BỘ NỘI VỤ TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
ĐỖ THỊ THÚY
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
BẢN SẮC VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LÂM ĐỒNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊNH HƯỚNG ỨNG DỤNG
CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ CÔNG
Thành phố Hồ Chí Minh, 9/2020
BỘ NỘI VỤ TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
ĐỖ THỊ THÚY
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
BẢN SẮC VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LÂM ĐỒNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊNH HƯỚNG ỨNG DỤNG
CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ CÔNG
MÃ SỐ: 83.40.403
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Triệu Thế Việt
Thành phố Hồ Chí Minh, 9/2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, những nội dung khoa học được trình bày trong luận văn này
là kết quả nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi.
Tp Hồ Chí Minh, ngày 25 tháng 9 năm 2020
Học viên
Đỗ Thị Thúy
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình đào tạo Thạc sĩ quản lý công do trường Đại học Nội
vụ Hà Nội tổ chức, bên cạnh sự cố gắng của bản thân, tôi đã nhận được sự hướng dẫn,
giảng dạy, động viên và nhiều ý kiến đóng góp quý báu trong suốt quá trình học tập,
nghiên cứu và hoàn thiện đề tài này từ các quý thầy giáo, cô giáo, gia đình, bạn bè và
đồng nghiệp.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Triệu Thế Việt đã
hướng dẫn tận tình, giúp đỡ, góp ý cho tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận
văn thạc sĩ của mình. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng Quản lý đào tạo
thạc sĩ Khoa Sau đại học và quý thầy cô giáo ở Trường Đại học Nội vụ Hà Nội cùng
toàn thể các quý thầy cô giáo đã tạo điều kiện, giúp đỡ và tận tình truyền đạt kiến thức
cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn thạc sĩ.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, Lãnh đạo và công chức Phòng Quản
lý Văn hóa, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lâm Đồng đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi
trong quá trình học tập, thu thập tài liệu, số liệu để phục vụ nghiên cứu khoa học và
những đóng góp ý kiến chân tình, thẳng thắn để tôi hoàn thành luận văn thạc sĩ.
Sau cùng, tôi xin chân thành cảm ơn bạn bè và gia đình của tôi đã động viên, giúp
đỡ tôi trong quá trình học và thực hiện đề tài này.
Bằng những kiến thức đã được trang bị trong quá trình học tập, nghiên cứu song
sẽ không tránh khỏi những hạn chế thiếu sót. Rất mong nhận được sự quan tâm, đóng
góp ý kiến của quý thầy, cô để kết quả nghiên cứu của đề tài này được hoàn chỉnh, từ
đó triển khai thực hiện có hiệu quả hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Tp Hồ Chí Minh, ngày 25 tháng 9 năm 2020
Học viên
Đỗ Thị Thúy
BẢNG DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
Ủy ban nhân dân 1 UBND
Chính sách 2 CS
Di sản văn hóa 3 DSVH
Bản sắc văn hóa 4 BSVH
Văn hóa truyền thống 5 VHTT
Văn hoá dân tộc 6 VHDT
Dân tộc thiểu số 7 DTTS
8 Bản sắc văn hóa dân tộc BSVHDT
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC ...................................................................................... 7
1.1. Một số khái niệm cơ bản ............................................................................................... 7
1.2. Vai trò của chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số ............. 10
1.3. Hệ thống chính sách bảo tồn và phát huy giá trị bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số ............................ 12
1.4. Các bước thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số ............................. 14
1.5. Các nhân tố tác động đến việc thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc thiểu số ............................................................................................................. 17
1.6. Những yêu cầu cơ bản trong tổ chức thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc thiểu số ...................................................................................................... 19
Tiểu kết Chương 1 ............................................................................................................. 20
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ
PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI
TỈNH LÂM ĐỒNG ............................................................................................................ 22
2.1. Khái quát chung về địa bàn nghiên cứu ...................................................................... 22
2.2. Bản sắc văn hóa của các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số tỉnh Lâm Đồng ................. 24
2.3. Chính sách và thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc
thiểu số tỉnh Lâm Đồng ...................................................................................................... 31
2.4. Đánh giá việc thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc
thiểu số tỉnh Lâm Đồng ....................................................................................................... 42
Tiểu kết Chương 2 .............................................................................................................. 47
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THỰC HIỆN TỐT CHÍNH SÁCH
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LÂM ĐỒNG .............................................................................. 48
3.1. Quan điểm, định hướng thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa
của các dân tộc thiểu số ....................................................................................................... 48
3.2. Giải pháp ....................................................................................................................... 52
Tiểu kết Chương 3 .............................................................................................................. 60
PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................................................ 61
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại ngày nay, khi kinh tế ngày càng phát triển và các quốc gia trên thế
giới ngày càng xích lại gần nhau thì văn hóa dân tộc ngày càng trở thành trung tâm của
sự chú ý. Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến vấn đề bảo tồn, phát
huy giá trị văn hoá truyền thống của các dân tộc, luôn khẳng định vai trò quan trọng của
văn hóa trong việc bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, đồng thời đặt mục tiêu “Xây
dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Điều này đã được thể hiện qua
các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, cụ thể như: Nghị quyết số
33/NQ-TW ngày 09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về xây dựng và phát
triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước; Nghị
quyết số 102/NQ-CP ngày 31/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình
hành động thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu
cầu phát triển bền vững đất nước; Quyết định số 1662/QĐ-BVHTTDL ngày 17/6/2020
của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về việc tổ chức xây dựng mô hình bảo tồn, phát huy
bản sắc văn hóa, truyền thống tốt đẹp của các DTTS (dân tộc thiểu số) gắn với xây dựng
nông thôn mới….
Toàn cầu hóa vừa là thời cơ cho sự hội nhập và phát triển kinh tế - xã hội, đồng
thời cũng là những thách thức to lớn cho nhiều quốc gia. Hội nhập để phát triển nhưng
vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc đang là vấn đề được nhiều quốc gia ưu tiên hàng
đầu. Với một quốc gia đa dạng về văn hóa truyền thống, Việt Nam đã và đang thực hiện
việc bảo vệ giữ gìn, phát huy, giới thiệu các giá trị văn hóa tốt đẹp đến với đông đảo bạn
bè quốc tế.
Lâm Đồng là một trong 05 tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên với diện tích 9.783,2
km², hiện có 43 dân tộc anh em sinh sống, trong đó các dân tộc thiểu số gốc địa phương
gồm K’ho, Mạ, Churu chiếm hơn 17% dân số, 70% là người Kinh và gần 13% là các dân
tộc khác đến từ nhiều vùng miền khác nhau trong cả nước đến đây sinh sống và lập nghiệp
(nguồn: Niên giám Thống kê Lâm Đồng 20219). Mỗi dân tộc đều có những bản sắc văn
hóa riêng, tạo nên sự đa dạng về văn hóa dân tộc cho tỉnh Lâm Đồng. Trong những năm
qua, mặc dù điều kiện kinh tế, cơ sở hạ tầng, các thiết chế văn hóa của tỉnh còn nhiều khó
2
khăn, nhưng Lâm Đồng luôn tự hào về truyền thống văn hóa đặc sắc của mình và luôn đề
cao vấn đề bảo tồn phát huy những giá trị văn hóa các DTTS. Đây không chỉ đơn thuần là
gìn giữ những sắc màu quý cho bức tranh văn hóa dân tộc, mà còn là cơ sở cho người dân
Lâm Đồng tiến bước vững chắc trên lộ trình hội nhập và phát triển chung của đất nước.
Bên cạnh những kết quả đáng khích lệ đã đạt được, thực tế còn cho thấy CS (chính
sách) bảo tồn và phát huy BSVH (bản sắc văn hóa) các DTTS tỉnh Lâm Đồng vẫn còn
nhiều khó khăn, thách thức. Nguyên nhân là do đời sống vật chất, tinh thần của người
dân trong tỉnh còn nhiều khó khăn, sự xâm nhập của nền văn hóa từ bên ngoài ảnh hưởng
tới đời sống văn hóa, tinh thần của người dân. Việc đầu tư cho công tác bảo tồn các DSVH
(di sản văn hóa) còn hạn chế nhất định. Đây không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước mà
còn là sự nghiệp của quần chúng và cộng đồng, Nhà nước đóng vai trò tạo ra khuôn khổ
pháp lý và cơ chế CS, nhân dân đóng vai trò then chốt trong việc bảo vệ, gìn giữ, lưu
truyền và phát huy giá trị văn hóa.
Việc thực hiện CS bảo tồn, kế thừa và phát huy giá trị văn hóa của đồng bào các
dân tộc tỉnh Lâm Đồng hiện nay là vấn đề mang tính cấp thiết, thời sự. Trong những năm
qua, trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng chưa có đề tài nghiên cứu khoa học hoặc đề án, dự án
nào nói về việc thực hiện CS bảo tồn văn hóa các dân tộc thiểu số.
Bản thân đang công tác tại Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tôi nhận thấy đây là
việc làm hết sức cần thiết nhằm thực hiện có hiệu quả CS của Đảng và Nhà nước trong
việc bảo tồn, phát huy BSVH các DTTS tỉnh Lâm Đồng.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi chọn đề tài “Thực hiện chính sách bảo tồn và
phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng” để làm
luận văn thạc sĩ chuyên ngành quản lý công.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan tới đề tài
Liên quan đến việc thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH của các dân tộc tại
tỉnh Lâm Đồng hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu, đề tài khoa học và các bài
báo có liên quan đến việc tìm hiểu về văn hóa các dân tộc thiểu số.
Sở Văn hóa Thông tin Lâm Đồng, (1983), “Vấn đề dân tộc ở Lâm Đồng”. Tác
phẩm đã khái quát về các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số tại tỉnh Lâm Đồng từ sau những
năm sau giải phóng 1975.
3
Nguyễn Tuấn Tài, (1993), “Người Lạch trên cao nguyên Lang Biang”, Nxb Thành
phố Hồ Chí Minh.
Sở Văn hóa Thông tin Lâm Đồng, (2005), “Vài nét văn hóa các dân tộc thiểu số
Tây Nguyên ở Lâm Đồng”.
Hoàng Sơn (chủ biên), (2009), “Người Churu ở Lâm Đồng”, Nxb Đại học Quốc gia.
Trần Văn Bính (chủ biên), (2004), “Văn hóa các dân tộc Tây Nguyên: Thực trạng
và những vấn đề đặt ra”, Nxb Chính trị Quốc gia.
Viện Dân tộc học, (2008) “Sổ tay về các dân tộc ở Việt Nam”, Nxb Văn học.
Cao Xuân Phổ, (2006), “Bàn về văn hóa văn hoá dân tộc thiểu số”, Tạp chí Nghiên
cứu Đông Nam Á số 1 (76), [tr 58-63].
Đỗ Ngọc Anh, (2014), Tri thức văn hoá dân tộc thiểu số của người Mạ Lâm Đồng
trong lao động sản xuất”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 359 (5), [tr 31-36].
Lê Ngọc Thắng, (2013) “Với vấn đề bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các
dân tộc thiểu số”, Tạp chí Dân tộc và Thời đại số 159, [tr 17-19].
Nguyễn Tấn Tài, (1993), “Cư dân văn hoá dân tộc thiểu số ở Đà Lạt”, Tóm tắt
Báo cáo Khoa học tại Hội nghị khoa học Trường Đại học Đà Lạt 1993, [tr17,18,19].
Các công trình khoa học trên đã nghiên cứu văn hóa của các DTTS trên địa bàn tỉnh
Lâm Đồng, hệ thống hóa một cách khá đầy đủ và cụ thể tất cả các yếu tố xung quanh con người
dân tộc thiểu số nơi đây, từ đời sống vật chất, cho đến đời sống tinh thần. Chính vì vậy, đã tạo
điều kiện cho nhiều bạn đọc và những nhà nghiên cứu quan tâm đến vấn đề BSVH các DTTS
Lâm Đồng có được cái nhìn khái quát nhất. Các tác giả đã đề ra nhiều giải pháp nhằm bảo tồn
và phát huy được giá trị văn hóa đặc sắc của các DTTS tại tỉnh Lâm Đồng.
Dưới góc độ khoa học, các công trình trên có giá trị hết sức to lớn đối với những
người đã và đang nghiên cứu về văn hóa văn hoá dân tộc thiểu số của các dân tộc tỉnh Lâm
Đồng nhằm đưa ra được những chủ trương, CS phù hợp đối với sự phát triển của tất cả các
dân tộc trên địa bàn, đặc biệt là bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa DTTS tỉnh Lâm Đồng.
Tất cả những công trình nghiên cứu trước đây thực sự là những quan điểm, luận
điểm, nghiên cứu và giải pháp quý giá đối với tác giả để tiếp cận và kế thừa có chọn lọc,
nhằm thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS tại tỉnh Lâm Đồng.
Ngoài ra còn có nhiều bài viết đăng trên các tạp chí, kỷ yếu hội thảo liên quan đến
bản sắc văn hoá các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng. Tuy nhiên, những công
4
trình nghiên cứu này đã khá lâu, chưa đánh giá sâu sắc được sự biến đổi về BSVH của
các DTTS dưới sự tác động của các hoạt động kinh tế xã hội. Các đề tài hoặc các công
trình nghiên cứu khoa học mới chỉ dừng lại ở mức độ nhìn nhận thực trạng và đưa ra các
cảnh báo mà chưa phân tích được thực trạng, nguyên nhân và những vấn đề liên quan đến
chính sách do vậy chưa được ra được giải pháp để thực hiện chính sách về bảo tồn và
phát huy BSVH các DTTS trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá được thực trạng thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS trên
địa bàn tỉnh Lâm Đồng; đưa ra được những giải pháp nhằm để bảo tồn và phát huy BSVH
của các DTTS trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng trong giai đoạn hiện nay và lâu dài.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tập hợp được hệ thống lý luận, cơ sở pháp lý về chính sách bảo bảo tồn và phát
huy BSVH dân tộc.
Đánh giá thực trạng thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH dân tộc của tỉnh Lâm
Đồng nói riêng, trong đó đánh giá được những thuận lợi, khó khăn và nguyên nhân của
thực trạng.
Đưa ra được những giải pháp có tính khả thi cao nhằm tham mưu cho các cơ quan
chức năng nghiên cứu, thực hiện việc tồn và phát huy BSVH các DTTS trên địa bàn tỉnh
Lâm Đồng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động thực hiện CS về bảo tồn và phát huy
bản sắc văn hóa các DTTS.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Đề tài nghiên cứu quá trình thực hiện CS bảo tồn và phát huy
BSVH dân tộc trên các phương diện lập kế hoạch, tuyên truyền, phổ biến CS; phân công,
phối hợp thực hiện; tổ chức thực hiện, thanh tra, kiểm tra, giám sát; đánh giá, tổng kết
thực hiện CS bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc từ năm 2014 đến nay.
- Phạm vi không gian: Đề tài chỉ nghiên cứu việc thực hiện CS bảo tồn và phát
huy BSVH các DTTS trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng (cụ thể là 03 dân tộc Mạ, K’ho, Churu).
5
- Phạm vi thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu việc thực hiện CS bảo tồn và phát
huy BSVH các DTTS trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng từ năm 2014 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, quan
điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước về bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu
chủ yếu sau đây:
- Phương pháp tổng hợp, thống kê số liệu;
- Phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Sau khi hoàn thành, đề tài là một công trình nghiên cứu khoa học có giá trị với các
ý nghĩa sau:
Ý nghĩa lý luận: Là một công trình khoa học để cho các nhà quản lý tham khảo,
xem xét lại việc ban hành các chủ trương, CS, các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh
vực bảo tồn văn hóa dân tộc.
Ý nghĩa thực tiễn: Đánh giá đúng thực trạng việc thực hiện CS bảo tồn và phát huy
BSVH các DTTS trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng, đưa ra được các giải pháp khả thi có thể
áp dụng cho việc bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng trong
thời gian tiếp theo.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn được
trình bày trong 3 chương, gồm:
Chương 1: Cơ sở lý luận về chính sách bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa các dân
tộc.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa
các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng.
Chương 3: Giải pháp tăng cường thực hiện tốt chính sách bảo tồn, phát huy bản
sắc văn hóa các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số tỉnh Lâm Đồng.
6
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH BẢO TỒN
VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Văn hóa
Định nghĩa khoa học về văn hóa ra đời sớm nhất ở châu Âu là định nghĩa của nhà
nhân học văn hóa người Anh E.B. Taylor đã ra đời từ năm 1871 trong công trình nghiên
cứu nhan đề văn hóa nguyên thủy (Primitive culture): “Văn hóa hoặc văn minh hiểu theo
nghĩa rộng nhất là của dân tộc học, có nghĩa là một tổng thể phức hợp bao gồm các kiến
thức, tín ngưỡng (tín niệm), nghệ thuật, đạo đức, luật lệ phong tục và tất cả những khả
năng thói quen mà con người đạt được với tư cách là một thành viên trong xã hội”.
Theo UNESCO “Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh
thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết định tính cách xã hội hay của một nhóm người
trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền
cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng. Văn hóa
đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở
thành những sinh vật đặc biệt, nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một cách
đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân mình, tự
biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản
thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình
vượt trội lên bản thân”.
Cách đây hơn nửa thế kỷ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng phát biểu một quan
điểm về văn hóa như sau: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người
mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo,
văn hóa nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương
thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó là văn hóa. Văn hóa là tổng hợp
của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó do loài người đã sản sinh ra
nhằm thích ứng với nhu cầu của đời sống và đòi hỏi của sinh sinh tồn.”[7, tr 43].
Theo định nghĩa về văn hóa của Trần Ngọc Thêm (1999) Cơ sở Văn hóa Việt Nam
thì: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị về vật chất và tinh thần do con người
7
sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người
với môi trường tự nhiên và xã hội của mình” [11, tr 10].
1.1.2. Bản sắc văn hóa
Theo Từ điển tiếng Việt, thuật ngữ "bản sắc" dùng để chỉ tính chất, màu sắc riêng
tạo thành phẩm chất đặc biệt của một sự vật tức là nói tới sắc thái, đặc tính, đặc thù riêng
của sự vật đó [4, tr 223]. "Bản sắc" là từ một ghép có gốc Hán - Việt nên có một cách tiếp
cận khác là phân tích trên ngữ nghĩa của hai từ "bản" và "sắc". Theo đó, "bản" là cái gốc,
cái căn bản, cái cốt lõi, cái hạt nhân của một sự vật; "sắc" là sự biểu hiện cái căn bản, cái
cốt lõi, cái hạt nhân đó ra ngoài.
Nếu tiếp cận văn hóa theo nghĩa rộng nhất, bao gồm toàn bộ những giá trị vật chất
và giá trị tinh thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử thì bản sắc văn hoá dân tộc là
hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần được dân tộc sáng tạo ra trong lịch sử, là những
nét độc đáo rất riêng của dân tộc này so với dân tộc khác.
Xét về bản chất, bản sắc văn hóa dân tộc thể hiện tinh thần, linh hồn, cốt cách, bản
lĩnh của một dân tộc. Đây được coi là “dấu hiệu khác biệt về chất” giữa dân tộc này với
dân tộc khác. Với việc tách riêng bản sắc và văn hóa, chúng ta có thể đưa ra một khái
niệm về bản sắc văn hóa như sau:
Bản sắc văn hóa chính là nét đặc trưng văn hóa của một dân tộc, quốc gia, thông
qua đó, có thể so sánh với văn hóa của quốc gia, dân tộc khác.
1.1.3. Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa
Theo từ điển Hán Nôm của Nguyễn Quốc Hùng, “bảo tồn là giữ gìn cho còn, không
để bị mất”. Trong cách diễn giải như vậy, chúng ta có thể hiểu bảo tồn là các nỗ lực nhằm
bảo vệ và gìn giữ sự tồn tại của di sản văn hóa theo dạng thức vốn có của nó.
Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa: Là việc giữ gìn những giá trị văn hóa đặc
trưng, cốt lõi do con người tạo ra phù hợp với sự phát triển của xã hội con người.
1.1.4. Chính sách công
Trong những năm gần đây, thuật ngữ “CS công” được các nước phát triển và các
tổ chức kinh tế quốc tế dùng rất phổ biến. Có thể nêu ra một số quan niệm sau:
“CS là một quá trình hành động có mục đích mà một cá nhân hoặc một nhóm theo
đuổi một cách kiên định trong việc giải quyết vấn đề (James Anderson, 2003)”; “CS công
là một quá trình hành động hoặc không hành động của chính quyền để đáp lại một vấn
8
đề công cộng. Nó được kết hợp với các cách thức và mục tiêu CS đã được chấp thuận
một cách chính thức, cũng như các quy định và thông lệ của các cơ quan chức năng thực
hiện những chương trình (Kraft and Furlong, 2004)”.
Từ điển Bách khoa Việt Nam đã đưa ra khái niệm về CS như sau: “CS là những
chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. CS được thực hiện trong một thời gian
nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Nội dung, bản chất và phương hướng của
CS tùy thuộc vào tính chất của quan điểm, đường lối, chủ trương, nhiệm vụ trên các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hóa…"
Các cơ quan hay các cấp chính quyền trong bộ máy nhà nước ban hành những CS
nhằm giải quyết những vấn đề mang tính cộng đồng thì được gọi là CS công.
Tổ chức thực hiện CS bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa để từng bước thực hiện các
mục tiêu CS và mục tiêu chung. Mục tiêu của CS bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa có liên
quan đến nhiều vấn đề, nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội. Thực tế, trong quá trình thực
hiện CS này cho thấy muốn đạt được mục tiêu của CS thì phải thông qua việc thực hiện CS,
và các mục tiêu của CS thì cần phải có quan hệ với nhau và ảnh hưởng đến các mục tiêu
chung. Thực hiện CS bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa còn để khẳng định được tính đúng
đắn, tính hợp lý của CS. CS khi triển khai rộng rãi sẽ tác động đến mọi mặt của đời sống xã
hội và khi CS được xã hội chấp nhận thì cho thấy tính xác thực, tính đúng đắn của CS.
Dựa trên những quan điểm trên, chúng ta có thể đưa ra một khái niệm chính sách
công như sau: “Chính sách công là thuật ngữ dùng để chỉ một chuỗi các quyết định hoạt
động của nhà nước nhằm giải quyết một vấn đề chung đang đặt ra trong đời sống kinh
tế xã hội theo mục tiêu xác định”.
