiện ở chức năng thông báo, chức năng trao đổi, chức năng giáo dục và
chức năng thẩm mĩ. Ngôn ngữ độc thoại là một dạng thức ngôn ngữ nằm
trong hệ thống mang tính chuẩn mực nhƣng cũng rất sinh động, rất đa
10
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao dạng và nó cũng mang trong mình cả bốn chức năng của ngôn ngữ. Do
những đặc thù của độc thoại mà ngôn ngữ độc thoại là thứ ngôn ngữ phản
ánh những bản chất sâu xa của những hiện tƣợng ngữ nghĩa - ngữ dụng
của ngôn ngữ. Nói một cách cụ thể ngôn ngữ độc thoại mang đậm phong
cách văn bản, thể hiện trong hàng loạt các thể loại văn bản: hành chính sự
vụ, chính luận khoa học, văn học nghệ thuật... Vì vậy, ngôn ngữ ở đó đƣợc
sắp xếp một cách trình tự, bài bản, chuẩn mực, lời lẽ đƣợc gọt giũa. Theo
Đỗ Hữu Châu “Trong quá trình nói và viết đó, ngƣời nhận bị trừu tƣợng
hoá, xem nhƣ không có mặt, nhƣ không có ảnh hƣởng gì tới việc nói và
viết cả” và “nó xuất phát từ nguyên lí câu chỉ có một chiều: ngƣời nói
(viết) - câu” [Đỗ Hữu Châu & Bùi Minh Toán 1993: 227]. Cũng vì thế,
nghiên cứu ngôn ngữ độc thoại thƣờng chú trọng phƣơng diện cấu trúc, tổ
chức, hình thức độc thoại, liên kết và sự mạch lạc trong các phát ngôn,
v.v.
Độc thoại là một hình thức giao tiếp. Một bài diễn văn, một bài thơ,
một cuốn tiểu thuyết,... do ai đó đọc hoặc viết ra cũng nhằm mục đích là
hƣớng tới một cuộc trao đổi. Có điều, đối tƣợng trao đổi ở đây gần nhƣ đã
đƣợc xác định, thuần nhất hơn (một bài báo viết về bóng đá dĩ nhiên phải
có đích cho những ai quan tâm tới thể thao...). Chủ đề, nội dung cũng ít có
sự xáo trộn, biến thiên bất ngờ nhƣ trong đối thoại. Sự giao tiếp là một
hoạt động của con ngƣời trong xã hội. Vì thế khi nghiên cứu về độc thoại
không thể bỏ qua những yếu tố liên quan đến con ngƣời và xã hội nhƣ tâm
lí, phong tục, văn hoá, dân tộc... Và phƣơng pháp phân tích ngôn ngữ độc
thoại chủ yếu là phƣơng pháp phân tích câu, phân tích văn bản cũng nhƣ
những khái niệm về hệ thống, cấu trúc ngôn ngữ.
Đặc thù của độc thoại là hình thức giao tiếp một chiều, cấu trúc
cũng đa dạng và phong phú, có thể phục vụ truyền tải thông tin, mệnh lệnh
11
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao hoặc báo cáo, diễn thuyết... Cho nên ứng với mỗi mục đích giao tiếp cụ
thể mà độc thoại có hình thức thể hiện riêng sao cho thích hợp.
2. Các dạng độc thoại trên văn bản
Các kiểu văn bản, các thể loại văn bản và các phong cách của văn
bản riêng lẻ là sản phẩm của hoạt động lời nói. Chúng thuộc bình diện của
lời nói. Ngôn ngữ độc thoại là thứ ngôn ngữ trình bày và ngôn ngữ biểu
hiện bao gồm cả tính nghệ thuật và phi nghệ thuật của ngôn ngữ. Độc
thoại trên văn bản cũng có rất nhiều kiểu loại khác nhau.
Văn bản vốn đƣợc xây dựng theo một phong cách chức năng
thƣờng có nhiều kiểu. Trƣớc khi bắt tay vào công việc miêu tả chính của
mình, chúng tôi xin dừng lại đôi chút để bàn về các thuật ngữ văn bản và
diễn ngôn. Văn bản với vai trò là đối tƣợng nghiên cứu của ngôn ngữ học
có rất nhiều cách hiểu khác nhau. Đến nay số lƣợng các định nghĩa về văn
bản đã nhanh chóng tăng lên đến mức không dễ dàng kiểm soát đƣợc.
Chúng tôi xin trích dẫn một vài định nghĩa làm ví dụ, và điều đáng chú ý
là với các định nghĩa này không phải ở đâu ngƣời ta cũng để ý đến sự
phân biệt văn bản với diễn ngôn:
1. “…văn bản đƣợc xét nhƣ một lớp phân chia đƣợc thành các khúc
đoạn.” (L. Hjelmslev, 1953).
2. “ Văn bản đƣợc hiểu ở bậc điển thể là phát ngôn bất kì có kết
thúc và có liên kết, có tính chất độc lập và đúng ngữ pháp”. (W. Koch,
1966).
3. Văn bản “là chuỗi nối tiếp của các đơn vị ngôn ngữ đƣợc làm
thành bởi một dây chuyền của các phƣơng tiện thế có hai trắc diện”. (trục
dọc và trục ngang D.Q.B) (R. Harweg, 1968).
12
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao
4. “Chúng ta sẽ gọi cái khách thể của xuyên ngôn ngữ học
(translinguistique) là diễn ngôn (discourse)- tƣơng tự với văn bản (texte)
do ngôn ngữ học nghiên cứu, và chúng ta sẽ định nghĩa nó (hãy còn là sơ
bộ ) nhƣ là một đoạn lời nói hữu tận bất kì, tạo thành một thể thống nhất
xét từ quan điểm nội dung, đƣợc truyền đạt cùng với những mục đích giao
tiếp thứ cấp, và có một tổ choc nội tại phù hợp với những mục đích này,
vả lại (đoạn lời này) gắn bó với những nhân tố văn hoá khác nữa, ngoài
những nhân tố có quan hệ đến bản thân ngôn ngữ (langue)” (Barthes,
1970).
5. “Một văn bản là một đơn vị của ngôn ngữ trong sử dụng. Nó
không phảI là một đơn vị ngữ pháp loại nhƣ một mệnh đề hay một câu;
mà nó cũng không đƣợc xác định bằng kích cỡ của nó […] Một văn bản
không phải là một cái gì loại nhƣ một câu, chỉ có điều là lớn hơn; mà nó là
một cái khác với một câu về mặt chủng loại.
Tốt hơn nên xem xét một văn bản nhƣ là một đơn vị nghĩa: một đơn
vị không phải của hình thức mà là của ý nghĩa.” (Halliday, 1976- 1994).
6. “Văn bản có thể định nghĩa là điều thông báo viết có đặc trƣng là
tính hoàn chỉnh về ý và cấu trúc và thái độ nhất định của các tác giả đối
với điều đƣợc thông báo […] Về phƣơng diện cú pháp, văn bản là một hợp
thể nhiều câu (ít khi là một câu) liên kết với nhau bởi ý và bằng các
phƣơng tiện từ vựng- ngữ pháp”. (L.M. Loseva, 1980).
7. “Nói một cách chung nhất thì văn bản là một hệ thống mà trong
đó các câu mới chỉ là các phần tử. Ngoài các câu- phần tử, trong hệ thống
văn bản còn có cấu trúc. Cấu trúc của văn bản chỉ ra vị trí của mỗi câu và
những mối quan, liên hệ của nó với những câu xung quanh nói riêng và
13
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao với toàn văn bản nói chung. Sự liên kết là mạng lƣới của những quan hệ
và liên hệ ấy”. (Trần Ngọc Thêm, 1985).
8. “Văn bản là một chuỗi ngôn ngữ giải thuyết đƣợc ở mặt hình
thức, bên ngoài ngữ cảnh”, (Cook, 1989).
9. “Văn bản là một sản phẩm diễn ngôn xuất hiện một cách tự nhiên
dƣới dạng nói, viết hoặc biểu hiện bằng cử chỉ, đƣợc nhận dạng vì những
mục đích phân tích. Nó thƣờng là một chỉnh thể ngôn ngữ với một chức
năng giao tiếp có thể xác định đƣợc ví dụ nhƣ một cuộc thoại, một tờ áp
phích”. (D. Crystal, 1992).
10. “Diễn ngôn là những chuỗi ngôn ngữ đƣợc nhận biết là trọn
nghĩa, đƣợc hợp nhất lại và có mục đích”. (Cook, 1992).
11. “Diễn ngôn là một chuỗi nối tiếp của ngôn ngữ (đặc biệt là
ngôn ngữ nói) lớn hơn một câu, thƣờng cấu thành một chỉnh thể có tính
mạch lạc, kiểu nhƣ một bài diễn thuyết giáo, tranh luận, truyện vui hoặc
truyện kể”. (Crystal, 1992).
12. “Diễn ngôn là chuỗi liên tục những phát ngôn S1,…, Sn, trong
đó việc giải thuyết nghĩa của mỗi phát ngôn Si (với 2 ≤ i ≤ n) lệ thuộc vào
sự giải thuyết những phát ngôn trong chuỗi S1, …, Si- 1. Nói cách khác,
sự giải thuyết thoả đáng một phát ngôn tham gia diễn ngôn đòi hỏi phải
biết ngữ cảnh đi trƣớc”. (I.Bellert, 1971).
13. “Chúng ta sẽ sử dụng văn bản nhƣ một thuật ngữ chuyên môn,
để nói đến việc ghi lại bằng ngôn từ của một hành động giao tiếp”. (G.
Brown và G. Yule, 1983).
14. “… tôi sẽ sử dụng thuật ngữ văn bản để chỉ bất kì cái nào ghi
bằng chữ viết của một sự kiện giao tiếp” (D. Nunan, 1993).
14
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao
15. Văn bản: 1. Một quãng viết hay phát ngôn, lớn hoặc nhỏ, mà do
cấu trúc, đề tài- chủ đề v.v… của nó, hình thành nên một đơn vị, loại nhƣ
một truyện kể, một bài thơ, một đơn thuốc, một biển chỉ đƣờng v.v…2.
Văn học. Trƣớc hết đƣợc coi nhƣ một tài liệu viết, thƣờng đồng nghĩa với
sách, […] 3. Trong PHÂN TÍCH DIỄN NGÔN, đôi khi đƣợc đánh đồng với
ngôn ngữ viết, còn diễn ngôn thì đƣợc dành cho ngôn ngữ nói, hoặc diễn
ngôn đƣợc dùng bao gồm cả văn bản (Bách khoa thư ngôn ngữ và ngôn
ngữ học. Chủ biên Asher. Pergamon Press. Tập 10. Phần chú giải thuật
ngữ, tr. 5180).
Chúng tôi theo cách hiểu của Phạm Văn Tình:
Thuật ngữ văn bản (text) (và đi theo nó là các thuật ngữ phân tích
văn bản, ngữ pháp văn bản, ngôn ngữ học văn bản,...) lâu nay - đặc biệt là
thời kì đầu - thƣờng đƣợc hiểu là các văn bản liên kết chủ yếu mang tính
đặc thù của ngôn ngữ viết. Nó thƣờng đƣợc coi là sản phẩm mang dấu ấn
của một cá nhân nào đó sáng tạo ra. Nó “đƣợc định nghĩa nhƣ một đơn vị
ngôn ngữ học lớn hơn câu hợp thành bởi các câu chữ đƣợc chuẩn hoá.
Ngôn ngữ học văn bản đề cập tới các điều kiện ngôn ngữ nội tại góp phần
vào việc thiết lập nên văn bản : sự liên kết, tính mạch lạc và cách thức tổ
chức” [Asher (Ed.) 1994 : 4578]. Xuất phát từ quan niệm nhƣ vậy nên
trƣớc đây, đa số các nhà ngữ học văn bản hầu nhƣ chỉ quan tâm tới các
loại hình văn bản đƣợc xây dựng theo những định hƣớng về chủ đề và bố
cục nhất định, thoát li khỏi các bối cảnh giao tiếp bằng lời.
Còn thuật ngữ diễn ngôn (discourse - còn đƣợc dùng là diễn từ, ngôn
bản, ngôn phẩm,...) thƣờng đƣợc hiểu là một chuỗi phát ngôn đƣợc thực
hiện trong giao tiếp bằng lời. Dĩ nhiên nói nhƣ vậy không hàm ý diễn
ngôn chỉ dùng cho các phát ngôn mang tính hội thoại (dialogue), mà còn
15
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao chỉ cả các trƣờng hợp đơn thoại, nhƣ các bài diễn văn, phát biểu, thuyết
trình... Tuy nhiên, do đặc thù thể hiện (đƣợc phát âm thành lời), có ngƣời
nghe trực tiếp (cử toạ) mà mọi diễn ngôn loại này nói chung thƣờng đƣợc
coi là đối tƣợng nghiên cứu của lí thuyết hội thoại [Phạm Văn Tình 2002: 28-
29].
Văn bản nhƣ vậy, có nhiều loại. Những kiểu văn bản này đƣợc
phân biệt trên cơ sở sự khác biệt về chức năng, nội dung... bao gồm: văn
bản khoa học bao gồm kiểu tự nhiên, kiểu xã hội; văn bản báo chí có: văn
bản tin tức (thông tấn), văn bản chính luận, văn bản quảng cáo; văn bản
chính luận lại chia ra: kiểu chính trị, kiểu kinh tế, kiểu pháp quyền, kiểu
đạo đức, kiểu nghệ thuật, kiểu tôn giáo; văn bản hành chính- công vụ chia
ra: kiểu hành chính - giấy tờ (quản lí), kiểu luật pháp, kiểu quân sự, kiểu
ngoại giao, kiểu thƣơng mại, kiểu kinh tế, v. v. Mỗi kiểu văn bản lại đƣợc
chia ra các thể loại văn bản. Các thể loại văn bản đƣợc phân biệt trên cơ
sở sự khác biệt về kết cấu, về tu từ. Ví dụ: kiểu văn bản quân sự chia ra
các thể loại: mệnh lệnh, báo cáo, điều lệnh, quy tắc, huấn thị... Với mỗi
loại văn bản ấy lại có một loại độc thoại tƣơng ứng: độc thoại mệnh lệnh
(các khẩu lệnh quân sự, chẳng hạn), độc thoại quy tắc, độc thoại huấn thị...
Nhƣ chúng ta đã biết hình thức độc thoại thƣờng gặp trong mệnh
lệnh quân sự, trong diễn văn, trong các bản báo cáo, trong các bài nói của
phát thanh viên truyền thanh, truyền hình... Đó là loại độc thoại trình bày,
diễn thuyết. Chúng ta còn gặp một loại độc thoại đặc biệt rất phổ biến
trong các văn bản nghệ thuật (cụ thể là các tác phẩm văn học) đó là độc
thoại nội tâm. Loại độc thoại này đƣợc các nhà văn sử dụng nhƣ một thủ
pháp nghệ thuật đặc sắc nhằm miêu tả chân thực tƣ duy, tình cảm, thái
độ.... của các nhân vật. Nhà văn hoà mình, “hoá thân”, sống cùng nhân
vật. Từ đó bộc lộ rõ nét bản chất tính cách con ngƣời.
16
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao
Vậy thì, thế nào là độc thoại nội tâm? Độc thoại nội tâm thƣờng
đƣợc dùng trong hoàn cảnh nào? Nhằm mục đích gì? Đó là những vấn đề
mà chúng tôi sẽ làm sáng tỏ trƣớc khi tiến hành các bƣớc miêu tả trong
luận văn này.
3. Quan niệm về độc thoại nội tâm của luận văn
Độc thoại đƣợc hiểu nôm na là nói một mình. Độc thoại tồn tại ở cả
dạng nói và dạng viết. Ngôn ngữ độc thoại dù ở dạng nói hay dạng viết
đều rất ngắn gọn, cô đọng có logic nhƣng có thể dài dòng, rất chi tiết để
cho ngƣời nghe, ngƣời đọc dễ hiểu, dễ nắm bắt.
Độc thoại nội tâm là một loại độc thoại tồn tại chủ yếu trong văn
bản nghệ thuật (truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, ký sự, bút ký...). Các
nhà văn thƣờng sử dụng độc thoại nội tâm nhƣ một thủ pháp nghệ thuật
nhằm miêu tả một cách chân thực và sống động bản chất của con ngƣời
với lối sống, suy nghĩ, tâm tƣ, tình cảm trong xã hội. Đó chính là bản chất
xã hội của ngôn ngữ độc thoại nội tâm.
Độc thoại nội tâm, một dạng “nói một mình”, tức nhà văn muốn sử
dụng một ngôn ngữ riêng, bỏ qua ngƣời đối thoại trực tiếp nhằm thực hiện
ý đồ thể hiện của mình là đào sâu tính cách nhân vật. Đây có thể coi là
một “hành vi mƣợn lời” (mƣợn lời nhân vật) để thể hiện dụng ý của nhà
văn. Sự hoán vị điểm nhìn làm cho nhân vật đƣợc khai thác sâu hơn khía
cạnh tâm lí, diễn biến tƣ tƣởng hành động. Vì vậy, sự tình miêu tả sau đó
có sức thuyết phục hơn. Đó cũng là một hƣớng thể hiện “cao tay”, là cái
tài của nhà văn. Theo A. Trovenskij, độc thoại nội tâm là “hình thức ngôn
ngữ của tƣ duy và ấn tƣợng nhân vật. Trong cấu trúc của nó, có thể xuất
hiện hai phƣơng hƣớng, muốn diễn đạt trật tự suy nghĩ và ấn tƣợng nhân
17
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao vật, phản ánh chúng trong những hình thức giao tiếp” [Dẫn theo Nguyễn
Thị Tuyết Mai, Báo cáo khoa học, Viện Ngôn ngữ học 2003].
Độc thoại nội tâm thƣờng liên quan tới cuộc sống thƣờng nhật, về
bản thân, về xã hội, về gia đình, bạn bè... ở khía cạnh những toan tính, suy
nghĩ, tâm tƣ, tình cảm mà ngƣời khác không thể biết. Theo nghĩa từ điển
thì độc thoại nội tâm nghĩa là lời nhân vật trong tác phẩm nghệ thuật tự
nói với mình về bản thân mình. Theo chúng tôi hiểu thì độc thoại nội tâm
là dòng suy nghĩ của con ngƣời thể hiện những tâm tƣ, tình cảm, trạng thái
tâm lý thầm kín, không phát ra thành lời. Trong văn bản nghệ thuật, độc
thoại nội tâm đƣợc thể hiện bằng thứ ngôn ngữ mang tính khẩu ngữ tự
nhiên (có sự bố trí, sắp đặt để đạt mục đích riêng của nhà văn). Vì thế các
phát ngôn trong các đoạn độc thoại nội tâm có thể chƣa thành câu (đoản
ngữ động từ, đoản ngữ danh từ…), có thể là câu (câu đơn, câu phức).
Vì là lời của con ngƣời tự nói với mình mà ngƣời khác không thể
biết nên độc thoại nội tâm chính là hình thức giao tiếp một chiều. Vì thế
khi nghiên cứu về độc thoại nội tâm chúng ta không thể bỏ qua các yếu tố
liên quan đến con ngƣời và xã hội nhƣ tâm lí, phong tục, văn hoá, dân
tộc...
Độc thoại nội tâm là một loại độc thoại nên nó cũng mang đầy đủ
những tính chất, đặc thù của độc thoại thông thƣờng. Ngoài ra nó còn có
những đặc điểm riêng cả về cấu trúc, hình thức tổ chức độc thoại, thậm chí
cả về ngôn ngữ. Chính vì độc thoại nội tâm mang màu sắc cá nhân nên
ngôn ngữ theo đó cũng có những nét riêng theo từng cá nhân. Độc thoại
nội tâm là dòng suy nghĩ “chảy âm thầm trong óc” con ngƣời nó không
đƣợc thể hiện bằng âm thanh nhƣng khi đƣợc thể hiện dƣới dạng viết nó
mang đậm tính khẩu ngữ tự nhiên của con ngƣời. Mà theo quan điểm của
18
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao Ngữ dụng học thì đó là thứ ngôn ngữ xã hội sinh động và cũng rất chuẩn
mực. Nó phản ánh bản chất sâu xa của những hiện tƣợng ngữ nghĩa- ngữ
dụng của ngôn ngữ. Dĩ nhiên, nó phải tuân thủ nguyên tắc thể hiện mà mọi
ngôn ngữ đang hành chức. Nhà văn cũng qua những dòng độc thoại nội
tâm đó mà phản ánh đƣợc hết sức trung thực những đặc điểm của phƣơng
ngữ từng vùng cũng nhƣ phong tục, văn hoá của từng vùng.
Ngôn ngữ của độc thoại nội tâm cũng là thứ ngôn ngữ đƣợc xã hội
hoá cao độ, mang tính chất chuẩn mực nhƣng đƣợc khoanh vùng ở từng
địa phƣơng cụ thể. Nhƣ vậy ngôn ngữ độc thoại nội tâm tuân theo những
quy tắc, những chuẩn mực của phƣơng ngữ từng vùng. Đó chính là đặc
điểm nổi bật của hình thức thể hiện của ngôn ngữ độc thoại nội tâm trong
văn bản nghệ thuật.
Độc thoại nội tâm không giới hạn về không gian và thời gian. Nó
thƣờng xuất hiện sau mỗi biến cố, mỗi sự kiện xảy ra trong văn bản nghệ
thuật. Do mang đặc thù của độc thoại (hình thức giao tiếp một chiều), độc
thoại nội tâm không có sự tƣơng tác qua lại.
Về kết cấu và cách thức thể hiện nội dung trong độc thoại nội tâm
cũng có những đặc thù riêng biệt. Có những lời độc thoại nội tâm đƣợc thể
hiện bằng cả một đoạn văn dài với sự liên kết chặt chẽ (cả về nội dung lẫn
hình thức) của nhiều phát ngôn. Nhƣng cũng có những lời độc thoại chỉ là
một phát ngôn và phát ngôn này là kết quả của một loạt sự tình đã đƣợc
nêu ra từ trƣớc....Ở đây chúng tôi đề nghị gọi những cấu trúc, tổ chức các
phát ngôn độc thoại là các đoạn văn độc thoại nội tâm hay là các đoạn độc
thoại nội tâm. Khái niệm đoạn văn đƣợc hiểu theo quan điểm: “Đoạn văn
còn đƣợc dùng để chỉ một phần trích bất kì, mà xét trong quan hệ với toàn
văn bản chứa nó thì nó tỏ ra là không hoàn toàn độc lập…Khi phần trích
19
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao này tự nó là tƣơng đối trọn vẹn và đầu đề đƣợc gán cho hợp lí thì ngƣời ta
có thể coi nó nhƣ một “bài”, “bài văn” tuy nhiên ít nhiều phải chỉ ra tƣ
cách phần trích của nó.” (Diệp Quang Ban, Văn bản và liên kết trong
tiếng Việt, tr.202, 203).
Trong văn bản nghệ thuật, các đoạn độc thoại nội tâm đƣợc phát
hiện thông qua các hình thức sau: một câu kể nhƣ : ông, y, hắn, cụ, bà, nó,
thị,... nghĩ rằng, nghĩ bụng: (sau dấu hai chấm này, lời độc thoại bắt
đầu),... Đây là hình thức phổ biến nhất, rất dễ nhận diện trên văn bản.
Nhƣng cũng có những đoạn độc thoại nội tâm không dễ dàng phát hiện
nhƣ vậy, có những đoạn độc thoại lời độc thoại đan cài, xen lẫn lời dẫn
chuyện, khi gặp những đoạn độc thoại nội tâm nhƣ thế chúng ta cần phải
xem xét cả một loạt sự tình khác trong văn bản thì mới có thể chỉ ra chính
xác ranh giới giữa chúng.
Cách thức thể hiện nội dung của các đoạn độc thoại nội tâm trong
văn bản nghệ thuật có cách thức nhập đề, cách thức kết thúc. Cách thức
nhập đề lại đƣợc chia ra: dẫn thoại trực tiếp, dẫn thoại gián tiếp.... Cách
thức kết thúc có kết thúc đóng, kết thúc mở.... Khi nghiên cứu độc thoại
nội tâm chúng ta không thể bỏ qua bất kì hình thức nào.
Đƣợc thể hiện dƣới dạng viết trong văn bản nghệ thuật, khi lời độc
thoại nội tâm là một đoạn văn, nó mang trong mình tất cả các hình thức
liên kết của văn bản (cả liên kết hình thức, cả liên kết nội dung); mạch lạc
chủ đề và mạch lạc tâm lí... Nghiên cứu ngôn ngữ độc thoại nội tâm
thƣờng trú trọng phƣơng diện cấu trúc, tổ chức và liên kết các phát ngôn
nhƣ là một hành vi xã hội, và chú ý cả về tính đúng sai của các câu nhìn
theo góc độ hệ thống. Về phƣơng pháp nghiên cứu độc thoại nội tâm, có
rất nhiều câu hỏi đã đƣợc đặt ra: Ngƣời ta đề cập tới những vấn đề gì?
20
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao Những vấn đề đó đƣợc đặt ra trong hoàn cảnh nào? Có công khai hay
không? Ngƣời ta sử dụng thứ ngôn ngữ nào? Có dễ nhận biết hay không?
Ngƣời ta tổ chức và chi phối độc thoại nội tâm nhƣ thế nào để đạt đƣợc
mục đích đề ra?... Do vậy, phƣơng pháp phân tích độc thoại nội tâm chủ
yếu là phƣơng pháp phân tích cấu trúc hình thức, phân tích câu, phân tích
văn bản, diễn ngôn,... cũng nhƣ những khái niệm về hệ thống, cấu trúc
ngôn ngữ.
Độc thoại nội tâm trong văn bản nghệ thuật có những giá trị nhất
định trong việc thể hiện các ý đồ trong cách sáng tạo của nhà văn. Nó góp
phần khẳng định chủ đề của tác phẩm, góp phần làm nên đặc trƣng phong
cách tác giả.
4. Tiểu kết
Độc thoại nội tâm trong các văn bản nghệ thuật là một hình thức
độc thoại đặc biệt, khác hẳn với các loại độc thoại khác về tính chất, cách
sử dụng và hoàn cảnh sử dụng. Độc thoại nội tâm xuất hiện chủ yếu trong
văn bản nghệ thuật (truyện ngắn, truyện dài, truyện vừa, tiểu thuyết, ký sự,
bút ký…). Rất nhiều nhà văn đã sử dụng độc thoại nội tâm nhƣ một thủ
pháp nghệ thuật độc đáo và đặc sắc để thể hiện ý đồ sáng tạo nghệ thuật
trong các tác phẩm của mình. Nam Cao là một trong số các nhà văn đã sử
dụng các đoạn độc thoại nội tâm một cách chính xác và đạt hiệu quả nghệ
thuật cao trong các tác phẩm của ông. Trên cơ sở lý thuyết chúng tôi đã
lựa chọn nghiên cứu và xem xét ở chƣơng này, chúng tôi sẽ đi vào miêu tả
và phân tích cách thể hiện của ngôn ngữ trong các đoạn độc thoại nội tâm
mà nhà văn Nam Cao đã sử dụng thành công trong tác phẩm của ông. Từ
đó thấy đƣợc nét độc đáo, đặc sắc trong bút pháp truyện ngắn Nam Cao
21
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao nói riêng và bút pháp văn Nam Cao nói chung. Cũng trên cơ sở ứng dụng
kiến thức lí luận đó miêu tả, phân tích chính xác ngôn ngữ thể hiện trong
độc thoại nội tâm góp phần vào nghiên cứu một cách hệ thống về một hình
thức giao tiếp đặc biệt của con ngƣời: độc thoại- hình thức giao tiếp một
chiều.
CHƢƠNG 2
CẤU TRÚC CỦA CÁC ĐOẠN ĐỘC THOẠI NỘI TÂM
TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO
1. Hình thức thể hiện của các đoạn độc thoại nội tâm
Hi sinh ở tuổi 36 khi đang trên đƣờng làm nhiệm vụ Cách mạng
(1951), sự nghiệp văn chƣơng của Nam Cao để lại cho chúng ta không
phải nhiều tác phẩm (vài chục truyện ngắn, vài truyện viết cho thiếu nhi,
dăm tập bút kí, nhật kí, tiểu luận, 2 tiểu thuyết một dài, một vừa) nhƣng
chừng đó cũng đủ để khẳng định rằng Nam Cao là một nhà văn hiện thực
xuất sắc, đại diện cho một thế hệ nhà văn phản ánh những thăng trầm lịch
sử của xã hội ta nửa đầu thế kỉ XX. Với một phong cách mới, sắc sảo của
22
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao một nhà văn đầy bản lĩnh, Nam Cao đã khắc hoạ, đã miêu tả rất chi tiết,
sống động chân dung con ngƣời chủ yếu là ngƣời nông dân và tầng lớp
tiểu tƣ sản trí thức nghèo trong những năm đầu thế kỷ XX. Nói về nghệ
thuật văn ông có rất nhiều, nhƣng nhà văn của chúng ta đã rất thành công
trong việc sử dụng hình thức tự truyện, kết cấu tâm lí nhân vật. Càng
ngày, tác phẩm của Nam Cao để lại càng đƣợc khẳng định nhƣ một phong
cách độc đáo, mới lạ - một tên tuổi lớn của dòng văn học hiện thực phê
phán. Và nét độc đáo tạo nên phong cách rất Nam Cao đó chính là khắc
hoạ tâm lí nhân vật bằng các đoạn độc thoại nội tâm mang chiều sâu của
sự suy nghĩ. Nhà văn đã khéo léo để nhân vật tự bộc bạch tất cả những suy
nghĩ, những tâm sự, buồn vui, đau đớn, day dứt trào lên từ đáy sâu tâm
hồn con ngƣời qua những đoạn độc thoại đó mà khi đọc chúng ta không hề
thấy có sự gƣợng ép nào trong đó. Theo Hà Minh Đức “Nam Cao vận
dụng nhiều độc thoại nội tâm để biểu hiện nhân vật. Nhân vật sống với kỉ
niệm, với hiện tại và cả chút mơ ƣớc với tƣơng lai. Nhân vật sống với mọi
ngƣời và riêng cả với bản thân mình qua những tâm trạng. Nam Cao
không phải là nhà văn đầu tiên sử dụng độc thoại nội tâm, nhƣng là tác giả
vận dụng nhiều nhất và có hiệu quả nhất độc thoại nội tâm (...). Độc thoại
nội tâm xen giữa dòng đối thoại, đi sâu vào hồi tƣởng quá khứ và mong
ƣớc với mai sau” [Hà Minh Đức, trong Nhiều tác giả 1998: 409]. Sử dụng
độc thoại nội tâm chỉ là một khía cạnh trong nghệ thuật văn ông. Nhƣng
chính điều này đã góp một phần lớn trong sự thành công của nhà văn Nam
Cao mà tất cả chúng ta - thế hệ sau này không thể phủ nhận đƣợc khi tìm
hiểu nghệ thuật của ông. Dù rằng, tài văn, phong cách của Nam Cao đƣợc
bộc lộ qua nhiều cách thức biểu hiện khác nhau (chủ đề, cấu tứ, cách nói,
câu chữ,...).
23
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao 1.1. Các phát ngôn cấu thành các đoạn độc thoại nội tâm
Qua lựa chọn và khảo sát 22 truyện ngắn, bút ký trong Nam Cao
toàn tập (2 tập, NXB Văn học, Hà Nội, 2003) chúng tôi đã thống kê đƣợc
88 đoạn độc thoại nội tâm với 640 phát ngôn độc thoại. Hình thức thể hiện
các phát ngôn trong các đoạn độc thoại đó rất đa dạng và phong phú. Có
những phát ngôn chƣa thành câu, có những phát ngôn lại đƣợc thể hiện
dƣới dạng những câu ngắn, dài, rút gọn (tỉnh lƣợc, vô nhân xƣng, định
danh...).
