1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN VĂN TUYẾN CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ KỸ THUẬT HÌNH SỰ CÔNG AN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
2
HÀ NỘI – NĂM 2018
3
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN VĂN TUYẾN
CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ KỸ THUẬT HÌNH SỰ CÔNG AN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ CÔNG
MÃ SỐ: 8.34.04.03
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. HOÀNG MAI
4
HÀ NỘI – NĂM 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoàn công trình nghiên cứu khoa học với đề tài: “Chất lượng cán bộ kỹ thuật
hình sự Công an thành phố Hà Nội” là riêng của bản thân tôi. Các số liệu và trích dẫn
trong Luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
Luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào
khác.
Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu của Luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ
công trình nghiên cứu nào khác. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày tháng 11 năm 2018
Tác giả luận văn
Nguyễn Văn Tuyến
5
LỜI CẢM ƠN
Được sự quan tâm của Đảng ủy, Ban Giám đốc Công an thành phố Hà
Nội, Ban Giám đốc Học viện Hành chính Quốc gia, tôi được tham gia học lớp
“Cao học khóa 21, chuyên ngành Quản lý công”. Trong thời gian học tập tôi
đã được tiếp thu được nhiều kiến thức quan trọng và hữu ích về công tác
quản lý Nhà nước và Kỹ năng lãnh đạo…để từ đó vận dụng vào thực tiễn
công tác.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Học viện Hành chính Quốc
gia đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên
cứu.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô PGS.TS. Hoàng Mai, người
đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi
trong quá trình thực hiện luận văn “Chất lượng cán bộ Kỹ thuật hình sự
Công an thành phố Hà Nội”.
6
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô trong hội đồng khoa học đã đóng
góp những ý kiến có ý nghĩa rất quan trọng để tôi có thể hoàn thiện luận văn
này.
Trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu thực tế, tôi xin chân thành cảm
ơn các đồng chí lãnh đạo và cán bộ của Công an thành phố Hà Nội đã nhiệt
tình giúp đỡ, tạo điều kiện và cung cấp các số liệu để tôi có thể hoàn thiện
luận văn.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn các thầy, cô của khoa Sau Đại học và
Trường Học viện Hành chính Quốc gia đã tạo điều kiện thuận lợi trong suốt
quá trình tôi tham gia học tập và nghiên cứu tại Học viện.
Xin kính chúc các thầy cô giáo Học viện Hành chính Quốc gia; các
đồng chí trong Đảng ủy – Ban Giám đốc Công an thành phố Hà Nội sức khỏe,
hạnh phúc và thành công !
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, tháng 11 năm 2018
Học viên: Nguyễn Văn Tuyến
7
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 3
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 7
7. Kết cấu luận văn 8
9
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ KỸ THUẬT HÌNH SỰ
1.1. Cán bộ kỹ thuật hình sự 9
1.1.1. Khái niệm 9
1.1.2. Phân loại cán bộ kỹ thuật hình sự 11
1.1.3. Vị trí, vai trò, chức trách, nhiệm vụ của cán bộ kỹ thuật hình sự 12
1.2. Chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự 15
1.2.1. Khái niệm 15
1.2.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự 16
1.2.2.1. Trình độ 17
1.2.2.2. Kỹ năng nghề nghiệp 18
19
1.2.2.3. Phẩm chất chính trị, đạo đức, tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật
8
1.2.2.4. Thể lực 21
1.2.2.5. Kết quả công tác 21
1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự 22
1.2.3.1. Yếu tố khách quan 22
1.2.3.2. Yếu tố chủ quan 23
25
1.3. Kinh nghiệm của một số địa phương về nâng cao chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự
1.3.1. Công an tỉnh Vĩnh Phúc 25
1.3.2. Công an tỉnh Quảng Ninh 26
1.3.3. Bài học kinh nghiệm đối với Công an thành phố Hà Nội 28
TIỂU KẾT CHƯƠNG I 30
31
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ KỸ THUẬT HÌNH SỰ CÔNG AN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
30
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và lực lượng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội
2.1.1. Điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội 30
2.1.2. Lực lượng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội 34
41
2.2. Phân tích thực trạng chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội
2.2.1. Về trình độ 41
2.2.2. Kỹ năng nghề nghiệp 47
51
2.2.3. Phẩm chất chính trị, đạo đức, tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật
9
2.2.4. Về thể lực 54
2.2.5. Kết quả công tác 61
67
2.3. Đánh giá chung về chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội
2.3.1. Ưu điểm 65
2.3.2. Hạn chế 69
2.3.3. Nguyên nhân hạn chế 72
TIỂU KẾT CHƯƠNG II 76
77
CHƯƠNG III: QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ KỸ THUẬT HÌNH SỰ CÔNG AN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
77
3.1. Xu hướng phát triển của kỹ thuật hình sự và những vấn đề đặt ra cho công tác nâng cao chất lượng cán bộ
3.2. Quan điểm, mục tiêu 79
3.2.1. Quan điểm 79
3.2.2. Mục tiêu 80
83
3.3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội
3.3.1. Giải pháp chung 83
3.3.2. Giải pháp cụ thể 85
3.4. Kiến nghị 100
TIỂU KẾT CHƯƠNG III 104
KẾT LUẬN 105
10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 107
11
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Sơ đồ 2.1: Hệ thống tổ chức bộ máy của Công an thành phố Hà Nội 37
Bảng 2.1: Số lượng cán bộ kỹ thuật hình sự theo chức danh 38
40
Bảng 2.2: Cơ cấu độ tuổi và giới tính của cán bộ kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội
42
Bảng 2.3: Trình độ chuyên môn cán bộ kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội
44
Bảng 2.4: Trình độ lý luận chính trị cán bộ kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội
46
Bảng 2.5: Trình độ ngoại ngữ, tin học cán bộ kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội
48
Bảng 2.6: Đánh giá kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội
Biểu đồ 2.1: Kỹ năng sử dụng máy tính, công nghệ thông tin 49
50
Biểu đồ 2.2: Kỹ năng nghiên cứu, ứng dung khoa học, công nghệ phục vụ công tác
55
Bảng 2.7: Chiều cao, cân nặng cán bộ kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội
57
Bảng 2.8: Tiêu chuẩn rèn luyện thể lực đối với cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân
58
Bảng 2.9: Kết quả rèn luyện thể lực của cán bộ kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội từ năm 2013 - 2017
60
Bảng 2.10: Phân loại sức khoẻ của cán bộ kỹ thuật hình sự Công an thành phố năm 2017
12
64
Biểu đồ 2.3: Kết quả nhận xét, đánh giá cán bộ kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội giai đoạn 2013 - 2017
66
Bảng 2.11: Kết quả bình xét thi đua đối với cán bộ kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội giai đoạn 2013 - 2017
13
LỜI MỞ ĐẦU
Khi bàn về vai trò của cán bộ trong sự nghiệp cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn đặt cán bộ trong sự tổng hòa các mối quan hệ. Trước hết, Người coi "cán bộ là cái gốc
của mọi công việc"[26, tr.269]. Theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, “cũng như
sông thì phải có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không
có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy
cũng không lãnh đạo được nhân dân”[26, tr.252-253]. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
X của Đảng đã đề ra mục tiêu chung của công tác cán bộ là: “Xây dựng đội ngũ cán bộ có
bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống lành mạnh, không quan liêu, tham
nhũng, lãng phí; tư duy đổi mới, sáng tạo, có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng
yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; có tinh thần đoàn kết, hợp
tác, ý thức tổ chức kỷ luật cao và phong cách làm việc khoa học, tôn trọng tập thể gắn bó
với nhân dân, dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm. Đội ngũ cán bộ phải đồng bộ, có
tính kế thừa và phát triển, có số lượng và cơ cấu hợp lý” [22, tr.292-293].
Cán bộ, chiến sỹ lực lượng kỹ thuật hình sự (KTHS) Công an nhân dân (CAND)
luôn giữ vai trò là lực lượng nòng cốt, xung kích trên mặt trận đảm bảo an ninh quốc gia,
giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Cán bộ lực lượng KTHS Công an thành phố (CATP) Hà Nội
là một bộ phận của lực lượng KTHS Công an nhân dân Việt Nam, đã được hình thành
ngay từ những ngày đầu của cuộc Cách mạng Tháng Tám vĩ đại, nhưng thực sự trở thành
một lực lượng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, để từng bước tiến lên chính quy,
hiện đại kể từ ngày 23/8/1957.
Trên suốt chặng đường hơn nửa thế kỷ qua, lực lượng KTHS Công an thành phố
Hà Nội đã kề vai sát cánh, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng Công an khác vượt qua
muôn vàn thử thách, khó khăn, đoàn kết, tích cực phấn đấu và lập được nhiều chiến công
xuất sắc trên mặt trận đấu tranh phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội, góp phần xứng
đáng vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, xây dựng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, đảm bảo an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn Hà Nội.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đạt được lực lượng KTHS Công an thành
phố Hà Nội còn có những mặt tồn tại: Năng lực trình độ chính trị, nghiệp vụ, pháp luật, tin
1. Lý do chọn đề tài
học, ngoại ngữ, khoa học công nghệ còn có những hạn chế nhất định. Cán bộ làm công tác
KTHS ở cấp quận, huyện, thị xã trình độ không đồng đều, số cán bộ được đào tạo chuyên
khoa KTHS ít. Khả năng thu lượm, bảo quản dấu vết gửi giám định của các tổ KTHS yếu.
Hầu hết các tổ KTHS tại Công an các quận, huyện, thị xã chưa đáp ứng được công tác
giám định sơ bộ về dấu vết đường vân, tài liệu và công tác kỹ thuật phòng chống tội phạm.
Chế độ chính sách đối với cán bộ KTHS còn thấp, chưa thực sự động viên nên nhiều cán
bộ có tư tưởng chuyển sang lĩnh vực công tác khác. Điều đó càng bộc lộ rõ trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, chương trình cải cách
hành chính quốc gia, xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của Thủ đô Hà Nội.
14
Trong điều kiện đẩy mạnh cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, việc đổi mới và
hoàn thiện các tổ chức bổ trợ tư pháp nói chung và giám định tư pháp nói
riêng là một trong những nội dung quan trọng được đề cập trong nhiều Nghị
quyết của Đảng (Nghị quyết Trung ương 8 Khoá VII, Nghị quyết Trung ương
3 và Nghị quyết Trung ương 7 khoá VIII, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ
IX). Đặc biệt, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ: "Hoàn thiện
chế định giám định tư pháp. Nhà nước cần đầu tư cho một số lĩnh vực giám
định để đáp ứng yêu cầu thường xuyên của hoạt động tố tụng. Thực hiện xã
hội hoá đối với các lĩnh vực có nhu cầu giám định không lớn, không thường
xuyên. Quy định chặt chẽ, rõ ràng về trình tự, thủ tục, thời hạn trưng cầu và
thực hiện giám định. Ban hành quy chuẩn giám định phù hợp với từng lĩnh
vực giám định. Xác định rõ cơ chế đánh giá kết luận giám định, bảo đảm
đúng đắn, khách quan để làm căn cứ giải quyết vụ việc"[1, tr.6].
Cán bộ giám định viên tư pháp của CATP tuy đã được kiện toàn và bổ
sung hằng năm nhưng vẫn còn thiếu và cần nâng cao chất lượng thì mới có
thể đáp ứng được yêu cầu giám định ngày một gia tăng và phức tạp.
Công an thành phố Hà Nội là lực lượng nòng cốt, xung kích trên mặt
trận đảm bảo an ninh trật tự (ANTT) trên địa bàn Thủ đô. Tình hình các loại
15
tội phạm nói chung và tội phạm hình sự nói riêng ngày càng diễn biến phức
tạp, trong khi đó tội phạm gây án ngày chuyên nghiệp, luôn cố ý xóa dấu vết,
hoặc tạo hiện trường giả gây khó khăn cho công tác điều tra. Trong khi đó lực
lượng KTHS có nhiệm vụ điều tra tại hiện trường, thu giữ dấu vết, vật chứng,
tài liệu và các thông tin khác tại hiện trường. Do đó việc đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao năng lực cán bộ KTHS Công an thành phố Hà Nội là yêu cầu cấp
bách hiện nay.
Bên cạnh đó trong thời kỳ khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin phát
triển mạnh như hiện nay, nhất là cuộc Cách mạng 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ,
việc nâng cao chất lượng cán bộ KTHS là yêu cầu cấp thiết.
Từ thực tiễn đó và nhận thức được tầm quan trọng của việc nâng cao
chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Chất lượng
cán bộ kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề chất lượng cán bộ nói chung và cán bộ KTHS nói riêng đã được
một số nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Nhiều công trình khoa học, sách
chuyên khảo và các Hội thảo được tổ chức để nghiên cứu về vấn đề chất
lượng đội ngũ cán bộ. Có thể liệt kê một số công trình có liên quan như sau:
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước KHXH 05-03 “Luận chứng
khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (GS.TS. Nguyễn Phú Trọng
làm chủ nhiệm đề tài) đã đúc kết và đưa ra những quan điểm, định hướng
trong việc sử dụng các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
nói chung và trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế xã hội.
Nghiên cứu “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước’’ (2001) của
tác giả Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm là công trình nghiên cứu lớn, xác
định rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của chủ trương xây dựng đội ngũ cán bộ của
16
Đảng ta trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt là những yêu cầu, đòi hỏi cụ thể về
tiêu chuẩn cán bộ trong hệ thống chính trị các cấp. Theo các tác giả, việc xác
định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ phải xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và thế
giới; phải căn cứ vào đường lối cán bộ của Đảng được kiểm nghiệm trong
cuộc sống; khai thác những nhân tố hợp lý về tiêu chuẩn quan chức trong các
vương triều phong kiến và chú ý đến đặc trưng của con người Việt Nam
truyền thống, đồng thời tham khảo kinh nghiệm và thành tựu khoa học quản
lý của các nước.
Đề tài khoa học cấp Bộ Công an: “Những giải pháp nâng cao hiệu quả
công tác KTHS Công an cấp huyện’’ (2007) của tác giả Thượng tá,TS. Trần
Văn Luyện, Viện Khoa học hình sự Bộ Công an là công trình nghiên cứu
đánh giá thực trạng tình hình công tác KTHS và chất lượng đội ngũ cán bộ
KTHS cấp huyện. Tác giả đã đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
công tác và chất lượng đội ngũ cán bộ KTHS cấp huyện.
Luận án tiến sỹ: “Xây dựng lực lượng Công an nhân dân Việt Nam hiện
nay về chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh” (2017) của tác giả Lê Trung
Kiên là công trình nghiên cứu số vấn đề lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng lực lượng CAND về chính trị. Luận án khảo sát, đánh giá công tác
xây dựng lực lượng CAND hiện nay về chính trị tiếp cận từ tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Ngoài ra, còn một số bài viết đăng tải trên các tạp chí khoa học như:
Tạp chí CAND, tạp chí Cảnh sát nhân dân, Thông tin KTHS và nhiều công
trình, luận án, luận văn khác có đề cập ít nhiều đến vấn đề này.
Có thể khẳng định, những công trình khoa học kể trên đã cung cấp
nhiều tư liệu quý báu về cơ sở lý luận, về kiến thức, kinh nghiệm xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước nói chung và cán bộ lực lượng CAND
nói riêng để tác giả tham khảo trong quá trình nghiên cứu đề tài của mình.
Tại Công an thành phố Hà Nội, có một số đề tài nghiên cứu thuộc lĩnh
17
vực: Đấu tranh phòng chống tội phạm, quản lý nhà nước về an ninh trật tự…
Tuy nhiên, cho đến thời điểm này, chưa có một công trình nghiên cứu nào
nghiên cứu toàn diện về vấn đề chất lượng cán bộ KTHS cũng như tiếp cận từ
góc độ khoa học về quản trị nhân lực. Do vậy, cần có một đề tài nghiên cứu
về nâng cao chất lượng cán bộ KTHS. Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu
việc nâng cao chất lượng cán bộ KTHS, hứa hẹn khả năng áp dụng cụ thể,
hiệu quả cho CATP trong việc nâng cao chất lượng cán bộ KTHS.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng chất lượng cán bộ KTHS Công an thành phố Hà Nội nhằm đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ KTHS Công an thành phố Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hóa cơ sở lý luận về chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự.
Phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự Công
an thành phố Hà Nội.
Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự
Công an thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự thuộc Công an thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Chất lượng cán bộ làm công tác kỹ thuật hình sự thuộc
Công an thành phố Hà Nội.
- Thời gian nghiên cứu thực trạng chất lượng cán bộ KTHS: Từ năm
2013 đến năm 2017.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
18
5.1. Phương pháp luận
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng lực lượng Công an nhân dân, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, hệ thống các văn bản của nhà nước có liên quan đến lực lượng
Công an nhân dân nói chung và lực lượng KTHS nói riêng. Luận văn kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đã được công bố.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của khoa học
quản lý hành chính nhà nước như:
- Phương pháp thống kê - phân tích - tổng hợp.
Được sử dụng trong việc thu thập số liệu về các chỉ tiêu đánh giá chất
lượng cán bộ KTHS: cơ cấu tuổi, giới tính, trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn, thâm niên công tác, kỹ năng nghề nghiệp, khen thưởng, báo cáo tổng kết các năm. Từ đó, phân tích những mặt đạt được, hạn chế trong việc đảm nhận, thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao của cán bộ kỹ thuật hình sự.
- Nghiên cứu hồ sơ tài liệu, so sánh, quan sát và đánh giá.
Phương pháp so sánh, đánh giá: tác giả so sánh (các chỉ số liên quan đến chất lượng cán bộ lực lượng kỹ thuật hình sự qua các năm để thấy rõ nét sự thay đổi, tính hiệu quả của các cơ chế, chính sách của Bộ Công an và
những nỗ lực của Bộ Công an, CATP trong việc nâng cao chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về lý luận
Luận văn đã góp phần vào hệ thống hóa lý luận về nâng cao chất lượng
cán bộ kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội; hệ thống hóa và xây dựng các tiêu chí đánh giá; làm rõ những đặc điểm của cán bộ kỹ thuật hình sự
Công an thành phố Hà Nội và điều kiện khách quan của việc xây dựng cán bộ kỹ thuật hình sự Công an Thủ đô trong giai đoạn mới.
19
Trên cơ sở những lý luận và hệ thống các tiêu chí đánh giá được xây dựng, luận văn đã đưa ra những phân tích, đánh giá, nhận định một cách khách quan, khoa học về thực trạng chất lượng cán bộ KTHS Công an Thủ đô, rút ra những ưu điểm và hạn chế.
Luận văn đã làm rõ và đưa ra quan điểm về công tác tuyển dụng, bố trí,
sử dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, kiểm tra, hướng dẫn và những giải pháp, kiến nghị đối với cấp trên nhằm nâng cao chất lượng cán bộ
kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội, đáp ứng yêu cầu của công tác đảm bảo an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội trên địa bàn Thủ đô, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
6.2. Về thực tiễn
Tổng quát, có chọn lọc cơ sở lý luận và thực tiễn trong quản lý nhà nước về phát triển lực lượng kỹ thuật hình sự để vận dụng vào thực tiễn CATP Hà Nội.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kỹ thuật hình sự.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, tài liệu tham khảo, kết cấu luận
văn gồm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận về chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự
Chương 2: Thực trạng chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự Công an
thành phố Hà Nội.
Chương 3: Quan điểm và một số giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ
kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội.
20
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ KỸ THUẬT HÌNH SỰ
1.1. Cán bộ kỹ thuật hình sự
Dưới góc độ tiếp cận khác nhau có những khái niệm khác nhau về khoa học hình
sự:
- Khoa học hình sự là một ngành khoa học trong hệ thống các khoa học pháp lý, có
nhiệm vụ nghiên cứu về lĩnh vực phát hiện và điều tra tội phạm hình sự.
- Khoa học hình sự, một ngành khoa học trong hệ thống các khoa học pháp lý, có
sự phối hợp của các lĩnh vực khoa học tự nhiên và công nghệ. Khoa học hình sự nghiên
cứu các quá trình, qui luật, hiện tượng, các phương pháp phát hiện, điều tra tội phạm và
những vi phạm pháp luật khác, đặc biệt là truy tìm thủ phạm, xác lập chứng cứ, phòng
ngừa hiện tượng vi phạm pháp luật.
1.1.1. Khái niệm
- Khoa học hình sự, hệ thống tri thức về các quá trình, quy luật, phương pháp phát
hiện, điều tra và khám phá những sự kiện mang tính hình sự, đặc biệt là vấn đề truy tìm thủ
phạm, xác lập chứng cứ phục vụ công tác điều tra, truy tố và xét xử tội phạm"... Nói một
cách khác: khoa học hình sự (hay khoa học điều tra tội phạm) là khoa học nghiên cứu việc
phát hiện, điều tra và phòng ngừa tội phạm, nghiên cứu nguyên nhân, điều kiện phát sinh
những tội phạm cụ thể nhằm tìm ra và phát triển các phương pháp phát hiện tội phạm; nó
là một ngành khoa học pháp lí, có sự phối hợp của các lĩnh vực khoa học tự nhiên và công
nghệ.
- Khoa học hình sự là một ngành khoa học đã được hình thành và phát triển từ thực
tiễn của cuộc đấu tranh và phòng ngừa tội phạm. Các bộ phận cấu thành của Khoa học hình
sự gồm: Lý luận và phương pháp luận chung, kỹ thuật hình sự, chiến thuật hình sự, phương
pháp hình sự đã được hình thành và phát triển từ thực tiễn đấu tranh và phòng ngừa tội
phạm. Các bộ phận ấy có mối liên quan mật thiết, tác động qua lại với nhau và thúc đẩy
cho sự phát triển hoàn thiện của khoa học hình sự.
Theo giáo trình Kỹ thuật hình sự của Học viện Cảnh sát nhân dân: “Kỹ thuật hình
sự là một bộ phận của khoa học hình sự, chuyên nghiên cứu ứng dụng sáng tạo những tri
thức, phương pháp khoa học tự nhiên, kỹ thuật công nghệ vào nghiên cứu các quy luật tự
nhiên, xã hội có liên quan đến sự hình thành và tồn tại của các phản ánh vật chất trong các
vụ việc hình sự, các phương pháp khoa học, các phương tiện kỹ thuật để xây dựng phát
triển và hoàn thiện hệ thống lý luận, phương pháp khoa học và phương tiện kỹ thuật trong
đấu tranh, phòng chống tội phạm [24, tr.7].
Tiền thân của lực lượng KHHS Việt Nam là những cán bộ, chiến sỹ chiếm lĩnh
phòng hồ sơ, bộ phận căn cước của Sở Liêm phóng khi ta giành chính quyền trong cuộc
Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945. Khi Việt Nam Công an vụ được thành lập
(21/02/1946) bộ phận căn cước thuộc Ty Chính trị. Đặc biệt từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh
ký Sắc lệnh thành lập Thứ Bộ Công an (2/1953) thì hệ thống tàng thư căn cước đã được
xây dựng thống nhất từ Trung ương xuống địa phương những vùng do ta làm chủ. Từ đó
đến nay lực lượng KTHS tiếp tục phát triển và là lực lượng độc lập, có cơ cấu tổ chức từ
cấp Bộ Công an đến Công an cấp huyện.
Như vậy có thể khái niệm: Cán bộ kỹ thuật hình sự là những cán bộ thuộc lực
lượng Công an nhân dân có nhiệm vụ tiến hành ứng dụng, sử dụng các biện pháp khoa học
21
kỹ thuật và nghiệp vụ vào hoạt động khám nghiệm hiện trường, giám định kỹ thuật hình sự,
pháp y và kỹ thuật phòng chống tội phạm theo quy định của pháp luật để phát hiện, thu
thập, bảo quản, nghiên cứu giám định dấu vết hình sự, xác lập chứng cứ, xác định nguyên
nhân, điều kiện xảy ra vụ việc, phục vụ công tác điều tra, xét xử và phòng ngừa tội phạm.
22
1.1.2. Phân loại cán bộ kỹ thuật hình sự
Cán bộ KTHS ở Bộ Công an công tác tại Viện Khoa học hình sự.
Cán bộ KTHS ở Công an cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được tổ chức
02 cấp, gồm cán bộ cấp tỉnh, thành phố (công tác tại Phòng KTHS) và cán bộ cấp huyện
(công tác tại Đội KTHS hoặc Tổ KTHS thuộc Đội điều tra tổng hợp).
Đối với cấp phòng, theo vị trí công tác được phân công, cán bộ có các chức danh
tương ứng như sau: chuyên viên, giám định viên, trợ lý giám định, kỹ thuật viên, trợ lý.
Đối với cấp huyện theo vị trí công tác có các chức danh sau: cán bộ điều tra, kỹ
thuật viên, cán bộ.
- Trợ lý: Là sỹ quan CAND làm công tác tham mưu, tổng hợp, xây dựng lực lượng,
hậu cần, kỹ thuật, tài chính, pháp chế, có trách nhiệm giúp lãnh đạo, chỉ huy Phòng KTHS
thực hiện công việc chuyên môn, nghiệp vụ được giao, có thời gian công tác 1 năm trở lên.
- Chuyên viên: Là sỹ quan CAND làm công tác tham mưu, tổng hợp, xây dựng lực
lượng, hậu cần, kỹ thuật, tài chính, pháp chế, có trách nhiệm giúp lãnh đạo, chỉ huy Phòng
KTHS thực hiện công việc chuyên môn, nghiệp vụ được giao, có thời gian làm trợ lý 8
năm trở lên.
- Giám định viên tư pháp: Là sỹ quan CAND sử dụng kiến thức, phương tiện,
phương pháp khoa học, kỹ thuật nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có
liên quan đến hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, giải quyết vụ việc
dân sự, vụ án hành chính theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định theo quy định của Luật giám định tư
pháp.
- Trợ lý giám định: Là sỹ quan, hạ sỹ quan được giám định viên tư pháp giao nhiệm
vụ tiến hành các bước thực hiện giám định theo quy trình giám định hoặc do Thủ trưởng tổ
chức được trưng cầu giám định phân công tham gia thực hiện công tác giám định và giúp
giám định viên hoàn thành bản dự thảo kết luận giám định.
- Kỹ thuật viên: Là sỹ quan, hạ sỹ quan CAND thực hiện các biện pháp nghiệp vụ
khám nghiệm hiện trường, kỹ thuật phòng chống tội phạm theo yêu cầu của Cơ quan điều
tra và đơn vị nghiệp vụ trong CAND.
- Cán bộ điều tra: Là sỹ quan, hạ sỹ quan CAND được giao nhiệm vụ giúp điều tra
viên tiến hành một số hoạt động điều tra được quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự, được
Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra phân công tham gia thực hiện.
23
1.1.3. Vị trí, vai trò, chức trách, nhiệm vụ của cán bộ kỹ thuật hình sự
Vị trí của cán bộ KTHS được thể hiện trên tất cả các mặt của cuộc đấu tranh phòng,
chống tội phạm như:
- Đối với quá trình phát hiện, điều tra tội phạm cán bộ KTHS sử dụng những
phương pháp khoa học, phương tiện kỹ thuật vào quá trình phát hiện, sao chép, thu thập
các chứng cứ để làm rõ các tình tiết, diễn biến của sự việc mang tính hình sự đã xảy ra
nhằm xác định có tội phạm hay không; nguyên nhân, điều kiện; hậu quả, tác hại và xác
định thủ phạm...
- Đối với hoạt động phòng ngừa: Cán bộ KTHS trên cơ sở thực hiện biện pháp
khoa học kỹ thuật để phát hiện những phương thức, thủ đoạn phạm tội; nguyên nhân, điều
kiện xảy ra, đồng thời phát hiện những sơ hở thiếu sót trong công tác phòng ngừa tội phạm,
đề chủ động đề ra các biện pháp phòng ngừa ngăn chặn tội phạm một cách có hiệu quả.
- Đối với hoạt động xét xử: Cán bộ KTHS sử dụng các phương pháp khoa học, các
phương tiện kỹ thuật để củng cố chứng cứ thông qua quá trình đánh giá, giám định kỹ
thuật hình sự... chứng minh tội phạm.
1.1.3.2. Vai trò
Vai trò của cán bộ KTHS được thể hiện trên các phương diện:
- Đối với quá trình phát hiện, điều tra và khám phá tội phạm: Cán bộ KTHS trực
tiếp nghiên cứu, thu thập các dấu vết, vật chứng, tài liệu, chứng cứ để làm rõ các tình tiết,
1.1.3.1. Vị trí
diễn biến của sự việc đã xảy ra; xác định sự việc xảy ra có hành vi phạm tội hay không;
xác định nguyên nhân, điều kiện, phương thức thủ đoạn; công cụ, phương tiện gây án; hậu
quả, tác hại và xác định thủ phạm của vụ án, góp phần điều tra khám phá một cách toàn
diện, có cơ sở khoa học đối với vụ, việc hình sự đã xảy ra.
- Đối với các hoạt động xét xử: Cán bộ KTHS thu thập củng cố chứng cứ (phát
hiện, thu thập, đánh giá, giám định...) để chứng minh một cách khoa học về vụ tội phạm,
kẻ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ... nhằm xét xử đúng người, đúng tội, không
để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
- Đối với hoạt động phòng ngừa tội phạm: Cán bộ KTHS trực tiếp phát hiện những
phương thức, thủ đoạn phạm tội mới; các nguyên nhân, điều kiện xảy ra các vụ, việc gây
hậu quả nghiêm trọng; các hành vi vi phạm pháp luật; những sơ hở thiếu sót trong công tác
đấu tranh, phòng chống tội phạm... để chủ động đề ra các biện pháp điều tra cho phù hợp,
các biện pháp phòng ngừa ngăn chặn tội phạm và các vụ việc hình sự khác có hiệu quả
hơn.
1.1.3.3. Chức trách
- Tham mưu cho các cấp ủy Đảng, chính quyền và Công an các cấp về công tác
KTHS của lực lượng Công an nhân dân trong toàn quốc.
- Hướng dẫn việc thực hiện công tác KTHS trong thực tiễn.
- Tiến hành kiểm tra, giám sát hoạt động KTHS các cấp tuân thủ quy định của pháp
luật.