1.1.5. Chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Là một bộ phận của CS công, CS văn hóa được UNESCO định nghĩa như sau:
“CS văn hóa là một tổng thể các nguyên tắc hoạt động quyết định các thực hành, các
phương pháp quản lý hành chính và phương pháp ngân sách Nhà nước dùng làm cơ sở
cho các hoạt động văn hóa”.
CS văn hóa là một phạm trù rộng, bao gồm nhiều bộ phận CS khác nhau gộp thành.
Trong đó, CS bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa đóng vai trò quan trọng, là tập hợp nhiều
quyết định chính trị có nội dung liên quan nhằm lựa chọn, đề xuất các mục tiêu, công cụ
và giải pháp để thực hiện tốt việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa.
9
Chính sánh bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa được thực hiện trên cơ sở các chủ trương,
đường lối Đảng và Nhà nước, từ Hiến pháp đến văn kiện các kỳ Đại hội Đảng, được cụ thể
qua Nghị quyết các Hội nghị Trung ương Đảng, qua việc hoạch định chiến lược phát triển
văn hóa qua các thời kỳ, khi Luật Di sản văn hóa được thông qua và các Nghị định, Thông
tư hướng dẫn Luật di sản văn hóa được các cơ quan có thẩm quyền ban hành.
1.2. Vai trò của chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số
1.2.1. Mục đích, ý nghĩa của chính sách đối với bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc thiểu số
1.2.1.1. Mục đích
- Bảo tồn phát huy các giá trị VHTT tốt đẹp của các dân tộc, góp phần giáo dục
truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết các
dân tộc, vì một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc.
- Tôn vinh các giá trị văn hóa tốt đẹp của các DTTS, khích lệ sáng tạo các giá trị
văn hóa mới. Góp phần giảm dần sự chênh lệch về mức sống và hưởng thụ văn hóa giữa
các vùng, các dân tộc, gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế với phát triển văn hóa,
đặc biệt tại các địa bàn vùng đồng bào DTTS, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
- Xây dựng đời sống văn hóa và môi trường văn hóa vùng đồng bào DTTS, gắn
kết chặt chẽ những hoạt động xây dựng đời sống văn hóa với nhiệm vụ phát triển kinh tế
- xã hội phù hợp với từng khu vực, từng vùng, từng dân tộc, tôn giáo.
- Bảo tồn phát huy BSVH các DTTS kết hợp với các chương trình phát triển kinh
tế, phát triển nghề thủ công truyền thống, kết hợp với phát triển du lịch cộng đồng để xóa
đói giảm nghèo.
- Cụ thể hóa các quy định chung của Nhà nước đến cộng đồng DTTS, đảm bảo rõ
ràng, ngắn gọn, dễ hiểu để mọi người dân dễ dàng tiếp thu và tự giác chấp hành. Gắn lợi
ích của người dân khi tham gia các hoạt động bảo tồn văn hóa để thu hút đông đảo người
dân tham gia lưu giữ di sản VHTT của mình. Tăng cường vận động, tuyên truyền để nâng
cao ý thức tự giác của người dân, gắn với xã hội hóa trong công tác bảo tồn.
1.2.1.2. Ý nghĩa
- CS là công cụ để thể chế hóa chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước. Do
đó, thực hiện CS chính là quá trình biến những ý đồ, định hướng từ các loại văn bản hành
chính thành các hành động cụ thể nhằm thực hiện đạt được các mục tiêu đã đề ra. Thực
10
hiện CS bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống chính là việc chuyển những ý
tưởng, những định hướng của Đảng và Nhà nước thành những hành động, những việc
làm, những giải pháp cụ thể. Trên cơ sở đó có các phương pháp hợp lý để thực hiện tốt
việc bảo tồn và phát triển giá trị văn hóa đó.
- Khẳng định tính đúng đắn của CS, CS chỉ thật sự có hiệu lực, hiệu quả khi được toàn
xã hội thừa nhận và thực hiện, đặc biệt là sự thừa nhận của các đối tượng được thụ hưởng từ CS.
- Giúp cho CS ngày càng hoàn chỉnh. Thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH
các DTTS là căn cứ xác thực nhất để có thể đánh giá tính hiệu quả, phù hợp và các tác
động của CS trong việc đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội. Thông qua thực hiện CS
ta có thể thấy rõ được những ưu điểm, hạn chế của CS hiện hành. Từ đó có những điều
chỉnh để hoàn thiện CS nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong việc quản lý và phát triển
đất nước nói chung.
1.2.2. Vai trò, chức năng của chính sách đối với việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc thiểu số
1.2.2.1. Vai trò
- Nhằm đề ra các hướng đi, giải pháp kết hợp hài hòa giữa CS phát triển văn hóa
với các CS phát triển kinh tế, xã hội, tài chính và du lịch. Bên cạnh đó, CS này còn có vai
trò quan trọng trong việc định hướng công tác quản lý, bảo tồn và gìn giữ các loại hình
VHTT, các lễ hội dân gian.
- Chú trọng đến việc đãi ngộ xứng đáng cho người làm công tác nghiên cứu, sưu
tầm các giá trị văn hóa truyền thống. CS đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng giao
lưu văn hóa, tiếp nhận, chọn lọc các nền văn hóa bên ngoài, góp phần tạo nên một nền
văn hóa đa dạng, phong phú, “hòa nhập” nhưng không “hòa tan”.
Có thể nói, CS bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS có vai trò hết sức quan trọng
trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thực hiện mục tiêu xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong
đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ và tiến bộ; làm cho văn hóa gắn
kết chặt chẽ, thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành sức mạnh nội sinh quan
trọng của phát triển.
1.2.2.2. Chức năng
Cụ thể CS bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS thành hiện thực: CS là công cụ
11
để thể chế hóa chủ trương, định hướng của Đảng. Do đó, thực hiện CS chính là quá trình
biến những ý đồ, định hướng từ các loại văn bản hành chính thành các hành động cụ thể
nhằm thực hiện đạt được các mục tiêu đã đề ra. Thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH
các DTTS chính là việc chuyển những ý tưởng, những định hướng của Đảng và Nhà nước
thành những hành động, những việc làm, những giải pháp cụ thể. Trên cơ sở đó có các
phương pháp hợp lý để thực hiện tốt việc bảo tồn và phát triển giá trị văn hóa đó.
Thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS là căn cứ xác thực nhất để có
thể đánh giá tính hiệu quả, phù hợp và các tác động của CS trong việc đáp ứng nhu cầu
phát triển của xã hội. Thông qua thực hiện CS ta có thể thấy rõ được những ưu điểm, hạn
chế của CS hiện hành. Từ đó có những điều chỉnh để hoàn thiện CS nhằm đạt được hiệu
quả cao nhất trong việc quản lý và phát triển đất nước.
1.3. Hệ thống chính sách bảo tồn và phát huy giá trị bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số
1.3.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc thiểu số
Bảo tồn và phát huy BSVH Việt Nam nói chung và văn hoá dân tộc thiểu số nói
riêng là nhiệm vụ quan trọng để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm và chú trọng đến
việc bảo tồn và phát huy BSVH dân tộc. Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công,
giành được độc lập, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Đảng và Nhà nước ta đã
rất quan tâm đến giữ gìn DSVH dân tộc. Ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký
và công bố Sắc lệnh số 65/SL về “Bảo tồn cổ tích trên toàn cõi Việt Nam”. Luật Di sản
Văn hóa ra đời năm 2001 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 là cơ sở pháp lý cao nhất nhằm
bảo vệ và phát huy giá trị DSVH ở Việt Nam. Để cụ thể hóa thực hiện Luật Di sản Văn
hóa, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tham mưu Chính phủ ban hành Nghị định số
98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010, trong đó quy định chi tiết thi hành Luật di sản Văn hóa
được sửa đổi bổ sung năm 2009.
Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ban hành Nghị
quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt
Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” đã đề ra những quan điểm, định hướng
chiến lược của Đảng ta về văn hóa nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong thời
kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.
12
Ngày 27/7/2011, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1270/QĐ-TTg về
việc Phê duyệt Đề án “Bảo tồn, phát triển văn hóa các DTTS Việt Nam đến năm 2020”,
trong đó đưa ra các mục tiêu cụ thể:
“- Huy động sức mạnh của toàn xã hội nhằm phát triển văn hóa dân tộc, góp phần
để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát
triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, bảo đảm toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ
quốc gia.
- Bảo tồn, phát huy BSVH truyền thống của các DTTS phù hợp với tình hình thực
tế, đặc biệt chú trọng địa bàn các dân tộc có nguy cơ bị biến dạng văn hóa cao (các dân
tộc rất ít người không có điều kiện tự bảo vệ văn hóa của mình; bảo tồn và phát triển văn
hóa các DTTS tại khu vực biên giới, hải đảo, khu vực tái định cư của các thủy điện). Phát
huy vai trò của các chủ thể văn hóa trong phát triển VHTT của các dân tộc”.
1.3.2. Chính sách của Nhà nước về bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số
Văn hóa các dân tộc Việt Nam là một bộ phận cấu thành của nền văn hóa Việt
Nam phong phú, mang đậm bản sắc dân tộc. Trong xu thế hội nhập và phát triển, những
luồng văn hóa khác nhau xâm nhập vào đời sống xã hội ở vùng dân tộc, gây ảnh hưởng,
tác động đến văn hóa truyền thống của các dân tộc, có nguy cơ làm phai nhạt BSVH dân
tộc. Do đó, việc bảo tồn, phát huy BSVH các dân tộc là nhiệm vụ cấp thiết, có ý nghĩa
chiến lược, cần phải tiếp tục thực hiện thường xuyên và lâu dài. Nhằm cụ thể hóa CS của
Nhà nước về công tác bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS, trong những năm qua Đảng
và Nhà nước ta từ cấp Trung ương đến địa phương đã ban hành rất nhiều văn bản để triển
khai thực hiện, có thể nêu ra một số văn bản tiêu biểu như: Quyết định số 1270/QĐ-TTg
ngày 27/7/2011 phê duyệt đề án “Bảo tồn, phát triển văn hóa các DTTS Việt Nam đến
năm 2020”; Nghị quyết số 33/NQ-TW ngày 09/6/2014 của Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước; Nghị quyết số 102/NQ-CP ngày
31/12/2014 của Chính phủ; Quyết định số 2850/QĐ-BVHTTDL ngày 24/8/2015 của Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Quyết định số 1583/QĐ-UBND, ngày 09/7/2009 của
UBND tỉnh Lâm Đồng về việc Phê duyệt Đề án “Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá cồng
chiêng các dân tộc Tây Nguyên tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2009 - 2010 và tầm nhìn đến
năm 2015”; Kế hoạch số 292/KH-UBND ngày 15/01/2019 của UBND tỉnh Lâm Đồng
13
về việc Thực hiện nghị quyết số 14-NQ/TU của Tỉnh ủy về Phát triển vùng đồng bào
DTTS tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2018 - 2025, định hướng đến năm 2030; Quyết định số
296/QĐ-UBND, ngày 22/2/2018 của UBND tỉnh Lâm Đồng về việc Phê duyệt Đề án
“Bảo tồn và phát triển Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên các dân tộc tỉnh
Lâm Đồng đến năm 2020”…
Với những chủ trương, CS của Đảng và Nhà nước từ Trung ương đến địa phương
được cụ thể hóa bằng văn bản và các kế hoạch hành động cho thấy công tác bảo tồn và
phát huy BSVH dân tộc ngày càng được chú trọng và quan tâm.
1.4. Các bước thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
1.4.1. Lập kế hoạch thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Việc lập kế hoạch để thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH dân tộc luôn được
Đảng và Nhà nước ta quan tâm, triển khai đầy đủ, kịp thời: Nội dung CS thực hiện; đối
tượng thụ hưởng; thời gian thực hiện theo lộ trình; nguồn lực để thực hiện (con người và
kinh phí); các cơ quan, đơn vị chủ trì và phối hơp.
Có thể nhận thấy rõ điều này qua Quyết định số 1270/QĐ-TTg ngày 27/7/2011 của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án Bảo tồn, phát triển văn hóa các DTTS Việt Nam đến
năm 2020”. Cụ thể, giao cho Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì đề án và yêu cầu rất
nhiều các cơ quan phối hợp triển khai Đề án tại phần tổ chức thực hiện; Quyết định số
3723/QĐ-BVHTTDL ngày 03/8/2016 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phê duyệt Dự
án “Gắn kết phát triển kinh tế và bảo tồn, phát triển văn hóa các DTTS ” cũng thể hiện rất rõ
tại mục 2. Phương thức triển khai dự án dựa trên cơ sở thống nhất từ dưới lên: “Các cơ quan
quản lý nhà nước có trách nhiệm lập kế hoạch hướng dẫn, chỉ đạo, tổ chức thực hiện; Chủ
thể văn hóa (người dân) thực hiện và thụ hưởng thành quả dự án mang lại. Giao quyền chủ
động cho các địa phương triển khai thực hiện, tránh áp đặt, làm thay”. Kế hoạch thực hiện
được chia làm 2 kỳ, giai đoạn 1 từ 2016 - 2018, giai đoạn 2 từ 2018 - 2020.
Đây là những nghị quyết, quyết định tiêu biểu thể hiện rõ được việc lập kế hoạch
để triển khai thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH dân tộc. Bên cạnh đó còn có nhiều
văn bản khác từ cấp trung ương đến địa phương thể hiện được việc lập kế hoạch để triển
khai thực hiện CS bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
1.4.2. Tuyên truyền, phổ biến về chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
14
Việc giáo dục ý thức bảo tồn và phát huy BSVH DT, đặc biệt đối với các DTTS là
hết sức cần thiết. Bởi văn hóa các DTTS Việt Nam là một bộ phận cấu thành quan trọng của
nền văn hóa Việt Nam. Công tác tuyên truyền, phổ biến về CS bảo tồn và phát huy BSVH
DT là nhiệm của của toàn Đảng, toàn dân, tuy nhiên để đảm bảo tính chính xác và thống nhất
phải được chính các cơ quan chuyên môn tổ chức thực hiện, cụ thể: Cấp Trung ương là Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch; cấp tỉnh là Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Công tác tuyên truyền, phổ biến CS luôn phải tiên phong, khi nào thực hiện được tốt
công tác phổ biến tuyên truyền thì mới triển khai được các CS. Điều này đỏi hỏi phải có
nguồn lực, con người được huấn luyện đào tạo, kinh phí, có sự phối hợp của các cơ quan có
chức năng tuyên truyền mới đảm bảo việc tuyên truyền phổ biến đạt hiệu quả cao nhất.
Quyết định số 1270/QĐ-TTg ngày 27/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
đề án “Bảo tồn, phát triển văn hóa các DTTS Việt Nam đến năm 2020” đã đưa công tác
thông tin, truyền thông, tuyên truyền thành một nhiệm vụ trọng tâm “Tăng cường công
tác tuyên truyền tạo sự hiểu biết của xã hội về bảo tồn, phát triển văn hóa DTTS; phối
hợp giữa Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam và các Đài Phát thanh và
Truyền hình tại các địa phương xây dựng các chuyên mục tuyên truyền về bảo tồn, phát
triển văn hóa DTTS, ưu tiên sử dụng ngôn ngữ, chữ viết của dân tộc”.
“Đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, góp phần nâng cao nhận thức và
trách nhiệm của các cấp, các ngành, đoàn thể và người dân về chủ trương của Đảng, Nhà
nước về nhiệm vụ gắn kết phát triển kinh tế và bảo tồn, phát triển văn hóa các DTTS ” là
một trong những nội dung quan trọng của đề án “gắn kết phát triển kinh tế và bảo tồn,
phát triển văn hóa các DTTS” được phê duyệt theo Quyết định số 3723/QĐ-BVHTTDL
ngày 03/8/2016 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Ngoài các dự án, đề án mang tính quốc gia, các địa phương, các tỉnh khi triển khai
các chủ trương CS của Đảng và Nhà nước đến với đồng bào DTTS luôn phải ưu tiên thực
hiện phổ biến tuyên truyền để đảm bảo CS bảo tồn và phát huy BSVH dân tộc được thực
hiện nhất quán, đầy đủ.
1.4.3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy BSVHDT
Bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS là nhiệm vụ chiến lược mang tính lâu dài
và là trách nhiệm của toàn xã hội, có sự kết hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, trung
ương và địa phương, giữa người dân với các đoàn thể, tổ chức xã hội. Trong đó, Nhà
15
nước đóng vai trò hỗ trợ, tác động tạo điều kiện, môi trường thuận lợi, phù hợp để bảo
tồn, phát triển văn hóa của đồng bào DTTS ở Việt Nam. Việc thực hiện CS cần phải có
sự phân công, phối hợp cụ thể của nhiều cơ quan, ban, ngành vì đây chính là hoạt động
có tính chất liên ngành.
Việc phân công, phối hợp của các đơn vị, tổ chức tham gia thực hiện công tác bảo
tồn và phát huy BSVH DT là điều hết sức cần thiết nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Mỗi
đơn vị sẽ thực hiện một nhiệm vụ chuyên môn nhất định. Trong nhiều hoạt động để thực
hiện chính bảo tồn và phát huy BSVH DT có nhiều nội dung và liên quan đến nhiều lĩnh
vực khác nhau, mỗi đơn vị chuyên môn sẽ đảm nhận một nhiệm vụ theo vị trí và chức
năng của đơn vị mình.
1.4.4. Tổ chức thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Việc tổ chức thực hiện CS để bảo tồn và phát huy bản sắc VHDT là nội dung quan
trọng nhất. Tổ chức thực thi CS là một khâu hợp thành chu trình CS bảo tồn và phát huy
bản sắc VHDT. Nếu thực thi CS tốt không những mang lại lợi ích to lớn cho các dân tộc
thụ hưởng, mà còn góp phần làm tăng uy tín của nhà nước trong quá trình quản lý xã hội.
Tùy theo từng CS bảo tồn và phát huy bản sắc VHDT cụ thể sẽ được tổ chức thực hiện
từ cấp trung ương đến địa phương. Mỗi đơn vị sẽ có một kế hoạch cụ thể để triển khai thực hiện.
1.4.5. Giám sát, kiểm tra việc thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc
Trong quá trình tổ chức thực hiện CS nói chung và CS bảo tồn và phát huy
BSVHDT nói riêng, việc giám sát kiểm tra là điều bắt buộc. Nó giúp cho các nhà hoạch
định CS, các nhà quản lý biết được việc thực thi CS đúng như kế hoạch đã tổ chức triển
khai không. Kiểm tra, giám sát để kịp thời phát hiện những sai lệch trong thực thi CS. Có
thể là không đúng về nội dung, mục đích, đối tượng, số lượng, chất lượng, kinh phí. Trong
thực thi CS, việc kiểm tra, giám sát cần phải được thực hiện thường xuyên, liên tục, không
được lơ là và chủ quan vì đây là những CS liên quan đến VHDT.
1.4.6. Sơ kết, tổng kết thực hiện chính sách ưu đãi bảo tồn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc thiểu số
Định kỳ hàng năm hoặc theo kế hoạch triển khai, các đơn vị chủ trì phối hợp với các
cơ quan, ban, ngành, địa phương tổ chức sơ kết, tổng kết để đánh giá việc thực hiện CS bảo
tồn và phát huy BSVHDT. Trong đó, phải đánh giá được kết quả đạt được theo số lượng,
16
chất lượng, những hạn chế, tồn tại, nguyên nhân, đề xuất bổ sung hoặc thay đổi so với kế
hoạch đã phê duyệt. Có thể khẳng định rằng, đây chính là khâu phản biện lại các CS bảo tồn
và phát huy BSVHDT có triển khai đúng hướng hay không, là khâu then chốt quyết định sẽ
tiếp tục hay không tiếp tục triển khai CS. CS về bảo tồn và phát huy BSVHDT không chỉ tác
động đến một dân tộc, một cộng đồng người mà còn tác động đến đời sống văn hóa của nhiều
dân tộc khác nhau. Do vậy, việc sơ kết, tổng kết đánh giá phải được thực hiện nghiêm túc,
khách quan, trung thực và dựa trên các chứng cứ khoa học cụ thể.
1.5. Các nhân tố tác động đến việc thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc thiểu số
1.5.1. Tính chất của vấn đề chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số
Khi đưa ra một CS về bảo tồn và phát huy BSVH nói chung, BSVH DTTS nói
riêng các nhà hoạch định CS luôn khảo sát, đánh giá khả năng thực hiện dựa trên nhiều
yếu tố khác nhau. Tính chất của vấn đề CS là các yếu tố khách quan có ảnh hưởng trực
tiếp đến việc tổ chức thực thi CS nhanh hay chậm, thuận lợi hay khó khăn. Việc bảo tồn
và phát huy bản sắc VHDT phải được đặt trong sự vận động và phát triển. Sự tương tác
của các dân tộc sẽ dẫn đến sự giao thoa, tiếp biến của các hình thái văn hóa khác nhau,
nhất là trong môi trường kinh tế xã hội hiện nay. Điều này đặt ra cho các nhà quản lý và
thực hiện CS, các cấp, các ngành phải quan tâm đặc biệt.
1.5.2. Môi trường và mối quan hệ giữa các đối tượng thực hiện thực thi chính sách
bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số
Môi trường là một nhân tố ảnh hưởng lớn đến CS bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa.
Môi trường ở đây được hiểu là những yếu tố xung quanh có tác động đến việc triển khai CS
như: Môi trường tự nhiên, điều kiện về địa hình, thổ nhưỡng, khí hậu thời tiết, nguồn tài nguyên
…; môi trường xã hội là trình độ dân trí, văn hóa, ngôn ngữ, tập tục, thói quen, tín ngưỡng, tôn
giáo, trình độ lao động sản xuất, cơ sở hạ tầng... Có nhiều CS rất đúng đắn kịp thời, nhưng khi
đưa vào tổ chức triển khai lại bị rào cản bới những yếu tố môi trường dẫn đến khó khăn thực
hiện hoặc bị kéo dài. Bên cạnh đó môi trường ảnh hưởng đến việc thực thi CS chính là các
hoạt động kinh tế, chính trị, tình hình phát triển của xã hội, an ninh quốc phòng. Tất cả những
môi trường này đều có những tác động tích cực và tiêu cực đến việc thực hiện CS. Mối quan
hệ giữa các đối tượng thực hiện CS thể hiện sự thống nhất hay không về lợi ích của các đối
tượng trong quá trình thực hiện mục tiêu CS. Nếu lợi ích của các đối tượng tham gia thực hiện
17
CS không mâu thuẫn với nhau và với đối tượng thụ hưởng thì CS được triển khai thực hiện dễ
dàng và ngược lại, lợi ích của các đối tượng tham gia thực hiện CS mâu thuẫn với lợi ích của
đối tượng thụ hưởng thì thực hiện CS sẽ khó khăn, thậm chí còn thất bại.
