VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VÕ THÙY TRANG
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÒNG, CHỐNG XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI, 2021
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VÕ THÙY TRANG
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÒNG, CHỐNG
XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG
Ngành: Chính sách công
Mã số: 8340402
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS. NGUYỄN HỮU MINH
HÀ NỘI, 2021
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xâm hại tình dục trẻ em đã và đang xảy ra ở mọi quốc gia trên thế giới, đang
là vấn đề nổi cộm và gây nhiều bức xúc trong dư luận xã hội hiện nay. Xâm hại tình
dục (XHTD) trẻ em gây ra những tổn thương nghiêm trọng, lâu dài đối với trẻ em
trên nhiều phương diện, gây nhiều hậu quả nặng nề tới sự phát triển của xã hội. Hậu
quả của trẻ bị XHTD từ nhỏ về thể chất phải mang thương tật suốt đời; về tâm lý
như trẻ luôn cảm thấy căng thẳng lo lắng, cô đơn, không tự tin, nghi ngờ mọi người
xung quanh; có biểu hiện lệch lạc về nhân cách, hành vi tiêu cực như hung hăng,
phá phách, ngỗ ngược, luôn tìm cách gây hấn với những đứa trẻ khác; những trẻ này
lớn lên sẽ khó hòa nhập với môi trường sống.
Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á và là nước thứ hai trên thế giới tham gia
ký Công ước quốc tế về quyền trẻ em từ năm 1990, ban hành Luật Bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em từ năm 2004. Đặc biệt, Luật trẻ em (được Quốc hội khóa XIII thông qua
ngày 05/4/2016 tại kỳ họp thứ 11) và có hiệu lực thi hành vào 01/6/2017 đã quy định cụ
thể các quyền và bổn phận của trẻ em; các nguyên tắc, biện pháp bảo đảm thực hiện
quyền trẻ em; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình và cá nhân
trong việc thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em. Cụ thể, Điều 25 trong Luật Trẻ em
có quy định quyền được bảo vệ để không bị XHTD.
Tuy nhiên, tình trạng xâm hại trẻ em hiện nay đang đưa ra con số báo động.
Giai đoạn 2011 – 2015 xảy ra 5.300 vụ việc xâm hại tình dục trẻ em chủ yếu là với
trẻ em gái. Theo báo cáo kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về
phòng, chống xâm hại trẻ em giai đoạn 2016 - 2019 của Ủy ban Văn hóa, giáo dục,
Thanh niên, thiếu niên và nhi đồng – Quốc hội khóa XIV, có 6.432 trẻ em bị
XHTD, chiếm 73,85% tổng số trẻ em bị xâm hại [57]. Trẻ em có thể gặp nguy cơ bị
xâm hại ở bất cứ nơi đâu, có thể là trên sân chơi, ở trường học, nhà người thân
quen, thậm chí trong chính ngôi nhà của mình. Đối tượng XHTD trẻ em hầu hết là
những người có cuộc sống bình thường ít ai ngờ tới, có quan hệ gần gũi với nạn
nhân và gia đình nạn nhân như người thân, ruột thịt, thầy giáo…[25]
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến gia tăng trẻ bị XHTD như do vai trò bảo vệ,
1
chăm sóc và giáo dục (BVCS&GD) trẻ em của gia đình, cộng đồng chưa được coi
trọng; kiến thức và kỹ năng BVCS&GD trẻ em của cha mẹ, người chăm sóc trẻ em
chưa đầy đủ dẫn đến năng lực bảo vệ trẻ em của gia đình, cộng đồng còn hạn chế;
trẻ em dễ trở thành nạn nhân của XHTD; sự thiếu hiểu biết về pháp luật, lối sống
ích kỷ, thiếu trách nhiệm của một số gia đình đã tạo ra sự mất an toàn cho trẻ ngay
trong chính gia đình của mình. Bản thân các em cũng chưa được nhà trường và cha
mẹ trang bị những kiến thức cần thiết để tự bảo vệ mình [30]. Về mặt xã hội, các
loại hình dịch vụ chăm sóc, vui chơi giải trí dành cho trẻ hiện nay còn rất thiếu
thốn, làm cho trẻ em dễ bị dụ dỗ với các hoạt động giải trí do những kẻ xâm hại tạo
ra; việc quản lý về văn hóa thông tin còn bất cập trước sự xuất hiện của hàng loạt
các loại hình văn hóa phẩm không lành mạnh, phim ảnh ngoài luồng có tính chất
bạo lực, khiêu dâm dễ đánh thức sự tò mò của các em…
Đối với tỉnh An Giang, những năm gần đây, cùng với việc triển khai thực
hiện Luật Trẻ em 2016 và các quy định của Nhà nước, công tác phòng, chống
XHTD trẻ em đã được quan tâm. Tuy nhiên, nguy cơ xâm hại trẻ em nói chung,
XHTD trẻ em nói riêng, nhất là trẻ em nữ vẫn còn rất nghiêm trọng. Cụ thể từ năm
2016 đến năm 2019, có 198 trẻ em bị xâm hại (191 trẻ bị xâm hại là nữ, 07 trẻ bị
xâm hại là nam), trong đó có 147 trẻ bị XHTD, 01 trẻ bị xâm hại bằng hành vi bạo
lực, 01 trẻ bị mua bán và 49 trẻ bị xâm hại bằng các h́nh thức khác; các vụ việc xâm
hại đã khiến 01 trẻ em có thai, 04 trẻ em phải bỏ học [18]. Trong khi đó, các nghiên
cứu về việc thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em từ cách tiếp cận chính
sách công còn ít được thực hiện, đặc biệt là ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Để góp phần cùng với Đảng, Nhà nước và toàn xã hội chăm lo và bảo vệ
quyền lợi trẻ em, đồng thời nhằm bổ sung thêm kiến thức cho bản thân, tôi lựa chọn
đề tài: Thực hiện chính sách phòng, chống xâm hại tình dục trẻ emtrên địa bàn
tỉnh An Giang, nghiên cứu để làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xâm hại tình dục trẻ em; phòng, chống XHTD trẻ em và nâng cao kiến thức,
kỹ năng phòng, chống XHTD trẻ em là vấn đề đang được các nhà lãnh đạo, quản lý
và nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Thời gian qua, đã có nhiều công trình khoa học
đề cập đến vấn đề XHTD trẻ em; phòng, chống XHTD trẻ em và nâng cao kiến
2
thức, kỹ năng phòng, chống XHTD trẻ em ở nhiều mức độ và phạm vi khác nhau.
2.1. Công trình nghiên cứu, bài viết liên quan đến vấn đề phòng, chống
xâm hại tình dục trẻ em
Một số nghiên cứu đã cung cấp bức tranh thực trạng đáng quan tâm về xâm
hại trẻ em nói chung và XHTDtrẻ em nói riêng. Theo thống kê của Tổng cục Cảnh
sát – Bộ Công an, mặc dù chỉ là phần nhỏ so với thực tế nhưng mỗi năm trung bình
có 1.600 – 1.800 vụ xâm hại trẻ em được phát hiện, trong số 1.000 vụ XHTD, số vụ
mà trẻ em là nạn nhân chiếm 65%, đa số nạn nhân là nữ ở độ tuổi 12 – 15 (chiếm
57,46%), tuy nhiên số trẻ em dưới 6 tuổi bị xâm hại là vấn đề đáng báo động, chiếm
tới 13,2% [31].
Năm 2017, toàn quốc xảy ra 1.592 vụ xâm hại trẻ em, so với năm 2016
giảm 49 vụ; 1.642 trẻ em bị xâm hại trong đó trẻ em bị bạo lực là 245 em, giảm 171
em so với năm 2016; nhưng trẻ em bị XHTD: 1.397 em, so với năm 2016 tăng 186
trẻ. Hiện nhiều tỉnh, thành phố chưa quan tâm, đầu tư nguồn lực cho trẻ em [27].
Theo Báo cáo kết quả giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về
phòng, chống xâm hại trẻ em” của Đoàn giám sát Quốc hội khóa XIV từ ngày
01/01/2015 - 30/6/2019, cả nước có tới 8.442 vụ xâm hại trẻ em được phát hiện, xử
lý với 8.709 trẻ em bị xâm hại; trong đó, có 6.432 trẻ bị XHTD; 857 trẻ bị bạo lực;
106 trẻ bị mua bán, bắt cóc, chiếm đoạt; 1.314 trẻ bị xâm hại bằng các hình thức
khác. Đáng chú ý, chỉ riêng 6 tháng đầu năm 2019, số trẻ em bị xâm hại tăng đột
biến, với 1.400 em, tính trung bình cứ mỗi ngày cả nước có 7 trẻ em bị xâm hại.
Con số này khiến chúng ta không khỏi giật mình lo ngại trước vấn nạn xâm hại trẻ
em đang diễn ra trong thời gian gần đây. Và trên thực tế, con số này còn cao hơn rất
nhiều bởi có nhiều trường hợp trẻ em bị xâm hại nhưng chưa được phát hiện, xử lý
kịp thời, nhất là các hành vi bạo lực gây tổn hại về thể chất và tinh thần cho trẻ em.
Đối tượng XHTD trẻ em hầu hết là những người có cuộc sống bình thường ít ai ngờ
tới, có quan hệ gần gũi với nạn nhân và gia đình nạn nhân như người thân, ruột thịt,
thầy giáo, hàng xóm…[25].
Từ việc phân tích thực trạng các nghiên cứu cho thấy, bảo vệ trẻ em trước
vấn nạn xâm hại là việc làm bức thiết, đòi hỏi sự vào cuộc quyết liệt của các cấp,
ngành, gia đình và toàn xã hội; cần tạo hành lang pháp lý đủ mạnh, cơ chế chặt chẽ
3
để phòng ngừa hiệu quả, kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm đối với những hành vi
xâm hại trẻ em để đảm bảo tính răn đe, nghiêm minh của pháp luật. Đồng thời, các
cấp, các ngành cần tập trung giáo dục, nâng cao ý thức và kỹ năng phòng, XHTD
trẻ em không chỉ với chính các em mà còn phải với người lớn để xây dựng môi
trường sống an toàn, lành mạnh cho trẻ em thông qua các hoạt động truyền thông
trong phòng, chống XHTD trẻ em, hoạt động giáo dục trong phòng, chống XHTD
trẻ em, hoạt động phát triển kỹ năng trong phòng, chống XHTD trẻ em và hoạt động
tư vấn trong phòng, chống XHTD trẻ em.