- Trực tiếp tham gia và tổ chức hoạt động nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa
học vào công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
1.1.3.4. Nhiệm vụ
Nhiệm vụ của cán bộ KTHS trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và
những công việc khác có liên quan đến công tác bảo vệ trật tự an toàn xã hội, bao gồm:
- Tổ chức chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn cấp dưới và trực tiếp tiến hành công tác
nghiệp vụ chuyên môn theo sự phân cấp về: Khám nghiệm hiện trường và pháp y, giám
định KTHS và kỹ thuật phòng chống tội phạm.
24
- Kiểm tra, hướng dẫn cơ quan quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong hoạt động điều tra theo tố tụng
về nghiệp vụ KTHS trong tổ chức hoạt động khám nghiệm hiện trường, giám định KTHS
và kỹ thuật phòng chống tội phạm.
- Thông qua hoạt động chuyên môn nghiệp vụ, cán bộ KTHS phát hiện nguyên
nhân, điều kiện làm nảy sinh tội phạm để đề xuất, kiến nghị với các ngành chủ quản, cơ
quan Nhà nước, tổ chức xã hội có kế hoạch chấn chỉnh kịp thời để phòng ngừa, đấu tranh
đạt hiệu quả cao.
- Tổ chức sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm công tác kỹ thuật hình sự để đề xuất các
chế độ, quy trình công tác; cải tiến chế độ làm việc nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của
lực lượng kỹ thuật hình sự. Đề xuất nội dung chương trình, biên soạn giáo trình, bài giảng
tập huấn nghiệp vụ cho lực lượng kỹ thuật hình sự.
- Thực hiện kế hoạch hợp tác quốc tế về công tác đấu tranh chống tội phạm của lực
lượng KTHS theo quy định của ngành.
- Phối hợp với các đơn vị chức năng nghiên cứu, đề xuất bổ nhiệm, miễn nhiệm các
chức danh Trợ lý giám định, Giám định viên tư pháp về KTHS thuộc lực lượng KTHS.
- Quản lý tổ chức cán bộ và thực hiện các nhiệm vụ khác khi cấp có thẩm quyền
phân công.
- Đào tạo đội ngũ cán bộ KTHS có trình độ cao và năng lực công tác tốt, đủ điều
kiện đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm.
25
1.2. Chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự
1.2.1. Khái niệm
Theo từ điển Tiếng Việt, chất lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị một con
người, một sự vật, sự việc [32, tr.144].
Chất lượng là đặc tính khách quan của sự vật. Chất lượng biểu thị ra bên ngoài các
thuộc tính, các tính chất vốn có của sự vật. Quan niệm chung nhất về “chất lượng” là cái
tạo nên phẩm chất, giá trị của một người, một sự vật, sự việc. Nói đến chất lượng là nói tới
hai vấn đề cơ bản:
Thứ nhất, đó là tổng hợp những phẩm chất, giá trị, những đặc tính tạo nên cái bản
chất của một con người, một sự vật, sự việc;
Thứ hai, những phẩm chất, những đặc tính, những giá trị đó đáp ứng đến đâu những
yêu cầu đã được xác định về con người, sự vật, sự việc đó ở một thời gian và không gian
xác định. Tuy nhiên, những điều này có tính ổn định tương đối, thay đổi do tác động của
những điều kiện chủ quan và khách quan.
Vì thế, nói đến chất lượng của một con người là nói đến mức độ đạt được của một
người ở một thời gian và không gian được xác định cụ thể, đó là các mức độ tốt hay xấu,
cao hay thấp, ngang tầm hay dưới tầm, vượt tầm, đạt hay không đạt yêu cầu đặt ra. Tổng
hợp những phẩm chất, những giá trị, những thuộc tính đặc trưng, bản chất của một con
người và các mặt hoạt động của con người đó, chính là chất lượng con người đó.
Khi phân tích, đánh giá chất lượng của bất kỳ sự vật, hiện tượng, quá trình nào
đang diễn ra trong tự nhiên, xã hội hay trong tư duy phải phân tích, đánh giá chất lượng
của từng yếu tố, từng bộ phận cấu thành sự vật hiện tượng và quá trình ấy trong thống nhất,
biện chứng, trong sự ràng buộc và tác động lẫn nhau giữa chúng; không được tuyệt đối hoá
một yếu tố, bộ phận nào hoặc tách rời giữa các yếu tố, các bộ phận. Quá trình đó đòi hỏi
phải có phương pháp xem xét, đánh giá cụ thể, không thể áp dụng phương pháp duy nhất,
đặc biệt là đối với con người và hoạt động của con người trong xã hội.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã xác định: “Chất lượng của cán bộ
là sự thống nhất giữa phẩm chất chính trị và năng lực công tác, thể hiện ở kết quả hoàn
thành nhiệm vụ” [21, tr.132].
Theo đó, chất lượng cán bộ có tính ổn định tương đối, có thể cao hoặc thấp do tác
động của những điều kiện khách quan và chủ quan, không bất biến, thường xuyên vận
động, biến đổi, phát triển theo yêu cầu, nhiệm vụ; chịu sự tác động mạnh mẽ của thực tiễn
và phụ thuộc vào quá trình bồi dưỡng, rèn luyện, phấn đấu của mỗi người cán bộ. Sinh
thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trong thế giới, cái gì cũng biến hoá. Tư tưởng con
người cũng biến hoá. Vì vậy, cách xem xét cán bộ, quyết không nên chấp nhất, vì nó cũng
phải biến hoá… Một người cán bộ khi trước sai lầm, không phải vì thế mà sai lầm mãi.
Cũng có cán bộ đến nay chưa bị sai lầm nhưng chắc gì sau này không phạm sai lầm? Quá
khứ, hiện tại và tương lai của mọi người không phải luôn giống nhau”[26, tr.278].
26
Cụ thể hơn, có thể khái quát: Chất lượng cán bộ hiện nay là tổng hợp thống nhất
biện chứng những giá trị, những thuộc tính đặc trưng, bản chất của cán bộ về các mặt hoạt
động, quy định và phản ánh mức độ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của cán bộ trong
điều kiện kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập quốc tế.
Từ những đặc điểm trên, có thể khái niệm:
Chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự là tổng hợp thống nhất những phẩm chất, giá
trị những thuộc tính đặc trưng, bản chất của từng cán bộ được thể hiện qua trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp, phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, thể
lực, khả năng hoàn thành chức trách nhiệm vụ của mỗi cán bộ, chiến sỹ lực lượng kỹ thuật
hình sự.
27
1.2.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự
1.2.2.1. Trình độ
* Trình độ văn hoá
Cán bộ KTHS tốt nghiệp trung học phổ thông theo hình thức giáo dục chính quy
hoặc giáo dục thường xuyên.
Riêng đối với học sinh phổ thông, trong các năm học trung học phổ thông hoặc
tương đương đạt học lực trung bình trở lên theo kết luận tại học bạ, không lưu ban từ một
năm trở lên trong các năm học trung học phổ thông và tương đương.
* Trình độ chuyên môn
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ là điều kiện tiên quyết trong thực hiện
các nhiệm vụ và tạo ra sản phẩm công việc. Trình độ là mức độ về sự hiểu
biết, về kỹ năng được xác định hoặc đánh giá theo tiêu chuẩn nhất định nào
đó thể hiện ở văn bằng chứng chỉ mà mỗi cán bộ nhận được thông qua quá trình học tập.
Cán bộ KTHS sẽ được đào tạo chuyên ngành tại các trường CAND (trung cấp, cao
đẳng hoặc đại học) hoặc được tuyển dụng từ các trường ngoài CAND (trung cấp, cao đẳng,
đại học, trên đại học) có chuyên môn thuộc các lĩnh vực KTHS được bồi dưỡng nghiệp vụ
CAND.
* Trình độ lý luận chính trị
Lý luận chính trị ở Việt Nam hiện nay là hệ thống những nguyên lý của chủ ngĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước cùng những tinh hoa tư tưởng chính trị của dân tộc và nhân loại. Nó
phản ánh tính quy luật của các quan hệ kinh tế - chính trị - xã hội, thể hiện lợi ích và thái
độ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đối với việc xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, là công cụ quan trọng cho việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Mỗi cán bộ cán bộ, chiến sỹ CAND nói chung và cán bộ KTHS nói riêng phải thấm
nhuần chủ nghĩa Mác – Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước. Do đó cán bộ, chiến sỹ CAND nói chung và cán bộ
KTHS nói riêng phải thường xuyên học tập, trau dồi kiến thức và nâng cao trình độ lý luận
chính trị thì mới có thể đáp ứng được yêu cầu công tác đảm bảo ANTT. Đây là tiêu chí
quan trọng để đánh giá chất lượng cán bộ KTHS trong giai đoạn hiện nay.
* Trình độ tin học, ngoại ngữ
Biết sử dụng máy tính, soạn thảo văn bản là một trong những kỹ năng tối thiểu mà
mỗi cán bộ KTHS phải có hiện nay. Không chỉ vậy cán bộ KTHS còn phải không ngừng
nâng cao trình độ tin học, ngoại ngữ thì mới có thể tiếp cận được với những kiến thức mới,
các phương tiện nghiệp vụ hiện đại được trang bị. Theo quy định chung của Bộ Công an,
mỗi cán bộ, chiến sỹ CAND nói chung tối thiểu phải có trình độ A tin học và ngoại ngữ.
Đối với chỉ huy cấp càng cao thì đòi hỏi tiêu chuẩn càng cao.
1.2.2.2. Kỹ năng nghề nghiệp
Kỹ năng là khả năng vận dụng những kiến thức thu nhận được trong một lĩnh vực
nào đó vào thực tế, kỹ năng công việc bao giờ cũng gắn với một hoạt động cụ thể ở một
lĩnh vực cụ thể như kỹ năng ra quyết định, kỹ năng phối hợp, kỹ năng soạn thảo văn
bản...Đây là sản phẩm của quá trình tư duy kết hợp với việc tích lũy kinh nghiệm thông
qua đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, công tác. Kỹ năng nghề nghiệp là tiêu chí quan trọng để
đánh giá chất lượng cán bộ khi thực thi nhiệm vụ, cán bộ cần có những kỹ năng nhất định
để thực thi nhiệm vụ. Tuy nhiên, có những kỹ năng cần thiết cho mọi cán bộ CAND và có
những kỹ năng không thể thiếu đối với một cán bộ nhất định phụ thuộc vào tính chất công
việc mà họ đảm nhận. Đối với cán bộ KTHS thì cần phải có những kỹ năng sau:
28
Nắm được kiến thức cơ bản về chuyên môn, nghiệp vụ kỹ thuật hình sự, các
nguyên tắc, biện pháp công tác và kiến thức xã hội có liên quan.
Có khả năng thực hiện thành thạo các nhiệm vụ KTHS như:
- Khám nghiệm hiện trường, giám định KTHS, pháp y và kỹ thuật phòng chống tội
phạm.
- Nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ vào công tác KTHS.
- Nghiên cứu, tham gia soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành
chính thuộc lĩnh vực công việc được giao.
- Theo dõi, thực hiện, nắm bắt tình hình, tham mưu, tổng hợp, sơ kết, tổng kết một
số chuyên đề KTHS.
29
1.2.2.3. Phẩm chất chính trị, đạo đức, tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ
* Phẩm chất chính trị của cán bộ CAND là tổng hợp các đặc tính cá nhân cán bộ về
mặt chính trị, bao gồm các yếu tố cơ bản: nhận thức chính trị, thái độ chính trị và hành vi
chính trị. Cụ thể:
- Nhận thức chính trị của người cán bộ CAND là sự hiểu biết về đường lối, quan
điểm chính trị, về nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng, sự hiểu biết và tin tưởng vào mục
đích, lý tưởng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, vai trò, nhiệm vụ của cán bộ
CAND, hình thành tình cảm, ý chí cách mạng của người cán bộ.
- Thái độ chính trị của cán bộ CAND là những biểu hiện, cử chỉ, lời nói, việc làm
của người cán bộ xuất phát từ nhận thức, suy nghĩ, tình cảm trước những vấn đề chính trị,
tư tưởng và tổ chức của Đảng. Thái độ chính trị phản ánh cách nhìn nhận, suy nghĩ và chi
phối hành động của người cán bộ, bao gồm lòng trung thành, tính vững vàng, kiên định về
lập trường, tư tưởng chính trị. Cán bộ phải là người tuyệt đối trung thành với Tổ quốc,
trung thành với Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thái độ chính trị
của cán bộ đúng hay không đúng; kiên quyết, dứt khoát hay nửa vời, chập chừng, do dự;
nghiêm túc hay không nghiêm túc… có ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện nhiệm vụ
chính trị của người cán bộ.
chức kỷ luật
- Hành vi chính trị của người cán bộ CAND là hành động mang tính chính trị, như
tiên phong, gương mẫu trong công tác, lao động, học tập, sinh hoạt; đi đầu trong thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; tích cực tuyên
truyền, vận động nhân dân; kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực về chính
trị…
* Phẩm chất đạo đức của người cán bộ CAND bao gồm các yếu tố: Ý thức đạo đức,
thái độ đạo đức và hành vi đạo đức.
- Ý thức đạo đức của người cán bộ là quan niệm, sự hiểu biết về đạo đức, các giá trị
đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc, những giá trị, chuẩn mực đạo đức mới (đạo đức
cách mạng).
- Thái độ đạo đức của người cán bộ do ý thức đạo đức quy định, biểu hiện ra bên
ngoài là sự yêu hay ghét, ủng hộ hay phê phán đối với cái: thiện, ác, đẹp, xấu, tiến bộ, lạc
hậu…; là đúng mực, nghiêm túc hay không nghiêm túc với công việc, nghề nghiệp, với
đồng chí, đồng nghiệp, gia đình, bạn bè và quần chúng nhân dân…
- Hành vi đạo đức của người cán bộ là những hành động, lời nói, việc làm liên quan
đến phạm trù đạo đức, có tính nêu gương, giáo dục đạo đức đối với bản thân, gia đình,
đồng chí, đồng nghiệp và nhân dân.
Lối sống của người cán bộ là những hình thức, cung cách sinh hoạt, làm việc,
những hoạt động, cách xử sự đã trở thành ổn định, thành đặc điểm riêng của cá nhân. Lối
sống do nhiều yếu tố quy định như giáo dục, nghề nghiệp, điều kiện kinh tế, sinh hoạt,
hoàn cảnh xã hội, phẩm chất tâm lý-sinh lý và sự rèn luyện của cá nhân… Lối sống gắn
liền và là một biểu hiện đậm nét của đạo đức cá nhân, vì vậy, khi nhận diện và đánh giá
phẩm chất đạo đức của cán bộ nhất thiết phải xem xét lối sống của họ.
Phẩm chất đạo đức, lối sống của người cán bộ quan hệ mật thiết với phẩm chất
chính trị. Phẩm chất chính trị chi phối, quy định phẩm chất đạo đức; phẩm chất đạo đức tác
động tới sự phát triển phẩm chất chính trị. Người cán bộ có giác ngộ chính trị, có niềm tin
sâu sắc vào lý tưởng cộng sản chủ nghĩa sẽ giúp họ có tình yêu thương đồng chí, kính
trọng nhân dân, quan tâm giúp đỡ mọi người, biết hy sinh lợi ích cá nhân cho lợi ích cách
mạng. Những phẩm chất đạo đức tốt đẹp như trung, hiếu, dũng, liêm,… sẽ giúp người cán
bộ củng cố, phát triển các phẩm chất chính trị như sự kiên định lập trường, tư tưởng, tính
30
tiên phong gương mẫu của người cán bộ. Quan hệ biện chứng giữa phẩm chất chính trị và
phẩm chất đạo đức của người cán bộ tạo nên phẩm chất đạo đức cách mạng của người cán
bộ thường được gọi là “phẩm chất” hay mặt “đức” mặt “hồng” của cán bộ. Người cán bộ
phải có phẩm chất đạo đức trong sáng, tiêu biểu cho cuộc đấu tranh chống tham nhũng,
quan liêu, lãng phí và được cán bộ, đảng viên và nhân dân tin cậy.
* Tinh thần trách nhiệm của cán bộ CAND là hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân, sẵn sàng đi bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì khi Tổ quốc, Đảng và nhân
dân cần đến.
* Ý thức tổ chức kỷ luật của cán bộ CAND là việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật;
thực hiện nghiêm túc Điều lệnh CAND; phục tùng sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp trên.
1.2.2.4. Thể lực
Bảo đảm tiêu chuẩn sức khoẻ tuyển chọn cán bộ theo quy định của Bộ Công an; thể
hình, thể trạng cân đối giữa chiều cao và cân nặng, không dị hình, dị dạng, không mắc
bệnh kinh niên, mãn tính; không sử dụng ma tuý và các chất gây nghiện; đạt các tiêu chuẩn
về chiều cao, thị lực.
1.2.2.5. Kết quả công tác
Kết quả công tác của cán bộ hằng năm là một trong những tiêu chí quan trọng đánh
giá chất lượng cán bộ.
Đánh giá kết quả công tác trên các mặt sau: (1) Phẩm chất chính trị: nhận thức tư
tưởng, quan điểm chính trị, việc chấp hành chủ trương, đường lối, quy chế, quy định của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, Nghị quyết, chỉ thị, quy định của Ngành và địa
phương nơi cán bộ cư trú. (2) Đạo đức lối sống: Việc tu dưỡng, rèn luyện theo 6 điều Bác
Hồ dạy CAND; giữ gìn phẩm chất, đạo đức và lối sống lành mạnh; tính trung thực, ý thức
tổ chức kỷ luật, thực hiện chế độ điều lệnh nội vụ CAND; tinh thần tự phê bình và phê
bình; tinh thần học tập nâng cao trình độ, rèn luyện thể chất, nâng cao sức chiến đấu. (3)
Kết quả, mức độ thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao; tinh thần trách nhiệm trong
công tác.
31
1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự
1.2.3.1. Yếu tố khách quan
32
* Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kỹ thuật hình sự:
Các trường CAND đều có khoa KTHS đào tạo cán bộ KTHS, tuy nhiên
chất lượng đào tạo còn có những hạn chế như: thời gian đào tạo lý thuyết
nhiều, thực hành ít, phương tiện phục vụ thực hành còn thiếu. Trong khi đó
nghiệp vụ KTHS đòi hỏi sinh viên được thực hành nhiều thi khi ra trường mới
có thể tiếp cận nhanh chóng với nhiệm vụ được giao. Cụ thể như: kỹ năng
chụp ảnh hình sự, phát hiện, thu lượm, bảo quản dấu vết; kỹ năng nhận định,
đánh giá hiện trường; kỹ năng nghiên cứu giám định chữ viết, chữ ký, giám
định dấu vết đường vân...cần phải được đào tạo cơ bản và thành thạo trong
trường. Tuy nhiên thực tế sinh viên chuyên khoa KTHS tốt nghiệp về đơn vị
công tác vẫn phải đào tạo thêm vì chưa đáp ứng được yêu cầu công tác.
* Chế độ, chính sách đối cán bộ kỹ thuật hình sự:
So với các lực lượng khác như hình sự, điều tra, chế độ, chính sách đãi
ngộ đối với cán bộ KTHS còn nhiều bất cập, thấp hơn các lực lượng khác.
Điều đó dẫn tới cán bộ KTHS có tâm lý muốn chuyển sang lực lượng khác có
* Môi trường làm việc của lực lượng kỹ thuật hình sự:
Với chức năng nhiệm vụ được giao cán bộ KTHS thường xuyên phải làm việc
trong môi trường đặc thù rất vất vả, nguy hiểm, độc hại, ô nhiễm môi trường, căng thẳng,
dễ xảy ra phơi nhiễm lao, HIV (khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, giám định
phải dùng đến hoá chất độc hại, giám định chất ma tuý, giám định sinh học…). Khi xảy ra
vụ án, vụ việc, cán bộ đều phải làm việc không kể ngày, hay đêm với tinh thần hết sức
khẩn trương để nhanh chóng có mặt tổ chức công tác khám nghiệm hiện trường. Có những
vụ án phức tạp như cháy, nổ lớn, chết nhiều người, các vụ trọng án đặc biệt nghiêm trọng
cán bộ KTHS phải trực tiếp tham gia khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi xuyên
đêm, hoặc kéo dài liên tục trong nhiều ngày.
Công tác giám định pháp y đặc thù rất vất vả, độc hại, nguy hiểm, căng thẳng thần
kinh, cán bộ là giám định viên pháp y thường xuyên phải tiếp xúc với tử thi. Có những vụ
án, vụ việc giám định pháp y phải tiến hành khám nghiệm tử thi trong nhiều giờ, có vụ
chế độ, chính sách thuận lợi hơn.
phải khai quật tử thi để có thể đưa ra những đánh giá dấu vết thương tích, nhận định về
nguyên nhân chết kịp thời phục vụ ban chuyên án.
Tính chất công việc của cán bộ KTHS rất thầm lặng nhưng đòi hỏi sự thận trọng, tỉ
mỉ, khách quan, toàn diện. Chính vì vậy một cán bộ giỏi nghiệp vụ phải là những người
tâm huyết với công việc, có tinh thần say mê nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ
vào công tác.
33
- Nhận thức của một số lãnh đạo, chỉ huy và cán bộ lực lượng KTHS:
Đây là yếu tố cơ bản và quyết định nhất tới chất lượng của mỗi cán bộ nói riêng và
cán bộ lực lượng KTHS nói chung, bởi vì nó là yếu tố chủ quan, yếu tố nội tại bên trong
của mỗi con người. Nhận thức đúng là tiền đề, là kim chỉ nam cho những hành động, việc
làm đúng đắn, khoa học và ngược lại. Nếu người cán bộ lãnh đạo, chỉ huy nhận thức được
vai trò, tầm quan trọng của công tác KTHS thì họ sẽ chủ động đề ra chiến lược, biện pháp
xây dựng và phát triển lực lượng KTHS. Khi đó sẽ có những cán bộ KTHS say mê nghiên
cứu, học hỏi nâng cao trình độ nghiệp vụ, trau dồi kỹ năng nghề nghiệp để thực hiện nhiệm
vụ được giao đạt kết quả tốt nhất. Xây dựng được những cán bộ KTHS giỏi có chuyên
môn, kỹ năng làm việc, nhạy bén, sắc sảo trong đánh giá nhận định tính chất vụ án, đặc
điểm đối tượng gây án, phát hiện, thu lượm được những dấu vết, vật chứng có giá trị chứng
minh các tình tiết của vụ án. Cán bộ KTHS là giám định viên giỏi có khả năng kết luận
giám định những vụ việc khó, phức tạp như: giám định dấu vết đường vân; giám định chữ
viết, chữ ký; giám định âm thanh; giám định gen...đảm bảo chính xác, không để xảy ra sai
sót.
Ngược lại, khi cán bộ lãnh đạo, chỉ huy chưa coi trọng công tác KTHS thì họ sẽ
không quan tâm xây dựng lực lượng KTHS, khi đó cán bộ KTHS không được quan tâm
đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ và kỹ năng nghề nghiệp, không được quan
tâm, động viên. Như vậy, cán bộ KTHS sẽ có tâm lý ngại khó khăn vất vả, không tâm
huyết với nghề KTHS, có sự so sánh với các lực lượng khác có môi trường làm việc thuận
lợi hơn, họ sẽ thiếu nghiêm khắc với bản thân, không thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng
phẩm chất chính trị, đạo đức, thể lực và nâng cao trình độ nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp
từ đó làm việc với chất lượng thấp, trung bình chủ nghĩa, chỉ mong muốn được chuyển
sang lực lượng khác.
1.2.3.2. Yếu tố chủ quan
- Trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn nghiệp vụ: Trình độ văn hóa tạo ra khả
năng
tư duy và sáng
tạo cao. Cán bộ chiến sỹ có
trình độ văn hóa
cao sẽ có khả năng tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng những tiến bộ
khoa học kỹ thuật, những văn bản của nhà nước vào công việc, đồng thời
trong quá trình làm việc họ không những vận dụng chính xác mà còn linh
hoạt và sáng tạo để tạo ra hiệu quả làm việc cao nhất. Trình độ văn hóa và
chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ chiến sỹ không chỉ giúp cho họ thực hiện nhiệm vụ
nhanh mà còn góp phần nâng cao chất lượng thực hiện công việc.
- Tình trạng sức khỏe: Trạng thái sức khỏe có ảnh hưởng lớn tới năng
suất lao động. Nếu người có tình trạng sức khỏe không tốt sẽ dẫn đến mất tập
trung trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, ảnh hưởng lớn đến kết quả công tác.
- Tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật: là tất cả những hành vi biểu hiện
của cán bộ chiến sỹ trong quá trình thực thi nhiệm vụ được giao. Nó có ảnh hưởng quyết
định đến kết quả thực hiện nhiệm vụ. Nó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau, cả
khách quan và chủ quan nhưng chủ yếu là: Kỷ luật lao động, tinh thần trách nhiệm, sự gắn
bó với đơn vị.
34
1.3. Kinh nghiệm một số địa phương về nâng cao chất lượng cán bộ kỹ thuật
hình sự
1.3.1. Công an tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc là địa phương tiếp giáp Hà Nội, trong những năm qua lực lượng KTHS
Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã có nhiều đóng góp tích cực trong công tác đảm bảo ANTT trên
địa bàn tỉnh. Trong giai đoạn 2013 – 2017, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh
Phúc luôn giữ vững danh hiệu “Đơn vị Quyết thắng”, năm 2017 đã vinh dự được Bộ Công
an tặng Cờ đơn vị dẫn đầu phong trào thi đua Vì an ninh Tổ quốc cấp cơ sở. Để đạt được
những kết quả như trên, Đảng ủy – Ban Giám đốc CATP tỉnh Vĩnh Phúc đã luôn quan tâm,
chỉ đạo xây dựng lực lượng KTHS vững mạnh. Cụ thể:
Thường vụ Đảng uỷ - Ban Giám đốc Công an tỉnh Vĩnh Phúc xác định, nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu là tập trung chuẩn hoá lực lượng KTHS về phẩm chất chính trị, đạo
đức, trình độ, nghiệp vụ, lý luận chính trị, pháp luật, kỹ năng nghiệp vụ. Trong giai đoạn
2013-2017, Công an tỉnh đã phối hợp với Viện Khoa học hình sự, Bộ Công an mở 5 lớp
bồi dưỡng nghiệp vụ KTHS cho hơn 300 lượt cán bộ, chiến sỹ lực lượng KTHS của Công
an tỉnh. Trong đó chú trọng hướng dẫn cán bộ các kỹ năng thực hành như: chụp ảnh, vẽ sơ
đồ hiện trường, phát hiện, thu lượm, bảo quản dấu vết, kỹ năng nhận định, đánh giá hiện
trường…giúp cán bộ KTHS được trau dồi kiến thức, hoàn thiện kỹ năng nghiệp vụ. Bên
cạnh đó, những cán bộ có khả năng đều được gửi đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ tại Viện
Khoa học hình sự, Bộ Công an để bổ nhiệm giám định viên tư pháp. Nhờ thường xuyên
được đào tạo, bồi dưỡng, cán bộ, chiến sỹ nhanh chóng tiếp thu kiến thức, kinh nghiệm
thực tiễn, kỹ năng nghề nghiệp, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ được giao. Chất lượng cán bộ
được nâng cao, biện pháp nghiệp vụ KTHS đã phát huy tối đa, phục vụ có hiệu quả công
tác đảm bảo ANTT trên địa bàn tỉnh.
Đối cán bộ lãnh đạo, chỉ huy của lực lượng KTHS, 100% cán bộ chủ chốt đạt
chuẩn về trình độ trung cấp lý luận chính trị (lãnh đạo cấp phòng đều có trình độ cao cấp lý
luận chính trị), trình độ chuyên môn từ Đại học trở lên (tăng 33,8% so với đầu nhiệm kỳ).
Năm 2017, Đảng uỷ - Ban Giám đốc Công an tỉnh tiếp tục rà soát, thẩm định, giới thiệu 9
đồng chí tham gia lớp đào tạo nguồn cán bộ chủ chốt cấp ủy. Xác định cán bộ lãnh đạo, chỉ
huy của lực lượng KTHS giữ vai trò quan trọng trong công tác xây dựng lực lượng, Đảng
ủy – Ban Giám đốc Công an tỉnh thường xuyên quan tâm quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng.
100% số chỉ huy được đào tạo kỹ năng lãnh đạo, chỉ huy, điều hành thực hiện nhiệm vụ.
Đảng ủy – Ban Giám đốc Công an tỉnh đã quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở vật chất,
trang bị phương tiện nghiệp vụ hiện đại cho lực lượng KTHS. Đến nay lực lượng KTHS
Công an tỉnh Vĩnh Phúc là một số ít địa phương trong toàn quốc đã triển khai được 10/10
lĩnh vực giám định được Viện Khoa học hình sự, Bộ Công an phân cấp.
35
1.3.2. Công an tỉnh Quảng Ninh
Là một địa phương giáp biên, địa bàn rộng, trong những năm qua, Công an tỉnh
Quảng Ninh luôn làm tốt công tác đảm bảo ANTT trên địa bàn tỉnh. Xác định vị trí, vai trò
quan trọng của cán bộ KTHS, trong những năm qua đã triển khai thực hiện Đề án củng cố,
kiện toàn, nâng cao năng lực và tinh thần trách nhiệm của cán bộ lực lượng KTHS giai
đoạn 2010 – 2015. Trong đó tập trung vào một số giải pháp sau:
Thứ nhất, tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tu dưỡng, rèn luyện,
phẩm chất đạo đức cho cán bộ KTHS. Trong đó tập trung quán triệt các chỉ thị, nghị quyết
của Đảng ủy Công an Trung ương, của Tỉnh ủy và Đảng ủy Công an tỉnh về xây dựng cán
bộ lực lượng vũ trang nhân dân chính quy, từng bước hiện đại. Thường xuyên quan tâm,
lãnh đạo, chỉ đạo các phong trào “Học tập và thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy CAND”, “Đẩy
mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; “Xây dựng
người CAND bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ”.
Thứ hai, tiến hành rà soát, đánh giá thực trạng cán bộ KTHS. Trong đó tập trung rà soát ,
đánh giá về độ tuổi, trình độ nghiệp vụ, chuyên môn kỹ thuật, lý luận chính trị, kỹ năng nghề
nghiệp, thể lực, kết quả thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao. Kết quả đánh giá để xác định
năng lực, sở trường, chất lượng cán bộ. Trên cơ sở đánh giá hiệu quả công tác, kết quả các chỉ
tiêu công tác để củng cố (điều động, luân chuyển hoặc bố trí vào lĩnh vực công tác phù hợp).