1.5.3. Tiềm lực, đặc tính của các nhóm đối tượng chính sách
Tiềm lực của các nhóm đối tượng CS được hiểu là thực lực và tiềm năng mà mỗi nhóm
có được trong mối quan hệ so sánh với các nhóm đối tượng khác. Tiềm lực của nhóm lợi ích
được thể hiện trên các phương diện chính trị, xã hội, kinh tế... cả về quy mô và trình độ.
Đặc tính của đối tượng thực hiện CS công nói chung, CS bảo tồn phát huy BSVH
các DTTS nói riêng là những đặc điểm, tính chất đặc trưng mà các đối tượng có được từ
bản tính cố hữu hoặc do môi trường sống tạo nên trong quá trình vận động mang tính lịch
sử. Những đặc tính này thường liên quan đến tính tự giác, kỷ luật, tính sáng tạo, tính
truyền thống, lòng quyết tâm... Đặc tính này gắn liền với mỗi đối tượng thực hiện CS nên
các chủ thể tổ chức điều hành cần biết cách khơi gợi hay kiềm chế nó để có được kết quả
tốt nhất cho quá trình tổ chức thực hiện CS.
1.5.4. Thực hiện đúng, đầy đủ các bước trong quy trình tổ chức thực hiện chính sách
Do tầm quan trọng của giai đoạn hiện thực hoá CS nên các cơ quan nhà nước, các
cấp chính quyền địa phương cần đặc biệt quan tâm chỉ đạo sát sao công tác tổ chức triển
khai thực hiện CS. Để tổ chức, điều hành có hiệu quả công tác thực thi CS công, cán bộ,
công chức nhà nước cần phải thực hiện nhiều nội dung quản lý khác nhau, nhưng trước
tiên cần tuân thủ các bước tổ chức thực thi cơ bản sau đây:
Một là, phải tiến hành xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện CS công;
Hai là, phổ biến, tuyên truyền CS công;
Ba là, phân công, phối hợp thực hiện CS công;
Bốn là, đôn đốc, giám sát thực hiện CS công;
Năm là, tổng kết thực thi CS công.
Mỗi bước trong quy trình đều có vị trí, ý nghĩa và tác động nhất định đối với quá
trình thực hiện CS. Thực hiện đúng và đầy đủ các bước này sẽ giúp cho cơ quan ban hành
CS và cơ quan quản lý thực thi đạt được mục tiêu của CS cao nhất.
1.5.5. Năng lực thực hiện chính sách của đội ngũ cán bộ công chức
Đây là yếu tố có vai trò quyết định đến kết quả tổ chức thực hiện CS bảo tồn và phát
huy BSVH. Năng lực tổ chức, quản lý của nhà nước và của đội ngũ cán bộ, công chức
18
trong thực hiện CS là thước đo bao gồm nhiều tiêu chí phản ánh về đạo đức công vụ, về
năng lực thiết kế tổ chức, năng lực phân tích, dự báo để có thể chủ động ứng phó được với
những tình huống phát sinh trong quá trình tổ chức thực hiện CS. Các cán bộ, công chức
trong cơ quan nhà nước khi được giao nhiệm vụ tổ chức thực hiện CS, cần nêu cao tinh
thần trách nhiệm và chấp hành tốt kỷ luật công vụ trong lĩnh vực này mới đạt hiệu quả thực
hiện. Tinh thần trách nhiệm và ý thức kỷ luật được thể hiện trong thực tế thành năng lực
thực tế. Đây là một yêu cầu rất quan trọng đối với mỗi cán bộ, công chức để thực hiện việc
chuyển tải ý đồ CS của nhà nước vào cuộc sống. Nếu thiếu năng lực thực tế, các cơ quan
có thẩm quyền tổ chức thực hiện CS sẽ đưa ra những kế hoạch không bám sát với thực tế,
dẫn đến lãng phí nguồn lực được huy động, làm giảm hiệu lực, hiệu quả của CS, thậm chí
còn làm biến dạng CS trong quá trình tổ chức thực hiện…. Năng lực thực tế và đạo đức
công vụ của cán bộ, công chức còn thể hiện ở thủ tục giải quyết những vấn đề trong quan
hệ giữa các cơ quan nhà nước với cá nhân và tổ chức trong xã hội.
1.5.6. Các điều kiện vật chất và nhận thức của cộng đồng chủ thể bản sắc văn hóa dân
tộc thiểu số để thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số
Để quản lý được các hoạt động liên quan đến việc thực hiện CS, Nhà nước phải
chú trọng đầu tư nguồn lực vật chất cả về số lượng và chất lượng. Các điều kiện vật chất
ở đây được hiểu là hệ thống trang thiết bị, phòng nghiên cứu, phòng thí nghiệm, nguồn
tài chính phục vụ cho việc nghiên cứu. Đồng thời, nó cũng là chế độ tiền lương, thưởng,
các ưu đãi đối với các chuyên gia nghiên cứu và đội ngũ cán bộ công chức trực tiếp thực
hiện CS. Những điều kiện về vật chất có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả thực hiện CS,
nó giúp cho thực hiện CS được thuận tiện nhanh chóng, giúp cho các nhà nghiên cứu có
thể triển khai những ý tưởng sáng tạo của mình thành hiện thực, giúp cho đội ngũ cán bộ
công chức thực hiện CS cũng như nhà nghiên cứu yên tâm làm việc, tâm huyết với nhiệm
vụ được giao góp phần đạt được mục tiêu đã đề ra của CS.
1.6. Những yêu cầu cơ bản trong tổ chức thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số
1.6.1. Thực hiện đúng mục tiêu chính sách
Mỗi CS đều hướng đến mục tiêu nhất định. Mục tiêu của CS bảo tồn và phát huy BSVH
các DTTS là giữ gìn sự nguyên vẹn và đầy đủ của các giá trị văn hóa của dân tộc, không để
mai một, tổn thất hoặc bị huỷ hoại. Việc thực hiện CS này sẽ đóng vai trò quan trọng trong
19
việc nâng cao nhận thức, trình độ dân trí, góp phần giáo dục truyền thống lịch sử, văn hóa cho
thế hệ trẻ; giới thiệu tinh hoa, nét đẹp, bản sắc, tinh túy văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam với bạn bè quốc tế. Nếu mục tiêu này không được thực hiện coi như CS bảo tồn và phát
huy BSVH các DTTS không thành công, thực chất là không được thực hiện.
1.6.2. Đảm bảo tính hệ thống trong thực hiện chính sách
Hệ thống thực hiện CS được quy định trong chủ trương của Đảng, các văn bản chỉ
đạo, hướng dẫn triển khai thực hiện của Nhà nước và bắt buộc mọi công chức khi triển
khai thực hiện CS phải nghiêm chỉnh tuân theo, điều này được thể hiện rõ nhất ở sự phân
cấp thực hiện giữa các cơ quan đơn vị với nhau, giữa cơ quan cấp trên và cơ quan cấp
dưới, ở sự phối hợp trong công tác.
Thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS cần phải bảo đảm tính hệ
thống, nghĩa là phải thực hiện đồng bộ và thống nhất các nhiệm vụ, các bước trong tổ
chức thực hiện CS nhằm đạt được hiệu quả cao nhất.
1.6.3. Đảm bảo tính pháp lý, khoa học và hợp lý trong tổ chức thực hiện chính sách
Thực hiện CS theo đúng pháp luật, đúng nội dung văn bản quy định, đồng thời
phải thực hiện một cách khoa học, hợp lý để CS phát huy hiệu quả của nó. Trong tổ chức
thực hiện CS nếu đảm bảo yêu cầu về tính pháp lý, khoa học và hợp lý sẽ giúp nâng cao
hiệu lực tổ chức thực hiện CS của các cơ quan quản lý nhà nước, đồng thời còn củng cố
niềm tin của các đối tượng được thụ hưởng CS đối với Nhà nước.
1.6.4. Đảm bảo lợi ích thực sự cho đối tượng thụ hưởng chính sách
Trong xã hội thường tồn tại nhiều nhóm lợi ích và nhà nước là người bảo vệ lợi
ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức. Thông thường, nhà nước thường sử dụng CS công
nhằm bảo đảm về lợi ích cho các đối tượng được thụ hưởng CS trong xã hội. Điều này sẽ
góp phần củng cố sự tin tưởng của người dân vào các CS nhà nước thông qua CS công.
Có thể nói, để cho các đối tượng thụ hưởng CS có được những lợi ích thật sự là yêu cầu
quan trọng trong quá trình thực thi CS.
Tiểu kết Chương 1
Từ việc đưa ra một số khái niệm khái niệm về văn hóa, bản sắc văn hóa, bảo tồn
và phát huy bản sắc văn hóa, CS công, thực hiện CS công, kết hợp với cơ sở lý thuyết về
CS công đã được học, luận văn đã tổng hợp, phân tích được những vấn đề lý luận chung
về thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH dân tộc ở Việt Nam, cụ thể: Làm rõ được các
20
nhân tố tác động đến việc thực hiện chính như môi trường, mối quan hệ giữa các đối
tượng thực thi CS, tiềm lực, đặc tính của các nhóm đối tượng CS, năng lực thực hiện của
đội ngũ cán bộ công chức, các điều kiện vật chất và nhận thức của cộng đồng DTTS để
thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH dân tộc.
Văn hóa là sức mạnh nội sinh tiềm tàng, thúc đẩy sự phát triển bền vững và là tài
sản vô giá của dân tộc. Bởi vậy, việc bảo tồn và phát huy BSVH là nhiệm vụ quan trọng.
Trong bất cứ giai đoạn nào, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, định hướng, xây dựng
các CS về phát triển văn hóa, bảo tồn các di sản văn hóa phù hợp với tình hình thực tế,
những lý luận về CS bảo tồn giá trị văn hóa cần phải được đầu tư, nghiên cứu nhằm phục
vụ cho việc hoạch định CS theo hướng lâu dài, hiệu quả để bảo tồn, phát huy BSVH, góp
phần vào sự phát triển bền vững của đất nước. Chương 1 là cơ sở định hướng cho việc
đánh giá thực trạng về thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân
tộc văn hoá dân tộc thiểu số ở chương 2 và đưa ra các giải pháp ở chương 3 của luận văn.
21
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
BẢN SẮC VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI TỈNH LÂM ĐỒNG
2.1. Khái quát chung về địa bàn nghiên cứu
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Lâm Đồng là tỉnh miền núi phía Nam Tây Nguyên, có diện tích 9.783,2 km2, độ
cao trung bình từ 800-1000m so với mặt nước biển, địa hình chủ yếu, là bình sơn nguyên,
núi cao đồng thời cũng có những thung lũng nhỏ bằng phẳng đã tạo nên những yếu tố tự
nhiên khác nhau về khí hậu, thổ nhưỡng, hệ động thực vật phong phú, nhiều cảnh quan
kỳ thú cho địa phương. Vùng đất Lâm Đồng từ lâu đã có nhiều dân tộc anh em cùng sinh
sống, cộng đồng người dân tộc Mạ, K’ ho, Churu là tộc người văn hoá dân tộc thiểu số
của địa phương.
Do chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa biến thiên theo độ cao, chính vì
vậy khí hậu Lâm Đồng được chia làm 2 mùa riêng biệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa
mưa thường bắt đầu từ tháng 5 kéo dài đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4
năm sau. Nhiệt độ cũng thay đổi rõ rệt giữa các khu vực, càng lên cao nhiệt độ càng giảm.
Nhiệt độ trung bình năm của tỉnh dao động từ 18 - 250 C, thời tiết ôn hòa và mát mẻ quanh
năm, ít có những biến động lớn trong chu kỳ năm. Với địa hình là địa hình cao nguyên
tương đối phức tạp, chủ yếu là bình sơn nguyên, núi cao đồng thời cũng có những thung
lũng nhỏ bằng phẳng đã tạo nên những yếu tố tự nhiên khác nhau: Phía Bắc tỉnh là vùng
núi cao, vùng cao nguyên Lang Bian với những đỉnh cao từ 1.300m đến hơn 2.000m như
BiĐoup (2.287m), Lang Bian (2.167m). Phía Đông và Tây có dạng địa hình núi thấp (độ
cao 500 - 1.000m). Phía Nam là vùng chuyển tiếp giữa cao nguyên Di Linh - Bảo Lộc và
bán bình nguyên. Lâm Đồng có diện tích đất 977.219,6 ha, 98% diện tích tự nhiên, bao
gồm 8 nhóm đất và 45 đơn vị đất: Đất có độ dốc dưới 25o chiếm trên 50%, đất dốc trên
25o chiếm gần 50%. Chất lượng đất đai của Lâm Đồng rất tốt, khá màu mỡ, toàn tỉnh có
khoảng 255.400 ha đất có khả năng sản xuất nông nghiệp, trong đó có 200.000 ha đất
bazan tập trung ở cao nguyên Bảo Lộc - Di Linh.
2.1.2. Đặc điểm dân số, dân cư, tộc người
Tính đến ngày 31/12/2019 dân số toàn tỉnh là hơn 1,3 triệu người. Mật độ dân số
118 người/km2, có 43 dân tộc khác nhau cư trú và sinh sống, trong đó đông nhất là người
22
Kinh chiếm khoảng 77%, tiếp đến người K’ho chiếm 12%, người Mạ chiếm 2,5%, người
Nùng chiếm gần 2%, người Tày chiếm 2%, người Hoa chiếm 1,5%, người Churu 1,5%...,
còn lại các dân tộc khác có tỷ lệ dưới 1% sống thưa thớt ở các vùng xa, vùng sâu trong
tỉnh. Lễ hội cồng chiêng, rượu cần và dệt thổ cẩm là nét đặc trưng cho văn hóa DTTS tại
Lâm Đồng (nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Lâm Đồng 2019).
2.1.3. Đặc điểm về kinh tế xã hội
Sau ngày giải phóng, kinh tế xã hội Lâm Đồng gặp nhiều khó khăn do chiến tranh
để lại. Chặng đường 10 năm đầu sau giải phóng (1975-1985) nền kinh tế của tỉnh vẫn còn
nghèo nàn, lạc hậu, thiếu thốn về cơ sở vật chất. Đến năm 2019, kinh tế - xã hội tỉnh Lâm
Đồng đã có bước chuyển mình vượt trội. Kinh tế tiếp tục phát triển và đạt mức tăng
trưởng 7,93%. Phần lớn các chỉ tiêu chủ yếu đều đạt kế hoạch và tăng so với cùng kỳ:
GRDP bình quân đầu người đạt 66,7 triệu đồng; tổng mức đầu tư toàn xã hội 30.500 tỷ
đồng; thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt 8.298 tỷ đồng. Nông nghiệp vẫn là kinh tế
chủ đạo, trong những năm gần đây nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tiếp tục có bước
phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Du lịch, dịch vụ được xác định là ngành kinh tế
động lực của tỉnh. Hoạt động thương mại, dịch vụ, nhất là dịch vụ du lịch tiếp tục duy trì
và phát triển. Trong năm 2019, khách du lịch đến Lâm Đồng đạt 7,16 triệu lượt khách.
Lĩnh vực văn hóa - xã hội phát triển và đạt những kết quả khá toàn diện. Công tác xây
dựng chính quyền, cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính tiếp tục
được các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo thực hiện và đạt được nhiều kết quả tích cực.
2.1.4. Đặc điểm về giáo dục, y tế
So với các tỉnh trong khu vực Tây Nguyên, Lâm Đồng là tỉnh có số lượng học sinh
trong độ tuổi đi học lớn nhất. Toàn tỉnh có 711 trường, tổng số học sinh là 329.990 học
sinh: mầm non 233 trường, tiểu học 250 trường, trung học cơ sở 159 trường, trung học
phổ thông 57 trường; 01 trung tâm giáo dục thường xuyên cấp tỉnh; 11 trung tâm giáo
dục nghề nghiệp giáo dục thường xuyên cấp huyện, thành phố. Bên cạnh đó còn có 02
trường đại học và 02 phân hiệu trường đại học, 07 trường cao đẳng, 02 trường trung cấp
đảm bảo cho việc đào tạo các cấp trình độ từ trung cấp đến tiến sĩ, cung ứng nguồn nhân
lực cho tỉnh Lâm Đồng. Tuy nhiên một số ngành đào tạo chuyên sâu ở trình độ cao vẫn
còn thiếu, nhất là các ngành trong lĩnh vực công nghệ thông tin, quản lý điều hành.
23
Hệ thống y tế cơ bản đã đáp ứng được với nhu cầu khám chữa bệnh của người dân.
Hiện nay, toàn tỉnh có 02 bệnh viện Đa khoa, 01 bệnh viện tư nhân, 01 bệnh viên nhi,
toàn tỉnh có 517 cơ sở tế tư nhân, 888 cơ sở bán lẻ thuốc. Cơ sở vật chất, trang thiết bị
được tăng cường đầu tư đồng bộ. Đến đầu năm 2020 có 7,9 bác sỹ/vạn dân, 23 giường
bệnh/vạn dân, tỉ lệ xã đạt bộ tiêu chí quốc gia về y tế đạt 98,6%.
(Nguồn: Niên giám thống kê Lâm Đồng năm 2019)
2.1.5. Những vấn đề tác động đến thực hiện chính sách bảo tồn phát huy bản sắc văn
hoá dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng
Triển khai các chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước về bảo tồn phát huy
bản sắc văn hoá các dân tộc, trong những năm qua tỉnh Lâm Đồng đã có nhiều nỗ lực cố
gắng để thực hiện các chính sách bảo tồn và phát huy BSVH DTTS bằng việc ban hành
các quyết định, cụ thể: Quyết định số 296/QĐ-UBND ngày 22/02/2018 của UBND tỉnh
phê duyệt đề án “Bảo tồn và phát triển không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên các
dân tộc tỉnh lâm đồng đến năm 2020”; Quyết định số 450/QĐ-UBND ngày 06/03/2018 của
UBND tỉnh phê duyệt đề án “Bảo tồn, phát huy BSVH các DTTS, khôi phục và phát triển
các làng nghề truyền thống gắn với hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn
2018 - 2020 và định hướng đến năm 2030”. Các văn bản này thể hiện chưa toàn diện và
đầy đủ, đồng thời mới chỉ dừng lại ở tính định hướng, chưa cụ thể hoá được các chính sách.
Bên cạnh đó, khoảng thời gian song hành với sự phát triển nhanh và mạnh của kinh
tế, văn hoá, xã hội đã tác động rất lớn và làm biến đổi nhiều bản sắc văn hoá dân các tộc
thiểu số trên địa bàn tỉnh. Việc đầu tư ngân sách và nguồn nhân lực để thực hiện chính sách
chưa được quan tâm đúng mức dẫn đến bản sắc văn hoá dân tộc thiểu số ngày càng mai một.
2.2. Bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số tỉnh Lâm Đồng
2.2.1. Dân tộc K’ho
Dân tộc K’ho còn có tên gọi khác là Cơ ho, Kơ Ho, là dân tộc có tập quán sống du
canh dư cư, nên trong quá trình phát triển đã dần hình thành các nhánh K’ho địa phương
như: K’ho Srê, K’ho Tơ Rinh (T’ring), K’ho Nộp (Tu nốp), K’ho Chil, K’ho Lạch, K’ho
Dòn... Địa bàn cư trú của người K’Ho chủ yếu ở các tỉnh Lâm Đồng, Bình Thuận, Khánh
Hòa, Ninh Thuận, Đồng Nai, tại Lâm Đồng, dân số của dân tộc K’ho hiện nay là khoảng
200.000 người. Tiếng nói của người K’ho thuộc ngữ hệ Nam Á, nhóm Môn-Khmer. Gần
24
đây, người K’ho mới có chữ viết theo mẫu chữ Latinh. Trong xã hội truyền thống, người
K’ho sống trong các Bon (làng), đứng đầu bon là già làng.
Văn hóa kiến trúc: Nhà truyền thống của người K’ho là nhà sàn dài bằng gỗ, hai
mái uốn cong, lợp bằng cỏ tranh, có liếp nghiêng ra phía ngoài và cũng lợp tranh để chống
lạnh. Mọi sinh hoạt chủ yếu như ăn uống, nghỉ ngơi, tiếp khách... đều diễn ra quanh bếp
lửa ở trong nhà.
Đời sống kinh tế sản xuất, chăn nuôi và nghề thủ công: Phương thức canh tác chủ
yếu là trồng lúa trên ruộng nước ở các thung lũng, một số người K’ ho khác do cư trú ở
vùng núi cao nên thường phát rừng làm rẫy để trồng ngô, lúa rẫy, sắn. Ngoài những cây
lương thực chủ yếu, người K’ho còn trồng lẫn các loại rau khác như bầu, bí, mướp, đậu...
Họ cũng làm vườn, trồng cây ăn quả như mít, bơ, chuối, đu đủ... Việc chăn nuôi gia súc,
gia cầm như trâu, bò, lợn, dê, gà, vịt... thường theo phương thức thả rong. Trâu, bò chỉ
dùng làm sức kéo ở những vùng làm ruộng nước, còn lại chủ yếu để hiến tế trong các dịp
nghi lễ. Các nghề thủ công phổ biến nhất là đan lát và rèn, riêng nhóm người dân K’ho
Chil còn có thêm nghề dệt; ngoài ra ở một số nơi có làm nghề gốm theo phương thức
không có bàn xoay. Do tác động của kinh tế xã hội, về phương thức sản xuất của người
K’ho đã có nhiều thay đổi đáng kể, tuy nhiên sản xuất và buôn bán các sản phẩm từ nông
nghiệp vẫn giữ vai trò chủ đạo.
Văn hóa ẩm thực: Người dân tộc K’ho truyền thống thường ăn ba bữa, theo tập
quán ăn bốc, lương thực chính là gạo ăn với thực phẩm như cá, thịt, rau. Các món ăn
thường chế biến khô để thuận tiện cho việc ăn bốc. Thực phẩm thường được chế biến
theo các hình thức nấu chín, ăn sống, nướng, phơi khô, ủ chua. Thức uống là nước tự
nhiên (nước mưa hoặc nước từ các con suối), dụng cụ trữ nước uống là những quả bầu
khô hoặc ghè. Người dân tộc K’ho hút các loại cây thuốc phơi khô cuốn lại, rượu cần
(t’rờ nờm) làm từ gạo, ngô, sắn...với men chế biến từ cây rừng rất được ưa chuộng trong
các bữa tiệc, lễ hội...
