VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ THÙY TRANG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÒNG, CHỐNG XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, 2021

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ THÙY TRANG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÒNG, CHỐNG

XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG

Ngành: Chính sách công

Mã số: 8340402

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

GS.TS. NGUYỄN HỮU MINH

HÀ NỘI, 2021

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Xâm hại tình dục trẻ em đã và đang xảy ra ở mọi quốc gia trên thế giới, đang

là vấn đề nổi cộm và gây nhiều bức xúc trong dư luận xã hội hiện nay. Xâm hại tình

dục (XHTD) trẻ em gây ra những tổn thương nghiêm trọng, lâu dài đối với trẻ em

trên nhiều phương diện, gây nhiều hậu quả nặng nề tới sự phát triển của xã hội. Hậu

quả của trẻ bị XHTD từ nhỏ về thể chất phải mang thương tật suốt đời; về tâm lý

như trẻ luôn cảm thấy căng thẳng lo lắng, cô đơn, không tự tin, nghi ngờ mọi người

xung quanh; có biểu hiện lệch lạc về nhân cách, hành vi tiêu cực như hung hăng,

phá phách, ngỗ ngược, luôn tìm cách gây hấn với những đứa trẻ khác; những trẻ này

lớn lên sẽ khó hòa nhập với môi trường sống.

Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á và là nước thứ hai trên thế giới tham gia

ký Công ước quốc tế về quyền trẻ em từ năm 1990, ban hành Luật Bảo vệ, chăm sóc và

giáo dục trẻ em từ năm 2004. Đặc biệt, Luật trẻ em (được Quốc hội khóa XIII thông qua

ngày 05/4/2016 tại kỳ họp thứ 11) và có hiệu lực thi hành vào 01/6/2017 đã quy định cụ

thể các quyền và bổn phận của trẻ em; các nguyên tắc, biện pháp bảo đảm thực hiện

quyền trẻ em; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình và cá nhân

trong việc thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em. Cụ thể, Điều 25 trong Luật Trẻ em

có quy định quyền được bảo vệ để không bị XHTD.

Tuy nhiên, tình trạng xâm hại trẻ em hiện nay đang đưa ra con số báo động.

Giai đoạn 2011 – 2015 xảy ra 5.300 vụ việc xâm hại tình dục trẻ em chủ yếu là với

trẻ em gái. Theo báo cáo kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về

phòng, chống xâm hại trẻ em giai đoạn 2016 - 2019 của Ủy ban Văn hóa, giáo dục,

Thanh niên, thiếu niên và nhi đồng – Quốc hội khóa XIV, có 6.432 trẻ em bị

XHTD, chiếm 73,85% tổng số trẻ em bị xâm hại [57]. Trẻ em có thể gặp nguy cơ bị

xâm hại ở bất cứ nơi đâu, có thể là trên sân chơi, ở trường học, nhà người thân

quen, thậm chí trong chính ngôi nhà của mình. Đối tượng XHTD trẻ em hầu hết là

những người có cuộc sống bình thường ít ai ngờ tới, có quan hệ gần gũi với nạn

nhân và gia đình nạn nhân như người thân, ruột thịt, thầy giáo…[25]

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến gia tăng trẻ bị XHTD như do vai trò bảo vệ,

1

chăm sóc và giáo dục (BVCS&GD) trẻ em của gia đình, cộng đồng chưa được coi

trọng; kiến thức và kỹ năng BVCS&GD trẻ em của cha mẹ, người chăm sóc trẻ em

chưa đầy đủ dẫn đến năng lực bảo vệ trẻ em của gia đình, cộng đồng còn hạn chế;

trẻ em dễ trở thành nạn nhân của XHTD; sự thiếu hiểu biết về pháp luật, lối sống

ích kỷ, thiếu trách nhiệm của một số gia đình đã tạo ra sự mất an toàn cho trẻ ngay

trong chính gia đình của mình. Bản thân các em cũng chưa được nhà trường và cha

mẹ trang bị những kiến thức cần thiết để tự bảo vệ mình [30]. Về mặt xã hội, các

loại hình dịch vụ chăm sóc, vui chơi giải trí dành cho trẻ hiện nay còn rất thiếu

thốn, làm cho trẻ em dễ bị dụ dỗ với các hoạt động giải trí do những kẻ xâm hại tạo

ra; việc quản lý về văn hóa thông tin còn bất cập trước sự xuất hiện của hàng loạt

các loại hình văn hóa phẩm không lành mạnh, phim ảnh ngoài luồng có tính chất

bạo lực, khiêu dâm dễ đánh thức sự tò mò của các em…

Đối với tỉnh An Giang, những năm gần đây, cùng với việc triển khai thực

hiện Luật Trẻ em 2016 và các quy định của Nhà nước, công tác phòng, chống

XHTD trẻ em đã được quan tâm. Tuy nhiên, nguy cơ xâm hại trẻ em nói chung,

XHTD trẻ em nói riêng, nhất là trẻ em nữ vẫn còn rất nghiêm trọng. Cụ thể từ năm

2016 đến năm 2019, có 198 trẻ em bị xâm hại (191 trẻ bị xâm hại là nữ, 07 trẻ bị

xâm hại là nam), trong đó có 147 trẻ bị XHTD, 01 trẻ bị xâm hại bằng hành vi bạo

lực, 01 trẻ bị mua bán và 49 trẻ bị xâm hại bằng các h́nh thức khác; các vụ việc xâm

hại đã khiến 01 trẻ em có thai, 04 trẻ em phải bỏ học [18]. Trong khi đó, các nghiên

cứu về việc thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em từ cách tiếp cận chính

sách công còn ít được thực hiện, đặc biệt là ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.

Để góp phần cùng với Đảng, Nhà nước và toàn xã hội chăm lo và bảo vệ

quyền lợi trẻ em, đồng thời nhằm bổ sung thêm kiến thức cho bản thân, tôi lựa chọn

đề tài: Thực hiện chính sách phòng, chống xâm hại tình dục trẻ emtrên địa bàn

tỉnh An Giang, nghiên cứu để làm luận văn thạc sĩ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Xâm hại tình dục trẻ em; phòng, chống XHTD trẻ em và nâng cao kiến thức,

kỹ năng phòng, chống XHTD trẻ em là vấn đề đang được các nhà lãnh đạo, quản lý

và nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Thời gian qua, đã có nhiều công trình khoa học

đề cập đến vấn đề XHTD trẻ em; phòng, chống XHTD trẻ em và nâng cao kiến

2

thức, kỹ năng phòng, chống XHTD trẻ em ở nhiều mức độ và phạm vi khác nhau.

2.1. Công trình nghiên cứu, bài viết liên quan đến vấn đề phòng, chống

xâm hại tình dục trẻ em

Một số nghiên cứu đã cung cấp bức tranh thực trạng đáng quan tâm về xâm

hại trẻ em nói chung và XHTDtrẻ em nói riêng. Theo thống kê của Tổng cục Cảnh

sát – Bộ Công an, mặc dù chỉ là phần nhỏ so với thực tế nhưng mỗi năm trung bình

có 1.600 – 1.800 vụ xâm hại trẻ em được phát hiện, trong số 1.000 vụ XHTD, số vụ

mà trẻ em là nạn nhân chiếm 65%, đa số nạn nhân là nữ ở độ tuổi 12 – 15 (chiếm

57,46%), tuy nhiên số trẻ em dưới 6 tuổi bị xâm hại là vấn đề đáng báo động, chiếm

tới 13,2% [31].

Năm 2017, toàn quốc xảy ra 1.592 vụ xâm hại trẻ em, so với năm 2016

giảm 49 vụ; 1.642 trẻ em bị xâm hại trong đó trẻ em bị bạo lực là 245 em, giảm 171

em so với năm 2016; nhưng trẻ em bị XHTD: 1.397 em, so với năm 2016 tăng 186

trẻ. Hiện nhiều tỉnh, thành phố chưa quan tâm, đầu tư nguồn lực cho trẻ em [27].

Theo Báo cáo kết quả giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về

phòng, chống xâm hại trẻ em” của Đoàn giám sát Quốc hội khóa XIV từ ngày

01/01/2015 - 30/6/2019, cả nước có tới 8.442 vụ xâm hại trẻ em được phát hiện, xử

lý với 8.709 trẻ em bị xâm hại; trong đó, có 6.432 trẻ bị XHTD; 857 trẻ bị bạo lực;

106 trẻ bị mua bán, bắt cóc, chiếm đoạt; 1.314 trẻ bị xâm hại bằng các hình thức

khác. Đáng chú ý, chỉ riêng 6 tháng đầu năm 2019, số trẻ em bị xâm hại tăng đột

biến, với 1.400 em, tính trung bình cứ mỗi ngày cả nước có 7 trẻ em bị xâm hại.

Con số này khiến chúng ta không khỏi giật mình lo ngại trước vấn nạn xâm hại trẻ

em đang diễn ra trong thời gian gần đây. Và trên thực tế, con số này còn cao hơn rất

nhiều bởi có nhiều trường hợp trẻ em bị xâm hại nhưng chưa được phát hiện, xử lý

kịp thời, nhất là các hành vi bạo lực gây tổn hại về thể chất và tinh thần cho trẻ em.

Đối tượng XHTD trẻ em hầu hết là những người có cuộc sống bình thường ít ai ngờ

tới, có quan hệ gần gũi với nạn nhân và gia đình nạn nhân như người thân, ruột thịt,

thầy giáo, hàng xóm…[25].

Từ việc phân tích thực trạng các nghiên cứu cho thấy, bảo vệ trẻ em trước

vấn nạn xâm hại là việc làm bức thiết, đòi hỏi sự vào cuộc quyết liệt của các cấp,

ngành, gia đình và toàn xã hội; cần tạo hành lang pháp lý đủ mạnh, cơ chế chặt chẽ

3

để phòng ngừa hiệu quả, kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm đối với những hành vi

xâm hại trẻ em để đảm bảo tính răn đe, nghiêm minh của pháp luật. Đồng thời, các

cấp, các ngành cần tập trung giáo dục, nâng cao ý thức và kỹ năng phòng, XHTD

trẻ em không chỉ với chính các em mà còn phải với người lớn để xây dựng môi

trường sống an toàn, lành mạnh cho trẻ em thông qua các hoạt động truyền thông

trong phòng, chống XHTD trẻ em, hoạt động giáo dục trong phòng, chống XHTD

trẻ em, hoạt động phát triển kỹ năng trong phòng, chống XHTD trẻ em và hoạt động

tư vấn trong phòng, chống XHTD trẻ em.

2.2. Các nghiên cứu, sách viết về kỹ năng, kiến thức phòng ngừa xâm hại

tình dục trẻ em

Sách “Phòng ngừa XHTD trẻ em” do Dự án tuổi thơ – Chương trình phòng

ngừa do AusAID và Tổ chức tầm nhìn thế giới thực hiện với nội dung xoay quanh

các vấn đề nhận thức và hiểu biết về XHTD trẻ em để từ đó cha mẹ có cách phòng

ngừa phù hợp cũng như chuẩn bị cho bé cách tự bảo vệ bản thân trước những tình

huống xấu xảy ra.

Sách “Cẩm nang phòng tránh xâm hại cho con – Cha mẹ cần biết trước khi

quá muộn” do tác giả Phạm Thị Thúy biên soạn năm 2017 cung cấp những hiểu

biết cơ bản về vấn đề XHTD trẻ em, cách dạy trẻ phòng, chống XHTD, những điều

cần làm khi thấy trẻ có dấu hiệu bị XHTD, tâm sự của những người từng bị XHTD

… Các công trình khoa học trên đã góp phần quan trọng trang bị những kiến thức

cơ bản về XHTD trẻ em, phòng, chống XHTD trẻ em và nâng cao kiến thức, kỹ

năng phòng, chống XHTD trẻ em. Tuy nhiên, những nghiên cứu này chỉ đề cập tới

XHTD trẻ em, phòng, chống XHTD trẻ em và nâng cao kiến thức, kỹ năng phòng,

chống XHTD trẻ em trên phạm vi rộng, chưa có đề tài nghiên cứu chuyên sâu, toàn

diện lý luận và thực tiễn về XHTD trẻ em, phòng, chống XHTD trẻ em và nâng cao

kiến thức, kỹ năng phòng, chống XHTD trẻ em ở phạm vi địa phương An Giang.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

3.1. Mục đích nghiên cứu đề tài

Nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận, những nhân tố ảnh

hưởng đến thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em, phân tích thực trạng

thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang. Trên

cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp, kiến nghị chính sách phù hợp với tình hình thực

4

tế nhằm góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ

em trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

Để đạt được mục tiêu nêu trên, cần xác định các nhiệm vụ thực hiện của luận

văn như sau:

Thứ nhất, nghiên cứu Hiến pháp của Nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt

Nam (2013); Luật BVCS&GD trẻ em (2004); Luật Trẻ em (2016); Luật Hôn nhân -

Gia đình (2014); các văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội và các văn bản có

liên quan….

Thứ hai, làm rõ những vấn đề lý luận về phòng, chống XHTD trẻ em và lý

luận về thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em.

Thứ ba, phân tích thực trạng thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ

em trên địa bàn tỉnh An Giang.

Thứ tư, đề xuất biện pháp thúc đẩy hiệu quả thực hiện chính sách phòng,

chống XHTD trẻ em.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là việc triển khai, thực hiện chính sách

phòng, chống XHTDtrẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang và đề xuất giải pháp, kiến

nghị nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống XHTD trẻ em.

4.2. Khách thể nghiên cứu

- Đối với trẻ em (người dưới 16 tuổi).

- Các cơ quan lãnh đạo, quản lý tham gia thực hiện chính sách phòng, chống

xâm hại trẻ em nói chung, thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em nói

riêng trên địa bàn tỉnh.

- Cán bộ làm công tác BVCS&GD trẻ em tại địa phương.

4.3. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi không gian: Tỉnh An Giang.

- Phạm vi thời gian: Giai đoạn 2016 – 2019.

- Phạm vi nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu thực hiện chính sách phòng,

chống XHTD trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5

5.1. Phương pháp luận

Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác -

Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách

phòng, chống xâm hại trẻ em nói chung, và chính sách phòng, chống XHTD trẻ em

nói riêng.

5.2. Phương pháp cụ thể

Luận văn sử dụng các phương pháp như thống kê, tổng hợp, phân tích,… số

liệu và dữ liệu có sẵn liên quan đến chủ đề nghiên cứu: các văn bản chỉ đạo của

Đảng, Chính phủ, Bộ ngành ở trung ương và địa phương; thu thập thông tin trên

mạng internet, một số sách, báo, tạp chí và công trình nghiên cứu khác như các báo

cáo, tài liệu thống kê của chính quyền, ban ngành đoàn thể, tổ chức, cá nhân liên

quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới vấn đề chính sách phòng, chống XHTD trẻ em.

Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, kết hợp với trao đổi, thảo

luận với 09 cán bộ đại diện cơ quan lãnh đạo, quản lý tham gia thực hiện chính sách

về phòng, chống XHTD trẻ em trên địa bàn tỉnh: Ủy ban Nhân dân (UBND) tỉnh,

Công an tỉnh, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐTB&XH) tỉnh, Sở Y tế, Sở

Giáo dục và Đào tạo, Viện Kiểm sát Nhân dân (KSND) tỉnh, Tòa án Nhân dân

(TAND) tỉnh, Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) tỉnh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí

Minh (TNCS) tỉnh; 04 cán bộ phụ trách công tác bảo vệ trẻ em, điều tra viên, kiểm

sát viên cấp cơ sở.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về phòng, chống

XHTD trẻ em và thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em ở cấp độ địa

phương. Nghiên cứu gợi ra những cách tiếp cận mới trong việc đánh giá tầm quan

trọng trong thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em trước vấn đề bức xúc

hiện nay, từ đó nâng cao chất lượng công tác đối với các cơ quan quản lý, thực hiện

chính sách tại địa phương cũng như hỗ trợ, giúp đỡ những kỹ năng phòng ngừa, ứng

phó được các tình huống có thể xảy ra.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Thông qua việc tìm hiểu và phân tích thực trạng thực hiện chính sách phòng,

6

chống XHTD trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang, nhằm đề ra những biện pháp thúc

đẩy việc thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em.

Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ cho

việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập và hoạt động thực tiễn trong công tác phòng,

chống XHTD trẻ em.

7. Kết cấu của Luận văn

Luận văn này ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu, có ba

chương cụ thể như sau:

Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về thực hiện chính sách phòng, chống

xâm hại tình dục trẻ em.

Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em

tại An Giang.

Chương 3. Một số giải pháp thúc đẩy hiệu quả thực hiện chính sách phòng,

7

chống xâm hại tình dục trẻ em.

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH

PHÒNG, CHỐNG XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM

1.1. Lý luận về phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em

1.1.1. Một số khái niệm cơ bản

1.1.1.1.Trẻ em

Việc tìm hiểu khái niệm trẻ em có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn đối với

việc vận dụng vào thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em. Trẻ em là giai

đoạn đầu tiên của cuộc đời mỗi con người. Tâm lý học cho rằng trẻ em là giai đoạn

đầu của sự phát triển tâm lý – nghiên cứu con người. Ở giai đoạn này, cùng với sự

phát triển về mặt thể chất thì phẩm chất tâm lý của trẻ em cũng dần hình thành và

chịu sự ảnh hưởng khách quan của môi trường sống, xã hội và những người xung

quanh. Ở lứa tuổi này các em chưa nhận thức đầy đủ được những nguy cơ trong

cuộc sống trong đó có việc bị XHTD.

Theo Điều 1 Công ước Quyền trẻ em của Liên hiệp quốc thông qua ngày

20/11/1989 quy định: “Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp

luật áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Ở Việt Nam, quy

định về độ tuổi của trẻ em là thấp hơn so với Công ước. Luật Trẻ em 2016 quy định:

“Trẻ em là người dưới 16 tuổi”.

Mặc dù hệ thống pháp luật nước ta và quốc tế không có quy định thống nhất

về ranh giới giữa độ tuổi trẻ em và người lớn nhưng các văn bản pháp luật nước ta

cũng như quốc tế đều xác định trẻ em là đối tượng cần được bảo vệ và chăm sóc

cũng như cần được sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước và toàn thể xã hội, cộng

đồng nhằm tạo điều kiện cho trẻ em được phát triển toàn diện cả về thể chất và tinh

thần. Để trẻ em được phát triển toàn diện, đúng hướng thì người lớn cũng như xã

hội phải tạo ra những tiền đề vật chất, tinh thần thuận lợi cho sự phát triển tâm, sinh

lý của trẻ em.

Trong nghiên cứu này khái niệm về trẻ em được xác định như sau: trẻ em là

8

những người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và trí tuệ, ở độ tuổi dưới 16.

1.1.1.2. Xâm hại tình dục trẻ em

Khái niệm XHTD trẻ em, được hiểu một cách chung nhất là sự xâm phạm,

động chạm đến quyền tự do, đến nhu cầu phát triển tự nhiên của trẻ em về quan hệ

tính giao, xâm phạm đến thân thể, sức khỏe, nhân phẩm và danh dự của trẻ em.

Trước đây, chúng ta hay dùng từ “lạm dụng tình dục”. Tuy nhiên, ở Việt

Nam nghĩa của từ “lạm dụng” không sát nghĩa với thuật ngữ quốc tế sử dụng nên

có thay đổi thành “xâm phạm tình dục”. Trong quá trình sử dụng, cụm từ này tiếp

tục không phù hợp nên sau khi Quốc hội quyết định thay đổi thì cụm từ “xâm hại

tình dục” được sử dụng từ năm 2010.

Luật trẻ em 2016 đã nêu rõ tại Điều 4 “Xâm hại tình dục trẻ em là việc dùng

vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ trẻ em tham gia vào các hành vi

liên quan đến tình dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với trẻ em

và sử dụng trẻ em vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức” [38].

Cụ thể hóa nội dung XHTD trẻ em trong Luật Trẻ em, Nghị định số

56/2017/NĐ-CP ngày 09/5/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của

Luật trẻ em, trong đó nêu rõ tại:“Điều 13. Trẻ em bị XHTD bao gồm các hành vi:

1.Trẻ em bị hiếp dâm. 2.Trẻ em bị cưỡng dâm. 3.Trẻ em bị giao cấu. 4.Trẻ em bị

dâm ô. 5.Trẻ em bị sử dụng vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức”.

Xâm hại tình dục trẻ em bao gồm tất cả các hành vi tình dục không mong

muốn có thể bao gồm cả hành vi xâm hại có tiếp xúc hay hành vi xâm hại không

tiếp xúc. XHTDtrẻ em có thể xảy ra ở bất kì nền văn hóa, chủng tộc, tôn giáo, thể

chế chính trị nào.

1.1.1.3. Phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em

Khi xã hội đang bức xúc và lên án hàng loạt những vụ ấu dâm, quấy rối tình

dục trẻ em thì cha mẹ và những người chăm sóc trẻ đang loay hoay không biết làm

cách nào để bảo vệ con mình, làm thế nào để có thể phòng, chống XHTD xảy ra.

Phòng, chống XHTD chính là tổng thể các biện pháp về luật pháp, chính sách, thể

chế, tổ chức, truyền thông nhằm giảm thiểu các trường hợp XHTD trẻ em và tác hại

của nó. Các biện pháp phòng, chống XHTD trẻ em được thể hiện cả ở 3 cấp độ bảo

vệ trẻ em như đã quy định ở Luật Trẻ em 2016, đó là cấp độ phòng ngừa (Điều 48),

9

cấp độ hỗ trợ (Điều 49) và cấp độ can thiệp (Điều 50). Cụ thể, cấp độ phòng ngừa

gồm các biện pháp bảo vệ được áp dụng đối với cộng đồng, gia đình và mọi trẻ em

nhằm nâng cao nhận thức, trang bị kiến thức về bảo vệ trẻ em, xây dựng môi trường

sống an toàn, lành mạnh cho trẻ em, giảm thiểu nguy cơ trẻ em bị xâm hại hoặc rơi

vào hoàn cảnh đặc biệt. Cấp độ hỗ trợ bao gồm các biện pháp bảo vệ được áp dụng

đối với trẻ em có nguy cơ bị bạo lực, bóc lột, bỏ rơi hoặc trẻ em có hoàn cảnh đặc

biệt nhằm kịp thời phát hiện, giảm thiểu hoặc loại bỏ nguy cơ gây tổn hại cho trẻ

em. Cấp độ can thiệp bao gồm các biện pháp bảo vệ được áp dụng đối với trẻ em và

gia đình trẻ em bị xâm hại nhằm ngăn chặn hành vi xâm hại; hỗ trợ chăm sóc phục

hồi, tái hòa nhập cộng đồng cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.

Có thể thấy rằng, hậu quả của tội phạm XHTD trẻ em là hết sức nghiêm

trọng đối với bản thân nạn nhân và gia đình, xã hội. Vì vậy, để phòng, chống loại

tội phạm này một cách hiệu quả, hạn chế đến mức thấp nhất tác hại có thể xảy ra

cho xã hội, cần triển khai đồng bộ các giải pháp sau:

Về chính sách nhà nước: Cần sự phối hợp và hỗ trợ đồng bộ cả các ban

ngành tổ chức xã hội và cộng đồng; cần quan tâm công tác tổ chức bộ máy, bố trí

nhân lực; Kiện toàn ban chỉ đạo, Ban điều hành và nhóm công tác liên ngành bảo vệ

trẻ em cấp huyện, cấp xã; xây dựng và thực hiện Đề án bố trí, nâng cao năng lực, ổn

định đội ngũ người làm công tác bảo vệ trẻ em ở ngoài địa phương; xác lập cơ chế phối

hợp phòng, chống, xử lý vụ việc xâm hại trẻ em tại địa phương; xây dựng và hoàn

thiện hệ thống bảo vệ trẻ em bằng biện pháp tuyên truyền, giáo dục ý thức cảnh giác,

phát hiện sớm, tự phòng, chống XHTD và hỗ trợ tư vấn pháp lý khi cần thiết.

Xử lý nghiêm các cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, cá nhân che giấu, không

thông báo, không tố cáo vụ việc, hành vi xâm hại trẻ em.

Từ phía nhà trường: Nhà trường cần cung cấp cho trẻ em những kiến thức cơ

bản nhất về giới tính. Có thể dạy cho trẻ em biêt rằng không ai được chạm vào “chỗ

riêng tư” của trẻ. Dạy cho trẻ biết những hành vi lạm dụng tình dục là phạm pháp và

quyền mình được bảo vệ và tự bảo vệ. Dạy cho trẻ hiểu thân thể là “tài sản riêng” của

chúng. Trẻ có quyền từ chối những cái ôm hoặc những tiếp xúc gây khó chịu.

Từ phía gia đình và cộng đồng: Cha mẹ không nên né tránh mà cần thường

xuyên trò chuyện với con về vấn đề tế nhị. Khuyến khích con đặt câu hỏi về các vấn

10

đề khác nhau trong cuộc sống cũng như câu hỏi về những vấn đề sâu kín. Bên cạnh

đó, bố mẹ cần cố gắng tìm hiểu và hòa đồng với bạn bè của con, vì qua đó bố mẹ có

thể có được những thông tin cần thiết. Cần dạy trẻ không bao giờ được đi vào chỗ

kín, nơi vắng vẻ với một ai nếu không có sự đồng ý của bố mẹ. Trang bị cho con

biết cách phòng vệ, không mặc hở hang vì dễ gây kích thích sự ham muốn đối với

những kẻ có ý xấu.

1.1.2. Đặc điểm xâm hại tình dục trẻ em

1.1.2.1. Các hành vi xâm hại tình dục trẻ em

Mọi trẻ em cộng đồng đều có nguy cơ bị XHTD kể cả những trẻ sống trong

gia đình nghèo hay gia đình khá giả. Không những trẻ em gái mà trẻ em trai cũng có

thể trở thành nạn nhân bị XHTD. Điều đáng nói là sau khi bị xâm hại, nạn nhân

thường không hoặc không dám kể về những cái gì đã diễn ra với chúng. Hầu hết,

những người XHTD là nam giới và hầu hết trẻ em bị xâm hại bởi người quen biết

như họ hàng, bạn của người lớn trong gia đình hoặc hàng xóm… Đôi khi việc xâm

hại này diễn ra trong một thời gian dài, thậm chí kéo dài nhiều năm. Hành vi XHTD

trẻ em được thực hiện dưới nhiều dạng khác nhau, để thỏa mãn nhu cầu của người

lớn hơn, không nhằm mục đích kiếm tiền như: cưỡng hiếp, sờ mó, vuốt ve vào chỗ

kín của trẻ em, hôn trẻ em có tính chất gợi dục; cố ý phơi bày bộ phận kín của mình

cho trẻ em nhìn thấy; để cho trẻ em nhìn thấy người lớn có cử chỉ yêu đương hoặc

cho trẻ em nghe, xem các nội dung phim ảnh khiêu dâm, đồi trụy; nhìn trộm trẻ em

tắm, để trẻ em làm mẫu hoặc trình diễn thời trang không mặc quần áo, ăn mặc hở

hang. Ngoài ra, các hành vi sau cũng đều bị coi là hành vi XHTD trẻ em như: dùng

tiền, vật chất, uy tín hoặc lợi ích khác để dụ dỗ, lôi kéo trẻ em hoạt động mại dâm;

dùng thủ đoạn nói dối, gian lận để trẻ em hoạt động mại dâm; dẫn, chỉ dẫn, môi

giới, tổ chức xúi giục trẻ em hoạt động mại dâm; che giấu, cho thuê, mượn hoặc bố

trí nơi để trẻ em hoạt động mại dâm; dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng uy

quyền để ép buộc trẻ em hoạt động mại dâm… [38].