Thứ ba, củng cố từng bước nâng cao chất lượng cán bộ KTHS bằng các biện pháp
cụ thể: Bổ nhiệm đủ cơ cấu chỉ huy, xem xét đề xuất điều động đối với các đồng chí chỉ
huy ở các đơn vị nhiều năm chỉ đạt hoàn thành nhiệm vụ, đơn vị có nhiều cán bộ, chiến sỹ
sai phạm phải xử lý kỷ luật.
Thứ tư, xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ KTHS và quy hoạch cán
bộ KTHS là chỉ huy đội, chỉ huy phòng. Mở rộng các loại hình đào tạo, bồi dưỡng để nâng
cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, pháp luật cho cán bộ KTHS như: bồi dưỡng nghiệp vụ
ngắn hạn tại Viện Khoa học hình sự, Bộ Công an, học tập nâng cao trình độ tại các Học
viện, trường CAND… Hằng năm phối hợp với Viện Khoa học hình sự Bộ Công an tổ chức
kiểm tra tay nghề cho cán bộ KTHS là giám định viên tư pháp.
Thứ năm, tăng cường kiểm tra, chấn chỉnh việc chấp hành Điều lệnh CAND, tư thế,
tác phong, tinh thần trách nhiệm và việc thực hiện văn hóa ứng xử trong Công an tỉnh.
Thứ sáu, thực hiện đúng và đầy đủ chế độ chính sách đối với cán bộ KTHS.
Thứ bẩy, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và trang bị phương tiện nghiệp vụ hiện đại
cho lực lượng KTHS đáp ứng yêu cầu công tác. Trong giai đoạn 2010 – 2015, Công an
tỉnh đã đề xuất UBND tỉnh Quảng Ninh hỗ trợ kinh phí xây dựng trụ làm việc và mua sắm
phương tiện hiện đại cho lực lượng KTHS.
36
1.3.3. Bài học kinh nghiệm đối với Công an thành phố Hà Nội
Từ thực tiễn kinh nghiệm nâng cao chất lượng cán bộ lực lượng KTHS tại Công an
tỉnh Vĩnh Phúc và Công an tỉnh Quảng Ninh cho thấy việc nâng cao chất lượng cán bộ
KTHS có ý nghĩa rất quan trọng đối với công tác đảm bảo an ninh chính trị, giữ gìn trật tự
an toàn xã hội trên địa bàn Thủ đô. Qua đó, những bài học kinh nghiệm rút ra đối với
CATP Hà Nội như sau:
Thứ nhất, phải nâng cao nhận thức trong cán bộ lãnh đạo cũng như cán bộ chiến sỹ
về ý nghĩa vị trí, vai trò của công tác KTHS trong điều tra khám phá và xử lý tội phạm.
Trong tiến trình cải cách tư pháp diễn ra mạnh mẽ như hiện nay việc việc thu thập chứng
cứ khách quan khoa học giữ vai trò rất quan trọng để tránh xảy ra oan sai (trọng chứng hơn
trọng cung). Chính vì vậy cần phải thực sự coi trọng công tác KTHS, coi trọng viện nâng
cao chất lượng cán bộ KTHS.
Thứ hai, chú trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, động viên cán bộ, chiến sỹ
yên tâm công tác, bố trí cán bộ được đào tạo chuyên ngành KTHS đúng vị trí; đánh giá
đúng thực trạng chất lượng cán bộ KTHS để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng hiệu quả.
Hằng năm tổ chức kiểm tra tay nghề cán bộ KTHS để có hướng đào tạo bồi dưỡng chuyên
sâu, mỗi lĩnh vực KTHS cần xây dựng cán bộ có trình độ chuyên môn giỏi.
Thứ ba, quan tâm đến công tác quy hoạch, chú trọng bồi dưỡng những cán bộ giỏi
để đưa vào quy hoạch lãnh đạo, chỉ huy. Chọn cử cán bộ trong diện quy hoạch tham gia
các lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước và kỹ năng lãnh đạo, bồi dưỡng nâng cao
trình độ chính trị, nghiệp vụ, pháp luật.
Thứ tư, xây dựng đồng bộ hệ thống giải pháp, từ khâu tuyển dụng, đào tạo tới sử
dụng, đánh giá chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự. Để nâng cao chất lượng cán bộ kỹ thuật
hình sự, cần quan tâm và chú trọng hơn nữa tới hoạt động tuyển dụng, tuyển chọn cán bộ,
xây dựng các tiêu chuẩn tuyển dụng phù hợp với vị trí công tác. Có các chính sách thu hút
cán bộ có năng lực, trình độ cao vào lực lượng nhất là cán bộ có trình độ trên đại học tốt
nghiệp các trường ngoài CAND nhằm nâng cao chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự, là
nguồn cán bộ quy hoạch cho tương lai.
Thứ năm, có chính sách động viên cán bộ KTHS tham gia nghiên cứu, ứng dụng
khoa học công nghệ vào công tác KTHS. Khuyến khích cán bộ đăng ký tham gia nghiên
37
cứu các đề tài khoa học cấp cơ sở và cấp bộ, nhất là những đề tài có tính ứng dụng thực
tiễn cao trong công tác.
Thứ sáu, đổi mới công tác nhận xét, đánh giá cán bộ phải thật sự chính xác, khách
quan. Tổ chức các hội thi kỹ năng nghề nghiệp, pháp luật cho cán bộ chiến sỹ. Phối hợp
với Viện Khoa học hình sự, Bộ Công an tổ chức kiểm tra tay nghề hằng năm cho cán bộ
làm công tác giám định KTHS.
Thứ bẩy, đặc thù môi trường làm việc của lực lượng KTHS là căng thẳng, áp lực, ô
nhiễm, độc hại… Chính vì vậy cần có chế độ chính sách động viên, khen thưởng, tôn vinh
cán bộ phù hợp.
Thứ tám, tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và trang bị phương tiện hiện
đại cho lực lượng KTHS đảm bảo đáp ứng các yêu cầu khám nghiệm hiện trường, giám
định KTHS, pháp y và kỹ thuật phòng chống tội phạm ngày một gia tăng và phức tạp, mở
rộng hợp tác quốc tế.
38
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Tác giả đã tập trung nghiên cứu hệ thống cơ sở lý luận về cán bộ kỹ
thuật hình sự, trong đó, tác giả đã nêu ra các khái niệm, phân loại, những đặc
điểm và vai trò của cán bộ kỹ thuật hình sự. Trên cơ sở hệ thống các tiêu chí
đánh giá chất lượng cán bộ KTHS về trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, về phẩm
chính trị, đạo đức, thể lực, kết quả thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao.
Tác giả đã làm rõ nội dung nâng cao chất lượng cán bộ lực lượng KTHS
Công an thành phố Hà Nội. Bên cạnh đó, tác giả còn nghiên cứu những vấn
đề chung về cán bộ KTHS bao gồm: khái niệm, vị trí, vai trò, chức năng,
nhiệm vụ, tiêu chí đánh giá chất lượng cán bộ KTHS, các yếu tố ảnh hưởng
đến nâng cao chất lượng cán bộ KTHS và kinh nghiệm đối với CATP Hà Nội
Qua tìm hiểu, học viên đã tham khảo kinh nghiệm nâng cao chất lượng cán bộ
KTHS của Công an tỉnh Vĩnh Phúc, Công an tỉnh Quảng Ninh để thấy được tầm quan
trọng của việc nâng cao chất lượng cán bộ KTHS và những kinh nghiệm, những bài học
trong việc nâng cao chất lượng cán bộ KTHS.
thực tế từ hoạt động của hai đơn vị trên. Trước yêu cầu ngày càng cao của công tác đấu
tranh phòng, chống tội phạm, yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp đòi hỏi bản
thân mỗi cán bộ KTHS và các đơn vị trong CATP nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm của
mình nhằm nâng cao chất lượng cán bộ chiến sỹ, hiệu quả làm việc. Đặc biệt đối với cán
bộ KTHS là lực lượng giữ vai trò rất quan trọng công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm
và công tác cải cách tư pháp hiện nay.
39
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ KỸ THUẬT
HÌNH SỰ CÔNG AN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên – kinh tế - xã hội và lực lượng kỹ
thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội
2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Hà Nội hiện nay có vị trí từ 20°53' đến 21°23' vĩ độ Bắc và 105°44' đến 106°02'
kinh độ Đông, tiếp giáp với các tỉnh Thái Nguyên - Vĩnh Phúc ở phía Bắc; Hà Nam - Hòa
Bình ở phía Nam; Bắc Giang- Bắc Ninh- Hưng Yên ở phía Đông và Hòa Bình- Phú Thọ ở
phía Tây.
Thực hiện kết luận Hội nghị Trung ương 6 (khóa X) và Nghị quyết của Quốc hội
khóa XII, kỳ họp thứ 3, số 15/2008/NQ-QH12, ngày 29 tháng 05 năm 2008 và Nghị quyết
này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 8 năm 2008, toàn bộ hệ thống chính trị của thành
phố Hà Nội sau hợp nhất, mở rộng địa giới hành chính Thủ đô bao gồm: Thành phố Hà Nội,
tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh - tỉnh Vĩnh Phúc và bốn xã thuộc huyện Lương Sơn - tỉnh Hòa Bình. Thủ đô Hà Nội sau khi được mở rộng có diện tích tự nhiên 3.329km2, lớn gấp hơn 3
2.1.1. Điều kiện tự nhiên – kinh tế - xã hội
lần trước đây và đứng vào tốp 17 Thủ đô trên thế giới có diện tích rộng nhất; dân số tăng hơn
gấp rưỡi, hơn 6,2 triệu người, hiện nay là hơn 7 triệu người; gồm 30 đơn vị hành chính cấp
quận, huyện, thị xã, 577 xã, phường, thị trấn.
2.1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Là thủ đô của cả nước, Hà Nội luôn duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong
suốt hơn 20 năm qua: tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của Hà Nội giai đoạn 1991 –
2000 đạt 11,6%/năm; giai đoạn 2001 - 2010 là 10,98%/năm; kinh tế - xã hội của thành phố
tiếp tục phát triển. Tổng sản phẩm trên địa bàn bình quân 5 năm 2011-2015 ước tăng
9,23%, gấp 1,58 lần mức tăng bình quân chung của cả nước. Quy mô GRDP năm 2015
theo giá hiện hành ước đạt 27,6 tỷ USD, bình quân thu nhập đầu người khoảng 3.600 USD,
tăng gấp 1,8 lần so với năm 2010. Bình quân trong giai đoạn này, Hà Nội luôn đóng góp
10% GDP cả nước, thu ngân sách chiếm gần 20% cả nước, thể hiện vai trò và vị trí ngày
càng lớn trong nền kinh tế.
Cơ cấu kinh tế của Hà Nội được chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng của
các ngành dịch vụ và công nghiệp. Hà Nội là một trong số ít địa phương có tỷ trọng nhóm
ngành dịch vụ cao hơn nhóm ngành công nghiệp (năm 2011 tỷ trọng của nhóm ngành dịch
vụ trong GDP là 52,53%). Kết quả, kinh tế Hà Nội tính đến năm 2017 tiếp tục duy trì mức
tăng trưởng khá so cùng kỳ năm trước: Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP - theo giá so
sánh) tăng 8,5%; vốn đầu tư phát triển trên địa bàn (giá hiện hành) tăng 10,5%; tổng mức
lưu chuyển hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội tăng 11,3%; kim ngạch xuất
khẩu tăng 10,3%; Khách du lịch đến Hà Nội tăng 10%...
Các chương trình, đề án, kế hoạch về giải quyết việc làm, dạy nghề cho lao động,
nhất là lao động nông thôn, phát triển thị trường lao động được thực hiện có hiệu quả.
Bình quân mỗi năm đào tạo nghề, truyền nghề cho trên 15 vạn lao động và giải quyết việc
làm cho 14 vạn lượt lao động; tỷ lệ thất nghiệp còn dưới 4,8%. Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
y tế tự nguyện trong nhân dân tiếp tục mở rộng và phát triển.
Giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội. Nhiều chương trình, chính sách giảm
nghèo, hỗ trợ người tàn tật, người có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt, v.v... được triển khai
thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả, góp phần ổn định đời sống vật chất, tinh thần của các
đối tượng trên. Tỷ lệ hộ nghèo cuối năm 2015 giảm xuống còn 1,71%.
40
Công tác đấu tranh phòng, chống và đẩy lùi các tệ nạn xã hội được thực hiện quyết
liệt. Mô hình xã, phường, địa bàn dân cư, cơ quan, trường học không có tệ nạn xã hội được
nhân rộng. Chất lượng quản lý, giáo dục, chữa trị tại các trung tâm chữa bệnh và giáo dục
lao động xã hội của Thành phố được nâng cao.
Chất lượng cuộc sống của nhân dân Thủ đô, đặc biệt là khu vực nông thôn, miền
núi, vùng đồng bào dân tộc ít người được cải thiện. Việc hỗ trợ các đối tượng chính sách
xã hội và thực hiện chính sách đối với người có công, chính sách dân tộc được triển khai
thực hiện có hiệu quả. Phong trào “đền ơn, đáp nghĩa” được đẩy mạnh, huy động được
nhiều tổ chức, cá nhân tham gia.
Văn hóa tiếp tục phát triển, một số mặt chuyển biến tích cực; thực hiện tốt các chủ
trương về nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa ở cơ sở; đời sống văn hóa, tinh thần của
các tầng lớp nhân dân Thủ đô được cải thiện rõ rệt. Hệ thống các thiết chế văn hóa được
quan tâm đầu tư, hoàn thiện, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát triển văn hóa của
cộng đồng và bảo tồn bản sắc văn hoá các dân tộc. Công tác quản lý nhà nước về văn hóa
được tăng cường.
Xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh được chú trọng và đạt kết quả đáng
ghi nhận. Nhiều phong trào, hoạt động xây dựng mô hình văn hóa ở cơ sở tiếp tục được
triển khai đạt kết quả tốt; những giá trị, nét đẹp văn hoá của người Hà Nội thanh lịch, văn
minh, truyền thống trong gia đình, họ tộc và cộng đồng dân cư được kế thừa, phát huy.
Nếp sống văn hoá, văn minh đô thị, nhất là trong việc cưới, việc tang, tổ chức lễ hội có
chuyển biến tốt. Xây dựng bộ quy tắc ứng xử văn minh nơi công cộng và đưa vào giảng
dạy bộ tài liệu giáo dục nếp sống thanh lịch, văn minh cho học sinh Thủ đô, v.v... đã góp
phần nâng cao nhận thức, khơi dậy niềm tự hào, điều chỉnh hành vi của người Hà Nội,
nhất là thế hệ trẻ.
2.1.1.3. Thuận lợi và khó khăn đối với công tác đảm bảo An ninh trật tự
Thủ đô Hà Nội là Trung tâm chính trị - kinh tế - văn hoá xã hội của cả nước đã có
bước phát triển, mạnh mẽ. Người dân Hà Nội đã có mức sống khá về vật chất và tinh thần,
trình độ dân trí phát triển trên nhiều lĩnh vực, trong đó có nhận thức về pháp luật. Song
song với sự phát triển tích cực cũng xuất hiện và tồn tại những tiêu cực trong đời sống xã
hội như: Sự phân hoá giàu nghèo, tai, tệ nạn xã hội, tính chất hoạt động của các loại tội
41
phạm về an ninh, kinh tế, hình sự, ma tuý ngày càng tinh vi và xảo quyệt, táo bạo và liều
lĩnh. Sau khi Hà Nội được mở rộng về địa giới hành chính và tăng dân số thì mức độ chênh
lệch về hiểu biết, mức sống, tập tục, thói quen...ở các vùng, các địa phương là rất lớn, vấn
đề quy hoạch, xây dựng phát triển Thủ đô trong thời gian tới...Đây là vấn đề nảy sinh nhiều
yếu tố phức tạp ảnh hưởng đến ANTT. Một số loại tội phạm quốc tế cũng đã xâm nhập vào
Thủ đô. Đặc biệt với trình độ khoa học công nghệ phát triển với tốc độ cao, phương thức
thủ đoạn hoạt động của tội phạm cũng có xu hướng phát triển theo quy luật này.
Nhiệm vụ đảm bảo vững chắc ANCT, TTATXH ở Thủ đô là cực kỳ quan trọng và
hết sức khó khăn phức tạp, đòi hỏi CATP phải sử dụng nhiều biện pháp nghiệp vụ trong đó
có biện pháp KTHS. Thực tế cho thấy, công tác KTHS ngày càng trở thành một biện pháp
khoa học nghiệp vụ quan trọng trong phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm của lực lượng
Công an. Trong công tác điều tra, công tác KTHS đã phát hiện kịp thời chính xác những
phương thức hoạt động của tội phạm, định hướng cho hoạt động điều tra, xác lập được
những căn cứ truy nguyên, truy tìm tội phạm, phục vụ có hiệu quả cho công tác điều tra.
Trong công tác xử lý tội phạm những tài liệu, chứng cứ được xác lập của công tác KTHS
đã thực sự góp phần quan trọng, đảm bảo tính chính xác, khách quan và nghiêm minh.
42
2.1.2. Lực lượng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội
Từ bộ phận Căn cước thuộc Ban Chính trị Sở Liêm phóng Bắc Bộ, Ty Công an Hà
Nội, Hà Đông, Sơn Tây sau những ngày cách mạng tháng Tám thành công, lực lượng
KTHS ban đầu thực hiện nhiệm vụ khai thác tàng thư căn cước, truy tìm tiền án, tiền sự
phục vụ công tác bảo vệ chính quyền, từng bước trở thành những bộ phận nghiệp vụ của
Công an cách mạng. Trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ, lực lượng KTHS Công an
Thủ đô đã bám sát nhiệm vụ chính trị được giao, không ngừng trưởng thành và lớn mạnh,
xây dựng thành các Tổ KTHS (Phòng Trị an dân cảnh), Đội KTHS (Phòng Trinh sát Kỹ
thuật, Cảnh sát hình sự); luôn nỗ lực vượt qua khó khăn, gian khổ, tận tụy, trách nhiệm với
công việc, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, đóng góp tích cực vào thành tích
chung của lực lượng Công an Thủ đô, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đảm bảo an ninh,
trật tự trên địa bàn, phục vụ có hiệu quả sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nước.
2.1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển
Bước vào thời kì đổi mới, mở cửa, hội nhập quốc tế sâu rộng, lực lượng KTHS
Công an Thủ đô không ngừng trưởng thành, lớn mạnh về mọi mặt chính trị tư tưởng, tổ
chức và chuyên môn nghiệp vụ. Ngày 10/7/1981, Phòng KTHS Công an thành phố được
thành lập, là dấu mốc quan trọng của lực lượng KTHS Công an Hà Nội. Đến nay, CATP
Hà Nội đã có đội ngũ cán bộ, chiến sĩ lực lượng KTHS phát triển cả về số lượng và chất
lượng được nâng lên, được bố trí từ CATP đến Công an các quận, huyện, thị xã (gồm
Phòng PC54 với 07 đội công tác; 02 Đội KTHS độc lập, 28 Tổ KTHS thuộc Đội Điều tra
tổng hợp Công an các quận, huyện, thị xã), bước đầu hình thành hệ thống lực lượng KTHS
đến địa bàn cơ sở, tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai các mặt công tác chuyên sâu
có hiệu quả. Với chức năng nhiệm vụ được giao, thông qua các biện pháp nghiệp vụ để kịp
thời phát hiện những âm mưu, phương thức hoạt động, tính chất thủ đoạn của các loại tội
phạm, để tham mưu giúp lãnh đạo các cấp có đối sách phòng ngừa và đấu tranh, lực lượng
KTHS còn trực tiếp tham gia các hoạt động điều tra tội phạm; sử dụng các biện pháp khoa
học để xác lập chứng cứ xử lý tội phạm, sử dụng các phương tiện kỹ thuật để phát hiện và
phòng ngừa tội phạm. Trong thực tế công tác, lực lượng KTHS đã và đang tiến hành hiệu
quả các biện pháp nghiệp vụ: Khám nghiệm hiện trường, giám định tài liệu, giám định
hóa-sinh học và kỹ thuật phòng chống tội phạm và các vi phạm pháp luật trên địa bàn Thủ
đô.
43
2.1.2.2. Hệ thống tổ chức của lực lượng kỹ thuật hình sự Công an
thành phố Hà Nội
Hệ thống tổ chức của CATP Hà Nội gồm có 46 phòng nghiệp vụ an
ninh, cảnh sát, xây dựng lực lượng, hậu cần; Công an 12 quận, 17 huyện, 01
thị xã.
Hệ thống tổ chức của lực lượng KTHS thuộc CATP hiện nay được bố
trí ở 02 cấp: Cấp thành phố và cấp quận, huyện, thị xã.
- Cấp thành phố có Phòng KTHS (phiên hiệu là PC54), với 07 đội
nghiệp vụ, gồm: Đội Tham mưu, Đội khám nghiệm hiện trường, Đội Giám
định KTHS truyền thống, Đội giám định Tài liệu, Đội giám định Hoá học,
Đội Kỹ thuật phòng chống tội phạm.
- Cấp quận, huyện, thị xã có: Đội KTHS Công an quận Đống Đa, Đội
44
KTHS Công an huyện Đông Anh và 28 Tổ KTHS trực thuộc Đội Điều tra
Tổng hợp.
Sơ đồ 2.1: Hệ thống tổ chức bộ máy của Công an thành phố Hà Nội
Ban Giám đốc CATP Hà Nội
Phòng Kỹ thuật hình sự
45 Phòng nghiệp vụ khác
30 Công quận, huyện, thị xã
07 Đội nghiệp vụ
02 Đội Kỹ thuật hình sự
28 Đội Điều tra tổng hợp
45
28 Tổ Kỹ thuật hình sự
46
2.1.2.3. Về số lượng
Căn cứ Quyết định 1726/QĐ-BCA ngày 07/4/2015 của Bộ Công an quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương. Hiện nay Công an thành phố Hà Nội có 76 đầu mối gồm: 46 phòng ban và 30
công an cấp quận, huyện, thị xã. Trong đó Phòng KTHS (phiên hiệu PC54) là một
Thực hiện Quyết định số 994/2008/QĐ-BCA ngày 30/7/2008 của Bộ Công an về Thành
lập Đội (hoặc Tổ Kỹ thuật hình sự) công an cấp huyện, CATP Hà Nội ban hành Quyết định số
2665/QĐ-CAHN(PX13) ngày 27/11/2008 về việc thành lập các Tổ KTHS thuộc Công an các
quận, huyện, thị xã. Tính đến ngày 31/12/2017, Công an thành phố Hà Nội có 02 đội KTHS
thuộc Công an quận Đống Đa, CAH Đông Anh và 28 tổ KTHS thuộc 28 Công an quận, huyện, thị
xã còn lại.
Số lượng cán bộ kỹ thuật hình sự CATP Hà Nội cụ thể như sau:
đơn vị trực thuộc CATP Hà Nội.
Bảng 2.1. Số lượng cán bộ kỹ thuật hình sự theo chức danh
(Đơn vị tính: người)
Số LƯợNG
STT
CHứC DANH TƯ PHÁP
2013
2014
2015
2016
2017
Phòng Kỹ thuật hình sự
23
27
32
32
35
1 Giám định viên
Trợ lý giám định định
37
40
42
41
38
2
Chuyên viên
3
3
3
3
3
3
Trợ lý
8
8
8
8
8
4
30
34
20
17
14
5 Kỹ thuật viên
Tổng
101
101
105
101
98
Công an quận, huyện, thị xã
Cán bộ điều tra
18
21
20
22
24
1
35
37
33
35
37
2 Kỹ thuật viên
Cán bộ
63
67
59
75
79
3
Tổng
116
124
112
132
140
Nguồn: Phòng Kỹ thuật hình sự CATP Hà Nội
Qua bảng trên cho thấy trong giai đoạn 2013 - 2017, số cán bộ chiến sỹ Phòng Phòng
KTHS khá ổn định, mặc dù đến năm 2017 có xu hướng giảm tuy không nhiều.
Như vậy, số lượng cán bộ KTHS của CATP Hà Nội đã được đảm bảo đầy đủ các chức
danh. Hiện tại, thành phố Hà Nội có 12 quận, 17 huyện và 01 thị xã. Với tổng biến chế tính đến
năm 2017, lực lượng KTHS có 238 đồng chí đã đủ đáp ứng yêu cầu thực hiện công tác khám
nghiệm hiện trường, giám định KTHS, pháp y và kỹ thuật phòng chống tội phạm trên địa bàn
thành phố.
Tuy nhiên, đối với chức danh: Cán bộ điều tra (24 đ/c) và Giám định viên (35 đ/c) là còn
thiếu so với yêu cầu thực tiễn. Số lượng cán bộ điều tra phụ trách công tác KTHS tính đến năm
2017 chỉ có 24 đ/c, như vậy số lượng này chưa đảm bảo bình quân mỗi, quận, huyện, thị xã có 01
cán bộ điều tra.
Với lượng vụ việc tiến hành khám nghiệm hiện trường, giám định hằng năm rất lớn
(khoảng trên 5000 vụ khám nghiệm và trên 8.000 vụ giám định) trong khi đó số kỹ thuật viên có
154 đ/c, giám định viên chỉ có 35 đ/c, trợ lý giám định 38 đ/c (tính đến năm 2017), trung bình mỗi
đồng chí phải giám định 230 vụ/năm. Đây là một áp lực rất lớn đối với cán bộ KTHS.
Đối với Công an các quận, huyện, thị xã số cán bộ được bố trí hằng năm có xu hướng tăng
theo chủ trương tăng cường cho Công an cấp huyện của Bộ Công an. Năm 2013 có tổng số 116
đ/c, đến năm 2017 có 140 đ/c (tăng 24 đ/c = 20,68%). Điều này là hoàn toàn phù hợp do số lượng
vụ việc Công an các quận, huyện, thị xã giải quyết tăng hằng năm.
Với cơ cấu như trên, cán bộ KTHS CATP Hà Nội đã tham mưu cho Đảng ủy, Ban Giám
đốc CATP thực hiện tốt các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, Nhà nước, triển khai các Chương trình,
kế hoạch trọng tâm của Bộ Công an, CATP về công tác đảm bảo ANTT trên địa bàn Thủ đô, đảm
bảo thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao.
47
2.1.2.4. Cơ cấu, giới tính và độ tuổi
Bảng 2.2: Cơ cấu giới tính và độ tuổi của cán bộ kỹ thuật hình sự, Công
an thành phố Hà Nội
(Đơn vị tính: người)
Độ tuổi Năm 41 - 50 51 - 60 < 30 tuổi Nữ Nam 30 - 40 tuổi Nữ Nam Nam Nam Nữ
Nữ Phòng Kỹ thuật hình sự
48
43 17 19 6 2 2 12 0 2013
29 14 20 6 5 2 11 0 2014
44 12 21 6 6 3 8 1 2015
45 11 22 7 6 2 7 1 2016
42 11 16 14 5 3 6 1 2017
Công an quận, huyện, thị xã
88 3 15 6 1 3 2013
83 3 27 8 1 3 2014
100 3 8 1 2015
119 3 9 1 2016
120 3 13 3 1 2017
Nguồn: Phòng Tổ chức cán bộ CATP Hà Nội
Qua số liệu tại bảng biểu cho thấy: Năm 2017, số lượng cán bộ KTHS là nam
giới chiếm ưu thế với 211 đồng chí (tỉ lệ 79,60%) trong khi tỷ lệ cán bộ KTHS là nữ
giới là 27 đồng chí (tỉ lệ 20,40 %) và chủ yếu làm một số công tác chuyên môn như:
Văn phòng - thống kê; Tài chính- kế toán; giám định tài liệu, giám định hoá học,
giám định sinh học.
Tỷ lệ nữ cán bộ KTHS năm 2017 giảm so với năm 2013 là 01 đồng chí (5%)
và đã có những cán bộ chủ chốt là nữ, đến năm 2017 có 04 cán bộ giữ chức vụ chỉ
huy đội là nữ (chiếm 19,04% tổng số cán bộ chỉ huy của Phòng Kỹ thuật hình sự).
Đối với cán bộ KTHS cấp quận, huyện, thị xã, tỉ lệ nam giới chiếm ưu thế.
Năm 2017, tỉ lệ nam giới là 95%, tỉ lệ nữ giới là 5%. Chủ yếu làm công tác thống
kê, tổng hợp và lập căn cước can phạm.
Theo quy định của Bộ Công an, tỉ lệ nữ trong biên chế không được vượt quá
10%. Như vậy, tỉ lệ nữ ở Phòng KTHS đã vượt quá quy định của Bộ Công an, tuy
nhiên tỉ lệ nữ ở cấp huyện lại thấp (5%).
Về cơ cấu độ tuổi: Cơ cấu cán bộ KTHS hiện nay của CATP Hà Nội thiếu
đồng bộ và chưa có tỷ lệ hợp lý giữa các độ tuổi. Số lượng cán bộ KTHS trong độ
tuổi dưới 30 tuổi chiếm tỷ lệ cao (từ 40% - 45%), trong khi đó, số lượng cán bộ
KTHS trong độ tuổi từ 41 đến 50 và 50 tuổi đến dưới 60 tuổi chiếm tỷ lệ rất thấp (từ
12% năm 2013 giảm dần còn 6% năm 2017).
Như vậy, độ tuổi trung bình của cán bộ KTHS tương đối trẻ, số lượng cán bộ
49 trẻ còn chiếm tỷ lệ cao, sự phân bổ giữa các nhóm tuổi cũng chưa hợp lý. Đặc thù
công tác KTHS rất cần những cán bộ có kinh nghiệm, tuy nhiên trong giai đoạn
2013 – 2017, số có bộ có kinh nghiệm nghỉ hưu nhiều (theo quy định tại Luật
CAND, nam giới không giữ chức vụ lãnh đạo cấp phòng và tương đương trở lên
tuổi nghỉ hưu là 55 tuổi, nữ giới là 53 tuổi). Trong khi đó, số lượng cán bộ KTHS ở
nhóm tuổi trẻ, có trình độ, được đào tạo bài bản về chuyên môn, nghiệp vụ, tuy
nhiên lại ít kinh nghiệm công tác thực tiễn. Đây là một trong những điều cản trở
công tác tổ chức, bố trí và quy hoạch cán bộ. Đồng thời, trong điều kiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế thế giới, đội ngũ cán bộ trẻ, có
trình độ cao sẽ là lực lượng quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác quản lý và tiếp cận với những phương pháp làm việc mới, hiện đại, hiệu
quả hơn.
