ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ––––––––––––––––––––
PHÙNG VĂN VỮNG
CHẾ TẠO VÀ NGHIÊN CỨU TÍNH CHẤT QUANG
CỦA CÁC HẠT NANO TRONG MÔI TRƯỜNG NƯỚC/CITRATE
TRÊN CƠ SỞ CÁC CHẤT BÁN DẪN CdSe VÀ CdS
Chuyên ngành: Vật lý chất rắn LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC VẬT CHẤT
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Chu Việt Hà
Thái Nguyên- Năm 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi, các số và tài liệu trích dẫn có
nguồn gốc rõ ràng. Kết quả trong luận văn chưa được công bố trong bất cứ công trình nghiên
cứu khoa học nào khác, nếu có gì sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2017
Tác giả luận văn
Phùng Văn Vững
Xác nhận
Xác nhận
của trưởng khoa chuyên môn
của người hướng dẫn khoa học
PGS.TS. Chu Việt Hà
i
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới cô giáo PGS.TS Chu Việt Hà và cô giáo
PGS.TS Vũ Thị Kim Liên đã tận tình hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi trong suốt
quá trình thực hiện luận văn này. Em xin gửi lời cảm ơn tới Ban Giám Hiệu nhà trường, Ban chủ nhiệm khoa Vật
lý – Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi giúp em hoàn
thành luận văn này. Tôi xin cảm ơn học viên Ngô Văn Hoàng đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá
trình thực hiện luận văn này. Thái Nguyên, tháng 02 năm 2017
Học viên
Phùng Văn Vững
ii
MỤC LỤC
Trang bìa phụ
Lời cam đoan .......................................................................................................... i
Lời cảm ơn............................................................................................................. ii
Mục lục ................................................................................................................. iii
Danh mục bảng ..................................................................................................... iv
Danh mục hình ...................................................................................................... v
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài .......................................................................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu .................................................................................................... 5
3. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................. 5
4. Nội dung nghiên cứu ................................................................................................... 5
Chương 1. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ CÁC VẪN ĐỀ LIÊN QUAN ............. 6
1.1. Các mức năng lượng của hạt tải trong hạt nano chấm lượng tử ............................... 7
1.1.1. Sự giam giữ lượng tử ............................................................................................. 7
1.1.2. Các mức năng lượng của hạt tải trong chấm lượng tử .......................................... 9
1.2. Các tính chất quang lý của các hạt nano chấm lượng tử ........................................ 13
1.2.1. Phổ hấp thụ của các chấm lượng tử ..................................................................... 13
1.2.2. Phổ huỳnh quang của các chấm lượng tử ............................................................ 14
1.2.3. Thời gian sống phát quang, hiệu suất lượng tử và độ bền quang của các chấm
lượng tử ........................................................................................................................ 15
1.2.4. Sự nhấp nháy của các chấm lượng tử .................................................................. 16
1.3. Độ độc hại của các chấm lượng tử ........................................................................ 17
1.4. Một số phương pháp chế tạo các hạt nano bán dẫn .............................................. 18
1.4.1 Phương pháp sol- gel ............................................................................................ 18
1.4.2. Nano tinh thể trong zeolite, màng thủy tinh, bán dẫn composite. ......................... 19
1.4.3. Các nano tinh thể chế tạo trong dung dịch hữu cơ và polyme (hay các nano tinh
thể chế tạo bằng phương pháp hóa ướt) .......................................................................... 19
1.4.4. Chế tạo các hạt nano bán dẫn phân tán trong môi trường nước ............................ 22
Chương 2. THỰC NGHIỆM ...................................................................................... 25
2.1. Thực nghiệm chế tạo các mẫu hạt nano bán dẫn trong môi trường nước/citrate ... 26
iii
2.1.1. Chế tạo các chấm lượng tử CdSe/CdS ................................................................ 26
2.1.2 Chế tạo các chấm lượng tử CdS/ZnS .................................................................... 29
2.2. Các phương pháp khảo sát tính chất của mẫu. ....................................................... 30
2.2.1. Kính hiển vi điện tử truyền qua ........................................................................... 30
2.2.1. Phép đo phổ hấp thụ ............................................................................................ 32
2.2.3. Phép đo phổ huỳnh quang ................................................................................... 34
Chương 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN .................................................................. 37
3.1. Kết quả chế tạo và các tính chất của các hạt nano chấm lượng tử CdSe/CdS ...... 37
3.1.1. Kết quả chế tạo các hạt nano chấm lượng tử CdSe/CdS ..................................... 37
3.1.2. Phổ hấp thụ của các chấm lượng tử CdSe, CdSe/CdS và đánh giá kích thước của
các chấm lượng tử CdSe qua phổ hấp thụ ..................................................................... 38
3.1.3. Phổ huỳnh quang của các chấm lượng tử CdSe và CdSe/CdS ............................ 42
3.1.4. Khảo sát độ bền quang của các hạt nano CdSe/CdS ........................................... 48
3.2. Kết quả chế tạo và các tính chất của các hạt nano chấm lượng tử CdS/ZnS ........ 49
3.2.1. Kết quả chế tạo các hạt nano chấm lượng tử CdS/ZnS ....................................... 49
3.2.2. Phổ hấp thụ của các chấm lượng tử CdS và CdS/ZnS ........................................ 49
3.2.2. Phổ huỳnh quang của các chấm lượng tử CdS và CdS/ZnS ............................... 51
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 55
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 56
iv
DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1 Lượng hóa chất tương ứng chế tạo các hạt nano CdSe/CdS theo tỷ lệ w ...... 28
Bảng 2.2. Lượng hóa chất ứng chế tạo các hạt nano CdS/ZnS ..................................... 30
Bảng 3.1. Bán kính lõi CdSe theo thời gian nuôi mẫu .................................................. 40
Bảng 3.2. Bán kính lõi CdSe của các chấm lượng tử CdSe/CdS với các tỉ lệ w khác
nhau ............................................................................................................................ 41
Bảng 3.3. Phát xạ huỳnh quang của các chấm lượng tử CdSe/CdS với các tỉ lệ w khác
nhau ............................................................................................................................ 46
Bảng 3.4. Bán kính lõi CdS của các chấm lượng tử CdS/ZnS với các tỉ lệ w khác nhau ........ 51
iv v
DANH MỤC HÌNH Hình 1.1. Exciton trong bán dẫn [23] ............................................................................... 8
Hình 1.2. Mô tả hộp thế cầu có bờ thế vô hạn .................................................................. 9
Hình 1.3. Các chuyển dời quang cho phép giữa các trạng thái của điện tử và lỗ trống
được lượng tử hóa trong trường hợp khử suy biến [2, 5] ............................................... 13
Hình 1.4. Các chuyển dời quang được phép trong chấm lượng tử bán dẫn theo mô
hình cặp điện tử - lỗ trống [2, 5] ..................................................................................... 13
Hình 1.5. Phổ hấp thụ của các chấm lượng tử CdS, CdSe và CdTe ở cùng kích thước
~3 nm [6]. ....................................................................................................................... 14
Hình 1.6. Phổ hấp thụ của các chấm lượng tử CdSe với các kích thước khác nhau từ
1,2 nm (12 Å) đến 11,5 nm (115 Å) [6]. ........................................................................ 14
Hình 1.7. Minh họa sự phát xạ của các chấm lượng tử CdSe phụ thuộc vào kích thước
hạt[21]. ............................................................................................................................ 15
Hình 1.8. Chấm lượng tử có cấu trúc lõi-vỏ và minh họa cấu trúc vùng năng lượng
trong chấm lượng tử cấu trúc lõi- vỏ .............................................................................. 16
Hình 1.9. Sơ đồ minh họa 1 Micelle.............................................................................. 22
Hình 1.10. Mô hình chấm lượng tử cho các ứng dụng đánh dấu sinh học [24] ............. 23
Hình 1.11. Giản đồ trình bày các phương pháp chung để thay đổi bề mặt chấm lượng tử
được bảo vệ bởi các phân tử TOPO [25] ......................................................................... 24
Hình 1.12. Phổ hấp thụ và huỳnh quang của các hạt nano chấm lượng tử CdSe/CdS chế tạo
trực tiếp trong môi trường nước sử dụng citrate để điều khiển kích thước [19] ...................... 25
Hình 2.1. Phân tử Trirodium Citrate .............................................................................. 26
Hình 2.2. Mô hình chấm lượng tử mong muốn chế tạo trong môi trường nước/citrate . 26
Hình 2.3 Sơ đồ chế tạo hạt nano CdSe trong nước ........................................................ 28
Hình 2.4. Sơ đồ chế tạo các hạt nano CdSe/CdS trong nước ......................................... 28
Hình 2.5. Sơ đồ quy trình chế tạo các hạt nano CdS/ZnS .............................................. 30
Hình 2.6. Sơ đồ khối kính hiển vi điện tử truyền qua TEM ........................................... 31
Hình 2.7. Ảnh chụp kính hiển vi điện tử truyền qua JEM1010(JEOL) ......................... 31
Hình 2.8. Sơ đồ hệ đo hấp thụ quang UV-Vis ................................................................ 33
Hình 2.9. Sơ đồ chuyển dời quang học của các phân tử chất phát quang ...................... 34
Hình 2.10. Sơ đồ khối của phép đo quang huỳnh quang. ............................................... 35
Hình 2.11. Cấu hình hệ đo huỳnh quang ........................................................................ 36
Hình 2.12. Ảnh chụp hệ đo huỳnh quang nhãn hiệu FS 920 tại phòng thí nghiệm
Quang học và Quang phổ – Khoa vật lí, Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên ..... 36
v vi
Hình 3.1. Ảnh chụp các mẫu dung dịch chấm lượng tử CdSe/CdS dưới ánh sáng đèn
tử ngoại phát xạ các màu từ phải sang trái là từ màu đỏ - cam đến xanh dương tương
ứng với các giá trị w giảm dần là 5; 3; 2,5; 2, 1,5, và 1 ................................................ 37
Hình 3.2. Ảnh TEM của một mẫu chấm lượng tử CdSe/CdS w = 2 .............................. 37
Hình 3.3. Phổ hấp thụ của các chấm lượng tử CdSe và CdSe/CdS với cùng một kích
thước lõi CdSe được chế tạo với tỷ lệ w = 1 .................................................................. 38
Hình 3.4. Phổ hấp thụ của các chấm lượng tử CdSe và CdSe/CdS với cùng một kích
thước lõi CdSe được chế tạo với tỷ lệ w = 2 .................................................................. 38
Hình 3.5. Phổ hấp thụ của các hạt nano CdSe được chế tạo với tỷ lệ w = 1 và thời gian
nuôi mẫu khác nhau ........................................................................................................ 39
Hình 3.6. Phổ hấp thụ của các chấm lượng tử CdSe/CdS với tỷ lệ w khác nhau ......... 41
Hình 3.7. Đồ thị sự phụ thuộc của độ rộng vùng cấm và bán kính của các hạt nano
CdSe vào nồng độ chất bẫy citrate ................................................................................. 42
Hình 3.8. Phổ huỳnh quang của các chấm lượng tử CdSe và CdSe/CdS với cùng một
lõi CdSe được chế tạo với tỷ lệ w = 1 ............................................................................ 43
Hình 3.9. Phổ huỳnh quang của các chấm lượng tử CdSe và CdSe/CdS với cùng một
lõi CdSe được chế tạo với tỷ lệ w = 2 ............................................................................ 43
Hình 3.10. Phổ huỳnh quang của các hạt nano CdSe được chế tạo với tỷ lệ w = 1 và
thời gian nuôi mẫu khác nhau ......................................................................................... 44
Hình 3.11. Phổ huỳnh quang chuẩn hóa của các hạt nano CdSe được chế tạo với tỷ lệ
w = 1 và thời gian nuôi mẫu khác nhau .......................................................................... 44
Hình 3.12. Phổ huỳnh quang của các chấm lượng tử CdSe/CdS với các tỷ lệ w là 1;
1,5; 2; 2.5; 3 và 5 dưới bước sóng kích thích 480 nm ở nhiệt độ phòng ........................ 45
Hình 3.13. Phổ huỳnh quang chuẩn hóa của các chấm lượng tử CdSe/CdS với các tỷ
lệ w là 1; 1,5; 2; 2.5; 3 và 5 dưới bước sóng kích thích 480 nm ở nhiệt độ phòng ........ 46
Hình 3.14. Đồ thị sự phụ thuộc của bước sóng của cực đại phát xạ huỳnh quang và
bán kính của các hạt nano CdSe vào nồng độ chất bẫy citrate ....................................... 47
Hình 3.15. Phổ huỳnh quang của các hạt nano CdSe/CdS được chế tạo với tỷ lệ w = 1,
thời gian nuôi lõi CdSe là 9 giờ và thời gian nuôi vỏ CdS khác nhau ........................... 47
Hình 3.16. Sự phụ thuộc của cường độ huỳnh quang vào thời gian chiếu ánh sáng kích
thích của các hạt nano CdSe/CdS ................................................................................... 48
Hình 3.17. Ảnh chụp các mẫu dung dịch chấm lượng tử CdSe/CdS dưới ánh sáng đèn
tử ngoại phát xạ các màu xanh tương ứng với w=2 và w=5 .......................................... 49
Hình 3.18. Ảnh TEM của một mẫu chấm lượng tử CdS/ZnS w = 5 .............................. 49
Hình 3.19. Phổ hấp thụ của hạt nano CdS/ZnS được chế tạo với tỉ lệ w=2 ................... 50
Hình 3.20. Phổ hấp thụ của hạt nano CdS/ZnS được chế tạo với tỉ lệ w=5 ................... 50
vii
Hình 3.21. Phổ hấp thụ của các hạt nano CdS được chế tạo với tỉ lệ w=2 .................... 52
Hình 3.22. Phổ huỳnh quang của các hạt nano CdS/ZnS được chế tạo với tỉ lệ w=2 .... 52
Hình 3.23. Phổ hấp thụ của các hạt nano CdS được chế tạo với tỉ lệ w=5 .................... 53
Hình 3.24. Phổ huỳnh quang của các hạt nano CdS/ZnS được chế tạo với tỉ lệ w=5 .... 53
Hình 3.25. Phổ huỳnh quang chuẩn hóa của các hạt nano CdS được chế tạo với tỷ lệ w
= 2 và w = 5 .................................................................................................................... 54
Hình 3.26. Phổ huỳnh quang chuẩn hóa của các hạt nano CdS/ZnS được chế tạo với tỷ
lệ w = 2 và w = 5 ............................................................................................................ 54
viii
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Các chất đánh dấu huỳnh quang có vai trò vô cùng quan trọng trong việc nghiên
cứu những quá trình sinh học, đặc biệt những quá trình xảy ra ở bên trong tế bào, các
quá trình phức tạp ở mức độ phân tử mà nếu không có các chất đánh dấu huỳnh quang
thì không có cách nào để theo dõi. Bằng cách gắn các chất đánh dấu huỳnh quang vào
protein và các đối tượng sinh học, dựa trên sự quan sát ánh sáng do chúng phát ra, có
thể hiểu được chức năng và sự chuyển hoá của từng loại protein trong cơ thể cũng như
các quá trình sinh học khác, phục vụ cho những nghiên cứu cơ bản về cơ thể sống.
Các chất đánh dấu huỳnh quang trước đây thường được sử dụng là các chất
màu hữu cơ, tuy nhiên chúng có nhược điểm là độ bền quang hóa không cao, phổ
hấp thụ hẹp nên không thể sử dụng các kích thích đa kênh, hơn nữa phổ phát quang
rộng cho độ sắc nét của ảnh huỳnh quang không cao. Hiện nay, một trong các vật
liệu nano quang là các hạt nano bán dẫn hay các chấm lượng tử đang tạo thành một
loại chất đánh dấu huỳnh quang mang nhiều tính chất ưu việt do chúng có độ chói
và độ bền quang cao gấp nhiều lần so với các chất màu hữu cơ. Hơn nữa tính chất
quang của các hạt nano chấm lượng tử có thể được điều khiển theo kích thước và
thành phần hoá học nên không khó để tạo ra các chất đánh dấu huỳnh quang với
màu phát xạ như mong muốn [1-11].
Các chấm lượng tử đang được sử dụng và nghiên cứu làm chất đánh dấu
huỳnh quang chủ yếu dựa trên cơ sở các chất bán dẫn CdS, CdSe, hoặc CdTe…[12-
23] vì huỳnh quang của các chất này nằm trong vùng nhìn thấy. Việc sử dụng các
chấm lượng tử thương phẩm ở nước ta vẫn có nhiều khó khăn do giá thành cao,
hoặc do khâu bảo quản trong khi vận chuyển nên các chấm lượng tử được nhập về
thường có chất lượng không tốt. Do đó, việc chế tạo và nghiên cứu các tính chất
quang của các hạt nano chấm lượng tử cho ứng dụng đánh dấu huỳnh quang ở Việt
nam vẫn rất cần thiết.
Các phương pháp chế tạo các chấm lượng tử phổ biến trên thế giới hiện nay
là các phương pháp hóa học thường sử dụng tiền chất hữu cơ – kim loại có độ độc
hại cao, và đòi hỏi phải tiêu tốn một khoản chi phí cao cho hoá chất, điều kiện và
1
các dụng cụ chế tạo đòi hỏi khắt khe. Mặt khác, chấm lượng tử có bản chất vô cơ, vì
vậy muốn sử dụng chúng làm chất đánh dấu sinh học thì phải phân tán được chúng
trong môi trường nước và tạo được lớp tương thích sinh học trên bề mặt. Để phân
tán lại các chấm lượng tử vào môi trường nước bằng cách thay đổi các nhóm chức
trên bề mặt thì cần thêm hẳn một quy trình phức tạp và các thuốc thử đắt tiền, thế
nên, việc nghiên cứu chế tạo chấm lượng tử phân tán trong nước vẫn đang tiếp tục
được nghiên cứu.
Tất cả các phương thức thay đổi bề mặt chấm lượng tử làm tăng cường khả
năng tương thích của chúng với các xét nghiệm sinh học cần phải được tiếp tục để nâng
cao hơn nữa khả năng ứng dụng của chấm lượng tử trong khoa học sự sống và sinh
học. Độc tính của chấm lượng tử cũng là một vấn đề cần được giải quyết [14] để có thể
ứng dụng chấm lượng tử rộng rãi trong y sinh mặc dù đây không phải là vấn đề lớn
trong cảm biến sinh học được thực hiện trong ống nghiệm.