1.1.2.2. Biểu hiện của trẻ bị xâm hại tình dục

Khi trẻ em bị xâm hại, các em thường sợ hãi, rất sợ nói với người lớn vì những

kẻ xâm hại thường đe dọa không cho trẻ nói hoặc trẻ cảm thấy chúng đã làm điều đó

sai hoặc các em chưa biết cách thể hiện những gì đã xảy ra. Do đó, để nhận biết trẻ có

11

bị xâm hại hay không, chúng ta cần phải quan sát các dấu hiệu có thể [17] .

- Về thể chất: trẻ có những vết thương ở bộ phận sinh dục hoặc xung quanh

hậu môn, sưng tấy, phồng rộp, chảy máu ở miệng; quần áo lót có dính máu hoặc bị

rách; trẻ khó đi tiểu hoặc đại tiện, trong nước tiểu có máu hoặc phân; có mủ bất

thường ở âm đạo, dương vật, hậu môn, trẻ bị mang các bệnh truyền nhiễm qua

đường sinh dục; trên cơ thể trẻ có các vết thương thâm tím, đau đầu hoặc đau bụng.

- Trẻ bị XHTD có thể: ít tắm hoặc tắm rửa nhiều hơn thường lệ, hay thay

quần áo; chơi với những trẻ khác hoặc chơi đồ chơi theo kiểu tình dục một cách

hiểu biết hơn hoặc thường xuyên hơn so với lứa tuổi của chúng; biết nhiều về tình

dục hơn các bạn cùng lứa.

- Các biểu hiện về tâm lý: trẻ bị XHTD thường rất cảnh giác, sợ hãi, nhạy

cảm hoặc đột ngột sợ một ai đó, một nơi nào đó hoặc chỉ muốn đi cùng với bố mẹ;

trẻ có biểu hiện thu mình, kín đáo hoặc hầu như muốn ở một mình; có những biểu

hiện, hành động theo cách giống như trẻ nhỏ hoặc lứa tuổi nhỏ hơn; trở nên hung

hãng và bạo lực; cố gắng chạy ra khỏi nhà; luôn cảm thấy buồn hoặc không bày tỏ

bất kỳ một cảm xúc nào; trẻ trở nên khó ngủ, khóc hét, thức giấc đêm vì bị các cơn

ác mộng, sợ bóng tối hay đái dầm; trẻ tỏ ra sợ hãi khi bị sờ vào người hoặc sợ thực

hiện các hoạt động thể chất. Các dấu hiệu nêu trên có thể hiện một cách rõ ràng

hoặc không rõ ràng. Và ở mỗi trường hợp trẻ em bị XHTD, các biểu hiện lại khác

nhau. Cả trẻ em trai và trẻ em gái, cả trẻ em sống trên đường phố hay những trẻ em

sống cùng gia đình.

1.1.2.3 Các vấn đề gặp phải của trẻ bị xâm hại tình dục trẻ em

Cho dù sử dụng bạo lực, sự đe dọa hay lòng tốt để bắt trẻ thực hành hành vi

XHTD thì hậu quả của việc xâm hại này đều gây tổn thương cho trẻ ở các mức độ

khác nhau. Sự XHTD làm tổn thương trẻ vào thời điểm khi hành vi xâm hại diễn ra

và có thể tiếp tục gây tổn thương nạn nhân trong suốt quãng đời còn lại của trẻ đặc

biệt đối với những trẻ không thể kể về sự xâm hại này hoặc không nhận được sự

giúp đỡ, hỗ trợ hay trị liệu từ phía gia đình và xã hội.

Về mặt thể chất, trẻ em bị XHTD có thể chịu tổn thương thể xác kéo dài do

các bệnh như HIV/AIDS, viêm gang, lậu, giang mai và những bệnh lây lan qua

đường tình dục khác… Nếu không được chữa trị có thể gây nên những vấn đề trong

12

tương lai như có thai ngoài ý muốn, ung thư và tử vong do nhiễm trùng nặng. Ngoài

ra, trẻ còn có thể chịu những tổn thương thể chất trong quá trình phản kháng lại hành vi

XHTD: các tổn thương của bộ phận sinh dục. Với trẻ lớn hơn, nguy có thai được phát

hiện muộn không phải là hiếm gặp. Với những trường hợp này, sức khỏe và tương lai

của bà mẹ lẫn trẻ em thường ở trong tình trạng rất mong manh, khó khăn.

Về mặt tâm lý, trẻ em bị XHTD thường sẽ cảm thấy tội lỗi, sợ hãi, xấu xa,

thất bại, cộc tính… Trẻ thường cho rằng mình là kẻ thất bại và nguy cơ trở thành tội

phạm khi trưởng thành. Đặc biệt, nếu trẻ không được điều trị tâm lý kịp thời sau khi

bi xâm hại thì rất dễ bị ám ảnh lâu dài và khi lớn lên có thể trở thành người đi

XHTD trẻ em khác. Ngoài ra, trẻ bị XHTD khi còn nhỏ lớn lên có thể gặp vấn đề về

giới tính của mình, nhiều đứa trẻ bị trầm cảm, rối loạn nhân cách…

Điều đáng ngại là không phải lúc nào trẻ bị XHTD cũng thể hiện ra bên

ngoài những tổn thương về tâm lý mà đôi khi, cơn sang chấn tâm lý phải sau nhiều

năm mới thể hiện ra. Vì thế, phụ huynh thường khó phát hiện ra những bất thường

của con em mình… Trẻ em bị XHTD có thể tiếp tục bị người khác xâm hại trong

suốt quãng đời còn lại. Vì những trải nghiệm bị xâm hại khi còn là một đứa trẻ,

chúng lớn lên và tin rằng tình dục là cách duy nhất để thể hiện cảm xúc và an toàn.

Nghiêm trọng hơn, bị đối xử tồi tệ và XHTD có thể trở thành hình mẫu trong cuộc

sống của chúng. Nếu không được hỗ trợ và giúp đỡ để có thể hàn gắn từ sự xâm hại,

những đứa trẻ bị xâm hại có thể trở thành những người đi xâm hại khi chúng lớn lên.

1.1.3. Trẻ có nguy cơ bị xâm hại tình dục

1.1.3.1. Những trẻ em có nguy cơ bị xâm hại tình dục

Tất cả các trẻ em đều có nguy cơ trở thành nạn nhân của XHTD không có sự

phân biệt dân tộc, học vấn, điều kiện kinh tế, lứa tuổi, giới tính, đặc điểm cá nhân.

Tuy nhiên, một số trẻ em thuộc các nhóm như: trẻ em sống trong các gia đình khó khăn,

trẻ em sống trong các gia đình khuyết thiếu chỉ có cha hoặc mẹ hoặc thiếu cả cha mẹ; trẻ

em khuyết tật, chậm phát triển; trẻ em sinh sống ở các vùng khó khăn, dân tộc thiểu số;

trẻ em sống trong hoàn cảnh có nhiều cám dỗ… có nguy cơ bị XHTD cao hơn các trẻ em

khác và trẻ em gái có nguy cơ bị XHTD cao hơn trẻ em trai.

- Nhóm trẻ em sống trong gia đình khó khăn, trẻ em sống trong các gia đình

khuyết thiếu chỉ có cha hoặc mẹ hoặc thiếu cả cha mẹ: là các trẻ em sống trong các

13

gia đình có hoàn cảnh khó khăn, nghèo đói; trẻ có cha mẹ ly thân, ly dị, chỉ sống

với cha hoặc mẹ hoặc sống với người thân, không sống cùng cả cha hoặc mẹ trẻ em

mồ côi cha hoặc mẹ hoặc mồ côi cả cha mẹ. Những trẻ này thường không được

hoặc nhận được ít sự quan tâm chăm sóc từ gia đình, người thân. Chính vì thế, các

em rất dễ trở thành đối tượng mà những kẻ đi xâm hại để ý, nhắm đến.

- Nhóm trẻ em khuyết tật, chậm phát triển: là các trẻ em gặp vấn đề về sức

khỏe ngoại hình như khuyết tật vận động, câm điếc, bại liệt hay các em mắc các

chứng bệnh thần kinh, chậm phát triển trí tuệ… Các trẻ em này thường không có đủ

nhận thức, sức khỏe cũng như khả năng tự bảo vệ, chăm sóc bản thân, phụ thuộc

vào sự chăm sóc của người khác.

- Nhóm trẻ em sinh sống ở các vùng khó khăn, dân tộc thiểu số: là các trẻ em

sống trong các vùng có điều kiện kinh tế khó khăn nghèo đói, giao thông, văn hóa,

thông tin liên lạc kém phát triển, vùng dân tộc, miền núi, hải đảo… Trẻ sống trong

các vùng này thường ít có cơ hội tiếp cận với các nguồn thông tin, ít được quan tâm

chăm sóc, giáo dục nên các em thường bị hạn chế về nhận thức, thiếu các kiến thức

để có thể tự chăm sóc bản thân và bảo vệ mình, dễ trở thành nạn nhân của XHTD.

- Nhóm trẻ em sống trong hoàn cảnh có nhiều cám dỗ như trẻ em lang thang

đường phố, trẻ em mồ côi, trẻ sống trong các khu có nhiều tệ nạn xã hội như nghiện

hút ma túy, mại dâm… Các em dễ chịu tác động xấu từ môi trường sống và những

người xung quanh, thiếu sự quan tâm của người lớn, dễ bị cám dỗ, sa ngã vào các tệ

nạn xã hội, phát triển lệch lạc và rất dễ trợ thành trẻ em có nguy cơ bị XHTD.

Như vậy, tất cả trẻ em đều có nguy cơ bị XHTD. Tuy nhiên, trẻ em gái và

các trẻ em có nguy cơ bị XHTD cao hơn các trẻ em sống trong các gia đình khó

khăn, trẻ em sống trong các gia đình khuyết thiếu chỉ có cha hoặc mẹ hoặc thiếu cả

cha mẹ; trẻ em khuyết tật, chậm phát triển; trẻ em sinh sống ở các vùng khó khăn,

dân tộc thiểu số; trẻ em sống trong hoàn cảnh có nhiều cám dỗ, các trẻ em này còn

hạn chế thể chất, trí tuệ và nhận thức.

1.1.3.2. Các đặc điểm của trẻ em có nguy cơ bị xâm hại tình dục

Thiếu hiểu biết về vấn đề XHTD trẻ em

- Trẻ em có nguy cơ bị xâm hại và gia đình trẻ thường gặp khó khăn khi tiếp

cận các nguồn thông tin, kiến thức. Các trẻ em này sinh sống trong các gia đình có

14

hoàn cảnh khó khăn, éo le, phức tạp như bị khuyết tật, mồ côi cha mẹ, sống cùng

với ông bà / người thân hoặc thuộc hộ nghèo, hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, cha mẹ

đi làm ăn xa, sinh sống trong các khu vực có nhiều tệ nạn xã hội, nghèo đói… Do

hoàn cảnh khó khăn nên các em và gia đình thường khó khăn hoặc ít cơ hội tiếp cận

với các kênh thông tin như tivi, báo chí, internet hoặc tham gia các câu lạc bộ, lớp

giáo dục kỹ năng hoặc cha mẹ, người thân do bận làm ăn kinh tế mà thiếu sự quan

tâm đến con trẻ… mà đây là một trong những nguồn chính cung cấp các thông tin,

kiến thức về quyền trẻ em, các thông tin về XHTD trẻ em, kỹ năng phòng, chống

XHTD trẻ em… Chính vì ít cơ hội được tiếp xúc với các thông tin nên nhận thức

của trẻ em và gia đình các em về vấn đề XHTD trẻ em rất hạn chế, trẻ em và gia

đình thường không nhận biết được các mối nguy cơ để tự bảo vệ bản thân, bảo vệ

con / em mình. Hoặc đối với các em là trẻ khuyết tật, nhiều em không đủ khả năng

nhận thức để tiếp thu thông tin… Do vậy, các em rất dễ trở thành nạn nhân của kẻ

đi xâm hại.

Gặp khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội.

- Dịch vụ xã hội ở đây là các dịch vụ cơ bản như chăm sóc sức khỏe, tư vấn

tâm lý, giáo dục cung cấp kiến thức kỹ năng tự bảo vệ bản thân, hỗ trợ pháp lý…

Đối với các trẻ em có nguy cơ cao bị XHTD, cơ hội được tiếp cận với các dịch vụ

xã hội thường khó hơn so với các trẻ em khác. Các em ít có cơ hội được chăm sóc y

tế, cung cấp các kiến thức về sức khỏe sinh sản, được hỗ trợ tham vấn, tư vấn khi

gặp khó khăn, vướng mắc trong cuộc sống. Đặc biệt, với các trẻ em ở độ tuổi mới

lớn, trẻ thường thiếu kiến thức về sức khỏe sinh sản, cách tự bảo vệ và chăm sóc

bản thân hay còn đang tò mò về tình cảm tuổi mới lớn, các em rất cần được sự

hướng dẫn, giúp đỡ của người lớn. Tuy nhiên, các em gặp khó khăn rất nhiều khi

tiếp cận các dịch vụ xã hội này do khó khăn về kinh tế, do cha mẹ hoặc người thân

thiếu hiểu biết, do gia đình không có điều kiện đưa các em đến gặp các chuyên gia

tâm lý, thăm khám sức khỏe hay đến gặp các nhà tư vấn pháp lý để xin trợ giúp.

Bản thân trẻ em và gia đình thiếu kỹ năng bảo vệ, chăm sóc.

- Phần nhiều trẻ em có nguy cơ cao bị XHTD thường có hoàn cảnh gia đình

éo le, phức tạp: nhà nghèo, cha mẹ không hạnh phúc, ly thân, ly hôn, trẻ sống cùng

bố hoặc mẹ hoặc sống với ông bà, người thân khác. Cũng có trường hợp cha mẹ vì

15

mưu sinh gửi trẻ cho ông bà, người thân trông nom… Chính vì thế, gia đình không

có điều kiện quan tâm sát đối với trẻ. Do hoàn cảnh gia đình như vậy nên cha mẹ

hoặc người lớn đều không có các kỹ năng bảo vệ, chăm sóc trẻ, không thường

xuyên quan tâm, chú ý tới trẻ. Người lớn khi nhắc tới vấn đề xâm hại thường có tâm

lý e ngại, nhạy cảm, né tránh sự việc, thiếu cởi mở, ngại tiếp cận với các thông tin,

kiến thức, pháp luật về bảo vệ chăm sóc trẻ em dẫn tới thiếu các kỹ năng về bảo vệ

cũng như chăm sóc trẻ. Một phần do không được quan tâm từ phía gia đình, một

phần do không có điều kiện tiếp cận với các dịch vụ xã hội, tiếp cận với các nguồn

thông tin… nên trẻ có nguy cơ bị XHTD thiếu các kỹ năng: từ các kỹ năng cơ bản

như cách chăm sóc bản thân đến các kỹ năng để bảo vệ bản thân như tự nhận biết

tình huống nguy hiểm, phản kháng, xử lý tình huống hay việc chia sẻ với người

khác khi bản thân bị rơi vào các tình huống nguy hiểm… [30].

1.2. Lý luận về thực hiện chính sách phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em

1.2.1. Một số khái niệm

1.2.1.1. Thực hiện chính sách

Chính sách công là những quyết định của chủ thể được trao quyền lực công

nhằm giải quyết những vấn đề vì lợi ích chung của cộng đồng [22] .

Thực hiện chính sách là một khâu cấu thành chu trình chính sách, là toàn bộ

quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể chính sách thành hiện thực với các đối tượng

quản lý nhằm đạt mục tiêu nhất định. Tổ chức thực thi chính sách là trung tâm kết

nối các khâu (các bước) trong chu trình chính sách thành một hệ thống. Đây là giai

đoạn biến ý đồ chính sách thành hiện thực.

1.2.1.2. Thực hiện chính sách phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em

Thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em là trách nhiệm của cơ

quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình, cá nhân trong việc thực hiện quyền và bổn

phận của trẻ em [38].

1.2.1.3. Cán bộ làm công tác phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em

Cán bộ làm công tác phòng, chống XHTD trẻ em có thể gọi là người làm công

tác xã hội, là người có trình độ chuyên môn, được trang bị kiến thức kỹ năng về công

tác xã hội chuyên nghiệp và sử dụng, kiến thức, kỹ năng đó trong quá trình tác nghiệp

trợ giúp đối tượng (cá nhân, gia đình, nhóm, cộng đồng) có vấn đề xã hội giải quyết

16

vấn đề gặp phải, vươn lên trong cuộc sống.

Người làm công tác xã hội là những người được đào tạo một cách chuyên

nghiệp về công tác xã hội để sử dụng những kiến thức và kỹ năng của mình để: giúp

cho xã hội thấy rõ trách nhiệm của mình đối với sự phát triển chung của xã hội. Giúp

thân chủ: cung cấp các dịch vụ xã hội; tăng cường khả năng giải quyết và đối phó với

các vấn đề của mình; tiếp cận các nguồn lực; thiết lập những mối quan hệ thuận lợi

giữa họ và môi trường của họ.

1.2.2. Lý thuyết ứng dụng trong thực hiện phòng, chống xâm hại tình dục

trẻ em

1.2.2.1. Thuyết nhu cầu

Nhà tâm lý học Abraham Maslow Harold, một nhà tâm lý học người Mỹ,

được xem là người tiên phong trong trường phái tâm lý học nhân văn. Năm 1943,

ông đã phát triển một trong những lý thuyết mà tầm ảnh hưởng của nó đến nhiều

lĩnh vực khác nhau. Maslow đã thiết lập một lý thuyết có thứ bậc của nhu cầu. Tất

cả các nhu cầu cơ bản theo ông là bản năng, giống với bản năng của động vật. Nhu

cầu của con người thành 5 bậc.

Biểu đồ Tháp nhu cầu Maslow [29]

Bậc thang nhu cầu cơ bản của Maslow được tóm lại bằng những ý chính như sau:

- Nhu cầu sinh lý: đây là những nhu cầu sinh học, chúng bao gồm nhu cầu khí

thở, thực phẩm, nước và cơ thể có nhiệt độ tương đối ổn định.

- Nhu cầu an toàn: khi tất cả các nhu cầu sinh học được thỏa mãn và không còn

làm cho con người lo lắng, bận tâm, thì cái nhu cầu cho sự an toàn có thể phát sinh.

- Nhu cầu xã hội: khi nhu cầu về an toàn và sinh học được đáp ứng, nhu cầu

17

kế tiếp là nhu cầu xã hội như tình cảm, tình yêu và được nhìn nhận xuất hiện.

- Nhu cầu cần được tôn trọng: khi ba loại nhu cầu đầu tiên được thỏa mãn,

nhu cầu lòng tự trọng có thể phát sinh.

- Nhu cầu tự chứng tỏ mình: khi tất cả các nhu cầu nói trên được thỏa mãn,

thì nhu cầu muốn hiện thực hóa, tự chứng tỏ bản thân xuất hiện.

Việc vận dụng lý thuyết này vào đề tài nghiên cứu nhằm mục đích giải thích

rằng con người có rất nhiều nhu cầu cần đáp ứng. Ngoài các nhu cầu cơ bản như ăn,

uống, mặc, đi lại thì nhu cầu được học tập, phát triển kỹ năng cho trẻ, cán bộ giáo

dục và gia đình trẻ là nhu cầu cần thiết và cần ðáp ứng ngay. Chính vì vậy, muốn

làm tốt công tác thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em thì cần phân tích

được nhu cầu của các trẻ em và gia đình nuôi dưỡng các em để có các giải pháp đáp

ứng nhu cầu một cách phù hợp.

1.2.2.2. Thuyết hệ thống

Lý thuyết hệ thống được sáng lập bởi L.V.Bertalanffy (1901-1972) người

Áo, thuộc trường Đại học Tổng hợp Chicago, tiếp cận vấn đề hệ thống từ góc độ

sinh học bởi theo ông: “Mọi tổ chức hữu cơ đều là những hệ thống được tạo nên từ

các tiểu hệ thống và ngược lại cũng là một phần của hệ thống lớn hơn”.

Lý thuyết hệ thống cho rằng mọi tổ chức hữu cơ đều là hệ thống, được tạo từ

các hệ thống và ngược lại cũng là phần cứng của hệ thống lớn. Do đó, con người là

một bộ phận của xã hội, đồng thời cũng được tạo nên từ các phần tử nhỏ hơn. Các

hệ thống có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau. Khi một hệ thống thay

đổi, kéo theo sự thay đổi của một hệ thống khác và ngược lại khi muốn thay đổi một

hệ thống thì phải thay đổi hệ thống nhỏ tạo nên nó và thay đổi cả hệ thống bao trùm

nó [24].

Ứng dụng thuyết hệ thống vào đề tài nghiên cứu nhằm mục đích giải thích

rằng tình trạng XHTD trẻ em có thể bị ảnh hưởng của các yếu tố nằm trong một hệ

thống lớn gồm một số tiểu hệ thống như xã hội, nhà trường, gia đình và cá nhân.

Trong bảo vệ, chăm sóc trẻ em, lý thuyết hệ thống chỉ ra sự tác động mà các tổ

chức, các chính sách, các cộng đồng, nhóm, gia đình ảnh hưởng lên trẻ em. Mỗi trẻ

em đều có một môi trường sống và một hoàn cảnh sống, chịu tác động của các yếu

18

tố trong môi trường sống và cũng tác động, ảnh hưởng ngược lại môi trường xung

quanh. Để làm tốt công tác phòng, chống XHTD trẻ em không chỉ cần sự quan tâm

của riêng ngành giáo dục, lĩnh vực nào mà là sự tham gia của toàn xã hội.

Khi làm việc với trẻ em, cán bộ làm công tác trẻ em cần xem xét bản thân trẻ

là một hệ thống, hệ thống này nằm trong hệ thống lớn hơn là hệ thống gia đình, hệ

thống gia đình lại là một phần tử trong hệ thống một cộng đồng nhất định chứa gia

đình đó. Các hệ thống này đều có sự tương tác và ảnh hưởng lẫn nhau. Khi xác định

vấn đề của trẻ hoặc gia đình trẻ thì cần đặt trong mối quan hệ tương tác giữa các hệ

thống này để phân tích sâu hơn về các nguyên nhân dẫn đến vấn đề.

Vì vậy, nhiệm vụ cán bộ làm công tác trẻ em là tìm ra những mâu thuẫn

trong việc kết nối giữa các nhu cầu của trẻ và hệ thống trợ giúp bên ngoài để có thể

hỗ trợ trẻ và gia đình trẻ nhiều hơn. Ngoài ra, áp dụng lý thuyết hệ thống sẽ giúp

cán bộ làm công tác trẻ em: sử dụng và phát huy tối đa khả năng của trẻ trong sự

tương tác với các hệ thống khác để giải quyết vấn đề; xây dựng mối quan hệ mới

giữa trẻ, gia đình trẻ với các hệ thống trợ giúp trong xã hội; giúp tăng cường khả

năng tương tác giữa trẻ, gia đình trẻ và các hệ thống; cải tạo mối quan hệ tương tác

giữa các thành viên trong cùng hệ thống; giúp phát triển và thay đổi hệ thống chính

sách xã hội một cách phù hợp; cung cấp trợ giúp thực tế khác khi cần thiết.

Áp dụng lý thuyết hệ thống có thể thấy vấn đề phòng, chống xâm hại tình

dục là một hệ thống trong đó bao gồm các tiểu hệ thống: cán bộ làm công tác chăm

sóc trẻ em các cấp, cha mẹ và cán bộ giáo dục, hàng xóm, họ hàng, các hội đoàn

thể, chính sách chăm sóc trẻ em, cơ sở vật chất… Mặt khác, hệ thống phòng, chống

XHTD trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang cũng là một tiểu hệ thống nằm trong một

hệ thống bảo vệ, chăm sóc trẻ em rộng lớn của cả nước.

1.2.3. Những nguyên tắc trong tổ chức thực hiện chính sách phòng, chống

xâm hại tình dục trẻ em

Thực hiện chính sách phải đảm bảo đúng mục tiêu: là đảm bảo cho mọi trẻ

em đều được bảo vệ, để giảm nguy cơ bạo lực, bị XHTD; trẻ có nguy cơ bị XHTD

và trẻ em bị XHTD được phát hiện, can thiệp, hỗ trợ phục hồi, kịp thời để hòa nhập

cộng đồng và có cơ hội phát triển; chủ động phòng ngừa, loại bỏ các nguy cơ gây

tổn hại cho trẻ em; xây dựng môi trường sống an toàn, lành mạnh và thân thiện cho

19

trẻ em, thực hiện ngày còn tốt hơn các quyền cơ bản của trẻ em. Việc thực hiện

chính sách này sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức, trách

nhiệm của các cấp, các ngành, gia đình và toàn xã hội đối với công tác bảo vệ, chăm

sóc và giáo dục (BVCS&GD) và phòng, chống XHTD trẻ em.

Thực hiện chính sách phải đảm bảo tính hệ thống: được quy định trong chủ

trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, bắt buộc đối tượng triển

khai thực hiện chính sách phải tuân thủ theo các quy định hiện hành, điều này được

thể hiện rõ nhất ở sự phân cấp thực hiện giữa các cơ quan đơn vị với nhau, giữa cơ

quan cấp trên và cơ quan cấp dưới, ở sự phối hợp trong công tác. Thực hiện chính

sách phòng, chống XHTD trẻ em cần phải bảo đảm tính hệ thống, nghĩa là phải thực

hiện đồng bộ và thống nhất các nhiệm vụ đề ra.

Thực hiện chính sách phải đảm bảo tính pháp lý, khoa học và hợp lý: chính

sách được thực hiện đúng pháp luật, đúng nội dung hướng dẫn quy định tại các văn

bản hướng dẫn của Nhà nước, đồng thời phải thực hiện một cách khoa học, hợp lý

để chính sách phát huy hiệu quả. Nếu chính sách được đảm bảo yêu cầu về tính

pháp lý, khoa học và hợp lý sẽ giúp nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong tổ chức, thực

hiện chính sách của các cơ quan quản lý nhà nước, củng cố niềm tin của các đối

tượng được thụ hưởng chính sách đối với Nhà nước.