2.2. Phân tích thực trạng chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự Công an
thành phố Hà Nội
2.2.1. Về trình độ
2.2.1.1. Trình độ văn hóa
Theo quy định của Bộ Công an, thí sinh tham gia thi tuyển vào các trường
CAND hoặc xét tuyển chiến sỹ nghĩa vụ ngoài tiêu chuẩn sức khỏe thì phải đạt trình
độ văn hóa tốt nghiệp trung học phổ thông (không chấp nhận tốt nghiệp bổ túc văn
hóa). Chính vì vậy 100% cán bộ KTHS của CATP Hà Nội đều có trình độ phổ
thông trung học.
2.2.1.2. Trình độ chuyên môn
Trong những năm qua, cán bộ KTHS tại CATP Hà Nội không ngừng được
nâng cao về trình độ, bằng cấp chuyên môn, thể hiện qua bảng:
Bảng 2.3: Trình độ chuyên môn cán bộ kỹ thuật hình sự Công an thành
phố Hà Nội
(Đơn vị tính: Người)
NĂM
STT
TRÌNH ĐỘ CHUYÊN MÔN
2013
2014
2015
2016
2017
Phòng Kỹ thuật hình sự
Tiến sỹ
1
1
1
1
1
1
Thạc sỹ
1
2
5
6
9
2
77
67
66
63
50 75
3 Đại học
4
4
6
6
6
Cao đẳng
4
19
16
20
21
18
Trung cấp
5
1
1
1
1
1
Sơ cấp
6
Tổng
101
101
100
101
98
Công an quận, huyện, thị xã
Tiến sỹ
1
Thạc sỹ
2
32
41
27
36
53
3 Đại học
Cao đẳng
4
84
83
85
96
87
Trung cấp
5
Sơ cấp
6
Tổng
116
124
112
132
140
Nguồn: Phòng Tổ chức cán bộ CATP Hà Nội
Qua bảng trên cho thấy trình độ cán bộ cấp thành phố (cấp phòng) chủ yếu là
trình độ đại học, chiếm từ 65% đến 70%. Trong đó, số CBCS có trình độ thạc sỹ
tăng dần hằng năm. Năm 2013, Phòng KTHS có 01 tiến sỹ và 01 thạc sỹ, thì đến
năm 2017, Phòng KTHS có 01 tiến sỹ và 9 thạc sỹ. Điều đó cho thấy trình độ
chuyên môn của cán bộ Phòng KTHS được nâng nên. Đơn vị đã có định hướng,
quan tâm, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ là chuyên gia trong các lĩnh vực giám
định. Số cán bộ có trình độ tiến sỹ, thạc sỹ tập trung ở các lĩnh vực: Giám định pháp
y, giám định sinh học, giám định tài liệu, giám định hoá học, tham mưu. Tuy nhiên
số cán bộ có trình độ đại học có xu hướng giảm dần do số cán bộ của Phòng KTHS
đến tuổi nghỉ hưu hằng năm từ 5 đến 6 cán bộ. Một số cán bộ có trình độ đại học
được tăng cường xuống các đội, tổ KTHS theo Quyết định của Giám đốc CATP.
Hằng năm Phòng KTHS được Giám đốc CATP bổ sung biên chế là cán bộ tốt
nghiệp Học viện CSND về đơn vị, tuy nhiên quân số được bổ sung khá ít, trung
bình 2 đến 3 đồng chí/năm. Do vậy xu hướng biên chế có trình độ đại học giảm và
Đối với các Đội, Tổ KTHS Công an các quận, huyện, thị xã, số cán bộ có trình độ đại học
chiếm khoảng 30% đến 45%, tuy nhiên chưa có đồng chí nào có trình độ sau đại học. Số cán bộ
trình độ đại học có xu hướng giảm dần nguyên nhân do xin chuyển sang làm công tác khác. Còn
lại cán bộ chủ yếu có trình độ trung cấp CAND, đa số là các đồng chí trẻ, đang ở độ tuổi dưới 30
nên kinh nghiệm chưa có, còn lúng túng, bị động trong giải quyết công việc.
quân số đơn vị giảm.
2.2.1.3. Trình độ lý luận chính trị
51
Trình độ lý luận chính trị của cán bộ kỹ thuật hình sự CATP Hà Nội không
chỉ được lãnh đạo Phòng Kỹ thuật hình sự, Ban chỉ huy Công an các quận, huyện,
thị xã và Ban Giám đốc CATP quan tâm bồi dưỡng, mà còn là một trong những tiêu
chí quan trọng để đánh giá chất lượng; kết quả học tập chính trị là một trong những
tiêu chuẩn để xem xét đánh giá, sử dụng, thực hiện các chính sách cán bộ khác. Do
vậy, trong giai đoạn 2013- 2017, số lượng cán bộ KTHS Công an thành phố Hà Nội
được bồi dưỡng lý luận chính trị có xu hướng tăng. Kết quả bồi dưỡng lý luận chính
trị cho cán bộ KTHS được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2.4: Trình độ lý luận chính trị cán bộ kỹ thuật hình sự Công an
thành phố Hà Nội
(Đơn vị tính: Người)
TRÌNH ĐỘ LÝ LUậN
NĂM
STT
CHÍNH TRị
2013
2014
2015
2016
2017
Phòng Kỹ thuật hình sự
Cử nhân
1
0
0
0
1
1
Cao cấp
2
4
4
4
3
2
Trung cấp
3
35
45
50
59
52
Sơ cấp
4
61
51
45
34
45
Chưa qua đào tạo
5
1
1
1
1
1
Tổng
101
101
100
101
98
Công an quận, huyện, thị xã
Cử nhân
1
0
0
0
0
0
Cao cấp
2
0
0
0
0
0
Trung cấp
3
24
29
27
47
32
Sơ cấp
4
92
95
85
93
100
Chưa qua đào tạo
5
0
0
0
0
0
132
Tổng
116
124
112
140
Nguồn: Phòng Tổ chức cán bộ CATP Hà Nội
Qua bảng trên cho thấy trình độ lý luận chính trị của cán bộ KTHS ở cấp phòng và cấp quận, huyện, thị xã tăng hằng năm. Đối với Phòng KTHS năm 2013,
tỉ lệ cán bộ có trình độ trung cấp lý luận chính trị là 35 đ/c (chiếm 34,65%) thì đến năm 2017 tăng lên 59 đ/c (chiếm 60,20%). Trong khi đó số cán bộ có trình độ sơ
52 cấp lý luận chính trị có xu hướng giảm dần. Năm 2013 là 61 đồng chí (60,39%) thì đến năm 2017 giảm còn 34 đồng chí (chiếm 34,69%). Giai đoạn 2015 – 2017, Giám đốc CATP đã chỉ đạo Phòng Tổ chức cán bộ rà soát chuẩn hoá cán bộ trong CATP nói chung và lực lượng KTHS nói riêng. Công an thành phố Hà Nội đã phối hợp với
Học viện Chính trị CAND tổ chức các lớp bồi dưỡng ngắn hạn nhằm hoàn thiện trình độ trung cấp lý luận chính trị cho hơn 3000 cán bộ, chiến sỹ, trong đó đội ngũ
cán bộ KTHS có 65 lượt cán bộ, chiến sỹ. Số cán bộ có trình độ cử nhân và cao cấp lý luận chính trị đều là những đồng chí chỉ huy phòng. Theo tiêu chuẩn chức danh đối với lãnh đạo chỉ huy cấp phòng, quận, huyện, thị xã thì đều phải đáp ứng tiêu chuẩn cao cấp lý luận chính trị trở lên.
Đối với cán bộ KTHS cấp quận, huyện, thị xã tỉ lệ cán bộ có trình độ sơ cấp
lý luận chính trị chiếm chủ yếu. Năm 2013 là 92 đồng chí (chiếm tỉ lệ 79,31%), năm 2017 là 107 đồng chí (chiếm tỉ lệ 76,42%).
Số cán bộ có trình độ trung cấp lý luận chính trị có xu hướng tăng nhưng không nhiều. Năm 2013 có 24 đồng chí, đến năm 2017 có 33 đồng chí, tăng 37,5%. Tuy nhiên số cán bộ có trình độ sơ cấp lý luận chính trị tăng nhiều do hằng năm các Đội, Tổ KTHS được bổ sung cán bộ chủ yếu tốt nghiệp trung cấp CAND chuyên ngành kỹ thuật hình sự. Năm 2013 có 92 đồng chí, đến năm 2017 có 107 đồng chí, tăng số cán bộ này sau thời gian công tác 2 năm trở lên sẽ được đơn vị xem xét chọn cử học lên trình độ đại học và bổ sung kiến thức lý luận chính trị để hoàn thiện trình độ lý luận chính trị trung cấp.
2.2.1.4. Trình độ tin học, ngoại ngữ
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Công an thành phố Hà Nội lần thứ XXVII nhiệm kỳ 2015 – 2020 đã đề ra chỉ tiêu phấn đấu đào tạo cán bộ, chiến sỹ trình độ trên đại học đạt 3%, đào tạo trình độ đại học đạt 55% biên chế làm việc; đào tạo cao cấp lý luận chính trị, bồi dưỡng chức danh theo quy định cho lãnh đạo chỉ huy cấp phòng, quận, huyện, thị xã đạt 100%; bồi dưỡng trung cấp lý luận chính trị đạt trên 3000 đồng chí. Đây là một trong những điểm sáng về công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước và lý luận chính trị cho cán bộ, chiến sỹ Công an thành phố nói chung và cán bộ KTHS nói riêng, là điều kiện quan trọng giúp hoàn thiện và nâng cao chất lượng cán bộ KTHS.
Trong những năm gần đây, trình độ ngoại ngữ và tin học của cán bộ KTHS
Công an thành phố Hà Nội ngày càng được chú trọng nâng cao để đáp ứng yêu cầu
chuẩn hóa cán bộ, đặc biệt là việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ vào
công tác đòi hỏi cán bộ không chỉ thành thạo tin học văn phòng mà phải có kiến
thức sâu về công nghệ thông tin thì mới có thể nghiên cứu viết các phần mềm quản
53 lý công tác chuyên môn, nghiên cứu ứng dụng các phần mềm trên hệ thống phương
tiện giám định hiện đại. Một số đồng chí đã chủ động đi học nâng cao để có trình độ
cử nhân công nghệ thông tin, một số đồng chí được cử đi bồi dưỡng ngắn hạn ở
nước ngoài theo các chương trình hợp tác đào tạo của Bộ Công an.
Bảng 2.5: Trình độ ngoại ngữ, tin học cán bộ kỹ thuật hình sự Công an
thành phố Hà Nội tính đến năm 2017
(Đơn vị tính: Người)
Trình độ ngoại ngữ Trình độ tin học
Đối tượng A B C A B C
Đại học chuyên ngành Đại học chuyên ngành
1 Phòng Kỹ thuật hình sự
3 1 4 Chỉ huy
17 66 10 90 1 2 Cán bộ
2 Công an quận, huyện, thị xã
32 32 Chỉ huy
108 108 Cán bộ
234 Tổng 17 209 11 1 2
Nguồn: Phòng Tổ chức cán bộ CATP Hà Nội
Theo bảng số liệu, số cán bộ KTHS Công an thành phố có trình độ ngoại ngữ
khá cao so với yêu cầu hiện nay, số lượng cán bộ có chứng chỉ đạt loại A trở lên có
237/238 người, chiếm tỷ lệ 99,57%, không có CBCS nào được đào tạo chính quy về
ngoại ngữ. Số lượng cán bộ chưa có chứng chỉ ngoại ngữ là 1 người, chiếm 0,43%.
Với trình độ ngoại ngữ như đã thống kê, cán bộ KTHS đã đáp ứng được tiêu chuẩn
chức danh nghiệp vụ của cán bộ CAND và những yêu cầu trong công tác đấu tranh
phòng chống tội phạm. Đây là số liệu thống kê, tuy nhiên trên thực tế, hầu hết cán
bộ KTHS không có khả năng đọc hiểu hoặc giao tiếp cơ bản bằng ngoại ngữ. Các
chứng chỉ ngoại ngữ của cán bộ KTHS Công an thành phố Hà Nội hiện nay chỉ đáp
ứng đúng quy định của Bộ Công an, không phản ánh đúng khả năng thực tế. Một
phần nguyên nhân do cán bộ học hoàn thiện để được cấp chứng chỉ, nhưng sau đó
54
không trau dồi, học hỏi thường xuyên nên bị mai một.
Về trình độ tin học, trong những năm gần đây, Ban Giám đốc CATP Hà Nội
có chủ trương đào tạo tin học văn phòng cho tất cả học viên tốt nghiệp trung cấp
CAND trước khi điều động đến nhận công tác tại các đơn vị trong CATP. Đây là
những khóa học rất thực tế, góp phần giúp cán bộ KTHS thành thạo tin học văn
phòng. Sau mỗi khóa học, 100% đều đạt yêu cầu và được cấp chứng chỉ tương ứng
với trình độ B. Do vậy trình độ tin học văn phòng của cán bộ KTHS rất cao
(237/238 đồng chí, chiếm 99,57%). Trong đó có một số đồng chí có được đào tạo
chính quy chuyên ngành công nghệ thông tin theo yêu cầu nhiệm vụ.
2.2.2. Kỹ năng nghề nghiệp
Để đánh giá mức độ thành thạo các kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ, tác
giả đã tiến hành nghiên cứu báo cáo kết quả công tác kiểm tra kỹ năng nghề nghiệp
hằng năm của CATP đối với lực lượng KTHS, kết quả như sau:
Báo cáo đánh giá kỹ năng nghề nghiệp của CATP hằng năm tập trung vào ba
nhóm kỹ năng là: Kỹ năng chung; kỹ năng về nghề nghiệp chuyên môn và kỹ năng
quản lý. Các nhóm kỹ năng được đánh giá theo 5 mức độ. Kết quả được thể hiện
qua bảng sau:
Bảng 2.6: Đánh giá kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ kỹ thuật
hình sự Công an thành phố Hà Nội
Mức độ đánh giá
STT
Kỹ năng nghề nghiệp
Tốt
Khá
Kém
Yếu
Trung bình
1
Kỹ năng chung
a
45%
30%
20%
5%
Kỹ năng tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật
b
Kỹ năng soạn thảo văn bản
55%
31%
11%
3%
c
Kỹ năng quan hệ, giao tiếp
32%
45%
15%
1%
7%
d
65%
23%
11%
1%
Kỹ năng sử dụng máy tính, công nghệ thông tin
2
Các kỹ năng về nghiệp vụ chuyên môn (theo vị trí công việc)
a
19%
15%
47%
11%
8%
Kỹ năng tham mưu, ban hành kế hoạch, chương trình công tác
21%
36%
28%
9%
6%
b
Kỹ năng nghiệp vụ khám nghiệm hiện trường
9%
51%
33%
6%
1%
c
Kỹ năng nghiệp vụ giám định kỹ thuật hình sự
3%
25%
9%
38%
25%
d
Kỹ năng nghiệp vụ kỹ thuật phòng chống tội phạm
3%
11%
37%
37%
12%
e
Kỹ năng nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ phục vụ công tác
55
Kỹ năng quản lý
3
Kỹ năng vận động, thuyết phục
18%
29%
38%
11%
4%
a
33%
49%
11%
7%
b
Kỹ năng tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch công tác
20%
45%
68%
3%
c
Khả năng phối hợp thực hiện nhiệm vụ với các đơn vị khác
Nguồn: Phòng Kỹ thuật hình sự năm 2017
11%
Tốt
23%
Khá
Trung bình
66%
Biểu đồ 2.1. Kỹ năng sử dụng máy tính, công nghệ thông tin Qua kết quả đánh giá năm 2017, hầu hết các kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ
của cán bộ KTHS đều đạt từ mức trung bình trở lên, trong đó có một số kỹ năng đạt
cao như kỹ năng tin học (65% mức tốt), kỹ năng soạn thảo văn bản (55% mức tốt);
kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ khám nghiệm hiện trường (21% mức tốt; 36% mức
khá); kỹ năng giám định KTHS (51% mức khá); kỹ năng tổ chức thực hiện chương
trình, kế hoạch công tác (33% mức tốt; 49 % mức khá); kỹ năng phối hợp thực hiện
56 nhiệm vụ với các đơn vị khác 20% mức tốt; 45 % mức khá). Trong những năm qua
CATP đã tập trung bồi dưỡng kiến thức tin học cho CBCS nói chung và lực lượng
KTHS nói riêng. Tất cả cán bộ tốt nghiệp các trường CAND khi được phân công
nhận công tác tại CATP Hà Nội đều được bồi dưỡng tin học văn phòng 45 ngày
trước khi Giám đốc ký quyết định phân công công tác tại các đơn vị. Một số cán bộ
ngành ngoài có trình độ về công nghệ thông tin được CATP tuyển dụng, bố trí công
tác tại Phòng KTHS đã phát huy được chuyên môn. Đối với các kỹ năng nghiệp vụ
khám nghiệm hiện trường và kỹ năng giám định KTHS, hằng năm CATP đều phối
hợp với Viện Khoa học hình sự, Bộ Công an và Sở Tư pháp mở các lớp bồi dưỡng
nghiệp vụ khám nghiệm hiện trường và giám định KTHS cho cán bộ KTHS của
CATP. Chính vì vậy năng lực, trình độ, kỹ năng nghiệp vụ của cán bộ đã được nâng
cao.
3%
12%
11%
Tốt
Khá
Trung bình
Kém
37%
37%
Yếu
Biểu đồ 2.2. Kỹ năng nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ phục vụ
công tác
Tuy nhiên một số kỹ năng bị đánh giá ở mức thấp như: kỹ năng nghiên cứu
ứng dụng khoa học phục vụ công tác (mức kém 37%; mức yếu 12%). Một trong
những nguyên nhân kỹ năng này bị đánh giá thấp do áp lực công việc đối với lực
lượng KTHS hiện nay là rất lớn, vì vậy thời gian nghiên cứu, ứng dụng khoa học
phục vụ công tác rất hạn chế. Cán bộ thường xuyên phải giải quyết nhiều vụ việc,
trong khi đó công tác nghiên cứu khoa học cần nhiều thời gian thì mới có thể tập
trung nghiên cứu.
57
Một số kỹ năng khác được đánh giá ở mức trung bình cao, thậm chí kém, yếu
như: tham mưu, ban hành kế hoạch, chương trình công tác (47% trung bình; 11%
kém; 8% yếu); kỹ năng vận động thuyết phục (38% mức trung bình; 11% mức kém;
4% mức yếu); nhóm kỹ kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ rất đáng quan tâm bởi tỉ lệ
mức trung bình khá cao, thậm chí vẫn còn mức kém, yếu như: kỹ năng khám
nghiệm hiện trường (28% mức trung bình; 9% mức kém; 6% mức yếu); kỹ năng
giám định KTHS (33% mức trung bình; 6% mức kém; 1% mức yếu); đặc biệt kỹ
năng nghiệp vụ kỹ thuật phòng chống tội phạm có mức kém 38% và mức yếu là
25%;
Điều này cùng phản ánh thực tế bởi lực lượng KTHS được bổ sung và tuyển
dụng trong những năm qua trong độ tuổi rất trẻ, thiếu kinh nghiệm công tác, nên kỹ
năng nghề nghiệp còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó tác tham mưu ban hành chương
trình, kế hoạch củng cố, kiện toàn lực lượng KTHS của CATP còn chưa có điểm
nhấn, chưa có bước đột phá; kỹ năng tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật, kỹ
năng vận động thuyết phục của cán bộ KTHS còn hạn chế, trong tham gia giải quyết
một số vụ án, vụ việc do thiếu hiểu biết pháp luật nên gia đình các nạn nhân đã cản
trở lực lượng KTHS khi giải quyết vụ việc, đặc biệt thường xảy ra là việc khám
nghiệm tử thi. Nếu kỹ năng tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật, kỹ năng vận
động thuyết phục của cán bộ KTHS tốt thì sẽ hạn chế được rất nhiều những vụ
người nhà nạn nhân gây khó khăn cho lực lượng KTHS khi thực thi nhiệm vụ.
Kỹ năng nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ phục vụ công tác KTHS
còn khá hạn chế, trong giai đoạn 2013 – 2017, lực lượng KTHS không có đề tài
khoa học cấp Bộ hoặc cấp thành phố để ứng dụng phục vụ công tác. Đây là một
điểm hạn chế rất lớn của lực lượng KTHS mà trong nhiều năm qua chưa khắc phục
được.
2.2.3. Phẩm chất chính trị, đạo đức, tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức
kỷ luật
2.2.3.1. Về phẩm chất chính trị, đạo đức
Cán bộ KTHS phần lớn đều có phẩm chất chính trị vững vàng, đạo đức tốt,
tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng Cộng sản và nhân dân, kiên định mục
tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Với 62% cán bộ là đảng viên Đảng Cộng sản Việt
58 Nam, nhiều đồng chí được cử đi học lớp bồi dưỡng nhận thức về Đảng, do đó nhận
thức chính trị, đạo đức cách mạng luôn được đề cao. Bản thân mỗi cán bộ chiến sỹ
lực lượng KTHS luôn có tinh thần học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị, trình
độ chuyên môn nghiệp vụ. Có ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, giữ gìn lối sống
lành mạnh, xây dựng phong cách và ứng xử của người cán bộ chiến sỹ CAND.
Trong công việc cũng như trong cuộc sống luôn thực hiện tốt 6 điều Bác Hồ dạy
CAND, giữ mối quan hệ thân thiện, hòa nhã với đồng đội và nhân dân, gương mẫu
thực hiện nghĩa vụ công dân, tích cực tham gia các hoạt động chính trị, xã hội. Nhìn
chung cán bộ KTHS đều có ý thức trách nhiệm, luôn đặt lợi ích của Tổ quốc, lợi ích
của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân. Luôn sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm
vụ được giao.
2.2.3.2. Tinh thần trách nhiệm
Tinh thần trách nhiệm của cán bộ đối với quá trình thực hiện nhiệm vụ được
giao thể hiện trước hết ở tinh thần chủ động, tự giác, tích cực thực hiện chức trách,
nhiệm vụ, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; nói đi đôi với làm, đã nói thì
phải làm. Tinh thần trách nhiệm với công việc của cán bộ còn thể hiện ở sự tích cực
tìm tòi, sáng tạo các cách thức để thực hiện nhiệm vụ được giao một cách hiệu quả,
có khả năng ứng xử linh hoạt trong các tình huống bất ngờ. Cán bộ có tinh thần
trách nhiệm với công việc là những người luôn năng động, sáng tạo, chủ động thực
hiện nhiệm vụ phù hợp với tình hình, hoàn cảnh cụ thể nhưng vẫn giữ nghiêm kỷ
luật, kỷ cương. Trong nhiều vụ án khó khăn, phức tạp, việc giải quyết phải kéo dài
nhiều ngày, không kể thời gian, cán bộ vẫn nêu cao ý chí kiên quyết đấu tranh
chống tội phạm, quyết tâm tìm ra thủ phạm trong thời gian ngắn nhất.
Trong những năm qua hầu hết cán bộ KTHS có đạo đức, lối sống trong sáng,
giản dị; thường xuyên học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh; tinh thần thân ái, giúp đỡ, có ý thức giữ gìn đoàn kết nội bộ; biết nghiêm
khắc tự phê bình và thành thật trong phê bình đối với đồng chí, đồng đội; trong phê
bình không né tránh, không ngại va chạm, thấy đúng phải bảo vệ, thấy sai phải đấu
tranh, không lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau hoặc vu khống, bôi nhọ,
chỉ trích, phê phán người khác với động cơ cá nhân không trong sáng, lành mạnh;
nghiêm khắc với bản thân, tự rèn luyện trau dồi đạo đức, lối sống cần, kiệm, liêm,
59
chính, chí công vô tư.
Cán bộ KTHS luôn đoàn kết, không ngại khó khăn vất vả, nêu cao tinh thần
đồng chí, đồng đội, hỗ trợ nhau trong công tác, chiến đấu, “thân ái, giúp đỡ” nhau
như lời dạy của Bác. Sẵn sàng lắng nghe ý kiến, chia sẻ quan điểm, cầu thị, học hỏi
lẫn nhau; đồng cảm, chia sẻ khó khăn; luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm trước
công việc được giao, bảo vệ uy tín, danh dự của đồng chí, đồng đội và của tập thể;
không được có lời nói, hành vi nhằm hạ uy tín của đồng chí, đồng đội, của tập thể;
không đố kỵ, bè cánh, lợi dụng phê bình để vu khống, hạ uy tín, trả thù cá nhân, gây
rối nội bộ; không suồng sã, bê tha trong sinh hoạt tập thể và ở nơi công cộng.
Khi tiếp xúc với các tổ chức, cá nhân, với người dân cán bộ KTHS luôn giữ
đúng lễ tiết, tác phong, có thái độ, hành vi văn minh, lịch sự, tôn trọng, khiêm tốn
đúng mực; trong cách hành xử, luôn bình tĩnh, lắng nghe, thái độ cầu thị, nhiệt tình,
biết chia sẻ, cảm thông, đồng cảm, khéo léo, linh hoạt trong xử lý tình huống phức
tạp nảy sinh liên quan đến việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao mà có liên
quan đến người dân...
Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận cán bộ KTHS chưa thực sự yêu nghề, ngại
khó khăn vất vả, nhất là những cán bộ làm công tác khám nghiệm hiện trường và
khám nghiệm tử thi. Một số cán bộ khác có biểu hiện trung bình chủ nghĩa, làm việc
cầm chừng, theo lối mòn, ít sáng tạo, đùn đẩy trách nhiệm, ngại việc khó, chọn việc
dễ làm...
Số cán bộ viết đơn xin chuyển công tác sang đơn vị khác hằng năm chiếm từ
0,5 – 1% biên chế lực lượng kỹ thuật hình sự CATP Hà Nội.
2.2.3.3. Ý thức tổ chức kỷ luật
Trong chấp hành ý thức tổ chức kỷ luật cán bộ CAND, Ban Giám đốc CATP
luôn quán triệt thực hiện đến mỗi cán bộ, chiến sỹ trong CATP phải chấp hành
nghiêm túc quy định của Đảng, Nhà nước, ngành Công an; nói và làm theo Hiến
pháp và pháp luật, chấp hành nghiêm Điều lệnh CAND. Đi công tác phải có chương
trình, kế hoạch, khi về phải báo cáo kết quả công tác với lãnh đạo cấp trên (đi báo
việc, về báo công). Chấp hành nghiêm mệnh lệnh, kể cả là khẩu lệnh của người lãnh
đạo, chỉ huy, nhất là trong thực thi các nhiệm vụ, công tác đột xuất hay phải ứng
phó kịp thời trước tình huống bảo đảm an ninh, trật tự đặt ra.
60
Về cơ bản cán bộ KTHS Công an thành phố Hà Nội có ý thức tổ chức kỷ luật
tốt, đã chấp hành nghiêm túc các quy định của Đảng, Nhà nước và các quy định của
lực lượng CAND.
Tuy nhiên trong giai đoạn 2013 – 2017 vẫn còn một số cán bộ KTHS vi phạm
phải xử lý kỷ luật. Cụ thể: Năm 2013 có 02 đồng chí bị xử lý kỷ luật khiển trách (do
vi phạm sinh con thứ 3 và vi phạm quy trình công tác); năm 2016 có 01 đồng chí bị
xử lý kỷ luật giáng cấp bậc hàm (do sinh con thứ 4); năm 2017 có 03 đồng chí bị xử
lý kỷ luật Khiển trách do vi phạm trong thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao,
sử dụng giấy chứng minh CAND sai mục đích và sinh con thứ 3. Một số cán bộ có
đơn thư tố cáo do vay nợ phải tiến hành xác minh, giải quyết và đề nghị xử lý kỷ
luật.
2.2.4. Về thể lực
2.2.4.1. Về thể chất
Để đánh giá thể chất của cán bộ KTHS tại Công an thành phố Hà Nội có thể
sử dụng các chỉ số về chiều cao và cân nặng. Các chỉ số về thể chất được thể hiện
qua bảng:
Bảng 2.7. Chiều cao, cân nặng cán bộ kỹ thuật hình sự Công an thành
phố Hà Nội
(Đơn vị tính: người)
Chiều cao
Dưới 1,58m Trên 1,70m Từ 1,58m đến 1,64m Từ 1,64m đến 1,70m Năm
Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ
2013 14 6 14 121 62
2014 11 7 15 119 1 64
2015 12 10 14 104 1 71
2016 10 12 12 120 1 78
2017 9 13 15 125 2 73
Cân nặng
Dưới 50kg Từ 50 đến 59 kg Trên 70kgừ Từ 60 đến 70kg Năm
Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ
61
2013 18 39 10 115 35
2014 18 41 9 117 40
2015 16 49 11 92 44
2016 11 51 12 120 39
2017 13 65 14 104 42
Nguồn: Bệnh viện Công an thành phố Hà Nội
Chiều cao là một thông số cần thiết để đo thể lực. Như vậy, so với mức
chiều cao hiện tại của nguồn nhân lực trong nước và cả khu vực, có thể thấy
cán bộ KTHS Công an thành phố có chiều cao ở mức khá. Chiếm tỷ lệ cao nhất là
cán bộ, chiến sỹ có chiều cao từ 1,64m đến 1,69m, sau đó là trên 1m70 (chủ yếu là
nam giới), mức chiều cao dưới 1,58m và từ 1,58m đến 1,64m chủ yếu là nữ giới.
Mức chiều cao này so với chiều cao trung bình của nam và nữ trưởng thành của
Việt Nam đều đạt mức trung bình. Ngoài độ tuổi và chiều cao, cân nặng cũng là một
tiêu chí thể hiện mối quan hệ với sức khỏe. Nếu mức độ cân nặng quá thấp so với
chiều cao là không cân đối và ảnh hưởng đến hoạt động của con người. Ngày
28/04/2011, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 641/QĐ-TTg về việc phê
duyệt Đề án tổng thể phát triển thể lực, tầm vóc người Việt Nam giai đoạn 2011-
2030 đặt ra mục tiêu phát triển nguồn nhân lực để đạt chiều cao trung bình là
1,67m.