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu chế tạo các chấm lượng tử bắt đầu từ khoảng
năm 1997. Các chấm lượng tử ban đầu được chế tạo bằng phương pháp sol-gel là
các vi tinh thể bán dẫn CdS (cadmium sunfide) phân tán trong thủy tinh SiO2. Cùng
với sự phát triển kỹ thuật chế tạo chấm lượng tử trên thế giới, phương pháp chế tạo
các chấm lượng tử trong các dung môi hóa ướt bằng cách tổng hợp huyền phù các
nano tinh thể trong dung môi hữu cơ mang đến một kết quả về sự đồng đều kích
thước của các chấm lượng tử, dẫn đến việc có thể điều khiển được màu phát xạ
huỳnh quang theo kích thước. Phương pháp này bắt đầu được thực hiện ở Việt nam
khoảng từ những năm 2000 do nhóm nghiên cứu của PGS TS Phạm Thu Nga, Viện
Viện Khoa học Vật liệu, Viện Hàn lâm KH & CN VN, thực hiện. Phương pháp này
lúc đầu được áp dụng để chế tạo các nano tinh thể CdS và CdS pha tạp Mn trong dung
môi methanol sử dụng các chất hoạt động bề mặt là 3-mercaptopropyltrimethoxysilane
(MPS) và AOT (sodium bis (2-ethylhexyl) sulfosuccinate). Ưu điểm của phương pháp
này là chế tạo được các chấm lượng tử có phân bố kích thước hẹp và có thể khống
chế được ảnh hưởng của thời gian chế tạo lên kích thước hạt và được thực hiện ở
nhiệt độ phòng. Hơn nữa phương pháp này cũng cho phép dễ dàng đưa các tâm phát
xạ (ví dụ Mn) vào các chấm lượng tử CdS và thụ động hóa bề mặt bằng cấu trúc lõi
vỏ. Tuy nhiên các chất hoạt động bề mặt dùng để chế tạo các chấm lượng tử theo
phương pháp này khá độc hại và đắt tiền so với điều kiện ở Việt Nam. Hơn nữa,
2
phương pháp sử dụng MPS chế tạo các chấm lượng tử trong dung dịch keo trên cơ
sở chất bán dẫn thì phù hợp nhất với chất bán dẫn CdS – là chất bán dẫn có độ rộng
vùng cấm là 2,5 eV (tương ứng với phát xạ 500 nm – phát xạ xanh). Như vậy khi ở
kích thước lượng tử, phát xạ của CdS sẽ bị dịch về phía sóng ngắn hơn 500 nm làm
thu hẹp khả năng ứng dụng. Tuy vậy, việc chế tạo được các chấm lượng tử CdS
phát xạ xanh sẽ đáp ứng các ứng dụng cho các nguồn laser và pin mặt trời.
Chất bán dẫn CdSe với độ rộng vùng cấm là 1,8 eV (tương ứng với 700 nm)
rất thích hợp để tạo ra các hệ chấm lượng tử với huỳnh quang trải rộng vùng nhìn
thấy có khả năng ứng dụng rộng rãi trong y-sinh. Tuy nhiên việc chế tạo các chấm
lượng tử CdSe đòi hỏi ở nhiệt độ cao (khoảng 250 – 400 0C) và sử dụng các tiền chất
hữu cơ – kim loại trong điều kiện chân không hoặc khí trơ. Đi tiên phong chế tạo các
chấm lượng tử CdSe bằng phương pháp phân huỷ hợp chất tiền chất cơ – kim ở Việt
Nam vẫn là nhóm nghiên cứu của PGS. TS. Phạm Thu Nga. Các tiền chất cơ – kim (ở
đây là TOP-Se và TOP-Cd) trong môi trường của một chất hữu cơ có khối lượng
phân tử lớn và nhiệt độ sôi cao (ở đây chọn là TOPO- HDA), được sử dụng để chế
tạo các chấm lượng tử CdSe. Các hạt nano chấm lượng tử thu được bằng cách này chỉ
có thể phân tán trong dung dịch hữu cơ không phân cực như toluene. Để phân tán
chấm lượng tử trong nước, người ta phải thực hiện việc trao đổi các nhóm chức trên
bề mặt chấm lượng tử, là quá trình đòi hỏi thời gian và hoá chất đắt tiền và có thể làm
giảm hiệu suất huỳnh quang. các hoá chất như TOP, TOPO và HAD thường đắt tiền
và rất độc hại, làm việc đưa đến ứng dụng của loại vật liệu này là khó khăn. Nhóm
nghiên cứu của GS.TS. Nguyễn Quang Liêm, Viện Khoa học Vật liệu, Viện Hàn lâm
KH & CN VN là nhóm nghiên cứu đầu tiên ở nước ta chế tạo thành công các chấm
lượng tử CdTe và CdSe phân tán trong nước bằng cách chế tạo chúng trong môi
trường hữu cơ ở nhiệt độ cao (TOP/DDA – trioctylphosphine/ dodecylamine), sau đó
được chuyển sang môi trường nước bằng cách sử dụng mercaptopropionic acid
(MPA) hoặc methanesulfonic acid (MSA). Các chấm lượng tử sau khi được phân tán
vào nước đã được ứng dụng trong nghiên cứu đánh dấu huỳnh quang trong sinh học.
Tuy nhiên, phương pháp chế tạo trên vẫn đòi hỏi một quy trình cồng kềnh tốn kém
với nhiều công đoạn; hơn nữa các hóa chất sử dụng là TOP, TOPO, HAD, DDA,
MPA, MSA là các hóa chất rất độc hại. Do đó, quy trình chế tạo các chấm lượng tử
phân tán trong môi trường nước làm chất đánh dấu huỳnh quang với tiêu chí xanh và
3
sạch, ít độc hại vẫn đang được nhiều nhà khoa học trong nước và quốc tế quan tâm
nghiên cứu để hướng tới ứng dụng của vật liệu này.
Một cách tiếp cận để có được các chấm lượng tử phục vụ cho các ứng dụng
đánh dấu sinh học là chế tạo chúng trực tiếp trong môi trường nước. Trên thế giới
và cả nước ta hiện nay, các nghiên cứu chế tạo chấm lượng tử trong môi trường
nước phục cho các ứng dụng đánh dấu sinh học đã thu được nhiều kết quả khả quan,
rút, ngắn bớt thời gian chế tạo và giảm độ độc hại so với các chấm lượng tử chế tạo
trong dung môi hữu cơ.
Sodium citrate hay citrate được biết đến là một hoá chất được dùng trong
thực phẩm, có vai trò giống như một chất hoạt động bề mặt hay làm tác nhân bẫy bề
mặt. Trong các phản ứng keo hoá, nó như một chất điều khiển kích thước tạo các
hạt ở cỡ nano mét [19-21]. Hóa chất này đã được nghiên cứu sử dụng chế tạo các
hạt nano vàng phân tán trong nước và sản phẩm thu được có thể đem ứng dụng trực
tiếp cho các thí nghiệm sinh học. Deng và cộng sự (2006) [9] đã phát triển một
phương pháp chế tạo các chấm lượng tử CdSe trực tiếp trong môi trường nước sử
dụng citrate, rút ngắn bớt thời gian chế tạo và giảm độ độc hại so với các chấm
lượng tử chế tạo trong dung môi hữu cơ truyền thống. trong môi trười các chấm
lượng tử chế tạo trong dung môi hữu cơ truyền thống. Như vậy, nếu sử dụng citrate
để chế tạo các hạt nano chấm lượng tử dạng keo sẽ giảm thiểu độ độc hại. Hơn nữa,
các phân tử citrate sẽ tạo ra các nhóm chức carboxyl (COOH) trên bề mặt các chấm
lươ ̣ng tử làm chúng phân tán tốt trong môi trường nước và các môi trường sinh học khác, giúp tăng khả năng ứng dụng làm chất đánh dấu của các chấm lươ ̣ng tử .
Theo phương pháp của Deng, các mầm tinh thể chấm lượng tử CdSe được
tạo thành ngay trong nước nhờ citrate, kích thước của các chấm lượng tử CdSe phụ
thuộc vào nồng độ citrate ban đầu. Các chấm lượng tử chế tạo theo phương pháp
này có thể ứng dụng đánh dấu huỳnh quang trực tiếp lên các đối tượng sinh học.
Tuy nhiên phương pháp này vẫn còn gặp khó khăn vì kích thước các chấm lượng tử
phụ thuộc vào cả độ pH của dung dịch ban đầu và các phân tử citrate rất dễ làm mất
cân bằng điện tích gây ra sự kết đám giữa các chấm lượng tử. Nếu phát triển
phương pháp của Deng bằng cách lựa chọn đúng độ pH của các dung dịch ban đầu
trước khi chế tạo và có thể bọc thêm các lớp hợp sinh cho các chấm lượng tử sau
khi chế tạo, thì sẽ tạo được các chấm lượng tử phân tán và ổn định tốt trong nước,
4
có khả năng ứng dụng trong các môi trường sinh học khác nhau. Do đó đề tài luận
văn đặt mục tiêu chế tạo các chấm lượng tử trên cơ sở các chất bán dẫn CdSe và
CdS phân tán trong nước và có độ ổn định quang cao bằng cách phát triển phương
pháp của Deng; với tên đề tài luận văn được chọn là: “Chế tạo và nghiên cứu tính
chất quang của các hạt nano trong môi trường nước/citrate trên cơ sở các chất
bán dẫn CdSe và CdS”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Chế tạo được các hạt nano chấm lượng tử CdSe/CdS và CdS/ZnS phân tán
trong môi trường nước/citate với các điều kiện chế tạo khác nhau thích hợp làm các
chất đánh dấu huỳnh quang.
3. Phương pháp nghiên cứu
Tổng hợp và nghiên cứu tài liệu
Thực nghiệm chế tạo mẫu và đo phổ quang học
Phân tích các dữ liệu thực nghiệm
4. Nội dung nghiên cứu
i/ Chế tạo các hạt nano chấm lượng tử CdSe/CdS và CdS/ZnS phân tán trong môi
trường nước/citrate với các nồng độ chất bẫy citrtrate khác nhau:
- Chế tạo các chấm lượng tử CdSe và CdS trong nước sử dụng citrate.
- Thụ động hóa bề mặt các chấm lượng tử CdSe và CdS nhằm nâng cao hiệu
suất phát xạ bằng cách bọc lớp vỏ vô cơ CdS và ZnS (cũng trong môi trường
citrate) để tạo ra các chấm lươ ̣ng tử CdSe/CdS và CdS/ZnS
- Các hệ mẫu được chế tạo với sự thay đổi nồng độ chất bẫy citrate dùng cho
chế tạo lõi CdSe và CdS.
ii/ Nghiên cứu tính chất của các chấm lượng tử đã chế tạo bao gồm khảo sát các
đặc điểm của chúng:
- Nghiên cứu kích thước, cấu trúc hình thái, sự phân tán của các hạt nano
bằng phương pháp TEM (hiển vi điện tử truyền qua)
- Nghiên cứu tính chất quang của các chấm lượng tử bao gồm hấp thu ̣,
huỳnh quang, độ bền quang thông qua các phép đo quang học. - Khảo sát tính chất quang theo điều kiện chế tạo
5
Chương 1
TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ CÁC VẪN ĐỀ LIÊN QUAN
Các nano tinh thể bán dẫn hay các chấm lượng tử là các hạt bán dẫn có kích
thước ở cả ba chiều ở thang nano mét – kích thước mà các hạt tải trong chất bán
dẫn bị giam giữ lượng tử. Giống như bán dẫn khối, các hạt nano bán dẫn hay các
chấm lượng tử này cũng phát xạ ánh sáng huỳnh quang tùy thuộc vào độ rộng vùng
cấm của chúng. Có thể xếp tính chất của các chấm lượng tử nằm giữa các vật liệu
bán dẫn khối và các phân tử hay nguyên tử riêng biệt. Đặc tính nổi trội của các
chấm lượng tử là hiệu ứng giam giữ lượng tử do kích thước giảm xuống đến mức có
thể so sánh với bước sóng de Broglie của điện tử và lỗ trống hoặc bán kính Bohr
exciton của cặp điện tử - lỗ trống. Do đó các hạt tải tích điện bị giam giữ về mặt
không gian trong thể tích rất bé của nano tinh thể bán dẫn. Khi đó cả điện tử và lỗ
trống đều bị giam giữ, sự giam giữ lượng tử làm gián đoạn các mức năng lượng
theo chiều giam giữ và làm thay đổi mật độ trạng thái theo năng lượng. Kết quả là
hấp thụ hay phát xạ của các chấm lượng tử phụ thuộc vào kích thước hạt, nghĩa là
người ta có thể điều khiển được tính chất quang (hay màu phát xạ huỳnh quang)
theo kích thước của các chấm lượng tử. Các chấm lượng tử có phổ hấp thụ rộng,
phổ phát xạ hẹp, do đó có thể linh hoạt lựa chọn bước sóng kích thích cũng như
giảm thiểu sự chồng chập phổ phát xạ từ các chấm lượng tử đa thành phần, làm cho
chúng trở thành các chất dán nhãn tuyệt vời với sự sàng lọc thông lượng cao. Ngoài
ra, việc lựa chọn bước sóng kích thích xa các bước sóng phát xạ có thể loại bỏ sự
tán xạ nền [1, 2]. Các chấm lượng tử có thể thay thế các chất màu hữu có như
Rhodamine trong các ứng dụng hiện ảnh sinh học do chúng có độ chói huỳnh quang
lớn hơn gấp 10 đến 20 lần và độ bền quang cao gấp 100 đến 200 lần của chất màu
hữu cơ. So với các chất màu hữu cơ, các chấm lượng tử có hiệu suất lượng tử tương
tự nhưng hệ số dập tắt lớn hơn. Ngoài ra, bằng cách sử dụng các chấm lượng tử
khác nhau người ta có thể đánh dấu huỳnh quang trong khoảng rộng từ vùng khả
kiến đến vùng hồng ngoại gần. Các chấm lượng tử sử dụng trong đánh dấu sinh học
thường dựa trên cơ sở CdSe và CdTe vì phổ phát xạ của chúng nằm trong vùng nhìn
thấy tùy thuộc vào kích thước.[15]. Ngoài ra các chấm lượng tử CdS cũng được
quan tâm nghiên cứu cho các ứng dụng trong các dụng cụ quang và điện.
6
1.1. Các mức năng lượng của hạt tải trong hạt nano chấm lượng tử
1.1.1. Sự giam giữ lượng tử
Để tìm hiểu về các mức năng lượng của hạt tải trong các hạt nano chấm lượng
tử, trước hết chúng ta xét sự giam giữ lượng tử đối với các hạt tải trong các hệ bán
dẫn kích thước nano mét. Sự giam giữ lượng tử xảy ra khi kích thước của vật liệu
so sánh được với bước sóng de Broglie tương ứng của một điện tử hoặc lỗ trống và
bán kính Bohr exciton của bán dẫn đó. Bước sóng de Broglie của điện tử và lỗ trống
trong chất bán dẫn và bán kính Bohr exciton của cặp điện tử - lỗ trống được hiểu
tương tự như bước sóng de Broglie và bán kính Bohr của điện tử trong nguyên tử.
Bán kính Bohr của một điện tử chính là bán kính quỹ đạo tương ứng với mức
(1.1)
năng lượng thấp nhất của điện tử và được xác định theo công thức:
trong đó hằng số điện môi o = 8,85 10-12 F/m, hằng số Planck = 1,054 10-34 Js, m là khối lượng của điện tử tự do, m = me = 9,1 10-31 kg, và điện tích q = 1,602 10-19 C. Từ đây tính được ao = 5,28 10-11 m = 0,52 Å. Phương trình (1.1) thu được từ bài toán hydro: điện tử chuyển động tròn
quanh hạt nhân. Ta có lực hướng tâm tác dụng lên điện tử có độ lớn bằng lực tương
(1.2)
Ở đây chúng ta sử dụng quan hệ:
tác Coulomb:
2r = n (1.3)
với n là số nguyên. Kết hợp với công thức của bước sóng de Broglie của một vi hạt,
ta có:
trong đó p là xung lượng, m là khối lượng, v là vận tốc của hạt, h = 2 là hằng số
Planck. Từ đây ta có vận tốc của điện tử là :
Thay vào phương trình (1.2) ta có:
7
hay:
Với n = 1, ta có r = ao là bán kính Bohr tương ứng với công thức (1.1). Trường hợp điện tử hay hạt mang điện không ở trong chân không mà trong
môi trường có hằng số điện , ta có bán kính Bohr sẽ là:
(1.4)
Trường hợp đối với một exciton (hay một cặp điện tử-lỗ trống) trong chất
bán dẫn, chúng ta thay khối lượng của điện tử bằng khối lượng hiệu dụng của
exciton:
(1.5)
trong đó me và mh là khối lượng hiệu dụng của điện tử và lỗ trống trong vật liệu bán dẫn.
Chú ý rằng phương trình (1.4) là mối quan hệ cơ bản giữa bước sóng de
Broglie và bán kính Bohr exciton. Bước sóng de Broglie hoặc bán kính Bohr
exciton là các thang độ dài tự nhiên để chúng ta có thể so sánh kích thước vật lý của
các vật liệu bán dẫn kích thước nanô. Các vật liệu có kích thước nhỏ hơn hoặc so
sánh được với các thang độ dài tự nhiên này sẽ thể hiện các hiệu ứng giam giữ
lượng tử. Hình 1.1 là minh hoạ exciton và bán kính Bohr trong chất bán dẫn.
Hình 1.1. Exciton trong bán dẫn [22]
Trong chấm lượng tử, các hạt tải điện là điện tử, lỗ trống hay các exciton bị giam
giữ trong cả ba chiều và hệ này được mô tả như một giếng thế 3 chiều vô hạn: thế năng
bằng không tại mọi nơi trong giếng thế và bằng vô cùng tại thành của giếng.
8
1.1.2. Các mức năng lượng của hạt tải trong chấm lượng tử
Mô hình thông dụng nhất để tính toán các mức năng lượng của hạt tải trong
chấm lượng tử là chấm lượng tử có dạng hình hộp chữ nhật hoặc hình cầu.
Đối với chấm lượng tử có dạng hình hộp 3 cạnh Lx ,Ly ,Lz. Trong phép gần
đúng khối lượng hiệu dụng, các mức năng lượng của hạt tải có khối lượng m*
chuyển động trong chấm lượng tử tương đương với bài toán hạt chuyển động trong
một giếng thế năng với kích thước Lx, Ly và Lz phụ thuộc vào ba số lượng tử l, m, n
và được xác định bởi biểu thức sau [2]:
(1.6)
trong đó l,m,n là các số nguyên, ħ là hằng số Planck rút gọn.