2.2. Các nghiên cứu, sách viết về kỹ năng, kiến thức phòng ngừa xâm hại
tình dục trẻ em
Sách “Phòng ngừa XHTD trẻ em” do Dự án tuổi thơ – Chương trình phòng
ngừa do AusAID và Tổ chức tầm nhìn thế giới thực hiện với nội dung xoay quanh
các vấn đề nhận thức và hiểu biết về XHTD trẻ em để từ đó cha mẹ có cách phòng
ngừa phù hợp cũng như chuẩn bị cho bé cách tự bảo vệ bản thân trước những tình
huống xấu xảy ra.
Sách “Cẩm nang phòng tránh xâm hại cho con – Cha mẹ cần biết trước khi
quá muộn” do tác giả Phạm Thị Thúy biên soạn năm 2017 cung cấp những hiểu
biết cơ bản về vấn đề XHTD trẻ em, cách dạy trẻ phòng, chống XHTD, những điều
cần làm khi thấy trẻ có dấu hiệu bị XHTD, tâm sự của những người từng bị XHTD
… Các công trình khoa học trên đã góp phần quan trọng trang bị những kiến thức
cơ bản về XHTD trẻ em, phòng, chống XHTD trẻ em và nâng cao kiến thức, kỹ
năng phòng, chống XHTD trẻ em. Tuy nhiên, những nghiên cứu này chỉ đề cập tới
XHTD trẻ em, phòng, chống XHTD trẻ em và nâng cao kiến thức, kỹ năng phòng,
chống XHTD trẻ em trên phạm vi rộng, chưa có đề tài nghiên cứu chuyên sâu, toàn
diện lý luận và thực tiễn về XHTD trẻ em, phòng, chống XHTD trẻ em và nâng cao
kiến thức, kỹ năng phòng, chống XHTD trẻ em ở phạm vi địa phương An Giang.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận, những nhân tố ảnh
hưởng đến thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em, phân tích thực trạng
thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang. Trên
cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp, kiến nghị chính sách phù hợp với tình hình thực
4
tế nhằm góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ
em trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Để đạt được mục tiêu nêu trên, cần xác định các nhiệm vụ thực hiện của luận
văn như sau:
Thứ nhất, nghiên cứu Hiến pháp của Nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam (2013); Luật BVCS&GD trẻ em (2004); Luật Trẻ em (2016); Luật Hôn nhân -
Gia đình (2014); các văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội và các văn bản có
liên quan….
Thứ hai, làm rõ những vấn đề lý luận về phòng, chống XHTD trẻ em và lý
luận về thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em.
Thứ ba, phân tích thực trạng thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ
em trên địa bàn tỉnh An Giang.
Thứ tư, đề xuất biện pháp thúc đẩy hiệu quả thực hiện chính sách phòng,
chống XHTD trẻ em.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là việc triển khai, thực hiện chính sách
phòng, chống XHTDtrẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang và đề xuất giải pháp, kiến
nghị nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống XHTD trẻ em.
4.2. Khách thể nghiên cứu
- Đối với trẻ em (người dưới 16 tuổi).
- Các cơ quan lãnh đạo, quản lý tham gia thực hiện chính sách phòng, chống
xâm hại trẻ em nói chung, thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em nói
riêng trên địa bàn tỉnh.
- Cán bộ làm công tác BVCS&GD trẻ em tại địa phương.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Tỉnh An Giang.
- Phạm vi thời gian: Giai đoạn 2016 – 2019.
- Phạm vi nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu thực hiện chính sách phòng,
chống XHTD trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5
5.1. Phương pháp luận
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác -
Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách
phòng, chống xâm hại trẻ em nói chung, và chính sách phòng, chống XHTD trẻ em
nói riêng.
5.2. Phương pháp cụ thể
Luận văn sử dụng các phương pháp như thống kê, tổng hợp, phân tích,… số
liệu và dữ liệu có sẵn liên quan đến chủ đề nghiên cứu: các văn bản chỉ đạo của
Đảng, Chính phủ, Bộ ngành ở trung ương và địa phương; thu thập thông tin trên
mạng internet, một số sách, báo, tạp chí và công trình nghiên cứu khác như các báo
cáo, tài liệu thống kê của chính quyền, ban ngành đoàn thể, tổ chức, cá nhân liên
quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới vấn đề chính sách phòng, chống XHTD trẻ em.
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, kết hợp với trao đổi, thảo
luận với 09 cán bộ đại diện cơ quan lãnh đạo, quản lý tham gia thực hiện chính sách
về phòng, chống XHTD trẻ em trên địa bàn tỉnh: Ủy ban Nhân dân (UBND) tỉnh,
Công an tỉnh, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐTB&XH) tỉnh, Sở Y tế, Sở
Giáo dục và Đào tạo, Viện Kiểm sát Nhân dân (KSND) tỉnh, Tòa án Nhân dân
(TAND) tỉnh, Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) tỉnh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh (TNCS) tỉnh; 04 cán bộ phụ trách công tác bảo vệ trẻ em, điều tra viên, kiểm
sát viên cấp cơ sở.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về phòng, chống
XHTD trẻ em và thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em ở cấp độ địa
phương. Nghiên cứu gợi ra những cách tiếp cận mới trong việc đánh giá tầm quan
trọng trong thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em trước vấn đề bức xúc
hiện nay, từ đó nâng cao chất lượng công tác đối với các cơ quan quản lý, thực hiện
chính sách tại địa phương cũng như hỗ trợ, giúp đỡ những kỹ năng phòng ngừa, ứng
phó được các tình huống có thể xảy ra.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Thông qua việc tìm hiểu và phân tích thực trạng thực hiện chính sách phòng,
6
chống XHTD trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang, nhằm đề ra những biện pháp thúc
đẩy việc thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em.
Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ cho
việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập và hoạt động thực tiễn trong công tác phòng,
chống XHTD trẻ em.
7. Kết cấu của Luận văn
Luận văn này ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu, có ba
chương cụ thể như sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về thực hiện chính sách phòng, chống
xâm hại tình dục trẻ em.
Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em
tại An Giang.
Chương 3. Một số giải pháp thúc đẩy hiệu quả thực hiện chính sách phòng,
7
chống xâm hại tình dục trẻ em.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
PHÒNG, CHỐNG XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM
1.1. Lý luận về phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1.Trẻ em
Việc tìm hiểu khái niệm trẻ em có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn đối với
việc vận dụng vào thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em. Trẻ em là giai
đoạn đầu tiên của cuộc đời mỗi con người. Tâm lý học cho rằng trẻ em là giai đoạn
đầu của sự phát triển tâm lý – nghiên cứu con người. Ở giai đoạn này, cùng với sự
phát triển về mặt thể chất thì phẩm chất tâm lý của trẻ em cũng dần hình thành và
chịu sự ảnh hưởng khách quan của môi trường sống, xã hội và những người xung
quanh. Ở lứa tuổi này các em chưa nhận thức đầy đủ được những nguy cơ trong
cuộc sống trong đó có việc bị XHTD.
Theo Điều 1 Công ước Quyền trẻ em của Liên hiệp quốc thông qua ngày
20/11/1989 quy định: “Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp
luật áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Ở Việt Nam, quy
định về độ tuổi của trẻ em là thấp hơn so với Công ước. Luật Trẻ em 2016 quy định:
“Trẻ em là người dưới 16 tuổi”.
Mặc dù hệ thống pháp luật nước ta và quốc tế không có quy định thống nhất
về ranh giới giữa độ tuổi trẻ em và người lớn nhưng các văn bản pháp luật nước ta
cũng như quốc tế đều xác định trẻ em là đối tượng cần được bảo vệ và chăm sóc
cũng như cần được sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước và toàn thể xã hội, cộng
đồng nhằm tạo điều kiện cho trẻ em được phát triển toàn diện cả về thể chất và tinh
thần. Để trẻ em được phát triển toàn diện, đúng hướng thì người lớn cũng như xã
hội phải tạo ra những tiền đề vật chất, tinh thần thuận lợi cho sự phát triển tâm, sinh
lý của trẻ em.
Trong nghiên cứu này khái niệm về trẻ em được xác định như sau: trẻ em là
8
những người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và trí tuệ, ở độ tuổi dưới 16.
1.1.1.2. Xâm hại tình dục trẻ em
Khái niệm XHTD trẻ em, được hiểu một cách chung nhất là sự xâm phạm,
động chạm đến quyền tự do, đến nhu cầu phát triển tự nhiên của trẻ em về quan hệ
tính giao, xâm phạm đến thân thể, sức khỏe, nhân phẩm và danh dự của trẻ em.
Trước đây, chúng ta hay dùng từ “lạm dụng tình dục”. Tuy nhiên, ở Việt
Nam nghĩa của từ “lạm dụng” không sát nghĩa với thuật ngữ quốc tế sử dụng nên
có thay đổi thành “xâm phạm tình dục”. Trong quá trình sử dụng, cụm từ này tiếp
tục không phù hợp nên sau khi Quốc hội quyết định thay đổi thì cụm từ “xâm hại
tình dục” được sử dụng từ năm 2010.
Luật trẻ em 2016 đã nêu rõ tại Điều 4 “Xâm hại tình dục trẻ em là việc dùng
vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ trẻ em tham gia vào các hành vi
liên quan đến tình dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với trẻ em
và sử dụng trẻ em vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức” [38].
Cụ thể hóa nội dung XHTD trẻ em trong Luật Trẻ em, Nghị định số
56/2017/NĐ-CP ngày 09/5/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của
Luật trẻ em, trong đó nêu rõ tại:“Điều 13. Trẻ em bị XHTD bao gồm các hành vi:
1.Trẻ em bị hiếp dâm. 2.Trẻ em bị cưỡng dâm. 3.Trẻ em bị giao cấu. 4.Trẻ em bị
dâm ô. 5.Trẻ em bị sử dụng vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức”.
Xâm hại tình dục trẻ em bao gồm tất cả các hành vi tình dục không mong
muốn có thể bao gồm cả hành vi xâm hại có tiếp xúc hay hành vi xâm hại không
tiếp xúc. XHTDtrẻ em có thể xảy ra ở bất kì nền văn hóa, chủng tộc, tôn giáo, thể
chế chính trị nào.