Văn hóa trang phục truyền thống: Trang phục của đàn ông là khố bằng vải bản
rộng, dài khoảng từ 1,5 - 2m, có hoa văn theo dải dọc. Phụ nữ dùng váy bằng một tấm
vải quấn quanh người rồi giắt cạp. Váy nền đen, có diềm hoa văn trắng. Nếu thời tiết
lạnh, họ khoác thêm chăn (ùi) ra ngoài. Phụ nữ dùng vòng cổ, vòng tay, cườm và khuyên
căng tai làm đồ trang sức. Có thể nói trang phục truyền thống của người K’ho là một sự
25
kết hợp hàì hòa đặc sắc, vừa thể hiện những yếu tố của tự nhiên về chất liệu, vừa thể hiện
sự tài nghệ của người thợ dệt tạo nên bản sắc riêng của người K’ho.
Văn hóa tín ngưỡng, phong tục, lễ hội: Người K’ho vẫn giữ được nhiều phong tục
cổ, trong đó phải kể đến các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian. Nhà nghiên cứu văn hoá dân
gian Nguyễn Văn Doanh cho biết: "Từ xa xưa, người K’ho tin rằng mọi mặt của đời sống
đều do các thế lực siêu nhiên quyết định. Thần Yàng (trời) phù hộ cho con người, còn thế
lực ma quỷ (chà) gây tai họa. Ngoài ra, người K’ho còn thờ thần Mặt Trời, Mặt Trăng,
thần Núi, thần Sông, thần Đất, thần Lúa... Ngày nay, người K’ho vẫn thực hiện các nghi
lễ cúng các vị thần trong những dịp, sự kiện quan trọng như: hiếu hỷ, những giai đoạn
trong sản xuất, ốm đau, bệnh tật...". Người K’ho theo tín ngưỡng đa thần, nên mỗi khi tổ
chức các lễ hội nông nghiệp, người K’ho thường dựng cây nêu để mời gọi Yàng về dự,
chứng kiến và cùng chung vui với buôn làng. Có nhiều lễ hội tạ ơn thần lúa như: lễ gieo
sạ lúa, lễ cúng dưỡng lúa, lễ mừng lúa mới, lễ cầu mưa, lễ cúng bến nước.
Đời sống văn hoá, nghệ thuật dân gian: Có các thể loại văn học dân gian giàu nhạc
tính, gồm: Huyền thoại, cổ tích, truyền thuyết, các bài cúng, văn vần…Các nhạc cụ của
người K’ho gồm: bộ cồng chiêng gồm 6 chiếc, kèn ống bầu (Kơmbuat), đàn ống tre
(Kơrla), trống (Sơgơr)... những nhạc cụ này có khả năng hòa âm với lời ca hoặc độc tấu.
Đây chính là những nét đặc trưng văn hóa nghệ thuật của dân tộc K’ho văn hoá dân tộc
thiểu số.
2.2.2. Dân tộc Churu
Dân tộc Churu có khoảng 8.000 người cư trú, tập trung ở xã Tutra huyện Đơn
Dương; xã Phú Hội, xã Đà Loan huyện Đức Trọng và một số ít sống rải rác ở một số xã
thuộc huyện Di Linh. Người Churu nói theo ngữ hệ Mã Lai - Đa đảo. Tuy nhiên, do cư
trú lân cận với người K’ho và giao lưu văn hóa nên có một bộ phận người Churu nói tiếng
K’ho thuộc ngữ hệ Môn-Khơme. Làng Churu là đơn vị hành chính, gồm nhiều nhóm tộc
người cùng cư trú. Dưới làng, là những cộng đồng huyết thống như: đại gia đình, tiểu gia
đình và dòng họ. Gia đình trong xã hội cổ truyền của người Churu là đại gia đình còn
mang nhiều tàn dư của chế độ gia đình mẫu hệ.
Văn hóa kiến trúc: Kiến trúc của người Churu là nhà sàn kết cấu học tập từ các
dân tộc khác, tuy nhiên vẫn còn một số yếu tố truyền thống được duy trì như sàn nhà,
cách khai thác không gian sinh hoạt.
26
Đời sống kinh tế sản xuất, chăn nuôi và nghề thủ công: Dân tộc Churu biết làm
ruộng từ lâu đời và sống định canh định cư, trồng trọt chiếm vị trí hàng đầu trong đời
sống kinh tế và lúa là nguồn lương thực chủ yếu; ngoài ra họ còn trồng thêm ngô, khoai,
sắn và một số loại rau, đậu trên nương rẫy hoặc trong vườn. Vì vậy, trong ba loại hình
trồng trọt chủ yếu thì quan trọng nhất là ruộng, thứ đến là nương rẫy và vườn. Ngoài
nông nghiệp, người Churu còn chăn nuôi: trâu, bò, heo, dê, ngựa và các loại gia cầm
khác như: gà, vịt, ngan, ngỗng... Trâu bò thường dùng làm sức kéo trong nông nghiệp;
ngựa dùng để chuyên chở hàng hóa trao đổi với các dân tộc láng giềng. Trong các loại
gia súc lớn, trâu được nuôi nhiều hơn bò và ngựa. Vì ngoài việc dùng làm sức kéo, trâu
còn được dùng trong các lễ nghi nông nghiệp và tín ngưỡng cổ truyền, cưới xin hoặc
dùng làm vật ngang giá để mua bán và trao đổi trong nội bộ dân tộc, cũng như với các
dân tộc anh em khác. Về nghề thủ công, người Churu đan lát đồ dùng gia đình bằng
mây tre và các công cụ tự rèn khác như liềm, cuốc, nạo cỏ, đồ gốm phục vụ cho sản
xuất nông nghiệp và đời sống hàng ngày. Đặc biệt có nghề làm gốm, một nghề thủ công
truyền thống của đồng bào Churu, tuy nhiên, kỹ thuật chế tác hãy còn rất thô sơ. Nghề
dệt ở đây hầu như không phát triển, vì vậy hầu hết các y phục cổ truyền của họ như:
chăn, áo, khố v.v.... đều phải mua bán trao đổi với các dân tộc láng giềng như người
Mạ, K’ho, Chăm.
Văn hóa ẩm thực: Người Churu có văn hóa ẩm thực khá độc đáo với nhiều món
ăn truyền thống như: Da trâu cà đắng, Canh Pài, Cháo chua, rượu cần …
Văn hóa trang phục: Bộ trang phục truyền thống của người đàn ông Churu có
nền trắng, kể cả tấm choàng buộc chéo từ nách bên này sang nách bên kia, quần dài,
tấm khăn quấn trên đầu cũng màu trắng. Trang phục này chỉ mặc vào các dịp cưới xin,
lễ hội, hay đi đám ma... Còn ngày thường họ ăn mặc đơn giản hơn, quần trắng, áo dài
trắng. Phụ nữ Churu thường mặc áo sơ mi khoác bên ngoài một tấm choàng, Tấm
choàng màu trắng được mặc trong các dịp lễ. Tấm choàng màu đen sử dụng hàng ngày.
Váy thường có màu xanh đen. Điểm dễ nhận ra trong trang phục của dân tộc Churu là
đàn ông và phụ nữ đều sử dụng khăn cuốn đội đầu.
Văn hóa tín ngưỡng, phong tuc tập quán và lễ hội: Người Churu có tín ngưỡng
đa thần. Việc thờ cúng tổ tiên ở đây bắt nguồn từ chỗ họ tín ngưỡng vào sự tồn tại vĩnh
cửu của linh hồn những người đã khuất. Lễ thờ cúng tổ tiên ở đây khác hẳn với lễ thờ
27
cúng tổ tiên ở người Kinh. Việc hành lễ không có một trật tự ngày tháng nào nhất định.
Có thể hai ba năm hoặc hai, ba mươi năm mới cúng một lần, tùy theo hoàn cảnh kinh tế
của mỗi gia đình, dòng họ. Trong nhà của người Churu cũng không có bàn thờ hay bài
vị dành cho những người đã khuất. Họ chỉ làm bàn thờ và tiến hành việc thờ cúng vào
một dịp nào đó ở ngoài nghĩa địa chứ không đem về nhà. Thường ngày, mỗi khi có
người chết họ thường giết trâu, bò để làm lễ cúng.... Đó là một phong tục có từ lâu đời
mà hiện nay còn ảnh hưởng rất sâu đậm trong đời sống tinh thần của người Churu.
Người Churu thực hiện nhiều nghi lễ liên quan đến nông nghiệp như: Cúng thần
đập nước, thần mương nước, cúng thần lúa khi gieo hạt, cúng ăn mừng lúa mới, cúng sau
mùa gặt.... trong các lễ nghi cổ truyền đó, đáng chú ý nhất là lễ cúng thần Bơmung. Đồng
thời với việc cúng Bơmung, cũng vào tháng hai mỗi năm theo phong tục cổ truyền người
Churu thường cúng Yang Wer, Yang Wer là một cây cổ thụ ở gần làng và được dân làng
tin đó là nơi ngự trị của một vị thần có nhiều quyền phép. Dân làng Churu thường làm
những hình nộm như: đầu voi, đầu cọp, đầu dê, đầu trâu... bằng gỗ hoặc bằng củ chuối
cùng với đồ ăn, thức uống mang tới gốc cây Yang Wer để cúng thần.
Đời sống văn học, nghệ thuật dân gian: Kho tàng văn học, nghệ thuật của người
Churu rất phong phú, phần lớn phản ánh chế độ mẫu hệ, đề cao vai trò của người phụ
nữ trong gia đình và trong xã hội cổ truyền; truyện cổ phản ánh cuộc đấu tranh bất khuất
của người dân lao động đối với thiên nhiên, đối với xã hội để dành lại cuộc sống trong
lành và hạnh phúc. Ví dụ như câu chuyện về một em bé mồ côi cha mẹ, lúc đầu sống
cuộc sống nghèo khó, nhưng sau đó được thần giúp đỡ trở lên giầu sang và có cuộc sống
an lành. Có những truyện cổ tích ví von, có nhiều thiên trường ca mà các cụ già làng
thường ngồi bên bếp lửa của nhà sàn kể lại cho con cháu họ nghe một cách rất say sưa,
suốt đêm này qua đêm khác... Về âm nhạc, ngoài trống (sơ gơn), kèn (rơkel), đồng la
(sar) v.v... còn có r'tông, kwao, telia là những nhạc cụ đặc sắc của người Churu. Trong
những ngày vui, họ thường tấu nhạc với điệu Tam-ga, một vũ điệu mang tính cộng đồng
rất điêu luyện, mà hầu như người nào cũng biết và ưa thích.
2.2.3. Dân tộc Mạ
Theo thống kê, hiện nay dân tộc Mạ có gần 33.000 người, cư trú ở hầu khắp các
huyện, thành phố trong tỉnh (Bảo Lộc, Bảo Lâm, Đạ Huoai, Đạ Tẻh, Cát Tiên, Đức Trọng,
Lâm Hà, Đơn Dương, Di Linh).
28
Dân tộc Mạ là một cộng đồng người thống nhất, có một tên gọi chung, một ngôn ngữ
chung và ý thức chung về tộc người Mạ, tự phân biệt mình với các dân tộc láng giềng. Nhưng
trong quá trình tồn tại và phát triển, cộng đồng dân tộc Mạ đã chia các nhóm địa phương như:
Mạ Ngăn, Mạ Xốp, Mạ Tô, Mạ Krung. Người Mạ thuộc ngữ hệ Nam Á, nhóm ngôn ngữ Môn
- Khơme miền núi phía Nam, rất gần gũi với tiếng nói của người M'nông, Churu, Xtiêng, K’h
-là những dân tộc láng giềng gần gũi với họ. Trong từ vựng của ngôn ngữ Mạ, yếu tố Môn -
Khơme trội hơn hẳn so với các dân tộc cùng nhóm ngôn ngữ này cư trú ở Bắc Tây Nguyên
như Ba na, Xơ đăng… làng của gười Mạ thường có quy mô nhỏ bé so với làng của người K’ho
và người Churu trong vùng. Mỗi làng bao gồm vài ba ngôi nhà dài. Đứng đầu làng là chủ làng
hay chủ rừng cùng với các gia trưởng hợp thành bộ máy tự quản của làng truyền thống.
Văn hóa kiến trúc: Nhà dài là hình thái cư trú truyền thống lâu đời của người Mạ,
được xây dựng dựa trên các nguyên vật liệu tự nhiên, mang đặc trưng của người Mạ từ
các bố trí sắp xếp sử dụng nguyên vật liệu và sắp đặt trong nhà.
Đời sống kinh tế sản xuất, chăn nuôi, nghề thủ công: Trong xã hội truyền thống, làm
rẫy là phương thức hoạt động kinh tế chủ yếu của dân tộc Mạ. Phương thức hoạt động kinh
tế này hầu như đã đem lại cho họ toàn bộ nhu cầu về lương thực và phần lớn thực phẩm trong
bữa ăn hàng ngày. Việc chăn nuôi gia súc, gia cầm trong mỗi gia đình người Mạ còn kém
phát triển. Họ thường nuôi lợn, dê, bò, trâu, gà, vịt chủ yếu là để giết thịt trong các lễ hiến
sinh, chứ chưa phải để dùng làm sức kéo trong nông nghiệp như ở vùng K’Ho Srê, vùng
người Lạch và người Churu. Nghề thủ công phổ biến nhất là nghề đan lát những đồ dùng
trong gia đình bằng mây, tre, lá... Nghề dệt vải bằng khung dệt Inđônêdiên còn thô sơ, nhưng
có kỹ thuật dệt khá cao với lối thêu hoa văn trên nền vải khá đặc sắc. Sản phẩm của nghề dệt,
đáp ứng nhu cầu về may mặc y phục truyền thống trong mỗi gia đình. Ngoài ra, nó còn tạo
ra được những tấm vải thổ cẩm với hoa văn trang trí khá tinh xảo và đẹp mắt. Đây là một
trong những nét nổi bật của người Mạ so với các dân tộc láng giềng. Nghề rèn có ở nhiều
nơi, hoạt động lúc nông nhàn. Họ rèn và tu sửa nông cụ, vũ khí truyền thống. Xưa kia, đồng
bào Mạ đã từng có kỹ thuật luyện sắt thép từ quặng ở địa phương. Nhưng về sau, do có sẵn
sắt thép từ việc trao đổi với miền xuôi nên nghề luyện sắt từ quặng bị mai một dần...
Văn hóa trang phục: Có cá tính riêng về tạo hình áo nữ, đặc biệt là phong cách
thẩm mỹ. Mùa làm nông, nhiều người ở trần, mùa rét choàng tấm mền. Có tục cà răng,
căng tai, đeo nhiều vòng trang sức. Nam thường để tóc dài búi sau gáy, ở trần, đóng
29
khố. Khố cũng có nhiều loại khác nhau về kích thước và hoa văn trang trí. Loại khố
trang trọng có đính hạt cườm, tua dài. Bên cạnh đó họ còn mặc áo chui đầu, xẻ tà, vạt
sau dài hơn vạt trước che kín mông. Áo có các loại: dài tay, ngắn tay và cộc tay. Thủ
lĩnh búi tóc cắm lông chim có bộ khiên giáo kèm theo. Phụ nữ để tóc dài búi sau gáy.
Xưa họ ở trần mặc váy, có bộ phận mặc áo chui đầu. Áo nữ mặc vừa sát thân, dài tới
thắt lưng, không xẻ tà, vạt trước và sau áo bằng nhau; cổ áo tròn thấp. Tổng thể áo chỉ
là hình chữ nhật màu trắng. Nửa thân dưới áo trước và sau lưng được trang trí hoa văn
các màu đỏ, xanh là chính, trong bố cục dải băng ngang thân với các mô típ hoa văn
hình học là chủ yếu. Chiều dọc hai bên mép áo được dệt viền các sọc trang trí. Váy là
loại váy hở được dệt trang trí hoa văn với những phong cách bố cục đa dạng. Về cơ bản
là các sọc màu xanh, đỏ, vàng, trắng trên nền chàm, chủ yếu là hoa văn hình học theo
nguyên tắc bố cục dải băng ngang truyền thống. Có trường hợp nửa trên váy dệt trang
trí hoa văn kín trên nền sáng (trắng) với hoa văn hình học màu đỏ xanh. Nam nữ thường
thích mang vòng ở cổ tay có những ngấn khắc chìm - ký hiệu các lễ hiến sinh tế thần
cầu mát cho chủ nhân nó. Nam nữ đều đeo hoa tai cỡ lớn bằng đồng, ngà voi, gỗ; cổ
đeo hạt cườm. Phụ nữ còn mang vòng chân đồng nhiều vòng xoắn.
Văn hóa tín ngưỡng, phong tục, lễ hội: Cũng giống như người K’ho, người Mạ
coi thần Nđu, là vị thần sáng tạo. Nhưng gần gũi và quan trọng hơn hết đối với người
Mạ, vẫn là những vị thần nông nghiệp như: thần lúa, thần rừng, thần núi, thần lửa....
Những lễ nghi cúng kiếng các vị thần nông nghiệp của người Mạ được tiến hành theo
chu kỳ canh tác rẫy hàng năm. Nhưng quan trọng nhất vẫn là lễ cúng vào thời kỳ bắt
đầu gieo hạt gọi là lễ cúng hồn lúa để mong được phong đăng hòa cốc và lễ cúng cơm
mới vào lúc kết thúc mùa thu hoạch lúa trên rẫy hầu tạ ơn các thần linh đã phù hộ cho
họ một vụ gieo trồng trọn vẹn. Để làm vừa lòng các vị thần linh và cầu mong sự nâng
đỡ của các chư thần, ngoài các lễ nghi nông nghiệp người Mạ còn tổ chức hiến sinh vào
các dịp như cưới hỏi, sinh đẻ, làm nhà mới, kết nghĩa anh em, mua sắm tài sản quý
(chiêng, chóe, trâu, bò...). Vào tháng Giêng âm lịch, trước khi chọn rừng làm rẫy, người
Mạ làm lễ cúng thần rừng. Đó là lễ nghi nông nghiệp quan trọng đầu tiên trong hệ thống
lễ nghi nông nghiệp hàng năm theo chu kỳ canh tác nương rẫy của người Mạ. Trước khi
gieo hạt giống, người ta lại làm lễ cúng hồn lúa. Khi lúa trên rẫy ''đến thì con gái '', và
sắp trổ đòng thì làm lễ ăn mừng và tạ ơn thần lúa. Lễ này gọi là lễ Yu tam nơm. Đến
30
khi lúa trổ bông thì làm lễ Yu rmul hay Yu Đụng với vật hiến sinh là lợn hoặc dê và
phải kiêng cữ trong 7 ngày liền. Trong lễ này, người Mạ dựng cây nêu trên đám rẫy của
từng gia đình, nó tượng trưng cho ngôi nhà của hồn lúa. Khi công việc thu hoạch mùa
đã hoàn tất, cây nêu này được đem về nhà cắm vào từng kho thóc của từng gia đình.
Lễ hiến sinh lớn nhất của người Mạ là nghi lễ đâm trâu trong lễ hội mừng lúa mới.
Xưa kia, được tiến hành mỗi năm một lần, những buôn làng gần nhau tụ họp lại cùng tổ chức
lễ, đây là một nghi lễ có từ rất xa xưa trong cộng đồng người Mạ cũng như các đân tộc khác
ở Tây nguyên. Nó không chỉ là một loại hình tín ngưỡng nông nghiệp nguyên thủy, mà lễ hội
đó còn là một sự phản ánh sinh hoạt săn bắn hái lượm tiền nông nghiệp của đồng bào...
Văn học, văn nghệ dân gian: Dân tộc Mạ vẫn còn bảo lưu được một kho tàng
văn học nghệ thuật dân gian rất phong phú. Đàn đá tìm thấy ở vùng người Mạ nay vẫn
còn đang được lưu trữ ở Hoa Kỳ là một loại nhạc cụ tối cổ của nhân loại. Nhiều truyền
thuyết, thần thoại, cổ tích, dân ca, luật tục ca, trường ca vẫn còn được bảo lưu trong dân
gian vùng người Mạ.
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, cuộc sống đan xen
với người kinh đã ảnh hưởng rất nhiều đến văn hóa văn hoá dân tộc thiểu số của các dân
tộc này. Vẫn còn giữ được truyền thống sinh hoạt theo làng những kiến trúc xây dựng đặc
trưng riêng của từng dân tộc đã thay đổi hoàn toàn, thậm chí có dân tộc kiến trúc nhà dài
đã mất hẳn thay vào đó là kiến trúc bê tông hóa. Hình thái kinh tế sản xuất thay đổi và dẫn
đến hoạt động về đời sống văn hóa xã hội cũng cũng thay đổi theo; các nghề thủ công
truyền thống đang bị mai một như nghề rèn, dệt, đan lát không được chú trọng; các hình
thức sinh hoạt văn hóa - văn nghệ dân gian vắng dần, có chăng chỉ còn lại sinh hoạt cồng
chiêng và vài điệu múa xoang trong những nghi lễ cần thiết. Điều này cũng gióng lên “hồi
chuông cảnh báo” cho chính các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số và các nhà thực hiện
chính sách về dân tộc.
(Hình ảnh minh họa đời sống văn hóa dân tộc Mạ, K’Ho, Chu Ru tại phụ lục 1).
2.3. Chính sách và thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các
dân tộc thiểu số tỉnh Lâm Đồng
2.3.1. Công tác lập kế hoạch thực hiện chính bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Triển khai các CS bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc của Đảng và Nhà
nước cho các dân tộc trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng, từ năm 2014 đến nay, với sự tham mưu
31
của nhiều đơn vị chuyên môn và các đơn vị liên ngành, UBND tỉnh Lâm Đồng đã chủ
động xây dựng và ban hành nhiều kế hoạch, quyết định, nghị quyết, chương trình để triển
khai thực hiện. Từ năm 2014 đến năm 2019, bên cạnh các Nghị quyết của Tỉnh ủy đề ra
chủ trương, đường lối về bảo tồn và phát huy BSVH dân tộc, UBND tỉnh và ngành chức
năng cũng ban hành nhiều văn bản pháp lý để triển khai, cụ thể hóa đường lối của các
cấp ủy Đảng về bảo tồn và phát huy BSVH dân tộc (Phụ lục 3).