Các phát ngôn chƣa thành câu nhƣ:
Ừ!
Trời ơi!
Gớm!...
có khoảng 28 phát ngôn phân bố không đồng đều, rải rác trong các đoạn
độc thoại. So với các phát ngôn là câu thì loại phát ngôn này chiếm một số
lƣợng ít, có những tác phẩm hầu nhƣ không có loại phát ngôn này chẳng
hạn nhƣ: Cách mạng, Từ ngược về xuôi, Ở hiền...
Các phát ngôn đƣợc thể hiện dƣới dạng những câu rút gọn (hoặc
thiếu chủ ngữ, hoặc thiếu vị ngữ, hoặc là những câu vô nhân xƣng, những
câu định danh) nhƣ:
Còn phây phây quá đi nữa.
Đi lâu thế không biết rằng đi đâu.
Có của mà vẫn khổ.
Thật đốn mạt.
Thế nào là mềm nắn rắn buông.
Thôi thì đành nhẽ....
24
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao có khoảng 123 phát ngôn, phân bố không đồng đều, cũng có những tác
phẩm, các đoạn độc thoại không hề có loại phát ngôn này. Chẳng hạn: Đợi
chờ, Tư cách mõ.
Các phát ngôn đƣợc thể hiện dƣới dạng là câu đơn, câu phức chiếm
số lƣợng nhiều nhất, phân bố đồng đều, hầu nhƣ truyện ngắn nào, các
đoạn độc thoại cũng đều có hai loại phát ngôn này. Các phát ngôn trong
các đoạn độc thoại là câu đơn có khoảng 200. Các phát ngôn là câu phức
có khoảng 289. Các phát ngôn là câu phức chiếm số lƣợng nhiều nhất,
phân bố dày đặc trong các đoạn độc thoại thể hiện rất chi tiết bức tranh
suy nghĩ nội tâm logic của nhân vật. Có những đoạn độc thoại chỉ toàn các
phát ngôn là câu phức. Chẳng hạn nhƣ: “Trƣớc hồi Tổng khởi nghĩa vài ba
tháng, tôi ở Hà Nội về quê. Một sự ngạc nhiên: ông cháu bất trị của tôi
đến thăm tôi, việc ấy không thƣờng. Mà việc này mới lại không thƣờng
nữa: ông ấy hỏi thăm tôi về tình hình Hà Nội, về Nhật, về Pháp, về các
mặt trận, về sự hoạt động của Việt Minh trên các chiến khu và trong khắp
nƣớc. Ông ấy thở ra mùi chính trị. Tôi hơi chột dạ: “Coi chừng nhé!
Thằng nào chứ thằng này thì có đủ tƣ cách làm mật thám”. Tôi nghĩ vậy.
Trong câu truyện, tôi hết sức dè dặt và kín đáo” (Đường vô Nam, tr. 354,
tập II). Rồi: “Còn bà mẹ nữa! Có bà mẹ nào không muốn cho con gái có
chồng? Bà nghĩ đã nát ruột về Nhu. Bà thừa hiểu rằng cái cảnh gái già
chẳng sung sƣớng gì đâu! Bây giờ còn mẹ nên Nhu chƣa thấy khổ, nhƣng
một mai bà trăm tuổi về già, bấy giờ Nhu phải ở với chị dâu, rồi mới biết.
Bởi vậy cho nên đối với việc ngƣời ta hỏi Nhu, bà tỏ ý lạc quan. Đã đành
anh chàng cũng có ý bòn của đây, nhƣng cái sự tham thì ở đời ai mà lại
chả tham? Nếu nhà nó giàu, nó đã chả chịu lấy Nhu là đứa đã hơn nó
những năm, sáu tuổi. Nó nghèo thì mình cho nó nhờ vả ít nhiều. Nó nhờ
25
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao vả mình thì phải nể con mình. Nó có nể con mình thì con mình mới khỏi
khổ, chứ cái bộ Nhu hiền nhƣ đất nặn thế nếu lấy phải thằng chồng vũ
phu, cậy của cậy tài, hay còn bố mẹ chồng thích hạnh hoẹ con dâu, thì đến
chỉ khóc lắm, sƣng mắt lên, rồi chết...”. Nam Cao đã sử dụng nhiều phát
ngôn là câu phức đủ cho thấy sự diễn biến tâm trạng phức tạp, lắt léo,
riêng tƣ của đời sống con ngƣời. Đó là bức tranh toàn cảnh về các phát
ngôn cấu thành các đoạn độc thoại nội tâm về số lƣợng và sự phân bố.
1.2. Cấu trúc hình thức của các đoạn độc thoại nội tâm
Theo khảo sát của chúng tôi, các đoạn văn độc thoại nội tâm của
Nam Cao thƣờng đƣợc cấu tạo bởi nhiều hình thức cấu trúc khác nhau, thể
hiện sự điêu luyện trong sử dụng ngôn ngữ của nhà văn. Các cấu trúc hình
thức thƣờng đƣợc Nam Cao dùng để xây dựng đoạn văn độc thoại nội tâm
là: cấu trúc cú pháp, cấu trúc liệt kê, cấu trúc diễn dịch và quy nạp, cấu
trúc đề- thuyết. Hình thức cấu trúc các đoạn văn độc thoại nội tâm đƣợc
dùng nhiều nhất trong 88 đoạn độc thoại nội tâm của Nam Cao đó là hình
thức cấu trúc diễn dịch và quy nạp. Tất cả những diễn biến tâm trạng,
những nỗi niềm, trăn trở của nhân vật xoay quanh trục chủ đề riêng biệt
của các đoạn độc thoại nội tâm theo ý đồ sáng tác của nhà văn về các vấn
đề xã hội, bản thân, gia đình, bạn bè. Cấu trúc diễn dich và quy nạp đƣợc
nhà văn sử dụng nhiều đã lý giải hết sức cặn kẽ những dòng suy nghĩ nội
tâm của nhân vật. Tƣ duy, tâm trạng, nỗi niềm thầm kín, sâu lắng của các
loại nhân vật nhƣ đƣợc chụp lại nguyên bản, đầy đủ bằng thứ ngôn ngữ
ngắn gọn, cô đọng, dễ hiểu qua cấu trúc trình bày hết sức logic. Nguồn
gốc phát sinh các đoạn độc thoại nội tâm đều có một nguyên cớ riêng biệt.
Các đoạn độc thoại nội tâm có cấu trúc diễn dịch kiểu nhƣ: “Bịch thấy
26
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao ngƣời ta lo đƣợc chút danh vị thật là chật vật. Nào tiền chồng quỹ. Nào
tiền chè lá đi nói với các ông kì cựu trong làng. Từ hàng phó lý cựu trở lên
chẳng ông nào là có thể bỏ qua: ông một vài đồng, ông dăm ba đồng cũng
có ông phải đƣa chục bạc; riêng cụ chỉ phải hai chục là ít nhất. Rồi lại còn
phải bữa rƣợu khao: gạo lợn năm nay không có năm trăm bạc đừng nói
chuyện. Năm trăm bạc, nguyên bữa rƣợu. Vậy tất cả chẳng đến ngót một
nghìn đó ƣ? Ngót nghìn đồng bạc, èo mẹ ơi!...” ( Mua danh, tr. 338, tập I)
chúng tôi đã thống kê đƣợc 45 đoạn. Có những đoạn độc thoại nội tâm lại
đƣợc cấu trúc theo lối suy lí diễn dịch (tam đoạn luận), ở đó “cách trình
bày có quan hệ đến bản chất phƣơng pháp suy lí là việc xác định tính
đúng/không đúng cho một nhận định, một kết luận.” (Theo Diệp Quang
Ban, Văn bản và liên kết trong tiếng Việt, tr.237). Chẳng hạn nhƣ: “Đàn
bà vốn chuộng hoà bình: họ muốn yên chuyện thì thôi, gai ngạnh làm chi
cho sinh sự. Vả lại, bà đội cũng nghĩ rằng: chồng mình đang ốm… chồng
mình có nợ ngƣời ta hẳn hoi… Và năm chục đồng bạc với nhà mình là
mấy, lôi thôi lại chả tốn đến ba lần năm trục đồng!” (Chí Phèo, tr. 100, tập
I). Cũng có nhiều đoạn độc thoại đƣợc trình bày theo lối quy nạp, chẳng
hạn: “Điều muốn nói với anh, tôi đành giữ kín trong lòng không nói nữa.
Tôi biết chẳng đời nào anh nhận làm một anh tuyên truyền nhãi nhép nhƣ
tôi. Vả lại dầu có rủ đƣợc anh làm nhƣ tôi, khoác cái balô lên vai, đi hết
làng nọ đến làng kia để nhận xét nông thôn một cách kỹ càng hơn cũng
chẳng ích gì. Anh đã quen nhìn đời và nhìn ngƣời một phía thôi. Anh
trông thấy anh thanh niên đọc thuộc lòng bài “ba giai đoạn” nhƣng anh
không trông thấy bó tre anh thanh niên vui vẻ vác đi để ngăn quân thù. Mà
ngay trong cái việc anh thanh niên đọc thuộc lòng bài báo nhƣ một con vẹt
biết nói kia, anh cũng chỉ nhìn thấy cái ngố bề ngoài của nó, mà không
thấy cái nguyên cớ thật đẹp đẽ ở bên trong. Vẫn giữ đôi mắt ấy để nhìn
27
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao đời thì càng đi nhiều, càng quan sát lắm, ngƣời ta chỉ càng thêm chua chát
và chán nản.” (Đôi mắt, tr. 467, tập II). Có những đoạn độc thoại nội tâm
lại đƣợc trình bày theo cấu trúc đề-thuyết. Trong đó Nam Cao đã sắp xếp
phần đề, phần thuyết trong những câu đứng nối tiếp nhau theo lối song
hành, móc xích, chẳng hạn nhƣ đoạn độc thoại nội tâm: “Thƣơng con thì
để bụng. Nuông con thà giết con đi. Trẻ con đứa nào chả thích ở nhà với
bố, với mẹ để chẳng ngƣời nào động đến thân? Đi ở cho nhà ngƣời ta, ăn
cơm của ngƣời ta. Làm không đƣợc, ngƣời ta thiệt thì ngƣời ta xót. Ngƣời
ta xót thì ngƣời ta phải nói. Nói, mình nghe thì chớ, không nghe thì ngƣời
ta phải chửi, phải đánh. Ngƣời ta đánh chửi cho là phúc nhà mình đấy.
Không đánh, không chửi, sao có nên thân ngƣời đƣợc?...” (Một đám cưới,
tr. 218, 219, tập I).
Nhƣ vậy, cấu trúc hình thức của các đoạn độc thoại nội tâm cũng rất
đa dạng và phong phú. Tất cả các loại cấu trúc hình thức này tuy thuộc về
cách bố cục (kết cấu) văn bản, tạo lập văn bản nhƣng nó cũng có vai trò
rất quan trọng trong việc tạo ra mạch lạc cho văn bản nói chung và trong
các đoạn văn nói riêng. Cụ thể là các cấu trúc hình thức này đã đƣợc nhà
văn lựa chọn sử dụng đúng và chính xác với đối tƣợng mà nhà văn cần
miêu tả (nông dân) đã tạo ra mạch lạc cho cả tác phẩm nói chung và các
đoạn văn độc thoại nội tâm nói riêng. Nhà văn đã sử dụng nhiều cấu trúc
hình thức diễn dịch, quy nạp đã thể hiện rất chính xác những suy lý giản
đơn, rõ ràng, dễ hiểu đặc trƣng của ngƣời nông dân.
1.3. Cách thức nhập đề của các đoạn độc thoại nội tâm
Các đoạn độc thoại dù ngắn hay dài cũng đều xuất phát từ ý đồ của
tác giả mà có. Theo sự khảo sát của chúng tôi thì hình thức nhập đề của
28
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao các đoạn độc thoại này cũng đƣợc thể hiện dƣới nhiều dạng khác nhau. Có
đoạn là dẫn thoại trực tiếp, có đoạn là dẫn thoại gián tiếp, có những đoạn
dẫn thoại trực tiếp và gián tiếp đan xen nhau. Nhƣ vậy là cách thức nhập
đề cũng rất phong phú. Hầu nhƣ các đoạn độc thoại lời độc thoại đƣợc dẫn
theo kiểu trực tiếp xen lẫn gián tiếp. Nhƣng cũng có những đoạn độc thoại
lời, độc thoại chỉ toàn trực tiếp hoặc chỉ toàn gián tiếp.
Các đoạn đƣợc dẫn thoại gián tiếp nhƣ: “Y nghĩ vậy. Y nghĩ vậy,
bởi vì y quá tin tƣởng vào luật pháp, vào công lý, vào sự ngay thẳng của
quan trên. Nhƣng làm gì có công lý, có sự ngay thẳng trong một cái xã hội
toàn nô lệ, dƣới quyền một cái chính phủ làm tay sai cho những quân kẻ
cƣớp. Luật pháp thì có đấy, nhƣng chỉ có để ngƣời ta dùng làm một sợi
thừng mà buộc cổ thằng dân...” (Cách mạng, tr. 359-360). Hay nhƣ: “Hắn
nghĩ đến câu nói hùng hồn của một nhà triết học kia: “Phải biết ác, biết tàn
nhẫn để sống cho mạnh mẽ”. Nhƣng hắn nghĩ theo rằng: Từ rất đáng yêu,
rất đáng thƣơng, hắn có thể hy sinh tình yêu, thứ tình yêu vị kỷ đi; nhƣng
hắn không thể bỏ lòng thƣơng; có lẽ hắn nhu nhƣợc, hèn nhát, tầm thƣờng,
nhƣng hắn vẫn còn đƣợc là ngƣời: hắn là ngƣời chứ không phải là một thứ
quái vật bị sai khiến bởi lòng tự ái. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác
trên đôi vai mình. Và lại hèn biết bao là một thằng con trai không nuôi nổi
vợ, con thì còn mong làm nên trò gì nữa?” (Đờithừa, tr. 603-604, tập I). Ở
các đoạn độc thoại kiểu này nhà văn đã dùng ngôi nhân xƣng thứ 3: y,
hắn, ông, cụ, bà... để miêu tả diễn biến tâm trạng của nhân vật. Nhƣng
không phải thế mà dòng suy nghĩ của nhân vật không thật và bị gián đoạn.
Dùng lời dẫn thoại gián tiếp nhƣng nội tâm của nhân vật vẫn đƣợc bộc lộ
một cách trung thực và rõ nét đó cũng chính là sự tài tình trong thủ pháp
nghệ thuật của nhà văn tuy các đoạn độc thoại kiểu này chiếm một số
lƣợng không nhiều lắm so với các hình thức nhập đề khác.
29
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao
Các đoạn độc thoại trong đó lời độc thoại đƣợc dẫn trực tiếp xen lẫn
gián tiếp nhƣ: “Nhƣng bỗng hắn lại hơi ngần ngại: biết đâu cái lão cáo già
này nó chả lại lừa hắn vào nhà rồi lôi thôi? Ồ mà thật, có thể nhƣ thế lắm!
Này nó hãy lôi ngay mấy cái mâm, cái nồi hay đồ vàng bạc ra khoác vào
cổ hắn, rồi cho vợ ra kêu làng lên, rồi cột cổ hắn vào, chần cho một trận
om xƣơng, rồi vu cho là ăn cƣớp thì sao? Cái thằng Bá Kiến này, già đời
đục khoét, còn đớn gì mà chịu lép nhƣ trấu thế? Thôi dại gì mà vào miệng
cọp, hắn cứ đứng đây này, cứ lại lăn ra đây này, lại kêu toáng lên xem
nào. Nhƣng nghĩ ngợi một tí, hắn lại bảo: kêu cũng không nƣớc gì! Lão
Bá vừa nói một tiếng, bao nhiêu ngƣời ai về nhà nấy, hắn có lăn ra kêu
nữa, liệu có còn ai ra? Vả lại bây giờ rƣợu nhạt rồi, nếu lại phải rạch mặt
thêm mấy nhát thì cũng đau. Thôi cứ vào! Vào thì vào, cần quái gì. Muốn
đập đầu thì vào ngay giữa nhà hắn mà đập đầu còn hơn ở ngoài. Cùng
lắm, nó có giở quẻ, hắn cũng chỉ đến đi ở tù. ở tù thì hắn coi là thƣờng.
Thôi cứ vào.” (Chí Phèo, tr. 87-88, tập I). Hay nhƣ: “Rồi ông ngồi lử thử.
Bởi vì ông buồn lắm. Chỉ lát nữa là ngƣời ta rƣớc Dần đi. Đêm hôm nay,
chỉ còn mình ông với hai đứa trẻ con. Nhà sẽ vắng ngắt vắng ngơ, chẳng
khác gì ngày vợ ông mới chết đi. Rồi chỉ mƣơi bữa nửa tháng là ông phải
bỏ nốt hai đứa con trai để ngƣợc... Chao ôi! Buồn biết mấy?... Ông đờ đẫn
cả ngƣời. Ông nghĩ bụng rằng: giá Dần không phải về nhà ngƣời ta, thì có
lẽ chẳng đời nào ông phải lên rừng; ông cứ ở nhà với ba con, bố con đùm
bọc với nhau, bây giờ bỏ lại hai đứa bé mà đi, ông thƣơng chúng nó
quá...” (Một đám cưới, tr. 233, tập I); “Bu chết đã ngót ba năm. Thầy bảo
thế. Thì ra ba năm cũng dài lắm nhỉ. Ninh cứ tƣởng bu Ninh chết đã lâu
lắm. Nhƣng trách gì!... Xƣa kia, những ngày bu đi chợ tỉnh, độ gần tối
chƣa về Ninh đã thấy mong. Ấy là mới vắng bu có một ngày. Mà nào đã
hết cả ngày. Bây giờ vắng bu bằn bặt những ba năm. Bao nhiêu ngày
30
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao tháng! Ninh thấy lâu là phải. Biết bao giờ bu lại về với con? Ninh bâng
khuâng cả ngƣời. Y nhƣ là năm mơ…” (Từ ngày mẹ chết, tr. 292, tập I).
Loại độc thoại đƣợc dẫn trực tiếp xen gián tiếp chiếm số lƣợng nhiều nhất.
Thông qua lời dẫn của tác giả chúng ta thấy đƣợc những suy nghĩ nội tâm
của nhân vật- đó là dẫn thoại gián tiếp, sau đó đƣợc bổ sung bằng lời dẫn
trực tiếp làm cho đoạn độc thoại có tính tự nhiên và liên tục không hề bị
gián đoạn. Qua đó chúng ta thấy đƣợc nhân vật nghĩ gì, làm gì, những
điều đó có hợp lý hay không hợp lí, thấy đƣợc nhân vật đó thuộc lớp nhân
vật nào (chính diện hay phản diện) từ đó thúc đẩy khả năng cảm nhận của
độc giả về nhân vật, về sự tình diễn ra trong truyện và cuối cùng thấy đƣợc
tâm tƣ tình cảm, những suy nghĩ về thời cuộc, về số phận con ngƣời với
những toan tính đời thƣờng của từng lớp ngƣời trong xã hội ở một thời
điểm lịch sử. Có thế chúng ta bây giờ mới có cái để so sánh, để đánh giá
và để nghiên cứu. Và có thế thì chúng ta bây giờ mới có một Nam Cao -
nhà văn hiện thực xuất sắc, đại diện cho cả một thế hệ nhà văn với trào lƣu
mới, trào lƣu miêu tả hiện thực xã hội. Một xã hội với tất cả những gì tốt
đẹp nhƣng cũng có những mặt trái của nó mà nếu chúng ta không để ý,
không biết thì không bao giờ thấy đƣợc. Ở những đoạn độc thoại đó tác
giả đã vừa dẫn trực tiếp vừa dẫn gián tiếp, phối hợp rất nhịp nhàng càng
làm tăng thêm hiệu quả miêu tả thực tâm trạng của nhân vật mà không hề
bị gián đoạn.
Có những đoạn độc thoại, tác giả để nhân vật tự nói những suy nghĩ,
toan tính của họ, đó là đoạn độc thoại đƣợc dẫn trực tiếp bằng lời của nhân
vật. Các đoạn độc thoại đó chẳng hạn nhƣ : “Gớm! Sao lại có thứ ngƣời
đâu mà lì quá thế! Ngƣời ta ngồi đây mà dám xán lăn ngay vào, nó chả
ngang ngƣợc mà ngƣời ta kêu bé, nó lại làm to hơn. Mà kể thì cũng ngù
ngờ. Cái thằng trời đánh không chết ấy, nó còn sợ ai mà hòng kêu. Nhƣng
31
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao mà đáng kiếp. Thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi là hôm nay nhọc đừ.
PhảI cho hắn ăn thứ gì thì mới đƣợc. Đang đau ốm thế thì chỉ ăn cháo
hành. Ra đƣợc mồ hôi thì là nhẹ nhõm ngƣời ngay đó mà…” (Chí Phèo, tr.
116, tập I). Hay nhƣ: “Hắn tặc lƣỡi và nghĩ bụng “tháng ba này thằng nào
thằng ấy đến ba ngày không đƣợc một bát cơm, dãi nhỏ ra, hết còn làm
bộ!”...” (Tư cách mõ, tr. 350, tập I). Hoặc: “Hắn lắc đầu tự bảo: “Thôi thế
là hết! Ta đã hỏng! Ta đã hỏng đứt rồi!”...” (Đời thừa, tr. 605, tập I). Sở dĩ
tác giả sử dụng lời trực tiếp của nhân vật cũng nhằm mục đích miêu tả xác
thực hơn tính cách nhân vật, diễn biến sự tình trong truyện, nhấn mạnh và
làm tăng hơn tính chất quan trọng của sự việc; đẩy những mâu thuẫn,
những thắc mắc, băn khoăn lên cao trào, tạo ra sự cuốn hút đối với độc giả.
Bà cô thị Nở giận đến phát điên ngƣời lên khi thấy cháu gái của mình có ý
định lấy Chí Phèo- một kẻ lƣu manh, liều mạng không cha không mẹ- làm
chồng: “Ngƣời đàn bà đức hạnh ấy thấy cháu bà sao mà đĩ thế. Thật đốn
mạt. Ngoài ba mƣơi tuổi mà chƣa chót đời. Ngoài ba mƣơi tuổi...ai lại còn
đi lấy chồng. Ai đời lại còn đi lấy chồng! Ừ ! Mà có lấy thì lấy ai chứ?...
Đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không
cha. Ai lại đi lấy một thằng chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ. Trời ơi! Nhục
nhã ơi là nhục nhã! Hỡi ông nhà bà!” (Chí Phèo, tr.120-121). Rồi ông Bá -
một quan tham trong chế độ xã hội cũ- cũng có sự đánh giá, trăn trở, đồng
tình trƣớc cuộc cách mạng của nhân dân ta: “Một tiếng nói bên trong cãi
lại ông: - Ấy thế mà họ cũng đã đánh Tây, đánh Nhật trên mạn ngƣợc. Họ
giết Nhật, giết mật thám giữa ban ngày ở ngay trong Hà Nội. Họ bắn song,
kéo cờ, diễn thuyết om xòm trong các chợ. Họ xui dân đừng nộp thóc, nộp
thuế, đi phu. Mà dân ra sự cũng dám nghe theo họ, mới lạ chứ. Ngày xƣa
nhƣ thế thì bố bảo! Có lẽ cũng đổi đời hay sao đó. Dân bây giờ cũng táo
bạo nhiều rồi. Họ lại hâm mộ Việt Minh lắm. Chẳng cần nói đâu xa, ngay
32
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao ở đây bây giờ mà Việt Minh nổi lên, chắc chắn là dân cũng theo ùn ùn”
(Cách mạng, tr. 374)...
Để có đƣợc đoạn độc thoại, nhà văn đã dùng rất nhiều lời dẫn khác
nhau. Có những lời dẫn là một câu kể, có những lời dẫn là một câu kể, có
những lời dẫn là một câu luận, câu đề và cũng có những lời dẫn là một câu
lửng vô nhân xƣng. Theo sự khảo sát của chúng tôi thì đa phần các đoạn
độc thoại đƣợc dẫn bằng một câu kể nhƣ: “Vả lại, bà đội cũng nghĩ
rằng:......”, “Hắn tặc lƣỡi và nghĩ bụng:...”, “Và chắc trong bụng bà cũng
đinh ninh rằng:....”. ... Cũng có những đoạn lại đƣợc dẫn bằng một câu đề,
chẳng hạn nhƣ: “Ý thằng con lão, thì nó muốn bán vƣờn, cố lo cho bằng
đƣợc. Nhƣng lão không cho bán. Ai lại bán vƣờn đi mà lấy vợ? Vả lại bán
vƣờn đi, thì cƣới vợ về, ở đâu? Với lại, nói cho cùng nữa, nếu đằng nhà
gái họ cứ khăng khăng đòi nhƣ vậy, thì dẫu có bán vƣờn đi cũng không đủ
cƣới...” (Lão Hạc, tr. 195-196, tập I). Hay nhƣ: “Đàn bà vốn chuộng hoà
bình: họ muốn yên chuyện thì thôi, gai ngạnh làm chi cho sinh sự. Vả lại,
bà đội cũng nghĩ rằng: chồng mình đang ốm. Chồng mình cũng có nợ
ngƣời ta hẳn hoi… Và năm chục đồng bạc đối với nhà mình là mấy, lôi
thôi lại chả tốn đến ba lần năm chục đồng!...” (Chí Phèo, tr.100, tập I).
Hoặc: “Bu chết đã ngót ba năm. Thầy bảo thế. Thì ra ba năm cũng dài lắm
nhỉ. Ninh cứ tƣởng bu Ninh chết đã lâu lắm. Nhƣng trách gì!... Xƣa kia,
những ngày bu đi chợ tỉnh, độ gần tối chƣa về Ninh đã thấy mong. Ấy là
mới vắng bu có một ngày. Mà nào đã hết cả ngày. Bây giờ vắng bu bằn
bặt những ba năm. Bao nhiêu ngày tháng! Ninh thấy lâu là phải. Biết bao
giờ bu lại về với con?...” (Từ ngày mẹ chết, tr. 292, tập I).
Có những đoạn độc thoại lại đƣợc dẫn bằng một câu lửng vô nhân
xƣng chẳng hạn nhƣ: “Thoạt tiên hãy nửa chai rƣợu đã. Uống rƣợu đã.
Uống rƣợu lúc đói mới thấy ngon. Lúc này uống khoái bằng mƣời lúc
33
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao khác...” (Trẻ con không biết đói, tr. 319-320, tập I). Hay nhƣ: “ Thì đã
hẳn. Nhƣng không hiểu sao tôi vẫn thấy tui tủi thế nào ấy. Cây bút của tôi
bất lực. Nó không khạc ra lửa và đạn nhƣ cây song. Nó ì ạch chạy theo
phong trào mãi mà không kịp. Các bạn tôi cũng đều thấy na ná nhƣ tôi. ...”
(Đường vô Nam, tr. 357, tập II). Hoặc nhƣ: “Thử để ý mà xem! Có phải từ
ngày chúng ta phá đƣờng con đƣờng của chúng ta mới bắt đầu thật là tấp
nập không? Nghĩ một tí thì thú vị lạ lùng...” (Trên những con đường Việt
Bắc, tr. 495, tập II).
Có đoạn độc thoại lại đƣợc dẫn bằng một câu luận, chẳng hạn nhƣ:
“Bịch thấy ngƣời ta lo đƣợc chút danh vị thật là chật vật. Nào tiền chồng
quỹ. Nào tiền chè lá đi nói với các ông kỳ cựu trong làng. Từ hàng phó lý
cựu trở lên chẳng ông nào là có thể bỏ qua: ông một vài đồng, ông dăm ba
đồng cũng có ông phải đƣa chục bạc; riêng cụ chỉ phải hai chục là ít nhất.
Rồi lại còn phải bữa rƣợu khao: gạo, lợn năm nay, không năm trăm bạc
đừng nói chuyện....” (Mua danh, tr. 338, tập I). Hay: “ Tần nhận ra rằng y
đã hùng hục làm một việc rất buồn cƣời: y muốn đấm ông bá một vài quả
cho ông bá méo mặt đi, nhƣng kết cục thì chính y méo mặt, bởi vì đấm
ông bá thì chẳng khác gì đấm bị, đấm thế nào ông cũng chƣa thấm thía. Y
kiện ở phủ thì ông phủ ăn tiền, vả cũng bênh ngƣời làm việc dƣới quyền
ông, vẫn đi lại với ông tƣơm tất xƣa nay. Y kiện ở tỉnh thì tỉnh cứ lời phủ
từ rồi cũng ăn tiền. Y nhờ ti liêm phóng điều tra, nhƣng ở ti liêm phóng,
ngƣời ta chỉ bắt cộng sản đã đủ nhƣợc ngƣời rồi, còn hơi đâu mà để ý đến
những việc tham nhũng của mấy ông tổng lý....” (Cách mạng, tr. 362, tập
II). Hoặc nhƣ: “Câu trả lời không có lợi cho ông lắm. Nhật đến đây cũng
chẳng khác gì Tây: chúng muốn cƣớp lấy nƣớc để tranh lấy những nguồn
lợi ở đây. Cố nhiên chúng cũng phải làm nhƣ Tây, dùng ngƣời mình để trị
ngƣời mình. Không thể, chúng cai trị làm sao đƣợc? Việt Minh thì khác
34
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao hẳn. Việt Minh là những ngƣời làm cách mạng. Những ngƣời cách mạng
không những chỉ ghét quân đi cƣớp nƣớc; họ ghét cả những quan tham, lại
nhũng, kỳ mục đục khoét dân. Họ mà lên chẳng những họ sẽ đuổi cổ ông
về, họ còn trị tội ông là khác. Nhƣng điều đáng ngại nhất vẫn là Tần: ngộ
Tần cũng có vào Việt Minh?...” (Cách mạng, tr. 370-371, tập II).