Đối với mô hình chấm lượng tử hình cầu,
chúng ta đi xét bài toán hạt trông hộp thế cầu có bờ thế vô hạn. Phương trình Schrödinger của hạt
Trong đó và E lần lượt là hàm sóng và năng
lượng của hạt. Thế năng được cho bởi:
chuyển động trong hộp thế đối xứng cầu là:
Hình 1.2. Mô tả hộp thế cầu có bờ thế vô hạn
Hạt chuyển động trong hộp thế cầu thì thế năng của nó bằng không, ta có:
(1.7)
Xét trong hệ toạ độ cầu (r, , ) ta có toán tử Laplace được biểu diễn theo
công thức:
(1.8)
Từ phương trình (1.7), nhân cả hai vế với đại lượng 2mr2 ta có:
Thay biểu thức của toán tử Laplace vào phương trình (1.8) ta có:
9
Ta biết toán tử bình phương mômen xung lượng được biểu diễn trong toạ độ
cầu là:
Do đó phương trình (1.7) trở thành:
Ta biết phương trình trị riêng của toán tử bình phương mômen xung lượng
là:
nên có:
hay:
Đặt , ta có:
Ta viết hàm sóng của hạt thành tích của ba hàm, mỗi hàm phụ thuộc vào
từng biến số r, , như sau:
Hàm sóng hạt được viết lại theo các chỉ số lượng tử là:
trong đó n là số lượng tử chính, l là số lượng tử quỹ đạo và ma là số lượng tử từ.
Hàm Ylm(, ) được gọi là hàm cầu và hàm un, l(r) thoả mãn phương trình:
Số lượng tử từ m xác định thành phần theo trục z của mômen xung lượng L
là Lz = m; trong đó m = 0, 1, 2, … l.
Với trường hợp hạt chuyển động trong hộp thế cầu bán kính a này (hay các
chấm lượng tử hình cầu bán kính a), các mức năng lượng phụ thuộc vào hai số
lượng tử l và m:
10
(1.9)
Trong đó là các nghiệm của hàm cầu Bessel cầu bậc m, m* là khối lượng
hiệu dụng của hạt tải.
Phổ hấp thụ có đặc trưng khác nhau phụ thuộc vào mức độ giam giữ các hạt tải
trong chấm lượng tử. Cụ thể là, trong chế độ giam giữ yếu ( chế độ giam giữ yếu
ứng với trường hợp bán kính chấm lượng tử a là nhỏ nhưng vẫn lớn hơn vài lần so
với bán kính Bohr exciton ) biểu thức năng lượng của exciton có dạng sau:
(1.10)
Các mức năng lượng của exciton trong chấm lượng tử cũng được đặc trưng bởi
các số lượng tử n mô tả các trạng thái của exciton do tương tác Coulomb giữa điện
tử và lỗ trống (1S, 2S, 2P, 3S, 3P, 3D, …) và bởi 2 số lượng tử m và l mô tả các
trạng thái liên quan đến chuyển động khối tâm khi có mặt của trường ngoài ( 1s, 1p,
1d, 2s, 2p, 2d,…). Mức năng lượng thấp nhất ( n=1, m=1, l=0) là :
(1.11)
Trong đó M là tổng khối lượng và µ là khối lượng rút gọn của điện tử và lỗ
trống, là năng lượng Rydberg exciton. Như vậy, so với bán dẫn khối thì cộng
hưởng exciton đầu tiên bị dịch về phía năng lượng cao một lượng:
(1.12)
là nhỏ so với do a >>
Trong chế độ giam giữ mạnh ( a << ) gần đúng có thể coi điện tử và lỗ trống
chuyển động độc lập và bỏ qua tương tác Coulomb. Khi đó, phổ năng lượng của
điện tử và lỗ trống được xác định theo biểu thức (1.2) và các chuyển dời quang
được phép xảy ra giữa các trạng thái của điện tử và lỗ trống có cùng số lượng tử
chính và số lượng tử quỹ đạo. Do đó, phổ hấp thụ sẽ bao gồm các dải phổ gián đoạn
có vị trí cực đại tại năng lượng :
11
(1.13)
Vì lí do này, phổ quang học của các chấm lượng tử trong chế độ giam giữ
mạnh thể hiện sự gián đoạn và bị chi phối mạnh bởi kích thước hạt.
Trong thực tế, khổng thể coi chuyển động của điện tử và lỗ trống là độc lập
hoàn toàn và cần giải bài toán cho 2 hạt, trong đó toán tử năng lượng (Hamintonian)
bao gồm các số hạng động năng, thế Coulomb và thế giam giữ lượng tử :
(1.14)
Sự có mặt của thế năng V(r) không cho phép nghiên cứu độc lập chuyển động
khối tâm và chuyển động của hạt với khối lượng rút gọn. Dựa vào phương pháp gần
đúng biến thiên người ta tìm thấy năng lượng rút gọn. Dựa vào phương pháp gần
đúng biến thiên người ta tìm thấy năng lượng ở trạng thái cơ bản (1s1s) của cặp
điện tử - lỗ trống có thể biểu diễn dưới dạng (công thức Kayanuma) [2, 14]:
(1.15)
Số hạng thứ hai là động năng chứa khối lượng hiệu dụng của exiton, số hạng
thứ ba thể hiện tương tác Coulomb, số hạng thứ tư liên quan đến không gian điện tử
và lỗ trống và thường nhỏ hơn nhiều so với số hạng thứ hai và thứ ba.
Trong chế độ giam giữ trung gian ( giữa các chế độ giam giữ mạnh và chủ yếu,
với bán kính a của chấm lượng tử thỏa mãn aB < a < 4aB ) các trạng thái năng lượng
và phổ hấp thụ của chấm lượng tử được xác định chủ yếu bởi sự lượng tử hóa
chuyển động của điện tử. Tuy nhiên do tương tác Coulomb giữa điện tử và lỗ trống,
mỗi mức điện tử bị tách thành hai mức con. Vị trí cực đại hấp thụ đầu tiên của chấm
lượng tử được mô tả bởi biểu thức:
(1.16)
Hình 1.3 minh họa sơ đồ các mức năng lượng và các chuyển dời quang được
phép trong chấm lượng tử trong trường hợp khử suy biến. Các chuyển dời quang
12
được phép trong chấm lượng tử bán dẫn khi tính đến tương tác Coulomb giữa điện
tử và lỗ trống được trình bày trên hình 1.4.
Hình 1.4. Các chuyển dời quang được phép trong chấm lượng tử bán dẫn theo mô hình cặp điện tử - lỗ trống [13]
Hình 1.3. Các chuyển dời quang cho phép giữa các trạng thái của điện tử và lỗ trống được lượng tử hóa trong trường hợp khử suy biến [13]
Các công (1.11), (1.15), (1.16) cho thấy sự giam giữ lượng tử làm cho độ rộng
vùng cấm hiệu dụng của chấm lượng tử được mở rộng so với độ rộng vùng cấm của
bán dẫn khối; hơn nữa, các chấm lượng tử có kích thước càng bé thì độ rộng vùng
cấm hiệu dụng càng được mở rộng. Các công thức này được sử dụng để đánh giá
kích thước của các chấm lượng tử theo các chế độ giam giữ khác nhau.
1.2. Các tính chất quang lý của các hạt nano chấm lượng tử
1.2.1. Phổ hấp thụ của các chấm lượng tử
Các chấm lượng tử có phổ hấp thụ liên tục và rộng tương tự như của vật liệu
bán dẫn khối với một số đỉnh. Phổ hấp thụ kéo dài từ vùng tử ngoại tới một bước
sóng giới hạn trong vùng nhìn thấy, tương ứng với dịch chuyển cơ bản, được gọi là
bờ hấp thụ (cũng có thể là đỉnh hấp thụ thứ nhất). Các chấm lượng tử không hấp thụ
ánh sáng có bước sóng lớn hơn bước sóng của đỉnh hấp thụ thứ nhất. Do sự phụ
thuộc của các mức năng lượng điện tử - lỗ trống vào kích thước và thành phần hóa
học của chấm lượng tử nên bước sóng tương ứng với đỉnh hấp thụ thứ nhất cũng
phụ thuộc vào kích thước và thành phần hóa học của chấm lượng tử. Các chấm
lượng tử càng nhỏ thì đỉnh hấp thụ thứ nhất càng ở bước sóng ngắn. Nhưng khác
với bán dẫn khối, phổ hấp thụ của chấm lượng tử xuất hiện như một chuỗi các đỉnh
chồng chập (hình 1.5). Mỗi đỉnh ứng với dịch chuyển năng lượng giữa các mức
13
năng lượng gián đoạn của điện tử - lỗ trống (exciton). Với cùng một loại chất bán
dẫn, kích thước chấm lượng tử càng nhỏ thì đỉnh phổ hấp thụ đầu tiên (hoặc bờ hấp
thụ) càng dịch về phía sóng ngắn (hình 1.6).
Hình 1.6. Phổ hấp thụ của các chấm lượng tử CdSe với các kích thước khác nhau từ 1,2 nm (12 Å) đến 11,5 nm (115 Å) [5].
Hình 1.5. Phổ hấp thụ của các chấm lượng tử CdS, CdSe và CdTe ở cùng kích thước ~3 nm [5].
Các chấm lượng tử có phổ hấp thụ rộng nên huỳnh quang có thể được kích
thích ở bất kỳ bước sóng nào ngắn hơn bước sóng huỳnh quang. Vì vậy mà các
chấm lượng tử với màu huỳnh quang khác nhau có thể được kích thích cùng một
ánh sáng đơn sắc (hay bằng một nguồn đơn). Điều này trái ngược với chất màu
hữu cơ, có tần số cộng hưởng hấp thụ chỉ trong một vùng tần số hẹp, do đó với
mỗi chất màu hữu cơ chỉ có một bước sóng kích thích xác định và mỗi bước sóng
xác định chỉ kích thích được một chất màu hữu cơ xác định.
1.2.2. Phổ huỳnh quang của các chấm lượng tử
Huỳnh quang là sự phát quang khi ta sử dụng một năng lượng (có thể là quang
năng, nhiệt năng, điện năng hay hóa năng) kích thích đến một vật liệu, làm điện tử
trong vật liệu hấp thụ năng lượng chuyển lên trạng thái kích thích và khi điện tử trở
về trạng thái cơ bản nó phát ra photon ánh sáng. Đối với kích thích bằng quang ta
có phổ quang huỳnh quang. Với một chất bán dẫn, điện tử sau khi nhận năng lượng
sẽ chuyển từ vùng hóa trị lên vùng dẫn và khi hồi phục về trạng thái cơ bản của nó,
sự phát quang sẽ xảy ra.
14
Giống như vật liệu khối, phổ huỳnh quang của chấm lượng tử cũng phụ thuộc vào
độ rộng vùng cấm. Nhưng nó khác so với vật liệu khối ở chỗ, chấm lượng tử với cùng
một loại vật liệu thì phát ra nhiều màu sắc huỳnh quang khác nhau tương ứng với các
kích thước hạt khác nhau. Do hiệu ứng giam giữ lượng tử, khi kích thước chấm lượng
tử càng nhỏ thì hiệu ứng giam giữ càng mạnh, dẫn tới độ vùng cấm hiệu dụng càng
tăng.Vì vậy phát xạ huỳnh quang càng dịch về phía bước sóng ngắn (hình 1.7).
Hình 1.7. Minh họa sự phát xạ của các chấm lượng tử CdSe phụ thuộc vào kích thước hạt[7].
1.2.3. Thời gian sống phát quang, hiệu suất lượng tử và độ bền quang của các
chấm lượng tử
Thời gian sống phát quang của của các chuyển dời exciton ở chấm lượng tử rất
dài (khoảng vài trục đến hằng trăm nano giây) so với exciton trong vật liệu khối
(thường chỉ khoảng hằng trăm picô giây đến dưới nano giây). Các kết quả về nghiên
cứu động học hạt tải của các chấm lượng tử cho thấy thời gian sống phát quang của
chấm lượng tử cũng lớn hơn thời gian sống huỳnh quang của các chất màu hữu cơ.
Đây là hệ quả của sự giam giữ lượng tử của hạt tải điện, làm giảm xác suất tái hợp phát
quang. Mặt khác nếu xét theo bức tranh hạt thì tương tác của một photon trong vùng
khả kiến (có kích thước tương ứng với bước sóng chính của bó sóng ánh sáng đó, trong
khoảng 380 – 720 nm) với một chấm lượng tử bán dẫn (có kích thước vài nano mét) là
rất yếu. Nếu như có chấm lượng tử bán dẫn có kích thước hàng trăm nano mét sẽ cho
tương tác hạt – hạt mạnh hơn rất nhiều. Tính chất hấp thụ/phát quang có thể sẽ cộng
hưởng nếu kích thước vật liệu nhân với chỉ số chiết suất đạt giá trị so sánh được với
bước sóng của photon kích thích hoặc phát quang [15].
15
Hiệu suất lượng tử phụ thuộc vào sự tái hợp không phát xạ của điện tử và lỗ trống.
Trong trường hợp chấm lượng tử, tái hợp không phát xạ xảy ra chủ yếu đối với các trạng
thái bề mặt và vì vậy nó phụ thuộc rất mạnh vào bề mặt của chấm lượng tử [12].
Đối với các chấm lượng tử chỉ có lõi nghĩa là thành phần chỉ là một loại chất
bán dẫn thì hiệu suất lượng tử thấp, và không cao như hiệu suất lượng tử của các
chất màu. Để loại bỏ một cách hiệu quả và bền vững các tâm tái hợp không bức xạ
tại trạng thái bề mặt, người ta thường tiến hành bọc 1 hoặc 2 đơn lớp các chất bán
dẫn với hằng số mạng tương tự và độ rộng vùng cấm lớn hơn, các hạt mang điện bị
bẫy trong hố thế bằng cách tạo vỏ bọc xung quang lõi bán dẫn bằng vật liệu bán dẫn
có vùng cấm lớn hơn vật liệu làm lõi (ví dụ: vỏ ZnS bao quanh lõi CdSe). Với cấu
trúc lõi - vỏ, các hạt mang điện bị giam trong hố thế (hình 1.8), làm giảm sự tái hợp
không phát xạ trên bề mặt chấm lượng tử, do đó hiệu suất lượng tử tăng lên. Như
tinh thể nano lõi - vỏ CdSe/ZnS hiệu suất lượng tử có thể đạt 70-80% [13].
Hình 1.8. Chấm lượng tử có cấu trúc lõi-vỏ và minh họa cấu trúc vùng năng lượng trong chấm lượng tử cấu trúc lõi- vỏ[8]
So với các chất màu hữu cơ, các chấm lượng tử có hiệu suất lượng tử tương tự
nhưng hệ số dập tắt lớn hơn 10-50 lần, làm giảm tốc độ dập tắt quang; độ chói huỳnh
quang lớn hơn gấp 10 đến 20 lần và độ bền quang cao gấp 100 đến 200 lần so với
chất màu hữu cơ. Hơn nữa, các chấm lượng tử ít bị tẩy quang nên có thể sửa dụng
chúng trong các thí nghiệm đánh dấu sinh học diễn ra trong khoảng thời gian dài [23].
1.2.4. Sự nhấp nháy của các chấm lượng tử
Hiện tượng huỳnh quang nhấp nháy (blinking), tức là nếu quan sát huỳnh
quang của một chấm lượng tử đơn dưới kính hiển vi huỳnh quang thì thấy lúc chấm
lượng tử phát quang, lúc tắt, giống như ngôi sao nhấp nháy trên bầu trời đêm. Hiện
16
tượng trên được giải thích là do một dạng tái hợp Auger làm cho hạt tải sinh ra do
kích thích quang đã tiếp tục thoát khỏi chấm lượng tử trong một thời gian có thể dài
đến một vài giây. Sau đó mới lại quay trở lại chấm lượng tử để chuyển dời phát
quang [8, 10].
Hiện tượng nhấp nháy huỳnh quang trong các phát xạ của đơn phân tử đã
xuất hiện ở nhiều loại chất màu khác nhau gồm các chất màu hữu cơ và các tinh thể
nano bán dẫn (chấm lượng tử). Thực nghiệm quan sát được các trạng thái tắt của
chấm lượng tử được quy cho là tái hợp Auger [8, 10, 19]. Các hồi phục Auger diễn
ra rất nhanh (khoảng 10-100ps) [10], và chúng dẫn đến sự truyền năng lượng hồi
phục từ các exciton tới hạt tải không định xứ bị kích thích khác trong chấm lượng
tử. Sau khi nhận năng lượng hạt tải điện hoặc lỗ trống bị kích thích tới mức năng
lượng cao hơn trong vùng dẫn hoặc vùng hóa trị trước khi hồi phục rất nhanh ~ ps
về đáy vùng dẫn hoặc đỉnh vùng hóa trị [6, 14]. Sự hồi phục Auger xảy ra rất nhanh
nên làm dập tắt phát xạ từ các exciton bất cứ khi nào các hạt tải bị kịch thích quang
khác có mặt. Các hạt tải khác ở đây có thể hoặc là các điện tử hay lỗ trống đơn lẻ
trong một chấm lượng tử tích điện hay cá hạt tải trong các exciton khác. Cơ chế
Auger làm cho chấm lượng tử tích điện không phát xạ và được cho là trạng thái tắt
(OFF) trong phát xạ huỳnh quang hay nhấp nháy của các đơn chấm lượng tử [6, 10,
19].
Hiện tượng nhấp nháy là một trong những các hiện tượng thú vị được phát
hiện ra khi nghiên cứu chấm lượng tử ở mức đơn hạt. Do tính chất nhấp nháy của
chấm lượng tử, các ứng dụng về điện thế sử dụng chấm lượng tử như một nguồn
ánh sáng đơn photon cho công nghệ thông tin lượng tử bị hạn chế cũng như các ứng
dụng trong sinh học như kiểm tra thời gian thực của các đơn phân tử sinh học sử
dụng chấm lượng tử. Do đó việc chế tạo các chấm lượng tử làm giảm bớt tính nhấp
nháy vẫn đang được nghiên cứu.