1.1.1.3. Phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em
Khi xã hội đang bức xúc và lên án hàng loạt những vụ ấu dâm, quấy rối tình
dục trẻ em thì cha mẹ và những người chăm sóc trẻ đang loay hoay không biết làm
cách nào để bảo vệ con mình, làm thế nào để có thể phòng, chống XHTD xảy ra.
Phòng, chống XHTD chính là tổng thể các biện pháp về luật pháp, chính sách, thể
chế, tổ chức, truyền thông nhằm giảm thiểu các trường hợp XHTD trẻ em và tác hại
của nó. Các biện pháp phòng, chống XHTD trẻ em được thể hiện cả ở 3 cấp độ bảo
vệ trẻ em như đã quy định ở Luật Trẻ em 2016, đó là cấp độ phòng ngừa (Điều 48),
9
cấp độ hỗ trợ (Điều 49) và cấp độ can thiệp (Điều 50). Cụ thể, cấp độ phòng ngừa
gồm các biện pháp bảo vệ được áp dụng đối với cộng đồng, gia đình và mọi trẻ em
nhằm nâng cao nhận thức, trang bị kiến thức về bảo vệ trẻ em, xây dựng môi trường
sống an toàn, lành mạnh cho trẻ em, giảm thiểu nguy cơ trẻ em bị xâm hại hoặc rơi
vào hoàn cảnh đặc biệt. Cấp độ hỗ trợ bao gồm các biện pháp bảo vệ được áp dụng
đối với trẻ em có nguy cơ bị bạo lực, bóc lột, bỏ rơi hoặc trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt nhằm kịp thời phát hiện, giảm thiểu hoặc loại bỏ nguy cơ gây tổn hại cho trẻ
em. Cấp độ can thiệp bao gồm các biện pháp bảo vệ được áp dụng đối với trẻ em và
gia đình trẻ em bị xâm hại nhằm ngăn chặn hành vi xâm hại; hỗ trợ chăm sóc phục
hồi, tái hòa nhập cộng đồng cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.
Có thể thấy rằng, hậu quả của tội phạm XHTD trẻ em là hết sức nghiêm
trọng đối với bản thân nạn nhân và gia đình, xã hội. Vì vậy, để phòng, chống loại
tội phạm này một cách hiệu quả, hạn chế đến mức thấp nhất tác hại có thể xảy ra
cho xã hội, cần triển khai đồng bộ các giải pháp sau:
Về chính sách nhà nước: Cần sự phối hợp và hỗ trợ đồng bộ cả các ban
ngành tổ chức xã hội và cộng đồng; cần quan tâm công tác tổ chức bộ máy, bố trí
nhân lực; Kiện toàn ban chỉ đạo, Ban điều hành và nhóm công tác liên ngành bảo vệ
trẻ em cấp huyện, cấp xã; xây dựng và thực hiện Đề án bố trí, nâng cao năng lực, ổn
định đội ngũ người làm công tác bảo vệ trẻ em ở ngoài địa phương; xác lập cơ chế phối
hợp phòng, chống, xử lý vụ việc xâm hại trẻ em tại địa phương; xây dựng và hoàn
thiện hệ thống bảo vệ trẻ em bằng biện pháp tuyên truyền, giáo dục ý thức cảnh giác,
phát hiện sớm, tự phòng, chống XHTD và hỗ trợ tư vấn pháp lý khi cần thiết.
Xử lý nghiêm các cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, cá nhân che giấu, không
thông báo, không tố cáo vụ việc, hành vi xâm hại trẻ em.
Từ phía nhà trường: Nhà trường cần cung cấp cho trẻ em những kiến thức cơ
bản nhất về giới tính. Có thể dạy cho trẻ em biêt rằng không ai được chạm vào “chỗ
riêng tư” của trẻ. Dạy cho trẻ biết những hành vi lạm dụng tình dục là phạm pháp và
quyền mình được bảo vệ và tự bảo vệ. Dạy cho trẻ hiểu thân thể là “tài sản riêng” của
chúng. Trẻ có quyền từ chối những cái ôm hoặc những tiếp xúc gây khó chịu.
Từ phía gia đình và cộng đồng: Cha mẹ không nên né tránh mà cần thường
xuyên trò chuyện với con về vấn đề tế nhị. Khuyến khích con đặt câu hỏi về các vấn
10
đề khác nhau trong cuộc sống cũng như câu hỏi về những vấn đề sâu kín. Bên cạnh
đó, bố mẹ cần cố gắng tìm hiểu và hòa đồng với bạn bè của con, vì qua đó bố mẹ có
thể có được những thông tin cần thiết. Cần dạy trẻ không bao giờ được đi vào chỗ
kín, nơi vắng vẻ với một ai nếu không có sự đồng ý của bố mẹ. Trang bị cho con
biết cách phòng vệ, không mặc hở hang vì dễ gây kích thích sự ham muốn đối với
những kẻ có ý xấu.
1.1.2. Đặc điểm xâm hại tình dục trẻ em
1.1.2.1. Các hành vi xâm hại tình dục trẻ em
Mọi trẻ em cộng đồng đều có nguy cơ bị XHTD kể cả những trẻ sống trong
gia đình nghèo hay gia đình khá giả. Không những trẻ em gái mà trẻ em trai cũng có
thể trở thành nạn nhân bị XHTD. Điều đáng nói là sau khi bị xâm hại, nạn nhân
thường không hoặc không dám kể về những cái gì đã diễn ra với chúng. Hầu hết,
những người XHTD là nam giới và hầu hết trẻ em bị xâm hại bởi người quen biết
như họ hàng, bạn của người lớn trong gia đình hoặc hàng xóm… Đôi khi việc xâm
hại này diễn ra trong một thời gian dài, thậm chí kéo dài nhiều năm. Hành vi XHTD
trẻ em được thực hiện dưới nhiều dạng khác nhau, để thỏa mãn nhu cầu của người
lớn hơn, không nhằm mục đích kiếm tiền như: cưỡng hiếp, sờ mó, vuốt ve vào chỗ
kín của trẻ em, hôn trẻ em có tính chất gợi dục; cố ý phơi bày bộ phận kín của mình
cho trẻ em nhìn thấy; để cho trẻ em nhìn thấy người lớn có cử chỉ yêu đương hoặc
cho trẻ em nghe, xem các nội dung phim ảnh khiêu dâm, đồi trụy; nhìn trộm trẻ em
tắm, để trẻ em làm mẫu hoặc trình diễn thời trang không mặc quần áo, ăn mặc hở
hang. Ngoài ra, các hành vi sau cũng đều bị coi là hành vi XHTD trẻ em như: dùng
tiền, vật chất, uy tín hoặc lợi ích khác để dụ dỗ, lôi kéo trẻ em hoạt động mại dâm;
dùng thủ đoạn nói dối, gian lận để trẻ em hoạt động mại dâm; dẫn, chỉ dẫn, môi
giới, tổ chức xúi giục trẻ em hoạt động mại dâm; che giấu, cho thuê, mượn hoặc bố
trí nơi để trẻ em hoạt động mại dâm; dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng uy
quyền để ép buộc trẻ em hoạt động mại dâm… [38].
1.1.2.2. Biểu hiện của trẻ bị xâm hại tình dục
Khi trẻ em bị xâm hại, các em thường sợ hãi, rất sợ nói với người lớn vì những
kẻ xâm hại thường đe dọa không cho trẻ nói hoặc trẻ cảm thấy chúng đã làm điều đó
sai hoặc các em chưa biết cách thể hiện những gì đã xảy ra. Do đó, để nhận biết trẻ có
11
bị xâm hại hay không, chúng ta cần phải quan sát các dấu hiệu có thể [17] .
- Về thể chất: trẻ có những vết thương ở bộ phận sinh dục hoặc xung quanh
hậu môn, sưng tấy, phồng rộp, chảy máu ở miệng; quần áo lót có dính máu hoặc bị
rách; trẻ khó đi tiểu hoặc đại tiện, trong nước tiểu có máu hoặc phân; có mủ bất
thường ở âm đạo, dương vật, hậu môn, trẻ bị mang các bệnh truyền nhiễm qua
đường sinh dục; trên cơ thể trẻ có các vết thương thâm tím, đau đầu hoặc đau bụng.
- Trẻ bị XHTD có thể: ít tắm hoặc tắm rửa nhiều hơn thường lệ, hay thay
quần áo; chơi với những trẻ khác hoặc chơi đồ chơi theo kiểu tình dục một cách
hiểu biết hơn hoặc thường xuyên hơn so với lứa tuổi của chúng; biết nhiều về tình
dục hơn các bạn cùng lứa.
- Các biểu hiện về tâm lý: trẻ bị XHTD thường rất cảnh giác, sợ hãi, nhạy
cảm hoặc đột ngột sợ một ai đó, một nơi nào đó hoặc chỉ muốn đi cùng với bố mẹ;
trẻ có biểu hiện thu mình, kín đáo hoặc hầu như muốn ở một mình; có những biểu
hiện, hành động theo cách giống như trẻ nhỏ hoặc lứa tuổi nhỏ hơn; trở nên hung
hãng và bạo lực; cố gắng chạy ra khỏi nhà; luôn cảm thấy buồn hoặc không bày tỏ
bất kỳ một cảm xúc nào; trẻ trở nên khó ngủ, khóc hét, thức giấc đêm vì bị các cơn
ác mộng, sợ bóng tối hay đái dầm; trẻ tỏ ra sợ hãi khi bị sờ vào người hoặc sợ thực
hiện các hoạt động thể chất. Các dấu hiệu nêu trên có thể hiện một cách rõ ràng
hoặc không rõ ràng. Và ở mỗi trường hợp trẻ em bị XHTD, các biểu hiện lại khác
nhau. Cả trẻ em trai và trẻ em gái, cả trẻ em sống trên đường phố hay những trẻ em
sống cùng gia đình.
1.1.2.3 Các vấn đề gặp phải của trẻ bị xâm hại tình dục trẻ em
Cho dù sử dụng bạo lực, sự đe dọa hay lòng tốt để bắt trẻ thực hành hành vi
XHTD thì hậu quả của việc xâm hại này đều gây tổn thương cho trẻ ở các mức độ
khác nhau. Sự XHTD làm tổn thương trẻ vào thời điểm khi hành vi xâm hại diễn ra
và có thể tiếp tục gây tổn thương nạn nhân trong suốt quãng đời còn lại của trẻ đặc
biệt đối với những trẻ không thể kể về sự xâm hại này hoặc không nhận được sự
giúp đỡ, hỗ trợ hay trị liệu từ phía gia đình và xã hội.
