1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN VĂN TUYẾN CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ KỸ THUẬT HÌNH SỰ CÔNG AN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

2

HÀ NỘI – NĂM 2018

3

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN VĂN TUYẾN

CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ KỸ THUẬT HÌNH SỰ CÔNG AN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ CÔNG

MÃ SỐ: 8.34.04.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. HOÀNG MAI

4

HÀ NỘI – NĂM 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoàn công trình nghiên cứu khoa học với đề tài: “Chất lượng cán bộ kỹ thuật

hình sự Công an thành phố Hà Nội” là riêng của bản thân tôi. Các số liệu và trích dẫn

trong Luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của

Luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào

khác.

Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu của Luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ

công trình nghiên cứu nào khác. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày tháng 11 năm 2018

Tác giả luận văn

Nguyễn Văn Tuyến

5

LỜI CẢM ƠN

Được sự quan tâm của Đảng ủy, Ban Giám đốc Công an thành phố Hà

Nội, Ban Giám đốc Học viện Hành chính Quốc gia, tôi được tham gia học lớp

“Cao học khóa 21, chuyên ngành Quản lý công”. Trong thời gian học tập tôi

đã được tiếp thu được nhiều kiến thức quan trọng và hữu ích về công tác

quản lý Nhà nước và Kỹ năng lãnh đạo…để từ đó vận dụng vào thực tiễn

công tác.

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Học viện Hành chính Quốc

gia đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên

cứu.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô PGS.TS. Hoàng Mai, người

đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi

trong quá trình thực hiện luận văn “Chất lượng cán bộ Kỹ thuật hình sự

Công an thành phố Hà Nội”.

6

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô trong hội đồng khoa học đã đóng

góp những ý kiến có ý nghĩa rất quan trọng để tôi có thể hoàn thiện luận văn

này.

Trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu thực tế, tôi xin chân thành cảm

ơn các đồng chí lãnh đạo và cán bộ của Công an thành phố Hà Nội đã nhiệt

tình giúp đỡ, tạo điều kiện và cung cấp các số liệu để tôi có thể hoàn thiện

luận văn.

Cuối cùng, tôi xin cảm ơn các thầy, cô của khoa Sau Đại học và

Trường Học viện Hành chính Quốc gia đã tạo điều kiện thuận lợi trong suốt

quá trình tôi tham gia học tập và nghiên cứu tại Học viện.

Xin kính chúc các thầy cô giáo Học viện Hành chính Quốc gia; các

đồng chí trong Đảng ủy – Ban Giám đốc Công an thành phố Hà Nội sức khỏe,

hạnh phúc và thành công !

Tôi xin chân thành cảm ơn !

Hà Nội, tháng 11 năm 2018

Học viên: Nguyễn Văn Tuyến

7

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1

1. Lý do chọn đề tài 1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 3

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 5

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 6

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 7

7. Kết cấu luận văn 8

9

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ KỸ THUẬT HÌNH SỰ

1.1. Cán bộ kỹ thuật hình sự 9

1.1.1. Khái niệm 9

1.1.2. Phân loại cán bộ kỹ thuật hình sự 11

1.1.3. Vị trí, vai trò, chức trách, nhiệm vụ của cán bộ kỹ thuật hình sự 12

1.2. Chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự 15

1.2.1. Khái niệm 15

1.2.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự 16

1.2.2.1. Trình độ 17

1.2.2.2. Kỹ năng nghề nghiệp 18

19

1.2.2.3. Phẩm chất chính trị, đạo đức, tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật

8

1.2.2.4. Thể lực 21

1.2.2.5. Kết quả công tác 21

1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự 22

1.2.3.1. Yếu tố khách quan 22

1.2.3.2. Yếu tố chủ quan 23

25

1.3. Kinh nghiệm của một số địa phương về nâng cao chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự

1.3.1. Công an tỉnh Vĩnh Phúc 25

1.3.2. Công an tỉnh Quảng Ninh 26

1.3.3. Bài học kinh nghiệm đối với Công an thành phố Hà Nội 28

TIỂU KẾT CHƯƠNG I 30

31

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ KỸ THUẬT HÌNH SỰ CÔNG AN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

30

2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và lực lượng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội

2.1.1. Điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội 30

2.1.2. Lực lượng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội 34

41

2.2. Phân tích thực trạng chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội

2.2.1. Về trình độ 41

2.2.2. Kỹ năng nghề nghiệp 47

51

2.2.3. Phẩm chất chính trị, đạo đức, tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật

9

2.2.4. Về thể lực 54

2.2.5. Kết quả công tác 61

67

2.3. Đánh giá chung về chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội

2.3.1. Ưu điểm 65

2.3.2. Hạn chế 69

2.3.3. Nguyên nhân hạn chế 72

TIỂU KẾT CHƯƠNG II 76

77

CHƯƠNG III: QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ KỸ THUẬT HÌNH SỰ CÔNG AN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

77

3.1. Xu hướng phát triển của kỹ thuật hình sự và những vấn đề đặt ra cho công tác nâng cao chất lượng cán bộ

3.2. Quan điểm, mục tiêu 79

3.2.1. Quan điểm 79

3.2.2. Mục tiêu 80

83

3.3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội

3.3.1. Giải pháp chung 83

3.3.2. Giải pháp cụ thể 85

3.4. Kiến nghị 100

TIỂU KẾT CHƯƠNG III 104

KẾT LUẬN 105

10

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 107

11

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Sơ đồ 2.1: Hệ thống tổ chức bộ máy của Công an thành phố Hà Nội 37

Bảng 2.1: Số lượng cán bộ kỹ thuật hình sự theo chức danh 38

40

Bảng 2.2: Cơ cấu độ tuổi và giới tính của cán bộ kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội

42

Bảng 2.3: Trình độ chuyên môn cán bộ kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội

44

Bảng 2.4: Trình độ lý luận chính trị cán bộ kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội

46

Bảng 2.5: Trình độ ngoại ngữ, tin học cán bộ kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội

48

Bảng 2.6: Đánh giá kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội

Biểu đồ 2.1: Kỹ năng sử dụng máy tính, công nghệ thông tin 49

50

Biểu đồ 2.2: Kỹ năng nghiên cứu, ứng dung khoa học, công nghệ phục vụ công tác

55

Bảng 2.7: Chiều cao, cân nặng cán bộ kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội

57

Bảng 2.8: Tiêu chuẩn rèn luyện thể lực đối với cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân

58

Bảng 2.9: Kết quả rèn luyện thể lực của cán bộ kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội từ năm 2013 - 2017

60

Bảng 2.10: Phân loại sức khoẻ của cán bộ kỹ thuật hình sự Công an thành phố năm 2017

12

64

Biểu đồ 2.3: Kết quả nhận xét, đánh giá cán bộ kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội giai đoạn 2013 - 2017

66

Bảng 2.11: Kết quả bình xét thi đua đối với cán bộ kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội giai đoạn 2013 - 2017

13

LỜI MỞ ĐẦU

Khi bàn về vai trò của cán bộ trong sự nghiệp cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh

luôn đặt cán bộ trong sự tổng hòa các mối quan hệ. Trước hết, Người coi "cán bộ là cái gốc

của mọi công việc"[26, tr.269]. Theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, “cũng như

sông thì phải có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không

có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy

cũng không lãnh đạo được nhân dân”[26, tr.252-253]. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ

X của Đảng đã đề ra mục tiêu chung của công tác cán bộ là: “Xây dựng đội ngũ cán bộ có

bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống lành mạnh, không quan liêu, tham

nhũng, lãng phí; tư duy đổi mới, sáng tạo, có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng

yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; có tinh thần đoàn kết, hợp

tác, ý thức tổ chức kỷ luật cao và phong cách làm việc khoa học, tôn trọng tập thể gắn bó

với nhân dân, dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm. Đội ngũ cán bộ phải đồng bộ, có

tính kế thừa và phát triển, có số lượng và cơ cấu hợp lý” [22, tr.292-293].

Cán bộ, chiến sỹ lực lượng kỹ thuật hình sự (KTHS) Công an nhân dân (CAND)

luôn giữ vai trò là lực lượng nòng cốt, xung kích trên mặt trận đảm bảo an ninh quốc gia,

giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Cán bộ lực lượng KTHS Công an thành phố (CATP) Hà Nội

là một bộ phận của lực lượng KTHS Công an nhân dân Việt Nam, đã được hình thành

ngay từ những ngày đầu của cuộc Cách mạng Tháng Tám vĩ đại, nhưng thực sự trở thành

một lực lượng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, để từng bước tiến lên chính quy,

hiện đại kể từ ngày 23/8/1957.

Trên suốt chặng đường hơn nửa thế kỷ qua, lực lượng KTHS Công an thành phố

Hà Nội đã kề vai sát cánh, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng Công an khác vượt qua

muôn vàn thử thách, khó khăn, đoàn kết, tích cực phấn đấu và lập được nhiều chiến công

xuất sắc trên mặt trận đấu tranh phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội, góp phần xứng

đáng vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, xây dựng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội

chủ nghĩa, đảm bảo an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn Hà Nội.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đạt được lực lượng KTHS Công an thành

phố Hà Nội còn có những mặt tồn tại: Năng lực trình độ chính trị, nghiệp vụ, pháp luật, tin

1. Lý do chọn đề tài

học, ngoại ngữ, khoa học công nghệ còn có những hạn chế nhất định. Cán bộ làm công tác

KTHS ở cấp quận, huyện, thị xã trình độ không đồng đều, số cán bộ được đào tạo chuyên

khoa KTHS ít. Khả năng thu lượm, bảo quản dấu vết gửi giám định của các tổ KTHS yếu.

Hầu hết các tổ KTHS tại Công an các quận, huyện, thị xã chưa đáp ứng được công tác

giám định sơ bộ về dấu vết đường vân, tài liệu và công tác kỹ thuật phòng chống tội phạm.

Chế độ chính sách đối với cán bộ KTHS còn thấp, chưa thực sự động viên nên nhiều cán

bộ có tư tưởng chuyển sang lĩnh vực công tác khác. Điều đó càng bộc lộ rõ trong thời kỳ

công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, chương trình cải cách

hành chính quốc gia, xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của Thủ đô Hà Nội.

14

Trong điều kiện đẩy mạnh cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước

pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, việc đổi mới và

hoàn thiện các tổ chức bổ trợ tư pháp nói chung và giám định tư pháp nói

riêng là một trong những nội dung quan trọng được đề cập trong nhiều Nghị

quyết của Đảng (Nghị quyết Trung ương 8 Khoá VII, Nghị quyết Trung ương

3 và Nghị quyết Trung ương 7 khoá VIII, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ

IX). Đặc biệt, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ

Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ: "Hoàn thiện

chế định giám định tư pháp. Nhà nước cần đầu tư cho một số lĩnh vực giám

định để đáp ứng yêu cầu thường xuyên của hoạt động tố tụng. Thực hiện xã

hội hoá đối với các lĩnh vực có nhu cầu giám định không lớn, không thường

xuyên. Quy định chặt chẽ, rõ ràng về trình tự, thủ tục, thời hạn trưng cầu và

thực hiện giám định. Ban hành quy chuẩn giám định phù hợp với từng lĩnh

vực giám định. Xác định rõ cơ chế đánh giá kết luận giám định, bảo đảm

đúng đắn, khách quan để làm căn cứ giải quyết vụ việc"[1, tr.6].

Cán bộ giám định viên tư pháp của CATP tuy đã được kiện toàn và bổ

sung hằng năm nhưng vẫn còn thiếu và cần nâng cao chất lượng thì mới có

thể đáp ứng được yêu cầu giám định ngày một gia tăng và phức tạp.

Công an thành phố Hà Nội là lực lượng nòng cốt, xung kích trên mặt

trận đảm bảo an ninh trật tự (ANTT) trên địa bàn Thủ đô. Tình hình các loại

15

tội phạm nói chung và tội phạm hình sự nói riêng ngày càng diễn biến phức

tạp, trong khi đó tội phạm gây án ngày chuyên nghiệp, luôn cố ý xóa dấu vết,

hoặc tạo hiện trường giả gây khó khăn cho công tác điều tra. Trong khi đó lực

lượng KTHS có nhiệm vụ điều tra tại hiện trường, thu giữ dấu vết, vật chứng,

tài liệu và các thông tin khác tại hiện trường. Do đó việc đào tạo, bồi dưỡng

nâng cao năng lực cán bộ KTHS Công an thành phố Hà Nội là yêu cầu cấp

bách hiện nay.

Bên cạnh đó trong thời kỳ khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin phát

triển mạnh như hiện nay, nhất là cuộc Cách mạng 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ,

việc nâng cao chất lượng cán bộ KTHS là yêu cầu cấp thiết.

Từ thực tiễn đó và nhận thức được tầm quan trọng của việc nâng cao

chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Chất lượng

cán bộ kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội”.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Vấn đề chất lượng cán bộ nói chung và cán bộ KTHS nói riêng đã được

một số nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Nhiều công trình khoa học, sách

chuyên khảo và các Hội thảo được tổ chức để nghiên cứu về vấn đề chất

lượng đội ngũ cán bộ. Có thể liệt kê một số công trình có liên quan như sau:

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước KHXH 05-03 “Luận chứng

khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (GS.TS. Nguyễn Phú Trọng

làm chủ nhiệm đề tài) đã đúc kết và đưa ra những quan điểm, định hướng

trong việc sử dụng các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ

nói chung và trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế xã hội.

Nghiên cứu “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ

cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước’’ (2001) của

tác giả Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm là công trình nghiên cứu lớn, xác

định rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của chủ trương xây dựng đội ngũ cán bộ của

16

Đảng ta trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt là những yêu cầu, đòi hỏi cụ thể về

tiêu chuẩn cán bộ trong hệ thống chính trị các cấp. Theo các tác giả, việc xác

định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ phải xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và thế

giới; phải căn cứ vào đường lối cán bộ của Đảng được kiểm nghiệm trong

cuộc sống; khai thác những nhân tố hợp lý về tiêu chuẩn quan chức trong các

vương triều phong kiến và chú ý đến đặc trưng của con người Việt Nam

truyền thống, đồng thời tham khảo kinh nghiệm và thành tựu khoa học quản

lý của các nước.

Đề tài khoa học cấp Bộ Công an: “Những giải pháp nâng cao hiệu quả

công tác KTHS Công an cấp huyện’’ (2007) của tác giả Thượng tá,TS. Trần

Văn Luyện, Viện Khoa học hình sự Bộ Công an là công trình nghiên cứu

đánh giá thực trạng tình hình công tác KTHS và chất lượng đội ngũ cán bộ

KTHS cấp huyện. Tác giả đã đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả

công tác và chất lượng đội ngũ cán bộ KTHS cấp huyện.

Luận án tiến sỹ: “Xây dựng lực lượng Công an nhân dân Việt Nam hiện

nay về chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh” (2017) của tác giả Lê Trung

Kiên là công trình nghiên cứu số vấn đề lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh về

xây dựng lực lượng CAND về chính trị. Luận án khảo sát, đánh giá công tác

xây dựng lực lượng CAND hiện nay về chính trị tiếp cận từ tư tưởng Hồ Chí

Minh.

Ngoài ra, còn một số bài viết đăng tải trên các tạp chí khoa học như:

Tạp chí CAND, tạp chí Cảnh sát nhân dân, Thông tin KTHS và nhiều công

trình, luận án, luận văn khác có đề cập ít nhiều đến vấn đề này.

Có thể khẳng định, những công trình khoa học kể trên đã cung cấp

nhiều tư liệu quý báu về cơ sở lý luận, về kiến thức, kinh nghiệm xây dựng

đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước nói chung và cán bộ lực lượng CAND

nói riêng để tác giả tham khảo trong quá trình nghiên cứu đề tài của mình.

Tại Công an thành phố Hà Nội, có một số đề tài nghiên cứu thuộc lĩnh

17

vực: Đấu tranh phòng chống tội phạm, quản lý nhà nước về an ninh trật tự…

Tuy nhiên, cho đến thời điểm này, chưa có một công trình nghiên cứu nào

nghiên cứu toàn diện về vấn đề chất lượng cán bộ KTHS cũng như tiếp cận từ

góc độ khoa học về quản trị nhân lực. Do vậy, cần có một đề tài nghiên cứu

về nâng cao chất lượng cán bộ KTHS. Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu

việc nâng cao chất lượng cán bộ KTHS, hứa hẹn khả năng áp dụng cụ thể,

hiệu quả cho CATP trong việc nâng cao chất lượng cán bộ KTHS.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

3.1. Mục đích

Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng chất lượng cán bộ KTHS Công an thành phố Hà Nội nhằm đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ KTHS Công an thành phố Hà Nội.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Hệ thống hóa cơ sở lý luận về chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự.

Phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự Công

an thành phố Hà Nội.

Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự

Công an thành phố Hà Nội.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự thuộc Công an thành phố Hà Nội.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Không gian: Chất lượng cán bộ làm công tác kỹ thuật hình sự thuộc

Công an thành phố Hà Nội.

- Thời gian nghiên cứu thực trạng chất lượng cán bộ KTHS: Từ năm

2013 đến năm 2017.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

18

5.1. Phương pháp luận

Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng lực lượng Công an nhân dân, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, hệ thống các văn bản của nhà nước có liên quan đến lực lượng

Công an nhân dân nói chung và lực lượng KTHS nói riêng. Luận văn kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đã được công bố.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của khoa học

quản lý hành chính nhà nước như:

- Phương pháp thống kê - phân tích - tổng hợp.

Được sử dụng trong việc thu thập số liệu về các chỉ tiêu đánh giá chất

lượng cán bộ KTHS: cơ cấu tuổi, giới tính, trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn, thâm niên công tác, kỹ năng nghề nghiệp, khen thưởng, báo cáo tổng kết các năm. Từ đó, phân tích những mặt đạt được, hạn chế trong việc đảm nhận, thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao của cán bộ kỹ thuật hình sự.

- Nghiên cứu hồ sơ tài liệu, so sánh, quan sát và đánh giá.

Phương pháp so sánh, đánh giá: tác giả so sánh (các chỉ số liên quan đến chất lượng cán bộ lực lượng kỹ thuật hình sự qua các năm để thấy rõ nét sự thay đổi, tính hiệu quả của các cơ chế, chính sách của Bộ Công an và

những nỗ lực của Bộ Công an, CATP trong việc nâng cao chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Về lý luận

Luận văn đã góp phần vào hệ thống hóa lý luận về nâng cao chất lượng

cán bộ kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội; hệ thống hóa và xây dựng các tiêu chí đánh giá; làm rõ những đặc điểm của cán bộ kỹ thuật hình sự

Công an thành phố Hà Nội và điều kiện khách quan của việc xây dựng cán bộ kỹ thuật hình sự Công an Thủ đô trong giai đoạn mới.

19

Trên cơ sở những lý luận và hệ thống các tiêu chí đánh giá được xây dựng, luận văn đã đưa ra những phân tích, đánh giá, nhận định một cách khách quan, khoa học về thực trạng chất lượng cán bộ KTHS Công an Thủ đô, rút ra những ưu điểm và hạn chế.

Luận văn đã làm rõ và đưa ra quan điểm về công tác tuyển dụng, bố trí,

sử dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, kiểm tra, hướng dẫn và những giải pháp, kiến nghị đối với cấp trên nhằm nâng cao chất lượng cán bộ

kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội, đáp ứng yêu cầu của công tác đảm bảo an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội trên địa bàn Thủ đô, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

6.2. Về thực tiễn

Tổng quát, có chọn lọc cơ sở lý luận và thực tiễn trong quản lý nhà nước về phát triển lực lượng kỹ thuật hình sự để vận dụng vào thực tiễn CATP Hà Nội.

Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc

nghiên cứu, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kỹ thuật hình sự.

7. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, tài liệu tham khảo, kết cấu luận

văn gồm 3 chương.

Chương 1: Cơ sở lý luận về chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự

Chương 2: Thực trạng chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự Công an

thành phố Hà Nội.

Chương 3: Quan điểm và một số giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ

kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội.

20

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ KỸ THUẬT HÌNH SỰ

1.1. Cán bộ kỹ thuật hình sự

Dưới góc độ tiếp cận khác nhau có những khái niệm khác nhau về khoa học hình

sự:

- Khoa học hình sự là một ngành khoa học trong hệ thống các khoa học pháp lý, có

nhiệm vụ nghiên cứu về lĩnh vực phát hiện và điều tra tội phạm hình sự.

- Khoa học hình sự, một ngành khoa học trong hệ thống các khoa học pháp lý, có

sự phối hợp của các lĩnh vực khoa học tự nhiên và công nghệ. Khoa học hình sự nghiên

cứu các quá trình, qui luật, hiện tượng, các phương pháp phát hiện, điều tra tội phạm và

những vi phạm pháp luật khác, đặc biệt là truy tìm thủ phạm, xác lập chứng cứ, phòng

ngừa hiện tượng vi phạm pháp luật.

1.1.1. Khái niệm

- Khoa học hình sự, hệ thống tri thức về các quá trình, quy luật, phương pháp phát

hiện, điều tra và khám phá những sự kiện mang tính hình sự, đặc biệt là vấn đề truy tìm thủ

phạm, xác lập chứng cứ phục vụ công tác điều tra, truy tố và xét xử tội phạm"... Nói một

cách khác: khoa học hình sự (hay khoa học điều tra tội phạm) là khoa học nghiên cứu việc

phát hiện, điều tra và phòng ngừa tội phạm, nghiên cứu nguyên nhân, điều kiện phát sinh

những tội phạm cụ thể nhằm tìm ra và phát triển các phương pháp phát hiện tội phạm; nó

là một ngành khoa học pháp lí, có sự phối hợp của các lĩnh vực khoa học tự nhiên và công

nghệ.

- Khoa học hình sự là một ngành khoa học đã được hình thành và phát triển từ thực

tiễn của cuộc đấu tranh và phòng ngừa tội phạm. Các bộ phận cấu thành của Khoa học hình

sự gồm: Lý luận và phương pháp luận chung, kỹ thuật hình sự, chiến thuật hình sự, phương

pháp hình sự đã được hình thành và phát triển từ thực tiễn đấu tranh và phòng ngừa tội

phạm. Các bộ phận ấy có mối liên quan mật thiết, tác động qua lại với nhau và thúc đẩy

cho sự phát triển hoàn thiện của khoa học hình sự.

Theo giáo trình Kỹ thuật hình sự của Học viện Cảnh sát nhân dân: “Kỹ thuật hình

sự là một bộ phận của khoa học hình sự, chuyên nghiên cứu ứng dụng sáng tạo những tri

thức, phương pháp khoa học tự nhiên, kỹ thuật công nghệ vào nghiên cứu các quy luật tự

nhiên, xã hội có liên quan đến sự hình thành và tồn tại của các phản ánh vật chất trong các

vụ việc hình sự, các phương pháp khoa học, các phương tiện kỹ thuật để xây dựng phát

triển và hoàn thiện hệ thống lý luận, phương pháp khoa học và phương tiện kỹ thuật trong

đấu tranh, phòng chống tội phạm [24, tr.7].

Tiền thân của lực lượng KHHS Việt Nam là những cán bộ, chiến sỹ chiếm lĩnh

phòng hồ sơ, bộ phận căn cước của Sở Liêm phóng khi ta giành chính quyền trong cuộc

Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945. Khi Việt Nam Công an vụ được thành lập

(21/02/1946) bộ phận căn cước thuộc Ty Chính trị. Đặc biệt từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh

ký Sắc lệnh thành lập Thứ Bộ Công an (2/1953) thì hệ thống tàng thư căn cước đã được

xây dựng thống nhất từ Trung ương xuống địa phương những vùng do ta làm chủ. Từ đó

đến nay lực lượng KTHS tiếp tục phát triển và là lực lượng độc lập, có cơ cấu tổ chức từ

cấp Bộ Công an đến Công an cấp huyện.

Như vậy có thể khái niệm: Cán bộ kỹ thuật hình sự là những cán bộ thuộc lực

lượng Công an nhân dân có nhiệm vụ tiến hành ứng dụng, sử dụng các biện pháp khoa học

21

kỹ thuật và nghiệp vụ vào hoạt động khám nghiệm hiện trường, giám định kỹ thuật hình sự,

pháp y và kỹ thuật phòng chống tội phạm theo quy định của pháp luật để phát hiện, thu

thập, bảo quản, nghiên cứu giám định dấu vết hình sự, xác lập chứng cứ, xác định nguyên

nhân, điều kiện xảy ra vụ việc, phục vụ công tác điều tra, xét xử và phòng ngừa tội phạm.

22

1.1.2. Phân loại cán bộ kỹ thuật hình sự

Cán bộ KTHS ở Bộ Công an công tác tại Viện Khoa học hình sự.

Cán bộ KTHS ở Công an cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được tổ chức

02 cấp, gồm cán bộ cấp tỉnh, thành phố (công tác tại Phòng KTHS) và cán bộ cấp huyện

(công tác tại Đội KTHS hoặc Tổ KTHS thuộc Đội điều tra tổng hợp).

Đối với cấp phòng, theo vị trí công tác được phân công, cán bộ có các chức danh

tương ứng như sau: chuyên viên, giám định viên, trợ lý giám định, kỹ thuật viên, trợ lý.

Đối với cấp huyện theo vị trí công tác có các chức danh sau: cán bộ điều tra, kỹ

thuật viên, cán bộ.

- Trợ lý: Là sỹ quan CAND làm công tác tham mưu, tổng hợp, xây dựng lực lượng,

hậu cần, kỹ thuật, tài chính, pháp chế, có trách nhiệm giúp lãnh đạo, chỉ huy Phòng KTHS

thực hiện công việc chuyên môn, nghiệp vụ được giao, có thời gian công tác 1 năm trở lên.

- Chuyên viên: Là sỹ quan CAND làm công tác tham mưu, tổng hợp, xây dựng lực

lượng, hậu cần, kỹ thuật, tài chính, pháp chế, có trách nhiệm giúp lãnh đạo, chỉ huy Phòng

KTHS thực hiện công việc chuyên môn, nghiệp vụ được giao, có thời gian làm trợ lý 8

năm trở lên.

- Giám định viên tư pháp: Là sỹ quan CAND sử dụng kiến thức, phương tiện,

phương pháp khoa học, kỹ thuật nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có

liên quan đến hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, giải quyết vụ việc

dân sự, vụ án hành chính theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố

tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định theo quy định của Luật giám định tư

pháp.

- Trợ lý giám định: Là sỹ quan, hạ sỹ quan được giám định viên tư pháp giao nhiệm

vụ tiến hành các bước thực hiện giám định theo quy trình giám định hoặc do Thủ trưởng tổ

chức được trưng cầu giám định phân công tham gia thực hiện công tác giám định và giúp

giám định viên hoàn thành bản dự thảo kết luận giám định.

- Kỹ thuật viên: Là sỹ quan, hạ sỹ quan CAND thực hiện các biện pháp nghiệp vụ

khám nghiệm hiện trường, kỹ thuật phòng chống tội phạm theo yêu cầu của Cơ quan điều

tra và đơn vị nghiệp vụ trong CAND.

- Cán bộ điều tra: Là sỹ quan, hạ sỹ quan CAND được giao nhiệm vụ giúp điều tra

viên tiến hành một số hoạt động điều tra được quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự, được

Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra phân công tham gia thực hiện.

23

1.1.3. Vị trí, vai trò, chức trách, nhiệm vụ của cán bộ kỹ thuật hình sự

Vị trí của cán bộ KTHS được thể hiện trên tất cả các mặt của cuộc đấu tranh phòng,

chống tội phạm như:

- Đối với quá trình phát hiện, điều tra tội phạm cán bộ KTHS sử dụng những

phương pháp khoa học, phương tiện kỹ thuật vào quá trình phát hiện, sao chép, thu thập

các chứng cứ để làm rõ các tình tiết, diễn biến của sự việc mang tính hình sự đã xảy ra

nhằm xác định có tội phạm hay không; nguyên nhân, điều kiện; hậu quả, tác hại và xác

định thủ phạm...

- Đối với hoạt động phòng ngừa: Cán bộ KTHS trên cơ sở thực hiện biện pháp

khoa học kỹ thuật để phát hiện những phương thức, thủ đoạn phạm tội; nguyên nhân, điều

kiện xảy ra, đồng thời phát hiện những sơ hở thiếu sót trong công tác phòng ngừa tội phạm,

đề chủ động đề ra các biện pháp phòng ngừa ngăn chặn tội phạm một cách có hiệu quả.

- Đối với hoạt động xét xử: Cán bộ KTHS sử dụng các phương pháp khoa học, các

phương tiện kỹ thuật để củng cố chứng cứ thông qua quá trình đánh giá, giám định kỹ

thuật hình sự... chứng minh tội phạm.

1.1.3.2. Vai trò

Vai trò của cán bộ KTHS được thể hiện trên các phương diện:

- Đối với quá trình phát hiện, điều tra và khám phá tội phạm: Cán bộ KTHS trực

tiếp nghiên cứu, thu thập các dấu vết, vật chứng, tài liệu, chứng cứ để làm rõ các tình tiết,

1.1.3.1. Vị trí

diễn biến của sự việc đã xảy ra; xác định sự việc xảy ra có hành vi phạm tội hay không;

xác định nguyên nhân, điều kiện, phương thức thủ đoạn; công cụ, phương tiện gây án; hậu

quả, tác hại và xác định thủ phạm của vụ án, góp phần điều tra khám phá một cách toàn

diện, có cơ sở khoa học đối với vụ, việc hình sự đã xảy ra.

- Đối với các hoạt động xét xử: Cán bộ KTHS thu thập củng cố chứng cứ (phát

hiện, thu thập, đánh giá, giám định...) để chứng minh một cách khoa học về vụ tội phạm,

kẻ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ... nhằm xét xử đúng người, đúng tội, không

để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.

- Đối với hoạt động phòng ngừa tội phạm: Cán bộ KTHS trực tiếp phát hiện những

phương thức, thủ đoạn phạm tội mới; các nguyên nhân, điều kiện xảy ra các vụ, việc gây

hậu quả nghiêm trọng; các hành vi vi phạm pháp luật; những sơ hở thiếu sót trong công tác

đấu tranh, phòng chống tội phạm... để chủ động đề ra các biện pháp điều tra cho phù hợp,

các biện pháp phòng ngừa ngăn chặn tội phạm và các vụ việc hình sự khác có hiệu quả

hơn.

1.1.3.3. Chức trách

- Tham mưu cho các cấp ủy Đảng, chính quyền và Công an các cấp về công tác

KTHS của lực lượng Công an nhân dân trong toàn quốc.