Ngoài ra, trong các nghị quyết, quyết định, chương trình hành động, nội dung lập
kế hoạch để thực thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH dân tộc cũng được thể hiện
đầy đủ theo lộ trình thời gian và gắn với chức năng nhiệm vụ của từng đơn vị, từng cấp.
Với những kế hoạch mang tính chiến lược, tỉnh Lâm Đồng đã và đang cho thấy vấn đề
thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH dân tộc được thực hiện đầy đủ, phù hợp với chủ
trương, CS của Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu, khảo sát thực tế bên cạnh những kết quả đạt được tác
giả nhận thấy công tác lập kế hoạch vẫn còn một số hạn chế nhất định như sau:
Thứ nhất: Thiếu đội ngũ cán bộ, chuyên gia am hiểu sâu sắc về đời sống kinh tế
văn hóa xã hội của người DTTS hoặc nếu có thì vai trò cũng mờ nhạt.
Thứ hai: Việc lập kế hoạch không dự báo được những kết quả dự kiến đạt được
mà mới chỉ đưa ra mục tiêu chung, mục tiêu giai đoạn.
Thứ ba: Các nhiệm vụ và giải pháp mang tính chung, có tính chất chỉ đạo điều
hành kể cả phân công nhiệm vụ cho từng đơn vị mà không gắn với kết quả.
Thứ tư: Không thể hiện kinh phí cho từng nhiệm vụ hoặc mục tiêu hoặc giai đoạn.
Do vậy trong quá trình triển khai có thể bị ngưng hoặc trì trệ do vấn đề thiếu kinh phí.
2.3.2. Tuyên truyền, phổ biến về chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Trong những năm qua, công tác tuyên truyền, phổ biến về chính bản sắc văn hóa
các DTTS tới cán bộ, đảng viên và người dân được tỉnh Lâm Đồng đặc biệt quan tâm.
Qua đó nhận thức của cán bộ, nhân dân đã có những chuyển biến tích cực góp phần nâng
cao kết quả và hiệu quả công tác bảo tồn văn hóa dân tộc. Báo Lâm Đồng, Đài Phát thanh
và Truyền hình Lâm Đồng và các cơ quan báo chí thường trú trên địa bàn tỉnh… tích cực
tuyên truyền về các chủ trương, kế hoạch của tỉnh về bảo tồn văn hóa; giới thiệu mô hình
bảo tồn hiệu quả, đồng thời phổ biến những kinh nghiệm hay trong thực hiện công tác
bảo tồn và phát huy BSVH dân tộc ở các địa phương.
32
Tại quyết định số 296/QĐ-UBND ngày 22/02/2018 của UBND tỉnh phê duyệt đề án
“Bảo tồn và phát triển không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên các dân tộc tỉnh lâm đồng
đến năm 2020”, tại mục 3, điểm 1 về công tác tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức về
di sản Không gian văn hóa cồng chiêng trên địa bàn tỉnh đã nêu rõ “Nâng cao nhận thức về vị
trí, vai trò của các cấp chính quyền, cộng đồng và chủ nhân di sản văn hóa trong việc gìn giữ,
bảo tồn, khai thác và phát huy có hiệu quả di sản văn hóa phi vật thể Không gian văn hóa cồng
chiêng Tây Nguyên theo cam kết của nước ta với UNESCO. Từng bước khôi phục các giá trị
của Không gian văn hóa cồng chiêng trong đời sống cộng đồng các DTTS Tây Nguyên ở Lâm
Đồng, góp phần phát triển văn hóa - du lịch trong thời kỳ hội nhập”.
Quyết định số 450/QĐ-UBND ngày 06/03/2018 của UBND tỉnh phê duyệt đề án
“Bảo tồn, phát huy BSVH các DTTS, khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống
gắn với hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2018 - 2020 và định hướng
đến năm 2030”, tại mục 4 giải pháp thực hiện, điểm 2. Tuyên truyền giáo dục: Có giải pháp
cụ thể hóa các quy định chung của Nhà nước đến cộng đồng DTTS; đảm bảo rõ ràng, ngắn
gọn, dễ hiểu để mọi người dân dễ dàng tiếp thu và tự giác chấp hành. Gắn lợi ích của người
dân khi tham gia các hoạt động bảo tồn văn hóa để thu hút đông đảo người dân tham gia
lưu giữ di sản văn hóa truyền thống của mình. Tăng cường vận động, tuyên truyền để nâng
cao ý thức tự giác của người dân, gắn với xã hội hóa trong công tác bảo tồn”.
Công tác tuyên truyền về di sản văn hóa phi vật thể của tỉnh cũng được chú trọng
thực hiện thông qua các lễ hội, ngày hội lớn diễn ra trên địa bàn. Thông qua các nguồn
vốn đầu tư chương trình mục tiêu quốc gia về bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật
thể các dân tộc thiểu số; ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lâm Đồng thực hiện Dự án
Phục dựng lễ hội Buk Chu Bur của người Churu tại xã Đà Loan, huyện Đức Trọng; Lễ
Pơthi (bỏ mả) của người Churu và nhóm K’ho ở K’Long - huyện Đức Trọng; lễ Nhô Wèr
của cộng đồng K’ho Srê ở huyện Di Linh; các nghi thức cúng lúa rẫy của người Mạ ở xã
Lộc Bắc, huyện Bảo Lâm; Lễ đưa lúa về kho của dân tộc K’ho ở huyện Lâm Hà; Lễ Sạ
lúa, Lễ bắt chồng, Ngày Hội đoàn kết cội nguồn của dân tộc Churu huyện Đơn Dương,
Lễ cầu mưa của dân tộc K’ho huyện Đam Rông, Lễ mang lúa về kho của người K’ho tại
Đinh Văn huyện Lâm Hà; lễ cưới của người K’ho Cil tại xã Đạ Chais - Lạc Dương…
nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt văn hóa của bà con dân tộc.
33
Về việc tổ chức thực hiện Đề án Khôi phục một số làng nghề truyền thống, làng
văn hóa kiểu mẫu trong vùng đồng bào dân tộc gắn liền với du lịch Lâm Đồng, ngành
Văn hóa tỉnh Lâm Đồng đã triển khai Bảo tồn Làng truyền thống dân tộc Churu tại xã
Proh, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng; phát triển các làng nghề thủ công truyền thống
như dệt vải, đan lát, làm gốm, làm bạc.... Bên cạnh đó, thông qua việc tổ chức các lễ hội,
cũng đã góp phần tích cực trong việc tuyên truyền, quảng bá di sản văn hóa, hình ảnh về
văn hóa, vùng đất và con người Lâm Đồng đến với nhân dân và du khách.
Bên cạnh sự tham gia tích cực của cơ quan chủ thể thực hiện CS về bảo tồn và phát
huy BSVH các DTBD, trong quá trình thực hiện công tác tuyên truyền thực hiện CS trên địa
bàn tỉnh Lâm Đồng còn có sự tham gia tích cực, chủ động của các tổ chức chính trị xã hội
như: Mặt trận Tổ quốc các cấp đã chủ trì, phối hợp với các tổ chức thành viên chỉ đạo các
cấp hội cơ sở tổ chức tốt công tác tuyên truyền, vận động hội viên và toàn dân hưởng ứng,
tham gia các cuộc vận động, các hoạt động sưu tầm, kiểm kê, phục dựng lễ hội, phục dựng
di tích... Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tổ chức thực hiện nhiều các hoạt động để bảo
tồn và phát huy BSVH các dân tộc như: Giai đoạn 2014 - 2020, Sở đã phối hợp với chính
quyền địa phương tổ chức 53 lớp truyền dạy Cồng chiêng thu hút trên 1.400 thanh thiếu niên
là người đồng bào dân tộc thiểu số, nhằm lưu giữ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể; tái
trang bị các nhạc cụ truyền thống, trang phục truyền thống cho một số huyện (18 bộ cồng
chiêng, 12 bộ trang phục dân tộc). Bên cạnh đó, đồng bào dân tộc K’Ho huyện Lạc Dương
đã tự đứng ra thành lập các đội, nhóm cồng chiêng để luyện tập, biểu diễn văn hóa cồng
chiêng phục vụ khách du lịch, việc này vừa giúp tăng thu nhập, cải thiện đời sống kinh tế của
bà con, vừa giúp bà con giữ gìn nét sinh hoạt văn hóa truyền thống của dân tộc mình.
Ngoài ra, các địa phương còn huy động sự tham gia và nhận được sự phối hợp tích
cực của các già làng, trưởng bản, người có uy tín trong công tác sưu tầm, kiểm kê, phục
dựng và truyền dạy các di sản văn hóa phi vật thể. Đặc biệt, hình thức truyền dạy văn
nghệ dân gian mang tính tự phát được phát triển ở các huyện như Lạc Dương, Di Linh,
Đam Rông, Đơn Dương và thành phố Đà Lạt…thu hút đông đảo tầng lớp thanh niên đồng
bào dân tộc thiểu số tham gia.
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, công tác phổ biến, tuyên truyền CS cho người
dân về bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các DTTS trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng còn
có một số hạn chế: Công tác tuyên truyền chưa thực sự sâu rộng, hình thức tuyên truyền
34
còn đơn điệu, còn mang tính phong trào; Công tác vận động tuyên truyền đã được quan
tâm thực hiện nhưng chưa được thường xuyên phần lớn mới chỉ tâp trung ở những khu
dân cư đông đúc, ở thành phố, thị trấn. Ở những vùng sâu, vùng xa do điều kiện đi lại
khó khăn, công tác tuyên truyền gần như được giao cho cấp xã, cấp xã lại giao cho thôn,
buôn. Điều này làm cho công tác tuyên truyền thiếu hẳn tính đồng bộ và khó kiểm soát,
làm cho công tác bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS khó được kiểm kê, bảo tồn, dẫn
đến tình trạng mai một, biến mất. Bên cạnh đó do tác động mạnh mẽ của sự phát triển
kinh tế, của quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa đã làm thay đổi môi trường của văn
hóa truyền thống; nhiều bản sắc văn hóa dần mai một nên công tác bảo tồn văn hóa truyền
thống ngày càng khó khăn.
2.3.3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy BSVH dân tộc
CS bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS là một CS tương đối rộng bao gồm nhiều
hợp phần CS khác nhau, bên cạnh đó mỗi hợp phần CS lại hướng tới những mục tiêu khác
nhau. Bởi vậy để tổ chức triển khai thực hiện cần có sự tham gia vào cuộc của rất nhiều cơ
quan nhà nước khác nhau từ trung ương đến địa phương. Sự tham gia vào quá trình tổ chức
thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS của các cơ quan nhà nước cần phải được
tổ chức một cách khoa học và hợp lý trên cơ sở tạo ra một cơ chế, cách thức phối hợp đồng
bộ, nhịp nhàng và thống nhất nhằm khai thác được năng lực, sở trường cũng như các điều
kiện vật chất khác của các cấp, các ngành vào quá trình thực hiện CS.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS,
trong những năm qua, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Lâm Đồng đã ban hành nhiều Nghị quyết
lãnh đạo, văn bản chỉ đạo điều hành việc thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH các
DTTS trên địa bàn, ưu tiên nguồn lực cho việc nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê các di sản
đang có nguy cơ bị mai một, biến mất. Chỉ đạo các sở, ban, ngành, đoàn thể của tỉnh nâng
cao nhận thức, trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ phát triển văn hóa, bản tồn và phát
huy BSVH dân tộc; đồng thời tổ chức tập huấn và bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ văn
hóa cho đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu văn hóa từ tỉnh tới cơ sở, cụ thể:
Quyết định số 450/QĐ-UBND ngày 06/3/2018 của Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm
Đồng về việc phê duyệt Đề án “Bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa các DTTS, khôi phục
và phát triển các làng nghề truyền thống gắn với hoạt động du lịch trên địa bàn Lâm Đồng
giai đoạn 2018 - 2020 và định hướng đến năm 2030”, phân công nhiệm vụ cho các sở,
35
ban, ngành triển khai thực hiện, cụ thể: Giao Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì
phối hợp với các Sở Tài chính; Sở Kế hoạch và Đầu tư; Sở Công Thương; Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn; Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh, Báo Lâm Đồng; Ủy
ban nhân dân các huyện, thành phố; Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể, các tổ chức xã hội;
Phòng Văn hóa - Thông tin, Trung tâm Văn hóa - Thể thao triển khai thực hiện.
Tại Kế hoạch số 292/KH-UBND ngày 15/01/2019 của UBND tỉnh thực hiện Nghị
quyết số 14-NQ/TU của Tỉnh ủy về phát triển vùng đồng bào DTTS tỉnh Lâm Đồng giai
đoạn 2018 - 2025, định hướng đến năm 2030. Nhiệm vụ về thực hiện bảo tồn văn hóa
dân tộc được giao cho Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch:
“Xây dựng kế hoạch phát triển toàn diện văn hóa DTTS; sưu tầm, giữ gìn, bảo tồn
và phát triển không gian văn hóa đặc trưng của đồng bào DTTS; tôn vinh và phát huy bản
sắc văn hóa, tập quán, tín ngưỡng truyền thống tốt đẹp của đồng bào DTTS; bảo quản,
gìn giữ, bảo tồn di tích lịch sử; khôi phục và phát triển các làng nghề, các trang phục
truyền thống của các DTTS gắn với hoạt động du lịch; xây dựng nếp sống văn minh, bài
trừ mê tín, dị đoan, hủ tục lạc hậu...”.
Như vậy, việc phân công, phối hợp trong tổ chức thực hiện CS bảo tồn, phát huy
BSVH các DTTS ở tỉnh Lâm Đồng được thực hiện theo mô hình cơ cấu tổ chức tương
đối thống nhất từ cấp tỉnh cho đến cấp xã. Sự phân công, phối hợp trên kế hoạch, chương
trình, quyết định đã được thể hiện, tuy nhiên trong quá trình triển khai thực hiện vẫn
còn sức ỳ, và vướng mắc ở một số đơn vị. Do thiếu con người, thiếu kinh phí, và thiếu
sự đồng bộ trong phối hợp triển khai.
2.3.4. Tổ chức thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Kế hoạch số 292/KH-UBND ngày 15/01/2019 của UBND tỉnh thực hiện Nghị
quyết số 14-NQ/TU của Tỉnh ủy về phát triển vùng đồng bào DTTS tỉnh Lâm Đồng giai
đoạn 2018 - 2025; Quyết định số 450/QĐ-UBND ngày 06/3/2018 của Ủy ban nhân dân
tỉnh Lâm Đồng việc tổ chức thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS được cụ
thể thành các hoạt động sau:
- Định kỳ hằng năm triển khai công tác tuyên truyền, vận động đồng bào DTTS thực hiện
các chủ trương của Đảng, CS pháp luật của Nhà nước về bảo tồn và phát huy BSVH DTTS. Xây
dựng và xuất bản các ấn phẩm (sách, tranh ảnh, băng đĩa...) làm tài liệu, tư liệu bảo tồn, giới
36
thiệu, quảng bá di sản văn hóa, lễ hội, hoa văn cồng chiêng và các nhạc cụ của các dân tộc Tây
Nguyên đến với các tầng lớp nhân dân trong tỉnh, bạn bè trong nước và quốc tế.
- Thành lập các câu lạc bộ văn hóa, văn nghệ truyền thống để tạo nơi sinh hoạt và
duy trì, bảo tồn giữ gìn bản sắc văn hóa của vùng đồng bào DTTS, hỗ trợ cộng đồng trong
công tác bảo tồn không gian văn hóa truyền thống liên quan đến môi trường sinh hoạt văn
hóa cộng đồng, nghệ thuật diễn xướng; lựa chọn, hỗ trợ bảo tồn, phát triển không gian sinh
hoạt văn hóa truyền thống gắn với môi trường diễn xướng văn hóa cồng chiêng của một số
buôn, làng DTTS.
- Tổ chức kiểm kê, thống kê về số lượng, chất lượng, nguồn gốc, các lễ hội, văn
hóa ẩm thực, văn hóa đời sống sinh hoạt - sản xuất, văn nghệ diễn xướng, chiêng và các
vật dụng. Lập hồ sơ từng từng loại để có phương án quản lý; điều tra nguồn gốc những
văn hóa có nguy cơ mai một.
- Mời các nghệ nhân để tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn, truyền dạy về kỹ
năng xướng âm, tổ chức lễ hội, các nghề thủ công truyền thống, chỉnh chiêng, kỹ thuật
diễn tấu, phong cách trình diễn... nhằm chuyển giao giữa các thế hệ và truyền dạy các kỹ
năng chủ yếu trong bảo tồn văn hóa.
- Tiếp tục duy trì tổ chức có hiệu quả “Ngày hội Văn hóa - Thể thao các xã vùng đồng
bào DTTS Lâm Đồng” ở cấp tỉnh (được luân phiên tổ chức ở các huyện, thành phố) và cấp
huyện cho các DTTS tại chỗ. Tổ chức đưa các đoàn nghệ nhân Mạ, K’ho, Churu tham gia
các hoạt động do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các địa phương ngoài tỉnh tổ chức.
- Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị và xây dựng chương trình, nội dung hoạt
động cho các buôn, làng nhằm khôi phục lại giá trị văn hóa truyền thống.
- Khôi phục và bảo tồn hoa văn trên trang phục, cây nêu, cây nghi lễ, hoa văn trong
trang trí lễ hội, biểu diễn cồng chiêng và nhạc cụ tại các buôn làng có đông đồng bào
DTTS sinh sống. Xây dựng góc văn hóa cồng chiêng tại Bảo tàng tỉnh, phòng truyền
thống, nhà văn hóa, nhà sinh hoạt cộng đồng của các địa phương đảm bảo đủ điều kiện,
nhằm tái hiện, giới thiệu về đời sống sinh hoạt, phong tục tập quán,... của đồng bào dân
tộc gốc Tây Nguyên để phục vụ nhu cầu tham quan, tìm hiểu, góp phần giữ gìn những
giá trị di sản văn hóa của cộng đồng tại chỗ.
37
- Lựa chọn từ 2 - 3 mô hình làng truyền thống gồm: phục dựng không gian văn hóa
vật thể (kiến trúc, nhà ở, trang phục, ẩm thực...), văn hóa phi vật thể (phong tục, tập quán, lễ
hội, các làn điệu dân ca, dân vũ...) để đưa vào khai thác phục vụ phát triển du lịch.
Khâu tổ chức thực hiện CS đã được triển khai thực hiện, tuy nhiên bên cạnh đó
vẫn còn tồn tại những việc chưa thực hiện được. Thiếu đội ngũ cán bộ giỏi chuyên môn,
thiếu chuyên gia, nghệ nhân. Khâu tổ chức mang nặng tính hình thức, thiếu kinh phí đầu
tư cho công tác sưu tầm, biên soạn, phục dựng các lễ hội.
2.3.5. Đội ngũ thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng, đơn vị được giao chủ trì triển khai thực
hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở cấp tỉnh là Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch, ở cấp huyện là Phòng Văn hóa và Thông tin các huyện, thành phố.
Bên canh đó, còn có sự phối hợp của các cơ quan, ban, ngành cấp tỉnh và cấp huyện cùng
triển khai nhiệm vụ.
Theo thống kê năm 2019, tổng biên chế hiện có của Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch là 44 người với 09 thạc sĩ chuyên ngành (trong đó chỉ có Phòng Quản lý Văn hóa với
11 biên chế - là bộ phận tham mưu trực tiếp triển khai thực hiện chính sách); Phòng Văn
hóa và Thông tin cấp huyện có tổng là 65 người (bình quân khoảng 05 người/01 huyện)
với 12 người là thạc sĩ.
Bảng 1: Thống kê đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác văn hóa
Tổng số Người STT Đơn vị Nam Nữ CBCC dân tộc
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch 1 44 20 01 24
2 Thành phố Đà Lạt 10 07 03
3 Huyện Lạc Dương 04 05 01 01
4 Huyện Lâm Hà 04 02 02
5 Huyện Đơn Dương 05 03 01 02
6 Huyện Đức Trọng 05 03 02
7 Huyện Di Linh 05 02 03
8 Huyện Đam Rông 05 03 01 02
9 Huyện Đạ Hoai 05 03 02
38
10 Huyện Đạ Tẻh 05 01 04
11 Huyện Cát Tiên 05 04 01
12 Huyện Bảo Lâm 05 03 02 01
13 Thành phố Bảo Lộc 08 03 05
(Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lâm Đồng)
Về cơ bản, đội ngũ cán bộ công chức làm công tác văn hóa đã triển khai tốt nhiệm
vụ chuyên môn, công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong những năm
gần đây có nhiều chuyển biến tích cực.
Tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số hạn chế như: Chất lượng cán bộ, công chức, viên
chức trực tiếp tham mưu thi hành CS về bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS thực sự
chưa am hiểu sâu về lĩnh vực phụ trách; số lượng cán bộ, công chức là người dân tộc
thiểu số chiếm tỷ lệ thấp, dẫn đến công tác thực địa gặp nhiều khó khăn, khả năng vận
động quần chúng tham gia vào các hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn
hóa tiêu biểu của các dân tộc chưa thực sự hiệu quả. Bên cạnh đó, Lâm Đồng là địa bàn
rộng, khoảng cách di chuyển từ trung tâm vào vị trí các buôn, làng xa xôi, đường đi lại
khó khăn, do đó trong quá trình tuyên truyền, tổ chức thực hiện CS gặp nhiều khó khăn.
2.3.6. Kinh phí cho việc hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Căn cứ vào các kế hoạch, quyết định, chương trình, nghị quyết của tỉnh, ngân sách
chi cho việc triển khai các CS về bảo tồn phát huy văn hóa văn hoá dân tộc thiểu số được
cụ thể hằng năm. Về cơ bản, kinh phí của tỉnh chi cho các hoạt động tổ chức thực hiện
CS về bảo tồn phát huy văn hóa DTTS đã đáp ứng được yêu cầu. Hàng năm, ngân sách
tỉnh và huyện đều dành nguồn kinh phí nhất định cho công tác bảo tồn và phát huy BSVH
các DTTS (bình quân 1,5 tỷ đồng/01 năm), tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế nhất định:
- Kinh phí đầu tư cho công tác sưu tầm, phục dựng bảo tồn và phát huy các giá
trị di sản văn hóa phi vật thể các dân tộc từ ngân sách của tỉnh còn hạn hẹp, chưa đáp
ứng được so với nhu cầu thực tế, giá cả thị trường hiện nay.
