BỘ NỘI VỤ TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

ĐỖ THỊ THÚY

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY

BẢN SẮC VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LÂM ĐỒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊNH HƯỚNG ỨNG DỤNG

CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ CÔNG

Thành phố Hồ Chí Minh, 9/2020

BỘ NỘI VỤ TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

ĐỖ THỊ THÚY

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY

BẢN SẮC VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LÂM ĐỒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊNH HƯỚNG ỨNG DỤNG

CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ CÔNG

MÃ SỐ: 83.40.403

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Triệu Thế Việt

Thành phố Hồ Chí Minh, 9/2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, những nội dung khoa học được trình bày trong luận văn này

là kết quả nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi.

Tp Hồ Chí Minh, ngày 25 tháng 9 năm 2020

Học viên

Đỗ Thị Thúy

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành chương trình đào tạo Thạc sĩ quản lý công do trường Đại học Nội

vụ Hà Nội tổ chức, bên cạnh sự cố gắng của bản thân, tôi đã nhận được sự hướng dẫn,

giảng dạy, động viên và nhiều ý kiến đóng góp quý báu trong suốt quá trình học tập,

nghiên cứu và hoàn thiện đề tài này từ các quý thầy giáo, cô giáo, gia đình, bạn bè và

đồng nghiệp.

Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Triệu Thế Việt đã

hướng dẫn tận tình, giúp đỡ, góp ý cho tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận

văn thạc sĩ của mình. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng Quản lý đào tạo

thạc sĩ Khoa Sau đại học và quý thầy cô giáo ở Trường Đại học Nội vụ Hà Nội cùng

toàn thể các quý thầy cô giáo đã tạo điều kiện, giúp đỡ và tận tình truyền đạt kiến thức

cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn thạc sĩ.

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, Lãnh đạo và công chức Phòng Quản

lý Văn hóa, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lâm Đồng đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi

trong quá trình học tập, thu thập tài liệu, số liệu để phục vụ nghiên cứu khoa học và

những đóng góp ý kiến chân tình, thẳng thắn để tôi hoàn thành luận văn thạc sĩ.

Sau cùng, tôi xin chân thành cảm ơn bạn bè và gia đình của tôi đã động viên, giúp

đỡ tôi trong quá trình học và thực hiện đề tài này.

Bằng những kiến thức đã được trang bị trong quá trình học tập, nghiên cứu song

sẽ không tránh khỏi những hạn chế thiếu sót. Rất mong nhận được sự quan tâm, đóng

góp ý kiến của quý thầy, cô để kết quả nghiên cứu của đề tài này được hoàn chỉnh, từ

đó triển khai thực hiện có hiệu quả hơn.

Xin chân thành cảm ơn!

Tp Hồ Chí Minh, ngày 25 tháng 9 năm 2020

Học viên

Đỗ Thị Thúy

BẢNG DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

TT THUẬT NGỮ VIẾT TẮT

Ủy ban nhân dân 1 UBND

Chính sách 2 CS

Di sản văn hóa 3 DSVH

Bản sắc văn hóa 4 BSVH

Văn hóa truyền thống 5 VHTT

Văn hoá dân tộc 6 VHDT

Dân tộc thiểu số 7 DTTS

8 Bản sắc văn hóa dân tộc BSVHDT

MỤC LỤC

Trang

PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY

BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC ...................................................................................... 7

1.1. Một số khái niệm cơ bản ............................................................................................... 7

1.2. Vai trò của chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số ............. 10

1.3. Hệ thống chính sách bảo tồn và phát huy giá trị bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số ............................ 12

1.4. Các bước thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số ............................. 14

1.5. Các nhân tố tác động đến việc thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn

hóa dân tộc thiểu số ............................................................................................................. 17

1.6. Những yêu cầu cơ bản trong tổ chức thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc

văn hóa dân tộc thiểu số ...................................................................................................... 19

Tiểu kết Chương 1 ............................................................................................................. 20

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ

PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI

TỈNH LÂM ĐỒNG ............................................................................................................ 22

2.1. Khái quát chung về địa bàn nghiên cứu ...................................................................... 22

2.2. Bản sắc văn hóa của các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số tỉnh Lâm Đồng ................. 24

2.3. Chính sách và thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc

thiểu số tỉnh Lâm Đồng ...................................................................................................... 31

2.4. Đánh giá việc thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc

thiểu số tỉnh Lâm Đồng ....................................................................................................... 42

Tiểu kết Chương 2 .............................................................................................................. 47

CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THỰC HIỆN TỐT CHÍNH SÁCH

BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LÂM ĐỒNG .............................................................................. 48

3.1. Quan điểm, định hướng thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa

của các dân tộc thiểu số ....................................................................................................... 48

3.2. Giải pháp ....................................................................................................................... 52

Tiểu kết Chương 3 .............................................................................................................. 60

PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................................................ 61

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong thời đại ngày nay, khi kinh tế ngày càng phát triển và các quốc gia trên thế

giới ngày càng xích lại gần nhau thì văn hóa dân tộc ngày càng trở thành trung tâm của

sự chú ý. Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến vấn đề bảo tồn, phát

huy giá trị văn hoá truyền thống của các dân tộc, luôn khẳng định vai trò quan trọng của

văn hóa trong việc bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, đồng thời đặt mục tiêu “Xây

dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Điều này đã được thể hiện qua

các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, cụ thể như: Nghị quyết số

33/NQ-TW ngày 09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về xây dựng và phát

triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước; Nghị

quyết số 102/NQ-CP ngày 31/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình

hành động thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung

ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu

cầu phát triển bền vững đất nước; Quyết định số 1662/QĐ-BVHTTDL ngày 17/6/2020

của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về việc tổ chức xây dựng mô hình bảo tồn, phát huy

bản sắc văn hóa, truyền thống tốt đẹp của các DTTS (dân tộc thiểu số) gắn với xây dựng

nông thôn mới….

Toàn cầu hóa vừa là thời cơ cho sự hội nhập và phát triển kinh tế - xã hội, đồng

thời cũng là những thách thức to lớn cho nhiều quốc gia. Hội nhập để phát triển nhưng

vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc đang là vấn đề được nhiều quốc gia ưu tiên hàng

đầu. Với một quốc gia đa dạng về văn hóa truyền thống, Việt Nam đã và đang thực hiện

việc bảo vệ giữ gìn, phát huy, giới thiệu các giá trị văn hóa tốt đẹp đến với đông đảo bạn

bè quốc tế.

Lâm Đồng là một trong 05 tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên với diện tích 9.783,2

km², hiện có 43 dân tộc anh em sinh sống, trong đó các dân tộc thiểu số gốc địa phương

gồm K’ho, Mạ, Churu chiếm hơn 17% dân số, 70% là người Kinh và gần 13% là các dân

tộc khác đến từ nhiều vùng miền khác nhau trong cả nước đến đây sinh sống và lập nghiệp

(nguồn: Niên giám Thống kê Lâm Đồng 20219). Mỗi dân tộc đều có những bản sắc văn

hóa riêng, tạo nên sự đa dạng về văn hóa dân tộc cho tỉnh Lâm Đồng. Trong những năm

qua, mặc dù điều kiện kinh tế, cơ sở hạ tầng, các thiết chế văn hóa của tỉnh còn nhiều khó

2

khăn, nhưng Lâm Đồng luôn tự hào về truyền thống văn hóa đặc sắc của mình và luôn đề

cao vấn đề bảo tồn phát huy những giá trị văn hóa các DTTS. Đây không chỉ đơn thuần là

gìn giữ những sắc màu quý cho bức tranh văn hóa dân tộc, mà còn là cơ sở cho người dân

Lâm Đồng tiến bước vững chắc trên lộ trình hội nhập và phát triển chung của đất nước.

Bên cạnh những kết quả đáng khích lệ đã đạt được, thực tế còn cho thấy CS (chính

sách) bảo tồn và phát huy BSVH (bản sắc văn hóa) các DTTS tỉnh Lâm Đồng vẫn còn

nhiều khó khăn, thách thức. Nguyên nhân là do đời sống vật chất, tinh thần của người

dân trong tỉnh còn nhiều khó khăn, sự xâm nhập của nền văn hóa từ bên ngoài ảnh hưởng

tới đời sống văn hóa, tinh thần của người dân. Việc đầu tư cho công tác bảo tồn các DSVH

(di sản văn hóa) còn hạn chế nhất định. Đây không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước mà

còn là sự nghiệp của quần chúng và cộng đồng, Nhà nước đóng vai trò tạo ra khuôn khổ

pháp lý và cơ chế CS, nhân dân đóng vai trò then chốt trong việc bảo vệ, gìn giữ, lưu

truyền và phát huy giá trị văn hóa.

Việc thực hiện CS bảo tồn, kế thừa và phát huy giá trị văn hóa của đồng bào các

dân tộc tỉnh Lâm Đồng hiện nay là vấn đề mang tính cấp thiết, thời sự. Trong những năm

qua, trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng chưa có đề tài nghiên cứu khoa học hoặc đề án, dự án

nào nói về việc thực hiện CS bảo tồn văn hóa các dân tộc thiểu số.

Bản thân đang công tác tại Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tôi nhận thấy đây là

việc làm hết sức cần thiết nhằm thực hiện có hiệu quả CS của Đảng và Nhà nước trong

việc bảo tồn, phát huy BSVH các DTTS tỉnh Lâm Đồng.

Xuất phát từ những lí do trên, tôi chọn đề tài “Thực hiện chính sách bảo tồn và

phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng” để làm

luận văn thạc sĩ chuyên ngành quản lý công.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan tới đề tài

Liên quan đến việc thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH của các dân tộc tại

tỉnh Lâm Đồng hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu, đề tài khoa học và các bài

báo có liên quan đến việc tìm hiểu về văn hóa các dân tộc thiểu số.

Sở Văn hóa Thông tin Lâm Đồng, (1983), “Vấn đề dân tộc ở Lâm Đồng”. Tác

phẩm đã khái quát về các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số tại tỉnh Lâm Đồng từ sau những

năm sau giải phóng 1975.

3

Nguyễn Tuấn Tài, (1993), “Người Lạch trên cao nguyên Lang Biang”, Nxb Thành

phố Hồ Chí Minh.

Sở Văn hóa Thông tin Lâm Đồng, (2005), “Vài nét văn hóa các dân tộc thiểu số

Tây Nguyên ở Lâm Đồng”.

Hoàng Sơn (chủ biên), (2009), “Người Churu ở Lâm Đồng”, Nxb Đại học Quốc gia.

Trần Văn Bính (chủ biên), (2004), “Văn hóa các dân tộc Tây Nguyên: Thực trạng

và những vấn đề đặt ra”, Nxb Chính trị Quốc gia.

Viện Dân tộc học, (2008) “Sổ tay về các dân tộc ở Việt Nam”, Nxb Văn học.

Cao Xuân Phổ, (2006), “Bàn về văn hóa văn hoá dân tộc thiểu số”, Tạp chí Nghiên

cứu Đông Nam Á số 1 (76), [tr 58-63].

Đỗ Ngọc Anh, (2014), Tri thức văn hoá dân tộc thiểu số của người Mạ Lâm Đồng

trong lao động sản xuất”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 359 (5), [tr 31-36].

Lê Ngọc Thắng, (2013) “Với vấn đề bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các

dân tộc thiểu số”, Tạp chí Dân tộc và Thời đại số 159, [tr 17-19].

Nguyễn Tấn Tài, (1993), “Cư dân văn hoá dân tộc thiểu số ở Đà Lạt”, Tóm tắt

Báo cáo Khoa học tại Hội nghị khoa học Trường Đại học Đà Lạt 1993, [tr17,18,19].

Các công trình khoa học trên đã nghiên cứu văn hóa của các DTTS trên địa bàn tỉnh

Lâm Đồng, hệ thống hóa một cách khá đầy đủ và cụ thể tất cả các yếu tố xung quanh con người

dân tộc thiểu số nơi đây, từ đời sống vật chất, cho đến đời sống tinh thần. Chính vì vậy, đã tạo

điều kiện cho nhiều bạn đọc và những nhà nghiên cứu quan tâm đến vấn đề BSVH các DTTS

Lâm Đồng có được cái nhìn khái quát nhất. Các tác giả đã đề ra nhiều giải pháp nhằm bảo tồn

và phát huy được giá trị văn hóa đặc sắc của các DTTS tại tỉnh Lâm Đồng.

Dưới góc độ khoa học, các công trình trên có giá trị hết sức to lớn đối với những

người đã và đang nghiên cứu về văn hóa văn hoá dân tộc thiểu số của các dân tộc tỉnh Lâm

Đồng nhằm đưa ra được những chủ trương, CS phù hợp đối với sự phát triển của tất cả các

dân tộc trên địa bàn, đặc biệt là bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa DTTS tỉnh Lâm Đồng.

Tất cả những công trình nghiên cứu trước đây thực sự là những quan điểm, luận

điểm, nghiên cứu và giải pháp quý giá đối với tác giả để tiếp cận và kế thừa có chọn lọc,

nhằm thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS tại tỉnh Lâm Đồng.

Ngoài ra còn có nhiều bài viết đăng trên các tạp chí, kỷ yếu hội thảo liên quan đến

bản sắc văn hoá các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng. Tuy nhiên, những công

4

trình nghiên cứu này đã khá lâu, chưa đánh giá sâu sắc được sự biến đổi về BSVH của

các DTTS dưới sự tác động của các hoạt động kinh tế xã hội. Các đề tài hoặc các công

trình nghiên cứu khoa học mới chỉ dừng lại ở mức độ nhìn nhận thực trạng và đưa ra các

cảnh báo mà chưa phân tích được thực trạng, nguyên nhân và những vấn đề liên quan đến

chính sách do vậy chưa được ra được giải pháp để thực hiện chính sách về bảo tồn và

phát huy BSVH các DTTS trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Đánh giá được thực trạng thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS trên

địa bàn tỉnh Lâm Đồng; đưa ra được những giải pháp nhằm để bảo tồn và phát huy BSVH

của các DTTS trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng trong giai đoạn hiện nay và lâu dài.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Tập hợp được hệ thống lý luận, cơ sở pháp lý về chính sách bảo bảo tồn và phát

huy BSVH dân tộc.

Đánh giá thực trạng thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH dân tộc của tỉnh Lâm

Đồng nói riêng, trong đó đánh giá được những thuận lợi, khó khăn và nguyên nhân của

thực trạng.

Đưa ra được những giải pháp có tính khả thi cao nhằm tham mưu cho các cơ quan

chức năng nghiên cứu, thực hiện việc tồn và phát huy BSVH các DTTS trên địa bàn tỉnh

Lâm Đồng.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động thực hiện CS về bảo tồn và phát huy

bản sắc văn hóa các DTTS.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi nội dung: Đề tài nghiên cứu quá trình thực hiện CS bảo tồn và phát huy

BSVH dân tộc trên các phương diện lập kế hoạch, tuyên truyền, phổ biến CS; phân công,

phối hợp thực hiện; tổ chức thực hiện, thanh tra, kiểm tra, giám sát; đánh giá, tổng kết

thực hiện CS bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc từ năm 2014 đến nay.

- Phạm vi không gian: Đề tài chỉ nghiên cứu việc thực hiện CS bảo tồn và phát

huy BSVH các DTTS trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng (cụ thể là 03 dân tộc Mạ, K’ho, Churu).

5

- Phạm vi thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu việc thực hiện CS bảo tồn và phát

huy BSVH các DTTS trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng từ năm 2014 đến nay.

5. Phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở phương pháp luận

Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, quan

điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước về bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu

chủ yếu sau đây:

- Phương pháp tổng hợp, thống kê số liệu;

- Phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

Sau khi hoàn thành, đề tài là một công trình nghiên cứu khoa học có giá trị với các

ý nghĩa sau:

Ý nghĩa lý luận: Là một công trình khoa học để cho các nhà quản lý tham khảo,

xem xét lại việc ban hành các chủ trương, CS, các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh

vực bảo tồn văn hóa dân tộc.

Ý nghĩa thực tiễn: Đánh giá đúng thực trạng việc thực hiện CS bảo tồn và phát huy

BSVH các DTTS trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng, đưa ra được các giải pháp khả thi có thể

áp dụng cho việc bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng trong

thời gian tiếp theo.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn được

trình bày trong 3 chương, gồm:

Chương 1: Cơ sở lý luận về chính sách bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa các dân

tộc.

Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa

các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng.

Chương 3: Giải pháp tăng cường thực hiện tốt chính sách bảo tồn, phát huy bản

sắc văn hóa các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số tỉnh Lâm Đồng.

6

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH BẢO TỒN

VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC

1.1. Một số khái niệm cơ bản

1.1.1. Văn hóa

Định nghĩa khoa học về văn hóa ra đời sớm nhất ở châu Âu là định nghĩa của nhà

nhân học văn hóa người Anh E.B. Taylor đã ra đời từ năm 1871 trong công trình nghiên

cứu nhan đề văn hóa nguyên thủy (Primitive culture): “Văn hóa hoặc văn minh hiểu theo

nghĩa rộng nhất là của dân tộc học, có nghĩa là một tổng thể phức hợp bao gồm các kiến

thức, tín ngưỡng (tín niệm), nghệ thuật, đạo đức, luật lệ phong tục và tất cả những khả

năng thói quen mà con người đạt được với tư cách là một thành viên trong xã hội”.

Theo UNESCO “Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh

thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết định tính cách xã hội hay của một nhóm người

trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền

cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng. Văn hóa

đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở

thành những sinh vật đặc biệt, nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một cách

đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân mình, tự

biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản

thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình

vượt trội lên bản thân”.

Cách đây hơn nửa thế kỷ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng phát biểu một quan

điểm về văn hóa như sau: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người

mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo,

văn hóa nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương

thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó là văn hóa. Văn hóa là tổng hợp

của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó do loài người đã sản sinh ra

nhằm thích ứng với nhu cầu của đời sống và đòi hỏi của sinh sinh tồn.”[7, tr 43].

Theo định nghĩa về văn hóa của Trần Ngọc Thêm (1999) Cơ sở Văn hóa Việt Nam

thì: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị về vật chất và tinh thần do con người

7

sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người

với môi trường tự nhiên và xã hội của mình” [11, tr 10].

1.1.2. Bản sắc văn hóa

Theo Từ điển tiếng Việt, thuật ngữ "bản sắc" dùng để chỉ tính chất, màu sắc riêng

tạo thành phẩm chất đặc biệt của một sự vật tức là nói tới sắc thái, đặc tính, đặc thù riêng

của sự vật đó [4, tr 223]. "Bản sắc" là từ một ghép có gốc Hán - Việt nên có một cách tiếp

cận khác là phân tích trên ngữ nghĩa của hai từ "bản" và "sắc". Theo đó, "bản" là cái gốc,

cái căn bản, cái cốt lõi, cái hạt nhân của một sự vật; "sắc" là sự biểu hiện cái căn bản, cái

cốt lõi, cái hạt nhân đó ra ngoài.

Nếu tiếp cận văn hóa theo nghĩa rộng nhất, bao gồm toàn bộ những giá trị vật chất

và giá trị tinh thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử thì bản sắc văn hoá dân tộc là

hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần được dân tộc sáng tạo ra trong lịch sử, là những

nét độc đáo rất riêng của dân tộc này so với dân tộc khác.

Xét về bản chất, bản sắc văn hóa dân tộc thể hiện tinh thần, linh hồn, cốt cách, bản

lĩnh của một dân tộc. Đây được coi là “dấu hiệu khác biệt về chất” giữa dân tộc này với

dân tộc khác. Với việc tách riêng bản sắc và văn hóa, chúng ta có thể đưa ra một khái

niệm về bản sắc văn hóa như sau:

Bản sắc văn hóa chính là nét đặc trưng văn hóa của một dân tộc, quốc gia, thông

qua đó, có thể so sánh với văn hóa của quốc gia, dân tộc khác.

1.1.3. Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa

Theo từ điển Hán Nôm của Nguyễn Quốc Hùng, “bảo tồn là giữ gìn cho còn, không

để bị mất”. Trong cách diễn giải như vậy, chúng ta có thể hiểu bảo tồn là các nỗ lực nhằm

bảo vệ và gìn giữ sự tồn tại của di sản văn hóa theo dạng thức vốn có của nó.

Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa: Là việc giữ gìn những giá trị văn hóa đặc

trưng, cốt lõi do con người tạo ra phù hợp với sự phát triển của xã hội con người.

1.1.4. Chính sách công

Trong những năm gần đây, thuật ngữ “CS công” được các nước phát triển và các

tổ chức kinh tế quốc tế dùng rất phổ biến. Có thể nêu ra một số quan niệm sau:

“CS là một quá trình hành động có mục đích mà một cá nhân hoặc một nhóm theo

đuổi một cách kiên định trong việc giải quyết vấn đề (James Anderson, 2003)”; “CS công

là một quá trình hành động hoặc không hành động của chính quyền để đáp lại một vấn

8

đề công cộng. Nó được kết hợp với các cách thức và mục tiêu CS đã được chấp thuận

một cách chính thức, cũng như các quy định và thông lệ của các cơ quan chức năng thực

hiện những chương trình (Kraft and Furlong, 2004)”.

Từ điển Bách khoa Việt Nam đã đưa ra khái niệm về CS như sau: “CS là những

chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. CS được thực hiện trong một thời gian

nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Nội dung, bản chất và phương hướng của

CS tùy thuộc vào tính chất của quan điểm, đường lối, chủ trương, nhiệm vụ trên các lĩnh

vực chính trị, kinh tế, văn hóa…"

Các cơ quan hay các cấp chính quyền trong bộ máy nhà nước ban hành những CS

nhằm giải quyết những vấn đề mang tính cộng đồng thì được gọi là CS công.

Tổ chức thực hiện CS bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa để từng bước thực hiện các

mục tiêu CS và mục tiêu chung. Mục tiêu của CS bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa có liên

quan đến nhiều vấn đề, nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội. Thực tế, trong quá trình thực

hiện CS này cho thấy muốn đạt được mục tiêu của CS thì phải thông qua việc thực hiện CS,

và các mục tiêu của CS thì cần phải có quan hệ với nhau và ảnh hưởng đến các mục tiêu

chung. Thực hiện CS bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa còn để khẳng định được tính đúng

đắn, tính hợp lý của CS. CS khi triển khai rộng rãi sẽ tác động đến mọi mặt của đời sống xã

hội và khi CS được xã hội chấp nhận thì cho thấy tính xác thực, tính đúng đắn của CS.