Về mặt thể chất, trẻ em bị XHTD có thể chịu tổn thương thể xác kéo dài do
các bệnh như HIV/AIDS, viêm gang, lậu, giang mai và những bệnh lây lan qua
đường tình dục khác… Nếu không được chữa trị có thể gây nên những vấn đề trong
12
tương lai như có thai ngoài ý muốn, ung thư và tử vong do nhiễm trùng nặng. Ngoài
ra, trẻ còn có thể chịu những tổn thương thể chất trong quá trình phản kháng lại hành vi
XHTD: các tổn thương của bộ phận sinh dục. Với trẻ lớn hơn, nguy có thai được phát
hiện muộn không phải là hiếm gặp. Với những trường hợp này, sức khỏe và tương lai
của bà mẹ lẫn trẻ em thường ở trong tình trạng rất mong manh, khó khăn.
Về mặt tâm lý, trẻ em bị XHTD thường sẽ cảm thấy tội lỗi, sợ hãi, xấu xa,
thất bại, cộc tính… Trẻ thường cho rằng mình là kẻ thất bại và nguy cơ trở thành tội
phạm khi trưởng thành. Đặc biệt, nếu trẻ không được điều trị tâm lý kịp thời sau khi
bi xâm hại thì rất dễ bị ám ảnh lâu dài và khi lớn lên có thể trở thành người đi
XHTD trẻ em khác. Ngoài ra, trẻ bị XHTD khi còn nhỏ lớn lên có thể gặp vấn đề về
giới tính của mình, nhiều đứa trẻ bị trầm cảm, rối loạn nhân cách…
Điều đáng ngại là không phải lúc nào trẻ bị XHTD cũng thể hiện ra bên
ngoài những tổn thương về tâm lý mà đôi khi, cơn sang chấn tâm lý phải sau nhiều
năm mới thể hiện ra. Vì thế, phụ huynh thường khó phát hiện ra những bất thường
của con em mình… Trẻ em bị XHTD có thể tiếp tục bị người khác xâm hại trong
suốt quãng đời còn lại. Vì những trải nghiệm bị xâm hại khi còn là một đứa trẻ,
chúng lớn lên và tin rằng tình dục là cách duy nhất để thể hiện cảm xúc và an toàn.
Nghiêm trọng hơn, bị đối xử tồi tệ và XHTD có thể trở thành hình mẫu trong cuộc
sống của chúng. Nếu không được hỗ trợ và giúp đỡ để có thể hàn gắn từ sự xâm hại,
những đứa trẻ bị xâm hại có thể trở thành những người đi xâm hại khi chúng lớn lên.
1.1.3. Trẻ có nguy cơ bị xâm hại tình dục
1.1.3.1. Những trẻ em có nguy cơ bị xâm hại tình dục
Tất cả các trẻ em đều có nguy cơ trở thành nạn nhân của XHTD không có sự
phân biệt dân tộc, học vấn, điều kiện kinh tế, lứa tuổi, giới tính, đặc điểm cá nhân.
Tuy nhiên, một số trẻ em thuộc các nhóm như: trẻ em sống trong các gia đình khó khăn,
trẻ em sống trong các gia đình khuyết thiếu chỉ có cha hoặc mẹ hoặc thiếu cả cha mẹ; trẻ
em khuyết tật, chậm phát triển; trẻ em sinh sống ở các vùng khó khăn, dân tộc thiểu số;
trẻ em sống trong hoàn cảnh có nhiều cám dỗ… có nguy cơ bị XHTD cao hơn các trẻ em
khác và trẻ em gái có nguy cơ bị XHTD cao hơn trẻ em trai.
- Nhóm trẻ em sống trong gia đình khó khăn, trẻ em sống trong các gia đình
khuyết thiếu chỉ có cha hoặc mẹ hoặc thiếu cả cha mẹ: là các trẻ em sống trong các
13
gia đình có hoàn cảnh khó khăn, nghèo đói; trẻ có cha mẹ ly thân, ly dị, chỉ sống
với cha hoặc mẹ hoặc sống với người thân, không sống cùng cả cha hoặc mẹ trẻ em
mồ côi cha hoặc mẹ hoặc mồ côi cả cha mẹ. Những trẻ này thường không được
hoặc nhận được ít sự quan tâm chăm sóc từ gia đình, người thân. Chính vì thế, các
em rất dễ trở thành đối tượng mà những kẻ đi xâm hại để ý, nhắm đến.
- Nhóm trẻ em khuyết tật, chậm phát triển: là các trẻ em gặp vấn đề về sức
khỏe ngoại hình như khuyết tật vận động, câm điếc, bại liệt hay các em mắc các
chứng bệnh thần kinh, chậm phát triển trí tuệ… Các trẻ em này thường không có đủ
nhận thức, sức khỏe cũng như khả năng tự bảo vệ, chăm sóc bản thân, phụ thuộc
vào sự chăm sóc của người khác.
- Nhóm trẻ em sinh sống ở các vùng khó khăn, dân tộc thiểu số: là các trẻ em
sống trong các vùng có điều kiện kinh tế khó khăn nghèo đói, giao thông, văn hóa,
thông tin liên lạc kém phát triển, vùng dân tộc, miền núi, hải đảo… Trẻ sống trong
các vùng này thường ít có cơ hội tiếp cận với các nguồn thông tin, ít được quan tâm
chăm sóc, giáo dục nên các em thường bị hạn chế về nhận thức, thiếu các kiến thức
để có thể tự chăm sóc bản thân và bảo vệ mình, dễ trở thành nạn nhân của XHTD.
- Nhóm trẻ em sống trong hoàn cảnh có nhiều cám dỗ như trẻ em lang thang
đường phố, trẻ em mồ côi, trẻ sống trong các khu có nhiều tệ nạn xã hội như nghiện
hút ma túy, mại dâm… Các em dễ chịu tác động xấu từ môi trường sống và những
người xung quanh, thiếu sự quan tâm của người lớn, dễ bị cám dỗ, sa ngã vào các tệ
nạn xã hội, phát triển lệch lạc và rất dễ trợ thành trẻ em có nguy cơ bị XHTD.
Như vậy, tất cả trẻ em đều có nguy cơ bị XHTD. Tuy nhiên, trẻ em gái và
các trẻ em có nguy cơ bị XHTD cao hơn các trẻ em sống trong các gia đình khó
khăn, trẻ em sống trong các gia đình khuyết thiếu chỉ có cha hoặc mẹ hoặc thiếu cả
cha mẹ; trẻ em khuyết tật, chậm phát triển; trẻ em sinh sống ở các vùng khó khăn,
dân tộc thiểu số; trẻ em sống trong hoàn cảnh có nhiều cám dỗ, các trẻ em này còn
hạn chế thể chất, trí tuệ và nhận thức.
1.1.3.2. Các đặc điểm của trẻ em có nguy cơ bị xâm hại tình dục
Thiếu hiểu biết về vấn đề XHTD trẻ em
- Trẻ em có nguy cơ bị xâm hại và gia đình trẻ thường gặp khó khăn khi tiếp
cận các nguồn thông tin, kiến thức. Các trẻ em này sinh sống trong các gia đình có
14
hoàn cảnh khó khăn, éo le, phức tạp như bị khuyết tật, mồ côi cha mẹ, sống cùng
với ông bà / người thân hoặc thuộc hộ nghèo, hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, cha mẹ
đi làm ăn xa, sinh sống trong các khu vực có nhiều tệ nạn xã hội, nghèo đói… Do
hoàn cảnh khó khăn nên các em và gia đình thường khó khăn hoặc ít cơ hội tiếp cận
với các kênh thông tin như tivi, báo chí, internet hoặc tham gia các câu lạc bộ, lớp
giáo dục kỹ năng hoặc cha mẹ, người thân do bận làm ăn kinh tế mà thiếu sự quan
tâm đến con trẻ… mà đây là một trong những nguồn chính cung cấp các thông tin,
kiến thức về quyền trẻ em, các thông tin về XHTD trẻ em, kỹ năng phòng, chống
XHTD trẻ em… Chính vì ít cơ hội được tiếp xúc với các thông tin nên nhận thức
của trẻ em và gia đình các em về vấn đề XHTD trẻ em rất hạn chế, trẻ em và gia
đình thường không nhận biết được các mối nguy cơ để tự bảo vệ bản thân, bảo vệ
con / em mình. Hoặc đối với các em là trẻ khuyết tật, nhiều em không đủ khả năng
nhận thức để tiếp thu thông tin… Do vậy, các em rất dễ trở thành nạn nhân của kẻ
đi xâm hại.
Gặp khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội.
- Dịch vụ xã hội ở đây là các dịch vụ cơ bản như chăm sóc sức khỏe, tư vấn
tâm lý, giáo dục cung cấp kiến thức kỹ năng tự bảo vệ bản thân, hỗ trợ pháp lý…
Đối với các trẻ em có nguy cơ cao bị XHTD, cơ hội được tiếp cận với các dịch vụ
xã hội thường khó hơn so với các trẻ em khác. Các em ít có cơ hội được chăm sóc y
tế, cung cấp các kiến thức về sức khỏe sinh sản, được hỗ trợ tham vấn, tư vấn khi
gặp khó khăn, vướng mắc trong cuộc sống. Đặc biệt, với các trẻ em ở độ tuổi mới
lớn, trẻ thường thiếu kiến thức về sức khỏe sinh sản, cách tự bảo vệ và chăm sóc
bản thân hay còn đang tò mò về tình cảm tuổi mới lớn, các em rất cần được sự
hướng dẫn, giúp đỡ của người lớn. Tuy nhiên, các em gặp khó khăn rất nhiều khi
tiếp cận các dịch vụ xã hội này do khó khăn về kinh tế, do cha mẹ hoặc người thân
thiếu hiểu biết, do gia đình không có điều kiện đưa các em đến gặp các chuyên gia
tâm lý, thăm khám sức khỏe hay đến gặp các nhà tư vấn pháp lý để xin trợ giúp.
Bản thân trẻ em và gia đình thiếu kỹ năng bảo vệ, chăm sóc.