1.3. Độ độc hại của các chấm lượng tử
Các chấm lượng tử được chế tạo với cấu trúc lõi là CdSe, CdS, CdTe vốn các
chất độc hại cho các tế bào và hệ thống sinh học. Các nghiên cứu trực tiếp cho thấy
độ độc hại của các chấm lượng tử này,…là rất cao. Chấm lượng tử được chế tạo với
các phân tử trên bề mặt như axit mercaptoacetic, axit mercaptopropionic, 11- axit
mercaptoundecanoic, 2- aminoethanethiol,… các thành phần độc hại cấu tạo nên chấm như các ion Cd+2 và S-2 . Độ độc hại của chấm lượng tử liên quan trực tiếp
17
đến quá trình oxy hóa của các hạt nano lõi/vỏ làm cho các ion Cd 2+ có thể được
phân ly ra từ chấm lượng tử và rò rỉ ra các môi trường sinh lý. Trong các nghiên
cứu ngoài khả năng gây độc tế bào, người ta đã tìm thấy rằng các chấm lượng tử có
thể nhập vào các tế bào và làm chết các tế bào hoặc tích tụ vào các mô khác nhau,
gây nguy cơ tác dụng phụ [17]. Tác giả Derfus đã sử dụng tế bào gan để theo dõi độ
độc hại của chấm lượng tử. Kết quả chỉ ra rằng quá trình oxy hóa của bề mặt hạt
nano, có thể gây ra do tiếp xúc với không khí trước khi hòa tan hoặc xúc tác bởi các
tia UV, gây ra quá trình oxy hóa của selen, lưu huỳnh, làm rò rỉ ion Cadmium tiếp
xúc với không khí trước khi hòa tan hoặc tiếp xúc với tia UV kéo dài đủ để gây chết
các tế bào [24]. Để giảm độ độc hại của các chấm lượng tử, người ta thường bọc
cho chúng một lớp hợp sinh (như protein bovine serum albumin - BSA, hay
polyethylene glycol – PEG); hoặc một lớp vỏ silica, hoặc chế tạo các chấm lượng tử
trực tiếp trong môi trường nước với các phân tử trên bề mặt chấm lượng tử là các
nhóm chức ưa nước nhưng không độc hại.
1.4. Một số phương pháp chế tạo các hạt nano bán dẫn
Các nano tinh thể bán dẫn (hay chấm lượng tử) được chế tạo bằng nhiều
phương pháp khác nhau.Tùy thuộc vào điều kiện chế tạo, môi trường nuôi cấy mà ta
có chấm lượng tử với kích thước, độ bền hóa học và tính chất vậy lý khác nhau.
1.4.1 Phương pháp sol- gel
Quá trình sol- gel là quá trình chế tạo vật liệu vô cơ bằng cách hình thành các
hạt keo (sol) ổn định từ chất dạng hạt đã chọn và thông qua việc gel hóa, sol này biến
tướng thành tổ chức mạng ba chiều (gel). Phương pháp sol-gel là quá trình keo hóa
tổng hợp làm ngưng tụ các hạt keo thu được, có khả năng thu vật liệu có trạng thái
mong muốn như khối đặc màng phôi, sợi và bột có độ lớn đồng nhất.
Quá trình gồm 2 phản ứng cơ bản. Đầu tiên là các phản ứng thủy phân, sau đó
là các phản ứng polymer hóa đa ngưng tụ cùng với sự tiếp tục thủy phân. Sự polymer
hóa làm cho độ nhớt của dung dịch tăng lên cho đến khi thành gel rắn.
Người ta thường sử dụng phương pháp này để chế tạo các nano tinh thể trong
thủy tinh xốp. Thủy tinh xốp chế tạo theo cách này không cần xử lý ở nhiệt độ cao và
có các lỗ xốp kích thước nanomet, sau đó các nano tinh thể được đưa vào các lỗ xốp
này. So với thủy tinh chế tạo theo lối cổ truyền, thủy tinh xốp có thể chứa vật liệu bán
dẫn với mật độ rất cao [2]. Các nano tinh thể chế tạo theo phương pháp này có ít các
sai hỏng do kết tủa ở nhiệt độ thấp. Tuy nhiên, kỹ thuật sol-gel gặp phải một số vẫn
18
đề bất cập trong việc khống chế kích thước và tạo phân bố kích thước hẹp. Phổ quang
học của nano tinh thể trong thủy tinh xốp thường bị mở rộng, trước tiên là do phân bố
kích thước rộng. Do đó việc nghiên cứu để tìm ra sự khống chế kích thước của các
chấm lượng tử là rất quan trọng.
1.4.2. Nano tinh thể trong zeolite, màng thủy tinh, bán dẫn composite.
Zeolite là vật liệu Al-O-Si kết tinh với các khung được xếp đều đặn có kích
thước cỡ 1nm. Việc tổng hợp các đám nano tinh thể bán dẫn bên trong khung này cung
cấp một chuỗi các chấm lượng tử với phân bố kích thước hẹp và do đó thể hiện độ mở
rộng bất đồng nhất rất nhỏ của phổ quang học. Một số nano tinh thể đã được chế tạo
trong zeolite như CdS, PbI2. Tuy nhiên mạng nền zeolite không cung cấp bất kì một
khả năng nào để thay đổi kích thước của các nano tinh thể. Kích thước của các nano
tinh thể được quy định bởi kích thước của khung. Đối với phương pháp này, kích thước
của mẫu rất nhỏ (với kích thước cả ba chiều không lớn hơn 100 micromet) nên việc
ứng dụng các nano tinh thể chế tạo theo phương pháp này là không được rộng rãi.
Màng thủy tinh, bán dẫn composite thường được dùng để đưa các tinh thể
nano Si và Ge phân tán vào trong nền SiO2. Phương pháp này được dựa trên tần số vô
tuyến của manheton phẳng khi thổi Si hoặc Ge trong khí hydro hoặc khí argon vào đế
silic với màng mỏng oxyde silic tự nhiên. Màng mỏng oxyde silic lại được giữ trên
một điện cực khác bị che bởi nam châm vĩnh cửu để che tấm S hoặc Ge. Kích thước
của các nano tinh thể phân tán trong màng SiO2 có thể được khống chế bởi nhiệt độ
của đế, công suất của tần số vô tuyến và áp suất của khí ở môi trường xung quanh.
Các mẫu thu được phù hợp cho nghiên cứu quang học truyền qua và phát xạ cũng
như nghiên cứu bởi các tia X và kính hiển vi điện tử truyền qua (TEM). Màng thủy
tinh, bán dẫn composite có mật độ nano tinh thể cỡ 10 đến 30%, độ dày của màng cỡ
vài micromet. Người ta đã thu được các nano tinh thể Si và Ge nhờ kỹ thuật này và
chúng đã được nghiên cứu. Đế được nung nóng trong quá trình phun thổi lắng đọng
để khống chế kích thước. Kích thước trung bình tuân theo sự phụ thuộc t1/3.
1.4.3. Các nano tinh thể chế tạo trong dung dịch hữu cơ và polyme (hay các
nano tinh thể chế tạo bằng phương pháp hóa ướt)
Phương pháp chung để chế tạo nano tinh thể bán dẫn II-VI dựa trên các phản
ứng thế giữa các hợp chất chứa các ion kim loại (như Cd2+, Zn2+…) và các hợp chất
chứa ion của các nguyên tố nhóm VI (S2-,Se2-…) [2].
19
Đối với các hạt tải điện là các ion nhóm VI, tác nhân phản ứng cơ kim cho
thấy rất hữu ích [2]. Đối với các hợp chất hydro, chất phản ứng cơ kim là ổn định hơn
và hòa tan được trong các dung môi hữu cơ. Hơn nữa chúng có thể đóng góp các
nhóm phân tử bẫy và có thể giới hạn quá trình lớn lên của tinh thể. Hợp chất
Si(CH3)3, [ Trimethylsily (TMS) ]là một trong những nhóm cơ kim tồn tại ở các thể
S(TMS)2, Se(TMS)2 và Te(TMS)2 . Ở đây,lực điều khiển phản ứng hóa học là các liên
kết hóa trị.
Các nano tinh thể bán dẫn loại II-VI có thể được hình thành trong môi trường
hữu cơ nhờ những kĩ thuật khác nhau dựa trên hóa học cơ kim và polyme [3].
Đặc trưng cơ bản của các cấu trúc nano được chế tạo theo phương pháp này
có thể được tóm tắt như sau: ở nhiệt độ kết tủa thấp (thường không quá 3000C) có thể
giảm tối thiểu các sai hỏng mạng. Việc phủ lên bề mặt các nano tinh thể các nhóm
hữu cơ sẽ tạo ra cách để khống chế trạng thái bề mặt. Có thể thu được các đám cô lập
hay phân tán chúng vào các màng polyme rất mỏng với phân bố kích thước hẹp.
Một trong số phương pháp này là sử dụng dung dịch keo (phương pháp tổng
hợp huyền phù các nano tinh thể - colloidal method) [4]. Vấn đề chính cần giải quyết
trong kĩ thuật là ngăn chặn sự kết tụ nhanh chóng của các hạt tinh thể. Muốn vậy,
người ta thường thêm vào dung dịch lỏng chứa muối kim loại và phức halogel một
tác nhân ổn định (hay còn gọi là chất bẫy bề mặt – surfactant – surface acting agent).
Kích thước của các nano tinh thể thu được được khống chế bởi nhiệt độ, tốc độ hỗn
hợp các chất tham gia phản ứng, và quan trọng được quyết định bởi nồng độ của các
tác nhân ổn định trong dung dịch [3].
Phương pháp tổng hợp huyền phù các nano tinh thể hiện nay là phương pháp
phổ biến. Bằng phương pháp này, người ta có thể thay đổi các liên kết xung quanh
nano tinh thể, đưa chúng vào các môi trường khác nhau, hoặc có thể pha loãng để
quan sát từng nano tinh thể riêng biệt [3].
Có hai phương pháp phổ biến để tổng hợp huyền phù các nano tinh thể trong
môi trường hữu cơ. Phương pháp đầu tiên là phương pháp micelle đảo. Bằng phương
pháp này có thể chế tạo các loại nano tinh thể khác nhau như nano tinh thể của kim loại
(Cu, Ni, Au), của các hợp kim giả bền (CdyZn1-yS, CdyMn1-yS), các chất bán dẫn (CdS,
CdTe, Ag2S) hoặc các chất có từ tính (Co, CoFe2O4) [5]. Phương pháp thứ hai là phân
20
hủy các hợp chất cơ-kim,nó cho phép tổng hợp các nano tinh thể nhóm II-VI như
CdSe, CdS, CdTe được bao quanh bởi một lớp vỏ bảo vệ vô cơ khác như CdS,ZnS
hoặc ZnSe [2]. Phương pháp tổng hợp này là phương pháp được dùng phổ biến nhất
hiện nay để chế tạo các tinh thể bán dẫn có kích thước và hình dạng giống nhau và có
hiệu suất lượng tử cao.
a. Phương pháp phân hủy các hợp chất cơ-kim
Phương pháp phân hủy các tiền chất hữu cơ-kim loại đã được phát triển đầu tiên
bởi các nhóm nghiên cứu M. Bawendi, P.Alivisatos và P. Guyot-Sionnest [4], sau đó
được hoàn thiện dần và hiện nay có thể chế tạo các chấm lượng tử dạng cầu với độ
phân nhánh kích thước nhỏ hơn 5% bằng phương pháp này. Ví dụ, để chế tạo các chấm
lượng tử CdSe, các tiền chất, như là dimethylcadmium và TOP-Se được tiêm vào
nhanh hỗn hợp nóng (xấp xỉ 260 0C) của TOPO và HAD [2]. Khi đó các mầm tinh thể
CdSe hình thành rất nhanh, và hình thành các nano tinh thể CdSe trong dung dịch. Để
loại bỏ một cách hiệu quả và bền vững các tâm tái hợp không bức xạ tại trạng thái bề
mặt, người ta tiến hành bọc 1 hoặc 2 đơn lớp các chất bán dẫn với hằng số mạng tương
tự và độ rộng vùng cấm lớn hơn (thường là CdS, ZnS hoặc ZnSe) bằng phương pháp
tương tự như phương pháp đã dùng chế tạo lõi. Lớp vỏ bọc được chế tạo như vậy sẽ
thụ động hóa tất cả các kiên kết treo tại bề mặt của lõi và tạo thành một hàng rào thế
giữa các hạt tải (các điện tử và các lỗ trống) của lõi và bề mặt bên ngoài vỏ, làm giảm
ảnh hưởng của môi trường bên ngoài tới các hạt tải trong lõi tinh thể. Bên ngoài của
lớp vỏ này được thụ động hóa một cách tự nhiên bởi các chất tổng hợp bị hấp thụ
(TOPO). Khi đó dung dịch của các nano tinh thể loại CdSe/CdS có hiệu suất lượng tử
có thể đạt tới 85% và có thể bảo quản được trong nhiều năm [20].
b . Phương pháp micelle và micelle đảo chế tạo các nano tinh thể
Để khống chế quá trình lớn lên của các chấm lượng tử, người ta dùng môi
trường vi thể không đồng nhất (microteherogeneous) như là môi trường Micelle đảo
[4]. Môi trường Micelle đảo là môi trường trong đó có một lượng nước nhỏ ở trong
dung dịch hydrocacbon được bao quanh bởi các chất bẫy bề mặt (ở đây là các phân tử
có hai nhóm chức: kỵ nước và ưa nước).
Trong môi trường Micelle đảo kích cỡ cuối cùng của các hạt bị chi phối bởi tỷ
lệ mol nước và chất bẫy bề mặt. Các chấm lượng tử bán dẫn trong giọt Micelle được
21
bảo vệ khỏi sự kết đám nhờ chất bẫy bề mặt. Sau khi các chấm lượng tử hình thành,
ta đưa chúng vào mạng nền đã chế tạo trước đó.
Micelle là sự kết tập của của các phần tử đóng vai trò làm tác nhân bề mặt
phân tán trong dung dịch keo. Các micelle thường có dạng hình cầu nhưng cũng có
thể có các dạng khác như elip hoặc trụ, lưỡng lớp (bilayers) hay dạng lỗ hổng
(vesicle, liposome).
Hình 1.9. Sơ đồ minh họa 1 Micelle[4]
Hình dạng của các micelle phụ thuộc vào dạng hình học của các phân tử đóng
vai trò làm tác nhân bề mặt hoặc cũng có thể phụ thuộc vào điều kiện nhiệt độ hoặc
độ pH của dung dịch. Một giọt micelle điển hình trong nước có đầu ưa nước ở ngoài,
còn các đuôi kị nước ở bên trong. Trong một giọt micelle, các đuôi kị nước của các
phân tử tác nhân bề mặt tập hợp thành lõi trong môi trường dầu ngăn cách với môi
trường xung quanh (dầu trong nước-oil in water). Ngược lại, nếu các phần tử tác
nhân bề mặt có đầu ưa nước chụm vào trong tạo thành một buồng giam nước và các
đuôi kị nước nối với các liên kết hydro bên ngoài thì chúng ta có môi trường micelle
đảo (nước trong dầu-water in oil). Kích thước của các nano tinh thể bán dẫn được
tạo thành trong giọt micelle phục thuộc vào nồng độ các chất đóng vai trò làm tác
nhân bề mặt.
Trong phương pháp micelle đảo, có 3 thành phần để cấu thành giọt micelle,
đó là các phân tử chất bẫy bề mặt, nước và dung môi hữu cơ không phân cực. Các
đầu cực của chất bẫy bề mặt được nối thẳng tới bên trong quả cầu chứa nước, trái lại,
các đuôi béo của nó thì định hướng tới môi trường hữu cơ không phân cực.
1.4.4. Chế tạo các hạt nano bán dẫn phân tán trong môi trường nước
Nghiên cứu, chế tạo các hạt nano trong môi trường nước định hướng sinh học
hay cũng chính là việc đưa ứng dụng của chấm lượng tử vào sử dụng trong y - sinh
học là hướng nghiên cứu mang tính thời sự hiện nay. Để hướng đến những ứng dụng
22
này thí các chấm lượng tử phải có khả năng phân tán trong môi trường nước vì môi
trường sinh học chủ yếu là nước. Mặt khác, các chấm lượng tử muốn đánh dấu được
các đối tượng sinh học như ADN, protein, kháng thể, tế bào… thì chúng phải gắn kết
được với các đối tượng sinh học đó. Vì vậy các chấm lượng tử phải có các nhóm
chức hóa học thích hợp để có thể phân tán được trong nước và gắn kết với các phân
tử sinh học, do đó chúng phải có lớp hợp sinh ưa nước bao quanh.
Hình 1.10. Mô hình chấm lượng tử cho các ứng dụng đánh dấu sinh học [18] Hình 1.10 trình bày mô hình phổ biến của các chấm lượng tử sử dụng trong
đánh dấu sinh học. Lõi chấm lượng tử là vật liệu bán dẫn với phát xạ huỳnh quang
của nó dùng để đánh dấu. Vỏ là một chất bán dẫn có độ rộng vùng cấm lớn hơn lõi
để không làm ảnh hưởng đến phát xạ của lõi; đồng thời nâng cao hiệu suất phát xạ
của lõi nhờ hạn chế các liên kết treo và các trạng thái bề mặt. Và bề mặt chấm
lượng tử là phân tử có các nhóm chức giúp chấm lượng tử phân tán tốt trong dung
dịch (gọi là các phân tử ligands ưa nước). Các chấm lượng tử này thường có kích
thước trên dưới 10 nm.
Các chấm lượng tử CdSe/ZnS được chế tạo phổ biến trên thế giới bằng phương
pháp sử dụng dung môi hữu cơ và ts thể ứng dụng các chấm lượng tử này trong các ứng
dụng đánh dấu sinh học, người ta phải thực hiện việc trao đổi ligand để làm sao trên bề mặt
của các chấm lượng tử có các nhóm chức làm cho chấm lượng tử có thể phân tán được
trong nước và gắn kết được với các đối tượng sinh học (hình 1.11). Nói chung là có hai
cách chính để làm phân tán các chấm lượng tử này trong nước, đó là:
- Thay đổi những phân tử bề mặt kỵ nước TOPO bằng những phân tử hai nhóm
chức mà một đầu tan trong nước liên kết với phân tử sinh học và một đầu còn lại liên
kết với bề mặt chấm lượng tử. Thông thường nhóm thiol (-SH) được dùng để liên kết
23
với bề mặt chấm lượng tử bán dẫn, và nhóm carboxyl (-COOH) được dùng để tan
trong nước.
- Phủ cho tinh thể nano bán dẫn kỵ nước một lớp vỏ polymer amphiphilic (là
các phân tử có hai đầu: một đầu ưa nước và một đuôi kỵ nước). Trong phương pháp
này đuôi kỵ nước của polymer tương tác với phân tử kỵ nước trên bề mặt của chấm
lượng tử, thực hiện sự trao đổi ligands trên bề mặt và vì vậy hình thành thêm lớp vỏ.