- CS tôn vinh nghệ nhân có công nắm giữ, truyền dạy giá trị di sản văn hóa phi
vật thể còn thấp nên không thực sự tác động được đến những người có nguồn tư liệu
quý sẽ sẵn sàng truyền dạy lại cho thế hệ trẻ.
- Kinh phí mới chỉ quan tâm mở các lớp truyền dạy cồng chiêng mà chưa mở các
lớp mang loại hình di sản văn hóa phi vật thể khác
39
- Công tác đãi ngộ cho đội ngũ làm công tác bảo tồn chưa được quan tâm đúng
mức, công tác đào tạo chuyên sâu cho đội ngũ làm công tác bảo tồn chưa được thực
hiện một cách đồng bộ.
2.3.7. Giám sát, kiểm tra việc thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH dân tộc
Theo dõi, giám sát, kiểm tra, đôn đốc là một nhiệm vụ quan trọng trong quá trình
thực hiện CS nhằm giải quyết với những vấn đề phát sinh ảnh hưởng đến việc thực hiện
các mục tiêu CS.
Để CS bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa các DTTS tỉnh Lâm Đồng mang lại kết
quả, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh thực tế của địa phương, trong những năm qua
cấp ủy và chính quyền địa phương từ tỉnh đến cơ sở của tỉnh Lâm Đồng đã tích cực thực
hiện công tác kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện CS ở địa phương mình. Ủy ban nhân
dân tỉnh đã giao Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành các kế hoạch kiểm tra, giám
sát, đánh giá việc thực hiện công tác bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa trên địa bàn tỉnh,
đồng thời đôn đốc, chỉ đạo các ban, ngành, đoàn thể của địa phương tích cực tham gia
vào công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá quá trình thực hiện CS. Các kế hoạch kiểm tra
giám sát tập trung vào những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất: Công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện CS của địa phương bao gồm: Công
tác chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền đối với công tác bảo tồn phát huy bản sắc văn hóa,
các biện pháp tổ chức điều hành, công tác xây dựng và triển khai kế hoạch, xác định
trọng tâm, trọng điểm trong thực hiện CS.
Thứ hai: Công tác sưu tầm, kiểm kê và phục dựng di sản văn hóa vật thể, di sản
văn hóa phi vật thể hàng năm.
Thứ ba: Kết quả thực hiện các CS, dự án bảo tồn phát huy bản sắc văn hóa các
DTTS trên địa bàn.
Về phương thức kiểm tra, giám sát được thực hiện dựa trên những phương thức
cơ bản sau: Nghe địa phương báo cáo kết quả thực hiện công tác bảo tồn phát huy bản
sắc văn hóa hàng năm và kết quả thực hiện công tác kiểm kê, sưu tầm di sản; Kiểm tra
các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của địa phương về thực hiện công tác bảo tồn phát huy
bản sắc văn hóa, kiểm tra hồ sơ quản lý văn hóa; kiểm tra thực tế tại một số địa phương.
Theo số liệu của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, toàn tỉnh có 84 lễ hội truyền
thống của đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có 55 lễ hội đang duy trì thường xuyên.
40
Qua kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện, vẫn còn những hạn chế trong quá trình tổ
chức triển khai thực hiện CS, như:
- Công tác lập kế hoạch thực hiện CS về bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc văn
hoá dân tộc thiểu số chưa được thống nhất và cụ thể hóa ở các cấp (tỉnh, huyện, xã);
việc bố trí con người thực hiện một số nội dung chưa phù hợp.
- Công tác tuyên truyền về CS: Phương thức triển khai công tác tuyên truyền
chưa phong phú, chưa thường xuyên; thông tin chưa sâu, rộng đến người dân, làng,
thôn, buôn, ngoài việc tuyên truyền bằng ngôn ngữ, các hoạt động lễ hội, giao lưu, còn
chưa thể hiện nhiều trên các hình thức như Pano, ấn phẩm. Chế độ đãi ngộ cho cán bộ,
viên chức, chuyên gia không đáp ứng được với thực tế.
- Tổ chức thực hiện: Chưa phát huy được vai trò của cấp ủy Đảng trong việc lãnh
đạo. Công tác phối hợp còn thiếu chủ động, chưa kịp thời, nhất là trong các nội dung
liên quan đến kinh phí thực hiện.
- Công tác đào tạo bồi dưỡng: Kể cả cán bộ, chuyên viên và những người được
thụ hưởng CS chưa được triển khai cụ thể, còn mang tính hình thức dẫn đến việc hướng
dẫn phục dựng các hoạt động về văn hóa nghệ thuật, lễ hội còn lúng túng và còn có tình
trạng “đụng đâu gỡ đó”; chưa huy động được chuyên gia, nghệ nhân cùng thực hiện
việc triển khai CS.
- Công tác đánh giá, báo cáo về việc triển khai CS bảo tồn phát huy BSVH các
DTTS chưa sát với tình hình thực tế triển khai.
2.3.8. Thực trạng sơ kết, tổng kết thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH DTTS
Căn cứ vào kế hoạch công tác, theo từng chương trình hành động, quyết định, nghị
quyết, định kỳ tỉnh Lâm Đồng tổ chức các buổi hội thảo, sơ kết, tổng kết để nghiên cứu,
đánh giá để điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung công tác thực hiện CS bảo tồn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc trên địa bàn tỉnh, cụ thể:
- Năm 2014: Tổ chức Hội thảo “Bảo tồn và phát triển hoa văn trang trí các DTTS
tỉnh Lâm Đồng đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH vùng đồng bào dân tộc hiện nay”.
- Năm 2015: Tổ chức Hội thảo “Di sản văn hóa phi vật thể - sử thi Tây Nguyên”.
- Năm 2018: Tổ chức Hội thảo khoa học “Nâng cao vai trò, hiệu quả quản lý Nhà
nước về xây dựng, bảo tồn và phát triển văn hóa cơ sở”.
41
- Năm 2019: Tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp khôi phục và bảo tồn các giá
trị truyền thống văn hóa của các DTTS tại Lâm Đồng”; Hội thảo về xây dựng và phát
triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước (Nghị
quyết số 33-NQ/TW); Hội nghị tổng kết đánh giá 10 năm thực hiện Kế hoạch số
2016/KH-UBND ngày 06/4/2010 của UBND tỉnh Lâm Đồng về Triển khai thực hiện
“Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020” trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng.
Thông qua các hội thảo, hội nghị này, việc thực hiện CS về bảo tồn và phát huy
BSVH các DTTS được nhìn nhận, đánh giá một cách nghiêm túc khách quan. Đồng thời
đã tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện, có được kinh nghiệm
cho những kế hoạch tiếp theo.
Các hội nghị, hội thảo, sơ kết tổng kết cũng là dịp để những đối tượng thụ hưởng
CS thể hiện tiếng nói của mình trong việc tiếp nhận các CS.
2.4. Đánh giá việc thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH DTTS tỉnh Lâm Đồng
2.4.1. Những kết quả đạt được
Lâm Đồng đã xác định bảo tồn, phát huy BSVH các DTTS là một bộ phận cấu
thành nền văn hóa Lâm Đồng phong phú và đa dạng. Tỉnh đã và đang dành nhiều sự quan
tâm, nỗ lực bảo tồn các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể tốt đẹp của các dân tộc, đồng
thời hướng tới xây dựng đời sống văn hoá, môi trường văn hoá mới. Công tác bảo tồn,
phát huy các giá trị văn hoá đã từng bước được quan tâm. Nhiều di tích, văn hoá, tín
ngưỡng được đầu tư kinh phí trùng tu, phục dựng và tôn tạo. Các giá trị văn hoá tinh thần,
phi vật thể được lưu giữ và phát huy. UBND tỉnh đã xây dựng, ban hành “Quy định về
quản lý, bảo vệ, đầu tư khai thác di tích, danh lam thắng cảnh tỉnh Lâm Đồng”, tạo điều
kiện cho thực hiện bảo tồn, phát huy BSVH dân tộc. Công tác bảo tồn và phát huy di sản
văn hóa các dân tộc tỉnh Lâm Đồng trong thời gian qua đã thực sự có những chuyển biến
mạnh mẽ cả về lượng và chất. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tích cực triển khai các
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về di sản văn hóa đến cơ sở.
Về DSVH phi vật thể, trong những năm qua tỉnh Lâm Đồng đã thực hiện có hiệu
quả Đề án Bảo tồn và phát huy không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên ở Lâm Đồng
(ban hành kèm theo Quyết định số 1583/QĐ - UBND ngày 9/7/2009); đã triển khai được
nhiều hoạt động: Mở 53 lớp truyền dạy cồng chiêng ở các địa phương có đông người Mạ,
người K’ho và người Churu sinh sống (mỗi lớp có từ 20 - 25 học viên và 04 nghệ nhân
42
tham gia truyền dạy); trang bị 18 bộ cồng chiêng truyền thống, hỗ trợ trang phục biểu
diễn, khuyến khích tự tổ chức các hoạt động biểu diễn cồng chiêng tại các huyện có điều
kiện duy trì phát triển (Di Linh, Đam Rông, Đức Trọng, Đạ Huoai, Lạc Dương, Đơn
Dương…); hàng năm tổ chức các hoạt động Lễ hội, Liên hoan, Ngày hội văn hóa cồng
chiêng gắn với hoạt động tôn vinh các nghệ nhân ưu tú.… Qua đó góp phần tạo môi
trường sinh hoạt văn hóa mới để phát huy giá trị của di sản, giúp cho đồng bào DTTS
hiểu thêm về giá trị của văn hóa truyền thống, quan tâm đến VHTT của dân tộc mình.
Ngoài ra, còn tổ chức 02 mô hình bảo tồn văn hóa cồng chiêng tại cơ sở theo hướng kết
hợp hình thành các sản phẩm du lịch gắn với phát triển kinh tế vùng đồng bào DTTS.
Việc sưu tầm, bảo tồn, phát huy những giá trị VHTT của các DTTS được tăng
cường. Thông qua các nguồn vốn đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia, tỉnh Lâm Đồng
đã thực hiện có kết quả các dự án: Sưu tầm nghề thủ công truyền thống của người K’ho,
Mạ; kiểm kê DSVH cồng chiêng; kiểm kê hệ thống DSVH tại các địa phương có người
Mạ, K’ho và Churu sinh sống, công nhận DSVH phi vật thể địa phương; phát triển các
làng nghề thủ công truyền thống như dệt vải, đan lát, làm gốm, làm bạc….
Các giá trị văn hóa của các dân tộc đã được chú trọng giữ gìn, phát huy; văn hóa
phi vật thể của các dân tộc như: các loại hình nghệ thuật âm nhạc, ca múa, lễ hội, nghệ
thuật nấu ăn, sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ, y học dân tộc… được khôi phục; công tác
bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc được gắn liền với xây dựng đời sống văn hóa
mới, bài trừ các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan. Trên cơ sở khảo sát, kế thừa và từ sự đồng
thuận của đồng bào, tỉnh Lâm Đồng đã thúc đẩy việc khôi phục một số lễ hội truyền thống
của đồng bào K’ho - dân tộc thiểu số đông dân nhất ở Lâm Đồng, như: Lễ Nhô wèr (cúng
ruộng hàng năm của người K’ho nhóm Srê), lễ Nhô R’he (cúng sau thu hoạch lúa mùa
của người Mạ), lễ Pơthi (lễ bỏ mả của người Churu), Lễ hội Bok Chu bur (của người
Churu ở Đức Trọng)….
Có thể nói, trong thời gian vừa qua, tỉnh Lâm Đồng đã rất chú trọng, quan tâm tới
công tác bảo tồn, phát huy BSVH các DTTS và đã đạt được những thành tựu đáng trân
trọng. Tuy nhiên, cũng như các địa phương khác trên cả nước, Lâm Đồng còn rất nhiều
khó khăn trong quá trình bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS với thực trạng nguy cơ
thất truyền, mai một của nhiều loại hình DSVH phi vật thể, việc phát huy giá trị các lễ
hội truyền thống còn nhiều hạn chế; việc sưu tầm, bảo tồn và phát huy các DSVH phi vật
43
thể chưa tương xứng với tiềm năng hiện có; nguồn kinh phí, ngân sách, phương tiện, con
người cần đầu tư, bố trí cho lĩnh vực này còn khó khăn.
2.4.2. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
2.4.2.1. Tồn tại
Bên cạnh những kết quả đã đạt được trong công tác bảo tồn và phát huy BSVH
các DTTS trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua vẫn còn những tồn tại:
- Việc xây dựng và đề ra các chương trình, quy hoạch, kế hoạch và các giải pháp
của tỉnh Lâm Đồng là phù hợp với thực tiễn và yêu cầu của việc bảo tồn và phát huy
BSVH các DTTS của địa phương. Tuy nhiên, các CS đó chưa được cụ thể hóa dẫn đến
tình trạng lúng túng khi triển khai ở cơ sở làm cho CS triển khai thiếu hiệu quả.
- Ban hành CS chưa thực sự quan tâm đến các nguồn lực về tài chính, nguồn
nhân lực, dẫn đến tình trạng các chương trình, đề án triển khai cầm chừng, kéo dài, chưa
mang lại hiệu ứng cao trong xã hội.
- Chủ trương về công tác vận động xã hội hóa cho việc bảo tồn phát huy BSVH
các DTBD chưa được quan tâm đúng mức. Do vậy, việc quan tâm, ủng hộ của cộng
đồng về BSVH các DTTS còn dừng lại ở mức nhận thức chưa đầy đủ giá trị cao đẹp,
tầm ảnh hưởng của BSVH các DTTS đối với xã hội, nên chưa có một hoạt động nào
mang tính chất xã hội hóa cao.
2.4.2.2. Hạn chế
- Việc phát huy giá trị BSVH các DTTS trong các lễ hội truyền thống còn nhiều
hạn chế. Trong đó điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật, chất lượng cán bộ, các cơ chế CS
về lĩnh vực quản lý BSVH các DTTS chưa thể chưa đáp ứng kịp thời.
- Thiếu đội ngũ chuyên gia xây dựng mô hình bảo tồn BSVH các DTTS. Công tác
quảng bá hình ảnh về BSVH các DTTS Lâm Đồng và gắn kết các DSVH với hoạt động
du lịch, tham quan vẫn còn hạn chế.
- Nhận thức của các cấp, các ngành và toàn xã hội về vai trò, ý nghĩa của việc bảo
tồn và phát huy BSVH các DTTS đã được nâng cao nhưng chưa sâu sắc, chưa toàn diện
và chưa được cụ thể hóa bằng các biện pháp, kế hoạch, chương trình thực hiện.
- Chưa thực hiện được việc xây dựng đề án và quy hoạch, lựa chọn những giá trị
BSVH các DTTS tiêu biểu của các dân tộc để ưu tiên đầu tư nghiên cứu phục dựng bảo
tồn trong nhân dân.
44
- Công tác xã hội hóa trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị BSVH các DTTS
các dân tộc Lâm Đồng còn thiếu định hướng, thiếu những CS, chế tài cụ thể để khuyến
khích, kêu gọi sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân. Nguồn lực do nhân dân đóng góp
chưa được quy tụ dưới sự quản lý của cơ quan nhà nước một cách chặt chẽ nên không được
sử dụng hiệu quả.
- Công tác tuyên truyền về BSVH các DTTS chưa được chú trọng, chưa có sự kết
hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp trong tổ chức khai thác du lịch gắn với giá trị BSVH
các DTTS tiêu biểu.
- Năng lực tham mưu của đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa cơ sở đã có những
chuyển biến, góp phần giữ gìn và phát huy giá trị BSVH các DTTS của tỉnh. Tuy nhiên,
vẫn tồn tại nhiều hạn chế như: Trình độ chuyên môn nghiệp vụ chưa cao, khả năng vận
động quần chúng tham gia vào các hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị BSVH các DTTS
chưa thực sự hiệu quả.
- Kinh phí đầu tư cho công tác sưu tầm, phục dựng bảo tồn và phát huy các giá trị
BSVH các DTTS từ ngân sách của tỉnh còn hạn hẹp, chưa đáp ứng được so với nhu cầu
thực tế hiện nay. CS tôn vinh, đãi ngộ nghệ nhân có công nắm giữ, truyền dạy và phát
huy giá trị BSVH các DTTS trên địa bàn tỉnh chưa phù hợp.
2.4.2.3. Nguyên nhân
Dựa vào thực trạng về thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS có thể
nêu ra một số nguyên nhân sau:
a) Nguyên nhân khách quan: Đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân
tộc ở nhiều nơi còn nghèo, khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa. Họ đang phải chật vật lo
cho đời sống và những sinh hoạt căn bản, dẫn đến việc chăm lo cho đời sống tinh thần và
bản sắc văn hoá bị lãng quên. Sự xâm nhập của nền văn hóa bên ngoài từ nhiều luồng đã
tấn công vào nền văn hóa dân tộc vốn đã yếu sức đề kháng. Lứa tuổi thanh niên chưa ý
thức đầy đủ về nền văn hóa dân tộc của mình nên dễ tiếp thu văn hóa bên ngoài không có
sự chọn lọc, có xu hướng vọng ngoại, quay lưng lại với những sinh hoạt văn hóa dân tộc.
Việc kế thừa, phát huy nền văn hóa của các dân tộc thiểu số trong tỉnh mặc dù đã có nhiều
cố gắng nhưng vẫn chưa đạt được kết quả như mong muốn, thế hệ trẻ là đối tượng tiếp
nối, gìn giữ và phát huy bản sắc đã và đang bị ảnh hưởng văn hóa ngoại lai, dần phai nhạt
nét văn hóa đặc trưng, đặc sắc của dân tộc mình.
45
b) Nguyên nhân chủ quan
- Công tác quản lý còn bộc lộ nhiều yếu kém, thiếu những giải pháp khả thi, chưa
có được những mô hình, những phương thức tổ chức sinh hoạt văn hóa thực sự hiệu quả
ở cơ sở. Các sinh hoạt lễ hội, văn nghệ dân gian nhiều lúc còn mang tính hình thức và
việc biến nó thành những sinh hoạt bổ ích, lành mạnh có tính thường xuyên và tính xã
hội còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng trong khâu tổ chức. Thiếu những công trình nghiên
cứu khoa học mang tính ứng dụng thực tiễn cho các mục tiêu giữ gìn và phát huy vốn văn
hóa, văn nghệ dân gian vào đời sống xã hội.
- Nguồn kinh phí, ngân sách, phương tiện, con người cần đầu tư, bố trí cho lĩnh
vực này còn ít và khó khăn, đặc biệt là sự thiếu hụt lực lượng cán bộ làm công tác văn
hóa là người các dân tộc thiểu số ở địa phương.
- Trong thời gian dài một số cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương chưa nhận thức
đầy đủ vai trò của công tác bảo tồn văn hóa dân tộc, chưa chú trọng và có biện pháp chỉ
đạo tích cực, hữu hiệu cho việc bảo tồn, phát huy nền văn hóa truyền thống, chính những
người đang thực thi nhiệm vụ chưa biết phải làm gì và làm như thế nào để gìn giữ, bảo tồn
và phát huy bản sắc văn hóa. Việc tuyên truyền, giáo dục và vận động quần chúng tham
gia giữ gìn văn hóa dân tộc chưa được tiến hành thường xuyên và sâu rộng đến các tầng
lớp dân cư trên toàn tỉnh.
2.4.3. Những vấn đề đặt ra khi thực hiện hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc
văn hóa các dân tộc thiểu số tỉnh Lâm Đồng trong bối cảnh hiện nay
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, không ít quốc gia trên thế giới đã phải trả giá cho
việc quá chú trọng phát triển kinh tế mà coi nhẹ văn hóa, quá quan tâm nhu cầu phát triển
hiện tại mà lãng quên đi VHTT, DSVH, BSVH dân tộc. Bảo vệ và phát huy BSVHDT là
một nhiệm vụ cụ thể đặt ra trong việc xây dựng và phát triển đời sống văn hóa, giữ gìn
truyền thống văn hóa tốt đẹp của mỗi dân tộc.
Có rất nhiều nhà nghiên cứu khoa học, các học giả, những người tâm huyết quan
tâm đến văn hóa dân tộc văn hoá DTTS đã công bố nhiều công trình nghiên cứu khoa
học, sách, tạp chí nói về vấn đề bảo tồn và phát huy văn hóa DTTS. Tuy nhiên, đặt bên
cạnh sự phát triển của nền kinh tế thị trường, của xã hội thời đại đang tác động lên cộng
đồng dân cư các DTTS thì những hoạt động này còn chưa phát huy được hiệu quả, thiếu
46
sức ảnh hưởng và lan tỏa. Đây không chỉ là vấn đề đáng lo ngại của tỉnh Lâm Đồng mà
nó là vấn đề của cả quốc gia.
Lâm Đồng là một tỉnh với nhiều dân tộc đến sinh sống và làm việc, địa bàn lãnh
thổ rộng, việc triển khai CS về bảo tồn văn hóa các DTTS sẽ đặt ra những vấn đề sau:
- Nếu thực hiện không quyết liệt các CS về bảo tồn, phát huy BSVH các DTTS thì
chỉ trong khoảng 20-30 năm nữa BSVH DTTS sẽ bị mai một dần và biến mất.
- Nguồn kinh phí để thực hiện CS về bảo tồn, phát huy BSVHDT nếu không được
đảm bảo và tăng cường sẽ kéo theo nhiều vấn đề khác không thực hiện được hoặc thực
hiện mang tính hình thức.
- Đội ngũ cán bộ quản lý, chuyên viên, chuyên gia am hiểu chuyên sâu về công
tác này ngày càng ít; số lượng nghệ nhân ngày càng hiếm và khó khăn trong đào tạo được
thế hệ kế cận.
- Bản thân các DTTS được thụ hưởng CS nếu không có năng lực tiếp nhận hoặc
nhận thức không đúng vấn đề sẽ rất khó khăn trong việc thực hiện CS.
Tiểu kết Chương 2
Chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước được cụ thể hóa thành các văn bản
và triển khai thực hiện đi vào thực tiễn cuộc sống là cả một cả một quá trình lâu dài, đòi
hỏi sự gắn kết, phối hợp của nhiều cơ quan, ban ngành chức năng, nhiều người, nhiều
công sức và tiền bạc mới đảm bảo thực hiện được mục tiêu.
Qua chương 2 này, tác giả đã giới thiệu về 3 DTTS tại Lâm Đồng. Đây là những
DTTS có nhiều giá trị văn hóa nổi trội, đồng thời lưu giữ được nhiều giá trị văn hóa đặc
sắc cho đến ngày nay, trong đó có những giá trị văn hóa được công nhận trên toàn thế
giới (không gian văn hóa cồng chiêng).