Năm 2017, tỉ lệ cán bộ KTHS có cân nặng dưới 60kg là 104 người (chiếm
49,28%), số cán bộ có cân nặng dưới dưới 59kg là 79 người (chiếm 37,44%). Chỉ số
BMI (Body Mass Index) là chỉ số thể trạng thể lực người trưởng thành của tổ chức y
tế thế giới (WHO) được xác định bằng cân nặng chia cho chiều cao bình phương.
Nam giới có BMI<19 và nữ giới có BMI<18 là người dưới cân; Nam giới có
20<=BMI<25 và nữ có 18<=BMI<23 là người bình thường; Nam giới có
25<=BMI<30 và nữ giới có 23<=BMI<30 là người quá cân; BMI>30 là người béo
phì cả nam giới và nữ giới. Với mức cân nặng và chiều cao hiện tại của cán bộ của
lực lượng KTHS cho thấy, đa số cán bộ có thể trạng ở mức khá so với chỉ số BMI
đã công bố trên toàn thế giới. Như vậy, thể lực của đội ngũ KTHS đạt mức khá, đạt
tiêu chuẩn “Khỏe mạnh” theo tiêu chuẩn của Bộ Y tế và quy định tiêu chuẩn khi
62 khám tuyển sức khỏe vào lực lượng CAND, đảm bảo điều kiện cần và đủ cho mọi
hoạt động và thực thi chức trách, nhiệm vụ được giao.
2.2.4.2. Kết quả rèn luyện thể lực của cán bộ kỹ thuật hình sự
Thực hiện Thông tư số 24/2013/TT-BCA ngày 11/4/2013 của Bộ trưởng Bộ
Công an quy định tiêu chuẩn rèn luyện thể lực trong lực lượng Công an nhân dân.
Theo đó, rèn luyện thể lực theo tiêu chuẩn là quyền và trách nhiệm của mỗi cán bộ,
chiến sĩ Công an. Yêu cầu mỗi cán bộ, chiến sĩ phải thường xuyên tích cực, tự giác,
tự mình luyện tập thể dục thể thao, mỗi ngày dành ra ít nhất 30 phút để tập luyện.
Thông tư 24 áp dụng đối với các đơn vị trong Công an nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan,
chiến sĩ phục vụ có thời hạn; học sinh, sinh viên các học viện, nhà trường; công nhân
viên chức CAND có độ tuổi từ 18 đến 50 đối với nam và 18 đến 45 đối với nữ (tính
theo tháng sinh) có quyền và nghĩa vụ thực hiện rèn luyện thể lực theo tiêu chuẩn.
Cán bộ, chiến sĩ ngoài độ tuổi quy định tự giác tập luyện để tăng cường sức khỏe,
không thuộc diện kiểm tra thể lực quy định tại Thông tư này.
Hằng năm Giám đốc CATP ban hành kế hoạch và giao cho Phòng Công tác
chính trị tổ chức kiểm tra kết quả rèn luyện thể lực đối với cán bộ chiến sỹ trong
CATP theo tiêu chuẩn như sau:
Bảng 2.8: Tiêu chuẩn rèn luyện thể lực đối với cán bộ chiến sỹ Công an
nhân dân
Mỗi cán bộ, chiến sỹ phải tham gia kiểm tra 4 môn trong một buổi kiểm tra
(sáng hoặc chiều), theo kế hoạch của đơn vị. Đối với nam được lựa chọn một trong
2 môn chống đẩy hoặc co tay xà đơn. Cán bộ chiến sỹ đạt tiêu chuẩn rèn luyện thể
lực phải đáp ứng các tiêu chuẩn đồng thời 4 môn theo lứa tuổi, nếu có 01 môn
không đạt tiêu chuẩn trở lên thì không đạt tiêu chuẩn rèn luyện thể lực.
Cụ thể như sau:
* Đối với nam:
Bật xa (mét)
Nhóm tuổi 18-27 ≥ 2,20 m Chống đẩy (lần) ≥ 30 Co tay xà đơn (lần) ≥ 12 Chạy 100m (giây) ≤16’’,0 Chạy 1500m (phút, giây) ≤ 7’,30’’
28-34 35-40 ≥ 2,15 m ≥ 2,1 m ≥ 25 ≥ 20 ≥ 10 ≥ 8 ≤ 16”,5 ≤ 17” ,5 ≤ 8’,00’’ ≤ 8’30”
63
41-45 46-50 ≥ 2,0 m ≥ 1,8 m ≥ 15 ≥ 10 ≤ 18’’,5 ≤ 19”, 5 ≤ 9’,00’’ ≤ 9’,30” ≥ 5 ≥ 3
* Đối với nữ:
Nhóm tuổi Bật xa (giây)
18-24 ≥ 1,50 m Chạy 100m (giây) ≤ 20”,0 Chạy 800m (phút, giây) ≤ 5’,30”
25-30 ≥ 1,40 m ≤ 20”,5 ≤ 6’,10”
31-35 36-40 ≥ 1,30 m ≥ 1,20 m ≤ 21”,5 ≤ 22”,5 ≤ 6’,50” ≤ 7’,30’’
41-45 ≥ 1,10 m ≤ 23”,5 ≤ 8’,00”
Qua hai bảng trên cho thấy tiêu chuẩn rèn luyện thể lực giảm dần theo lứa
tuổi. Kết quả kiểm tra rèn luyện thể lực theo tiêu chuẩn là một trong những tiêu chí
để nhận xét, đánh giá cán bộ và bình xét thi đua hàng năm. Các cá nhân và tập thể
không đạt tiêu chuẩn rèn luyện thể lực trong năm sẽ phải hạ một bậc thi đua.
Bảng 2.9: Kết quả rèn luyện thể lực của cán bộ kỹ thuật hình sự Công an
thành phố Hà Nội từ năm 2013 đến 2017
(Đơn vị tính: người)
2013 2014 2015 2016 2017
Nhóm tuổi
Đạt
Đạt
Đạt
Đạt
Đạt
120
116
Không đạt 10
101
Không đạt 11
Không đạt 9
Không đạt 15
Không đạt 12
34
45
98 18-27 105
25
31
39 8 9 6 5 42 7 28-34 38
12
9
28 5 4 1 3 32 5 35-40 32
6
4
8 3 3 2 2 6 2 41-45 4
4 1 1 1 1 6 2 46-50 5
Tổng 184 21 187 27 177 26 193 32 209 22
Nguồn: Phòng Công tác chính trị CATP Hà Nội
Theo kế hoạch hằng năm Giám đốc CATP giao cho Phòng công tác chính trị
tổ chức kiểm tra kết quả rèn luyện thể lực đối với các đơn vị trong CATP. Các đơn
vị đạt tiêu chuẩn rèn luyện khi 80% cán bộ chiến sỹ tham gia kiểm tra đạt, nếu có
trên 20% cán bộ tham gia kiểm tra không đạt kết quả không đạt theo tiêu chuẩn thì
đơn vị đó không đạt tiêu chuẩn rèn luyện thể lực. Đối với cán bộ, chiến sỹ, kết quả
64 rèn luyện thể lực hằng năm là một trong những tiêu chí bình xét thi đua, cán bộ
không đạt tiêu chuẩn rèn luyện thể lực sẽ bị hạ một bậc thi đua.
Qua bảng trên cho thấy: Tỉ lệ cán bộ KTHS không đạt tiêu chuẩn rèn luyện
thể lực chiếm khoảng 10% hằng năm. Năm 2013 là 10,24%; năm 2017 là 9,52%,
giảm không đáng kể so với năm 2017. Tỉ lệ không đạt chủ yếu ở lứa tuổi 18 đến 27
và 28 – 34. Nguyên nhân do một số cán bộ, chiến sỹ còn chưa chú ý rèn luyện thể
lực, chưa thực sự cố gắng và rèn luyện thường xuyên theo tiêu chuẩn của các môn
tham gia kiểm tra. Vì vậy trong một buổi kiểm tra thường không đạt ở một số nội
dung như: Chạy 100m, chạy 1500m, co tay xà đơn. Hằng năm Giám đốc CATP đều
ban hành kế hoạch tổ chức các hoạt động văn hóa thể dục thể thao và tổ chức các
giải thể thao trong CATP như: Giải chiến sỹ Công an khỏe, bóng đá, bóng bàn, cầu
lông, tennis, bơi, chạy vũ trang... Thông qua các giải thể thao nhằm phát động
2.2.4.3. Sức khỏe của cán bộ kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội
Khi nói về thể lực, hầu hết xã hội chỉ quan tâm đến các chỉ số đo chiều
cao, cân nặng. Tuy nhiên, bên cạnh các chỉ số đã quy định
tại các
tiêu chuẩn
của Bộ Y tế và các tổ chức thế giới, việc quan tâm đến tình trạng sức khỏe của cán bộ cũng là một
tiêu chí quan trọng trong việc đánh giá thể lực, trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch chăm sóc sức
khỏe cho cán bộ. Đánh giá về sức khỏe của cán bộ KTHS có thể thông qua việc khám sức khỏe
định kỳ hằng năm, việc kiểm tra kết quả rèn luyện thể lực hoặc tần suất bị ốm, phải đi khám bệnh,
tình trạng giảm cân do ốm đau hoặc bệnh nghề nghiệp. Theo số liệu thống kê tại Bệnh viện CATP
Hà Nội sau đợt khám sức khỏe năm 2017, kết quả phân loại sức khỏe đối với cán bộ KTHS được
thể hiện qua bảng sau:
phong trào rèn luyện thân thể trong CATP.
Bảng 2.10: Phân loại sức khỏe của cán bộ kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà
Nội năm 2017
(Đơn vị tính: người, %)
Nam
Nữ
Phân loại sức khỏe
Người
Người
Tỉ lệ %
Tỉ lệ %
Loại I (Rất khỏe)
45
21,32%
5
18.51%
Loại II (Khỏe)
130
61,61%
18
66,66%
Loại III (Bình thường)
36
14,69%
4
14,81%
Loại IV (Yếu)
0
0%
0
0%
Loại V (Rất yếu)
0
0%
0%
65
Tổng số
211
27
Nguồn: Bệnh viện Công an thành phố Hà Nội
Căn cứ số liệu tại bảng thống kê, có thể thấy, hầu hết cán bộ KTHS đạt sức
khỏe loại 1 và loại 2 (trong đó nam là 175/211 người - chiếm 82,93%, nữ là 23/27
người- chiếm 85,18%) và không có ai xếp loại 4 và loại 5, hoàn toàn đủ sức khỏe để
làm việc trong môi trường làm việc bình thường. Đây là điều kiện quan trọng quyết
định tới chất lượng của cán bộ KTHS và chất lượng, hiệu quả công tác. Tuy nhiên,
vẫn có những cán bộ KTHS xếp loại sức khỏe ở loại 3 (trong đó có 36 nam và 4
nữ) và tập trung chủ yếu ở những cán bộ chuẩn bị nghỉ hưu, tuổi cao. Ngoài ra, căn
cứ các số liệu tại Bệnh viện CATP, tỷ lệ cán bộ KTHS bị ốm đau thường xuyên
không nhiều (1,5%), tỷ lệ những người đi khám bệnh thường xuyên là 4,2% và
thường bị mắc một số bệnh mãn tính, điều trị dài ngày như đau khớp xương, viêm
dạ dày, thoái hóa cột sống, viêm phế quản.
Như vậy, có thể nói, tình trạng sức khỏe của cán bộ KTHS Công an thành
phố Hà Nội tương đối tốt. Đây là một trong những điều kiện quan trọng giúp nâng
cao hiệu quả làm việc vì chỉ khi có sức khỏe, trí tuệ mới có thể phát huy được sức
sáng tạo và làm việc tốt.
2.2.5. Kết quả công tác
Để đánh giá kết quả công tác hằng năm của cán bộ, Bộ Công an đã ban hành
Thông tư 06/2011/TT-BCA ngày 14/2/2011 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định
nhận xét, đánh giá sỹ quan, hạ sỹ quan, công nhân, viên chức CAND và Thông tư
số 40/2014/TT-BCA ngày 23/9/2018 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định chi tiết và
hướng dẫn thực hiện công tác thi đua, khen thưởng trong CAND, Công an xã, bảo
vệ dân phố và phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Theo đó, hằng năm
CATP Hà Nội đều tổ chức nhận xét đánh giá đối với cán bộ chiến sỹ và bình xét các
dan hiệu thi đua cho các tập thể và cá nhân trong CATP, cụ thể như sau:
* Nội dung nhận xét, đánh giá:
- Nội dung nhận xét, đánh giá chung đối với cán bộ, chiến sĩ
Phẩm chất chính trị: nhận thức tư tưởng, quan điểm chính trị; việc chấp hành
chủ trương, đường lối, quy chế, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, Nghị quyết, Chỉ thị, quy định của Ngành và địa phương nơi cán bộ cư trú.
66
Đạo đức lối sống: Tu dưỡng và rèn luyện theo Sáu điều Bác Hồ dạy Công an
nhân dân; giữ gìn phẩm chất đạo đức và lối sống lành mạnh, trong sáng; chống quan
liêu, tham nhũng, lãng phí và những biểu hiện tiêu cực khác;
Tính trung thực, ý thức tổ chức kỷ luật, thực hiện chế độ điều lệnh nội vụ
Công an nhân dân; tinh thần tự phê bình và phê bình, đoàn kết, quan hệ trong công
tác, mối quan hệ, tinh thần và thái độ phục vụ nhân dân;
Tinh thần học tập, nâng cao trình độ, rèn luyện thể chất để nâng cao sức chiến
đấu.
Kết quả, mức độ thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, thể hiện ở: khối
lượng, chất lượng, tiến độ, hiệu quả của công việc trong từng vị trí, từng thời gian;
tinh thần trách nhiệm trong công tác.
Chiều hướng và triển vọng phát triển.
- Đối với cán bộ lãnh đạo, chỉ huy:
Ngoài những nội dung quy định tại khoản 1, Điều này, còn phải nhận xét,
đánh giá về năng lực lãnh đạo, quản lý cụ thể là:
Khả năng nắm và vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
Chỉ thị, Nghị quyết của Ngành vào lĩnh vực công tác, chức trách được giao;
Năng lực tổ chức, chỉ huy, quản lý và điều hành đơn vị;
Nắm bắt và dự báo những vấn đề mới phát sinh trong lĩnh vực công tác được
giao. Năng lực sơ kết, tổng kết các chuyên đề công tác, đề xuất kế hoạch, biện pháp
giải quyết những vấn đề mới;
Tính quyết đoán, mạnh dạn đổi mới, dân chủ trong nội bộ, đoàn kết, quy tụ
cán bộ, tín nhiệm đối với cán bộ, chiến sĩ;
Căn cứ vào kết quả nhận xét, đánh giá cán bộ, chiến sĩ và kết quả bình xét thi
đua hàng năm để phân loại cán bộ theo một trong bốn mức sau:
(1) Hoàn thành xuất sắc chức trách, nhiệm vụ
Đối với cán bộ, chiến sĩ: hoàn thành 100% khối lượng, đạt chất lượng, tiến độ
và hiệu quả công việc được giao, có sáng kiến, cải tiến công tác hoặc áp dụng kỹ
thuật mới có hiệu quả.
Đối với lãnh đạo cấp phòng, Công an cấp huyện: đơn vị hoặc lĩnh vực được
phân công phụ trách hoàn thành 100% chỉ tiêu nhiệm vụ; tổ chức đảng và đoàn thể
67
của đơn vị đạt danh hiệu trong sạch, vững mạnh tiêu biểu.
(2) Hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ
Đối với cán bộ, chiến sĩ: hoàn thành 100% khối lượng, đạt chất lượng, tiến độ
và hiệu quả công việc được giao.
Đối với lãnh đạo cấp phòng, Công an cấp huyện: đơn vị hoặc lĩnh vực được
phân công phụ trách hoàn thành 100% chỉ tiêu nhiệm vụ; tổ chức đảng và đoàn thể
của đơn vị đạt danh hiệu trong sạch, vững mạnh.
(3) Hoàn thành chức trách, nhiệm vụ
Đối với cán bộ, chiến sĩ: hoàn thành 70% khối lượng, đạt chất lượng, tiến độ
và hiệu quả công việc được giao.
Đối với lãnh đạo cấp phòng, Công an cấp huyện: đơn vị hoặc lĩnh vực được
phân công phụ trách hoàn thành 70% chỉ tiêu nhiệm vụ; tổ chức đảng và đoàn thể
của đơn vị hoàn thành nhiệm vụ.
(4) Không hoàn thành chức trách, nhiệm vụ
Đối với cán bộ, chiến sĩ: hoàn thành dưới 50% khối lượng, chất lượng công
việc được giao.
Đối với lãnh đạo cấp phòng, Công an cấp huyện: đơn vị hoặc lĩnh vực được
phân công phụ trách hoàn thành dưới 70% chỉ tiêu nhiệm vụ hoặc tổ chức đảng và
đoàn thể của đơn vị yếu kém.
Như vậy có thể thấy việc áp dụng những tiêu chí đánh giá riêng đối với
các cán bộ giữ chức danh quản lý là phù hợp đề cao được tính trách nhiệm của
người đứng đầu các đơn vị hành chính nhà nước. Tuy nhiên có thể thấy rằng, nội
dung đánh giá đưa ra còn chung chung, rất khó lượng hết được kết quả, hiệu suất
công tác của cán bộ CAND nói chung và của cán bộ KTHS ở CATP nói riêng.
Về phương pháp đánh giá: Việc đánh giá cán bộ được thực hiện theo phương
pháp đánh giá theo ý kiến nhận xét của tập thể. Quy trình đánh giá gồm có các bước
sau: (1) Kết thúc năm công tác, từng cán bộ viết bản tự nhận xét, đánh giá cán bộ và
đọc trước toàn thể hội nghị đánh giá cán bộ và bình xét danh hiệu thi đua ở cấp đội
nơi công tác; (2) Các thành viên tham gia hội nghị nhận xét, góp ý và biểu quyết về
mức độ hoàn thành công việc của người được đánh giá (bỏ phiếu kín); (3) Cán bộ
làm công tác tham mưu, chính trị ghi chép, tập hợp báo cáo Đảng ủy – Ban chỉ huy
phòng, quận, huyện, thị xã đánh giá và gửi hồ sơ về Phòng Công tác chính trị để tập
68
hợp báo cáo Giám đốc CATP xem xét quyết định.
Sử dụng phương pháp đánh giá theo ý kiến nhận xét có ưu điểm là đề
cao tính công khai, dân chủ; kết quả thực thực hiện nhiệm vụ của cán bộ KTHS của
CATP được nhìn nhận toàn diện từ nhiều phía; tạo cơ hội cho cán bộ lắng nghe
những nhận xét, góp ý của đồng nghiệp, từ đó rút kinh nghiệm cho việc thực thi
nhiệm vụ sau này. Tuy nhiên, do tâm lý nể nang, “dĩ hoà vi quý”, ngại nói thẳng nói
thật, nên việc đánh giá cán bộ hiện nay theo phương pháp này trở nên “bình quân
chủ nghĩa”, “cào bằng”; nếu cán bộ không vi phạm kỷ luật trong năm công tác thì
đều được xếp loại ít nhất là từ mức hoàn thành nhiệm vụ trở lên.
Kết quả đánh giá cán bộ được thể hiện qua biểu đồ sau:
Đơn vị tính: người
164
151 154
146
143
Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Hoàn thành tốt nhiệm vụ Hoàn thành nhiệm vụ Không hoàn thành nhiệm vụ Không đánh giá
180 160 140 120 100 80 60 40 20 0
Năm 2013
Năm 2014
Năm 2015
Năm 2016
Năm 2017
(Nguồ n: Phòng Tổ chức cán bộ CATP Hà Nội)
Biểu đồ 2.3: Kết quả đánh giá cán bộ kỹ thuật hình sự Công an thành
phố Hà Nội giai đoạn 2013 – 2017
Qua bảng số liệu, nhận thấy hầu hết cán bộ KTHS đều hoàn thành tốt nhiệm
vụ, năm 2013 là 143 đồng chí (chiếm 65,89%), năm 2017 là 164 đ/c (chiếm
68,90%). Số lượng cán bộ KTHS hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiếm tỉ lệ không
cao, năm 2013 là 16 đồng chí (chiếm 7,3%), năm 2018 là 24 đồng chí (chiếm
10,08%). Số cán bộ KTHS được đánh giá ở mức hoàn thành nhiệm vụ năm 2013 là
54 đồng chí (chiếm 54,88%), năm 2017 là 63 đồng chí (chiếm 26,47%). Từ năm
69 2013 đến năm 2017 vẫn có 08 cán bộ KTHS được đánh giá ở mức không hoàn
thành nhiệm vụ. Đây là những cán bộ có vi phạm phải xử lý kỷ luật hoặc vi phạm
nhưng chưa đến mức kỷ luật, hoặc có năng lực yếu, làm việc cầm chừng, tư tưởng
trung bình chủ nghĩa.
Tuy nhiên, trên thực tế, công tác nhận xét, đánh giá cán bộ vẫn mang tính
hình thức, các nội dung trong thông tư vẫn mang tính chất định tính, chưa lượng hóa
cụ thể các tiêu chí đánh giá thực hiện công việc, các vị trí khác nhau hầu hết đều có
các tiêu chí đánh giá như nhau. Do vậy, hiệu quả của công tác đánh giá chưa cao.
Phần lớn, cán bộ sau khi được bình xét, đánh giá đều hoàn thành tốt, hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ nhưng nhiệm vụ chung của đơn vị lại không có chuyển biến tích
cực hoặc chưa thực hiện hết chức năng, nhiệm vụ được giao. Như vậy, có thể thấy
việc đánh giá cán bộ chưa gắn với việc đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của
đơn vị. Một nguyên tắc rất quan trọng trong công tác tổ chức cán bộ nói chung và
đánh giá cán bộ nói riêng, đó là phải khách quan, công bằng và vô tư, không thiên
vị. Tuy nhiên, tại một số đơn vị trong CATP, vẫn còn một bộ phận cán bộ năng lực
yếu, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ nhưng vẫn được đánh giá ở trên mức hoàn
thành nhiệm vụ. Theo Thông tư 06/2011/TT-BCA ngày 14/2/2011 của Bộ trưởng
Bộ Công an và các văn bản hướng dẫn về công tác đánh giá cán bộ. Trong đó, thẩm
quyền đánh giá thuộc về trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị. Tuy nhiên, qua khảo
sát, tại một số đơn vị, việc đánh giá vẫn thực hiện theo kiểu “bỏ phiếu kín” và người
đứng đầu vẫn có tình trạng đưa lên để lấy thành tích chung cho tập thể, thiếu khách
quan, công tâm khi thực hiện đánh giá, phân loại. Một số cán bộ lớn tuổi, sắp nghỉ
hưu nhường thành tích cho cán bộ trẻ để phấn đấu kết nạp đảng, đi học, quy hoạch...
* Kết quả bình xét danh hiệu thi đua đối với cá nhân:
Bảng 2.11: Kết quả bình xét thi đua đối với cán bộ kỹ thuật hình sự
Công an thành phố Hà Nội giai đoạn 2013 – 2017
NĂM
STT
KếT QUả PHÂN LOẠI
2013
2014
2015
2016
2017
1
1
Chiến sỹ thi đua toàn lực lượng CAND
2
Chiến sỹ thi đua cơ sở
19
21
19
24
15
3
Chiến sỹ tiên tiến
143
146
151
154
164
4 Hoàn thành nhiệm vụ
54
56
32
53
63
5 Không hoàn thành nhiệm vụ
1
2
2
2
1
6 Không bình xét
3
2
6
4
4
70
Tổng
217
225
212
232
238
(Nguồn: Phòng Công tác chính trị CATP Hà Nội)
Qua bảng trên cho thấy, số lượng cán bộ kỹ thuật hình sự CATP được công
nhận danh hiệu Chiến sỹ thi đua toàn lực lượng CAND rất ít. Năm 2013 có duy nhất
1 cán bộ đạt danh hiệu này (chiếm 0,46%). Còn lại chủ yếu cán bộ KTHS đạt danh
hiệu Chiến sỹ tiên tiến, năm 2013 có 143 đồng chí (chiếm 65,89%), năm 2017 là
164 đ/c (chiếm 68,90%). Số cán bộ còn lại không được công nhận danh hiệu thi đua
được phân loại ở mức hoàn thành nhiệm vụ hoặc không hoàn thành nhiệm vụ.
Việc bình xét danh hiệu thi đua hằng năm của CATP được tiến hành đồng
thời với việc nhận xét, đánh giá cán bộ. Mục đích để đánh giá chính xác và ghi
nhận, động viên, khen thưởng kịp thời cán bộ có nhiều nỗ lực, phấn đấu trong công
tác. Kết quả nhận xét, đánh giá cán bộ và bình xét thi đua hằng năm là căn cứ để
thực hiện công tác cán bộ và chính sách cán bộ như: quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm,
xét nâng lương, thăng cấp bậc hàm...
2.3. Đánh giá chung về chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự Công an
thành phố Hà Nội
2.3.1. Ưu điểm
Trong thời gian vừa qua, cán bộ KTHS Công an thành phố Hà Nội đã từng
bước trưởng thành và có nhiều đóng góp cho công tác giữ gìn an ninh chính trị, đảm
bảo trật tự an toàn xã hội trên địa bàn Thủ đô.
Thứ nhất, về trình độ:
Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ KTHS ngày càng được hoàn
thiện, cán bộ KTHS được bố trí theo đúng chuyên ngành đào tạo và trong những
năm gần đây đã có sự thay đổi theo hướng tích cực: tăng dần tỷ lệ cán bộ KTHS có
trình độ chuyên môn thạc sỹ năm 2013 là 01 đồng chí, đến năm 2017 đã tăng lên 9
đồng chí. Trình độ nghiệp vụ cao đẳng, đại học (Năm 2013, tỷ lệ cán bộ KTHS có
trình độ cao đẳng và đại học lần lượt là 111 đồng chí, chiếm 51,155% đến năm
71 2017 tăng lên 122 đồng chí, chiếm 51,26%, từ đó góp phần đáp ứng tốt các yêu cầu
và nhiệm vụ được giao.
Trình độ lý luận chính trị của cán bộ KTHS ngày càng được nâng cao. Trong
những năm qua, tỷ lệ cán bộ KTHS được đào tạo lý luận chính trị trình độ trung
cấp, cao cấp và cử nhân ngày càng tăng (Năm 2013 tỷ lệ cán bộ KTHS có trình độ lý
luận chính trị trung cấp, cao cấp, cử nhân lần lượt là 27.18%, 1,84%, 0%; Năm
2017 tỷ lệ này lần lượt là 44.53%, 1.26%, 0.42%), đồng thời tỷ lệ cán bộ KTHS có
trình độ sơ cấp lý luận chính trị và chưa qua đào tạo lý luận chính trị có xu hướng
giảm xuống (Năm 2013 tỷ lệ cán bộ KTHS có trình độ sơ cấp lý luận chính trị là
70.50%, năm 2017, là 53.36%).
Thứ hai, về kỹ năng nghề nghiệp: Hầu hết cán bộ KTHS có các kỹ năng nghề
nghiệp cần thiết trong thực thi nhiệm vụ như kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng khám
nghiệm hiện trường, giám định KTHS, kỹ năng triển khai các quyết định quản lý,
kỹ năng thu thập, tổng hợp, phân tích và đánh giá thông tin… Trong đó nhiều cán
bộ có kỹ năng chuyên sâu ở các lĩnh vực công tác như: khám nghiệm hiện trường,
khám nghiệm tử thi, giám định dấu vết đường vân, giám định chữ viết, chữ ký...
Thứ ba, về phẩm chất chính trị, đạo đức và tinh thần trách nhiệm trong công
việc: Đặc thù môi trường làm việc của lực lượng KTHS rất thầm lặng, tính chất
công việc rất vất vả, độc hại và nguy hiểm khi phải ứng trực 24/24h, thường xuyên
tiếp xúc với hóa chất độc hại (công tác giám định ma túy, giám định sinh học), trực
tiếp tiến hành công tác khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, nguy cơ phơi
nhiễm bệnh cao… Đứng trước các tác động tiêu cực nảy sinh hàng ngày, từ những
mặt trái của cơ chế thị trường, đa số cán bộ lực lượng KTHS vẫn luôn giữ được
phẩm chất đạo đức, tư cách và lối sống lành mạnh, nêu cao tinh thần trách nhiệm,
vượt qua mọi khó khăn về môi trường làm việc, chế độ đãi ngộ còn chưa tương
xứng... để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Thứ tư, về thể lực: nhìn chung cán bộ KTHS có thể lực và sức khỏe tốt. Căn
cứ theo các tiêu chuẩn của Bộ Công an, cán bộ KTHS đáp ứng được yêu cầu nhiệm
vụ được giao.
Thứ năm, kết quả công tác: Cán bộ KTHS đã hoàn thành nhiệm vụ được giao
đúng tiến độ, đáp ứng được yêu cầu của công việc. Theo kết quả nhận xét, đánh giá
cán bộ của lực lượng KTHS Công an thành phố Hà Nội về mức độ hoàn thành công
72 việc, năm 2017 có 68,90% cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ, 26,47% cán bộ hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ.
Thứ sáu, về cơ cấu tổ chức, cán bộ KTHS Công an thành phố Hà Nội tương
đối ổn định và hợp lý. Số lượng cán bộ KTHS được bố trí tại Phòng Kỹ thuật hình
sự và 30 Công an quận, huyện, thị xã đủ để đáp ứng yêu cầu của Bộ Công an và các
quy định về số lượng cán bộ, KTHS. Tỷ lệ nữ cán bộ tuy có cao hơn tỉ lệ chung do
Bộ Công an quy định nhưng đối với tính chất, nhiệm vụ của lực lượng KTHS khá
phù hợp (giám định tài liệu, giám định hóa học, giám định sinh học) .
Thứ bẩy, các công tác như tuyển dụng; đào tạo bồi dưỡng; quy hoạch, sử
dụng cán bộ đều được thực hiện tương đối đầy đủ và đảm bảo đúng theo yêu cầu và
phù hợp với tình hình thực tế tại Phòng Kỹ thuật hình sự và Công an các quận,
huyện, thị xã.