- Hướng dẫn việc thực hiện công tác KTHS trong thực tiễn.

- Tiến hành kiểm tra, giám sát hoạt động KTHS các cấp tuân thủ quy định của pháp

luật.

- Trực tiếp tham gia và tổ chức hoạt động nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa

học vào công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.

1.1.3.4. Nhiệm vụ

Nhiệm vụ của cán bộ KTHS trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và

những công việc khác có liên quan đến công tác bảo vệ trật tự an toàn xã hội, bao gồm:

- Tổ chức chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn cấp dưới và trực tiếp tiến hành công tác

nghiệp vụ chuyên môn theo sự phân cấp về: Khám nghiệm hiện trường và pháp y, giám

định KTHS và kỹ thuật phòng chống tội phạm.

24

- Kiểm tra, hướng dẫn cơ quan quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số

hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong hoạt động điều tra theo tố tụng

về nghiệp vụ KTHS trong tổ chức hoạt động khám nghiệm hiện trường, giám định KTHS

và kỹ thuật phòng chống tội phạm.

- Thông qua hoạt động chuyên môn nghiệp vụ, cán bộ KTHS phát hiện nguyên

nhân, điều kiện làm nảy sinh tội phạm để đề xuất, kiến nghị với các ngành chủ quản, cơ

quan Nhà nước, tổ chức xã hội có kế hoạch chấn chỉnh kịp thời để phòng ngừa, đấu tranh

đạt hiệu quả cao.

- Tổ chức sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm công tác kỹ thuật hình sự để đề xuất các

chế độ, quy trình công tác; cải tiến chế độ làm việc nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của

lực lượng kỹ thuật hình sự. Đề xuất nội dung chương trình, biên soạn giáo trình, bài giảng

tập huấn nghiệp vụ cho lực lượng kỹ thuật hình sự.

- Thực hiện kế hoạch hợp tác quốc tế về công tác đấu tranh chống tội phạm của lực

lượng KTHS theo quy định của ngành.

- Phối hợp với các đơn vị chức năng nghiên cứu, đề xuất bổ nhiệm, miễn nhiệm các

chức danh Trợ lý giám định, Giám định viên tư pháp về KTHS thuộc lực lượng KTHS.

- Quản lý tổ chức cán bộ và thực hiện các nhiệm vụ khác khi cấp có thẩm quyền

phân công.

- Đào tạo đội ngũ cán bộ KTHS có trình độ cao và năng lực công tác tốt, đủ điều

kiện đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm.

25

1.2. Chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự

1.2.1. Khái niệm

Theo từ điển Tiếng Việt, chất lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị một con

người, một sự vật, sự việc [32, tr.144].

Chất lượng là đặc tính khách quan của sự vật. Chất lượng biểu thị ra bên ngoài các

thuộc tính, các tính chất vốn có của sự vật. Quan niệm chung nhất về “chất lượng” là cái

tạo nên phẩm chất, giá trị của một người, một sự vật, sự việc. Nói đến chất lượng là nói tới

hai vấn đề cơ bản:

Thứ nhất, đó là tổng hợp những phẩm chất, giá trị, những đặc tính tạo nên cái bản

chất của một con người, một sự vật, sự việc;

Thứ hai, những phẩm chất, những đặc tính, những giá trị đó đáp ứng đến đâu những

yêu cầu đã được xác định về con người, sự vật, sự việc đó ở một thời gian và không gian

xác định. Tuy nhiên, những điều này có tính ổn định tương đối, thay đổi do tác động của

những điều kiện chủ quan và khách quan.

Vì thế, nói đến chất lượng của một con người là nói đến mức độ đạt được của một

người ở một thời gian và không gian được xác định cụ thể, đó là các mức độ tốt hay xấu,

cao hay thấp, ngang tầm hay dưới tầm, vượt tầm, đạt hay không đạt yêu cầu đặt ra. Tổng

hợp những phẩm chất, những giá trị, những thuộc tính đặc trưng, bản chất của một con

người và các mặt hoạt động của con người đó, chính là chất lượng con người đó.

Khi phân tích, đánh giá chất lượng của bất kỳ sự vật, hiện tượng, quá trình nào

đang diễn ra trong tự nhiên, xã hội hay trong tư duy phải phân tích, đánh giá chất lượng

của từng yếu tố, từng bộ phận cấu thành sự vật hiện tượng và quá trình ấy trong thống nhất,

biện chứng, trong sự ràng buộc và tác động lẫn nhau giữa chúng; không được tuyệt đối hoá

một yếu tố, bộ phận nào hoặc tách rời giữa các yếu tố, các bộ phận. Quá trình đó đòi hỏi

phải có phương pháp xem xét, đánh giá cụ thể, không thể áp dụng phương pháp duy nhất,

đặc biệt là đối với con người và hoạt động của con người trong xã hội.

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã xác định: “Chất lượng của cán bộ

là sự thống nhất giữa phẩm chất chính trị và năng lực công tác, thể hiện ở kết quả hoàn

thành nhiệm vụ” [21, tr.132].

Theo đó, chất lượng cán bộ có tính ổn định tương đối, có thể cao hoặc thấp do tác

động của những điều kiện khách quan và chủ quan, không bất biến, thường xuyên vận

động, biến đổi, phát triển theo yêu cầu, nhiệm vụ; chịu sự tác động mạnh mẽ của thực tiễn

và phụ thuộc vào quá trình bồi dưỡng, rèn luyện, phấn đấu của mỗi người cán bộ. Sinh

thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trong thế giới, cái gì cũng biến hoá. Tư tưởng con

người cũng biến hoá. Vì vậy, cách xem xét cán bộ, quyết không nên chấp nhất, vì nó cũng

phải biến hoá… Một người cán bộ khi trước sai lầm, không phải vì thế mà sai lầm mãi.

Cũng có cán bộ đến nay chưa bị sai lầm nhưng chắc gì sau này không phạm sai lầm? Quá

khứ, hiện tại và tương lai của mọi người không phải luôn giống nhau”[26, tr.278].

26

Cụ thể hơn, có thể khái quát: Chất lượng cán bộ hiện nay là tổng hợp thống nhất

biện chứng những giá trị, những thuộc tính đặc trưng, bản chất của cán bộ về các mặt hoạt

động, quy định và phản ánh mức độ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của cán bộ trong

điều kiện kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập quốc tế.

Từ những đặc điểm trên, có thể khái niệm:

Chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự là tổng hợp thống nhất những phẩm chất, giá

trị những thuộc tính đặc trưng, bản chất của từng cán bộ được thể hiện qua trình độ

chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp, phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, thể

lực, khả năng hoàn thành chức trách nhiệm vụ của mỗi cán bộ, chiến sỹ lực lượng kỹ thuật

hình sự.

27

1.2.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự

1.2.2.1. Trình độ

* Trình độ văn hoá

Cán bộ KTHS tốt nghiệp trung học phổ thông theo hình thức giáo dục chính quy

hoặc giáo dục thường xuyên.

Riêng đối với học sinh phổ thông, trong các năm học trung học phổ thông hoặc

tương đương đạt học lực trung bình trở lên theo kết luận tại học bạ, không lưu ban từ một

năm trở lên trong các năm học trung học phổ thông và tương đương.

* Trình độ chuyên môn

Trình độ chuyên môn nghiệp vụ là điều kiện tiên quyết trong thực hiện

các nhiệm vụ và tạo ra sản phẩm công việc. Trình độ là mức độ về sự hiểu

biết, về kỹ năng được xác định hoặc đánh giá theo tiêu chuẩn nhất định nào

đó thể hiện ở văn bằng chứng chỉ mà mỗi cán bộ nhận được thông qua quá trình học tập.

Cán bộ KTHS sẽ được đào tạo chuyên ngành tại các trường CAND (trung cấp, cao

đẳng hoặc đại học) hoặc được tuyển dụng từ các trường ngoài CAND (trung cấp, cao đẳng,

đại học, trên đại học) có chuyên môn thuộc các lĩnh vực KTHS được bồi dưỡng nghiệp vụ

CAND.

* Trình độ lý luận chính trị

Lý luận chính trị ở Việt Nam hiện nay là hệ thống những nguyên lý của chủ ngĩa

Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp

luật của Nhà nước cùng những tinh hoa tư tưởng chính trị của dân tộc và nhân loại. Nó

phản ánh tính quy luật của các quan hệ kinh tế - chính trị - xã hội, thể hiện lợi ích và thái

độ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đối với việc xây dựng nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa, là công cụ quan trọng cho việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt

Nam xã hội chủ nghĩa.

Mỗi cán bộ cán bộ, chiến sỹ CAND nói chung và cán bộ KTHS nói riêng phải thấm

nhuần chủ nghĩa Mác – Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng,

chính sách pháp luật của Nhà nước. Do đó cán bộ, chiến sỹ CAND nói chung và cán bộ

KTHS nói riêng phải thường xuyên học tập, trau dồi kiến thức và nâng cao trình độ lý luận

chính trị thì mới có thể đáp ứng được yêu cầu công tác đảm bảo ANTT. Đây là tiêu chí

quan trọng để đánh giá chất lượng cán bộ KTHS trong giai đoạn hiện nay.

* Trình độ tin học, ngoại ngữ

Biết sử dụng máy tính, soạn thảo văn bản là một trong những kỹ năng tối thiểu mà

mỗi cán bộ KTHS phải có hiện nay. Không chỉ vậy cán bộ KTHS còn phải không ngừng

nâng cao trình độ tin học, ngoại ngữ thì mới có thể tiếp cận được với những kiến thức mới,

các phương tiện nghiệp vụ hiện đại được trang bị. Theo quy định chung của Bộ Công an,

mỗi cán bộ, chiến sỹ CAND nói chung tối thiểu phải có trình độ A tin học và ngoại ngữ.

Đối với chỉ huy cấp càng cao thì đòi hỏi tiêu chuẩn càng cao.

1.2.2.2. Kỹ năng nghề nghiệp

Kỹ năng là khả năng vận dụng những kiến thức thu nhận được trong một lĩnh vực

nào đó vào thực tế, kỹ năng công việc bao giờ cũng gắn với một hoạt động cụ thể ở một

lĩnh vực cụ thể như kỹ năng ra quyết định, kỹ năng phối hợp, kỹ năng soạn thảo văn

bản...Đây là sản phẩm của quá trình tư duy kết hợp với việc tích lũy kinh nghiệm thông

qua đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, công tác. Kỹ năng nghề nghiệp là tiêu chí quan trọng để

đánh giá chất lượng cán bộ khi thực thi nhiệm vụ, cán bộ cần có những kỹ năng nhất định

để thực thi nhiệm vụ. Tuy nhiên, có những kỹ năng cần thiết cho mọi cán bộ CAND và có

những kỹ năng không thể thiếu đối với một cán bộ nhất định phụ thuộc vào tính chất công

việc mà họ đảm nhận. Đối với cán bộ KTHS thì cần phải có những kỹ năng sau:

28

Nắm được kiến thức cơ bản về chuyên môn, nghiệp vụ kỹ thuật hình sự, các

nguyên tắc, biện pháp công tác và kiến thức xã hội có liên quan.

Có khả năng thực hiện thành thạo các nhiệm vụ KTHS như:

- Khám nghiệm hiện trường, giám định KTHS, pháp y và kỹ thuật phòng chống tội

phạm.

- Nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ vào công tác KTHS.

- Nghiên cứu, tham gia soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành

chính thuộc lĩnh vực công việc được giao.

- Theo dõi, thực hiện, nắm bắt tình hình, tham mưu, tổng hợp, sơ kết, tổng kết một

số chuyên đề KTHS.

29

1.2.2.3. Phẩm chất chính trị, đạo đức, tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ

* Phẩm chất chính trị của cán bộ CAND là tổng hợp các đặc tính cá nhân cán bộ về

mặt chính trị, bao gồm các yếu tố cơ bản: nhận thức chính trị, thái độ chính trị và hành vi

chính trị. Cụ thể:

- Nhận thức chính trị của người cán bộ CAND là sự hiểu biết về đường lối, quan

điểm chính trị, về nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng, sự hiểu biết và tin tưởng vào mục

đích, lý tưởng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, vai trò, nhiệm vụ của cán bộ

CAND, hình thành tình cảm, ý chí cách mạng của người cán bộ.

- Thái độ chính trị của cán bộ CAND là những biểu hiện, cử chỉ, lời nói, việc làm

của người cán bộ xuất phát từ nhận thức, suy nghĩ, tình cảm trước những vấn đề chính trị,

tư tưởng và tổ chức của Đảng. Thái độ chính trị phản ánh cách nhìn nhận, suy nghĩ và chi

phối hành động của người cán bộ, bao gồm lòng trung thành, tính vững vàng, kiên định về

lập trường, tư tưởng chính trị. Cán bộ phải là người tuyệt đối trung thành với Tổ quốc,

trung thành với Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thái độ chính trị

của cán bộ đúng hay không đúng; kiên quyết, dứt khoát hay nửa vời, chập chừng, do dự;

nghiêm túc hay không nghiêm túc… có ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện nhiệm vụ

chính trị của người cán bộ.

chức kỷ luật

- Hành vi chính trị của người cán bộ CAND là hành động mang tính chính trị, như

tiên phong, gương mẫu trong công tác, lao động, học tập, sinh hoạt; đi đầu trong thực hiện

đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; tích cực tuyên

truyền, vận động nhân dân; kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực về chính

trị…

* Phẩm chất đạo đức của người cán bộ CAND bao gồm các yếu tố: Ý thức đạo đức,

thái độ đạo đức và hành vi đạo đức.

- Ý thức đạo đức của người cán bộ là quan niệm, sự hiểu biết về đạo đức, các giá trị

đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc, những giá trị, chuẩn mực đạo đức mới (đạo đức

cách mạng).

- Thái độ đạo đức của người cán bộ do ý thức đạo đức quy định, biểu hiện ra bên

ngoài là sự yêu hay ghét, ủng hộ hay phê phán đối với cái: thiện, ác, đẹp, xấu, tiến bộ, lạc

hậu…; là đúng mực, nghiêm túc hay không nghiêm túc với công việc, nghề nghiệp, với

đồng chí, đồng nghiệp, gia đình, bạn bè và quần chúng nhân dân…

- Hành vi đạo đức của người cán bộ là những hành động, lời nói, việc làm liên quan

đến phạm trù đạo đức, có tính nêu gương, giáo dục đạo đức đối với bản thân, gia đình,

đồng chí, đồng nghiệp và nhân dân.

Lối sống của người cán bộ là những hình thức, cung cách sinh hoạt, làm việc,

những hoạt động, cách xử sự đã trở thành ổn định, thành đặc điểm riêng của cá nhân. Lối

sống do nhiều yếu tố quy định như giáo dục, nghề nghiệp, điều kiện kinh tế, sinh hoạt,

hoàn cảnh xã hội, phẩm chất tâm lý-sinh lý và sự rèn luyện của cá nhân… Lối sống gắn

liền và là một biểu hiện đậm nét của đạo đức cá nhân, vì vậy, khi nhận diện và đánh giá

phẩm chất đạo đức của cán bộ nhất thiết phải xem xét lối sống của họ.

Phẩm chất đạo đức, lối sống của người cán bộ quan hệ mật thiết với phẩm chất

chính trị. Phẩm chất chính trị chi phối, quy định phẩm chất đạo đức; phẩm chất đạo đức tác

động tới sự phát triển phẩm chất chính trị. Người cán bộ có giác ngộ chính trị, có niềm tin

sâu sắc vào lý tưởng cộng sản chủ nghĩa sẽ giúp họ có tình yêu thương đồng chí, kính

trọng nhân dân, quan tâm giúp đỡ mọi người, biết hy sinh lợi ích cá nhân cho lợi ích cách

mạng. Những phẩm chất đạo đức tốt đẹp như trung, hiếu, dũng, liêm,… sẽ giúp người cán

bộ củng cố, phát triển các phẩm chất chính trị như sự kiên định lập trường, tư tưởng, tính

30

tiên phong gương mẫu của người cán bộ. Quan hệ biện chứng giữa phẩm chất chính trị và

phẩm chất đạo đức của người cán bộ tạo nên phẩm chất đạo đức cách mạng của người cán

bộ thường được gọi là “phẩm chất” hay mặt “đức” mặt “hồng” của cán bộ. Người cán bộ

phải có phẩm chất đạo đức trong sáng, tiêu biểu cho cuộc đấu tranh chống tham nhũng,

quan liêu, lãng phí và được cán bộ, đảng viên và nhân dân tin cậy.

* Tinh thần trách nhiệm của cán bộ CAND là hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc,

phục vụ nhân dân, sẵn sàng đi bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì khi Tổ quốc, Đảng và nhân

dân cần đến.

* Ý thức tổ chức kỷ luật của cán bộ CAND là việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật;

thực hiện nghiêm túc Điều lệnh CAND; phục tùng sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp trên.

1.2.2.4. Thể lực

Bảo đảm tiêu chuẩn sức khoẻ tuyển chọn cán bộ theo quy định của Bộ Công an; thể

hình, thể trạng cân đối giữa chiều cao và cân nặng, không dị hình, dị dạng, không mắc

bệnh kinh niên, mãn tính; không sử dụng ma tuý và các chất gây nghiện; đạt các tiêu chuẩn

về chiều cao, thị lực.

1.2.2.5. Kết quả công tác

Kết quả công tác của cán bộ hằng năm là một trong những tiêu chí quan trọng đánh

giá chất lượng cán bộ.

Đánh giá kết quả công tác trên các mặt sau: (1) Phẩm chất chính trị: nhận thức tư

tưởng, quan điểm chính trị, việc chấp hành chủ trương, đường lối, quy chế, quy định của

Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, Nghị quyết, chỉ thị, quy định của Ngành và địa

phương nơi cán bộ cư trú. (2) Đạo đức lối sống: Việc tu dưỡng, rèn luyện theo 6 điều Bác

Hồ dạy CAND; giữ gìn phẩm chất, đạo đức và lối sống lành mạnh; tính trung thực, ý thức

tổ chức kỷ luật, thực hiện chế độ điều lệnh nội vụ CAND; tinh thần tự phê bình và phê

bình; tinh thần học tập nâng cao trình độ, rèn luyện thể chất, nâng cao sức chiến đấu. (3)

Kết quả, mức độ thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao; tinh thần trách nhiệm trong

công tác.

31

1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự

1.2.3.1. Yếu tố khách quan

32

* Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kỹ thuật hình sự:

Các trường CAND đều có khoa KTHS đào tạo cán bộ KTHS, tuy nhiên

chất lượng đào tạo còn có những hạn chế như: thời gian đào tạo lý thuyết

nhiều, thực hành ít, phương tiện phục vụ thực hành còn thiếu. Trong khi đó

nghiệp vụ KTHS đòi hỏi sinh viên được thực hành nhiều thi khi ra trường mới

có thể tiếp cận nhanh chóng với nhiệm vụ được giao. Cụ thể như: kỹ năng

chụp ảnh hình sự, phát hiện, thu lượm, bảo quản dấu vết; kỹ năng nhận định,

đánh giá hiện trường; kỹ năng nghiên cứu giám định chữ viết, chữ ký, giám

định dấu vết đường vân...cần phải được đào tạo cơ bản và thành thạo trong

trường. Tuy nhiên thực tế sinh viên chuyên khoa KTHS tốt nghiệp về đơn vị

công tác vẫn phải đào tạo thêm vì chưa đáp ứng được yêu cầu công tác.

* Chế độ, chính sách đối cán bộ kỹ thuật hình sự:

So với các lực lượng khác như hình sự, điều tra, chế độ, chính sách đãi

ngộ đối với cán bộ KTHS còn nhiều bất cập, thấp hơn các lực lượng khác.

Điều đó dẫn tới cán bộ KTHS có tâm lý muốn chuyển sang lực lượng khác có

* Môi trường làm việc của lực lượng kỹ thuật hình sự:

Với chức năng nhiệm vụ được giao cán bộ KTHS thường xuyên phải làm việc

trong môi trường đặc thù rất vất vả, nguy hiểm, độc hại, ô nhiễm môi trường, căng thẳng,

dễ xảy ra phơi nhiễm lao, HIV (khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, giám định

phải dùng đến hoá chất độc hại, giám định chất ma tuý, giám định sinh học…). Khi xảy ra

vụ án, vụ việc, cán bộ đều phải làm việc không kể ngày, hay đêm với tinh thần hết sức

khẩn trương để nhanh chóng có mặt tổ chức công tác khám nghiệm hiện trường. Có những

vụ án phức tạp như cháy, nổ lớn, chết nhiều người, các vụ trọng án đặc biệt nghiêm trọng

cán bộ KTHS phải trực tiếp tham gia khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi xuyên

đêm, hoặc kéo dài liên tục trong nhiều ngày.

Công tác giám định pháp y đặc thù rất vất vả, độc hại, nguy hiểm, căng thẳng thần

kinh, cán bộ là giám định viên pháp y thường xuyên phải tiếp xúc với tử thi. Có những vụ

án, vụ việc giám định pháp y phải tiến hành khám nghiệm tử thi trong nhiều giờ, có vụ

chế độ, chính sách thuận lợi hơn.

phải khai quật tử thi để có thể đưa ra những đánh giá dấu vết thương tích, nhận định về

nguyên nhân chết kịp thời phục vụ ban chuyên án.

Tính chất công việc của cán bộ KTHS rất thầm lặng nhưng đòi hỏi sự thận trọng, tỉ

mỉ, khách quan, toàn diện. Chính vì vậy một cán bộ giỏi nghiệp vụ phải là những người

tâm huyết với công việc, có tinh thần say mê nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ

vào công tác.

33

- Nhận thức của một số lãnh đạo, chỉ huy và cán bộ lực lượng KTHS:

Đây là yếu tố cơ bản và quyết định nhất tới chất lượng của mỗi cán bộ nói riêng và

cán bộ lực lượng KTHS nói chung, bởi vì nó là yếu tố chủ quan, yếu tố nội tại bên trong

của mỗi con người. Nhận thức đúng là tiền đề, là kim chỉ nam cho những hành động, việc

làm đúng đắn, khoa học và ngược lại. Nếu người cán bộ lãnh đạo, chỉ huy nhận thức được

vai trò, tầm quan trọng của công tác KTHS thì họ sẽ chủ động đề ra chiến lược, biện pháp

xây dựng và phát triển lực lượng KTHS. Khi đó sẽ có những cán bộ KTHS say mê nghiên

cứu, học hỏi nâng cao trình độ nghiệp vụ, trau dồi kỹ năng nghề nghiệp để thực hiện nhiệm

vụ được giao đạt kết quả tốt nhất. Xây dựng được những cán bộ KTHS giỏi có chuyên

môn, kỹ năng làm việc, nhạy bén, sắc sảo trong đánh giá nhận định tính chất vụ án, đặc

điểm đối tượng gây án, phát hiện, thu lượm được những dấu vết, vật chứng có giá trị chứng

minh các tình tiết của vụ án. Cán bộ KTHS là giám định viên giỏi có khả năng kết luận

giám định những vụ việc khó, phức tạp như: giám định dấu vết đường vân; giám định chữ

viết, chữ ký; giám định âm thanh; giám định gen...đảm bảo chính xác, không để xảy ra sai

sót.

Ngược lại, khi cán bộ lãnh đạo, chỉ huy chưa coi trọng công tác KTHS thì họ sẽ

không quan tâm xây dựng lực lượng KTHS, khi đó cán bộ KTHS không được quan tâm

đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ và kỹ năng nghề nghiệp, không được quan

tâm, động viên. Như vậy, cán bộ KTHS sẽ có tâm lý ngại khó khăn vất vả, không tâm

huyết với nghề KTHS, có sự so sánh với các lực lượng khác có môi trường làm việc thuận

lợi hơn, họ sẽ thiếu nghiêm khắc với bản thân, không thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng

phẩm chất chính trị, đạo đức, thể lực và nâng cao trình độ nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp

từ đó làm việc với chất lượng thấp, trung bình chủ nghĩa, chỉ mong muốn được chuyển

sang lực lượng khác.

1.2.3.2. Yếu tố chủ quan

- Trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn nghiệp vụ: Trình độ văn hóa tạo ra khả

năng

tư duy và sáng

tạo cao. Cán bộ chiến sỹ có

trình độ văn hóa

cao sẽ có khả năng tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng những tiến bộ

khoa học kỹ thuật, những văn bản của nhà nước vào công việc, đồng thời

trong quá trình làm việc họ không những vận dụng chính xác mà còn linh

hoạt và sáng tạo để tạo ra hiệu quả làm việc cao nhất. Trình độ văn hóa và

chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ chiến sỹ không chỉ giúp cho họ thực hiện nhiệm vụ

nhanh mà còn góp phần nâng cao chất lượng thực hiện công việc.

- Tình trạng sức khỏe: Trạng thái sức khỏe có ảnh hưởng lớn tới năng

suất lao động. Nếu người có tình trạng sức khỏe không tốt sẽ dẫn đến mất tập

trung trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, ảnh hưởng lớn đến kết quả công tác.

- Tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật: là tất cả những hành vi biểu hiện

của cán bộ chiến sỹ trong quá trình thực thi nhiệm vụ được giao. Nó có ảnh hưởng quyết

định đến kết quả thực hiện nhiệm vụ. Nó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau, cả

khách quan và chủ quan nhưng chủ yếu là: Kỷ luật lao động, tinh thần trách nhiệm, sự gắn

bó với đơn vị.

34

1.3. Kinh nghiệm một số địa phương về nâng cao chất lượng cán bộ kỹ thuật

hình sự

1.3.1. Công an tỉnh Vĩnh Phúc

Vĩnh Phúc là địa phương tiếp giáp Hà Nội, trong những năm qua lực lượng KTHS

Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã có nhiều đóng góp tích cực trong công tác đảm bảo ANTT trên

địa bàn tỉnh. Trong giai đoạn 2013 – 2017, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh

Phúc luôn giữ vững danh hiệu “Đơn vị Quyết thắng”, năm 2017 đã vinh dự được Bộ Công

an tặng Cờ đơn vị dẫn đầu phong trào thi đua Vì an ninh Tổ quốc cấp cơ sở. Để đạt được

những kết quả như trên, Đảng ủy – Ban Giám đốc CATP tỉnh Vĩnh Phúc đã luôn quan tâm,

chỉ đạo xây dựng lực lượng KTHS vững mạnh. Cụ thể:

Thường vụ Đảng uỷ - Ban Giám đốc Công an tỉnh Vĩnh Phúc xác định, nhiệm vụ

quan trọng hàng đầu là tập trung chuẩn hoá lực lượng KTHS về phẩm chất chính trị, đạo

đức, trình độ, nghiệp vụ, lý luận chính trị, pháp luật, kỹ năng nghiệp vụ. Trong giai đoạn

2013-2017, Công an tỉnh đã phối hợp với Viện Khoa học hình sự, Bộ Công an mở 5 lớp

bồi dưỡng nghiệp vụ KTHS cho hơn 300 lượt cán bộ, chiến sỹ lực lượng KTHS của Công

an tỉnh. Trong đó chú trọng hướng dẫn cán bộ các kỹ năng thực hành như: chụp ảnh, vẽ sơ

đồ hiện trường, phát hiện, thu lượm, bảo quản dấu vết, kỹ năng nhận định, đánh giá hiện

trường…giúp cán bộ KTHS được trau dồi kiến thức, hoàn thiện kỹ năng nghiệp vụ. Bên

cạnh đó, những cán bộ có khả năng đều được gửi đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ tại Viện

Khoa học hình sự, Bộ Công an để bổ nhiệm giám định viên tư pháp. Nhờ thường xuyên

được đào tạo, bồi dưỡng, cán bộ, chiến sỹ nhanh chóng tiếp thu kiến thức, kinh nghiệm

thực tiễn, kỹ năng nghề nghiệp, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ được giao. Chất lượng cán bộ

được nâng cao, biện pháp nghiệp vụ KTHS đã phát huy tối đa, phục vụ có hiệu quả công

tác đảm bảo ANTT trên địa bàn tỉnh.

Đối cán bộ lãnh đạo, chỉ huy của lực lượng KTHS, 100% cán bộ chủ chốt đạt

chuẩn về trình độ trung cấp lý luận chính trị (lãnh đạo cấp phòng đều có trình độ cao cấp lý

luận chính trị), trình độ chuyên môn từ Đại học trở lên (tăng 33,8% so với đầu nhiệm kỳ).

Năm 2017, Đảng uỷ - Ban Giám đốc Công an tỉnh tiếp tục rà soát, thẩm định, giới thiệu 9

đồng chí tham gia lớp đào tạo nguồn cán bộ chủ chốt cấp ủy. Xác định cán bộ lãnh đạo, chỉ

huy của lực lượng KTHS giữ vai trò quan trọng trong công tác xây dựng lực lượng, Đảng

ủy – Ban Giám đốc Công an tỉnh thường xuyên quan tâm quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng.

100% số chỉ huy được đào tạo kỹ năng lãnh đạo, chỉ huy, điều hành thực hiện nhiệm vụ.

Đảng ủy – Ban Giám đốc Công an tỉnh đã quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở vật chất,

trang bị phương tiện nghiệp vụ hiện đại cho lực lượng KTHS. Đến nay lực lượng KTHS

Công an tỉnh Vĩnh Phúc là một số ít địa phương trong toàn quốc đã triển khai được 10/10

lĩnh vực giám định được Viện Khoa học hình sự, Bộ Công an phân cấp.

35

1.3.2. Công an tỉnh Quảng Ninh

Là một địa phương giáp biên, địa bàn rộng, trong những năm qua, Công an tỉnh

Quảng Ninh luôn làm tốt công tác đảm bảo ANTT trên địa bàn tỉnh. Xác định vị trí, vai trò

quan trọng của cán bộ KTHS, trong những năm qua đã triển khai thực hiện Đề án củng cố,

kiện toàn, nâng cao năng lực và tinh thần trách nhiệm của cán bộ lực lượng KTHS giai

đoạn 2010 – 2015. Trong đó tập trung vào một số giải pháp sau:

Thứ nhất, tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tu dưỡng, rèn luyện,

phẩm chất đạo đức cho cán bộ KTHS. Trong đó tập trung quán triệt các chỉ thị, nghị quyết

của Đảng ủy Công an Trung ương, của Tỉnh ủy và Đảng ủy Công an tỉnh về xây dựng cán

bộ lực lượng vũ trang nhân dân chính quy, từng bước hiện đại. Thường xuyên quan tâm,

lãnh đạo, chỉ đạo các phong trào “Học tập và thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy CAND”, “Đẩy

mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; “Xây dựng

người CAND bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ”.