Tính tan được trong nước của tinh thể nano vỏ polymer được đảm bảo bởi nhóm ưa
nước của polymer quay ra ngoài.
Hình 1.11. Giản đồ trình bày các phương pháp chung để thay đổi bề mặt chấm
lượng tử được bảo vệ bởi các phân tử TOPO [22]
Một cách tiếp cận để có được các nano tinh thể phục vụ cho các ứng dụng
đánh dấu sinh học là chế tạo chúng trực tiếp trong môi trường nước. Như đã giới
thiệu, Deng và cộng sự đã phát triển một phương pháp khá an toàn và giảm sự độc
hại của các hóa chất khi nghiên cứu chế tạo các chấm lượng tử CdSe trực tiếp trong
môi trường nước sử dụng citrate, rút ngắn bớt thời gian chế tạo và giảm độ độc hại so
với các chấm lượng tử chế tạo trong dung môi hữu cơ truyền thống. Theo phương
pháp này, các mầm tinh thể chấm lượng tử CdSe được tạo thành ngay trong nước nhờ
các phân tử citrate, kích thước của các chấm lượng tử CdSe phụ thuộc vào điều kiện
chế tạo như nồng độ citrate và độ pH của dung dịch ban đầu [9]. Hình 1.12 trình bày
phổ hấp thụ và huỳnh quang của các hạt nano CdSe/CdS phân tán trong nước theo kết
quả nghiên cứu của Deng. Có thể thấy cường độ và cực đại phát xạ của phổ huỳnh
24
quang phụ thuộc nhiều vào điều kiện chế tạo. Các chấm lượng tử chế tạo theo phương
pháp này có thể ứng dụng đánh dấu huỳnh quang trực tiếp lên các đối tượng sinh học
và trở thành các chất dán nhãn huỳnh quang quan trọng dùng trong cảm biến sinh học
và hiện ảnh.
Hình 1.12. Phổ hấp thụ và huỳnh quang của các hạt nano chấm lượng tử CdSe/CdS chế tạo trực tiếp trong môi trường nước sử dụng citrate để điều khiển kích thước [9]
Với những yêu cầu ngày càng cao của cuộc sống thì chấm lượng tử trở thành
một chất đánh dấu sinh học mới đồng hành cùng với phương pháp đánh dấu truyền
thống, mang lại sự đa dạng, phong phú cho những kỹ thuật phục vụ lợi ích con
người, bổ sung thêm những ứng dụng tiên tiến hiện đại mà phương pháp truyền
thống chưa có được. Cụ thể ngày nay các nhà nghiên cứu đã tạo ra các ứng dụng nổi
bật từ chấm lượng tử trong môi trường sinh học như: cảm biến sinh học, chất đánh
dấu huỳnh quang các tế bào, chất theo dõi các tế bào, những ứng dụng trong in vivo
và in vitro trong phép thử miễn dịch, dẫn thuốc và truyền thuốc chữa bệnh.
Đề tài luận văn sẽ thực hiện việc nghiên cứu chế tạo các chấm lượng tử
CdSe/CdS và CdS/ZnS trực tiếp trong môi trường nước sử dụng citrate làm chất
điều khiển kích thước. Các bước chế tạo chi tiết sẽ được trình bày ở chương 2.
Chương 2
THỰC NGHIỆM
25
2.1. Thực nghiệm chế tạo các mẫu hạt nano bán dẫn trong môi trường
nước/citrate
Để có thể hạn chế dùng các dung môi độc hại và hướng tới các ứng dụng
đánh dấu sinh học đồng thời tạo thuận lợi trong việc chức năng hóa bề mặt các
chấm lượng tử, các chấm lượng tử CdSe/CdS và CdS/ZnS đã được chế tạo phân tán
trong nước thích hợp làm các chất đánh dấu huỳnh quang sử dụng hóa chất an toàn
như: bột Selenium (Se), Bột lưu huỳnh (S), Bohidruanatri (NaBH4, 99%), Ethanol
(C2H5OH, cồn tuyệt đối), Na2S.9H2O (98%), muối CdCl2.2,5H2O (99%), ZnCl2
(98%), Trihydroy methyl aminomethane (tris) (chất được sử dụng trong các môi
trường sinh học), nước cất, axit sunfuric (H2SO4), axit clohydric (HCl), trirodium
citrate dehydrate (C6H5Na3O7.H2O, muối natri của axit chanh - được dùng trong
thực phẩm) đóng vai trò chất bẫy bề mặt. Hình 2.1 minh họa cấu trúc hóa học của
phân tử citrate. Kết quả thực nghiệm mong muốn tạo ra các hệ chấm lượng tử
CdSe/CdS và CdS/ZnS có các phân tử citrate bao quanh như mô hình 2.2.
Hình 2.1. Phân tử Trirodium Citrate
Hình 2.2. Mô hình chấm lượng tử mong muốn chế tạo trong môi trường nước/citrate
Với việc sử dụng citrate làm chất điều khiển kích thước hạt, như vậy khi ta thay đổi
tỉ lệ w (w là tỉ lệ mol giữa citrate và nước) trong dung dịch đệm ban đầu thì kích thước
hạt cũng thay đổi. Thực nghiệm cho thấy các mẫu được chế tạo với giá trị pH của dung
dịch đệm Tris-HCl ban đầu là 8,9 sẽ cho các mẫu hạt nano có cường độ huỳnh quang cao
nhất. Khối lượng của citrate thay đổi tùy thuộc vào các mẫu chấm lượng tử tương ứng
với các tỉ lệ w khác nhau. Quy trình thực nghiệm được tiến hành tại Phòng thí nghiệm
Vật lý Chất rắn, Khoa Vật lý, Trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên.
2.1.1. Chế tạo các chấm lượng tử CdSe/CdS
26
Các hạt nano chấm lượng tử CdSe và CdSe/CdS được chế tạo trong môi
trường khí nitơ sạch với tỷ lệ w lần lượt là 1; 1,5; 2; 2,5; 3; và 5. Quy trình chế tạo
các chấm lượng tử CdSe và CdSe/CdS phân tán trong nước trong môi trường khí trơ
(khí N2) gồm những bước cơ bản sau:
Bước 1: Chuẩn bị dung dịch đệm và dung dịch
- Tạo dung dịch đệm: hòa Tris (303,75mg) vào 12,5ml nước cất sau đó cho
thêm 3,25ml dung dịch axit HCl (0,1M) vào và khuấy trên bếp từ. Tiếp tục thêm
lượng nước cất vừa đủ để có 50ml dung dịch đệm có pH = 8.9.
- Dung dịch đệm được cho vào bình ba cổ sau đó cho thêm Citrate, với lượng
citrate thay đổi trong các tỷ lệ w khác nhau được trình bày trong bảng 2.1.
- Chuẩn bị dung dịch (25,3mg) và 10ml nước cất khuấy trong 30 phút.
Bước 2: Quá trình tạo hạt CdSe.
- Đưa dung dịch vào dung dịch đã chuẩn bị, đồng thời tăng nhiệt độ từ
35-75 oC - Trong ethanol nguyên chất, với điều kiện sục khí N2 ở 450C, nguyên tố
selenium phản ứng với sodium borohydiride tạo thành dung dịch NaHSe/ethanol
450C
theo phản ứng:
N2
NaBH4+ Se+ 3C2H5OH NaHSe+ B(OC2H5)3+ 3H2 (2.1).
- Tạo khí H2Se: bằng cách nhỏ từ từ dung dịch H2SO4 loãng vào dung dịch
NaHSe/ethanol trong dung dịch ban đầu trong điều kiện sục khí N2 mạnh để tăng
tốc độ phản ứng tổng hợp các chấm lượng tử CdSe ở nhiệt độ ổn định:
Sục N2 mạnh
(2.2) NaHSe + H2SO4 H2Se + NaHSO4
Khí H2Se được đưa theo dòng chảy của khí N2 dẫn vào bình ba cổ phản ứng
với các ion Cd2+ dư đã được tính toán để có thể thực hiện hai quá trình tạo lõi CdSe
và vỏ CdS. Trong điều kiện khuấy trộn mạnh liên tục, các mầm tinh thể của các
nano tinh thể CdSe được hình thành và phát triển thành các nano tinh thể CdSe.
Hình 2.3 biểu diễn sơ đồ chế tạo nano tinh thể lõi CdSe trong môi trường nước.
Bước 3: Quá trình tạo vỏ bọc CdS cho các hạt nano CdSe
- Sau khi chế tạo được dung dịch có chứa các nano tinh thể CdSe với một lượng
dư Cd2+, để bọc thêm lớp vỏ CdS bên ngoài tạo thành dung dịch chứa các nano
tinh thể CdSe/CdS được tổng hợp bằng cách hòa muối Na2S.9H2O trong nước.
27
Với điều kiện sục khí N2 liên tục, sau đó nhỏ từ từ H2SO4 dư vào dung dịch
Na2S.9H2O trên:
H2S + Na2SO4 +9 H2O (2.3)
450C
Na2S.9H2O + H2SO4
- Dòng khí H2S đi vào dung dịch chứa các hạt CdSe lõi theo dòng chảy của khí
N2 trong điều kiện nhiệt độ từ 45-75 oC (Hình 2.3). Luồng khí nitơ được thổi liên
tục qua hệ thống các đường ống dẫn nhỏ, tạo môi trường trơ giúp các phản ứng
tạo hạt không bị ion hóa. Như vậy trong điều kiện khuấy trộn mạnh ở nhiệt độ
cao thì lớp vỏ CdS được hình thành bên ngoài lõi tinh thể CdSe và tạo thành các
nano tinh thể CdSe/CdS có cấu trúc lõi/vỏ. Lượng chất dùng chế tạo các hạt nano
CdSe và CdSe/CdS được trình bày chi tiết trên bảng 2.1.
Hình 2.3 Sơ đồ chế tạo hạt nano CdSe trong nước
Hình 2.4. Sơ đồ chế tạo các hạt nano CdSe/CdS trong nước
Bảng 2.1 Lượng hóa chất tương ứng chế tạo các hạt nano CdSe/CdS theo tỷ lệ w
w
Tris (mg) Se (mg)
NaBH4 (mg)
CdCl2 (mg)
Na2S (mg)
Citrate (mg)
28
303,75
1
2
2,5
25,334
6
70,56
1,5
303,75
2
2,5
25,334
6
105,38
303,75
2
2
2,5
25,334
6
141,2
2,5
303,75
2
2,5
25,334
6
176,4
303,75
3
2
2,5
25,334
6
211,68
303,75
5
2
2,5
25,334
6
352,80
Các hạt nano CdS/ZnS được chế tạo theo quy trình tương tự như quy trình chế tạo 2.1.2 Chế tạo các chấm lượng tử CdS/ZnS
các hạt nano CdSe/CdS. Các lõi nano CdS được chế tạo trước với sự lượng dư của ion S2- tương tự như chế tạo lõi CdSe ở trên nhưng được làm dư lưu huỳnh. Lượng ion dư S2-
này dùng để chế tạo lớp vỏ bọc ZnS. Các bước chế tạo hạt nano CdS/ZnS trong môi
trường khí nitơ sạch bao gồm các bước sau:
Bước 1: Quá trình tạo hạt CdS
- Thứ nhất, trisodium citrate dihydrate được cho vào dung dịch đệm tris –
HCl đựng trong bình ba cổ. Sau đó nhỏ giọt dung dịch cadmium cloride có chứa các ion Cd2+ vào dung dịch trên trong điều kiện khuấy trộn mạnh để thu được dung dịch chứa các ion Cd2+ được bao quanh bởi các phân tử trisodium citrate.
- Khí H2S bốc lên khi nhỏ chậm dung dịch H2SO4 0,05M vào dung dịch
Na2S trong điều kiện sục từ từ N2 để tổng hợp các hạt nano CdS ở nhiệt độ ổn định:
(2.4) Na2S + H2SO4 = H2S + NaSO4
- Khí H2S được đưa theo dòng chảy của khí N2 dẫn vào bình ba cổ phản ứng với các ion Cd2+. Trong điều kiện khuấy trộn mạnh liên tục, các mầm tinh thể
của các nano tinh thể CdS sẽ được hình thành và phát triển thành các nano tinh thể CdS. Lượng khí H2S ban đầu dư tạo thêm liên kết treo S2- trên bề mặt chấm CdS để
chế tạo lớp vỏ ZnS sau này.
Bước 2: Quá trình tạo lớp vỏ bọc ZnS cho các hạt CdS - Dung dịch ZnCl2 có chứa Zn2+ được nhỏ từ từ vào trong bình 3 cổ trong
điều kiện khuấy trộn mạnh. Tiếp tục tạo khí H2S như trên, được dẫn sang bình 3 cổ phản ứng với Zn2+ tạo thành lớp vỏ bọc.
Các bước chế tạo hạt nano CdS/ZnS được tóm tắt trên sơ đồ khối hình 2.5.
29
Các mẫu hạt nano CdS/ZnS lần đầu tiên được chế tạo trực tiếp trong nước với các
nồng độ chất bẫy citrate tương ứng với tỷ lệ w thay đổi là 2 và 5. Bảng 2.2 trình bày
lượng cân hóa chất để chế tạo các chấm lượng tử CdS/ZnS.
Bảng 2.2. Lượng hóa chất ứng chế tạo các hạt nano CdS/ZnS
w
2 5
Tris (mg) 303,75 303,75
Na2S (mg) 12 12
CdCl2 (mg) 7,1 7,1
ZnCl2 (mg) 3,4 3,4
Citrate (mg) 141,2 354,8
Hình 2.5. Sơ đồ quy trình chế tạo các hạt nano CdS/ZnS
2.2. Các phương pháp khảo sát tính chất của mẫu.
2.2.1. Kính hiển vi điện tử truyền qua
Kính hiển vi điện tử truyền qua (Transmission Electron Microscopy, viết tắt:
TEM) là một thiết bị nghiên cứu vi cấu trúc vật rắn, sử dụng chùm điện tử có năng
lượng cao chiếu xuyên qua mẫu vật rắn mỏng và sử dụng các thấu kính từ để tạo
30
ảnh với độ phóng đại lớn (có thể tới hàng triệu lần), ảnh có thể tạo ra trên màn
huỳnh quang, hay trên film quang học, hay ghi nhận bằng các máy chụp kỹ thuật số.
TEM đã có mặt trên thế giới hơn 70 năm qua, và đã trở thành một công cụ quan
trọng trong ngành khoa học vật liệu. Cho đến nay, kỹ thuật TEM ngày càng phát
triển và vẫn đang là một dụng cụ rất hiện đại dùng trong nghiên cứu hình dạng, kích
thước, sự phân bố các hạt… của các vật liệu có cấu trúc nanomet.
Hình 2.6. Sơ đồ khối kính hiển vi điện tử truyền qua TEM
Hình 2.7. Ảnh chụp kính hiển vi điện tử truyền qua JEM1010(JEOL)
Thiết bị hoạt động theo nguyên tắc phóng đại nhờ các thấu kính, tia điện tử
được sử dụng để xuyên qua vật chất có bước sóng rất ngắn phần trăm của Å. Các
thấu kính là thấu kính điện tử có tiêu cự thay đổi được, năng suất phân giải cỡ Å.
Kính hiển vi điện tử truyền qua có hình trụ cao khoảng 2m,có một nguồn phát xạ
điện tử trên đỉnh (súng điện tử) để phát ra chùm điện tử. Chùm này được tăng tốc
trong môi trường chân không cao,sau khi đi qua tụ kính,chùm điện tử tác dụng lên
mẫu mỏng, tuỳ thuộc vào từng vị trí của loại mẫu mà chùm điện tử bị tán xạ ít hoặc
nhiều. Mật độ điện tử truyền qua ngay dưới mặt mẫu phản ánh lại tình trạng của
mẫu,hình ảnh được phóng đại qua một loạt các thấu kính trung gian và cuối cùng
thu được trên màn huỳnh quang. Do vậy,ảnh hiển vi điện tử truyền qua là hình ảnh
bề mặt dưới của mẫu (ảnh đen trắng) thu được bời chùm điện tử truyền qua mẫu.
Một trong những ưu điểm của phương pháp hiển vi truyền qua là có thể dễ dàng
điều khiển thay đổi tiêu cự (bằng cách thay đổi dòng điện kích thích vào thấu kính)
31
nên có thể thay đổi tiêu cự của kính phóng để trên màn có ảnh hiển vi hay ảnh nhiễu
xạ,nhờ đó mà kết hợp biết được nhiều thông tin về cấu trúc,cách sắp xếp các nguyên
tử của mẫu nghiên cứu.Với độ phân giải cao cớ 2A0,độ phóng đại từ X50 tới
x1.500.000. TEM đóng vai trò quan trọng trong nghiên cứu siêu cấu trúc sinh vật,vi
sinh vật và các vật liệu nano.Sơ đồ khối của kính hiển vi điện tử truyền qua mô tả
trên hình 2.6. Các mẫu hạt nano chế tạo trong đề tài được đo bởi kính hiển vi điện
tử truyền qua JEM1010 (JEOL) thuộc Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương (hình 2.7).
2.2.1. Phép đo phổ hấp thụ
Phép đo phổ hấp thụ là phương pháp phân tích định lượng dựa vào hiệu ứng
hấp thụ xảy ra khi phân tử vật chất tương tác với bức xạ điện từ. Vùng bức xạ được
sử dụng trong phương pháp này là vùng tử ngoại gần hay khả kiến ứng với bước
sóng khoảng từ 200÷800nm. Hiện tượng hấp thụ bức xạ điện từ tuân theo định luật
Bouger – Lam bert – Beer. Quá trình hấp thụ xảy ra tương ứng với các chuyển dời
quang học từ một số trạng thái cơ bản ni đến một số trạng thái kích thích nj. Do có
hiệu ứng giam giữ lượng tử nên độ rộng vùng cấm hiệu dụng của các hạt nano
chấm lượng tử sẽ tăng khi kích thước của các chấm lượng tử giảm đi. Nhóm
nghiên cứu chúng tôi đã thực hiện đo phổ hấp thụ của các chấm lượng tử bán dẫn
CdSe/CdS và CdS/ZnS trong vùng nhìn thấy đến vùng tử ngoại gần. Qua thực
nghiệm, có thể quan sát được sự dịch chuyển bờ hấp thụ của các chấm lượng tử về
phía các bước sóng ngắn hơn (blue shift) so với bán dẫn khối.