Nhƣ vậy chúng ta cũng thấy rằng việc tác giả dùng rất nhiều hình
thức dẫn thoại khác nhau ở các đoạn độc thoại đều nhằm vào mục đích
diễn giải tâm trạng của nhân vật ở nhiều cấp độ, hình thức, hoàn cảnh khác
nhau. Điều này càng khẳng định tính chân thực của lời độc thoại nói riêng
và của cả tác phẩm nói chung. Tất cả các đoạn độc thoại dù đƣợc dẫn bằng
bất kì hình thức gì cũng đều nhằm miêu tả chân thực chân dung con ngƣời
với lối suy nghĩ, lối sống của xã hội đang ở trong một giai đoạn cực kì đặc
biệt. Cũng thông qua cách dẫn thoại phong phú này mà chúng ta bây giờ
mới phần nào hình dung đƣợc lối viết, cách nhận thức sự việc của các nhà
văn hiện thực thời bấy giờ mà Nam Cao là nhà văn tiêu biểu. Ông không
ve vuốt bản thân cũng nhƣ giai cấp mình nhƣ một vài nhà văn tiểu tƣ sản
tự tìm an ủi trong một triết lý hàng phục chế độ đƣơng thời tuy cũng có
những mặt hạn chế riêng nhƣng ông cũng tạo đƣợc những điển hình giai
cấp thật sống và cảm động. Đó cũng chính là thành công của Nam Cao mà
cho đến tận bây giờ chúng ta không thể phủ nhận. Qua các đoạn độc thoại
của các nhân vật trong các tác phẩm dù nhân vật đó ở tầng lớp nào trong
xã hội, nói gì, nghĩ gì, làm gì... chúng ta cũng thấy rằng dƣới ngòi bút của
Nam Cao thì một xã hội bế tắc, ung thối hiện ra rất rõ nét, mang một tầm
sâu triết lí và không hề thô tục. Và từ góc độ ngôn ngữ học mà nói thì ngòi
bút của nhà văn Nam Cao là một ngòi bút hết sức thâm thuý, chân thực mà
không hề cứng nhắc
1.4. Cách thức kết thúc các đoạn độc thoại nội tâm
35
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao
Theo sự khảo sát của chúng tôi thì tất cả các đoạn độc thoại đều có
cách kết thúc mang tính độc lập tƣơng đối. Đa phần các đoạn độc thoại,
lời độc thoại xen kẽ lời kể, nhiều khi gây khó khăn cho việc xác định xong
lại rất hợp lí, hợp với logic kể chuyện. Chẳng hạn nhƣ: “Bu Ninh chết đã
ngót ba năm. Thầy bảo thế. Thì ra ba năm cũng dài lắm nhỉ. Ninh cứ
tƣởng bu Ninh chết đã lâu lắm. Nhƣng trách gì!... Xƣa kia, những ngày bu
đi chợ tỉnh, độ gần tối chƣa về Ninh đã thấy mong. Ấy là mới vắng bu có
một ngày. Mà nào đã hết một ngày. Bây giờ vắng bu bằn bặt những ba
năm. Bao nhiêu ngày tháng! Ninh thấy bâng khuâng cả ngƣời. Y nhƣ là
nằm mơ...” (Từ ngày mẹ chết, tr. 292, tập I). Trong các đoạn độc thoại nội
tâm, lời độc thoại thƣờng đƣợc rút ra từ một loạt sự tình, nằm ở vị trí cuối
đoạn độc thoại có giá trị kết thúc đoạn văn. Chẳng hạn nhƣ: “Một lát sau,
Ninh nghĩ thƣơng em quá, Ninh lại đi tìm dong, nhƣng hết. Ninh moi luôn
củ ráy, ráy nƣớc, ăn ngứa lắm. Nhƣng đói còn biết gì là ngứa? Ninh đem
về nƣớng. Ninh gọi Đật về lau nƣớc mắt cho nó, rồi chị em ăn ráy nƣớc.
Đật ăn tợn lắm, chẳng thấy kêu ca gì cả. Ninh rơi nƣớc mắt. Ninh dặn em
“Từ giờ đừng ăn cơm nhà thằng Chúc nữa”. Đật gật đầu. Thế mà hôm nay
nó lại lần sang nhà bác Vụ. Có bực mình hay không?” (Từ ngày mẹ chết,
tr. 299, tập I). Hay nhƣ: “Có lần Chí Phèo ngủ, thị vào cả nhà hắn để rọi
nhờ lửa nữa, có lần thị xin của hắn một tí rƣợu để về bóp chân; hắn mải
ngủ càu nhàu bảo thị rằng: - Ở xó nhà ấy, muốn rót bao nhiêu thì rót, để
yên cho hắn ngủ. Và lắm lúc thị ngạc nhiên: sao ngƣời ta ghê hắn thế?”
(Chí Phèo, tr. 109, tập I). Hoặc: “Xóm Điền cũng chả nhà nào có những
đồ đạc đắt tiền nhƣ thế. Vợ Điền quý lắm. Thị rất xót xa khi thấy những
ông khách cục súc, sau khi nắc nỏm khen bộ ghế vừa đẹp vừa thanh, liền
đặt cái mông đít to bành bạnh nhƣ cái vại lên mặt ghế, khiến mấy sợi mây
lún xuống, rồi co cả hai chân bẩn thỉu lên, ngả cái lƣng to nhƣ lƣng trâu
36
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao tựa vào vành ghế, khiến cái vành ghế phải oằn hẳn về đằng sau. Nhƣ thế
phỏng còn ghì là ghế? Có mà ghế sắt cũng phải hỏng, đừng nói gì ghế
mây!” (Trăng sáng, tr. 578, tập I). Các đoạn độc thoại kiểu này thƣờng có
một kết thúc tƣơng đối độc lập với các sự tình khác trong truyện. Tuy
nhiên, để tạo ra sự liên kết chặt chẽ giữa các đoạn độc thoại, cuốn hút độc
giả, khiến độc giả phải trăn trở, suy tƣ, hồi hộp theo dõi trƣớc những biến
cố hoặc sự tình sẽ xảy ra đối với nhân vật, Nam Cao đã tạo ra các đoạn
độc thoại có kết cấu mở hoặc có kết thúc bằng một câu lửng. Các đoạn
độc thoại có kết cấu mở chẳng hạn nhƣ: “Bịch lấy làm khó nghĩ. Trốn
cũng rầy mà không trốn cũng rầy. Trốn thì đêm hôm nhà cửa để cho ai?
Khổ một nỗi ai cũng tƣởng hắn nhiều tiền lắm. Mà không trốn thì chắc là
bị bắt; lại vài chục bạc chuộc. Đằng nào cũng chết mà đã chắc gì vài chục
đồng bạc mà xong. Này, chúng nó đang thù, chúng lại biết mình non mà
lại cứ nhất định rằng mình đƣợc trầu đƣợc cau, nhà bây giờ lúc nào bạc
trăm cũng có. Ngộ chúng nó cứ khăng khăng đòi giải không bằng lòng cho
chuộc thì sao?” (Mua danh, tr. 340, tập I). Hay nhƣ: “Điền thƣơng con
lắm. Vút cái, Điền thấy Điền không thể nào đi đƣợc. Điền không sƣớng
khi con Điền còn khổ. Chao ôi! Trăng đẹp lắm! Trăng dịu dàng và trong
trẻo và bình tĩnh. Nhƣng trong những căn lều nát mà trăng làm cho cái bề
ngoài trông cũng đẹp, biết bao ngƣời quằn quại, nức nở, nhăn nhó với
những đau thƣơng của kiếp mình! Biết bao tiếng nghiến răng và chửi rủa!
Biết bao cực khổ và lầm than?... Không, không, Điền không thể nào mơ
mộng đƣợc. Cái sự thật tàn nhẫn luôn luôn bày ra đấy. Sự thực giết chết
những ƣớc mơ lãng mạn gieo trong đầu óc Điền cái thứ văn chƣơng của
bọn nhà rỗi quá. Điền muốn tránh sự thực, nhƣng trốn tránh làm sao đƣợc?
Vợ Điền khổ, con Điền khổ, cha mẹ Điền khổ. Chính Điền cũng khổ. Bao
nhiêu ngƣời nữa, cùng một cảnh, khổ nhƣ Điền! Cái khổ làm héo một
37
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao phần lớn những tính tình tƣơi đẹp của ngƣời ta. Tiếng đau khổ vang dội
lên mạnh mẽ. Chao ôi! Chao ôi! Nghệ thuật là ánh trăng lừa dối, không
nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra
từ những kiếp lầm than, vang dội lên mạnh mẽ trong lòng Điền. Điền
chẳng cần đi đâu cả. Điền chẳng cần trốn tránh, Điền cứ đứng trong lao
khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời...” (Trăng sáng, tr.
587-588, tập I). Hoặc: “Ông nghĩ đến Tần. Kiện ông mãi chẳng ăn thua gì
rồi Tần chán, bỏ làng đi. Không hiểu y ở đâu, làm gì để sinh nhai. Chỉ biết
thỉnh thoảng y lại về làng. Tuy về làng y chẳng giở trò gì, nhƣng ông bá
cũng lo lo. Ông tin chắc rằng y chƣa hết thù ông. Biết đâu y đã không đi
giao thiệp, tìm đƣợc ngƣời có thế lực, để chờ dịp đập ông? Biết đâu y lại
chẳng đã xin vào làm mật thám? Biết đâu y không lại làm quen đƣợc với
một vài thằng quan Nhật?... Vào hồi gần đây, điều đoán phỏng sau cùng
ấy có vẻ làm ông bá lo ngại nhất. Ông đã đƣợc thấy hoặc đƣợc nghe nói
đến những vụ ngƣời ta mƣợn thế lực Nhật về để trả thù nhau hoặc trị nhau.
Nếu Tần đã cầy cục làm thân đƣợc với một vài thằng Nhật rồi thì cứ liệu
hồn cái đầu ông! Rất có thể chợt một hôm y về làng với một thằng Nhật
đeo gƣơm, đến tận nhà ông, đòi đem ông ra chém. Kêu ai bây giờ?... ”
(Cách mạng, tr. 368-369, tập II).
Các đoạn độc thoại có kết thúc bằng một câu lửng nhƣ: “Ối chao ôi!
Học với hành gì, ông ấy? Ông ấy thì chỉ có cái tài bàn tổ tôm là ông ấy
học. Mà tài bàn, tổ tôm thì ông chẳng cần ai dạy nữa. Có mấy ngày, mấy
đêm, là ông không đi tìm đám họp? Có điều ông đã muốn thì bà cũng phải
cắn răng mà chịu. Thật tình thì bà chẳng ƣa gì cái anh lang cu con này một
tí nào. Ngƣời với ngợm gì mà đến hay!...” (Lang Rận, tr. 414-415, tập I).
Hay nhƣ: “Bà chạy ngƣợc chạy xuôi vay lạy hết ngƣời nọ đến ngƣời kia,
mới vay đƣợc non chục bạc. Non chục bạc thì chỉ nộp lệ làng, may cho
38
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao con mỗi đứa cái áo tang và cho bà cái mấn, rồi biện miếng trầu, bát nƣớc
cho hàng xóm cũng đã không đủ rồi. Thành thử bà chỉ dám mua cho ông
cỗ áo quan có non ba đồng. Rõ nghĩ mà thƣơng! Nó vừa mỏng, vừa mọt,
mộng trẽo trà trẽo trợt, giá chỉ bóp mạnh cũng răng rắc đƣợc. Của ấy đƣợc
mấy nỗi mà nát? Bấm đốt ngón tay đã sáu năm trời rồi. Cũng phải cố biện
bát cơm, bát canh để thay cho cái áo mới, chứ để thế thì tội nghiệp. Nhƣng
làm sao bây giờ?...” ( Dì Hảo, tr. 173, tập I). Các nhân vật tự suy nghĩ, rồi
tự vấn mình, ở đây tác giả để kết thúc các đoạn độc thoại bằng các câu
lửng vô nhân xƣng đều đã có mục đích cả. Nam Cao thể hiện những tâm
lý quẩn quanh, thụ động của ngƣời nông dân, không biết bấu víu vào đâu
trƣớc cuộc sống khó khăn, nợ nần chồng chất.
Các đoạn độc thoại có kết thúc mở thƣờng các phát ngôn độc thoại
là một câu khẳng định, một câu luận hoặc một câu hỏi tạo sự chú ý, phân
tích, theo dõi của độc giả, dẫn dắt độc giả theo chiều sâu tính cách nhân
vật. Ở các đoạn độc thoại có kết thúc mở tác giả để độc giả tự đánh giá,
suy nghĩ phần diễn tiến tiếp theo của sự tình hoặc của nhân vật. Điều này
đã tạo ra sự lôi cuốn đối với độc giả. Và nhìn từ góc độ ngôn ngữ học thì
đó chính là sự sắp đặt chủ quan của tác giả nhằm mục đích miêu tả, lí giải
mọi khía cạnh phong phú và phức tạp tâm lí con ngƣời trƣớc những đổi
thay của thời cuộc. Các nhân vật tự bộc lộ tâm tƣ, tình cảm bằng chính
những dòng suy nghĩ và những câu hỏi tự đặt ra cho mình mà phần lớn
các câu hỏi đó không đƣợc trả lời. Trƣớc mỗi biến cố, sự kiện, hoàn cảnh,
câu hỏi lại đƣợc đặt ra và để đấy. Chẳng hạn nhƣ: “Lại còn cái ông Đật
nữa? Đi đâu mà mải thế? Ý dáng lại lần sang nhà bác Vụ. Còn sang làm
gì? Gạo của thầy gửi đã hết từ đời nảo, đời nào. Bác ấy đã phải cho ăn lận
nhà bác ấy năm sáu bữa. Nhà bác ấy cũng túng. Chồng chết đi để lại đây
bốn con. Bốn đứa cũng lúc nhúc nhƣ Ninh và Đật. Bác ấy nuôi đƣợc
39
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao chúng nó cũng đã đến điều vất vả. Còn lấy gì mà nuôi cả Ninh và Đật
nữa?...” (Từ ngày mẹ chết, tr. 298, tập I). Hay nhƣ: “Cuộc đời bình
thƣờng. ở những vùng nhƣ vùng này, súng nổ là chuyện bình thƣờng.
Súng không nổ, đó mới là bất thƣờng. Những hôm ấy, ngƣời ta bảo: “Hôm
nay, chƣa thấy súng”. Nhƣng đừng tƣởng sống nhƣ vậy, ngƣời ta chỉ còn
nghĩ đến một việc là đối phó với tiếng súng thôi đâu! Ông cụ chủ nhà vừa
cƣới vợ cho thằng còn trai thứ hai, tốn hơn một vạn đồng. Tôi rất ngạc
nhiên. Tiêu hơn một vạn đồng vào việc cƣới lúc này? Một đám cƣới nhà
quê? ” (Từ ngược về xuôi, tr. 507, tập II)... Tất cả những câu hỏi không lời
giải đáp ấy đã đƣợc đặt ra khi thì ngắt quãng, khi thì liên tiếp, lúc lại kéo
dài nhằm bộc lộ rõ tính chất trăn trở, dằn vặt và bế tắc của những con
ngƣời trong xã hội cũ. Những câu hỏi ấy cứ nối tiếp nhau nhƣ những cơn
bão lòng trong tâm hồn con ngƣời đang tích tụ, dồn nén lại thành giông tố
cuộc đời đang đòi đƣợc giải đáp. Đó chính là cái đích cuối cùng mà nhà
văn muốn miêu tả, muốn truyền đạt tới độc giả.
2. Tần số xuất hiện của các đoạn độc thoại nội tâm
2.1. Số lần xuất hiện trong truyện của các đoạn độc thoại nội tâm
Theo sự khảo sát của chúng tôi qua 2 tập Nam Cao toàn tập thì tập I
là gồm những tác phẩm viết trƣớc Cách mạng, các đoạn độc thoại xuất
hiện 59 lần trong 14 truyện ngắn. Tập II là những tác phẩm viết sau Cách
mạng, qua khảo sát 8 tác phẩm bao gồm cả truyện ngắn, cả bút ký chúng
tôi đã thống kê đƣợc 29 đoạn độc thoại. Các đoạn độc thoại ở tập I tập
trung nhiều nhất ở tác phẩm “Chí Phèo”- 18 đoạn độc thoại; “Trăng
sáng”- 8 lần; “Từ ngày mẹ chết”- 6 lần; “Lão Hạc”- 5 lần; xuất hiện 3 lần
trong các truyện: “Một đám cưới”, “Mua danh”, “Tư cách mõ”, “Đời
40
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao thừa”; 4 lần trong “Ở hiền”; 1 lần trong các truyện: “Trẻ con không biết
đói”, “Lang Rận”, “Hai người ăn tết lạ”, “Mua nhà”. Tập II, các đoạn độc
thoại xuất hiện ít hơn, tập trung nhiều nhất trong truyện “Cách mạng”- 8
lần; 5 lần trong “Đôi mắt”; 4 lần trong “Những bàn tay đẹp ấy”, 3 lần
trong “Trên những còn đường Việt Bắc”, “Bốn cây số cách một căn cứ
địch” và 1 lần trong các tác phẩm: “Đợi chờ”, “Từ ngược về xuôi”.
Nhƣ vậy, các đoạn độc thoại xuất hiện không đồng đều trong các tác
phẩm qua hai tập Nam Cao toàn tập. Ở tập I, những tác phẩm viết trƣớc
cách mạng, các đoạn độc thoại xuất hiện nhiều hơn, gấp hai lần những tác
phẩm viết sau Cách mạng. Từ tần suất xuất hiện các đoạn độc thoại này
chúng ta thấy rất rõ sự thay đổi trong tƣ tƣởng cũng nhƣ hình thức miêu tả
tâm trạng nhân vật của Nam Cao. Có lẽ một phần là do số lƣợng tác phẩm,
do chủ đề, nội dung hiện thực nhà văn đề cập.
2.2. Độ phân bố các đoạn độc thoại nội tâm
Mỗi một nhân vật ông đều tìm ra đƣợc tiếng nói riêng, phù hợp với
tâm hồn, suy nghĩ của họ. Chính vì thế mà các đoạn độc thoại của mỗi
nhân vật lại đƣợc tiếp nối liên tục hoặc ngắt quãng, dài hay ngắn, có tính
đan xen nhiều dạng văn bản. Trƣớc Cách mạng cuộc sống bế tắc không có
sự lựa chọn nào khác cho các nhân vật dù nhân vật đó là nông dân hay
thuộc tầng lớp tiểu tƣ sản. Còn sau Cách mạng lại khác, những diễn biến
tâm trạng của nhân vật lại mang một màu sắc rất riêng, rất nổi bật cho thấy
hết những thành quả to lớn của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, tất cả đều có những suy nghĩ toan tính riêng nhƣng không
còn bế tắc, cùng đƣờng nữa. Sự trăn trở, suy tƣ của những thân phận,
những kiếp ngƣời, những nỗi đau, cảnh đời ngang trái,... làm khả năng
41
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao xuất hiện các đoạn độc thoại nội tâm nhiều hơn. Hầu nhƣ tất cả những suy
nghĩ, toan tính của nhân vật đều có một cái đích rất rõ ràng. Và những
điều đó đã cho thấy có sự đổi thay trong tâm trạng, cách nhìn và nhận thức
của chính nhà văn của chúng ta.
Qua khảo sát 14 truyện ngắn viết trƣớc Cách mạng, thì truyện ngắn
“Chí Phèo” là nổi bật nhất với 18 đoạn độc thoại. Các đoạn độc thoại này
xuất hiện lúc thì liên tục, lúc thì ngắt quãng, có đoạn dài nhƣng cũng có
những đoạn chỉ là một phát ngôn có giá trị kết thúc đoạn văn. Qua 18 đoạn
độc thoại này, nhà văn Nam Cao đã khắc hoạ rất rõ nét tâm lí của Bá Kiến,
Thị Nở, Vợ đội Tảo, tự Lãnh, bà cô thị Nở đặc biệt là Chí Phèo - một nhân
vật cùng đinh nổi tiếng với “tài” ăn vạ, tiêu biểu cho một lớp ngƣời bần
cùng, bế tắc không đƣợc quyền sống làm ngƣời trong chế độ xã hội cũ thối
nát. Những dòng suy nghĩ của hắn liên tục, rất hợp lí chứ không hề cứng
nhắc: “Vậy mà không: cái cụ bá thét ra lửa ấy lại xử nhũn, mời hắn vào
nhà xơi nƣớc. Thôi cũng hả, đã xử nhũn thì hắn vào. Nhƣng bỗng hắn lại
hơi ngần ngại: biết đâu cái lão cáo già này nó chả lại lừa hắn vào nhà rồi
lôi thôi? ồ mà thật, có thể nhƣ thế lắm! Này nó hãy lôi ngay mấy cái mâm,
cái nồi hay đồ vàng đồ bạc ra khoác vào cổ hắn, rồi cho vợ ra kêu làng lên,
rồi cột cổ hắn vào, chần cho một trận om xƣơng, rồi vu cho là ăn cƣớp thì
sao? Cái thằng Bá Kiến này, già đời đục khoét, còn đớn cái nƣớc gì mà
chịu lép nhƣ trấu thế? Thôi dại gì mà vào miệng cọp, hắn cứ đứng đây
này, cứ lại lăn ra đây này, lại kêu toáng lên xem nào. Nhƣng nghĩ ngợi
một tí, hắn lại bảo: kêu lên cũng không nƣớc gì! Lão bá vừa nói một tiếng,
bao nhiêu ngƣời đã ai về nhà nấy, hắn có lăn ra kêu nữa liệu có còn ai ra?
Vả lại bây giờ rƣợu nhạt rồi, nếu lại phải rạch mặt thêm mấy nhát thì cũng
đau. Thôi cứ vào! Vào thì vào, cần quái gì. Muốn đập đầu thì vào ngay
giữa nhà hắn mà đập đầu còn hơn ở ngoài. Cùng lắm, nó có giở quẻ, hắn
42
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao cũng chỉ đến đi ở tù. Ở tù thì hắn coi là thƣờng. Thôi cứ vào.” (Chí Phèo,
tr. 87-88, tập I). Những suy nghĩ, toan tính của Chí Phèo liền mạch và rất
hợp với hành động bất cần của con ngƣời lƣu manh, liều lĩnh. Ấy là lúc
hắn say, còn khi tỉnh táo, bản chất con ngƣời trở về với hắn thì: “Tỉnh dậy
hắn thấy già mà vẫn còn cô độc. Buồn thay cho đời! Có lý nào nhƣ thế
đƣợc? Hắn đã già rồi hay sao? Ngoài bốn mƣơi tuổi đầu...Dẫu sao, đó
không phải tuổi mà ngƣời ta mới bắt đầu sửa soạn...”. (Chí Phèo, tr. 115,
tập I). Lúc này, những suy nghĩ và diễn biến tâm lý của Chí Phèo lại hoàn
toàn nhƣ một ngƣời bình thƣờng.
Qua 18 đoạn độc thoại nhà văn đã khắc hoạ đƣợc tâm lí của 6 loại
nhân vật già có trẻ có; địa chủ có, nông dân có; thiện có ác có, lƣu manh
có... Đây là một sự khác lạ của Nam Cao so với các nhà văn cùng thời.
Ông đã sử dụng các đoạn độc thoại nội tâm rất tài tình, đúng lúc đúng chỗ,
không lạm dụng và không tuỳ tiện đi quá đà. Có thể khẳng định đó là một
nét tài hoa trong sở trƣờng bút pháp của Nam Cao.
Khảo sát 8 truyện ngắn viết sau Cách mạng, các đoạn độc thoại nội
tâm lại đƣợc Nam Cao sử dụng nhiều ở truyện “Cách mạng”. Với 8 đoạn
độc thoại dài, liên tục và rất chi tiết, Nam Cao đã khắc hoạ đƣợc tâm trạng
với những băn khoăn, trăn trở của hai nhân vật chủ yếu là Tần và ông Bá
đại diện cho hai tầng lớp khác nhau: địa chủ cƣờng hào và ngƣời nông dân
trƣớc sự kiện mang tính thời đại “Cách mạng”. Nam Cao đã gửi gắm vào
nhân vật cả tâm tƣ tình cảm và tấm lòng của mình. Tất cả những diễn biến
tâm lí, những suy nghĩ, đánh giá của nhân vật, cũng là của chính ông trƣớc
thời cuộc đã đƣợc bộ lộ rất rõ nét: “Tần ứ họng, không phải vì y hết lý sự,
không còn trả lời vào đâu đƣợc nữa. Chỉ vì y tức quá. Thì ra ngƣời ta gọi
thế là cai trị đấy! ấn cổ thằng dân xuống, bịt miệng, bịt miệng cho không
ai đƣợc nói gì, không đến đâu, uất ức đến đâu cũng không đƣợc nói. Cứ
43
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao cắn răng vào mà chịu!... Ngu ngốc thật! Y hì hục cố đánh đổ mấy tay
cƣờng hào ức hiếp dân làng. Thật ra bọn cƣờng hào có nghĩa lý gì đâu! Họ
chỉ là những viên đá con con, ở dƣới cùng tảng Thái Sơn. Ngƣời ta thấy
họ đè trên mình thì cứ họ mà lay. Nhƣng sức nặng ở họ chỉ một phần nhỏ
mà thôi. Sức nặng chính là ở trái núi kê trên họ. Muốn làm đƣợc trò gì,
trƣớc hết phải bạt cả trái núi, phải phá cả cái chế độ bóc lột và áp bức đi,
chứ không phải chỉ cần kiện đổ một ông lý trƣởng hay một ông chánh
tổng.” (Cách mạng, tr. 362-363, tập II). Đó là những suy nghĩ của Tần còn
của ông Bá: “Nhật đến đây cũng chẳng khác gì Tây: chúng muốn cƣớp lấy
nƣớc để tranh lấy những nguồn lợi ở đây. Cố nhiên chúng cũng phải làm
nhƣ Tây, dùng ngƣời mình để trị ngƣời mình. Không thể, chúng cai trị làm
sao đƣợc. Việt Minh thì khác hẳn. Việt Minh là những ngƣời Việt Nam
làm cách mạng. Những ngƣời cách mạng không những chỉ ghét những
quân đi cƣớp nƣớc; họ ghét cả những quan tham, lại nhũng, kỳ mục đục
khoét dân. Họ mà lên chẳng những họ sẽ đuổi cổ ông về, họ còn trị tội ông
là khác...” (Cách mạng, tr. 370, tập II). Tất cả những dòng suy nghĩ ấy cứ
liên tục chảy trong óc Tần và ông Bá để rồi hai ngƣời luôn luôn phải đối
diện với chính mình, với chính những đổi thay to lớn của dân tộc.
Đặc trƣng của truyện ngắn Nam Cao là phát triển nội dung truyện
thông qua diễn biến tâm lý của số ít nhân vật tiêu biểu bằng hàng loạt các
đoạn độc thoại nội tâm. Do khai thác tâm lý nhân vật từ những truyện
hàng ngày nên việc sắp đặt các đoạn độc thoại nội tâm của Nam Cao theo
đó cũng đa dạng và phong phú. Các đoạn độc thoại nội tâm khi dài, khi
ngắn, lúc liên tục, lúc lại ngắt quãng đã tạo ra cái nhìn khách quan và tổng
thể toàn bộ cuộc sống của ngƣời nông dân và tầng lớp trí thức tiểu tƣ sản
trƣớc và sau Cách mạng.
44
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao 3. Tiểu kết
Cấu trúc hình thức của các đoạn độc thoại nội tâm, qua miêu tả, là
đa dạng và phong phú. Độ phân bố các đoạn độc thoại trong các truyện
ngắn của Nam Cao là không đồng đều. Nhƣng nhƣ thế không có nghĩa là
các đoạn độc thoại nội tâm đƣợc sắp xếp lung tung, tuỳ tiện, không theo
một trật tự nào. Tất cả các đoạn độc thoại nội tâm trong truyện ngắn của
Nam Cao đƣợc xuất hiện theo một trình tự nhất định phục vụ cho ý đồ
chuyển tải hiện thực của nhà văn. Chính vì sự đa dạng, phong phú trong
cách thể hiện ngôn ngữ của các đoạn độc thoại nội tâm, nhà văn đã tạo ra
đƣợc cái nhìn khách quan, tổng thể, nhiều hƣớng khác nhau về diễn biến
tâm lý và tính cách nhân vật trong đánh giá tính chất hiện thực của tác
phẩm, sự đặc sắc, độc đáo trong bút pháp truyện ngắn Nam Cao…. Sử
dụng độc thoại nội tâm để tạo ra những điển hình tính cách nhân vật là
một cái tài của nhà văn Nam Cao.
45
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao
CHƢƠNG 3
GIÁ TRỊ BIỂU HIỆN CỦA CÁC ĐOẠN ĐỘC THOẠI NỘI TÂM
TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO
1. Mở đầu
Độc thoại nội tâm trong truyện ngắn của Nam Cao thƣờng xuất hiện
sau những sự kiện, biến cố. Do khai thác những “cái hàng ngày” nên nội
dung thể hiện của ngôn ngữ trong các đoạn độc thoại nội tâm trong truyện
ngắn Nam Cao cũng rất đa dạng, phong phú. Tất cả các đoạn độc thoại nội
tâm ấy là những diễn biến tâm lý phức tạp, những tâm trạng của nhiều lớp
ngƣời trong xã hội cũ với nhiều biến động. Trong mỗi một truyện ngắn
của Nam Cao, những chuỗi các đoạn độc thoại nội tâm dù dài hay ngắn,
đƣợc bố trí tách biệt hay xen kẽ với lời dẫn truyện đều có những giá trị
biểu hiện riêng biệt và không thể thiếu trong việc khẳng định giá trị hiện
thực của tác phẩm, khẳng định phong cách tác giả.
Dù độc thoại nội tâm mang màu sắc cá nhân rất rõ rệt nhƣng cũng
rất sinh động và đa dạng. Sự sinh động và đa dạng ấy thể hiện ở cả cấu
trúc hình thức và nội dung thể hiện của các đoạn độc thoại nội tâm trong
truyện ngắn Nam Cao. Qua lựa chọn và khảo sát 22 truyện trong hai tập
Nam Cao toàn tập I và II (xuất bản năm 2002, Nhà xuất bản Giáo dục)
chúng tôi thấy ngôn ngữ trong các đoạn độc thoại nội tâm mà Nam Cao đã
46
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao sử dụng có rất nhiều giá trị biểu hiện. Giá trị biểu hiện đầu tiên và quan
trọng của ngôn ngữ trong các đoạn độc thoại nội tâm trong truyện ngắn
của Nam Cao là khẳng định chủ đề tƣ tƣởng của tác phẩm. Giá trị biểu
hiện thứ hai, không kém phần quan trọng, là khẳng định phong cách tác
giả. Giá trị khẳng định phong cách tác giả của ngôn ngữ trong các đoạn
độc thoại nội tâm trong truyện ngắn Nam Cao đƣợc thể hiện ở rất nhiều
mặt. Đó là giá trị biểu hiện ở tính liên kết hình thức, liên kết nội dung,
mạch lạc chủ đề, mạch lạc tâm lí; ở cách phân tích các trạng thái diễn biến
tâm lí, tình cảm của Nam Cao dựa trên những tình tiết của hiện thực; ở
ngôn ngữ địa phƣơng thể hiện trong các đoạn độc thoại nội tâm. Đi vào
miêu tả và phân tích cụ thể các số liệu sẽ thấy rất rõ nét độc đáo trong bút
pháp sử dụng độc thoại nội tâm của nhà văn Nam Cao.
2. Khẳng định chủ đề tư tưởng của truyện
2.1. Trước Cách mạng
Giai đoạn này, Nam Cao chủ yếu khai thác mảng đề tài ngƣời nông
dân và ngƣời trí thức tiểu tƣ sản. Qua khảo sát 14 truyện thì có 12 truyện
viết về đề tài ngƣời nông dân (Chí Phèo, Dì Hảo, Lão Hạc, Một đám cưới,
Từ ngày mẹ chết, Trẻ con không biết đói, Mua danh, Tư cách mõ, Ở hiền,
Lang Rận, Hai người ăn tết lạ, Mua nhà), còn 2 truyện viết về đề tài ngƣời
trí thức tiểu tƣ sản (Đời thừa, Trăng Sáng). Chúng tôi đã thống kê đƣợc 59
đoạn độc thoại nội tâm trong 14 truyện và miêu tả các đoạn độc thoại nội
tâm ấy theo hệ thống chủ đề tƣ tƣởng của tác phẩm theo bảng sau:
47
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao
Đề tài Chủ đề Các đoạn độc thoại nội tâm
- Chí Phèo (18 đoạn) Nông 1. Số phận ngƣời
dân nông dân bị chà - Tư cách mõ (4 đoạn)
đạp, áp bức, bóc - Trẻ con không biết đói(1đoạn)
lột, đẩy xuống
bƣớc đƣờng
cùng, vƣợt khỏi
ranh giới cuối
cùng, thành
những kẻ phẫn
chí đến liều lĩnh.
Vừa là nạn nhân,
vừa là kẻ mù
quáng gây tội lỗi.