Thứ hai, tiến hành rà soát, đánh giá thực trạng cán bộ KTHS. Trong đó tập trung rà soát ,

đánh giá về độ tuổi, trình độ nghiệp vụ, chuyên môn kỹ thuật, lý luận chính trị, kỹ năng nghề

nghiệp, thể lực, kết quả thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao. Kết quả đánh giá để xác định

năng lực, sở trường, chất lượng cán bộ. Trên cơ sở đánh giá hiệu quả công tác, kết quả các chỉ

tiêu công tác để củng cố (điều động, luân chuyển hoặc bố trí vào lĩnh vực công tác phù hợp).

Thứ ba, củng cố từng bước nâng cao chất lượng cán bộ KTHS bằng các biện pháp

cụ thể: Bổ nhiệm đủ cơ cấu chỉ huy, xem xét đề xuất điều động đối với các đồng chí chỉ

huy ở các đơn vị nhiều năm chỉ đạt hoàn thành nhiệm vụ, đơn vị có nhiều cán bộ, chiến sỹ

sai phạm phải xử lý kỷ luật.

Thứ tư, xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ KTHS và quy hoạch cán

bộ KTHS là chỉ huy đội, chỉ huy phòng. Mở rộng các loại hình đào tạo, bồi dưỡng để nâng

cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, pháp luật cho cán bộ KTHS như: bồi dưỡng nghiệp vụ

ngắn hạn tại Viện Khoa học hình sự, Bộ Công an, học tập nâng cao trình độ tại các Học

viện, trường CAND… Hằng năm phối hợp với Viện Khoa học hình sự Bộ Công an tổ chức

kiểm tra tay nghề cho cán bộ KTHS là giám định viên tư pháp.

Thứ năm, tăng cường kiểm tra, chấn chỉnh việc chấp hành Điều lệnh CAND, tư thế,

tác phong, tinh thần trách nhiệm và việc thực hiện văn hóa ứng xử trong Công an tỉnh.

Thứ sáu, thực hiện đúng và đầy đủ chế độ chính sách đối với cán bộ KTHS.

Thứ bẩy, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và trang bị phương tiện nghiệp vụ hiện đại

cho lực lượng KTHS đáp ứng yêu cầu công tác. Trong giai đoạn 2010 – 2015, Công an

tỉnh đã đề xuất UBND tỉnh Quảng Ninh hỗ trợ kinh phí xây dựng trụ làm việc và mua sắm

phương tiện hiện đại cho lực lượng KTHS.

36

1.3.3. Bài học kinh nghiệm đối với Công an thành phố Hà Nội

Từ thực tiễn kinh nghiệm nâng cao chất lượng cán bộ lực lượng KTHS tại Công an

tỉnh Vĩnh Phúc và Công an tỉnh Quảng Ninh cho thấy việc nâng cao chất lượng cán bộ

KTHS có ý nghĩa rất quan trọng đối với công tác đảm bảo an ninh chính trị, giữ gìn trật tự

an toàn xã hội trên địa bàn Thủ đô. Qua đó, những bài học kinh nghiệm rút ra đối với

CATP Hà Nội như sau:

Thứ nhất, phải nâng cao nhận thức trong cán bộ lãnh đạo cũng như cán bộ chiến sỹ

về ý nghĩa vị trí, vai trò của công tác KTHS trong điều tra khám phá và xử lý tội phạm.

Trong tiến trình cải cách tư pháp diễn ra mạnh mẽ như hiện nay việc việc thu thập chứng

cứ khách quan khoa học giữ vai trò rất quan trọng để tránh xảy ra oan sai (trọng chứng hơn

trọng cung). Chính vì vậy cần phải thực sự coi trọng công tác KTHS, coi trọng viện nâng

cao chất lượng cán bộ KTHS.

Thứ hai, chú trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, động viên cán bộ, chiến sỹ

yên tâm công tác, bố trí cán bộ được đào tạo chuyên ngành KTHS đúng vị trí; đánh giá

đúng thực trạng chất lượng cán bộ KTHS để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng hiệu quả.

Hằng năm tổ chức kiểm tra tay nghề cán bộ KTHS để có hướng đào tạo bồi dưỡng chuyên

sâu, mỗi lĩnh vực KTHS cần xây dựng cán bộ có trình độ chuyên môn giỏi.

Thứ ba, quan tâm đến công tác quy hoạch, chú trọng bồi dưỡng những cán bộ giỏi

để đưa vào quy hoạch lãnh đạo, chỉ huy. Chọn cử cán bộ trong diện quy hoạch tham gia

các lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước và kỹ năng lãnh đạo, bồi dưỡng nâng cao

trình độ chính trị, nghiệp vụ, pháp luật.

Thứ tư, xây dựng đồng bộ hệ thống giải pháp, từ khâu tuyển dụng, đào tạo tới sử

dụng, đánh giá chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự. Để nâng cao chất lượng cán bộ kỹ thuật

hình sự, cần quan tâm và chú trọng hơn nữa tới hoạt động tuyển dụng, tuyển chọn cán bộ,

xây dựng các tiêu chuẩn tuyển dụng phù hợp với vị trí công tác. Có các chính sách thu hút

cán bộ có năng lực, trình độ cao vào lực lượng nhất là cán bộ có trình độ trên đại học tốt

nghiệp các trường ngoài CAND nhằm nâng cao chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự, là

nguồn cán bộ quy hoạch cho tương lai.

Thứ năm, có chính sách động viên cán bộ KTHS tham gia nghiên cứu, ứng dụng

khoa học công nghệ vào công tác KTHS. Khuyến khích cán bộ đăng ký tham gia nghiên

37

cứu các đề tài khoa học cấp cơ sở và cấp bộ, nhất là những đề tài có tính ứng dụng thực

tiễn cao trong công tác.

Thứ sáu, đổi mới công tác nhận xét, đánh giá cán bộ phải thật sự chính xác, khách

quan. Tổ chức các hội thi kỹ năng nghề nghiệp, pháp luật cho cán bộ chiến sỹ. Phối hợp

với Viện Khoa học hình sự, Bộ Công an tổ chức kiểm tra tay nghề hằng năm cho cán bộ

làm công tác giám định KTHS.

Thứ bẩy, đặc thù môi trường làm việc của lực lượng KTHS là căng thẳng, áp lực, ô

nhiễm, độc hại… Chính vì vậy cần có chế độ chính sách động viên, khen thưởng, tôn vinh

cán bộ phù hợp.

Thứ tám, tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và trang bị phương tiện hiện

đại cho lực lượng KTHS đảm bảo đáp ứng các yêu cầu khám nghiệm hiện trường, giám

định KTHS, pháp y và kỹ thuật phòng chống tội phạm ngày một gia tăng và phức tạp, mở

rộng hợp tác quốc tế.

38

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Tác giả đã tập trung nghiên cứu hệ thống cơ sở lý luận về cán bộ kỹ

thuật hình sự, trong đó, tác giả đã nêu ra các khái niệm, phân loại, những đặc

điểm và vai trò của cán bộ kỹ thuật hình sự. Trên cơ sở hệ thống các tiêu chí

đánh giá chất lượng cán bộ KTHS về trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, về phẩm

chính trị, đạo đức, thể lực, kết quả thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao.

Tác giả đã làm rõ nội dung nâng cao chất lượng cán bộ lực lượng KTHS

Công an thành phố Hà Nội. Bên cạnh đó, tác giả còn nghiên cứu những vấn

đề chung về cán bộ KTHS bao gồm: khái niệm, vị trí, vai trò, chức năng,

nhiệm vụ, tiêu chí đánh giá chất lượng cán bộ KTHS, các yếu tố ảnh hưởng

đến nâng cao chất lượng cán bộ KTHS và kinh nghiệm đối với CATP Hà Nội

Qua tìm hiểu, học viên đã tham khảo kinh nghiệm nâng cao chất lượng cán bộ

KTHS của Công an tỉnh Vĩnh Phúc, Công an tỉnh Quảng Ninh để thấy được tầm quan

trọng của việc nâng cao chất lượng cán bộ KTHS và những kinh nghiệm, những bài học

trong việc nâng cao chất lượng cán bộ KTHS.

thực tế từ hoạt động của hai đơn vị trên. Trước yêu cầu ngày càng cao của công tác đấu

tranh phòng, chống tội phạm, yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp đòi hỏi bản

thân mỗi cán bộ KTHS và các đơn vị trong CATP nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm của

mình nhằm nâng cao chất lượng cán bộ chiến sỹ, hiệu quả làm việc. Đặc biệt đối với cán

bộ KTHS là lực lượng giữ vai trò rất quan trọng công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm

và công tác cải cách tư pháp hiện nay.

39

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ KỸ THUẬT

HÌNH SỰ CÔNG AN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên – kinh tế - xã hội và lực lượng kỹ

thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội

2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên

Hà Nội hiện nay có vị trí từ 20°53' đến 21°23' vĩ độ Bắc và 105°44' đến 106°02'

kinh độ Đông, tiếp giáp với các tỉnh Thái Nguyên - Vĩnh Phúc ở phía Bắc; Hà Nam - Hòa

Bình ở phía Nam; Bắc Giang- Bắc Ninh- Hưng Yên ở phía Đông và Hòa Bình- Phú Thọ ở

phía Tây.

Thực hiện kết luận Hội nghị Trung ương 6 (khóa X) và Nghị quyết của Quốc hội

khóa XII, kỳ họp thứ 3, số 15/2008/NQ-QH12, ngày 29 tháng 05 năm 2008 và Nghị quyết

này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 8 năm 2008, toàn bộ hệ thống chính trị của thành

phố Hà Nội sau hợp nhất, mở rộng địa giới hành chính Thủ đô bao gồm: Thành phố Hà Nội,

tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh - tỉnh Vĩnh Phúc và bốn xã thuộc huyện Lương Sơn - tỉnh Hòa Bình. Thủ đô Hà Nội sau khi được mở rộng có diện tích tự nhiên 3.329km2, lớn gấp hơn 3

2.1.1. Điều kiện tự nhiên – kinh tế - xã hội

lần trước đây và đứng vào tốp 17 Thủ đô trên thế giới có diện tích rộng nhất; dân số tăng hơn

gấp rưỡi, hơn 6,2 triệu người, hiện nay là hơn 7 triệu người; gồm 30 đơn vị hành chính cấp

quận, huyện, thị xã, 577 xã, phường, thị trấn.

2.1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội

Là thủ đô của cả nước, Hà Nội luôn duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong

suốt hơn 20 năm qua: tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của Hà Nội giai đoạn 1991 –

2000 đạt 11,6%/năm; giai đoạn 2001 - 2010 là 10,98%/năm; kinh tế - xã hội của thành phố

tiếp tục phát triển. Tổng sản phẩm trên địa bàn bình quân 5 năm 2011-2015 ước tăng

9,23%, gấp 1,58 lần mức tăng bình quân chung của cả nước. Quy mô GRDP năm 2015

theo giá hiện hành ước đạt 27,6 tỷ USD, bình quân thu nhập đầu người khoảng 3.600 USD,

tăng gấp 1,8 lần so với năm 2010. Bình quân trong giai đoạn này, Hà Nội luôn đóng góp

10% GDP cả nước, thu ngân sách chiếm gần 20% cả nước, thể hiện vai trò và vị trí ngày

càng lớn trong nền kinh tế.

Cơ cấu kinh tế của Hà Nội được chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng của

các ngành dịch vụ và công nghiệp. Hà Nội là một trong số ít địa phương có tỷ trọng nhóm

ngành dịch vụ cao hơn nhóm ngành công nghiệp (năm 2011 tỷ trọng của nhóm ngành dịch

vụ trong GDP là 52,53%). Kết quả, kinh tế Hà Nội tính đến năm 2017 tiếp tục duy trì mức

tăng trưởng khá so cùng kỳ năm trước: Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP - theo giá so

sánh) tăng 8,5%; vốn đầu tư phát triển trên địa bàn (giá hiện hành) tăng 10,5%; tổng mức

lưu chuyển hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội tăng 11,3%; kim ngạch xuất

khẩu tăng 10,3%; Khách du lịch đến Hà Nội tăng 10%...

Các chương trình, đề án, kế hoạch về giải quyết việc làm, dạy nghề cho lao động,

nhất là lao động nông thôn, phát triển thị trường lao động được thực hiện có hiệu quả.

Bình quân mỗi năm đào tạo nghề, truyền nghề cho trên 15 vạn lao động và giải quyết việc

làm cho 14 vạn lượt lao động; tỷ lệ thất nghiệp còn dưới 4,8%. Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm

y tế tự nguyện trong nhân dân tiếp tục mở rộng và phát triển.

Giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội. Nhiều chương trình, chính sách giảm

nghèo, hỗ trợ người tàn tật, người có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt, v.v... được triển khai

thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả, góp phần ổn định đời sống vật chất, tinh thần của các

đối tượng trên. Tỷ lệ hộ nghèo cuối năm 2015 giảm xuống còn 1,71%.

40

Công tác đấu tranh phòng, chống và đẩy lùi các tệ nạn xã hội được thực hiện quyết

liệt. Mô hình xã, phường, địa bàn dân cư, cơ quan, trường học không có tệ nạn xã hội được

nhân rộng. Chất lượng quản lý, giáo dục, chữa trị tại các trung tâm chữa bệnh và giáo dục

lao động xã hội của Thành phố được nâng cao.

Chất lượng cuộc sống của nhân dân Thủ đô, đặc biệt là khu vực nông thôn, miền

núi, vùng đồng bào dân tộc ít người được cải thiện. Việc hỗ trợ các đối tượng chính sách

xã hội và thực hiện chính sách đối với người có công, chính sách dân tộc được triển khai

thực hiện có hiệu quả. Phong trào “đền ơn, đáp nghĩa” được đẩy mạnh, huy động được

nhiều tổ chức, cá nhân tham gia.

Văn hóa tiếp tục phát triển, một số mặt chuyển biến tích cực; thực hiện tốt các chủ

trương về nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa ở cơ sở; đời sống văn hóa, tinh thần của

các tầng lớp nhân dân Thủ đô được cải thiện rõ rệt. Hệ thống các thiết chế văn hóa được

quan tâm đầu tư, hoàn thiện, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát triển văn hóa của

cộng đồng và bảo tồn bản sắc văn hoá các dân tộc. Công tác quản lý nhà nước về văn hóa

được tăng cường.

Xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh được chú trọng và đạt kết quả đáng

ghi nhận. Nhiều phong trào, hoạt động xây dựng mô hình văn hóa ở cơ sở tiếp tục được

triển khai đạt kết quả tốt; những giá trị, nét đẹp văn hoá của người Hà Nội thanh lịch, văn

minh, truyền thống trong gia đình, họ tộc và cộng đồng dân cư được kế thừa, phát huy.

Nếp sống văn hoá, văn minh đô thị, nhất là trong việc cưới, việc tang, tổ chức lễ hội có

chuyển biến tốt. Xây dựng bộ quy tắc ứng xử văn minh nơi công cộng và đưa vào giảng

dạy bộ tài liệu giáo dục nếp sống thanh lịch, văn minh cho học sinh Thủ đô, v.v... đã góp

phần nâng cao nhận thức, khơi dậy niềm tự hào, điều chỉnh hành vi của người Hà Nội,

nhất là thế hệ trẻ.

2.1.1.3. Thuận lợi và khó khăn đối với công tác đảm bảo An ninh trật tự

Thủ đô Hà Nội là Trung tâm chính trị - kinh tế - văn hoá xã hội của cả nước đã có

bước phát triển, mạnh mẽ. Người dân Hà Nội đã có mức sống khá về vật chất và tinh thần,

trình độ dân trí phát triển trên nhiều lĩnh vực, trong đó có nhận thức về pháp luật. Song

song với sự phát triển tích cực cũng xuất hiện và tồn tại những tiêu cực trong đời sống xã

hội như: Sự phân hoá giàu nghèo, tai, tệ nạn xã hội, tính chất hoạt động của các loại tội

41

phạm về an ninh, kinh tế, hình sự, ma tuý ngày càng tinh vi và xảo quyệt, táo bạo và liều

lĩnh. Sau khi Hà Nội được mở rộng về địa giới hành chính và tăng dân số thì mức độ chênh

lệch về hiểu biết, mức sống, tập tục, thói quen...ở các vùng, các địa phương là rất lớn, vấn

đề quy hoạch, xây dựng phát triển Thủ đô trong thời gian tới...Đây là vấn đề nảy sinh nhiều

yếu tố phức tạp ảnh hưởng đến ANTT. Một số loại tội phạm quốc tế cũng đã xâm nhập vào

Thủ đô. Đặc biệt với trình độ khoa học công nghệ phát triển với tốc độ cao, phương thức

thủ đoạn hoạt động của tội phạm cũng có xu hướng phát triển theo quy luật này.

Nhiệm vụ đảm bảo vững chắc ANCT, TTATXH ở Thủ đô là cực kỳ quan trọng và

hết sức khó khăn phức tạp, đòi hỏi CATP phải sử dụng nhiều biện pháp nghiệp vụ trong đó

có biện pháp KTHS. Thực tế cho thấy, công tác KTHS ngày càng trở thành một biện pháp

khoa học nghiệp vụ quan trọng trong phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm của lực lượng

Công an. Trong công tác điều tra, công tác KTHS đã phát hiện kịp thời chính xác những

phương thức hoạt động của tội phạm, định hướng cho hoạt động điều tra, xác lập được

những căn cứ truy nguyên, truy tìm tội phạm, phục vụ có hiệu quả cho công tác điều tra.

Trong công tác xử lý tội phạm những tài liệu, chứng cứ được xác lập của công tác KTHS

đã thực sự góp phần quan trọng, đảm bảo tính chính xác, khách quan và nghiêm minh.

42

2.1.2. Lực lượng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội

Từ bộ phận Căn cước thuộc Ban Chính trị Sở Liêm phóng Bắc Bộ, Ty Công an Hà

Nội, Hà Đông, Sơn Tây sau những ngày cách mạng tháng Tám thành công, lực lượng

KTHS ban đầu thực hiện nhiệm vụ khai thác tàng thư căn cước, truy tìm tiền án, tiền sự

phục vụ công tác bảo vệ chính quyền, từng bước trở thành những bộ phận nghiệp vụ của

Công an cách mạng. Trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ, lực lượng KTHS Công an

Thủ đô đã bám sát nhiệm vụ chính trị được giao, không ngừng trưởng thành và lớn mạnh,

xây dựng thành các Tổ KTHS (Phòng Trị an dân cảnh), Đội KTHS (Phòng Trinh sát Kỹ

thuật, Cảnh sát hình sự); luôn nỗ lực vượt qua khó khăn, gian khổ, tận tụy, trách nhiệm với

công việc, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, đóng góp tích cực vào thành tích

chung của lực lượng Công an Thủ đô, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đảm bảo an ninh,

trật tự trên địa bàn, phục vụ có hiệu quả sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất

đất nước.

2.1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển

Bước vào thời kì đổi mới, mở cửa, hội nhập quốc tế sâu rộng, lực lượng KTHS

Công an Thủ đô không ngừng trưởng thành, lớn mạnh về mọi mặt chính trị tư tưởng, tổ

chức và chuyên môn nghiệp vụ. Ngày 10/7/1981, Phòng KTHS Công an thành phố được

thành lập, là dấu mốc quan trọng của lực lượng KTHS Công an Hà Nội. Đến nay, CATP

Hà Nội đã có đội ngũ cán bộ, chiến sĩ lực lượng KTHS phát triển cả về số lượng và chất

lượng được nâng lên, được bố trí từ CATP đến Công an các quận, huyện, thị xã (gồm

Phòng PC54 với 07 đội công tác; 02 Đội KTHS độc lập, 28 Tổ KTHS thuộc Đội Điều tra

tổng hợp Công an các quận, huyện, thị xã), bước đầu hình thành hệ thống lực lượng KTHS

đến địa bàn cơ sở, tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai các mặt công tác chuyên sâu

có hiệu quả. Với chức năng nhiệm vụ được giao, thông qua các biện pháp nghiệp vụ để kịp

thời phát hiện những âm mưu, phương thức hoạt động, tính chất thủ đoạn của các loại tội

phạm, để tham mưu giúp lãnh đạo các cấp có đối sách phòng ngừa và đấu tranh, lực lượng

KTHS còn trực tiếp tham gia các hoạt động điều tra tội phạm; sử dụng các biện pháp khoa

học để xác lập chứng cứ xử lý tội phạm, sử dụng các phương tiện kỹ thuật để phát hiện và

phòng ngừa tội phạm. Trong thực tế công tác, lực lượng KTHS đã và đang tiến hành hiệu

quả các biện pháp nghiệp vụ: Khám nghiệm hiện trường, giám định tài liệu, giám định

hóa-sinh học và kỹ thuật phòng chống tội phạm và các vi phạm pháp luật trên địa bàn Thủ

đô.

43

2.1.2.2. Hệ thống tổ chức của lực lượng kỹ thuật hình sự Công an

thành phố Hà Nội

Hệ thống tổ chức của CATP Hà Nội gồm có 46 phòng nghiệp vụ an

ninh, cảnh sát, xây dựng lực lượng, hậu cần; Công an 12 quận, 17 huyện, 01

thị xã.

Hệ thống tổ chức của lực lượng KTHS thuộc CATP hiện nay được bố

trí ở 02 cấp: Cấp thành phố và cấp quận, huyện, thị xã.

- Cấp thành phố có Phòng KTHS (phiên hiệu là PC54), với 07 đội

nghiệp vụ, gồm: Đội Tham mưu, Đội khám nghiệm hiện trường, Đội Giám

định KTHS truyền thống, Đội giám định Tài liệu, Đội giám định Hoá học,

Đội Kỹ thuật phòng chống tội phạm.

- Cấp quận, huyện, thị xã có: Đội KTHS Công an quận Đống Đa, Đội

44

KTHS Công an huyện Đông Anh và 28 Tổ KTHS trực thuộc Đội Điều tra

Tổng hợp.

Sơ đồ 2.1: Hệ thống tổ chức bộ máy của Công an thành phố Hà Nội

Ban Giám đốc CATP Hà Nội

Phòng Kỹ thuật hình sự

45 Phòng nghiệp vụ khác

30 Công quận, huyện, thị xã

07 Đội nghiệp vụ

02 Đội Kỹ thuật hình sự

28 Đội Điều tra tổng hợp

45

28 Tổ Kỹ thuật hình sự

46

2.1.2.3. Về số lượng

Căn cứ Quyết định 1726/QĐ-BCA ngày 07/4/2015 của Bộ Công an quy định

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung

ương. Hiện nay Công an thành phố Hà Nội có 76 đầu mối gồm: 46 phòng ban và 30

công an cấp quận, huyện, thị xã. Trong đó Phòng KTHS (phiên hiệu PC54) là một

Thực hiện Quyết định số 994/2008/QĐ-BCA ngày 30/7/2008 của Bộ Công an về Thành

lập Đội (hoặc Tổ Kỹ thuật hình sự) công an cấp huyện, CATP Hà Nội ban hành Quyết định số

2665/QĐ-CAHN(PX13) ngày 27/11/2008 về việc thành lập các Tổ KTHS thuộc Công an các

quận, huyện, thị xã. Tính đến ngày 31/12/2017, Công an thành phố Hà Nội có 02 đội KTHS

thuộc Công an quận Đống Đa, CAH Đông Anh và 28 tổ KTHS thuộc 28 Công an quận, huyện, thị

xã còn lại.

Số lượng cán bộ kỹ thuật hình sự CATP Hà Nội cụ thể như sau:

đơn vị trực thuộc CATP Hà Nội.

Bảng 2.1. Số lượng cán bộ kỹ thuật hình sự theo chức danh

(Đơn vị tính: người)

Số LƯợNG

STT

CHứC DANH TƯ PHÁP

2013

2014

2015

2016

2017

Phòng Kỹ thuật hình sự

23

27

32

32

35

1 Giám định viên

Trợ lý giám định định

37

40

42

41

38

2

Chuyên viên

3

3

3

3

3

3

Trợ lý

8

8

8

8

8

4

30

34

20

17

14

5 Kỹ thuật viên

Tổng

101

101

105

101

98

Công an quận, huyện, thị xã

Cán bộ điều tra

18

21

20

22

24

1

35

37

33

35

37

2 Kỹ thuật viên

Cán bộ

63

67

59

75

79

3

Tổng

116

124

112

132

140

Nguồn: Phòng Kỹ thuật hình sự CATP Hà Nội

Qua bảng trên cho thấy trong giai đoạn 2013 - 2017, số cán bộ chiến sỹ Phòng Phòng

KTHS khá ổn định, mặc dù đến năm 2017 có xu hướng giảm tuy không nhiều.

Như vậy, số lượng cán bộ KTHS của CATP Hà Nội đã được đảm bảo đầy đủ các chức

danh. Hiện tại, thành phố Hà Nội có 12 quận, 17 huyện và 01 thị xã. Với tổng biến chế tính đến

năm 2017, lực lượng KTHS có 238 đồng chí đã đủ đáp ứng yêu cầu thực hiện công tác khám

nghiệm hiện trường, giám định KTHS, pháp y và kỹ thuật phòng chống tội phạm trên địa bàn

thành phố.

Tuy nhiên, đối với chức danh: Cán bộ điều tra (24 đ/c) và Giám định viên (35 đ/c) là còn

thiếu so với yêu cầu thực tiễn. Số lượng cán bộ điều tra phụ trách công tác KTHS tính đến năm

2017 chỉ có 24 đ/c, như vậy số lượng này chưa đảm bảo bình quân mỗi, quận, huyện, thị xã có 01

cán bộ điều tra.

Với lượng vụ việc tiến hành khám nghiệm hiện trường, giám định hằng năm rất lớn

(khoảng trên 5000 vụ khám nghiệm và trên 8.000 vụ giám định) trong khi đó số kỹ thuật viên có

154 đ/c, giám định viên chỉ có 35 đ/c, trợ lý giám định 38 đ/c (tính đến năm 2017), trung bình mỗi

đồng chí phải giám định 230 vụ/năm. Đây là một áp lực rất lớn đối với cán bộ KTHS.

Đối với Công an các quận, huyện, thị xã số cán bộ được bố trí hằng năm có xu hướng tăng

theo chủ trương tăng cường cho Công an cấp huyện của Bộ Công an. Năm 2013 có tổng số 116

đ/c, đến năm 2017 có 140 đ/c (tăng 24 đ/c = 20,68%). Điều này là hoàn toàn phù hợp do số lượng

vụ việc Công an các quận, huyện, thị xã giải quyết tăng hằng năm.

Với cơ cấu như trên, cán bộ KTHS CATP Hà Nội đã tham mưu cho Đảng ủy, Ban Giám

đốc CATP thực hiện tốt các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, Nhà nước, triển khai các Chương trình,

kế hoạch trọng tâm của Bộ Công an, CATP về công tác đảm bảo ANTT trên địa bàn Thủ đô, đảm

bảo thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao.

47

2.1.2.4. Cơ cấu, giới tính và độ tuổi

Bảng 2.2: Cơ cấu giới tính và độ tuổi của cán bộ kỹ thuật hình sự, Công

an thành phố Hà Nội

(Đơn vị tính: người)

Độ tuổi Năm 41 - 50 51 - 60 < 30 tuổi Nữ Nam 30 - 40 tuổi Nữ Nam Nam Nam Nữ

Nữ Phòng Kỹ thuật hình sự

48

43 17 19 6 2 2 12 0 2013

29 14 20 6 5 2 11 0 2014

44 12 21 6 6 3 8 1 2015

45 11 22 7 6 2 7 1 2016

42 11 16 14 5 3 6 1 2017

Công an quận, huyện, thị xã

88 3 15 6 1 3 2013

83 3 27 8 1 3 2014

100 3 8 1 2015

119 3 9 1 2016

120 3 13 3 1 2017

Nguồn: Phòng Tổ chức cán bộ CATP Hà Nội

Qua số liệu tại bảng biểu cho thấy: Năm 2017, số lượng cán bộ KTHS là nam

giới chiếm ưu thế với 211 đồng chí (tỉ lệ 79,60%) trong khi tỷ lệ cán bộ KTHS là nữ

giới là 27 đồng chí (tỉ lệ 20,40 %) và chủ yếu làm một số công tác chuyên môn như:

Văn phòng - thống kê; Tài chính- kế toán; giám định tài liệu, giám định hoá học,

giám định sinh học.

Tỷ lệ nữ cán bộ KTHS năm 2017 giảm so với năm 2013 là 01 đồng chí (5%)

và đã có những cán bộ chủ chốt là nữ, đến năm 2017 có 04 cán bộ giữ chức vụ chỉ

huy đội là nữ (chiếm 19,04% tổng số cán bộ chỉ huy của Phòng Kỹ thuật hình sự).

Đối với cán bộ KTHS cấp quận, huyện, thị xã, tỉ lệ nam giới chiếm ưu thế.

Năm 2017, tỉ lệ nam giới là 95%, tỉ lệ nữ giới là 5%. Chủ yếu làm công tác thống

kê, tổng hợp và lập căn cước can phạm.

Theo quy định của Bộ Công an, tỉ lệ nữ trong biên chế không được vượt quá

10%. Như vậy, tỉ lệ nữ ở Phòng KTHS đã vượt quá quy định của Bộ Công an, tuy

nhiên tỉ lệ nữ ở cấp huyện lại thấp (5%).

Về cơ cấu độ tuổi: Cơ cấu cán bộ KTHS hiện nay của CATP Hà Nội thiếu

đồng bộ và chưa có tỷ lệ hợp lý giữa các độ tuổi. Số lượng cán bộ KTHS trong độ

tuổi dưới 30 tuổi chiếm tỷ lệ cao (từ 40% - 45%), trong khi đó, số lượng cán bộ

KTHS trong độ tuổi từ 41 đến 50 và 50 tuổi đến dưới 60 tuổi chiếm tỷ lệ rất thấp (từ

12% năm 2013 giảm dần còn 6% năm 2017).

Như vậy, độ tuổi trung bình của cán bộ KTHS tương đối trẻ, số lượng cán bộ

49 trẻ còn chiếm tỷ lệ cao, sự phân bổ giữa các nhóm tuổi cũng chưa hợp lý. Đặc thù

công tác KTHS rất cần những cán bộ có kinh nghiệm, tuy nhiên trong giai đoạn

2013 – 2017, số có bộ có kinh nghiệm nghỉ hưu nhiều (theo quy định tại Luật

CAND, nam giới không giữ chức vụ lãnh đạo cấp phòng và tương đương trở lên

tuổi nghỉ hưu là 55 tuổi, nữ giới là 53 tuổi). Trong khi đó, số lượng cán bộ KTHS ở

nhóm tuổi trẻ, có trình độ, được đào tạo bài bản về chuyên môn, nghiệp vụ, tuy

nhiên lại ít kinh nghiệm công tác thực tiễn. Đây là một trong những điều cản trở

công tác tổ chức, bố trí và quy hoạch cán bộ. Đồng thời, trong điều kiện công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế thế giới, đội ngũ cán bộ trẻ, có

trình độ cao sẽ là lực lượng quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả

công tác quản lý và tiếp cận với những phương pháp làm việc mới, hiện đại, hiệu

quả hơn.