Nguyên lý của hệ đo:
Nguồn sáng là đèn phát sáng trong vùng tử ngoại (UV) hoặc phát sáng trong
vùng nhìn thấy (Vis) được đưa qua hệ máy đơn sắc là hệ lăng kính hoặc cách tử
nhiễu xạ, để được tách ra thành các bước sóng đơn sắc. Mỗi ánh sáng đơn sắc sẽ
lần lượt được chia thành hai tia có cường độ như nhau nhờ một gương phản xạ bán
phần để so sánh. Một trong hai tia sáng sẽ được truyền qua một cuvet thạch anh
trong suốt có chứa dung dịch có chấm lượng tử cần nghiên cứu. Cường độ của tia
sáng truyền qua mẫu là I. Tia sáng còn lại được truyền qua một cuvet tương tự
nhưng chỉ chứa dung môi không chứa chấm lượng tử (dung dịch đệm). Cường độ
của tia sáng này khi truyền qua dung môi là Io. Cường độ của các tia sáng sẽ được
các detector ghi lại và so sánh trong cùng một điều kiện đo.
32
Hình 2.8. Sơ đồ hệ đo hấp thụ quang UV-Vis[25]
Nguyên tắc đo:
Chiếu một chùm tia sáng đơn sắc có cường độ I0 song song vào một môi
trường vật chất có bề dày l (cm) và nồng độ C (mol/l), chùm tia này sẽ bị môi
trường hấp thụ và truyền qua. Cường độ I của chùm tia truyền qua môi trường này
bị giảm theo định luật Lambert – Beer:
ln (I0/I) = K
hay: ln (I0/I)= lC
Trong đó: K- là hệ số hấp thụ
- số mol chất nghiên cứu đặt trên đường đi của bức xạ
Đại lượng ln(I0/I) gọi là mật độ quang (D) hay độ hấp thụ (A), là hệ số tắt
có giá trị bằng mật độ quang của dung dịch khi nồng độ chất hấp thụ bằng một đơn
vị và độ dày chất hấp thụ bằng một đơn vị. Hệ số chỉ phụ thuộc vào vật liệu hấp
thụ và bước sóng.
Độ truyền qua của môi trường: T= I / I0.
Sự hấp thụ thường tập trung vào từng vùng phổ, cho nên để thuận lợi, người
ta thường biểu diễn và xem xét từng vùng phổ riêng biệt như vùng tử ngoại, khả
kiến, hồng ngoại. Đường cong biểu diễn sự phụ thuộc của hệ số hấp thụ vào tần số
hoặc bước sóng gọi là đường cong hấp thụ (hay phổ hấp thụ). Mỗi chất đều hấp thụ
lọc lựa những tần số hay bước sóng khác nhau.
33
Các phép đo phổ hấp thụ được tiến hành trên hệ máy quang phổ Jasco V-600
(Nhật Bản) có ở phòng thí nghiệm Quang học Quang phổ, khoa Vật lí, trường Đại
học Sư phạm Thái Nguyên và hệ máy quang phổ UV-visible-Nir Absorption
Spectrophotometer (nhãn hiệu Cary 5000, Varian) có ở Viện Vật lý, Viện Khoa
học và Công nghệ Việt Nam.
2.2.3. Phép đo phổ huỳnh quang
Huỳnh quang là sự hồi phục bức xạ của điện tử từ mức kích thích xuống mức
cơ bản. Khi hấp thụ bức xạ, phân tử chuyển dời từ mức năng lượng cơ bản lên mức
năng lượng cao hơn. Nếu phân tử hấp thụ ánh sáng trong vùng nhìn thấy hoặc vùng
tử ngoại thì năng lượng hấp thụ sẽ ứng với các mức điện tử, như vậy sẽ có chuyển
dời điện tử trong phân tử từ quỹ đạo này sang quỹ đạo khác. Sau khi hấp thụ ánh
sáng, điện tử nhảy từ trạng thái cơ bản S0 lên các trạng thái kích thích đơn cao hơn
S1, S2… Từ trạng thái kích thích, điện tử trở về trạng thái cơ bản bằng các con
đường khác nhau: hồi phục không bức xạ và hồi phục bức xạ.
Hình 2.9. Sơ đồ chuyển dời quang học của các phân tử chất phát quang[3]
Phổ huỳnh quang là hàm phân bố năng lượng bức xạ của chất huỳnh quang theo
tần số hay bước sóng. Phổ huỳnh quang phụ thuộc vào thành phần và cấu trúc của các
tâm bức xạ và các tác nhân bên ngoài [1]. Phổ huỳnh quang có một số đặc điểm sau:
(1) Tần số huỳnh quang luôn bé hơn tần số của ánh sáng kích thích. Nghĩa là
năng lượng huỳnh quang nhỏ hơn năng lượng dùng để kích thích huỳnh quang. Độ
dịch của đỉnh phổ huỳnh quang so bới đỉnh hay bờ hấp thụ được gọi là ddooj dịch
Stokes.
(2) Dạng phổ huỳnh quang không phụ thuộc vào năng lượng ánh sáng kích
thích mà chỉ phụ thuộc vào bản chất của vật liệu phát quang.
34
Phổ huỳnh quang của các mẫu được đo trên phổ kế huỳnh quang Carry
Eclipse, nguồn kích là đèn Xenon tại Viện Vật lý, Viện khoa học và Công nghệ Việt
Nam; và hệ đo huỳnh quang nhãn hiệu FS 920 (Ediburgh – Anh) có tại phòng thí
nghiệm Quang học và Quang phổ – Khoa vật lí, Đại học Sư phạm – Đại học Thái
Nguyên.
Các hệ huỳnh quang này đều có nguồn sáng kích thích, hai máy đơn sắc có
cách tử kép.
Nguồn sáng kích thích là một đèn xenon Xenon được nuôi bằng nguồn và
được đặt trong hộp bảo vệ cùng với quạt làm nguội.
Máy đơn sắc thứ nhất tạo nguồn đơn sắc kích thích cho phép thay đổi bước
sóng kích thích vào mẫu, máy đơn sắc thứ hai để phân tích tín hiệu phát ra từ
mẫu.
Ánh sáng từ đèn xenon (công suất 450W) được chiếu qua máy đơn sắc thứ
nhất sau đó tới mẫu. Tín hiệu huỳnh quang từ mẫu phát ra được phân tích qua máy
đơn sắc thứ 2 và được thu bởi bộ nhân quang điện, sau đó qua bộ tách sóng tín hiệu
chuẩn và cuối cùng là được đưa vào bộ xử lí. Bộ xử lí vừa có chức năng phân tích
tín hiệu thu được, vừa có chức năng điều khiển hệ máy đơn sắc. Tín hiệu thu được
từ mẫu sẽ được ghép nối với máy tính. Một photodiode được đặt trước mẫu để theo
dõi sự thay đổi công suất nguồn sáng kích thích. Sơ đồ hệ đo huỳnh quang được mô
tả trên hình 2.10. Cấu hình của các hệ huỳnh quang compact được trình bày trên
hình 2.11. Hình 2.12 là ảnh chụp của hệ huỳnh quang FS920 ở Khoa Vật lý, Trường
Đại học Sư phạm – Đại học Thái nguyên.
Hình 2.10. Sơ đồ khối của phép đo quang huỳnh quang.
35
Hình 2.11. Cấu hình hệ đo huỳnh quang
Hình 2.12. Ảnh chụp hệ đo huỳnh quang nhãn hiệu FS 920 tại phòng thí nghiệm Quang học và Quang phổ – Khoa vật lí, Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên
36
Chương 3
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Kết quả chế tạo và các tính chất của các hạt nano chấm lượng tử
CdSe/CdS
Các hạt nano chấm lượng tử CdSe/CdS được chế tạo phân tán trong nước phát
xạ huỳnh quang các màu sắc khác nhau phụ thuộc vào kích thước của lõi CdSe. Dung
dịch các mẫu có đặc điểm trong suốt, mầu nâu nhạt. Kích thước của hạt CdSe được
thay đổi bằng cách thay đổi tỷ lệ w. Các lượng chất chế tạo được trình bày trong bảng
2.1. Nhóm nghiên cứu đã tiến hành chế tạo chấm lượng tử CdSe/CdS với các giá trị w
bằng 1, 1,5; 2; 2,5, 3, và 5 tương ứng với màu phát xạ huỳnh quang thu được trong
vùng ánh sáng từ đỏ cam đến xanh dương. Trong điều kiện thực hiện đề tàii luận văn,
tính chất quang của các chấm lượng tử CdSe/CdS dược khảo sát theo tỷ lệ w (hay tỷ lệ
nồng độ chất bẫy - chất điều khiển kích thước citrate) và thời gian phản ứng tạo mẫu
cho từng trường hợp.
3.1.1. Kết quả chế tạo các hạt nano chấm lượng tử CdSe/CdS
Hình 3.1 trình bày ảnh các mẫu dung dịch chấm lượng tử CdSe/CdS phân
tán trong nước dưới ánh sáng của đèn tử ngoại, phát xạ huỳnh quang với cường độ
khá mạnh với các màu sắc khác nhau tương ứng với các tỷ lệ w khác nhau. Ảnh
hiển vi điện tử truyền qua (TEM) (hình 3.2) cho thấy các hạt nano này khá đơn phân
tán trong nước và có dạng là các chấm nhỏ. Các chấm lượng tử này phân tán được
trong nước là do sự bảo vệ của chất hoạt động bề mặt citrate bám xung quanh các
hạt chấm lượng tử.
Hình 3.2. Ảnh TEM của một mẫu chấm lượng tử CdSe/CdS w = 2
Hình 3.1. Ảnh chụp các mẫu dung dịch chấm lượng tử CdSe/CdS dưới ánh sáng đèn tử ngoại phát xạ các màu từ phải sang trái là từ màu đỏ - cam đến xanh dương tương ứng với các giá trị w tăng dần là 1; 1,5; 2; 2,5; 3; và 5
37
3.1.2. Phổ hấp thụ của các chấm lượng tử CdSe, CdSe/CdS và đánh giá kích
thước của các chấm lượng tử CdSe qua phổ hấp thụ
Phổ hấp thụ quang học là một trong các phương pháp quan trọng và nhanh
nhất để đánh giá sự hình thành và ước tínhkích thước của các nano tinh thể. Do hiệu
ứng giam giữ lượng tử, độ rộng vùng cấm hiệu dụng của các chấm lượng tử sẽ được
mở rộng ra và lớn hơn so với độ rộng vùng cấm của vật liệu khối cùng thành phần.
Độ rộng này càng tăng lên khi kích thước hạt giảm đi. Do đó có thể quan sát được
sự dịch bờ hấp thụ về phía năng lượng cao hơn (hay bước sóng ngắn hơn) so với vị
trí độ rộng vùng cấm của bán dẫn khối.
Hình 3.3 và 3.4 lần lượt trình bày phổ hấp thụ của các chấm lượng tử CdSe
và CdSe/CdS với cùng một kích thước lõi CdSe được chế tạo với tỷ lệ w = 1 và w =
2, thời gian nuôi hạt CdSe là 1 giờ, thời gian bọc vỏ CdS là 5 giờ. Hai phổ hấp thụ
này cho thấy bờ hấp thụ của các hạt nano CdSe khi có lớp vỏ bọc dịch một khoảng
nhỏ về phía đỏ hoặc hầu như không dịch so với bờ hấp thụ của các chấm lượng tử
CdSe lõi (với w =1, độ dịch này là ~ 6 nm, w = 2 là hầu như không dịch). Điều này
chứng tỏ việc bọc vỏ CdS cho các hạt nano CdSe hầu như không làm ảnh hưởng
đến cấu trúc hay độ rộng vùng cấm hiệu dụng của các hạt nano CdSe. Có thể thấy
phổ hấp thụ của mẫu hạt nano CdSe và CdSe/CdS có bờ hấp thụ dịch khá nhiều về
phía sóng ngắn so với bờ hấp thụ của CdSe khối, (λCdSe khối ≈ 690 nm) chứng tỏ các
hạt nano này ở chế độ giam giữ lượng tử mạnh.
Hình 3.3. Phổ hấp thụ của các chấm lượng tử CdSe và CdSe/CdS với cùng một kích thước lõi CdSe được chế tạo với tỷ lệ w = 1
Hình 3.4. Phổ hấp thụ của các chấm lượng tử CdSe và CdSe/CdS với cùng một kích thước lõi CdSe được chế tạo với tỷ lệ w = 2
38
Hình 3.5 trình bày phổ hấp thụ của các hạt nano CdSe lõi (không có lớp vỏ
bọc CdS) được chế tạo trong cùng một điều kiện tương ứng với w = 1 nhưng thời
gian nuôi tinh thể (thời gian khuấy mẫu hay thời gian cho phản ứng) khác nhau (từ
1 giờ đến 7 giờ). Phổ hấp thụ này cho thấy, khi thời gian nuôi mẫu càng tăng thì bờ
hấp thụ càng dịch về đỏ. Sự dịch về phía đỏ của bờ hấp thụ khi thời gian nuôi tinh
thể tăng cho thấy kích thước hạt CdSe tăng theo thời gian chế tạo.
Hình 3.5. Phổ hấp thụ của các hạt nano CdSe được chế tạo với tỷ lệ w = 1 và thời gian nuôi mẫu khác nhau
Bờ hấp thụ quan sát thấy trên phổ hấp thụ sẽ tương ứng với dải hấp thụ thứ
nhất trong quá trình chuyển dời hấp thụ để đưa điện tử từ một mức năng lượng của
vùng hóa trị lên một mức năng lượng cao hơn nằm trong vùng dẫn hay chuyển dời
hấp thụ ứng với năng lượng thấp nhất. Chuyển dời hấp thụ với năng lượng thấp nhất
được gọi là chuyển dời hấp thụ cơ bản.. Từ chuyển dời này, kích thước của các của
các hạt nano CdSe sẽ được ước tính theo phương pháp gần đúng khối lượng hiệu
dụng bằng cách sử dụng công thức Effros, Brus và Kaynuma:
Hay
trong đó, E1s1s là năng lượng của bờ hấp thụ, Eg là độ rộng vùng cấm của bán dẫn
y là năng lượng Rydberg exciton, aB là bán kính Bohr exciton, a là bán kính
khối, R*
39
của chấm lượng tử. Phương trình này miêu tả sự dịch chuyển bờ hấp thụ do hiệu ứng
giam giữ lượng tử ở dạng không phụ thuộc vào các thông số vật liệu, nếu năng
y và chiều dài được đo theo đơn vị của aB.
lượng được đặt trong thang đơn vị R*
Đối với các chấm lượng tử CdSe chúng ta sử dụng các số liệu sau: aB = 5,3 nm
Độ rộng vùng cấm của bán dẫn khối CdSe: Eg = 1,8 eV
Hằng số điện môi: 9,4
* = 0,13mo ; mh
* = 0,45 mo
Khối lượng hiệu dụng của điện tử và lỗ trống: me
Khối lượng của điện tử tự do: mo = 9,1.10-31 kg
Năng lượng Rydberg:
Bảng 3.1 trình bày độ rộng vùng cấm và kích thước hạt CdSe phụ thuộc vào
thời gian nuôi mẫu trong cùng điều kiện w = 1. Như vậy, để điều khiển kích thước
hạt hay điều khiển màu phát xạ của các chấm lượng tử như mong muốn, thời gian
chế tạo mẫu (thời gian khuấy hay thời gian nuôi tinh thể) cần phải được lựa chọn
thích hợp.
Bảng 3.1. Bán kính lõi CdSe theo thời gian nuôi mẫu
Thời gian nuôi mẫu (giờ)
Đỉnh (bờ) hấp thụ (nm)
Độ rộng vùng cấm (eV)
Bán kính hạt CdSe (nm)
1 3 7
574 577 582
2.153 2.149 2.138
3.5 3.6 3.7
Các nghiên cứu khác trong nhóm đối với các mẫu chấm lượng tử CdSe và
CdSe/CdS được chế tạo các tỷ lệ w khác nhau cũng cho kết quả tương tự: bờ hấp thụ
của các hạt nano CdSe/CdS là không dịch chuyển nhiều hoặc hầu như không dịch so
với bờ hấp thụ của của chấm lượng tử CdSe lõi được chế tạo cùng kích thước. Do đó từ
bờ hấp thụ của các hạt nano CdSe/CdS chúng ta có thể suy ra độ rộng vùng cấm của lõi
CdSe tương ứng, từ đó có thể đánh giá kích thước của các hạt CdSe.
Hình 3.6 trình bày phổ hấp thụ của các mẫu CdSe/CdS với tỷ lệ w là 1; 1,5;
2; 2,5; 3; và 5 với cùng thời gian chế tạo lõi CdSe và vỏ CdS. Từ phổ hấp thụ này
có thể quan sát thấy bờ hấp thụ của các mẫu nhưng không quan sát thấy đỉnh hấp
thụ. Nguyên nhân có thể do môi trường nước/citrate ảnh hưởng đến phổ hấp thụ. Bờ
hấp thụ của các mẫu này được đánh giá một cách tương đối là 582; 574; 565; 560;
40
525; và 505 nm tương ứng với các tỷ lệ w =1; 1,5; 2; 2,5; 3; và 5. Có thể thấy khi tỷ
lệ w tăng (tương ứng với nồng độ chất bẫy citrate tăng), bờ hấp thụ của các mẫu
càng dịch về phía sóng ngắn hay độ rộng vùng cấm hiệu dụng của các hạt nano
CdSe/CdS càng được mở rộng. Kích thước các hạt nano lõi CdSe được ước tính từ
phổ hấp thụ qua bảng 3.2. Như vậy, mẫu có nồng độ chất bẫy càng lớn thì sự dịch
của bờ hấp thụ về phía sóng ngắn càng nhiều tương ứng với kích thước hạt CdSe
càng nhỏ. Kết quả này cho phép ta điều chỉnh kích thước hạt theo tỷ lệ chất bẫy.