- Thực hiện chính sách phải đảm bảo lợi ích thực sự cho đối tượng thụ hưởng

chính sách: quá trình thực thi chính sách thường tồn tại nhiều nhóm lợi ích trong xã

hội, cơ quan quản lý nhà nước phải có trách nhiệm bảo vệ lợi ích hợp pháp cho cá

nhân và tổ chức. Khi cơ quan quản lý nhà nước sử dụng chính sách công để đảm

bảo về lợi ích cho các đối tượng được thụ hưởng chính sách trong xã hội, sẽ góp

phần củng cố niềm tin của người dân vào các chính sách công của Nhà nước đã

thông qua. Nội dung quan trọng trong quá trình thực thi chính sách công là để cho

các đối tượng thụ hưởng chính sách có được những lợi ích thật sự.

1.2.4. Quy trình thực hiện chính sách phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em

Luận văn vận dụng hướng tiếp cận đa ngành, liên ngành khoa học xã hội và vận

dụng các phương pháp nghiên cứu từ lý thuyết chính sách công: tiếp cận quy phạm

chính sách công về chu trình chính sách từ hoạch định đến xây dựng chính sách, thực

hiện và đánh giá chính sách có sự tham gia của các bên chủ thể chính sách, cụ thể việc

20

thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em trải qua 07 bước sau:

Bước 1: xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách phòng, chống

XHTD trẻ em

- Tổ chức thực thi chính sách phòng, chống XHTD trẻ em là quá trình phức

tạp, diễn ra trong một thời gian dài, vì thế chúng cần được lập kế hoạch, chương

trình để các cơ quan nhà nước triển khai thực hiện chính sách một cách chủ động.

Kế hoạch triển khai thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em được xây

dựng trước khi đưa chính sách vào cuộc sống.

- Các cơ quan triển khai thực thi chính sách từ trung ương đến địa phương

đều phải xây dựng kế hoạch, chương trình thực hiện. Kế hoạch triển khai thực thi

chính sách phòng, chống XHTD trẻembao gồm những nội dung cơ bản: lập kế

hoạch tổ chức, điều hành cần đảm bảo những dự kiến về hệ thống các cơ quan chủ

trì và phối hợp triển khai thực hiện chính sách; số lượng và chất lượng nhân sự tham

gia tổchức thực thi; những dự kiến về cơ chế trách nhiệm của cán bộ quản lý và

công chức thực thi; cơ chế tác động giữa các cấp thực thi chính sách; xác định kế

hoạch cung cấp các nguồn vật lực gồm dự kiến vềcác cơ sở kiến trúc, trang thiết bị

kĩ thuật phục vụcho tổchức thực thi chính sách phòng, chống XHTD trẻ em; các

nguồn lực tài chính.

-Dự kiến vềthời gian duy trì chính sách, các bước tổchức, triển khai thực

hiện từ tuyên truyền chính sách đến tổng kết rút kinh nghiệm. Mỗi bước đều có mục

tiêu cần đạt được và thời gian dự kiến cho việc thực hiện mục tiêu.

- Kế hoạch kiểm tra thực thi chính sách là những dự kiến vềtiến độ, hình

thức, phương pháp kiểm tra, giám sát tổchức thực thi chính sách.

- Dự kiến những nội quy, quy chế trong thực thi chính sách bảo vệ, chăm sóc

trẻ em bao gồm nội quy, quy chế về tổ chức, điều hành; về trách nhiệm, nghĩa vụvà

quyền hạn của cán bộ, công chức và các cơ quan nhà nước tham gia tổ chức điều

hành chính sách; về các biện pháp khen thưởng, kỷ luật cá nhân, tập thể trong tổ

chức thực thi chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em.

Bước 2: tuyên truyền chính sách phòng, chống XHTD trẻ em

Sau khi kế hoạch thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em được

thông qua, các cơ quan trong bộ máy nhà nước tiến hành tổ chức triển khai thực

21

hiện theo kế hoạch.

-Trong quá trình thực hiện chính sách phải truyên truyền, vận động nhân dân

tham gia thực hiện chính sách pḥòng, chống XHTD. Tuyên truyền chính sách tốt

giúp cho các đối tượng chính sách và mọi người dân tham gia thực thi hiểu rõ về

mục đích, yêu cầu của chính sách; hiểu rõ vềtính đúng đắn của chính sách trong

điều kiện hoàn cảnh nhất định và về tính khả thi của chính sách để họ có thể tự giác

thực hiện theo yêu cầu quản lý của nhà nước. Đồng thời, phổ biến, tuyên truyền

chính sách còn giúp cho mỗi cán bộ, công chức, viên chức có trách nhiệm tổ chức

thực thi nhận thức được đầy đủ tính chất, trình độ, quy mô của chính sách với đời

sống xã hội để chủ động tích cực tìm kiếm các giải pháp thích hợp cho việc thực

hiện mục tiêu chính sách và triển khai thực thi có hiệu quả kế hoạch tổ chức thực

hiện chính sách được giao.

- Chủ thể phổ biến, tuyên truyền chính sách phòng, chống XHTD trẻ em bao

gồm đội ngũ cán bộ trong bộ máy cơ quan nhà nước được giao nhiệm vụ. Đội ngũ

này phải được đào tạo đủ trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng trong việc tuyên truyền,

phổ biến chính sách phòng, chống XHTD trẻ em đảm bảo chính sách khi được phổ

biến, tuyên truyền phải đảm bảo tính trung thực, khách quan.

- Đối tượng phổ biến, tuyên truyền chính sách phòng, chống XHTD trẻ em

bao gồm: những công dân được tác động trực tiếp và là đối tượng thụ hưởng chính

sách phòng, chống XHTD trẻ em; những công dân bị tác động gián tiếp bởi chính

sách phòng, chống XHTD trẻ em, đây là những nhân tố góp phần làm cho chính

sách hiệu quả; những đối tượng tham gia thực thi, triển khai chính sách phòng,

chống XHTD trẻ em.

- Phương tiện và cách thức tuyên truyền: tuyên truyền là một trong những hoạt

động hiệu quả nhất nhằm nâng cao nhận thức của người dân và toàn xã hội trong thực

hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻem. Nội dung phải đa dạng về cách thức và phong

phú về hình thức đáp ứng được nhu cầu của từng đối tượng tuyên truyền.

Bước 3: phân công, phối hợp thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em

Hoạt động phân công, phối hợp diễn ra theo tiến trình thực hiện chính sách

bảo vệ, chăm sóc trẻ em một cách chủđộng, sáng tạo để luôn duy trì chính sách

được ổn định, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quảchính sách, đảm bảo phát huy

22

được tính năng động, sáng tạo của các yếu tố cấu thành và tác động đến chính sách.

Bước 4: duy trì chính sách phòng, chống XHTD trẻ em

Việc duy trì chính sách phòng, chống XHTD trẻ em là toàn bộ hoạt động

đảm bảo cho chính sách phát huy tác dụng trong đời sống chính trị và xã hội. Đồng

thời, phải có sự quyết tâm và thống nhất cao của các tổ chức, người thực thi và môi

trường thực hiện chính sách. Đối với các cơ quan quản lý nhà nước về chính sách

phòng, chống XHTD trẻ em phải chủ động tổ chức thực thi chính sách, tăng cường

công tác tuyên truyền, vận động các đối tượng chính sách và toàn xã hội tích cực

tham gia thực thi chính sách. Nếu việc thực thi chính sách gặp phải những khó khăn

do môi trường thực tế biến động thì các cơ quan nhà nước sử dụng hệ thống công cụ

quản lý tác động nhằm tạo lập môi trường thuận lợi cho việc thực thi chính sách,

đồng thời chủ động điều chỉnh chính sách cho phù hợp với hoàn cảnh mới.

Bước 5: điều chỉnh chính sách phòng, chống XHTD trẻ em

Trong quá trình thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em, do tác

động của nhiều yếu tố, chính sách sẽ bộc lộ sự bất cập. Từ đó, việc điều chỉnh chính

sách là một hoạt động cần thiết diễn ra thường xuyên trong tiến trình tổ chức thực

hiện chính sách. Việc điều chỉnh chính sách được thực hiện bởi cơ quan nhà nước

có thẩm quyền để cho chính sách ngày càng phù hợp với yêu cầu quản lý và tình

hình thực tế. Theo quy định, cơ quan nào ban hành chính sách thì được quyền điều

chỉnh, bổ sung chính sách, nhưng trên thực tế, việc điều chỉnh các biện pháp, cơ

chếchính sách diễn ra rất linh hoạt, vì thế cơ quan quản lý nhà nước các ngành, các

cấp chủ động điều chỉnh biện pháp, cơ chế chính sách đểthực hiện sao cho có hiệu

quả, miễn là không làm thay đổi mục tiêu của chính sách.

Bước 6: theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện chính sách phòng, chống

XHTD trẻ em

Việc đôn đốc thực hiện chính sách phòng, chống XHTD là hoạt động của cơ

quan, cán bộ, công chức có thẩm quyền thực hiện, thông qua các công cụ hữu ích

nhằm làm cho các chủ thể thực thi nêu cao ý thức trách nhiệm trong thực hiện các

biện pháp theo định hướng chính sách; vừa thúc đẩy các chủ thể nỗ lực nhiều hơn

để hoàn thành nhiệm vụ, vừa phòng, chống những hành vi vi phạm quy định trong

23

quá trình thực thi chính sách phòng, chống XHTD trẻ em.

Bước 7: tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm thực hiện chính sách phòng,

chống XHTD trẻ em

Tổng kết, đánh giá quá trình tổchức thực thi chính sách, xem xét, kết luận về

chỉ đạo, điều hành và chấp hành chính sách của các đối tượng thực thi chính sách.

Đối tượng được xem xét, đánh giá, tổng kết về chỉ đạo điều hành thực thi chính

sách là các cơ quan nhà nước từ trung ương đến cơ sở. Ngoài ra, còn xem xét cả vai

trò, chức năng của các tổchức chính trị, chính trị-xã hội và xã hội trong việc tham

gia thực thi chính sách phòng, chống XHTD trẻ em. Trên cơ sở để tổng kết, đánh

giá công tác chỉ đạo, điều hành thực thi chính sách phòng, chống XHTD trẻ em

trong các cơ quan nhà nước là kế hoạch được giao và những nội quy, quy chế được

xây dựng ở bước một của phần này; đồng thời còn kết hợp sử dụng các văn bản liên

tịch giữa cơ quan nhà nước với các tổ chức chính trị và xã hội và các văn bản quy

phạm khác để xem xét tình hình phối hợp chỉ đạo, điều hành thực thi chính sách

công của các tổ chức chính trị và xã hội với Nhà nước.

1.3. Hệthống chính sách phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em

1.3.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước

Các chủtrương của Đảng, về chính sách bảo vệ trẻ em được quy định trong

các văn kiện, đáng chú ý là Chỉ thị số 55-CT/TW ngày 28/6/2000 Bộ Chính trị về

tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng ở cơ sở đối với công tác chăm sóc, giáo

dục trẻ em, trong đó yêu cầu hạn chế đến mức thấp nhất sự xâm hại đối với trẻ em.

Có biện pháp giải quyết tốt một số mục tiêu quan trọng như: tích cực phòng chống

tình trạng dụ dỗ trẻ em tham gia buôn bán và nghiện hút ma túy, trẻ em bị xâm hại,

trẻ em làm trái pháp luật, trẻ em lang thang kiếm sống [2]. Bộ Chính trị ban hành

Chỉ thị 20/CT-TW, ngày 5/11/2012 về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối

với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình hình mới. Qua đó, yêu

cầu các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổquốc Việt Nam và các đoàn thể phải

quan tâm giáo dục pháp luật, kiến thức, kỹ năng chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ

em; phê phán, lên án các hành vi vi phạm pháp luật, xâm hại, bạo lực, lôi kéo trẻ em

vào hoạt động tội phạm và cản trở việc thực hiện các quyền của trẻ em. Rà soát, sửa

đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về chăm sóc, giáo dục và

24

bảo vệ trẻ em [3]. Quy định tại Hiến pháp năm 2013: “Nghiêm cấm xâm hại, hành

hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi

phạm quyền trẻ em” (khoản 1 Điều 37)[21].Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục

(BVCS&GD) trẻ em năm 2004 thay thế cho Luật Bảo vệ và chăm sóc (BV&CS) trẻ

em năm 1991 và kế thừa, phát huy những hiệu quả của Luật năm 1991 về vấn đề trẻ

em nhưng đồng thời tiếp thu có chọn lọc các quy định của pháp luật các nước và

văn kiện quốc tế; sửa đổi, bổ sung những quy định để điều chỉnh các quan hệ mới

phát sinh, bảo đảm phù hợp, thống nhất với hệ thống pháp luật hiện hành, đáp ứng

yêu cầu thực tiễn đềra. Tuy nhiên, bối cảnh kinh tế-xã hội của đất nước có nhiều

thay đổi, sự hội nhập quốc tếngày càng sâu rộng đã làm xuất hiện nhiều vấn đề mới

tác động đến công tác BV&CS trẻ em. Vì thế, Luật BVCS&GD trẻ em năm 2004 đã

bộc lộ những hạn chế, bất cập, không đáp ứng yêu cầu của các vấn đề mới phát

sinh,đặc biệt là vấn đề về BV&CS trẻ em [34].

Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Trẻ em, ngày 05/4/2016 gồm 7

chương với 106 Điều. Luật trẻ em năm 2016 ra đời là cơ sở pháp lý cao nhất quy

định về quyền, bổn phận của trẻ em; nguyên tắc, biện pháp bảo đảm thực hiện

quyền trẻ em; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình, cá nhân

trong việc thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em [39]. Để cụ thể hóa thực hiện

Luật trẻ em, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 56/2017/NĐ-CP ngày 09/5/2017

quy định chi tiết một số điều của Luật trẻ em. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt

Chương trình bảo vệ trẻ em giai đoạn 2016-2020 và Chương trình mục tiêu Phát

triển hệ thống trợ giúp xã hội giai đoạn 2016-2020, trong đó có dự án Phát triển hệ

thống bảo vệ trẻ em. Đồng thời, ban hành Chỉ thị số 18/CT-TTg, ngày 16/5/2017về

việc tăng cường giải pháp phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em.

Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 23/CT-TTg, ngày 26/5/2020

vềviệc tăng cường các giải pháp đảm bảo thực hiện quyền trẻ em và bảo vệ trẻ em,

là cơ sở pháp lý để các ban, ngành và cả hệ thống chính trị vào cuộc chăm lo cho

công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em vì mục tiêu phát triển ổn định và lâu dài của đất

nước. Trong những năm gần đây, quan điểm về chăm sóc, bảo vệ trẻ em của Đảng,

Chính phủViệt Nam đã có những thay đổi quan trọng. Xác định rõ vị trí và tầm

quan trọng trong bảo vệ, chăm sóc trẻ em gắn với mục tiêu phát triển đất nước theo

25

hướng bền vững và hội nhập, các quan điểm vềbảo vệ, chăm sóc trẻ em đã hướng

tới đảm bảo quyền và lợi ích của trẻ em, trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc trẻ em là của

toàn thể các cấp đảng, chính quyền, tổ chức chính trị xã hội và của toàn thể xã hội.

[52]

Theo quan điểm chỉ đạo của Đảng, chính sách phòng, chống XHTD trẻ em

hướng tới mục tiêu tạo môi trường an toàn, lành mạnh, tất cả trẻ em đều được bảo

vệ để giảm nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt, chủ trọng bảo vệ trẻ em không bị

xâm hại; trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được trợ giúp, chăm sóc để phục hội [52].

1.3.2. Vai trò của các tổ chức trong thực hiện chính sách phòng, chống

xâm hại tình dục trẻ em

- Quốc hội, Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện quyết định mục tiêu, chỉ

tiêu, chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội theo thẩm quyền

để thực hiện quyền trẻ em; giám sát việc thực hiện quyền trẻ em theo quy định của

pháp luật; phân bổ ngân sách hằng năm để bảo đảm thực hiện quyền trẻ em.

- Chính phủ có trách nhiệm thống nhất quản lý nhà nước về trẻ em; ban hành

theo thẩm quyền và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật, chương trình về trẻ em;

bảo đảm cơ chế và biện pháp phối hợp giữa các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan

thuộc Chính phủ, địa phương trong việc thực hiện quyền trẻ em, giải quyết các vấn

đề về trẻ em. Bảo đảm xây dựng và thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu liên quan đến

trẻ em trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn, trung hạn và hằng năm của

quốc gia, ngành, địa phương theo quy định. Chỉ đạo các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ

quan thuộc Chính phủ chủ trì, phối hợp thực hiện thanh tra, kiểm tra, giải quyết kiến

nghị, khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về trẻ em theo thẩm quyền. Bảo

đảm điều kiện để tổ chức đại diện tiếng nói, nguyện vọng của trẻ em thực hiện

nhiệm vụ theo quy định tại Khoản 2 Điều 77 của Luật Trẻ em năm 2016 và chỉ đạo,

phân công các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban Nhân dân

(UBND) cấp tỉnh phối hợp với tổ chức này trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Báo

cáo Quốc hội kết quả thực hiện quyền trẻ em và việc thực hiện nhiệm vụ của các bộ,

cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, địa phương liên quan đến trẻ em theo

quy định.

- Ủy ban Nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về trẻ em theo thẩm

26

quyền; tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật, kế hoạch, chương trình mục tiêu, chỉ

tiêu về trẻ em; ban hành theo thẩm quyền chính sách, pháp luật bảo đảm thực hiện

quyền trẻ em phù hợp với đặc điểm, điều kiện của địa phương. Chỉ đạo, tổ chức

thực hiện quyền trẻ em; bố trí và vận động nguồn lực bảo đảm thực hiện quyền của

trẻ em và bảo vệ trẻ em theo quy định; tổ chức, quản lý hoạt động của cơ sở cung

cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em theo thẩm quyền; bố trí người làm công tác bảo vệ trẻ em

ở địa phương. Hằng năm, báo cáo Hội Đồng nhân dân cùng cấp việc thực hiện

quyền trẻ em, giải quyết các vấn đề về trẻ em của địa phương. Đối với UBND cấp

xã giao nhiệm vụ cụ thể về thực hiện quyền của trẻ em, bố trí người làm công tác

bảo vệ trẻ em trong số các công chức cấp xã hoặc người hoạt động không chuyên

trách thuộc quyền quản lý.

- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có trách

nhiệmgiám sát, phản biện, tham vấn, kiến nghị đối với cơ quan nhà nước trong việc

xây dựng, thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật, phân bổ nguồn lực đáp ứng

quyền của trẻ em theo quy định của pháp luật. Tuyên truyền, vận động thành viên,

hội viên, đoàn viên của tổ chức và toàn xã hội hỗ trợ, tham gia thực hiện chính sách,

chương trình, kế hoạch, dịch vụ đáp ứng quyền của trẻ em, phòng ngừa hành vi vi

phạm quyền của trẻ em. Thực hiện chương trình, kế hoạch, dịch vụ đáp ứng quyền

trẻ em theo sự ủy quyền, hỗ trợ của Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan

thuộc Chính phủ; chấp hành việc thanh tra, kiểm tra theo quy định của pháp luật.

Riêng Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh ngoài việc thực hiện quy định trên, có

trách nhiệm sau đây: Chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức có liên quan thực hiện

nhiệm vụ của tổ chức đại diện tiếng nói, nguyện vọng của trẻ em; đề xuất với Chính

phủ các Điều kiện bảo đảm thực hiện trách nhiệm đại diện tiếng nói, nguyện vọng

của trẻ em và giám sát việc thực hiện quyền trẻ em theo ý kiến, nguyện vọng của trẻ

em; phối hợp với Bộ LĐTB&XH, cơ quan, tổ chức có liên quan, UBND cấp tỉnh

hướng dẫn bảo đảm sự tham gia của trẻ em vào các vấn đề về trẻ em. Trung ương

Hội LHPN Việt Nam ngoài việc thực hiện quy định nêu trên, có trách nhiệm phối

hợp với tổ chức đại diện tiếng nói, nguyện vọng của trẻ em thực hiện giám sát việc

bảo đảm quyền, lợi ích của trẻ em.

- Các tổ chức xã hội vận động thành viên của tổ chức và xã hội hỗ trợ, tham

27

gia xây dựng, thực hiện chính sách, pháp luật, chương trình, kế hoạch, dịch vụ đáp

ứng quyền của trẻ em, phòng ngừa hành vi vi phạm quyền của trẻ em. Thực hiện

chính sách, pháp luật, đáp ứng quyền của trẻ em theo tôn chỉ, mục đích, nhiệm vụ,

quyền hạn của tổ chức được pháp luật quy định; tiếp nhận, thu thập thông tin từ

thành viên và xã hội để phản ánh, kiến nghị, tư vấn cho cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo

dục, cá nhân về việc thực hiện chính sách, pháp luật. Tổ chức việc cung cấp dịch vụ

đáp ứng quyền của trẻ em theo sự ủy quyền, hỗ trợ của Chính phủ, các cấp chính

quyền, cơ quan quản lý nhà nước; chấp hành việc thanh tra, kiểm tra quá trình thực

hiện theo quy định của pháp luật. Hội bảo vệ quyền trẻ em Việt Nam còn có trách

nhiệm tổ chức việc kết nối, thu thập thông tin, kiến nghị của các tổ chức xã hội và

của trẻ em chuyển đến các cơ quan nhà nước để góp ý, tư vấn cho việc xây dựng và

thực hiện chính sách, pháp luật về quyền trẻ em; tham gia giám sát thực hiện quyền

trẻ em; phát biểu chính kiến và kiến nghị của Hội đối với các cơ quan nhà nước có

liên quan về các vấn đề về trẻ em và việc vi phạm pháp luật về trẻ em.

- Tổ chức phối hợp liên ngành về trẻ em: Thủ tướng Chính phủ thành lập tổ

chức phối hợp liên ngành về trẻ em để giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ

nghiên cứu, chỉ đạo, phối hợp, đôn đốc, Điều hòa giữa các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ

quan thuộc Chính phủ; phối hợp giữa Chính phủ với các cơ quan của Quốc hội,

TAND tối cao, Viện KSND tối cao, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức

thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; phối hợp

giữa các địa phương trong việc giải quyết các vấn đề về trẻ em, thực hiện quyền của

trẻ em. Căn cứ yêu cầu thực tế và điều kiện của địa phương, Chủ tịch UBND các

cấp thành lập tổ chức phối hợp liên ngành về trẻ em để giúp UBND, Chủ tịch

UBND cùng cấp phối hợp, đôn đốc, điều hòa việc giải quyết các vấn đề trẻ em, thực

hiện quyền của trẻ em ở địa phương.

- Vận động thành viên của tổ chức và xã hội hỗ trợ, tham gia xây dựng, thực

hiện chính sách, pháp luật, chương trình, kế hoạch, dịch vụ đáp ứng quyền của trẻ

em, phòng ngừa hành vi vi phạm quyền của trẻ em; tiếp nhận, thu thập thông tin từ

thành viên và xã hội để phản ánh, kiến nghị, tư vấn cho cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo

dục, cá nhân về việc thực hiện chính sách, pháp luật; tổ chức việc cung cấp dịch vụ

đáp ứng quyền của trẻ em theo sự ủy quyền, hỗ trợ của Chính phủ, các cấp chính

28

quyền, cơ quan quản lý nhà nước; chấp hành việc thanh tra, kiểm tra quá trình thực

hiện theo quy định của pháp luật. Trong đó, Hội bảo vệ quyền trẻ em Việt Nam còn

có trách nhiệm tổ chức việc kết nối, thu thập thông tin, kiến nghị của các tổ chức xã

hội và của trẻ em chuyển đến các cơ quan nhà nước để góp ý, tư vấn cho việc xây

dựng và thực hiện chính sách, pháp luật về quyền trẻ em; tham gia giám sát thực

hiện quyền trẻ em; phát biểu chính kiến và kiến nghị của Hội đối với các cơ quan

nhà nước có liên quan về các vấn đề về trẻ em và việc vi phạm pháp luật về trẻ em.

- Quỹ Bảo trợ trẻ em thực hiện vận động sự đóng góp tự nguyện của cơ quan,

tổ chức, cá nhân ở trong nước và nước ngoài, viện trợ quốc tế và hỗ trợ của ngân

sách nhà nước trong trường hợp cần thiết để thực hiện các mục tiêu về trẻ em được

Nhà nước ưu tiên. Việc vận động, quản lý và sử dụng Quỹ Bảo trợ trẻ em đúng mục

đích và quy định của pháp luật.

Về trách nhiệm của gia đình, cá nhân và cơ sở giáo dục bảo đảm cho trẻ

được sống với cha, mẹ; chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục trẻ;bảo đảm quyền học tập,

phát triển năng khiếu, vui chơi, giải trí, hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch của trẻ

em; bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm, danh dự, bí mật đời sống riêng tư của

trẻ em; bảo đảm quyền dân sự của trẻ em; quản lý trẻ em và giáo dục để trẻ em thực

hiện được quyền và bổn phận của trẻ em.

1.3.3. Các chế tài hình sự xử lý đối với các hành vi bạo lực và xâm hại trẻ

em theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành

Một nguyên nhân gây nên tình trạng xâm hại trẻ em là việc thiếu quy định

chặt chẽ trong luật, chế tài xử phạt tuy có nhưng “nhiều khi không tương xứng với

hành vi bạo lực cần xử lý”. Có thể thấy qua việc pháp luật chưa bắt buộc những

người phát hiện, nghi ngờ trẻ em bị bạo lực, xâm hại phải khai báo, trừ phi các hành

vi đó có yếu tố hình sự, chưa quy định về việc bảo vệ trẻ em là nạn nhân, nhân

chứng hay thủ phạm; quy trình, trách nhiệm thẩm quyền đánh giá nguy cơ và quản

lý trường hợp trẻ em bị bạo lực, xâm hại, cũng như những tiêu chuẩn cụ thể về đánh

giá mức độ nguy cơ gây tổn hại cho trẻ em của các hành vi bạo lực, xâm hại để từ

đó có kế hoạch và hạn chế tối đa những tổn hại có thể gây ra cho trẻ em.

Bộ Luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có hiệu lực từ ngày

01/01/2018 dành các điều Luật và quy định khung hình phạt đối với các hành vi bạo

29

lực, xâm hại và phạm tội với trẻ em như điểm b, khoản 2, Điều 127 “Tội làm chết

trong khi thi hành công vụ”; điểm b, khoản 2, Điều 130 “Tội bức tử”; điểm d,

khoản 2, Điều 133 “Tội đe dọa giết người”; điểm e, Điều 134 “Tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác”; điểm c, khoản 2, Điều 137 “Tội

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong thi hành công

vụ”; Điều 142 “Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi”; Điều 143 “Tội cưỡng dâm”;

Điều 144 “Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”; Điều 145 “Tội

giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến

dưới 16 tuổi”; Điều 146 “Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi”; Điều 147 “Tội sử

dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm”; Điều 184 “Tội loạn luân”; Điều

186 “Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng”… khung hình phạt đối với

các tội này rất nghiêm khắc.