- Phần nhiều trẻ em có nguy cơ cao bị XHTD thường có hoàn cảnh gia đình
éo le, phức tạp: nhà nghèo, cha mẹ không hạnh phúc, ly thân, ly hôn, trẻ sống cùng
bố hoặc mẹ hoặc sống với ông bà, người thân khác. Cũng có trường hợp cha mẹ vì
15
mưu sinh gửi trẻ cho ông bà, người thân trông nom… Chính vì thế, gia đình không
có điều kiện quan tâm sát đối với trẻ. Do hoàn cảnh gia đình như vậy nên cha mẹ
hoặc người lớn đều không có các kỹ năng bảo vệ, chăm sóc trẻ, không thường
xuyên quan tâm, chú ý tới trẻ. Người lớn khi nhắc tới vấn đề xâm hại thường có tâm
lý e ngại, nhạy cảm, né tránh sự việc, thiếu cởi mở, ngại tiếp cận với các thông tin,
kiến thức, pháp luật về bảo vệ chăm sóc trẻ em dẫn tới thiếu các kỹ năng về bảo vệ
cũng như chăm sóc trẻ. Một phần do không được quan tâm từ phía gia đình, một
phần do không có điều kiện tiếp cận với các dịch vụ xã hội, tiếp cận với các nguồn
thông tin… nên trẻ có nguy cơ bị XHTD thiếu các kỹ năng: từ các kỹ năng cơ bản
như cách chăm sóc bản thân đến các kỹ năng để bảo vệ bản thân như tự nhận biết
tình huống nguy hiểm, phản kháng, xử lý tình huống hay việc chia sẻ với người
khác khi bản thân bị rơi vào các tình huống nguy hiểm… [30].
1.2. Lý luận về thực hiện chính sách phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em
1.2.1. Một số khái niệm
1.2.1.1. Thực hiện chính sách
Chính sách công là những quyết định của chủ thể được trao quyền lực công
nhằm giải quyết những vấn đề vì lợi ích chung của cộng đồng [22] .
Thực hiện chính sách là một khâu cấu thành chu trình chính sách, là toàn bộ
quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể chính sách thành hiện thực với các đối tượng
quản lý nhằm đạt mục tiêu nhất định. Tổ chức thực thi chính sách là trung tâm kết
nối các khâu (các bước) trong chu trình chính sách thành một hệ thống. Đây là giai
đoạn biến ý đồ chính sách thành hiện thực.
1.2.1.2. Thực hiện chính sách phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em
Thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em là trách nhiệm của cơ
quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình, cá nhân trong việc thực hiện quyền và bổn
phận của trẻ em [38].
1.2.1.3. Cán bộ làm công tác phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em
Cán bộ làm công tác phòng, chống XHTD trẻ em có thể gọi là người làm công
tác xã hội, là người có trình độ chuyên môn, được trang bị kiến thức kỹ năng về công
tác xã hội chuyên nghiệp và sử dụng, kiến thức, kỹ năng đó trong quá trình tác nghiệp
trợ giúp đối tượng (cá nhân, gia đình, nhóm, cộng đồng) có vấn đề xã hội giải quyết
16
vấn đề gặp phải, vươn lên trong cuộc sống.
Người làm công tác xã hội là những người được đào tạo một cách chuyên
nghiệp về công tác xã hội để sử dụng những kiến thức và kỹ năng của mình để: giúp
cho xã hội thấy rõ trách nhiệm của mình đối với sự phát triển chung của xã hội. Giúp
thân chủ: cung cấp các dịch vụ xã hội; tăng cường khả năng giải quyết và đối phó với
các vấn đề của mình; tiếp cận các nguồn lực; thiết lập những mối quan hệ thuận lợi
giữa họ và môi trường của họ.
1.2.2. Lý thuyết ứng dụng trong thực hiện phòng, chống xâm hại tình dục
trẻ em
1.2.2.1. Thuyết nhu cầu
Nhà tâm lý học Abraham Maslow Harold, một nhà tâm lý học người Mỹ,
được xem là người tiên phong trong trường phái tâm lý học nhân văn. Năm 1943,
ông đã phát triển một trong những lý thuyết mà tầm ảnh hưởng của nó đến nhiều
lĩnh vực khác nhau. Maslow đã thiết lập một lý thuyết có thứ bậc của nhu cầu. Tất
cả các nhu cầu cơ bản theo ông là bản năng, giống với bản năng của động vật. Nhu
cầu của con người thành 5 bậc.
Biểu đồ Tháp nhu cầu Maslow [29]
Bậc thang nhu cầu cơ bản của Maslow được tóm lại bằng những ý chính như sau:
- Nhu cầu sinh lý: đây là những nhu cầu sinh học, chúng bao gồm nhu cầu khí
thở, thực phẩm, nước và cơ thể có nhiệt độ tương đối ổn định.
- Nhu cầu an toàn: khi tất cả các nhu cầu sinh học được thỏa mãn và không còn
làm cho con người lo lắng, bận tâm, thì cái nhu cầu cho sự an toàn có thể phát sinh.
- Nhu cầu xã hội: khi nhu cầu về an toàn và sinh học được đáp ứng, nhu cầu
17
kế tiếp là nhu cầu xã hội như tình cảm, tình yêu và được nhìn nhận xuất hiện.
- Nhu cầu cần được tôn trọng: khi ba loại nhu cầu đầu tiên được thỏa mãn,
nhu cầu lòng tự trọng có thể phát sinh.
- Nhu cầu tự chứng tỏ mình: khi tất cả các nhu cầu nói trên được thỏa mãn,
thì nhu cầu muốn hiện thực hóa, tự chứng tỏ bản thân xuất hiện.
Việc vận dụng lý thuyết này vào đề tài nghiên cứu nhằm mục đích giải thích
rằng con người có rất nhiều nhu cầu cần đáp ứng. Ngoài các nhu cầu cơ bản như ăn,
uống, mặc, đi lại thì nhu cầu được học tập, phát triển kỹ năng cho trẻ, cán bộ giáo
dục và gia đình trẻ là nhu cầu cần thiết và cần ðáp ứng ngay. Chính vì vậy, muốn
làm tốt công tác thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em thì cần phân tích
được nhu cầu của các trẻ em và gia đình nuôi dưỡng các em để có các giải pháp đáp
ứng nhu cầu một cách phù hợp.
1.2.2.2. Thuyết hệ thống
Lý thuyết hệ thống được sáng lập bởi L.V.Bertalanffy (1901-1972) người
Áo, thuộc trường Đại học Tổng hợp Chicago, tiếp cận vấn đề hệ thống từ góc độ
sinh học bởi theo ông: “Mọi tổ chức hữu cơ đều là những hệ thống được tạo nên từ
các tiểu hệ thống và ngược lại cũng là một phần của hệ thống lớn hơn”.
Lý thuyết hệ thống cho rằng mọi tổ chức hữu cơ đều là hệ thống, được tạo từ
các hệ thống và ngược lại cũng là phần cứng của hệ thống lớn. Do đó, con người là
một bộ phận của xã hội, đồng thời cũng được tạo nên từ các phần tử nhỏ hơn. Các
hệ thống có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau. Khi một hệ thống thay
đổi, kéo theo sự thay đổi của một hệ thống khác và ngược lại khi muốn thay đổi một
hệ thống thì phải thay đổi hệ thống nhỏ tạo nên nó và thay đổi cả hệ thống bao trùm
nó [24].
Ứng dụng thuyết hệ thống vào đề tài nghiên cứu nhằm mục đích giải thích
rằng tình trạng XHTD trẻ em có thể bị ảnh hưởng của các yếu tố nằm trong một hệ
thống lớn gồm một số tiểu hệ thống như xã hội, nhà trường, gia đình và cá nhân.
Trong bảo vệ, chăm sóc trẻ em, lý thuyết hệ thống chỉ ra sự tác động mà các tổ
chức, các chính sách, các cộng đồng, nhóm, gia đình ảnh hưởng lên trẻ em. Mỗi trẻ
em đều có một môi trường sống và một hoàn cảnh sống, chịu tác động của các yếu
18
tố trong môi trường sống và cũng tác động, ảnh hưởng ngược lại môi trường xung
quanh. Để làm tốt công tác phòng, chống XHTD trẻ em không chỉ cần sự quan tâm
của riêng ngành giáo dục, lĩnh vực nào mà là sự tham gia của toàn xã hội.
Khi làm việc với trẻ em, cán bộ làm công tác trẻ em cần xem xét bản thân trẻ
là một hệ thống, hệ thống này nằm trong hệ thống lớn hơn là hệ thống gia đình, hệ
thống gia đình lại là một phần tử trong hệ thống một cộng đồng nhất định chứa gia
đình đó. Các hệ thống này đều có sự tương tác và ảnh hưởng lẫn nhau. Khi xác định
vấn đề của trẻ hoặc gia đình trẻ thì cần đặt trong mối quan hệ tương tác giữa các hệ
thống này để phân tích sâu hơn về các nguyên nhân dẫn đến vấn đề.
Vì vậy, nhiệm vụ cán bộ làm công tác trẻ em là tìm ra những mâu thuẫn
trong việc kết nối giữa các nhu cầu của trẻ và hệ thống trợ giúp bên ngoài để có thể
hỗ trợ trẻ và gia đình trẻ nhiều hơn. Ngoài ra, áp dụng lý thuyết hệ thống sẽ giúp
cán bộ làm công tác trẻ em: sử dụng và phát huy tối đa khả năng của trẻ trong sự
tương tác với các hệ thống khác để giải quyết vấn đề; xây dựng mối quan hệ mới
giữa trẻ, gia đình trẻ với các hệ thống trợ giúp trong xã hội; giúp tăng cường khả
năng tương tác giữa trẻ, gia đình trẻ và các hệ thống; cải tạo mối quan hệ tương tác
giữa các thành viên trong cùng hệ thống; giúp phát triển và thay đổi hệ thống chính
sách xã hội một cách phù hợp; cung cấp trợ giúp thực tế khác khi cần thiết.
Áp dụng lý thuyết hệ thống có thể thấy vấn đề phòng, chống xâm hại tình
dục là một hệ thống trong đó bao gồm các tiểu hệ thống: cán bộ làm công tác chăm
sóc trẻ em các cấp, cha mẹ và cán bộ giáo dục, hàng xóm, họ hàng, các hội đoàn
thể, chính sách chăm sóc trẻ em, cơ sở vật chất… Mặt khác, hệ thống phòng, chống
XHTD trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang cũng là một tiểu hệ thống nằm trong một
hệ thống bảo vệ, chăm sóc trẻ em rộng lớn của cả nước.