2.3.2. Hạn chế
Thứ nhất, về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ: Tỉ lệ cán bộ KTHS có trình độ
đại học ở cấp phòng khá cao (64,28%), tuy nhiên ở cấp huyện có tỉ lệ thấp (chiếm
37,86%). Cán bộ KTHS cấp huyện chủ yếu có trình độ trung cấp (62,14%) và ở độ
tuổi dưới 30. Số cán bộ này có sự năng động, nhiệt tình, được đào tạo chuyên ngành
KTHS (trình độ Đại học, trung cấp, cao đẳng) nhưng trong công tác còn thiếu kinh
nghiệm thực tiễn, một số cán bộ có tinh thần học hỏi chưa cao nên trong công tác
nghiệp vụ còn nhiều thiếu sót, quá trình thực hiện tham gia giải quyết các vụ án
phức tạp còn lúng túng, bị động.
Thứ hai, về kỹ năng nghề nghiệp: Số cán bộ trẻ mới ra trường, thiếu kinh
nghiệm, kỹ năng nghiệp vụ chưa thành thạo, tham gia giải quyết công tác còn lúng
túng, bị động. Kỹ năng khám nghiệm hiện trường, giám định kỹ thuật hình sự, kỹ
năng nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ phục vụ công tác được đánh giá ở
mức trung bình chiếm tỉ lệ cao (lần lượt chiếm 28%; 33% và 37%). Số cán bộ
KTHS trên 50 tuổi có nhiều kinh nghiệm trong công tác, tuy nhiên số cán bộ này lại
có một sức ỳ khá lớn, thiếu sáng tạo, khả năng khai thác các phần mềm công nghệ
thông tin, việc ứng dụng công nghệ tin học trong công việc còn những tồn tại, bất
cập. Việc phát triển các kỹ năng mềm trong công tác của cán bộ KTHS còn hạn chế,
nên đã ảnh hưởng đến hiệu quả công tác. Vì vậy xét về kỹ năng nghiệp vụ tỉ lệ cán
bộ KTHS chưa thành thạo các kỹ năng trong công tác như: phát hiện, thu lượm dấu
73 vết tại hiện trường, chưa hoàn thiện được một hồ sơ giám định, chưa có khả năng
đánh giá nhận định về hiện trường; công tác nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật
vào công tác nghiệp vụ còn rất hạn chế.
Thứ ba, về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, ý thức tổ chức kỷ luật: Hầu
hết cán bộ KTHS đa phần đều có trách nhiệm với công việc, có phẩm chất tốt, có lối
sống lành mạnh, chấp hành tốt chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước, các quy định của lực lượng CAND. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại
một bộ phận cán bộ yếu kém về phẩm chất, đạo đức thiếu gương mẫu trong việc
thực hiện các chủ trương, đường lối Đảng và pháp luật của Nhà nước. Một bộ phận
cán bộ KTHS khi triển khai thực hiện nhiệm vụ cấp trên giao còn chậm, ỷ lại, chọn
việc dễ, bỏ việc khó, ngại khó khăn vất vả, trung bình chủ nghĩa, chưa chủ động
trong việc thực thi nhiệm vụ, chưa làm tròn trách nhiệm của người cán bộ CAND, ỷ
lại vào cấp trên. Nhiều cán bộ chưa tâm huyết với nghề nghiệp, chưa yên tâm công
tác, có tâm lý xin chuyển sang lực lượng khác. Một số cán bộ còn vi phạm kỷ luật
công tác của lực lượng CAND.
Theo quyết định 994/2008/QĐ-BCA của Bộ trưởng Bộ Công an, các đội, tổ
KTHS phải triển khai công tác giám định sơ bộ về dấu vết đường, vân, giám định
tài liệu, tuy nhiên đến nay cán bộ KTHS cấp huyện chưa thực hiện được.
Thứ tư, về thể lực: Nhìn chung cán bộ KTHS có thể lực và sức khỏe tốt, tuy
nhiên do môi trường làm việc vất vả, nguy hiểm, độc hại và dễ lây các bệnh truyền
nhiễm nên cần phải được thăm khám định kỳ.
Thứ năm, về công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ: Việc đào tạo bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ mặc dù được chú trọng, tuy nhiên nội dung đào tạo chưa
thực sự phong phú, mang nặng tính lý thuyết, thời gian thực hành còn ít. Công tác
đánh giá kết quả đào tạo chưa đầy đủ và khách quan, mang tính hình thức. Công tác
đào tạo, bồi dưỡng còn mang nặng về bằng cấp, mang tính thủ tục, hoàn thiện hồ sơ,
hình thức đào tạo vừa làm, vừa học…còn nhiều, ít mang lại hiệu quả trong công
việc. Trong khi đó sinh viên tốt nghiệp đại học chính quy chuyên ngành KTHS hoặc
các chuyên ngành khoa học tự nhiên như: đại học Bách Khoa, đại học Khoa học tự
nhiên… còn ít kiến thức thực tiễn, cần có một thời gian đào tạo tại chỗ mới có thể
đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Kiến thức về pháp luật, về quản lý nhà nước của
cán bộ KTHS còn thiếu và yếu, chưa được qua các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên
74 sâu. Số cán bộ KTHS có bằng cấp về ngoại ngữ và trình độ công nghệ thông tin
ngày càng tăng cao và tăng cả về chủng loại bằng, chứng chỉ nhưng thực tế việc sử
dụng vào công việc thực tế còn rất hạn chế, đặc biệt là trình độ ngoại ngữ.
Thứ sáu, về kết quả đánh giá cán bộ: Công tác đánh giá cán bộ hằng năm
được tiến hành vào dịp kết thúc năm công tác. Tuy nhiên việc đánh giá chưa đảm
bảo thực chất, chủ yếu phiên từ danh hiệu thi đua cuối năm sang. Vẫn còn tình trạng
nể nang, xuê xoa trong đánh giá, hoặc cán bộ lớn tuổi “nhường” cho cán bộ trẻ để
phấn đấu đi học, kết nạp đảng...
Thứ bẩy, về cơ cấu, số lượng cán bộ: Về số lượng, cán bộ giám định viên còn
một số lĩnh vực giám định chưa có chuyên gia giỏi. Nhiều giám định viên mới được bổ nhiệm
thiếu kinh nghiệm, kiến thức còn hạn chế, chưa đủ khả năng độc lập trong nghiên cứu, tiến hành
giám định những vụ việc khó, phức tạp. Phần lớn các giám định viên được đào tạo tại các trường
đại học ngoài ngành Công an do đó, trình độ nghiệp vụ công an, trình độ pháp luật còn nhiều hạn
chế. Tại CATP Hà Nội, các giám định viên có mặt bằng trình độ chuyên môn khá cao, song vẫn
yếu khi so với trình độ chuyên môn các giám định viên của các nước tiên tiến về khoa học hình
sự. Những tồn tại hạn chế nêu trên đã làm cho công tác giám định của lực lượng kỹ thuật CATP
Hà Nội còn nhiều bất cập: nhiều vụ giám định thời gian còn kéo dài, có những vụ vượt
thiếu, năng lực chuyên môn, kỹ năng giám định của một giám định viên chưa cao,
quá thời hạn theo quy trình giám định; tỷ lệ số kết luận giám định ở dạng không đủ
cơ sở kết luận vẫn còn cao; một số lĩnh vực, một số chỉ tiêu chưa tự giải quyết tại
chỗ được còn phải thuê khoán chuyên môn các cơ quan khoa học ngành ngoài.
2.3.3.1. Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, điều 201-Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy
định “Điều tra viên tiến hành khám nghiệm nơi xảy ra, nơi phát hiện tội phạm nhằm phát hiện
dấu vết của tội phạm, vật chứng và làm sáng tỏ các tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án”. Theo Chỉ
thị số 02/2001/CT-BCA ngày 6/2/2001 của Bộ trưởng Bộ Công an về tăng cường công tác khám
nghiệm hiện trường trong lực lượng CAND và Quyết định số 57/QĐ-BCA của Bộ Công an quy
định về sự phối hợp giữa CQĐT và các lực lượng nghiệp vụ khác trong hoạt động khám nghiệm
hiện trường thì lực lượng KTHS là lực lượng tiến hành công tác khám nghiệm hiện trường. Chính
vì những bất cập trong tư cách pháp lý, quyền hạn và trách nhiệm của cán bộ chuyên trách về
KTHS chưa được xác định rõ nên đã ảnh hưởng đến tinh thần, trách nhiệm của cán bộ KTHS khi
tiến hành công tác khám nghiệm hiện trường.
2.3.3. Nguyên nhân hạn chế
Thứ hai, hiện nay Bộ Công an chưa có cơ quan nào chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn công tác
khám nghiệm hiện trường ở Công an địa phương (trước đây Viện khoa học hình sự Bộ Công an
có Phòng chiến thuật kỹ thuật hình sự chuyên trách công tác khám nghiệm hiện trường, nhưng
đến năm 1996 đã giải thể). Chính vì vậy việc chỉ đạo, hướng dẫn nâng cao trình độ nghiệp vụ, kỹ
năng nghề nghiệp ở cơ quan chuyên môn cấp bộ đối với Công an các địa phương là không có. Do
vậy cán bộ KTHS ở cấp địa phương chủ yếu tự rèn luyện, tích lũy kinh nghiệm, hoàn thiện kỹ
năng nghề nghiệp. Việc rèn luyện, nâng cao kỹ năng nghề nghiệp gặp khó khăn do không có cơ
quan cấp trên chỉ đạo, hướng dẫn.
Thứ ba, áp lực công việc đối với cán bộ KTHS hiện nay là rất lớn, cán bộ thường xuyên
làm tăng ca, thêm giờ kể cả thứ bẩy, chủ nhật. Đặc biệt trong các đợt cao điểm tập trung đấu
tranh trấn áp tội phạm cán bộ thường xuyên phải làm đêm để phục vụ yêu cầu giám định, khám
nghiệm của các đơn vị trong CATP. Điều đó đã ảnh hưởng đến tâm lý của cán bộ KTHS muốn
xin chuyển công tác khỏi lực lượng KTHS.
Thứ tư, công tác đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng cán bộ hiện nay còn nhiều bất cập.
Công tác đào tạo của các trường CAND còn nặng về lý thuyết do chưa được đầu tư phòng thực
hành với những phương tiện KTHS hiện đại. Chính vì vậy sinh viên chuyên khoa KTHS sau khi
ra trường có kỹ năng nghề nghiệp khá hạn chế, cần phải đào tạo, bồi dưỡng thực tiễn từ 1 đến 2
năm mới có thể thực hiện tốt nhiệm vụ.
Thứ năm, về phương tiện nghiệp vụ hiện nay lực lượng KTHS tuy đã được quan tâm
nhưng việc đầu tư vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu công tác. Các phương tiện trang bị cho các
Đội, Tổ KTHS như: Máy ảnh, valy khám nghiệm hiện trường, đèn phát hiện dấu vết, phương tiện
thu dấu vết... đã rất cũ, lạc hậu, hư hỏng nhiều. Do đó cán bộ KTHS không có điều kiện tiếp cận
với những phương tiện hiện đại nên khi được trang bị đã lúng túng, bị động trong quá trình sử
dụng.
Thứ bẩy, chế độ bảo hiểm an toàn lao động đối với một số lĩnh vực giám định dễ xảy ra tai
nạn (thực nghiệm trong các vụ giám định dấu vết súng đạn), hoặc lây nhiễm các bệnh hiểm nghèo
như lao, nhiễm HIV (giám định pháp y) chưa có...
75
Thứ tám, chế độ chính sách cho lực lượng KTHS còn thấp hơn các lực lượng
khác như cán bộ điều tra, hình sự, kinh tế (phụ cấp đặc thù của lực lượng KTHS là
10% lương, trong khi đó phụ cấp đặc thù của trinh sát hình sự, điều tra viên là
20%)... trong khi đó tính chất công việc, môi trường làm việc của lực lượng KTHS
rất vất vả nên một bộ phận cán bộ, chiến sỹ làm công tác KTHS chưa tâm huyết,
gắn bó với công việc và có tâm lý muốn chuyển sang làm công tác khác. Đến nay
Bộ Công an vẫn chưa có chế độ chính sách đủ để thu hút được cán bộ giỏi ngoài lực
76 lượng vào công tác trong lực lượng KTHS. Chính vì vậy lực lượng KTHS Công an
thành phố Hà Nội chưa có nhiều chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực khám nghiệm
2.3.3.2. Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, nhận thức của lãnh đạo một số đơn vị cấp cơ sở về công tác KTHS chưa đầy đủ,
chưa thấy được vị trí, vai trò quan trọng của công tác KTHS. Chính vì vậy công tác đào tạo, bồi
dưỡng, xây dựng, củng cố lực lượng KTHS cấp cơ sở chưa được quan tâm đúng mức, chất lượng
cán bộ không cao, hiệu quả công tác thấp.
Thứ hai, lực lượng KTHS trong những năm qua đã được củng cố và bổ sung, tuy nhiên
chủ yếu là cán bộ trẻ, ít kinh nghiệm, trình độ chuyên môn còn yếu, kỹ năng sử dụng phương tiện
được trang bị kém. Cán bộ KTHS được giao kiêm nhiệm nhiều việc khác nên đã ảnh hưởng đến
chất lượng hiệu quả công tác chuyên môn. Đặc biệt là những vụ án cố ý gây thương tích gây hậu
quả chết người, những vụ TNGT phức tạp, những vụ việc có tính chất nhạy cảm... do công tác
khám nghiệm hiện trường không được tiến hành kỹ lưỡng, cộng với kỹ năng nghề nghiệp của cán
bộ KTHS hạn chế nên phải tiến hành dựng lại hiện trường, thực nghiệm điều tra nhiều lần rất tốn
công sức, thời gian gây nhiều khó khăn cho quá trình giải quyết vụ án.
Thứ ba, về công tác bố trí, sử dụng, đánh giá cán bộ. Việc bố trí sử dụng cán bộ KTHS tại
CATP Hà Nội trong thời gian qua về cơ bản đảm bảo đúng chuyên ngành được đào tạo, phát huy
được năng lực, sở trường của cán bộ. Tuy nhiên ở một số đơn vị việc sử dụng, phân công công tác
cho cán bộ vẫn còn nhiều hạn chế, chưa phát huy hết những tiềm năng của cán bộ KTHS hiện có.
Vẫn còn tình trạng cán bộ được tuyển dụng không đáp ứng được trình độ. Đây là một trong những
nguyên nhân dẫn đến năng lực của cán bộ còn yếu kém.
Công tác nhận xét, đánh giá cán bộ đã có những chuyển biến, chuyển từ cách tự kiểm
điểm, bình bầu sang đánh giá cụ thể các nội dung công việc được giao như: phẩm chất chính trị,
năng lực chuyên môn, hiệu quả công việc, đạo đức tác phong... tuy vậy qua thực tế cho thấy việc
đánh giá xếp loại cán bộ chưa gắn với kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao, chưa lấy hiệu quả
công việc làm thước đo để đánh giá cán bộ, chưa có những tiêu chí rõ ràng, từ đó chủ nghĩa bình
quân còn tồn tại khá phổ biến. Công tác nhận xét, đánh giá cán bộ chưa thực sự khoa học, còn
hình thức. Hiện tượng ‘dĩ hòa, vi quý’, dẫn đến nhận xét, đánh giá cán bộ chưa chính xác.
Thứ tư, về công tác quy hoạch cán bộ được coi là quan trọng và cần thiết, nhưng một số
đơn vị cấp cơ sở chưa chú trọng đến lực lượng KTHS mà chỉ chú trọng đến các lực lượng điều tra,
trinh sát. Khi lựa chọn cán bộ kế cận chưa đi sâu nghiên cứu phát hiện những năng khiếu, sở
trường của cán bộ để đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cho phù hợp. Hàng năm, chưa xem xét đánh
giá, điều chỉnh, bổ sung kịp thời danh sách cán bộ dự bị, nên tác dụng quy hoạch còn hạn chế.
hiện trường, giám định KTHS và pháp y.
chưa thực sự quan tâm đến lực lượng KTHS. Quy hoạch chưa sát với nhu cầu thực tế nên hiệu quả
quy hoạch không cao.
Thứ năm, về công tác kiểm tra, hướng dẫn cán bộ là một công tác cần thiết trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ nhằm đánh giá đúng chất lượng cán bộ về năng lực, trình độ, kỹ năng nghề
nghiệp, việc chấp hành pháp luật chưa tốt. Tuy nhiên trong những năm qua CATP chưa tổ chức
kiểm tra, hướng dẫn bài bản để đánh giá đúng, toàn diện chất lượng cán bộ KTHS. Việc hướng
dẫn cán bộ KTHS cấp huyện chủ yếu được thực hiện thông qua việc phối hợp giải quyết các vụ
án, vụ việc xảy ra trên địa bàn. Do vậy chất lượng cán bộ KTHS của Công an thành phố chưa
đồng đều.
77 Chưa dựa vào chức danh quy hoạch để xác định con người. Trong quá trình làm quy hoạch còn
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Ở chương này, tác giả đã phân tích thực trạng chất lượng cán bộ KTHS thông qua các chỉ
tiêu về số lượng, cơ cấu tổ chức, các tiêu chí về: trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, phẩm chất chính
trị, đạo đức, về thể lực và kết quả nhận xét đánh giá cán bộ. Qua phân tích, tác giả thấy, nhìn
chung, cán bộ KTHS tại CATP Hà Nội tương đối ổn định về số lượng và ngày càng được nâng
cao về chất lượng. Trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng nghề nghiệp đã
được cải thiện đáng kể, mang lại những hiệu quả tích cực trong công việc. Tuy nhiên, đối chiếu
với các văn bản quy định về tiêu chuẩn đối với cán bộ KTHS, có thể thấy, còn nhiều cán bộ
KTHS Công an thành phố Hà Nội chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn theo quy định. Một số chỉ
tiêu về trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, phẩm chất chưa đạt yêu cầu. Công tác tuyển dụng, đào tạo,
nhận xét, đánh giá cán bộ... tuy đã được thực hiện, song hiệu quả trên thực tế chưa cao. Thực
trạng nêu trên do nhiều nguyên nhân, song một số nguyên nhân chủ yếu như: nhận thức về công
tác KTHS còn chưa đầy đủ, môi trường làm việc rất vả nhưng chế độ chính sách thấp chưa đảm
bảo các nhu cầu của cuộc sống nên cán bộ, còn chưa tâm huyết với công việc; qua nghiên cứu
thực trạng chất lượng cán bộ KTHS Công an thành phố Hà Nội, thấy được vai trò của lực lượng
KTHS, từ đó có thể đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cán bộ KTHS.
CHƯƠNG 3
78 QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÁN
BỘ KỸ THUẬT HÌNH SỰ CÔNG AN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Xu hướng phát triển của kỹ thuật hình sự và những vấn đề đặt ra
cho công tác nâng cao chất lượng cán bộ
Hiện nay trên thế giới đang diễn ra cuộc cách mạng 4.0, khoa học công nghệ
đang phát triển rất nhanh và hết sức đa dạng, việc ứng dụng khoa học công nghệ
vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội đang là một nhu cầu mang tính tất yếu và phổ
biến. Trong đó việc ứng dụng khoa học vào công tác KTHS cũng không nằm ngoài
xu thế này. Trong những năm gần đây tình tội phạm trên thế giới và trong nước có
nhiều diễn biến phức tạp, nhiều loại tội phạm mới, tội phạm phi truyền thống xuất
hiện và có chiều hướng gia tăng, thủ đoạn hoạt động tinh vi và xảo quyệt hơn, đáng
chú ý là tội phạm sử dụng công nghệ cao để phạm tội xuất hiện ngày càng nhiều và
diễn biến phức tạp, sự xuất hiện tội phạm mới này đã đặt ra cho công tác KTHS
nhiều thách thức lớn. Để phát hiện, thu thập, đánh giá, giám định loại dấu vết mới
“dấu vết điện tử’’ đòi hỏi phải nghiên cứu để tìm ra phương pháp, quy trình giám
định mới, đặc biệt cần có sự chuyển giao công nghệ, sử dụng khoa học kỹ thuật và
công nghệ hiện đại, có tính đặc thù. Xuất phát từ yêu cầu của cải cách tư pháp ở
nước ta, trong đó có Đề án đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư
pháp, để đảm bảo tiến trình cải cách tư pháp đúng tiến độ và đạt kết quả tốt, KTHS
cần phát triển mọi mặt và đó là đòi hỏi tất yếu, khách quan.
Trong xu hướng phát triển KTHS chịu nhiều yếu tố tác động, trong đó có thể
kể đến các yếu tố cơ bản như: những quan điểm đường lối của Đảng; chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch đầu tư của Nhà nước và chỉ đạo thực hiện của Ngành Công an
đối với công tác KTHS; tiềm lực thực tế về kinh tế - xã hội, khoa học công nghệ của
Việt Nam và nhu cầu thực tiễn của xã hội đòi hỏi đối với công tác KTHS; sự vận
động nội tại của công tác KTHS và cán bộ lãnh đạo trực tiếp về lĩnh vực này từ
Trung ương đến địa phương; sự tác động của thế giới và sự hội nhập, hợp tác quốc
tế của chúng ta trong lĩnh vực KTHS.
Nhìn tổng quát, xu hướng phát triển của KTHS trong giai đoạn hiện nay đang
đi theo hướng cơ bản sau:
Lý luận khoa học về KTHS ngày càng được bổ sung và hoàn thiện theo
79 hướng hiện đại và thực tiễn hơn, thể hiện trên các lĩnh vực của KTHS, xác định rõ
nét hơn vai trò của KTHS trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và trong
các hoạt động đời sống xã hội, hoàn thiện và cụ thể hơn các quy trình, chỉ dẫn, tiêu
chuẩn trong hoạt động KTHS, hoàn thiện các cơ sở khoa học, cơ sở pháp lý của
hoạt động KTHS, cùng với sự hoàn thiện về mối quan hệ phối hợp giữa KTHS với
chiến thuật hình sự và với cấu thành khác trong khoa học hình sự.
Phương tiện KTHS được trang bị ngày càng đồng bộ và hiện đại. Tính đồng
bộ phải được thể hiện trong việc đầu tư phương tiện kỹ thuật phục vụ cho nhiều
hoạt động, nhiều lĩnh vực của KTHS, đồng bộ còn được thể hiện trên tất cả các
khâu của quá trình hoạt động của KTHS.
Kỹ thuật hình sự ngày càng có vị trí, vai trò quan trọng trong khoa học hình
sự và trong điều tra, xử lý tội phạm. Tổ chức lực lượng KTHS ngày càng chặt chẽ,
đồng bộ, nguồn nhân lực KTHS cần tăng cường cả về số lượng và chất lượng, ngày
càng có nhiều chuyên gia giỏi về các lĩnh vực chuyên môn, có nhiều cán bộ có học
hàm, học vị cao đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho lực lượng KTHS.
Phát triển KTHS nhanh hơn, sâu hơn, rộng hơn theo hướng vừa giao thoa vừa
rẽ nhánh. Các thành tựu của khoa học công nghệ tiên tiến được ứng dụng mạnh mẽ
hơn vào công tác KTHS đáp ứng ngày càng cao trong công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm và giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
Hợp tác quốc tế về KTHS ngày càng được mở rộng và có chiều sâu hơn, lực
lượng KTHS Việt Nam đã ra nhập các tổ chức khoa học hình sự trên thế giới và khu
vực, phấn đấu trở thành thành viên tích cực và có uy tín của các tổ chức này.
3.2. Quan điểm, mục tiêu
Thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị - kinh tế - văn hoá - xã hội của cả nước đã có bước
phát triển, mạnh mẽ sau những năm đổi mới. Người dân Hà Nội đã có mức sống khá về vật chất
và tinh thần, trình độ dân trí phát triển trên nhiều lĩnh vực, trong đó có nhận thức về pháp luật,
song song với sự phát triển tích cực cũng xuất hiện và tồn tại những tiêu cực trong đời sống xã hội
như: Sự phân hoá giàu nghèo, tệ nạn xã hội, tính chất hoạt động của các loại tội phạm về an ninh,
kinh tế, hình sự, ma tuý ngày càng tinh vi và xảo quyệt, táo bạo và liều lĩnh. Một số loại tội phạm
quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia cũng đã xâm nhập vào Thủ đô. Đặc biệt với trình độ khoa học
công nghệ phát triển với tốc độ cao, phương thức thủ đoạn hoạt động của tội phạm cũng có xu
hướng phát triển theo quy luật này.
3.2.1. Quan điểm
Nhiệm vụ đảm bảo vững chắc ANCT, TTATXH ở Thủ đô là cực kỳ quan trọng và hết sức
khó khăn phức tạp, đòi hỏi CATP phải sử dụng nhiều biện pháp nghiệp vụ trong đó có biện pháp
KTHS. Thực tế cho thấy, công tác KTHS ngày càng trở thành một biện pháp khoa học nghiệp vụ
quan trọng trong phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm của lực lượng Công an. Trong công tác
điều tra công tác KTHS đã phát hiện kịp thời chính xác những phương thức hoạt động của tội
phạm, định hướng cho hoạt động điều tra, xác lập được những căn cứ truy nguyên, truy tìm tội
phạm, phục vụ có hiệu quả cho công tác điều tra. Trong công tác xử lý tội phạm những tài liệu,
chứng cứ được xác lập của công tác KTHS đã thực sự góp phần quan trọng, đảm bảo tính chính
xác, khách quan và nghiêm minh.
Nâng cao chất lượng cán bộ KTHS phải xuất phát từ quan điểm, đường lối của Đảng. Xây
dựng cán bộ KTHS phải xuất phát từ đường lối chính trị, đường lối kinh tế của Đảng trên cơ sở
giữ vững và phát huy bản chất của giai cấp công nhân, tính tiên phong của Đảng. Phải thông qua
hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của quần chúng để đào luyện, tuyển chọn, giáo dục,
bồi dưỡng. Thực hiện đúng nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý cán
bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của tổ chức và người đứng đầu các tổ chức chính trị về công
tác cán bộ. Xây dựng, phát triển và nâng cao chất lượng cán bộ KTHS phải xuất phát từ chiến
lược xây dựng đội ngũ cán bộ của CATP Hà Nội, chất lượng của cán bộ KTHS đáp ứng được với
công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm trong tình hình mới. Nâng cao chất lượng cán bộ
KTHS phải dựa trên cơ sở yêu cầu nhiệm vụ. Vì tính chất nghiệp vụ KTHS là một loại lao động
đặc biệt, có nhiệm vụ ứng dụng khoa học kỹ thuật trong công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm. Thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được giao là thực hiện thành công các mục tiêu của cơ quan
đơn vị, cũng chính là thực hiện thành công các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước. Nâng cao chất lượng cán bộ KTHS phải được thực hiện đồng bộ từ khâu
tuyển dụng, đào tạo đến khâu bố trí, sử dụng, nhận xét, đánh giá. Việc nâng cao chất lượng cán bộ
KTHS phải được tiến hành ngay từ khâu tuyển sinh đầu vào của các trường CAND và công tác
tuyển dụng cán bộ ngoài CAND với các hình thức thi tuyển nghiêm túc theo quy trình thống nhất
trên cơ sở tiêu chuẩn hợp lý. Tiếp theo là cả quá trình đào tạo sau khi tuyển dụng nhằm trang bị
những kiến thức, những kỹ năng mới, đồng thời làm tốt việc sắp xếp, sử dụng đúng, có hiệu quả
cán bộ KTHS.
80
3.2.2. Mục tiêu
3.2.2.1. Mục tiêu chung
Thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII xác định rõ:
“Xây dựng quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại… tăng cường nguồn lực, tạo cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại
cho lực lượng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ
81 quốc trong tình hình mới. Tích cực, chủ động chuẩn bị lực lượng đủ mạnh và các kế
hoạch, phương án tác chiến cụ thể, khoa học, sẵn sàng bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và an ninh Tổ quốc trong mọi tình
huống…”[42, tr.149-150].
Tiếp tục thực hiện Nghị Quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị
về một số nhiệm vụ trọng tâm cải cách tư pháp trong thời gian tới và triển khai thực
hiện Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải
cách tư pháp dến năm 2020. Công tác KTHS cần phải tập trung đầu tư phát triển
toàn diện, đồng bộ từ công tác cán bộ, xây dựng cơ sở vật chất, đầu tư trang thiết bị
phương tiện.
Phát triển toàn diện công tác KTHS từ hoàn thiện cơ sơ pháp lý, công tác tổ
chức cán bộ, chức năng nhiệm vụ, đổi mới công tác đào tạo cán bộ và xây dựng cơ
sở vật chất hạ tầng, đầu tư trang thiết bị, phương tiện KTHS theo phân cấp nhiệm
vụ của từng đơn vị.
Tập trung kiện toàn tổ chức và trang bị phương hiện đại cho lực lượng KTHS
cấp huyện để chủ động trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm theo nhiệm
Trước những yêu cầu mới của công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước lực lượng Công an
nói chung và lực lượng KTHS nói riêng phải từng bước được xây dựng chính quy và hiện đại
nhằm đáp ứng được với nhiệm vụ được giao trong công tác đảm bảo ANCT và TTATXH.
vụ được phân công.
Xây dựng cán bộ KTHS có phẩm chất và bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo
đức, lối sống lành mạnh, không quan liêu tham nhũng, kiên quyết đấu tranh chống
quan liêu, tham nhũng, lãng phí; có tư duy đổi mới, sáng tạo; có kiến thức chuyên
môn, kỹ năng nghề nghiệp, tin học, ngoại ngữ và năng lực hoạt động thực tiễn, đáp
ứng yêu cầu của công tác đảm bảo an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội
trong tình hình mới; có tinh thần đoàn kết, hợp tác, ý thức tổ chức kỷ luật cao, có
tinh thần trách nhiệm, tận tụy với công việc được giao. Xây dựng cán bộ KTHS đảm
bảo đủ về số lượng và sự chuyển tiếp liên tục giữa các thế hệ cán bộ. Thực hiện tốt
công tác quy hoạch và đào tạo để có nguồn cán bộ kịp thời.
3.2.2.2. Mục tiêu cụ thể
82
Củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng cán bộ KTHS đến năm 2019, nhằm
chủ động chuẩn bị phương án nhân sự giới thiệu ứng cử Đại hội Đảng các cấp
nhiệm kỳ 2020 – 2025, Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 – 2026.
Xây dựng cán bộ, chỉ huy lực lượng KTHS trong sạch, vững mạnh, có tinh
thần trách nhiệm cao, gương mẫu, có ý thức phấn đấu vươn lên nhằm đáp ứng tốt
hơn yêu cầu, nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng hình ảnh đẹp của người cán
bộ, chiến sỹ Công an Thủ đô gần gũi, thân thiện, trách nhiệm, nhân văn, vì nhân dân
phục vụ.