2. Số phận ngƣời
- Lão Hạc (5 đoạn) nông dân bản
chất hiền lành, - Một đám cưới (3 đoạn)
thật thà không hề - Từ ngày mẹ chết (6 đoạn)
gây tội lỗi mà là - Ở hiền (4 đoạn) những nạn nhân
48
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao
- Dì Hảo (2 đoạn) về nhiều mặt của
chế độ thực dân - Mua danh (3 đoạn)
phong kiến; họ
mang nhiều phẩm
chất quen thuộc
của ngƣời nông
dân và ít bị biến
chất trƣớc những
đổi thay của cuộc
đời
Bi kịch cuộc đời - Đời thừa (3 đoạn) Trí thức
tiểu tư và Bi kịch vỡ - Trăng sáng (8 đoạn)
sản mộng
2.1.1. Đề tài người nông dân
Mảng đề tài này, chúng tôi đã thống kê đƣợc 47 đoạn độc thoại nội
tâm của các nhân vật trong 12 truyện. Qua 47 đoạn độc thoại nội tâm đó,
Nam Cao đã chỉ rõ cho chúng ta thấy những mảng sáng tối của tâm hồn
con ngƣời, của tƣ duy, nhận thức của các nhân vật ấy. Mỗi một đoạn độc
thoại nội tâm phản ánh chi tiết những khoảnh khắc tâm tƣ, toan tính của
nhân vật trƣớc mỗi sự kiện, biến cố của cuộc đời. Và mỗi đoạn độc thoại
ấy lại góp phần khẳng định chủ đề tƣ tƣởng của tác phẩm mà tác giả đã
lựa chọn.
49
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao
Hầu hết các sáng tác trƣớc Cách mạng của Nam Cao ra đời trong bối
cảnh nông thôn Việt Nam đang phải chịu đựng những chuỗi ngày đen tối
hãi hùng. Trong các tác phẩm viết về ngƣời nông dân của Nam Cao mà
chúng tôi đã lựa chọn và khảo sát, qua các đoạn độc thoại nội tâm thống
kê đƣợc chúng tôi gặp hai hệ thống chủ đề tƣ tƣởng riêng biệt với nhiều
nhân vật điển hình.
2.1.1.1. Hệ thống chủ đề tư tưởng thứ nhất đó là: số phận con ngƣời bị
đẩy xuống bƣớc đƣờng cùng thậm chí còn vƣợt khỏi ranh giới cuối cùng
để rơi vào vòng tội lỗi, thành những kẻ phẫn chí đến liều lĩnh. Họ vừa là
nạn nhân nhƣng rồi chính họ lại trở thành kẻ mù quáng gây tội lỗi. Các
đoạn độc thoại nội tâm của các nhân vật trong tác phẩm: Chí Phèo đã cho
chúng ta thấy rõ chủ đề tƣ tƣởng đó. Tác phẩm Chí Phèo có thể coi là một
bƣớc đột phá của Nam Cao trong việc xây dựng các kiểu tính cách con
ngƣời thông qua các đoạn độc thoại nội tâm của nhân vật. Trong tác phẩm
này, tác giả đã thể hiện diễn biến tâm lý của nhiều nhân vật: Chí Phèo, thị
Nở, Bá Kiến, vợ đội Tảo, bà cô thị Nở, Tự Lãng... qua 18 đoạn độc thoại
nội tâm lúc liên tục, lúc ngắt quãng, dài ngắn đan xen nhau. Tất cả tập
trung làm nổi bật chủ đề tƣ tƣởng của tác phẩm: một dạng ngƣời điển hình
của ngƣời nông dân cần cù lƣơng thiện bị thế lực phong kiến chà đạp, giày
xéo đến tha hoá, biến chất thành một kẻ lƣu manh, bần cùng, không lối
thoát nhƣ tên tác phẩm mà tác giả đã lựa chọn: Chí Phèo. Nam Cao đã tạo
ra một cái nhìn phức tạp, phong phú và sâu sắc hơn về con ngƣời với một
tính cách hoàn toàn mới trong hình ảnh con ngƣời vừa đánh mất vừa đi
tìm nhân tính Chí Phèo. Ông đã để cho nhân vật ngật ngƣỡng, vật vã giữa
hai bờ say- tỉnh, vô thức- ý thức, lúc nhƣ con vật lúc lại là một con ngƣời
hiền lành lƣơng thiện... Các đoạn độc thoại nội tâm của Chí Phèo dài ngắn
50
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao xen lẫn với các sự kiện đã tạo ra một chiều sâu tính cách của một dạng
ngƣời hoàn toàn mới: “Nhƣng bỗng hắn lại hơi ngần ngại: biết đâu cái lão
cáo già này nó chả lại lừa hắn vào nhà rồi lôi thôi? Ồ mà thật, có thể nhƣ
thế lắm! Này nó hãy lôi ngay mấy cái mâm, cái nồi hay đồ vàng đồ bạc ra
khoác vào cổ hắn, rồi cho vợ hắn ra kêu làng lên, rồi cột cổ hắn vào, chần
cho một trận om xƣơng, rồi vu cho là ăn cƣớp thì sao? Cái thằng Bá Kiến
này, già đời đục khoét, còn đớn cái nƣớc gì mà chịu lép nhƣ trấu thế? Thôi
dại gì mà vào miệng cọp, hắn cứ đứng đây này, cứ lại lăn ra đây này, lại
kêu toáng lên xem nào. Nhƣng nghĩ ngợi một tí, hắn lại bảo: kêu lên cũng
không nƣớc gì! Lão bá vừa nói một tiếng, bao nhiêu ngƣời đã ai về nhà
nấy, hắn có lăn ra kêu nữa, liệu có còn ai ra? Vả lại bây giờ rƣợu nhạt rồi,
nếu lại phải rạch mặt thêm mấy nhát thì cũng đau. Thôi cứ vào! Vào thì
vào, cần quái gì. Muốn đập đầu thì vào ngay giữa nhà hắn mà đập đầu còn
hơn ở ngoài. Cùng lắm, nó có giở quẻ, hắn cũng chỉ đến đi ở tù. Ở tù thì
hắn coi là thƣờng. Thôi cứ vào...” (Chí Phèo- tr.87, 88- tập I). Đó là một
kiểu nhân vật không thuần nhất, luôn luôn giằng co, tự mâu thuẫn rất phức
tạp. Hắn mâu thuẫn trong hành động và lời nói, điều này phản ánh những
dao động phức tạp của tƣ tƣởng, tình cảm, đạo đức. Khi đạt đƣợc mục
đích của mình hắn “vênh vênh ra về: hắn thấy hắn oai thêm bậc nữa. Hắn
tự đắc: anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta!” (Chí Phèo- tr. 100- tập
I). Đoạn độc thoại nội tâm chỉ là một phát ngôn rất ngắn gọn, nhƣng cũng
đủ để cho ngƣời đọc thấy đó là một con ngƣời không bình thƣờng. Ấy là
khi hắn say, còn khi hắn tỉnh thì: “ Tỉnh dậy hắn thấy già mà vẫn còn cô
độc. Buồn thay cho đời. Có lý nào nhƣ thế đƣợc? Hắn đã già rồi hay sao?
Ngoài bốn mƣơi tuổi đầu... Dẫu sao, đó không phải tuổi mà ngƣời ta mới
bắt đầu sửa soạn...” (Chí Phèo- tr. 115- tập I); rồi: “Hắn húp một húp và
nhận ra rằng: những kẻ suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo
51
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao ăn rất ngon”... Tất cả các đoạn độc thoại nội tâm của nhân vật Chí Phèo đã
tập trung thể hiện bản chất, nội tâm, tính cách của một loại ngƣời lỗ mãng,
bất cần đời, không coi ai ra gì. Độc giả dễ dàng nhận thấy Chí Phèo là loại
ngƣời nhƣ thế nào thể hiện rất rõ nét trong các đoạn độc thoại nội tâm của
riêng hắn.
Các nhân vật xung quanh bên cạnh Chí Phèo là các nhân vật nhƣ Bá
Kiến, thị Nở, bà cô thị Nở, Tự Lãnh, vợ đội Tảo… đã đƣợc nhà văn Nam
Cao xây dựng cũng rất thành công, tất cả nhằm làm nổi bật lên hình ảnh
một con ngƣời đó chính là Chí Phèo. Bằng những đoạn độc thoại nội tâm,
mỗi ngƣời trong số đó đều có những cách nhìn, cách nghĩ về Chí Phèo và
mỗi một đoạn độc thoại nội tâm đó chúng ta nhƣ đƣợc hiểu thêm về tính
cách, con ngƣời Chí Phèo. Từ đó khẳng định rõ hơn cái bi kịch của đời
Chí, cái bi kịch của một con ngƣời bị từ chối làm ngƣời. Với Bá Kiến thì
Chí Phèo là một thằng đầu bò, liều lĩnh: “Không phải cụ đớn, chính thật
cụ khôn róc đời, thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân.
Chí Phèo không anh hùng, nhƣng nó là cái thằng liều lĩnh. Liều lĩnh thì ai
còn thèm chấp! Thế nào là mềm nắn rắn buông? Cái nghề làm việc quan,
nếu nhất nhất cái gì cũng đè đầu ấn cổ thì lại bán nhà đi cho sớm…” (Chí
Phèo- tr. 88, 89- tập I). Cho nên ông ta phải “nhũn”, phải lựa lời với Chí
và cho rằng: “Cũng phải có những thằng đầu bò chứ? Không có những
thằng đầu bò thì lấy ai mà trị những thằng đầu bò? Thế lực của cụ sở dĩ
lấn át đƣợc các vây cánh khác, một phần lớn cũng bởi cụ biết mềm, biết
cứng, biết thu dụng những thằng bạt mạng không sợ chết và không sợ đi ở
tù…” (Chí Phèo- tr. 95- tập I). Với dòng suy nghĩ “cáo già” ấy Bá Kiến đã
bộc lộ bản chất sảo quyệt, nham hiểm của mình. Và cũng chính từ những
dòng suy nghĩ dẫn đến hành động ấy của Bá Kiến đã đẩy cuộc đời Chí
Phèo xuống vũng bùn đen không lối thoát, biến Chí thành một loại ngƣời
52
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao không ra ngƣời, vật không ra vật. Từ đó khẳng định rõ hơn, chi tiết, nhiều
mặt hơn chủ đề tƣ tƣởng của tác phẩm. Các đoạn độc thoại nội tâm của Bá
Kiến thƣờng dài, liên tục và đƣợc thể hiện bằng nhiều câu phức thể hiện rõ
tính cách và nội tâm hết sức phức tạp, đa dạng của một tên địa chủ, cƣờng
hào khét tiếng. Chế độ xã hội cũ với những luật lệ phong kiến hà khắc đã
đẩy con ngƣời đến chỗ bần cùng không lối thoát. Bá Kiến đại diện cho cái
bộ máy thống trị khổng lồ và tàn nhẫn đó. Hắn là một tên cƣờng hào, địa
chủ, ác bá điển hình, một tay “cáo già”, lọc lõi, từng trải trong cái “nghề”
bóc lột, đàn áp nhân dân. Chí Phèo là một trong số những nạn nhân của
hắn. Nam Cao đã xây dựng một hình tƣợng nhân vật hết sức độc đáo, một
nhân vật chuyên bóc lột, hống hách, nham hiểm, dâm đãng nhƣng lại rất
sợ vợ và rất hay ghen qua hàng loạt các đoạn độc thoại nội tâm: “Nghe
tiếng hắn cụ thấy sao bực mình! Chính thật thì cụ đã đang bực mình. Bởi
vì cụ thấy đầu hơi nhức. Cụ đang muốn có một bàn tay man mát xoa cái
đầu. Cũng có lẽ, cụ chỉ muốn bà Tƣ đừng đi lâu quá thế. Đi lâu thế không
biết rằng đi đâu? Sao bà ấy còn trẻ quá! Gần bốn mƣơi tuổi rồi mà trông
còn phây phây. Còn phây phây quá đi nữa! Cụ năm nay đã ngoài sáu
mƣơi. Già yếu quá, nghĩ mà chua xót. Giá thế thì bà ấy cũng chỉ già cho
xong. Bà ấy lại cứ trẻ, cứ phây phây, cứ đẹp nhƣ mới ngoài hai mƣơi tuổi,
sao mà đa tình. Nhìn thì thích nhƣng mà tƣng tức lạ. Khác gì nhìn miếng
thịt bò lựt sựt khi rụng gần hết răng. Mắt bà, miệng bà, có duyên, nhƣng
trông đĩ lắm. Hơi một tí thì cƣời toe toét, tít cả mắt lại, cái má thì hây hây.
Mà thấy ghét những cái thằng trai trẻ, giá mà làm con bà không đáng, mà
thấy bà đâu cũng đùa. Chúng đùa nhạt nhƣ nƣớc ốc, chỉ đƣợc cái thô tục,
mà gặp ai đâu cũng cƣời! Chẳng nghĩ gì đến địa vị cả, ngƣời đâu mà vô
tâm! Tức lạ! Cụ chỉ muốn cho tất cả những thằng trai trẻ đi ở tù…” (Chí
Phèo- tr. 123- tập I). Bằng những dòng độc thoại nội tâm, Nam Cao đã
53
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao vạch trần bản chất nham hiểm, đồi bại của Bá Kiến. Bá Kiến càng tham
lam, độc ác bao nhiêu thì hình ảnh Chí Phèo bị xô đẩy càng rõ bấy nhiêu.
Đó chính là giá trị biểu hiện chủ đề tƣ tƣởng của các đoạn độc thoại nội
tâm của Bá Kiến.
Thị Nở- một nhân vật nhƣ sự trớ trêu của tạo hoá, vừa xấu vừa dở
hơi. Trong con mắt thị Chí Phèo cũng là một thằng “liều lĩnh”, “trời đánh
không chết” nhƣng thị đối xử với hắn còn đƣợc là một con ngƣời. Không
những thị coi hắn là một con ngƣời mà còn coi hắn là một ngƣời đàn ông
hiền lành đích thực: “Thị kiêu ngạo vì đã cứu sống cho một ngƣời. Thị
thấy nhƣ yêu hắn: đó là cái lòng yêu của một ngƣời làm ơn. Nhƣng cũng
có cả lòng yêu của một ngƣời chịu ơn. Một ngƣời nhƣ thị Nở càng không
quên đƣợc. Cho nên thị nghĩ: mình bỏ hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao
cũng đã ăn nằm với nhau! Ăn nằm với nhau nhƣ “vợ chồng”.” (Chí Phèo-
tr.115- tập I). Một tình yêu thƣơng rất con ngƣời, thị là niềm hi vọng, là
ƣớc mơ của Chí Phèo. Nhƣng thị lại chỉ là một thứ ánh sáng chợt loé lên
trong đêm đen của đời Chí. Tất cả các đoạn độc thoại nội tâm của thị đều
xoay quanh con ngƣời Chí Phèo. Chúng tôi đã thống kê đƣợc 4 đoạn độc
thoại nội tâm của thị về Chí Phèo. Các đoạn độc thoại này, có đoạn chỉ là
một phát ngôn nhƣng cũng có đoạn rất dài, gồm nhiều phát ngôn là câu
phức và đƣợc phân bố liên tục. Tất cả các đoạn độc thoại nội tâm ấy cho
độc giả một cái nhìn khác về nhân vật trung tâm Chí Phèo của tác phẩm
Chí Phèo.
Bằng một đoạn độc thoại nội tâm dài của bà cô thị Nở: “Bà thấy
chua xót lắm. Bà thấy uất ức, uất ức với ai không biết. Nhƣng rồi đổ cái
uất ức ngay lên đầu cháu bà! Ngƣời đàn bà đức hạnh thấy cháu bà sao mà
đĩ thế! Thật đốn mạt. Ngoài ba mƣơi tuổi, mà chƣa chót đời. Ngoài ba
mƣơi tuổi…ai lại còn đi lấy chồng. Ai đời lại còn đi lấy chồng! Ừ! Mà có
54
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao lấy thì lấy ai chứ? … Đàn ông đã hết hết cả rồi hay sao, mà lại đâm đầu đi
lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy một thằng chỉ có một nghề là rạch
mặt ăn vạ. Trời ơi! Nhục nhã ơi là nhục nhã! Hỡi ông nhà bà!” (Chí Phèo-
tr. 120, 121- tập I) Nam Cao đã đẩy bi kịch cuộc đời Chí Phèo lên đỉnh
điểm. Và sự thật tàn nhẫn đó nhƣ lời tố cáo đanh thép sự bế tắc, bất công
của hiện thực xã hội. 18 đoạn độc thoại nội tâm của 5 nhân vật trong tác
phẩm Chí Phèo đã tập trung làm sáng rõ hình ảnh của một con ngƣời bị áp
bức, bóc lột, dồn nén đến bƣớc đƣờng cùng và khi phản kháng thì kết cục
càng bi đát hơn, trở thành một kẻ lƣu manh gây tội lỗi, trở thành nạn nhân
của chính những hành động của mình. Đó cũng chính là chủ đề tƣ tƣởng
của tác phẩm Chí Phèo. 18 đoạn độc thoại nội tâm đó đã khẳng định chủ
đề tƣ tƣởng của tác phẩm rất sâu sắc, đa dạng và nhiều chiều. Đó chính là
nét đặc sắc trong bút pháp sử dụng độc thoại nội tâm của Nam Cao.
Trong các tác phẩm viết trƣớc cách mạng của Nam Cao mà chúng
tôi đã lựa chọn khảo sát thì cái vòng luẩn quẩn của kiểu ngƣời Chí Phèo
không chỉ do cái mầm mống gieo rắc của chính Chí để lại mọc lên những
Chí Phèo con ở một nơi lò gạch cũ xa xôi. Có nhiều kiểu ngƣời nông dân
đang dần dần trở thành Chí Phèo với những mức độ khác nhau. Các đoạn
độc thoại nội tâm trong các tác phẩm: “Trẻ con không biết đói”, “Tƣ cách
mõ” đã thể hiện rất rõ nét chủ đề kiểu ngƣời nhƣ thế. Đó là những kẻ ăn
mất phần vợ, con, ích kỉ, vô trách nhiệm nhƣ trong tác phẩm “Trẻ con
không biết đói”, tham lam lầy là nhƣ anh cu Lộ trong “Tƣ cách
mõ”…Bằng những đoạn độc thoại nội tâm Nam Cao đã để cho nhân vật tự
bộc lộ hết những bản chất, tính cách con ngƣời. Từ đó khẳng định rõ ràng,
chân thực và sinh động chủ đề tƣ tƣởng mà nhà văn đã đặt tên cho tác
phẩm của mình. Chỉ bằng hai đoạn độc thoại nội tâm rất ngắn gọn của anh
mõ Lộ, Nam Cao đã cho chúng ta thấy kiểu ngƣời đang dần dần trở thành
55
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao “Chí Phèo”, với giọng điệu và ngôn từ của một kẻ phẫn chí, cùng quẫn,
không cần biết đến ai: “Hắn tặc lƣỡi và nghĩ bụng: “Tháng ba này thằng
nào thằng ấy đến ba ngày không đƣợc một bát cơm, dãi nhỏ ra, hết còn
làm bộ!...””(Tư cách mõ, tr. 350, tập I); “Hắn tặc lƣỡi một cái và nghĩ
bụng: “Muốn nói, ông cho chúng mày nói chán! Ông cần gì!”” (Tư cách
mõ, tr.352, tập I). Ngƣời chồng, ngƣời cha, ngƣời đàn ông là trụ cột trong
gia đình, là chỗ dựa cho vợ con nhƣng trong đầu óc lúc nào cũng chỉ nghĩ
đến rƣợu, đến thức ăn ngon, không cần biết đến vợ con đang vật vã trong
cơn đói khát: “Uống rƣợu đã. Uống rƣợu lúc đói mới thấy ngon. Lúc này
uống khoái bằng mƣời lúc khác. Tội gì mà chẳng uống…Cứ uống! Sẻn
lắm chết cũng bằng vất đi. Cứ uống! Cho sƣớng miệng. Mà phải nhắm
uống rƣợu suông ra quái gì!… Và những thằng bóp mồm bóp miệng là
những thằng điên đâm đầu xuống sông mà chết đi cho rảnh. Này, này cái
lúc rặng còn sức, nhai cái xƣơng cái sụn kêu rau ráu ngon biết mấy! Thế
mà cố nhịn thì dại quá. Đến lúc răng chiếc rụng chiếc còn nhai trủng trà
trủng chẳng miếng ăn có ngon mấy cũng không biết là ngon nữa. Bấy giờ
trông thấy đĩa sụn chỉ ngồi mà khóc lóc, đã chẳng thằng nào thƣơng chúng
nó còn cƣời vào mặt cho…” (Trẻ con không biết đói- tr. 319, 320- tập I).
Ngƣời chồng, ngƣời cha ấy có còn xứng đáng không. Đã thế lại còn suy
luận một cách tệ hại: “Có lẽ trẻ con nó không biết đói. Không biết đói thì
không đói. Không đói thì không cần phải ăn” (Trẻ con không biết đói- tr.
318- tập I). Những lời độc thoại ấy cứ chảy mãi trong đầu óc những kẻ mê
muội kia mà không có điểm dừng. Nam Cao đã miêu tả chân thực đến
từng chi tiết nhỏ. Các đoạn độc thoại nội tâm của nhân vật đƣợc bố trí, sắp
đặt để làm nổi rõ tính cách, tâm trạng, diễn biến tâm lý của một dạng
ngƣời nhƣng lại rất tự nhiên, hợp lý nhƣ tiếp thêm, làm cho đầy đủ hơn
những chi tiết từ hành động đến suy nghĩ của nhân vật tập trung làm nổi rõ
56
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao chủ đề tƣ tƣởng của tác phẩm. Những dòng độc thoại nội tâm ấy nhƣ khắc
sâu hơn, thực tế hơn chủ đề tƣ tƣởng của tác phẩm.
2.1.1.2. Hệ thống chủ đề tư tưởng thứ hai: những ngƣời nông dân bản chất
hiền lành, thật thà không hề gây tội lỗi mà là những nạn nhân về nhiều mặt
của chế độ thực dân phong kiến; họ mang nhiều phẩm chất quen thuộc của
ngƣời nông dân và ít bị biến chất trƣớc những đổi thay của cuộc đời.
Chủ đề đó đƣợc thể hiện rất rõ nét thông qua các đoạn độc thoại nội
tâm của các nhân vật trong các tác phẩm: “Lão Hạc”, “Từ ngày mẹ chết”,
“Một đám cưới”, “Ở hiền”. Thông qua các dòng độc thoại nội tâm đó,
Nam Cao đã khắc hoạ rất rõ nét và sinh động nội tâm, tính cách, ý nghĩ
của một dạng ngƣời nông dân với bản chất đơn giản, hiền lành, thật thà,
cần cù, chịu khó, có trách nhiệm với gia đình của mình nhƣng phải chịu
đựng đến tột cùng những đau thƣơng và những nối thống khổ của kiếp
ngƣời. Chúng tôi đã thống kê đƣợc 18 đoạn độc thoại nội tâm của 8 nhân
vật, thể hiện chủ đề tƣ tƣởng đó của Nam Cao. Hầu hết các đoạn độc thoại
nội tâm đó đều rất dài, phân bố không đồng đều, lúc liên tục, lúc ngắt
quãng thể hiện sự khách quan trong đánh giá hiện thực của Nam Cao.
Những dòng độc thoại nội tâm ấy càng nhấn mạnh thêm cái bản chất tốt
đẹp của ngƣời nông dân.
Lão Hạc day dứt, trăn trở đã không đủ tiền cƣới vợ cho con nhƣng
lão quyết tâm không động đến cái vƣờn mà vợ lão đã “thắt lƣng buộc
bụng, dè sẻn mãi” mới có đƣợc để giành cho con: “Cái vƣờn là của con ta.
Hồi còn mồ mà mẹ nó, mẹ nó cố thắt lƣng buộc bụng, dè sẻn mãi, mới để
ra đƣợc năm mƣơi đồng bạc tậu. Hồi ấy, mọi thứ còn rẻ cả… Của mẹ nó
tậu, thì nó hƣởng. Lớp trƣớc nó đòi bán, ta không cho bán là ta có ý giữ
57
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao cho nó, chứ có phải giữ để ta ăn đâu? Nó không có tiền cƣới vợ, phẫn chí
bƣớc ra đi, thì đến lúc có tiền để lấy vợ, mới chịu về. Ta bòn vƣờn của nó,
cũng nên để ra cho nó; đến lúc nó về, nếu nó không đủ tiền cƣới vợ thì ta
thêm vào với nó, nếu nó có đủ tiền cƣới vợ, thì ta cho vợ chồng nó để có
chút vốn mà làm ăn…” (Lão Hạc- tr.198, 199- tập I). Chúng tôi thống kê
đƣợc 2 đoạn độc thoại nội tâm của Lão Hạc, đoạn nào cũng dài với lời lẽ
rất chân thành, thật thà thể hiện một con ngƣời lƣơng thiện, hiền lành.
Lão đã nghĩ và quyết tâm làm nhƣ thế. Lão quả là một ngƣời cha nhân
hậu, giàu lòng thƣơng con. Những suy nghĩ của lão thật đáng chân trọng.
Lão quên bản thân mình vì con, lão sống để giữ của cho con, đến khi
không thể sống thêm đƣợc nữa, lão đã từ biệt cõi đời để không làm ảnh
hƣởng đến cuộc sống vốn quá vất vả, khổ cực của ngƣời thân. Lão Hạc-
một lão nông dân nghèo nhƣng giàu lòng tự trọng, tự trọng đến khảng
khái. Những lời suy nghĩ ấy của lão đã để lại cho độc giả những day dứt,
những trăn trở không thể nào quên. Lão Hạc cố gắng không bán cái vƣờn
của con thậm chí còn phải dành tiền bán hoa quả của cái vƣờn ấy lại cho
con. Những dòng suy nghĩ ấy rất chân thực, rất chi tiết khẳng định rõ nét
tính cách của nhân vật Lão Hạc và góp phần khẳng định chủ đề tƣ tƣởng
của tác phẩm. Cái chết của Lão Hạc thật thƣơng tâm, một cái chết đau
đớn, vật vã khiến cho ngƣời hàng xóm tin cậy của lão là ông giáo không
khỏi chạnh lòng, xót thƣơng. “Lão Hạc ơi! Lão hãy yên lòng mà nhắm
mắt! Lão đừng lo gì cho cái vƣờn của lão. Tôi sẽ cố giữ gìn cho lão. Đến
khi con trai lão về, tôi sẽ trao lại cho hắn và bảo hắn: “Đây là cái vƣờn mà
ông cụ thân sinh ra anh đã cố để lại cho anh trọn vẹn; cụ thà chết không
chịu bán đi một sào.” (Lão Hạc- tr.207- tập I). Và những dòng độc thoại
nội tâm của “ông giáo” cũng phản ánh số phận ngƣời nông dân khổ đau,
quằn quại trong chế độ xã hội cũ: “Chao ôi! Đối với những ngƣời ở quanh
58
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần
tiện, xấu xa, bỉ ổi… toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta
thấy họ là những ngƣời đáng thƣơng; không bao giờ ta thƣơng…Vợ tôi
không ác, nhƣng thị khổ quá rồi. Một ngƣời đau chân có lúc nào quên
đƣợc cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu? Khi ngƣời ta
khổ quá thì ngƣời ta chẳng còn nghĩ gì đến ai đƣợc nữa. Cái bản tính tốt
của ngƣời ta bị những lỗi lo lắng, buồn đau ích kỉ che lấp mất…” (Lão
Hạc- tr. 205- tập I). Bi kịch cuộc đời lão Hạc nhƣ rõ ràng hơn, sâu sắc hơn
qua những đoạn độc thoại nội tâm ấy. Lão Hạc chính là điển hình của một
lão nông hiền lành, chất phác bị chế độ cũ đẩy đến bên vực thẳm nhƣng
chút hơi thở cuối cùng lão vẫn giữ đƣợc phẩm chất trong sạch. Những suy
nghĩ, trăn trở, lo toan cho con trai của ông khẳng định phẩm chất con
ngƣời ông và tạo ra hình ảnh cao đẹp về ngƣời nông dân trong lòng độc
giả. Chỉ bằng bốn đoạn độc thoại nội tâm của hai nhân vật, chủ đề tƣ
tƣởng của tác phẩm đã đƣợc làm sáng rõ. Nhƣ vậy giá trị khẳng định chủ
đề tƣ tƣởng tác phẩm của các đoạn độc thoại nội tâm rất sâu sắc và đa
dạng.
Trong nhiều đoạn độc thoại nội tâm hình ảnh ngƣời phụ nữ nông
dân cần cù chịu đựng, giàu đức hi sinh, yêu thƣơng chồng con rồi những
em bé đáng ra đƣợc đủ ăn, đủ mặc, đƣợc học hành, đƣợc đùm bọc yêu
thƣơng nhƣng sớm bị bỏ rơi, hắt hủi hiện ra rất rõ nét. Tất cả, tất cả những
dòng độc thoại nội tâm ấy nhƣ bồi, nhƣ đắp thêm nỗi đau thƣơng, sự
thống khổ của số phận con ngƣời bạc bẽo trƣớc những cái vô lý, bất công
của xã hội. Những dòng độc thoại ấy đã khẳng định rõ nét tính cách của
nhân vật, đồng thời cũng thông qua những dòng độc thoại ấy mà chúng ta
hiểu rõ nét hơn bản chất con ngƣời và những nghiệt ngã của số phận do xã
hội cũ xô đẩy. Và các đoạn độc thoại ấy góp một phần lớn trong việc thể
59
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao hiện chủ đề tƣ tƣởng của tác phẩm. Những ngƣời phụ nữ nông dân, những
em bé với những đức tính và phẩm chất cao đẹp, dù bị hoàn cảnh xô đẩy
đến đâu cũng không bị biến chất.
Những đoạn độc thoại nội tâm dài của bà mẹ Dần trong “Một đám
cưới”, bà mẹ Nhu trong “Ở hiền” đã thể hiện đƣợc rõ nét chủ đề tƣ tƣởng
của tác phẩm. Những ngƣời phụ nữ ấy hết lòng thƣơng yêu con, họ rất
muốn cuộc sống của con mình tốt đẹp hơn: “con mình đã lớn rồi, phải uốn
nắn ngay đi; nhà mình vƣờn ít, ruộng không, cửi vải cũng không, nghĩa là
công việc chẳng có gì; nó ở nhà cũng chỉ chơi; để mặc nó lêu lổng chạy ra
ngoài đƣờng, đánh chắt, đánh ô, rồi nó hƣ thân; chi bằng cho nó đi ăn đi ở
với ngƣời ta, để ngƣời ta bắt nó cất nhắc việc nọ, việc kia cho nó quen tay;
có việc làm rồi mới biết việc mà làm, chỉ nhông nhổng chơi quen, đến lúc
phải làm tất gờ guộng chân tay, chẳng đánh đổ cái này cũng vỡ cái kia, cái
thứ con gái mà cầm đến cái gầu không biết tát làm sao, đƣa cho đám mạ
không biết cấy thế nào, bảo ngồi lên khung cửi nhắc lấy cái thoi thì lúng ta
lúng túng, là thứ con gái đáng cho hùm ăn thịt…” (Một đám cưới- tr. 215,
216- tập I); “Thƣơng con thì để bụng. Nuông con thà giết con đi. Trẻ con
đứa nào chả thích ở nhà với bố, với mẹ để chẳng ngƣời nào động đến
thân? Đi ở cho nhà ngƣời ta, ăn cơm của ngƣời ta, lấy công của ngƣời ta,
thì cố nhiên là phải làm cho đáng cơm, đáng công của ngƣời ta. Làm
không đƣợc, ngƣời ta thiệt thì ngƣời ta xót. Ngƣời ta xót thì ngƣời ta phải
nói. Nói, mình nghe thì chớ, không nghe thì ngƣời ta phải chửi, phải đánh.