1.2.3. Những nguyên tắc trong tổ chức thực hiện chính sách phòng, chống
xâm hại tình dục trẻ em
Thực hiện chính sách phải đảm bảo đúng mục tiêu: là đảm bảo cho mọi trẻ
em đều được bảo vệ, để giảm nguy cơ bạo lực, bị XHTD; trẻ có nguy cơ bị XHTD
và trẻ em bị XHTD được phát hiện, can thiệp, hỗ trợ phục hồi, kịp thời để hòa nhập
cộng đồng và có cơ hội phát triển; chủ động phòng ngừa, loại bỏ các nguy cơ gây
tổn hại cho trẻ em; xây dựng môi trường sống an toàn, lành mạnh và thân thiện cho
19
trẻ em, thực hiện ngày còn tốt hơn các quyền cơ bản của trẻ em. Việc thực hiện
chính sách này sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức, trách
nhiệm của các cấp, các ngành, gia đình và toàn xã hội đối với công tác bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục (BVCS&GD) và phòng, chống XHTD trẻ em.
Thực hiện chính sách phải đảm bảo tính hệ thống: được quy định trong chủ
trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, bắt buộc đối tượng triển
khai thực hiện chính sách phải tuân thủ theo các quy định hiện hành, điều này được
thể hiện rõ nhất ở sự phân cấp thực hiện giữa các cơ quan đơn vị với nhau, giữa cơ
quan cấp trên và cơ quan cấp dưới, ở sự phối hợp trong công tác. Thực hiện chính
sách phòng, chống XHTD trẻ em cần phải bảo đảm tính hệ thống, nghĩa là phải thực
hiện đồng bộ và thống nhất các nhiệm vụ đề ra.
Thực hiện chính sách phải đảm bảo tính pháp lý, khoa học và hợp lý: chính
sách được thực hiện đúng pháp luật, đúng nội dung hướng dẫn quy định tại các văn
bản hướng dẫn của Nhà nước, đồng thời phải thực hiện một cách khoa học, hợp lý
để chính sách phát huy hiệu quả. Nếu chính sách được đảm bảo yêu cầu về tính
pháp lý, khoa học và hợp lý sẽ giúp nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong tổ chức, thực
hiện chính sách của các cơ quan quản lý nhà nước, củng cố niềm tin của các đối
tượng được thụ hưởng chính sách đối với Nhà nước.
- Thực hiện chính sách phải đảm bảo lợi ích thực sự cho đối tượng thụ hưởng
chính sách: quá trình thực thi chính sách thường tồn tại nhiều nhóm lợi ích trong xã
hội, cơ quan quản lý nhà nước phải có trách nhiệm bảo vệ lợi ích hợp pháp cho cá
nhân và tổ chức. Khi cơ quan quản lý nhà nước sử dụng chính sách công để đảm
bảo về lợi ích cho các đối tượng được thụ hưởng chính sách trong xã hội, sẽ góp
phần củng cố niềm tin của người dân vào các chính sách công của Nhà nước đã
thông qua. Nội dung quan trọng trong quá trình thực thi chính sách công là để cho
các đối tượng thụ hưởng chính sách có được những lợi ích thật sự.
1.2.4. Quy trình thực hiện chính sách phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em
Luận văn vận dụng hướng tiếp cận đa ngành, liên ngành khoa học xã hội và vận
dụng các phương pháp nghiên cứu từ lý thuyết chính sách công: tiếp cận quy phạm
chính sách công về chu trình chính sách từ hoạch định đến xây dựng chính sách, thực
hiện và đánh giá chính sách có sự tham gia của các bên chủ thể chính sách, cụ thể việc
20
thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em trải qua 07 bước sau:
Bước 1: xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách phòng, chống
XHTD trẻ em
- Tổ chức thực thi chính sách phòng, chống XHTD trẻ em là quá trình phức
tạp, diễn ra trong một thời gian dài, vì thế chúng cần được lập kế hoạch, chương
trình để các cơ quan nhà nước triển khai thực hiện chính sách một cách chủ động.
Kế hoạch triển khai thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em được xây
dựng trước khi đưa chính sách vào cuộc sống.
- Các cơ quan triển khai thực thi chính sách từ trung ương đến địa phương
đều phải xây dựng kế hoạch, chương trình thực hiện. Kế hoạch triển khai thực thi
chính sách phòng, chống XHTD trẻembao gồm những nội dung cơ bản: lập kế
hoạch tổ chức, điều hành cần đảm bảo những dự kiến về hệ thống các cơ quan chủ
trì và phối hợp triển khai thực hiện chính sách; số lượng và chất lượng nhân sự tham
gia tổchức thực thi; những dự kiến về cơ chế trách nhiệm của cán bộ quản lý và
công chức thực thi; cơ chế tác động giữa các cấp thực thi chính sách; xác định kế
hoạch cung cấp các nguồn vật lực gồm dự kiến vềcác cơ sở kiến trúc, trang thiết bị
kĩ thuật phục vụcho tổchức thực thi chính sách phòng, chống XHTD trẻ em; các
nguồn lực tài chính.
-Dự kiến vềthời gian duy trì chính sách, các bước tổchức, triển khai thực
hiện từ tuyên truyền chính sách đến tổng kết rút kinh nghiệm. Mỗi bước đều có mục
tiêu cần đạt được và thời gian dự kiến cho việc thực hiện mục tiêu.
- Kế hoạch kiểm tra thực thi chính sách là những dự kiến vềtiến độ, hình
thức, phương pháp kiểm tra, giám sát tổchức thực thi chính sách.
- Dự kiến những nội quy, quy chế trong thực thi chính sách bảo vệ, chăm sóc
trẻ em bao gồm nội quy, quy chế về tổ chức, điều hành; về trách nhiệm, nghĩa vụvà
quyền hạn của cán bộ, công chức và các cơ quan nhà nước tham gia tổ chức điều
hành chính sách; về các biện pháp khen thưởng, kỷ luật cá nhân, tập thể trong tổ
chức thực thi chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em.
Bước 2: tuyên truyền chính sách phòng, chống XHTD trẻ em
Sau khi kế hoạch thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em được
thông qua, các cơ quan trong bộ máy nhà nước tiến hành tổ chức triển khai thực
21
hiện theo kế hoạch.
-Trong quá trình thực hiện chính sách phải truyên truyền, vận động nhân dân
tham gia thực hiện chính sách pḥòng, chống XHTD. Tuyên truyền chính sách tốt
giúp cho các đối tượng chính sách và mọi người dân tham gia thực thi hiểu rõ về
mục đích, yêu cầu của chính sách; hiểu rõ vềtính đúng đắn của chính sách trong
điều kiện hoàn cảnh nhất định và về tính khả thi của chính sách để họ có thể tự giác
thực hiện theo yêu cầu quản lý của nhà nước. Đồng thời, phổ biến, tuyên truyền
chính sách còn giúp cho mỗi cán bộ, công chức, viên chức có trách nhiệm tổ chức
thực thi nhận thức được đầy đủ tính chất, trình độ, quy mô của chính sách với đời
sống xã hội để chủ động tích cực tìm kiếm các giải pháp thích hợp cho việc thực
hiện mục tiêu chính sách và triển khai thực thi có hiệu quả kế hoạch tổ chức thực
hiện chính sách được giao.
- Chủ thể phổ biến, tuyên truyền chính sách phòng, chống XHTD trẻ em bao
gồm đội ngũ cán bộ trong bộ máy cơ quan nhà nước được giao nhiệm vụ. Đội ngũ
này phải được đào tạo đủ trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng trong việc tuyên truyền,
phổ biến chính sách phòng, chống XHTD trẻ em đảm bảo chính sách khi được phổ
biến, tuyên truyền phải đảm bảo tính trung thực, khách quan.
- Đối tượng phổ biến, tuyên truyền chính sách phòng, chống XHTD trẻ em
bao gồm: những công dân được tác động trực tiếp và là đối tượng thụ hưởng chính
sách phòng, chống XHTD trẻ em; những công dân bị tác động gián tiếp bởi chính
sách phòng, chống XHTD trẻ em, đây là những nhân tố góp phần làm cho chính
sách hiệu quả; những đối tượng tham gia thực thi, triển khai chính sách phòng,
chống XHTD trẻ em.
- Phương tiện và cách thức tuyên truyền: tuyên truyền là một trong những hoạt
động hiệu quả nhất nhằm nâng cao nhận thức của người dân và toàn xã hội trong thực
hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻem. Nội dung phải đa dạng về cách thức và phong
phú về hình thức đáp ứng được nhu cầu của từng đối tượng tuyên truyền.
Bước 3: phân công, phối hợp thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em
Hoạt động phân công, phối hợp diễn ra theo tiến trình thực hiện chính sách
bảo vệ, chăm sóc trẻ em một cách chủđộng, sáng tạo để luôn duy trì chính sách
được ổn định, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quảchính sách, đảm bảo phát huy
22
được tính năng động, sáng tạo của các yếu tố cấu thành và tác động đến chính sách.
Bước 4: duy trì chính sách phòng, chống XHTD trẻ em
Việc duy trì chính sách phòng, chống XHTD trẻ em là toàn bộ hoạt động
đảm bảo cho chính sách phát huy tác dụng trong đời sống chính trị và xã hội. Đồng
thời, phải có sự quyết tâm và thống nhất cao của các tổ chức, người thực thi và môi
trường thực hiện chính sách. Đối với các cơ quan quản lý nhà nước về chính sách
phòng, chống XHTD trẻ em phải chủ động tổ chức thực thi chính sách, tăng cường
công tác tuyên truyền, vận động các đối tượng chính sách và toàn xã hội tích cực
tham gia thực thi chính sách. Nếu việc thực thi chính sách gặp phải những khó khăn
do môi trường thực tế biến động thì các cơ quan nhà nước sử dụng hệ thống công cụ
quản lý tác động nhằm tạo lập môi trường thuận lợi cho việc thực thi chính sách,
đồng thời chủ động điều chỉnh chính sách cho phù hợp với hoàn cảnh mới.