2.2. Phân tích thực trạng chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự Công an

thành phố Hà Nội

2.2.1. Về trình độ

2.2.1.1. Trình độ văn hóa

Theo quy định của Bộ Công an, thí sinh tham gia thi tuyển vào các trường

CAND hoặc xét tuyển chiến sỹ nghĩa vụ ngoài tiêu chuẩn sức khỏe thì phải đạt trình

độ văn hóa tốt nghiệp trung học phổ thông (không chấp nhận tốt nghiệp bổ túc văn

hóa). Chính vì vậy 100% cán bộ KTHS của CATP Hà Nội đều có trình độ phổ

thông trung học.

2.2.1.2. Trình độ chuyên môn

Trong những năm qua, cán bộ KTHS tại CATP Hà Nội không ngừng được

nâng cao về trình độ, bằng cấp chuyên môn, thể hiện qua bảng:

Bảng 2.3: Trình độ chuyên môn cán bộ kỹ thuật hình sự Công an thành

phố Hà Nội

(Đơn vị tính: Người)

NĂM

STT

TRÌNH ĐỘ CHUYÊN MÔN

2013

2014

2015

2016

2017

Phòng Kỹ thuật hình sự

Tiến sỹ

1

1

1

1

1

1

Thạc sỹ

1

2

5

6

9

2

77

67

66

63

50 75

3 Đại học

4

4

6

6

6

Cao đẳng

4

19

16

20

21

18

Trung cấp

5

1

1

1

1

1

Sơ cấp

6

Tổng

101

101

100

101

98

Công an quận, huyện, thị xã

Tiến sỹ

1

Thạc sỹ

2

32

41

27

36

53

3 Đại học

Cao đẳng

4

84

83

85

96

87

Trung cấp

5

Sơ cấp

6

Tổng

116

124

112

132

140

Nguồn: Phòng Tổ chức cán bộ CATP Hà Nội

Qua bảng trên cho thấy trình độ cán bộ cấp thành phố (cấp phòng) chủ yếu là

trình độ đại học, chiếm từ 65% đến 70%. Trong đó, số CBCS có trình độ thạc sỹ

tăng dần hằng năm. Năm 2013, Phòng KTHS có 01 tiến sỹ và 01 thạc sỹ, thì đến

năm 2017, Phòng KTHS có 01 tiến sỹ và 9 thạc sỹ. Điều đó cho thấy trình độ

chuyên môn của cán bộ Phòng KTHS được nâng nên. Đơn vị đã có định hướng,

quan tâm, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ là chuyên gia trong các lĩnh vực giám

định. Số cán bộ có trình độ tiến sỹ, thạc sỹ tập trung ở các lĩnh vực: Giám định pháp

y, giám định sinh học, giám định tài liệu, giám định hoá học, tham mưu. Tuy nhiên

số cán bộ có trình độ đại học có xu hướng giảm dần do số cán bộ của Phòng KTHS

đến tuổi nghỉ hưu hằng năm từ 5 đến 6 cán bộ. Một số cán bộ có trình độ đại học

được tăng cường xuống các đội, tổ KTHS theo Quyết định của Giám đốc CATP.

Hằng năm Phòng KTHS được Giám đốc CATP bổ sung biên chế là cán bộ tốt

nghiệp Học viện CSND về đơn vị, tuy nhiên quân số được bổ sung khá ít, trung

bình 2 đến 3 đồng chí/năm. Do vậy xu hướng biên chế có trình độ đại học giảm và

Đối với các Đội, Tổ KTHS Công an các quận, huyện, thị xã, số cán bộ có trình độ đại học

chiếm khoảng 30% đến 45%, tuy nhiên chưa có đồng chí nào có trình độ sau đại học. Số cán bộ

trình độ đại học có xu hướng giảm dần nguyên nhân do xin chuyển sang làm công tác khác. Còn

lại cán bộ chủ yếu có trình độ trung cấp CAND, đa số là các đồng chí trẻ, đang ở độ tuổi dưới 30

nên kinh nghiệm chưa có, còn lúng túng, bị động trong giải quyết công việc.

quân số đơn vị giảm.

2.2.1.3. Trình độ lý luận chính trị

51

Trình độ lý luận chính trị của cán bộ kỹ thuật hình sự CATP Hà Nội không

chỉ được lãnh đạo Phòng Kỹ thuật hình sự, Ban chỉ huy Công an các quận, huyện,

thị xã và Ban Giám đốc CATP quan tâm bồi dưỡng, mà còn là một trong những tiêu

chí quan trọng để đánh giá chất lượng; kết quả học tập chính trị là một trong những

tiêu chuẩn để xem xét đánh giá, sử dụng, thực hiện các chính sách cán bộ khác. Do

vậy, trong giai đoạn 2013- 2017, số lượng cán bộ KTHS Công an thành phố Hà Nội

được bồi dưỡng lý luận chính trị có xu hướng tăng. Kết quả bồi dưỡng lý luận chính

trị cho cán bộ KTHS được thể hiện qua bảng sau:

Bảng 2.4: Trình độ lý luận chính trị cán bộ kỹ thuật hình sự Công an

thành phố Hà Nội

(Đơn vị tính: Người)

TRÌNH ĐỘ LÝ LUậN

NĂM

STT

CHÍNH TRị

2013

2014

2015

2016

2017

Phòng Kỹ thuật hình sự

Cử nhân

1

0

0

0

1

1

Cao cấp

2

4

4

4

3

2

Trung cấp

3

35

45

50

59

52

Sơ cấp

4

61

51

45

34

45

Chưa qua đào tạo

5

1

1

1

1

1

Tổng

101

101

100

101

98

Công an quận, huyện, thị xã

Cử nhân

1

0

0

0

0

0

Cao cấp

2

0

0

0

0

0

Trung cấp

3

24

29

27

47

32

Sơ cấp

4

92

95

85

93

100

Chưa qua đào tạo

5

0

0

0

0

0

132

Tổng

116

124

112

140

Nguồn: Phòng Tổ chức cán bộ CATP Hà Nội

Qua bảng trên cho thấy trình độ lý luận chính trị của cán bộ KTHS ở cấp phòng và cấp quận, huyện, thị xã tăng hằng năm. Đối với Phòng KTHS năm 2013,

tỉ lệ cán bộ có trình độ trung cấp lý luận chính trị là 35 đ/c (chiếm 34,65%) thì đến năm 2017 tăng lên 59 đ/c (chiếm 60,20%). Trong khi đó số cán bộ có trình độ sơ

52 cấp lý luận chính trị có xu hướng giảm dần. Năm 2013 là 61 đồng chí (60,39%) thì đến năm 2017 giảm còn 34 đồng chí (chiếm 34,69%). Giai đoạn 2015 – 2017, Giám đốc CATP đã chỉ đạo Phòng Tổ chức cán bộ rà soát chuẩn hoá cán bộ trong CATP nói chung và lực lượng KTHS nói riêng. Công an thành phố Hà Nội đã phối hợp với

Học viện Chính trị CAND tổ chức các lớp bồi dưỡng ngắn hạn nhằm hoàn thiện trình độ trung cấp lý luận chính trị cho hơn 3000 cán bộ, chiến sỹ, trong đó đội ngũ

cán bộ KTHS có 65 lượt cán bộ, chiến sỹ. Số cán bộ có trình độ cử nhân và cao cấp lý luận chính trị đều là những đồng chí chỉ huy phòng. Theo tiêu chuẩn chức danh đối với lãnh đạo chỉ huy cấp phòng, quận, huyện, thị xã thì đều phải đáp ứng tiêu chuẩn cao cấp lý luận chính trị trở lên.

Đối với cán bộ KTHS cấp quận, huyện, thị xã tỉ lệ cán bộ có trình độ sơ cấp

lý luận chính trị chiếm chủ yếu. Năm 2013 là 92 đồng chí (chiếm tỉ lệ 79,31%), năm 2017 là 107 đồng chí (chiếm tỉ lệ 76,42%).

Số cán bộ có trình độ trung cấp lý luận chính trị có xu hướng tăng nhưng không nhiều. Năm 2013 có 24 đồng chí, đến năm 2017 có 33 đồng chí, tăng 37,5%. Tuy nhiên số cán bộ có trình độ sơ cấp lý luận chính trị tăng nhiều do hằng năm các Đội, Tổ KTHS được bổ sung cán bộ chủ yếu tốt nghiệp trung cấp CAND chuyên ngành kỹ thuật hình sự. Năm 2013 có 92 đồng chí, đến năm 2017 có 107 đồng chí, tăng số cán bộ này sau thời gian công tác 2 năm trở lên sẽ được đơn vị xem xét chọn cử học lên trình độ đại học và bổ sung kiến thức lý luận chính trị để hoàn thiện trình độ lý luận chính trị trung cấp.

2.2.1.4. Trình độ tin học, ngoại ngữ

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Công an thành phố Hà Nội lần thứ XXVII nhiệm kỳ 2015 – 2020 đã đề ra chỉ tiêu phấn đấu đào tạo cán bộ, chiến sỹ trình độ trên đại học đạt 3%, đào tạo trình độ đại học đạt 55% biên chế làm việc; đào tạo cao cấp lý luận chính trị, bồi dưỡng chức danh theo quy định cho lãnh đạo chỉ huy cấp phòng, quận, huyện, thị xã đạt 100%; bồi dưỡng trung cấp lý luận chính trị đạt trên 3000 đồng chí. Đây là một trong những điểm sáng về công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước và lý luận chính trị cho cán bộ, chiến sỹ Công an thành phố nói chung và cán bộ KTHS nói riêng, là điều kiện quan trọng giúp hoàn thiện và nâng cao chất lượng cán bộ KTHS.

Trong những năm gần đây, trình độ ngoại ngữ và tin học của cán bộ KTHS

Công an thành phố Hà Nội ngày càng được chú trọng nâng cao để đáp ứng yêu cầu

chuẩn hóa cán bộ, đặc biệt là việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ vào

công tác đòi hỏi cán bộ không chỉ thành thạo tin học văn phòng mà phải có kiến

thức sâu về công nghệ thông tin thì mới có thể nghiên cứu viết các phần mềm quản

53 lý công tác chuyên môn, nghiên cứu ứng dụng các phần mềm trên hệ thống phương

tiện giám định hiện đại. Một số đồng chí đã chủ động đi học nâng cao để có trình độ

cử nhân công nghệ thông tin, một số đồng chí được cử đi bồi dưỡng ngắn hạn ở

nước ngoài theo các chương trình hợp tác đào tạo của Bộ Công an.

Bảng 2.5: Trình độ ngoại ngữ, tin học cán bộ kỹ thuật hình sự Công an

thành phố Hà Nội tính đến năm 2017

(Đơn vị tính: Người)

Trình độ ngoại ngữ Trình độ tin học

Đối tượng A B C A B C

Đại học chuyên ngành Đại học chuyên ngành

1 Phòng Kỹ thuật hình sự

3 1 4 Chỉ huy

17 66 10 90 1 2 Cán bộ

2 Công an quận, huyện, thị xã

32 32 Chỉ huy

108 108 Cán bộ

234 Tổng 17 209 11 1 2

Nguồn: Phòng Tổ chức cán bộ CATP Hà Nội

Theo bảng số liệu, số cán bộ KTHS Công an thành phố có trình độ ngoại ngữ

khá cao so với yêu cầu hiện nay, số lượng cán bộ có chứng chỉ đạt loại A trở lên có

237/238 người, chiếm tỷ lệ 99,57%, không có CBCS nào được đào tạo chính quy về

ngoại ngữ. Số lượng cán bộ chưa có chứng chỉ ngoại ngữ là 1 người, chiếm 0,43%.

Với trình độ ngoại ngữ như đã thống kê, cán bộ KTHS đã đáp ứng được tiêu chuẩn

chức danh nghiệp vụ của cán bộ CAND và những yêu cầu trong công tác đấu tranh

phòng chống tội phạm. Đây là số liệu thống kê, tuy nhiên trên thực tế, hầu hết cán

bộ KTHS không có khả năng đọc hiểu hoặc giao tiếp cơ bản bằng ngoại ngữ. Các

chứng chỉ ngoại ngữ của cán bộ KTHS Công an thành phố Hà Nội hiện nay chỉ đáp

ứng đúng quy định của Bộ Công an, không phản ánh đúng khả năng thực tế. Một

phần nguyên nhân do cán bộ học hoàn thiện để được cấp chứng chỉ, nhưng sau đó

54

không trau dồi, học hỏi thường xuyên nên bị mai một.

Về trình độ tin học, trong những năm gần đây, Ban Giám đốc CATP Hà Nội

có chủ trương đào tạo tin học văn phòng cho tất cả học viên tốt nghiệp trung cấp

CAND trước khi điều động đến nhận công tác tại các đơn vị trong CATP. Đây là

những khóa học rất thực tế, góp phần giúp cán bộ KTHS thành thạo tin học văn

phòng. Sau mỗi khóa học, 100% đều đạt yêu cầu và được cấp chứng chỉ tương ứng

với trình độ B. Do vậy trình độ tin học văn phòng của cán bộ KTHS rất cao

(237/238 đồng chí, chiếm 99,57%). Trong đó có một số đồng chí có được đào tạo

chính quy chuyên ngành công nghệ thông tin theo yêu cầu nhiệm vụ.

2.2.2. Kỹ năng nghề nghiệp

Để đánh giá mức độ thành thạo các kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ, tác

giả đã tiến hành nghiên cứu báo cáo kết quả công tác kiểm tra kỹ năng nghề nghiệp

hằng năm của CATP đối với lực lượng KTHS, kết quả như sau:

Báo cáo đánh giá kỹ năng nghề nghiệp của CATP hằng năm tập trung vào ba

nhóm kỹ năng là: Kỹ năng chung; kỹ năng về nghề nghiệp chuyên môn và kỹ năng

quản lý. Các nhóm kỹ năng được đánh giá theo 5 mức độ. Kết quả được thể hiện

qua bảng sau:

Bảng 2.6: Đánh giá kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ kỹ thuật

hình sự Công an thành phố Hà Nội

Mức độ đánh giá

STT

Kỹ năng nghề nghiệp

Tốt

Khá

Kém

Yếu

Trung bình

1

Kỹ năng chung

a

45%

30%

20%

5%

Kỹ năng tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật

b

Kỹ năng soạn thảo văn bản

55%

31%

11%

3%

c

Kỹ năng quan hệ, giao tiếp

32%

45%

15%

1%

7%

d

65%

23%

11%

1%

Kỹ năng sử dụng máy tính, công nghệ thông tin

2

Các kỹ năng về nghiệp vụ chuyên môn (theo vị trí công việc)

a

19%

15%

47%

11%

8%

Kỹ năng tham mưu, ban hành kế hoạch, chương trình công tác

21%

36%

28%

9%

6%

b

Kỹ năng nghiệp vụ khám nghiệm hiện trường

9%

51%

33%

6%

1%

c

Kỹ năng nghiệp vụ giám định kỹ thuật hình sự

3%

25%

9%

38%

25%

d

Kỹ năng nghiệp vụ kỹ thuật phòng chống tội phạm

3%

11%

37%

37%

12%

e

Kỹ năng nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ phục vụ công tác

55

Kỹ năng quản lý

3

Kỹ năng vận động, thuyết phục

18%

29%

38%

11%

4%

a

33%

49%

11%

7%

b

Kỹ năng tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch công tác

20%

45%

68%

3%

c

Khả năng phối hợp thực hiện nhiệm vụ với các đơn vị khác

Nguồn: Phòng Kỹ thuật hình sự năm 2017

11%

Tốt

23%

Khá

Trung bình

66%

Biểu đồ 2.1. Kỹ năng sử dụng máy tính, công nghệ thông tin Qua kết quả đánh giá năm 2017, hầu hết các kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ

của cán bộ KTHS đều đạt từ mức trung bình trở lên, trong đó có một số kỹ năng đạt

cao như kỹ năng tin học (65% mức tốt), kỹ năng soạn thảo văn bản (55% mức tốt);

kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ khám nghiệm hiện trường (21% mức tốt; 36% mức

khá); kỹ năng giám định KTHS (51% mức khá); kỹ năng tổ chức thực hiện chương

trình, kế hoạch công tác (33% mức tốt; 49 % mức khá); kỹ năng phối hợp thực hiện

56 nhiệm vụ với các đơn vị khác 20% mức tốt; 45 % mức khá). Trong những năm qua

CATP đã tập trung bồi dưỡng kiến thức tin học cho CBCS nói chung và lực lượng

KTHS nói riêng. Tất cả cán bộ tốt nghiệp các trường CAND khi được phân công

nhận công tác tại CATP Hà Nội đều được bồi dưỡng tin học văn phòng 45 ngày

trước khi Giám đốc ký quyết định phân công công tác tại các đơn vị. Một số cán bộ

ngành ngoài có trình độ về công nghệ thông tin được CATP tuyển dụng, bố trí công

tác tại Phòng KTHS đã phát huy được chuyên môn. Đối với các kỹ năng nghiệp vụ

khám nghiệm hiện trường và kỹ năng giám định KTHS, hằng năm CATP đều phối

hợp với Viện Khoa học hình sự, Bộ Công an và Sở Tư pháp mở các lớp bồi dưỡng

nghiệp vụ khám nghiệm hiện trường và giám định KTHS cho cán bộ KTHS của

CATP. Chính vì vậy năng lực, trình độ, kỹ năng nghiệp vụ của cán bộ đã được nâng

cao.

3%

12%

11%

Tốt

Khá

Trung bình

Kém

37%

37%

Yếu

Biểu đồ 2.2. Kỹ năng nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ phục vụ

công tác

Tuy nhiên một số kỹ năng bị đánh giá ở mức thấp như: kỹ năng nghiên cứu

ứng dụng khoa học phục vụ công tác (mức kém 37%; mức yếu 12%). Một trong

những nguyên nhân kỹ năng này bị đánh giá thấp do áp lực công việc đối với lực

lượng KTHS hiện nay là rất lớn, vì vậy thời gian nghiên cứu, ứng dụng khoa học

phục vụ công tác rất hạn chế. Cán bộ thường xuyên phải giải quyết nhiều vụ việc,

trong khi đó công tác nghiên cứu khoa học cần nhiều thời gian thì mới có thể tập

trung nghiên cứu.

57

Một số kỹ năng khác được đánh giá ở mức trung bình cao, thậm chí kém, yếu

như: tham mưu, ban hành kế hoạch, chương trình công tác (47% trung bình; 11%

kém; 8% yếu); kỹ năng vận động thuyết phục (38% mức trung bình; 11% mức kém;

4% mức yếu); nhóm kỹ kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ rất đáng quan tâm bởi tỉ lệ

mức trung bình khá cao, thậm chí vẫn còn mức kém, yếu như: kỹ năng khám

nghiệm hiện trường (28% mức trung bình; 9% mức kém; 6% mức yếu); kỹ năng

giám định KTHS (33% mức trung bình; 6% mức kém; 1% mức yếu); đặc biệt kỹ

năng nghiệp vụ kỹ thuật phòng chống tội phạm có mức kém 38% và mức yếu là

25%;

Điều này cùng phản ánh thực tế bởi lực lượng KTHS được bổ sung và tuyển

dụng trong những năm qua trong độ tuổi rất trẻ, thiếu kinh nghiệm công tác, nên kỹ

năng nghề nghiệp còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó tác tham mưu ban hành chương

trình, kế hoạch củng cố, kiện toàn lực lượng KTHS của CATP còn chưa có điểm

nhấn, chưa có bước đột phá; kỹ năng tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật, kỹ

năng vận động thuyết phục của cán bộ KTHS còn hạn chế, trong tham gia giải quyết

một số vụ án, vụ việc do thiếu hiểu biết pháp luật nên gia đình các nạn nhân đã cản

trở lực lượng KTHS khi giải quyết vụ việc, đặc biệt thường xảy ra là việc khám

nghiệm tử thi. Nếu kỹ năng tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật, kỹ năng vận

động thuyết phục của cán bộ KTHS tốt thì sẽ hạn chế được rất nhiều những vụ

người nhà nạn nhân gây khó khăn cho lực lượng KTHS khi thực thi nhiệm vụ.

Kỹ năng nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ phục vụ công tác KTHS

còn khá hạn chế, trong giai đoạn 2013 – 2017, lực lượng KTHS không có đề tài

khoa học cấp Bộ hoặc cấp thành phố để ứng dụng phục vụ công tác. Đây là một

điểm hạn chế rất lớn của lực lượng KTHS mà trong nhiều năm qua chưa khắc phục

được.

2.2.3. Phẩm chất chính trị, đạo đức, tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức

kỷ luật

2.2.3.1. Về phẩm chất chính trị, đạo đức

Cán bộ KTHS phần lớn đều có phẩm chất chính trị vững vàng, đạo đức tốt,

tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng Cộng sản và nhân dân, kiên định mục

tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Với 62% cán bộ là đảng viên Đảng Cộng sản Việt

58 Nam, nhiều đồng chí được cử đi học lớp bồi dưỡng nhận thức về Đảng, do đó nhận

thức chính trị, đạo đức cách mạng luôn được đề cao. Bản thân mỗi cán bộ chiến sỹ

lực lượng KTHS luôn có tinh thần học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị, trình

độ chuyên môn nghiệp vụ. Có ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, giữ gìn lối sống

lành mạnh, xây dựng phong cách và ứng xử của người cán bộ chiến sỹ CAND.

Trong công việc cũng như trong cuộc sống luôn thực hiện tốt 6 điều Bác Hồ dạy

CAND, giữ mối quan hệ thân thiện, hòa nhã với đồng đội và nhân dân, gương mẫu

thực hiện nghĩa vụ công dân, tích cực tham gia các hoạt động chính trị, xã hội. Nhìn

chung cán bộ KTHS đều có ý thức trách nhiệm, luôn đặt lợi ích của Tổ quốc, lợi ích

của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân. Luôn sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm

vụ được giao.

2.2.3.2. Tinh thần trách nhiệm

Tinh thần trách nhiệm của cán bộ đối với quá trình thực hiện nhiệm vụ được

giao thể hiện trước hết ở tinh thần chủ động, tự giác, tích cực thực hiện chức trách,

nhiệm vụ, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; nói đi đôi với làm, đã nói thì

phải làm. Tinh thần trách nhiệm với công việc của cán bộ còn thể hiện ở sự tích cực

tìm tòi, sáng tạo các cách thức để thực hiện nhiệm vụ được giao một cách hiệu quả,

có khả năng ứng xử linh hoạt trong các tình huống bất ngờ. Cán bộ có tinh thần

trách nhiệm với công việc là những người luôn năng động, sáng tạo, chủ động thực

hiện nhiệm vụ phù hợp với tình hình, hoàn cảnh cụ thể nhưng vẫn giữ nghiêm kỷ

luật, kỷ cương. Trong nhiều vụ án khó khăn, phức tạp, việc giải quyết phải kéo dài

nhiều ngày, không kể thời gian, cán bộ vẫn nêu cao ý chí kiên quyết đấu tranh

chống tội phạm, quyết tâm tìm ra thủ phạm trong thời gian ngắn nhất.

Trong những năm qua hầu hết cán bộ KTHS có đạo đức, lối sống trong sáng,

giản dị; thường xuyên học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí

Minh; tinh thần thân ái, giúp đỡ, có ý thức giữ gìn đoàn kết nội bộ; biết nghiêm

khắc tự phê bình và thành thật trong phê bình đối với đồng chí, đồng đội; trong phê

bình không né tránh, không ngại va chạm, thấy đúng phải bảo vệ, thấy sai phải đấu

tranh, không lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau hoặc vu khống, bôi nhọ,

chỉ trích, phê phán người khác với động cơ cá nhân không trong sáng, lành mạnh;

nghiêm khắc với bản thân, tự rèn luyện trau dồi đạo đức, lối sống cần, kiệm, liêm,

59

chính, chí công vô tư.

Cán bộ KTHS luôn đoàn kết, không ngại khó khăn vất vả, nêu cao tinh thần

đồng chí, đồng đội, hỗ trợ nhau trong công tác, chiến đấu, “thân ái, giúp đỡ” nhau

như lời dạy của Bác. Sẵn sàng lắng nghe ý kiến, chia sẻ quan điểm, cầu thị, học hỏi

lẫn nhau; đồng cảm, chia sẻ khó khăn; luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm trước

công việc được giao, bảo vệ uy tín, danh dự của đồng chí, đồng đội và của tập thể;

không được có lời nói, hành vi nhằm hạ uy tín của đồng chí, đồng đội, của tập thể;

không đố kỵ, bè cánh, lợi dụng phê bình để vu khống, hạ uy tín, trả thù cá nhân, gây

rối nội bộ; không suồng sã, bê tha trong sinh hoạt tập thể và ở nơi công cộng.

Khi tiếp xúc với các tổ chức, cá nhân, với người dân cán bộ KTHS luôn giữ

đúng lễ tiết, tác phong, có thái độ, hành vi văn minh, lịch sự, tôn trọng, khiêm tốn

đúng mực; trong cách hành xử, luôn bình tĩnh, lắng nghe, thái độ cầu thị, nhiệt tình,

biết chia sẻ, cảm thông, đồng cảm, khéo léo, linh hoạt trong xử lý tình huống phức

tạp nảy sinh liên quan đến việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao mà có liên

quan đến người dân...

Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận cán bộ KTHS chưa thực sự yêu nghề, ngại

khó khăn vất vả, nhất là những cán bộ làm công tác khám nghiệm hiện trường và

khám nghiệm tử thi. Một số cán bộ khác có biểu hiện trung bình chủ nghĩa, làm việc

cầm chừng, theo lối mòn, ít sáng tạo, đùn đẩy trách nhiệm, ngại việc khó, chọn việc

dễ làm...

Số cán bộ viết đơn xin chuyển công tác sang đơn vị khác hằng năm chiếm từ

0,5 – 1% biên chế lực lượng kỹ thuật hình sự CATP Hà Nội.

2.2.3.3. Ý thức tổ chức kỷ luật

Trong chấp hành ý thức tổ chức kỷ luật cán bộ CAND, Ban Giám đốc CATP

luôn quán triệt thực hiện đến mỗi cán bộ, chiến sỹ trong CATP phải chấp hành

nghiêm túc quy định của Đảng, Nhà nước, ngành Công an; nói và làm theo Hiến

pháp và pháp luật, chấp hành nghiêm Điều lệnh CAND. Đi công tác phải có chương

trình, kế hoạch, khi về phải báo cáo kết quả công tác với lãnh đạo cấp trên (đi báo

việc, về báo công). Chấp hành nghiêm mệnh lệnh, kể cả là khẩu lệnh của người lãnh

đạo, chỉ huy, nhất là trong thực thi các nhiệm vụ, công tác đột xuất hay phải ứng

phó kịp thời trước tình huống bảo đảm an ninh, trật tự đặt ra.

60

Về cơ bản cán bộ KTHS Công an thành phố Hà Nội có ý thức tổ chức kỷ luật

tốt, đã chấp hành nghiêm túc các quy định của Đảng, Nhà nước và các quy định của

lực lượng CAND.

Tuy nhiên trong giai đoạn 2013 – 2017 vẫn còn một số cán bộ KTHS vi phạm

phải xử lý kỷ luật. Cụ thể: Năm 2013 có 02 đồng chí bị xử lý kỷ luật khiển trách (do

vi phạm sinh con thứ 3 và vi phạm quy trình công tác); năm 2016 có 01 đồng chí bị

xử lý kỷ luật giáng cấp bậc hàm (do sinh con thứ 4); năm 2017 có 03 đồng chí bị xử

lý kỷ luật Khiển trách do vi phạm trong thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao,

sử dụng giấy chứng minh CAND sai mục đích và sinh con thứ 3. Một số cán bộ có

đơn thư tố cáo do vay nợ phải tiến hành xác minh, giải quyết và đề nghị xử lý kỷ

luật.

2.2.4. Về thể lực

2.2.4.1. Về thể chất

Để đánh giá thể chất của cán bộ KTHS tại Công an thành phố Hà Nội có thể

sử dụng các chỉ số về chiều cao và cân nặng. Các chỉ số về thể chất được thể hiện

qua bảng:

Bảng 2.7. Chiều cao, cân nặng cán bộ kỹ thuật hình sự Công an thành

phố Hà Nội

(Đơn vị tính: người)

Chiều cao

Dưới 1,58m Trên 1,70m Từ 1,58m đến 1,64m Từ 1,64m đến 1,70m Năm

Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ

2013 14 6 14 121 62

2014 11 7 15 119 1 64

2015 12 10 14 104 1 71

2016 10 12 12 120 1 78

2017 9 13 15 125 2 73

Cân nặng

Dưới 50kg Từ 50 đến 59 kg Trên 70kgừ Từ 60 đến 70kg Năm

Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ

61

2013 18 39 10 115 35

2014 18 41 9 117 40

2015 16 49 11 92 44

2016 11 51 12 120 39

2017 13 65 14 104 42

Nguồn: Bệnh viện Công an thành phố Hà Nội

Chiều cao là một thông số cần thiết để đo thể lực. Như vậy, so với mức

chiều cao hiện tại của nguồn nhân lực trong nước và cả khu vực, có thể thấy

cán bộ KTHS Công an thành phố có chiều cao ở mức khá. Chiếm tỷ lệ cao nhất là

cán bộ, chiến sỹ có chiều cao từ 1,64m đến 1,69m, sau đó là trên 1m70 (chủ yếu là

nam giới), mức chiều cao dưới 1,58m và từ 1,58m đến 1,64m chủ yếu là nữ giới.

Mức chiều cao này so với chiều cao trung bình của nam và nữ trưởng thành của

Việt Nam đều đạt mức trung bình. Ngoài độ tuổi và chiều cao, cân nặng cũng là một

tiêu chí thể hiện mối quan hệ với sức khỏe. Nếu mức độ cân nặng quá thấp so với

chiều cao là không cân đối và ảnh hưởng đến hoạt động của con người. Ngày

28/04/2011, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 641/QĐ-TTg về việc phê

duyệt Đề án tổng thể phát triển thể lực, tầm vóc người Việt Nam giai đoạn 2011-

2030 đặt ra mục tiêu phát triển nguồn nhân lực để đạt chiều cao trung bình là

1,67m.