Dựa trên những quan điểm trên, chúng ta có thể đưa ra một khái niệm chính sách

công như sau: “Chính sách công là thuật ngữ dùng để chỉ một chuỗi các quyết định hoạt

động của nhà nước nhằm giải quyết một vấn đề chung đang đặt ra trong đời sống kinh

tế xã hội theo mục tiêu xác định”.

1.1.5. Chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc

Là một bộ phận của CS công, CS văn hóa được UNESCO định nghĩa như sau:

“CS văn hóa là một tổng thể các nguyên tắc hoạt động quyết định các thực hành, các

phương pháp quản lý hành chính và phương pháp ngân sách Nhà nước dùng làm cơ sở

cho các hoạt động văn hóa”.

CS văn hóa là một phạm trù rộng, bao gồm nhiều bộ phận CS khác nhau gộp thành.

Trong đó, CS bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa đóng vai trò quan trọng, là tập hợp nhiều

quyết định chính trị có nội dung liên quan nhằm lựa chọn, đề xuất các mục tiêu, công cụ

và giải pháp để thực hiện tốt việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa.

9

Chính sánh bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa được thực hiện trên cơ sở các chủ trương,

đường lối Đảng và Nhà nước, từ Hiến pháp đến văn kiện các kỳ Đại hội Đảng, được cụ thể

qua Nghị quyết các Hội nghị Trung ương Đảng, qua việc hoạch định chiến lược phát triển

văn hóa qua các thời kỳ, khi Luật Di sản văn hóa được thông qua và các Nghị định, Thông

tư hướng dẫn Luật di sản văn hóa được các cơ quan có thẩm quyền ban hành.

1.2. Vai trò của chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số

1.2.1. Mục đích, ý nghĩa của chính sách đối với bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa

dân tộc thiểu số

1.2.1.1. Mục đích

- Bảo tồn phát huy các giá trị VHTT tốt đẹp của các dân tộc, góp phần giáo dục

truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết các

dân tộc, vì một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc.

- Tôn vinh các giá trị văn hóa tốt đẹp của các DTTS, khích lệ sáng tạo các giá trị

văn hóa mới. Góp phần giảm dần sự chênh lệch về mức sống và hưởng thụ văn hóa giữa

các vùng, các dân tộc, gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế với phát triển văn hóa,

đặc biệt tại các địa bàn vùng đồng bào DTTS, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.

- Xây dựng đời sống văn hóa và môi trường văn hóa vùng đồng bào DTTS, gắn

kết chặt chẽ những hoạt động xây dựng đời sống văn hóa với nhiệm vụ phát triển kinh tế

- xã hội phù hợp với từng khu vực, từng vùng, từng dân tộc, tôn giáo.

- Bảo tồn phát huy BSVH các DTTS kết hợp với các chương trình phát triển kinh

tế, phát triển nghề thủ công truyền thống, kết hợp với phát triển du lịch cộng đồng để xóa

đói giảm nghèo.

- Cụ thể hóa các quy định chung của Nhà nước đến cộng đồng DTTS, đảm bảo rõ

ràng, ngắn gọn, dễ hiểu để mọi người dân dễ dàng tiếp thu và tự giác chấp hành. Gắn lợi

ích của người dân khi tham gia các hoạt động bảo tồn văn hóa để thu hút đông đảo người

dân tham gia lưu giữ di sản VHTT của mình. Tăng cường vận động, tuyên truyền để nâng

cao ý thức tự giác của người dân, gắn với xã hội hóa trong công tác bảo tồn.

1.2.1.2. Ý nghĩa

- CS là công cụ để thể chế hóa chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước. Do

đó, thực hiện CS chính là quá trình biến những ý đồ, định hướng từ các loại văn bản hành

chính thành các hành động cụ thể nhằm thực hiện đạt được các mục tiêu đã đề ra. Thực

10

hiện CS bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống chính là việc chuyển những ý

tưởng, những định hướng của Đảng và Nhà nước thành những hành động, những việc

làm, những giải pháp cụ thể. Trên cơ sở đó có các phương pháp hợp lý để thực hiện tốt

việc bảo tồn và phát triển giá trị văn hóa đó.

- Khẳng định tính đúng đắn của CS, CS chỉ thật sự có hiệu lực, hiệu quả khi được toàn

xã hội thừa nhận và thực hiện, đặc biệt là sự thừa nhận của các đối tượng được thụ hưởng từ CS.

- Giúp cho CS ngày càng hoàn chỉnh. Thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH

các DTTS là căn cứ xác thực nhất để có thể đánh giá tính hiệu quả, phù hợp và các tác

động của CS trong việc đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội. Thông qua thực hiện CS

ta có thể thấy rõ được những ưu điểm, hạn chế của CS hiện hành. Từ đó có những điều

chỉnh để hoàn thiện CS nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong việc quản lý và phát triển

đất nước nói chung.

1.2.2. Vai trò, chức năng của chính sách đối với việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn

hóa dân tộc thiểu số

1.2.2.1. Vai trò

- Nhằm đề ra các hướng đi, giải pháp kết hợp hài hòa giữa CS phát triển văn hóa

với các CS phát triển kinh tế, xã hội, tài chính và du lịch. Bên cạnh đó, CS này còn có vai

trò quan trọng trong việc định hướng công tác quản lý, bảo tồn và gìn giữ các loại hình

VHTT, các lễ hội dân gian.

- Chú trọng đến việc đãi ngộ xứng đáng cho người làm công tác nghiên cứu, sưu

tầm các giá trị văn hóa truyền thống. CS đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng giao

lưu văn hóa, tiếp nhận, chọn lọc các nền văn hóa bên ngoài, góp phần tạo nên một nền

văn hóa đa dạng, phong phú, “hòa nhập” nhưng không “hòa tan”.

Có thể nói, CS bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS có vai trò hết sức quan trọng

trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thực hiện mục tiêu xây dựng nền

văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong

đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ và tiến bộ; làm cho văn hóa gắn

kết chặt chẽ, thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành sức mạnh nội sinh quan

trọng của phát triển.

1.2.2.2. Chức năng

Cụ thể CS bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS thành hiện thực: CS là công cụ

11

để thể chế hóa chủ trương, định hướng của Đảng. Do đó, thực hiện CS chính là quá trình

biến những ý đồ, định hướng từ các loại văn bản hành chính thành các hành động cụ thể

nhằm thực hiện đạt được các mục tiêu đã đề ra. Thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH

các DTTS chính là việc chuyển những ý tưởng, những định hướng của Đảng và Nhà nước

thành những hành động, những việc làm, những giải pháp cụ thể. Trên cơ sở đó có các

phương pháp hợp lý để thực hiện tốt việc bảo tồn và phát triển giá trị văn hóa đó.

Thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS là căn cứ xác thực nhất để có

thể đánh giá tính hiệu quả, phù hợp và các tác động của CS trong việc đáp ứng nhu cầu

phát triển của xã hội. Thông qua thực hiện CS ta có thể thấy rõ được những ưu điểm, hạn

chế của CS hiện hành. Từ đó có những điều chỉnh để hoàn thiện CS nhằm đạt được hiệu

quả cao nhất trong việc quản lý và phát triển đất nước.

1.3. Hệ thống chính sách bảo tồn và phát huy giá trị bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số

1.3.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn

hóa dân tộc thiểu số

Bảo tồn và phát huy BSVH Việt Nam nói chung và văn hoá dân tộc thiểu số nói

riêng là nhiệm vụ quan trọng để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản

sắc dân tộc. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm và chú trọng đến

việc bảo tồn và phát huy BSVH dân tộc. Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công,

giành được độc lập, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Đảng và Nhà nước ta đã

rất quan tâm đến giữ gìn DSVH dân tộc. Ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký

và công bố Sắc lệnh số 65/SL về “Bảo tồn cổ tích trên toàn cõi Việt Nam”. Luật Di sản

Văn hóa ra đời năm 2001 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 là cơ sở pháp lý cao nhất nhằm

bảo vệ và phát huy giá trị DSVH ở Việt Nam. Để cụ thể hóa thực hiện Luật Di sản Văn

hóa, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tham mưu Chính phủ ban hành Nghị định số

98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010, trong đó quy định chi tiết thi hành Luật di sản Văn hóa

được sửa đổi bổ sung năm 2009.

Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ban hành Nghị

quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt

Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” đã đề ra những quan điểm, định hướng

chiến lược của Đảng ta về văn hóa nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong thời

kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.

12

Ngày 27/7/2011, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1270/QĐ-TTg về

việc Phê duyệt Đề án “Bảo tồn, phát triển văn hóa các DTTS Việt Nam đến năm 2020”,

trong đó đưa ra các mục tiêu cụ thể:

“- Huy động sức mạnh của toàn xã hội nhằm phát triển văn hóa dân tộc, góp phần

để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát

triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, bảo đảm toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ

quốc gia.

- Bảo tồn, phát huy BSVH truyền thống của các DTTS phù hợp với tình hình thực

tế, đặc biệt chú trọng địa bàn các dân tộc có nguy cơ bị biến dạng văn hóa cao (các dân

tộc rất ít người không có điều kiện tự bảo vệ văn hóa của mình; bảo tồn và phát triển văn

hóa các DTTS tại khu vực biên giới, hải đảo, khu vực tái định cư của các thủy điện). Phát

huy vai trò của các chủ thể văn hóa trong phát triển VHTT của các dân tộc”.

1.3.2. Chính sách của Nhà nước về bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số

Văn hóa các dân tộc Việt Nam là một bộ phận cấu thành của nền văn hóa Việt

Nam phong phú, mang đậm bản sắc dân tộc. Trong xu thế hội nhập và phát triển, những

luồng văn hóa khác nhau xâm nhập vào đời sống xã hội ở vùng dân tộc, gây ảnh hưởng,

tác động đến văn hóa truyền thống của các dân tộc, có nguy cơ làm phai nhạt BSVH dân

tộc. Do đó, việc bảo tồn, phát huy BSVH các dân tộc là nhiệm vụ cấp thiết, có ý nghĩa

chiến lược, cần phải tiếp tục thực hiện thường xuyên và lâu dài. Nhằm cụ thể hóa CS của

Nhà nước về công tác bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS, trong những năm qua Đảng

và Nhà nước ta từ cấp Trung ương đến địa phương đã ban hành rất nhiều văn bản để triển

khai thực hiện, có thể nêu ra một số văn bản tiêu biểu như: Quyết định số 1270/QĐ-TTg

ngày 27/7/2011 phê duyệt đề án “Bảo tồn, phát triển văn hóa các DTTS Việt Nam đến

năm 2020”; Nghị quyết số 33/NQ-TW ngày 09/6/2014 của Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp

hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam

đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước; Nghị quyết số 102/NQ-CP ngày

31/12/2014 của Chính phủ; Quyết định số 2850/QĐ-BVHTTDL ngày 24/8/2015 của Bộ

Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Quyết định số 1583/QĐ-UBND, ngày 09/7/2009 của

UBND tỉnh Lâm Đồng về việc Phê duyệt Đề án “Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá cồng

chiêng các dân tộc Tây Nguyên tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2009 - 2010 và tầm nhìn đến

năm 2015”; Kế hoạch số 292/KH-UBND ngày 15/01/2019 của UBND tỉnh Lâm Đồng

13

về việc Thực hiện nghị quyết số 14-NQ/TU của Tỉnh ủy về Phát triển vùng đồng bào

DTTS tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2018 - 2025, định hướng đến năm 2030; Quyết định số

296/QĐ-UBND, ngày 22/2/2018 của UBND tỉnh Lâm Đồng về việc Phê duyệt Đề án

“Bảo tồn và phát triển Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên các dân tộc tỉnh

Lâm Đồng đến năm 2020”…

Với những chủ trương, CS của Đảng và Nhà nước từ Trung ương đến địa phương

được cụ thể hóa bằng văn bản và các kế hoạch hành động cho thấy công tác bảo tồn và

phát huy BSVH dân tộc ngày càng được chú trọng và quan tâm.

1.4. Các bước thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc

1.4.1. Lập kế hoạch thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc

Việc lập kế hoạch để thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH dân tộc luôn được

Đảng và Nhà nước ta quan tâm, triển khai đầy đủ, kịp thời: Nội dung CS thực hiện; đối

tượng thụ hưởng; thời gian thực hiện theo lộ trình; nguồn lực để thực hiện (con người và

kinh phí); các cơ quan, đơn vị chủ trì và phối hơp.

Có thể nhận thấy rõ điều này qua Quyết định số 1270/QĐ-TTg ngày 27/7/2011 của

Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án Bảo tồn, phát triển văn hóa các DTTS Việt Nam đến

năm 2020”. Cụ thể, giao cho Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì đề án và yêu cầu rất

nhiều các cơ quan phối hợp triển khai Đề án tại phần tổ chức thực hiện; Quyết định số

3723/QĐ-BVHTTDL ngày 03/8/2016 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phê duyệt Dự

án “Gắn kết phát triển kinh tế và bảo tồn, phát triển văn hóa các DTTS ” cũng thể hiện rất rõ

tại mục 2. Phương thức triển khai dự án dựa trên cơ sở thống nhất từ dưới lên: “Các cơ quan

quản lý nhà nước có trách nhiệm lập kế hoạch hướng dẫn, chỉ đạo, tổ chức thực hiện; Chủ

thể văn hóa (người dân) thực hiện và thụ hưởng thành quả dự án mang lại. Giao quyền chủ

động cho các địa phương triển khai thực hiện, tránh áp đặt, làm thay”. Kế hoạch thực hiện

được chia làm 2 kỳ, giai đoạn 1 từ 2016 - 2018, giai đoạn 2 từ 2018 - 2020.

Đây là những nghị quyết, quyết định tiêu biểu thể hiện rõ được việc lập kế hoạch

để triển khai thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH dân tộc. Bên cạnh đó còn có nhiều

văn bản khác từ cấp trung ương đến địa phương thể hiện được việc lập kế hoạch để triển

khai thực hiện CS bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.

1.4.2. Tuyên truyền, phổ biến về chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc

14

Việc giáo dục ý thức bảo tồn và phát huy BSVH DT, đặc biệt đối với các DTTS là

hết sức cần thiết. Bởi văn hóa các DTTS Việt Nam là một bộ phận cấu thành quan trọng của

nền văn hóa Việt Nam. Công tác tuyên truyền, phổ biến về CS bảo tồn và phát huy BSVH

DT là nhiệm của của toàn Đảng, toàn dân, tuy nhiên để đảm bảo tính chính xác và thống nhất

phải được chính các cơ quan chuyên môn tổ chức thực hiện, cụ thể: Cấp Trung ương là Bộ

Văn hóa, Thể thao và Du lịch; cấp tỉnh là Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

Công tác tuyên truyền, phổ biến CS luôn phải tiên phong, khi nào thực hiện được tốt

công tác phổ biến tuyên truyền thì mới triển khai được các CS. Điều này đỏi hỏi phải có

nguồn lực, con người được huấn luyện đào tạo, kinh phí, có sự phối hợp của các cơ quan có

chức năng tuyên truyền mới đảm bảo việc tuyên truyền phổ biến đạt hiệu quả cao nhất.

Quyết định số 1270/QĐ-TTg ngày 27/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt

đề án “Bảo tồn, phát triển văn hóa các DTTS Việt Nam đến năm 2020” đã đưa công tác

thông tin, truyền thông, tuyên truyền thành một nhiệm vụ trọng tâm “Tăng cường công

tác tuyên truyền tạo sự hiểu biết của xã hội về bảo tồn, phát triển văn hóa DTTS; phối

hợp giữa Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam và các Đài Phát thanh và

Truyền hình tại các địa phương xây dựng các chuyên mục tuyên truyền về bảo tồn, phát

triển văn hóa DTTS, ưu tiên sử dụng ngôn ngữ, chữ viết của dân tộc”.

“Đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, góp phần nâng cao nhận thức và

trách nhiệm của các cấp, các ngành, đoàn thể và người dân về chủ trương của Đảng, Nhà

nước về nhiệm vụ gắn kết phát triển kinh tế và bảo tồn, phát triển văn hóa các DTTS ” là

một trong những nội dung quan trọng của đề án “gắn kết phát triển kinh tế và bảo tồn,

phát triển văn hóa các DTTS” được phê duyệt theo Quyết định số 3723/QĐ-BVHTTDL

ngày 03/8/2016 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

Ngoài các dự án, đề án mang tính quốc gia, các địa phương, các tỉnh khi triển khai

các chủ trương CS của Đảng và Nhà nước đến với đồng bào DTTS luôn phải ưu tiên thực

hiện phổ biến tuyên truyền để đảm bảo CS bảo tồn và phát huy BSVH dân tộc được thực

hiện nhất quán, đầy đủ.

1.4.3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy BSVHDT

Bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS là nhiệm vụ chiến lược mang tính lâu dài

và là trách nhiệm của toàn xã hội, có sự kết hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, trung

ương và địa phương, giữa người dân với các đoàn thể, tổ chức xã hội. Trong đó, Nhà

15

nước đóng vai trò hỗ trợ, tác động tạo điều kiện, môi trường thuận lợi, phù hợp để bảo

tồn, phát triển văn hóa của đồng bào DTTS ở Việt Nam. Việc thực hiện CS cần phải có

sự phân công, phối hợp cụ thể của nhiều cơ quan, ban, ngành vì đây chính là hoạt động

có tính chất liên ngành.

Việc phân công, phối hợp của các đơn vị, tổ chức tham gia thực hiện công tác bảo

tồn và phát huy BSVH DT là điều hết sức cần thiết nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Mỗi

đơn vị sẽ thực hiện một nhiệm vụ chuyên môn nhất định. Trong nhiều hoạt động để thực

hiện chính bảo tồn và phát huy BSVH DT có nhiều nội dung và liên quan đến nhiều lĩnh

vực khác nhau, mỗi đơn vị chuyên môn sẽ đảm nhận một nhiệm vụ theo vị trí và chức

năng của đơn vị mình.

1.4.4. Tổ chức thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc

Việc tổ chức thực hiện CS để bảo tồn và phát huy bản sắc VHDT là nội dung quan

trọng nhất. Tổ chức thực thi CS là một khâu hợp thành chu trình CS bảo tồn và phát huy

bản sắc VHDT. Nếu thực thi CS tốt không những mang lại lợi ích to lớn cho các dân tộc

thụ hưởng, mà còn góp phần làm tăng uy tín của nhà nước trong quá trình quản lý xã hội.

Tùy theo từng CS bảo tồn và phát huy bản sắc VHDT cụ thể sẽ được tổ chức thực hiện

từ cấp trung ương đến địa phương. Mỗi đơn vị sẽ có một kế hoạch cụ thể để triển khai thực hiện.

1.4.5. Giám sát, kiểm tra việc thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn

hóa dân tộc

Trong quá trình tổ chức thực hiện CS nói chung và CS bảo tồn và phát huy

BSVHDT nói riêng, việc giám sát kiểm tra là điều bắt buộc. Nó giúp cho các nhà hoạch

định CS, các nhà quản lý biết được việc thực thi CS đúng như kế hoạch đã tổ chức triển

khai không. Kiểm tra, giám sát để kịp thời phát hiện những sai lệch trong thực thi CS. Có

thể là không đúng về nội dung, mục đích, đối tượng, số lượng, chất lượng, kinh phí. Trong

thực thi CS, việc kiểm tra, giám sát cần phải được thực hiện thường xuyên, liên tục, không

được lơ là và chủ quan vì đây là những CS liên quan đến VHDT.

1.4.6. Sơ kết, tổng kết thực hiện chính sách ưu đãi bảo tồn và phát huy bản sắc

văn hóa dân tộc thiểu số

Định kỳ hàng năm hoặc theo kế hoạch triển khai, các đơn vị chủ trì phối hợp với các

cơ quan, ban, ngành, địa phương tổ chức sơ kết, tổng kết để đánh giá việc thực hiện CS bảo

tồn và phát huy BSVHDT. Trong đó, phải đánh giá được kết quả đạt được theo số lượng,

16

chất lượng, những hạn chế, tồn tại, nguyên nhân, đề xuất bổ sung hoặc thay đổi so với kế

hoạch đã phê duyệt. Có thể khẳng định rằng, đây chính là khâu phản biện lại các CS bảo tồn

và phát huy BSVHDT có triển khai đúng hướng hay không, là khâu then chốt quyết định sẽ

tiếp tục hay không tiếp tục triển khai CS. CS về bảo tồn và phát huy BSVHDT không chỉ tác

động đến một dân tộc, một cộng đồng người mà còn tác động đến đời sống văn hóa của nhiều

dân tộc khác nhau. Do vậy, việc sơ kết, tổng kết đánh giá phải được thực hiện nghiêm túc,

khách quan, trung thực và dựa trên các chứng cứ khoa học cụ thể.

1.5. Các nhân tố tác động đến việc thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy bản sắc

văn hóa dân tộc thiểu số

1.5.1. Tính chất của vấn đề chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số

Khi đưa ra một CS về bảo tồn và phát huy BSVH nói chung, BSVH DTTS nói

riêng các nhà hoạch định CS luôn khảo sát, đánh giá khả năng thực hiện dựa trên nhiều

yếu tố khác nhau. Tính chất của vấn đề CS là các yếu tố khách quan có ảnh hưởng trực

tiếp đến việc tổ chức thực thi CS nhanh hay chậm, thuận lợi hay khó khăn. Việc bảo tồn

và phát huy bản sắc VHDT phải được đặt trong sự vận động và phát triển. Sự tương tác

của các dân tộc sẽ dẫn đến sự giao thoa, tiếp biến của các hình thái văn hóa khác nhau,

nhất là trong môi trường kinh tế xã hội hiện nay. Điều này đặt ra cho các nhà quản lý và

thực hiện CS, các cấp, các ngành phải quan tâm đặc biệt.

1.5.2. Môi trường và mối quan hệ giữa các đối tượng thực hiện thực thi chính sách

bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số

Môi trường là một nhân tố ảnh hưởng lớn đến CS bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa.

Môi trường ở đây được hiểu là những yếu tố xung quanh có tác động đến việc triển khai CS

như: Môi trường tự nhiên, điều kiện về địa hình, thổ nhưỡng, khí hậu thời tiết, nguồn tài nguyên

…; môi trường xã hội là trình độ dân trí, văn hóa, ngôn ngữ, tập tục, thói quen, tín ngưỡng, tôn

giáo, trình độ lao động sản xuất, cơ sở hạ tầng... Có nhiều CS rất đúng đắn kịp thời, nhưng khi

đưa vào tổ chức triển khai lại bị rào cản bới những yếu tố môi trường dẫn đến khó khăn thực

hiện hoặc bị kéo dài. Bên cạnh đó môi trường ảnh hưởng đến việc thực thi CS chính là các

hoạt động kinh tế, chính trị, tình hình phát triển của xã hội, an ninh quốc phòng. Tất cả những

môi trường này đều có những tác động tích cực và tiêu cực đến việc thực hiện CS. Mối quan

hệ giữa các đối tượng thực hiện CS thể hiện sự thống nhất hay không về lợi ích của các đối

tượng trong quá trình thực hiện mục tiêu CS. Nếu lợi ích của các đối tượng tham gia thực hiện

17

CS không mâu thuẫn với nhau và với đối tượng thụ hưởng thì CS được triển khai thực hiện dễ

dàng và ngược lại, lợi ích của các đối tượng tham gia thực hiện CS mâu thuẫn với lợi ích của

đối tượng thụ hưởng thì thực hiện CS sẽ khó khăn, thậm chí còn thất bại.