Bước 5: điều chỉnh chính sách phòng, chống XHTD trẻ em
Trong quá trình thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em, do tác
động của nhiều yếu tố, chính sách sẽ bộc lộ sự bất cập. Từ đó, việc điều chỉnh chính
sách là một hoạt động cần thiết diễn ra thường xuyên trong tiến trình tổ chức thực
hiện chính sách. Việc điều chỉnh chính sách được thực hiện bởi cơ quan nhà nước
có thẩm quyền để cho chính sách ngày càng phù hợp với yêu cầu quản lý và tình
hình thực tế. Theo quy định, cơ quan nào ban hành chính sách thì được quyền điều
chỉnh, bổ sung chính sách, nhưng trên thực tế, việc điều chỉnh các biện pháp, cơ
chếchính sách diễn ra rất linh hoạt, vì thế cơ quan quản lý nhà nước các ngành, các
cấp chủ động điều chỉnh biện pháp, cơ chế chính sách đểthực hiện sao cho có hiệu
quả, miễn là không làm thay đổi mục tiêu của chính sách.
Bước 6: theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện chính sách phòng, chống
XHTD trẻ em
Việc đôn đốc thực hiện chính sách phòng, chống XHTD là hoạt động của cơ
quan, cán bộ, công chức có thẩm quyền thực hiện, thông qua các công cụ hữu ích
nhằm làm cho các chủ thể thực thi nêu cao ý thức trách nhiệm trong thực hiện các
biện pháp theo định hướng chính sách; vừa thúc đẩy các chủ thể nỗ lực nhiều hơn
để hoàn thành nhiệm vụ, vừa phòng, chống những hành vi vi phạm quy định trong
23
quá trình thực thi chính sách phòng, chống XHTD trẻ em.
Bước 7: tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm thực hiện chính sách phòng,
chống XHTD trẻ em
Tổng kết, đánh giá quá trình tổchức thực thi chính sách, xem xét, kết luận về
chỉ đạo, điều hành và chấp hành chính sách của các đối tượng thực thi chính sách.
Đối tượng được xem xét, đánh giá, tổng kết về chỉ đạo điều hành thực thi chính
sách là các cơ quan nhà nước từ trung ương đến cơ sở. Ngoài ra, còn xem xét cả vai
trò, chức năng của các tổchức chính trị, chính trị-xã hội và xã hội trong việc tham
gia thực thi chính sách phòng, chống XHTD trẻ em. Trên cơ sở để tổng kết, đánh
giá công tác chỉ đạo, điều hành thực thi chính sách phòng, chống XHTD trẻ em
trong các cơ quan nhà nước là kế hoạch được giao và những nội quy, quy chế được
xây dựng ở bước một của phần này; đồng thời còn kết hợp sử dụng các văn bản liên
tịch giữa cơ quan nhà nước với các tổ chức chính trị và xã hội và các văn bản quy
phạm khác để xem xét tình hình phối hợp chỉ đạo, điều hành thực thi chính sách
công của các tổ chức chính trị và xã hội với Nhà nước.
1.3. Hệthống chính sách phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em
1.3.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước
Các chủtrương của Đảng, về chính sách bảo vệ trẻ em được quy định trong
các văn kiện, đáng chú ý là Chỉ thị số 55-CT/TW ngày 28/6/2000 Bộ Chính trị về
tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng ở cơ sở đối với công tác chăm sóc, giáo
dục trẻ em, trong đó yêu cầu hạn chế đến mức thấp nhất sự xâm hại đối với trẻ em.
Có biện pháp giải quyết tốt một số mục tiêu quan trọng như: tích cực phòng chống
tình trạng dụ dỗ trẻ em tham gia buôn bán và nghiện hút ma túy, trẻ em bị xâm hại,
trẻ em làm trái pháp luật, trẻ em lang thang kiếm sống [2]. Bộ Chính trị ban hành
Chỉ thị 20/CT-TW, ngày 5/11/2012 về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình hình mới. Qua đó, yêu
cầu các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổquốc Việt Nam và các đoàn thể phải
quan tâm giáo dục pháp luật, kiến thức, kỹ năng chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ
em; phê phán, lên án các hành vi vi phạm pháp luật, xâm hại, bạo lực, lôi kéo trẻ em
vào hoạt động tội phạm và cản trở việc thực hiện các quyền của trẻ em. Rà soát, sửa
đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về chăm sóc, giáo dục và
24
bảo vệ trẻ em [3]. Quy định tại Hiến pháp năm 2013: “Nghiêm cấm xâm hại, hành
hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi
phạm quyền trẻ em” (khoản 1 Điều 37)[21].Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
(BVCS&GD) trẻ em năm 2004 thay thế cho Luật Bảo vệ và chăm sóc (BV&CS) trẻ
em năm 1991 và kế thừa, phát huy những hiệu quả của Luật năm 1991 về vấn đề trẻ
em nhưng đồng thời tiếp thu có chọn lọc các quy định của pháp luật các nước và
văn kiện quốc tế; sửa đổi, bổ sung những quy định để điều chỉnh các quan hệ mới
phát sinh, bảo đảm phù hợp, thống nhất với hệ thống pháp luật hiện hành, đáp ứng
yêu cầu thực tiễn đềra. Tuy nhiên, bối cảnh kinh tế-xã hội của đất nước có nhiều
thay đổi, sự hội nhập quốc tếngày càng sâu rộng đã làm xuất hiện nhiều vấn đề mới
tác động đến công tác BV&CS trẻ em. Vì thế, Luật BVCS&GD trẻ em năm 2004 đã
bộc lộ những hạn chế, bất cập, không đáp ứng yêu cầu của các vấn đề mới phát
sinh,đặc biệt là vấn đề về BV&CS trẻ em [34].
Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Trẻ em, ngày 05/4/2016 gồm 7
chương với 106 Điều. Luật trẻ em năm 2016 ra đời là cơ sở pháp lý cao nhất quy
định về quyền, bổn phận của trẻ em; nguyên tắc, biện pháp bảo đảm thực hiện
quyền trẻ em; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình, cá nhân
trong việc thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em [39]. Để cụ thể hóa thực hiện
Luật trẻ em, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 56/2017/NĐ-CP ngày 09/5/2017
quy định chi tiết một số điều của Luật trẻ em. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt
Chương trình bảo vệ trẻ em giai đoạn 2016-2020 và Chương trình mục tiêu Phát
triển hệ thống trợ giúp xã hội giai đoạn 2016-2020, trong đó có dự án Phát triển hệ
thống bảo vệ trẻ em. Đồng thời, ban hành Chỉ thị số 18/CT-TTg, ngày 16/5/2017về
việc tăng cường giải pháp phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em.
Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 23/CT-TTg, ngày 26/5/2020
vềviệc tăng cường các giải pháp đảm bảo thực hiện quyền trẻ em và bảo vệ trẻ em,
là cơ sở pháp lý để các ban, ngành và cả hệ thống chính trị vào cuộc chăm lo cho
công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em vì mục tiêu phát triển ổn định và lâu dài của đất
nước. Trong những năm gần đây, quan điểm về chăm sóc, bảo vệ trẻ em của Đảng,
Chính phủViệt Nam đã có những thay đổi quan trọng. Xác định rõ vị trí và tầm
quan trọng trong bảo vệ, chăm sóc trẻ em gắn với mục tiêu phát triển đất nước theo
25
hướng bền vững và hội nhập, các quan điểm vềbảo vệ, chăm sóc trẻ em đã hướng
tới đảm bảo quyền và lợi ích của trẻ em, trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc trẻ em là của
toàn thể các cấp đảng, chính quyền, tổ chức chính trị xã hội và của toàn thể xã hội.
[52]
Theo quan điểm chỉ đạo của Đảng, chính sách phòng, chống XHTD trẻ em
hướng tới mục tiêu tạo môi trường an toàn, lành mạnh, tất cả trẻ em đều được bảo
vệ để giảm nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt, chủ trọng bảo vệ trẻ em không bị
xâm hại; trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được trợ giúp, chăm sóc để phục hội [52].
1.3.2. Vai trò của các tổ chức trong thực hiện chính sách phòng, chống
xâm hại tình dục trẻ em
- Quốc hội, Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện quyết định mục tiêu, chỉ
tiêu, chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội theo thẩm quyền
để thực hiện quyền trẻ em; giám sát việc thực hiện quyền trẻ em theo quy định của
pháp luật; phân bổ ngân sách hằng năm để bảo đảm thực hiện quyền trẻ em.
- Chính phủ có trách nhiệm thống nhất quản lý nhà nước về trẻ em; ban hành
theo thẩm quyền và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật, chương trình về trẻ em;
bảo đảm cơ chế và biện pháp phối hợp giữa các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ, địa phương trong việc thực hiện quyền trẻ em, giải quyết các vấn
đề về trẻ em. Bảo đảm xây dựng và thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu liên quan đến
trẻ em trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn, trung hạn và hằng năm của
quốc gia, ngành, địa phương theo quy định. Chỉ đạo các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ chủ trì, phối hợp thực hiện thanh tra, kiểm tra, giải quyết kiến
nghị, khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về trẻ em theo thẩm quyền. Bảo
đảm điều kiện để tổ chức đại diện tiếng nói, nguyện vọng của trẻ em thực hiện
nhiệm vụ theo quy định tại Khoản 2 Điều 77 của Luật Trẻ em năm 2016 và chỉ đạo,
phân công các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban Nhân dân
(UBND) cấp tỉnh phối hợp với tổ chức này trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Báo
cáo Quốc hội kết quả thực hiện quyền trẻ em và việc thực hiện nhiệm vụ của các bộ,
cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, địa phương liên quan đến trẻ em theo
quy định.