Năm 2017, tỉ lệ cán bộ KTHS có cân nặng dưới 60kg là 104 người (chiếm

49,28%), số cán bộ có cân nặng dưới dưới 59kg là 79 người (chiếm 37,44%). Chỉ số

BMI (Body Mass Index) là chỉ số thể trạng thể lực người trưởng thành của tổ chức y

tế thế giới (WHO) được xác định bằng cân nặng chia cho chiều cao bình phương.

Nam giới có BMI<19 và nữ giới có BMI<18 là người dưới cân; Nam giới có

20<=BMI<25 và nữ có 18<=BMI<23 là người bình thường; Nam giới có

25<=BMI<30 và nữ giới có 23<=BMI<30 là người quá cân; BMI>30 là người béo

phì cả nam giới và nữ giới. Với mức cân nặng và chiều cao hiện tại của cán bộ của

lực lượng KTHS cho thấy, đa số cán bộ có thể trạng ở mức khá so với chỉ số BMI

đã công bố trên toàn thế giới. Như vậy, thể lực của đội ngũ KTHS đạt mức khá, đạt

tiêu chuẩn “Khỏe mạnh” theo tiêu chuẩn của Bộ Y tế và quy định tiêu chuẩn khi

62 khám tuyển sức khỏe vào lực lượng CAND, đảm bảo điều kiện cần và đủ cho mọi

hoạt động và thực thi chức trách, nhiệm vụ được giao.

2.2.4.2. Kết quả rèn luyện thể lực của cán bộ kỹ thuật hình sự

Thực hiện Thông tư số 24/2013/TT-BCA ngày 11/4/2013 của Bộ trưởng Bộ

Công an quy định tiêu chuẩn rèn luyện thể lực trong lực lượng Công an nhân dân.

Theo đó, rèn luyện thể lực theo tiêu chuẩn là quyền và trách nhiệm của mỗi cán bộ,

chiến sĩ Công an. Yêu cầu mỗi cán bộ, chiến sĩ phải thường xuyên tích cực, tự giác,

tự mình luyện tập thể dục thể thao, mỗi ngày dành ra ít nhất 30 phút để tập luyện.

Thông tư 24 áp dụng đối với các đơn vị trong Công an nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan,

chiến sĩ phục vụ có thời hạn; học sinh, sinh viên các học viện, nhà trường; công nhân

viên chức CAND có độ tuổi từ 18 đến 50 đối với nam và 18 đến 45 đối với nữ (tính

theo tháng sinh) có quyền và nghĩa vụ thực hiện rèn luyện thể lực theo tiêu chuẩn.

Cán bộ, chiến sĩ ngoài độ tuổi quy định tự giác tập luyện để tăng cường sức khỏe,

không thuộc diện kiểm tra thể lực quy định tại Thông tư này.

Hằng năm Giám đốc CATP ban hành kế hoạch và giao cho Phòng Công tác

chính trị tổ chức kiểm tra kết quả rèn luyện thể lực đối với cán bộ chiến sỹ trong

CATP theo tiêu chuẩn như sau:

Bảng 2.8: Tiêu chuẩn rèn luyện thể lực đối với cán bộ chiến sỹ Công an

nhân dân

Mỗi cán bộ, chiến sỹ phải tham gia kiểm tra 4 môn trong một buổi kiểm tra

(sáng hoặc chiều), theo kế hoạch của đơn vị. Đối với nam được lựa chọn một trong

2 môn chống đẩy hoặc co tay xà đơn. Cán bộ chiến sỹ đạt tiêu chuẩn rèn luyện thể

lực phải đáp ứng các tiêu chuẩn đồng thời 4 môn theo lứa tuổi, nếu có 01 môn

không đạt tiêu chuẩn trở lên thì không đạt tiêu chuẩn rèn luyện thể lực.

Cụ thể như sau:

* Đối với nam:

Bật xa (mét)

Nhóm tuổi 18-27 ≥ 2,20 m Chống đẩy (lần) ≥ 30 Co tay xà đơn (lần) ≥ 12 Chạy 100m (giây) ≤16’’,0 Chạy 1500m (phút, giây) ≤ 7’,30’’

28-34 35-40 ≥ 2,15 m ≥ 2,1 m ≥ 25 ≥ 20 ≥ 10 ≥ 8 ≤ 16”,5 ≤ 17” ,5 ≤ 8’,00’’ ≤ 8’30”

63

41-45 46-50 ≥ 2,0 m ≥ 1,8 m ≥ 15 ≥ 10 ≤ 18’’,5 ≤ 19”, 5 ≤ 9’,00’’ ≤ 9’,30” ≥ 5 ≥ 3

* Đối với nữ:

Nhóm tuổi Bật xa (giây)

18-24 ≥ 1,50 m Chạy 100m (giây) ≤ 20”,0 Chạy 800m (phút, giây) ≤ 5’,30”

25-30 ≥ 1,40 m ≤ 20”,5 ≤ 6’,10”

31-35 36-40 ≥ 1,30 m ≥ 1,20 m ≤ 21”,5 ≤ 22”,5 ≤ 6’,50” ≤ 7’,30’’

41-45 ≥ 1,10 m ≤ 23”,5 ≤ 8’,00”

Qua hai bảng trên cho thấy tiêu chuẩn rèn luyện thể lực giảm dần theo lứa

tuổi. Kết quả kiểm tra rèn luyện thể lực theo tiêu chuẩn là một trong những tiêu chí

để nhận xét, đánh giá cán bộ và bình xét thi đua hàng năm. Các cá nhân và tập thể

không đạt tiêu chuẩn rèn luyện thể lực trong năm sẽ phải hạ một bậc thi đua.

Bảng 2.9: Kết quả rèn luyện thể lực của cán bộ kỹ thuật hình sự Công an

thành phố Hà Nội từ năm 2013 đến 2017

(Đơn vị tính: người)

2013 2014 2015 2016 2017

Nhóm tuổi

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

120

116

Không đạt 10

101

Không đạt 11

Không đạt 9

Không đạt 15

Không đạt 12

34

45

98 18-27 105

25

31

39 8 9 6 5 42 7 28-34 38

12

9

28 5 4 1 3 32 5 35-40 32

6

4

8 3 3 2 2 6 2 41-45 4

4 1 1 1 1 6 2 46-50 5

Tổng 184 21 187 27 177 26 193 32 209 22

Nguồn: Phòng Công tác chính trị CATP Hà Nội

Theo kế hoạch hằng năm Giám đốc CATP giao cho Phòng công tác chính trị

tổ chức kiểm tra kết quả rèn luyện thể lực đối với các đơn vị trong CATP. Các đơn

vị đạt tiêu chuẩn rèn luyện khi 80% cán bộ chiến sỹ tham gia kiểm tra đạt, nếu có

trên 20% cán bộ tham gia kiểm tra không đạt kết quả không đạt theo tiêu chuẩn thì

đơn vị đó không đạt tiêu chuẩn rèn luyện thể lực. Đối với cán bộ, chiến sỹ, kết quả

64 rèn luyện thể lực hằng năm là một trong những tiêu chí bình xét thi đua, cán bộ

không đạt tiêu chuẩn rèn luyện thể lực sẽ bị hạ một bậc thi đua.

Qua bảng trên cho thấy: Tỉ lệ cán bộ KTHS không đạt tiêu chuẩn rèn luyện

thể lực chiếm khoảng 10% hằng năm. Năm 2013 là 10,24%; năm 2017 là 9,52%,

giảm không đáng kể so với năm 2017. Tỉ lệ không đạt chủ yếu ở lứa tuổi 18 đến 27

và 28 – 34. Nguyên nhân do một số cán bộ, chiến sỹ còn chưa chú ý rèn luyện thể

lực, chưa thực sự cố gắng và rèn luyện thường xuyên theo tiêu chuẩn của các môn

tham gia kiểm tra. Vì vậy trong một buổi kiểm tra thường không đạt ở một số nội

dung như: Chạy 100m, chạy 1500m, co tay xà đơn. Hằng năm Giám đốc CATP đều

ban hành kế hoạch tổ chức các hoạt động văn hóa thể dục thể thao và tổ chức các

giải thể thao trong CATP như: Giải chiến sỹ Công an khỏe, bóng đá, bóng bàn, cầu

lông, tennis, bơi, chạy vũ trang... Thông qua các giải thể thao nhằm phát động

2.2.4.3. Sức khỏe của cán bộ kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội

Khi nói về thể lực, hầu hết xã hội chỉ quan tâm đến các chỉ số đo chiều

cao, cân nặng. Tuy nhiên, bên cạnh các chỉ số đã quy định

tại các

tiêu chuẩn

của Bộ Y tế và các tổ chức thế giới, việc quan tâm đến tình trạng sức khỏe của cán bộ cũng là một

tiêu chí quan trọng trong việc đánh giá thể lực, trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch chăm sóc sức

khỏe cho cán bộ. Đánh giá về sức khỏe của cán bộ KTHS có thể thông qua việc khám sức khỏe

định kỳ hằng năm, việc kiểm tra kết quả rèn luyện thể lực hoặc tần suất bị ốm, phải đi khám bệnh,

tình trạng giảm cân do ốm đau hoặc bệnh nghề nghiệp. Theo số liệu thống kê tại Bệnh viện CATP

Hà Nội sau đợt khám sức khỏe năm 2017, kết quả phân loại sức khỏe đối với cán bộ KTHS được

thể hiện qua bảng sau:

phong trào rèn luyện thân thể trong CATP.

Bảng 2.10: Phân loại sức khỏe của cán bộ kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà

Nội năm 2017

(Đơn vị tính: người, %)

Nam

Nữ

Phân loại sức khỏe

Người

Người

Tỉ lệ %

Tỉ lệ %

Loại I (Rất khỏe)

45

21,32%

5

18.51%

Loại II (Khỏe)

130

61,61%

18

66,66%

Loại III (Bình thường)

36

14,69%

4

14,81%

Loại IV (Yếu)

0

0%

0

0%

Loại V (Rất yếu)

0

0%

0%

65

Tổng số

211

27

Nguồn: Bệnh viện Công an thành phố Hà Nội

Căn cứ số liệu tại bảng thống kê, có thể thấy, hầu hết cán bộ KTHS đạt sức

khỏe loại 1 và loại 2 (trong đó nam là 175/211 người - chiếm 82,93%, nữ là 23/27

người- chiếm 85,18%) và không có ai xếp loại 4 và loại 5, hoàn toàn đủ sức khỏe để

làm việc trong môi trường làm việc bình thường. Đây là điều kiện quan trọng quyết

định tới chất lượng của cán bộ KTHS và chất lượng, hiệu quả công tác. Tuy nhiên,

vẫn có những cán bộ KTHS xếp loại sức khỏe ở loại 3 (trong đó có 36 nam và 4

nữ) và tập trung chủ yếu ở những cán bộ chuẩn bị nghỉ hưu, tuổi cao. Ngoài ra, căn

cứ các số liệu tại Bệnh viện CATP, tỷ lệ cán bộ KTHS bị ốm đau thường xuyên

không nhiều (1,5%), tỷ lệ những người đi khám bệnh thường xuyên là 4,2% và

thường bị mắc một số bệnh mãn tính, điều trị dài ngày như đau khớp xương, viêm

dạ dày, thoái hóa cột sống, viêm phế quản.

Như vậy, có thể nói, tình trạng sức khỏe của cán bộ KTHS Công an thành

phố Hà Nội tương đối tốt. Đây là một trong những điều kiện quan trọng giúp nâng

cao hiệu quả làm việc vì chỉ khi có sức khỏe, trí tuệ mới có thể phát huy được sức

sáng tạo và làm việc tốt.

2.2.5. Kết quả công tác

Để đánh giá kết quả công tác hằng năm của cán bộ, Bộ Công an đã ban hành

Thông tư 06/2011/TT-BCA ngày 14/2/2011 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định

nhận xét, đánh giá sỹ quan, hạ sỹ quan, công nhân, viên chức CAND và Thông tư

số 40/2014/TT-BCA ngày 23/9/2018 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định chi tiết và

hướng dẫn thực hiện công tác thi đua, khen thưởng trong CAND, Công an xã, bảo

vệ dân phố và phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Theo đó, hằng năm

CATP Hà Nội đều tổ chức nhận xét đánh giá đối với cán bộ chiến sỹ và bình xét các

dan hiệu thi đua cho các tập thể và cá nhân trong CATP, cụ thể như sau:

* Nội dung nhận xét, đánh giá:

- Nội dung nhận xét, đánh giá chung đối với cán bộ, chiến sĩ

Phẩm chất chính trị: nhận thức tư tưởng, quan điểm chính trị; việc chấp hành

chủ trương, đường lối, quy chế, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà

nước, Nghị quyết, Chỉ thị, quy định của Ngành và địa phương nơi cán bộ cư trú.

66

Đạo đức lối sống: Tu dưỡng và rèn luyện theo Sáu điều Bác Hồ dạy Công an

nhân dân; giữ gìn phẩm chất đạo đức và lối sống lành mạnh, trong sáng; chống quan

liêu, tham nhũng, lãng phí và những biểu hiện tiêu cực khác;

Tính trung thực, ý thức tổ chức kỷ luật, thực hiện chế độ điều lệnh nội vụ

Công an nhân dân; tinh thần tự phê bình và phê bình, đoàn kết, quan hệ trong công

tác, mối quan hệ, tinh thần và thái độ phục vụ nhân dân;

Tinh thần học tập, nâng cao trình độ, rèn luyện thể chất để nâng cao sức chiến

đấu.

Kết quả, mức độ thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, thể hiện ở: khối

lượng, chất lượng, tiến độ, hiệu quả của công việc trong từng vị trí, từng thời gian;

tinh thần trách nhiệm trong công tác.

Chiều hướng và triển vọng phát triển.

- Đối với cán bộ lãnh đạo, chỉ huy:

Ngoài những nội dung quy định tại khoản 1, Điều này, còn phải nhận xét,

đánh giá về năng lực lãnh đạo, quản lý cụ thể là:

Khả năng nắm và vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lênin và

tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước,

Chỉ thị, Nghị quyết của Ngành vào lĩnh vực công tác, chức trách được giao;

Năng lực tổ chức, chỉ huy, quản lý và điều hành đơn vị;

Nắm bắt và dự báo những vấn đề mới phát sinh trong lĩnh vực công tác được

giao. Năng lực sơ kết, tổng kết các chuyên đề công tác, đề xuất kế hoạch, biện pháp

giải quyết những vấn đề mới;

Tính quyết đoán, mạnh dạn đổi mới, dân chủ trong nội bộ, đoàn kết, quy tụ

cán bộ, tín nhiệm đối với cán bộ, chiến sĩ;

Căn cứ vào kết quả nhận xét, đánh giá cán bộ, chiến sĩ và kết quả bình xét thi

đua hàng năm để phân loại cán bộ theo một trong bốn mức sau:

(1) Hoàn thành xuất sắc chức trách, nhiệm vụ

Đối với cán bộ, chiến sĩ: hoàn thành 100% khối lượng, đạt chất lượng, tiến độ

và hiệu quả công việc được giao, có sáng kiến, cải tiến công tác hoặc áp dụng kỹ

thuật mới có hiệu quả.

Đối với lãnh đạo cấp phòng, Công an cấp huyện: đơn vị hoặc lĩnh vực được

phân công phụ trách hoàn thành 100% chỉ tiêu nhiệm vụ; tổ chức đảng và đoàn thể

67

của đơn vị đạt danh hiệu trong sạch, vững mạnh tiêu biểu.

(2) Hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ

Đối với cán bộ, chiến sĩ: hoàn thành 100% khối lượng, đạt chất lượng, tiến độ

và hiệu quả công việc được giao.

Đối với lãnh đạo cấp phòng, Công an cấp huyện: đơn vị hoặc lĩnh vực được

phân công phụ trách hoàn thành 100% chỉ tiêu nhiệm vụ; tổ chức đảng và đoàn thể

của đơn vị đạt danh hiệu trong sạch, vững mạnh.

(3) Hoàn thành chức trách, nhiệm vụ

Đối với cán bộ, chiến sĩ: hoàn thành 70% khối lượng, đạt chất lượng, tiến độ

và hiệu quả công việc được giao.

Đối với lãnh đạo cấp phòng, Công an cấp huyện: đơn vị hoặc lĩnh vực được

phân công phụ trách hoàn thành 70% chỉ tiêu nhiệm vụ; tổ chức đảng và đoàn thể

của đơn vị hoàn thành nhiệm vụ.

(4) Không hoàn thành chức trách, nhiệm vụ

Đối với cán bộ, chiến sĩ: hoàn thành dưới 50% khối lượng, chất lượng công

việc được giao.

Đối với lãnh đạo cấp phòng, Công an cấp huyện: đơn vị hoặc lĩnh vực được

phân công phụ trách hoàn thành dưới 70% chỉ tiêu nhiệm vụ hoặc tổ chức đảng và

đoàn thể của đơn vị yếu kém.

Như vậy có thể thấy việc áp dụng những tiêu chí đánh giá riêng đối với

các cán bộ giữ chức danh quản lý là phù hợp đề cao được tính trách nhiệm của

người đứng đầu các đơn vị hành chính nhà nước. Tuy nhiên có thể thấy rằng, nội

dung đánh giá đưa ra còn chung chung, rất khó lượng hết được kết quả, hiệu suất

công tác của cán bộ CAND nói chung và của cán bộ KTHS ở CATP nói riêng.

Về phương pháp đánh giá: Việc đánh giá cán bộ được thực hiện theo phương

pháp đánh giá theo ý kiến nhận xét của tập thể. Quy trình đánh giá gồm có các bước

sau: (1) Kết thúc năm công tác, từng cán bộ viết bản tự nhận xét, đánh giá cán bộ và

đọc trước toàn thể hội nghị đánh giá cán bộ và bình xét danh hiệu thi đua ở cấp đội

nơi công tác; (2) Các thành viên tham gia hội nghị nhận xét, góp ý và biểu quyết về

mức độ hoàn thành công việc của người được đánh giá (bỏ phiếu kín); (3) Cán bộ

làm công tác tham mưu, chính trị ghi chép, tập hợp báo cáo Đảng ủy – Ban chỉ huy

phòng, quận, huyện, thị xã đánh giá và gửi hồ sơ về Phòng Công tác chính trị để tập

68

hợp báo cáo Giám đốc CATP xem xét quyết định.

Sử dụng phương pháp đánh giá theo ý kiến nhận xét có ưu điểm là đề

cao tính công khai, dân chủ; kết quả thực thực hiện nhiệm vụ của cán bộ KTHS của

CATP được nhìn nhận toàn diện từ nhiều phía; tạo cơ hội cho cán bộ lắng nghe

những nhận xét, góp ý của đồng nghiệp, từ đó rút kinh nghiệm cho việc thực thi

nhiệm vụ sau này. Tuy nhiên, do tâm lý nể nang, “dĩ hoà vi quý”, ngại nói thẳng nói

thật, nên việc đánh giá cán bộ hiện nay theo phương pháp này trở nên “bình quân

chủ nghĩa”, “cào bằng”; nếu cán bộ không vi phạm kỷ luật trong năm công tác thì

đều được xếp loại ít nhất là từ mức hoàn thành nhiệm vụ trở lên.

Kết quả đánh giá cán bộ được thể hiện qua biểu đồ sau:

Đơn vị tính: người

164

151 154

146

143

Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Hoàn thành tốt nhiệm vụ Hoàn thành nhiệm vụ Không hoàn thành nhiệm vụ Không đánh giá

180 160 140 120 100 80 60 40 20 0

Năm 2013

Năm 2014

Năm 2015

Năm 2016

Năm 2017

(Nguồ n: Phòng Tổ chức cán bộ CATP Hà Nội)

Biểu đồ 2.3: Kết quả đánh giá cán bộ kỹ thuật hình sự Công an thành

phố Hà Nội giai đoạn 2013 – 2017

Qua bảng số liệu, nhận thấy hầu hết cán bộ KTHS đều hoàn thành tốt nhiệm

vụ, năm 2013 là 143 đồng chí (chiếm 65,89%), năm 2017 là 164 đ/c (chiếm

68,90%). Số lượng cán bộ KTHS hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiếm tỉ lệ không

cao, năm 2013 là 16 đồng chí (chiếm 7,3%), năm 2018 là 24 đồng chí (chiếm

10,08%). Số cán bộ KTHS được đánh giá ở mức hoàn thành nhiệm vụ năm 2013 là

54 đồng chí (chiếm 54,88%), năm 2017 là 63 đồng chí (chiếm 26,47%). Từ năm

69 2013 đến năm 2017 vẫn có 08 cán bộ KTHS được đánh giá ở mức không hoàn

thành nhiệm vụ. Đây là những cán bộ có vi phạm phải xử lý kỷ luật hoặc vi phạm

nhưng chưa đến mức kỷ luật, hoặc có năng lực yếu, làm việc cầm chừng, tư tưởng

trung bình chủ nghĩa.

Tuy nhiên, trên thực tế, công tác nhận xét, đánh giá cán bộ vẫn mang tính

hình thức, các nội dung trong thông tư vẫn mang tính chất định tính, chưa lượng hóa

cụ thể các tiêu chí đánh giá thực hiện công việc, các vị trí khác nhau hầu hết đều có

các tiêu chí đánh giá như nhau. Do vậy, hiệu quả của công tác đánh giá chưa cao.

Phần lớn, cán bộ sau khi được bình xét, đánh giá đều hoàn thành tốt, hoàn thành

xuất sắc nhiệm vụ nhưng nhiệm vụ chung của đơn vị lại không có chuyển biến tích

cực hoặc chưa thực hiện hết chức năng, nhiệm vụ được giao. Như vậy, có thể thấy

việc đánh giá cán bộ chưa gắn với việc đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của

đơn vị. Một nguyên tắc rất quan trọng trong công tác tổ chức cán bộ nói chung và

đánh giá cán bộ nói riêng, đó là phải khách quan, công bằng và vô tư, không thiên

vị. Tuy nhiên, tại một số đơn vị trong CATP, vẫn còn một bộ phận cán bộ năng lực

yếu, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ nhưng vẫn được đánh giá ở trên mức hoàn

thành nhiệm vụ. Theo Thông tư 06/2011/TT-BCA ngày 14/2/2011 của Bộ trưởng

Bộ Công an và các văn bản hướng dẫn về công tác đánh giá cán bộ. Trong đó, thẩm

quyền đánh giá thuộc về trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị. Tuy nhiên, qua khảo

sát, tại một số đơn vị, việc đánh giá vẫn thực hiện theo kiểu “bỏ phiếu kín” và người

đứng đầu vẫn có tình trạng đưa lên để lấy thành tích chung cho tập thể, thiếu khách

quan, công tâm khi thực hiện đánh giá, phân loại. Một số cán bộ lớn tuổi, sắp nghỉ

hưu nhường thành tích cho cán bộ trẻ để phấn đấu kết nạp đảng, đi học, quy hoạch...

* Kết quả bình xét danh hiệu thi đua đối với cá nhân:

Bảng 2.11: Kết quả bình xét thi đua đối với cán bộ kỹ thuật hình sự

Công an thành phố Hà Nội giai đoạn 2013 – 2017

NĂM

STT

KếT QUả PHÂN LOẠI

2013

2014

2015

2016

2017

1

1

Chiến sỹ thi đua toàn lực lượng CAND

2

Chiến sỹ thi đua cơ sở

19

21

19

24

15

3

Chiến sỹ tiên tiến

143

146

151

154

164

4 Hoàn thành nhiệm vụ

54

56

32

53

63

5 Không hoàn thành nhiệm vụ

1

2

2

2

1

6 Không bình xét

3

2

6

4

4

70

Tổng

217

225

212

232

238

(Nguồn: Phòng Công tác chính trị CATP Hà Nội)

Qua bảng trên cho thấy, số lượng cán bộ kỹ thuật hình sự CATP được công

nhận danh hiệu Chiến sỹ thi đua toàn lực lượng CAND rất ít. Năm 2013 có duy nhất

1 cán bộ đạt danh hiệu này (chiếm 0,46%). Còn lại chủ yếu cán bộ KTHS đạt danh

hiệu Chiến sỹ tiên tiến, năm 2013 có 143 đồng chí (chiếm 65,89%), năm 2017 là

164 đ/c (chiếm 68,90%). Số cán bộ còn lại không được công nhận danh hiệu thi đua

được phân loại ở mức hoàn thành nhiệm vụ hoặc không hoàn thành nhiệm vụ.

Việc bình xét danh hiệu thi đua hằng năm của CATP được tiến hành đồng

thời với việc nhận xét, đánh giá cán bộ. Mục đích để đánh giá chính xác và ghi

nhận, động viên, khen thưởng kịp thời cán bộ có nhiều nỗ lực, phấn đấu trong công

tác. Kết quả nhận xét, đánh giá cán bộ và bình xét thi đua hằng năm là căn cứ để

thực hiện công tác cán bộ và chính sách cán bộ như: quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm,

xét nâng lương, thăng cấp bậc hàm...

2.3. Đánh giá chung về chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự Công an

thành phố Hà Nội

2.3.1. Ưu điểm

Trong thời gian vừa qua, cán bộ KTHS Công an thành phố Hà Nội đã từng

bước trưởng thành và có nhiều đóng góp cho công tác giữ gìn an ninh chính trị, đảm

bảo trật tự an toàn xã hội trên địa bàn Thủ đô.

Thứ nhất, về trình độ:

Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ KTHS ngày càng được hoàn

thiện, cán bộ KTHS được bố trí theo đúng chuyên ngành đào tạo và trong những

năm gần đây đã có sự thay đổi theo hướng tích cực: tăng dần tỷ lệ cán bộ KTHS có

trình độ chuyên môn thạc sỹ năm 2013 là 01 đồng chí, đến năm 2017 đã tăng lên 9

đồng chí. Trình độ nghiệp vụ cao đẳng, đại học (Năm 2013, tỷ lệ cán bộ KTHS có

trình độ cao đẳng và đại học lần lượt là 111 đồng chí, chiếm 51,155% đến năm

71 2017 tăng lên 122 đồng chí, chiếm 51,26%, từ đó góp phần đáp ứng tốt các yêu cầu

và nhiệm vụ được giao.

Trình độ lý luận chính trị của cán bộ KTHS ngày càng được nâng cao. Trong

những năm qua, tỷ lệ cán bộ KTHS được đào tạo lý luận chính trị trình độ trung

cấp, cao cấp và cử nhân ngày càng tăng (Năm 2013 tỷ lệ cán bộ KTHS có trình độ lý

luận chính trị trung cấp, cao cấp, cử nhân lần lượt là 27.18%, 1,84%, 0%; Năm

2017 tỷ lệ này lần lượt là 44.53%, 1.26%, 0.42%), đồng thời tỷ lệ cán bộ KTHS có

trình độ sơ cấp lý luận chính trị và chưa qua đào tạo lý luận chính trị có xu hướng

giảm xuống (Năm 2013 tỷ lệ cán bộ KTHS có trình độ sơ cấp lý luận chính trị là

70.50%, năm 2017, là 53.36%).

Thứ hai, về kỹ năng nghề nghiệp: Hầu hết cán bộ KTHS có các kỹ năng nghề

nghiệp cần thiết trong thực thi nhiệm vụ như kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng khám

nghiệm hiện trường, giám định KTHS, kỹ năng triển khai các quyết định quản lý,

kỹ năng thu thập, tổng hợp, phân tích và đánh giá thông tin… Trong đó nhiều cán

bộ có kỹ năng chuyên sâu ở các lĩnh vực công tác như: khám nghiệm hiện trường,

khám nghiệm tử thi, giám định dấu vết đường vân, giám định chữ viết, chữ ký...

Thứ ba, về phẩm chất chính trị, đạo đức và tinh thần trách nhiệm trong công

việc: Đặc thù môi trường làm việc của lực lượng KTHS rất thầm lặng, tính chất

công việc rất vất vả, độc hại và nguy hiểm khi phải ứng trực 24/24h, thường xuyên

tiếp xúc với hóa chất độc hại (công tác giám định ma túy, giám định sinh học), trực

tiếp tiến hành công tác khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, nguy cơ phơi

nhiễm bệnh cao… Đứng trước các tác động tiêu cực nảy sinh hàng ngày, từ những

mặt trái của cơ chế thị trường, đa số cán bộ lực lượng KTHS vẫn luôn giữ được

phẩm chất đạo đức, tư cách và lối sống lành mạnh, nêu cao tinh thần trách nhiệm,

vượt qua mọi khó khăn về môi trường làm việc, chế độ đãi ngộ còn chưa tương

xứng... để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Thứ tư, về thể lực: nhìn chung cán bộ KTHS có thể lực và sức khỏe tốt. Căn

cứ theo các tiêu chuẩn của Bộ Công an, cán bộ KTHS đáp ứng được yêu cầu nhiệm

vụ được giao.

Thứ năm, kết quả công tác: Cán bộ KTHS đã hoàn thành nhiệm vụ được giao

đúng tiến độ, đáp ứng được yêu cầu của công việc. Theo kết quả nhận xét, đánh giá

cán bộ của lực lượng KTHS Công an thành phố Hà Nội về mức độ hoàn thành công

72 việc, năm 2017 có 68,90% cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ, 26,47% cán bộ hoàn

thành xuất sắc nhiệm vụ.

Thứ sáu, về cơ cấu tổ chức, cán bộ KTHS Công an thành phố Hà Nội tương

đối ổn định và hợp lý. Số lượng cán bộ KTHS được bố trí tại Phòng Kỹ thuật hình

sự và 30 Công an quận, huyện, thị xã đủ để đáp ứng yêu cầu của Bộ Công an và các

quy định về số lượng cán bộ, KTHS. Tỷ lệ nữ cán bộ tuy có cao hơn tỉ lệ chung do

Bộ Công an quy định nhưng đối với tính chất, nhiệm vụ của lực lượng KTHS khá

phù hợp (giám định tài liệu, giám định hóa học, giám định sinh học) .

Thứ bẩy, các công tác như tuyển dụng; đào tạo bồi dưỡng; quy hoạch, sử

dụng cán bộ đều được thực hiện tương đối đầy đủ và đảm bảo đúng theo yêu cầu và

phù hợp với tình hình thực tế tại Phòng Kỹ thuật hình sự và Công an các quận,

huyện, thị xã.

2.3.2. Hạn chế

Thứ nhất, về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ: Tỉ lệ cán bộ KTHS có trình độ

đại học ở cấp phòng khá cao (64,28%), tuy nhiên ở cấp huyện có tỉ lệ thấp (chiếm

37,86%). Cán bộ KTHS cấp huyện chủ yếu có trình độ trung cấp (62,14%) và ở độ

tuổi dưới 30. Số cán bộ này có sự năng động, nhiệt tình, được đào tạo chuyên ngành

KTHS (trình độ Đại học, trung cấp, cao đẳng) nhưng trong công tác còn thiếu kinh

nghiệm thực tiễn, một số cán bộ có tinh thần học hỏi chưa cao nên trong công tác

nghiệp vụ còn nhiều thiếu sót, quá trình thực hiện tham gia giải quyết các vụ án

phức tạp còn lúng túng, bị động.