Ngƣời ta đánh chửi cho là phúc nhà mình đấy. Không đánh, không chửi,
sao có nên thân ngƣời đƣợc?” (Một đám cưới- tr. 218, 219- tập I); “Bà
thừa hiểu rằng cái cảnh gái già chẳng sung sƣớng gì đâu! Bây giờ còn mẹ
nên Nhu chƣa thấy khổ, nhƣng một mai bà trăm tuổi về già, bấy giờ Nhu
phải ở với chị dâu, rồi mới biết. Bởi vậy cho nên đối với việc ngƣời ta hỏi
60
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao Nhu, bà tỏ ý lạc quan. Đã đành anh cũng có ý bòn của đây, nhƣng cái sự
tham ở đời ai mà lại chả tham? Nếu nhà nó giàu, nó đã chả chịu lấy Nhu là
đứa đã hơn nó những năm, sáu tuổi. Nó nghèo thì mình cho nó nhờ vả ít
nhiều. Nó nhờ vả mình thì phải nể con mình. Nó có nể con mình thì con
mình mới khỏi khổ, chứ cái bộ Nhu hiền nhƣ đất nặn thế nếu lấy phải
thằng chồng vũ phu, cậy của cậy tài, hay còn bố mẹ chồng thích hạnh hoẹ
con dâu, thì đến chỉ khóc lắm, sƣng mắt lên, rồi chết...” (Ở hiền, tr. 366,
367, tập I). Khi đọc những dòng độc thoại nội tâm ấy ngƣời đọc đã thấy
hết đƣợc tấm lòng của ngƣời mẹ đối với con mình. Phẩm chất cao đẹp và
đáng quý của ngƣời phụ nữ rõ ràng hơn, đậm nét hơn dƣới những dòng
độc thoại ấy. Họ chấp nhận mọi giá để con mình đỡ khổ, đƣợc “nên thân
ngƣời”. Khi đứng một mình chúng ta tƣởng rằng những đoạn độc thoại nội
tâm ấy hết sức bình thƣờng nhƣng đặt những dòng độc thoại nội tâm ấy
vào bối cảnh của truyện ngắn thì giá trị khẳng định chủ đề tƣ tƣởng tác
phẩm của những dòng độc thoại nội tâm ấy đƣợc nhân lên gấp bội.
Ngƣời phụ nữ, ngƣời mẹ cần cù chịu khó, giàu đức hi sinh ấy chết
đi để lại bao niềm tiếc thƣơng cho ngƣời chồng và những đứa con. Giá
còn bà thì có lẽ cái Dần sẽ không phải chịu cảnh đi lấy chồng bất đắc dĩ
thế, cảnh cƣới nhƣ đƣa đám để bớt một miệng ăn, để trừ nợ, để có dăm
đồng bạc cho cha lên rừng… Bà còn sống thì có lẽ chồng bà sẽ bớt buồn
tủi, xót xa khi đƣa con gái về nhà chồng. Bà đã chăm lo cho con biết bao
nhiêu, vậy mà… Nhà văn đã sử dụng những dòng độc thoại nội tâm ấy để
khẳng định rõ hơn bi kịch cuộc đời của ngƣời nông dân trong xã hội cũ.
Một đứa bé nhƣ Ninh đã có những suy nghĩ: “Lại còn cái ông Đật nữa? Đi
đâu mà mải thế? Ý dáng lại lần sang nhà bác Vụ. Còn sang làm gì? Gạo
của thầy gửi đã hết từ đời nảo, đời nào. Bác ấy đã phải cho ăn lận nhà bác
ấy năm sáu bữa. Nhà bác ấy cũng túng. Chồng chết đi để lại đây bốn con.
61
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao Bốn đứa cũng lúc nhúc nhƣ Ninh và Đật. Bác ấy nuôi đƣợc chúng nó cũng
đã đến điều vất vả. Còn lấy gì mà nuôi cả Ninh và Đật nữa?” (Từ ngày mẹ
chết, tr. 298, tập I). Ở đây Nam Cao đã để một đứa bé tự nghĩ, tự xoay sở
kiếm ăn nuôi em để từ đó khẳng định rõ nét hơn cái cảnh ngộ của chúng.
Những dòng độc thoại nội tâm ấy góp phần quan trọng không thể thiếu
khẳng định chủ đề tƣ tƣởng của truyện ngắn. Chính những dòng độc thoại
nội tâm ấy đã góp phần tạo nên bức tranh hiện thực gây xúc động và có
giá trị nhận thức về đời sống nông thôn trong một thời kỳ lịch sử đặc biệt
mà thế hệ chúng ta sau này mãi mãi không thể nào quên.
Nhƣ vậy, trƣớc Cách mạng, đề tài ngƣời nông dân với những truyện
ngắn mà chúng tôi chọn lọc, khảo sát có hai chủ đề tƣ tƣởng lớn về số
phận con ngƣời trong chế độ xã hội cũ. Tất cả 47 đoạn độc thoại nội tâm
mà chúng tôi thống kê đƣợc trong 14 truyện đều có giá trị hiện thực hoá
hai hƣớng chủ đề tƣ tƣởng lớn của Nam Cao. Những đoạn độc thoại nội
tâm ấy đã đƣợc Nam Cao khai thác triệt để, rất logic tạo ra một cái nhìn
khách quan nhiều màu sắc trong việc đánh giá tính hiện thực của các tác
phẩm và độ nhạy bén, sắc sảo của một ngòi bút đầy tài năng Nam Cao.
2.1.2. Đề tài người trí thức tiểu tư sản
Về mảng đề tài này, Nam Cao cũng bộc lộ những cạnh sắc riêng của
mình. Ngƣời trí thức tiểu tƣ sản trong xã hội cũ cũng gặp những bi kịch,
những con đƣờng đời mù mịt nhƣng nó lại ở khía cạnh khác so với ngƣời
nông dân. Bi kịch ngƣời trí thức tiểu tƣ sản là cái bi kịch vỡ mộng. Và bi
kịch vỡ mộng đó là chủ đề xuyên suốt trong các tác phẩm viết về ngƣời trí
thức tiểu tƣ sản của Nam Cao. Nhà văn mong ƣớc có những tác phẩm lớn
làm kinh động đến dƣ luận lại trở thành con ngƣời đầy dằn vặt, uất ức, hối
62
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao hận. Toàn bộ hoài bão, mơ uớc của ngƣời trí thức tiểu tƣ sản đều thất bại.
Và cái bi kịch vỡ mộng của họ chủ yếu là do những căn nguyên xã hội.
Chế độ cũ đã làm tan nát những ƣớc mơ, chà đạp lên nhân cách, đã huỷ
hoại vừa thầm lặng vừa dữ dội tất cả những gì tốt đẹp của con ngƣời.
Những dằn vặt, trăn trở, uất ức, hối hận ấy của ngƣời trí thức tiểu tƣ sản
tuôn trào thành những dòng suy nghĩ nội tâm nhiều màu sắc, nhiều khía
cạnh khác nhau, càng làm sáng rõ cái bi kịch cuộc đời, sự nghiệp ngƣời trí
thức tiểu tƣ sản trong xã hội ngột ngạt, nghiệt ngã cũ. Ngƣời trí thức cũng
là nạn nhân của sự thối nát của chế độ cũ. Nhà văn để họ tự bộc lộ mình
bằng những lời độc thoại nội tâm mang tầm sâu triết lý. Hình ảnh ngƣời trí
thức tiểu tƣ sản đã đƣợc miêu tả một cách trung thực, không tô điểm,
không che đậy. Và con ngƣời ấy đƣợc miêu tả trong sự va trạm đấu tranh
với cảnh ngộ.
Khảo sát những truyện ngắn viết về đề tài ngƣời trí thức tiểu tƣ sản
của Nam Cao trƣớc cách mạng chúng tôi thấy nổi lên hai nhân vật là: Hộ
(Đời thừa) và Điền (Trăng Sáng). Chúng tôi thống kê đƣợc 12 đoạn độc
thoại nội tâm trong hai tác phẩm Đời thừa và Trăng sáng, chủ yếu là của
hai nhân điển hình, tiêu biểu cho tầng lớp trí thức tiểu tƣ sản Hộ và Điền.
Họ đã tự bộc lộ những day dứt, trăn trở, suy tƣ của mình qua những đoạn
độc thoại mang màu sắc triết lý nhƣng rất dung dị. Tất cả những bi kịch
cuộc đời cũng nhƣ sự nghiệp của nhân vật trí thức tiểu tƣ sản đƣợc thể
hiện rất rõ nét trong những đoạn độc thoại nội tâm ấy. Chính vì thế mà giá
trị biểu hiện của những đoạn độc thoại nội tâm là vô cùng quan trọng, nó
mang tính chất khách quan khẳng định chủ đề tƣ tƣởng của tác phẩm. Hộ
dằn vặt, trách móc bản thân mình khi không tìm đƣợc con đƣờng đi chân
chính trong sự nghiệp: “Khốn nạn! Khốn nan thay cho hắn! Bởi vì hắn
chính là một thằng khốn nạn! Hắn chính là một kẻ bất lƣơng! Sự cẩu thả
63
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lƣơng rồi. Nhƣng sự cẩu thả trong
văn chƣơng thì thật đê tiện. Chao ôi! Hắn viết những gì? Toàn những cái
vô vị, nhạt phèo, gợi những tình cảm rất nhẹ, rất nông, diễn một vài ý rất
thông thƣờng quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá ƣ dễ dãi.
Hắn chẳng đem một chút mới lạ gì đến văn chƣơng. Thế nghĩa là hắn là
một kẻ vô ích, một ngƣời thừa. Văn chƣơng không cần đến những ngƣời
thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đƣa cho. Văn chƣơng chỉ dung
nạp những ngƣời biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chƣa ai
khơi, và sáng tạo những cái gì chƣa có… Hắn nghĩ thế và buồn lắm, buồn
lắm! Còn gì buồn hơn chính mình lại chán mình? Còn gì đau đớn cho kẻ
vẫn khát khao làm một cái gì mà nâng cao giá trị đời sống của mình, mà
kết cục chẳng làm đƣợc gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt? Hắn để mặc
vợ con khổ sở ƣ? Hắn bỏ liều, hắn ruồng rẫy chúng, hắn hy sinh nhƣ
ngƣời ta vẫn nói ƣ?” (Đời thừa- tr. 603- tập I). Hắn ƣớc ao tạo ra đƣợc cái
mới cho sự nghiệp văn chƣơng của hắn để khỏi phải trở thành “một kẻ vô
ích, một ngƣời thừa”. Hắn ƣớc ao biết “đào sâu, biết tìm tòi, khơi những
nguồn chƣa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chƣa có…” cho sự nghiệp
của riêng hắn nhƣng trên thực tế thì ngƣợc lại. Hắn là một kẻ hèn không
thực hiện đƣợc sự nghiệp đã đành lại còn mang tiếng là “một thằng con
trai không nuôi nổi vợ, con thì còn mong làm nên trò gì nữa?” (Đời thừa-
tr.604- tập I). Và bi kịch vỡ mộng đã xảy ra. Thâm tâm Hộ muốn theo
đuổi sự nghiệp văn chƣơng, nhƣng thực tế cuộc sống không dễ dàng nhƣ
thế. Hộ luôn luôn phải đối mặt, phải đấu tranh với “cơm áo gạo tiền”, với
sự nheo nhóc, nghèo nàn, đói rét của vợ con và của chính mình: “Hắn lắc
đầu tự bảo: “Thôi thế là hết! Ta đã hỏng! Ta đã hỏng đứt rồi!”. Thật chua
xót biết bao. Điền (Trăng sáng) cũng có những day dứt riêng: “Điền
thƣơng con lắm. Vút cái, Điền thấy Điền không thể nào đi đƣợc. Điền
64
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao không thể sung sƣớng khi con Điền còn khổ. Chao ôi! Trăng đẹp lắm!
Trăng dịu dàng và trong trẻo và bình tĩnh. Nhƣng trong những căn lều nát
mà trăng làm cho cái bề ngoài trông cũng đẹp, biết bao ngƣời quằn quại,
nức nở, nhăn nhó với những đau thƣơng của kiếp mình! Biết bao tiếng
nghiến răng và chửi rủa! Biết bao cực khổ và lầm than?…Không, không,
Điền không thể nào mơ mộng đƣợc. Cái sự thật tàn nhẫn luôn luôn bày ra
đấy. Sự thực giết chết những ƣớc mơ lãng mạn gieo trong đầu óc. Điền cái
thứ văn chƣơng của bọn nhàn rỗi quá. Điền muốn tránh sự thực, nhƣng
trốn tránh làm sao đƣợc? Vợ Điền khổ, con Điền khổ, cha mẹ Điền khổ.
Chính Điền cũng khổ. Bao nhiêu ngƣời nữa, cùng một cảnh, khổ nhƣ
Điền! Cái khổ làm héo một phần lớn những tính tình tƣơi đẹp của ngƣời
ta. Tiếng khổ vang dội lên mạnh mẽ. Chao ôi! Chao ôi! Nghệ thuật không
cần là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể
chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than vang dội mạnh
mẽ trong lòng Điền.” (Trăng sáng- tr. 587, 588- tập I). Sự thực thật phũ
phàng, Điền không thể tiếp tục nghiệp văn của mình nếu thiếu tiền. Nhà
văn Nam Cao đã dùng những đoạn độc thoại nội tâm ấy thật đặc sắc và tài
tình. Chúng ta những ngƣời đọc tác phẩm của ông không thể nào quên một
Điền, một Hộ nhƣ thế. Họ là những nhân vật điển hình cho tầng lớp trí
thức tiểu tƣ sản nghèo, là nạn nhân trực tiếp của chế độ xã hội cũ. 12 đoạn
độc thoại nội tâm dài thể hiện một tâm trạng, nỗi niềm hết sức phức tạp
mang tầm sâu triết lý của các nhân vật trí thức tiểu tƣ sản. Những dòng
suy nghĩ, những quan niệm chân chính, những nỗi băn khoăn, day dứt của
họ về cuộc sống về sự nghiệp luôn luôn ám ảnh nhiều thế hệ công chúng.
Những dòng độc thoại nội tâm của các nhân vật ấy đã tạo ra giá trị chân
thực, hiện thực của tác phẩm. Góp phần khẳng định chủ đề tƣ tƣởng của
tác phẩm dƣới nhiều hình thức khác nhau.
65
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao
2.2. Sau Cách mạng
“Khởi nghĩa tháng Tám nhƣ một lƣỡi cày khổng lồ đào sới mảnh đất
Việt Nam đau thƣơng, để gieo sự sống trở lại lên những luống đất đẫm
máu và nƣớc mắt”. Vâng, đúng nhƣ vậy. Nhà văn Nam Cao của chúng ta
cũng đƣợc sống trong những ngày sôi sục, hạnh phúc ấy. Cũng khai thác
mảng đề tài cũ là ngƣời nông dân và tầng lớp trí thức tiểu tƣ sản nhƣng
ngòi bút của ông không còn ẩn chứa sự cay đắng, chua xót, tủi nhục nữa.
Những nhân vật trong các sáng tác của ông thời kỳ này có nhiều nét mới,
cuộc đời họ đã đƣợc thắp sáng bởi biết bao hy vọng vào một tƣơng lai
sáng sủa hơn. Chúng ta gặp lại những ngƣời nông dân đủ cả già trẻ gái
trai, rồi những ngƣời trí thức tiểu tƣ sản nhƣng trong tâm tƣ tình cảm, suy
nghĩ họ không còn hằn sâu nỗi chán chƣờng thất vọng. Tất cả nhƣ đang
sôi sục trong một thời đại mới, thời đại cách mạng. Số phận và cuộc sống
của những ngƣời nông dân, ngƣời trí thức ấy nhƣ đƣợc mở sang một trang
mới và họ thấy cuộc đời thật tƣơi đẹp và nhiều ý nghĩa. Chủ đề của những
sáng tác sau cách mạng của ông là sự kết hợp hai việc vừa tiến hành phê
phán xã hội cũ vừa ca ngợi cách mạng đã đem lại sự sống mới trên những
mảnh đất cũ vốn tràn ngập đau thƣơng, chết chóc. Các đoạn độc thoại nội
tâm của các nhân vật trong các sáng tác sau cách mạng của Nam Cao đã
làm nổi bật hiện thực xã hội mà Nam Cao muốn miêu tả ở nhiều góc cạnh,
nhiều chiều khác nhau. Khảo sát 8 truyện ngắn viết sau Cách mạng, chúng
tôi thống kê đƣợc 29 đoạn độc thoại nội tâm của các nhân vật. Ở 8 truyện
ngắn này chúng tôi cũng phân loại các đoạn độc thoại nội tâm ra làm hai
hệ thống chủ đề tƣ tƣởng riêng biệt. Bảng phân loại tƣ liệu:
Đề tài Chủ đề Các đoạn độc thoại
66
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao Nông
- Cách mạng (8đoạn, 99 phát Ý thức, quan điểm,
dân ngôn) cách nhìn, trách
nhiệm của ngƣời - Đợi chờ (1đoạn, 3phát ngôn)
nông dân trƣớc - Từ ngược về xuôi (1đoạn, 3phát
những sự kiện, ngôn)
những đổi thay của - Bốn cây số cách một căn cứ dân tộc mang tính địch (3đoạn, 15 phát ngôn) thời đại.
Trí thức Ý thức, nhận thức, - Đường vô nam (4đoạn, 37phát
ngôn) tiểu tƣ cách nhìn, trách
sản nhiệm của ngƣời trí - Đôi mắt (5đoạn, 26 phát ngôn)
thức tiểu tƣ sản trƣớc - Trên những con đường Việt Bắc
những sự kiện, (3 đoạn, 18 phát ngôn)
- Những bàn tay đẹp ấy (4 đoạn, 38 những đổi thay của - dân tộc mang tính
phát ngôn thời đại.
2.2.1. Hệ thống chủ đề tư tưởng thứ nhất: Ý thức, quan điểm, cách nhìn
của ngƣời nông dân trƣớc những sự kiện, những đổi thay của dân tộc mang
tính thời đại.
Đây là hệ thống chủ đề tƣ tƣởng của các đoạn độc thoại nội tâm
trong các tác phẩm: Cách mạng, Đợi chờ, Những bàn tay đẹp ấy, Từ
ngược về xuôi, Bốn cây số cách một căn cứ địch. Qua khảo sát chúng tôi
đã thống kê đƣợc 14 đoạn độc thoại nội tâm của nhiều nhân vật: địa chủ
có, nông dân có, mỗi ngƣời lại có một cách nghĩ, một cách nhìn khác nhau
67
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao tạo ra sự đa dạng, phong phú khẳng định một cách khách quan, chân thực
chủ đề tƣ tƣởng của tác phẩm.
Các đoạn độc thoại nội tâm của địa chủ “ông bá” (Cách mạng) đƣợc
Nam Cao bố trí liên tục, đoạn nào cũng dài thể hiện rõ những suy nghĩ,
những nỗi niềm của một ngƣời đại diện cho guồng máy áp bức, bóc lột cũ
về những đổi thay mang tính thời đại “Cách mạng” của dân tộc: “Nhật đến
đây cũng chẳng khác gì Tây: chúng muốn cƣớp lấy nƣớc để tranh lấy
những nguồn lợi ở đây. Cố nhiên chúng cũng phải làm nhƣ Tây, dùng
ngƣời mình để trị ngƣời mình. Không thể, chúng cai trị làm sao đƣợc?
Việt Minh thì khác hẳn. Việt Minh là những ngƣời làm cách mạng. Những
ngƣời làm cách mạng không những chỉ ghét những quân đi cƣớp nƣớc; họ
ghét cả những quan tham, lại nhũng, kỳ mục đục khoét dân. Họ mà lên
chẳng những họ sẽ đuổi cổ ông về, họ còn trị tội ông là khác.” (Cách
mạng- tr.370, 371- tập II); “Ấy thế mà họ cũng đã đánh Tây, đánh Nhật
trên mạn ngƣợc. Họ giết Nhật, giết mật thám giữa ban ngày ở ngay Hà
Nội. Họ bắn súng, kéo cờ, diễn thuyết om xòm trong các chợ. Họ xui dân
đừng nộp thóc, nộp thuế, đi phu. Mà dân ra sự cũng dám nghe theo họ,
mới lạ chứ! Ngày xƣa nhƣ thế thì bố bảo! Có lẽ cũng đổi đời hay sao đó.
Dân bây giờ cũng táo bạo nhiều rồi. Họ lại hâm mộ Việt Minh lắm. Chẳng
cần nói đâu xa, ngay ở đây bây giờ mà Việt Minh nổi lên, chắc chắn là dân
cũng theo ùn ùn” (Cách mạng- tr. 374- tập II). Xã hội đã có sự đổi thay
lớn, sự đổi thay ấy là do sức mạnh của Việt Minh. Nhà văn đã để cho nhân
vật tự bộc lộ, tự so sánh mọi việc để từ đó làm toát lên thành quả to lớn
của Cách mạng. Những dòng độc thoại nội tâm của địa chủ “ông bá” đã
đóng góp một cách nhìn tích cực vào sự phong phú nhiều màu sắc của
hiện thực xã hội. Khẳng định rất rõ chủ đề tƣ tƣởng của tác phẩm.
68
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao
Bằng những dòng suy nghĩ nội tâm của Tần- một đại diện cho ngƣời
nông dân trong thời kỳ cách mạng nhà văn lại chỉ cho chúng ta thấy hết sự
thối nát, vô lý, ngang ngƣợc bạo tàn của guồng máy bóc lột có cả ta cả
Tây; những ƣớc ao và tấm lòng của một con ngƣời yêu chuộng hoà bình.
Cũng thông qua những dòng độc thoại nội tâm ấy nhà văn Nam Cao còn
muốn miêu tả ý nghĩa to lớn của cuộc cách mạng dân tộc trong con mắt
ngƣời nông dân. Các đoạn độc thoại nội tâm của nhân vật Tần đều là các
đoạn dài, có cấu trúc của một lập luận, thể hiện rất chân thực suy nghĩ,
nhận thức của ngƣời nông dân về những đổi thay to lớn của dân tộc:
“Nhƣng làm gì có công lý, có sự ngay thẳng trong một cái xã hội toàn nô
lệ, dƣới quyền một cái chính phủ làm tay sai cho những quân kẻ cƣớp.
Luật pháp thì có đấy, nhƣng chỉ có để ngƣời ta dùng làm một sợi thừng
mà buộc cổ thằng dân…” (Cách mạng- tr. 360- tập II); “ Y muốn đấm ông
bá một vài quả cho ông bá méo mặt đi, nhƣng kết cục thì chính y méo mặt,
bởi vì đấm ông bá thì chẳng khác gì đấm bị, đấm thế nào ông cũng chƣa
thấm thía. Y kiện ở phủ thì ông phủ ăn tiền, vả cũng bênh ngƣời làm việc
dƣới quyền ông, vẫn đi lại với ông tƣơm tất xƣa nay. Y kiện ở tỉnh thì tỉnh
cứ lời phủ từ rồi cũng ăn tiền. Y nhờ ti liêm phóng điều tra, nhƣng ở ti
liêm phóng, ngƣời ta chỉ bắt cộng sản đã đủ nhƣợc ngƣời rồi, còn hơi đâu
mà để ý đến những việc tham nhũng của mấy ông tổng lý.” (Cách mạng-
tr. 362- tập II); “Tần ứ họng. Không phải vì y hết lý sự, không còn trả lời
vào đâu đƣợc nữa. Chỉ vì y tức quá. Thì ra ngƣời ta gọi thế là cai trị đấy!
Ấn cổ thằng dân xuống, bịt miệng, bịt miệng cho không ai đƣợc nói gì,
không đến đâu, uất ức đến đâu cũng không đƣợc nói: cứ cắn răng vào mà
chịu!…Ngu ngốc thật! Y hì hục cố đánh đổ mấy tay cƣờng hào ức hiếp
dân làng. Thật ra bọn cƣờng hào có nghĩa lý gì đâu! Họ chỉ là những viên
đá con con, ở dƣới cùng tảng Thái Sơn. Ngƣời ta thấy họ đè lên mình thì
69
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao cứ họ mà lay. Nhƣng sức nặng ở họ chỉ có một phần nhỏ mà thôi. Sức
nặng chính là ở trái núi kê trên họ. Muốn làm đƣợc trò gì, trƣớc hết phải
bạt cả trái núi, phải phá cả cái chế độ bóc lột và áp bức đi, chứ không phải
chỉ cần kiện đổ một ông lý trƣởng hay một ông chánh tổng.” (Cách mạng-
tr. 363- tập II). Những dòng suy nghĩ này của nhân vật Tần đã lý giải đƣợc
sự tàn nhẫn, bất công của bộ máy cai trị của bọn thực dân, đã khẳng định
thêm ý nghĩa to lớn mà Cách mạng đã đem lại cho ngƣời dân. Và cái bản
chất hiền lành của ngƣời nông dân chỉ muốn sống một cuộc sống tự do,
bình yên trên mảnh đất của họ một lần nữa lại đƣợc ngợi ca trong dòng
suy nghĩ của Tần: “Thật ra, đôi mắt xanh, cái mũi lõ kia có gì đáng ghét
đâu? Ta thấy nó đáng ghét, chính vì ta đã gặp nó trên mặt những kẻ áp bức
và bóc lột. Hỡi anh chàng da trắng tóc quăn kia! Chúng tôi không hề có ý
muốn làm nhục lại các anh nhƣ các anh luôn luôn làm nhục chúng tôi xƣa;
chúng tôi chỉ muốn không để cho ai làm nhục nữa. Anh có vẻ lấy làm
nhục vì chúng tôi không còn phải e dè, sợ sệt các anh. Đáng lẽ anh chỉ nên
lấy làm nhục vì đã khiến chúng tôi phải e dè, sợ sệt. Bây giờ gặp nhau,
chúng ta cùng ngoảnh mặt đi, không muốn nhìn nhau. Thế mà anh là
ngƣời, tôi cũng là ngƣời. Thù ghét nhau chi, cho cuộc đời giảm đẹp đi?
Tại sao chúng ta không thể nhìn nhau vui vẻ và thân thiện? Cái nó chia rẽ
chúng ta, cái nó chia rẽ loài ngƣời, không phải là màu da, tiếng nói; chính
là sự chênh lệch vô lý giữa ngƣời với lại ngƣời. Khi chúng tôi đã hất các
anh từ trên cổ chúng tôi xuống đất rồi, rất có thể chúng ta lại thân ái nắm
tay nhau cùng đi một con đƣờng. Có thôi là một ngƣời nô lệ, mới có thể
thành một ngƣời bạn đƣợc…” (Cách mạng- tr. 388, 389- tập II). Và suy
nghĩ của ngƣời nông dân về cách mạng cũng rất giản dị nhƣng cũng rất
chân thực: “ Cách mạng! Cách mạng!. Mày gây va chạm và chém giết,
70
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao nhƣng chính mày lại mở lối để loài ngƣời tiến lên hoà bình” (Cách mạng-
tr. 389- tập II).
Các đoạn độc thoại nội tâm của nhân vật Vinh (Bốn cây số cách một
căn cứ địch), nhân vật Liễu (Đợi chờ) đều thể hiện rất rõ tinh thần, ý thức
của ngƣời nông dân trƣớc những đổi thay to lớn của dân tộc. Các đoạn độc
thoại nội tâm có đoạn dài, có đoạn ngắn, xen kẽ với những sự kiện; cấu
trúc nội dung của các đoạn thể hiện những suy nghĩ, những nỗi niềm của
nhân vật về những sự việc, sự kiện đang diễn ra. Tất cả các đoạn độc thoại
nội tâm ấy đã tạo ra sự phong phú, đa dạng, tạo ra cái nhìn khách quan
trong việc thể hiện chủ đề tƣ tƣởng của tác phẩm.
Nhƣ vậy, Nam Cao đã sử dụng nhiều đoạn độc thoại nội tâm, với cấu
trúc phong phú, đa dạng thể hiện những suy nghĩ, nỗi niềm, ý thức trách
nhiệm của ngƣời nông dân trƣớc những đổi thay to lớn của dân tộc. Giá trị
biểu hiện trong việc khẳng định chủ đề tƣ tƣởng tác phẩm của các đoạn
độc thoại nội tâm qua đó cũng rất đa dạng, nhiều chiều, thể hiện sự nhạy
bén, sắc sảo của ngòi bút Nam Cao.
2.2.2. Hệ thống chủ đề tư tưởng thứ hai: Ý thức, nhận thức, cách nhìn,
trách nhiệm của ngƣời trí thức tiểu tƣ sản trƣớc những sự kiện, những đổi
thay của dân tộc mang tính thời đại.
Nam Cao cũng đã sử dụng rất nhiều đoạn độc thoại nội tâm thể hiện
chủ đề tƣ tƣởng của tác phẩm nhƣ thế. Ngƣời trí thức tiểu tƣ sản trong các
sáng tác của Nam Cao sau cách mạng (vẫn thiên về suy nghĩ hơn hành
động) cũng có những đổi thay to lớn cả về tƣ tƣởng, nhận thức và hành
động. Là những lời độc thoại nội tâm, nhƣng không phải là những lời mà
nhân vật trí thức tiểu tƣ sản tự nói với mình về bản thân mình nhƣ trong
71
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao các tác phẩm viết trƣớc Cách mạng. Những lời độc thoại nội tâm trong các
đoạn độc thoại nội tâm của nhân vật trí thức tiểu tƣ sản trong các tác phẩm
giai đoạn này là những lời nhân vật tự nói với mình về ngƣời khác, về
những sự việc, sự kiện đang diễn ra. Chính những đặc điểm về cấu trúc
nội dung đó đã tạo ra sự đa dạng, phong phú và nhiều chiều trong khách
quan đánh giá hiện thực. Và từ đó khẳng định rõ ràng, chi tiết chủ đề tƣ
tƣởng của tác phẩm. Chúng tôi đã thống kê đƣợc 15 đoạn độc thoại thể
hiện chủ đề tƣ tƣởng tác phẩm về ý thức, nhận thức, cách nhìn, trách
nhiệm của ngƣời trí thức tiểu tƣ sản trƣớc những sự kiện, những đổi thay
của dân tộc mang tính thời đại trong các tác phẩm: Đường vô nam, Đôi
mắt, Trên những con đường Việt Bắc, Những bàn tay đẹp ấy.
Ngƣời trí thức tiểu tƣ sản trong tác phẩm Đƣờng vô nam day dứt,
trăn trở từ đó bộc lộ niềm tin chiến thắng của Cách mạng: “ Cây bút của
tôi bất lực. Nó không khạc ra lửa và đạn nhƣ cây súng. Nó ì ạch chạy theo
phong trào mãi mà không kịp. Các bạn tôi cũng đều thấy na ná nhƣ tôi. Họ
thấy rằng bàn tay họ, nếu chƣa cầm súng một phen thì cầm bút cũng vụng
về. Sống đã rồi hãy viết.” (Đường vô nam, tr. 357, tập II); “Sao lại gọi lại
là thời bệnh? Hiếu động, cƣơng cƣờng, quả cảm là thói thƣờng của những
kẻ mới lớn mà sung sức. Những cái ấy báo hiệu một cái tuổi hai mƣơi
thừa máu và khí lực. Sức sống của dân tộc chúng ta đang độ lớn lên, rất
dồi dào. Nay mai, những xiềng xích tháo tung rồi, chúng ta sẽ lớn rất mau
và rất mạnh.” (Đường vô nam, tr. 358, tập II). Trƣớc những sự việc, và sự
kiện, các nhân vật trí thức đều có những nỗi niềm, những cách nhìn, cách
đánh giá riêng: “Ai khen? Ai trách? Tôi chỉ muốn tìm để hiểu. Cái gì đã
thúc chị em trong vùng địch thích vào du kích? Một chút lãng mạn chăng?