1.5.3. Tiềm lực, đặc tính của các nhóm đối tượng chính sách

Tiềm lực của các nhóm đối tượng CS được hiểu là thực lực và tiềm năng mà mỗi nhóm

có được trong mối quan hệ so sánh với các nhóm đối tượng khác. Tiềm lực của nhóm lợi ích

được thể hiện trên các phương diện chính trị, xã hội, kinh tế... cả về quy mô và trình độ.

Đặc tính của đối tượng thực hiện CS công nói chung, CS bảo tồn phát huy BSVH

các DTTS nói riêng là những đặc điểm, tính chất đặc trưng mà các đối tượng có được từ

bản tính cố hữu hoặc do môi trường sống tạo nên trong quá trình vận động mang tính lịch

sử. Những đặc tính này thường liên quan đến tính tự giác, kỷ luật, tính sáng tạo, tính

truyền thống, lòng quyết tâm... Đặc tính này gắn liền với mỗi đối tượng thực hiện CS nên

các chủ thể tổ chức điều hành cần biết cách khơi gợi hay kiềm chế nó để có được kết quả

tốt nhất cho quá trình tổ chức thực hiện CS.

1.5.4. Thực hiện đúng, đầy đủ các bước trong quy trình tổ chức thực hiện chính sách

Do tầm quan trọng của giai đoạn hiện thực hoá CS nên các cơ quan nhà nước, các

cấp chính quyền địa phương cần đặc biệt quan tâm chỉ đạo sát sao công tác tổ chức triển

khai thực hiện CS. Để tổ chức, điều hành có hiệu quả công tác thực thi CS công, cán bộ,

công chức nhà nước cần phải thực hiện nhiều nội dung quản lý khác nhau, nhưng trước

tiên cần tuân thủ các bước tổ chức thực thi cơ bản sau đây:

Một là, phải tiến hành xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện CS công;

Hai là, phổ biến, tuyên truyền CS công;

Ba là, phân công, phối hợp thực hiện CS công;

Bốn là, đôn đốc, giám sát thực hiện CS công;

Năm là, tổng kết thực thi CS công.

Mỗi bước trong quy trình đều có vị trí, ý nghĩa và tác động nhất định đối với quá

trình thực hiện CS. Thực hiện đúng và đầy đủ các bước này sẽ giúp cho cơ quan ban hành

CS và cơ quan quản lý thực thi đạt được mục tiêu của CS cao nhất.

1.5.5. Năng lực thực hiện chính sách của đội ngũ cán bộ công chức

Đây là yếu tố có vai trò quyết định đến kết quả tổ chức thực hiện CS bảo tồn và phát

huy BSVH. Năng lực tổ chức, quản lý của nhà nước và của đội ngũ cán bộ, công chức

18

trong thực hiện CS là thước đo bao gồm nhiều tiêu chí phản ánh về đạo đức công vụ, về

năng lực thiết kế tổ chức, năng lực phân tích, dự báo để có thể chủ động ứng phó được với

những tình huống phát sinh trong quá trình tổ chức thực hiện CS. Các cán bộ, công chức

trong cơ quan nhà nước khi được giao nhiệm vụ tổ chức thực hiện CS, cần nêu cao tinh

thần trách nhiệm và chấp hành tốt kỷ luật công vụ trong lĩnh vực này mới đạt hiệu quả thực

hiện. Tinh thần trách nhiệm và ý thức kỷ luật được thể hiện trong thực tế thành năng lực

thực tế. Đây là một yêu cầu rất quan trọng đối với mỗi cán bộ, công chức để thực hiện việc

chuyển tải ý đồ CS của nhà nước vào cuộc sống. Nếu thiếu năng lực thực tế, các cơ quan

có thẩm quyền tổ chức thực hiện CS sẽ đưa ra những kế hoạch không bám sát với thực tế,

dẫn đến lãng phí nguồn lực được huy động, làm giảm hiệu lực, hiệu quả của CS, thậm chí

còn làm biến dạng CS trong quá trình tổ chức thực hiện…. Năng lực thực tế và đạo đức

công vụ của cán bộ, công chức còn thể hiện ở thủ tục giải quyết những vấn đề trong quan

hệ giữa các cơ quan nhà nước với cá nhân và tổ chức trong xã hội.

1.5.6. Các điều kiện vật chất và nhận thức của cộng đồng chủ thể bản sắc văn hóa dân

tộc thiểu số để thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số

Để quản lý được các hoạt động liên quan đến việc thực hiện CS, Nhà nước phải

chú trọng đầu tư nguồn lực vật chất cả về số lượng và chất lượng. Các điều kiện vật chất

ở đây được hiểu là hệ thống trang thiết bị, phòng nghiên cứu, phòng thí nghiệm, nguồn

tài chính phục vụ cho việc nghiên cứu. Đồng thời, nó cũng là chế độ tiền lương, thưởng,

các ưu đãi đối với các chuyên gia nghiên cứu và đội ngũ cán bộ công chức trực tiếp thực

hiện CS. Những điều kiện về vật chất có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả thực hiện CS,

nó giúp cho thực hiện CS được thuận tiện nhanh chóng, giúp cho các nhà nghiên cứu có

thể triển khai những ý tưởng sáng tạo của mình thành hiện thực, giúp cho đội ngũ cán bộ

công chức thực hiện CS cũng như nhà nghiên cứu yên tâm làm việc, tâm huyết với nhiệm

vụ được giao góp phần đạt được mục tiêu đã đề ra của CS.

1.6. Những yêu cầu cơ bản trong tổ chức thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy

bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số

1.6.1. Thực hiện đúng mục tiêu chính sách

Mỗi CS đều hướng đến mục tiêu nhất định. Mục tiêu của CS bảo tồn và phát huy BSVH

các DTTS là giữ gìn sự nguyên vẹn và đầy đủ của các giá trị văn hóa của dân tộc, không để

mai một, tổn thất hoặc bị huỷ hoại. Việc thực hiện CS này sẽ đóng vai trò quan trọng trong

19

việc nâng cao nhận thức, trình độ dân trí, góp phần giáo dục truyền thống lịch sử, văn hóa cho

thế hệ trẻ; giới thiệu tinh hoa, nét đẹp, bản sắc, tinh túy văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt

Nam với bạn bè quốc tế. Nếu mục tiêu này không được thực hiện coi như CS bảo tồn và phát

huy BSVH các DTTS không thành công, thực chất là không được thực hiện.

1.6.2. Đảm bảo tính hệ thống trong thực hiện chính sách

Hệ thống thực hiện CS được quy định trong chủ trương của Đảng, các văn bản chỉ

đạo, hướng dẫn triển khai thực hiện của Nhà nước và bắt buộc mọi công chức khi triển

khai thực hiện CS phải nghiêm chỉnh tuân theo, điều này được thể hiện rõ nhất ở sự phân

cấp thực hiện giữa các cơ quan đơn vị với nhau, giữa cơ quan cấp trên và cơ quan cấp

dưới, ở sự phối hợp trong công tác.

Thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS cần phải bảo đảm tính hệ

thống, nghĩa là phải thực hiện đồng bộ và thống nhất các nhiệm vụ, các bước trong tổ

chức thực hiện CS nhằm đạt được hiệu quả cao nhất.

1.6.3. Đảm bảo tính pháp lý, khoa học và hợp lý trong tổ chức thực hiện chính sách

Thực hiện CS theo đúng pháp luật, đúng nội dung văn bản quy định, đồng thời

phải thực hiện một cách khoa học, hợp lý để CS phát huy hiệu quả của nó. Trong tổ chức

thực hiện CS nếu đảm bảo yêu cầu về tính pháp lý, khoa học và hợp lý sẽ giúp nâng cao

hiệu lực tổ chức thực hiện CS của các cơ quan quản lý nhà nước, đồng thời còn củng cố

niềm tin của các đối tượng được thụ hưởng CS đối với Nhà nước.

1.6.4. Đảm bảo lợi ích thực sự cho đối tượng thụ hưởng chính sách

Trong xã hội thường tồn tại nhiều nhóm lợi ích và nhà nước là người bảo vệ lợi

ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức. Thông thường, nhà nước thường sử dụng CS công

nhằm bảo đảm về lợi ích cho các đối tượng được thụ hưởng CS trong xã hội. Điều này sẽ

góp phần củng cố sự tin tưởng của người dân vào các CS nhà nước thông qua CS công.

Có thể nói, để cho các đối tượng thụ hưởng CS có được những lợi ích thật sự là yêu cầu

quan trọng trong quá trình thực thi CS.

Tiểu kết Chương 1

Từ việc đưa ra một số khái niệm khái niệm về văn hóa, bản sắc văn hóa, bảo tồn

và phát huy bản sắc văn hóa, CS công, thực hiện CS công, kết hợp với cơ sở lý thuyết về

CS công đã được học, luận văn đã tổng hợp, phân tích được những vấn đề lý luận chung

về thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH dân tộc ở Việt Nam, cụ thể: Làm rõ được các

20

nhân tố tác động đến việc thực hiện chính như môi trường, mối quan hệ giữa các đối

tượng thực thi CS, tiềm lực, đặc tính của các nhóm đối tượng CS, năng lực thực hiện của

đội ngũ cán bộ công chức, các điều kiện vật chất và nhận thức của cộng đồng DTTS để

thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH dân tộc.

Văn hóa là sức mạnh nội sinh tiềm tàng, thúc đẩy sự phát triển bền vững và là tài

sản vô giá của dân tộc. Bởi vậy, việc bảo tồn và phát huy BSVH là nhiệm vụ quan trọng.

Trong bất cứ giai đoạn nào, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, định hướng, xây dựng

các CS về phát triển văn hóa, bảo tồn các di sản văn hóa phù hợp với tình hình thực tế,

những lý luận về CS bảo tồn giá trị văn hóa cần phải được đầu tư, nghiên cứu nhằm phục

vụ cho việc hoạch định CS theo hướng lâu dài, hiệu quả để bảo tồn, phát huy BSVH, góp

phần vào sự phát triển bền vững của đất nước. Chương 1 là cơ sở định hướng cho việc

đánh giá thực trạng về thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân

tộc văn hoá dân tộc thiểu số ở chương 2 và đưa ra các giải pháp ở chương 3 của luận văn.

21

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY

BẢN SẮC VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI TỈNH LÂM ĐỒNG

2.1. Khái quát chung về địa bàn nghiên cứu

2.1.1. Điều kiện tự nhiên

Lâm Đồng là tỉnh miền núi phía Nam Tây Nguyên, có diện tích 9.783,2 km2, độ

cao trung bình từ 800-1000m so với mặt nước biển, địa hình chủ yếu, là bình sơn nguyên,

núi cao đồng thời cũng có những thung lũng nhỏ bằng phẳng đã tạo nên những yếu tố tự

nhiên khác nhau về khí hậu, thổ nhưỡng, hệ động thực vật phong phú, nhiều cảnh quan

kỳ thú cho địa phương. Vùng đất Lâm Đồng từ lâu đã có nhiều dân tộc anh em cùng sinh

sống, cộng đồng người dân tộc Mạ, K’ ho, Churu là tộc người văn hoá dân tộc thiểu số

của địa phương.

Do chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa biến thiên theo độ cao, chính vì

vậy khí hậu Lâm Đồng được chia làm 2 mùa riêng biệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa

mưa thường bắt đầu từ tháng 5 kéo dài đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4

năm sau. Nhiệt độ cũng thay đổi rõ rệt giữa các khu vực, càng lên cao nhiệt độ càng giảm.

Nhiệt độ trung bình năm của tỉnh dao động từ 18 - 250 C, thời tiết ôn hòa và mát mẻ quanh

năm, ít có những biến động lớn trong chu kỳ năm. Với địa hình là địa hình cao nguyên

tương đối phức tạp, chủ yếu là bình sơn nguyên, núi cao đồng thời cũng có những thung

lũng nhỏ bằng phẳng đã tạo nên những yếu tố tự nhiên khác nhau: Phía Bắc tỉnh là vùng

núi cao, vùng cao nguyên Lang Bian với những đỉnh cao từ 1.300m đến hơn 2.000m như

BiĐoup (2.287m), Lang Bian (2.167m). Phía Đông và Tây có dạng địa hình núi thấp (độ

cao 500 - 1.000m). Phía Nam là vùng chuyển tiếp giữa cao nguyên Di Linh - Bảo Lộc và

bán bình nguyên. Lâm Đồng có diện tích đất 977.219,6 ha, 98% diện tích tự nhiên, bao

gồm 8 nhóm đất và 45 đơn vị đất: Đất có độ dốc dưới 25o chiếm trên 50%, đất dốc trên

25o chiếm gần 50%. Chất lượng đất đai của Lâm Đồng rất tốt, khá màu mỡ, toàn tỉnh có

khoảng 255.400 ha đất có khả năng sản xuất nông nghiệp, trong đó có 200.000 ha đất

bazan tập trung ở cao nguyên Bảo Lộc - Di Linh.

2.1.2. Đặc điểm dân số, dân cư, tộc người

Tính đến ngày 31/12/2019 dân số toàn tỉnh là hơn 1,3 triệu người. Mật độ dân số

118 người/km2, có 43 dân tộc khác nhau cư trú và sinh sống, trong đó đông nhất là người

22

Kinh chiếm khoảng 77%, tiếp đến người K’ho chiếm 12%, người Mạ chiếm 2,5%, người

Nùng chiếm gần 2%, người Tày chiếm 2%, người Hoa chiếm 1,5%, người Churu 1,5%...,

còn lại các dân tộc khác có tỷ lệ dưới 1% sống thưa thớt ở các vùng xa, vùng sâu trong

tỉnh. Lễ hội cồng chiêng, rượu cần và dệt thổ cẩm là nét đặc trưng cho văn hóa DTTS tại

Lâm Đồng (nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Lâm Đồng 2019).

2.1.3. Đặc điểm về kinh tế xã hội

Sau ngày giải phóng, kinh tế xã hội Lâm Đồng gặp nhiều khó khăn do chiến tranh

để lại. Chặng đường 10 năm đầu sau giải phóng (1975-1985) nền kinh tế của tỉnh vẫn còn

nghèo nàn, lạc hậu, thiếu thốn về cơ sở vật chất. Đến năm 2019, kinh tế - xã hội tỉnh Lâm

Đồng đã có bước chuyển mình vượt trội. Kinh tế tiếp tục phát triển và đạt mức tăng

trưởng 7,93%. Phần lớn các chỉ tiêu chủ yếu đều đạt kế hoạch và tăng so với cùng kỳ:

GRDP bình quân đầu người đạt 66,7 triệu đồng; tổng mức đầu tư toàn xã hội 30.500 tỷ

đồng; thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt 8.298 tỷ đồng. Nông nghiệp vẫn là kinh tế

chủ đạo, trong những năm gần đây nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tiếp tục có bước

phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Du lịch, dịch vụ được xác định là ngành kinh tế

động lực của tỉnh. Hoạt động thương mại, dịch vụ, nhất là dịch vụ du lịch tiếp tục duy trì

và phát triển. Trong năm 2019, khách du lịch đến Lâm Đồng đạt 7,16 triệu lượt khách.

Lĩnh vực văn hóa - xã hội phát triển và đạt những kết quả khá toàn diện. Công tác xây

dựng chính quyền, cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính tiếp tục

được các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo thực hiện và đạt được nhiều kết quả tích cực.

2.1.4. Đặc điểm về giáo dục, y tế

So với các tỉnh trong khu vực Tây Nguyên, Lâm Đồng là tỉnh có số lượng học sinh

trong độ tuổi đi học lớn nhất. Toàn tỉnh có 711 trường, tổng số học sinh là 329.990 học

sinh: mầm non 233 trường, tiểu học 250 trường, trung học cơ sở 159 trường, trung học

phổ thông 57 trường; 01 trung tâm giáo dục thường xuyên cấp tỉnh; 11 trung tâm giáo

dục nghề nghiệp giáo dục thường xuyên cấp huyện, thành phố. Bên cạnh đó còn có 02

trường đại học và 02 phân hiệu trường đại học, 07 trường cao đẳng, 02 trường trung cấp

đảm bảo cho việc đào tạo các cấp trình độ từ trung cấp đến tiến sĩ, cung ứng nguồn nhân

lực cho tỉnh Lâm Đồng. Tuy nhiên một số ngành đào tạo chuyên sâu ở trình độ cao vẫn

còn thiếu, nhất là các ngành trong lĩnh vực công nghệ thông tin, quản lý điều hành.

23

Hệ thống y tế cơ bản đã đáp ứng được với nhu cầu khám chữa bệnh của người dân.

Hiện nay, toàn tỉnh có 02 bệnh viện Đa khoa, 01 bệnh viện tư nhân, 01 bệnh viên nhi,

toàn tỉnh có 517 cơ sở tế tư nhân, 888 cơ sở bán lẻ thuốc. Cơ sở vật chất, trang thiết bị

được tăng cường đầu tư đồng bộ. Đến đầu năm 2020 có 7,9 bác sỹ/vạn dân, 23 giường

bệnh/vạn dân, tỉ lệ xã đạt bộ tiêu chí quốc gia về y tế đạt 98,6%.

(Nguồn: Niên giám thống kê Lâm Đồng năm 2019)

2.1.5. Những vấn đề tác động đến thực hiện chính sách bảo tồn phát huy bản sắc văn

hoá dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng

Triển khai các chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước về bảo tồn phát huy

bản sắc văn hoá các dân tộc, trong những năm qua tỉnh Lâm Đồng đã có nhiều nỗ lực cố

gắng để thực hiện các chính sách bảo tồn và phát huy BSVH DTTS bằng việc ban hành

các quyết định, cụ thể: Quyết định số 296/QĐ-UBND ngày 22/02/2018 của UBND tỉnh

phê duyệt đề án “Bảo tồn và phát triển không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên các

dân tộc tỉnh lâm đồng đến năm 2020”; Quyết định số 450/QĐ-UBND ngày 06/03/2018 của

UBND tỉnh phê duyệt đề án “Bảo tồn, phát huy BSVH các DTTS, khôi phục và phát triển

các làng nghề truyền thống gắn với hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn

2018 - 2020 và định hướng đến năm 2030”. Các văn bản này thể hiện chưa toàn diện và

đầy đủ, đồng thời mới chỉ dừng lại ở tính định hướng, chưa cụ thể hoá được các chính sách.

Bên cạnh đó, khoảng thời gian song hành với sự phát triển nhanh và mạnh của kinh

tế, văn hoá, xã hội đã tác động rất lớn và làm biến đổi nhiều bản sắc văn hoá dân các tộc

thiểu số trên địa bàn tỉnh. Việc đầu tư ngân sách và nguồn nhân lực để thực hiện chính sách

chưa được quan tâm đúng mức dẫn đến bản sắc văn hoá dân tộc thiểu số ngày càng mai một.

2.2. Bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số tỉnh Lâm Đồng

2.2.1. Dân tộc K’ho

Dân tộc K’ho còn có tên gọi khác là Cơ ho, Kơ Ho, là dân tộc có tập quán sống du

canh dư cư, nên trong quá trình phát triển đã dần hình thành các nhánh K’ho địa phương

như: K’ho Srê, K’ho Tơ Rinh (T’ring), K’ho Nộp (Tu nốp), K’ho Chil, K’ho Lạch, K’ho

Dòn... Địa bàn cư trú của người K’Ho chủ yếu ở các tỉnh Lâm Đồng, Bình Thuận, Khánh

Hòa, Ninh Thuận, Đồng Nai, tại Lâm Đồng, dân số của dân tộc K’ho hiện nay là khoảng

200.000 người. Tiếng nói của người K’ho thuộc ngữ hệ Nam Á, nhóm Môn-Khmer. Gần

24

đây, người K’ho mới có chữ viết theo mẫu chữ Latinh. Trong xã hội truyền thống, người

K’ho sống trong các Bon (làng), đứng đầu bon là già làng.

Văn hóa kiến trúc: Nhà truyền thống của người K’ho là nhà sàn dài bằng gỗ, hai

mái uốn cong, lợp bằng cỏ tranh, có liếp nghiêng ra phía ngoài và cũng lợp tranh để chống

lạnh. Mọi sinh hoạt chủ yếu như ăn uống, nghỉ ngơi, tiếp khách... đều diễn ra quanh bếp

lửa ở trong nhà.

Đời sống kinh tế sản xuất, chăn nuôi và nghề thủ công: Phương thức canh tác chủ

yếu là trồng lúa trên ruộng nước ở các thung lũng, một số người K’ ho khác do cư trú ở

vùng núi cao nên thường phát rừng làm rẫy để trồng ngô, lúa rẫy, sắn. Ngoài những cây

lương thực chủ yếu, người K’ho còn trồng lẫn các loại rau khác như bầu, bí, mướp, đậu...

Họ cũng làm vườn, trồng cây ăn quả như mít, bơ, chuối, đu đủ... Việc chăn nuôi gia súc,

gia cầm như trâu, bò, lợn, dê, gà, vịt... thường theo phương thức thả rong. Trâu, bò chỉ

dùng làm sức kéo ở những vùng làm ruộng nước, còn lại chủ yếu để hiến tế trong các dịp

nghi lễ. Các nghề thủ công phổ biến nhất là đan lát và rèn, riêng nhóm người dân K’ho

Chil còn có thêm nghề dệt; ngoài ra ở một số nơi có làm nghề gốm theo phương thức

không có bàn xoay. Do tác động của kinh tế xã hội, về phương thức sản xuất của người

K’ho đã có nhiều thay đổi đáng kể, tuy nhiên sản xuất và buôn bán các sản phẩm từ nông

nghiệp vẫn giữ vai trò chủ đạo.