Với chương 2 này, tác giả cũng đã có những tổng hợp, phân tích số liệu, đánh giá
về công tác lập kế hoạch; tổ chức tuyên truyền; phân công phối hợp; tổ chức thực hiện;
đội ngũ thực hiện; kinh phí thực hiện; công tác giám sát kiểm tra; đánh giá tổng kết nhằm
làm rõ thực trạng của việc thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS ở Lâm
Đồng.
Từ những thực trạng trên, chương 2 là cơ sở để đưa ra những quan điểm và giải
pháp của chương 3 và những kiến nghị đề xuất.
47
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THỰC HIỆN TỐT CHÍNH SÁCH BẢO TỒN
VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LÂM ĐỒNG
3.1. Quan điểm, định hướng thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn
hóa của các dân tộc thiểu số
3.1.1. Về quan điểm
Bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS là nhiệm vụ chiến lược mang tính lâu dài,
là trách nhiệm của toàn xã hội, có sự kết hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, trung
ương và địa phương, giữa người dân với các đoàn thể, tổ chức xã hội. Trong đó, Nhà
nước đóng vai trò hỗ trợ, tác động tạo điều kiện, môi trường thuận lợi, phù hợp để bảo
tồn, phát triển văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
Bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS gắn với phát triển kinh tế - xã hội trên địa
bàn, ở địa phương phải đảm bảo mối quan hệ hài hòa giữa phát triển văn hóa và kinh tế,
hài hòa giữa bảo tồn, phát huy và phát triển.
Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-
NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về công tác dân tộc trong tình
hình mới đã nêu rõ quan điểm:
“- Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo và nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các
cấp uỷ, tổ chức đảng về công tác dân tộc, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và
miền núi trong tình hình mới. Kiên trì thực hiện các quan điểm của Đảng về công tác dân
tộc trong Nghị quyết 24 và các nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, XI, XII;
xác định công tác dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, cấp bách; là nhiệm vụ của
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của hệ thống chính trị.
- Hoàn thiện hệ thống CS, pháp luật liên quan đến đồng bào dân tộc thiểu số. Các
CS phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng vùng dân tộc miền núi phải toàn diện,
hướng đến mục tiêu phát triển bền vững và phát huy lợi thế, tiềm năng của vùng và tinh
thần tự lực của đồng bào dân tộc thiểu số.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi;
tăng cường đồng thuận xã hội; củng cố lòng tin của đồng bào với Đảng và Nhà nước,
phát huy nội lực, vượt qua khó khăn, thách thức, hoà nhập phát triển cùng với đất nước.
48
- Giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá tốt đẹp của các dân tộc. Tập trung giải quyết
có hiệu quả những vấn đề bức thiết. Rà soát, lồng ghép, sửa đổi, bổ sung CS; nâng cao
hiệu quả các chương trình, dự án; tăng cường hợp tác quốc tế, đa dạng hoá và xã hội hoá
nguồn lực để đầu tư phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
- Nâng cao mức hưởng thụ văn hoá của người dân. Đầu tư xây dựng hệ thống thiết
chế văn hoá cơ sở ở từng vùng, từng địa phương; quan tâm tu bổ, bảo tồn các công trình
di tích lịch sử, văn hoá; sưu tầm, bảo tồn và phát huy có hiệu quả giá trị văn hoá vật thể
và phi vật thể của các dân tộc thiểu số. Phát huy vai trò làm chủ của đồng bào trong xây
dựng đời sống văn hoá, xoá bỏ các hủ tục lạc hậu. Có biện pháp quyết liệt để xoá bỏ tình
trạng tảo hôn, chấm dứt sớm hôn nhân cận huyết thống”.
Hội nghị sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá XI về xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Bộ Chính trị tiếp tục đưa ra quan điểm, mục
tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đã nêu trong Nghị quyết. Đồng thời, chú trọng quan tâm
những nội dung sau:
“- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quán triệt,
nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò của
văn hoá trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xác định rõ xây dựng và phát triển
văn hoá, con người là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của cả hệ thống chính trị. Văn
hoá là hồn cốt của dân tộc, là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội
sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chú trọng tính đặc thù của văn
hoá, vừa bảo đảm để văn hoá, văn học, nghệ thuật phát triển đúng định hướng chính trị,
tư tưởng của Đảng, vừa bảo đảm tự do sáng tạo của cá nhân trên cơ sở phát huy tính tự
giác cao với mục đích đúng đắn.
- Tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động văn hoá. Xử lý hài hoà
giữa bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá các dân tộc với các hoạt động phát triển
kinh tế, du lịch bền vững ở các địa phương, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước và con
người Việt Nam”.
49
Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 của quốc hội Việt Nam phê duyệt
đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai
đoạn 2021-2030, đưa ra quan điểm:
“- Rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống CS, pháp luật liên quan đến đồng
bào dân tộc thiểu số và miền núi. Các CS phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh
vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi phải toàn diện, hướng đến mục tiêu phát triển
bền vững và phát huy lợi thế, tiềm năng của vùng và tinh thần tự lực của đồng bào dân
tộc thiểu số. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền
núi; tăng cường đồng thuận xã hội; phát huy nội lực, vượt qua khó khăn, thách thức, hòa
nhập phát triển cùng với đất nước; củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và lòng tin của
đồng bào với Đảng và Nhà nước;
- Phát huy mọi nguồn lực, khai thác tiềm năng, lợi thế để phát triển vùng đồng bào
dân tộc thiểu số và miền núi; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc.
Tập trung giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức thiết; thúc đẩy đào tạo nghề, giải
quyết việc làm. Lồng ghép, bảo đảm bình đẳng giới trong quá trình xây dựng và tổ chức
thực hiện Đề án”.
Quan điểm của tỉnh Lâm Đồng được thể hiện rõ tại Nghị quyết số 14/NQ-TU ngày
10/08/2018 của Tỉnh ủy Lâm Đồng về phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn
2018-2025, định hướng đến năm 2025 nêu rõ:
“- Công tác dân tộc là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, quan trọng cần phải
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị . Thực hiện
nhất quán quan điểm của Đảng: Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau
cùng phát triển.
- Xác định rõ các nguồn lực đầu tư, nội dung đầu tư để phát triển toàn diện kinh tế
- văn hóa - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số …”
Quyết định số 450/QĐ-UBND ngày 06/03/2018 của UBND tỉnh Lâm Đồng về
việc phê duyệt Đề án “Bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa các DTTS, khôi phục và phát
triển các làng nghề truyền thống gắn với hoạt động du lịch trên địa bàn lâm đồng giai
đoạn 2018 - 2020 và định hướng đến năm 2030”, nêu rõ quan điểm:
“- Bảo tồn, phát huy những loại hình di sản văn hóa của đồng bào DTTS có giá trị
tiêu biểu, đặc sắc.
50
- Đảm bảo được tính cộng đồng và huy động được sự tham gia tự nguyện của chủ
nhân di sản nhằm tạo ra môi trường văn hóa vừa truyền thống vừa hiện đại; duy trì được
khả năng tái tạo, tái hiện và tiếp biến của loại hình di sản với những tác động ngày càng
nhanh và mạnh của cuộc sống hiện đại.
- Đầu tư bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS tỉnh Lâm Đồng nhằm tạo ra phương
thức, biện pháp bảo tồn và phát huy, phát triển di sản văn hóa gắn với hoạt động của các
làng nghề truyền thống, khai thác du lịch, góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập cho cư
dân tại địa phương. Hạn chế các tác động tiêu cực đến sự tồn tại của các loại hình di sản,
nâng cao nhận thức, ý thức của người dân về giá trị của các loại hình văn hóa truyền
thống”.
Tại Kế hoạch số 292/KH-UBND ngày 15/01/2019 của UBND tỉnh Lâm Đồng thực
hiện Nghị quyết số 14-NQ/TU của Tỉnh ủy về phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh
Lâm Đồng giai đoạn 2018 - 2025, định hướng đến năm 2030 đã khẳng định: “Thực hiện tốt
các CS hỗ trợ, khuyến khích giữ gìn, bảo tồn, tôn vinh và phát huy BSVH, ngôn ngữ, chữ
viết, tập quán, tín ngưỡng truyền thống tốt đẹp của đồng bào DTTS; xây dựng hệ thống thiết
chế văn hóa gắn với việc bảo quản, gìn giữ, bảo tồn di tích, bản sắc văn hóa ở từng vùng,
từng địa phương; xây dựng nếp sống văn minh; tổ chức các hoạt động quảng bá, giới thiệu
các lễ hội truyền thống, văn hóa đặc trưng của các dân tộc thiểu số trong tỉnh”.
Với những quan điểm như trên, có thể nói vấn đề thực hiện CS bảo tồn, phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc luôn được các cấp Đảng và chính quyền quan tâm và chú trọng.
3.1.2. Về định hướng
Trong thời gian qua, các cơ quan quản lý nhà nước đã thực hiện nhiều nghiên cứu,
đánh giá và tiến hành nhiều hoạt động nhằm bảo tồn, phát huy văn hóa các DTTS tại Lâm
Đồng. Tỉnh cũng đang có những CS, biện pháp tích cực để khôi phục, giữ gìn văn hoá
DTTS. Tuy nhiên việc bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS vẫn còn đặt ra nhiều vấn đề
cấp bách, đòi hỏi phải có những định hướng thiết thực, cụ thể:
- Giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá của các DTTS nghĩa là phải làm cho các
giá trị VHTT của đồng bào trở thành tài sản chung của cả dân tộc. Việc bảo tồn, phát huy
giá trị văn hóa DTTS phải gắn với mục tiêu chung là xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm
đà bản sắc văn hoá dân tộc, xoá bỏ hủ tục mê tín dị đoan, chú trọng xây dựng nếp sống
văn hóa cho đồng bào nhất là vùng sâu vùng xa.
51
- Các hoạt động liên quan đến bảo tồn, phát huy BSVH DTTS phải được thực hiện
thường xuyên, liên tục, thiết thực, hiệu quả, gắn với phát triển kinh tế để góp phần vào
sự phát triển toàn diện kinh tế - văn hóa – xã hội của các vùng đồng bào DTTS.
- Cần bám sát và nghiêm túc triển khai thực hiện kịp thời, hiệu quả nội dung Kết
luận số 332-KL/TU ngày 26/4/2018 của Tỉnh ủy về Kết luận Hội nghị tổng kết 15 năm
thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 12/3/2018 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa IX) về công tác dân tộc; Nghị quyết số 14-NQ/TU ngày 08/10/2018 của Tỉnh
ủy về phát triển vùng đồng bào DTTS tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2018 - 2025 và định
hướng đến năm 2030 đến toàn thể cán bộ, công chức, viên chức; góp phần tạo sự thống
nhất, đồng thuận cao trong hệ thống chính trị và toàn xã hội.
- Xác định rõ nhiệm vụ, trách nhiệm của từng sở, ban, ngành và Ủy ban nhân dân các
huyện, thành phố để tập trung chỉ đạo, tổ chức thực hiện hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ
đã được phê duyệt tại Nghị quyết, quyết định, kế hoạch và chương trình hành động.
- Phát huy văn hóa truyền thống các DTTS, làng nghề truyền thống phục vụ phát
triển du lịch là cần thiết và phù hợp với quy hoạch phát triển du lịch của tỉnh; đồng thời
thực hiện tốt các nhiệm vụ, chỉ tiêu về văn hóa, du lịch mà Nghị quyết của các cấp ủy
đảng, chương trình, kế hoạch của tỉnh đã đề ra.
3.2. Giải pháp
Từ những quan điểm, định hướng như trên, để thực hiện tốt CS bảo tồn và phát
huy BSVH các DTTS tại tỉnh Lâm Đồng trong thời gian tới. Tác giả đưa ra các nhóm giải
pháp như sau:
3.2.1. Nhóm giải pháp cần thực hiện ngay
3.2.1.1. Thực hiện tốt công tác chỉ đạo, điều hành trong triển khai chính sách bảo tồn và
phát huy BSVH các DTTS tại tỉnh Lâm Đồng.
Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành về văn hóa và thực hiện
nhiệm vụ bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng. Đưa mục
tiêu, nhiệm vụ bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số vào
nghị quyết của các cấp ủy Đảng, kế hoạch của chính quyền các cấp.
Đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, góp phần nâng cao nhận thức
của các cấp, các ngành, đoàn thể và người dân về nhiệm vụ bảo tồn phát huy văn hóa dân
tộc văn hoá dân tộc thiểu số nói riêng.
52
Tổ chức điều tra, sắp xếp, lưu trữ, phân loại đánh giá thực trạng văn hóa DTTS,
trên cơ sở đó xây dựng các đề án, kế hoạch, chiến lược để triển khai chính sách bảo tồn
phát huy BSVH các DTTS.
Phối hợp chặt chẽ với các đơn vị chức năng liên quan trong tổ chức hoạt động
thanh tra, kiểm tra; tổng kết đánh giá các hoạt động triển khai thực hiện chính sách; các
hoạt động kinh doanh liên quan đến sản phẩm văn hóa.
3.2.1.2. Xây dựng các chương trình hành động cụ thể đối với bảo tồn và phát huy bản sắc
văn hóa các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số.
Phối hợp với các đơn vị liên quan, các chuyên gia, nghệ nhân, già làng, trưởng bản
tiến hành kiểm kê, phân loại, đánh giá các loại hình văn hóa DTTS để xem loại hình nào
đã biến mất hoặc có nguy cơ mai một, loại hình nào đang tồn tại và tồn tại như thế nào
để có kế hoạch phục dựng, bảo tồn và phát huy.
Khôi phục và duy trì và các lễ hội truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa của các
dân tộc trên địa bàn tỉnh. Tổ chức các lễ hội thành hoạt động văn hóa thường niên, lồng
ghép kết hợp với việc tuyên truyền chính sách về bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa
các dân tộc; phối hợp với các công ty du lịch, dịch vụ để tuyên truyền những giá trị văn
hóa đặc sắc của các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng đến mọi
du khách trong và ngoài nước.
Lựa chọn xây dựng các khu trình diễn nghệ thuật mang đậm bản sắc văn hóa của
các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số kết hợp với việc giới thiệu các sản phẩm thủ công,
mỹ nghệ truyền thống của các dân tộc phục vụ cho các hoạt động du lịch.
3.2.1.3. Giải pháp về đầu tư nguồn lực tài chính và xã hội hóa chính sách bảo tồn và phát
huy bản sắc văn hóa các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số tại tỉnh Lâm Đồng
Cần xác định rõ đầu tư nguồn lực cho văn hóa nói chung và bảo tồn phát huy bản
sắc văn hóa các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số nói riêng là đầu tư cho sự phát triển bền
vững, để làm được điều này chúng tôi đề xuất những nội dung sau:
- Xây dựng kế hoạch và lộ trình kinh phí đầu tư cho công tác bảo tồn và phát huy
văn hóa dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số từ nguồn chi thường xuyên và nguồn chi phát
triển trong ngân sách nhà nước. Có chính sách kết hợp các nguồn ngân sách từ trung ương
đến địa phương, nguồn thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia về văn hoá, các dự
án nghiên cứu bảo tồn bản sắc văn hoá….
53
- Đẩy mạnh công tác xã hội hóa, huy động nguồn lực thực hiện có hiệu quả công
tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số. Vận động
xây dựng cộng đồng trách nhiệm giữa các tầng lớp nhân dân với các cơ quan nhà nước,
mở rộng nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng về nhân lực, vật lực và tài lực trong xã
hội tham gia vào sự nghiệp bảo vệ, phát huy các di sản văn hóa theo phương châm nhà
nước và nhân dân cùng làm. Xã hội hóa sẽ góp phần giảm bớt cho nhà nước những gánh
nặng về tài chính, khai thác tiềm lực của toàn xã hội và tạo điều kiện cho nhà nước đầu
tư các công trình trọng điểm.
- Xây dựng cơ chế, khuyến khích xã hội hóa hoạt động bảo tồn bản sắc văn hóa
dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số: cần bổ sung các quy định cụ thể về ưu đãi đầu tư, hỗ
trợ, giảm hoặc miễn thuế cho các hoạt động được thực hiện từ các nguồn kinh phí ngoài
ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật về thuế. Khuyến khích xây dựng các bảo
tàng tư nhân, điểm lưu trữ văn hóa vật thể và hướng dẫn hoạt động trong khuôn khổ của
pháp luật, phù hợp với truyền thống văn hóa, thuần phong mỹ tục của các dân tộc văn
hoá dân tộc thiểu số. Trong quá trình xã hội hóa, Nhà nước cần giữ vai trò chủ đạo trong
việc định hướng cho các hoạt động văn hóa phát triển (định hướng chứ không làm thay,
nhất là không “khoán trắng” cho cộng đồng), đồng thời cần tăng cường đầu tư và tài trợ
cho các hoạt động văn hóa để thực hiện có hiệu quả chủ trương xã hội hóa các hoạt động
văn hóa nói chung và hoạt động bảo tồn văn hóa nói riêng.
3.2.1.4. Xây dựng cơ chế phối hợp trong hoạch định, xây dựng, triển khai chính sách bảo
tồn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số
Trong quá trình triển khai thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn
hóa các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số tỉnh Lâm Đồng cần thiết phải xây dựng cơ chế
phối hợp trong quá trình hoạch định, xây dựng chính sách. Cần sự phối hợp chặt chẽ giữa
nhà khoa học, nhà nghiên cứu về văn hóa các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số tỉnh Lâm
Đồng với nhà quản lý và những người làm công tác văn hóa trong khâu hoạch định và
ban hành chính sách, trong thực thi và đánh giá chính sách. Đồng thời phải thực hiện
phân công nhiệm vụ giữa các đơn vị trong hoạch định, xây dựng chính sách phải thực sự
khoa học, tránh chồng chéo, trùng lặp giữa quyền hạn và lợi ích. Cơ chế phối hợp giữa
các bên cần chặt chẽ, đặc biệt trong việc chia sẻ, trao đổi, công khai thông tin. Xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức có năng lực, trình độ và sự trong sạch để thực hiện chính sách
54
đề ra. Để làm được điều này cần tăng cường công tác bồi dưỡng, đào tạo kiến thức dân
tộc, văn hóa dân tộc, tiếng dân tộc và kỹ năng làm việc với vùng đồng bào dân tộc thiểu
số cho đội ngũ làm công tác dân tộc, văn hóa và quản lý thực hiện chính sách. Có như
vậy thì các chủ trương, chính sách mới được tuyên truyền, phổ biến thực hiện có hiệu quả
và đúng mục tiêu.
Trong quá trình hoạch định, xây dựng chính sách, cần có sự phối hợp đồng bộ
trong việc nghiên cứu lập hồ sơ những giá trị văn hóa dân gian, những nghi lễ truyền
thống …để truyền lại cho các thế hệ sau, không để mai một, thất truyền các giá trị nguyên
gốc bằng các hình thức như: nghiên cứu, sưu tầm biên tập xuất bản thành sách, in ấn
thành băng, đĩa, hình...
3.2.1.5. Vinh danh, đãi ngộ xứng đáng những người có công, những người có uy tín trong
bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số, tạo điều kiện
để họ phát huy sở trường, năng lực
Quan tâm đến các già làng, người có uy tín trong cộng đồng dân cư, các nghệ nhân
là những người nắm giữ những tinh hoa văn hóa nghệ thuật truyền thống, giữ hồn cốt văn
hóa dân tộc. Nghiên cứu, xây dựng, ban hành các cơ chế, chính sách đối với các nghệ
nhân, già làng, những người gìn giữ các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc K’ho,
Mạ, Churu để tôn vinh, khuyến khích, động viên, nâng cao vai trò trách nhiệm, sự tận
tâm của họ đối với công việc được đảm nhiệm. Phong tặng danh hiệu, tặng bằng khen,
giấy khen, vinh danh, khuyến khích họ tâm huyết, nỗ lực đóng góp nhiều hơn nữa cho sự
nghiệp bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa; đồng thời tạo mọi điều kiện thuận lợi để họ
phát huy sở trường, năng lực của mình.
Có giải pháp hỗ trợ về mặt kinh tế, hỗ trợ về mặt sản xuất để ổn định cuộc sống,
kinh tế phát triển để họ toàn tâm, toàn ý truyền dạy những giá trị văn hóa của dân tộc,
những kinh nghiệm quý báu của bản thân cho thế hệ trẻ, mang lại lợi ích thiết thực cho
cộng đồng.
Tổ chức cho các già làng, trưởng bản và các nghệ nhân là tham gia đào tạo, huấn
luyện giúp cho thế hệ trẻ nhận thức đầy đủ về ý nghĩa và giá trị của văn hoá truyền thống dân
tộc K’ho, Mạ, Churu về phong tục tập quán, trang phục, lễ hội, văn hóa ẩm thực đời sống.
3.2.1.6. Khuyến khích sự tham gia của cộng đồng, phát huy vai trò của thế hệ trẻ vào
công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số.
55
Xây dựng cơ chế, chính sách tạo điều kiện để cộng đồng tham gia vào công tác
bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc thiểu số, đặc biệt chú trọng đến
những người dân được trực tiếp tham gia vào các hoạt động bản tồn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc với những lợi ích thiết thực.
Huy động nguồn lực trong cộng đồng dân cư, các tổ chức, các cá nhân, doanh
nghiệp nhất là nhân dân địa phương để tôn tạo, tu bổ, sửa chữa các giá trị văn hóa truyền
thống; vận động các doanh nghiệp địa phương tham gia hỗ trợ thực hiện công tác bảo tồn
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Đối với những doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đóng
góp tích cực đối với công tác bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống cần có hình
thức khen thưởng, động viên xứng đáng.
Phát huy vai trò của thế hệ trẻ vào công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa
các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số:
- Giáo dục lòng tự hào dân tộc, tự hào về văn hóa tộc người ngay từ cấp học tiểu
học, để giữ gìn, phát huy vốn văn hóa quý báu của cha ông, tránh tư tưởng học đòi, lai
căng làm băng hoại những giá trị mang bản sắc văn hóa dân tộc mình. Đưa các chương
trình giới thiệu giá trị văn hóa tộc người vào trong trường học, giáo dục các em học sinh
sự tôn trọng và tự hào về văn hóa dân tộc.
- Tổ chức tuyên truyền, biểu diễn trên các phương tiện thông tin đại chúng ở các
trường học từ phổ thông để nâng cao trình độ nhận thức của thế hệ trẻ về di sản văn hóa
dân tộc.