Hay là nỗi căm giận lũ giặc đi đến đâu cũnggiở trò hãm hiếp? Thà chết
còn hơn bị nhục. Và biết đâu không phải là lòng phẫn nộ đối với cái nhỏ
72
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao nhen cái hèn hạ, cái bất công của những kẻ đàn ông lạc hậu, ruồng bỏ, hắt
hủi những chị phụ nữ đáng thƣơng và bị sa vào tay giặc? Hay là một lời
thách thức nói với bên nam giới?” (Những bàn tay đẹp ấy, tr. 485, tập II);
“Thử để ý mà xem! Có phải từ ngày chúng ta bắt đầu phá đƣờng thì những
con đƣờng của ta mới bắt đầu thật là tấp nập không? Nghĩ một tí thì thú vị
lạ lùng! Trƣớc đây, đƣờng nhựa, đƣờng đá thênh thang xe lửa, ôtô sẵn,
những phƣơng tiện xê dịch có thiếu gì đâu, mà cuộc đời của chúng ta
ngừng trệ biết bao! Kiếp sống tù hãm thật là thảm hại. Từ những ngày phá
đƣờng, hết tàu xe đến nay thì cả một dân tộc lên đƣờng. Cuộc sống lƣu
thông. Tôi không ghét gì bằng thi vị hoá cuộc đời. Nhƣng thật tình từ hồi
kháng chiến, mặc dầu những tàn phá, chết chóc, chia lìa cực kỳ đau đớn,
bộ mặt nƣớc mình vẫn có vẻ tƣơi trẻ, vui mạnh hơn lên. Chỉ cần bƣớc ra
đƣờng là đủ biết.” (Trên những con đường Việt Bắc, tr. 495, tập II). Tất cả
các đoạn độc thoại nội tâm ấy đều có cấu trúc của một lập luận, dài và
khẳng định hiện thực rất chi tiết và sống động. Mỗi đoạn độc thoại nội tâm
của các nhân vật đều có một chủ đề riêng nhƣng
tất cả đều tập trung khẳng định chủ đề tƣ tƣởng của tác phẩm. Đoạn độc
thoại của cá nhân nhƣng thực tế thì lại tiêu biểu cho ý thức, cách suy nghĩ
của cả một dân tộc đang hừng hực trong kháng chiến.
Ngƣời trí thức trong truyện ngắn Đôi mắt cũng có những suy nghĩ,
nhận thức mới về những đổi thay to lớn của dân tộc. Các đoạn độc thoại
nội tâm của hai nhân vật Độ và Hoàng đƣợc nhà văn sử dụng hết sức linh
hoạt. Nhà văn đã để những lần suy nghĩ, đánh giá của nhân vật Độ diễn ra
liên tục sau mỗi thái độ, cách nhìn của nhân vật Hoàng. Trong khi Hoàng
vẫn giữ cái nhìn cũ về ngƣời nông dân: “Toàn là những ngƣời ngu độn, lỗ
mãng, ích kỉ, tham làm, bần tiện cả. Cha con, anh em ruột cũng chẳng tốt
với nhau. Các ông thanh niên, các bà phụ nữ mới bây giờ lại càng nhố
73
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao nhăng. Viết chữ quốc ngữ sai vần mà lại cứ hay nói chuyện chính trị rối rít
cả lên. Mở miệng ra là thấy đề nghị, yêu cầu, phê bình, cảnh cáo, thực
dân, phát xít, phản động, xã hội chủ nghĩa, dân chủ với cả tân dân nữa mới
khổ thiên hạ chứ! Họ mà tóm đƣợc ai thì có mà chạy lên giời!” (Đôi mắt-
tr.465- tập II). Thì Độ đã chỉ ra ngay cái thiển cận, cái “cũ”, cái một chiều
cái nhìn của đôi mắt Hoàng về ngƣời nông dân: “Anh đã quen nhìn đời và
nhìn ngƣời một phía thôi. Anh trông thấy anh thanh niên đọc thuộc lòng
bài “ba giai đoạn” nhƣng anh không trông thấy bó tre anh thanh niên vui
vẻ vác đi để ngăn quân thù. Mà ngay trong cái việc anh thanh niên đọc
thuộc lòng bài báo nhƣ một con vẹt biết nói kia, anh cũng chỉ nhìn thấy cái
ngố bề ngoài của nó, mà không thấy cái nguyên cớ thật đẹp đẽ ở bên
trong. Vẫn giữ đôi mắt ấy để nhìn đời thì càng đi nhiều, càng quan sát
lắm, ngƣời ta chỉ càng thêm chua chát và chán nản.” (Đôi mắt- tr. 467- tập
II). Tất cả các đoạn độc thoại của hai nhân vật là sự đối lập trong cách
nhìn, cách nhận thức của những ngƣời trí thức tiểu tƣ sản trƣớc những đổi
thay của dân tộc. Từ đó khẳng định chân thực, chi tiết chủ đề tƣ tƣởng của
tác phẩm.
Để khắc hoạ tâm trạng, thái độ, cách nhìn, nhận thức, ý thức của
nhân vật Nam Cao đã sử dụng các đoạn độc thoại nội tâm. Các sáng tác
của Nam Cao sau cách mạng chúng tôi lựa chọn để khảo sát ít. Nhƣng qua
khảo sát các đoạn độc thoại nội tâm chúng tôi thấy giá trị biểu hiện của
các đoạn độc thoại nội tâm ấy vào việc khẳng định chủ đề tƣ tƣởng của tác
phẩm là rất lớn. Theo thống kê và phân loại của chúng tôi thì 29 đoạn độc
thoại nội tâm đã đóng góp một cái nhìn khách quan, nhiều màu sắc vào
việc khẳng định chủ đề tƣ tƣởng của các tác phẩm.
74
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao 2.3. Tiểu kết
Nhƣ vậy toàn bộ 88 đoạn độc thoại nội tâm mà chúng tôi thống kê
đƣợc trong 22 truyện ngắn đều có giá trị khẳng định chủ đề tƣ tƣởng của
tác phẩm. Nam Cao đã khai thác triệt để nội tâm con ngƣời thông qua
những chuyện diễn ra hàng ngày xung quanh các nhân vật để thực hiện ý
đồ của ông. Nam Cao phát triển câu truyện dựa hoàn toàn vào mạch tâm
lý của một số nhân vật nên việc sử dụng các đoạn độc thoại nội tâm là một
cố gắng hết sức độc đáo của nhà văn. Sử dụng độc thoại nội tâm độc đáo
vì bản thân các đoạn độc thoại ấy có rất nhiều giá trị biểu hiện bởi tính
phản ánh rất chân thực, chi tiết, sống động cuộc sống nội tâm của nhân
vật. Tài năng của Nam Cao trong việc sử dụng các đoạn độc thoại nội tâm
chính là việc dùng các đoạn độc thoại nội tâm đó để khẳng định chủ đề tƣ
tƣởng của tác phẩm.
3. Khẳng định phong cách tác giả
3.1. Độc thoại nội tâm theo mạch tâm lí nhân vật
Phải khẳng định rằng Nam Cao có một bút pháp đặc sắc trong việc
khắc hoạ tâm trạng nhân vật bằng những đoạn độc thoại nội tâm. Cuộc
đời, kiếp sống bế tắc của con ngƣời đủ mọi tầng lớp từ ngƣời nông dân
đến ngƣời trí thức tiểu tƣ sản trong xã hội cũ đã để lại dấu ấn đậm nét
trong lòng ngƣời đọc thông qua những đoạn độc thoại nội tâm ấy. Nhƣ
vậy là giá trị biểu hiện của những đoạn độc thoại nội tâm ấy là rất quan
trọng. Chúng có giá trị về mặt hình thức là góp phần khẳng định rõ ràng,
sâu sắc chủ đề của tác phẩm. Một mặt có giá trị biểu hiện về nội dung là
khẳng định phong cách tác giả. Giá trị biểu hiện nội dung của những đoạn
độc thoại ấy thể hiện ở rất nhiều khía cạnh khác nhau. Và chính nhờ
75
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao những khía cạnh khác nhau ấy mà nhân vật trong tác phẩm Nam Cao sống
mãi trong lòng ngƣời đọc và khi nhắc đến các nhân vật đó, chúng ta thấy
rất rõ nét sáng tạo riêng việt của nhà văn.
Tất cả những truyện ngắn chúng tôi đã khảo sát, mỗi một truyện đều
xoay quanh số phận của một vài nhân vật, xoáy sâu vào những tâm trạng.
Ở đây nhà văn Nam Cao đã phát triển nội dung câu chuyện chủ yếu theo
mạch phát triển tâm lí chứ không phải theo sự kiện hành động. Câu
chuyện hàng ngày xung quanh đời sống nhân vật đƣợc Nam Cao khai thác
một cách triệt để qua trạng thái tâm lí. Những tâm trạng thầm kín, phức
tạp của từng lớp nhân vật đã đƣợc Nam Cao phân tích một cách tỉ mỉ, xác
đáng. Nhân vật trở nên gần gũi, cụ thể, sống động hơn qua sự trung thực
với hiện thực trong từng chi tiết nhỏ của nhà văn. Ông rất hiểu đời sống
nội tâm của nhân vật, cùng suy nghĩ buồn vui với nhân vật nên khi đọc các
sáng tác của Nam Cao ngƣời đọc bị hấp dẫn, lôi cuốn theo từng nhân vật.
Các nhân vật của Nam Cao đƣợc soi rọi qua đời sống nội tâm, những diến
biến tâm lí nên những nhân vật ấy không phải là những nhân vật hành
động. Chính những đặc điểm này đã tạo ra phong cách của Nam Cao, quy
định bút pháp miêu tả, ngôn ngữ kết cấu của tác phẩm Nam Cao. Đó là
một trong những yếu tố làm nên sự thành công của bút pháp truyện ngắn
Nam Cao.
3.1.1.Độc thoại nội tâm được xây dựng dựa trên “cái hàng ngày”
Thế giới nhân vật của Nam Cao rất đa dạng và phong phú. Số phận
của mỗi nhân vật đƣợc nhà văn khắc hoạ rất rõ nét, rất thực qua tâm lí,
những suy tƣ, trăn trở, day dứt của họ trong những đoạn độc thoại nội tâm.
Khắc hoạ tâm trạng của nhân vật, Nam Cao không dừng lại ở việc miêu tả
76
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao những tình cảm, những cảm xúc mang màu sắc cá nhân. Nhà văn đã đặt
nhân vật suy nghĩ và hành động đúng với thân phận và cảnh ngộ của nó.
Nam Cao đã khai thác cách nghĩ, cách nghiền ngẫm, đánh giá cuộc sống
của từng nhân vật mang tính tâm lý xã hội. Ông lấy hoàn cảnh, lấy cuộc
sống làm cơ sở xây dựng các trạng thái tâm lí nhân vật. Vì thế đã tạo ra
một phong cách Nam Cao rất riêng, rất đặc sắc. Thế giới nhân vật cùng
thế giới tâm lí của ông vì thế rất điển hình.
Khắc hoạ tâm lí nhân vật, Nam Cao đã sử dụng nhiều các đoạn văn
độc thoại. Các đoạn độc thoại nội tâm ấy đƣợc nhà văn xây dựng chủ yếu
dựa vào “cái hàng ngày” trong mối quan hệ của nhân vật với các nhân vật
khác trong gia đình, trong xã hội. Đó là lúc nhân vật tự bộc lộ bản chất,
tính cách con ngƣời mình với những nỗi niềm tâm sự, những vui buồn,
những toan tính, những nỗi trăn trở, day dứt, khổ đau. Chính vì thế giá trị
biểu hiện của các đoạn độc thoại thể hiện đƣợc hiện thực tâm lí, tâm trạng,
những điều khó nói, thầm kín, sâu xa của nhân vật. Từ hiện thực đó làm
nên phong cách thể hiện nội dung rất riêng biệt của Nam Cao. Mạch
truyện phát triển chủ yếu dựa vào mạch tâm lí. Nhân vật của ông bao giờ
cũng suy nghĩ trƣớc rồi mới hành động. Trƣớc mỗi biến cố, mỗi sự kiện
nhân vật đều tự suy nghĩ, toan tính rồi từ những suy nghĩ, toan tính đó mới
có hành động. Trong các tác phẩm của ông hành động của nhân vật chỉ là
kết quả của cả một quá trình vận động phức tạp của tâm lí. Nhờ điểm này
mà tính cách nhân vật hiện rõ lên nhƣ khắc, nhƣ tạc, không thấy chỗ nào
là gƣợng ép, là áp đặt, là sự sắp xếp của tác giả. Nhƣ vậy giá trị biểu hiện
của các đoạn độc thoại nội tâm thể hiện nội dung triển khai theo mạch của
Nam Cao là rất rõ nét.
77
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao 3.1.2. Độc thoại nội tâm diễn tả mạch tâm lí của nhân vật trí thức tiểu tư sản
Trong các tác phẩm của Nam Cao mà chúng tôi đã khảo sát thì nhân
vật trí thức tiểu tƣ sản là loại nhân vật ẩn chứa nhiều tâm trạng. Có lẽ
những nhân vật ấy gắn và gần gũi với hiện thực cuộc sống của chính nhà
văn. Chúng tôi đã thống kê đƣợc 22 đoạn độc thoại nội tâm của các nhân
vật trí thức tiểu tƣ sản với 166 phát ngôn độc thoại. Trong đó có 11 đoạn
độc thoại nội tâm nhân vật trí thức tiểu tƣ sản tự nói với mình về bản thân
mình, còn 11 đoạn độc thoại nhân vật trí thức tiểu tƣ sản tự nói với mình
về con ngƣời, sự kiện, hoàn cảnh xung quanh. Với 22 đoạn độc thoại nội
tâm của các nhân vật trí thức tiểu tƣ sản trong các tác phẩm của Nam Cao
đã cho chúng ta thấy hết nội tâm phức tạp, đa dạng của loại nhân vật này.
Đoạn độc thoại nội tâm nào cũng rất dài, có kết cấu của một lập luận, có
luận cớ, luận chứng rất rõ ràng. Điều đó thể hiện nét tính cách rất đặc
trƣng của kiểu nhân vật trí thức, hoàn toàn khác với các kiểu nhân vật
khác. Tất cả các đoạn độc thoại
nội tâm của nhân vật trong tác phẩm đều là sự kết hợp hài hoà giữa liên
kết hình thức và liên kết nội dung. Nhờ có sự hỗ trợ nhau giữa liên kết
hình thức và liên kết nội dung mà các đoạn độc thoại có giá trị biểu hiện
rất thực nội dung miêu tả cũng nhƣ mục đích miêu tả của tác giả. Trƣớc
Cách mạng, tâm trạng của họ là sự giằng xé giữa hiện thực với ƣớc mơ.
Trí thức tiểu tƣ sản là loại nhân vật giàu thiện chí, có hoài bão tốt đẹp
nhƣng lại bị dìm xuống bùn đen của một cuộc sống nhỏ nhen, ti tiện. Họ
chán nản khi không thực hiện đƣợc ƣớc mơ, hoài bão của mình, chán nản
khi không giúp ích đƣợc gì cho gia đình, cho bố mẹ, cho vợ con. Hộ trong
“Đời thừa” đã trăn trở, day dứt trong tâm trạng đó: “Khốn nạn! Khốn nạn
thay cho hắn! Bởi vì chính hắn là một thằng khốn nạn! Hắn chính là một
kể bất lƣơng! Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lƣơng rồi.
78
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao Nhƣng sự cẩu thả trong văn chƣơng thì thật đê tiện. Chao ôi! Hắn viết
những gì? Toàn những cái vô vị, nhạt phèo, gợi những tình cảm rất nhẹ,
rất nông, diễn một vài ý rất thông thƣờng quấy loãng một thứ văn bằng
phẳng và quá ƣ dễ dãi. Hắn chẳng đem một chút mới lạ gì đến văn
chƣơng. Thế nghĩa là hẵn là một kẻ vô ích, một ngƣời thừa. Văn chƣơng
không cần đến những ngƣời thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đƣa
cho. Văn chƣơng chỉ dung nạp những ngƣời biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi
những nguồn chƣa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chƣa có... Hắn nghĩ
thế và buồn lắm, buồn lắm! Còn gì buồn hơn chính mình lại chán mình?
Còn gì đau đớn cho kẻ vẫn khát khao làm một cái gì mà nâng cao giá trị
đời sống của mình, mà kết cục chẳng làm đƣợc gì, chỉ những lo cơm áo
mà đủ mệt? Hắn để mặc vợ con khổ ƣ? Hắn bỏ liều, hắn ruồng rẫy chúng,
hắn hy sinh nhƣ ngƣời ta vẫn nói ƣ?” (Đời thừa, tr. 603, tập I). Cả đoạn
độc thoại là nỗi cay đắng, chua xót và tràn trề thất vọng của nhân vật Hộ
và kết thúc bằng một câu hỏi tự vấn mình mà không có câu trả lời. Hộ tự
mắng mình là một kẻ khốn nạn, bất lƣơng, đê tiện, “là một kẻ vô ích, một
ngƣời thừa”. Dòng tâm lý của Hộ vận động trƣớc một loạt những nguyên
nhân, những sự kiện đã xảy ra trong cuộc sống của hắn. Cả đoạn độc thoại
là sự liên kết chặt chẽ giữa các phát ngôn. Trong đoạn độc thoại này nhà
văn đã sử dụng hàng loạt phƣơng tiện liên kết để tạo nên diễn biến tâm lý
phức tạp của nhân vật trƣớc sự thực phũ phàng. Kết cấu của đoạn văn độc
thoại nội tâm là kết cấu diễn dịch. Nhân vật tự kết luận mình là khốn nạn,
là bất lƣơng rồi đƣa ra nguyên nhân dẫn đến kết quả đõ là sự “cẩu thả”.
Và từ sự cẩu thả đó chính là “đê tiện”... Cứ thế tâm trạng nhân vật dần dần
hiện ra sau mỗi một phát ngôn: cay đắng, chua xót, tủi cực, bế tắc,... Diễn
biến tâm lý có tầng bậc, sợi dây “chán nản”, “bế tắc” cứ dần dần xiết chặt
lấy cuộc sống tƣởng nhƣ bình yên của nhân vật Hộ, đẩy nhân vật rơi vào
79
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao hố sâu của những bi kịch. Vì thế mà cả đoạn độc thoại nội tâm ấy có sức
thuyết phục và lôi cuốn lớn đối với độc giả. Trăng là nỗi niềm mơ mộng
của Điền (Trăng sáng), với Điền: “Trăng là cái liềm vàng giữa đống sao.
Trăng là là cái đĩa bạc trên tấm thảm nhung da trời. Trăng toả mộng xuống
trần gian. Trăng tuôn suối mát để những hồn khát khao ngụp lặn. Trăng, ơi
trăng! Cái vú mộng tròn đầy mà thi sĩ của muôn đời mơn man.” (Trăng
sáng, tr. 580, tập I). Nhƣng sự mơ mộng đẹp đẽ, nỗi niềm ấy của Điền bị
chặn đứng lại bởi vợ, con, cơm áo gạo tiền và cái sự thực đói nghèo cứ
đeo diết dai dẳng. Điền đau đớn, xót xa: “Điền không thể sung sƣớng khi
con Điền còn khổ. Chao ôi! Trăng đẹp lắm! Trăng dịu dàng và trong trẻo
và bình tĩnh. Nhƣng trong những căn lều nát mà trăng làm cho cái bề
ngoài trông cũng đẹp, biết bao ngƣời quằn quại, nức nở, nhăn nhó với
những đau thƣơng của kiếp mình! Biết bao tiếng nghiến răng và chửi rủa!
Biết bao cực khổ và lầm than?... Không, không, Điền không thể nào mơ
mộng đƣợc. Cái sự thật tàn nhẫn luôn luôn bày ra đấy. Sự thực giết chết
những ƣớc mơ lãng mạn gieo trong đầu óc Điền cái thứ văn chƣơng của
bọn nhàn rỗi quá. Điền muốn tránh sự thực, nhƣng trốn tránh làm sao
đƣợc? Cái sự thật tàn nhẫn luôn luôn bày ra đấy. Sự thực giết chết những
ƣớc mơ lãng mạn gieo trong đầu óc Điền cái thứ văn chƣơng của bọn nhàn
rỗi quá. Điền muốn trốn tránh sự thực, nhƣng trốn tránh làm sao đƣợc? Vợ
Điền khổ, con Điền khổ, cha mẹ Điền khổ. Chính Điền cũng khổ. Bao
nhiêu ngƣời nữa, cùng một cảnh, khổ nhƣ Điền! Cái khổ làm héo một
phần lớn những tính tình tƣơi đẹp của ngƣời ta. Tiếng đau khổ vang dội
lên mạnh mẽ. Chao ôi! Chao ôi! Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa
dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ
kia, thoát ra từ những kiếp lầm than, vang dội lên mạnh mẽ trong lòng
Điền.” (Trăng sáng, tr. 587, 588, tập I). Cả đoạn độc thoại là nỗi đau đớn,
80
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao day dứt trào lên từ đáy sâu tâm hồn văn sĩ Điền. Những cảm xúc ấy cứ
dồn nén, chất chứa trong tâm hồn bị tổn thƣơng bởi sự thực nghèo khổ của
Điền không bao giờ dứt. Qua đoạn độc thoại chúng ta thấy hết đƣợc tâm
trạng phức tạp của Điền. Anh ta luôn luôn phải đối mặt với hiện thực, luôn
luôn bị giằng xé giữa ƣớc mơ và hiện thực. Ƣớc mơ cao đẹp bao nhiêu thì
hiện thực lại khổ đau, cơ cực bấy nhiêu. Bằng các phép liên kết hình thức
nhƣ liên tƣởng, lặp... nhà văn đã khai thác đƣợc triệt để diễn biến tâm lí
của nhân vật. Và từ các liên kết hình thức đó thể hiện nội dung của cả
đoạn độc thoại và nội dung, tƣ tƣởng xuyên suốt giữa các đoạn độc thoại
nội tâm với nhau. Tâm hồn nhân vật đƣợc soi rọi, mở rộng và cuốn hút
độc giả vào từng tầng bậc của sự đổi thay tâm trạng đó. Và chính nhờ sự
liên kết chặt chẽ giữa hình thức và nội dung đã tạo ra mạch lạc chủ đề và
mạch lạc tâm lí của các đoạn độc thoại nội tâm.
3.1.2.1. Mỗi một đoạn độc thoại nội tâm lại là một bƣớc phát triển liên tục
và tất yếu của tâm trạng nhân vật- tạo thành cả một quá trình diễn biến
tâm lí phức tạp. Mỗi một đoạn độc thoại nội tâm nhƣ một bậc thang dẫn
đến cái đích cuối cùng bi kịch cuộc đời mà nhà văn muốn miêu tả số phận
của những ngƣời trí thức tiểu tƣ sản. Nam Cao đã để cho nhân vật Điền
mơ mộng, thể hiện nỗi niềm của mình với trăng nhƣng sau đó ông lại dẫn
dắt ngƣời đọc đến đoạn độc thoại của Điền về vợ anh ta: “Đối với thị,
trăng chỉ là... đỡ tốn hai xu dầu! Dầu lạc lúc này mỗi chai lít hai đồng.
Mới biết các nƣớc đánh nhau cũng có thiệt cho con nhà nghèo thật. Mỗi
tối, thị đốt đèn một lát. Nhƣng một lát cũng đủ tốn hai xu rồi. Nhƣng tối
có trăng đỡ tốn hai xu. Hai xu chẳng là bao nhƣng mƣời cái hai xu đã
đƣợc hai hào; mƣời cái hai hào đã đƣợc hai đồng bạc; và mƣời cái hai
đồng bạc... chao ơi! Nếu cứ tính toán mãi thế thì biết đến bao giờ cùng
81
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao đƣợc? Sao thị lại cứ phải luôn tính toán? Những kẻ chỉ suốt đời tính toán
là những kẻ tự làm khổ thân suốt đời...” (Trăng sáng, tr. 580, 581, tập I).
Đối với Điền trăng đẹp và thơ mộng, nó là nguồn cảm xúc là sự an ủi
nhƣng với vợ Điền thì hoàn toàn ngƣợc lại. Bằng sự đối lập giữa hai tâm
hồn nhà văn đã tạo ra sợi dây liên kết cả về hình thức lẫn nội dung giữa
hai đoạn độc thoại đó để độc giả có thể so sánh, suy ngẫm. Đoạn độc thoại
tiếp theo là sự phát triển tất yếu tâm trạng của nhân vật Điền khi đứng
trƣớc sự thực phũ phàng. Đó là sự giằng xé trong tâm hồn, sự đắng cay,
chua chát của chính bản thân nhân vật Điền khi ƣớc mơ của anh ta bị “sự
thực giết chết”. Sự nghiệp văn chƣơng đích thực của anh ta không thể tiếp
tục đƣợc nữa bởi “chắc chắn là suốt đời Điền cũng không có tiền”. Phải có
tiền thì Điền mới tiếp tục sự nghiệp viết văn của mình. Nguyên nhân cái bi
kịch cuộc đời Điền đã quá rõ ràng. Anh ta nhận ra rằng: “Điền thƣơng con
lắm. Vút cái, Điền thấy Điền không thể nào đi đƣợc. Điền không thể sung
sƣớng khi con Điền còn khổ. Chao ôi! Trăng đẹp lắm! Trăng dịu dàng và
trong trẻo và bình tĩnh. Nhƣng trong những căn lều nát mà trăng làm cho
cái bề ngoài trông cũng đẹp, biết bao ngƣời quằn quại, nức nở, nhăn nhó
với những đau thƣơng của kiếp mình! Biết bao tiếng nghiến răng và chửi
rủa! Biết bao cực khổ và lầm than?... Không, không, Điền không thể nào
mơ mộng đƣợc. Cái sự thật tàn nhẫn luôn luôn bày ra đấy. Sự thực giết
chết những ƣớc mơ lãng mạn gieo trong đầu óc Điền cái thứ văn chƣơng
của bọn nhàn rỗi quá. Điền muốn tránh sự thực, nhƣng trốn tránh làm sao
đƣợc? Vợ Điền khổ, con Điền khổ, cha mẹ Điền khổ. Chính Điền cũng
khổ. Bao nhiêu ngƣời nữa, cùng một cảnh, khổ nhƣ Điền! Cái khổ làm héo
một phần lớn những tính tình tƣơi đẹp của ngƣời ta. Tiếng đau khổ vang
dội lên mạnh mẽ. Chao ôi! Chao ôi! Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa
dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ
82
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao kia, thoát ra từ những kiếp lầm than, vang dội lên mạnh mẽ trong lòng
Điền. Điền chẳng cần đi đâu cả. Điền chẳng cần trốn tránh, Điền cứ đứng
trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy những vang động của đời...” (Trăng
sáng, tr. 587, 588, tập I). Đoạn độc thoại này chính là kết quả của cảnh
ngộ cuộc đời nhân vật Điền. Tƣởng nhƣ anh ta bị cái sự khổ cực, nghèo
nàn ấy đánh gục. Nhƣng không, anh ta vẫn tranh đấu và tranh đấu đến
cùng. Kết thúc đoạn độc thoại nội tâm là sự khẳng định rất rõ ràng và dứt
khoát sự đấu tranh đó. Phải có sự liên kết chặt chẽ giữa các phát ngôn
trong đoạn độc thoại nội tâm và giữa các đoạn độc thoại nội tâm với nhau
mới tạo ra đƣợc sự logic và hợp lí của cả quá trình diễn biến tâm lý của
nhân vật; tạo ra đƣợc mạch lạc chủ đề và mạch lạc tâm lí hợp lí và hay đến
thế. Cũng bằng sự liên kết hài hoà giữa nội dung và hình thức trong các
đoạn độc thoại và giữa các đoạn độc thoại nội tâm với nhau, nhà văn đã
miêu tả đƣợc trọn vẹn kĩ càng và tỉ mỉ mạch tâm lí của nhân vật Hộ (Đời
thừa) với bi kịch vỡ mộng của anh ta. Cái tâm lí quẩn quanh, thụ động của
Hộ đã đƣợc Nam Cao đẩy lên tới đỉnh điểm là bi kịch vỡ mộng: “Thế là
hết. Ta đã hỏng! Ta đã hỏng đứt rồi”. Ông đã tạo ra các bƣớc phát triển
liên tục và tất yếu của tâm trạng Hộ qua từng đoạn độc thoại nội tâm trong
truyện ngắn “Trăng sáng”. Bằng phép liên tƣởng nhà văn đã tạo ra sự gắn
bó chặt chẽ giữa các đoạn độc thoại nội tâm của nhân vật. Đầu tiên là nhân
vật tự mắng mình, tự chán mình, tự giằng xé giữa ƣớc mơ về một sự
nghiệp văn chƣơng chân chính với hiện thực là vợ con và bản thân hắn
đang cơ hàn, cực khổ. Sau đó, Hộ tự mâu thuẫn với mình khi nghĩ đến câu
nói của một nhà triết học: “phải biết ác, biết tàn nhẫn để sống cho mạnh
mẽ”: “Nhƣng hắn nghĩ theo rằng: Từ rất đáng yêu, rất đáng thƣơng, hắn
có thể hi sinh tình yêu, thứ tình yêu vị kỉ đi; nhƣng hắn không thể bỏ lòng
thƣơng; có lẽ hắn nhu nhƣợc, hèn nhát, tầm thƣờng, nhƣng hắn vẫn còn
83
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao đƣợc là ngƣời: hắn là ngƣời chứ không phải là một thứ quái vật bị sai
khiến bởi lòng tự ái. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai
mình. Và lại hèn biết bao là một thằng con trai không nuôi nổi vợ, con thì
còn mong làm nên trò gì nữa?” (Đời thừa,, tr. 603, 604, tập I). Dòng suy
nghĩ của nhân vật không rõ ràng, khúc triết mà lại phức tạp lên xuống
quanh co. Điều này thể hiện tính cách hết sức phức tạp của loại nhân vật
trí thức tiểu tƣ sản. Tất cả các đoạn độc thoại ấy đƣợc đặt trong một bối
cảnh hết sức phù hợp với nhân vật nên tất cả những diễn biến tâm lý của
nhân vật có sức thuyết phục lớn đối với độc giả. Tâm lý nhân vật vận động
trƣớc mỗi biến cố, sự kiện nhƣng tính cách con ngƣời và nhận thức con
ngƣời của nhân vật không hề thay đổi. Và mạch lạc chủ đề, mạch lạc tâm
lý đƣợc thể hiện rất rõ trong sự liên kết giữa các phát ngôn trong đoạn độc
thoại nội tâm và giữa các đoạn độc thoại nội tâm với nhau. Các đoạn độc
thoại nội tâm phải tuân theo cái logic của sự phát triển tính cách nên nó
mang tính khách quan riêng biệt. Và cũng chính từ sự khách quan đó mà
đã để lại những ấn tƣợng sâu sắc trong lòng ngƣời đọc, tạo ra sự thuyết
phục và lôi cuốn đến bất ngờ.