1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách phòng, chống

xâm hại tình dục trẻ em

1.4.1. Hệ thống luật pháp

Những khoảng trống trong hệ thống pháp luật liên quan đến bảo vệ trẻ em và

sự hạn chế cả về năng lực, số lượng lẫn quyền hạn pháp lý của hệ thống cán bộ và

mạng lưới cộng tác viên làm công tác bảo vệ mỏng, thiếu đồng bộ, chủ yếu là cán

bộ không chuyên trách làm công tác chăm sóc trẻ em ở cơ sở cũng là những nguyên

nhân dẫn đến nguy cơ trẻ em bị XHTD gia tăng [54]. Trong khi đó, việc tiếp nhận,

xử lý thông tin, thông báo tố giác hành vi xâm hại trẻ em và phối hợp xác minh,

điều tra về hành vi xâm hại trẻ em còn thiếu chặt chẽ. Quy định về việc tách trẻ em

ra khỏi cha mẹ, người chăm sóc trong trường hợp chính là cha mẹ, người chăm sóc

có hành vi XHTD đối với trẻ em chưa có…

Bên cạnh đó, chế tài xử lý hành vi XHTD trẻ em quy định rất cụ thể trong Bộ

Luật Hình sự năm 1999 và Bộ Luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có

hiệu lực từ ngày 01/01/2018, trong đó có quy định cụ thể về các tội XHTD với

người chưa thành niên với các nhóm độ tuổi cụ thể (từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, từ

13 tuổi đến dưới 16 tuổi, dưới 13 tuổi) gồm: tội hiếp dâm, tội cưỡng bức, tội dâm ô,

tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi XHTD khác, tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào

30

mục đích khiêu dâm… Đây là các tội phạm có tính nguy hiểm trong xã hội, xâm

phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của các em (không phân biệt

nam hay nữ), khung hình phạt đối với tội này rất nghiêm khắc.

Tóm lại, yếu tố chính sách pháp luật đóng một vai trò quan trọng trong việc

hoạch định, xây dựng các chương trình, kế hoạch liên quan đến công tác quản lý,

chế tài xử lý và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các em.

1.4.2. Nhận thức và triển khai thực hiện của chính quyền địa phương

Môi trường là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách.

Nếu môi trường tốt thì chính sách tốt, chính sách sẽ dễ dàng thực hiện và ngược lại

nếu môi trường không thuận lợi thì việc thực hiện chính sách gặp nhiều khó khăn,

không hiệu quả.

Yếu tố quan trọng trong hoạch định, xây dựng chính sách xác định mục tiêu,

nhiệm vụ và thể chế phòng, chống XHTD trẻ em. Đây là yếu tố có tác động trực

tiếp đến cách giải quyết vấn đề bằng chính sách và gắn liền với mỗi vấn đề chính

sách, tổ chức thực thi chính sách. Vấn đề của chính sách phòng, chống XHTD trẻ

em là vấn đề bức xúc hiện nay được nhà nước và xã hội quan tâm, giải quyết theo

mục tiêu đã định hướng. Tính chất của vấn đề chính là yếu tố khách quan có ảnh

hưởng trực tiếp đến việc tổ chức thực thi chính sách nhanh hay chậm, thuận lợi hay

khó khăn.

Sự tham gia phối hợp giữa các đối tượng thực hiện chính sách và đối tượng

thụ hưởng chính sách là một trong những tác nhân gây ảnh hưởng đến chính sách

tuy nhiên rất ít địa phương quan tâm, chú trọng; lợi ích của các đối tượng trong quá

trình thực hiện mục tiêu chính sách phải đồng nhất với nhau. Nếu lợi ích của các đối

tượng tham gia thực hiện chính sách mâu thuẫn với lợi ích của đối tượng thụ hưởng

thì thực hiện chính sách sẽ khó khăn, thậm chí còn thất bại và ngược lại nếu lợi ích

của các đối tượng tham gia thực hiện chính sách đồng nhất với đối tượng thụ hưởng

thì chính sách sẽ được thực hiện dễ dàng hơn. Nhìn chung mối quan hệ giữa các đối

tượng thực thi chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em ở nước ta cơ bản là đồng thuận.

Để các hoạt động liên quan đến việc thực hiện chính sách phòng, chống

XHTD trẻ em có hiệu quả thì nhà nước phải chú trọng đầu tư nguồn lực vật chất cả

về số lượng và chất lượng; chế độ tiền lương, các ưu đãi đối với đội ngũ cán bộ

31

công chức trực tiếp thực hiện chính sách. Những điều kiện về vật chất có ảnh hưởng

rất lớn đến hiệu quả thực hiện chính sách, nó giúp cho thực hiện chính sách được

thuận tiện nhanh chóng, giúp cho các nhà nghiên cứu có thể triển khai những ý

tưởng sáng tạo của mình thành hiện thực, giúp cho đội ngũ cán bộ thực hiện chính

sách yên tâm làm việc, tâm huyết với nhiệm vụ được giao góp phần đạt được mục

tiêu đã đề ra của chính sách.

1.4.3. Đặc điểm gia đình

Trong khi các vụ XHTD có chiều hướng gia tăng, khiến dư luận lo lắng cho

con em thì nhiều đối tượng gây ra lại là những người thân quen với trẻ [25]. Điều

này cũng chính là vấn đề các bậc cha mẹ quan tâm và lo lắng nhiều nhất. Vậy, câu

hỏi đặt ra là cha mẹ làm sao có thể yên tâm khi không phải lúc nào cũng ở bên trẻ

em cả ngày? Câu trả lời đó là dạy kỹ năng cho trẻ. Các kỹ năng cần thiết như: Kỹ

năng xử lý khi có kẻ dụ dỗ, ép buộc trẻ em làm đều trẻ em không thích; kỹ năng tìm

người giúp đỡ; kỹ năng từ chối, nói không… Nhưng thực tế các kỹ năng này còn

chưa được nhiều cha mẹ quan tâm chủ động dạy con kỹ năng tự bảo vệ, thậm chí vì

e ngại ảnh hưởng đến tương lai của con em mình nên cũng không tố giác kẻ phạm

tội; việc cha mẹ sao nhãng, bỏ mặc con cái ở một số gia đình cũng là mầm mống

nảy sinh các hành vi XHTD đối với trẻ em. Ngoài ra, một thực trạng là bản thân các

bậc cha mẹ cũng chưa hiểu hết về hành vi xâm hại và càng chưa nhận biết được

nguy cơ con mình sẽ bị xâm hại [57]. Nhiều bậc cha mẹ cũng như người thân trong

gia đình trẻ thiếu hụt kiến thức về sự phát triển thể chất, tâm sinh lý ở từng lứa tuổi

của trẻ em, không biết cách trò chuyện, hướng dẫn trẻ về cơ thể, các nguy cơ và kỹ

năng tự bảo vệ mình. Cha mẹ giao trẻ cho người khác chăm sóc mà hoàn toàn

không có sự giám sát, nghi ngờ, không có ý thức về bảo vệ trẻ em khỏi bị XHTD

[28].

Một số gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn; cha mẹ ly hôn, ly thân; cha

mẹ mắc các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật… cũng là nguyên nhân dẫn đến việc

trẻ em bỏ học, lang thang kiếm sống và bị bạo lực, XHTD. Một bộ phận gia đình

mải mê kiếm sống làm giàu đã bỏ mặc cho con cái đi lang thang, trẻ em không có

người bảo vệ nên đã bị các đối tượng xấu XHTD [28]. Chưa kể, sự xuất hiện của

các ấn phẩm, trò chơi, thông tin trên mạng internet, phim ảnh ngoài luồng có tính

chất bạo lực, khiêu dâm cũng góp phần dẫn đến nguy cơ trẻ em bị XHTD.

32

1.4.4. Đặc điểm trẻ em

Với lứa tuổi của các em còn nhỏ nên việc thiếu nhận thức về các vấn đề và

các mối nguy hiểm từ việc xâm hại, lạm dụng tình dục. Đa phần khi sự việc xảy ra

rồi, khi các em có dấu hiệu khủng hoảng về tâm lý thì người lớn mới phát hiện. Hơn

nữa, các em khi bị XHTD đa phần đều có tâm lý sợ hãi, mặc cảm, tự ti nên không

dám chia sẻ, không dám tố giác kẻ phạm tội. Trong khi đó, cha mẹ ít chủ động dạy

con kỹ năng tự bảo vệ và đôi khi e ngại ảnh hưởng đến tương lai của con em mình

nên cũng không tố giác kẻ phạm tội [55].

Một yếu tố chủ quan mà trẻ em vô ý tạo nên những kẻ hở của sự quá hớ hênh

như mặc đồ quá mát mẻ so với độ tuổi của trẻ, hay có những tư thế ngồi hay đi thiếu

ý tứ. Chính điều đó, khi tình huống xâm hại tình dục xảy ra với các em, các em

chưa nhận thức mức độ nghiêm trọng, thậm chí khi bị đe dọa các em chỉ biết một

mình xử lý và sợ hãi.

1.4.5. Trình độ, kỹ năng của người thực hiện công tác phòng, chống xâm

hại tình dục trẻ em

Đội ngũ cán bộ làm công tác trẻ em có vai trò quyết định đến kết quả tổ chức

thực hiện chính sách phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em. Năng lực thực thi của

cán bộ là thước đo bao gồm nhiều tiêu chí phản ánh về đạo đức công vụ, thiết kế tổ

chức, phân tích, dự báo… để có thể chủ động ứng phó được với những tình huống

phát sinh. Với chính sách phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em thì năng lực thực

hiện chính sách của cán bộ là kiến thức, kỹ năng và tinh thần trách nhiệm của họ

trong thực hiện nhiệm vụ. Một chính sách thực hiện có hiệu quả, đòi hỏi đội ngũ

cán bộ thực hiện chính sách phải nắm vững kiến thức chuyên môn, am hiểu mục

tiêu, nội dung, nhiệm vụ, phạm vi, đối tượng, quy mô, tầm quan trọng của chính

sách đồng thời phải có kỹ năng thực tế, phổ biến tuyên truyền chính sách, có tinh

33

thần, thái độ trách nhiệm trong thực hiện chính sách.

Tiểu kết chương

Thông qua chương 1, luận văn đã làm rõ được các khái niệm như: khái niệm

về trẻ em là người dưới 16 tuổi, khái niệm XHTD là dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo,

dụ dỗ trẻ em tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục bao gồm hiếp dâm,

cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với trẻ em và sử dụng trẻ em vào mục đích mại dâm,

khiêu dâm dưới mọi hình thức. Trong đó, lý luận về công tác phòng, chống XHTD

trẻ em được hiểu là trang bị những kiến thức, kỹ năng, những hiểu biết về cơ thể

mình về bảo vệ bản thân trước những nguy cơ khi người khác có ý đồ xấu đồng thời

nâng cao năng lực xử lý các tình huống nguy cơ có thể xảy ra với các em.

Chương này nêu lên những vấn đề lý luận về nguyên nhân, hậu quả và các

vấn đề gặp phải của trẻ là nạn nhân của XHTD. Xác định được các yếu tố ảnh

hưởng đến thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống XHTD trẻ em đó là: Hệ

thống luật pháp; nhận thức và triển khai thực hiện của chính quyền địa phương; đặc

điểm từ gia đình; đặc điểm từ trẻ.

Chương 1 đã xác định sự cần thiết về thực hiện chính sách phòng, chống

XHTD trẻ em thông qua các hoạt động như: hoạt động truyền thông trong phòng,

chống XHTD trẻ em; hoạt động giáo dục trong phòng, chống XHTD trẻ em; hoạt

động phát triển kỹ năng trong phòng, chống XHTD trẻ em; hoạt động tư vấn trong

phòng, chống XHTD trẻ em.

Những căn cứ pháp lý hỗ trợ trong thực hiện phòng, chống XHTD trẻ em

cũng đã được trình bày: Quyền trẻ em theo quy định của pháp luật quốc tế; một số

quyền cơ bản của trẻ em theo pháp luật của Việt Nam hiện hành; các chế tài hình sự

xử lý đối với các hành vi bạo lực và xâm hại trẻ em theo quy định của pháp luật

34

Việt Nam hiện hành.

Chương 2

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÒNG,

CHỐNG XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG

2.1. Khái quát về địa bàn và khách thể nghiên cứu

2.1.1. Khái quát điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh An Giang

An Giang hiện có 1.908.601 người (năm 2019) là một tỉnh thuộc vùng đồng

bằng sông Cửu Long có diện tích tự nhiên là 3.536,8 km2, một phần nằm trong tứ

giác Long Xuyên, phía tây bắc có chung đường biên giới giáp với tỉnh Kandal và

tỉnh TaKeo của Vương quốc Campuchia (104 km), phía tây nam giáp tỉnh Kiên

Giang (69km), phía nam giáp thành phố Cần Thơ (44km), phía đông giáp tỉnh Đồng

Tháp (107km) [62].

Nhiều năm qua, tỉnh luôn quyết tâm triển khai thực hiện hướng đến mục tiêu

nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ, hiệu quả quản lý của chính quyền, phát

huy dân chủ, kỷ cương, khai thác mạnh mẽ lợi thế trong liên kết vùng và lợi thế so

sánh của địa phương, huy động nguồn lực xã hội và tranh thủ ngoại lực tập trung

phát triển nông nghiệp theo chiều sâu tạo nền tảng phát triển thương mại, dịch vụ,

du lịch và công nghiệp nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân.

Đồng thời, đẩy mạnh thực hiện nâng cao chất lượng phong trào toàn dân đoàn kết

xây dựng đời sống văn hóa, xây dựng nếp sống văn minh đô thị, xây dựng nông

thôn mới; thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, công tác bình đẳng giới và các

quyền trẻ em...

2.1.2. Khái quát về tình hình trẻ em

Toàn tỉnh có 463.747 trẻ em, chiếm 24,3% tổng dân số (năm 2019). Số trẻ

em đang học mầm non, mẫu giáo và các cấp học phổ thông là 423.677, chiếm tỉ lệ

91,35% tổng số trẻ em. Số trẻ em không được đến trường, phải tham gia lao động

trái pháp luật là 03, chiếm tỉ lệ 0,065% tổng số trẻ em. Số trẻ em bỏ nhà đi lang

thang, không có nơi cư trú ổn định là 41, chiếm tỉ lệ 0,0088% tổng số trẻ em. Số trẻ

em có cha, mẹ ly hôn là 889, chiếm tỉ lệ 0,19% tổng số trẻ em. Số trẻ em có hoàn

cảnh đặc biệt là 4567, chiếm tỉ lệ 0,98% tổng số trẻ em. Số trẻ em dưới 6 tuổi đã

35

được cấp 231.340 thẻ bảo hiểm y tế, chiếm tỉ lệ 49,88% tổng số trẻ em [62].

Tổng số trẻ em bị xâm hại 198, trong đó 191 trẻ em nữ, 07 trẻ em nam. Với

các hình thức xâm hại: bạo lực 01, xâm hại tình dục 147, mua bán 01, các hình thức

gây tổn hại khác 49, so với 5 năm trước đã giảm đáng kể, nhất là hành vi mua bán

trẻ em [62] .

2.2. Tình hình thực hiện chính sách phòng, chống xâm hại tình dục trẻ

em trên địa bàn tỉnh An Giang

2.2.1. Bộ máy quản lý phụ trách triển khai thực hiện chính sách phòng,

chống xâm hại trẻ em

Tỉnh An Giang đã thành lập Ban Điều hành Hệ thống Bảo vệ trẻ em dựa vào

cộng đồng và Nhóm công tác Bảo vệ trẻ em (Quyết định số 1985/QĐ-UBND ngày

22/9/2015 của UBND tỉnh kiện toàn Ban Điều hành Hệ thống Bảo vệ trẻ em dựa

vào cộng đồng và Nhóm công tác Bảo vệ trẻ em tỉnh An Giang) gồm 20 thành viên,

do đồng chí Phó Chủ tịch UBND tỉnh làm trưởng ban. Thành phần Ban điều hành:

Sở LĐTB&XH, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh, Sở Giáo dục và Đào tạo,

Sở Y tế, Sở Tư pháp, Công an tỉnh, Tỉnh Đoàn, Hội LHPN tỉnh, Ban Bảo vệ, chăm

trẻ em của Sở LĐTB&XH có nhiệm vụ triển khai thực hiện tốt các chương trình, kế

hoạch, dự án của tỉnh liên quan đến công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em.

Sở LĐTB&XH là cơ quan tham mưu giúp UBND tỉnh thực hiện các chức

năng quản lý Nhà nước về lĩnh vực công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em, phòng, chống

xâm hại trẻ em; đã bố trí 05 công chức tham mưu thực hiện. Có Trung tâm công tác

xã hội tỉnh thực hiện chức năng cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em, đảm bảo các yếu tố

về năng lực cán bộ, cơ sở vật chất phù hợp đã góp phần rất lớn trong việc trợ giúp

trẻ em bị xâm hại.

Tại 11/11 huyện, thị, thành phố có 11 chuyên viên phụ trách đều kiêm

nhiệm. Tại 156/156 xã, phường, thị trấn có 180 cán bộ không chuyên trách làm

công tác xóa đói giảm nghèo – gia đình và trẻ em.

2.2.2. Định hướng chỉ đạo, xây dựng chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em,

pḥng, chống xâm hại trẻ em

Thời gian qua, công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em cũng như phòng, chống xâm

hại trẻ em tỉnh An Giang luôn được các cấp ủy Đảng, chính quyền và cộng đồng xã

36

hội quan tâm, là một trong những mục tiêu xuyên suốt trong tiến trình phát triển

kinh tế - xã hội của tỉnh. Đồng thời, Tỉnh ủy, HĐND, UBND cũng đã ban hành các

Chỉ thị, Nghị quyết, Chýõng trình, các dự án, xây dựng tổ chức bộ máy, bố trí và

đào tạo cán bộ quản lý, xây dựng và phát triển các tổ chức, cung cấp dịch vụ liên

quan nhằm mục tiêu BVCS&GD trẻ em.

Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Chỉ thị số 14-CT/TU, ngày 29/5/2012 về

tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng cơ sở đối với công tác chăm sóc và

giáo dục trẻ em; đồng thời thực hiện Chỉ thị số 20-CT/TƯ, ngày 05/11/2013 của Bộ

Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục

và bảo vệ trẻ em trong tình hình mới, Quyết định số 2361/QĐ-TTg, ngày

22/12/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình bảo vệ trẻ em giai

đoạn 2016 -2020 và Chỉ thị số 18/CT-TTg ngày 16/5/2017 về việc tăng cường giải

pháp phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em.

Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành 12 văn bản quản lý, điều hành, chỉ đạo tổ

chức thực hiện về các chính sách trong công tác phòng, chống xâm hại trẻ em khá

kịp thời, cụ thể hóa các chính sách của trung ương quy định, nhiệm vụ chính trị của

địa phương trong từng giai đoạn: Công văn số 1161/UBND-KGVX ngày 16/8/2016

về việc định mức kinh phí hỗ trợ đối với trẻ em bị xâm hại; Kế hoạch số 247/KH-

UBND ngày 24/5/2016 về phê duyệt Chương trình thúc đẩy quyền tham gia của trẻ

em vào các vấn đề trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang giai đoạn 2016-2020; Kế

hoạch số 257/KH-UBND ngày 11/5/2017 thực hiện công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ

em bị bạo lực, bị xâm hại tình dục giai đoạn 2017-2020; Công văn số 2127/UBND-

KGVX ngày 07/12/2017 về tăng cường phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em trên

địa bàn tỉnh; Công văn số 557/UBND-KGVX ngày 29/5/2018 về việc tăng cường

các biện pháp bảo vệ trẻ em; Công văn số 1396/UBND-NC ngày 24/12/2018 về

việc tăng cường phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em; Kế hoạch số 475/KH-

UBND ngày 16/8/2017 và Kế hoạch số 536/KH-UBND ngày 10/7/2018 về việc

kiểm tra thực hiện quyền trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang năm 2017, 2018; Kế

hoạch số 756/KH-UBND, ngày 16/11/2018 về thực hiện Dự án 4 “Đấu tranh phòng,

chống tội phạm xâm hại trẻ em và người chưa thành niên vi phạm pháp luật và

phòng, chống bạo lực gia đình, mua bán người” tỉnh An Giang giai đoạn 2018-

37

2020; Quyết định số 2977/QĐ-UBND ngày 26/11/2018 về thành lập Ban chủ hiệm

Dự án 4 tình và Kế hoạch số 756/KH-UBND, ngày 26/11/2018 về thực hiện Dự án

4; Quyết định số 1985/QĐ-UBND, ngày 22/9/2015 về kiện toàn Ban Điều hành hệ

thống bảo vệ trẻ em dựa vào cộng đồng và nhóm công tác bảo vệ trẻ em; Quyết

định số 605/QĐ-UBND, ngày 27/3/2018 về triển khai thí điểm Mô hình “Địa chỉ

tin cậy – Nhà tạm lánh tại cộng đồng” giai đoạn 2018-2020.

Trong đó, nổi bật là việc UBND tỉnh ban hành Quyết định số 2977/QĐ-

UBND, ngày 26/11/2018 về thành lập Ban Chủ nhiệm Dự án “Đấu tranh phòng,

chống tội phạm xâm hại trẻ em và người chưa thành niên vi phạm pháp luật và

phòng, chống bạo lực gia đình, mua bán người” giai đoạn 2018 – 2020 (gọi tắt là

Dự án 4) và Kế hoạch số 756/KH-UBND, ngày 26/11/2018 về thực hiện Dự án 4

giao cho ngành Công an là đơn vị chủ trì.

Đặc biệt 07 sở, ngành: Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) tỉnh, Công an tỉnh,

Viện Kiểmsát Nhân dân (KSND) tỉnh, Tòa án nhân dân (TAND) tỉnh, Sở Tư pháp,

Sở Y tế, Sở Giáo dục-Đào tạo, Sở Lao động-Thương binh và Xã hội (LĐTB&XH)

đã xây dựng, ký kết Chương trình phối hợp số 02/CTPH-HLHPN-CA-VKSND-

TAND-STP-SYT-SGD&ĐT-SLĐTB&XH,ngày 30/5/2019 về công tác bảo vệ an

toàn cho phụ nữ và trẻ em gái, giai đoạn 2019 – 2021 với mục tiêu phát huy vai trò,

trách nhiệm và tăng cường sự phối hợp trong đấu tranh phòng chống tội phạm, vi

phạm pháp luật về quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và trẻ em gái. Trong giai

đoạn 2019 - 2021, các cơ quan, tổ chức trong phạm vi chức năng nhiệm vụ của

mình phối hợp thực hiện có hiệu quả các nội dung: phối hợp xử lý tố giác tin báo về

tội phạm và kiến nghị khởi tố trong đầu tranh phòng chống tội phạm, vi phạm pháp

luật về quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và trẻ em gái; phối hợp tổ chức các hoạt

động truyền thoông đối với các vụ viêc nghiêm trọng liên quan đến phụ nữ, trẻ em

gái gây bức xúc trong dư luận tổ chức hội thảo, tọa đàm, chia sẻ kinh nghiệm thực

tiễn triển khai hoạt động; nhân rộng mô hình hiệu quả, cách làm hay trong công tác

bảo vệ an toàn cho phụ nữ và trẻ em gái. Các bên phối hợp nâng cao năng lực thực

hiện nhiệm vụ liên quan đến bảo vệ phụ nữ và trẻ em gái thông qua bồi dưỡng tập

huấn kiến thức, kỹ năng cần thiết cho cán bộ Hội LHPN các cấp và cán bộ công

chức các ngành; phối hợp biên soạn, xây dựng tài liệu tuyên truyền liên quan công

38

tác bảo vệ phụ nữ, trẻ em gái. Phối hợp giám sát hoạt động tư pháp đối với các vụ

việc liên quan đến phụ nữ, trẻ em gái theo quy định tại Điều 33 Bộ luật Tố tụng

hình sự năm 2015 và phối hợp tổ chức sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm, thi đua

khen thưởng trong thực hiện Chương trình phối hợp.

2.2.3. Kết quả triển khai thực hiện chính sách

2.2.3.1.Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, pháp luật, kiến thức, kỹ năng về

phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em

Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về trẻ em, phòng, chống

xâm hại trẻ em luôn được các cấp ủy, chính quyền địa phương quan tâm lãnh đạo, chỉ

đạo kịp thời, các ngành chủ trì, tham gia khá thường xuyên, như: Công an, Hội LHPN,

Đoàn TNCS, Tư pháp, LĐTB&XH, Phát thanh - Truyền hình... để thực hiện cả chiều

rộng lẫn chiều sâu.Nổi bật là hệ thống chính trị ở cơ sở đã phổ biến đến cán bộ tổ dân

phố, phụ nữ, các ông bố, bà mẹ có con dưới 16 tuổi, trẻ em tại địa bàn dân cư... các

tầng lớp nhân dân.

Nội dung tuyên truyền, phổ biến, giáo dục tập trung nhất là Luật BVCS&GD trẻ

em, Luật Trẻ em, Luật Hôn nhân - Gia đình, Luật Hình sự, các văn bản quy phạm pháp

luật của Quốc hội, Chính phủ về công tác phòng, chống xâm hại trẻ em; chế tài xử lý vi

phạm, hình phạt đối với hành vi xâm hại trẻ em; phương thức, thủ đoạn hoạt động,

nguyên nhân của các đối tượng thực hiện hành vi xâm hại trẻ em; kiến thức về sức

khỏe sinh sản vị thành niên; giáo dục kỹ năng sống cho trẻ vị thành niên; vai trò của gia

đình, nhà trường trong việc giáo dục đạo đức, nhân cách trẻ em; tâm sinh lý lứa tuổi vị

thành niên. Qua đó, cấp tỉnh tổ chức 03 diễn đàn trẻ em với chủ đề “Trẻ em với vấn

đề phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em” và các chủ đề liên quan đến quyền trẻ em

thu hút hơn 200 trẻ em tham gia; 11/11 huyện, thị, thành phố tổ chức diễn đàn trẻ

em thu hút gần 10.000 trẻ em tham gia, qua đó hướng dẫn các em về kiến thức, kỹ

năng phòng ngừa bạo lực, xâm hại trẻ em và tạo điều kiện cho các bày tỏ ý kiến,

nguyện vọng với các cấp lãnh đạo. Song song đó, các ngành có liên quan phối hợp

tổ chức được nhiều hoạt động thiết thực:

- Sở LĐTB&XH, Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Tư pháp, Công an, Sở Y tế,

Hội LHPN tỉnh, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Trường Đại học An Giang tổ chức

tuyên truyền các nội dung phòng, chống XHTD trẻ em, bạo lực học đường, kỹ năng

39

chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên trong trường học, tư vấn pháp luật, trợ

giúp pháp lý, các văn bản luật có liên quan đến tội phạm bạo lực, xâm hại trẻ em

được 500 cuộc, có hơn 6.000 lượt tham dự;

- Sở Tư pháp, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Đài Phát thanh - Truyền

hình phối hợp biên soạn, ghi hình và phát sóng các tình huống pháp luật, tình huống

liên quan đến trẻ em.. bằng hình thức tuyên truyền trên các phương tiện thông tin

đại chúng như đưa tin bài viết trên webside tỉnh, phóng sự trên đài, bài viết trên báo

An Giang từ 200 – 300 nội dung/năm như đưa bài viết trên wibside của sở, phóng

sự trên Đài truyền hình An Giang, tin bài trên Báo An Giang. Ngoài ra, phối hợp

với Sở Thông tin – Truyền thông hướng dẫn tuyên truyền trên loa truyền thông cấp

huyện, cấp xã 26 chuyên mục, 47 câu chuyện truyền thanh, 10 đợt xe phóng thanh

lýu ðộng về bảo vệ trẻ em; treo 10.725 bãng rôn, 222 pano, 550 phýớn, 86.000 tờ

rõi tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình và bảo vệ trẻ em; phối hợp với

các ngành có liên quan tổ chức mittinh, hội thi, tọa đàm, văn nghệ và sinh hoạt lồng

ghép vào hoạt động của Câu lạc bộ ”Gia đình phát triển bền vững” với 2.898 cuộc,

có 103.142 lượt người tham dự.