Thứ hai, về kỹ năng nghề nghiệp: Số cán bộ trẻ mới ra trường, thiếu kinh

nghiệm, kỹ năng nghiệp vụ chưa thành thạo, tham gia giải quyết công tác còn lúng

túng, bị động. Kỹ năng khám nghiệm hiện trường, giám định kỹ thuật hình sự, kỹ

năng nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ phục vụ công tác được đánh giá ở

mức trung bình chiếm tỉ lệ cao (lần lượt chiếm 28%; 33% và 37%). Số cán bộ

KTHS trên 50 tuổi có nhiều kinh nghiệm trong công tác, tuy nhiên số cán bộ này lại

có một sức ỳ khá lớn, thiếu sáng tạo, khả năng khai thác các phần mềm công nghệ

thông tin, việc ứng dụng công nghệ tin học trong công việc còn những tồn tại, bất

cập. Việc phát triển các kỹ năng mềm trong công tác của cán bộ KTHS còn hạn chế,

nên đã ảnh hưởng đến hiệu quả công tác. Vì vậy xét về kỹ năng nghiệp vụ tỉ lệ cán

bộ KTHS chưa thành thạo các kỹ năng trong công tác như: phát hiện, thu lượm dấu

73 vết tại hiện trường, chưa hoàn thiện được một hồ sơ giám định, chưa có khả năng

đánh giá nhận định về hiện trường; công tác nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật

vào công tác nghiệp vụ còn rất hạn chế.

Thứ ba, về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, ý thức tổ chức kỷ luật: Hầu

hết cán bộ KTHS đa phần đều có trách nhiệm với công việc, có phẩm chất tốt, có lối

sống lành mạnh, chấp hành tốt chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp

luật của Nhà nước, các quy định của lực lượng CAND. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại

một bộ phận cán bộ yếu kém về phẩm chất, đạo đức thiếu gương mẫu trong việc

thực hiện các chủ trương, đường lối Đảng và pháp luật của Nhà nước. Một bộ phận

cán bộ KTHS khi triển khai thực hiện nhiệm vụ cấp trên giao còn chậm, ỷ lại, chọn

việc dễ, bỏ việc khó, ngại khó khăn vất vả, trung bình chủ nghĩa, chưa chủ động

trong việc thực thi nhiệm vụ, chưa làm tròn trách nhiệm của người cán bộ CAND, ỷ

lại vào cấp trên. Nhiều cán bộ chưa tâm huyết với nghề nghiệp, chưa yên tâm công

tác, có tâm lý xin chuyển sang lực lượng khác. Một số cán bộ còn vi phạm kỷ luật

công tác của lực lượng CAND.

Theo quyết định 994/2008/QĐ-BCA của Bộ trưởng Bộ Công an, các đội, tổ

KTHS phải triển khai công tác giám định sơ bộ về dấu vết đường, vân, giám định

tài liệu, tuy nhiên đến nay cán bộ KTHS cấp huyện chưa thực hiện được.

Thứ tư, về thể lực: Nhìn chung cán bộ KTHS có thể lực và sức khỏe tốt, tuy

nhiên do môi trường làm việc vất vả, nguy hiểm, độc hại và dễ lây các bệnh truyền

nhiễm nên cần phải được thăm khám định kỳ.

Thứ năm, về công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ: Việc đào tạo bồi dưỡng

chuyên môn nghiệp vụ mặc dù được chú trọng, tuy nhiên nội dung đào tạo chưa

thực sự phong phú, mang nặng tính lý thuyết, thời gian thực hành còn ít. Công tác

đánh giá kết quả đào tạo chưa đầy đủ và khách quan, mang tính hình thức. Công tác

đào tạo, bồi dưỡng còn mang nặng về bằng cấp, mang tính thủ tục, hoàn thiện hồ sơ,

hình thức đào tạo vừa làm, vừa học…còn nhiều, ít mang lại hiệu quả trong công

việc. Trong khi đó sinh viên tốt nghiệp đại học chính quy chuyên ngành KTHS hoặc

các chuyên ngành khoa học tự nhiên như: đại học Bách Khoa, đại học Khoa học tự

nhiên… còn ít kiến thức thực tiễn, cần có một thời gian đào tạo tại chỗ mới có thể

đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Kiến thức về pháp luật, về quản lý nhà nước của

cán bộ KTHS còn thiếu và yếu, chưa được qua các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên

74 sâu. Số cán bộ KTHS có bằng cấp về ngoại ngữ và trình độ công nghệ thông tin

ngày càng tăng cao và tăng cả về chủng loại bằng, chứng chỉ nhưng thực tế việc sử

dụng vào công việc thực tế còn rất hạn chế, đặc biệt là trình độ ngoại ngữ.

Thứ sáu, về kết quả đánh giá cán bộ: Công tác đánh giá cán bộ hằng năm

được tiến hành vào dịp kết thúc năm công tác. Tuy nhiên việc đánh giá chưa đảm

bảo thực chất, chủ yếu phiên từ danh hiệu thi đua cuối năm sang. Vẫn còn tình trạng

nể nang, xuê xoa trong đánh giá, hoặc cán bộ lớn tuổi “nhường” cho cán bộ trẻ để

phấn đấu đi học, kết nạp đảng...

Thứ bẩy, về cơ cấu, số lượng cán bộ: Về số lượng, cán bộ giám định viên còn

một số lĩnh vực giám định chưa có chuyên gia giỏi. Nhiều giám định viên mới được bổ nhiệm

thiếu kinh nghiệm, kiến thức còn hạn chế, chưa đủ khả năng độc lập trong nghiên cứu, tiến hành

giám định những vụ việc khó, phức tạp. Phần lớn các giám định viên được đào tạo tại các trường

đại học ngoài ngành Công an do đó, trình độ nghiệp vụ công an, trình độ pháp luật còn nhiều hạn

chế. Tại CATP Hà Nội, các giám định viên có mặt bằng trình độ chuyên môn khá cao, song vẫn

yếu khi so với trình độ chuyên môn các giám định viên của các nước tiên tiến về khoa học hình

sự. Những tồn tại hạn chế nêu trên đã làm cho công tác giám định của lực lượng kỹ thuật CATP

Hà Nội còn nhiều bất cập: nhiều vụ giám định thời gian còn kéo dài, có những vụ vượt

thiếu, năng lực chuyên môn, kỹ năng giám định của một giám định viên chưa cao,

quá thời hạn theo quy trình giám định; tỷ lệ số kết luận giám định ở dạng không đủ

cơ sở kết luận vẫn còn cao; một số lĩnh vực, một số chỉ tiêu chưa tự giải quyết tại

chỗ được còn phải thuê khoán chuyên môn các cơ quan khoa học ngành ngoài.

2.3.3.1. Nguyên nhân khách quan

Thứ nhất, điều 201-Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy

định “Điều tra viên tiến hành khám nghiệm nơi xảy ra, nơi phát hiện tội phạm nhằm phát hiện

dấu vết của tội phạm, vật chứng và làm sáng tỏ các tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án”. Theo Chỉ

thị số 02/2001/CT-BCA ngày 6/2/2001 của Bộ trưởng Bộ Công an về tăng cường công tác khám

nghiệm hiện trường trong lực lượng CAND và Quyết định số 57/QĐ-BCA của Bộ Công an quy

định về sự phối hợp giữa CQĐT và các lực lượng nghiệp vụ khác trong hoạt động khám nghiệm

hiện trường thì lực lượng KTHS là lực lượng tiến hành công tác khám nghiệm hiện trường. Chính

vì những bất cập trong tư cách pháp lý, quyền hạn và trách nhiệm của cán bộ chuyên trách về

KTHS chưa được xác định rõ nên đã ảnh hưởng đến tinh thần, trách nhiệm của cán bộ KTHS khi

tiến hành công tác khám nghiệm hiện trường.

2.3.3. Nguyên nhân hạn chế

Thứ hai, hiện nay Bộ Công an chưa có cơ quan nào chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn công tác

khám nghiệm hiện trường ở Công an địa phương (trước đây Viện khoa học hình sự Bộ Công an

có Phòng chiến thuật kỹ thuật hình sự chuyên trách công tác khám nghiệm hiện trường, nhưng

đến năm 1996 đã giải thể). Chính vì vậy việc chỉ đạo, hướng dẫn nâng cao trình độ nghiệp vụ, kỹ

năng nghề nghiệp ở cơ quan chuyên môn cấp bộ đối với Công an các địa phương là không có. Do

vậy cán bộ KTHS ở cấp địa phương chủ yếu tự rèn luyện, tích lũy kinh nghiệm, hoàn thiện kỹ

năng nghề nghiệp. Việc rèn luyện, nâng cao kỹ năng nghề nghiệp gặp khó khăn do không có cơ

quan cấp trên chỉ đạo, hướng dẫn.

Thứ ba, áp lực công việc đối với cán bộ KTHS hiện nay là rất lớn, cán bộ thường xuyên

làm tăng ca, thêm giờ kể cả thứ bẩy, chủ nhật. Đặc biệt trong các đợt cao điểm tập trung đấu

tranh trấn áp tội phạm cán bộ thường xuyên phải làm đêm để phục vụ yêu cầu giám định, khám

nghiệm của các đơn vị trong CATP. Điều đó đã ảnh hưởng đến tâm lý của cán bộ KTHS muốn

xin chuyển công tác khỏi lực lượng KTHS.

Thứ tư, công tác đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng cán bộ hiện nay còn nhiều bất cập.

Công tác đào tạo của các trường CAND còn nặng về lý thuyết do chưa được đầu tư phòng thực

hành với những phương tiện KTHS hiện đại. Chính vì vậy sinh viên chuyên khoa KTHS sau khi

ra trường có kỹ năng nghề nghiệp khá hạn chế, cần phải đào tạo, bồi dưỡng thực tiễn từ 1 đến 2

năm mới có thể thực hiện tốt nhiệm vụ.

Thứ năm, về phương tiện nghiệp vụ hiện nay lực lượng KTHS tuy đã được quan tâm

nhưng việc đầu tư vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu công tác. Các phương tiện trang bị cho các

Đội, Tổ KTHS như: Máy ảnh, valy khám nghiệm hiện trường, đèn phát hiện dấu vết, phương tiện

thu dấu vết... đã rất cũ, lạc hậu, hư hỏng nhiều. Do đó cán bộ KTHS không có điều kiện tiếp cận

với những phương tiện hiện đại nên khi được trang bị đã lúng túng, bị động trong quá trình sử

dụng.

Thứ bẩy, chế độ bảo hiểm an toàn lao động đối với một số lĩnh vực giám định dễ xảy ra tai

nạn (thực nghiệm trong các vụ giám định dấu vết súng đạn), hoặc lây nhiễm các bệnh hiểm nghèo

như lao, nhiễm HIV (giám định pháp y) chưa có...

75

Thứ tám, chế độ chính sách cho lực lượng KTHS còn thấp hơn các lực lượng

khác như cán bộ điều tra, hình sự, kinh tế (phụ cấp đặc thù của lực lượng KTHS là

10% lương, trong khi đó phụ cấp đặc thù của trinh sát hình sự, điều tra viên là

20%)... trong khi đó tính chất công việc, môi trường làm việc của lực lượng KTHS

rất vất vả nên một bộ phận cán bộ, chiến sỹ làm công tác KTHS chưa tâm huyết,

gắn bó với công việc và có tâm lý muốn chuyển sang làm công tác khác. Đến nay

Bộ Công an vẫn chưa có chế độ chính sách đủ để thu hút được cán bộ giỏi ngoài lực

76 lượng vào công tác trong lực lượng KTHS. Chính vì vậy lực lượng KTHS Công an

thành phố Hà Nội chưa có nhiều chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực khám nghiệm

2.3.3.2. Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất, nhận thức của lãnh đạo một số đơn vị cấp cơ sở về công tác KTHS chưa đầy đủ,

chưa thấy được vị trí, vai trò quan trọng của công tác KTHS. Chính vì vậy công tác đào tạo, bồi

dưỡng, xây dựng, củng cố lực lượng KTHS cấp cơ sở chưa được quan tâm đúng mức, chất lượng

cán bộ không cao, hiệu quả công tác thấp.

Thứ hai, lực lượng KTHS trong những năm qua đã được củng cố và bổ sung, tuy nhiên

chủ yếu là cán bộ trẻ, ít kinh nghiệm, trình độ chuyên môn còn yếu, kỹ năng sử dụng phương tiện

được trang bị kém. Cán bộ KTHS được giao kiêm nhiệm nhiều việc khác nên đã ảnh hưởng đến

chất lượng hiệu quả công tác chuyên môn. Đặc biệt là những vụ án cố ý gây thương tích gây hậu

quả chết người, những vụ TNGT phức tạp, những vụ việc có tính chất nhạy cảm... do công tác

khám nghiệm hiện trường không được tiến hành kỹ lưỡng, cộng với kỹ năng nghề nghiệp của cán

bộ KTHS hạn chế nên phải tiến hành dựng lại hiện trường, thực nghiệm điều tra nhiều lần rất tốn

công sức, thời gian gây nhiều khó khăn cho quá trình giải quyết vụ án.

Thứ ba, về công tác bố trí, sử dụng, đánh giá cán bộ. Việc bố trí sử dụng cán bộ KTHS tại

CATP Hà Nội trong thời gian qua về cơ bản đảm bảo đúng chuyên ngành được đào tạo, phát huy

được năng lực, sở trường của cán bộ. Tuy nhiên ở một số đơn vị việc sử dụng, phân công công tác

cho cán bộ vẫn còn nhiều hạn chế, chưa phát huy hết những tiềm năng của cán bộ KTHS hiện có.

Vẫn còn tình trạng cán bộ được tuyển dụng không đáp ứng được trình độ. Đây là một trong những

nguyên nhân dẫn đến năng lực của cán bộ còn yếu kém.

Công tác nhận xét, đánh giá cán bộ đã có những chuyển biến, chuyển từ cách tự kiểm

điểm, bình bầu sang đánh giá cụ thể các nội dung công việc được giao như: phẩm chất chính trị,

năng lực chuyên môn, hiệu quả công việc, đạo đức tác phong... tuy vậy qua thực tế cho thấy việc

đánh giá xếp loại cán bộ chưa gắn với kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao, chưa lấy hiệu quả

công việc làm thước đo để đánh giá cán bộ, chưa có những tiêu chí rõ ràng, từ đó chủ nghĩa bình

quân còn tồn tại khá phổ biến. Công tác nhận xét, đánh giá cán bộ chưa thực sự khoa học, còn

hình thức. Hiện tượng ‘dĩ hòa, vi quý’, dẫn đến nhận xét, đánh giá cán bộ chưa chính xác.

Thứ tư, về công tác quy hoạch cán bộ được coi là quan trọng và cần thiết, nhưng một số

đơn vị cấp cơ sở chưa chú trọng đến lực lượng KTHS mà chỉ chú trọng đến các lực lượng điều tra,

trinh sát. Khi lựa chọn cán bộ kế cận chưa đi sâu nghiên cứu phát hiện những năng khiếu, sở

trường của cán bộ để đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cho phù hợp. Hàng năm, chưa xem xét đánh

giá, điều chỉnh, bổ sung kịp thời danh sách cán bộ dự bị, nên tác dụng quy hoạch còn hạn chế.

hiện trường, giám định KTHS và pháp y.

chưa thực sự quan tâm đến lực lượng KTHS. Quy hoạch chưa sát với nhu cầu thực tế nên hiệu quả

quy hoạch không cao.

Thứ năm, về công tác kiểm tra, hướng dẫn cán bộ là một công tác cần thiết trong quá trình

thực hiện nhiệm vụ nhằm đánh giá đúng chất lượng cán bộ về năng lực, trình độ, kỹ năng nghề

nghiệp, việc chấp hành pháp luật chưa tốt. Tuy nhiên trong những năm qua CATP chưa tổ chức

kiểm tra, hướng dẫn bài bản để đánh giá đúng, toàn diện chất lượng cán bộ KTHS. Việc hướng

dẫn cán bộ KTHS cấp huyện chủ yếu được thực hiện thông qua việc phối hợp giải quyết các vụ

án, vụ việc xảy ra trên địa bàn. Do vậy chất lượng cán bộ KTHS của Công an thành phố chưa

đồng đều.

77 Chưa dựa vào chức danh quy hoạch để xác định con người. Trong quá trình làm quy hoạch còn

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Ở chương này, tác giả đã phân tích thực trạng chất lượng cán bộ KTHS thông qua các chỉ

tiêu về số lượng, cơ cấu tổ chức, các tiêu chí về: trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, phẩm chất chính

trị, đạo đức, về thể lực và kết quả nhận xét đánh giá cán bộ. Qua phân tích, tác giả thấy, nhìn

chung, cán bộ KTHS tại CATP Hà Nội tương đối ổn định về số lượng và ngày càng được nâng

cao về chất lượng. Trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng nghề nghiệp đã

được cải thiện đáng kể, mang lại những hiệu quả tích cực trong công việc. Tuy nhiên, đối chiếu

với các văn bản quy định về tiêu chuẩn đối với cán bộ KTHS, có thể thấy, còn nhiều cán bộ

KTHS Công an thành phố Hà Nội chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn theo quy định. Một số chỉ

tiêu về trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, phẩm chất chưa đạt yêu cầu. Công tác tuyển dụng, đào tạo,

nhận xét, đánh giá cán bộ... tuy đã được thực hiện, song hiệu quả trên thực tế chưa cao. Thực

trạng nêu trên do nhiều nguyên nhân, song một số nguyên nhân chủ yếu như: nhận thức về công

tác KTHS còn chưa đầy đủ, môi trường làm việc rất vả nhưng chế độ chính sách thấp chưa đảm

bảo các nhu cầu của cuộc sống nên cán bộ, còn chưa tâm huyết với công việc; qua nghiên cứu

thực trạng chất lượng cán bộ KTHS Công an thành phố Hà Nội, thấy được vai trò của lực lượng

KTHS, từ đó có thể đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cán bộ KTHS.

CHƯƠNG 3

78 QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÁN

BỘ KỸ THUẬT HÌNH SỰ CÔNG AN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

3.1. Xu hướng phát triển của kỹ thuật hình sự và những vấn đề đặt ra

cho công tác nâng cao chất lượng cán bộ

Hiện nay trên thế giới đang diễn ra cuộc cách mạng 4.0, khoa học công nghệ

đang phát triển rất nhanh và hết sức đa dạng, việc ứng dụng khoa học công nghệ

vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội đang là một nhu cầu mang tính tất yếu và phổ

biến. Trong đó việc ứng dụng khoa học vào công tác KTHS cũng không nằm ngoài

xu thế này. Trong những năm gần đây tình tội phạm trên thế giới và trong nước có

nhiều diễn biến phức tạp, nhiều loại tội phạm mới, tội phạm phi truyền thống xuất

hiện và có chiều hướng gia tăng, thủ đoạn hoạt động tinh vi và xảo quyệt hơn, đáng

chú ý là tội phạm sử dụng công nghệ cao để phạm tội xuất hiện ngày càng nhiều và

diễn biến phức tạp, sự xuất hiện tội phạm mới này đã đặt ra cho công tác KTHS

nhiều thách thức lớn. Để phát hiện, thu thập, đánh giá, giám định loại dấu vết mới

“dấu vết điện tử’’ đòi hỏi phải nghiên cứu để tìm ra phương pháp, quy trình giám

định mới, đặc biệt cần có sự chuyển giao công nghệ, sử dụng khoa học kỹ thuật và

công nghệ hiện đại, có tính đặc thù. Xuất phát từ yêu cầu của cải cách tư pháp ở

nước ta, trong đó có Đề án đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư

pháp, để đảm bảo tiến trình cải cách tư pháp đúng tiến độ và đạt kết quả tốt, KTHS

cần phát triển mọi mặt và đó là đòi hỏi tất yếu, khách quan.

Trong xu hướng phát triển KTHS chịu nhiều yếu tố tác động, trong đó có thể

kể đến các yếu tố cơ bản như: những quan điểm đường lối của Đảng; chiến lược,

quy hoạch, kế hoạch đầu tư của Nhà nước và chỉ đạo thực hiện của Ngành Công an

đối với công tác KTHS; tiềm lực thực tế về kinh tế - xã hội, khoa học công nghệ của

Việt Nam và nhu cầu thực tiễn của xã hội đòi hỏi đối với công tác KTHS; sự vận

động nội tại của công tác KTHS và cán bộ lãnh đạo trực tiếp về lĩnh vực này từ

Trung ương đến địa phương; sự tác động của thế giới và sự hội nhập, hợp tác quốc

tế của chúng ta trong lĩnh vực KTHS.

Nhìn tổng quát, xu hướng phát triển của KTHS trong giai đoạn hiện nay đang

đi theo hướng cơ bản sau:

Lý luận khoa học về KTHS ngày càng được bổ sung và hoàn thiện theo

79 hướng hiện đại và thực tiễn hơn, thể hiện trên các lĩnh vực của KTHS, xác định rõ

nét hơn vai trò của KTHS trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và trong

các hoạt động đời sống xã hội, hoàn thiện và cụ thể hơn các quy trình, chỉ dẫn, tiêu

chuẩn trong hoạt động KTHS, hoàn thiện các cơ sở khoa học, cơ sở pháp lý của

hoạt động KTHS, cùng với sự hoàn thiện về mối quan hệ phối hợp giữa KTHS với

chiến thuật hình sự và với cấu thành khác trong khoa học hình sự.

Phương tiện KTHS được trang bị ngày càng đồng bộ và hiện đại. Tính đồng

bộ phải được thể hiện trong việc đầu tư phương tiện kỹ thuật phục vụ cho nhiều

hoạt động, nhiều lĩnh vực của KTHS, đồng bộ còn được thể hiện trên tất cả các

khâu của quá trình hoạt động của KTHS.

Kỹ thuật hình sự ngày càng có vị trí, vai trò quan trọng trong khoa học hình

sự và trong điều tra, xử lý tội phạm. Tổ chức lực lượng KTHS ngày càng chặt chẽ,

đồng bộ, nguồn nhân lực KTHS cần tăng cường cả về số lượng và chất lượng, ngày

càng có nhiều chuyên gia giỏi về các lĩnh vực chuyên môn, có nhiều cán bộ có học

hàm, học vị cao đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho lực lượng KTHS.

Phát triển KTHS nhanh hơn, sâu hơn, rộng hơn theo hướng vừa giao thoa vừa

rẽ nhánh. Các thành tựu của khoa học công nghệ tiên tiến được ứng dụng mạnh mẽ

hơn vào công tác KTHS đáp ứng ngày càng cao trong công tác đấu tranh phòng,

chống tội phạm và giữ gìn trật tự an toàn xã hội.

Hợp tác quốc tế về KTHS ngày càng được mở rộng và có chiều sâu hơn, lực

lượng KTHS Việt Nam đã ra nhập các tổ chức khoa học hình sự trên thế giới và khu

vực, phấn đấu trở thành thành viên tích cực và có uy tín của các tổ chức này.

3.2. Quan điểm, mục tiêu

Thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị - kinh tế - văn hoá - xã hội của cả nước đã có bước

phát triển, mạnh mẽ sau những năm đổi mới. Người dân Hà Nội đã có mức sống khá về vật chất

và tinh thần, trình độ dân trí phát triển trên nhiều lĩnh vực, trong đó có nhận thức về pháp luật,

song song với sự phát triển tích cực cũng xuất hiện và tồn tại những tiêu cực trong đời sống xã hội

như: Sự phân hoá giàu nghèo, tệ nạn xã hội, tính chất hoạt động của các loại tội phạm về an ninh,

kinh tế, hình sự, ma tuý ngày càng tinh vi và xảo quyệt, táo bạo và liều lĩnh. Một số loại tội phạm

quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia cũng đã xâm nhập vào Thủ đô. Đặc biệt với trình độ khoa học

công nghệ phát triển với tốc độ cao, phương thức thủ đoạn hoạt động của tội phạm cũng có xu

hướng phát triển theo quy luật này.

3.2.1. Quan điểm

Nhiệm vụ đảm bảo vững chắc ANCT, TTATXH ở Thủ đô là cực kỳ quan trọng và hết sức

khó khăn phức tạp, đòi hỏi CATP phải sử dụng nhiều biện pháp nghiệp vụ trong đó có biện pháp

KTHS. Thực tế cho thấy, công tác KTHS ngày càng trở thành một biện pháp khoa học nghiệp vụ

quan trọng trong phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm của lực lượng Công an. Trong công tác

điều tra công tác KTHS đã phát hiện kịp thời chính xác những phương thức hoạt động của tội

phạm, định hướng cho hoạt động điều tra, xác lập được những căn cứ truy nguyên, truy tìm tội

phạm, phục vụ có hiệu quả cho công tác điều tra. Trong công tác xử lý tội phạm những tài liệu,

chứng cứ được xác lập của công tác KTHS đã thực sự góp phần quan trọng, đảm bảo tính chính

xác, khách quan và nghiêm minh.

Nâng cao chất lượng cán bộ KTHS phải xuất phát từ quan điểm, đường lối của Đảng. Xây

dựng cán bộ KTHS phải xuất phát từ đường lối chính trị, đường lối kinh tế của Đảng trên cơ sở

giữ vững và phát huy bản chất của giai cấp công nhân, tính tiên phong của Đảng. Phải thông qua

hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của quần chúng để đào luyện, tuyển chọn, giáo dục,

bồi dưỡng. Thực hiện đúng nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý cán

bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của tổ chức và người đứng đầu các tổ chức chính trị về công

tác cán bộ. Xây dựng, phát triển và nâng cao chất lượng cán bộ KTHS phải xuất phát từ chiến

lược xây dựng đội ngũ cán bộ của CATP Hà Nội, chất lượng của cán bộ KTHS đáp ứng được với

công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm trong tình hình mới. Nâng cao chất lượng cán bộ

KTHS phải dựa trên cơ sở yêu cầu nhiệm vụ. Vì tính chất nghiệp vụ KTHS là một loại lao động

đặc biệt, có nhiệm vụ ứng dụng khoa học kỹ thuật trong công tác đấu tranh phòng, chống tội

phạm. Thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được giao là thực hiện thành công các mục tiêu của cơ quan

đơn vị, cũng chính là thực hiện thành công các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và

pháp luật của Nhà nước. Nâng cao chất lượng cán bộ KTHS phải được thực hiện đồng bộ từ khâu

tuyển dụng, đào tạo đến khâu bố trí, sử dụng, nhận xét, đánh giá. Việc nâng cao chất lượng cán bộ

KTHS phải được tiến hành ngay từ khâu tuyển sinh đầu vào của các trường CAND và công tác

tuyển dụng cán bộ ngoài CAND với các hình thức thi tuyển nghiêm túc theo quy trình thống nhất

trên cơ sở tiêu chuẩn hợp lý. Tiếp theo là cả quá trình đào tạo sau khi tuyển dụng nhằm trang bị

những kiến thức, những kỹ năng mới, đồng thời làm tốt việc sắp xếp, sử dụng đúng, có hiệu quả

cán bộ KTHS.

80

3.2.2. Mục tiêu

3.2.2.1. Mục tiêu chung

Thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII xác định rõ:

“Xây dựng quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,

từng bước hiện đại… tăng cường nguồn lực, tạo cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại

cho lực lượng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ

81 quốc trong tình hình mới. Tích cực, chủ động chuẩn bị lực lượng đủ mạnh và các kế

hoạch, phương án tác chiến cụ thể, khoa học, sẵn sàng bảo vệ vững chắc độc lập,

chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và an ninh Tổ quốc trong mọi tình

huống…”[42, tr.149-150].

Tiếp tục thực hiện Nghị Quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị

về một số nhiệm vụ trọng tâm cải cách tư pháp trong thời gian tới và triển khai thực

hiện Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải

cách tư pháp dến năm 2020. Công tác KTHS cần phải tập trung đầu tư phát triển

toàn diện, đồng bộ từ công tác cán bộ, xây dựng cơ sở vật chất, đầu tư trang thiết bị

phương tiện.

Phát triển toàn diện công tác KTHS từ hoàn thiện cơ sơ pháp lý, công tác tổ

chức cán bộ, chức năng nhiệm vụ, đổi mới công tác đào tạo cán bộ và xây dựng cơ

sở vật chất hạ tầng, đầu tư trang thiết bị, phương tiện KTHS theo phân cấp nhiệm

vụ của từng đơn vị.

Tập trung kiện toàn tổ chức và trang bị phương hiện đại cho lực lượng KTHS

cấp huyện để chủ động trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm theo nhiệm

Trước những yêu cầu mới của công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước lực lượng Công an

nói chung và lực lượng KTHS nói riêng phải từng bước được xây dựng chính quy và hiện đại

nhằm đáp ứng được với nhiệm vụ được giao trong công tác đảm bảo ANCT và TTATXH.

vụ được phân công.

Xây dựng cán bộ KTHS có phẩm chất và bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo

đức, lối sống lành mạnh, không quan liêu tham nhũng, kiên quyết đấu tranh chống

quan liêu, tham nhũng, lãng phí; có tư duy đổi mới, sáng tạo; có kiến thức chuyên

môn, kỹ năng nghề nghiệp, tin học, ngoại ngữ và năng lực hoạt động thực tiễn, đáp

ứng yêu cầu của công tác đảm bảo an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội

trong tình hình mới; có tinh thần đoàn kết, hợp tác, ý thức tổ chức kỷ luật cao, có

tinh thần trách nhiệm, tận tụy với công việc được giao. Xây dựng cán bộ KTHS đảm

bảo đủ về số lượng và sự chuyển tiếp liên tục giữa các thế hệ cán bộ. Thực hiện tốt

công tác quy hoạch và đào tạo để có nguồn cán bộ kịp thời.

3.2.2.2. Mục tiêu cụ thể

82

Củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng cán bộ KTHS đến năm 2019, nhằm

chủ động chuẩn bị phương án nhân sự giới thiệu ứng cử Đại hội Đảng các cấp

nhiệm kỳ 2020 – 2025, Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 – 2026.

Xây dựng cán bộ, chỉ huy lực lượng KTHS trong sạch, vững mạnh, có tinh

thần trách nhiệm cao, gương mẫu, có ý thức phấn đấu vươn lên nhằm đáp ứng tốt

hơn yêu cầu, nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng hình ảnh đẹp của người cán

bộ, chiến sỹ Công an Thủ đô gần gũi, thân thiện, trách nhiệm, nhân văn, vì nhân dân

phục vụ.