- Tổ chức dạy tiếng dân tộc cho con em các dân tộc để người nào cũng nói, viết
được tiếng dân tộc mình. Ngôn ngữ dân tộc là phương tiện hữu hiệu nhất để lưu giữ văn
hóa tộc người. Đồng thời, dạy tiếng dân tộc cho cán bộ, công chức đang công tác tại địa
phương để xoá khoảng cách ngôn ngữ, một trở ngại lớn trong việc tiếp cận và bảo tồn
văn hóa của đồng bào.
- Tổ chức các lớp học về nghề thủ công truyền thống của các dân tộc; các lớp về
trình diễn, diễn xướng văn hóa dân gian cho thế hệ trẻ.
3.2.2. Nhóm giải pháp dài hạn
3.2.2.1. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa
các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số trong mọi tầng lớp nhân dân bằng nhiều hình thức:
56
Phổ biến kịp thời các văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành trên các
phương tiện thông tin đại chúng đến với đông đảo nhân dân.
Tổ chức hướng dẫn các địa phương, đơn vị đã tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về di sản
văn hóa dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số, các cuộc thi trên sóng truyền hình, truyền thanh.
Tăng cường xuất bản các ấn phẩm về văn hóa dân tộc bản dịa, các chính sách, các
văn bản hướng dẫn thi hành để gửi các địa phương.
3.2.2.2. Đẩy mạnh phát triển du lịch gắn với thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy bản
sắc văn hóa các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số.
Mở rộng tuyên truyền đến khách du lịch trong và ngoài nước trên hệ thống phát
thanh, truyền hình, báo chí, ấn phẩm văn hoá, website... giúp họ hiểu được văn hoá của
đồng bào nói chung và văn hoá di sản văn hóa dân tộc K’ho, Mạ, Churu nói riêng. Qua
đó, kích thích sự tìm tòi, nghiên cứu và huy động kiến thức của du khách về văn hóa.
Kêu gọi sự đóng góp tri thức của các nhà nghiên cứu, tranh thủ sự đầu tư hỗ trợ
của các cá nhân về di sản văn hóa dân tộc. Ứng dụng công nghệ thông tin trong phát triển
du lịch trực tuyến. Hoàn chỉnh các trang website về du lịch, cập nhật thông tin và kịp thời
cung cấp cho trang website về du lịch của tỉnh. Xây dựng phiên bản các trang website du
lịch sử dụng ngôn ngữ các nước có nhiều du khách hoặc có tiềm năng du lịch lớn như
tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng Nhật, tiếng Nga, tiếng Pháp.
Chú trọng thực hiện định hướng và các giải pháp để hình thành và phát triển văn
hóa truyền thống, lấy các giá trị văn hóa truyền thống để phát triển du lịch, là sản phẩm
du lịch độc đáo và hấp dẫn; đồng thời, lấy hoạt động phục vụ du lịch để bảo tồn và phát
huy văn hóa truyền thống là một trong những giải pháp hữu hiệu để khôi phục, bảo tồn
và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống.
Khôi phục, gìn giữ di sản văn hóa gắn với việc xúc tiến đầu tư, phát triển du lịch,
hình thành, phát triển các dịch vụ và tiêu thụ sản phẩm “độc đáo” của bà con người dân
tộc (phục dựng các lễ hội có tính cộng đồng cao như lễ hội mừng lúa mới; phục dựng các
làng nghề truyền thống, tiếp tục phát triển văn hóa cồng chiêng…). Định hình, xây dựng
các tuyến du lịch văn hóa, du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, tìm hiểu về các giá trị văn
hóa vật thể, phi vật thể của dân tộc K’ho, Churu, Mạ. Để làm được điều này cần có sự
định hướng, chỉ đạo của các cơ quan quản lý nhà nước từ tỉnh đến huyện đến cơ sở, liên
kết với các công ty du lịch để hợp tác đầu tư phát triển du lịch.
57
Phát huy giá trị các làng nghề truyền thống phục vụ cho du lịch phát triển như:
nghề dệt thổ cẩm, nghề làm rượu cần, làm trang sức... Những làng nghề thủ công này là
một thực thể sống động, tạo nên nét đặc trưng văn hóa, đồng thời đem lại nguồn lợi về
kinh tế. Do đó, ngoài việc tỉnh cần có chính sách hỗ trợ vốn cho phát triển làng nghề thì
cần tập trung hình thành những tuyến tham quan hợp lý, tổ chức các hoạt động triển lãm
trong khu vực sản xuất để mọi người tận mắt thấy thao tác trình diễn và mua sản phẩm.
Nên duy trì các triển lãm thành tựu phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh kết hợp giới thiệu
làng nghề truyền thống để phổ biến, quảng bá sản phẩm thủ công mỹ nghệ, tìm cách khôi
phục, phát triển các nghề thủ công truyền thống để thu hút thêm khách du lịch.
Có các chính sách liên kết, phát triển giữa các vùng có đồng bào dân tộc thiểu số
sinh sống, mở rộng hợp tác giữa các địa phương trong việc nghiên cứu thị trường, quảng
bá xúc tiến du lịch, hình thành các tuyến du lịch xuyên vùng, tam giác du lịch, vừa phát
huy được các giá trị văn hóa truyền thống, vừa có nguồn thu để bảo tồn, phát huy các giá
trị văn hóa vật thể và phi vật thể của các dân tộc; đồng thời trao đổi học hỏi kinh nghiệm
bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống của các dân tộc với nhau.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch, đặc biệt là lực lượng hướng dẫn viên
tại chỗ, có kiến thức, am hiểu về phong tục tập quán và biết tiếng dân tộc của đồng bào
để phục vụ du khách. Đầu tư nguồn nhân lực ở tất cả các lĩnh vực du lịch: lữ hành, khách
sạn, nhà hàng, hướng dẫn viên, thuyết minh viên, vận chuyển, khu điểm du lịch, cán bộ
quản lý nhà nước ở các cấp; rà soát đánh giá số lượng và chất lượng nguồn nhân lực để
xây dựng định hướng và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho phù hợp.
3.2.2.3. Xây dựng nguồn nhân lực tăng hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa dân tộc,
bảo tồn và phát huy các bản sắc văn hóa các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số.
Nâng cao trình độ mọi mặt của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa các cấp.
Sử dụng và bố trí hợp lý đội ngũ cán bộ hiện có; quy hoạch nguồn nhân lực và thực hiện
chương trình đào tạo lớp cán bộ đủ phẩm chất và năng lực đảm đương công việc trong
những năm tới, cụ thể là:
- Xây dựng tiêu chuẩn và cơ chế lựa chọn, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý trong
lĩnh vực văn hoá có đủ năng lực, trình độ và phẩm chất để đảm bảo thực hiện tốt nhiệm
vụ được giao. Ưu tiên việc đào tạo và sử dụng đội ngũ cán bộ văn hoá là người dân tộc
thiểu số, có chế độ ưu đãi để thu hút họ trở về công tác ở địa phương.
58
- Tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ văn hóa cấp xã, phường,
phụ trách nhà văn hóa, điểm văn hóa, chủ nhiệm các câu lạc bộ văn hóa nghệ thuật, đội
trưởng các đội văn nghệ quần chúng.
- Mở các lớp tập huấn bồi dưỡng kiến thức làm du lịch cộng đồng tại các buôn,
làng có tiềm năng phát triển du lịch; hướng dẫn cho người dân làm quen với việc giới
thiệu, bảo vệ, khai thác, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc mình.
- Có sự phối hợp, thống nhất cao giữa các cơ quan, ban, ngành có liên quan của
tỉnh với Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố, cấp uỷ và chính quyền, nhân dân các địa
phương trong tỉnh để triển khai thực hiện các chính sách về bảo tồn và phát huy giá trị
văn hóa.
3.2.2.4. Nâng cao trình độ dân trí cho người đồng bào dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số
Phát triển giáo dục đào tạo để không ngừng nâng cao trình độ học vấn, trình độ
dân trí, trình độ thẩm mỹ của người dân các dân tộc, đồng thời đào tạo đội ngũ tri thức
tại chỗ cho đồng bào. Đây là giải pháp cực kỳ quan trọng nếu không muốn nói là quan
trọng nhất. Bởi lẽ, khi nói tới bảo tồn, phát huy, phát triển văn hóa vốn có của họ, chủ thể
không ai khác chính là con người ấy có ý thức. Không nhận thức đúng, không hiểu được
cái độc đáo của bản sắc văn hoá dân tộc mình thì hành động sẽ không đi theo đúng hướng.
Vận động con em người dân tộc đến trường, tuyên truyền cho những hộ dân và con em
của họ ý thức vai trò của việc học. Đồng thời, trong giáo dục cần đặc biệt chú ý đến việc
giáo dục, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, đặc biệt là tiếng mẹ đẻ. Trình độ dân trí được
cải thiện sẽ góp phần nâng cao đời sống vật chất cho người dân, khuyến khích làm giàu,
xóa đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm; chăm sóc sức khỏe, hỗ trợ an sinh xã hội và
kế hoạch hóa gia đình.
3.2.2.5. Hoàn thiện thể chế chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc văn
hoá dân tộc thiểu số.
Thiết lập cơ chế văn hoá cơ sở đủ hiệu lực và tính khả thi, đặc biệt là ở vùng sâu
vùng xa, nhằm thực hiện tốt, biến giá trị di sản văn hóa các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu
số tỉnh Lâm Đồng thành tài sản của cộng đồng.
Xây dựng các khu bảo tồn bản sắc văn hóa các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số
như làng văn hóa dân tộc, làng nghề truyền thống dân tộc, những lễ nghi cúng các vị thần
nông nghiệp của người Mạ, lễ hiến sinh của người Mạ, khôi phục nghề luyện sắt thép.
59
Đánh thức lại tâm linh cộng đồng, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc mình.
Đặc biệt chú trọng đặc trưng kiến trúc, vị trí, nghi lễ tín ngưỡng để thắp sáng di sản văn
hóa dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số tỉnh Lâm Đồng….
Ban hành chính sách hỗ trợ đầu tư xây dựng các buôn, làng du lịch cộng đồng;
chính sách hỗ trợ đầu tư khôi phục một số làng nghề truyền thống; chính sách hỗ trợ để
duy trì các hoạt động của các đội văn nghệ, các lễ hội và tuyên truyền, quảng bá các sản
phẩm văn hoá, nghệ thuật tiêu biểu.
Xây dựng Đề án quy hoạch tổng thể công tác bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống
các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số tỉnh Lâm Đồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm
2050 gắn với các quy hoạch, dự án phát triển kinh tế, xã hội của địa phương.
Ban hành Quy định về quản lý và phát huy giá trị di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh;
xây dựng các đề án mới về bảo tồn các di sản văn hóa… Ngoài các giá trị văn hóa phi vật
thể, cần lưu giữ một cách khoa học, có hệ thống các giá trị văn hóa vật thể như: nhà sàn,
hiện vật, cổ vật của người dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số, tránh hư hại, mất mát.
Tổ chức đánh giá những cơ chế, chính sách, những quy chế của địa phương đã
ban hành, kịp thời điều chỉnh, bổ sung, khắc phục những bất cập, hạn chế trong quá trình
thực thi chính sách, bảo đảm sát với tình hình thực tiễn của địa phương.
3.2.2.6. Thúc đẩy phát triển kinh tế, tăng tích lũy tạo điều kiện tăng đầu tư cho việc giữ
gìn và phát huy giá trị bản sắc văn hóa các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số tỉnh Lâm
Đồng
Tập trung phát triển kinh tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số, giảm tỷ lệ hộ nghèo;
đảm bảo cho người dân có cuộc sống cơ bản, vì kinh tế người dân ổn định mới có điều
kiện để tập trung phát huy bản sắc văn hóa dân tộc vốn có.
Quy hoạch, sắp xếp ổn định dân cư, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế -
xã hội đồng bộ, liên vùng, kết nối với các vùng phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống của
nhân dân. Phát triển toàn diện giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa; nâng cao chất lượng cán
bộ, công chức, viên chức, người lao động là người dân tộc thiểu số. Xóa bỏ phong tục tập
quán lạc hậu đi đôi với giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc. Xây
dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội và an ninh biên giới quốc gia.
Củng cố tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc, nâng cao niềm tin của đồng
60
bào các dân tộc đối với Đảng và Nhà nước.
Tiếp tục triển khai có hiệu quả trương trình xây dựng nông thôn mới, chương trình
giảm nghèo bền vững; hỗ trợ về vật lực và khoa học kỹ thuật để người dân nâng cao sản
xuất. Giải quyết tình trạng thiếu đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt.
Tiểu kết Chương 3
Cùng với sự phát triển của xã hội, bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số cũng có
những sự thay đổi theo, đây chính là quy luật tất yếu của sự vận động và phát triển của
xã hội loài người. Chúng ta không chạy theo để níu giữ cái cũ mà đang hướng đến sự vận
hành trong hoàn cảnh hiện tại. Tuy nhiên, từ cái nhìn thực tế, văn hóa của các dân tộc văn
hoá dân tộc thiểu số đã và đang chịu tác động của nhiều yếu tố, điều này làm cho bản sắc
ngày càng mai một dần.
Để bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số tỉnh Lâm Đồng, trong
chương 3 tác giả đã đề xuất 12 giải pháp và chia thành hai nhóm: Nhóm giải pháp cần
thực hiện ngay và nhóm giải pháp lâu dài. Những giải pháp của tác giả đề ra sẽ góp phần
khắc phục những hạn chế của những chính sách đã được ban hành, nhằm thực hiện đạt
mục tiêu: giữ nguyên vẹn không gian văn hóa, đời sống sinh hoạt của cộng đồng các dân
tộc thiểu số tỉnh Lâm Đồng với các giá trị văn hóa đặc sắc. Để các giá trị văn hóa này
thực sự tồn tại trong đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số và trở thành một nguồn
lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương đòi hỏi phải có những chính sách
khả thi, đồng bộ, hợp lý và có sự phát triển mới về quy mô cũng như chiều sâu. Các chính
sách đúng đắn, hợp lòng dân, được toàn dân, các cấp, các ngành tham gia hưởng ứng là
cơ sở để đảm bảo sự thành công của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời, tạo
nên sự gắn kết của khối đại đoàn kết dân tộc.
61
PHẦN KẾT LUẬN
Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số ở Lâm Đồng là một vấn
đề lớn ảnh hưởng đến việc phát triển kinh tế, bình ổn xã hội ở tỉnh Lâm Đồng. Mặc dù
đã đạt được những kết quả nhất định trong điều kiện đất nước ta hiện nay, vấn đề trên
vẫn phải tiếp tục đặt ra để giải quyết với nhiều các tiếp cận và giải pháp khác nhau. Từ
định hướng lý luận ở chương 1 về vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc, thực trạng về thực hiện
chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số ở Lâm Đồng trong
chương 2, luận văn đã đề xuất một số giải pháp mang tính cấp bách và chiến lược lâu dài.
Việc thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số đạt
hiệu quả đến đâu và mức độ nào còn phụ thuộc vào vai trò của các nhà quản lý thực thi
chính sách, các tổ chức chính trị xã hội, của các nhà khoa học và đặc biệt là ý thức tự bảo
tồn và phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số.
Đã có rất nhiều học giả, các nhà nghiên cứu, các cơ quan quản lý nhà nước đổ
nhiều tâm huyết và công sức nỗ lực vào việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân
tộc thiểu số ở Lâm Đồng. Tuy nhiên chưa có công trình, đề án nào nói về thực hiện chính
sách và đưa ra giải pháp về thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc thiểu số tại Lâm Đồng. Với luận văn này, tác giả hy vọng sẽ có một sự đóng góp nhất
định cho việc thực hiện chính sách về bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc
thiểu số tại tỉnh Lâm Đồng trong những năm tới./.
62
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Minh An, (2005), “Tìm hiểu sự ảnh hưởng của công giáo đối với văn hóa văn hoá dân tộc thiểu số ở Lâm Đồng”, Kỷ yếu hội nghị Khoa học Sau Đại học - Khoa học Xã hội và Nhân văn 10-2005.
2. Đỗ Ngọc Anh, (2014), “Tri thức văn hoá dân tộc thiểu số của người Mạ Lâm Đồng trong lao động sản xuất”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 359 (5), tr 31- 36.
3. Trần Văn Bính (chủ biên), (2004), “Văn hóa các dân tộc Tây Nguyên: Thực trạng và những vấn đề đặt ra”, Nxb Chính trị Quốc gia.
4. Hoàng Phê (chủ biên), (2005), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Hồng Đức.
5. Lê Hồng Phong, K’cheoh, (1999), “Các thể loại văn vần dân gian các DTBD Lâm Đồng”
6. Cao Xuân Phổ, (2006), “Bàn về văn hóa văn hoá dân tộc thiểu số”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á số 1 (76), tr 58-63.
7. Hồ Chí Minh toàn tập, TIII, NXB Chính trị quốc gia, H, 1995 tr, 431
8. Hoàng Sơn (chủ biên), (2011), “Người Churu ở Lâm Đồng”, Nxb Đại học Quốc gia.
9 Nguyễn Tấn Tài, (1993), “Cư dân văn hoá dân tộc thiểu số ở Đà Lạt”, Tóm tắt Báo cáo Khoa học tại Hội nghị khoa học Trường Đại học Đà Lạt 1993, tr17.
10. Lê Ngọc Thắng, (2013) “Với vấn đề bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các DTTS”, Tạp chí Dân tộc và Thời đại số 159, tr17-19
11. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục, 1999, tr10
12. Sở Văn hóa Thông tin Lâm Đồng, (2005), “Vài nét văn hóa các DTTS Tây Nguyên ở Lâm Đồng”.
13. Viện Dân tộc học, (2008) “Sổ tay về các dân tộc ở Việt Nam”.
63
PHỤ LỤC 1
(Văn hóa vật thể và phi vật thể các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số tỉnh Lâm Đồng)
Hình 1: Nhà dài của người K’ho
Hình 2: Trang phục truyền thống người K’ho
64
Hình 3: Nhà dài của người Mạ
Hình 4: Trang phục truyền thống của người Mạ
65
Hình 5: Trang phục truyền thống của người Churu
Hình 6: Lễ hội mừng lúa mới của người K’ho
Hình 7: Lễ hội cúng thần lúa của người Mạ
66
Hình 8: Lễ bắt chồng của người Churu
Hình 9: Tổ chức các lớp truyền
dạy công chiêng
Hình 9. Truyền dạy cồng chiêng
67
Hình 10: Truyền dạy múa xoang
Hình 11: Bảo tồn không gian văn hóa công chiêng gắn kết với khai thác phục vụ khách du lịch
68
Hình 12. Lễ hội mừng lúa mới
Hình 13.Lễ hội cồng chiêng các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số tỉnh Lâm Đồng được tổ chức hàng năm, luân phiên ở các địa phương trong toàn tỉnh
69
Hình 14. Nghề dệt thổ cẩm hiện nay chủ yếu phục vụ cho hoạt động du lịch
Hình 15. Các nghề thủ công của đồng bào được quan tâm phát triển nhằm bảo tồn văn hóa, bên cạnh đó giúp bà con phát triển kinh tế
70
PHỤ LỤC 2
Thống kê các lớp truyền dạy cồng chiêng trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng (từ năm 2014 đến năm 2020)
TT Dân tộc Số lượng
1 Dân tộc Churu 13 lớp
2 Dân tộc K’ho 19 lớp
3 Dân tộc Mạ 21 lớp
Địa điểm tổ chức xã Đạ Quyn, Đà Loan, Phú Hội, Tà Năng, Tàhine (huyện Đức Trọng), Tutra, thôn M’Lọn – Thị trấn Thạnh Mỹ, Proh, Lạc Xuân (huyện Đơn Dương); xã Lộc Thành, Lộc An (Bảo Lâm), Gung ré, Tân Lâm, Tam Bố, Bảo Thuận, Tân Nghĩa, Tân Châu (huyện Di Linh); Hiệp An, N’Thol Hạ (huyện Đức Trọng); xã Đạ K’nàng – 02 lớp, (huyện Đam Rông); thôn Măng Lin - phường 7 (Tp. Đà Lạt); xã Đưng K’nớ, Xã Lát (huyện Lạc Dương); Phi Tô (Lâm Hà) Xã Đạ Ploa, Đoàn Kết, Mađagoui, Đạ Oai, Thị trấn Đạ Mri, Phước Lộc – 02 lớp (huyện Đạ Huoai), xã Lộc Lâm (huyện Bảo Lâm).
(Mỗi lớp tổ chức có từ 20-25 học viên)
Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lâm Đồng
71
PHỤ LỤC 3
Bảng thống kê danh mục văn bản tiêu biểu để triển khai công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng (từ năm 2014 - 2020)
TT Số văn bản Trích yếu văn bản
định
1 Phê duyệt Đề án “Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá cồng chiêng các dân tộc Tây Nguyên tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2009 – 2010 và tầm nhìn đến năm 2015” Quyết số 1583/QĐ-UBND, ngày 09/7/2009 của UBND tỉnh Lâm Đồng
Về Thực hiện Chiến lược công tác Dân tộc đến năm 2020; 2
Kế hoạch số 3960/KH- UBND ngày 04/8/2014 của UBND tỉnh Lâm Đồng
3 Thực hiện nghị quyết số 14-NQ/TU của Tỉnh ủy về Phát triển vùng đồng bào DTTS tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2018 - 2025, định hướng đến năm 2030.
Kế hoạch số 292/KH- ngày UBND 15/01/2019 của UBND tỉnh Lâm Đồng
4 Phê duyệt Đề án “ Bảo tồn và phát triển Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên các dân tộc tỉnh Lâm Đồng đến năm 2020” Quyết định số 296/QĐ- UBND, ngày 22/2/2018 của UBND tỉnh Lâm Đồng
5
Kế hoạch số 32/KH- ngày SVHTTDL 25/5/2018 của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Về Kế hoạch thực hiện Quyết định số 296/QĐ-UBND ngày 22/02/2018 về phê duyệt Đề án bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Cồng chiêng các dân tộc tỉnh Lâm Đồng đến năm 2020
6 Quyết định số 450/QĐ- UBND ngày 06/3/2018 của Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng Bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số, khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống gắn với hoạt động du lịch trên địa bàn Lâm Đồng giai đoạn 2018 - 2020 và định hướng đến năm 2030
Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lâm Đồng