- Hội LHPN tỉnh phối hợp với Nhóm từ thiện trẻ Thành phố Hồ Chí Minh

mời Thạc sĩ Lê Minh Huân - Giảng viên Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ

Chí Minh chia sẻ kiến thức và kỹ năng phòng, chống XHTD trẻ em tại các trường

THCS trên địa bàn Thành phố Long Xuyên, có trên 1.000 lượt học sinh, phụ huynh

đến dự.

Đặc biệt, đã hướng dẫn quy trình hỗ trợ, can thiệp đối với trẻ em bị xâm hại

(theo Nghị định 56 của Chính phủ), kiến thức, kỹ năng phòng, chống xâm hại trẻ em,

kỹ năng tự bảo vệ; thông tin các cơ sở trợ giúp trẻ em; địa chỉ, số điện thoại liên hệ khi

cần trợ giúp; kỹ năng về công tác tuyên truyền phòng, chống và can thiệp khi xảy ra

các vụ việc liên quan xâm hại trẻ em, công tác xã hội với trẻ em, công tác xã hội với trẻ

em có hoàn cảnh đặc biệt, kỹ năng quản lý được triển khai lồng ghép kế hoạch, chương

trình, đề án của các đơn vị về công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm hại trẻ em

và lồng ghép vào các mô hình thực hiện công tác bảo vệ trẻ em, trong đó có mô hình

địa chỉ tin cậy, hiện toàn tỉnh duy trì và nhân rộng 546 Câu lạc bộ “Gia đình phát

triển bền vững”, 471 nhóm phòng chống bạo lực gia đình và 333 địa chỉ tin cậy

40

cộng đồng..

Các sở, ban, ngành, đoàn thể đã phối hợp tổ chức trên 500 lớp tập huấn, hội

thảo, tọa đàm… có 12.000 lượt cán bộ làm công tác trẻ em các cấp tham dự. Qua

đó, có giải pháp nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ và người chăm sóc trẻ về

nhận thức, kiến thức pháp luật, kỹ năng phòng, chống xâm hại trẻ em, công tác xã

hội với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, kỹ năng quản lý...

2.2.3.2. Công tác xây dựng môi trường sống an toàn lành mạnh

Các địa phương trong tỉnh đã lồng ghép công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em vào

các phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, thực hiện quy chế dân

chủ cơ sở, xây dựng nông thôn mới... trong đó quan tâm triển khai thực hiện khá tốt các

tiêu chí có liên quan đến trẻ em như: xây dựng, nâng cấp các thiết chế văn hóa, khu vui

chơi trẻ em; không có bạo lực gia đình dưới mọi hình thức; trẻ em trong độ tuổi đi học

đều được đến trường, chăm ngoan, hiếu học để làm căn cứ bình xét, công nhận danh

hiệu “Gia đình văn hóa” hàng năm… Duy trì và nhân rộng những mô hình đã phát

huy hiệu quả về phòng, chống xâm hại trẻ em, bạo lực gia đình tại cơ sở như mô hình

Câu lạc bộ “Ông - Bà - Cháu”; “Không sinh con thứ 3”; “Gia đình trẻ”; “Gia đình

hạnh phúc”; “Tiền hôn nhân”; mô hình gia đình - họ tộc tiêu biểu nhiều thế hệ... được

củng cố, kiện toàn dựa vào cộng đồng, tính chất là câu lạc bộ của những người tình

nguyện tham gia, có cả phụ nữ, nam giới, trẻ em, người cao tuổi nhằm can thiệp các vụ

xâm hại trẻ em, bạo lực gia đình, nhất là các vụ bạo lực gia đình có liên quan đến trẻ

em. Đặc biệt, mô hình Câu lạc bộ “Gia đình phát triển bền vững” với chủ đề, nội dung

sinh hoạt phong phú tập trung tuyên truyền, cung cấp và giáo dục những kiến thức về

kỹ năng sống, cách ứng xử giữa các thành viên gia đình, giáo dục tiền hôn nhân để các

gia đình chủ động phòng, chống các tệ nạn xã hội đã và đang xâm nhập vào gia đình,

không để thành viên gia đình mắc các tệ nạn xã hội, phòng tránh gây tổn hại đến trẻ

em.Điển hình Câu lạc bộ “Gia đình phát triển bền vững” ấp Bình Phú II, xã Bình

Hòa, huyện Châu Thành, An Giang thành lập thành lập tháng 9/2016, có 23 thành

viên, trong đó Ban chủ nhiệm gồm có Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm và Thư ký cùng

các thành viên là các hộ gia đình có nhu cầu tham gia sinh hoạt. Câu lạc bộ sinh

hoạt định kỳ 1 lần/tháng, theo hình thức nói chuyện chuyên đề lồng ghép các hoạt

động truyền thông trong lĩnh vực hôn nhân gia đình, tuyên truyền Luật bình đẳng

41

giới, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, Luật An toàn giao thông…

Hội LHPN các cấp phát huy vai trò đại diện của tổ chức hội trong bảo vệ

quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ, trẻ em gái. Phối hợp xây dựng địa chỉ tin cậy,

các mô hình như câu lạc bộ “Xây dựng gia đình hạnh phúc”, câu lạc bộ “Phòng,

chống bạo lực gia đình”, câu lạc bộ “Giáo dục cha mẹ nuôi dạy con tốt”… giúp

mọi người cùng thực hiện hành động tốt hơn đối với trẻ em, hạn chế bạo lực đối với

phụ nữ và trẻ em gái, giúp trẻ em gái phát triển toàn diện vì mục tiêu bình đẳng,

phát triển và tiến bộ của phụ nữ.

Các cơ sở giáo dục thực hiện nghiêm túc việc xây dựng quy tắc ứng xử văn

hóa trong trường học; xử lý nghiêm các cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên, người

lao động có hành vi bạo lực, xâm hại thể chất, tinh thần đối với học sinh như khi

phát hiện có trường hợp xâm hại tình dục của H.V.P (sinh năm 1975) là nhân viên

bảo vệ của trường đối với P.T.N.H (sinh năm 2012) là học sinh Trường tiểu học B

Lương An Trà, huyện Tri Tôn, An Giang, phụ huynh phối hợp với Ban giám hiệu

trường trình báo ngay cho Công an xã Lương An Trà. Kết quả xác minh, cơ quan

Cảnh sát điều tra Công an huyện Tri Tôn xác định H.V.P có hành vi dâm ô với cháu

H, từ đó đã ra quyết định khởi tố vụ án và quyết định khởi tố bị can đối với P về

hành vi “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” để điều tra xử lý; quan tâm, nhắc nhở

cán bộ, giáo viên, nhân viên trong toàn đơn vị thực hiện tốt công tác nêu gương

trước học sinh, có hành vi giao tiếp, ứng xử văn hóa, văn minh trong môi trường sư

phạm và sử dụng mạng xã hội; xử lý nghiêm các hành vi, phát ngôn vi phạm đạo

đức nhà giáo và pháp luật (Luật Trẻ em, Luật viên chức, Luật An toàn giao

thông,...).

Các ngành liên quan phối hợp tổ chức các hoạt động an toàn, lành mạnh, nhằm

phòng, chống xâm hại trẻ em, đẩy lùi các tệ nạn xã hội xâm nhập vào học đường như:

dạy bơi, phòng, chống đuối nước, mặc áo phao khi tham gia các phương tiện giao

thông đường thủy cho học sinh, giải bóng đá U11, các sân chơi năng khiếu giúp học

sinh phát triển năng khiếu tư duy… toàn tỉnh tổ chức được 1.750 lớp tập huấn cho

trên 120.000 lượt thiếu nhi.

Công an tỉnh đã phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương lồng ghép vào

trong một số mô hình liên quan đến bảo vệ, chăm sóc, quản lý, giáo dục trẻ em tại

42

địa bàn dân cư như mô hình “Tổ dân phố tự quản về ANTT”: tuyên truyền, vận

động người dân chấp hành pháp luật và tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm;

đẩy mạnh công tác quản lý ngành nghề kinh doanh có điều kiện, trong đó trọng tâm

là các khách sạn, nhà nghỉ, quán trọ, quán Internet... về việc chấp hành các quy định

của nhà nước.

Tỉnh triển khai văn bản hướng dẫn các sở, ngành, địa phương, cơ quan báo chí

của tỉnh triển khai Thông tư số 09/2017/TT-BTTTT ngày 23/6/2017 của Bộ Thông tin

và Truyền thông quy định về tỷ lệ nội dung, thời điểm, thời lượng dành cho trẻ em và

cảnh báo nội dung không phù hợp với trẻ em trên báo nói, báo hình, báo in, báo điện tử

và xuất bản phẩm; phối hợp cung cấp thông tin về trẻ em cho các cơ quan báo chí trên

địa bàn tỉnh tại các buổi giao ban báo chí. Qua đó, nhiều thông điệp truyền thông ý

nghĩa được gửi đi trong Tháng hành động vì trẻ em như: Nói “không” với xâm hại

trẻ em; Chung tay bảo vệ trẻ em, phòng, chống xâm hại trẻ em; Roi vọt không làm

trẻ nên người, yêu thương mạnh hơn lời quát mắng; Lắng nghe trẻ em bằng trái tim,

bảo vệ trẻ em bằng hành động; Bảo vệ trẻ em sống an toàn ngay tại gia đình là trách

nhiệm của cha mẹ và các thành viên gia đình; Trẻ em hãy tự học cách bảo vệ mình

khỏi bị xâm hại; Pháp luật nghiêm trị mọi hành vi xâm hại trẻ em; Gọi Tổng đài

điện thoại quốc gia bảo vệ trẻ em (111) để thông báo mọi hành vi xâm hại trẻ em….

Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 247/KH-UBND, ngày

24/5/2016 về việc phê duyệt Chương trình thúc đẩy quyền tham gia của trẻ em vào

các vấn đề về trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang giai đoạn 2016-2020; Qua đó, chỉ

đạo các đơn vị, địa phương triển khai các hoạt động đảm bảo thực hiện quyền tham

gia của trẻ em, triển khai các mô hình thúc đẩy quyền tham gia của trẻ em, để các

em có thể bày tỏ ý kiến, nguyện vọng của mình như diễn đàn trẻ em, câu lạc bộ

quyền tham gia của trẻ em.

Các ngành chức năng của tỉnh đã tiến hành thanh tra đối với các đại lý

Internet, điểm cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử công cộng; thanh tra đối với mạng

xã hội và kiểm tra đối với các trang thông tin điện tử tổng hợp. Nội dung kiểm tra

tập trung vào việc chấp hành các quy định của pháp luật về hoạt động cung cấp, sử

dụng dịch vụ Internet và trò chơi điện tử tại các đại lý Internet; kiểm tra nội dung

truy cập Internet; việc cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử (khoảng cách từ điểm cung

43

cấp dịch vụ trò chơi điện tử công cộng đến trường học, danh mục trò chơi điện tử tại

điểm cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử công cộng,...). Thực hiện rà soát nội dung

thông tin trên các cổng/trang thông tin điện tử, mạng xã hội có tên mien.vn, tên

miền nước ngoài có chủ thể tại tỉnh An Giang.

Địa phương xây dựng các chương trình văn hóa, nghệ thuật, tổ chức sự kiện

văn hóa, nghệ thuật phù hợp độ tuổi, giới tính và sự phát triển toàn diện của trẻ em

nhằm phòng, chống XHTD trẻ em thông qua các hoạt động như: tổ chức các hội thi

về gia đình, hội thi vẽ tranh và triển lãm tranh về phòng, chống XHTD trẻ em….

Trong chương trình mục tiêu quốc gia nông thôn mới của tỉnh đã quy hoạch,

bố trí quỹ đất để xây dựng các Trung tâm Văn hóa - Thể thao cấp xã và Nhà Văn

hóa - Khu thể thao cấp thôn từng bước đạt chuẩn theo quy định của Bộ Văn hóa,

Thể thao và Du lịch, có sân bóng đá, sân bóng chuyền, sân cầu lông... nhằm phục

vụ nhu cầu vui chơi giải trí cho trẻ em và các ngày lễ, kỷ niệm như Tết Trung thu,

Ngày Quốc tế Thiếu nhi 1/6 và Ngày Đại đoàn kết toàn dân tộc...

Tỉnh đã tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các cơ sở

kinh doanh dịch vụ Internet và trò chơi điện tử công cộng, hạn chế tối đa việc kinh

doanh các loại hình trò chơi bạo lực, nguy hiểm không phù hợp với lứa tuổi trẻ em;

kiên quyết xử lý nghiêm tình trạng hoạt động quá thời gian quy định làm ảnh hưởng

đến sức khỏe và học tập của trẻ em. Thường xuyên kiểm tra, chấn chỉnh hoạt động

kinh doanh các loại băng đĩa, ấn phẩm sách đang bày bán trên thị trường nhằm

tránh ảnh hưởng xấu đến việc tìm hiểu kiến thức, thu thập thông tin của trẻ em.

2.2.3.3. Công tác giải quyết ý kiến, kiến nghị của trẻ em về phòng, chống xâm

hại tình dụctrẻ em

Các tổ chức Đoàn, Đội thông qua hoạt động đã khá chủ động và kịp thời tiếp

nhận, giải quyết 20 ý kiến, kiến nghị các phát sinh liên quan về phòng, chống xâm

hại trẻ em xoay quanh nhóm vấn đề như nguyện vọng của thiếu nhi, các vấn đề thực

hiện quyền trẻ em và chế độ chính sách liên quan đến trẻ em. Tuy nhiên, vẫn còn

một số tổ chức Đoàn, Đội, nhất là ở địa bàn dân cư chưa thường xuyên chủ động

nắm bắt thông tin, dư luận xã hội, nhu cầu nguyện vọng chính đáng của trẻ em đến

với các diễn đàn “Lắng nghe trẻ em nói, nói trẻ em hiểu và làm theo”, “Hòm thư

góp ý”; phối hợp với các cấp chính quyền để gặp gỡ, trao đổi, lắng nghe ý kiến, tâm

44

tư nguyện vọng và những đề xuất thiết thực của trẻ em đóng góp cho sự phát triển

của địa phương, những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền trẻ em theo pháp luật.

Hội đồng Đội tỉnh tổ chức Lễ ra mắt mô hình thí điểm Hội đồng trẻ em và

phiên họp trẻ em với sự tham gia của 25 đại biểu thiêu nhi, góp phần khẳng định

tiếng nói và quyền tham gia của trẻ em vào việc giải quyết các vấn đề liên quan đến

trẻ em. Tỉnh đã xây dựng tổng đài (111) hoặc (18008077) để trẻ em được hỗ trợ giải

quyết những tâm tư, nguyện vọng chính đáng.

Tuy nhiên, thời gian qua, một số tổ chức Đoàn, Đội hoạt động còn nặng tính

hình thức, thậm chí hành chính hóa; chưa bám sát tâm tư, nguyện vọng các thành

viên; một số phong trào thiếu hấp dẫn do chưa xuất phát từ nhu cầu của thanh thiếu

niên, trong đó có nhu cầu tìm hiểu và nâng cao kiến thức, kỹ năng về phòng, chống

XHTD trẻ em.

2.2.3.4. Công tác cung cấp, tiếp nhận, xử lý thông tin, thông báo, tố giác

nguy cơ và hành vi xâm hại tình dục trẻ em

Công tác tiếp nhận thông tin, theo dõi, xử lý các vụ việc bạo lực, xâm hại trẻ

em tại địa phương được thực hiện nghiêm túc. Các trường hợp bạo lực, xâm hại xảy

ra được thu thập thông tin, lập hồ sơ quản lý trường hợp thông qua Hệ thống bảo vệ

trẻ em dựa vào cộng đồng (BVTEDVCĐ) và nhóm công tác xã hội liên ngành, đó là

khi có trường hợp xâm hại xảy ra hệ thống này sẽ phối hợp với nhau để giải quyết.

Chỉ đạo, điều hành quá trình xử lý do Phó chủ tịch UBND cấp xã, huyện, tỉnh là

Trưởng ban Hệ thống BVTEDVCĐ. Một Trưởng ban Hệ thống BVTEDVCĐ cấp

xã điều hành cho biết việc thực hiện quy trình hỗ trợ, can thiệp đối với trẻ em bị

xâm hại, trẻ em có nguy cơ bị bạo lực, bóc lột, bỏ rơi và trẻ em có hoàn cảnh đặc

biệt theo các bước cụ thể như: Các cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình, cá

nhân nếu phát hiện hoặc có thông tin về hành vi xâm hại trẻ em hoặc trẻ em có nguy

cơ bị xâm hại có trách nhiệm thông báo ngay cho cơ quan công an hoặc UBND cấp

xã nơi xảy ra vụ việc (nơi tiếp nhận thông tin); Nơi tiếp nhận thông tin có trách

nhiệm ghi chép đầy đủ thông tin về hành vi xâm hại trẻ em, trẻ em bị xâm hại hoặc

có nguy cơ bị xâm hại (theo Mẫu số 01 ban hành kèm theo Nghị định số

56/2017/NĐ-CP); Cơ quan lao động - thương binh và xã hội các xã, cơ quan công

an xã, UBND cấp xã nơi xảy ra vụ việc hoặc nơi trẻ em cư trú thực hiện việc kiểm

45

tra tính xác thực về hành vi xâm hại, tình trạng mất an toàn, mức độ nguy cơ gây

tổn hại đối với trẻ em. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc,

giáo dục trẻ em có trách nhiệm cung cấp thông tin và phối hợp thực hiện khi được

yêu cầu; Phó Chủ tịch UBND xã là Trưởng ban chỉ đạo nơi xảy ra vụ việc, chỉ đạo

người làm công tác bảo vệ trẻ em cấp xã tiến hành việc đánh giá nguy cơ ban đầu,

mức độ tổn hại của trẻ em (theo Mẫu số 02 ban hành kèm theo Nghị định số

56/2017/NĐ-CP) để có cơ sở áp dụng hoặc không áp dụng các biện pháp can thiệp

khẩn cấp; Người làm công tác bảo vệ trẻ em cấp xã (có thể yêu cầu Tổng đài điện

thoại quốc gia bảo vệ trẻ em và các cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em hỗ trợ)

thực hiện việc thu thập thông tin, đánh giá nguy cơ cụ thể (theo Mẫu số 03 ban hành

kèm theo Nghị định số 56/2017/NĐ-CP); trường hợp trẻ em cần được áp dụng kế

hoạch hỗ trợ, can thiệp, Phó Chủ tịch UBND cấp xã chủ trì cuộc họp với các cá

nhân, tổ chức có trách nhiệm bảo vệ trẻ em, đại diện địa bàn dân cư nơi trẻ em cư

trú, sinh sống hoặc nơi xảy ra vụ việc, cha, mẹ hoặc người chăm sóc trẻ em để xác

định các biện pháp bảo vệ trẻ em; Căn cứ mức độ tổn hại và nhu cầu cần hỗ trợ, can

thiệp đối với trẻ em, trong thời hạn 05 ngày làm việc, người làm công tác bảo vệ trẻ

em cấp xã xây dựng kế hoạch hỗ trợ, can thiệp trình Phó Chủ tịch UBND cấp xã

phê duyệt (theo Mẫu số 04 ban hành kèm theo Nghị định số 56/2017/NĐ-CP).

Ngoài ra, nhóm công tác xã hội liên ngành bao gồm các cán bộ chuyên môn

có trách nhiệm phối hợp tham mưu cho lãnh đạo về công tác chuyên môn để giải

quyết khi có các trường hợp bạo lực, xâm hại trẻ em xảy ra. Đối với tỉnh An Giang

hoạt động hệ thống BVTEDVCĐ và nhóm công tác xã hội liên ngành được triển

khai thực hiện nhịp nhàng, đạt hiệu quả khá tốt.

Công tác cung cấp, tiếp nhận, xử lý thông tin, thông báo, tố giác nguy cơ và

hành vi xâm hại trẻ em được các ngành quan tâm xử lý triệt để. Cụ thể: Viện KSND

tỉnh nhận được 8.604 tin; đã kiểm tra, xác minh 8.604 tin (tỷ lệ kiểm tra, xác minh

100%); làm rõ và giải quyết 216 tin. Trong số 216 tin đã giải quyết, gồm: số tin đủ

căn cứ và khởi tố vụ án để điều tra: 200 tin; tạm đình chỉ việc giải quyết: 09 tin; ra

quyết định không khởi tố vụ án: 07 tin. Trong quá trình xử lý không có tin báo về

tội phạm, kiến nghị khởi tố quá thời hạn thụ lý, giải quyết; đồng thời được cơ quan

điều tra thụ lý, giải quyết theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các cấp

46

Hội LHPN trong tỉnh có phân công cán bộ phụ trách công tác gia đình và chăm sóc

trẻ em, thường xuyên chủ động nắm bắt và cung cấp thông tin về bạo lực gia đình,

xâm hại trẻ em cho các cơ quan chức năng xử lý đạt kết quả cao:

- Phối hợp với Sở LĐTB&XH chủ trì tổ chức tọa đàm “Giải pháp thúc đẩy

hiệu quả công tác giải quyết các vụ việc xâm hại, bạo lực đối với trẻ em”, trên cơ

sở ý kiến thảo luận việc nghiên cứu, xây dựng quy trình chuẩn về công tác phối hợp

liên ngành trong quá trình tham gia xử lý các vụ việc xâm hại, bạo lực đối với trẻ

em tŕnh UBND tỉnh phê duyệt; tiếp đó đã tổ chức nội dung tọa đàm tại 11 huyện,

thị, thành có hơn 850 lượt hội viên tham gia.

- Hội LHPN các cấp duy trì, nâng cao chất lượng hoạt động của 333 địa chỉ

tin cậy ở cộng đồng tại các xã, phường, thị trấn trên toàn tỉnh; phối hợp với Sở

LĐTB&XH tuyên truyền đường dây nóng bảo vệ trẻ em với đầu số (111) – Tổng

đài quốc gia (từ đường dây nóng 18008077 chuyển sang); triển khai Quyết định số

605/QĐ-UBND ngày 27/3/2018 của UBND tỉnh An Giang về việc triển khai thí

điểm mô hình “Địa chỉ tin cậy – Nhà tạm lánh tại cộng đồng” giai đoạn 2018 –

2020 tại 11 huyện, thị, thành phố trên toàn tỉnh.

Việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị xử lý những vi

phạm pháp luật còn một số tồn tại, hạn chế, như: thời hạn, thời hiệu, trình tự, thủ tục

giải quyết và việc tiếp nhận, xử lý, xác minh ban đầu đối với một số nguồn tin về tội

phạm chưa đúng quy định của pháp luật. Một ví dụ như việc ra quyết định phân công

Phó Thủ trưởng, Điều tra viên giải quyết nguồn tin về tội phạm và công văn đề nghị

Viện kiểm sát gia hạn thời hạn kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm thường quá

thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 9; khoản 2 Điều 11 Thông tư liên tịch số

01/2017/TTLT ngày 29/12/2017 và khoản 2 Điều 147 Bộ luật Tố tụng hình sự và

thông tư liên tịch số 06 ngày 02/8/2013 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ tài chính,

Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Viện KSND tối cao.

2.2.3.5. Công tác hỗ trợ, can thiệp khi trẻ em có nguy cơ bị xâm hại tình dục

hoặc bị xâm hại tình dục

Công tác hỗ trợ trẻ em có nguy cơ bị xâm hại luôn được chú trọng thực hiện

thông qua việc hỗ trợ các chính sách theo quy định hiện hành của nhà nước (về trợ

cấp xã hội thường xuyên, trợ cấp đột xuất). Các trường hợp hỗ trợ kinh phí theo

47

Thông tư số 98/2017/TT-BTC quy dịnh việc quản lý và sử dụng kinh phí sự nghiệp

thực hiện Chương trình Mục tiêu phát triển hệ thống trợ giúp xã hội giai đoạn 2016

– 2020 và Công văn số 1161/UBND-KGVX ngày 16/8/2016 của UBND tỉnh về

việc định mức kinh phí hỗ trợ đối với trẻ em bị xâm hại, cụ thể hỗ trợ từ nguồn

ngân sách của tỉnh: hỗ trợ giải quyết khó khăn ban đầu 01 triệu đồng/em, hỗ trợ tiền

ăn trong thời gian điều trị bệnh 100.000đ/ngày/em, hỗ trợ tiền thuốc (đối với trẻ

không BHYT) 01 triệu đồng/em, hỗ trợ mua sách giáo khoa trở lại trường

500.000đ/em. Ngoài ra, đối với nhóm trẻ em mồ côi, có hoàn cảnh đặc biệt khó

khăn không có người chăm sóc được hướng dẫn đưa vào chăm sóc, nuôi dưỡng tại

các cơ sở trợ giúp xã hội, đảm bảo môi trường sống an toàn giúp phòng ngừa các

nguy cơ xâm hại, tai nạn thương tích, bạo lực, bóc lột, xảy ra đối với các em.

Các trường hợp XHTD trẻ em được cộng tác viên, cán bộ chuyên trách trẻ

em tiếp nhận thông tin và thực hiện quản lý các trường hợp theo quy định. Ngoài ra,

việc tiếp nhận từ tổng đài điện thoại quốc gia bảo vệ trẻ em (số điện thoại 111),

đường dây nóng của Trung tâm Công tác xã hội-bảo vệ trẻ em tỉnh (18008077) đã

kịp thời can thiệp, trợ giúp khẩn cấp và kết nối các dịch vụ trợ giúp xã hội để hỗ trợ

khó khăn cho các em như chuyển đổi chỗ ở, trường học do tâm lý mặc cảm, khủng

hoảng tâm lý, khám sức khỏe, phá thai ngoài ý muốn của trẻ bị xâm hại tình dục. Số

trẻ em có nguy cơ bị xâm hại được áp dụng biện pháp hỗ trợ là 198 em, địa phương

chủ động vào cuộc, kịp thời chỉ đạo, phối hợp thực hiện các biện pháp chuyên môn,

nghiệp vụ để hỗ trợ, can thiệp đối với trẻ em là nạn nhân theo quy định của Nghị

định số 56/2017/NĐ-CP, cụ thể như địa phương lập hồ sơ quản lý, theo dõi và thực

hiện hỗ trợ, can thiệp. Nhiều địa phương, 100% trẻ em bị bạo lực, xâm hại được hỗ

trợ, can thiệp, được cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, trợ giúp xã hội, hỗ trợ

giáo dục, đào tạo và giáo dục nghề nghiệp, hỗ trợ sử dụng các dịch vụ trợ giúp pháp

lý, tư vấn, trị liệu tâm lý và các dịch vụ bảo vệ trẻ em khác.