Văn hóa ẩm thực: Người dân tộc K’ho truyền thống thường ăn ba bữa, theo tập

quán ăn bốc, lương thực chính là gạo ăn với thực phẩm như cá, thịt, rau. Các món ăn

thường chế biến khô để thuận tiện cho việc ăn bốc. Thực phẩm thường được chế biến

theo các hình thức nấu chín, ăn sống, nướng, phơi khô, ủ chua. Thức uống là nước tự

nhiên (nước mưa hoặc nước từ các con suối), dụng cụ trữ nước uống là những quả bầu

khô hoặc ghè. Người dân tộc K’ho hút các loại cây thuốc phơi khô cuốn lại, rượu cần

(t’rờ nờm) làm từ gạo, ngô, sắn...với men chế biến từ cây rừng rất được ưa chuộng trong

các bữa tiệc, lễ hội...

Văn hóa trang phục truyền thống: Trang phục của đàn ông là khố bằng vải bản

rộng, dài khoảng từ 1,5 - 2m, có hoa văn theo dải dọc. Phụ nữ dùng váy bằng một tấm

vải quấn quanh người rồi giắt cạp. Váy nền đen, có diềm hoa văn trắng. Nếu thời tiết

lạnh, họ khoác thêm chăn (ùi) ra ngoài. Phụ nữ dùng vòng cổ, vòng tay, cườm và khuyên

căng tai làm đồ trang sức. Có thể nói trang phục truyền thống của người K’ho là một sự

25

kết hợp hàì hòa đặc sắc, vừa thể hiện những yếu tố của tự nhiên về chất liệu, vừa thể hiện

sự tài nghệ của người thợ dệt tạo nên bản sắc riêng của người K’ho.

Văn hóa tín ngưỡng, phong tục, lễ hội: Người K’ho vẫn giữ được nhiều phong tục

cổ, trong đó phải kể đến các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian. Nhà nghiên cứu văn hoá dân

gian Nguyễn Văn Doanh cho biết: "Từ xa xưa, người K’ho tin rằng mọi mặt của đời sống

đều do các thế lực siêu nhiên quyết định. Thần Yàng (trời) phù hộ cho con người, còn thế

lực ma quỷ (chà) gây tai họa. Ngoài ra, người K’ho còn thờ thần Mặt Trời, Mặt Trăng,

thần Núi, thần Sông, thần Đất, thần Lúa... Ngày nay, người K’ho vẫn thực hiện các nghi

lễ cúng các vị thần trong những dịp, sự kiện quan trọng như: hiếu hỷ, những giai đoạn

trong sản xuất, ốm đau, bệnh tật...". Người K’ho theo tín ngưỡng đa thần, nên mỗi khi tổ

chức các lễ hội nông nghiệp, người K’ho thường dựng cây nêu để mời gọi Yàng về dự,

chứng kiến và cùng chung vui với buôn làng. Có nhiều lễ hội tạ ơn thần lúa như: lễ gieo

sạ lúa, lễ cúng dưỡng lúa, lễ mừng lúa mới, lễ cầu mưa, lễ cúng bến nước.

Đời sống văn hoá, nghệ thuật dân gian: Có các thể loại văn học dân gian giàu nhạc

tính, gồm: Huyền thoại, cổ tích, truyền thuyết, các bài cúng, văn vần…Các nhạc cụ của

người K’ho gồm: bộ cồng chiêng gồm 6 chiếc, kèn ống bầu (Kơmbuat), đàn ống tre

(Kơrla), trống (Sơgơr)... những nhạc cụ này có khả năng hòa âm với lời ca hoặc độc tấu.

Đây chính là những nét đặc trưng văn hóa nghệ thuật của dân tộc K’ho văn hoá dân tộc

thiểu số.

2.2.2. Dân tộc Churu

Dân tộc Churu có khoảng 8.000 người cư trú, tập trung ở xã Tutra huyện Đơn

Dương; xã Phú Hội, xã Đà Loan huyện Đức Trọng và một số ít sống rải rác ở một số xã

thuộc huyện Di Linh. Người Churu nói theo ngữ hệ Mã Lai - Đa đảo. Tuy nhiên, do cư

trú lân cận với người K’ho và giao lưu văn hóa nên có một bộ phận người Churu nói tiếng

K’ho thuộc ngữ hệ Môn-Khơme. Làng Churu là đơn vị hành chính, gồm nhiều nhóm tộc

người cùng cư trú. Dưới làng, là những cộng đồng huyết thống như: đại gia đình, tiểu gia

đình và dòng họ. Gia đình trong xã hội cổ truyền của người Churu là đại gia đình còn

mang nhiều tàn dư của chế độ gia đình mẫu hệ.

Văn hóa kiến trúc: Kiến trúc của người Churu là nhà sàn kết cấu học tập từ các

dân tộc khác, tuy nhiên vẫn còn một số yếu tố truyền thống được duy trì như sàn nhà,

cách khai thác không gian sinh hoạt.

26

Đời sống kinh tế sản xuất, chăn nuôi và nghề thủ công: Dân tộc Churu biết làm

ruộng từ lâu đời và sống định canh định cư, trồng trọt chiếm vị trí hàng đầu trong đời

sống kinh tế và lúa là nguồn lương thực chủ yếu; ngoài ra họ còn trồng thêm ngô, khoai,

sắn và một số loại rau, đậu trên nương rẫy hoặc trong vườn. Vì vậy, trong ba loại hình

trồng trọt chủ yếu thì quan trọng nhất là ruộng, thứ đến là nương rẫy và vườn. Ngoài

nông nghiệp, người Churu còn chăn nuôi: trâu, bò, heo, dê, ngựa và các loại gia cầm

khác như: gà, vịt, ngan, ngỗng... Trâu bò thường dùng làm sức kéo trong nông nghiệp;

ngựa dùng để chuyên chở hàng hóa trao đổi với các dân tộc láng giềng. Trong các loại

gia súc lớn, trâu được nuôi nhiều hơn bò và ngựa. Vì ngoài việc dùng làm sức kéo, trâu

còn được dùng trong các lễ nghi nông nghiệp và tín ngưỡng cổ truyền, cưới xin hoặc

dùng làm vật ngang giá để mua bán và trao đổi trong nội bộ dân tộc, cũng như với các

dân tộc anh em khác. Về nghề thủ công, người Churu đan lát đồ dùng gia đình bằng

mây tre và các công cụ tự rèn khác như liềm, cuốc, nạo cỏ, đồ gốm phục vụ cho sản

xuất nông nghiệp và đời sống hàng ngày. Đặc biệt có nghề làm gốm, một nghề thủ công

truyền thống của đồng bào Churu, tuy nhiên, kỹ thuật chế tác hãy còn rất thô sơ. Nghề

dệt ở đây hầu như không phát triển, vì vậy hầu hết các y phục cổ truyền của họ như:

chăn, áo, khố v.v.... đều phải mua bán trao đổi với các dân tộc láng giềng như người

Mạ, K’ho, Chăm.

Văn hóa ẩm thực: Người Churu có văn hóa ẩm thực khá độc đáo với nhiều món

ăn truyền thống như: Da trâu cà đắng, Canh Pài, Cháo chua, rượu cần …

Văn hóa trang phục: Bộ trang phục truyền thống của người đàn ông Churu có

nền trắng, kể cả tấm choàng buộc chéo từ nách bên này sang nách bên kia, quần dài,

tấm khăn quấn trên đầu cũng màu trắng. Trang phục này chỉ mặc vào các dịp cưới xin,

lễ hội, hay đi đám ma... Còn ngày thường họ ăn mặc đơn giản hơn, quần trắng, áo dài

trắng. Phụ nữ Churu thường mặc áo sơ mi khoác bên ngoài một tấm choàng, Tấm

choàng màu trắng được mặc trong các dịp lễ. Tấm choàng màu đen sử dụng hàng ngày.

Váy thường có màu xanh đen. Điểm dễ nhận ra trong trang phục của dân tộc Churu là

đàn ông và phụ nữ đều sử dụng khăn cuốn đội đầu.

Văn hóa tín ngưỡng, phong tuc tập quán và lễ hội: Người Churu có tín ngưỡng

đa thần. Việc thờ cúng tổ tiên ở đây bắt nguồn từ chỗ họ tín ngưỡng vào sự tồn tại vĩnh

cửu của linh hồn những người đã khuất. Lễ thờ cúng tổ tiên ở đây khác hẳn với lễ thờ

27

cúng tổ tiên ở người Kinh. Việc hành lễ không có một trật tự ngày tháng nào nhất định.

Có thể hai ba năm hoặc hai, ba mươi năm mới cúng một lần, tùy theo hoàn cảnh kinh tế

của mỗi gia đình, dòng họ. Trong nhà của người Churu cũng không có bàn thờ hay bài

vị dành cho những người đã khuất. Họ chỉ làm bàn thờ và tiến hành việc thờ cúng vào

một dịp nào đó ở ngoài nghĩa địa chứ không đem về nhà. Thường ngày, mỗi khi có

người chết họ thường giết trâu, bò để làm lễ cúng.... Đó là một phong tục có từ lâu đời

mà hiện nay còn ảnh hưởng rất sâu đậm trong đời sống tinh thần của người Churu.

Người Churu thực hiện nhiều nghi lễ liên quan đến nông nghiệp như: Cúng thần

đập nước, thần mương nước, cúng thần lúa khi gieo hạt, cúng ăn mừng lúa mới, cúng sau

mùa gặt.... trong các lễ nghi cổ truyền đó, đáng chú ý nhất là lễ cúng thần Bơmung. Đồng

thời với việc cúng Bơmung, cũng vào tháng hai mỗi năm theo phong tục cổ truyền người

Churu thường cúng Yang Wer, Yang Wer là một cây cổ thụ ở gần làng và được dân làng

tin đó là nơi ngự trị của một vị thần có nhiều quyền phép. Dân làng Churu thường làm

những hình nộm như: đầu voi, đầu cọp, đầu dê, đầu trâu... bằng gỗ hoặc bằng củ chuối

cùng với đồ ăn, thức uống mang tới gốc cây Yang Wer để cúng thần.

Đời sống văn học, nghệ thuật dân gian: Kho tàng văn học, nghệ thuật của người

Churu rất phong phú, phần lớn phản ánh chế độ mẫu hệ, đề cao vai trò của người phụ

nữ trong gia đình và trong xã hội cổ truyền; truyện cổ phản ánh cuộc đấu tranh bất khuất

của người dân lao động đối với thiên nhiên, đối với xã hội để dành lại cuộc sống trong

lành và hạnh phúc. Ví dụ như câu chuyện về một em bé mồ côi cha mẹ, lúc đầu sống

cuộc sống nghèo khó, nhưng sau đó được thần giúp đỡ trở lên giầu sang và có cuộc sống

an lành. Có những truyện cổ tích ví von, có nhiều thiên trường ca mà các cụ già làng

thường ngồi bên bếp lửa của nhà sàn kể lại cho con cháu họ nghe một cách rất say sưa,

suốt đêm này qua đêm khác... Về âm nhạc, ngoài trống (sơ gơn), kèn (rơkel), đồng la

(sar) v.v... còn có r'tông, kwao, telia là những nhạc cụ đặc sắc của người Churu. Trong

những ngày vui, họ thường tấu nhạc với điệu Tam-ga, một vũ điệu mang tính cộng đồng

rất điêu luyện, mà hầu như người nào cũng biết và ưa thích.

2.2.3. Dân tộc Mạ

Theo thống kê, hiện nay dân tộc Mạ có gần 33.000 người, cư trú ở hầu khắp các

huyện, thành phố trong tỉnh (Bảo Lộc, Bảo Lâm, Đạ Huoai, Đạ Tẻh, Cát Tiên, Đức Trọng,

Lâm Hà, Đơn Dương, Di Linh).

28

Dân tộc Mạ là một cộng đồng người thống nhất, có một tên gọi chung, một ngôn ngữ

chung và ý thức chung về tộc người Mạ, tự phân biệt mình với các dân tộc láng giềng. Nhưng

trong quá trình tồn tại và phát triển, cộng đồng dân tộc Mạ đã chia các nhóm địa phương như:

Mạ Ngăn, Mạ Xốp, Mạ Tô, Mạ Krung. Người Mạ thuộc ngữ hệ Nam Á, nhóm ngôn ngữ Môn

- Khơme miền núi phía Nam, rất gần gũi với tiếng nói của người M'nông, Churu, Xtiêng, K’h

-là những dân tộc láng giềng gần gũi với họ. Trong từ vựng của ngôn ngữ Mạ, yếu tố Môn -

Khơme trội hơn hẳn so với các dân tộc cùng nhóm ngôn ngữ này cư trú ở Bắc Tây Nguyên

như Ba na, Xơ đăng… làng của gười Mạ thường có quy mô nhỏ bé so với làng của người K’ho

và người Churu trong vùng. Mỗi làng bao gồm vài ba ngôi nhà dài. Đứng đầu làng là chủ làng

hay chủ rừng cùng với các gia trưởng hợp thành bộ máy tự quản của làng truyền thống.

Văn hóa kiến trúc: Nhà dài là hình thái cư trú truyền thống lâu đời của người Mạ,

được xây dựng dựa trên các nguyên vật liệu tự nhiên, mang đặc trưng của người Mạ từ

các bố trí sắp xếp sử dụng nguyên vật liệu và sắp đặt trong nhà.

Đời sống kinh tế sản xuất, chăn nuôi, nghề thủ công: Trong xã hội truyền thống, làm

rẫy là phương thức hoạt động kinh tế chủ yếu của dân tộc Mạ. Phương thức hoạt động kinh

tế này hầu như đã đem lại cho họ toàn bộ nhu cầu về lương thực và phần lớn thực phẩm trong

bữa ăn hàng ngày. Việc chăn nuôi gia súc, gia cầm trong mỗi gia đình người Mạ còn kém

phát triển. Họ thường nuôi lợn, dê, bò, trâu, gà, vịt chủ yếu là để giết thịt trong các lễ hiến

sinh, chứ chưa phải để dùng làm sức kéo trong nông nghiệp như ở vùng K’Ho Srê, vùng

người Lạch và người Churu. Nghề thủ công phổ biến nhất là nghề đan lát những đồ dùng

trong gia đình bằng mây, tre, lá... Nghề dệt vải bằng khung dệt Inđônêdiên còn thô sơ, nhưng

có kỹ thuật dệt khá cao với lối thêu hoa văn trên nền vải khá đặc sắc. Sản phẩm của nghề dệt,

đáp ứng nhu cầu về may mặc y phục truyền thống trong mỗi gia đình. Ngoài ra, nó còn tạo

ra được những tấm vải thổ cẩm với hoa văn trang trí khá tinh xảo và đẹp mắt. Đây là một

trong những nét nổi bật của người Mạ so với các dân tộc láng giềng. Nghề rèn có ở nhiều

nơi, hoạt động lúc nông nhàn. Họ rèn và tu sửa nông cụ, vũ khí truyền thống. Xưa kia, đồng

bào Mạ đã từng có kỹ thuật luyện sắt thép từ quặng ở địa phương. Nhưng về sau, do có sẵn

sắt thép từ việc trao đổi với miền xuôi nên nghề luyện sắt từ quặng bị mai một dần...

Văn hóa trang phục: Có cá tính riêng về tạo hình áo nữ, đặc biệt là phong cách

thẩm mỹ. Mùa làm nông, nhiều người ở trần, mùa rét choàng tấm mền. Có tục cà răng,

căng tai, đeo nhiều vòng trang sức. Nam thường để tóc dài búi sau gáy, ở trần, đóng

29

khố. Khố cũng có nhiều loại khác nhau về kích thước và hoa văn trang trí. Loại khố

trang trọng có đính hạt cườm, tua dài. Bên cạnh đó họ còn mặc áo chui đầu, xẻ tà, vạt

sau dài hơn vạt trước che kín mông. Áo có các loại: dài tay, ngắn tay và cộc tay. Thủ

lĩnh búi tóc cắm lông chim có bộ khiên giáo kèm theo. Phụ nữ để tóc dài búi sau gáy.

Xưa họ ở trần mặc váy, có bộ phận mặc áo chui đầu. Áo nữ mặc vừa sát thân, dài tới

thắt lưng, không xẻ tà, vạt trước và sau áo bằng nhau; cổ áo tròn thấp. Tổng thể áo chỉ

là hình chữ nhật màu trắng. Nửa thân dưới áo trước và sau lưng được trang trí hoa văn

các màu đỏ, xanh là chính, trong bố cục dải băng ngang thân với các mô típ hoa văn

hình học là chủ yếu. Chiều dọc hai bên mép áo được dệt viền các sọc trang trí. Váy là

loại váy hở được dệt trang trí hoa văn với những phong cách bố cục đa dạng. Về cơ bản

là các sọc màu xanh, đỏ, vàng, trắng trên nền chàm, chủ yếu là hoa văn hình học theo

nguyên tắc bố cục dải băng ngang truyền thống. Có trường hợp nửa trên váy dệt trang

trí hoa văn kín trên nền sáng (trắng) với hoa văn hình học màu đỏ xanh. Nam nữ thường

thích mang vòng ở cổ tay có những ngấn khắc chìm - ký hiệu các lễ hiến sinh tế thần

cầu mát cho chủ nhân nó. Nam nữ đều đeo hoa tai cỡ lớn bằng đồng, ngà voi, gỗ; cổ

đeo hạt cườm. Phụ nữ còn mang vòng chân đồng nhiều vòng xoắn.

Văn hóa tín ngưỡng, phong tục, lễ hội: Cũng giống như người K’ho, người Mạ

coi thần Nđu, là vị thần sáng tạo. Nhưng gần gũi và quan trọng hơn hết đối với người

Mạ, vẫn là những vị thần nông nghiệp như: thần lúa, thần rừng, thần núi, thần lửa....

Những lễ nghi cúng kiếng các vị thần nông nghiệp của người Mạ được tiến hành theo

chu kỳ canh tác rẫy hàng năm. Nhưng quan trọng nhất vẫn là lễ cúng vào thời kỳ bắt

đầu gieo hạt gọi là lễ cúng hồn lúa để mong được phong đăng hòa cốc và lễ cúng cơm

mới vào lúc kết thúc mùa thu hoạch lúa trên rẫy hầu tạ ơn các thần linh đã phù hộ cho

họ một vụ gieo trồng trọn vẹn. Để làm vừa lòng các vị thần linh và cầu mong sự nâng

đỡ của các chư thần, ngoài các lễ nghi nông nghiệp người Mạ còn tổ chức hiến sinh vào

các dịp như cưới hỏi, sinh đẻ, làm nhà mới, kết nghĩa anh em, mua sắm tài sản quý

(chiêng, chóe, trâu, bò...). Vào tháng Giêng âm lịch, trước khi chọn rừng làm rẫy, người

Mạ làm lễ cúng thần rừng. Đó là lễ nghi nông nghiệp quan trọng đầu tiên trong hệ thống

lễ nghi nông nghiệp hàng năm theo chu kỳ canh tác nương rẫy của người Mạ. Trước khi

gieo hạt giống, người ta lại làm lễ cúng hồn lúa. Khi lúa trên rẫy ''đến thì con gái '', và

sắp trổ đòng thì làm lễ ăn mừng và tạ ơn thần lúa. Lễ này gọi là lễ Yu tam nơm. Đến

30

khi lúa trổ bông thì làm lễ Yu rmul hay Yu Đụng với vật hiến sinh là lợn hoặc dê và

phải kiêng cữ trong 7 ngày liền. Trong lễ này, người Mạ dựng cây nêu trên đám rẫy của

từng gia đình, nó tượng trưng cho ngôi nhà của hồn lúa. Khi công việc thu hoạch mùa

đã hoàn tất, cây nêu này được đem về nhà cắm vào từng kho thóc của từng gia đình.

Lễ hiến sinh lớn nhất của người Mạ là nghi lễ đâm trâu trong lễ hội mừng lúa mới.

Xưa kia, được tiến hành mỗi năm một lần, những buôn làng gần nhau tụ họp lại cùng tổ chức

lễ, đây là một nghi lễ có từ rất xa xưa trong cộng đồng người Mạ cũng như các đân tộc khác

ở Tây nguyên. Nó không chỉ là một loại hình tín ngưỡng nông nghiệp nguyên thủy, mà lễ hội

đó còn là một sự phản ánh sinh hoạt săn bắn hái lượm tiền nông nghiệp của đồng bào...

Văn học, văn nghệ dân gian: Dân tộc Mạ vẫn còn bảo lưu được một kho tàng

văn học nghệ thuật dân gian rất phong phú. Đàn đá tìm thấy ở vùng người Mạ nay vẫn

còn đang được lưu trữ ở Hoa Kỳ là một loại nhạc cụ tối cổ của nhân loại. Nhiều truyền

thuyết, thần thoại, cổ tích, dân ca, luật tục ca, trường ca vẫn còn được bảo lưu trong dân

gian vùng người Mạ.

Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, cuộc sống đan xen

với người kinh đã ảnh hưởng rất nhiều đến văn hóa văn hoá dân tộc thiểu số của các dân

tộc này. Vẫn còn giữ được truyền thống sinh hoạt theo làng những kiến trúc xây dựng đặc

trưng riêng của từng dân tộc đã thay đổi hoàn toàn, thậm chí có dân tộc kiến trúc nhà dài

đã mất hẳn thay vào đó là kiến trúc bê tông hóa. Hình thái kinh tế sản xuất thay đổi và dẫn

đến hoạt động về đời sống văn hóa xã hội cũng cũng thay đổi theo; các nghề thủ công

truyền thống đang bị mai một như nghề rèn, dệt, đan lát không được chú trọng; các hình

thức sinh hoạt văn hóa - văn nghệ dân gian vắng dần, có chăng chỉ còn lại sinh hoạt cồng

chiêng và vài điệu múa xoang trong những nghi lễ cần thiết. Điều này cũng gióng lên “hồi

chuông cảnh báo” cho chính các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số và các nhà thực hiện

chính sách về dân tộc.

(Hình ảnh minh họa đời sống văn hóa dân tộc Mạ, K’Ho, Chu Ru tại phụ lục 1).

2.3. Chính sách và thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các

dân tộc thiểu số tỉnh Lâm Đồng

2.3.1. Công tác lập kế hoạch thực hiện chính bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc

Triển khai các CS bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc của Đảng và Nhà

nước cho các dân tộc trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng, từ năm 2014 đến nay, với sự tham mưu

31

của nhiều đơn vị chuyên môn và các đơn vị liên ngành, UBND tỉnh Lâm Đồng đã chủ

động xây dựng và ban hành nhiều kế hoạch, quyết định, nghị quyết, chương trình để triển

khai thực hiện. Từ năm 2014 đến năm 2019, bên cạnh các Nghị quyết của Tỉnh ủy đề ra

chủ trương, đường lối về bảo tồn và phát huy BSVH dân tộc, UBND tỉnh và ngành chức

năng cũng ban hành nhiều văn bản pháp lý để triển khai, cụ thể hóa đường lối của các

cấp ủy Đảng về bảo tồn và phát huy BSVH dân tộc (Phụ lục 3).