Hình 3.6. Phổ hấp thụ của các chấm lượng tử CdSe/CdS với tỷ lệ w khác nhau
Bảng 3.2. Bán kính lõi CdSe của các chấm lượng tử CdSe/CdS với các tỉ lệ w khác nhau
Tỷ lệ w
Bờ hấp thụ (nm)
Màu phát xạ
Độ dịch của bờ hấp thụ so độ rộng vùng cấm của bán dẫn CdSe khối (eV) 0,33 0,36 0,40 0,42 0,57 0,66
582 574 565 560 525 505
Đỏ-cam Cam Vàng Vàng chanh Xanh lơ Xanh dương
Bán kính a của hạt CdSe (nm) 3,7 3,6 3,4 3,4 2,9 2,6
1 1.5 2 2.5 3 5 Hình 3.7 minh họa sự phụ thuộc của độ rộng vùng cấm và bán kính của các
hạt nano CdSe vào nồng độ chất bẫy w. Từ đồ thị này ta thấy, khi tỉ lệ chất bẫy bề
41
mặt tăng thì độ rộng vùng cấm sẽ tăng còn kích thước của các chấm lượng tử sẽ
giảm (bờ hấp thụ dịch về phía sóng ngắn hơn). Kết quả này cho phép điều chỉnh
kích thước hạt nhờ thay đổi tỉ lệ chất bẫy.
Hình 3.7. Đồ thị sự phụ thuộc của độ rộng vùng cấm và bán kính của các hạt nano CdSe
vào nồng độ chất bẫy citrate
3.1.3. Phổ huỳnh quang của các chấm lượng tử CdSe và CdSe/CdS
So sánh phổ huỳnh quang của các hạt nano chấm lượng tử CdSe/CdS với phổ
huỳnh quang của các hạt nano lõi CdSe trong cùng điều kiện sẽ cho thông tin về cấu
trúc của các hạt nano CdSe/CdS. Hình 3.8 và 3.9 lần lượt trình bày phổ huỳnh
quang của các chấm lượng tử CdSe/CdS so sánh với phổ huỳnh quang của các hạt
nano CdSe lõi trong cùng điều kiện chế tạo với tỷ lệ w = 1 và w= 2 với cùng thời
gian khuấy lõi CdSe là 1 giờ. Các phổ này cho thấy, đỉnh phát xạ huỳnh quang của
các hạt nano CdSe/CdS bị dịch về phía sóng dài so với đỉnh phát xạ huỳnh quang
của các hạt nano CdSe. Đỉnh phổ huỳnh quang quan sát thấy với CdSe là 590 nm
(tương ứng với w = 1) và 580 (tương ứng với w = 2) trong khi đỉnh phổ huỳnh
quang của CdSe/CdS là 605 nm (tương ứng với w = 1) và 587 nm (tương ứng với w
= 2). Trước hết, chúng ta thấy rằng phát xạ ở 605 nm của các chấm lượng tử
CdSe/CdS chính là phát xạ của bán dẫn CdSe lõi, không thể là phát xạ của bán dẫn
42
CdS vì bán dẫn khối CdS có độ rộng vùng cấm là 2,5 eV (tương ứng với phát xạ ở
bước sóng 500 nm). Kết quả này cũng phù hợp với kết quả đo phổ hấp thụ: bờ hấp
thụ của các hạt nano CdSe/CdS dịch về phía đỏ (dù không nhiều) so với bờ hấp thụ
của CdSe. Cường độ phát xạ của các hạt nano CdSe/CdS tăng lên rất nhiều so với
cường độ phát xạ của các chấm lượng tử CdSe lõi chứng tỏ lớp bán dẫn CdS đã tạo
thành lớp vỏ bọc xung quanh các hạt nano CdSe để hạn chế các trạng thái bề mặt,
làm giảm các tái hợp không bức xạ làm cường độ huỳnh quang tăng lên.
Đối với các mẫu chấm lượng tử được chế tạo với các tỷ lệ w khác, kết quả
thu được cũng tương tự: cường độ huỳnh quang của các hạt nano CdSe/CdS tăng
lên gấp nhiều lần so với các hạt nano CdSe không có lớp vỏ bọc CdS.
Hình 3.8. Phổ huỳnh quang của các chấm lượng tử CdSe và CdSe/CdS với cùng một lõi CdSe được chế tạo với tỷ lệ w = 1
Hình 3.9. Phổ huỳnh quang của các chấm lượng tử CdSe và CdSe/CdS với cùng một lõi CdSe được chế tạo với tỷ lệ w = 2
Trên phổ huỳnh quang, chúng ta còn quan sát thấy sự dịch đỏ của phổ huỳnh
quang của các chấm lượng tử CdSe/CdS so với các chấm lượng tử CdSe. Sự dịch đỏ
này có thể giải thích là do sự mất mát điện tử do xuyên ngầm exciton từ lõi CdSe
sang vỏ CdS [3] hoặc có thể giải thích theo hiệu ứng kích thước do sự giam giữ
lượng tử, giam giữ điện tử và các ứng suất bên trong [3]. Tuy nhiên, sự dịch đỉnh
phổ này là không nhiều và không làm ảnh hưởng tới mục tiêu chế tạo các chấm
lượng tử. Sự dịch đỏ của phổ phát xạ đối với các chấm lượng tử CdSe khi được bọc
thêm một lớp vỏ vô cơ là một bán dẫn khác có độ rộng vùng cấm lớn hơn bán dẫn
CdSe trong các công trình khác và các chấm lượng tử được chế tạo theo phương
43
pháp khác (ví dụ phương pháp sử dụng dung môi hữu cơ ở nhiệt độ cao) cũng
thường xuyên được quan sát thấy.
Hình 3.10 và 3.11 lần lượt trình bày phổ huỳnh quang và phổ huỳnh quang
chuẩn hóa của các tinh thể nano CdSe lõi theo thời gian nuôi mẫu là 1, 3, và 7 giờ
dưới kích thích của bước sóng 470 nm ở nhiệt độ phòng. Có thể thấy, khi thời gian
nuôi mẫu tăng, đỉnh phổ huỳnh quang dịch về phía sóng dài nhưng sự dịch này
không nhiều. Sự dịch này cũng phù hợp với sự dịch của bờ hấp thụ: bờ hấp thụ dịch
về phía sóng dài tương ứng với thời gian nuôi mẫu tăng. Sự dịch đỏ của phổ huỳnh
quang của các hạt nano CdSe khi thời gian nuôi mẫu tăng cũng được quan sát thấy
đối với tất cả các mẫu hạt nano CdSe chế tạo với các tỷ lệ w khác. Như vậy có thể
điều khiển được sự phát xạ của các chấm lượng tử thông qua thời gian nuôi mẫu.
Hình 3.10. Phổ huỳnh quang của các hạt nano CdSe được chế tạo với tỷ lệ w = 1 và thời gian nuôi mẫu khác nhau
Hình 3.11. Phổ huỳnh quang chuẩn hóa của các hạt nano CdSe được chế tạo với tỷ lệ w = 1 và thời gian nuôi mẫu khác nhau
Hình 3.10 cho thấy, khi thời gian nuôi mẫu tăng, cường độ huỳnh quang lại
giảm. Điều này có thể giải thích do phương pháp chế tạo dùng các phân tử citrate để
phân tán được các chấm lượng tử trong nước, khi thời gian khuấy tăng, các phân tử
citrate có thể phân bố không đều trên bề mặt các chấm lượng tử, gây ra sự mất cân
bằng điện tích trên bề mặt [19], làm cường độ huỳnh quang giảm. Tuy nhiên thực tế
cho thấy, nếu bảo quản mẫu trong một thời gian sau khi chế tạo, dung dịch mẫu đạt
ổn định về cân bằng điện tích, cường độ huỳnh quang lại tăng trở lại.
44
Hình 3.12 trình bày phổ huỳnh quang của các mẫu chấm lượng tử với tỷ lệ w
lần lượt là 1; 1,5; 2; 2,5; 3; và 5 với cùng điều kiện chế tạo.Các đỉnh phát xạ tương
ứng với các màu phát xạ khác nhau được trình bày ở bảng 3.3.
Từ phổ huỳnh quang và bảng 3.3 ta có thể thấy rằng khi nồng độ citrate tăng,
đỉnh phổ huỳnh quang dịch về phía bước sóng ngắn tương ứng với sự dịch về phía
sóng ngắn của bờ hấp thụ. Tuy nhiên với tỷ lệ w = 3 và 5 kết quả cường độ huỳnh
quang thấp được quan sát thấy. Nguyên nhân có thể do các hạt nano CdSe/CdS
trong mẫu bị kết dính. Điều này có thể giải thích rằng khi nồng độ citrate tăng lớn
thì sự mất cân bằng điện tích xảy ra sẽ dẫn tới sự kết đám của các hạt nano xảy ra
nhiều hơn [19], cường độ huỳnh quang thấp. Với mẫu có tỷ lệ w là 1; 1,5 và 2 thì
cường độ huỳnh quang cao hơn, phổ đối xứng. Hình 3.13 trình bày phổ huỳnh
quang chuẩn hóa của các mẫu chấm lượng tử này. Độ bán rộng của các phổ huỳnh
quang này cũng được trình bày trên bảng 3.3.
Hình 3.12. Phổ huỳnh quang của các chấm lượng tử CdSe/CdS với các tỷ lệ w là 1; 1,5; 2; 2.5; 3 và 5 dưới bước sóng kích thích 480 nm ở nhiệt độ phòng
Hình 3.14 minh họa sự phụ thuộc của cực đại phát xạ huỳnh quang và bán
kính của các hạt nano CdSe/CdS vào nồng độ chất bẫy w. Từ đồ thị này ta thấy, khi
tỉ lệ chất bẫy bề mặt tăng thì đỉnh phát xạ huỳnh quang càng lệch về phía sóng ngắn
tương ứng với độ rộng vùng cấm tăng và kích thước của các chấm lượng tử giảm.
Như vậy bước sóng cực đại phát xạ và kích thước hạt CdSe cùng giảm khi nồng độ
citrate tăng. Kết quả này phù hợp với kết quả đo phổ hấp thụ hình 3.6. Từ đây cho
45
thấy, thí nghiệm cho phép có thể điều chỉnh màu phát xạ của các hạt nano
CdSe/CdS nhờ thay đổi tỉ lệ chất bẫy.
Hình 3.13. Phổ huỳnh quang chuẩn hóa của các chấm lượng tử CdSe/CdS với các tỷ lệ w là 1; 1,5; 2; 2.5; 3 và 5 dưới bước sóng kích thích 480 nm ở nhiệt độ phòng
Bảng 3.3. Phát xạ huỳnh quang của các chấm lượng tử CdSe/CdS với các tỉ lệ w khác nhau
Tỷ lệ w
Độ rộng phổ huỳnh quang (nm)
1 1.5 2 2.5 3 5
Đỉnh phát xạ huỳnh quang (nm) 605 598 584 567 556 529
40 45 56 55 61 45
Màu phát xạ Đỏ-cam Cam Vàng Vàng chanh Xanh lơ Xanh dương
Sự phát xạ huỳnh quang của các mẫu hạt nano CdSe/CdS cũng được khảo sát
theo thời gian nuôi lớp vỏ CdS. Hình 3.15 trình bày phổ huỳnh quang của các hạt
nano CdSe/CdS được chế tạo với tỷ lệ w = 1, thời gian nuôi lõi CdSe là 9 giờ và
thời gian nuôi vỏ CdS khác nhau. Phổ huỳnh quang này cho thấy, khi thời gian nuôi
lớp vỏ tăng từ 1 giờ đến 60 giờ, đỉnh phổ huỳnh quang bị lệch rất ít về phía sáng dài
(đỉnh huỳnh quang là 607 nm đối với mẫu CdSe/CdS được nuôi vỏ CdS 1 giờ; và
đỉnh huỳnh quang là 609 nm đối với mẫu CdSe/CdS được nuôi vỏ CdS 60 giờ). Sự
lệch không nhiều này cho thấy phát xạ của các hạt nano CdSe/CdS được bảo toàn
khi tăng thời gian nuôi lớp vỏ, hay nói cách khác, thời gian nuôi vỏ không làm ảnh
46
hưởng tới cấu trúc vùng năng lượng của các hạt nano CdSe/CdS. Sự dịch đỏ khi
tăng thời gian nuôi vỏ CdSe có thể giải thích là khi thời gian nuôi vỏ tăng, lớp vỏ
bọc CdS quanh các hạt nano CdSe càng được hình thành nhiều hơn làm hiệu ứng
kích thước – vỏ tăng lên gây ra sự dịch đỏ, dù không nhiều. Cường độ huỳnh quang
quan sát thấy cũng có thay đổi (không nhiều) khi tăng thời gian nuôi vỏ có thể được
giải thích do ảnh hưởng của các phân tử citrate gây nên sự mất cân bằng điện tích
trong quá trình nuôi vỏ.
Hình 3.14. Đồ thị sự phụ thuộc của bước sóng của cực đại phát xạ huỳnh quang và bán kính của các hạt nano CdSe vào nồng độ chất bẫy citrate
Hình 3.15. Phổ huỳnh quang của các hạt nano CdSe/CdS được chế tạo với tỷ lệ w = 1, thời gian nuôi lõi CdSe là 9 giờ và thời gian nuôi vỏ CdS khác nhau
47
Các kết quả thu được khi chế tạo các hạt nano CdSe/CdS cho thấy, có thể
điều khiển màu phát xạ và chất lượng các hạt nano thông qua điều khiển các điều
kiện chế tạo (tỷ lệ nồng độ chất bẫy citrate, thời gian nuôi mẫu) để có được các hạt
nano CdSe/CdS có các tính chất quang như mong muốn.
3.1.4. Khảo sát độ bền quang của các hạt nano CdSe/CdS
Kết quả nghiên cứu cho thấy các hạt nano CdSe/CdS đã chế tạo có độ bền
quang khá tốt, hứa hẹn là một chất đánh dấu huỳnh quang tốt trong sinh học. Hình
3.16 trình bày sự phụ thuộc của cường độ huỳnh quang của các hạt nano CdSe/CdS
chế tạo với w = 5 vào thời gian chiếu ánh sáng kích thích của laser tử ngoại Cd-He
442 nm, mật độ kích thích là 3,2 mW/cm2, đo ở nhiệt độ phòng. Chúng ta có thể
thấy là sau gần 2 giờ chiếu sáng, cường độ huỳnh quang hầu như không giảm chứng
tỏ sự dập tắt quang ở đây là không đáng kể. Có thể thấy, trong khoảng thời gian là
30 phút đầu, cường độ huỳnh quang tăng nhẹ. Hiện tượng này có thể được giải thích
như sau: Với mật độ kích thích không cao (3,2 mW/cm2), việc kích thích này đã tạo
hiệu ứng ủ laser đối với tinh thể chấm lượng tử làm tăng cường độ huỳnh quang.
Thực tế cho thấy, với mật độ kích thích cao hơn, cường độ huỳnh quang sau nhiều
giờ chiếu sáng sẽ giảm, tuy nhiên sự giảm này không nhiêu (khoảng 10 % sau 2 giờ
chiếu sáng với mật độ công suất trên 5 mW/cm2. Nguyên nhân là do, khi mật độ
kích thích cao, chùm laser chiếu đến các hạt nano tạo ra các sai hỏng trong tinh thể
làm tăng tái hợp bề mặt, do đó cường độ huỳnh quang giảm. Như vậy để ứng dụng
các hạt nnao chấm lượng tử trong các thí nghiệm chiếu sáng trong một khoảng thời
gian dài, mật độ công suất chiếu kích thích cũng cần được quan tâm và điều chỉnh.
Hình 3.16. Sự phụ thuộc của cường độ huỳnh quang vào thời gian chiếu ánh sáng kích thích của các hạt nano CdSe/CdS
48
3.2. Kết quả chế tạo và các tính chất của các hạt nano chấm lượng tử
CdS/ZnS
Các hạt nano chấm lượng tử CdS/ZnS lần đầu tiên được nghiên cứu chế tạo
phân tán trong môi trường nước sử dụng citrate làm chất bẫy bề mặt. Các mẫu dung
dịch chấm lượng tử này được chế tạo cũng có đặc điểm trong và đồng nhất, có mầu
vàng trắng nhạt. Kích thước của hạt nano CdS lõi được thay đổi bằng cách thay đổi tỷ
lệ w. Các lượng chất chế tạo được trình bày trong bảng 2.2. Nhóm nghiên cứu đã tiến
hành chế tạo chấm lượng tử CdS/ZnS với các giá trị w bằng 2 và 5 tương ứng với màu
phát xạ huỳnh quang thu được trong vùng ánh sáng xanh lục – xanh lam.
3.2.1. Kết quả chế tạo các hạt nano chấm lượng tử CdS/ZnS
Hình 3.17 trình bày ảnh các mẫu dung dịch chấm lượng tử CdS/ZnS phân
tán trong nước dưới ánh sáng của đèn tử ngoại, phát xạ huỳnh quang trong vùng
xanh.. Ảnh hiển vi điện tử truyền qua (TEM) (hình 3.18) cho thấy các hạt nano này
cũng khá đơn phân tán trong nước và có dạng là các chấm nhỏ. Các chấm lượng tử
này phân tán được trong nước là do sự bảo vệ của chất hoạt động bề mặt citrate bám
xung quanh các hạt chấm lượng tử.
Hình 3.17. Ảnh chụp các mẫu dung dịch chấm lượng tử CdSe/CdS dưới ánh sáng đèn tử ngoại phát xạ các màu xanh tương ứng với w=2 và w=5
Hình 3.18. Ảnh TEM của một mẫu chấm lượng tử CdS/ZnS w = 5
3.2.2. Phổ hấp thụ của các chấm lượng tử CdS và CdS/ZnS
Đối với các mẫu chấm lượng tử CdS chế tạo trong nước không có lớp vỏ
bọc ZnS, phổ hấp thụ cho kết quả không quan sát được bờ hấp thụ của mẫu. Dạng
phổ hấp thụ là một đường với nhiều đỉnh chồng chập kéo dài từ 350 đến 700 nm,
nền hấp thụ dâng cao thậm chí trong khoảng từ 500 đến 700 nm (500 nm là bước
sóng tương ứng với bờ hấp thụ của bán dẫn CdS khối). Kết quả này cho thấy các hạt
nano CdS chưa được hình thành hoàn hảo. Theo chúng tôi, có thể nhiều hạt chưa
49
tạo thành cấu trúc tinh thể, vẫn còn ở dạng vô định hình hoặc tạo thành các đám vô
định hình. Kết quả đo phổ hấp thụ của các mẫu hạt nnao CdS lõi không được trình
bày ở đây.