Tỉnh có Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thuộc Sở Tư pháp đã thường

xuyên thực hiện dịch vụ pháp lý miễn phí trong hoạt động bảo vệ trẻ em, giúp trẻ

em bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức

tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến giáo dục pháp luật,

giải quyết các vướng mắc, tranh chấp pháp luật bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng

48

xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật. Thực hiện tư vấn pháp

luật, cử người tham gia tố tụng và đại diện ngoài tố tụng cho người được trợ giúp pháp

lý theo quy định. Từ năm 2017 – 2019 thực hiện dịch vụ pháp lý miễn phí hỗ trợ tư vấn

pháp luật cho 198 trường hợp, trong đó tham gia tố tụng 113, đại diện ngoài tố tụng 01

trường hợp; hỗ trợ kỹ năng sống cho 100% trẻ bị bạo lực, xâm hại…

Ngoài ra, Quỹ bảo trợ tỉnh, Trung tâm Công tác xã hội bảo vệ trẻ em tỉnh đã

vận động các mạnh thường quân để hỗ trợ cho các trường hợp bạo lực, xâm hại trẻ

em về học tập, y tế, vật dụng sinh hoạt cá nhân, sinh kế cho gia đình, học nghề, việc

làm, hồi gia, ... với tổng số tiền trên 500 triệu đồng, hỗ trợ bồi dưỡng cho tất cả trẻ

em bị hại về kiến thức, kỹ năng phòng, chống xâm hại, nhất là XHTD.

2.2.3.6. Công tác khám chữa bệnh và giám định đối với trẻ em bị xâm hại tình dục

Các trường hợp XHTD trẻ em dẫn đến mang thai, luôn được ngành y tế thông

báo ngay bằng điện thoại cho Trung tâm Công tác xã hội – Bảo vệ trẻ em để tiếp

nhận và quản lý theo quy định, như trường hợp em N.T.N.T (sinh1999) ở ấp Phú

Bình, xã An Bình, huyện Thoại Sơn, An Giang bị N.H.K cùng địa phương có hành

vi giao cấu và uy hiếp không cho nói với gia đình vào tháng 4/2017. Đến tháng

9/2017, gia đình phát hiện T mang thai báo với các ngành chức năng của xã, T

được Hội LHPN huyện giới thiệu đến Bệnh viện đa khoa trung tâm An Giang thực

hiện phương pháp kết thúc thai kỳ; đồng thời được Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công

an huyện Thoại Sơn và Phòng Kỹ thuật hình sự tỉnh tiến hành thu mẫu rốn của thai

nhi và mẫu chân tóc, niêm mạc miệng của T để trưng cầu Phân viện khoa học hình

sự - Bộ Công an tại thành phố Hồ Chí Minh giám định ADN, kết luận giám định

xác định K là cha ruột của thai nhi với xác suất là 99,9999%. K bị xử phạt 18 năm

tù với tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi”.

Các trường hợp bạo lực, XHTD trẻ em được tiếp nhận, xử lý thông tin, thông

báo tại các địa chỉ tin cậy tại cộng đồng do Sở LĐTB&XH, Hội LHPN và Sở Văn

hóa, Thể thao và Du lịch quản lý.

2.2.3.7. Công tác xử lý hình sự các hành vi phạm tội xâm hại tình dục trẻ em

Công tác phối hợp với Viện KSND cùng cấp trong giải quyết, xử lý tố giác,

tin báo về tội phạm xâm hại trẻ em luôn chặt chẽ, tuân thủ theo quy định của pháp

luật. Quá trình khởi tố, điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra các cấp đều thực hiện

theo đúng trình tự, thủ tục của pháp luật Tố tụng hình sự quy định về thời hạn điều

49

tra, thẩm quyền gia hạn điều tra.

Công tác tiếp nhận tin báo ban đầu, nhất là công an cấp cơ sở thiếu kinh

nghiệm, thậm chí chưa làm hết trách nhiệm, chưa nhận thức hết tầm quan trọng

trong việc tiếp nhận, nên xác minh ban đầu sơ sài và chậm chuyển cho cơ quan có

thẩm quyền.

Khi xảy ra hành vi XHTD trẻ em, để có căn cứ khởi tố cần có kết luận giám

định pháp y và những vật chứng có liên quan để xác định người phạm tội; tuy nhiên

trên thực tế có nhiều gia đình nạn nhân phát hiện và tố giác chậm, các dấu vết,

chứng cứ không còn, không đầy đủ gây khó khăn trong điều tra, xử lý vụ án và bị

kéo dài thời gian. Hầu hết các vụ XHTD trẻ em không có nhân chứng, vụ việc xảy

ra lâu, việc bảo vệ hiện trường, thu thập chứng cứ thường gặp nhiều khó khăn khi

vụ việc được phát hiện; việc lấy lời khai người bị hại rất khó khăn do phần lớn còn

nhỏ tuổi, dễ bị tổn thương về tinh thần, nhận thức chưa đầy đủ, khai thiếu chính xác,

thậm chí khai theo gợi ý của người thân hoặc người giám hộ, có trường hợp phải

thông qua phiên dịch…

Có những vụ án XHTD đối với trẻ em, đối tượng và người bị hại, gia đình

của người bị hại có mối quan hệ thân thuộc, quen biết nên e ngại, lo sợ ảnh hưởng

đến danh dự nạn nhân hoặc tự thương lượng bồi thường, từ đó không chịu tố giác

hoặc yêu cầu xử lý, có trường hợp phía người bị hại không hợp tác trong quá trình

điều tra, gây khó khăn cho công tác điều tra xử lý vụ án.

Theo quy định tại khoản 6 Điều 421 của Bộ Luật Tố tụng Hình sự năm 2015 “

Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ tiến hành đối chất giữa bị hại là người dưới

18 tuổi với bị can, bị cáo để làm sáng tỏ tình tiết của vụ án trong trường hợp nếu

không đối chất thì không thể giải quyết vụ án”. Đối với nội dung này, Hội đồng Thẩm

phán đã ban hành Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP, ngày 01/10/2019 hướng dẫn

áp dụng một số quy định tại các Điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của Bộ

Luật Hình sự và việc xét xử vụ án XHTD người dưới 18 tuổi quy định chi tiết tại

khoản 4, Điều 7 “Khi xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi, Tòa án

không được yêu cầu bị hại là người dưới 18 tuổi tường thuật lại chi tiết quá trình

phạm tội, đối chất giữa người bị hại với người phạm tội…..”.Vì thế, trong các vụ

xâm hại tình dục với trẻ em, nhất là các trẻ em còn quá nhỏ tuổi, tâm lý kém ổn định,

50

vụ việc lại nhạy cảm, đối tượng không thừa nhận hành vi, không có chứng cứ vật chất,

không người chứng kiến trực tiếp, từ đó áp dụng quy định để xét xử chưa có thống

nhất, gặp khó khăn và hiệu quả không cao.

Công tác thực hành quyền công tố: Viện kiểm sát thụ lý, giải quyết 191

vụ/196 bị can, không có trường hợp để quá hạn luật định hay truy tố sai tội danh, sai

khung hình phạt. Viện kiểm sát tăng cường phối hợp liên ngành tố tụng trong việc

xử lý, giải quyết nguồn tin về tội phạm xâm phạm trẻ em, nên những năm qua chất

lượng và hiệu quả điều tra, truy tố trong các vụ án xâm phạm trẻ em từng bước

được nâng lên, Kiểm sát viên sau khi được phân công kiểm sát điều tra vụ án đều đề

ra yêu cầu điều tra sát đúng với quy định của pháp luật, phản ánh đúng thực trạng

những mâu thuẫn, vướng mắc về chứng cứ, tội danh đối với từng vụ án cụ thể và có

căn cứ. Chính vì vậy, đã hạn chế việc phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ

quan tiến hành tố tụng, không có bị can, bị cáo phải đình chỉ điều tra vì không phạm

tội hoặc Tòa án tuyên không phạm tội. Tuy nhiên, việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin

báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra còn để vi phạm

về thời hạn, thủ tục giải quyết và việc tiếp nhận, xử lý, phân công Phó Thủ trưởng,

Điều tra, gia hạn thời hạn kiểm tra, xác minh... nhưng có lúc chậm khắc phục.

Công tác xét xử các vụ án XHTD trẻ em: Các bị cáo đã bị xét xử về các tội

danh như hiếp dâm người dưới 16 tuổi, hiếp dâm trẻ em, cưỡng dâm người từ đủ 13

đến dưới 16 tuổi, giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Sơ thẩm thụ lý 154

vụ/157 bị cáo, giải quyết 145 vụ/147 bị cáo (đạt tỷ lệ 94,16%). Phúc thẩm thụ lý 42

vụ/43 bị cáo, giải quyết 42 vụ/43 bị cáo (đạt tỷ lệ 100%). Xét xử sơ thẩm, phúc thẩm

TAND hai cấp đều áp dụng hình phạt tù và không cho hưởng án treo; không có trường

hợp kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.

Công tác xét xử của TAND các cấp nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng

pháp luật, hình phạt nghiêm khắc, đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung,

cụ thể Tòa án đã tuyên hình phạt tù chung thân 01 bị cáo; phạt tù có thời hạn từ trên 15

năm tù đến 20 năm tù 05 bị cáo; phạt tù có thời hạn trên 7 năm tù đến 15 năm tù 42 bị

cáo; phạt tù có thời hạn từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù 31 bị cáo; phạt tù có thời hạn

đến 03 năm tù 91 bị cáo. TAND hai cấp đã quyết định trả hồ sơ vụ án để Viện Kiểm sát

điều tra bổ sung gồm 04 vụ/05 bị cáo.

51

2.2.3.8. Các biện pháp bảo vệ trẻ em là nạn nhân trong quá trình giải quyết

các vụ án xâm hại tình dục trẻ em

Cơ quan điều tra, kiểm sát trong giai đoạn điều tra, khởi tố, truy tố, xét xử

các vụ án: thực hiện trợ giúp pháp lý theo đúng luật định; áp dụng các biện pháp tốt

nhất để bảo vệ bí mật cá nhân tránh ảnh hưởng đến học tập, sinh hoạt, tương lai của

trẻ em; bố trí địa điểm lấy lời khai tại nơi học tập (trường học bán trú), nơi cư trú

hoặc nơi tiến hành điều tra, trường hợp lấy lời khai tại nơi tiến hành điều tra thì bố

trí phòng lấy lời khai, phòng xét xử đảm bảo thân thiện, phù hợp với tâm lý người

dưới 18 tuổi; lấy lời khai không quá 02 lần trong 01 ngày, mỗi lần lấy lời khai

không quá 02 giờ (trừ trường hợp luật quy định khác); nhiều trường hợp Tòa án tổ

chức xét xử kín, áp dụng biện pháp cách ly bị hại đối với bị cáo, không công bố bản

án trên trang thông tin điện tử Tòa án…

Việc áp dụng các biện pháp bảo vệ trẻ em là người bị hại trong các vụ án

XHTD trẻ em còn gặp nhiều khó khăn, phổ biến là trong giai đoạn điều tra. Do các

vụ xâm hại trẻ em, nhất là XHTD trẻ em là loại án có yếu tố mang tính nhạy cảm,

liên quan đến đời tư cá nhân của trẻ em chưa phát triển toàn diện, hầu hết các trẻ em

bị xâm hại thường lo sợ tiếp xúc, tự ti, mặc cảm, trạng thái tâm lý không ổn định,

thiếu hiểu biết pháp luật, trình bày hành vi xâm hại thiếu chính xác.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn kiến thức, kỹ năng về chuyên môn,

nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp luôn được quan tâm và tổ chức

thực hiện khá thường xuyên, nhưng nội dung chuyên đề về phòng, chống xâm hại

trẻ em lại chưa được chú trọng, cá biệt có nhiều năm không tổ chức, là một trong

những nguyên nhân làm hạn chế đến kết quả, hiệu quả, chất lượng hoạt động phòng,

chống xâm hại trẻ em. Chẳng hạn, 01 cán bộ điều tra cho biết, do yêu cầu sắp xếp

của bộ máy tổ chức ngành Công an, phải thực hiện điều chuyển cán bộ thực hiện

nhiệm vụ phòng, chống xâm hại trẻ em sang vị trí công tác khác. Anh là người mới

được phân công nhiệm vụ phòng, chống xâm hại trẻ em, chưa được tham gia tập

huấn kiến thức, kỹ năng về phòng, chống xâm hại trẻ em nên chưa đáp ứng được

yêu cầu đặt ra. Một cán bộ khác, là Kiểm sát viên trẻ, chưa có kinh nghiệm và chưa

được đào tạo tập huấn về kỹ năng tâm lý làm việc với trẻ em, nên đã gặp khó khăn

trong việc xác định độ tuổi của bị hại đối với trường hợp bị hại không có giấy khai

52

sinh gốc hoặc có giấy khai sinh nhưng ngày, tháng, năm sinh không chính xác….

Anh phải đề nghị tiến hành các thủ tục để giám định tuổi của bị hại làm kéo dài thời

gian giải quyết.

2.2.3.9. Công tác tổ chức, cán bộ, kinh phí bảo đảm cho phòng, chống xâm

hại tình dục trẻ em

Cơ quan quản lý, phụ trách công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em là Sở Lao động

- Thương binh và Xã hội. Sở có Phòng trẻ em và Bình đẳng giới, bố trí 06 biên chế,

hiện chỉ có 05 công chức, gồm: 01 Trưởng phòng, 01 Phó Trưởng phòng và 03

chuyên viên; Phòng Lao động - Thương binh & Xã hội cấp huyện có 11 chuyên

viên phụ trách đều kiêm nhiệm.

Cấp xã có 180 cán bộ không chuyên trách làm công tác xóa đói giảm nghèo-

gia đình và trẻ em và được bố trí ở 156 xã, phường, thị trấn, hưởng phụ cấp hệ số

1,5 mức lương cơ sở. Trong đó trình độ chuyên môn: Đại học là 81, Cao đẳng là 12,

Trung cấp là 71 và chưa qua đào tạo là 16.

Tỉnh có 11 cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em, (02 trung tâm bảo trợ xã hội,

01 Trung tâm Công tác xã hội và 01 Trung tâm Trợ giúp pháp lý, 2 văn phòng công tác

xã hội bảo vệ trẻ em). Trong đó, 09 cơ sở công lập và 02 cơ sở ngoài công lập; 04 cơ sở

có chức năng, nhiệm vụ chuyên biệt cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em và 12 điểm tư vấn

công tác xã hội học đường. Bên cạnh đó, tỉnh còn tổ chức triển khai 333 địa chỉ tin cậy

tại cộng đồng. Công tác quản lý việc thành lập, hoạt động của các cơ sở cung cấp dịch

vụ bảo vệ trẻ em thực hiện đúng thẩm quyền.

Công tác quản lý việc thành lập, hoạt động của các cơ sở cung cấp dịch vụ

bảo vệ trẻ em: Thực hiện Nghị định số 103/2017/ND-CP, ngày 12/9/2017 của

Chính phủ về thành lập, tổ chức, hoạt động, giải thể và quản lý cơ sở trợ giúp xã

hội; Thông tư số 33/2017/TT-BLĐTBXH ngày 29/12/2017 của Bộ LĐTB&XH về

việc hướng dẫn cơ cấu tổ chức, định mức nhân viên và quy trình tiêu chuẩn trợ giúp

xã hội tại các cơ sở trợ giúp xã hội và các quy định hiện hành, Sở Lao động –

Thương binh và Xã hội, Sở Tư pháp đã triển khai và hướng dẫn các địa phương

công tác quản lý, thành lập cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em theo thẩm quyền.

Các dịch vụ liên quan đến phòng, chống xâm hại trẻ em hoạt động rất hiệu

quả. Bên cạnh việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt thì các dịch

53

vụ phòng, chống xâm hại trẻ em đã bố trí nơi tạm lánh, thực hiện các biện pháp bảo

vệ khẩn cấp, tư vấn tâm lý, kết nối dịch vụ hỗ trợ trẻ em (y tế, giáo dục, dinh dưỡng,

...); Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh thực hiện trợ giúp pháp lý qua các

hình thức như tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng và đại diện ngoài tố tụng để bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp cho các đối tượng là trẻ em bị xâm hại trên địa bàn tỉnh.

Trong 03 năm qua, có khoảng 125 em vào Trung tâm Trợ giúp pháp lý, khi đối

tượng đến, các cơ sở sẵn sàng và nhanh chóng tiếp nhận, kịp thời cung cấp các dịch

vụ theo nhu cầu của trẻ và trong khả năng của cơ sở. Trường hợp nào vượt quá khả

năng thì cơ sở kịp thời báo cáo với các ngành chức năng để được phối hợp hỗ trợ

giải quyết.Ngân sách địa phương đã bố trí kinh phí 01 tỷ đồng để thực hiện các

chính sách của trung ương và địa phương về triển khai công tác phòng, chống xâm

hại trẻ em từ năm 2015 - 2019. Đồng thời, hỗ trợ quản lý 198 vụ việc (trẻ em bị

xâm hại) với kinh phí trên 500 triệu đồng. Ngoài ra, các địa phương trên địa bàn

tỉnh đã tăng cường công tác vận động các cơ quan, tổ chức, cá nhân đóng góp xây

dựng Quỹ Bảo trợ trẻ em các cấp, qua đó, triển khai nhiều chương trình, hoạt động

kịp thời hỗ trợ cho trẻ em, đặc biệt trẻ em có hoàn cảnh khó khăn nói chung,

vớitổng kinh phí vận động được từ năm 2015 đến tháng 6 năm 2019 trên 15 tỷ

đồng. Quỹ Bảo trợ trẻ em tỉnh phối hợp với các tổ chức, đơn vị tài trợ triển khai các

chương trình hỗ trợ trẻ em nói chung, như: trao tặng học bổng, xe đạp, sữa, đồ dùng

học tập, hỗ trợ mổ tim, phẫu thuật,... với tổng kinh phí gần 9 tỷ đồng.

2.2.3.10. Công tác phối hợp phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em

Ủy ban nhân dân tỉnh kiện toàn Ban Điều hành hệ thống bảo vệ trẻ em dựa

vào cộng đồng và Nhóm công tác bảo vệ trẻ em, gồm các ngành: Công an tỉnh, Hội

LHPN, Sở LĐTB&XH, Sở Y tế, Sở Giáo dục và Đào tạo, Đoàn TNCS Hồ Chí

Minh tỉnh, Sở Tư Pháp nhằm bảo vệ, hỗ trợ trẻ em dựa vào cộng đồng. Qua đó,

Nhóm công tác bảo vệ trẻ em phối kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng và hoạt động ngày

càng có hiệu quả; từ năm 2017 đến 2019, Nhóm công tác bảo vệ trẻ em tỉnh đã tiếp

nhận, tư vấn, hỗ trợ tổng cộng 208 ca giúp người dân, trẻ em được tư vấn, hỗ trợ,

giải quyết kịp thời, đảm bảo quyền và lợi ích của trẻ em.

Tỉnh xây dựng và triển khai thực hiện chương trình phối hợp về công tác bảo

vệ an toàn cho phụ nữ và trẻ em gái giai đoạn 2019 - 2021, gồm: Hội LHPN, Công

54

an, Viện KSND, TAND, Sở Tư pháp, Sở Y tế, Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở

LĐTB&XH. Công tác phối hợp giữa các ngành, đoàn thể trong công tác phòng

chống xâm hại trẻ em đạt được kết quả bước đầu tích cực, trong đó công tác truyền

thông, phát hiện, xử lý các vụ bạo lực, xâm hại trẻ em khá kịp thời, chặt chẽ hơn.

Công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án XHTD trẻ em luôn được phối hợp

chặt chẽ, đảm bảo tuân thủ nghiêm quy trình tự tố tụng, tính khách quan, tôn trọng

nguyên tắc độc lập xét xử và chỉ tuân thủ pháp luật. Đồng thời, khá chủ động với cơ

quan hành chính nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội có liên quan để áp dụng tốt

các biện pháp tư pháp trong hoạt động tố tụng, nên các quyền của trẻ em được tôn

trọng và bảo vệ khá tốt.

Công tác phối hợp giữa Hội LHPN các cấp trong tỉnh và các đơn vị có liên

quan cùng cấp được tăng cường. Hiện nay nạn nhân và gia đình nạn nhân đã mạnh

dạn hơn trong việc tố cáo hành vi phạm tội, phối hợp, tạo thuận lợi cho các ngành

chức năng trong quá trình điều tra, khởi tố tội phạm, góp phần đưa các vụ việc được

xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tuy nhiên, công tác phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành đoàn thể và các

tổ chức xã hội trong phòng, chống xâm hại trẻ em đôi lúc chưa được thường xuyên,

việc sơ, tổng kết, khen thưởng chưa chú trọng nhiều; chưa kịp thời củng cố, kiện

toàn đội ngũ làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em nói chung, công tác phòng,

chống xâm hại trẻ em nói riêng để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong từng giai đoạn.

2.2.3.11. Công tác hợp tác quốc tế về phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em

UBND tỉnh; các huyện, xã có chung đường biên giới giáp tỉnh Takeo, tỉnh

Kandal Vương quốc Campuchia, định kỳ tổ chức hội nghị của từng cấp về quan hệ

hữu nghị, hợp tác về kinh tế - xã hội, an ninh trật tự biên giới; phòng, chống ma túy,

buôn bán người... Ngoài ra, cơ quan Công an, Tòa án định kỳ tổ chức hội nghị về

quan hệ hữu nghị, hợp tác, trao đổi kinh nghiệm chuyên môn, nghiệp vụ với cơ

quan cùng cấp của tỉnh Takeo, tỉnh Kandal Vương quốc Campuchia về phòng,

chống tội phạm xuyên quốc gia, trong đó có phòng, chống tội phạm xâm hại tình

dục trẻ em. Hội LHPN tỉnh và Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh cũng thường xuyên

quan hệ hữu nghị, hợp tác với các tổ chức cùng cấp của tỉnh Takeo, tỉnh Kandal

Vương quốc Campuchia về các hoạt động thuộc nhiệm vụ được giao, trong đó có

tham gia giải cứu các nạn nhân bị buôn bán người là phụ nữ, trẻ em làm nghề mại

55

dâm, cụ thể đầu năm 2017 giải cứu 01 vụ “Mua bán trẻ em” xảy ra tại phường Mỹ

Thạnh, thành phố Long Xuyên, An Giang, do N.N.L (sinh năm 1980) là mẹ ruột của

bé N.K.P (sinh năm 2015) phối hợp với N.T.C.T (sinh năm 1982) để đem bán bé P

cho T.V.L (sinh năm 1987) đang sinh sống tại tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc với giá

20 triệu đồng, vụ việc bị, bà N.T.M (sinh năm 1970) là bà nội của bé P phát hiện

nên đến Công an phường trình báo. Nội vụ: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh

đã khởi tố vụ án, khởi tố 03 bị can.

2.2.3.12. Công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết kiến nghị, khiếu nại, tố cáo

về phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em

Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Kế hoạch số 475/KH-UBND ngày 16/8/2017

và Kế hoạch số 536/KH-UBND ngày 10/7/2018 về việc kiểm tra thực hiện quyền

trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang năm 2017, 2018; các cơ quan đoàn thể theo chức

năng, nhiệm vụ được giao chủ động xây dựng kế hoạch và tổ chức kiểm tra công tác

trẻ em hoặc kết hợp lồng ghép với kiểm tra, giám sát công tác chuyên môn ngành

nên đã giải quyết tốt các vấn đề nổi cộm về trẻ em trên địa bàn.

Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến phòng, chống xâm hại trẻ

em từ năm 2016-2019, trên địa bàn tỉnh không có đơn thư khiếu nại, tố cáo liên

quan đến việc thực hiện chính sách về phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em còn

tồn đọng.

Qua thanh tra, kiểm tra có một số địa phương mặc dù có triển khai các biện

pháp hỗ trợ, can thiệp trẻ em bị xâm hại nhưng chưa có đầy đủ hồ sơ theo quy định.

Công tác thanh tra, kiểm tra của các cơ quan quản lý nhà nước đối với việc thực hiện

trách nhiệm bảo vệ trẻ em, xử lý vụ việc bạo lực, xâm hại trẻ em; việc xử lý vi phạm

hành chính đối với các hành vi vi phạm quyền trẻ em, trong đó có bạo lực trẻ em, chưa

được chú trọng đúng mức, nên chưa có tác động phòng ngừa, răn đe tích cực.

2.2.3.13. Công tác giám sát việc thực hiện chính sách phòng, chống xâm hại

tình dục trẻ em tại địa phương

Công tác giám sát của HĐND cùng cấp: thường xuyên tổ chức giám sát tình

hình thực hiện kinh tế - xã hội hàng năm, giám sát chuyên đề về chăm sóc, bảo vệ

trẻ em. Qua đó, đã kiến nghị UBND tăng cường quản lý nhà nước nhất là quan tâm

phân bổ nguồn lực về chăm sóc, bảo vệ trẻ em.

56

Với mục tiêu phát huy vai trò, trách nhiệm và tăng cường sự phối hợp của

Hội LHPH tỉnh với các đơn vị có liên quan nhằm thực hiện bảo vệ, chăm sóc và

đảm bảo các vụ việc liên quan đến phụ nữ và trẻ em gái được phát hiện, khởi tố,

điều tra, xét xử kịp thời và đúng quy định của pháp luật. Hội LHPN tỉnh xây dựng

Chương trình phối hợp trong công tác bảo vệ an toàn cho phụ nữ và trẻ em gái giai

đọan 2019-2021 với Công an tỉnh, Viện KSND tỉnh, TAND tỉnh, Sở Tư pháp, Sở Y tế,

Sở Giáo dục – Đào tạo và Sở LĐTB&XH nhằm phòng ngừa, bảo vệ phụ nữ và trẻ em

gái tránh bị xâm hại, đảm bảo các vụ việc liên quan đến phụ nữ và trẻ em gái được phát

hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, đúng quy định của pháp luật.

Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh đã nắm bắt tình hình thực tế của địa phương,

phối hợp với các ngành chức năng trong việc truyền thông, giáo dục, nâng cao năng

lực thực thi pháp luật về thực hiện quyền trẻ em, trong đó tập trung vào việc nâng

cao ý thức chấp hành pháp luật, phòng ngừa và ngăn chặn các hành vi xâm hại trẻ

em nói chung, XHTD trẻ em nói riêng. Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh phối hợp với

Sở LĐTB&XH và các ngành có liên quan thành lập đoàn kiểm tra thực hiện quyền

trẻ em tại huyện, thị, thành trên địa bàn tỉnh.Nội dung kiểm tra tập trung vào việc

triển khai thực hiện quyền trẻ em theo Kế hoạch số 247/KH-UBND ngày 24/5/2016

của UBND tỉnh về Kế hoạch thực hiện Quyết định só 1235/QĐ-TTg phê duyệt

Chương trình thúc đẩy quyền tham gia của trẻ em vào các vấn đề về trẻ em giai

đoạn 2016 - 2020 qua đó tháo gỡ những khó khăn, định hướng giải pháp thực hiện

tốt hơn trong thời gian tới.

2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách phòng, chống xâm hại

tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang

2.3.1. Hệ thống luật pháp

Hiện nay, từ trung ương đến địa phương có nhiều văn bản được ban hành

nhằm quy định chặt chẽ hơn về công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.

Tại An Giang, Tỉnh ủy ban hành Chỉ thị số 14-CT/TU, ngày 29/5/2012 của

Ban Thường vụ Tỉnh ủy; thực hiện Chỉ thị số 20-CT/TƯ, ngày 05/11/2013 của Bộ

Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục

và bảo vệ trẻ em trong tình hình mới. UBND tỉnh ban hành Kế hoạch số 247/KH-

UBND ngày 24/5/2016 về phê duyệt Chương trình thúc đẩy quyền tham gia của trẻ

57

em vào các vấn đề trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang giai đoạn 2016-2020, Kế

hoạch số 257/KH-UBND, ngày 11/5/2017 thực hiện công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ

em bị bạo lực, bị xâm hại tình dục giai đoạn 2017-2020; Kế hoạch số 475/KH-

UBND ngày 16/8/2017 và Kế hoạch số 536/KH-UBND ngày 10/7/2018 về kiểm tra

thực hiện quyền trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang năm 2017, 2018; Kế hoạch số

756/KH-UBND, ngày 16/11/2018 về thực hiện Dự án 4 “Đấu tranh phòng, chống

tội phạm xâm hại trẻ em và người chưa thành niên vi phạm pháp luật và phòng,

chống bạo lực gia đình, mua bán người” tỉnh An Giang giai đoạn 2018-2020…

Theo đó, các sở, ngành, đoàn thể, UBND các huyện, thị, thành đã xây dựng kế

hoạch triển khai thực hiện một cách nghiêm túc, đồng bộ, hiệu quả, phù hợp tình

hình thực tế từng địa phương, đơn vị; các vụ việc xâm hại tình dục trẻ em được phát

hiện và giải quyết kịp thời, dứt điểm theo quy định của pháp luật; 100% trẻ em

trong các vụ việc được phát hiện, can thiệp, trợ giúp hiệu quả.

Nhiều văn bản quy định khác liên quan đến công tác phòng, chống xâm hại

trẻ em, XHTD trẻ em được ban hành, thể hiện sự quan tâm của cả hệ thống chính trị

trong công tác BVCS&GD trẻ em. Xây dựng và thành lập Ban chủ nhiệm Dự án 4

“Đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm hại trẻ em và người chưa thành niên vi

phạm pháp luật và phòng, chống bạo lực gia đình, mua bán người” tỉnh An Giang

giai đoạn 2018-2020; Quyết định số 1985/QĐ-UBND, ngày 22/9/2015 của UBND

tỉnh An Giang về kiện toàn Ban Điều hành Hệ thống BVTEDVCĐ và Nhóm công

tác bảo vệ trẻ em. Xây dựng và thực hiện việc bố trí, nâng cao năng lực, ổn định đội

ngũ làm công tác bảo vệ trẻ em ở địa phương, đặc biệt ở cấp xã theo quy định của

Luật Trẻ em năm 2016.

Các ngành, các cấp trên địa bàn tỉnh có triển khai kế hoạch “Tháng hành

động vì trẻ em” với từng chủ đề khác nhau đáp ứng với thực tiễn trong công tác bảo

vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em tại địa phương. Đồng thời, rà soát đối tượng trẻ em

có hoàn cảnh khó khăn trình cơ quan có thẩm quyền quan tâm giúp đỡ.

2.3.2. Nhận thức và triển khai thực hiện của chính quyền địa phương

Công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh được triển khai thực

hiện tích cực và đạt được những kết quả nhất định, góp phần giảm thiểu trẻ em bị

ngược đãi, XHTD…

Ủy ban nhân dân tỉnh luôn quan tâm, hỗ trợ cơ sở vật chất, kinh phí đã tác

động tích cực cho công tác điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh các vụ việc xâm

58

hại trẻ em, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; hoạt động hỗ trợ, thăm hỏi kịp

thời cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt trong đó có các em bị xâm hại hoặc có nguy

cơ cao bị XHTD; các đơn vị trường học trên địa bàn tỉnh đã triển khai thực hiện có

hiệu quả các hoạt động ngoại khóa, sinh hoạt ngoài giờ, giảng dạy lồng ghép về

giáo dục giới tính, phòng chống bạo lực, xâm hại trẻ em, XHTD trẻ em, tạo sân chơi

để các em phát triển toàn diện… đã góp phần tích cực, hiệu quả công tác phòng,

chống xâm hại trẻ em nói chung, phòng, chống XHTD trẻ em nói riêng của địa

phương.

Tuy nhiên, thời gian qua UBND tỉnh từng lúc từng nơi chưa thật sự sâu sát

trong quản lý, điều hành, chỉ đạo nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động phòng,

chống xâm hại tình dục trẻ em, nhất là việc xử phạt vi phạm hành chính (ví dụ như

về phía gia đình người bị hại thì trong nhiều vụ án mặc dù tại cơ quan điều tra và

trong hồ sơ vụ án đã thể hiện đủ chứng cứ chứng minh hành vi của bị cáo đã phạm

tội xâm hại tình dục đối với họ. Nhưng do trong quá trình xét xử, giữa gia đình bị

cáo và gia đình người bị hại đã thỏa thuận thống nhất với nhau những vấn đề có lợi

cho bị cáo, nên khi ra phiên tòa các bên đã thay đổi lời khai, gây nhiều khó khăn

cho Hội đồng xét xử trong đánh giá chứng cứ để phán quyết vụ án).

Riêng một vài địa phương, chưa quan tâm đầy đủ đến việc xây dựng chương

trình, kế hoạch về công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em theo giai đoạn và hằng năm;

chưa bố trí kinh phí hoạt động về trẻ em nên hoạt động thường chỉ diễn ra trong

những ngày lễ, tết: Quốc tế thiếu nhi, Tháng hành động vì trẻ em, Tết trung thu, Tết

Nguyên đán… chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, hoạt động chủ yếu lồng ghép nên

hiệu quả chưa cao. Các hoạt động hỗ trợ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt chỉ là thăm

hỏi, tặng quà, chưa giải quyết được cơ bản giúp trẻ em thoát khỏi tình trạng đặc

biệt.

Cơ sở vật chất trang bị cho Tòa gia đình và người chưa thành niên theo quy

định của pháp luật vẫn chưa thực hiện được, ngoại trừ một số Tòa án có trụ sở mới

được xây dựng hoặc sắp xếp được thì được cấp kinh phí để trang bị phòng xử thân

thiện. Điều đó đã làm hạn chế hiệu quả của Tòa Gia đình và người chưa thành niên

trong hoạt động phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em.

59

2.3.3. Công tác truyền thông

Nhận thức được tầm quan trọng và hiệu quả của hệ thống truyền thanh cơ sở

với đời sống kinh tế - xã hội nói chung cũng như trong thực hiện tuyên truyền

phòng, chống xâm hại tình dục nói riêng, chính quyền địa phương quan tâm chỉ đạo

phát triển hệ thống đài truyền thanh trên toàn tỉnh. Đài Phát thanh – Truyển hình

tỉnh đã xây dựng nhiều chuyên mục tuyên truyền về Luật phòng, chống XHTD,

chuyên đề giáo dục giới tính, Luật BVCS&GD trẻ em. Đặc biệt, trong các chương

trình phát thanh đã xây dựng được những chương trình riêng tuyên truyền XHTD

trẻ em hiện nay.

Hệ thống cơ sở vật chất thiết chế văn hóa, thể thao thông qua xã hội hóa còn

gặp nhiều khó khăn, phát triển chậm trong khi kinh phí hoạt động hàng năm còn

hạn chế; các phòng chức năng của các thiết chế còn thiếu; cơ sở vật chất, trang thiết

bị, phương tiện hoạt động chưa đầy đủ, một số nơi đã bị xuống cấp. Ở một số địa

phương các hoạt động vui chơi dành cho trẻ em chưa được bài bản; nội dung hoạt

động còn đơn điệu, thiếu hấp dẫn. Các biện pháp tổ chức vui chơi giải trí phù hợp

với điều kiện sinh hoạt của trẻ em nông thôn chưa nhiều.

2.3.4. Đặc điểm của trẻ em và gia đình trẻ

Cha, mẹ, người chăm sóc trẻ và gia đình có vai trò quan trọng trong việc bảo

vệ trẻ em với mọi hình thức xâm hại. Rất nhiều vụ XHTD trẻ em là do các em chưa

nghe hoặc nghe nhưng không biết XHTD trẻ em là gì, thế nào là động chạm an toàn

và động chạm không an toàn.

Ý thức chấp hành pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của một

bộ phận cha, mẹ, người chăm sóc trẻ, cộng đồng dân cư chưa tốt. Nhiều gia đình

chưa quan tâm đúng mức đến trẻ em, chưa có kiến thức và kỹ năng về bảo vệ trẻ em

để biết cách bảo vệ con em mình, bản thân trẻ em chưa được giáo dục kỹ năng sống

cần thiết để biết cách tự bảo vệ bản thân. Một số cha mẹ của trẻ bị xâm hại tình dục

lý giải rằng, do điều kiện gia đình khó khăn, cha mẹ đi làm ăn xa, trẻ em ở nhà với

ông bà, ông bà thì già chưa quan tâm nhiều đến thời gian sinh hoạt của trẻ, phần

không có nhiều kiến thức, kỹ năng về phòng, chống tội phạm XHTD nên chưa dạy

trẻ cách tự bảo vệ và kỹ năng phòng tránh.

Trẻ em nông thôn và gia đình của các em ít có điều kiện được tiếp cận truyền

60

thông, nhận thức kém nên khi xảy ra vụ việc bị XHTD trẻ em, gia đình phát hiện và

tố giác trễ, các dấu vết vật chứng không còn, không đầy đủ hoặc e ngại ảnh hưởng

đến danh dự nên tự thỏa thuận, không khai báo… Phần lớn trẻ em bị xâm hại còn

nhỏ tuổi, dễ bị tổn thương về tinh thần, nhận thức chưa đầy đủ, khai thiếu chính xác,

thâm chí khai theo lời người thân, người giám hộ.

2.3.5. Trình độ, kỹ năng của người thực hiện công tác phòng, chống xâm

hại tình dục trẻ em

Nhân sự làm công tác xã hội cần nghiên cứu các vấn đề xã hội, tham mưu và

đề xuất với lãnh đạo địa phương tổ chức thực hiện và quản lý các chính sách,

chương trình, dự án an sinh xã hội; nắm bắt được nhu cầu, những khó khăn về vật

chất, tinh thần trong cuộc sống của nhóm yếu thế từ đó tìm phương cách giúp đỡ và

ứng phó với những khó khăn trong cuộc sống; khi tiếp nhận các trường hợp là phụ

nữ, trẻ em bị sang chấn tâm lý sau bị xâm hại tiến hành lập hồ sơ quản lý, giúp đỡ

bày tỏ ý kiến, hỗ trợ về tâm lý và pháp luật trước tòa án; tham mưu phối hợp với tổ

chức, cá nhân cung cấp các dịch vụ hỗ trợ phù hợp… nhằm kịp thời can thiệp vào

đời sống của cá nhân, gia đình, các nhóm xã hội trong cộng đồng. Tuy nhiên, đội

ngũ cán bộ làm công tác xã hội thay đổi khá thường xuyên và hầu hết phải kiêm

nhiệm nhiều công việc, đã làm ảnh hưởng đến chất lượng công tác bảo vệ, chăm sóc

trẻ em, nhất là đội ngũ cấp huyện, cấp xã. Mặt khác, đội ngũ này ít được đào tạo, tổ

chức bồi dưỡng, tập huấn kiến thức, kỹ năng chuyên sâu về công tác trẻ em, nên

chưa nắm bắt kịp thời các chính sách mới và các dịch vụ hỗ trợ. Chẳng hạn, một số

cán bộ làm công tác bảo vệ trẻ em cấp xã cho biết gặp nhiều khó khăn, lúng túng

khi tiếp nhận vụ việc xâm hại trẻ em do là người mới, chưa có nhiều thời gian

nghiên cứu các văn bản quy định có liên quan đến bảo vệ quyền trẻ em, chưa có

kinh nghiệm trong quá trình phối hợp thu nhận thông tin, xử lý.

2.4. Đánh giá chung tình hình thực hiện chính sách phòng, chống xâm

hại tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang

2.4.1. Mặt tích cực

Công tác phòng, chống xâm hại trẻ em, đặc biệt là XHTD trẻ em được Tỉnh ủy

và UBND tỉnh được xác định là nhiệm vụ quan trọng và cần thực hiện xuyên suốt.

Chính vì vậy, công tác thực thi chính sách cho trẻ em được triển khai thực hiện tích cực

61

và đạt những kết quả nhất định, góp phần bảo vệ và chăm sóc tốt hơn trẻ em bị XHTD.

Các kế hoạch triển khai công tác phòng chống xâm hại trẻ em cùng với

chương trình, chính sách được triển khai kịp thời, từng bước nâng cao hiệu, góp

phần giữ vững ổn định chính trị và xã hội trên địa bàn tỉnh.

Công tác tuyên truyền về chính sách trẻ em được chú trọng thực hiện dưới

nhiều hình thức. Huy động được tổ chức, cá nhân và xã hội trên địa bàn tỉnh cùng

tham gia với chính quyền trong công tác chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích của trẻ

em. Các ngành, các cấp phối hợp triển khai có hiệu công tác phòng, chống xâm hại

trẻ em. Các trung tâm công tác trẻ em cũng như trung tâm trợ giúp pháp lý hỗ trợ

kịp thời khi trẻ em có yêu cầu cần được bảo vệ.

Tỉnh luôn quan tâm hỗ trợ cơ sở vật chất, kinh phí đã tác động tích cực cho

công tác điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh các vụ việc XHTD trẻ em, đúng

người, đúng tội, đúng pháp luật. Hoạt động hỗ trợ, thăm hỏi cho trẻ em bị xâm hại

được thực hiện kịp thời. Các đơn vị, trường học trên địa bàn tỉnh đã triển khai có

hiệu quả các hoạt động ngoại khóa, sinh hoạt ngoài giờ, giảng dạy lồng ghép về

giáo dục giới tính, phòng chống bạo lực, xâm hại trẻ em, tạo sân chơi để các em

phát triển toàn diện và nâng cao hiểu biết cho các em về những vấn đề liên quan đến

phòng, chống XHTD trẻ em...đã góp phần tích cực, hiệu quả công tác phòng, chống

xâm hại trẻ em nói chung, phòng, chống tội phạm XHTD trẻ em nói riêng của địa

phương.

2.4.2. Mặt hạn chế

Chính quyền địa phương có quan tâm tổ chức công tác tuyên truyền phòng

ngừa các hành vi vi phạm pháp luật, tội phạm xâm hại trẻ em, nhưng đôi lúc chưa

thường xuyên, liên tục và còn hình thức chưa thật sự đi vào chiều sâu đúng đối

tượng, dẫn đến hiệu quả chưa cao,thiếu kinh phí dành cho công tác tuyên truyền in

ấn, nhân bản các sản phẩm truyền thông cung cấp cho địa phương như băng, đĩa, tờ

rơi, pano, áp phích nên hiệu quả đạt được chưa cao từ đó các mô hình trợ giúp trẻ

em như điểm tham vấn, tư vấn, mô hình Trung tâm Công tác xã hội bảo vệ trẻ em

cấp huyện, Hệ thống BVTEDVCĐ cấp xã chưa có độ bao phủ toàn tỉnh, chỉ mới

triển khai thí điểm ở một số xã, phường, thị trấn.

Công tác phối hợp liên ngành về phòng, chống XHTD trẻ em đã được thực

62

hiện nhưng chưa chủ động, thiếu chặt chẽ. Chế tài xử phạt các hành vi vi phạm

quyền trẻ em chưa đủ mạnh, chưa mang tính răn đe.

Các vụ XHTD trẻ em thường không được phát hiện kịp thời và khó thu giữ

được chứng cứ là vật chất. Từ đó, quá trình tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về

loại tội phạm này còn gặp khó khăn, mất thời gian, bị kéo dài việc xử lý, thậm chí

không đủ chứng cứ chứng minh tội phạm. Đa số các nạn nhân là trẻ em sau bị xâm

hại thường tâm lý không ổn định, có trường hợp nạn nhân còn quá bé nên quá trình

làm rõ sự việc, nhất là việc mô tả hành vi tội phạm luôn gặp nhiều khó khăn. Bên

cạnh đó, người thân và cha mẹ của các cháu cũng không có biện pháp, cách thức để

bảo vệ cũng như cung cấp chứng cứ cho cơ quan điều tra để phục vụ công tác xét xử.

Ngoài ra, đặc điểm tâm lý của trẻ em không ổn định nên việc xác định lời khai của

người bị hại để căn cứ xét xử trong nhiều vụ án chỉ mang tính tham khảo chứ không

phải là căn cứ để buộc tội đối tượng xâm hại.

Công tác phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội chưa chặt chẽ, chưa

có cơ chế phối hợp hiệu quả và truyền thông ngăn ngừa chung các vụ XHTE; chưa

đồng bộ, thống nhất trong việc quản lý trẻ em tham gia sử dụng mạng Internet, trò

chơi điện tử, làm cho các em dễ bị tiếp nhận các thông tin độc hại từ mạng xã hội

liên quan đến vấn đề này.

Đội ngũ cộng tác viên làm công tác bảo vệ trẻ em ở địa bàn dân cư không có,

do cán bộ xã kiêm nhiệm nên việc cập nhật, nắm bắt thông tin trẻ em bị xâm hại

chưa kịp thời, ảnh hưởng đến việc can thiệp, hỗ trợ trẻ em bị xâm hại. Trình độ và

kỹ năng về chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ làm công tác trẻ em, cán bộ điều tra,

kiểm sát viên…. còn hạn chế, đôi lúc chưa làm hết trách nhiệm, chưa thường xuyên

nghiên cứu, cập nhật văn bản pháp luật mới ban hành để vận dụng.

Cán bộ làm công tác trẻ em ở cấp cơ sở, cũng như trong các cơ sở trợ giúp xã

hội có thu nhập thấp so với mặt bằng chung của đời sống xã hội nên các địa phương

cũng như các cơ sở gặp nhiều khó khăn trong việc thu hút cán bộ gắn bó với nghề.

Hệ thống cơ sở vật chất phục vụ việc hỗ trợ các em bị XHTD còn hạn chế.

Một số ngành có liên quan từng lúc chưa thật sự sâu sát trong quản lý, điều hành,

chỉ đạo nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động phòng, chống xâm hại trẻ em, nhất

là việc xử phạt vi phạm hành chính; công tác khen thưởng quan tâm chưa nhiều.

63

2.4.3. Nguyên nhân của việc xâm hại tình dục trẻ em

Sự phân hóa giàu nghèo với những chênh lệch về điều kiện sống, những rạn

vỡ trong gia đình và sự sói mòn những giá trị truyền thống đã dẫn tới con số trẻ em

bị bỏ rơi, bị sao nhãng, bị lạm dụng và bóc lột ngày càng tăng.

Các bậc cha mẹ, gia đình, người chăm sóc trẻ thiếu hiểu biết về đặc điểm tâm

sinh lý trẻ em, thiếu nhận thức về nguy cơ, thiếu sự quan tâm chia sẻ vấn đề giới

tính với trẻ em, dẫn tới trẻ em thiếu hiểu biết về đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, về

kiến thức, kỹ năng phòng tránh XHTD.

Công tác truyền thông, giáo dục, vận động xã hội chưa bao phủ được hết các

địa bàn, đối tượng. Số người thực hiện được nghiệp vụ truyền thông, tư vấn còn hạn

chế nên chất lượng truyền thông trực tiếp chưa cao; các sản phẩm truyền thông sản

xuất với số lượng ít, chưa đến tay các gia đình... dẫn đến nhận thức, trách nhiệm,

năng lực bảo vệ chăm sóc trẻ em của một số nơi, đặc biệt kỹ năng về bảo vệ trẻ em,

thực hành quyền trẻ em của cha mẹ, người chăm sóc trẻ còn thiếu hụt.Đặc biệt, do

tác động của phim ảnh bạo lực, khiêu dâm, những thông tin độc hại không được

kiểm soát lan tràn trên mạng internet... cũng dẫn đến các hành vi lệch chuẩn ở trẻ

em và người lớn.

Nhận thức pháp luật của một bộ phận người dân còn hạn chế; khả năng nhận

thức, phòng vệ và tự vệ của nạn nhân còn non nớt; công tác phát hiện, tố giác tội

phạm hiện nay còn gặp nhiều khó khăn, thậm chí có cả thái độ bất hợp tác từ phía

nạn nhân và gia đình nạn nhân; một số tội danh chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe tội

phạm, nhiều khi không tương xứng với hành vi bạo lực cần xử lý cũng là một

nguyên nhân gây nên tình trạng này.

Công tác xây dựng môi trường sống an toàn, lành mạnh cho trẻ em chưa thực

sự được quan tâm đúng mức, đâu đó còn tồn tại những yếu tố tiềm ẩn nguy cơ bạo

lực, xâm hại trẻ em; ý thức chấp hành, việc thực thi pháp luật về bảo vệ trẻ em của

một bộ phận cán bộ có thẩm quyền chưa nghiêm; hành vi bạo lực, xâm hại trẻ em

có lúc, có nơi bị bỏ lọt, bỏ qua, chậm bị xử lý; các loại thông tin, ấn phẩm, sản

phẩm độc hại, không phù hợp, đặc biệt trên môi trường mạng, thông qua con đường

du lịch trong thời gian dài không được ngăn chặn, kiểm soát kịp thời và không được

64

xử lý triệt để; gia đình, cha mẹ, người chăm sóc trẻ em và bản thân trẻ em chưa

nhận thức đầy đủ trách nhiệm bảo vệ trẻ em, chậm được bổ sung kiến thức, kỹ năng

về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em....

Công tác phối hợp liên ngành có xây dựng kế hoạch phối hợp nhưng đôi lúc

chưa xây dựng quy chế phối hợp, chưa tạo sự gắn kết hoạt động nên ảnh hưởng đến

quá trình can thiệp hỗ trợ các trường hợp trẻ em bị xâm hại.

Kinh phí bố trí cho công tác phòng, chống xâm hại trẻ em còn thấp so với tỷ

lệ trẻ em tại cộng đồng; nhiều xã, phường chưa phòng, chống xâm hại trẻ em riêng

cho công tác phòng, chống xâm hại trẻ em, các hoạt động chủ yếu được thực hiện

lồng ghép nê hiệu quả chưa cao.Kinh phí hỗ trợ cho cán bộ làm công tác bảo vệ trẻ

em cấp xã còn thấp, chưa đảm bảo đời sống kinh tế gia đình nên chưa yên tâm công

65

tác.

Tiểu kết chương

Chương 2 nêu khái quát tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh An Giang, tình

hình trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang và thực trạng thực hiện chính sách về phòng,

chống XHTD trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang. Được sự quan tâm của Ủy ban

nhân dân tỉnh, các ngành chức năng và toàn thể cộng đồng, việc thực hiện chính

sách về phòng, chống XHTD trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang đã được triển khai

và đạt được kết quả nhất định.

Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách về phòng, chống XHTD trẻ

em trên địa bàn tỉnh An Giang đã được phân tích, như hệ thống luật pháp, nhận thức

và triển khai thực hiện của chính quyền địa phương, công tác truyền thông, đặc

điểm từ trẻ và gia đình trẻ, trình độ kỹ năng của người thực hiện công tác phòng,

chống XHTD trẻ em. Nghiên cứu đã nhấn mạnh yếu tố gia đình có vai trò quan

trọng trong việc trang bị cho các em kỹ năng cần thiết về bảo vệ mình, tiếp đó là vai

trò của cán bộ làm công tác trẻ em tại địa phương trong việc giáo dục kỹ năng

phòng, chống XHTD cho các em. Do đó, những kết quả thực trạng của chương 2là

cơ sở để đề ra những mục tiêu, giải pháp để triển khai thực hiện tốt chính sách về

66

phòng, chống XHTD trẻ em tỉnh An Giang trong thời gian tới.

Chương 3

MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH

PHÒNG, CHỐNG XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM

Thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em nói chung, chính

sách phòng, chống xâm hại trẻ em là chính sách được quan tâm hàng đầu trong bảo

đảm quyền con người, quyền công dân hiện nay.Theo Quyết định số 1863/QĐ-TTg,

ngày 23/12/2019 của Bộ Chính trị về việc phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia

phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em giai đoạn 2020 – 2025 với mục tiêu:

- Phấn đấu 100% gia đình có trẻ em được cung cấp kiến thức, kỹ năng về bảo

vệ trẻ em bằng các hình thức khác nhau; 100% học sinh được hướng dẫn, giáo dục

kiến thức, kỹ năng sống và kỹ năng tự bảo vệ trước các hành vi bạo lực, XHTD với

nội dung phù hợp với lứa tuổi.

- Phấn đấu 100% cán bộ làm công tác bảo vệ trẻ em các cấp, cộng tác viên,

tình nguyện viên được nâng cao năng lực về bảo vệ trẻ em; dịch vụ bảo vệ trẻ em,

đặc biệt là dịch vụ bảo vệ trẻ em trong trường hợp khẩn cấp được củng cố và phát

triển ở tất cả các tỉnh, thành phố.

- Phấn đấu 100% cơ quan quản lý giáo dục, cơ sở giáo dục tổ chức truyền

thông nâng cao nhận thức, năng lực, đạo đức nghề nghiệp, trách nhiệm về phòng

ngừa bạo lực học đường, XHTD trẻ em đến toàn thể cán bộ quản lý, nhà giáo, nhân

viên trong cơ sở giáo dục và người học; thực hiện các biện pháp hỗ trợ, can thiệp

kịp thời khi phát hiện người học bị bạo lực học đường, bị XHTD.

- 100% cơ sở y tế cấp xã, cấp huyện được tăng cường năng lực y tế cung cấp

dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho trẻ em.

- 100% cán bộ công an làm công tác điều tra các vụ việc bạo lực, XHTD trẻ

em được nâng cao năng lực thực hiện hoạt động điều tra thân thiện với trẻ em; 40%

các tỉnh, thành phố thành lập Phòng điều tra thân thiện với trẻ em.