Ngoài ra, trong các nghị quyết, quyết định, chương trình hành động, nội dung lập

kế hoạch để thực thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH dân tộc cũng được thể hiện

đầy đủ theo lộ trình thời gian và gắn với chức năng nhiệm vụ của từng đơn vị, từng cấp.

Với những kế hoạch mang tính chiến lược, tỉnh Lâm Đồng đã và đang cho thấy vấn đề

thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH dân tộc được thực hiện đầy đủ, phù hợp với chủ

trương, CS của Đảng và Nhà nước.

Tuy nhiên, qua nghiên cứu, khảo sát thực tế bên cạnh những kết quả đạt được tác

giả nhận thấy công tác lập kế hoạch vẫn còn một số hạn chế nhất định như sau:

Thứ nhất: Thiếu đội ngũ cán bộ, chuyên gia am hiểu sâu sắc về đời sống kinh tế

văn hóa xã hội của người DTTS hoặc nếu có thì vai trò cũng mờ nhạt.

Thứ hai: Việc lập kế hoạch không dự báo được những kết quả dự kiến đạt được

mà mới chỉ đưa ra mục tiêu chung, mục tiêu giai đoạn.

Thứ ba: Các nhiệm vụ và giải pháp mang tính chung, có tính chất chỉ đạo điều

hành kể cả phân công nhiệm vụ cho từng đơn vị mà không gắn với kết quả.

Thứ tư: Không thể hiện kinh phí cho từng nhiệm vụ hoặc mục tiêu hoặc giai đoạn.

Do vậy trong quá trình triển khai có thể bị ngưng hoặc trì trệ do vấn đề thiếu kinh phí.

2.3.2. Tuyên truyền, phổ biến về chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc

Trong những năm qua, công tác tuyên truyền, phổ biến về chính bản sắc văn hóa

các DTTS tới cán bộ, đảng viên và người dân được tỉnh Lâm Đồng đặc biệt quan tâm.

Qua đó nhận thức của cán bộ, nhân dân đã có những chuyển biến tích cực góp phần nâng

cao kết quả và hiệu quả công tác bảo tồn văn hóa dân tộc. Báo Lâm Đồng, Đài Phát thanh

và Truyền hình Lâm Đồng và các cơ quan báo chí thường trú trên địa bàn tỉnh… tích cực

tuyên truyền về các chủ trương, kế hoạch của tỉnh về bảo tồn văn hóa; giới thiệu mô hình

bảo tồn hiệu quả, đồng thời phổ biến những kinh nghiệm hay trong thực hiện công tác

bảo tồn và phát huy BSVH dân tộc ở các địa phương.

32

Tại quyết định số 296/QĐ-UBND ngày 22/02/2018 của UBND tỉnh phê duyệt đề án

“Bảo tồn và phát triển không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên các dân tộc tỉnh lâm đồng

đến năm 2020”, tại mục 3, điểm 1 về công tác tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức về

di sản Không gian văn hóa cồng chiêng trên địa bàn tỉnh đã nêu rõ “Nâng cao nhận thức về vị

trí, vai trò của các cấp chính quyền, cộng đồng và chủ nhân di sản văn hóa trong việc gìn giữ,

bảo tồn, khai thác và phát huy có hiệu quả di sản văn hóa phi vật thể Không gian văn hóa cồng

chiêng Tây Nguyên theo cam kết của nước ta với UNESCO. Từng bước khôi phục các giá trị

của Không gian văn hóa cồng chiêng trong đời sống cộng đồng các DTTS Tây Nguyên ở Lâm

Đồng, góp phần phát triển văn hóa - du lịch trong thời kỳ hội nhập”.

Quyết định số 450/QĐ-UBND ngày 06/03/2018 của UBND tỉnh phê duyệt đề án

“Bảo tồn, phát huy BSVH các DTTS, khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống

gắn với hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2018 - 2020 và định hướng

đến năm 2030”, tại mục 4 giải pháp thực hiện, điểm 2. Tuyên truyền giáo dục: Có giải pháp

cụ thể hóa các quy định chung của Nhà nước đến cộng đồng DTTS; đảm bảo rõ ràng, ngắn

gọn, dễ hiểu để mọi người dân dễ dàng tiếp thu và tự giác chấp hành. Gắn lợi ích của người

dân khi tham gia các hoạt động bảo tồn văn hóa để thu hút đông đảo người dân tham gia

lưu giữ di sản văn hóa truyền thống của mình. Tăng cường vận động, tuyên truyền để nâng

cao ý thức tự giác của người dân, gắn với xã hội hóa trong công tác bảo tồn”.

Công tác tuyên truyền về di sản văn hóa phi vật thể của tỉnh cũng được chú trọng

thực hiện thông qua các lễ hội, ngày hội lớn diễn ra trên địa bàn. Thông qua các nguồn

vốn đầu tư chương trình mục tiêu quốc gia về bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật

thể các dân tộc thiểu số; ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lâm Đồng thực hiện Dự án

Phục dựng lễ hội Buk Chu Bur của người Churu tại xã Đà Loan, huyện Đức Trọng; Lễ

Pơthi (bỏ mả) của người Churu và nhóm K’ho ở K’Long - huyện Đức Trọng; lễ Nhô Wèr

của cộng đồng K’ho Srê ở huyện Di Linh; các nghi thức cúng lúa rẫy của người Mạ ở xã

Lộc Bắc, huyện Bảo Lâm; Lễ đưa lúa về kho của dân tộc K’ho ở huyện Lâm Hà; Lễ Sạ

lúa, Lễ bắt chồng, Ngày Hội đoàn kết cội nguồn của dân tộc Churu huyện Đơn Dương,

Lễ cầu mưa của dân tộc K’ho huyện Đam Rông, Lễ mang lúa về kho của người K’ho tại

Đinh Văn huyện Lâm Hà; lễ cưới của người K’ho Cil tại xã Đạ Chais - Lạc Dương…

nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt văn hóa của bà con dân tộc.

33

Về việc tổ chức thực hiện Đề án Khôi phục một số làng nghề truyền thống, làng

văn hóa kiểu mẫu trong vùng đồng bào dân tộc gắn liền với du lịch Lâm Đồng, ngành

Văn hóa tỉnh Lâm Đồng đã triển khai Bảo tồn Làng truyền thống dân tộc Churu tại xã

Proh, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng; phát triển các làng nghề thủ công truyền thống

như dệt vải, đan lát, làm gốm, làm bạc.... Bên cạnh đó, thông qua việc tổ chức các lễ hội,

cũng đã góp phần tích cực trong việc tuyên truyền, quảng bá di sản văn hóa, hình ảnh về

văn hóa, vùng đất và con người Lâm Đồng đến với nhân dân và du khách.

Bên cạnh sự tham gia tích cực của cơ quan chủ thể thực hiện CS về bảo tồn và phát

huy BSVH các DTBD, trong quá trình thực hiện công tác tuyên truyền thực hiện CS trên địa

bàn tỉnh Lâm Đồng còn có sự tham gia tích cực, chủ động của các tổ chức chính trị xã hội

như: Mặt trận Tổ quốc các cấp đã chủ trì, phối hợp với các tổ chức thành viên chỉ đạo các

cấp hội cơ sở tổ chức tốt công tác tuyên truyền, vận động hội viên và toàn dân hưởng ứng,

tham gia các cuộc vận động, các hoạt động sưu tầm, kiểm kê, phục dựng lễ hội, phục dựng

di tích... Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tổ chức thực hiện nhiều các hoạt động để bảo

tồn và phát huy BSVH các dân tộc như: Giai đoạn 2014 - 2020, Sở đã phối hợp với chính

quyền địa phương tổ chức 53 lớp truyền dạy Cồng chiêng thu hút trên 1.400 thanh thiếu niên

là người đồng bào dân tộc thiểu số, nhằm lưu giữ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể; tái

trang bị các nhạc cụ truyền thống, trang phục truyền thống cho một số huyện (18 bộ cồng

chiêng, 12 bộ trang phục dân tộc). Bên cạnh đó, đồng bào dân tộc K’Ho huyện Lạc Dương

đã tự đứng ra thành lập các đội, nhóm cồng chiêng để luyện tập, biểu diễn văn hóa cồng

chiêng phục vụ khách du lịch, việc này vừa giúp tăng thu nhập, cải thiện đời sống kinh tế của

bà con, vừa giúp bà con giữ gìn nét sinh hoạt văn hóa truyền thống của dân tộc mình.

Ngoài ra, các địa phương còn huy động sự tham gia và nhận được sự phối hợp tích

cực của các già làng, trưởng bản, người có uy tín trong công tác sưu tầm, kiểm kê, phục

dựng và truyền dạy các di sản văn hóa phi vật thể. Đặc biệt, hình thức truyền dạy văn

nghệ dân gian mang tính tự phát được phát triển ở các huyện như Lạc Dương, Di Linh,

Đam Rông, Đơn Dương và thành phố Đà Lạt…thu hút đông đảo tầng lớp thanh niên đồng

bào dân tộc thiểu số tham gia.

Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, công tác phổ biến, tuyên truyền CS cho người

dân về bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các DTTS trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng còn

có một số hạn chế: Công tác tuyên truyền chưa thực sự sâu rộng, hình thức tuyên truyền

34

còn đơn điệu, còn mang tính phong trào; Công tác vận động tuyên truyền đã được quan

tâm thực hiện nhưng chưa được thường xuyên phần lớn mới chỉ tâp trung ở những khu

dân cư đông đúc, ở thành phố, thị trấn. Ở những vùng sâu, vùng xa do điều kiện đi lại

khó khăn, công tác tuyên truyền gần như được giao cho cấp xã, cấp xã lại giao cho thôn,

buôn. Điều này làm cho công tác tuyên truyền thiếu hẳn tính đồng bộ và khó kiểm soát,

làm cho công tác bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS khó được kiểm kê, bảo tồn, dẫn

đến tình trạng mai một, biến mất. Bên cạnh đó do tác động mạnh mẽ của sự phát triển

kinh tế, của quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa đã làm thay đổi môi trường của văn

hóa truyền thống; nhiều bản sắc văn hóa dần mai một nên công tác bảo tồn văn hóa truyền

thống ngày càng khó khăn.

2.3.3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy BSVH dân tộc

CS bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS là một CS tương đối rộng bao gồm nhiều

hợp phần CS khác nhau, bên cạnh đó mỗi hợp phần CS lại hướng tới những mục tiêu khác

nhau. Bởi vậy để tổ chức triển khai thực hiện cần có sự tham gia vào cuộc của rất nhiều cơ

quan nhà nước khác nhau từ trung ương đến địa phương. Sự tham gia vào quá trình tổ chức

thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS của các cơ quan nhà nước cần phải được

tổ chức một cách khoa học và hợp lý trên cơ sở tạo ra một cơ chế, cách thức phối hợp đồng

bộ, nhịp nhàng và thống nhất nhằm khai thác được năng lực, sở trường cũng như các điều

kiện vật chất khác của các cấp, các ngành vào quá trình thực hiện CS.

Nhận thức được tầm quan trọng của việc bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS,

trong những năm qua, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Lâm Đồng đã ban hành nhiều Nghị quyết

lãnh đạo, văn bản chỉ đạo điều hành việc thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH các

DTTS trên địa bàn, ưu tiên nguồn lực cho việc nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê các di sản

đang có nguy cơ bị mai một, biến mất. Chỉ đạo các sở, ban, ngành, đoàn thể của tỉnh nâng

cao nhận thức, trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ phát triển văn hóa, bản tồn và phát

huy BSVH dân tộc; đồng thời tổ chức tập huấn và bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ văn

hóa cho đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu văn hóa từ tỉnh tới cơ sở, cụ thể:

Quyết định số 450/QĐ-UBND ngày 06/3/2018 của Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm

Đồng về việc phê duyệt Đề án “Bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa các DTTS, khôi phục

và phát triển các làng nghề truyền thống gắn với hoạt động du lịch trên địa bàn Lâm Đồng

giai đoạn 2018 - 2020 và định hướng đến năm 2030”, phân công nhiệm vụ cho các sở,

35

ban, ngành triển khai thực hiện, cụ thể: Giao Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì

phối hợp với các Sở Tài chính; Sở Kế hoạch và Đầu tư; Sở Công Thương; Sở Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn; Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh, Báo Lâm Đồng; Ủy

ban nhân dân các huyện, thành phố; Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể, các tổ chức xã hội;

Phòng Văn hóa - Thông tin, Trung tâm Văn hóa - Thể thao triển khai thực hiện.

Tại Kế hoạch số 292/KH-UBND ngày 15/01/2019 của UBND tỉnh thực hiện Nghị

quyết số 14-NQ/TU của Tỉnh ủy về phát triển vùng đồng bào DTTS tỉnh Lâm Đồng giai

đoạn 2018 - 2025, định hướng đến năm 2030. Nhiệm vụ về thực hiện bảo tồn văn hóa

dân tộc được giao cho Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch:

“Xây dựng kế hoạch phát triển toàn diện văn hóa DTTS; sưu tầm, giữ gìn, bảo tồn

và phát triển không gian văn hóa đặc trưng của đồng bào DTTS; tôn vinh và phát huy bản

sắc văn hóa, tập quán, tín ngưỡng truyền thống tốt đẹp của đồng bào DTTS; bảo quản,

gìn giữ, bảo tồn di tích lịch sử; khôi phục và phát triển các làng nghề, các trang phục

truyền thống của các DTTS gắn với hoạt động du lịch; xây dựng nếp sống văn minh, bài

trừ mê tín, dị đoan, hủ tục lạc hậu...”.

Như vậy, việc phân công, phối hợp trong tổ chức thực hiện CS bảo tồn, phát huy

BSVH các DTTS ở tỉnh Lâm Đồng được thực hiện theo mô hình cơ cấu tổ chức tương

đối thống nhất từ cấp tỉnh cho đến cấp xã. Sự phân công, phối hợp trên kế hoạch, chương

trình, quyết định đã được thể hiện, tuy nhiên trong quá trình triển khai thực hiện vẫn

còn sức ỳ, và vướng mắc ở một số đơn vị. Do thiếu con người, thiếu kinh phí, và thiếu

sự đồng bộ trong phối hợp triển khai.

2.3.4. Tổ chức thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc

Kế hoạch số 292/KH-UBND ngày 15/01/2019 của UBND tỉnh thực hiện Nghị

quyết số 14-NQ/TU của Tỉnh ủy về phát triển vùng đồng bào DTTS tỉnh Lâm Đồng giai

đoạn 2018 - 2025; Quyết định số 450/QĐ-UBND ngày 06/3/2018 của Ủy ban nhân dân

tỉnh Lâm Đồng việc tổ chức thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS được cụ

thể thành các hoạt động sau:

- Định kỳ hằng năm triển khai công tác tuyên truyền, vận động đồng bào DTTS thực hiện

các chủ trương của Đảng, CS pháp luật của Nhà nước về bảo tồn và phát huy BSVH DTTS. Xây

dựng và xuất bản các ấn phẩm (sách, tranh ảnh, băng đĩa...) làm tài liệu, tư liệu bảo tồn, giới

36

thiệu, quảng bá di sản văn hóa, lễ hội, hoa văn cồng chiêng và các nhạc cụ của các dân tộc Tây

Nguyên đến với các tầng lớp nhân dân trong tỉnh, bạn bè trong nước và quốc tế.

- Thành lập các câu lạc bộ văn hóa, văn nghệ truyền thống để tạo nơi sinh hoạt và

duy trì, bảo tồn giữ gìn bản sắc văn hóa của vùng đồng bào DTTS, hỗ trợ cộng đồng trong

công tác bảo tồn không gian văn hóa truyền thống liên quan đến môi trường sinh hoạt văn

hóa cộng đồng, nghệ thuật diễn xướng; lựa chọn, hỗ trợ bảo tồn, phát triển không gian sinh

hoạt văn hóa truyền thống gắn với môi trường diễn xướng văn hóa cồng chiêng của một số

buôn, làng DTTS.

- Tổ chức kiểm kê, thống kê về số lượng, chất lượng, nguồn gốc, các lễ hội, văn

hóa ẩm thực, văn hóa đời sống sinh hoạt - sản xuất, văn nghệ diễn xướng, chiêng và các

vật dụng. Lập hồ sơ từng từng loại để có phương án quản lý; điều tra nguồn gốc những

văn hóa có nguy cơ mai một.

- Mời các nghệ nhân để tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn, truyền dạy về kỹ

năng xướng âm, tổ chức lễ hội, các nghề thủ công truyền thống, chỉnh chiêng, kỹ thuật

diễn tấu, phong cách trình diễn... nhằm chuyển giao giữa các thế hệ và truyền dạy các kỹ

năng chủ yếu trong bảo tồn văn hóa.

- Tiếp tục duy trì tổ chức có hiệu quả “Ngày hội Văn hóa - Thể thao các xã vùng đồng

bào DTTS Lâm Đồng” ở cấp tỉnh (được luân phiên tổ chức ở các huyện, thành phố) và cấp

huyện cho các DTTS tại chỗ. Tổ chức đưa các đoàn nghệ nhân Mạ, K’ho, Churu tham gia

các hoạt động do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các địa phương ngoài tỉnh tổ chức.

- Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị và xây dựng chương trình, nội dung hoạt

động cho các buôn, làng nhằm khôi phục lại giá trị văn hóa truyền thống.

- Khôi phục và bảo tồn hoa văn trên trang phục, cây nêu, cây nghi lễ, hoa văn trong

trang trí lễ hội, biểu diễn cồng chiêng và nhạc cụ tại các buôn làng có đông đồng bào

DTTS sinh sống. Xây dựng góc văn hóa cồng chiêng tại Bảo tàng tỉnh, phòng truyền

thống, nhà văn hóa, nhà sinh hoạt cộng đồng của các địa phương đảm bảo đủ điều kiện,

nhằm tái hiện, giới thiệu về đời sống sinh hoạt, phong tục tập quán,... của đồng bào dân

tộc gốc Tây Nguyên để phục vụ nhu cầu tham quan, tìm hiểu, góp phần giữ gìn những

giá trị di sản văn hóa của cộng đồng tại chỗ.

37

- Lựa chọn từ 2 - 3 mô hình làng truyền thống gồm: phục dựng không gian văn hóa

vật thể (kiến trúc, nhà ở, trang phục, ẩm thực...), văn hóa phi vật thể (phong tục, tập quán, lễ

hội, các làn điệu dân ca, dân vũ...) để đưa vào khai thác phục vụ phát triển du lịch.

Khâu tổ chức thực hiện CS đã được triển khai thực hiện, tuy nhiên bên cạnh đó

vẫn còn tồn tại những việc chưa thực hiện được. Thiếu đội ngũ cán bộ giỏi chuyên môn,

thiếu chuyên gia, nghệ nhân. Khâu tổ chức mang nặng tính hình thức, thiếu kinh phí đầu

tư cho công tác sưu tầm, biên soạn, phục dựng các lễ hội.

2.3.5. Đội ngũ thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng, đơn vị được giao chủ trì triển khai thực

hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở cấp tỉnh là Sở Văn hóa,

Thể thao và Du lịch, ở cấp huyện là Phòng Văn hóa và Thông tin các huyện, thành phố.

Bên canh đó, còn có sự phối hợp của các cơ quan, ban, ngành cấp tỉnh và cấp huyện cùng

triển khai nhiệm vụ.

Theo thống kê năm 2019, tổng biên chế hiện có của Sở Văn hóa, Thể thao và Du

lịch là 44 người với 09 thạc sĩ chuyên ngành (trong đó chỉ có Phòng Quản lý Văn hóa với

11 biên chế - là bộ phận tham mưu trực tiếp triển khai thực hiện chính sách); Phòng Văn

hóa và Thông tin cấp huyện có tổng là 65 người (bình quân khoảng 05 người/01 huyện)

với 12 người là thạc sĩ.

Bảng 1: Thống kê đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác văn hóa

Tổng số Người STT Đơn vị Nam Nữ CBCC dân tộc

Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch 1 44 20 01 24

2 Thành phố Đà Lạt 10 07 03

3 Huyện Lạc Dương 04 05 01 01

4 Huyện Lâm Hà 04 02 02

5 Huyện Đơn Dương 05 03 01 02

6 Huyện Đức Trọng 05 03 02

7 Huyện Di Linh 05 02 03

8 Huyện Đam Rông 05 03 01 02

9 Huyện Đạ Hoai 05 03 02

38

10 Huyện Đạ Tẻh 05 01 04

11 Huyện Cát Tiên 05 04 01

12 Huyện Bảo Lâm 05 03 02 01

13 Thành phố Bảo Lộc 08 03 05

(Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lâm Đồng)

Về cơ bản, đội ngũ cán bộ công chức làm công tác văn hóa đã triển khai tốt nhiệm

vụ chuyên môn, công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong những năm

gần đây có nhiều chuyển biến tích cực.

Tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số hạn chế như: Chất lượng cán bộ, công chức, viên

chức trực tiếp tham mưu thi hành CS về bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS thực sự

chưa am hiểu sâu về lĩnh vực phụ trách; số lượng cán bộ, công chức là người dân tộc

thiểu số chiếm tỷ lệ thấp, dẫn đến công tác thực địa gặp nhiều khó khăn, khả năng vận

động quần chúng tham gia vào các hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn

hóa tiêu biểu của các dân tộc chưa thực sự hiệu quả. Bên cạnh đó, Lâm Đồng là địa bàn

rộng, khoảng cách di chuyển từ trung tâm vào vị trí các buôn, làng xa xôi, đường đi lại

khó khăn, do đó trong quá trình tuyên truyền, tổ chức thực hiện CS gặp nhiều khó khăn.

2.3.6. Kinh phí cho việc hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc

Căn cứ vào các kế hoạch, quyết định, chương trình, nghị quyết của tỉnh, ngân sách

chi cho việc triển khai các CS về bảo tồn phát huy văn hóa văn hoá dân tộc thiểu số được

cụ thể hằng năm. Về cơ bản, kinh phí của tỉnh chi cho các hoạt động tổ chức thực hiện

CS về bảo tồn phát huy văn hóa DTTS đã đáp ứng được yêu cầu. Hàng năm, ngân sách

tỉnh và huyện đều dành nguồn kinh phí nhất định cho công tác bảo tồn và phát huy BSVH

các DTTS (bình quân 1,5 tỷ đồng/01 năm), tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế nhất định:

- Kinh phí đầu tư cho công tác sưu tầm, phục dựng bảo tồn và phát huy các giá

trị di sản văn hóa phi vật thể các dân tộc từ ngân sách của tỉnh còn hạn hẹp, chưa đáp

ứng được so với nhu cầu thực tế, giá cả thị trường hiện nay.