Các hạt nano CdS sau khi được bọc thêm lớp vỏ bọc ZnS thì đã có thể quan
sát được bờ hấp thụ. Điều này chứng tỏ việc tạo thêm lớp vỏ bọc ZnS làm bề mặt
các hạt CdS hoàn hảo hơn. Hình 3.19 và 3.20 lần lượt trình bày phổ hấp thụ của các
chấm lượng tử CdS/ZnS được chế tạo với tỷ lệ w = 2 và w = 5, với thời gian nuôi
các hạt CdS lõi là 5 giờ, thời gian nuôi lớp vỏ là 5 giờ. Hai phổ hấp thụ này cho
thấy hình dạng dốc, thậm chí tại vị trí bờ hấp thụ của bán dẫn CdS khối (tại bước
sóng ~500 nm) phổ hấp thụ cũng có dạng dốc. Tuy nhiên dạng phổ hấp thụ của các
hạt nano CdS/ZnS quan sát thấy đã giống với dạng phổ hấp thụ thường có của các
chấm lượng tử. Kết quả này cho thấy mẫu chế tạo được có thể còn nhiều lượng chất
chưa phản ứng hết hoặc các hạt nano chế tạo được chưa hoàn hảo, phân bố kích
thước chưa đều hoặc các hạt có thể còn bị dính vào nhau.
Hình 3.19. Phổ hấp thụ của hạt nano CdS/ZnS được chế tạo với tỉ lệ w=2
Hình 3.20. Phổ hấp thụ của hạt nano CdS/ZnS được chế tạo với tỉ lệ w=5
Tuy nhiên từ hai phổ hấp thụ hình 3.19 và 3.20, chúng ta cũng có thể xác định
được đỉnh (bờ) hấp thụ của các chấm lượng tử CdS/ZnS. Các bờ hấp thụ này ở ~
447 nm (tương ứng với w = 2) và ~ 435 nm (tương ứng với w = 5). Các bờ hấp thụ
khối ~500 nm). Sự dịch nhiều về phía sóng xanh của các đỉnh hấp thụ cho thấy các
này đều dịch nhiều về phía sóng xanh so với bờ hấp thụ của bán dẫn khối CdS (CdS
hạt nano CdS cũng thuộc về chế độ giãm giữ lượng tử mạnh. Do sự giam giữ lượng
tử, các tinh thể nano có độ rộng vùng cấm hiệu dụng mở rộng so với bán dẫn khối
cùng thành phần, và độ rộng vùng cấm của các tinh thể nano tăng khi kích thước
50
của hạt giảm. Phổ hấp thụ cho thấy, khi tỉ lệ w càng lớn thì bờ hấp thụ của chấm
lượng tử CdS/ZnS càng bị dịch nhiều về phía sóng ngắn so với bờ hấp thụ của bán
dẫn CdS khối, tương ứng với kích thước của các hạt nano CdS càng nhỏ.
Từ các phổ hấp thụ này, kích thước của các hạt nano lõi CdS cũng được ước
tính theo công thức Efros, Brus và Kayanuma như đối với các chấm lượng tử CdSe:
Trong đó, E1s1s là năng lượng của đỉnh hấp thụ thứ nhất hoặc bờ hấp thụ, Eg là độ
y là năng lượng Rydberg exciton, aB là bán kính
rộng vùng cấm của bán dẫn khối, R*
Bohr exciton, a là bán kính của hạt nano. Đối với các hạt nano CdS chúng ta sử dụng
các số liệu sau:
aB = 3,1 nm;
Độ rộng vùng cấm của bán dẫn khối CdS: Eg = 2,5 eV
* = 0,21mo ; mh
* = 0,68 mo
Hằng số điện môi: 9,4
Khối lượng hiệu dụng của điện tử và lỗ trống: me Khối lượng của điện tử tự do: mo = 9,1.10-31 kg
Năng lượng Rydberg:
Kích thước của các lõi CdS được ước tính theo bảng 3.4.
Bảng 3.4. Bán kính lõi CdS của các chấm lượng tử CdS/ZnS với các tỉ lệ w khác nhau
Tỷ lệ w
Bờ hấp thụ (nm)
Bán kính a của hạt CdS (nm) 2,9 2,5
2 5
447 435
Độ dịch của bờ hấp thụ so độ rộng vùng cấm của bán dẫn CdS khối (eV) 0,3 0,4
Để nghiên cứu tính chất phát xạ của các mẫu dung dịch chấm lượng tử CdS và
3.2.2. Phổ huỳnh quang của các chấm lượng tử CdS và CdS/ZnS
CdS/ZnS, các mẫu này đã được tiến hành đó phổ huỳnh quang dưới bước sóng kích
thích 310nm của đèn Xenon.
Hình 3.21 và 3.22 lần lượt trình bày phổ huỳnh quang của các chấm lượng tử
CdS và CdS/ZnS được chế tạo với w = 2 trong cùng điều kiện. Hai phổ huỳnh
quang này xuất hiện cực đại phát xạ với cường độ lớn ở bước sóng ~ 470 nm và ~
51
485 nm. Đây là phát xạ của các hạt nano CdS, và bị dịch về phía sóng ngắn khá
nhiều so với bờ hấp thụ của bán dẫn CdS khối. Phát xạ ở 485 nm của mẫu CdS/ZnS
chính là phát xạ của các lõi hạt nano CdS, không phải của vỏ ZnS vì bán dẫn ZnS
có độ rộng vùng cấm ở nhiệt độ phòng là 3,54 eV đối với cấu trúc tinh thể lập
phương (tương đương với bước sóng 350 nm) và 3,91 eV đối với cấu trúc tinh thể
lục giác (tương đương với bước sóng 317 nm). Phát xạ của các hạt nano CdS bị dịch
về phía đỏ khi có thêm lớp vỏ bọc là bán dẫn ZnS cũng có thể giải thích là do sự
mất mát điện tử do xuyên ngầm exciton từ lõi CdS sang vỏ ZnS [3] hoặc có thể giải
thích theo hiệu ứng kích thước do sự giam giữ lượng tử, giam giữ điện tử và các
ứng suất bên trong [3] tương tự như các chấm lượng tử CdSe/CdS.
Trên phổ huỳnh quang 3.21 còn quan sát thấy 2 cực đại phát xạ ở ~ 357 và
401 nm. Các cực đại này xuất hiện có thể do các hạt CdS có kích thước nhỏ hơn hay
nói cách khác, kích thước các hạt trong mẫu không đồng đều.
Phổ phát xạ huỳnh quang của các chấm lượng tử CdS/ZnS có cường độ
tương đối cao hơn hai lần so với cường độ của các chấm lượng tử CdS không có lớp
vỏ ZnS cho thấy phần nào vai trò thụ động hóa bề mặt của lớp vỏ bọc. Tuy nhiên
cường độ phát xạ vẫn chưa phải là quá cao như mong muốn, hơn nữa, các phát xạ
bề mặt của các chấm lượng tử CdS/ZnS vẫn còn được quan sát thấy nên vẫn cần
phải có thêm nhiều nghiên cứu để có các mẫu chấm lượng tử CdS/ZnS với chất
lượng tốt hơn.
Hình 3.21. Phổ huỳnh quang của các hạt nano CdS được chế tạo với tỉ lệ w=2
Hình 3.22. Phổ huỳnh quang của các hạt nano CdS/ZnS được chế tạo với tỉ lệ w=2
Hình 3.23 và 3.24 lần lượt trình bày phổ huỳnh quang của các chấm lượng tử
CdS và CdS/ZnS được chế tạo với w = 5 trong cùng điều kiện. Hai phổ huỳnh
quang này cũng tương tự như trường hợp các chấm lượng tử CdS và CdS/ZnS được
52
chế tạo với w = 2 trình bày ở trên. Kích thước hạt CdS trong mẫu chưa đồng đều
(xuất hiện thêm cực đại phát xạ với cường độ thấp hơn tại 400 nm bên cạnh cực đại
phát xạ chính 456 nm của các hạt nano CdS – hình 3.23). Kết quả bọc vỏ ZnS cho
các hạt nano CdS đối với trường hợp này cũng chưa được hoàn hảo, phổ phát xạ
vẫn còn quan sát thấy phát xạ bề mặt bên cạnh phát xạ nội tại của các hạt nano CdS
ở 463 nm (hình 3.24). Phổ huỳnh quang của hạt nano chấm lượng tử CdS/ZnS chế
tạo với tỷ lệ w = 5 cũng bị dịch đỏ so với các chấm lượng tử CdS không có lớp vỏ
ZnS trong cùng điều kiện.
Hình 3.23. Phổ huỳnh quang của các hạt nano CdS được chế tạo với tỉ lệ w=5 Hình 3.24. Phổ huỳnh quang của các hạt nano CdS/ZnS được chế tạo với tỉ lệ w=5
Qua các kết quả nghiên cứu trên ta thấy việc bọc vỏ ZnS cho các hạt nano
CdS có vẻ khó khăn hơn rất nhiều so với việc chế tạo các chấm lượng tử CdSe/CdS
cũng trong môi trường nước. Nguyên nhân ngoài sự phụ thuộc vào bản chất vật liệu
còn có thể do sự lệch mạng giữa bán dẫn ZnS với bán dẫn CdS là lớn hơn nhiều so
với sự lệch mạng giữa bán dẫn CdS với bán dẫn CdSe. Cần có thêm nhiều nghiên
cứu hơn nữa trong việc chế tạo các hạt nano CdS/ZnS phân tán trong môi trường
nước để có các hệ chấm lượng tử chất lượng tốt.
Tương tự như trường hợp chế tạo các hạt nano CdSe và CdSe/CdS, phát xạ
của các chấm lượng tử CdS và CdS/ZnS cũng phụ thuộc vào tỷ kệ w (hay phụ thuộc
vào nồng độ chất bẫy citrate). Hình 3.25 và 3.26 lần lượt trình bày phổ huỳnh quang
chuẩn hóa của các hạt nano CdS và CdS/ZnS với các tỷ lệ w là 2 và 5. Các phổ này
cho thấy, khi w càng lớn (nồng độ citrate càng lớn), đỉnh phổ huỳnh quang bị lệch
53
về phía sóng ngắn hơn hay kích thước hạt CdS càng nhỏ. Như vậy có thể điều khiển
màu phát xạ theo nồng độ chất bẫy citrate.
Hình 3.25. Phổ huỳnh quang chuẩn hóa của các hạt nano CdS được chế tạo với tỷ lệ w = 2 và w = 5
Hình 3.26. Phổ huỳnh quang chuẩn hóa của các hạt nano CdS/ZnS được chế tạo với tỷ lệ w = 2 và w = 5
54
KẾT LUẬN
1. Đề tài luận văn đã chế tạo thành công các chấm lượng tử CdSe/CdS phân tán
trong nước sử dụng chất bẫy citrate. Các mẫu chế tạo được là các dung dịch trong suốt
có chứa các hạt nano chấm lượng tử CdSe/CdS. Các mẫu này phát xạ huỳnh quang
mạnh dưới ánh sáng đèn tử ngoại, màu phát xạ phụ thuộc vào kích thước của hạt CdSe:
Cường độ phát xạ huỳnh quang của các chấm lượng tử CdSe/CdS tăng mạnh
hơn so với các hạt CdSe không có vỏ bọc CdS.
Kích thước của các chấm lượng tử CdSe được điều chỉnh nhờ thay đổi tỉ lệ
nồng độ chất bẫy citrate. Đề tài đã chế tạo và khảo sát tính chất quang của các hạt
nano chấm lượng tử CdSe và CdSe/CdS với các tỷ lệ w = 1; 1,5; 2; 2,5; 3; và 5. Khi
nồng độ chất bẫy citrate tăng (tương ứng với tỷ lệ w tăng), kích thước tinh thể càng
giảm, theo đó bờ hấp thụ và đỉnh phát xạ của các chấm lượng tử càng dịch chuyển
về phía sóng ngắn.
Tính chất quang của các chấm lượng tử CdSe và CdSe/CdS cũng được khảo
sát theo thời gian nuôi mẫu. Cụ thể, khi thời gian nuôi mẫu tăng, phát xạ của các
chấm lượng tử càng dịch về phía sóng dài tương đương với kích thước hạt nano
CdSe tăng.
Các chấm lượng tử CdSe/CdS chế tạo được độ bền quang tốt, thích hợp cho
các thí nghiệm kéo dài.
2. Đã chế tạo thành công các chấm lượng tử CdS/ZnS phân tán trong nước sử dụng
chất bẫy citrate với hai tỷ lệ nồng độ citrate tương ứng với w = 2 và w = 5:
Cường độ phát xạ huỳnh quang của các chấm lượng tử CdS/ZnS cũng tăng
so với các hạt CdS không có vỏ bọc ZnS, tuy nhiên vẫn quan sát thấy phát xạ của
các trạng thái bề mặt ở phía sóng dài cho thấy các hạt nano CdS/ZnS chưa được chế
tạo hoàn hảo
Kích thước của các chấm lượng tử CdS cũng phụ thuộc vào tỷ lệ w. Kết quả
cho thấy, khi đối với giá trị w lớn (w = 5), kích thước hạt CdS chế tạo được là nhỏ
hơn, theo đó bờ hấp thụ và đỉnh phát xạ bị dịch về phía sóng ngắn. Đối với giá trị w
nhỏ (w = 2), kích thước hạt CdS chế tạo được là lớn hơn, theo đó bờ hấp thụ và đỉnh
phát xạ bị dịch về phía sóng dài hơn.
Cần có thêm nhiều nghiên cứu hơn nữa trong việc chế tạo các hạt nano CdS/ZnS
55
phân tán trong môi trường nước để có các hệ chấm lượng tử chất lượng tốt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
[1]. Chu Việt Hà, Luận án tiến sĩ, Viện vật lý, 2012.
[2]. Chu Việt Hà, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Sư Phạm Hà Nội, 2004.
[3]. Chu Việt Hà, Luận văn thạc sĩ, Viện Vật lý, 2006.
Tiếng Anh
[4]. Brus L. E., “Electronic wave functions in semiconductor clusters: experiment and
theory”, J. Chem. Phys., 90 (1986), 2555.
[5]. C. B. Murray, D. J. Norris and M. G. Bawendi, J. Am. Chem. Soc., 1993, 115,
8706.
[6]. Clarke S. J., Hollmann C. A., Zhang Z., Suffern D., Bradforth S. E., Dimitrijevic
N. M., Minarik W. G., Nadeau J. L. (2006), "Photophysics of dopamine-modified
quantum dots and effects on biological systems", Nat Mater 5, pp. 409-417.
[7]. C Medina, MJ Santos-Martinez, A Radomski, OI Corrigan and MW Radomski,
Nanoparticles: “Pharmacological and Toxicoligical Significance, British Journal of
Pharmacology”, 2007 (150), 2552-255
[8]. Dib M (1999), “Structure Electronique Au Voisinage de la Bande Interdite Des
Nanocristaux de CdSe et CdS”, PhD thesis, Universite Paris VII.
[9]. Deng DW, Yu JS, Pan Y, “Water-soluble CdSe and CdSe/CdS nanocrystals: a
greener synthetic route”, Journal of Colloidand Interface Science 299 (2006)
225-232
[10]. Fisher B. R. (2005), “Time Resolved Fluorescence of CdSe Nanocrystals using
Single Molecule Spectroscopy”, Doctoral thesis, Submitted to the Department of
Chemistry in Partial Fulfillment of the Requirement for the Degree of Doctor of
Philosophy at the Massachusetts Institute of Technology: Massachusetts.
[11]. Frantsuzov, Pavel, Masaru Kuno, Boldizsár Jankó, and Rudolph A. Marcus,
(2008), “Universal emission intermittency in quantum dots, nanorods and
nanowires.” Nature Physics 4:519-522.
[12]. GaoX, Yang L, Petros JA, Marshall FF, Simons JW, Nie S…, In vivo molecular
and cellular imaging with quantum dots: Curr Opin Biotechnol, 16, 63 – 72
56
(2005).
[13]. Gaponenco S.V.,“Optical Properties of Semiconductor Nanocry-stals”,
Cambridge Universty Press, (1988).
[14]. J. K. Lorenz, A. B. Ellis, J. Am. Chem. Soc (1998), 120, 10970.
[15]. Kumar C. S. S. R. (2005), “Biofunctionalization of Nanomaterials”
Nanotechnologies for the Life Sciences 1, WILEY-VCH Verlag GmbH & Co.
KGaA, Weinheim, ISBN: 3-527-31381-8.
[16]. Manuela F. Frasco and Nikos Chaniotakis, “Semiconductor Quantum Dots in
Chemical Sensors and Biosensors”, Sensors 2009, 9(9), 7266-7286;
doi:10.3390/s90907266]
[17]. Medina, MJ Santos-Martinez, A Radomski, OI Corrigan and MW Radomski,
Nanoparticles: “Pharmacological and Toxicoligical Significance, British Journal of
Pharmacology”, 2007 (150), 2552-255.
[18]. Murcia M. J. and Naumann C. A., Biofunctionalization of Fluorescent
Nanoparticles, 2005 WILEY-VCH Verlag GmbH & Co. KGaA, Weinheim ISBN:
3-527-31381-8
[19]. Parak W. J., Gerion D., Pellegrino T., Zanchet D, Micheel C, Williams S. C.,
[20]. Reiss P., Bleuse J., and Pron A., “Highly luminescent CdSe/ZnSe Core/Shell
nanocrystalsof low size dispersion”, Nano Lett. 2, 781–784 (2002).
BIBLIOGRAPHIE153.
[21]. Wenwan Zhong (2009), “Nanomaterials in fluorescence-based biosensing”. Anal
Bioanal Chem, Springer. 47–59, 394.
[22]. Wise F., Nonlinear Optical Applicationsof Semiconductor Quantum Dots, Sienna
College and Evident Technologies Present an online Seminar, Transforming Science to Nanotechnology Products, August 7th.
[23]. http://www.evidentech.com
[24]. http://nanophotonica.net/technology
57
[25]. http://bouman.chem.georgetown.edu/S00/handout/spectrometer.gif
CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN
1. Phung Van Vung, Ngo Van Hoang, Trinh Ba Thong, Bui Quang The Nguyen
Quynh Trang, Nguyen Lan Anh, Le Tien Ha, Chu Viet Ha, and Vu Thi Kim Lien,
Optical Characterization of Quantum Dots prepared directly in Citrate Aqueous Solution, Proceeding of the 3rd International Conference on Advanced Materials and
2. Chu Viet Ha, Ngo Van Hoang, Phung Van Vung, Dinh Thi Ha, Nguyen Thi Lan,
Nanotechnology, ICAMN 2016, ISBN: 978-604-95-0010-7, pp 283 -287
Trinh Duc Thanh Giang, Le Thuy Linh, Tran Hong Nhung, Vu Thi Kim Lien, Optical
characterizations of ii-vi semiconductor nanoparticles prepared in citrate aqueous
solution, Advances in Optics Photonics Spectros- copy& Applications IX, 2016, ISSN:
58
1859-4271