3.1.2.2. Cách mạng Tháng Tám thành công, thổi một luồng sinh khí mới
vào trong những sáng tác của Nam Cao. Cũng từ những chuyện hàng
ngày, những suy nghĩ nội tâm của các nhân vật trí thức tiểu tƣ sản không
còn là sự giằng xé, sự bế tắc trƣớc hiện thực bất công nữa. Những suy
nghĩ của nhân vật tiểu tƣ sản gắn liền với thái độ, cách nhận thức và ý
thức đại diện cho tầng lớp trí thức tiểu tƣ sản trƣớc sự đổi thay to lớn của
dân tộc. Nam Cao vẫn phát triển nội dung câu chuyện xoay quanh những
diễn biến tâm lí của nhân vật qua các đoạn độc thoại nội tâm. Và vẫn bằng
thủ pháp liên kết quen thuộc: liên tƣởng, Nam Cao đã thể hiện đƣợc
84
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao những diễn biến tâm lý, tâm trạng của nhân vật trí thức tiểu tƣ sản qua
những dòng độc thoại nội tâm. Những dòng suy nghĩ nội tâm của văn sĩ
Độ trong truyện ngắn Đôi mắt đã cho thấy rõ những thay đổi trong tƣ
tƣởng của Nam Cao. Mỗi đoạn độc thoại nội tâm của nhân vật Độ là một
bƣớc phát triển tâm lý tất yếu trƣớc hoàn cảnh. Anh ngạc nhiên trƣớc thái
độ của ngƣời bạn là văn sĩ Hoàng: “Hoàng vẫn là con ngƣời cũ. Anh
không chịu đổi. Anh đã tƣởng anh với tôi chẳng bao giờ còn thân mật với
nhau trở lại... Nhƣng sao gặp tôi lần này hân hoan đến thế? Anh đã đủ thì
giờ để lột xác rồi chăng? Hay cuộc kháng chiến mãnh liệt của dân ta đã
quét sạch những cái gì cũ còn sót lại?” (Đôi mắt, tr.461, tập II). Anh băn
khoăn, và tự đặt câu hỏi cho mình để rồi lại mừng hụt bởi thái độ và cách
nhìn, cách nhận thức của Hoàng trƣớc thời cuộc và ngƣời nông dân: “Điều
muốn nói với anh tôi đành giữ kín trong lòng không nói nữa. Tôi biết
chẳng đời nào anh nhận làm một anh tuyên truyền nhãi nhép nhƣ tôi. Vả
lại dầu có rủ đƣợc anh làm nhƣ tôi, khoác cái balô lên vai, đi hết làng nọ
đến làng kiâ để nhận xét nông thôn một cách kĩ càng hơn cũng chẳng ích
gì. Anh đã quen nhìn đời và nhìn ngƣời một phía thôi. Anh trông thấy
những anh thanh niên đọc thuộc lòng bài “ba giai đoạn” nhƣng anh không
trông thấy bó tre anh thanh niên vui vẻ vác đi để ngăn quân thù. Mà ngay
trong cái việc anh thanh niên đọc thuộc lòng bài báo nhƣ một con vẹt biết
nói kia, anh cũng chỉ nhìn thấy cái ngố bề ngoài của nó, mà không thấy cái
nguyên cớ thật đẹp đẽ ở bên trong. Vẫn giữ đôi mắt ấy để nhìn đời thì
càng đi nhiều, càng quan sát lắm, ngƣời ta chỉ càng thêm chua chát và
chán nản” (Đôi mắt, tr. 467, tập II). Sau đó Độ lại đặt câu hỏi: “Sao anh
không đi theo bộ đội, đi diễn kịch tuyên truyền, nhập bọn với các đoàn
văn hoá kháng chiến để đƣợc thấy những sinh viên, công chức xung vào
vệ quốc quân, những bác sĩ sốt sắng làm việc trong các viện khảo cứu hay
85
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao các viện quân y, những bạn văn nghệ sĩ của anh đang mê mải đi sâu vào
quần chúng để học và dạy họ, đồng thời tìm những cảm hứng mới cho văn
nghệ?” (Đôi mắt, tr. 472, tập II). Những suy nghĩ của Độ không còn là sự
giằng xé giữa hiện thực và ƣớc mơ của bản thân nhƣ những suy nghĩ nội
tâm của các nhân vật trí thức tiểu tƣ sản trƣớc Cách mạng. Dòng suy nghĩ
của văn sĩ Độ thể hiện những thang bậc tình cảm, những nỗi niềm và cả
tấm lòng nhiệt tình, chân thành của anh với Cách mạng, với kháng chiến.
Các đoạn độc thoại nội tâm đan xen với các sự kiện, liên tục diễn ra trong
óc văn sĩ Độ thể hiện rõ tính cách và con ngƣời mới tiêu biểu cho tầng lớp
trí thức tiểu tƣ sản trong thời buổi mới. Mạch tâm lí, mạch suy nghĩ rất
logic của anh cũng chính là nội dung của tác phẩm mà Nam Cao muốn gửi
gắm tới độc giả.
3.1.2.3. Nam Cao đã xây dựng nội dung câu chuyện dựa hoàn toàn vào
mạch phát triển tâm lí của nhân vật mà sự việc và hành động chỉ là để
thêm vào, hỗ trợ, giúp cho việc phát triển tâm lí một cách phù hợp hơn, lôi
cuốn hơn, hài hoà hơn. Các đoạn độc thoại nội tâm đã thể hiện rất rõ mạch
phát triển tâm lý ấy của nhân vật. Đó chính là nét đặc sắc của nhà văn, tạo
nên một phong cách mới, một phong cách rất Nam Cao. Nhân vật trí thức
tiểu tƣ sản của Nam Cao là loại nhân vật mang nhiều tâm trạng. Diễn biến
tâm lí của lớp nhân vật này rất phức tạp và đa dạng. Bằng một loạt các
hình thức liên kết nhà văn đã miêu tả trọn vẹn nội dung diễn biến tâm lý
phức tạp của nhân vật, phát triển câu truyện một cách hết sức tự nhiên
không bị gò bó, khuôn sáo và mang một sức thuyết phục lớn đối với độc
giả.
86
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao 3.1.3. Độc thoại nội tâm diễn tả mạch tâm lý của nhân vật nông dân
3.1.3.1. Không chỉ ở nhân vật tiểu tƣ sản - loại ngƣời có nội tâm đa dạng
và phức tạp- nhân vật nông dân của Nam Cao cũng có những suy nghĩ,
trăn trở, toan tính riêng đậm nét nông dân. Miêu tả tâm trạng của lớp nhân
vật này Nam Cao cũng rất thành công. Thông qua một loạt các đoạn độc
thoại nội tâm xen kẽ sự kiện, Nam Cao đã thể hiện đƣợc tính cách Chí
Phèo không đơn điệu mà rất đa dạng, phức tạp. Không những thế, độ đa
dạng và phức tạp ấy của tính cách Chí Phèo còn đạt đến độ hoàn chỉnh khi
nhà văn để cho Chí Phèo chếnh choáng giữa hai bờ say - tỉnh, vô thức - ý
thức. Lúc say thì thành “vật ngƣời”, diễn biến tâm trạng, những suy nghĩ,
toan tính trƣớc hoàn cảnh là của một con ngƣời không có ý thức về những
hành động của mình: rạch mặt ăn vạ. Là một con ngƣời có ý thức thì
không bao giờ lại tự làm đau mình để đạt mục đích một cách man dại nhƣ
thế. Nhƣng lúc tỉnh thì bản chất của ngƣời nông dân hiền lành đến ngây
ngô lại trở về với Chí. Hình ảnh hắn ăn cháo hành bên thị Nở và nghĩ:
“những ngƣời suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo ăn rất
ngon...” là một minh chứng cho thấy sự suy nghĩ và hành động của một
con ngƣời thực thụ. Ở đây, nhà văn đã sử dụng rất nhiều phƣơng tiện liên
kết trong các đoạn độc thoại nội tâm và giữa các đoạn độc thoại nội tâm
với nhau để tạo ra sự hoàn chỉnh về nội dung miêu tả diễn biến tâm trạng
phức tạp của Chí Phèo. Khi đến nhà Bá Kiến, Chí Phèo say rƣợu, hình ảnh
Chí Phèo đập vỡ chai rƣợu rồi lấy những mảnh vỡ tự cào vào mặt mình để
ăn vạ, ngƣời đọc thấy hắn không còn là một ngƣời bình thƣờng. Đó là
trong hành động, sự không bình thƣờng của con ngƣời hắn còn biểu hiện
rõ hơn trong dòng suy nghĩ nội tâm: “biết đâu cái lão cáo già này nó chả
lại lừa hắn vào nhà rồi lôi thôi? Ồ mà thật, có thể nhƣ thế lắm! Này nó hãy
lôi ngay mấy cái mâm, cái nồi hay đồ vàng đồ bạc ra khoác vào cổ hắn, rồi
87
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao cho vợ ra kêu làng lên, rồi cột cổ hắn vào, chần cho một trận om xƣơng,
rồi vu vạ cho là ăn cƣớp thì sao? Cái thằng Bá Kiến này, già đời đục
khoét, còn đớn cái nƣớc gì mà chịu lép nhƣ trấu thế? Thôi dại gì mà vào
miệng cọp, hắn cứ đứng đây này, cứ lại lăn ra đây này, lại kêu toáng lên
xem nào. Nhƣng nghĩ ngợi một tí, hắn lại bảo: kêu lên cũng không nƣớc
gì! Lão bá vừa nói một tiếng, bao nhiêu ngƣời đã ai về nhà nấy, hắn có lăn
ra kêu nữa, liệu có còn ai ra? Vả lại bây giờ rƣợu nhạt rồi, nếu lại phải
rạch mặt thêm mấy nhát thì cũng đau. Thôi cứ vào! Vào thì vào, cần quái
gì. Muốn đập đầu thì vào ngay giữa nhà hắn mà đập đầu còn hơn ở ngoài.
Cùng lắm, nó có giở quẻ, hắn cũng chỉ đến đi ở tù. Ở tù thì hắn coi là
thƣờng” (Chí Phèo, tr. 87, 88, tập I). Tâm trạng hắn luôn luôn mâu thuẫn,
bất cần đời, ngay đến cả mạng sống của mình hắn cũng không cần. Rõ
ràng Nam Cao đã sử dụng những dòng độc thoại nội tâm ấy thể hiện một
cách suy nghĩ, một loại ý thức đặc trƣng cho một con ngƣời bất hảo. Sự
thành công của Nam Cao là ông đã sử dụng rất đúng lúc, đúng chỗ những
dòng độc thoại nội tâm để nêu bật đƣợc những diễn biến, những thang bậc
ngoắt nghéo trong suy nghĩ nội tâm của một nhân vật lúc là “vật ngƣời”
lúc là “ngƣời vật” nhƣ Chí Phèo. Thông qua các phƣơng tiện liên kết hình
thức nhƣ liên tƣởng, lặp... Nam Cao đã tạo ra mạch lạc tâm lý và mạch lạc
chủ đề cho đoạn độc thoại và giữa các đoạn độc thoại nội tâm với nhau, từ
đó tạo ra sự liên kết chặt chẽ với những sự kiện, những đoạn độc thoại tiếp
theo. Khi Chí Phèo tỉnh rƣợu: “hắn thấy mình già mà vẫn còn cô độc.
Buồn thay cho đời! Có lý nào nhƣ thế đƣợc? Hắn đã già rồi hay sao?
Ngoài bốn mƣơi tuổi... Dẫu sao, đó không phải tuổi mà ngƣời ta mới bắt
đầu sửa soạn...” (Chí Phèo, tr. 115, tập I). Bằng sự đối lập trong suy nghĩ
ở hai trạng thái say- tỉnh của cùng một con ngƣời, Nam Cao đã miêu tả rất
hoàn chỉnh tích cách đa dạng của nhân vật Chí Phèo, sâu chuỗi những
88
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao dòng suy nghĩ ấy lại với nhau tạo ra cái bi kịch cuộc đời Chí vô cùng thảm
khốc.
3.1.3.2. Và từ những chuyện hàng ngày xung quanh cái vƣờn, Nam Cao
cũng đã miêu tả đƣợc bi kịch số phận của ngƣời nông dân trong xã hội cũ-
Lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc thông qua những đoạn độc thoại nội
tâm của ông lão và ngƣời láng giềng tin cậy của ông là ông giáo. Với
ngƣời nông dân thì mảnh vƣờn, thửa ruộng, hạt thóc,.... là những thứ quen
thuộc, cần thiết và là của cải quý giá. Để giữ trọn vẹn cái vƣờn cho con
trai mà lão Hạc quyết tâm lựa chọn cái chết. Nam Cao đã miêu tả diễn
biến tâm lí của lão Hạc bằng những đoạn độc thoại nội tâm với nội dung
chủ đề xoay quanh cái vƣờn. Lão không cho con trai bán vƣờn: “Ai lại bán
vƣờn đi mà lấy vợ? Vả lại bán vƣờn đi, thì cƣời vợ về, ở đâu? Với lại, nói
cho cùng nữa, nếu đằng nhà gái họ cứ khăng khăng đòi nhƣ vậy, thì dẫu
có bán vƣờn đi cũng không đủ cƣới.” (Lão Hạc, tr. 195, tập I). Rồi: “Cái
vƣờn là của con ta. Hồi còn mồ mà mẹ nó, mẹ nó cố thắt lƣng buộc bụng,
dè sẻn mãi, mới để ra đƣợc năm mƣời đồng bạc tậu. Hồi ấy, mọi thứ còn
rẻ cả... Của mẹ nó tậu, thì nó hƣởng. Lớp trƣớc nó đòi bán ta không cho
bán là có ý giữ cho nó, chứ có phải giữ để ta ăn đâu? Nó không có tiền
cƣới vợ, phẫn chí bƣớc ra đi, thì đến lúc có tiền để lấy vợ, mới chịu về. Ta
bòn vƣờn của nó, cũng nên để ra cho nó; đến lúc nó về, nếu nó không đủ
tiền cƣới vợ thì ta thêm vào với nó, nếu nó đủ tiền cƣới vợ, thì ta cho vợ
chồng nó để có chút vốn mà làm ăn...” (Lão Hạc, tr.198-199, tập I). Cả
đoạn độc thoại nội tâm là những dòng suy nghĩ tƣởng nhƣ hết sức bình
thƣờng nhƣng ẩn chứa trong đấy là nét tính cách rất đáng quý của ngƣời
nông dân. Họ không bị biến chất trƣớc những xô đẩy của hoàn cảnh. Cái
chết của lão Hạc đã để lại sự tiếc thƣơng và trân trọng của ông giáo- ngƣời
89
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao láng giềng tin cậy của lão Hạc. Lão Hạc là một con ngƣời: “đã khóc vì trót
lừa một con chó!... Một ngƣời nhịn ăn để tiền lại làm ma bởi không muốn
liên luỵ đến hàng xóm, láng giềng” (Lão Hạc, tr. 206, tập I). Tất cả các
đoạn độc thoại ấy liên kết chặt chẽ với nhau cả về hình thức lẫn nội dung
thể hiện phẩm chất, tính cách đáng quý của ngƣời nông dân bị xã hội dồn
đến bƣớc đƣờng cùng phải tự tìm cái chết để giải thoát. Mặc dù Nam Cao
thể hiện tâm lí, tính cách của ngƣời nông dân một phần qua miêu tả tâm
trạng bằng các đoạn độc thoại nội tâm nhƣng giá trị biểu hiện nội dung
theo mạch của Nam Cao qua những đoạn độc thoại ấy cũng rất rõ nét.
3.1.4. Tiểu kết
Mỗi loại nhân vật của Nam Cao là một tiếng nói riêng, một tâm
hồn, một cách suy nghĩ riêng rất đặc trƣng. Tất cả các nhân vật nhƣ Điền,
Hộ hoặc Chí Phèo, lão Hạc đều là điển hình cho những lớp ngƣời bị xã hội
cũ thối nát chà đạp. Kiếp sống, số phận của mỗi nhân vật đều là sản phẩm
của guồng máy áp bức, bóc lột, tù túng, ngột ngạt cũ tạo nên. Các đoạn
độc thoại nội tâm trong các tác phẩm của Nam Cao đều là sự cố gắng của
ông so với các nhà văn đƣơng thời. Thông qua các đoạn độc thoại nội tâm
ấy nhà văn đã miêu tả đƣợc hiện thực sinh động với những ngõ ngách tâm
hồn của nhiều lớp ngƣời trong xã hội cũ từ ngƣời nông dân đến ngƣời trí
thức với nhiều loại ngƣời khác nhau từ những kẻ lƣu manh,bất lƣơng đến
những ngƣời hiền lành, lƣơng thiện, già trẻ gái trai đủ cả. Thực hiện nội
dung miêu tả của mình nhà văn đã sử dụng rất nhiều các phƣơng tiện liên
kết trong các đoạn độc thoại nội tâm và giữa các đoạn độc thoại ấy với
nhau. Nổi bật nhất là các phép liên kết: liên tƣởng, lặp, đối.... Nhờ thế mà
các đoạn độc thoại nội tâm đƣợc nhà văn khéo léo sâu chuỗi liên tục, đoạn
90
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao sau kế tiếp đoạn trƣớc, là bƣớc phát triển tất yếu của tâm trạng nhân vật
tạo thành quá trình diễn biến tâm lý rất logic và mang một sức thuyết phục
lớn đối với ngƣời đọc. Chính điều này đã khẳng định bút pháp Nam Cao,
phong cách Nam Cao mà thế hệ độc giả sau này không thể nào quên. Mỗi
một nhân vật, mỗi một cảnh đời với những dòng suy nghĩ liên tục là sự
phản ánh hiện thực muôn màu của xã hội. Khẳng định sự trải nghiệm, sự
sắc sảo của một ngòi bút trƣởng thành, độc đáo Nam Cao.
3.2. Từ ngữ sử dụng, phong cách diễn giải riêng biệt.
3.2.1. Sử dụng phương ngữ nông dân đồng bằng Bắc Bộ
Sử dụng độc thoại nội tâm để phát triển câu truyện là một phong
cách đặc sắc và độc đáo của bút pháp Nam Cao. Tất cả truyện ngắn của
ông có rất ít nhân vật; hoàn cảnh, không gian và thời gian chỉ là cái nền để
nhân vật bộc lộ những suy tƣ thầm kín tận đáy sâu tâm hồn. Trọng tâm
của truyện ngắn Nam Cao nằm ở mạch phát triển tâm lý của các nhân vật
thể hiện rất rõ nét qua những đoạn độc thoại nội tâm hết sức đa dạng và
sinh động. Qua khảo sát 88 đoạn độc thoại nội tâm trong 22 truyện ngắn
đã lựa chọn, chúng tôi thấy từ ngữ Nam Cao sử dụng để miêu tả nội tâm
nhân vật mang tính chất bình dân rất mộc mạc, ngắn gọn và dễ hiểu. Đó là
thứ ngôn ngữ trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, thứ phƣơng ngữ đặc thù
của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Khảo sát 88 đoạn độc thoại chúng tôi bắt gặp
rất nhiều những từ ngữ đặc trƣng của nông dân Bắc Bộ: giở quẻ, đớn cái
nước gì, khôn róc đời, gai ngạnh, ăn bùn, ngù ngờ, nhọc đừ, trót đời, gờ
guộng, còng queo, nhông nhổng chơi, thôi thì đành nhẽ, huống hồ... Lối
so sánh ví von cũng mang đậm phong cách ngƣời nông dân rất gần gũi và
dễ hiểu: lép như trấu, chốn như chạch, chỉ là một đàn cá tranh mồi, như
con mẹ dại, hiền như đất nặn, nhạt như nước ốc, bền đến thiên niên vạn
91
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao đại,... Nam Cao đã đem vào trong những dòng độc thoại nội tâm nguyên
vẹn từ giọng điệu, ngôn từ đến tính cách và tƣ duy của ngƣời nông dân nơi
làng quê Bắc Bộ. Mỗi một nhân vật một giọng điệu, một tính cách và ngôn
ngữ thể hiện riêng biệt và điển hình. Kẻ bần nông lƣu manh tha hoá, biến
chất nhƣ Chí Phèo cũng có những giọng điệu, cách suy luận, ngôn ngữ
nông dân bất cần đời, không coi ai ra gì: “biết đâu cái lão cáo già này nó
chả lại lừa hắn vào nhà rồi lôi? Ồ mà thật, có thể nhƣ thế lắm! Này nó hãy
lôi ngay mấy cái mâm, cái nồi hay đồ vàng đồ bạc ra khoác vào cổ hắn, rồi
cho vợ ra kêu làng lên, rồi cột cổ hắn vào, chần cho một trận om xƣơng,
rồi vu cho là ăn cƣớp thì sao? Cái thằng Bá Kiến này, già đời đục khoét,
còn đớn cái nƣớc gì mà chịu lép nhƣ trấu thế? Thôi dại gì mà vào miệng
cọp, hắn cứ đứng đây này, cứ lại lăn ra đây này, lại kêu toáng lên xem
nào. Nhƣng nghĩ ngợi một tí, hắn lại bảo: kêu lên cũng không nƣớc gì!
Lão bá vừa nói một tiếng, bao nhiêu ngƣời đã ai về nhà nấy, hắn có lăn ra
kêu nữa, liệu có còn ai ra? Vả lại bây giờ rƣợu nhạt rồi, nếu lại phải rạch
mặt thêm mấy nhát thì cũng đau. Thôi cứ vào! Vào thì vào, cần quái gì.
Muốn đập đầu thì vào ngay giữa nhà hắn mà đập đầu còn hơn ở ngoài.
Cùng lắm, nó có giở quẻ, hắn cũng chỉ đến đi ở tù. ở tù thì hắn coi là
thƣờng. Thôi cứ vào...” (Chí Phèo, tr. 87, 88, tập I). Lão Hạc- ngƣời nông
dân với bản chất hiền lành, thật thà lại có một giọng điệu, tính cách và
ngôn ngữ thể hiện rất gần gũi và tiêu biểu: “Ai lại bán vƣờn đi mà lấy vợ?
Vả lại bán vƣờn đi, thì cƣới vợ về, ở đâu? Với lại, nói cho cùng nữa, nếu
đằng nhà gái họ cứ khăng khăng đòi nhƣ vậy, thì dẫu có bán vƣờn đi cũng
không đủ cƣới.” (Lão Hạc, tr.195, tập I); rồi: “Cái vƣờn là của con ta. Hồi
còn mồ ma mẹ nó, mẹ nó cố thắt lƣng buộc bụng, dè sẻn mãi, mới để ra
đƣợc năm mƣơi đồng bạc tậu. Hồi ấy, mọi thứ còn rẻ cả... Của mẹ nó tậu,
thì nó hƣởng. Lớp trƣớc nó đòi bán, ta không cho bán là ta có ý giữ cho
92
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao nó, chứ có phải giữ để cho ta ăn đâu? Nó không có tiền cƣới vợ, phẫn chí
bƣớc ra đi, thì đến lúc có tiền để lấy vợ, mới chịu về. Ta bòn vƣờn của nó,
cũng nên để ra cho nó; đến lúc nó về, nếu nó không đủ tiền cƣới vợ thì ta
thêm vào với nó, nếu nó có đủ tiền cƣới vợ, thì ta cho vợ chồng nó để nó
có chút vốn mà làm ăn...” (Lão Hạc, tr. 198, 199, tập I). Nam Cao đã sử
dụng ngôn ngữ rất thành công để khắc hoạ giọng điệu, tính cách, những
suy nghĩ nham hiểm của bọn cƣờng hào, ác bá coi mạng ngƣời nhƣ cỏ rác
thông qua lời độc thoại nội tâm của Bá Kiến (Chí Phèo): “Hồi năm nọ,
một thầy địa lý qua đây có bảo đất làng này vào cái thế “quần ngƣ tranh
thực”, vì thế mà bọn đàn anh chỉ là một đàn cá tranh mồi. Mồi thì ngon
đấy, nhƣng mà năm bè bảy bối, bè nào cũng muốn ăn. Ngoài mặt thì tử tế
với nhau, nhƣng thật ra trong bụng lúc nào cũng muốn cho nhau lụn bại để
cƣỡi lên đầu lên cổ. Ngay nhƣ thằng Chí Phèo này đến đây sinh sự biết
đâu lại không có thằng nào ẩy đấy! Nếu cụ không chịu nhịn, làm cho to
chuyện có khi tốn tiền. Cái nghề quan bám thằng có tóc ai bám thằng trọc
đầu? Bỏ tù nó thì dễ rồi: nhƣng bỏ tù nó, cũng có ngày nó đƣợc ra, liệu lúc
ấy nó có để yên cho mình không chứ?” (Chí Phèo, tr.89, tập I); hay: “trị
không lợi thì cụ dùng. Cụ nghĩ bụng: cũng phải có những thằng đầu bò
chứ? Không có những thằng đầu bò thì lấy ai mà trị những thằng đầu bò?
Thế lực của cụ sở dĩ lấn át đƣợc các vây cánh khác, một phần lớn cũng bởi
cụ biết mêm, biết cứng, biết thu dụng những thằng bạt mạng không sợ
chết và không sợ đi ở tù...” (Chí Phèo, tr.95, tập I). Ngôn ngữ sinh hoạt
hàng ngày đã đƣợc Nam Cao đƣa vào tác phẩm hết sức tinh tế và logic,
ngƣời đọc dƣờng nhƣ không phân biệt đƣợc đâu là ngôn ngữ tự nhiên của
nhân vật, đâu là sự sắp đặt của ông. Ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày đƣợc
đƣa vào các đoạn độc thoại nội tâm một cách nguyên vẹn, dƣờng nhƣ
không hề có sự cắt tỉa, gọt đẽo nào. Vì thế mà những lời độc thoại nội tâm
93
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao ấy mang tính chất khách quan thể hiện hiện thực một cách trung thực và
có sức thuyết phục không thể chối cãi. Độc thoại nội tâm trong tác phẩm
Nam Cao đƣợc thể hiện bằng thứ ngôn ngữ mang đậm phong cách khẩu
ngữ tự nhiên của con ngƣời, nó có màu sắc cá nhân rất rõ rệt. Tuy nhiên,
việc sử dụng ngôn ngữ mang đậm phong cách khẩu ngữ tự nhiên không
gây ra sự cản trở trong quá trình cảm nhận tác phẩm cho độc giả. Ngƣợc
lại, việc sử dụng ngôn ngữ cá nhân đó đã tạo ra độ khách quan trong đánh
giá sự chân thật của ngôn ngữ nhân vật, tạo ra độ tin cậy thích hợp cho
ngôn ngữ từng nhân vật. Thứ ngôn ngữ bình dân, gần gũi của ngƣời nông
dân đồng bằng Bắc bộ đã đƣợc Nam Cao sử dụng hết sức linh hoạt thể
hiện sự mộc mạc, giản dị trong hành văn của nhà văn. Điều đó cũng thể
hiện một phong cách nhà văn riêng rẽ rất Nam Cao.
3.2.2. Sử dụng nhiều các phát ngôn ngắn gọn, tỉnh lược nhiều.
Nam Cao đã sử dụng rất nhiều câu tỉnh lƣợc, ngữ trực thuộc, câu
đơn giản rất ngắn trong các đoạn độc thoại nội tâm, làm cho các đoạn độc
thoại nội tâm dƣờng nhƣ chỉ mang tính chất thông báo mà không hề gợn
một chút tình cảm nào trong đó. Đôi khi cách sử dụng ngôn ngữ đó khiến
độc giả có cảm giác ngòi bút của ông rất khô cứng, khắc nghiệt và lạnh
lùng đến tàn nhẫn. Chúng tôi đã thống kê đƣợc 351 phát ngôn chƣa thành
câu và các phát ngôn là câu đơn trên tổng số 640 phát ngôn các loại cấu
thành 88 đoạn độc thoại nội tâm trong 22 truyện ngắn đƣợc khảo sát. Một
con số không phải là nhỏ, đủ để khẳng định phong cách ngôn ngữ ngắn
gọn, cô đọng nhƣng hết sức độc đáo và đặc sắc của Nam Cao. Trong các
đoạn độc thoại nội tâm, ông viết những câu rất ngắn, ngắn đến nỗi không
thể rút ngắn hơn đƣợc nữa đúng nhƣ bản chất ăn thật, nói thật của ngƣời
94
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao nông dân, chẳng hạn: “Gớm! Sao lại có thứ ngƣời đâu mà lì quá thế!
Ngƣời ta ngồi đây mà dám xán lăn ngay vào, nó chả ngang ngƣợc mà
ngƣời ta kêu bé, nó lại làm to hơn. Mà kể thì cũng ngù ngờ. Cái thằng trời
đánh không chết ấy, nó còn sợ ai mà hòng kêu. Nhƣng mà đáng kiếp. Thổ
trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi là hôm nay nhọc đừ. Phải cho hắn ăn thứ
gì thì mới đƣợc. Đang đau ốm thế thì chỉ ăn cháo hành. Ra đƣợc mồ hôi
thì là nhẹ nhõm ngƣời ngay đó mà...” (Chí Phèo, tr.116, tập I). Hay nhƣ:
“Ngƣời đàn bà đức hạnh thấy cháu bà sao mà đĩ thế! Thật đốn mạt. Ngoài
ba mƣơi tuổi, mà chƣa trót đời. Ngoài ba mƣơi tuổi...ai lại còn đi lấy
chồng. Ai đời lại còn đi lấy chồng! Ừ! Mà có lấy thì lấy thì lấy ai chí?...
đàn ông chết hết cả rồi hay sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không
cha. Ai lại đi lấy một thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ. Trời ơi!
Nhục nhã ơi là nhục nhã! Hỡi ông nhà bà!” (Chí Phèo, tr. 120, 121, tập I).
Thể hiện tình cảm, những nỗi niềm ngóc ngách của nhân vật bằng những
từ ngữ và câu ngắn cộc nhƣng vẫn thuyết phục đấy chính là cái tài của
Nam Cao. Nam Cao đƣa lối nói hàng ngày vào các đoạn độc thoại nội tâm
nhƣng ngƣời đọc không hề thấy có nét dƣờm dà nào trong đó. Mỗi từ, mỗi
chữ đều có một vai trò riêng, thể hiện ý tứ, giọng điệu của nhân vật mà
không thể thêm vào hay bỏ bớt đi bất kỳ câu chữ nào. Ngòi bút của ông
khúc chiết, ngắn gọn, ngôn ngữ cô đọng ngay cả khi ông viết những câu
những câu dài. Tất cả những câu dài cũng đƣợc Nam Cao chia nhỏ ra,
thậm chí chúng ta còn có cảm giác ông cố tình làm cho nó vụn đi, chẳng
hạn: “Đối với những ngƣời ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ thì
ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi... toàn những cớ để
cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những ngƣời đáng thƣơng;
không bao giờ ta thƣơng...” (Lão Hạc, tr. 205). Hay nhƣ: “con mình đã lớn
rồi, phải uốn nắn ngay đi; nhà mình vƣờn ít, ruộng không, cửi vải cũng
95
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao không, nghĩa là công việc chẳng có gì; nó ở nhà cũng chỉ chơi; để mặc nó
lêu lổng chạy ra ngoài đƣờng, đánh chắt, đánh ô, rồi nó hƣ thân; chi bằng
cho nó đi ăn đi ở với ngƣời ta, để ngƣời ta bắt nó cất nhắc việc nọ, việc kia
cho nó quen tay; có việc làm rồi mới biết việc mà làm, chỉ nhông nhổng
chơi quen, đến lúc phải làm tất gờ guộng chân tay, chẳng đánh đổ cái này
cũng đánh vỡ cái kia, cái thứ con gái mà cầm đến cái gầu không biết tát
làm sao, đƣa cho đám mạ không biết cấy thế nào, bảo ngồi lên khung cửi
nhắc lấy cái thoi thì lúng ta lúng túng, là thứ con gái đáng cho hùm ăn
thịt...” (Một đám cưới, tr. 215-216); “Sao anh không đi theo bộ đội, đi diễn
kịch tuyên truyền, nhập bọn với các đoàn văn hoá kháng chiến để đƣợc
thấy những sinh viên, công chức xung vào vệ quốc quân, những bác sĩ sốt
sắng làm việc trong các viện khảo cứu hay các viện quân y, những bạn văn
nghệ sĩ của anh đang mê mải đi sâu vào quần chúng để học và dạy họ,
đồng thời tìm những cảm hứng mới cho văn nghệ” (Đôi mắt, tr.472).