- CS tôn vinh nghệ nhân có công nắm giữ, truyền dạy giá trị di sản văn hóa phi

vật thể còn thấp nên không thực sự tác động được đến những người có nguồn tư liệu

quý sẽ sẵn sàng truyền dạy lại cho thế hệ trẻ.

- Kinh phí mới chỉ quan tâm mở các lớp truyền dạy cồng chiêng mà chưa mở các

lớp mang loại hình di sản văn hóa phi vật thể khác

39

- Công tác đãi ngộ cho đội ngũ làm công tác bảo tồn chưa được quan tâm đúng

mức, công tác đào tạo chuyên sâu cho đội ngũ làm công tác bảo tồn chưa được thực

hiện một cách đồng bộ.

2.3.7. Giám sát, kiểm tra việc thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH dân tộc

Theo dõi, giám sát, kiểm tra, đôn đốc là một nhiệm vụ quan trọng trong quá trình

thực hiện CS nhằm giải quyết với những vấn đề phát sinh ảnh hưởng đến việc thực hiện

các mục tiêu CS.

Để CS bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa các DTTS tỉnh Lâm Đồng mang lại kết

quả, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh thực tế của địa phương, trong những năm qua

cấp ủy và chính quyền địa phương từ tỉnh đến cơ sở của tỉnh Lâm Đồng đã tích cực thực

hiện công tác kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện CS ở địa phương mình. Ủy ban nhân

dân tỉnh đã giao Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành các kế hoạch kiểm tra, giám

sát, đánh giá việc thực hiện công tác bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa trên địa bàn tỉnh,

đồng thời đôn đốc, chỉ đạo các ban, ngành, đoàn thể của địa phương tích cực tham gia

vào công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá quá trình thực hiện CS. Các kế hoạch kiểm tra

giám sát tập trung vào những nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất: Công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện CS của địa phương bao gồm: Công

tác chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền đối với công tác bảo tồn phát huy bản sắc văn hóa,

các biện pháp tổ chức điều hành, công tác xây dựng và triển khai kế hoạch, xác định

trọng tâm, trọng điểm trong thực hiện CS.

Thứ hai: Công tác sưu tầm, kiểm kê và phục dựng di sản văn hóa vật thể, di sản

văn hóa phi vật thể hàng năm.

Thứ ba: Kết quả thực hiện các CS, dự án bảo tồn phát huy bản sắc văn hóa các

DTTS trên địa bàn.

Về phương thức kiểm tra, giám sát được thực hiện dựa trên những phương thức

cơ bản sau: Nghe địa phương báo cáo kết quả thực hiện công tác bảo tồn phát huy bản

sắc văn hóa hàng năm và kết quả thực hiện công tác kiểm kê, sưu tầm di sản; Kiểm tra

các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của địa phương về thực hiện công tác bảo tồn phát huy

bản sắc văn hóa, kiểm tra hồ sơ quản lý văn hóa; kiểm tra thực tế tại một số địa phương.

Theo số liệu của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, toàn tỉnh có 84 lễ hội truyền

thống của đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có 55 lễ hội đang duy trì thường xuyên.

40

Qua kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện, vẫn còn những hạn chế trong quá trình tổ

chức triển khai thực hiện CS, như:

- Công tác lập kế hoạch thực hiện CS về bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc văn

hoá dân tộc thiểu số chưa được thống nhất và cụ thể hóa ở các cấp (tỉnh, huyện, xã);

việc bố trí con người thực hiện một số nội dung chưa phù hợp.

- Công tác tuyên truyền về CS: Phương thức triển khai công tác tuyên truyền

chưa phong phú, chưa thường xuyên; thông tin chưa sâu, rộng đến người dân, làng,

thôn, buôn, ngoài việc tuyên truyền bằng ngôn ngữ, các hoạt động lễ hội, giao lưu, còn

chưa thể hiện nhiều trên các hình thức như Pano, ấn phẩm. Chế độ đãi ngộ cho cán bộ,

viên chức, chuyên gia không đáp ứng được với thực tế.

- Tổ chức thực hiện: Chưa phát huy được vai trò của cấp ủy Đảng trong việc lãnh

đạo. Công tác phối hợp còn thiếu chủ động, chưa kịp thời, nhất là trong các nội dung

liên quan đến kinh phí thực hiện.

- Công tác đào tạo bồi dưỡng: Kể cả cán bộ, chuyên viên và những người được

thụ hưởng CS chưa được triển khai cụ thể, còn mang tính hình thức dẫn đến việc hướng

dẫn phục dựng các hoạt động về văn hóa nghệ thuật, lễ hội còn lúng túng và còn có tình

trạng “đụng đâu gỡ đó”; chưa huy động được chuyên gia, nghệ nhân cùng thực hiện

việc triển khai CS.

- Công tác đánh giá, báo cáo về việc triển khai CS bảo tồn phát huy BSVH các

DTTS chưa sát với tình hình thực tế triển khai.

2.3.8. Thực trạng sơ kết, tổng kết thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH DTTS

Căn cứ vào kế hoạch công tác, theo từng chương trình hành động, quyết định, nghị

quyết, định kỳ tỉnh Lâm Đồng tổ chức các buổi hội thảo, sơ kết, tổng kết để nghiên cứu,

đánh giá để điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung công tác thực hiện CS bảo tồn và phát huy bản

sắc văn hóa dân tộc trên địa bàn tỉnh, cụ thể:

- Năm 2014: Tổ chức Hội thảo “Bảo tồn và phát triển hoa văn trang trí các DTTS

tỉnh Lâm Đồng đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH vùng đồng bào dân tộc hiện nay”.

- Năm 2015: Tổ chức Hội thảo “Di sản văn hóa phi vật thể - sử thi Tây Nguyên”.

- Năm 2018: Tổ chức Hội thảo khoa học “Nâng cao vai trò, hiệu quả quản lý Nhà

nước về xây dựng, bảo tồn và phát triển văn hóa cơ sở”.

41

- Năm 2019: Tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp khôi phục và bảo tồn các giá

trị truyền thống văn hóa của các DTTS tại Lâm Đồng”; Hội thảo về xây dựng và phát

triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước (Nghị

quyết số 33-NQ/TW); Hội nghị tổng kết đánh giá 10 năm thực hiện Kế hoạch số

2016/KH-UBND ngày 06/4/2010 của UBND tỉnh Lâm Đồng về Triển khai thực hiện

“Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020” trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng.

Thông qua các hội thảo, hội nghị này, việc thực hiện CS về bảo tồn và phát huy

BSVH các DTTS được nhìn nhận, đánh giá một cách nghiêm túc khách quan. Đồng thời

đã tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện, có được kinh nghiệm

cho những kế hoạch tiếp theo.

Các hội nghị, hội thảo, sơ kết tổng kết cũng là dịp để những đối tượng thụ hưởng

CS thể hiện tiếng nói của mình trong việc tiếp nhận các CS.

2.4. Đánh giá việc thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH DTTS tỉnh Lâm Đồng

2.4.1. Những kết quả đạt được

Lâm Đồng đã xác định bảo tồn, phát huy BSVH các DTTS là một bộ phận cấu

thành nền văn hóa Lâm Đồng phong phú và đa dạng. Tỉnh đã và đang dành nhiều sự quan

tâm, nỗ lực bảo tồn các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể tốt đẹp của các dân tộc, đồng

thời hướng tới xây dựng đời sống văn hoá, môi trường văn hoá mới. Công tác bảo tồn,

phát huy các giá trị văn hoá đã từng bước được quan tâm. Nhiều di tích, văn hoá, tín

ngưỡng được đầu tư kinh phí trùng tu, phục dựng và tôn tạo. Các giá trị văn hoá tinh thần,

phi vật thể được lưu giữ và phát huy. UBND tỉnh đã xây dựng, ban hành “Quy định về

quản lý, bảo vệ, đầu tư khai thác di tích, danh lam thắng cảnh tỉnh Lâm Đồng”, tạo điều

kiện cho thực hiện bảo tồn, phát huy BSVH dân tộc. Công tác bảo tồn và phát huy di sản

văn hóa các dân tộc tỉnh Lâm Đồng trong thời gian qua đã thực sự có những chuyển biến

mạnh mẽ cả về lượng và chất. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tích cực triển khai các

chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về di sản văn hóa đến cơ sở.

Về DSVH phi vật thể, trong những năm qua tỉnh Lâm Đồng đã thực hiện có hiệu

quả Đề án Bảo tồn và phát huy không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên ở Lâm Đồng

(ban hành kèm theo Quyết định số 1583/QĐ - UBND ngày 9/7/2009); đã triển khai được

nhiều hoạt động: Mở 53 lớp truyền dạy cồng chiêng ở các địa phương có đông người Mạ,

người K’ho và người Churu sinh sống (mỗi lớp có từ 20 - 25 học viên và 04 nghệ nhân

42

tham gia truyền dạy); trang bị 18 bộ cồng chiêng truyền thống, hỗ trợ trang phục biểu

diễn, khuyến khích tự tổ chức các hoạt động biểu diễn cồng chiêng tại các huyện có điều

kiện duy trì phát triển (Di Linh, Đam Rông, Đức Trọng, Đạ Huoai, Lạc Dương, Đơn

Dương…); hàng năm tổ chức các hoạt động Lễ hội, Liên hoan, Ngày hội văn hóa cồng

chiêng gắn với hoạt động tôn vinh các nghệ nhân ưu tú.… Qua đó góp phần tạo môi

trường sinh hoạt văn hóa mới để phát huy giá trị của di sản, giúp cho đồng bào DTTS

hiểu thêm về giá trị của văn hóa truyền thống, quan tâm đến VHTT của dân tộc mình.

Ngoài ra, còn tổ chức 02 mô hình bảo tồn văn hóa cồng chiêng tại cơ sở theo hướng kết

hợp hình thành các sản phẩm du lịch gắn với phát triển kinh tế vùng đồng bào DTTS.

Việc sưu tầm, bảo tồn, phát huy những giá trị VHTT của các DTTS được tăng

cường. Thông qua các nguồn vốn đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia, tỉnh Lâm Đồng

đã thực hiện có kết quả các dự án: Sưu tầm nghề thủ công truyền thống của người K’ho,

Mạ; kiểm kê DSVH cồng chiêng; kiểm kê hệ thống DSVH tại các địa phương có người

Mạ, K’ho và Churu sinh sống, công nhận DSVH phi vật thể địa phương; phát triển các

làng nghề thủ công truyền thống như dệt vải, đan lát, làm gốm, làm bạc….

Các giá trị văn hóa của các dân tộc đã được chú trọng giữ gìn, phát huy; văn hóa

phi vật thể của các dân tộc như: các loại hình nghệ thuật âm nhạc, ca múa, lễ hội, nghệ

thuật nấu ăn, sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ, y học dân tộc… được khôi phục; công tác

bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc được gắn liền với xây dựng đời sống văn hóa

mới, bài trừ các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan. Trên cơ sở khảo sát, kế thừa và từ sự đồng

thuận của đồng bào, tỉnh Lâm Đồng đã thúc đẩy việc khôi phục một số lễ hội truyền thống

của đồng bào K’ho - dân tộc thiểu số đông dân nhất ở Lâm Đồng, như: Lễ Nhô wèr (cúng

ruộng hàng năm của người K’ho nhóm Srê), lễ Nhô R’he (cúng sau thu hoạch lúa mùa

của người Mạ), lễ Pơthi (lễ bỏ mả của người Churu), Lễ hội Bok Chu bur (của người

Churu ở Đức Trọng)….

Có thể nói, trong thời gian vừa qua, tỉnh Lâm Đồng đã rất chú trọng, quan tâm tới

công tác bảo tồn, phát huy BSVH các DTTS và đã đạt được những thành tựu đáng trân

trọng. Tuy nhiên, cũng như các địa phương khác trên cả nước, Lâm Đồng còn rất nhiều

khó khăn trong quá trình bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS với thực trạng nguy cơ

thất truyền, mai một của nhiều loại hình DSVH phi vật thể, việc phát huy giá trị các lễ

hội truyền thống còn nhiều hạn chế; việc sưu tầm, bảo tồn và phát huy các DSVH phi vật

43

thể chưa tương xứng với tiềm năng hiện có; nguồn kinh phí, ngân sách, phương tiện, con

người cần đầu tư, bố trí cho lĩnh vực này còn khó khăn.

2.4.2. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

2.4.2.1. Tồn tại

Bên cạnh những kết quả đã đạt được trong công tác bảo tồn và phát huy BSVH

các DTTS trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua vẫn còn những tồn tại:

- Việc xây dựng và đề ra các chương trình, quy hoạch, kế hoạch và các giải pháp

của tỉnh Lâm Đồng là phù hợp với thực tiễn và yêu cầu của việc bảo tồn và phát huy

BSVH các DTTS của địa phương. Tuy nhiên, các CS đó chưa được cụ thể hóa dẫn đến

tình trạng lúng túng khi triển khai ở cơ sở làm cho CS triển khai thiếu hiệu quả.

- Ban hành CS chưa thực sự quan tâm đến các nguồn lực về tài chính, nguồn

nhân lực, dẫn đến tình trạng các chương trình, đề án triển khai cầm chừng, kéo dài, chưa

mang lại hiệu ứng cao trong xã hội.

- Chủ trương về công tác vận động xã hội hóa cho việc bảo tồn phát huy BSVH

các DTBD chưa được quan tâm đúng mức. Do vậy, việc quan tâm, ủng hộ của cộng

đồng về BSVH các DTTS còn dừng lại ở mức nhận thức chưa đầy đủ giá trị cao đẹp,

tầm ảnh hưởng của BSVH các DTTS đối với xã hội, nên chưa có một hoạt động nào

mang tính chất xã hội hóa cao.

2.4.2.2. Hạn chế

- Việc phát huy giá trị BSVH các DTTS trong các lễ hội truyền thống còn nhiều

hạn chế. Trong đó điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật, chất lượng cán bộ, các cơ chế CS

về lĩnh vực quản lý BSVH các DTTS chưa thể chưa đáp ứng kịp thời.

- Thiếu đội ngũ chuyên gia xây dựng mô hình bảo tồn BSVH các DTTS. Công tác

quảng bá hình ảnh về BSVH các DTTS Lâm Đồng và gắn kết các DSVH với hoạt động

du lịch, tham quan vẫn còn hạn chế.

- Nhận thức của các cấp, các ngành và toàn xã hội về vai trò, ý nghĩa của việc bảo

tồn và phát huy BSVH các DTTS đã được nâng cao nhưng chưa sâu sắc, chưa toàn diện

và chưa được cụ thể hóa bằng các biện pháp, kế hoạch, chương trình thực hiện.

- Chưa thực hiện được việc xây dựng đề án và quy hoạch, lựa chọn những giá trị

BSVH các DTTS tiêu biểu của các dân tộc để ưu tiên đầu tư nghiên cứu phục dựng bảo

tồn trong nhân dân.

44

- Công tác xã hội hóa trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị BSVH các DTTS

các dân tộc Lâm Đồng còn thiếu định hướng, thiếu những CS, chế tài cụ thể để khuyến

khích, kêu gọi sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân. Nguồn lực do nhân dân đóng góp

chưa được quy tụ dưới sự quản lý của cơ quan nhà nước một cách chặt chẽ nên không được

sử dụng hiệu quả.

- Công tác tuyên truyền về BSVH các DTTS chưa được chú trọng, chưa có sự kết

hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp trong tổ chức khai thác du lịch gắn với giá trị BSVH

các DTTS tiêu biểu.

- Năng lực tham mưu của đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa cơ sở đã có những

chuyển biến, góp phần giữ gìn và phát huy giá trị BSVH các DTTS của tỉnh. Tuy nhiên,

vẫn tồn tại nhiều hạn chế như: Trình độ chuyên môn nghiệp vụ chưa cao, khả năng vận

động quần chúng tham gia vào các hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị BSVH các DTTS

chưa thực sự hiệu quả.

- Kinh phí đầu tư cho công tác sưu tầm, phục dựng bảo tồn và phát huy các giá trị

BSVH các DTTS từ ngân sách của tỉnh còn hạn hẹp, chưa đáp ứng được so với nhu cầu

thực tế hiện nay. CS tôn vinh, đãi ngộ nghệ nhân có công nắm giữ, truyền dạy và phát

huy giá trị BSVH các DTTS trên địa bàn tỉnh chưa phù hợp.

2.4.2.3. Nguyên nhân

Dựa vào thực trạng về thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS có thể

nêu ra một số nguyên nhân sau:

a) Nguyên nhân khách quan: Đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân

tộc ở nhiều nơi còn nghèo, khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa. Họ đang phải chật vật lo

cho đời sống và những sinh hoạt căn bản, dẫn đến việc chăm lo cho đời sống tinh thần và

bản sắc văn hoá bị lãng quên. Sự xâm nhập của nền văn hóa bên ngoài từ nhiều luồng đã

tấn công vào nền văn hóa dân tộc vốn đã yếu sức đề kháng. Lứa tuổi thanh niên chưa ý

thức đầy đủ về nền văn hóa dân tộc của mình nên dễ tiếp thu văn hóa bên ngoài không có

sự chọn lọc, có xu hướng vọng ngoại, quay lưng lại với những sinh hoạt văn hóa dân tộc.

Việc kế thừa, phát huy nền văn hóa của các dân tộc thiểu số trong tỉnh mặc dù đã có nhiều

cố gắng nhưng vẫn chưa đạt được kết quả như mong muốn, thế hệ trẻ là đối tượng tiếp

nối, gìn giữ và phát huy bản sắc đã và đang bị ảnh hưởng văn hóa ngoại lai, dần phai nhạt

nét văn hóa đặc trưng, đặc sắc của dân tộc mình.

45

b) Nguyên nhân chủ quan

- Công tác quản lý còn bộc lộ nhiều yếu kém, thiếu những giải pháp khả thi, chưa

có được những mô hình, những phương thức tổ chức sinh hoạt văn hóa thực sự hiệu quả

ở cơ sở. Các sinh hoạt lễ hội, văn nghệ dân gian nhiều lúc còn mang tính hình thức và

việc biến nó thành những sinh hoạt bổ ích, lành mạnh có tính thường xuyên và tính xã

hội còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng trong khâu tổ chức. Thiếu những công trình nghiên

cứu khoa học mang tính ứng dụng thực tiễn cho các mục tiêu giữ gìn và phát huy vốn văn

hóa, văn nghệ dân gian vào đời sống xã hội.

- Nguồn kinh phí, ngân sách, phương tiện, con người cần đầu tư, bố trí cho lĩnh

vực này còn ít và khó khăn, đặc biệt là sự thiếu hụt lực lượng cán bộ làm công tác văn

hóa là người các dân tộc thiểu số ở địa phương.

- Trong thời gian dài một số cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương chưa nhận thức

đầy đủ vai trò của công tác bảo tồn văn hóa dân tộc, chưa chú trọng và có biện pháp chỉ

đạo tích cực, hữu hiệu cho việc bảo tồn, phát huy nền văn hóa truyền thống, chính những

người đang thực thi nhiệm vụ chưa biết phải làm gì và làm như thế nào để gìn giữ, bảo tồn

và phát huy bản sắc văn hóa. Việc tuyên truyền, giáo dục và vận động quần chúng tham

gia giữ gìn văn hóa dân tộc chưa được tiến hành thường xuyên và sâu rộng đến các tầng

lớp dân cư trên toàn tỉnh.

2.4.3. Những vấn đề đặt ra khi thực hiện hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc

văn hóa các dân tộc thiểu số tỉnh Lâm Đồng trong bối cảnh hiện nay

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, không ít quốc gia trên thế giới đã phải trả giá cho

việc quá chú trọng phát triển kinh tế mà coi nhẹ văn hóa, quá quan tâm nhu cầu phát triển

hiện tại mà lãng quên đi VHTT, DSVH, BSVH dân tộc. Bảo vệ và phát huy BSVHDT là

một nhiệm vụ cụ thể đặt ra trong việc xây dựng và phát triển đời sống văn hóa, giữ gìn

truyền thống văn hóa tốt đẹp của mỗi dân tộc.

Có rất nhiều nhà nghiên cứu khoa học, các học giả, những người tâm huyết quan

tâm đến văn hóa dân tộc văn hoá DTTS đã công bố nhiều công trình nghiên cứu khoa

học, sách, tạp chí nói về vấn đề bảo tồn và phát huy văn hóa DTTS. Tuy nhiên, đặt bên

cạnh sự phát triển của nền kinh tế thị trường, của xã hội thời đại đang tác động lên cộng

đồng dân cư các DTTS thì những hoạt động này còn chưa phát huy được hiệu quả, thiếu

46

sức ảnh hưởng và lan tỏa. Đây không chỉ là vấn đề đáng lo ngại của tỉnh Lâm Đồng mà

nó là vấn đề của cả quốc gia.

Lâm Đồng là một tỉnh với nhiều dân tộc đến sinh sống và làm việc, địa bàn lãnh

thổ rộng, việc triển khai CS về bảo tồn văn hóa các DTTS sẽ đặt ra những vấn đề sau:

- Nếu thực hiện không quyết liệt các CS về bảo tồn, phát huy BSVH các DTTS thì

chỉ trong khoảng 20-30 năm nữa BSVH DTTS sẽ bị mai một dần và biến mất.

- Nguồn kinh phí để thực hiện CS về bảo tồn, phát huy BSVHDT nếu không được

đảm bảo và tăng cường sẽ kéo theo nhiều vấn đề khác không thực hiện được hoặc thực

hiện mang tính hình thức.

- Đội ngũ cán bộ quản lý, chuyên viên, chuyên gia am hiểu chuyên sâu về công

tác này ngày càng ít; số lượng nghệ nhân ngày càng hiếm và khó khăn trong đào tạo được

thế hệ kế cận.

- Bản thân các DTTS được thụ hưởng CS nếu không có năng lực tiếp nhận hoặc

nhận thức không đúng vấn đề sẽ rất khó khăn trong việc thực hiện CS.

Tiểu kết Chương 2

Chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước được cụ thể hóa thành các văn bản

và triển khai thực hiện đi vào thực tiễn cuộc sống là cả một cả một quá trình lâu dài, đòi

hỏi sự gắn kết, phối hợp của nhiều cơ quan, ban ngành chức năng, nhiều người, nhiều

công sức và tiền bạc mới đảm bảo thực hiện được mục tiêu.

Qua chương 2 này, tác giả đã giới thiệu về 3 DTTS tại Lâm Đồng. Đây là những

DTTS có nhiều giá trị văn hóa nổi trội, đồng thời lưu giữ được nhiều giá trị văn hóa đặc

sắc cho đến ngày nay, trong đó có những giá trị văn hóa được công nhận trên toàn thế

giới (không gian văn hóa cồng chiêng).