Có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nguồn trong quy hoạch về chính trị,

nghiệp vụ, kỹ năng lãnh đạo theo từng lĩnh vực công tác đảm bảo các điều kiện, tiêu

chuẩn, năng lực, phẩm chất, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ khi được điều động, luận

chuyển, bổ nhiệm.

Thực hiện các giải pháp và biện pháp về đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, luân

chuyển, điều động, bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ… để kiện toàn, nâng cao trình độ

nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp, năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện và tinh thần

trách nhiệm của cán bộ, chỉ huy lực lượng KTHS, kết hợp với công tác luân chuyển,

bổ nhiệm lãnh đạo, chỉ huy trong CATP.

Phấn đấu đến năm 2025, lực lượng KTHS đạt 75% có trình độ chuyên môn

đại học trở lên, 100% được bồi dưỡng nghiệp vụ KTHS hằng năm, thành thạo kỹ

năng nghề nghiệp, trong đó có 3-5% là chuyên gia trong các lĩnh vực khám nghiệm

hiện trường, giám định KTHS và pháp y, tin học, ngoại ngữ.

100% cán bộ có trình độ trung cấp lý luận chính trị trở lên.

3.3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự Công

an thành phố Hà Nội

Qua phân tích thực trạng cán bộ KTHS và căn cứ vào tình hình cụ thể của

công tác đảm bảo ANTT trên địa bàn Thủ đô Hà Nội, với những nguyên nhân hạn

chế vì vậy cần thiết phải có các giải pháp phù hợp để nâng cao chất lượng cán bộ

KTHS. Để thực hiện mục tiêu đề ra nêu trên, trong thời gian tới cần thực hiện tốt

một số giải pháp chủ yếu sau đây:

3.3.1. Giải pháp chung

83

Thứ nhất, tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ,

nâng cao chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự.

Xác định vấn đề cán bộ là then chốt trong công tác xây dựng Đảng, là nhân tố

quyết định đến thành công của sự nghiệp đổi mới, ảnh hưởng trực tiếp đến sự của

đảm bảo an ninh trật tự tại địa phương. Có thể nói, kết quả của công tác đảm bảo an

ninh trật tự mà CATP Hà Nội đạt được hôm nay chính là có sự quan tâm chỉ đạo sát

sao của các cấp ủy Đảng một cách toàn diện trên nhiều lĩnh vực, trong đó có vấn đề

cán bộ và công tác cán bộ. Trong giai đoạn hiện nay, tăng cường sự lãnh đạo của

Đảng, các cấp ủy tại CATP Hà Nội, nổi lên một số vấn đề cần quan tâm, chú ý sau:

- Cùng với việc chăm lo quán triệt các Nghị quyết của Đảng và đẩy

mạnh việc thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước, các cấp ủy Đảng

trong CATP Hà Nội phải chú trọng xây dựng các phương án, biện pháp đảm bảo nói

chung, công tác tổ chức cán bộ nói riêng, để các cấp ủy các đơn vị trực thuộc vận

dụng vào việc xác định nhiệm vụ chính trị và kế hoạch công tác của mình.

- Cần tổng kết đánh giá về cán bộ và công tác cán bộ một cách thường

xuyên. Thông qua đó phát hiện những nhân tố mới, những cách làm mới trong

công tác cán bộ. Đánh giá thực chất cán bộ và công tác cán bộ, một mặt vừa

tìm ra nguyên nhân, khâu quan trọng của vướng mắc, khó khăn trong công tác

cán bộ của từng cấp để có giải pháp tháo gỡ, khắc phục khó khăn, phát huy

những thành quả đạt được. Mặt khác, có thể kiểm tra phẩm chất, năng lực của

cán bộ để khẳng định cái đúng, nêu gương những cán bộ tốt, uốn nắn những sơ hở

trong công tác cán bộ, ngăn chặn những biểu hiện lệch lạc, thoái hóa, biến chất của

cán bộ, chiến sỹ.

- Kịp thời điều chuyển những cán bộ, chiến sỹ không có năng lực với

công việc được phân công; có biện pháp xử lý kịp thời những cán bộ năng lực quá

yếu hoặc có vi phạm; tăng cường cho cấp quận, huyện, thị xã những cán bộ có

chuyên môn, năng lực công tác tốt, có uy tín từ Phòng Kỹ thuật hình sự để làm nòng

cốt cho các Đội, Tổ KTHS.

- Cần phải tăng cường sự lãnh đạo tập thể về công tác cán bộ, vì quyết

định vấn đề cán bộ có ý nghĩa quan trọng đến việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và

ảnh hưởng đến sinh mệnh chính trị của từng cá nhân. Nhưng cũng đồng thời phải đề

cao tính chịu trách nhiệm của cá nhân lãnh đạo.

84

Thứ hai, quán triệt sâu sắc, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước cho

cán bộ KTHS. Kiên quyết đấu tranh với những quan điểm sai trái, luận điệu xuyên

tạc; mở rộng các hình thức tuyên truyền, nhân rộng những điển hình tiên tiến,

những cách làm sáng tạo, hiệu quả.

Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao đạo đức cách

mạng cho cán bộ kỹ thuật hình sự, trong đó chú trọng nội dung xây dựng Đảng về

đạo đức, truyền thống lịch sử, văn hoá của dân tộc, truyền thống của lực lượng

CAND; kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa đào tạo với rèn luyện trong thực tiễn.

Tích cực triển khai nghiên cứu, học tập và thực hiện nghiêm túc các chỉ thị,

nghị quyết của Đảng và Nhà nước về công tác chính trị tư tưởng, đặc biệt là Nghị

quyết Trung ương 4, khóa XII về “Tăng cường xây dựng chỉnh đốn Đảng; ngăn

chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện

“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong CAND gắn với thực hiện Chỉ thị số 05 ngày

15-5-2016 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,

phong cách Hồ Chí Minh” và Chỉ thị số 07 ngày 26-10-2016 của Bộ Công an về

“Tăng cường lãnh đạo nâng cao văn hóa ứng xử Công an nhân dân trong tình hình

mới”; các quy định của điều lệnh CAND về tư thế, lễ tiết, tác phong của cán bộ,

chiến sĩ.

Thứ ba, tăng cường hiệu quả công tác phối hợp giữa các đơn vị trong việc

nâng cao chất lượng cán bộ KTHS như: công tác tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng,

nâng cao trình độ nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp, nhận xét đánh giá cán bộ.

3.3.2. Giải pháp cụ thể

3.3.2.1. Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyển dụng, bố trí

và sử dụng cán bộ kỹ thuật hình sự

Trên cơ sở quy định tiêu chuẩn chức danh cán bộ KTHS, cơ cấu cán bộ và

biên chế cán bộ cho từng đơn vị cần tiến hành tuyển dụng và bố trí cán bộ theo đúng

tiêu chuẩn chức danh chuyên ngành đào tạo, cơ cấu và biên chế cán bộ như đã quy

định. Bộ Công an cần có chế độ đãi ngộ phù hợp để thu hút tuyển dụng những cán

bộ ngành ngoài có trình độ chuyên môn cao, có học hàm, học vị vào công tác trong

lực lượng CAND, nhất là lực lượng KTHS.

Việc tuyển dụng cán bộ KTHS muốn đạt hiệu quả cao cần phải đổi mới về

85

hình thức tuyển dụng, phương pháp tuyển dụng. Cụ thể:

- Bộ Công an cần sửa đổi quy định tuyển dụng cán bộ ngành ngoài vào

CAND theo hướng bám sát tiêu chuẩn chức danh cán bộ đã được quy định và định

hướng chung về cán bộ, trẻ hóa cán bộ, nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu của

công tác đảm bảo ANTT.

- Thực hiện tốt quy trình bổ nhiệm và sử dụng cán bộ. Việc bổ nhiệm và sử

dụng cán bộ phải đúng lúc, đúng tầm, đúng việc, đúng tiêu chuẩn, hợp với năng lực

và sở trường, đúng với chuyên môn được đào tạo. Hiện nay, cơ cấu cán bộ lực

lượng KTHS Công an thành phố Hà Nội chưa hợp lý cả về độ tuổi, giới tính, trình

độ đào tạo,… Nếu công tác tuyển dụng thực hiện không tốt sẽ tiếp tục mất cân đối

về cơ cấu tuổi, giới tính, trình độ của cán bộ. Do đó, việc tuyển dụng cần quán triệt

thực hiện theo đúng nhu cầu của đơn vị, thiếu vị trí nào thì tuyển đúng vị trí đó và

phải đáp ứng được yêu cầu về trình độ, năng lực, kỹ năng, phẩm chất đạo đức…

Nếu vị trí nào có nhiều người dự tuyển thì phải tuyển chọn được người có năng lực,

phù hợp với yêu cầu phù hợp nhất.

- Bố trí cán bộ phải đúng chuyên ngành được các trường CAND đào tạo và

chuyên môn của cán bộ được tuyển dụng. Kiên quyết không bố trí, sử dụng những

cán bộ không đủ tiêu chuẩn bằng cấp chuyên môn, nghiệp vụ và trình độ năng lực

và phẩm chất đạo đức hoặc bố trí không đúng chuyên ngành đào tạo. Làm tốt công

tác biểu dương, khen thưởng, kỷ luật để kịp thời động viên, khuyến khích cán bộ

nêu cao tinh thần trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ, có thái độ phục vụ nhân

dân tận tụy. Tạo điều kiện về mọi mặt để cán bộ đã bố trí đúng vị trí phát huy được

năng lực, sở trường hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt nhất.

3.3.2.2. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch cán bộ kỹ thuật hình sự

Quy hoạch cán bộ là một nội dung trọng yếu của công tác cán bộ, bảo

đảm cho công tác cán bộ đi vào nề nếp, chủ động, đáp ứng cả nhiệm vụ trước

mắt và lâu dài; làm căn cứ để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ vững vàng về chính

trị, trong sáng về đạo đức, thành thạo về chuyên môn, nghiệp vụ, có trình độ

và năng lực, nhất là năng lực thực tiễn tốt. Xuất phát từ những tồn tại trong công tác

quy hoạch cán bộ của lực lượng KTHS, trong thời gian tới để nâng cao chất lượng

công tác quy hoạch cần thực hiện tốt các nội dung sau:

Phòng Tổ chức cán bộ CATP Hà Nội cần xây dựng kế hoạch, hướng dẫn thực

86 hiện quy hoạch cấp uỷ nhiệm kỳ 2020 - 2025 và các chức danh chủ chốt của các

đơn vị trong CATP. Trong quy hoạch cán bộ chủ chốt chú ý phát hiện sớm nguồn

cán bộ trẻ có đức, có tài, có triển vọng về khả năng lãnh đạo, quản lý đưa vào quy

hoạch để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng tạo nguồn các chức danh lãnh đạo, quản lý

đáp ứng yêu cầu chính trị trước mắt và lâu dài của từng đơn vị.

Việc xây dựng quy hoạch phải bảo đảm có tính kế thừa, phát triển và cơ cấu

hợp lý; thực hiện xây dựng quy hoạch cấp dưới làm cơ sở để phát hiện nguồn cho

quy hoạch cán bộ cấp trên; Quy hoạch phải xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ chính trị

và thực tế cán bộ KTHS của từng thời kỳ để xác định tiêu chuẩn, cơ cấu cán bộ

trong quy hoạch (trình độ, chuyên ngành đào tạo, lĩnh vực công tác, độ tuổi, giới

tính…).

Mục tiêu quy hoạch cán bộ KTHS Công an thành phố Hà Nội trong thời gian

tới phải đảm bảo các yêu cầu sau:

Đáp ứng đủ số lượng hiện tại và số lượng cần tuyển dụng để bổ sung

cho giai đoạn kế tiếp, số cán bộ KTHS phải thay thế do không đáp ứng được yêu

cầu nhiệm vụ mới, số nghỉ hưu, hoặc do tinh giản biên chế, tinh gọn tổ chức, bộ

máy… Cơ cấu cán bộ KTHS cần đảm bảo về độ tuổi, giới tính,… khắc phục tình

trạng bố trí chưa đều và thiếu cân đối như hiện nay. Xuất phát từ yêu cầu trẻ hóa

cán bộ, phấn đấu mỗi nhiệm kỳ trẻ hóa khoảng 30% - 40% cán bộ chỉ huy các cấp,

quy hoạch những người có triển vọng nhưng phải trẻ tuổi để có quỹ thời gian cho

việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ và kinh qua thực tiễn ở cơ sở. Khi bố trí

vào chức danh quy hoạch, phải đảm bảo lần đầu tham gia cấp ủy hoặc lần đầu bổ

nhiệm, giới thiệu ứng cử các chức danh lãnh đạo, quản lý phải đủ tuổi công tác từ

hai nhiệm kỳ trở lên, ít nhất cũng trọn một nhiệm kỳ (mỗi nhiệm kỳ là 5 năm). Phải

đảm bảo cơ cấu 3 độ tuổi, giãn cách giữa các độ tuổi là 5 năm. Đảm bảo tỷ lệ nữ

không dưới 15% trong quy hoạch cấp ủy, Ban thường vụ cấp ủy và ban lãnh đạo các

đơn vị, địa phương các cấp.

Trình độ chuyên môn: Hiện nay, trình độ của cán bộ KTHS nhất là cấp huyện

chưa đảm bảo về chất lượng. Điều này thể hiện ở số cán bộ KTHS đã được bố trí

không đáp ứng yêu cầu công tác. Tỷ lệ cán bộ, cán bộ có trình độ chuyên môn thấp

hơn yêu cầu công việc vẫn còn nhiều. Do đó, việc quy hoạch trong thời gian sắp tới

phải đảm bảo tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn với từng vị trí, chức danh cán bộ.

87

Tính kế thừa: Cũng do mất cân đối về mặt cơ cấu tuổi, giới tính… nên tính kế

thừa ở Phòng KTHS và các Đội, Tổ KTHS cấp huyện còn nhiều bất cập, số cán bộ

dưới 35 tuổi chiếm số đông, trong khi đó số cán bộ trên 40 tuổi chiếm tỉ lệ thấp.

Trên thực tế, nhiều trường hợp chức danh chỉ huy cấp đội khi cần thay thế thì không

tìm được người có đủ các tiêu chuẩn cần thiết để thay thế. Vì vậy, mục tiêu của quy

hoạch là phải khắc phục được tình trạng thiếu tính kế thừa liên tục giữa các thế hệ

cán nhằm đáp ứng tốt cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài.

3.3.2.3. Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ và

kỹ năng nghề nghiệp cho cán bộ kỹ thuật hình sự

Từ thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ KTHS còn nhiều hạn chế,

bất cập như: chưa có quy hoạch tổng thể và chiến lược dài hạn; một số cán bộ

KTHS có trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ chưa đáp ứng được yêu cầu đặt

ra. Để khắc phục những hạn chế, bất cập tại CATP Hà Nội cần phải thực hiện tốt

một số nội dung sau:

- Kiến nghị Học viện Cảnh sát nhân dân và Trường Cao đẳng Cảnh sát nhân

dân I đổi mới nội dung, chương trình đào tạo đối với chuyên khoa KTHS. Cụ thể:

Các trường CAND cần phối hợp với Viện Khoa học hình sự, Bộ Công an và

Phòng KTHS Công an các tỉnh, thành phố, trước hết là với Phòng KTHS CATP Hà

Nội tăng cường các hoạt động thực hành, thực tế cho sinh viên, học lý thuyết tới

đâu thực hành ngay tới đó nhằm trang bị lý luận gắn liền với rèn luyện kỹ năng thực

hành cho sinh viên; nhiều môn học sẽ được phối hợp theo hình thức giờ học lý

thuyết do các trường CAND đảm nhận, giờ thực hành do các phòng KTHS đảm

nhận; tận dụng cán bộ giàu kinh nghiệm trong việc hướng dẫn thực hành cho sinh

viên; chuyển đổi việc đào tạo một số môn học sang hình thực phối hợp đào tạo bồi

dưỡng để trau dồi kinh nghiệm thực tiễn cho giáo viên, đề xuất bổ nhiệm chức danh

giám định viên cho giáo viên khoa KTHS các trường CAND.

Các trường CAND cần bổ sung chương trình khung đào tạo chuyên ngành

KTHS phù hợp với những quy định của Luật giám định tư pháp và các Thông tư

của Bộ trưởng Bộ Công an về công tác KTHS. Theo quy định tại điều 3, Thông tư

số 33/2014/TT-BCA, giám định KTHS hiện nay có 10 lĩnh vực; trong đó có lĩnh

vực giám định kỹ thuật số và điện tử là lĩnh vực mới, cần nghiên cứu biên soạn tài

liệu giảng dạy, tập huấn để đào tạo giám định viên tư pháp về lĩnh vực này.

88

Về phương diện lý luận cũng như thực tiễn công tác KTHS hiện nay ở Việt

Nam, lực lượng KTHS đang thực hiện 3 nội dung công tác nghiệp vụ cơ bản là:

công tác khám nghiệm hiện trường, công tác giám định KTHS, công tác kỹ thuật

phòng chống tội phạm và của 3 nội dung này đang được triển khai đồng bộ từ trung

ương đến địa phương. Do vậy, trong chương trình đào tạo tại các trường CAND

ngoài việc đào tạo chung về KTHS như hiện nay nên đào tạo chuyên sâu theo 3

chuyên ngành hẹp: khám nghiệm hiện trường, giám định KTHS và kỹ thuật phòng

chống tội phạm. Nếu theo hướng này sẽ có nhiều tác dung thiết thực, trước hết khi

một sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành KTHS sẽ được cấp bằng cử nhân KTHS,

đồng thời được cấp chứng chỉ chuyên sâu, điều này rất thuận lợi cho các đơn vị khi

phân công công tác tại các phòng, các đội chuyên môn, mặt khác trong thời gian

học tập tại nhà trường sinh viên đã xác định được công việc chuyên môn của mình

sau khi tốt nghiệp, từ đó có ý thức rèn luyện trong học tập.

Để giúp sinh viên chuyên ngành KTHS có kiến thức thực tế ngay từ khi còn

trên ghế nhà trường thì ngoài việc được thực hành, học tập tại Viện Khoa học hình

sự và Phòng Kỹ thuật hình sự CATP Hà Nội, nên cho sinh viên tham gia trực tiếp

vào công tác khám nghiệm hiện trường. Muốn vậy, giữa các trường CAND và Viện

Khoa học hình sự, Phòng Kỹ thuật hình sự CATP Hà Nội cần nghiên cứu thống

nhất quy chế phối hợp nhằm đảm bảo nhanh chóng, cơ động, gọn nhẹ để khi có

những vụ việc thực tế xảy ra sẽ thông báo để sinh viên tham gia kịp thời.

Trong xu hướng phát triển của KTHS hiện nay, vấn đề nguồn nhân lực đang

được xem là nhân tố chính, quyết định cho việc ứng dụng khoa học công nghệ vào

công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Chính vì vậy đổi mới công tác đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ là một tất yếu khách quan.

- Bộ Công an: Cần ban hành các chính sách và thực hiện thống nhất quản lý

chặt chẽ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ KTHS. Sinh viên các trường CAND tốt

nghiệp chuyên khoa KTHS phải được bố trí công tác đúng với chuyên ngành đào

tạo.

- Trung tâm huấn luyện và dưỡng nghiệp vụ CATP: cần nghiên cứu và thực

hiện đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ

KTHS cho phù hợp và gắn với nhu cầu thực tiễn.

- Đổi mới nội dung đào tạo, bồi dưỡng theo hướng tăng cường kỹ năng nghề

89 nghiệp cho cán bộ KTHS: Công tác đào tạo, bồi dưỡng hiện nay nặng về lý thuyết

cơ bản, chưa quan tâm đến kỹ năng nghiệp vụ của cán bộ KTHS. Vì thế, cần phải

lựa chọn kỹ lưỡng các nhóm kiến thức, mức độ, phạm vi cho thật phù hợp với từng

loại đối tượng. Ngoài những nội dung chung quy định đào tạo, bồi dưỡng cho cán

bộ KTHS được quy định, xuất phát từ những yếu kém của đào tạo trong thời gian

qua, cần chú trọng đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng mà cán bộ KTHS đang

cần, kiến thức Nhà nước và pháp luật, về khoa học tổ chức và quản lý, quản lý

nguồn nhân lực…; kỹ năng thực hiện nhiệm vụ, nhất là cách xử lý tình huống.

Mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ KTHS về kỹ năng khám

nghiệm hiện trường, phát hiện, thu lượm bảo quản dấu vết, vật chứng, kỹ năng chụp

ảnh nghiệp vụ, quay camera, tin học nghiệp vụ, tin học văn phòng, sử dụng khai

thác các phương tiện giám định, các phần mềm nghiệp vụ… nhưng phải gắn với

thực hiện chương trình cải cách hành chính nhà nước về ứng dụng công nghệ thông

tin trong hoạt động quản lý nhà nước.

Quan tâm bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước và kỹ năng lãnh đạo, kỹ

năng kiểm tra, hướng dẫn cho cán bộ chỉ huy cấp đội, phòng, quận, huyện, thị xã.

Đối với cán bộ KTHS cấp huyện cần bồi dưỡng chuyên sâu kỹ năng khám nghiệm

hiện trường, kỹ năng vẽ sơ đồ hiện trường, xây dựng hồ sơ khám nghiệm hiện

trường, kỹ năng nhận định đánh giá hiện trường; đối với cán bộ giám định cần theo

hướng đào tạo những chuyên gia giỏi trong từng lĩnh vực giám định như: giám định

gen, giám định cháy, nổ, giám định các chất hóa học, ma túy, giám định dấu vết

công cụ, giám định súng đạn, giám định chữ viết, chữ ký, phương pháp nghiên cứu

khoa học…Đây là những lĩnh vực giám định cần có kiến thức, chuyên môn sâu.

Việc đào tạo phải diễn ra thường xuyên, hằng ngày (đào tạo kèm cặp) thì mới có thể

đạt hiệu quả. Bên cạnh đó cần đào tạo kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng chỉ đạo điều

hành, kỹ năng chỉ đạo thực hiện kế hoạch, ban hành quyết định, tổ chức điều hành

cuộc họp, quản trị thời gian và nguồn lực.

- Nâng cao văn hóa ứng xử, giáo dục về phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp:

Bao gồm các hệ thống giá trị, các niềm tin và quan điểm, truyền thống lực lượng

CAND, thói quen, tác phong sinh hoạt và phong cách ứng xử, điều lệnh CAND,

tăng cường bồi dưỡng nâng cao đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ KTHS nhằm đảm

bảo ý thức tổ chức kỷ luật, kỷ cương, nghiêm minh trong thực hiện nhiệm vụ.

90

Bộ Công an cần xây dựng chỉ tiêu đào tạo chuyên ngành KTHS cho Học viện

Cảnh sát nhân dân, các trường Đại học Cảnh sát nhân dân, Cao đẳng Cảnh sát nhân

dân I, II, đảm bảo nhu cầu bổ sung biên chế cho lực lượng KTHS hằng năm

(khoảng 700 đại học, 1.100 trung cấp).

3.3.2.4. Đổi mới công tác đánh giá cán bộ kỹ thuật hình sự Theo hướng: Xuyên suốt, liên tục, đa chiều, theo tiêu chí cụ thể, bằng sản

phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết quả; gắn đánh giá cá nhân với tập thể và

kết quả thực hiện nhiệm vụ của đơn vị.

Các quy định về nhận xét, đánh giá cán bộ CAND đã được Bộ công an quy

định rõ trong Thông tư 06/2011/TT-BCA. Tuy nhiên, việc nhận xét, đánh giá cán bộ

hiện nay chưa phản ánh thực về phẩm chất và năng lực của cán bộ. Các tiêu chí còn

chung chung, chưa cụ thể hóa cho từng lực lượng, khi đánh giá khó phân định được

ranh giới mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ, đặc biệt là rất khó để xác định

mức độ “hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế về năng lực”. Việc đánh giá, nhìn

chung còn mang tính hình thức, kết quả đánh giá chưa phản ánh chính xác mức độ

hoàn thành và chất lượng công việc, chất lượng cán bộ KTHS.

Đổi mới công tác nhận xét, đánh giá cán bộ KTHS là một giải pháp quan

trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới tinh thần, thái độ làm việc và chất lượng công việc

của cán bộ. Chỉ khi đánh giá chặt chẽ, nghiêm túc, công bằng, khách quan và sử

dụng kết quả đánh giá hợp lý, cán bộ mới nghiêm túc trong thực hiện nhiệm vụ,

nâng cao chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự và cải cách hành chính. Để đổi mới

công tác đánh giá cán bộ, cần thực hiện tốt một số nội dung sau:

- Cần có quy định cụ thể, công bằng, khách quan và tách bạch

rõ ràng giữa trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, đơn vị với kết quả đánh giá

của từng cán bộ, tách bạch giữa kết quả đánh giá cá nhân cán bộ với kết

quả thành tích của tập thể cơ quan, đơn vị, tổ chức để tránh tình trạng vì thành

tích tập thể, trách nhiệm người đứng đầu mà “dĩ hòa vi quý” với từng cá nhân

công chức trong tổ chức.

- Sử dụng kết hợp các phương pháp đánh giá khác nhau cho các

vị trí thực hiện nhiệm vụ khác nhau. Đặc thù của cán bộ KTHS là thường xuyên

phải tiếp xúc và phối hợp với các lực lượng điều tra, tiếp xúc với nhân dân và các tổ

91 chức, đơn vị nghiệp vụ trong CATP. Do vậy, cần phải kết hợp phương pháp đánh

giá trong nội bộ và kết quả đánh giá từ bên ngoài (từ người dân, cơ quan, tổ chức,

đơn vị khác khi đến trưng cầu, yêu cầu giám định...) để kết quả đánh giá được

khách quan, toàn diện hơn.

- Đưa hoạt động kiểm tra trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề (đối với

lĩnh vực giám định) định kỳ hằng năm đối với cán bộ KTHS nhằm đánh giá mức độ

phát triển về năng lực chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ của cán bộ, mức độ cập nhật,

nắm chắc các quy định mới trong hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của lĩnh vực

KTHS. Bên cạnh thực hiện việc đánh giá, phân loại cán bộ KTHS cuối năm theo

quy định hàng tháng hoặc hàng quý, nên tổ chức các buổi đánh giá quá trình thực

hiện công việc của cán bộ KTHS để đảm bảo tính công bằng và tạo động lực thúc

đẩy quá trình làm việc của cán bộ chiến sỹ.

- Kết quả nhận xét, đánh giá cán bộ hàng năm cần được phân tích, sử dụng

làm cơ sở để lựa chọn, sàng lọc, luân chuyển, quy hoạch, định hướng phát triển cán

bộ KTHS. Việc đánh giá cán bộ theo kết quả công việc là một giải pháp rất cần

thiết, tuy nhiên, không phải là công việc dễ dàng. Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ

cơ chế, tư duy, quan niệm, thói quen trong việc đánh giá. Vì vậy, để áp dụng những

nội dung như trên vào việc đánh giá cán bộ KTHS, cần phải xây dựng hệ thống tiêu

chí và chỉ số cụ thể theo vị trí thực hiện nhiệm vụ như: năng lực chuyên môn, kỹ

năng thực hiện nhiệm vụ, mức độ hoàn thành nhiệm vụ được giao, thời gian hoàn

thành... Đồng thời, phải kết hợp đồng bộ giữa việc nhận xét, đánh giá cán bộ với

việc bình xét thi đua, khen thưởng, kỷ luật.

3.3.2.5. Hoàn thiện công tác khen thưởng, kỷ luật cán bộ

Khen thưởng, kỷ luật là nhằm tạo động lực để cán bộ phấn đấu hoàn thành

nhiệm vụ. Để động viên cán bộ phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ cần phải có các

hình thức khen thưởng kịp thời, xứng đáng với thành tích họ đã đạt được. Vì vậy

cần quy định cụ thể các hình thức khen thưởng tương ứng với thành tích đạt được

đối với những cán bộ, chiến sỹ lập thành tích xuất sắc đột xuất trong thực hiện

nhiệm vụ như Huân chương, Huy chương, Danh hiệu vinh dự nhà nước, Kỷ niệm

chương, Huy hiệu, bằng khen, Giấy khen, kèm theo đó là những phần thưởng vật

chất nhất định xứng đáng với sự cống hiến của cán bộ. Đồng thời, cán bộ được khen

92 thưởng do có thành tích và công trạng cần được xét nâng bậc lương trước thời hạn;

được ưu tiên khi xem xét quy hoạch, bồi dưỡng, đào tạo, bổ nhiệm giữ cương vị chỉ

huy các cấp. Việc khen thưởng kịp thời, xứng đáng không những có tác dụng biểu

dương cán bộ đã có thành tích, khuyến khích họ tiếp tục phấn đấu mà còn trở thành

động lực thúc đẩy những cán bộ khác noi gương, phấn đấu theo. Cần đưa công tác

thi đua khen thưởng vào nền nếp, thực chất, thực sự là một nguồn lực tinh thần

mạnh mẽ trong chính sách đãi ngộ cán bộ... chú trọng các hình thức khen thưởng,

khen thưởng kịp thời thoả đáng những cán bộ có thành tích, cống hiến xuất sắc để

động viên, khích lệ sự cống hiến của họ nhằm thúc đẩy cán bộ nâng cao hiệu quả

công tác. Tuy nhiên bên cạnh đó khắc phục “bệnh thành tích”, hình thức, lãng phí.

Bên cạnh các hình thức khen thưởng, cũng cần phải quy định rõ những chế tài

nghiêm khắc đối với cán bộ vi phạm kỷ luật có như vậy, biện pháp kỷ luật mới đạt

được mục đích là khuyến khích cán bộ tuân thủ pháp luật, ngăn ngừa việc xảy ra vi

phạm kỷ luật, một việc mà cả người cán bộ, CATP và nhân dân đều không mong

muốn, vì nếu xảy ra thì vừa phải xử lý cán bộ, vừa làm ảnh hưởng đến uy tín của

lực lượng CAND. Khi xử lý kỷ luật cán bộ cần phải chính xác, rõ ràng, minh bạch,

kết quả của một quyết định kỷ luật phải nghiêm minh, đủ sức răn đe, giáo dục và

phù hợp với quy định của pháp luật.