Các mục tiêu được hoạt động thực hiện kế hoạch: Truyền thông, giáo dục,

vận động xã hội nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm, kỹ năng về bảo vệ trẻ em

và phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em cho chính quyền các cấp, các ngành, các tổ

67

chức, xã hội, cha mẹ và trẻ em; Phòng ngừa bạo lực học đường; hỗ trợ, can thiệp

đối với trẻ em bị bạo lực, XHTD trong các cơ sở giáo dục; cải thiện chất lượng dịch

vụ, nâng cao năng lực của cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em; tiếp nhận khám,

chữa bệnh, phòng ngừa và hỗ trợ, can thiệp của ngành y tế đối với trẻ em bị bạo lực,

XHTD; tăng cường công tác điều tra thân thiện đối với trẻ em; xây dựng cơ chế

phối hợp liên ngành và hình thành mạng lưới xã hội về bảo vệ trẻ em, phòng, chống

bạo lực, XHTD trẻ em giữa các cơ quan, tổ chức liên quan…

Từ kết quả thực hiện chính sách về phòng, chống XHTD trẻ em của tỉnh và

Quyết định số 1863/QĐ-TTg, ngày 23/12/2019 của Bộ Chính trị về việc phê duyệt

Kế hoạch hành động quốc gia phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em giai đoạn 2021

– 2025, xin đề xuất một số mục tiêu và nội dung góp phần thúc đẩy hiệu quả thực

hiện chính sách phòng, chống xâm hại trẻ em, đặc biệt phòng, chống XHTD trẻ em

của tỉnh trong thời gian tớicụ thể như sau:

3.1. Mục tiêu thực hiện chính sách phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em

Đảm bảo các quyền trẻ em được thực hiện đầy đủ, kịp thời theo Công ước

Liên hiệp quốc và Luật Trẻ em năm 2016.

Xây dựng môi trường an toàn, thân thiện, đảm bảo mọi trẻ em đều được bảo vệ

để giảm nguy cơ bị XHTD; trẻ em có nguy cơ bị XHTD và trẻ em bị XHTD được phát

hiện, can thiệp, hỗ trợ kịp thời để hòa nhập cộng đồng và có cơ hội phát triển.

3.2. Nội dung thực hiện

Đẩy mạnh, đổi mới các hoạt động truyền thông, giáo dục, vận động xã hội về

công tác trẻ em.

- Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách, pháp

luật của Đảng, Nhà nước về công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em, phòng, chống xâm

hại trẻ em, đặc biệt phòng, chống XHTD trẻ em bằng nhiều hình thức như phóng

sự, thông điệp, tin bài, tờ rơi, panô, sinh hoạt nhóm, nói chuyện chuyên đề… đặc

biệt quan tâm tuyên truyền Luật Trẻ em năm 2016 và Nghị định số 56/2017/ND-CP

quy định chi tiết một số Điều của Luật Trẻ em.

- Vận động sự tham gia rộng rãi, tích cực của các tổ chức, cộng đồng, gia

đình và trẻ em dể thực hiện các quyền trẻ em, giải quyết các vấn đề về trẻ em ở địa

phương; vận động đóng góp và sử dụng hiệu quả, minh bạch nguồn lực thông qua

68

Quỹ Bảo trợ trẻ em.

- Đẩy mạnh các hoạt động truyền thông, giáo dục, vận động xã hội về thực

hiện quyền trẻ em với sự tham gia tích cực, chủ động, trách nhiệm của các cấp, cơ

quan, các tổ chức. Chú trọng truyền thông, giáo dục kiến thức, kỹ năng thực hiện

quyền trẻ em, bảo vệ trẻ em trong việc phòng, chống XHTD trẻ em cho cha mẹ,

người chăm sóc trẻ em, người làm việc trực tiếp với trẻ em.

- Giáo dục, cung cấp kiến thức, kỹ năng cho trẻ em về tự bảo vệ, phòng,

chống xâm hại và thực hiện quyền được tham gia vào các vấn đề về trẻ em.

Thực hiện quyền trẻ em

- Tổ chức diễn đàn trẻ em các cấp theo Thông tư số 29/2019/TT- BLĐTBXH

ngày 26/12/2019 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội về việc hướng dẫn tổ

chức diễn đàn trẻ em.

- Tổ chức lấy ý kiến, nguyện vọng của trẻ em khi xây dựng các chương trình,

chính sách, quyết định, kế hoạch có liên quan đến trẻ em giai đoạn 2021-2030 theo

Thông tư số 36/2018/TT-BLĐTBXH ngày 26/12/2018 của Bộ Lao động – Thương

binh và Xã hội về việc hướng dẫn thực hiện lấy ý kiến của trẻ em trong quá trình

xây dựng chương trình, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật, quyết định, kế

hoạch phát triển kinh tế - xã hội về trẻ em hoặc liên quan đến trẻ em.

- Tiếp tục tổ chức và nâng cao chất lượng Hội thi tìm hiểu Luật Trẻ em,

trong đó tâp trung phát động đến đối tượng là học sinh từ cấp II trở lên.

Tăng cường công tác BVCS&GD trẻ em, thực hiện Chỉ thị số 18/CT-CP

ngày 16/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường các giải pháp phòng,

chống bạo lực, xâm hại trẻ em.

- Tiếp nhận, giải quyết kịp thời các vụ việc liên quan đến bạo lực, xâm hại

trẻ em theo đúng quy định của pháp luật và Nghị định 56/NĐ-CP ngày 09/5/2017

của Thủ tướng Chính phủ. Kiên quyết xử lý nghiêm các cơ quan, tổ chức, cá nhân

bao che, chậm trễ, cố tình kéo dài hoặc không xử lý vụ việc bạo lực, xâm hại trẻ em.

- Tăng cường các hoạt động truyền thông, các giải pháp phòng ngừa, cung

cấp kiếnthức, kỹ năng thông báo, tố cáo các hành vi xâm hại, bạo lực trẻ em cho

cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em. Giải quyếtvà hỗ trợkịp thời tình trạng trẻ em bị bạo

lực, bóc lột, xâm hại đặc biệt là XHTD. Thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo định

69

kỳ và đột xuất về trường hợp trẻ em bị XHTD.

- Duy trì, phát triển hệ thống cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em kết nối với các

dịch vụ công tác xã hội,bảo trợ xã hội, y tế, giáo dục và trợ giúp pháp lý nhằm đáp

ứng việc bảo vệ trẻ em ở cả ba cấp độ. Bảo đảm việc tiếp nhận, xử lý kịp thời thông

tin, thông báo, tố giác về bạo lực, xâm hại trẻ em.

- Phát huy hiệu quả hoạt động của các cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em,

điểm tư vấn bảo vệ trẻ em tại cộng đồng và trường học, Câu lạc bộ tư vấn, trợ giúp

trẻ em tỉnh An Giangtrong công tác tư vấn và thực hiện quyền trẻ em.

- Tiếp tục phát huy có hiệu quả đường dây nóng phòng, chống mua bán

người đặt tại Trungtâm công tác xã hội -Bảo vệ trẻ em tỉnh An Giang với điện thoại

(18008077). Tăng cường tuyên truyền Tổng đài quốc gia với đầu số(111).

- Xây dựng lắp đặt các pano, áp phich, in ấn tài liệu về phòng, tránh xâm hại

trẻ em, đuối nước và tai nạn thương tích trẻ em,…

Củng cố, kiện toàn Ban Chỉ đạo Hệ thống BVTEDVCĐ các cấp nhất là việc

thành lập tổ chức phối hợp liên ngành về trẻ em cấp xã; nhóm thường trực bảo vệ

trẻ em cấp xã để giúp UBND, Chủ tịch UBND cấp xã thực hiện quyền trẻ em ở địa

phương nhằm giải quyết các vấn đề trẻ em, xây dựng môi trường sống an toàn, lành

mạnh cho trẻ em.

Tổ chức đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác bảo vệ,

chăm sóc trẻ em, phòng, chống XHTD trẻ em các cấp. Củng cố đội ngũ cán bộ, viên

chức làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em cấp huyện, xã; phát triển mạng lưới

cộng tác viên làm nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc trẻ em tại khóm, ấp.

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kịp thời hỗ trợ cơ sở giải quyết

vướng mắc nhằm đạt kết quả tốt trong công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em, phòng,

chống xâm hại trẻ em.

3.3. Một số giải pháp thực hiện

3.3.1. Giải pháp hoàn thiện luật pháp, chính sách

Hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình sự về tội phạm

XHTD trẻ em. Vấn đề xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi XHTD đang có

độ lùi, trễ về mặt thời gian, chưa tương thích, còn nhẹ nhàng, chưa đủ răn đe. Việc

xác định hành vi XHTD trẻ em cần cụ thể và bao quát để lường trước được những

70

hành vi mới sẽ xuất hiện trong tương lại.

Đảm bảo sự thống nhất nội hàm của khái niệm người chưa thành niên và trẻ

em. Việc xác định trẻ em là người dưới 18 tuổi là cần thiết. Tuy nhiên, việc thống

nhất hai khái niệm này trong hệ thống pháp luật Việt Nam là một vấn đề hết sức

phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều chủ trương, chính sách hiện hành. Do

vậy, cần có lộ trình nghiên cứu, rà soát, đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật cũng

như sự ảnh hưởng của nó khi thực hiện việc nhất thể hóa hai khái niệm này.

Cần có quy định chặt chẽ trong luật, chế tài xử phạt phải tương xứng với

hành vi bạo lực cần xử lý. Hiện tại pháp luật chưa bắt buộc những người phát hiện,

nghi ngờ trẻ em bị bạo lực xâm hại phải khai báo, trừ phi các hành vi đó có yếu tố

hình sự, chưa quy định về việc bảo vệ trẻ em là nạn nhân, nhân chứng hay thủ

phạm; quy trình, trách nhiệm thẩm quyền đánh giá nguy cơ và quản lý trường hợp

trẻ em bị bạo lực, xâm hại, cũng như những tiêu chuẩn cụ thể về đánh giá mức độ

nguy cơ gây tổn hại cho trẻ em của các hành vi bạo lực, xâm hại để từ đó có kế

hoạch và hạn chế tối đa những tổn hại có thể gây ra cho trẻ em… Tiếp tục nghiên

cứu, kiến nghị sửa đổi, ban hành các văn bản hướng dẫn với các quy định mở và dễ

hiểu về các hành vi xâm hại tình dục trẻ em, để thuận lợi trong việc tố tụng cũng

như tuyên truyền luật.

Cần có những quy định hoặc hướng dẫn cụ thể, thống nhất. Về thời hạn giám

định, trong Bộ Luật Hình sự chưa quy định cụ thể thời hạn giám định các loại tội

này nên đề nghị quy định thời hạn giám định cụ thể để các cơ quan tư pháp nhanh

chóng giải quyết vụ việc.

Luật cần cụ thể hóa hơn nữa vai trò của Nhà nước và các ngành chức năng,

truyền thông báo chí, cũng như gia đình trong phòng, chống XHTD trẻ em để giảm

thiểu đến mức thấp nhất những hành vi XHTD xảy ra.

3.3.2. Giải pháp tổ chức, bộ máy, cơ chế

Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền về công XHTD

trẻ em trong tình hình mới. Tăng cường trách nhiệm của chính quyền địa phương về

công tác bảo vệ trẻ em, phòng ngừa bạo lực, XHTD trẻ em; lồng ghép các chỉ tiêu

về thực hiện quyền trẻ em vào các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội tại địa

phương, đơn vị; huy động và sử dụng có hiệu các nguồn lực đầu tư nhằm bảo đảm

71

quyền trẻ em, tạo môi trường sống an toàn và lành mạnh cho trẻ em.

Quan tâm củng cố, kiện toàn Hệ thống BVTEDVCĐcác cấp. Phát huy hiệu

hoạt độngHệ thống BVTEDVCĐ các cấp. Xây dựng và thực hiện Đề án bố trí, nâng

cao năng lực, ổn định đội ngũ người làm công tác bảo vệ trẻ em ở địa phương.

Quan tâm lựa chọn, đào tạo đội ngũ báo cáo viên về phòng, chống xâm hại,

bạo lực trẻ em, ít nhất mỗi sở, ngành, đoàn thể liên quan, các địa phương, các

trường học trên địa bàn tỉnh có ít nhất 01 báo cáo viên. Tổ chức tập huấn cho cán bộ

làm công tác trẻ em các cấp, đội ngũ làm công tác trợ giúp pháp lý, điều tra viên, kiểm

sát viên, người trực tiếp làm việc với trẻ về các kiến thức, kỹ năng chuyên sâu về trẻ

em đặc biệt là về phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ, kỹ năng điều tra, kỹ năng truy tố,

kỹ năng trợ giúp pháp lý… nhằm nâng cao trình độ và năng lực công tác.

Xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành và mạng lưới xã hội giữa ngành

LĐTB&XH với các cơ quan, tổ chức liên quan về bảo vệ trẻ em, phòng, chống bạo

lực, XHTD trẻ em. Xác lập cơ chế phối hợp phòng ngừa, xử lý vụ việc xâm hại trẻ

em; nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của tổ chức phối hợp liên ngành trong

công tác bảo vệ trẻ em tại địa phương. phối hợp hiệu quả giữa chính quyền địa

phương với các tổ chức xã hội, trường học và gia đình nhằm xây dựng môi trường

an toàn, lành mạnh cho học sinh.

Tăng cường công tác phối hợp liên ngành, kiểm tra, thanh tra, hướng dẫn

thực hiện chính sách, pháp luật về trẻ em ở địa phương, nhất là nơi xảy ra nhiêu

việc xâm hại tình dục trẻ em; xử lý các hành vi bao che, không tố cáo, không phối

hợp, không thực hiện hoặc thực hiện không kịp thời trách nhiệm bảo vệ trẻ em của

các cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình và cá nhân đối với các vụ việc xâm

hại tình dục trẻ em. Biểu dương, khen thưởng kịp thời các tổ chức, cá nhân có thành

tích xuất sắc trong công tác phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em.

Tăng cường vai trò giám sát và phản biện của Mặt trận Tổ quốc và các tổ

chức chính trị - xã hội với việc thực thi pháp luật, chính sách về bảo vệ trẻ em và

trách nhiệm tham gia giải quyết các vụ việc xâm hại trẻ em.

Tăng cường quản lý nhà nước về trật tự xã hội nhất là quản lý nhân hộ khẩu,

các ngành nghề kinh doanh có ðiều kiện về an ninh trật tự, các hoạt ðộng kinh

doanh dịch vụ vãn hóa, khu vui chõi, giải trí; kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm đối

với mọi hành vi tuyên truyền văn hóa phẩm đồi trụy; đẩy mạnh phong trào toàn dân

72

tham gia phòng, chống tội phạm.

Quan tâm xây dựng các thiết chế văn hóa, khu vui chơi cho trẻ em. Quản lý

các hoạt động vui chơi, giải trí nhằm phòng, chống xâm hại trẻ em. Tiếp tục xây

dựng và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ tự quản, xóm, ấp, khu phố an

toàn về an ninh trật tự. nhân rộng các mô hình chăm sóc và bảo vệ trẻ em có hiệu

quả như Câu lạc bộ “Gia đình phát triển bền vững”, “Gia đình trẻ”, “Ông - bà –

cháu”…;xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh. Bảo đảm khách quan, chính

xác, không hình thức trong đánh giá và công nhận, xã, phường, thị trấn phù hợp với

trẻ em theo Quyết định số 06/QĐ-TTg, ngày 03/01/2019 của Thủ tướng Chính phủ.

3.3.3.Giải pháp truyền thông, giáo dục

Thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về trẻ em phải thật sự

sâu rộng, có trọng tâm, trọng điểm, đặc biệt là vùng dân tộc miền núi và khu vực

nông thôn.

Phối hợp truyền thông, phổ biến chính sách pháp luật, kỹ năng về bảo vệ trẻ

em và phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em cho chính quyền các cấp, các ngành,

các tổ chức, xã hội, cha mẹ và trẻ em thông qua nghiên cứu, xây dựng các chương

trình, sản phẩm, tài liệu phục vụ công tác tuyên truyền trên các phương tiện thông

tin đại chúng, môi trường mạng và giáo dục về bảo vệ trẻ em, phòng, chống bạo

lực, xâm hại tình dục trẻ em; trách nhiệm phát hiện, thông báo, tố giác và ngăn ngừa

hành vi bạo lực học đường, XHTD trẻ em.

Truyền thông, phổ biến Luật Trẻ em; Nghị định số 56/2017/NĐ-CP ngày

09/5/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Trẻ em; Chỉ thị số

20-CT/TW ngày 05/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng

đối với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình hình mới; Chỉ thị số

18/CT-TTg, ngày 16/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường giải pháp

phòng, chống bạo lực xâm hại trẻ em; Chỉ thị số 23/CT-TTg, ngày 26/5/2020 của

Thủ tướng Chính phủ về tăng cường giải pháp đảm bảo thực hiện quyền trẻ em và

bảo vệ trẻ em và các văn bản pháp luật có liên quan…

Truyền thông vai trò, trách nhiệm của cha, mẹ và người thân nhằm xây dựng

thiết chế gia đình bền vững. Cha mẹ cần thường xuyên quan tâm chia sẻ với con

mình để nhận thấy những thay đổi tâm, sinh lý cần thiết. Trang bị cho con biết ý

73

thức cảnh giác, cách thức phòng vệ trước những đối tượng có ý định thực hiện hành

vi đồi bại. Không cho trẻ ăn mặc hở hang vì dễ gây kích thích sự ham muốn đối với

những kẻ có ý xấu. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em nhằm giúp các em ý thức

được trách nhiệm của mình đối với bản thân và có kỹ năng bảo vệ mình trước các

nguy cơ bạo lực, xâm hại.

Tăng cường quảng bá, phối kết hợp Tổng đài tổng đài Trung tâm Công tác

xã hội tỉnh An Giang (18008077), Tổng đài điện thoại Quốc gia bảo vệ trẻ em (số

111) để được miễn phí khi có nhu cầu: tư vấn, tham vấn, hỗ trợ, can thiệp trẻ em bị

bạo lực, bị xâm hại và có hoàn cảnh đặc biệt.

Tuyên truyền các gương điển hình trong công tác phòng ngừa, hỗ trợ can

thiệp đối với bạo lực học đường, XHTD trẻ em trên các trang mạng (website), cổng

74

thông tin điện tử, các phương tiện thông tin đại chúng và các hình thức khác.

Tiểu kết chương

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và tổng hợp các vấn đề đã phân tích có liên

quan đến đề tài chương này nêu mục tiêu, nội dung thực hiện một số giải pháp

nhằm thúc đẩy hiệu quả thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em như giải

pháp hoàn thiện thể chế chính sách, giải pháp truyền thông, giải pháp giáo dục.

Những giải pháp đã nêu nhằm hỗ trợ hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo

dục, phát triển kỹ năng cho trẻ em. Mỗi giải pháp đều nêu ra được ý nghĩa của giải

pháp, cách thức thực hiện cũng như yêu cầu thực hiện để các cơ quan chuyên môn,

người làm công tác trẻ em có thể thực hiện linh hoạt các giải pháp. Điều này mang

75

lại hiệu quả cao trong công tác phòng, chống XHTD trẻ em.

KẾT LUẬN

Thực trạng tình hình xâm hại trẻ em, đặc biệt là XHTD trẻ em đã và đang

diễn biến hết sức phức tạp, gây hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng đến phát triển

kinh tế - xã hội, văn hóa, đời sống vật chất, tinh thần của toàn xã hội, cũng như sự

phát triển chung của thế hệ trẻ.

Luận văn đã phân tích một cách cụ thể tình hình thực hiện chính sách về

phòng, chống XHTD trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang và các yếu tố ảnh hưởng.

Được sự quan tâm của UBND tỉnh, các ngành chức năng và toàn thể cộng đồng,

việc thực hiện chính sách về phòng, chống XHTD trẻ em tại địa phương đã đạt

được kết quả nhất định, góp phần bảo vệ và chăm sóc tốt hơn trẻ em bị XHTD. Tỉnh

luôn quan tâm hỗ trợ cơ sở vật chất, tạo điều kiện cho công tác điều tra, truy tố, xét

xử nghiêm minh các vụ việc XHTD trẻ em. Hoạt động hỗ trợ, thăm hỏi cho trẻ em

bị xâm hại được thực hiện kịp thời.v.v. Tuy nhiên, sự phối hợp giữa các ban ngành

đôi lúc chưa chặt chẽ; một số ngành có liên quan từng lúc chưa thật sự sâu sát trong

quản lý, điều hành để đảm bảo hoạt động phòng, chống xâm hại trẻ em có hiệu quả.

Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách về phòng, chống XHTD

trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang đã được nhận diện, như hệ thống luật pháp, nhận

thức và triển khai thực hiện của chính quyền địa phương, công tác truyền thông, đặc

điểm từ trẻ và gia đình trẻ, trình độ kỹ năng của người thực hiện công tác phòng,

chống xâm hại tình dục trẻ em. Nghiên cứu đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của

yếu tố gia đình trong việc trang bị cho các em kỹ năng cần thiết về bảo vệ mình,

tiếp đó là vai trò của cán bộ làm công tác trẻ em tại địa phương trong việc giáo dục

kỹ năng phòng, chống XHTD cho các em.

Căn cứ vào kết quả phân tích về quá trình thực hiện chính sách phòng, chống

XHTD trẻ em ở tỉnh, một số biện pháp cụ thể nhằm thúc đẩy hiệu quả công tác này

ở An Giang đã được đề xuất. Cụ thể như: nâng cao chất lượng công tác đối với các

cơ quan thực hiện chính sách tại địa phương cũng như hỗ trợ gia đình, trẻ em những

kỹ năng phòng ngừa, ứng phó được các tình huống có thể xảy ra.

Nhìn rộng ra ở phạm vi cả nước, công tác thực hiện chính sách, pháp luật

phòng, chống xâm hại trẻ em nói chung, thực hiện chính sách phòng, chống XHTD

76

trẻ em nói riêng cần được các ngành, các cấp từ trung ương đến địa phương quan

tâm xây dựng kế hoạch giám sát thực hiện chỉ rõ những tồn tại trong quá trình thực

thi chính sách phòng, chống XHTD trẻ em, làm rõ được trách nhiệm của từng chủ

thể trong thực hiện nhiệm vụ. Để góp phần cho mọi trẻ em đều được bảo vệ, giảm

nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt, chú trọng bảo vệ trẻ em để không bị xâm hại,

trẻ có hoàn cảnh đặc biệt được trợ giúp, chăm sóc để phục hồi, hòa nhập cộng đồng

và có cơ hội phát triển, xin đề xuất một số kiến nghị sau:

Đối với Chính phủ, bộ, ngành trung ương:

- Nghiên cứu ban hành Nghị định về nghề hoạt động công tác xã hội, làm rõ

vai trò, vị trí, nhiệm vụ của cán bộ xã hội; tiêu chuẩn thực hành nghề công tác xã

hội; quy định theo dõi giám sát chất lượng cung cấp dịch vụ công tác xã hội.

- Có đề án kiện toàn tổ chức, bộ máy; quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ,

quy chế phối hợp của hệ thống quản lý nhà nước với các ngành, đoàn thể có liên

quan về chăm sóc và bảo vệ trẻ em các cấp.

- Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức và kỹ năng cần

thiết cho đội ngũ điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, cán bộ bảo vệ trẻ em và

các cán bộ khác hoạt động trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em.

- Đưa nội dung bảo vệ trẻ em vào chương trình đào tạo tại các cơ sở đào tạo

chuyên ngành công an, kiểm sát, tòa án, tư pháp, lao động-xã hội..., nhằm tăng

cường bảo vệ, hỗ trợ trẻ em bị xâm hại, bạo lực một cách hiệu quả.

- Sớm đưa nội dung giáo dục giới tính và kiến thức, kỹ năng về phòng, chống

xâm hại trẻ em vào chương trình của các cấp học phổ thông cho phù hợp.

Đối với chính quyền địa phương:

- Hội đồng nhân dân các cấp tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động giám

sát, bố trí ngân sách thường xuyên chi cho công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ em nói

chung, phòng, chống xâm hại trẻ em nói riêng, nâng mức hỗ trợ đội ngũ cán bộ làm

công tác trẻ em tại địa phương.

- Ủy ban Nhân dân tỉnh sớm triển khai và ban hành Kế hoạch thực hiện công

tác phòng chống bạo lực, xâm hại trẻ em giai đoạn 2021 -2025; nghiên cứu xây

dựng văn bản quy phạm pháp luật về chính sách phòng, chống xâm hại trẻ em nói

chung và chính sách phòng, chống xâm hại XHTD trẻ em.

77

- Chỉ đạo các ngành, các cấp tổ chức thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 18/CT-

TTg ngày 16/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường giải pháp phòng,

chống bạo lực, xâm hại trẻ em, Luật Trẻ em năm 2016.

- Chỉ đạo ngành LĐTB&XH chủ động rà soát, tham mưu với UBND các cấp

củng cố và kiện toàn Ban điều hành Hệ thống Bảo vệ trẻ em dựa vào cộng đồng và

nhóm công tác Bảo vệ trẻ em khi có thay đổi nhân sự.

- Chỉ đạo các ngành, các cấp xây dựng chương trình, kế hoạch, quy chế phối

hợp trong công tác giải quyết các vụ XHTD trẻ em như chủ động phối hợp để xác

minh, điều tra, xử lý từng trường hợp trẻ em bị xâm hại, trong đó quy định rõ các

thủ tục, quy trình và trách nhiệm phòng ngừa, phát hiện, tố giác, trợ giúp và giải

quyết các trường hợp các trẻ em bị xâm hại …..

- Chỉ đạo các ngành, các cấp tăng cường tuyên truyền công tác chăm sóc,

bảo vệ trẻ em nói chung, phòng, chống xâm hại trẻ em nói riêng đảm bảo tính thiết

thực, mang lại hiệu quả cao nhằm nâng cao nhận thức cho toàn xã hội, hạn chế thấp

nhất các vụ xâm hại xảy ra.

- Thường xuyên thanh tra, kiểm tra công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ em , xử lý

kịp thời các vụ việc xâm hại trẻ em. Kịp thời kiến nghị những khó khăn vướn mắc

của địa phương với các cơ quan có thẩm quyền, đảm bảo thực hiện tốt công tác bảo

vệ, chăm sóc trẻ em nói chung, phòng, chống XHTD trẻ em nói riêng.

- Bố trí nhân sự công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ em cấp cơ sở hợp lý để đảm

bảo thực hiện đầy đủ trách nhiệm theo quy định của Luật Trẻ em. Đặc biệt, quan

tâm chế độ chính sách cho người làm công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ em cấp cơ sở

yên tâm công tác.

- Quan tâm phát động phong trào thi đua về bảo vệ, chăm sóc trẻ em; phong

trào thi đua về thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em; định kỳ có sơ kết,

78

tổng kết, khen thưởng kịp thời./.