Có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nguồn trong quy hoạch về chính trị,
nghiệp vụ, kỹ năng lãnh đạo theo từng lĩnh vực công tác đảm bảo các điều kiện, tiêu
chuẩn, năng lực, phẩm chất, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ khi được điều động, luận
chuyển, bổ nhiệm.
Thực hiện các giải pháp và biện pháp về đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, luân
chuyển, điều động, bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ… để kiện toàn, nâng cao trình độ
nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp, năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện và tinh thần
trách nhiệm của cán bộ, chỉ huy lực lượng KTHS, kết hợp với công tác luân chuyển,
bổ nhiệm lãnh đạo, chỉ huy trong CATP.
Phấn đấu đến năm 2025, lực lượng KTHS đạt 75% có trình độ chuyên môn
đại học trở lên, 100% được bồi dưỡng nghiệp vụ KTHS hằng năm, thành thạo kỹ
năng nghề nghiệp, trong đó có 3-5% là chuyên gia trong các lĩnh vực khám nghiệm
hiện trường, giám định KTHS và pháp y, tin học, ngoại ngữ.
100% cán bộ có trình độ trung cấp lý luận chính trị trở lên.
3.3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự Công
an thành phố Hà Nội
Qua phân tích thực trạng cán bộ KTHS và căn cứ vào tình hình cụ thể của
công tác đảm bảo ANTT trên địa bàn Thủ đô Hà Nội, với những nguyên nhân hạn
chế vì vậy cần thiết phải có các giải pháp phù hợp để nâng cao chất lượng cán bộ
KTHS. Để thực hiện mục tiêu đề ra nêu trên, trong thời gian tới cần thực hiện tốt
một số giải pháp chủ yếu sau đây:
3.3.1. Giải pháp chung
83
Thứ nhất, tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ,
nâng cao chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự.
Xác định vấn đề cán bộ là then chốt trong công tác xây dựng Đảng, là nhân tố
quyết định đến thành công của sự nghiệp đổi mới, ảnh hưởng trực tiếp đến sự của
đảm bảo an ninh trật tự tại địa phương. Có thể nói, kết quả của công tác đảm bảo an
ninh trật tự mà CATP Hà Nội đạt được hôm nay chính là có sự quan tâm chỉ đạo sát
sao của các cấp ủy Đảng một cách toàn diện trên nhiều lĩnh vực, trong đó có vấn đề
cán bộ và công tác cán bộ. Trong giai đoạn hiện nay, tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng, các cấp ủy tại CATP Hà Nội, nổi lên một số vấn đề cần quan tâm, chú ý sau:
- Cùng với việc chăm lo quán triệt các Nghị quyết của Đảng và đẩy
mạnh việc thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước, các cấp ủy Đảng
trong CATP Hà Nội phải chú trọng xây dựng các phương án, biện pháp đảm bảo nói
chung, công tác tổ chức cán bộ nói riêng, để các cấp ủy các đơn vị trực thuộc vận
dụng vào việc xác định nhiệm vụ chính trị và kế hoạch công tác của mình.
- Cần tổng kết đánh giá về cán bộ và công tác cán bộ một cách thường
xuyên. Thông qua đó phát hiện những nhân tố mới, những cách làm mới trong
công tác cán bộ. Đánh giá thực chất cán bộ và công tác cán bộ, một mặt vừa
tìm ra nguyên nhân, khâu quan trọng của vướng mắc, khó khăn trong công tác
cán bộ của từng cấp để có giải pháp tháo gỡ, khắc phục khó khăn, phát huy
những thành quả đạt được. Mặt khác, có thể kiểm tra phẩm chất, năng lực của
cán bộ để khẳng định cái đúng, nêu gương những cán bộ tốt, uốn nắn những sơ hở
trong công tác cán bộ, ngăn chặn những biểu hiện lệch lạc, thoái hóa, biến chất của
cán bộ, chiến sỹ.
- Kịp thời điều chuyển những cán bộ, chiến sỹ không có năng lực với
công việc được phân công; có biện pháp xử lý kịp thời những cán bộ năng lực quá
yếu hoặc có vi phạm; tăng cường cho cấp quận, huyện, thị xã những cán bộ có
chuyên môn, năng lực công tác tốt, có uy tín từ Phòng Kỹ thuật hình sự để làm nòng
cốt cho các Đội, Tổ KTHS.
- Cần phải tăng cường sự lãnh đạo tập thể về công tác cán bộ, vì quyết
định vấn đề cán bộ có ý nghĩa quan trọng đến việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và
ảnh hưởng đến sinh mệnh chính trị của từng cá nhân. Nhưng cũng đồng thời phải đề
cao tính chịu trách nhiệm của cá nhân lãnh đạo.
84
Thứ hai, quán triệt sâu sắc, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước cho
cán bộ KTHS. Kiên quyết đấu tranh với những quan điểm sai trái, luận điệu xuyên
tạc; mở rộng các hình thức tuyên truyền, nhân rộng những điển hình tiên tiến,
những cách làm sáng tạo, hiệu quả.
Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao đạo đức cách
mạng cho cán bộ kỹ thuật hình sự, trong đó chú trọng nội dung xây dựng Đảng về
đạo đức, truyền thống lịch sử, văn hoá của dân tộc, truyền thống của lực lượng
CAND; kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa đào tạo với rèn luyện trong thực tiễn.
Tích cực triển khai nghiên cứu, học tập và thực hiện nghiêm túc các chỉ thị,
nghị quyết của Đảng và Nhà nước về công tác chính trị tư tưởng, đặc biệt là Nghị
quyết Trung ương 4, khóa XII về “Tăng cường xây dựng chỉnh đốn Đảng; ngăn
chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong CAND gắn với thực hiện Chỉ thị số 05 ngày
15-5-2016 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh” và Chỉ thị số 07 ngày 26-10-2016 của Bộ Công an về
“Tăng cường lãnh đạo nâng cao văn hóa ứng xử Công an nhân dân trong tình hình
mới”; các quy định của điều lệnh CAND về tư thế, lễ tiết, tác phong của cán bộ,
chiến sĩ.
Thứ ba, tăng cường hiệu quả công tác phối hợp giữa các đơn vị trong việc
nâng cao chất lượng cán bộ KTHS như: công tác tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng,
nâng cao trình độ nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp, nhận xét đánh giá cán bộ.
3.3.2. Giải pháp cụ thể
3.3.2.1. Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyển dụng, bố trí
và sử dụng cán bộ kỹ thuật hình sự
Trên cơ sở quy định tiêu chuẩn chức danh cán bộ KTHS, cơ cấu cán bộ và
biên chế cán bộ cho từng đơn vị cần tiến hành tuyển dụng và bố trí cán bộ theo đúng
tiêu chuẩn chức danh chuyên ngành đào tạo, cơ cấu và biên chế cán bộ như đã quy
định. Bộ Công an cần có chế độ đãi ngộ phù hợp để thu hút tuyển dụng những cán
bộ ngành ngoài có trình độ chuyên môn cao, có học hàm, học vị vào công tác trong
lực lượng CAND, nhất là lực lượng KTHS.
Việc tuyển dụng cán bộ KTHS muốn đạt hiệu quả cao cần phải đổi mới về
85
hình thức tuyển dụng, phương pháp tuyển dụng. Cụ thể:
- Bộ Công an cần sửa đổi quy định tuyển dụng cán bộ ngành ngoài vào
CAND theo hướng bám sát tiêu chuẩn chức danh cán bộ đã được quy định và định
hướng chung về cán bộ, trẻ hóa cán bộ, nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu của
công tác đảm bảo ANTT.
- Thực hiện tốt quy trình bổ nhiệm và sử dụng cán bộ. Việc bổ nhiệm và sử
dụng cán bộ phải đúng lúc, đúng tầm, đúng việc, đúng tiêu chuẩn, hợp với năng lực
và sở trường, đúng với chuyên môn được đào tạo. Hiện nay, cơ cấu cán bộ lực
lượng KTHS Công an thành phố Hà Nội chưa hợp lý cả về độ tuổi, giới tính, trình
độ đào tạo,… Nếu công tác tuyển dụng thực hiện không tốt sẽ tiếp tục mất cân đối
về cơ cấu tuổi, giới tính, trình độ của cán bộ. Do đó, việc tuyển dụng cần quán triệt
thực hiện theo đúng nhu cầu của đơn vị, thiếu vị trí nào thì tuyển đúng vị trí đó và
phải đáp ứng được yêu cầu về trình độ, năng lực, kỹ năng, phẩm chất đạo đức…
Nếu vị trí nào có nhiều người dự tuyển thì phải tuyển chọn được người có năng lực,
phù hợp với yêu cầu phù hợp nhất.
- Bố trí cán bộ phải đúng chuyên ngành được các trường CAND đào tạo và
chuyên môn của cán bộ được tuyển dụng. Kiên quyết không bố trí, sử dụng những
cán bộ không đủ tiêu chuẩn bằng cấp chuyên môn, nghiệp vụ và trình độ năng lực
và phẩm chất đạo đức hoặc bố trí không đúng chuyên ngành đào tạo. Làm tốt công
tác biểu dương, khen thưởng, kỷ luật để kịp thời động viên, khuyến khích cán bộ
nêu cao tinh thần trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ, có thái độ phục vụ nhân
dân tận tụy. Tạo điều kiện về mọi mặt để cán bộ đã bố trí đúng vị trí phát huy được
năng lực, sở trường hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt nhất.
3.3.2.2. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch cán bộ kỹ thuật hình sự
Quy hoạch cán bộ là một nội dung trọng yếu của công tác cán bộ, bảo
đảm cho công tác cán bộ đi vào nề nếp, chủ động, đáp ứng cả nhiệm vụ trước
mắt và lâu dài; làm căn cứ để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ vững vàng về chính
trị, trong sáng về đạo đức, thành thạo về chuyên môn, nghiệp vụ, có trình độ
và năng lực, nhất là năng lực thực tiễn tốt. Xuất phát từ những tồn tại trong công tác
quy hoạch cán bộ của lực lượng KTHS, trong thời gian tới để nâng cao chất lượng
công tác quy hoạch cần thực hiện tốt các nội dung sau:
Phòng Tổ chức cán bộ CATP Hà Nội cần xây dựng kế hoạch, hướng dẫn thực
86 hiện quy hoạch cấp uỷ nhiệm kỳ 2020 - 2025 và các chức danh chủ chốt của các
đơn vị trong CATP. Trong quy hoạch cán bộ chủ chốt chú ý phát hiện sớm nguồn
cán bộ trẻ có đức, có tài, có triển vọng về khả năng lãnh đạo, quản lý đưa vào quy
hoạch để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng tạo nguồn các chức danh lãnh đạo, quản lý
đáp ứng yêu cầu chính trị trước mắt và lâu dài của từng đơn vị.
Việc xây dựng quy hoạch phải bảo đảm có tính kế thừa, phát triển và cơ cấu
hợp lý; thực hiện xây dựng quy hoạch cấp dưới làm cơ sở để phát hiện nguồn cho
quy hoạch cán bộ cấp trên; Quy hoạch phải xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ chính trị
và thực tế cán bộ KTHS của từng thời kỳ để xác định tiêu chuẩn, cơ cấu cán bộ
trong quy hoạch (trình độ, chuyên ngành đào tạo, lĩnh vực công tác, độ tuổi, giới
tính…).
Mục tiêu quy hoạch cán bộ KTHS Công an thành phố Hà Nội trong thời gian
tới phải đảm bảo các yêu cầu sau:
Đáp ứng đủ số lượng hiện tại và số lượng cần tuyển dụng để bổ sung
cho giai đoạn kế tiếp, số cán bộ KTHS phải thay thế do không đáp ứng được yêu
cầu nhiệm vụ mới, số nghỉ hưu, hoặc do tinh giản biên chế, tinh gọn tổ chức, bộ
máy… Cơ cấu cán bộ KTHS cần đảm bảo về độ tuổi, giới tính,… khắc phục tình
trạng bố trí chưa đều và thiếu cân đối như hiện nay. Xuất phát từ yêu cầu trẻ hóa
cán bộ, phấn đấu mỗi nhiệm kỳ trẻ hóa khoảng 30% - 40% cán bộ chỉ huy các cấp,
quy hoạch những người có triển vọng nhưng phải trẻ tuổi để có quỹ thời gian cho
việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ và kinh qua thực tiễn ở cơ sở. Khi bố trí
vào chức danh quy hoạch, phải đảm bảo lần đầu tham gia cấp ủy hoặc lần đầu bổ
nhiệm, giới thiệu ứng cử các chức danh lãnh đạo, quản lý phải đủ tuổi công tác từ
hai nhiệm kỳ trở lên, ít nhất cũng trọn một nhiệm kỳ (mỗi nhiệm kỳ là 5 năm). Phải
đảm bảo cơ cấu 3 độ tuổi, giãn cách giữa các độ tuổi là 5 năm. Đảm bảo tỷ lệ nữ
không dưới 15% trong quy hoạch cấp ủy, Ban thường vụ cấp ủy và ban lãnh đạo các
đơn vị, địa phương các cấp.
Trình độ chuyên môn: Hiện nay, trình độ của cán bộ KTHS nhất là cấp huyện
chưa đảm bảo về chất lượng. Điều này thể hiện ở số cán bộ KTHS đã được bố trí
không đáp ứng yêu cầu công tác. Tỷ lệ cán bộ, cán bộ có trình độ chuyên môn thấp
hơn yêu cầu công việc vẫn còn nhiều. Do đó, việc quy hoạch trong thời gian sắp tới
phải đảm bảo tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn với từng vị trí, chức danh cán bộ.
87
Tính kế thừa: Cũng do mất cân đối về mặt cơ cấu tuổi, giới tính… nên tính kế
thừa ở Phòng KTHS và các Đội, Tổ KTHS cấp huyện còn nhiều bất cập, số cán bộ
dưới 35 tuổi chiếm số đông, trong khi đó số cán bộ trên 40 tuổi chiếm tỉ lệ thấp.
Trên thực tế, nhiều trường hợp chức danh chỉ huy cấp đội khi cần thay thế thì không
tìm được người có đủ các tiêu chuẩn cần thiết để thay thế. Vì vậy, mục tiêu của quy
hoạch là phải khắc phục được tình trạng thiếu tính kế thừa liên tục giữa các thế hệ
cán nhằm đáp ứng tốt cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài.
3.3.2.3. Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ và
kỹ năng nghề nghiệp cho cán bộ kỹ thuật hình sự
Từ thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ KTHS còn nhiều hạn chế,
bất cập như: chưa có quy hoạch tổng thể và chiến lược dài hạn; một số cán bộ
KTHS có trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ chưa đáp ứng được yêu cầu đặt
ra. Để khắc phục những hạn chế, bất cập tại CATP Hà Nội cần phải thực hiện tốt
một số nội dung sau:
- Kiến nghị Học viện Cảnh sát nhân dân và Trường Cao đẳng Cảnh sát nhân
dân I đổi mới nội dung, chương trình đào tạo đối với chuyên khoa KTHS. Cụ thể:
Các trường CAND cần phối hợp với Viện Khoa học hình sự, Bộ Công an và
Phòng KTHS Công an các tỉnh, thành phố, trước hết là với Phòng KTHS CATP Hà
Nội tăng cường các hoạt động thực hành, thực tế cho sinh viên, học lý thuyết tới
đâu thực hành ngay tới đó nhằm trang bị lý luận gắn liền với rèn luyện kỹ năng thực
hành cho sinh viên; nhiều môn học sẽ được phối hợp theo hình thức giờ học lý
thuyết do các trường CAND đảm nhận, giờ thực hành do các phòng KTHS đảm
nhận; tận dụng cán bộ giàu kinh nghiệm trong việc hướng dẫn thực hành cho sinh
viên; chuyển đổi việc đào tạo một số môn học sang hình thực phối hợp đào tạo bồi
dưỡng để trau dồi kinh nghiệm thực tiễn cho giáo viên, đề xuất bổ nhiệm chức danh
giám định viên cho giáo viên khoa KTHS các trường CAND.
Các trường CAND cần bổ sung chương trình khung đào tạo chuyên ngành
KTHS phù hợp với những quy định của Luật giám định tư pháp và các Thông tư
của Bộ trưởng Bộ Công an về công tác KTHS. Theo quy định tại điều 3, Thông tư
số 33/2014/TT-BCA, giám định KTHS hiện nay có 10 lĩnh vực; trong đó có lĩnh
vực giám định kỹ thuật số và điện tử là lĩnh vực mới, cần nghiên cứu biên soạn tài
liệu giảng dạy, tập huấn để đào tạo giám định viên tư pháp về lĩnh vực này.
88
Về phương diện lý luận cũng như thực tiễn công tác KTHS hiện nay ở Việt
Nam, lực lượng KTHS đang thực hiện 3 nội dung công tác nghiệp vụ cơ bản là:
công tác khám nghiệm hiện trường, công tác giám định KTHS, công tác kỹ thuật
phòng chống tội phạm và của 3 nội dung này đang được triển khai đồng bộ từ trung
ương đến địa phương. Do vậy, trong chương trình đào tạo tại các trường CAND
ngoài việc đào tạo chung về KTHS như hiện nay nên đào tạo chuyên sâu theo 3
chuyên ngành hẹp: khám nghiệm hiện trường, giám định KTHS và kỹ thuật phòng
chống tội phạm. Nếu theo hướng này sẽ có nhiều tác dung thiết thực, trước hết khi
một sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành KTHS sẽ được cấp bằng cử nhân KTHS,
đồng thời được cấp chứng chỉ chuyên sâu, điều này rất thuận lợi cho các đơn vị khi
phân công công tác tại các phòng, các đội chuyên môn, mặt khác trong thời gian
học tập tại nhà trường sinh viên đã xác định được công việc chuyên môn của mình
sau khi tốt nghiệp, từ đó có ý thức rèn luyện trong học tập.
Để giúp sinh viên chuyên ngành KTHS có kiến thức thực tế ngay từ khi còn
trên ghế nhà trường thì ngoài việc được thực hành, học tập tại Viện Khoa học hình
sự và Phòng Kỹ thuật hình sự CATP Hà Nội, nên cho sinh viên tham gia trực tiếp
vào công tác khám nghiệm hiện trường. Muốn vậy, giữa các trường CAND và Viện
Khoa học hình sự, Phòng Kỹ thuật hình sự CATP Hà Nội cần nghiên cứu thống
nhất quy chế phối hợp nhằm đảm bảo nhanh chóng, cơ động, gọn nhẹ để khi có
những vụ việc thực tế xảy ra sẽ thông báo để sinh viên tham gia kịp thời.
Trong xu hướng phát triển của KTHS hiện nay, vấn đề nguồn nhân lực đang
được xem là nhân tố chính, quyết định cho việc ứng dụng khoa học công nghệ vào
công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Chính vì vậy đổi mới công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ là một tất yếu khách quan.
- Bộ Công an: Cần ban hành các chính sách và thực hiện thống nhất quản lý
chặt chẽ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ KTHS. Sinh viên các trường CAND tốt
nghiệp chuyên khoa KTHS phải được bố trí công tác đúng với chuyên ngành đào
tạo.
- Trung tâm huấn luyện và dưỡng nghiệp vụ CATP: cần nghiên cứu và thực
hiện đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ
KTHS cho phù hợp và gắn với nhu cầu thực tiễn.
- Đổi mới nội dung đào tạo, bồi dưỡng theo hướng tăng cường kỹ năng nghề
89 nghiệp cho cán bộ KTHS: Công tác đào tạo, bồi dưỡng hiện nay nặng về lý thuyết
cơ bản, chưa quan tâm đến kỹ năng nghiệp vụ của cán bộ KTHS. Vì thế, cần phải
lựa chọn kỹ lưỡng các nhóm kiến thức, mức độ, phạm vi cho thật phù hợp với từng
loại đối tượng. Ngoài những nội dung chung quy định đào tạo, bồi dưỡng cho cán
bộ KTHS được quy định, xuất phát từ những yếu kém của đào tạo trong thời gian
qua, cần chú trọng đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng mà cán bộ KTHS đang
cần, kiến thức Nhà nước và pháp luật, về khoa học tổ chức và quản lý, quản lý
nguồn nhân lực…; kỹ năng thực hiện nhiệm vụ, nhất là cách xử lý tình huống.
Mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ KTHS về kỹ năng khám
nghiệm hiện trường, phát hiện, thu lượm bảo quản dấu vết, vật chứng, kỹ năng chụp
ảnh nghiệp vụ, quay camera, tin học nghiệp vụ, tin học văn phòng, sử dụng khai
thác các phương tiện giám định, các phần mềm nghiệp vụ… nhưng phải gắn với
thực hiện chương trình cải cách hành chính nhà nước về ứng dụng công nghệ thông
tin trong hoạt động quản lý nhà nước.
Quan tâm bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước và kỹ năng lãnh đạo, kỹ
năng kiểm tra, hướng dẫn cho cán bộ chỉ huy cấp đội, phòng, quận, huyện, thị xã.
Đối với cán bộ KTHS cấp huyện cần bồi dưỡng chuyên sâu kỹ năng khám nghiệm
hiện trường, kỹ năng vẽ sơ đồ hiện trường, xây dựng hồ sơ khám nghiệm hiện
trường, kỹ năng nhận định đánh giá hiện trường; đối với cán bộ giám định cần theo
hướng đào tạo những chuyên gia giỏi trong từng lĩnh vực giám định như: giám định
gen, giám định cháy, nổ, giám định các chất hóa học, ma túy, giám định dấu vết
công cụ, giám định súng đạn, giám định chữ viết, chữ ký, phương pháp nghiên cứu
khoa học…Đây là những lĩnh vực giám định cần có kiến thức, chuyên môn sâu.
Việc đào tạo phải diễn ra thường xuyên, hằng ngày (đào tạo kèm cặp) thì mới có thể
đạt hiệu quả. Bên cạnh đó cần đào tạo kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng chỉ đạo điều
hành, kỹ năng chỉ đạo thực hiện kế hoạch, ban hành quyết định, tổ chức điều hành
cuộc họp, quản trị thời gian và nguồn lực.
- Nâng cao văn hóa ứng xử, giáo dục về phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp:
Bao gồm các hệ thống giá trị, các niềm tin và quan điểm, truyền thống lực lượng
CAND, thói quen, tác phong sinh hoạt và phong cách ứng xử, điều lệnh CAND,
tăng cường bồi dưỡng nâng cao đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ KTHS nhằm đảm
bảo ý thức tổ chức kỷ luật, kỷ cương, nghiêm minh trong thực hiện nhiệm vụ.
90
Bộ Công an cần xây dựng chỉ tiêu đào tạo chuyên ngành KTHS cho Học viện
Cảnh sát nhân dân, các trường Đại học Cảnh sát nhân dân, Cao đẳng Cảnh sát nhân
dân I, II, đảm bảo nhu cầu bổ sung biên chế cho lực lượng KTHS hằng năm
(khoảng 700 đại học, 1.100 trung cấp).
3.3.2.4. Đổi mới công tác đánh giá cán bộ kỹ thuật hình sự Theo hướng: Xuyên suốt, liên tục, đa chiều, theo tiêu chí cụ thể, bằng sản
phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết quả; gắn đánh giá cá nhân với tập thể và
kết quả thực hiện nhiệm vụ của đơn vị.
Các quy định về nhận xét, đánh giá cán bộ CAND đã được Bộ công an quy
định rõ trong Thông tư 06/2011/TT-BCA. Tuy nhiên, việc nhận xét, đánh giá cán bộ
hiện nay chưa phản ánh thực về phẩm chất và năng lực của cán bộ. Các tiêu chí còn
chung chung, chưa cụ thể hóa cho từng lực lượng, khi đánh giá khó phân định được
ranh giới mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ, đặc biệt là rất khó để xác định
mức độ “hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế về năng lực”. Việc đánh giá, nhìn
chung còn mang tính hình thức, kết quả đánh giá chưa phản ánh chính xác mức độ
hoàn thành và chất lượng công việc, chất lượng cán bộ KTHS.
Đổi mới công tác nhận xét, đánh giá cán bộ KTHS là một giải pháp quan
trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới tinh thần, thái độ làm việc và chất lượng công việc
của cán bộ. Chỉ khi đánh giá chặt chẽ, nghiêm túc, công bằng, khách quan và sử
dụng kết quả đánh giá hợp lý, cán bộ mới nghiêm túc trong thực hiện nhiệm vụ,
nâng cao chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự và cải cách hành chính. Để đổi mới
công tác đánh giá cán bộ, cần thực hiện tốt một số nội dung sau:
- Cần có quy định cụ thể, công bằng, khách quan và tách bạch
rõ ràng giữa trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, đơn vị với kết quả đánh giá
của từng cán bộ, tách bạch giữa kết quả đánh giá cá nhân cán bộ với kết
quả thành tích của tập thể cơ quan, đơn vị, tổ chức để tránh tình trạng vì thành
tích tập thể, trách nhiệm người đứng đầu mà “dĩ hòa vi quý” với từng cá nhân
công chức trong tổ chức.
- Sử dụng kết hợp các phương pháp đánh giá khác nhau cho các
vị trí thực hiện nhiệm vụ khác nhau. Đặc thù của cán bộ KTHS là thường xuyên
phải tiếp xúc và phối hợp với các lực lượng điều tra, tiếp xúc với nhân dân và các tổ
91 chức, đơn vị nghiệp vụ trong CATP. Do vậy, cần phải kết hợp phương pháp đánh
giá trong nội bộ và kết quả đánh giá từ bên ngoài (từ người dân, cơ quan, tổ chức,
đơn vị khác khi đến trưng cầu, yêu cầu giám định...) để kết quả đánh giá được
khách quan, toàn diện hơn.
- Đưa hoạt động kiểm tra trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề (đối với
lĩnh vực giám định) định kỳ hằng năm đối với cán bộ KTHS nhằm đánh giá mức độ
phát triển về năng lực chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ của cán bộ, mức độ cập nhật,
nắm chắc các quy định mới trong hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của lĩnh vực
KTHS. Bên cạnh thực hiện việc đánh giá, phân loại cán bộ KTHS cuối năm theo
quy định hàng tháng hoặc hàng quý, nên tổ chức các buổi đánh giá quá trình thực
hiện công việc của cán bộ KTHS để đảm bảo tính công bằng và tạo động lực thúc
đẩy quá trình làm việc của cán bộ chiến sỹ.
- Kết quả nhận xét, đánh giá cán bộ hàng năm cần được phân tích, sử dụng
làm cơ sở để lựa chọn, sàng lọc, luân chuyển, quy hoạch, định hướng phát triển cán
bộ KTHS. Việc đánh giá cán bộ theo kết quả công việc là một giải pháp rất cần
thiết, tuy nhiên, không phải là công việc dễ dàng. Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ
cơ chế, tư duy, quan niệm, thói quen trong việc đánh giá. Vì vậy, để áp dụng những
nội dung như trên vào việc đánh giá cán bộ KTHS, cần phải xây dựng hệ thống tiêu
chí và chỉ số cụ thể theo vị trí thực hiện nhiệm vụ như: năng lực chuyên môn, kỹ
năng thực hiện nhiệm vụ, mức độ hoàn thành nhiệm vụ được giao, thời gian hoàn
thành... Đồng thời, phải kết hợp đồng bộ giữa việc nhận xét, đánh giá cán bộ với
việc bình xét thi đua, khen thưởng, kỷ luật.
3.3.2.5. Hoàn thiện công tác khen thưởng, kỷ luật cán bộ
Khen thưởng, kỷ luật là nhằm tạo động lực để cán bộ phấn đấu hoàn thành
nhiệm vụ. Để động viên cán bộ phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ cần phải có các
hình thức khen thưởng kịp thời, xứng đáng với thành tích họ đã đạt được. Vì vậy
cần quy định cụ thể các hình thức khen thưởng tương ứng với thành tích đạt được
đối với những cán bộ, chiến sỹ lập thành tích xuất sắc đột xuất trong thực hiện
nhiệm vụ như Huân chương, Huy chương, Danh hiệu vinh dự nhà nước, Kỷ niệm
chương, Huy hiệu, bằng khen, Giấy khen, kèm theo đó là những phần thưởng vật
chất nhất định xứng đáng với sự cống hiến của cán bộ. Đồng thời, cán bộ được khen
92 thưởng do có thành tích và công trạng cần được xét nâng bậc lương trước thời hạn;
được ưu tiên khi xem xét quy hoạch, bồi dưỡng, đào tạo, bổ nhiệm giữ cương vị chỉ
huy các cấp. Việc khen thưởng kịp thời, xứng đáng không những có tác dụng biểu
dương cán bộ đã có thành tích, khuyến khích họ tiếp tục phấn đấu mà còn trở thành
động lực thúc đẩy những cán bộ khác noi gương, phấn đấu theo. Cần đưa công tác
thi đua khen thưởng vào nền nếp, thực chất, thực sự là một nguồn lực tinh thần
mạnh mẽ trong chính sách đãi ngộ cán bộ... chú trọng các hình thức khen thưởng,
khen thưởng kịp thời thoả đáng những cán bộ có thành tích, cống hiến xuất sắc để
động viên, khích lệ sự cống hiến của họ nhằm thúc đẩy cán bộ nâng cao hiệu quả
công tác. Tuy nhiên bên cạnh đó khắc phục “bệnh thành tích”, hình thức, lãng phí.
Bên cạnh các hình thức khen thưởng, cũng cần phải quy định rõ những chế tài
nghiêm khắc đối với cán bộ vi phạm kỷ luật có như vậy, biện pháp kỷ luật mới đạt
được mục đích là khuyến khích cán bộ tuân thủ pháp luật, ngăn ngừa việc xảy ra vi
phạm kỷ luật, một việc mà cả người cán bộ, CATP và nhân dân đều không mong
muốn, vì nếu xảy ra thì vừa phải xử lý cán bộ, vừa làm ảnh hưởng đến uy tín của
lực lượng CAND. Khi xử lý kỷ luật cán bộ cần phải chính xác, rõ ràng, minh bạch,
kết quả của một quyết định kỷ luật phải nghiêm minh, đủ sức răn đe, giáo dục và
phù hợp với quy định của pháp luật.