Với chương 2 này, tác giả cũng đã có những tổng hợp, phân tích số liệu, đánh giá

về công tác lập kế hoạch; tổ chức tuyên truyền; phân công phối hợp; tổ chức thực hiện;

đội ngũ thực hiện; kinh phí thực hiện; công tác giám sát kiểm tra; đánh giá tổng kết nhằm

làm rõ thực trạng của việc thực hiện CS bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS ở Lâm

Đồng.

Từ những thực trạng trên, chương 2 là cơ sở để đưa ra những quan điểm và giải

pháp của chương 3 và những kiến nghị đề xuất.

47

CHƯƠNG 3

GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THỰC HIỆN TỐT CHÍNH SÁCH BẢO TỒN

VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LÂM ĐỒNG

3.1. Quan điểm, định hướng thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn

hóa của các dân tộc thiểu số

3.1.1. Về quan điểm

Bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS là nhiệm vụ chiến lược mang tính lâu dài,

là trách nhiệm của toàn xã hội, có sự kết hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, trung

ương và địa phương, giữa người dân với các đoàn thể, tổ chức xã hội. Trong đó, Nhà

nước đóng vai trò hỗ trợ, tác động tạo điều kiện, môi trường thuận lợi, phù hợp để bảo

tồn, phát triển văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam.

Bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS gắn với phát triển kinh tế - xã hội trên địa

bàn, ở địa phương phải đảm bảo mối quan hệ hài hòa giữa phát triển văn hóa và kinh tế,

hài hòa giữa bảo tồn, phát huy và phát triển.

Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-

NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về công tác dân tộc trong tình

hình mới đã nêu rõ quan điểm:

“- Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo và nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các

cấp uỷ, tổ chức đảng về công tác dân tộc, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và

miền núi trong tình hình mới. Kiên trì thực hiện các quan điểm của Đảng về công tác dân

tộc trong Nghị quyết 24 và các nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, XI, XII;

xác định công tác dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, cấp bách; là nhiệm vụ của

toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của hệ thống chính trị.

- Hoàn thiện hệ thống CS, pháp luật liên quan đến đồng bào dân tộc thiểu số. Các

CS phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng vùng dân tộc miền núi phải toàn diện,

hướng đến mục tiêu phát triển bền vững và phát huy lợi thế, tiềm năng của vùng và tinh

thần tự lực của đồng bào dân tộc thiểu số.

- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi;

tăng cường đồng thuận xã hội; củng cố lòng tin của đồng bào với Đảng và Nhà nước,

phát huy nội lực, vượt qua khó khăn, thách thức, hoà nhập phát triển cùng với đất nước.

48

- Giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá tốt đẹp của các dân tộc. Tập trung giải quyết

có hiệu quả những vấn đề bức thiết. Rà soát, lồng ghép, sửa đổi, bổ sung CS; nâng cao

hiệu quả các chương trình, dự án; tăng cường hợp tác quốc tế, đa dạng hoá và xã hội hoá

nguồn lực để đầu tư phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

- Nâng cao mức hưởng thụ văn hoá của người dân. Đầu tư xây dựng hệ thống thiết

chế văn hoá cơ sở ở từng vùng, từng địa phương; quan tâm tu bổ, bảo tồn các công trình

di tích lịch sử, văn hoá; sưu tầm, bảo tồn và phát huy có hiệu quả giá trị văn hoá vật thể

và phi vật thể của các dân tộc thiểu số. Phát huy vai trò làm chủ của đồng bào trong xây

dựng đời sống văn hoá, xoá bỏ các hủ tục lạc hậu. Có biện pháp quyết liệt để xoá bỏ tình

trạng tảo hôn, chấm dứt sớm hôn nhân cận huyết thống”.

Hội nghị sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành

Trung ương Đảng khoá XI về xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp

ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Bộ Chính trị tiếp tục đưa ra quan điểm, mục

tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đã nêu trong Nghị quyết. Đồng thời, chú trọng quan tâm

những nội dung sau:

“- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quán triệt,

nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò của

văn hoá trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xác định rõ xây dựng và phát triển

văn hoá, con người là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của cả hệ thống chính trị. Văn

hoá là hồn cốt của dân tộc, là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội

sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục

tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chú trọng tính đặc thù của văn

hoá, vừa bảo đảm để văn hoá, văn học, nghệ thuật phát triển đúng định hướng chính trị,

tư tưởng của Đảng, vừa bảo đảm tự do sáng tạo của cá nhân trên cơ sở phát huy tính tự

giác cao với mục đích đúng đắn.

- Tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động văn hoá. Xử lý hài hoà

giữa bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá các dân tộc với các hoạt động phát triển

kinh tế, du lịch bền vững ở các địa phương, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước và con

người Việt Nam”.

49

Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 của quốc hội Việt Nam phê duyệt

đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai

đoạn 2021-2030, đưa ra quan điểm:

“- Rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống CS, pháp luật liên quan đến đồng

bào dân tộc thiểu số và miền núi. Các CS phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh

vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi phải toàn diện, hướng đến mục tiêu phát triển

bền vững và phát huy lợi thế, tiềm năng của vùng và tinh thần tự lực của đồng bào dân

tộc thiểu số. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền

núi; tăng cường đồng thuận xã hội; phát huy nội lực, vượt qua khó khăn, thách thức, hòa

nhập phát triển cùng với đất nước; củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và lòng tin của

đồng bào với Đảng và Nhà nước;

- Phát huy mọi nguồn lực, khai thác tiềm năng, lợi thế để phát triển vùng đồng bào

dân tộc thiểu số và miền núi; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc.

Tập trung giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức thiết; thúc đẩy đào tạo nghề, giải

quyết việc làm. Lồng ghép, bảo đảm bình đẳng giới trong quá trình xây dựng và tổ chức

thực hiện Đề án”.

Quan điểm của tỉnh Lâm Đồng được thể hiện rõ tại Nghị quyết số 14/NQ-TU ngày

10/08/2018 của Tỉnh ủy Lâm Đồng về phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn

2018-2025, định hướng đến năm 2025 nêu rõ:

“- Công tác dân tộc là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, quan trọng cần phải

tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị . Thực hiện

nhất quán quan điểm của Đảng: Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau

cùng phát triển.

- Xác định rõ các nguồn lực đầu tư, nội dung đầu tư để phát triển toàn diện kinh tế

- văn hóa - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số …”

Quyết định số 450/QĐ-UBND ngày 06/03/2018 của UBND tỉnh Lâm Đồng về

việc phê duyệt Đề án “Bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa các DTTS, khôi phục và phát

triển các làng nghề truyền thống gắn với hoạt động du lịch trên địa bàn lâm đồng giai

đoạn 2018 - 2020 và định hướng đến năm 2030”, nêu rõ quan điểm:

“- Bảo tồn, phát huy những loại hình di sản văn hóa của đồng bào DTTS có giá trị

tiêu biểu, đặc sắc.

50

- Đảm bảo được tính cộng đồng và huy động được sự tham gia tự nguyện của chủ

nhân di sản nhằm tạo ra môi trường văn hóa vừa truyền thống vừa hiện đại; duy trì được

khả năng tái tạo, tái hiện và tiếp biến của loại hình di sản với những tác động ngày càng

nhanh và mạnh của cuộc sống hiện đại.

- Đầu tư bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS tỉnh Lâm Đồng nhằm tạo ra phương

thức, biện pháp bảo tồn và phát huy, phát triển di sản văn hóa gắn với hoạt động của các

làng nghề truyền thống, khai thác du lịch, góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập cho cư

dân tại địa phương. Hạn chế các tác động tiêu cực đến sự tồn tại của các loại hình di sản,

nâng cao nhận thức, ý thức của người dân về giá trị của các loại hình văn hóa truyền

thống”.

Tại Kế hoạch số 292/KH-UBND ngày 15/01/2019 của UBND tỉnh Lâm Đồng thực

hiện Nghị quyết số 14-NQ/TU của Tỉnh ủy về phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh

Lâm Đồng giai đoạn 2018 - 2025, định hướng đến năm 2030 đã khẳng định: “Thực hiện tốt

các CS hỗ trợ, khuyến khích giữ gìn, bảo tồn, tôn vinh và phát huy BSVH, ngôn ngữ, chữ

viết, tập quán, tín ngưỡng truyền thống tốt đẹp của đồng bào DTTS; xây dựng hệ thống thiết

chế văn hóa gắn với việc bảo quản, gìn giữ, bảo tồn di tích, bản sắc văn hóa ở từng vùng,

từng địa phương; xây dựng nếp sống văn minh; tổ chức các hoạt động quảng bá, giới thiệu

các lễ hội truyền thống, văn hóa đặc trưng của các dân tộc thiểu số trong tỉnh”.

Với những quan điểm như trên, có thể nói vấn đề thực hiện CS bảo tồn, phát huy

bản sắc văn hóa dân tộc luôn được các cấp Đảng và chính quyền quan tâm và chú trọng.

3.1.2. Về định hướng

Trong thời gian qua, các cơ quan quản lý nhà nước đã thực hiện nhiều nghiên cứu,

đánh giá và tiến hành nhiều hoạt động nhằm bảo tồn, phát huy văn hóa các DTTS tại Lâm

Đồng. Tỉnh cũng đang có những CS, biện pháp tích cực để khôi phục, giữ gìn văn hoá

DTTS. Tuy nhiên việc bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS vẫn còn đặt ra nhiều vấn đề

cấp bách, đòi hỏi phải có những định hướng thiết thực, cụ thể:

- Giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá của các DTTS nghĩa là phải làm cho các

giá trị VHTT của đồng bào trở thành tài sản chung của cả dân tộc. Việc bảo tồn, phát huy

giá trị văn hóa DTTS phải gắn với mục tiêu chung là xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm

đà bản sắc văn hoá dân tộc, xoá bỏ hủ tục mê tín dị đoan, chú trọng xây dựng nếp sống

văn hóa cho đồng bào nhất là vùng sâu vùng xa.

51

- Các hoạt động liên quan đến bảo tồn, phát huy BSVH DTTS phải được thực hiện

thường xuyên, liên tục, thiết thực, hiệu quả, gắn với phát triển kinh tế để góp phần vào

sự phát triển toàn diện kinh tế - văn hóa – xã hội của các vùng đồng bào DTTS.

- Cần bám sát và nghiêm túc triển khai thực hiện kịp thời, hiệu quả nội dung Kết

luận số 332-KL/TU ngày 26/4/2018 của Tỉnh ủy về Kết luận Hội nghị tổng kết 15 năm

thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 12/3/2018 của Ban Chấp hành Trung ương

Đảng (khóa IX) về công tác dân tộc; Nghị quyết số 14-NQ/TU ngày 08/10/2018 của Tỉnh

ủy về phát triển vùng đồng bào DTTS tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2018 - 2025 và định

hướng đến năm 2030 đến toàn thể cán bộ, công chức, viên chức; góp phần tạo sự thống

nhất, đồng thuận cao trong hệ thống chính trị và toàn xã hội.

- Xác định rõ nhiệm vụ, trách nhiệm của từng sở, ban, ngành và Ủy ban nhân dân các

huyện, thành phố để tập trung chỉ đạo, tổ chức thực hiện hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ

đã được phê duyệt tại Nghị quyết, quyết định, kế hoạch và chương trình hành động.

- Phát huy văn hóa truyền thống các DTTS, làng nghề truyền thống phục vụ phát

triển du lịch là cần thiết và phù hợp với quy hoạch phát triển du lịch của tỉnh; đồng thời

thực hiện tốt các nhiệm vụ, chỉ tiêu về văn hóa, du lịch mà Nghị quyết của các cấp ủy

đảng, chương trình, kế hoạch của tỉnh đã đề ra.

3.2. Giải pháp

Từ những quan điểm, định hướng như trên, để thực hiện tốt CS bảo tồn và phát

huy BSVH các DTTS tại tỉnh Lâm Đồng trong thời gian tới. Tác giả đưa ra các nhóm giải

pháp như sau:

3.2.1. Nhóm giải pháp cần thực hiện ngay

3.2.1.1. Thực hiện tốt công tác chỉ đạo, điều hành trong triển khai chính sách bảo tồn và

phát huy BSVH các DTTS tại tỉnh Lâm Đồng.

Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành về văn hóa và thực hiện

nhiệm vụ bảo tồn và phát huy BSVH các DTTS trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng. Đưa mục

tiêu, nhiệm vụ bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số vào

nghị quyết của các cấp ủy Đảng, kế hoạch của chính quyền các cấp.

Đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, góp phần nâng cao nhận thức

của các cấp, các ngành, đoàn thể và người dân về nhiệm vụ bảo tồn phát huy văn hóa dân

tộc văn hoá dân tộc thiểu số nói riêng.

52

Tổ chức điều tra, sắp xếp, lưu trữ, phân loại đánh giá thực trạng văn hóa DTTS,

trên cơ sở đó xây dựng các đề án, kế hoạch, chiến lược để triển khai chính sách bảo tồn

phát huy BSVH các DTTS.

Phối hợp chặt chẽ với các đơn vị chức năng liên quan trong tổ chức hoạt động

thanh tra, kiểm tra; tổng kết đánh giá các hoạt động triển khai thực hiện chính sách; các

hoạt động kinh doanh liên quan đến sản phẩm văn hóa.

3.2.1.2. Xây dựng các chương trình hành động cụ thể đối với bảo tồn và phát huy bản sắc

văn hóa các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số.

Phối hợp với các đơn vị liên quan, các chuyên gia, nghệ nhân, già làng, trưởng bản

tiến hành kiểm kê, phân loại, đánh giá các loại hình văn hóa DTTS để xem loại hình nào

đã biến mất hoặc có nguy cơ mai một, loại hình nào đang tồn tại và tồn tại như thế nào

để có kế hoạch phục dựng, bảo tồn và phát huy.

Khôi phục và duy trì và các lễ hội truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa của các

dân tộc trên địa bàn tỉnh. Tổ chức các lễ hội thành hoạt động văn hóa thường niên, lồng

ghép kết hợp với việc tuyên truyền chính sách về bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa

các dân tộc; phối hợp với các công ty du lịch, dịch vụ để tuyên truyền những giá trị văn

hóa đặc sắc của các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng đến mọi

du khách trong và ngoài nước.

Lựa chọn xây dựng các khu trình diễn nghệ thuật mang đậm bản sắc văn hóa của

các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số kết hợp với việc giới thiệu các sản phẩm thủ công,

mỹ nghệ truyền thống của các dân tộc phục vụ cho các hoạt động du lịch.

3.2.1.3. Giải pháp về đầu tư nguồn lực tài chính và xã hội hóa chính sách bảo tồn và phát

huy bản sắc văn hóa các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số tại tỉnh Lâm Đồng

Cần xác định rõ đầu tư nguồn lực cho văn hóa nói chung và bảo tồn phát huy bản

sắc văn hóa các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số nói riêng là đầu tư cho sự phát triển bền

vững, để làm được điều này chúng tôi đề xuất những nội dung sau:

- Xây dựng kế hoạch và lộ trình kinh phí đầu tư cho công tác bảo tồn và phát huy

văn hóa dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số từ nguồn chi thường xuyên và nguồn chi phát

triển trong ngân sách nhà nước. Có chính sách kết hợp các nguồn ngân sách từ trung ương

đến địa phương, nguồn thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia về văn hoá, các dự

án nghiên cứu bảo tồn bản sắc văn hoá….

53

- Đẩy mạnh công tác xã hội hóa, huy động nguồn lực thực hiện có hiệu quả công

tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số. Vận động

xây dựng cộng đồng trách nhiệm giữa các tầng lớp nhân dân với các cơ quan nhà nước,

mở rộng nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng về nhân lực, vật lực và tài lực trong xã

hội tham gia vào sự nghiệp bảo vệ, phát huy các di sản văn hóa theo phương châm nhà

nước và nhân dân cùng làm. Xã hội hóa sẽ góp phần giảm bớt cho nhà nước những gánh

nặng về tài chính, khai thác tiềm lực của toàn xã hội và tạo điều kiện cho nhà nước đầu

tư các công trình trọng điểm.

- Xây dựng cơ chế, khuyến khích xã hội hóa hoạt động bảo tồn bản sắc văn hóa

dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số: cần bổ sung các quy định cụ thể về ưu đãi đầu tư, hỗ

trợ, giảm hoặc miễn thuế cho các hoạt động được thực hiện từ các nguồn kinh phí ngoài

ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật về thuế. Khuyến khích xây dựng các bảo

tàng tư nhân, điểm lưu trữ văn hóa vật thể và hướng dẫn hoạt động trong khuôn khổ của

pháp luật, phù hợp với truyền thống văn hóa, thuần phong mỹ tục của các dân tộc văn

hoá dân tộc thiểu số. Trong quá trình xã hội hóa, Nhà nước cần giữ vai trò chủ đạo trong

việc định hướng cho các hoạt động văn hóa phát triển (định hướng chứ không làm thay,

nhất là không “khoán trắng” cho cộng đồng), đồng thời cần tăng cường đầu tư và tài trợ

cho các hoạt động văn hóa để thực hiện có hiệu quả chủ trương xã hội hóa các hoạt động

văn hóa nói chung và hoạt động bảo tồn văn hóa nói riêng.

3.2.1.4. Xây dựng cơ chế phối hợp trong hoạch định, xây dựng, triển khai chính sách bảo

tồn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số

Trong quá trình triển khai thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn

hóa các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số tỉnh Lâm Đồng cần thiết phải xây dựng cơ chế

phối hợp trong quá trình hoạch định, xây dựng chính sách. Cần sự phối hợp chặt chẽ giữa

nhà khoa học, nhà nghiên cứu về văn hóa các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số tỉnh Lâm

Đồng với nhà quản lý và những người làm công tác văn hóa trong khâu hoạch định và

ban hành chính sách, trong thực thi và đánh giá chính sách. Đồng thời phải thực hiện

phân công nhiệm vụ giữa các đơn vị trong hoạch định, xây dựng chính sách phải thực sự

khoa học, tránh chồng chéo, trùng lặp giữa quyền hạn và lợi ích. Cơ chế phối hợp giữa

các bên cần chặt chẽ, đặc biệt trong việc chia sẻ, trao đổi, công khai thông tin. Xây dựng

đội ngũ cán bộ, công chức có năng lực, trình độ và sự trong sạch để thực hiện chính sách

54

đề ra. Để làm được điều này cần tăng cường công tác bồi dưỡng, đào tạo kiến thức dân

tộc, văn hóa dân tộc, tiếng dân tộc và kỹ năng làm việc với vùng đồng bào dân tộc thiểu

số cho đội ngũ làm công tác dân tộc, văn hóa và quản lý thực hiện chính sách. Có như

vậy thì các chủ trương, chính sách mới được tuyên truyền, phổ biến thực hiện có hiệu quả

và đúng mục tiêu.

Trong quá trình hoạch định, xây dựng chính sách, cần có sự phối hợp đồng bộ

trong việc nghiên cứu lập hồ sơ những giá trị văn hóa dân gian, những nghi lễ truyền

thống …để truyền lại cho các thế hệ sau, không để mai một, thất truyền các giá trị nguyên

gốc bằng các hình thức như: nghiên cứu, sưu tầm biên tập xuất bản thành sách, in ấn

thành băng, đĩa, hình...

3.2.1.5. Vinh danh, đãi ngộ xứng đáng những người có công, những người có uy tín trong

bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số, tạo điều kiện

để họ phát huy sở trường, năng lực

Quan tâm đến các già làng, người có uy tín trong cộng đồng dân cư, các nghệ nhân

là những người nắm giữ những tinh hoa văn hóa nghệ thuật truyền thống, giữ hồn cốt văn

hóa dân tộc. Nghiên cứu, xây dựng, ban hành các cơ chế, chính sách đối với các nghệ

nhân, già làng, những người gìn giữ các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc K’ho,

Mạ, Churu để tôn vinh, khuyến khích, động viên, nâng cao vai trò trách nhiệm, sự tận

tâm của họ đối với công việc được đảm nhiệm. Phong tặng danh hiệu, tặng bằng khen,

giấy khen, vinh danh, khuyến khích họ tâm huyết, nỗ lực đóng góp nhiều hơn nữa cho sự

nghiệp bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa; đồng thời tạo mọi điều kiện thuận lợi để họ

phát huy sở trường, năng lực của mình.

Có giải pháp hỗ trợ về mặt kinh tế, hỗ trợ về mặt sản xuất để ổn định cuộc sống,

kinh tế phát triển để họ toàn tâm, toàn ý truyền dạy những giá trị văn hóa của dân tộc,

những kinh nghiệm quý báu của bản thân cho thế hệ trẻ, mang lại lợi ích thiết thực cho

cộng đồng.

Tổ chức cho các già làng, trưởng bản và các nghệ nhân là tham gia đào tạo, huấn

luyện giúp cho thế hệ trẻ nhận thức đầy đủ về ý nghĩa và giá trị của văn hoá truyền thống dân

tộc K’ho, Mạ, Churu về phong tục tập quán, trang phục, lễ hội, văn hóa ẩm thực đời sống.

3.2.1.6. Khuyến khích sự tham gia của cộng đồng, phát huy vai trò của thế hệ trẻ vào

công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số.

55

Xây dựng cơ chế, chính sách tạo điều kiện để cộng đồng tham gia vào công tác

bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc thiểu số, đặc biệt chú trọng đến

những người dân được trực tiếp tham gia vào các hoạt động bản tồn và phát huy bản sắc

văn hóa dân tộc với những lợi ích thiết thực.

Huy động nguồn lực trong cộng đồng dân cư, các tổ chức, các cá nhân, doanh

nghiệp nhất là nhân dân địa phương để tôn tạo, tu bổ, sửa chữa các giá trị văn hóa truyền

thống; vận động các doanh nghiệp địa phương tham gia hỗ trợ thực hiện công tác bảo tồn

và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Đối với những doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đóng

góp tích cực đối với công tác bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống cần có hình

thức khen thưởng, động viên xứng đáng.

Phát huy vai trò của thế hệ trẻ vào công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa

các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số:

- Giáo dục lòng tự hào dân tộc, tự hào về văn hóa tộc người ngay từ cấp học tiểu

học, để giữ gìn, phát huy vốn văn hóa quý báu của cha ông, tránh tư tưởng học đòi, lai

căng làm băng hoại những giá trị mang bản sắc văn hóa dân tộc mình. Đưa các chương

trình giới thiệu giá trị văn hóa tộc người vào trong trường học, giáo dục các em học sinh

sự tôn trọng và tự hào về văn hóa dân tộc.