Những câu dài đƣợc Nam Cao cố tình chia nhỏ ra nhằm phục vụ ý đồ sáng
tác riêng của nhà văn. Các đoạn độc thoại nội tâm ấy nhƣ là sự phản ứng
của các lớp nhân vật trƣớc những đổi thay của hoàn cảnh. Ông đã tận dụng
triệt để các dấu câu để chia tách các câu dài, tạo ra một sợi dây xuyên suốt
toàn bộ dòng nội tâm của nhân vật giúp độc giả theo dõi nội dung thể hiện
của các đoạn độc thoại ấy một cách chi tiết và liền mạch. Chính những
điều này đã làm cho mạch tâm lý trở nên gấp gáp, lời lẽ đanh lại, thể hiện
rõ nội dung diễn đạt. Ngòi bút Nam Cao nhạy bén, sắc sảo chính là ở chỗ
đó.
3.2.3. Sử dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ.
96
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao
Tất cả các đoạn độc thoại nội tâm của các nhân vật, mạch tâm lí của
nhân vật bất kì nhân vật đó là ngƣời nông dân, ngƣời trí thức tiểu tƣ sản,
ngƣời già hay ngƣời trẻ chúng tôi đều thấy ẩn sâu dƣới những diễn biến
tâm lý phức tạp, những vui buồn, nỗi niềm tâm sự, những giằng xé... màu
sắc của sự triết lí. Vậy cái gì đã làm nên màu sắc triết lí ấy? Đó chính là
lối sử dụng những thành ngữ, tục ngữ, những kinh nghiệm sống đã trở
thành chân lý, thành lẽ phải rất đặc trƣng của ngƣời nông dân vùng đồng
bằng Bắc Bộ của Nam Cao. Tâm lí nhân vật vận động nhờ xen vào những
ý nghĩ nhƣ một triết lý sống, những thành ngữ, tục ngữ... Đó là cách nghĩ,
cách bộc lộ của ngƣời nông dân. Hầu nhƣ lời độc thoại nội tâm nào cũng
diễn ra theo trình tự nhƣ thế, chẳng hạn: “cái thằng Bá Kiến này, già đời
đục khoét, còn đớn cái nƣớc gì mà chịu lép nhƣ trấu thế? Thôi dại gì mà
vào miệng cọp...” (Chí Phèo, tr.87); “Không phải cụ đớn, chính thật cụ
khôn róc đời, thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân. Chí
Phèo không anh hùng, nhƣng nó là cái thằng liều lĩnh. Liều lĩnh thì ai còn
thèm chấp! Thế nào là mềm nắn rắn buông?...” (Chí Phèo, tr. 88, 89);
“…Cái nghề quan bám thằng có tóc ai bám thằng trọc đầu?...” (Chí Phèo,
tr. 89, tập I); “Một ngƣời đau chân có lúc nào quên đƣợc cái chân đau của
mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu? Khi ngƣời ta khổ quá thì ngƣời ta
chẳng còn nghĩ gì đến ai đƣợc nữa.” (Lão Hạc, tr.205); “Thƣơng con thì
để bụng. Nuông con thà giết con đi.” (Một đám cưới, tr.218); “Đã đành
anh chàng cũng có ý bòn của đây, nhƣng cái sự tham thì ở đời ai mà lại
chả tham?...” (Ở hiền, tr.366, tập I); “Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác
lên trên đôi vai mình.” (Đời thừa, tr. 604); “Những kẻ chỉ suốt đời tính
toán là những kẻ tự làm khổ thân suốt đời” (Trăng sáng, tr.581); “Hiếu
động, cƣơng cƣờng, quả cảm là thói thƣờng của những kẻ mới lớn mà
sung sức” (Đường vô Nam, tr. 358); “làm gì có công lý, có sự ngay thẳng
97
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao trong một cái xã hội toàn nô lệ dƣới quyền một cái chính phủ làm tay sai
cho những quân kẻ cƣớp” (Cách mạng, tr.360).... Những dòng độc thoại
ấy chính là những kinh nghiệm sống, kinh nghiệm tâm lý trong quan hệ xã
hội của một cộng đồng nông dân. Nam Cao đã sử dụng từ ngữ và lối nói
của ngƣời nông dân để triết lý về cuộc sống, về sự sƣớng khổ của con
ngƣời. Lối nói “có chứng” của ngƣời nông dân đƣợc Nam Cao sử dụng
một cách triệt để đã tạo ra tính chân thực, khách quan của các đoạn độc
thoại nội tâm. Tạo ra độ tin cậy cần thiết cho độc giả đối với thứ ngôn ngữ
tuy bình dân nhƣng lại mang đầy màu sắc triết lý. Và có tin cậy thì mới
thuyết phục đƣợc độc giả trƣớc những suy nghĩ nội tâm của nhân vật.
Chính thế đã tạo ra phong cách “nông dân” trong việc sử dụng từ ngữ của
Nam Cao. Đây cũng là điểm đặc sắc và độc đáo của ngòi bút Nam Cao.
3.2.4. Sử dụng nhiều từ ngữ của văn nghị luận
Khảo sát 88 đoạn độc thoại nội tâm trong 22 truyện ngắn, chúng tôi
còn thấy Nam Cao đã sử dụng rất nhiều từ ngữ của văn nghị luận nhƣ: vả
lại, dù sao, vì thế, dẫu sao, bởi vì, vậy mà, nên... Những từ ngữ này xuất
hiện nhiều trong các đoạn độc thoại nội tâm tƣởng nhƣ làm cho mạch suy
nghĩ, diễn biến tâm lý nhân vật khô cứng và khuôn sáo nhƣng thực tế thì
ngƣợc lại. Việc sử dụng nhiều từ ngữ trong văn nghị luận của Nam Cao lại
là một điều đặc sắc. Những từ ngữ ấy đã tạo ra logic cho mạch suy nghĩ,
tạo nên chiều sâu lập luận của nhân vật. Những từ ngữ ấy đã thể hiện lối
nói, lối suy nghĩ chắc chắn, chân thực, có lập luận, có lý lẽ đặc trƣng của
ngƣời nông dân. Và với tƣ cách là công cụ ngôn ngữ xây dựng đoạn văn
độc thoại nội tâm, những từ ngữ ấy là những từ ngữ chỉ sự quan hệ làm
cho các câu nối kết đƣợc với nhau, ghi nhận bằng hình thức nội dung mối
98
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao quan hệ đó. Nói một cách khác, những từ ngữ đó đƣợc coi nhƣ là sự đánh
dấu những liên kết về nghĩa giữa các câu trong đoạn văn độc thoại nội
tâm, có nhiệm vụ giải thích nghĩa của đoạn văn. Và điều quan trọng là độc
giả thấy đoạn độc thoại nội tâm của nhân vật rất hợp lí, trƣớc mỗi sự kiện,
mỗi biến cố nhân vật phải suy nghĩ nhƣ vậy, mạch tâm lí của nhân vật
phải tiến triển nhƣ vậy, không thể nào khác đi đƣợc. Và cũng chính nhờ
những từ ngữ ấy mà các đoạn độc thoại của Nam Cao có giá trị biểu hiện
nội dung rõ ràng, có logic và có sức thuyết phục. Sử dụng nhiều các từ
ngữ trong văn nghị luận để xây dựng các đoạn văn độc thoại nội tâm cũng
đã tạo ra phong cách riêng biệt của nhà văn Nam Cao trong việc sử dụng
ngôn ngữ, tạo ra nét độc đáo, đặc sắc trong ngôn ngữ thể hiện của các
đoạn văn độc thoại nội tâm.
3.2.5. Sử dụng nhiều câu hỏi nghi vấn để diễn giải tâm lí nhân vật.
Nhƣ vậy Nam Cao đã tạo ra đƣợc một phong cách riêng, một bút
pháp đặc sắc trong việc sử dụng từ ngữ trong những đoạn độc thoại nội
tâm. Và thông qua việc sử dụng từ ngữ rất Nam Cao đó, nhà văn cũng có
những diễn giải tâm lí nhân vật theo một phong cách riêng biệt dựa trên
những tình tiết của hiện thực. Đó là việc ông sử dụng trong các đoạn độc
thoại nội tâm rất nhiều câu nghi vấn mà không có lời giải đáp. Điều đó thể
hiện cái bế tắc, quẩn quanh từ suy nghĩ đến hành động của nhân vật, khắc
sâu những bi kịch mà số phận nhân vật phải gánh chịu. Những câu hỏi
luôn luôn đƣợc đặt ra trƣớc mỗi hoàn cảnh, sau mỗi sự kiện, mỗi biến cố,
thể hiện sự chịu đựng, sự cùng quẫn của nhân vật. Họ bất lực trƣớc những
bất công của xã hội. Tất cả sự dồn nén, uất ức đó trào lên thành những câu
hỏi bất tận không đƣợc giải đáp. Tất cả các lớp nhân vật của Nam Cao từ
99
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao ngƣời trí thức đến những ngƣời nông dân, loại nhân vật nào cũng quay
cuồng trong những câu hỏi không điểm dừng đó. Hộ-nhân vật trí thức tiểu
tƣ sản trong tác phẩm Đời thừa cay đắng, nghẹn ngào: “Khốn nạn! Khốn
nạn thay cho hắn! Bởi vì hắn chính là một thằng khốn nạn! Hắn chính là
một kẻ bất lƣơng! Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất
lƣơng rồi. Nhƣng sự cẩu thả trong văn chƣơng thì thật đê tiện. Chao ôi!
Hắn viết những gì? Toàn những cái vô vị, nhạt phèo, gợi những tình cảm
rất nhẹ, rất nông, diễn một vài ý rất thông thƣờng quấy loãng trong một
thứ văn bằng phẳng và quá ƣ dễ dãi. Hắn chẳng đem một chút mới lạ gì
đến văn chƣơng. Thế nghĩa là hắn là một kẻ vô ích, một ngƣời thừa. Văn
chƣơng không cần đến những ngƣời thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu
mẫu đƣa cho. Văn chƣơng chỉ dung nạp những ngƣời biết đào sâu, biết
tìm tòi, khơi những nguồn chƣa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chƣa
có... Hắn nghĩ thế và buồn, buồn lắm! Còn gì buồn hơn chính mình lại
chán mình? Còn gì đau đớn cho một kẻ vẫn khát khao làm một cái gì mà
nâng cao giá trị đời sống của mình, mà kết cục chẳng làm đƣợc gì, chỉ
những lo cơm áo mà đủ mệt? Hắn để mặc vợ con khổ sở ƣ? Hắn bỏ liều,
hắn ruồng rẫy chúng, hắn hy sinh nhƣ ngƣời ta vẫn nói ƣ?” (Đời thừa, tr.
603, tập I); “Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình. Vả
lại hèn biết bao là một thằng con trai không nuôi nổi vợ, con thì còn mong
làm nên trò gì nữa?” (Đời thừa, tr.603, 604, tập I). Ngƣời trí thức trong tác
phẩm Mua nhà cũng rên siết trƣớc những bất công, những tệ nạn xã hội đã
đẩy con ngƣời đến bƣớc đƣờng cùng, không lối thoát: “Phải, tôi ác quá,
anh Kim nhỉ. Rồi đây, hối hận sẽ toả một bóng đen vào trong cái nhà mới
của tôi, rộng rãi và sạch sẽ hơn cái trƣớc. Những chiều đông lạnh lẽo, một
con thạch sing nấp trên một cái xà ngang, sẽ tắc lƣỡi nhắc cho tôi biết: tôi
ác quá! Tôi ác quá!... Nhƣng mà thôi anh Kim ạ! Nghĩ ngợi làm gì nữa. ở
100
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao cảnh chúng ta lúc này hạnh phúc chỉ là một cái chăn quá hẹp. Ngƣời mà
chẳng thiệt gì đến ai!...” (Mua nhà, tr. 599, tập I). Đến Nhu, một cô gái
nông dân cần cù, nhút nhát cũng phải tự đặt ra câu hỏi cho mình: “Tại sao
trên đời này lại có nhiều sự bất công đến thế? Tại sao ở hiền không phải
bao giờ cũng gặp lành? Tại sao những kẻ hay nhịn hay nhƣờng thì thƣờng
thƣờng lại chẳng đƣợc ai nhịn, nhƣờng mình. Còn những kẻ thành công
thì hầu hết lại là những ngƣời rất tham lam, chẳng biết nhịn nhƣờng ai
nhiều khi lại xảo trá, lọc lừa và tàn nhẫn, nhất là tàn nhẫn.” (Ở hiền, tr.
358, 359, tập I). Những câu hỏi đó nhƣ những cơn bão lòng trong tâm hồn
con ngƣời đang tích tụ, dồn nén thành giông tố cuộc đời, đòi đƣợc giải
đáp. Đó là phong cách diễn giải tâm trạng bế tắc, bất lực trƣớc những bất
công đang diễn ra hàng ngày đối với số phận từng nhân vật với nhiều màu
sắc khác nhau của Nam Cao. Cách mạng Tháng Tám thành công đã mở
đƣờng cho ngòi bút Nam Cao. Cuộc sống và số phận các nhân vật không
còn những bế tắc, bất công nữa. Các nhân vật không còn phải tự vấn mình
về những bất công đã xảy ra với chính bản thân mình nữa. Những câu hỏi
trong các đoạn độc thoại nội tâm lại hƣớng tới một vấn đề khác lớn hơn,
đó là những vấn đề xã hội, những đổi thay đã đem lại ánh sáng cho cả một
dân tộc, những đổi thay đó đã tác động đến đời sống của mỗi con ngƣời
nhƣ thế nào. Những câu hỏi trong dòng độc thoại nội tâm của nhân vật Độ
trong truyện ngắn Đôi mắt xoay quanh vấn đề tƣ tƣởng mới đó. Anh ta
cũng băn khoăn, cũng day dứt, trăn trở và cũng tự vấn mình: “Nhƣng sao
gặp tôi lần này hân hoan đến thế? Anh đã đủ thì giờ để lột xác rồi chăng?
Hay cuộc kháng chiến mãnh liệt của dân tộc đã quét sạch khỏi đầu anh
những cái gì cũ còn sót lại?” (Đôi mắt, tr. 461, tập II); rồi: “Sao anh không
đi theo bộ đội, đi diễn kịch tuyên truyền, nhập bọn với các đoàn văn hoá
kháng chiến để đƣợc thấy những sinh viên, công chức xung phong vào vệ
101
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao quốc quân, những bác sĩ sốt sắng làm việc trong các viện khảo cứu hay
các viện quân y, những bạn văn nghệ sĩ của anh đang mê mải đi sâu vào
quần chúng để học và dạy họ, đồng thời tìm những cảm hứng mới cho văn
nghệ” (Đôi mắt, tr. 472, tập II). Nhƣng những câu hỏi đó là những câu hỏi
tự vấn mình về thái độ, ý thức, trách nhiệm của ngƣời khác trƣớc những
đổi thay đang diễn ra trong đời sống của mỗi ngƣời. Những câu hỏi không
còn mang sức nặng của sự bế tắc nữa, những câu hỏi đƣợc đặt ra nhẹ
nhàng hơn với một thái độ cũng hết sức nhẹ nhàng. Và sự đổi thay to lớn
rất dễ nhận thấy trong tất cả các đoạn độc thoại nội tâm đƣợc sử dụng
trong các tác phẩm viết sau Cách mạng của Nam Cao là ông đã sắp đặt
những câu hỏi tự vấn mình của các nhân vật không còn xoay quanh các
khía cạnh quyền lợi cá nhân mà nó hƣớng tới những khía cạnh nghĩa vụ và
quyền lợi của mỗi ngƣời trƣớc những đổi thay to lớn của cả dân tộc. Đó là
sự đổi mới trong bút pháp Nam Cao về tƣ tƣởng. Vẫn bằng cách diễn giải
tâm trạng nhân vật nhƣ trƣớc, thể hiện những băn khoăn, nỗi niềm nhân
vật bằng các câu hỏi liên tục nhƣng không phải diễn tả sự bế tắc, than
thân, trách phận. Ẩn chứa đằng sau những câu hỏi ấy là cả một tấm lòng,
sự nhiệt tình đóng góp tài năng, sức lực, tâm huyết của mình cho Cách
mạng mặc dù chỉ là “một anh tuyên truyền nhãi nhép”, “khoác cái ba lô
lên vai đi hết làng nọ đến làng kia” của nhân vật trí thức Độ. Những câu
hỏi độc thoại nội tâm đƣợc Nam Cao đặt ra không còn lạnh lùng đến tàn
nhẫn nhƣ trong các đoạn độc thoại nội tâm của các nhân vật trí thức trƣớc
Cách mạng nữa. Những câu hỏi nội tâm của các nhân vật đƣợc đặt ra rất
nhiều, chẳng hạn nhƣ: “Ai khen? Ai trách? Tôi chỉ muốn tìm để hiểu. Cái
gì đã thúc chị em trong vùng địch thích vào du kích? Một chút lãng mạn
chăng? Hay là nỗi căm giận lũ giặc bị đi đến đâu cũng giở tro hãm hiếp?
Thà chết còn hơn bị nhục. Và biết đâu không phải là lòng phẫn nộ đối với
102
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao cái nhỏ nhen cái hèn hạ, cái bất công của những kẻ đàn ông lạc hậu, ruồng
bỏ, hắt hủi những chị phụ nữ đáng thƣơng và bị sa vào tay giặc? Hay là
một lời thách thức nói với bên nam giới?” (Những bàn tay đẹp ấy, tr.485,
tập II); “Nếu lỡ việc của chị em? Nếu vì mình mà chị em hỏng việc?
Trong vùng địch một ngƣời hẹn đến mà không đến, đó là một việc gieo
hoang mang vào đầu óc mọi ngƣời. Phải chăng bị chộp giữa đƣờng?
Nhiều khi chỉ vì thế, mà cả một kế hoạch đã định, không dám đem thi
hành nữa.” (Những bàn tay đẹp ấy, tr. 484, tập II); “… Bây giờ gặp nhau,
chúng ta cùng ngoảnh mặt đi, không muốn nhìn nhau. Thế mà anh là
ngƣời, tôi cũng là ngƣời. Thù ghét nhau chi, cho cuộc đời giảm đẹp đi?
Tại sao chúng ta không thể nhìn nhau vui vẻ và thân thiện? Cái nó chia rẽ
chúng ta, cái nó chia rẽ loài ngƣời, không phải là màu da, tiếng nói; chính
là sự chênh lệch vô lý giữa ngƣời với lại ngƣời…” (Cách mạng, tr. 388,
tập II)… Hầu nhƣ tác phẩm viết sau cách mạng nào, các đoạn độc thoại
nội tâm cũng có những câu hỏi. Nhƣng những câu hỏi nội tâm của nhân
vật đƣợc đặt ra điềm đạm và từ tốn thể hiện rõ tính cách nhân vật với ý
thức, thái độ, trách nhiệm trƣớc những đổi thay to lớn của dân tộc. Qua
khảo sát toàn bộ 88 đoạn văn độc thoại nội tâm, chúng tôi thấy những câu
hỏi đƣợc nhà văn sử dụng có một giá trị đặc biệt trong việc lý giải những
lo lắng, băn khoăn, nỗi niềm của nhân vật đồng thời đó cũng là một cách
để nhà văn thể hiện ý đồ sáng tác của mình. Những câu hỏi đó cũng góp
phần tạo ra nét độc đáo trong bút pháp sử dụng độc thoại nội tâm, tạo ra
phong cách lý giải sự tình cũng nhƣ phong cách sử dụng ngôn ngữ riêng
biệt của nhà văn Nam Cao.
3.2.6. Tiểu kết
103
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao
Nhƣ vậy, các đoạn độc thoại nội tâm trong các tác phẩm của Nam
Cao có giá trị khẳng định phong cách tác giả rất rõ nét. Ngôn ngữ thể hiện
trong các đoạn văn độc thoại nội tâm rất phong phú, đa dạng đã tạo ra nét
độc đáo trong bút pháp Nam Cao. Nội dung triển khai các đoạn độc thoại
nội tâm theo mạch tâm lí, từ ngữ sử dụng, phong cách diễn giải tâm lí
nhân vật xuất phát từ những tình tiết của hiện thực xã hội nông dân nơi
làng quê Bắc Bộ đã tạo ra phong cách riêng biệt Nam Cao - một nhà văn
tiêu biểu cho nền văn học hiện thực đầu thế kỉ XX. Nam Cao đã rất thành
công với độc thoại nội tâm. Độc thoại nội tâm- hình thức giao tiếp một
chiều đặc biệt đã trở thành một thủ pháp nghệ thuật độc đáo trong truyện
ngắn Nam Cao. Khi nghiên cứu về nghệ thuật và phong cách Nam Cao
không thể không nói đến độc thoại nội tâm.
104
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao
KẾT LUẬN
1. Trong luận văn, để tiến hành miêu tả, phân tích độc thoại nội tâm,
chúng tôi dựa trên các phạm vi nghiên cứu lý thuyết chủ yếu sau:
- Lí thuyết về hội thoại: độc thoại (hình thức giao tiếp một chiều).
- Lí thuyết về văn bản, diễn ngôn.
- Lí thuyết về đoạn văn và cấu trúc trong đoạn văn.
2. Độc thoại nội tâm- hình thức giao tiếp một chiều rất đặc biệt, xuất hiện
chủ yếu trong các văn bản nghệ thuật (truyện ngắn, truyện vừa, tiểu
thuyết...). Độc thoại nội tâm đƣợc nghiên cứu với tƣ cách là bút pháp nghệ
thuật nổi trội trong các văn bản nghệ thuật, cụ thể là trong các truyện ngắn
của nhà văn hiện thực xuất sắc nửa đầu thế kỉ XX - Nam Cao.
3. Luận văn tiến hành miêu tả, phân tích các đoạn độc thoại nội tâm trong
truyện ngắn Nam Cao chủ yếu ở các bình diện cấu trúc hình thức và giá trị
biểu hiện. Độc thoại nói chung và độc thoại nội tâm nói riêng là một hình
thức tổ chức diễn ngôn đặc biệt (qua văn bản Nam Cao). Các kết quả cho
thấy độc thoại nội tâm thực sự là một thủ pháp rất đắc dụng. Dĩ nhiên, nó
có những cách thức, cấu trúc liên kết nội tại (mở đề, nhập đề, kết đề,...) và
liên kết cho ngữ cảnh rộng (toàn văn bản) khác nhau, tuỳ từng trƣờng hợp.
Chính vì vậy, mà thủ pháp này có những cách biểu hiện rất đa dạng: có thể
theo hƣớng phát triển, mở rộng chủ đề, có thể đan cài nhằm mô tả và khắc
sâu tâm lí nhân vật... nhằm thực hiện mục đích của tác giả.
105
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao 4. Những nghiên cứu của luận văn đã cung cấp thêm thông tin về lƣợng
cũng nhƣ về chất để khẳng định giá trị của tác phẩm văn học (văn bản
nghệ thuật), đánh giá đúng và kĩ hơn về đối tƣợng, sự kiện, nhân vật, tình
huống…; tăng khả năng cảm thụ tác phẩm.
5. Luận văn đã sử dụng những tƣ liệu trong hai tập Nam Cao toàn tập, mới
xuất bản gần đây, đã đƣợc biên soạn đầy đủ và hệ thống để tiến hành miêu
tả, phân tích góp thêm một tiếng nói làm phong phú kho tàng nghiên cứu
về Nam Cao nhìn từ góc độ ngôn ngữ học.
6. Luận văn tập trung miêu tả số lƣợng các phát ngôn cấu thành các đoạn
độc thoại và giá trị biểu hiện của các đoạn độc thoại nội tâm (khẳng định
chủ đề tƣ tƣởng của tác phẩm, ngôn ngữ sử dụng, cách diễn giải riêng biệt
của Nam Cao) góp thêm cứ liệu ngôn ngữ phong phú để định vị phong
cách tác giả.
7. Khai thác kĩ các đoạn độc thoại giúp các nhà nghiên cứu phong cách
Nam Cao toàn diện hơn, sâu sắc hơn; giúp cho việc giảng dạy kiến thức
văn học trong trƣờng phổ thông kĩ càng, sâu sắc và có sức thuyết phục
hơn.
106
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Diệp Quang Ban (1996), Ngữ pháp tiếng Việt (II), NXB Giáo dục, Hà
Nội.
2. Diệp Quang Ban (1998), Văn bản và liên kết trong tiếng Việt, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
3. Diệp Quang Ban (1998), “Về mạch lạc trong văn bản”, Ngôn ngữ (1), tr.
47-55.
4. Nguyễn Tài Cẩn (1996, tái bản), Ngữ pháp tiếng Việt (Tiếng - Từ ghép -
Đoản ngữ), NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
5. Chafe L.W. (1998), Ý nghĩa và cấu trúc của ngôn ngữ, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
6. Đỗ Hữu Châu (1982), “Ngữ nghĩa học hệ thống và ngữ nghĩa học hoạt
động”, Ngôn ngữ (3), tr. 18-33.
7. Đỗ Hữu Châu (1983), “Ngữ nghĩa học hệ thống và ngữ nghĩa học hoạt
động”, Ngôn ngữ (1), tr. 12-26 (tiếp theo).
8. Đỗ Hữu Châu (1985), “Các yếu tố dụng học của tiếng Việt”, Ngôn ngữ
(4), tr. 14-16.
9. Đỗ Hữu Châu (Chủ biên), Bùi Minh Toán (1993), Đại cương ngôn ngữ
học (t.1), NXB Giáo dục, Hà Nội.
10. Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê (1963) Khảo luận về ngữ pháp
Việt Nam, Viện Đại học Huế.
11. Nguyễn Đức Dân (1987), Lôgích - Ngữ nghĩa - Cú pháp, NXB Đại học
& THCN, Hà Nội.
107
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao
12. Đinh Văn Đức (1986), Ngữ pháp tiếng Việt (từ loại), NXB Đại học &
THCN, Hà Nội.
13. Lê Đông (1996), Ngữ nghĩa - ngữ dụng câu hỏi chính danh, Luận án PTS
khoa học Ngữ văn, Hà Nội.
14. Gal’perin I. P. (1987), Văn bản với tư cách đối tượng nghiên cứu ngôn
ngữ học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
15. Nguyễn Thiện Giáp (1998), Cơ sở ngôn ngữ học, NXB Khoa học xã hội,
Hà Nội.
16. Cao Xuân Hạo (1991), Tiếng Việt : Sơ thảo ngữ pháp chức năng (q. 1),
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
17. Kasevich V.B. (1998), Những yếu tố cơ sở của ngôn ngữ học đại cương,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
18. Nguyễn Lai (1998), Ngôn ngữ và tư duy, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
19. Lưu Vân Lăng (1998), Ngôn ngữ học và tiếng Việt, NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội.
20. Lyons J. (1996), Nhập môn ngôn ngữ học lí thuyết, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
21. Moskalskaja O.I. (1998), Ngữ pháp văn bản, NXB Giáo dục, Hà Nội.
22. Phan Ngọc (2000), Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học, NXB
Trẻ, TP Hồ Chí Minh.
23. Nhiều tác giả (1984), Ngôn ngữ : Khuynh hướng - Lĩnh vực - Khái niệm
(1), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
24. Nhiều tác giả (1986), Ngôn ngữ : Khuynh hướng - Lĩnh vực - Khái niệm
(2), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
108
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao
25. Nunan D. (1997), Dẫn nhập phân tích diễn ngôn, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
26. Hoàng Phê (1989), Lôgic ngôn ngữ học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
27. Hoàng Trọng Phiến (1980), Ngữ pháp tiếng Việt (câu), NXB Đại học và
THCN, Hà Nội.
28. Nguyễn Anh Quế (1988), Hư từ trong tiếng Việt hiện đại, NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội.
29. Saussure F.de (1973), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội.
30. Stepanov Ju. (1977), Những cơ sở của ngôn ngữ học đại cương, NXB
Đại học & THCN, Hà Nội.
31. Đào Thản (1998), Từ ngôn ngữ chung đến ngôn ngữ nghệ thuật, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
32. Nguyễn Kim Thản (1997, tái bản), Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
33. Nguyễn Thị Việt Thanh (1999), Hệ thống liên kết lời nói, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
34. Lý Toàn Thắng (1983), “Về vấn đề ngôn ngữ và tƣ duy”, Ngôn ngữ (2),
tr. 13-19.
35. Lý Toàn Thắng (2002), Mấy vấn đề Việt ngữ học và ngôn ngữ học đại
cương, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
36. Phạm Văn Thấu (2000), Cấu trúc liên kết của cặp thoại, Luận án tiến sĩ
Khoa học Ngữ Văn, Hà Nội.
37. Trần Ngọc Thêm (1999, tái bản), Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
109
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao
38. Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp (1991), “Về khái niệm nòng
cốt câu”, Ngôn ngữ (4), tr. 50-56.
39. Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp (1998), Thành phần câu tiếng
Việt, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
40. Phạm Văn Tình (1999), Ngữ cảnh lâm thời và phép tỉnh lược, Báo cáo
khoa học tại Hội thảo khoa học Việt - Nga, Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội,
11-1999.
41. Phạm Văn Tình (2002), “Im lặng - Một dạng tỉnh lƣợc ngữ dụng”, Ngôn
ngữ (5), tr. 44-49.
42. Phạm Văn Tình (2002), Phép tỉnh lược và ngữ trực thuộc tỉnh lược
trong tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
43. Trung tâm Khoa học xã hội & Nhân văn Quốc gia (2000, tái bản), Ngữ
pháp tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
44. Hoàng Tuệ (2001), Tuyển tập ngôn ngữ học, NXB Đại học Quốc gia TP
Hồ Chí Minh.
45. Hoàng Văn Vân (2002), Ngữ pháp kinh nghiệm của cú tiếng Việt theo
quan điểm chức năng hệ thống, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội..
46. Viện Ngôn ngữ học (Hoàng Phê chủ biên) (2000), Từ điển tiếng Việt,
NXB Đà Nẵng - Trung tâm từ điển học.
47. Nhiều tác giả (1998), Nam Cao về tác giả và tác phẩm, NXB Văn học,
Hà Nội.
48. Nhiều tác giả (2003), Nam Cao nhà văn hiện thực xuất sắc, NXB Văn
hoá- thông tin, Hà Nội.
110
LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao II. TÀI LIỆU TIẾNG ANH
49. Asher R. E. (Ed.)(1994), The Encyclopaedia of Language and
Linguistics (10 vol.), Pergamon Press, Oxford - New York - Seoul -
Tokyo.
50. Austin J. L. (1962), How to do things with Words, Oxford, Claren Press.
51. Grice H. P. (1975), “Logic and convesation”, Syntax and semantics, New
York.
52. Halliday M. A. K. (1998), An Introduction to Functional Gramar,
Arnold, London - New York - Sydney - Aucland.
53. Halliday M. A. K. and Hasan R. (1976), Cohesion in English,
Longman, London.
54. International Encyclopedia of Linguistics, 4 vol. , (1992), Oxford
University Press.
55. Lyons J. (1977), Semantics, Vol. 1, Cambridge University Press, London
- New York - Melbourne.