3.3.2.6. Tăng cường công tác kiểm tra nghiệp vụ đối với cán bộ kỹ thuật hình

sự

Thực tiễn những năm qua cho thấy, những hạn chế của cán bộ KTHS nếu

không được kiểm tra kịp thời sẽ tạo cơ hội cho những sai sót lớn hơn trong công tác

nghiệp vụ (một số vụ án oan, sai thời gian qua nguyên nhân một phần do công tác

khám nghiệm hiện trường ban đầu được tiến hành không đúng yêu cầu nghiệp vụ,

kết quả công tác giám định sai) dẫn đến mất uy tín của lực lượng CAND, mất lòng

tin của nhân dân đối với lực lượng CAND, uy tín của Đảng, của Nhà nước đối với

nhân dân bị giảm sút, nhiều trường hợp phải kỷ luật cho xuất ngũ. Vì vậy, công tác

quản lý, kiểm tra hoạt động của cán bộ KTHS, nhất là cán bộ KTHS cấp cơ sở phải

được tiến hành thường xuyên để chủ động phòng ngừa, không chờ khi cán bộ vi

phạm nghiêm trọng mới kiểm tra xử lý kỷ luật. Do vậy cần có những giải pháp cơ

bản sau:

Thứ nhất, cần có quy định cụ thể hơn về kiểm tra đối với cán bộ KTHS. Đó là

93 điều kiện bảo đảm cho cán bộ thực hiện nhiệm vụ một cách nghiêm chỉnh, đúng

pháp luật, đúng quy định của lực lượng CAND có hiệu quả cao. Thông qua các hoạt

động kiểm tra, hướng dẫn giúp cho cấp trên biết được cán bộ, chiến sỹ cấp dưới

thực hiện công việc được giao đến đâu, có đúng không, có gì sai sót không? Nếu có

sai phạm thì có chỉ đạo chấn chỉnh kịp thời. Đồng thời, thông qua đó còn có cơ sở

thực chất để xem xét, đánh giá được mệnh lệnh, chỉ đạo của mình có thực hiện được

hay không. Cũng qua kiểm tra giúp cho cán bộ, chiến sỹ thấy được ưu điểm, tồn tại

của mình để có hướng điều chỉnh cho đúng, không xảy ra những sai lầm.

Thứ hai, muốn thực hiện kiểm tra được, phải có những quy định cụ thể. Bộ

Công an cần ban hành văn bản quy định rõ về thẩm quyền và cơ chế bảo đảm thực

thi thẩm quyền kiểm tra của lực lượng KTHS cấp trên đối với lực lượng KTHS cấp

dưới; đồng thời phải có quy định rõ việc cán bộ phải chịu trách nhiệm về những sai

phạm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình.

Thứ ba, để bảo đảm hoạt động của cán bộ KTHS được đúng quy định pháp

luật và của lực lượng CAND, thực sự vì nhân dân phục vụ, rất cần thiết phải có

những quy định cụ thể về kiểm tra những hoạt động của cán bộ chiến sỹ, còn cần

phải có các quy định về kiểm tra, sát hạch thường xuyên và định kỳ đối với cán bộ;

kết quả đó phải được là cơ sở để xét nâng bậc lương, để quy hoạch, bố trí, bổ nhiệm

và xét hưởng các chế độ chính sách khác. Hoạt động thực thi nhiệm vụ của cán bộ

KTHS có liên quan chặt chẽ tới công tác đảm bảo ANCT, giữ gìn TTATXH trên địa

bàn Thủ đô, do đó trong thực tế rất dễ xảy ra tình trạng lạm quyền, hách dịch, bao

che, gây mất lòng tin của công dân đối với lực lượng CAND... Vì vậy, việc tăng

cường kiểm tra đối với hoạt động thực hiện nhiệm vụ của cán bộ KTHS là vô cùng

quan trọng. Bên cạnh đó cần xử lý, kỷ luật nghiêm những trường hợp vi phạm, để

lấy giữ vững uy tín của tổ chức, lấy đó làm gương răn đe; Tăng cường kiểm tra về

công tác tuyển dụng, quy hoạch, luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, bố trí, sử

dụng và thực hiện nhiệm vụ thực hiện nhiệm vụ của cán bộ.

3.3.2.7. Xây dựng, ban hành và thực hiện chế độ chính sách phù hợp đối với

cán bộ kỹ thuật hình sự

Hệ thống chính sách là công cụ điều tiết cực kỳ quan trọng trong lãnh đạo,

quản lý xã hội. Hệ thống chính sách có thể thúc đẩy, tạo động lực cho sự

phát triển, có thể là kìm hãm, triệt tiêu các động lực, cản trở sự phát triển của

94 một hoạt động nào đó. Trong công tác xây dựng cán bộ KTHS, hệ thống chính sách

đúng, hợp lý sẽ khuyến khích được tính tích cực, sự hăng hái, tâm huyết với công

việc nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, chiến sỹ, phát huy được tinh thần

sáng tạo, thu hút được các chuyên gia, làm cho nội bộ đoàn kết nhất trí,... Ngược lại,

chính sách cán bộ sai, bất hợp lý sẽ làm cán bộ không yên tâm công tác, kìm hãm sự

sáng tạo, triệt tiêu tính tích cực, nảy sinh nhiều tiêu cực, có thể đẩy cán bộ đến chỗ

sai phạm... Do đó, muốn nâng cao chất lượng cán bộ cần phải có giải pháp đổi mới,

xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách cán bộ. Việc đổi mới và hoàn thiện hệ

thống chính sách cán bộ trong thời kỳ mới phải đảm bảo yêu cầu cơ bản sau đây:

- Phải quán triệt, thể hiện được những quan điểm, chủ trương, chính sách của

Đảng và Nhà nước ta.

- Đảm bảo quyền lợi gắn liền với trách nhiệm, quyền lợi càng lớn, trách

nhiệm càng cao.

- Hệ thống chính sách phải đảm bảo công bằng, tránh cào bằng.

- Hệ thống chính sách cán bộ phải đảm bảo tính kích thích, khuyến

khích tài năng sáng tạo, có sức lôi cuốn, hấp dẫn để cán bộ, chiến sỹ thực sự tâm

huyết với nghề, phấn đấu vươn lên.

- Hệ thống chính sách cán bộ phải đảm bảo ý nghĩa việc nhiều mặt cả vật

chất, tinh thần, chính trị, xã hội và nhân đạo.

- Hệ thống chính sách cán bộ phải phù hợp với hoàn cảnh đất nước,

không thoát ly, xa rời điều kiện kinh tế của đất nước nói chung và Thủ đô Hà Nội

nói riêng, để CBCS lực lượng KTHS thực sự yên tâm công tác, chuyên tâm vào

thực hiện nhiệm vụ thì tiền lương phải là nguồn thu nhập chính, chủ yếu, đảm bảo

cho cán bộ đủ sống, có mức sống trên mức trung bình của xã hội. Việc cải cách tiền

lương còn phải nhằm kích thích sự phấn đấu vươn lên của cán bộ, làm cho cán bộ

luôn chăm lo tu dưỡng, rèn luyện, học tập nâng cao trình độ. Muốn vậy, cần điều

chỉnh hệ số thang, bậc lương, nới rộng khoảng cách thang bậc lương, gắn thang, bậc

lương với trình độ chuyên môn được đào tạo,...Hội nghị Trung ương 7 khóa XII đã

ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21/5/2018 về cải cách chính sách tiền

lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động

trong doanh nghiệp. Nghị quyết đã nêu, trong khu vực công, Nhà nước trả lương

cho cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang theo vị trí việc làm, chức

95 danh và chức vụ lãnh đạo, phù hợp với nguồn lực của Nhà nước và nguồn thu sự

nghiệp dịch vụ công, bảo đảm tương quan hợp lý với tiền lương trên thị trường lao

động; thực hiện chế độ đãi ngộ, khen thưởng xứng đáng theo năng suất lao động,

tạo động lực nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc, đạo đức công vụ, đạo đức

nghề nghiệp, góp phần làm trong sạch và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của

hệ thống chính trị.

3.3.2.8. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang bị phương tiện hiện đại cho lực lượng kỹ thuật hình sự

Tiếp tục đẩy mạnh công tác nghiên cứu ứng dụng, khoa học công nghệ, kỹ

thuật trong lĩnh vực KTHS. Tìm chọn các đề tài khoa học có tính ứng dụng thực

tiễn cao như: nghiên cứu thuốc thử phát hiện nhanh các chất ma túy; đề tài xây dựng

tàng thư gen tại CATP Hà Nội; đề tài về lĩnh vực giám định âm thanh; đặc biệt là

những nghiên cứu khoa học về lĩnh vực giám định mới “giám định kỹ thuật số và

điện tử, giám định hóa chất cấm trong vệ sinh an toàn thực phẩm’’…

Triển khai các dự án đầu tư trang bị phương tiện cho lực lượng KTHS, trang

bị, bổ sung đầy đủ các phương tiện chuyên dụng đáp ứng yêu cầu hoạt động KTHS

như: Xe ô tô khám nghiệm hiện trường chuyên dụng, máy ảnh nghiệp vụ chuyên

dụng, các hệ thống giám định phục vụ công tác giám định hóa học, sinh học, súng

đạn, tài liệu, đường vân…

Tập trung triển khai dự án “Hiện đại hoá công tác KTHS trong lực lượng

CAND giai đoạn 2015 – 2020’’ và dự án theo Đề án 250 của Chính phủ về “Đổi

mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp’’. Triển khai nghiên cứu đề

tài khoa học cấp thành phố “Xây dựng phần mềm lưu mẫu hình dấu, chữ ký phục vụ

công tác giám định tài liệu’’ và đề tài khoa học cấp Bộ “Nghiên cứu đề xuất phương

pháp vẽ sơ đồ hiện trường bằng kỹ thuật đồ họa 3D trên nền ảnh hiện trường vụ án

phục vụ công tác khám nghiệm hiện trường’’.

3.3.2.9. Tăng cường hợp tác quốc tế trong công tác kỹ thuật hình sự

Trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, nếu như vào các thập kỷ

trước, tội phạm mới chỉ dừng lại ở phạm vi hoạt động giữa các quốc gia láng giềng,

thì ngày nay tội phạm có tính quốc tế, đã mở rộng địa bàn hoạt động ra khắp nới

96 trên thế giới, tội phạm ngày nay đã mang tính toàn cầu, phương thức, thủ đoạn hoạt

động ngày càng tinh vi, xảo quyệt, lợi dụng tối đa các thành tựu khoa học, công

nghệ để hoạt động. Hậu quả do tội phạm quốc tế để lại là vô cùng to lớn đối với

từng quốc gia, cũng như trên phạm vi quốc tế, vì vậy, đấu tranh, phòng chống tội

phạm quốc tế, tội phạm có tính quốc tế không còn trong phạm vi mỗi quốc gia, mà

phải tiến hành đấu tranh trên phạm vi toàn cầu. Do vậy hợp tác quốc tế trong đấu

tranh phòng chống tội phạm trong đó có KTHS là một tất yếu khách quan.

Đối với lực lượng KTHS cần tập trung hợp tác quốc tế trong đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ KTHS và hợp tác trong nghiên cứu sử dụng, khai thác phương tiện

khoa học kỹ thuật và công nghệ trong hoạt động KTHS. Để nâng cao chất lượng

công tác hợp tác quốc tế về đào tạo cán bộ KTHS cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ

sau:

- Cần chủ động và duy trì các mối quan hệ quốc tế sâu rộng đến từng cá nhân,

CATP cần tập trung đẩy mạnh các chương trình đào tạo ngoại ngữ (chủ yếu là

Tiếng Anh) cho cán bộ KTHS, nhất là các đồng chí trẻ, có năng lực chuyên môn tốt.

Có cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ thời gian, kinh phí cho cán bộ lực lượng

KTHS tham gia các khóa học nâng cao trình độ ngoại ngữ.

- Tạo đột phá trong hợp tác quốc tế về đào tạo cán bộ, lãnh đạo Bộ Công an

cần cho chủ trương đầu tư kinh phí để chủ động hợp tác với các nước có trình độ

khoa học hình sự tiên tiến như: Đức, Nga, Mỹ, Úc, Hàn Quốc để đào tạo dài hạn

cho cán bộ KTHS. Có thể xây dựng các chương trình đào tạo chuyên gia chuẩn

quốc tế với thời gian từ 3 đến 6 tháng. Đào tạo sau đại học để xây dựng cán bộ

KTHS vừa có thực tiễn vừa có lý luận cao về công tác KTHS.

3.4. Kiến nghị

Ngoài các giải pháp trên, để thực hiện tốt công tác nâng cao chất lượng cán

bộ KTHS tác giả có một số kiến nghị như sau:

3.4.1. Đối với Bộ Công an

- Xác định rõ địa vị pháp lý của cán bộ kỹ thuật hình sự trong Bộ luật Tố tụng

hình sự.

- Sửa đổi, bổ sung thông tư quy định về công tác nhận xét, đánh giá cán bộ theo hướng quy định cụ thể cho từng lực lượng để đảm bảo khách quan, hiệu quả

trong đánh giá cán bộ hằng năm.

97

- Xây dựng và thực thi cơ chế bảo đảm sự công bằng, khách quan trong công

tác giám định.

- Xây dựng và tổ chức thực hiện cơ chế trưng cầu giám định theo nguyên tắc coi trọng yếu tố năng lực của các tổ chức chuyên môn và cá nhân nhà chuyên môn

khi lựa chọn trưng cầu giám định.

- Xây dựng cơ chế đánh giá, sử dụng kết luận giám định tư pháp của các cơ

quan tiến hành tố tụng.

- Bộ Công an phối hợp với Bộ Tư pháp sớm ban hành Quy chế phối hợp giữa ngành tư pháp với ngành Công an trong quản lý giám định KTHS và pháp y trong lực lượng CAND; Quy chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý hoạt động giám định tư pháp với CQĐT trong hoạt động giám định tư pháp.

- Tiếp tục nghiên cứu bổ sung hoàn thiện các phương pháp thu thập, bảo quản, dấu vết, giám định mới để tổng kết và đưa vào giáo trình giảng dạy trong các trường CAND.

- Tăng cường biên chế cho lực lượng KTHS bằng các nguồn cán bộ được đào tạo trong ngành công an và tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp các trường Đại học ngoài CAND có chuyên ngành phù hợp với các lĩnh vực giám định. Đối với một số lĩnh vực giám định các trường Công an chưa đào tạo như: Giám định hoá học, sinh học và đặc biệt là lĩnh vực giám định pháp y cần có cơ chế đặc thù để thu hút, tuyển dụng được cán bộ, nhất là những cán bộ giỏi.

- Bộ Công an tập trung xây dựng Học viện Cảnh sát nhân dân thành trường

trọng điểm quốc gia trong thời gian tới. Học viện cần tiếp tục đổi mới nội dung và phương pháp đào tạo nguồn nhân lực KTHS cho lực lượng CAND. Để đạt được điều này cần phải có sự quan tâm sâu sát, chỉ đạo quyết liệt của lãnh đạo Bộ Công an, Ban Giám đốc Học viện, lãnh đạo Viện Khoa học hình sự nhằm tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế, chính sách, cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên chuyên ngành.

- Với đặc thù công tác giám định KTHS và pháp y, để có được một giám định viên giỏi, ngoài việc đào tạo cơ bản chính quy, đúng chuyên ngành, người giám định viên phải trải qua nhiều năm công tác thực tiễn mới đúc rút được kinh nghiệm, đủ độ chín cả về năng lực và phẩm chất đạo đức. Trong khi đó theo quy định của Luật CAND, tuổi nghỉ hưu của CBCS Công an nói chung là: Nam: 55 tuổi, Nữ: 53 tuổi (trong đó có giám định viên). Như vậy là chưa tận dụng hết khả năng của những giám định viên giỏi, có trình độ, mất nhiều công bồi dưỡng, đào tạo. Trong khi còn rất thiếu giám định viên giỏi ở nhiều lĩnh vực, chuyên ngành giám

98 định. Vậy đề nghị Bộ Công an bổ nhiệm chức danh giám định viên tư pháp cao cấp và cho phép kéo dài tuổi nghỉ hưu: Nam 58 tuổi; Nữ 55 tuổi là phù hợp.

- Có kế hoạch tổng thể và lâu dài trong trang bị và đổi mới các phương tiện nghiệp vụ giám định tư pháp. Thường xuyên tăng cường trang bị phương tiện hiện

đại cho lực lượng KTHS để đáp ứng yêu cầu giám định ngày một gia tăng và phức tạp.

- Đề nghị Bộ Công an tăng chế độ phụ cấp đặc thù cho lực lượng KTHS từ

10% như hiện nay lên 20% để động viên cán bộ yên tâm công tác.

3.4.2. Đối với Viện khoa học hình sự Bộ Công an

- Xây dựng chỉ tiêu thống kê và tổ chức thực hiện thống kê, đánh giá số lượng, chất lượng hoạt động giám định tư pháp trong hoạt động điều tra; thực hiện thống kê, dự báo nhu cầu giám định của hoạt động điều tra trong lực lượng CAND.

- Thường xuyên mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên

môn nghiệp vụ cho cán bộ khám nghiệm hiện trường và giám định KTHS.

- Có kế hoạch tổng thể và lâu dài trang bị phương tiện hiện đại cho lực lượng

KTHS.

- Sớm hướng dẫn các địa phương việc khám nghiệm thu thập và giám định chứng cứ điện tử để phục vụ công tác đấu tranh chống tội phạm sử dụng công nghệ cao.

- Phối hợp với các đơn vị chức năng, sớm tham mưu cho lãnh đạo Bộ Công an ban hành văn bản quy định về hướng dẫn bổ nhiệm các chức danh giám định viên: Cao cấp, trung cấp, sơ cấp và độ tuổi làm việc của giám định viên cao cấp.

- Thành lập phòng Khám nghiệm hiện trường tại Viện Khoa học hình sự Bộ

Công an.

3.4.3. Đối với Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội

Quan tâm chỉ đạo Sở Tư pháp tăng cường công tác bồi dưỡng pháp luật về

công tác giám định tư pháp trên địa bàn thành phố.

Hỗ trợ kinh phí để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm các trang thiết bị

hiện đại phục vụ công tác công tác kỹ thuật hình sự CATP Hà Nội.

3.4.4. Đối với Công an thành phố

- Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng và có giải pháp động viên CBCS yên tâm công tác. Làm tốt công tác quản lý cán bộ, chủ động sớm phát hiện

và phòng ngừa sai phạm trong CBCS.

99

- Tập trung đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ, kỹ năng nghề

nghiệp cho cán bộ KTHS.

- Làm tốt công tác quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ, nhất là cán bộ trẻ, có năng

lực công tác tốt.

- Quan tâm đầu tư cơ sở vật chất và phương tiện hiện đại cho lực lượng

KTHS.

- Tiếp tục thành lập các Đội KTHS ở CA các quận, huyện, thị xã trên địa bàn

thành phố xảy ra trên 100 vụ việc/năm.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Từ thực tiễn cán bộ KTHS Công an thành phố Hà Nội và để đáp ứng yêu cầu

của chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị, của sự nghiệp đảm

bảo ANCT, giữ gìn TTATXH và yêu cầu ngày càng cao của công cuộc phát triển

100 kinh tế, xã hội trên địa bàn Thủ đô, việc nâng cao chất lượng cán bộ KTHS là một

trong những vấn đề rất quan trọng. Từ những thực trạng đã phân tích tại chương II,

tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cán bộ KTHS Công

an thành phố Hà Nội. Các giải pháp được tác giả đưa ra gồm nhóm giải pháp chung

và giải pháp pháp cụ thể. Trong đó tập trung vào một số giải pháp như: Đổi mới

công tác tuyển dụng, sử dụng đánh giá cán bộ; nâng cao trình độ, chuyên môn

nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp, phẩm chất chính trị, đạo đức và một số giải pháp

khác nhằm hoàn thiện hệ thống tổ chức KTHS, tăng cường trang bị phương tiện và

hợp tác quốc tế trong đào tạo cán bộ và chuyển giao công nghệ.

Các giải pháp này có mối liên hệ mật thiết với nhau tạo thành một hệ thống

giải pháp không thể tách rời. Do đó trong tổ chức thực hiện phải tiến hành đồng bộ

và có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan cấp Bộ và các đơn vị trong CATP Hà

Nội, tạo nên sự nhất quán. Nâng cao chất lượng cán bộ KTHS Công an thành phố

Hà Nội là một vấn đề lớn, việc thực hiện phải có thời gian và kế hoạch, chủ trương

và sự phối hợp của nhiều cơ quan, đơn vị. Do vậy, để thực hiện được các giải pháp

trên, tác giả đã có đưa ra một số kiến nghị đối với Bộ Công an, Viện Khoa học hình

sự, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Công an thành phố. Những kiến nghị này

có thể là căn cứ để hiện thực hóa các giải pháp đã nêu, góp phần nâng cao chất

lượng cán bộ KTHS Công an thành phố Hà Nội, từ đó nâng cao hiệu quả công tác

quản lý nhà nước về an ninh trật tự tại cấp cơ sở, tạo môi trường an toàn, an ninh

phục vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của Thủ đô.

KẾT LUẬN

Qua chặng đường hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, lực

lượng Công an nhân dân luôn nỗ lực, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đảm

bảo an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Trong quá trình đó, lực lượng kỹ

thuật hình sự đã không ngừng lớn mạnh và phát triển ngày càng tiến lên chính quy,

hiện đại, có đóng góp đáng kể vào công tác đảm bảo an ninh trật tự trong tình hình

hiện nay.

Nghiên cứu về nâng cao chất lượng cán bộ để có giải pháp nâng cao chất

lượng cán bộ trong tình hình hiện nay là một vấn đề khá phức tạp, đòi hỏi các nhà

lãnh đạo, quản lý phải biết kết hợp các phương pháp một cách khoa học và nghệ

101

thuật.

Thông qua việc nghiên cứu, luận văn tác giả đã làm rõ cơ sở lý luận về chất

lượng cán bộ kỹ thuật hình sự, đưa ra 5 tiêu chí đánh giá chất lượng cán bộ kỹ thuật

hình sự, kinh nghiệm của một số đơn vị về nâng cao chất lượng cán bộ kỹ thuật

hình sự. Trên cơ sở đó, tác giả đã đi vào phân tích thực trạng chất lượng cán bộ kỹ

thuật hình sự, trong đó làm rõ hệ thống tổ chức của lực lượng kỹ thuật hình sự Công

an thành phố Hà Nội, cơ cấu, số lượng, giới tính, độ tuổi; đi sâu phân tích chất

lượng cán bộ kỹ thuật hình sự trên 5 tiêu chí về: trình độ; kỹ năng nghề nghiệp;

phẩm chất chính trị, đạo đức, tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật; thể lực;

kết quả nhận xét, đánh giá cán bộ. Từ những phân tích về thực trạng chất lượng cán

bộ kỹ thuật hình sự tác giả đã chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của

những hạn về chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội. Trên

cơ sở phân tích những hạn chế và nguyên nhân, tác giả đã đưa ra những giải pháp

nâng cao chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự gồm nhóm giải pháp chung và các

nhóm giải pháp cụ thể để nâng cao chất lượng cán bộ kỹ thuật hình sự Công an

thành phố Hà Nội.

Đây là công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên về chất lượng cán bộ kỹ thuật

hình sự Công an thành phố Hà Nội với những nhóm giải pháp chung và nhóm giải

pháp cụ thể, phù hợp với đặc điểm, tình hình công tác đảm bảo an ninh chính trị,

giữ gìn trật tự an toàn xã hội trên địa bàn Thủ đô.

Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn, tác giả đã dành nhiều

thời gian và công sức để nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề nâng cao chất lượng cán bộ

kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội. Tuy nhiên do trình độ, năng lực, kinh

nghiệm của tác giả còn hạn chế...nên việc thu thập xử lý thông tin còn gặp nhiều

khó khăn, bởi vậy kết quả nghiên cứu còn nhiều thiếu sót và chưa đầy đủ. Tác giả

kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo, các nhà quản lý, các

nhà khoa học và bạn bè đồng nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn.

102

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Ban Chấp hành Trung ương (2005), Nghị quyết 49 –NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ

Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

2. Bộ Công an (2009), Thông tư 30/2009/TT-BCA ngày 20/5/2009 quy định tuyển chọn

công dân vào CAND.

3. Bộ Công an (2009), Thông tư 20/2009/TT-BCA ngày 10/4/2009 quy định về thẩm tra lý

lịch trong CAND.

4. Bộ Công an (2007), Quyết định 1275/2007/QĐ-BCA(X18) ngày 26/10/2007 quy định

tiêu chuẩn về chính trị của cán bộ, chiến sỹ CAND.

5. Bộ Công an (2008), Thông tư 35/2008/TT-BCA ngày 9/12/2008 quy định tiêu chuẩn

chức danh cán bộ lãnh đạo, chỉ huy của CAND.

6. Bộ Công an (2004), Thông tư 06/2011/TT-BCA ngày 14/01/2011 của Bộ Công an quy

định nhận xét, đánh giá sỹ quan, hạ sỹ quan, chiến sỹ, công nhân, viên chức CAND.

7. Bộ Công an (2010), Quyết định 10957/QĐ-X11 ngày 24/12/2010 quy định chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh, thành phố trực

thuộc Trung ương.

8. Bộ Công an (2006), Chỉ thị số 07/2006/CT-BCA ngày 22/8/2006 về tăng cường công tác

kỹ thuật hình sự trong tình hình mới.

9. Bộ Công an (2009), Chỉ thị số 03/CT-BCA ngày 10/4/2009 về xây dựng toàn diện Công

an cấp huyện đáp ứng nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự trong tình hình mới.

10. Bộ Công an (2013), Thông tư số 24/2013/TT/BCA ngày 11/4/2013 quy định tiêu chuẩn

rèn luyện thể lực trong CAND.

11. Bộ Công an (2008), Quyết định số 994/2008/QĐ-BCA ngày 30/7/2008 về Thành lập

Đội (hoặc Tổ Kỹ thuật hình sự) công an cấp huyện.

12. Hoàng Anh (2018),Chất lượng công chức cấp xã huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội,

Luận văn thạc sỹ Quản lý công, Học viện hành chính Quốc gia.

13. Bộ Nội vụ, Học viện hành chính quốc gia (2015), Giáo trình Quản lý công, Nxb. Bách

khoa Hà Nội.

14. Công an thành phố Hà Nội (1994), Quy định chức danh, tiêu chuẩn cán bộ Phòng Kỹ

thuật hình sự.

15. Công an thành phố Hà Nội (2012), Quyết định 493/QĐ-CAHN(PX13) ngày 15/2/2012

về tổ chức bộ máy của Phòng Kỹ thuật hình sự CATP Hà Nội.

16. Công an thành phố Hà Nội (2008), Quyết định 2665/QĐ-CAHN(PX13) ngày

27/1/12008 về thành lập Tổ kỹ thuật hình sự thuộc công an quận, huyện, thị xã.

17. Công an thành phố Hà Nội (2011), Kế hoạch 2052/KH-CAHN(PX13) ngày 12/7/2011

về Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng lực lượng Công an Thủ đô giai đoạn 2011-2015.

18. Công an thành phố Hà Nội (2013 – 2017), Kết quả khám sức khỏe của cán bộ, chiến sỹ

lực lượng Kỹ thuật hình sự.

19. Nguyễn Tiến Dũng (2018), Năng lực viên chức đài phát thanh và truyền hình tỉnh Lạng

Sơn, Luận văn thạc sỹ Quản lý công, Học viện hành chính Quốc gia.

20. Vũ Đức Đán (2002), Vấn đề đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở, Tạp

chí quản lý nhà nước số 5/2002.

21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb.

Sự thật.

22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.

Chính trị Quốc gia.

23. Nguyễn Hữu Hải (2015), Quản lý học đại cương, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật.

24. Học viện Cảnh sát nhân dân (2014), Giáo trình Kỹ thuật hình sự.

25. Học viện Hành chính Quốc gia (2002), Hành chính công, Nxb Đại học Quốc gia.

103

26. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5 (2004), Nxb. Chính trị Quốc Gia.

27. Lê Trung Kiên (2016), Xây dựng lực lượng Công an nhân dân Việt Nam hiện nay về

chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Luận án tiến sỹ chính trị học, Đại học Quốc gia Hà Nội.

28. Hồ Chí Minh (1974), Về vấn đề cán bộ, Nxb Sự thật, Hà Nội

29. Quốc hội Việt Nam (2013), Luật Công an nhân dân năm 2014.

30. Quốc hội Việt Nam (2013), Luật Giám định tư pháp năm 2013.

31. Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (2001), Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất

lượng đội ngũ cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb. Chính trị,

Quốc gia, Hà Nội.

32. Hoàng Phê (2001), Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng.

33. Thang Văn Phúc và Nguyễn Minh Phương (2004), Xây dựng đội ngũ cán bộ, công

chức đáp ứng đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, Nxb

Chính trị quốc gia.

34. Phòng Kỹ thuật hình sự CATP Hà Nội (2013 -2017), Báo cáo tổng kết công tác kỹ

thuật hình sự.

35. Phòng Tổ chức cán bộ CATP Hà Nội (2013 – 2017), Báo cáo tình hình tổ chức biên

chế và kết quả nhận xét đánh giá cán bộ lực lượng Kỹ thuật hình sự.

36. Phòng Công tác chính trị CATP Hà Nội (2013 – 2017), Kết quả công tác bình xét thi

đua và kiểm tra tiêu chuẩn rèn luyện thể lực của cán bộ, chiến sỹ lực lượng Kỹ thuật hình sự.

37. Thành ủy Hà Nội (2015), Báo cáo chính trị của BCH Đảng bộ thành phố Hà Nội lần

thứ XVI nhiệm kỳ 2015 – 2020.

38. Hoàng Tiến Tài (2016), Đào tạo, bồi dưỡng chức danh chủ tịch UBND phường thuộc

quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội, Luận văn thạc sỹ Quản lý công, Học viện hành chính Quốc gia.

39. Lê Như Thọ (2013), Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng công chức đáp ứng yêu

cầu hội nhập quốc tế từ thực tiễn Cục quản trị tài vụ, Bộ Ngoại giao, Luận văn thạc sỹ Quản lý

hành chính công, Học viện hành chính Quốc gia.

40. Đặng Văn Tiến (2007), Tiếp tục đổi mới tổ chức bộ máy Nhà nước và xây dựng đội

ngũ cán bộ công chức trong tình hình hiện nay, Tạp chí Cộng sản số 22, năm 2007; Để nâng cao

chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, Tạp chí Cộng sản số 22, năm 2008.

41. Ngô Hữu Tưởng (2018), Chất lượng công chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND

huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai, Luận văn thạc sỹ Quản lý công’’, Học viện hành chính Quốc gia.

104

42. Văn phòng Trung ương Đảng (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII.

43. Viện Khoa học hình sự, Bộ Công an (2015), Thông tin Kỹ thuật hình sự, số 3.

105