- Tổ chức tuyên truyền, biểu diễn trên các phương tiện thông tin đại chúng ở các

trường học từ phổ thông để nâng cao trình độ nhận thức của thế hệ trẻ về di sản văn hóa

dân tộc.

- Tổ chức dạy tiếng dân tộc cho con em các dân tộc để người nào cũng nói, viết

được tiếng dân tộc mình. Ngôn ngữ dân tộc là phương tiện hữu hiệu nhất để lưu giữ văn

hóa tộc người. Đồng thời, dạy tiếng dân tộc cho cán bộ, công chức đang công tác tại địa

phương để xoá khoảng cách ngôn ngữ, một trở ngại lớn trong việc tiếp cận và bảo tồn

văn hóa của đồng bào.

- Tổ chức các lớp học về nghề thủ công truyền thống của các dân tộc; các lớp về

trình diễn, diễn xướng văn hóa dân gian cho thế hệ trẻ.

3.2.2. Nhóm giải pháp dài hạn

3.2.2.1. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa

các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số trong mọi tầng lớp nhân dân bằng nhiều hình thức:

56

Phổ biến kịp thời các văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành trên các

phương tiện thông tin đại chúng đến với đông đảo nhân dân.

Tổ chức hướng dẫn các địa phương, đơn vị đã tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về di sản

văn hóa dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số, các cuộc thi trên sóng truyền hình, truyền thanh.

Tăng cường xuất bản các ấn phẩm về văn hóa dân tộc bản dịa, các chính sách, các

văn bản hướng dẫn thi hành để gửi các địa phương.

3.2.2.2. Đẩy mạnh phát triển du lịch gắn với thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy bản

sắc văn hóa các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số.

Mở rộng tuyên truyền đến khách du lịch trong và ngoài nước trên hệ thống phát

thanh, truyền hình, báo chí, ấn phẩm văn hoá, website... giúp họ hiểu được văn hoá của

đồng bào nói chung và văn hoá di sản văn hóa dân tộc K’ho, Mạ, Churu nói riêng. Qua

đó, kích thích sự tìm tòi, nghiên cứu và huy động kiến thức của du khách về văn hóa.

Kêu gọi sự đóng góp tri thức của các nhà nghiên cứu, tranh thủ sự đầu tư hỗ trợ

của các cá nhân về di sản văn hóa dân tộc. Ứng dụng công nghệ thông tin trong phát triển

du lịch trực tuyến. Hoàn chỉnh các trang website về du lịch, cập nhật thông tin và kịp thời

cung cấp cho trang website về du lịch của tỉnh. Xây dựng phiên bản các trang website du

lịch sử dụng ngôn ngữ các nước có nhiều du khách hoặc có tiềm năng du lịch lớn như

tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng Nhật, tiếng Nga, tiếng Pháp.

Chú trọng thực hiện định hướng và các giải pháp để hình thành và phát triển văn

hóa truyền thống, lấy các giá trị văn hóa truyền thống để phát triển du lịch, là sản phẩm

du lịch độc đáo và hấp dẫn; đồng thời, lấy hoạt động phục vụ du lịch để bảo tồn và phát

huy văn hóa truyền thống là một trong những giải pháp hữu hiệu để khôi phục, bảo tồn

và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống.

Khôi phục, gìn giữ di sản văn hóa gắn với việc xúc tiến đầu tư, phát triển du lịch,

hình thành, phát triển các dịch vụ và tiêu thụ sản phẩm “độc đáo” của bà con người dân

tộc (phục dựng các lễ hội có tính cộng đồng cao như lễ hội mừng lúa mới; phục dựng các

làng nghề truyền thống, tiếp tục phát triển văn hóa cồng chiêng…). Định hình, xây dựng

các tuyến du lịch văn hóa, du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, tìm hiểu về các giá trị văn

hóa vật thể, phi vật thể của dân tộc K’ho, Churu, Mạ. Để làm được điều này cần có sự

định hướng, chỉ đạo của các cơ quan quản lý nhà nước từ tỉnh đến huyện đến cơ sở, liên

kết với các công ty du lịch để hợp tác đầu tư phát triển du lịch.

57

Phát huy giá trị các làng nghề truyền thống phục vụ cho du lịch phát triển như:

nghề dệt thổ cẩm, nghề làm rượu cần, làm trang sức... Những làng nghề thủ công này là

một thực thể sống động, tạo nên nét đặc trưng văn hóa, đồng thời đem lại nguồn lợi về

kinh tế. Do đó, ngoài việc tỉnh cần có chính sách hỗ trợ vốn cho phát triển làng nghề thì

cần tập trung hình thành những tuyến tham quan hợp lý, tổ chức các hoạt động triển lãm

trong khu vực sản xuất để mọi người tận mắt thấy thao tác trình diễn và mua sản phẩm.

Nên duy trì các triển lãm thành tựu phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh kết hợp giới thiệu

làng nghề truyền thống để phổ biến, quảng bá sản phẩm thủ công mỹ nghệ, tìm cách khôi

phục, phát triển các nghề thủ công truyền thống để thu hút thêm khách du lịch.

Có các chính sách liên kết, phát triển giữa các vùng có đồng bào dân tộc thiểu số

sinh sống, mở rộng hợp tác giữa các địa phương trong việc nghiên cứu thị trường, quảng

bá xúc tiến du lịch, hình thành các tuyến du lịch xuyên vùng, tam giác du lịch, vừa phát

huy được các giá trị văn hóa truyền thống, vừa có nguồn thu để bảo tồn, phát huy các giá

trị văn hóa vật thể và phi vật thể của các dân tộc; đồng thời trao đổi học hỏi kinh nghiệm

bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống của các dân tộc với nhau.

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch, đặc biệt là lực lượng hướng dẫn viên

tại chỗ, có kiến thức, am hiểu về phong tục tập quán và biết tiếng dân tộc của đồng bào

để phục vụ du khách. Đầu tư nguồn nhân lực ở tất cả các lĩnh vực du lịch: lữ hành, khách

sạn, nhà hàng, hướng dẫn viên, thuyết minh viên, vận chuyển, khu điểm du lịch, cán bộ

quản lý nhà nước ở các cấp; rà soát đánh giá số lượng và chất lượng nguồn nhân lực để

xây dựng định hướng và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho phù hợp.

3.2.2.3. Xây dựng nguồn nhân lực tăng hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa dân tộc,

bảo tồn và phát huy các bản sắc văn hóa các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số.

Nâng cao trình độ mọi mặt của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa các cấp.

Sử dụng và bố trí hợp lý đội ngũ cán bộ hiện có; quy hoạch nguồn nhân lực và thực hiện

chương trình đào tạo lớp cán bộ đủ phẩm chất và năng lực đảm đương công việc trong

những năm tới, cụ thể là:

- Xây dựng tiêu chuẩn và cơ chế lựa chọn, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý trong

lĩnh vực văn hoá có đủ năng lực, trình độ và phẩm chất để đảm bảo thực hiện tốt nhiệm

vụ được giao. Ưu tiên việc đào tạo và sử dụng đội ngũ cán bộ văn hoá là người dân tộc

thiểu số, có chế độ ưu đãi để thu hút họ trở về công tác ở địa phương.

58

- Tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ văn hóa cấp xã, phường,

phụ trách nhà văn hóa, điểm văn hóa, chủ nhiệm các câu lạc bộ văn hóa nghệ thuật, đội

trưởng các đội văn nghệ quần chúng.

- Mở các lớp tập huấn bồi dưỡng kiến thức làm du lịch cộng đồng tại các buôn,

làng có tiềm năng phát triển du lịch; hướng dẫn cho người dân làm quen với việc giới

thiệu, bảo vệ, khai thác, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc mình.

- Có sự phối hợp, thống nhất cao giữa các cơ quan, ban, ngành có liên quan của

tỉnh với Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố, cấp uỷ và chính quyền, nhân dân các địa

phương trong tỉnh để triển khai thực hiện các chính sách về bảo tồn và phát huy giá trị

văn hóa.

3.2.2.4. Nâng cao trình độ dân trí cho người đồng bào dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số

Phát triển giáo dục đào tạo để không ngừng nâng cao trình độ học vấn, trình độ

dân trí, trình độ thẩm mỹ của người dân các dân tộc, đồng thời đào tạo đội ngũ tri thức

tại chỗ cho đồng bào. Đây là giải pháp cực kỳ quan trọng nếu không muốn nói là quan

trọng nhất. Bởi lẽ, khi nói tới bảo tồn, phát huy, phát triển văn hóa vốn có của họ, chủ thể

không ai khác chính là con người ấy có ý thức. Không nhận thức đúng, không hiểu được

cái độc đáo của bản sắc văn hoá dân tộc mình thì hành động sẽ không đi theo đúng hướng.

Vận động con em người dân tộc đến trường, tuyên truyền cho những hộ dân và con em

của họ ý thức vai trò của việc học. Đồng thời, trong giáo dục cần đặc biệt chú ý đến việc

giáo dục, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, đặc biệt là tiếng mẹ đẻ. Trình độ dân trí được

cải thiện sẽ góp phần nâng cao đời sống vật chất cho người dân, khuyến khích làm giàu,

xóa đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm; chăm sóc sức khỏe, hỗ trợ an sinh xã hội và

kế hoạch hóa gia đình.

3.2.2.5. Hoàn thiện thể chế chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc văn

hoá dân tộc thiểu số.

Thiết lập cơ chế văn hoá cơ sở đủ hiệu lực và tính khả thi, đặc biệt là ở vùng sâu

vùng xa, nhằm thực hiện tốt, biến giá trị di sản văn hóa các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu

số tỉnh Lâm Đồng thành tài sản của cộng đồng.

Xây dựng các khu bảo tồn bản sắc văn hóa các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số

như làng văn hóa dân tộc, làng nghề truyền thống dân tộc, những lễ nghi cúng các vị thần

nông nghiệp của người Mạ, lễ hiến sinh của người Mạ, khôi phục nghề luyện sắt thép.

59

Đánh thức lại tâm linh cộng đồng, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc mình.

Đặc biệt chú trọng đặc trưng kiến trúc, vị trí, nghi lễ tín ngưỡng để thắp sáng di sản văn

hóa dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số tỉnh Lâm Đồng….

Ban hành chính sách hỗ trợ đầu tư xây dựng các buôn, làng du lịch cộng đồng;

chính sách hỗ trợ đầu tư khôi phục một số làng nghề truyền thống; chính sách hỗ trợ để

duy trì các hoạt động của các đội văn nghệ, các lễ hội và tuyên truyền, quảng bá các sản

phẩm văn hoá, nghệ thuật tiêu biểu.

Xây dựng Đề án quy hoạch tổng thể công tác bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống

các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số tỉnh Lâm Đồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm

2050 gắn với các quy hoạch, dự án phát triển kinh tế, xã hội của địa phương.

Ban hành Quy định về quản lý và phát huy giá trị di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh;

xây dựng các đề án mới về bảo tồn các di sản văn hóa… Ngoài các giá trị văn hóa phi vật

thể, cần lưu giữ một cách khoa học, có hệ thống các giá trị văn hóa vật thể như: nhà sàn,

hiện vật, cổ vật của người dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số, tránh hư hại, mất mát.

Tổ chức đánh giá những cơ chế, chính sách, những quy chế của địa phương đã

ban hành, kịp thời điều chỉnh, bổ sung, khắc phục những bất cập, hạn chế trong quá trình

thực thi chính sách, bảo đảm sát với tình hình thực tiễn của địa phương.

3.2.2.6. Thúc đẩy phát triển kinh tế, tăng tích lũy tạo điều kiện tăng đầu tư cho việc giữ

gìn và phát huy giá trị bản sắc văn hóa các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số tỉnh Lâm

Đồng

Tập trung phát triển kinh tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số, giảm tỷ lệ hộ nghèo;

đảm bảo cho người dân có cuộc sống cơ bản, vì kinh tế người dân ổn định mới có điều

kiện để tập trung phát huy bản sắc văn hóa dân tộc vốn có.

Quy hoạch, sắp xếp ổn định dân cư, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế -

xã hội đồng bộ, liên vùng, kết nối với các vùng phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống của

nhân dân. Phát triển toàn diện giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa; nâng cao chất lượng cán

bộ, công chức, viên chức, người lao động là người dân tộc thiểu số. Xóa bỏ phong tục tập

quán lạc hậu đi đôi với giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc. Xây

dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã

hội và an ninh biên giới quốc gia.

Củng cố tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc, nâng cao niềm tin của đồng

60

bào các dân tộc đối với Đảng và Nhà nước.

Tiếp tục triển khai có hiệu quả trương trình xây dựng nông thôn mới, chương trình

giảm nghèo bền vững; hỗ trợ về vật lực và khoa học kỹ thuật để người dân nâng cao sản

xuất. Giải quyết tình trạng thiếu đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt.

Tiểu kết Chương 3

Cùng với sự phát triển của xã hội, bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số cũng có

những sự thay đổi theo, đây chính là quy luật tất yếu của sự vận động và phát triển của

xã hội loài người. Chúng ta không chạy theo để níu giữ cái cũ mà đang hướng đến sự vận

hành trong hoàn cảnh hiện tại. Tuy nhiên, từ cái nhìn thực tế, văn hóa của các dân tộc văn

hoá dân tộc thiểu số đã và đang chịu tác động của nhiều yếu tố, điều này làm cho bản sắc

ngày càng mai một dần.

Để bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số tỉnh Lâm Đồng, trong

chương 3 tác giả đã đề xuất 12 giải pháp và chia thành hai nhóm: Nhóm giải pháp cần

thực hiện ngay và nhóm giải pháp lâu dài. Những giải pháp của tác giả đề ra sẽ góp phần

khắc phục những hạn chế của những chính sách đã được ban hành, nhằm thực hiện đạt

mục tiêu: giữ nguyên vẹn không gian văn hóa, đời sống sinh hoạt của cộng đồng các dân

tộc thiểu số tỉnh Lâm Đồng với các giá trị văn hóa đặc sắc. Để các giá trị văn hóa này

thực sự tồn tại trong đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số và trở thành một nguồn

lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương đòi hỏi phải có những chính sách

khả thi, đồng bộ, hợp lý và có sự phát triển mới về quy mô cũng như chiều sâu. Các chính

sách đúng đắn, hợp lòng dân, được toàn dân, các cấp, các ngành tham gia hưởng ứng là

cơ sở để đảm bảo sự thành công của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời, tạo

nên sự gắn kết của khối đại đoàn kết dân tộc.

61

PHẦN KẾT LUẬN

Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số ở Lâm Đồng là một vấn

đề lớn ảnh hưởng đến việc phát triển kinh tế, bình ổn xã hội ở tỉnh Lâm Đồng. Mặc dù

đã đạt được những kết quả nhất định trong điều kiện đất nước ta hiện nay, vấn đề trên

vẫn phải tiếp tục đặt ra để giải quyết với nhiều các tiếp cận và giải pháp khác nhau. Từ

định hướng lý luận ở chương 1 về vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc, thực trạng về thực hiện

chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số ở Lâm Đồng trong

chương 2, luận văn đã đề xuất một số giải pháp mang tính cấp bách và chiến lược lâu dài.

Việc thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số đạt

hiệu quả đến đâu và mức độ nào còn phụ thuộc vào vai trò của các nhà quản lý thực thi

chính sách, các tổ chức chính trị xã hội, của các nhà khoa học và đặc biệt là ý thức tự bảo

tồn và phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số.

Đã có rất nhiều học giả, các nhà nghiên cứu, các cơ quan quản lý nhà nước đổ

nhiều tâm huyết và công sức nỗ lực vào việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân

tộc thiểu số ở Lâm Đồng. Tuy nhiên chưa có công trình, đề án nào nói về thực hiện chính

sách và đưa ra giải pháp về thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân

tộc thiểu số tại Lâm Đồng. Với luận văn này, tác giả hy vọng sẽ có một sự đóng góp nhất

định cho việc thực hiện chính sách về bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc

thiểu số tại tỉnh Lâm Đồng trong những năm tới./.

62

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê Minh An, (2005), “Tìm hiểu sự ảnh hưởng của công giáo đối với văn hóa văn hoá dân tộc thiểu số ở Lâm Đồng”, Kỷ yếu hội nghị Khoa học Sau Đại học - Khoa học Xã hội và Nhân văn 10-2005.

2. Đỗ Ngọc Anh, (2014), “Tri thức văn hoá dân tộc thiểu số của người Mạ Lâm Đồng trong lao động sản xuất”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 359 (5), tr 31- 36.

3. Trần Văn Bính (chủ biên), (2004), “Văn hóa các dân tộc Tây Nguyên: Thực trạng và những vấn đề đặt ra”, Nxb Chính trị Quốc gia.

4. Hoàng Phê (chủ biên), (2005), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Hồng Đức.

5. Lê Hồng Phong, K’cheoh, (1999), “Các thể loại văn vần dân gian các DTBD Lâm Đồng”

6. Cao Xuân Phổ, (2006), “Bàn về văn hóa văn hoá dân tộc thiểu số”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á số 1 (76), tr 58-63.

7. Hồ Chí Minh toàn tập, TIII, NXB Chính trị quốc gia, H, 1995 tr, 431

8. Hoàng Sơn (chủ biên), (2011), “Người Churu ở Lâm Đồng”, Nxb Đại học Quốc gia.

9 Nguyễn Tấn Tài, (1993), “Cư dân văn hoá dân tộc thiểu số ở Đà Lạt”, Tóm tắt Báo cáo Khoa học tại Hội nghị khoa học Trường Đại học Đà Lạt 1993, tr17.

10. Lê Ngọc Thắng, (2013) “Với vấn đề bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các DTTS”, Tạp chí Dân tộc và Thời đại số 159, tr17-19

11. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục, 1999, tr10

12. Sở Văn hóa Thông tin Lâm Đồng, (2005), “Vài nét văn hóa các DTTS Tây Nguyên ở Lâm Đồng”.

13. Viện Dân tộc học, (2008) “Sổ tay về các dân tộc ở Việt Nam”.

63

PHỤ LỤC 1

(Văn hóa vật thể và phi vật thể các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số tỉnh Lâm Đồng)

Hình 1: Nhà dài của người K’ho

Hình 2: Trang phục truyền thống người K’ho

64

Hình 3: Nhà dài của người Mạ

Hình 4: Trang phục truyền thống của người Mạ

65

Hình 5: Trang phục truyền thống của người Churu

Hình 6: Lễ hội mừng lúa mới của người K’ho

Hình 7: Lễ hội cúng thần lúa của người Mạ

66

Hình 8: Lễ bắt chồng của người Churu

Hình 9: Tổ chức các lớp truyền

dạy công chiêng

Hình 9. Truyền dạy cồng chiêng

67

Hình 10: Truyền dạy múa xoang

Hình 11: Bảo tồn không gian văn hóa công chiêng gắn kết với khai thác phục vụ khách du lịch

68

Hình 12. Lễ hội mừng lúa mới

Hình 13.Lễ hội cồng chiêng các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số tỉnh Lâm Đồng được tổ chức hàng năm, luân phiên ở các địa phương trong toàn tỉnh

69

Hình 14. Nghề dệt thổ cẩm hiện nay chủ yếu phục vụ cho hoạt động du lịch

Hình 15. Các nghề thủ công của đồng bào được quan tâm phát triển nhằm bảo tồn văn hóa, bên cạnh đó giúp bà con phát triển kinh tế

70

PHỤ LỤC 2

Thống kê các lớp truyền dạy cồng chiêng trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng (từ năm 2014 đến năm 2020)

TT Dân tộc Số lượng

1 Dân tộc Churu 13 lớp

2 Dân tộc K’ho 19 lớp

3 Dân tộc Mạ 21 lớp

Địa điểm tổ chức xã Đạ Quyn, Đà Loan, Phú Hội, Tà Năng, Tàhine (huyện Đức Trọng), Tutra, thôn M’Lọn – Thị trấn Thạnh Mỹ, Proh, Lạc Xuân (huyện Đơn Dương); xã Lộc Thành, Lộc An (Bảo Lâm), Gung ré, Tân Lâm, Tam Bố, Bảo Thuận, Tân Nghĩa, Tân Châu (huyện Di Linh); Hiệp An, N’Thol Hạ (huyện Đức Trọng); xã Đạ K’nàng – 02 lớp, (huyện Đam Rông); thôn Măng Lin - phường 7 (Tp. Đà Lạt); xã Đưng K’nớ, Xã Lát (huyện Lạc Dương); Phi Tô (Lâm Hà) Xã Đạ Ploa, Đoàn Kết, Mađagoui, Đạ Oai, Thị trấn Đạ Mri, Phước Lộc – 02 lớp (huyện Đạ Huoai), xã Lộc Lâm (huyện Bảo Lâm).

(Mỗi lớp tổ chức có từ 20-25 học viên)

Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lâm Đồng

71

PHỤ LỤC 3

Bảng thống kê danh mục văn bản tiêu biểu để triển khai công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng (từ năm 2014 - 2020)

TT Số văn bản Trích yếu văn bản

định

1 Phê duyệt Đề án “Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá cồng chiêng các dân tộc Tây Nguyên tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2009 – 2010 và tầm nhìn đến năm 2015” Quyết số 1583/QĐ-UBND, ngày 09/7/2009 của UBND tỉnh Lâm Đồng

Về Thực hiện Chiến lược công tác Dân tộc đến năm 2020; 2

Kế hoạch số 3960/KH- UBND ngày 04/8/2014 của UBND tỉnh Lâm Đồng

3 Thực hiện nghị quyết số 14-NQ/TU của Tỉnh ủy về Phát triển vùng đồng bào DTTS tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2018 - 2025, định hướng đến năm 2030.

Kế hoạch số 292/KH- ngày UBND 15/01/2019 của UBND tỉnh Lâm Đồng

4 Phê duyệt Đề án “ Bảo tồn và phát triển Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên các dân tộc tỉnh Lâm Đồng đến năm 2020” Quyết định số 296/QĐ- UBND, ngày 22/2/2018 của UBND tỉnh Lâm Đồng

5

Kế hoạch số 32/KH- ngày SVHTTDL 25/5/2018 của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Về Kế hoạch thực hiện Quyết định số 296/QĐ-UBND ngày 22/02/2018 về phê duyệt Đề án bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Cồng chiêng các dân tộc tỉnh Lâm Đồng đến năm 2020

6 Quyết định số 450/QĐ- UBND ngày 06/3/2018 của Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng Bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc văn hoá dân tộc thiểu số, khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống gắn với hoạt động du lịch trên địa bàn Lâm Đồng giai đoạn 2018 - 2020 và định hướng đến năm 2030

Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lâm Đồng