3.3.2.6. Tăng cường công tác kiểm tra nghiệp vụ đối với cán bộ kỹ thuật hình
sự
Thực tiễn những năm qua cho thấy, những hạn chế của cán bộ KTHS nếu
không được kiểm tra kịp thời sẽ tạo cơ hội cho những sai sót lớn hơn trong công tác
nghiệp vụ (một số vụ án oan, sai thời gian qua nguyên nhân một phần do công tác
khám nghiệm hiện trường ban đầu được tiến hành không đúng yêu cầu nghiệp vụ,
kết quả công tác giám định sai) dẫn đến mất uy tín của lực lượng CAND, mất lòng
tin của nhân dân đối với lực lượng CAND, uy tín của Đảng, của Nhà nước đối với
nhân dân bị giảm sút, nhiều trường hợp phải kỷ luật cho xuất ngũ. Vì vậy, công tác
quản lý, kiểm tra hoạt động của cán bộ KTHS, nhất là cán bộ KTHS cấp cơ sở phải
được tiến hành thường xuyên để chủ động phòng ngừa, không chờ khi cán bộ vi
phạm nghiêm trọng mới kiểm tra xử lý kỷ luật. Do vậy cần có những giải pháp cơ
bản sau:
Thứ nhất, cần có quy định cụ thể hơn về kiểm tra đối với cán bộ KTHS. Đó là
93 điều kiện bảo đảm cho cán bộ thực hiện nhiệm vụ một cách nghiêm chỉnh, đúng
pháp luật, đúng quy định của lực lượng CAND có hiệu quả cao. Thông qua các hoạt
động kiểm tra, hướng dẫn giúp cho cấp trên biết được cán bộ, chiến sỹ cấp dưới
thực hiện công việc được giao đến đâu, có đúng không, có gì sai sót không? Nếu có
sai phạm thì có chỉ đạo chấn chỉnh kịp thời. Đồng thời, thông qua đó còn có cơ sở
thực chất để xem xét, đánh giá được mệnh lệnh, chỉ đạo của mình có thực hiện được
hay không. Cũng qua kiểm tra giúp cho cán bộ, chiến sỹ thấy được ưu điểm, tồn tại
của mình để có hướng điều chỉnh cho đúng, không xảy ra những sai lầm.
Thứ hai, muốn thực hiện kiểm tra được, phải có những quy định cụ thể. Bộ
Công an cần ban hành văn bản quy định rõ về thẩm quyền và cơ chế bảo đảm thực
thi thẩm quyền kiểm tra của lực lượng KTHS cấp trên đối với lực lượng KTHS cấp
dưới; đồng thời phải có quy định rõ việc cán bộ phải chịu trách nhiệm về những sai
phạm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình.
Thứ ba, để bảo đảm hoạt động của cán bộ KTHS được đúng quy định pháp
luật và của lực lượng CAND, thực sự vì nhân dân phục vụ, rất cần thiết phải có
những quy định cụ thể về kiểm tra những hoạt động của cán bộ chiến sỹ, còn cần
phải có các quy định về kiểm tra, sát hạch thường xuyên và định kỳ đối với cán bộ;
kết quả đó phải được là cơ sở để xét nâng bậc lương, để quy hoạch, bố trí, bổ nhiệm
và xét hưởng các chế độ chính sách khác. Hoạt động thực thi nhiệm vụ của cán bộ
KTHS có liên quan chặt chẽ tới công tác đảm bảo ANCT, giữ gìn TTATXH trên địa
bàn Thủ đô, do đó trong thực tế rất dễ xảy ra tình trạng lạm quyền, hách dịch, bao
che, gây mất lòng tin của công dân đối với lực lượng CAND... Vì vậy, việc tăng
cường kiểm tra đối với hoạt động thực hiện nhiệm vụ của cán bộ KTHS là vô cùng
quan trọng. Bên cạnh đó cần xử lý, kỷ luật nghiêm những trường hợp vi phạm, để
lấy giữ vững uy tín của tổ chức, lấy đó làm gương răn đe; Tăng cường kiểm tra về
công tác tuyển dụng, quy hoạch, luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, bố trí, sử
dụng và thực hiện nhiệm vụ thực hiện nhiệm vụ của cán bộ.
3.3.2.7. Xây dựng, ban hành và thực hiện chế độ chính sách phù hợp đối với
cán bộ kỹ thuật hình sự
Hệ thống chính sách là công cụ điều tiết cực kỳ quan trọng trong lãnh đạo,
quản lý xã hội. Hệ thống chính sách có thể thúc đẩy, tạo động lực cho sự
phát triển, có thể là kìm hãm, triệt tiêu các động lực, cản trở sự phát triển của
94 một hoạt động nào đó. Trong công tác xây dựng cán bộ KTHS, hệ thống chính sách
đúng, hợp lý sẽ khuyến khích được tính tích cực, sự hăng hái, tâm huyết với công
việc nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, chiến sỹ, phát huy được tinh thần
sáng tạo, thu hút được các chuyên gia, làm cho nội bộ đoàn kết nhất trí,... Ngược lại,
chính sách cán bộ sai, bất hợp lý sẽ làm cán bộ không yên tâm công tác, kìm hãm sự
sáng tạo, triệt tiêu tính tích cực, nảy sinh nhiều tiêu cực, có thể đẩy cán bộ đến chỗ
sai phạm... Do đó, muốn nâng cao chất lượng cán bộ cần phải có giải pháp đổi mới,
xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách cán bộ. Việc đổi mới và hoàn thiện hệ
thống chính sách cán bộ trong thời kỳ mới phải đảm bảo yêu cầu cơ bản sau đây:
- Phải quán triệt, thể hiện được những quan điểm, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước ta.
- Đảm bảo quyền lợi gắn liền với trách nhiệm, quyền lợi càng lớn, trách
nhiệm càng cao.
- Hệ thống chính sách phải đảm bảo công bằng, tránh cào bằng.
- Hệ thống chính sách cán bộ phải đảm bảo tính kích thích, khuyến
khích tài năng sáng tạo, có sức lôi cuốn, hấp dẫn để cán bộ, chiến sỹ thực sự tâm
huyết với nghề, phấn đấu vươn lên.
- Hệ thống chính sách cán bộ phải đảm bảo ý nghĩa việc nhiều mặt cả vật
chất, tinh thần, chính trị, xã hội và nhân đạo.
- Hệ thống chính sách cán bộ phải phù hợp với hoàn cảnh đất nước,
không thoát ly, xa rời điều kiện kinh tế của đất nước nói chung và Thủ đô Hà Nội
nói riêng, để CBCS lực lượng KTHS thực sự yên tâm công tác, chuyên tâm vào
thực hiện nhiệm vụ thì tiền lương phải là nguồn thu nhập chính, chủ yếu, đảm bảo
cho cán bộ đủ sống, có mức sống trên mức trung bình của xã hội. Việc cải cách tiền
lương còn phải nhằm kích thích sự phấn đấu vươn lên của cán bộ, làm cho cán bộ
luôn chăm lo tu dưỡng, rèn luyện, học tập nâng cao trình độ. Muốn vậy, cần điều
chỉnh hệ số thang, bậc lương, nới rộng khoảng cách thang bậc lương, gắn thang, bậc
lương với trình độ chuyên môn được đào tạo,...Hội nghị Trung ương 7 khóa XII đã
ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21/5/2018 về cải cách chính sách tiền
lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động
trong doanh nghiệp. Nghị quyết đã nêu, trong khu vực công, Nhà nước trả lương
cho cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang theo vị trí việc làm, chức
95 danh và chức vụ lãnh đạo, phù hợp với nguồn lực của Nhà nước và nguồn thu sự
nghiệp dịch vụ công, bảo đảm tương quan hợp lý với tiền lương trên thị trường lao
động; thực hiện chế độ đãi ngộ, khen thưởng xứng đáng theo năng suất lao động,
tạo động lực nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc, đạo đức công vụ, đạo đức
nghề nghiệp, góp phần làm trong sạch và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của
hệ thống chính trị.
3.3.2.8. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang bị phương tiện hiện đại cho lực lượng kỹ thuật hình sự
Tiếp tục đẩy mạnh công tác nghiên cứu ứng dụng, khoa học công nghệ, kỹ
thuật trong lĩnh vực KTHS. Tìm chọn các đề tài khoa học có tính ứng dụng thực
tiễn cao như: nghiên cứu thuốc thử phát hiện nhanh các chất ma túy; đề tài xây dựng
tàng thư gen tại CATP Hà Nội; đề tài về lĩnh vực giám định âm thanh; đặc biệt là
những nghiên cứu khoa học về lĩnh vực giám định mới “giám định kỹ thuật số và
điện tử, giám định hóa chất cấm trong vệ sinh an toàn thực phẩm’’…
Triển khai các dự án đầu tư trang bị phương tiện cho lực lượng KTHS, trang
bị, bổ sung đầy đủ các phương tiện chuyên dụng đáp ứng yêu cầu hoạt động KTHS
như: Xe ô tô khám nghiệm hiện trường chuyên dụng, máy ảnh nghiệp vụ chuyên
dụng, các hệ thống giám định phục vụ công tác giám định hóa học, sinh học, súng
đạn, tài liệu, đường vân…
Tập trung triển khai dự án “Hiện đại hoá công tác KTHS trong lực lượng
CAND giai đoạn 2015 – 2020’’ và dự án theo Đề án 250 của Chính phủ về “Đổi
mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp’’. Triển khai nghiên cứu đề
tài khoa học cấp thành phố “Xây dựng phần mềm lưu mẫu hình dấu, chữ ký phục vụ
công tác giám định tài liệu’’ và đề tài khoa học cấp Bộ “Nghiên cứu đề xuất phương
pháp vẽ sơ đồ hiện trường bằng kỹ thuật đồ họa 3D trên nền ảnh hiện trường vụ án
phục vụ công tác khám nghiệm hiện trường’’.
3.3.2.9. Tăng cường hợp tác quốc tế trong công tác kỹ thuật hình sự
Trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, nếu như vào các thập kỷ
trước, tội phạm mới chỉ dừng lại ở phạm vi hoạt động giữa các quốc gia láng giềng,
thì ngày nay tội phạm có tính quốc tế, đã mở rộng địa bàn hoạt động ra khắp nới
96 trên thế giới, tội phạm ngày nay đã mang tính toàn cầu, phương thức, thủ đoạn hoạt
động ngày càng tinh vi, xảo quyệt, lợi dụng tối đa các thành tựu khoa học, công
nghệ để hoạt động. Hậu quả do tội phạm quốc tế để lại là vô cùng to lớn đối với
từng quốc gia, cũng như trên phạm vi quốc tế, vì vậy, đấu tranh, phòng chống tội
phạm quốc tế, tội phạm có tính quốc tế không còn trong phạm vi mỗi quốc gia, mà
phải tiến hành đấu tranh trên phạm vi toàn cầu. Do vậy hợp tác quốc tế trong đấu
tranh phòng chống tội phạm trong đó có KTHS là một tất yếu khách quan.
Đối với lực lượng KTHS cần tập trung hợp tác quốc tế trong đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ KTHS và hợp tác trong nghiên cứu sử dụng, khai thác phương tiện
khoa học kỹ thuật và công nghệ trong hoạt động KTHS. Để nâng cao chất lượng
công tác hợp tác quốc tế về đào tạo cán bộ KTHS cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ
sau:
- Cần chủ động và duy trì các mối quan hệ quốc tế sâu rộng đến từng cá nhân,
CATP cần tập trung đẩy mạnh các chương trình đào tạo ngoại ngữ (chủ yếu là
Tiếng Anh) cho cán bộ KTHS, nhất là các đồng chí trẻ, có năng lực chuyên môn tốt.
Có cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ thời gian, kinh phí cho cán bộ lực lượng
KTHS tham gia các khóa học nâng cao trình độ ngoại ngữ.
- Tạo đột phá trong hợp tác quốc tế về đào tạo cán bộ, lãnh đạo Bộ Công an
cần cho chủ trương đầu tư kinh phí để chủ động hợp tác với các nước có trình độ
khoa học hình sự tiên tiến như: Đức, Nga, Mỹ, Úc, Hàn Quốc để đào tạo dài hạn
cho cán bộ KTHS. Có thể xây dựng các chương trình đào tạo chuyên gia chuẩn
quốc tế với thời gian từ 3 đến 6 tháng. Đào tạo sau đại học để xây dựng cán bộ
KTHS vừa có thực tiễn vừa có lý luận cao về công tác KTHS.
3.4. Kiến nghị
Ngoài các giải pháp trên, để thực hiện tốt công tác nâng cao chất lượng cán
bộ KTHS tác giả có một số kiến nghị như sau:
3.4.1. Đối với Bộ Công an
- Xác định rõ địa vị pháp lý của cán bộ kỹ thuật hình sự trong Bộ luật Tố tụng
hình sự.
- Sửa đổi, bổ sung thông tư quy định về công tác nhận xét, đánh giá cán bộ theo hướng quy định cụ thể cho từng lực lượng để đảm bảo khách quan, hiệu quả
trong đánh giá cán bộ hằng năm.
97
- Xây dựng và thực thi cơ chế bảo đảm sự công bằng, khách quan trong công
tác giám định.
- Xây dựng và tổ chức thực hiện cơ chế trưng cầu giám định theo nguyên tắc coi trọng yếu tố năng lực của các tổ chức chuyên môn và cá nhân nhà chuyên môn
khi lựa chọn trưng cầu giám định.
- Xây dựng cơ chế đánh giá, sử dụng kết luận giám định tư pháp của các cơ
quan tiến hành tố tụng.
- Bộ Công an phối hợp với Bộ Tư pháp sớm ban hành Quy chế phối hợp giữa ngành tư pháp với ngành Công an trong quản lý giám định KTHS và pháp y trong lực lượng CAND; Quy chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý hoạt động giám định tư pháp với CQĐT trong hoạt động giám định tư pháp.
- Tiếp tục nghiên cứu bổ sung hoàn thiện các phương pháp thu thập, bảo quản, dấu vết, giám định mới để tổng kết và đưa vào giáo trình giảng dạy trong các trường CAND.
- Tăng cường biên chế cho lực lượng KTHS bằng các nguồn cán bộ được đào tạo trong ngành công an và tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp các trường Đại học ngoài CAND có chuyên ngành phù hợp với các lĩnh vực giám định. Đối với một số lĩnh vực giám định các trường Công an chưa đào tạo như: Giám định hoá học, sinh học và đặc biệt là lĩnh vực giám định pháp y cần có cơ chế đặc thù để thu hút, tuyển dụng được cán bộ, nhất là những cán bộ giỏi.
- Bộ Công an tập trung xây dựng Học viện Cảnh sát nhân dân thành trường
trọng điểm quốc gia trong thời gian tới. Học viện cần tiếp tục đổi mới nội dung và phương pháp đào tạo nguồn nhân lực KTHS cho lực lượng CAND. Để đạt được điều này cần phải có sự quan tâm sâu sát, chỉ đạo quyết liệt của lãnh đạo Bộ Công an, Ban Giám đốc Học viện, lãnh đạo Viện Khoa học hình sự nhằm tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế, chính sách, cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên chuyên ngành.
- Với đặc thù công tác giám định KTHS và pháp y, để có được một giám định viên giỏi, ngoài việc đào tạo cơ bản chính quy, đúng chuyên ngành, người giám định viên phải trải qua nhiều năm công tác thực tiễn mới đúc rút được kinh nghiệm, đủ độ chín cả về năng lực và phẩm chất đạo đức. Trong khi đó theo quy định của Luật CAND, tuổi nghỉ hưu của CBCS Công an nói chung là: Nam: 55 tuổi, Nữ: 53 tuổi (trong đó có giám định viên). Như vậy là chưa tận dụng hết khả năng của những giám định viên giỏi, có trình độ, mất nhiều công bồi dưỡng, đào tạo. Trong khi còn rất thiếu giám định viên giỏi ở nhiều lĩnh vực, chuyên ngành giám
98 định. Vậy đề nghị Bộ Công an bổ nhiệm chức danh giám định viên tư pháp cao cấp và cho phép kéo dài tuổi nghỉ hưu: Nam 58 tuổi; Nữ 55 tuổi là phù hợp.
- Có kế hoạch tổng thể và lâu dài trong trang bị và đổi mới các phương tiện nghiệp vụ giám định tư pháp. Thường xuyên tăng cường trang bị phương tiện hiện
đại cho lực lượng KTHS để đáp ứng yêu cầu giám định ngày một gia tăng và phức tạp.
- Đề nghị Bộ Công an tăng chế độ phụ cấp đặc thù cho lực lượng KTHS từ
10% như hiện nay lên 20% để động viên cán bộ yên tâm công tác.
3.4.2. Đối với Viện khoa học hình sự Bộ Công an
- Xây dựng chỉ tiêu thống kê và tổ chức thực hiện thống kê, đánh giá số lượng, chất lượng hoạt động giám định tư pháp trong hoạt động điều tra; thực hiện thống kê, dự báo nhu cầu giám định của hoạt động điều tra trong lực lượng CAND.
- Thường xuyên mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ cho cán bộ khám nghiệm hiện trường và giám định KTHS.
- Có kế hoạch tổng thể và lâu dài trang bị phương tiện hiện đại cho lực lượng
KTHS.
- Sớm hướng dẫn các địa phương việc khám nghiệm thu thập và giám định chứng cứ điện tử để phục vụ công tác đấu tranh chống tội phạm sử dụng công nghệ cao.
- Phối hợp với các đơn vị chức năng, sớm tham mưu cho lãnh đạo Bộ Công an ban hành văn bản quy định về hướng dẫn bổ nhiệm các chức danh giám định viên: Cao cấp, trung cấp, sơ cấp và độ tuổi làm việc của giám định viên cao cấp.
- Thành lập phòng Khám nghiệm hiện trường tại Viện Khoa học hình sự Bộ
Công an.
3.4.3. Đối với Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội
Quan tâm chỉ đạo Sở Tư pháp tăng cường công tác bồi dưỡng pháp luật về
công tác giám định tư pháp trên địa bàn thành phố.
Hỗ trợ kinh phí để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm các trang thiết bị
hiện đại phục vụ công tác công tác kỹ thuật hình sự CATP Hà Nội.
3.4.4. Đối với Công an thành phố
- Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng và có giải pháp động viên CBCS yên tâm công tác. Làm tốt công tác quản lý cán bộ, chủ động sớm phát hiện
và phòng ngừa sai phạm trong CBCS.
99
- Tập trung đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ, kỹ năng nghề
nghiệp cho cán bộ KTHS.
- Làm tốt công tác quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ, nhất là cán bộ trẻ, có năng
lực công tác tốt.
- Quan tâm đầu tư cơ sở vật chất và phương tiện hiện đại cho lực lượng
KTHS.
- Tiếp tục thành lập các Đội KTHS ở CA các quận, huyện, thị xã trên địa bàn
thành phố xảy ra trên 100 vụ việc/năm.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Từ thực tiễn cán bộ KTHS Công an thành phố Hà Nội và để đáp ứng yêu cầu
của chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị, của sự nghiệp đảm
bảo ANCT, giữ gìn TTATXH và yêu cầu ngày càng cao của công cuộc phát triển
100 kinh tế, xã hội trên địa bàn Thủ đô, việc nâng cao chất lượng cán bộ KTHS là một
trong những vấn đề rất quan trọng. Từ những thực trạng đã phân tích tại chương II,
tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cán bộ KTHS Công
an thành phố Hà Nội. Các giải pháp được tác giả đưa ra gồm nhóm giải pháp chung
và giải pháp pháp cụ thể. Trong đó tập trung vào một số giải pháp như: Đổi mới
công tác tuyển dụng, sử dụng đánh giá cán bộ; nâng cao trình độ, chuyên môn
nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp, phẩm chất chính trị, đạo đức và một số giải pháp
khác nhằm hoàn thiện hệ thống tổ chức KTHS, tăng cường trang bị phương tiện và
hợp tác quốc tế trong đào tạo cán bộ và chuyển giao công nghệ.
Các giải pháp này có mối liên hệ mật thiết với nhau tạo thành một hệ thống
giải pháp không thể tách rời. Do đó trong tổ chức thực hiện phải tiến hành đồng bộ
và có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan cấp Bộ và các đơn vị trong CATP Hà
Nội, tạo nên sự nhất quán. Nâng cao chất lượng cán bộ KTHS Công an thành phố
Hà Nội là một vấn đề lớn, việc thực hiện phải có thời gian và kế hoạch, chủ trương
và sự phối hợp của nhiều cơ quan, đơn vị. Do vậy, để thực hiện được các giải pháp
trên, tác giả đã có đưa ra một số kiến nghị đối với Bộ Công an, Viện Khoa học hình
sự, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Công an thành phố. Những kiến nghị này
có thể là căn cứ để hiện thực hóa các giải pháp đã nêu, góp phần nâng cao chất
lượng cán bộ KTHS Công an thành phố Hà Nội, từ đó nâng cao hiệu quả công tác
quản lý nhà nước về an ninh trật tự tại cấp cơ sở, tạo môi trường an toàn, an ninh
phục vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của Thủ đô.
KẾT LUẬN
Qua chặng đường hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, lực
lượng Công an nhân dân luôn nỗ lực, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đảm
bảo an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Trong quá trình đó, lực lượng kỹ
thuật hình sự đã không ngừng lớn mạnh và phát triển ngày càng tiến lên chính quy,
hiện đại, có đóng góp đáng kể vào công tác đảm bảo an ninh trật tự trong tình hình
hiện nay.
Nghiên cứu về nâng cao chất lượng cán bộ để có giải pháp nâng cao chất
lượng cán bộ trong tình hình hiện nay là một vấn đề khá phức tạp, đòi hỏi các nhà
lãnh đạo, quản lý phải biết kết hợp các phương pháp một cách khoa học và nghệ
101
thuật.
Thông qua việc nghiên cứu, luận văn tác giả đã làm rõ cơ sở lý luận về chất
lượng cán bộ kỹ thuật hình sự, đưa ra 5 tiêu chí đánh giá chất lượng cán bộ kỹ thuật
hình sự, kinh nghiệm của một số đơn vị về nâng cao chất lượng cán bộ kỹ thuật
hình sự. Trên cơ sở đó, tác giả đã đi vào phân tích thực trạng chất lượng cán bộ kỹ
thuật hình sự, trong đó làm rõ hệ thống tổ chức của lực lượng kỹ thuật hình sự Công
an thành phố Hà Nội, cơ cấu, số lượng, giới tính, độ tuổi; đi sâu phân tích chất
lượng cán bộ kỹ thuật hình sự trên 5 tiêu chí về: trình độ; kỹ năng nghề nghiệp;
phẩm chất chính trị, đạo đức, tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật; thể lực;
kết quả nhận xét, đánh giá cán bộ. Từ những phân tích về thực trạng chất lượng cán
bộ kỹ thuật hình sự tác giả đã chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của
những hạn về chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội. Trên
cơ sở phân tích những hạn chế và nguyên nhân, tác giả đã đưa ra những giải pháp
nâng cao chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự gồm nhóm giải pháp chung và các
nhóm giải pháp cụ thể để nâng cao chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự Công an
thành phố Hà Nội.
Đây là công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên về chất lượng cán bộ kỹ thuật
hình sự Công an thành phố Hà Nội với những nhóm giải pháp chung và nhóm giải
pháp cụ thể, phù hợp với đặc điểm, tình hình công tác đảm bảo an ninh chính trị,
giữ gìn trật tự an toàn xã hội trên địa bàn Thủ đô.
Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn, tác giả đã dành nhiều
thời gian và công sức để nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề nâng cao chất lượng cán bộ
kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội. Tuy nhiên do trình độ, năng lực, kinh
nghiệm của tác giả còn hạn chế...nên việc thu thập xử lý thông tin còn gặp nhiều
khó khăn, bởi vậy kết quả nghiên cứu còn nhiều thiếu sót và chưa đầy đủ. Tác giả
kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo, các nhà quản lý, các
nhà khoa học và bạn bè đồng nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn.
102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Ban Chấp hành Trung ương (2005), Nghị quyết 49 –NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
2. Bộ Công an (2009), Thông tư 30/2009/TT-BCA ngày 20/5/2009 quy định tuyển chọn
công dân vào CAND.
3. Bộ Công an (2009), Thông tư 20/2009/TT-BCA ngày 10/4/2009 quy định về thẩm tra lý
lịch trong CAND.
4. Bộ Công an (2007), Quyết định 1275/2007/QĐ-BCA(X18) ngày 26/10/2007 quy định
tiêu chuẩn về chính trị của cán bộ, chiến sỹ CAND.
5. Bộ Công an (2008), Thông tư 35/2008/TT-BCA ngày 9/12/2008 quy định tiêu chuẩn
chức danh cán bộ lãnh đạo, chỉ huy của CAND.
6. Bộ Công an (2004), Thông tư 06/2011/TT-BCA ngày 14/01/2011 của Bộ Công an quy
định nhận xét, đánh giá sỹ quan, hạ sỹ quan, chiến sỹ, công nhân, viên chức CAND.
7. Bộ Công an (2010), Quyết định 10957/QĐ-X11 ngày 24/12/2010 quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương.
8. Bộ Công an (2006), Chỉ thị số 07/2006/CT-BCA ngày 22/8/2006 về tăng cường công tác
kỹ thuật hình sự trong tình hình mới.
9. Bộ Công an (2009), Chỉ thị số 03/CT-BCA ngày 10/4/2009 về xây dựng toàn diện Công
an cấp huyện đáp ứng nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự trong tình hình mới.
10. Bộ Công an (2013), Thông tư số 24/2013/TT/BCA ngày 11/4/2013 quy định tiêu chuẩn
rèn luyện thể lực trong CAND.
11. Bộ Công an (2008), Quyết định số 994/2008/QĐ-BCA ngày 30/7/2008 về Thành lập
Đội (hoặc Tổ Kỹ thuật hình sự) công an cấp huyện.
12. Hoàng Anh (2018),Chất lượng công chức cấp xã huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội,
Luận văn thạc sỹ Quản lý công, Học viện hành chính Quốc gia.
13. Bộ Nội vụ, Học viện hành chính quốc gia (2015), Giáo trình Quản lý công, Nxb. Bách
khoa Hà Nội.
14. Công an thành phố Hà Nội (1994), Quy định chức danh, tiêu chuẩn cán bộ Phòng Kỹ
thuật hình sự.
15. Công an thành phố Hà Nội (2012), Quyết định 493/QĐ-CAHN(PX13) ngày 15/2/2012
về tổ chức bộ máy của Phòng Kỹ thuật hình sự CATP Hà Nội.
16. Công an thành phố Hà Nội (2008), Quyết định 2665/QĐ-CAHN(PX13) ngày
27/1/12008 về thành lập Tổ kỹ thuật hình sự thuộc công an quận, huyện, thị xã.
17. Công an thành phố Hà Nội (2011), Kế hoạch 2052/KH-CAHN(PX13) ngày 12/7/2011
về Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng lực lượng Công an Thủ đô giai đoạn 2011-2015.
18. Công an thành phố Hà Nội (2013 – 2017), Kết quả khám sức khỏe của cán bộ, chiến sỹ
lực lượng Kỹ thuật hình sự.
19. Nguyễn Tiến Dũng (2018), Năng lực viên chức đài phát thanh và truyền hình tỉnh Lạng
Sơn, Luận văn thạc sỹ Quản lý công, Học viện hành chính Quốc gia.
20. Vũ Đức Đán (2002), Vấn đề đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở, Tạp
chí quản lý nhà nước số 5/2002.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb.
Sự thật.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.
Chính trị Quốc gia.
23. Nguyễn Hữu Hải (2015), Quản lý học đại cương, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật.
24. Học viện Cảnh sát nhân dân (2014), Giáo trình Kỹ thuật hình sự.
25. Học viện Hành chính Quốc gia (2002), Hành chính công, Nxb Đại học Quốc gia.
103
26. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5 (2004), Nxb. Chính trị Quốc Gia.
27. Lê Trung Kiên (2016), Xây dựng lực lượng Công an nhân dân Việt Nam hiện nay về
chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Luận án tiến sỹ chính trị học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
28. Hồ Chí Minh (1974), Về vấn đề cán bộ, Nxb Sự thật, Hà Nội
29. Quốc hội Việt Nam (2013), Luật Công an nhân dân năm 2014.
30. Quốc hội Việt Nam (2013), Luật Giám định tư pháp năm 2013.
31. Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (2001), Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb. Chính trị,
Quốc gia, Hà Nội.
32. Hoàng Phê (2001), Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng.
33. Thang Văn Phúc và Nguyễn Minh Phương (2004), Xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức đáp ứng đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, Nxb
Chính trị quốc gia.
34. Phòng Kỹ thuật hình sự CATP Hà Nội (2013 -2017), Báo cáo tổng kết công tác kỹ
thuật hình sự.
35. Phòng Tổ chức cán bộ CATP Hà Nội (2013 – 2017), Báo cáo tình hình tổ chức biên
chế và kết quả nhận xét đánh giá cán bộ lực lượng Kỹ thuật hình sự.
36. Phòng Công tác chính trị CATP Hà Nội (2013 – 2017), Kết quả công tác bình xét thi
đua và kiểm tra tiêu chuẩn rèn luyện thể lực của cán bộ, chiến sỹ lực lượng Kỹ thuật hình sự.
37. Thành ủy Hà Nội (2015), Báo cáo chính trị của BCH Đảng bộ thành phố Hà Nội lần
thứ XVI nhiệm kỳ 2015 – 2020.
38. Hoàng Tiến Tài (2016), Đào tạo, bồi dưỡng chức danh chủ tịch UBND phường thuộc
quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội, Luận văn thạc sỹ Quản lý công, Học viện hành chính Quốc gia.
39. Lê Như Thọ (2013), Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng công chức đáp ứng yêu
cầu hội nhập quốc tế từ thực tiễn Cục quản trị tài vụ, Bộ Ngoại giao, Luận văn thạc sỹ Quản lý
hành chính công, Học viện hành chính Quốc gia.
40. Đặng Văn Tiến (2007), Tiếp tục đổi mới tổ chức bộ máy Nhà nước và xây dựng đội
ngũ cán bộ công chức trong tình hình hiện nay, Tạp chí Cộng sản số 22, năm 2007; Để nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, Tạp chí Cộng sản số 22, năm 2008.
41. Ngô Hữu Tưởng (2018), Chất lượng công chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND
huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai, Luận văn thạc sỹ Quản lý công’’, Học viện hành chính Quốc gia.
104
42. Văn phòng Trung ương Đảng (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII.
43. Viện Khoa học hình sự, Bộ Công an (2015), Thông tin Kỹ thuật hình sự, số 3.
105