- Ủy ban Nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về trẻ em theo thẩm
26
quyền; tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật, kế hoạch, chương trình mục tiêu, chỉ
tiêu về trẻ em; ban hành theo thẩm quyền chính sách, pháp luật bảo đảm thực hiện
quyền trẻ em phù hợp với đặc điểm, điều kiện của địa phương. Chỉ đạo, tổ chức
thực hiện quyền trẻ em; bố trí và vận động nguồn lực bảo đảm thực hiện quyền của
trẻ em và bảo vệ trẻ em theo quy định; tổ chức, quản lý hoạt động của cơ sở cung
cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em theo thẩm quyền; bố trí người làm công tác bảo vệ trẻ em
ở địa phương. Hằng năm, báo cáo Hội Đồng nhân dân cùng cấp việc thực hiện
quyền trẻ em, giải quyết các vấn đề về trẻ em của địa phương. Đối với UBND cấp
xã giao nhiệm vụ cụ thể về thực hiện quyền của trẻ em, bố trí người làm công tác
bảo vệ trẻ em trong số các công chức cấp xã hoặc người hoạt động không chuyên
trách thuộc quyền quản lý.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có trách
nhiệmgiám sát, phản biện, tham vấn, kiến nghị đối với cơ quan nhà nước trong việc
xây dựng, thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật, phân bổ nguồn lực đáp ứng
quyền của trẻ em theo quy định của pháp luật. Tuyên truyền, vận động thành viên,
hội viên, đoàn viên của tổ chức và toàn xã hội hỗ trợ, tham gia thực hiện chính sách,
chương trình, kế hoạch, dịch vụ đáp ứng quyền của trẻ em, phòng ngừa hành vi vi
phạm quyền của trẻ em. Thực hiện chương trình, kế hoạch, dịch vụ đáp ứng quyền
trẻ em theo sự ủy quyền, hỗ trợ của Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ; chấp hành việc thanh tra, kiểm tra theo quy định của pháp luật.
Riêng Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh ngoài việc thực hiện quy định trên, có
trách nhiệm sau đây: Chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức có liên quan thực hiện
nhiệm vụ của tổ chức đại diện tiếng nói, nguyện vọng của trẻ em; đề xuất với Chính
phủ các Điều kiện bảo đảm thực hiện trách nhiệm đại diện tiếng nói, nguyện vọng
của trẻ em và giám sát việc thực hiện quyền trẻ em theo ý kiến, nguyện vọng của trẻ
em; phối hợp với Bộ LĐTB&XH, cơ quan, tổ chức có liên quan, UBND cấp tỉnh
hướng dẫn bảo đảm sự tham gia của trẻ em vào các vấn đề về trẻ em. Trung ương
Hội LHPN Việt Nam ngoài việc thực hiện quy định nêu trên, có trách nhiệm phối
hợp với tổ chức đại diện tiếng nói, nguyện vọng của trẻ em thực hiện giám sát việc
bảo đảm quyền, lợi ích của trẻ em.
- Các tổ chức xã hội vận động thành viên của tổ chức và xã hội hỗ trợ, tham
27
gia xây dựng, thực hiện chính sách, pháp luật, chương trình, kế hoạch, dịch vụ đáp
ứng quyền của trẻ em, phòng ngừa hành vi vi phạm quyền của trẻ em. Thực hiện
chính sách, pháp luật, đáp ứng quyền của trẻ em theo tôn chỉ, mục đích, nhiệm vụ,
quyền hạn của tổ chức được pháp luật quy định; tiếp nhận, thu thập thông tin từ
thành viên và xã hội để phản ánh, kiến nghị, tư vấn cho cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo
dục, cá nhân về việc thực hiện chính sách, pháp luật. Tổ chức việc cung cấp dịch vụ
đáp ứng quyền của trẻ em theo sự ủy quyền, hỗ trợ của Chính phủ, các cấp chính
quyền, cơ quan quản lý nhà nước; chấp hành việc thanh tra, kiểm tra quá trình thực
hiện theo quy định của pháp luật. Hội bảo vệ quyền trẻ em Việt Nam còn có trách
nhiệm tổ chức việc kết nối, thu thập thông tin, kiến nghị của các tổ chức xã hội và
của trẻ em chuyển đến các cơ quan nhà nước để góp ý, tư vấn cho việc xây dựng và
thực hiện chính sách, pháp luật về quyền trẻ em; tham gia giám sát thực hiện quyền
trẻ em; phát biểu chính kiến và kiến nghị của Hội đối với các cơ quan nhà nước có
liên quan về các vấn đề về trẻ em và việc vi phạm pháp luật về trẻ em.
- Tổ chức phối hợp liên ngành về trẻ em: Thủ tướng Chính phủ thành lập tổ
chức phối hợp liên ngành về trẻ em để giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
nghiên cứu, chỉ đạo, phối hợp, đôn đốc, Điều hòa giữa các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ; phối hợp giữa Chính phủ với các cơ quan của Quốc hội,
TAND tối cao, Viện KSND tối cao, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; phối hợp
giữa các địa phương trong việc giải quyết các vấn đề về trẻ em, thực hiện quyền của
trẻ em. Căn cứ yêu cầu thực tế và điều kiện của địa phương, Chủ tịch UBND các
cấp thành lập tổ chức phối hợp liên ngành về trẻ em để giúp UBND, Chủ tịch
UBND cùng cấp phối hợp, đôn đốc, điều hòa việc giải quyết các vấn đề trẻ em, thực
hiện quyền của trẻ em ở địa phương.
- Vận động thành viên của tổ chức và xã hội hỗ trợ, tham gia xây dựng, thực
hiện chính sách, pháp luật, chương trình, kế hoạch, dịch vụ đáp ứng quyền của trẻ
em, phòng ngừa hành vi vi phạm quyền của trẻ em; tiếp nhận, thu thập thông tin từ
thành viên và xã hội để phản ánh, kiến nghị, tư vấn cho cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo
dục, cá nhân về việc thực hiện chính sách, pháp luật; tổ chức việc cung cấp dịch vụ
đáp ứng quyền của trẻ em theo sự ủy quyền, hỗ trợ của Chính phủ, các cấp chính
28
quyền, cơ quan quản lý nhà nước; chấp hành việc thanh tra, kiểm tra quá trình thực
hiện theo quy định của pháp luật. Trong đó, Hội bảo vệ quyền trẻ em Việt Nam còn
có trách nhiệm tổ chức việc kết nối, thu thập thông tin, kiến nghị của các tổ chức xã
hội và của trẻ em chuyển đến các cơ quan nhà nước để góp ý, tư vấn cho việc xây
dựng và thực hiện chính sách, pháp luật về quyền trẻ em; tham gia giám sát thực
hiện quyền trẻ em; phát biểu chính kiến và kiến nghị của Hội đối với các cơ quan
nhà nước có liên quan về các vấn đề về trẻ em và việc vi phạm pháp luật về trẻ em.
- Quỹ Bảo trợ trẻ em thực hiện vận động sự đóng góp tự nguyện của cơ quan,
tổ chức, cá nhân ở trong nước và nước ngoài, viện trợ quốc tế và hỗ trợ của ngân
sách nhà nước trong trường hợp cần thiết để thực hiện các mục tiêu về trẻ em được
Nhà nước ưu tiên. Việc vận động, quản lý và sử dụng Quỹ Bảo trợ trẻ em đúng mục
đích và quy định của pháp luật.
Về trách nhiệm của gia đình, cá nhân và cơ sở giáo dục bảo đảm cho trẻ
được sống với cha, mẹ; chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục trẻ;bảo đảm quyền học tập,
phát triển năng khiếu, vui chơi, giải trí, hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch của trẻ
em; bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm, danh dự, bí mật đời sống riêng tư của
trẻ em; bảo đảm quyền dân sự của trẻ em; quản lý trẻ em và giáo dục để trẻ em thực
hiện được quyền và bổn phận của trẻ em.
1.3.3. Các chế tài hình sự xử lý đối với các hành vi bạo lực và xâm hại trẻ
em theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành
Một nguyên nhân gây nên tình trạng xâm hại trẻ em là việc thiếu quy định
chặt chẽ trong luật, chế tài xử phạt tuy có nhưng “nhiều khi không tương xứng với
hành vi bạo lực cần xử lý”. Có thể thấy qua việc pháp luật chưa bắt buộc những
người phát hiện, nghi ngờ trẻ em bị bạo lực, xâm hại phải khai báo, trừ phi các hành
vi đó có yếu tố hình sự, chưa quy định về việc bảo vệ trẻ em là nạn nhân, nhân
chứng hay thủ phạm; quy trình, trách nhiệm thẩm quyền đánh giá nguy cơ và quản
lý trường hợp trẻ em bị bạo lực, xâm hại, cũng như những tiêu chuẩn cụ thể về đánh
giá mức độ nguy cơ gây tổn hại cho trẻ em của các hành vi bạo lực, xâm hại để từ
đó có kế hoạch và hạn chế tối đa những tổn hại có thể gây ra cho trẻ em.
Bộ Luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có hiệu lực từ ngày
01/01/2018 dành các điều Luật và quy định khung hình phạt đối với các hành vi bạo
29
lực, xâm hại và phạm tội với trẻ em như điểm b, khoản 2, Điều 127 “Tội làm chết
trong khi thi hành công vụ”; điểm b, khoản 2, Điều 130 “Tội bức tử”; điểm d,
khoản 2, Điều 133 “Tội đe dọa giết người”; điểm e, Điều 134 “Tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác”; điểm c, khoản 2, Điều 137 “Tội
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong thi hành công
vụ”; Điều 142 “Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi”; Điều 143 “Tội cưỡng dâm”;
Điều 144 “Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”; Điều 145 “Tội
giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến
dưới 16 tuổi”; Điều 146 “Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi”; Điều 147 “Tội sử
dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm”; Điều 184 “Tội loạn luân”; Điều
186 “Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng”… khung hình phạt đối với
các tội này rất nghiêm khắc.
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách phòng, chống
xâm hại tình dục trẻ em
1.4.1. Hệ thống luật pháp
Những khoảng trống trong hệ thống pháp luật liên quan đến bảo vệ trẻ em và
sự hạn chế cả về năng lực, số lượng lẫn quyền hạn pháp lý của hệ thống cán bộ và
mạng lưới cộng tác viên làm công tác bảo vệ mỏng, thiếu đồng bộ, chủ yếu là cán
bộ không chuyên trách làm công tác chăm sóc trẻ em ở cơ sở cũng là những nguyên
nhân dẫn đến nguy cơ trẻ em bị XHTD gia tăng [54]. Trong khi đó, việc tiếp nhận,
xử lý thông tin, thông báo tố giác hành vi xâm hại trẻ em và phối hợp xác minh,
điều tra về hành vi xâm hại trẻ em còn thiếu chặt chẽ. Quy định về việc tách trẻ em
ra khỏi cha mẹ, người chăm sóc trong trường hợp chính là cha mẹ, người chăm sóc
có hành vi XHTD đối với trẻ em chưa có…
Bên cạnh đó, chế tài xử lý hành vi XHTD trẻ em quy định rất cụ thể trong Bộ
Luật Hình sự năm 1999 và Bộ Luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có
hiệu lực từ ngày 01/01/2018, trong đó có quy định cụ thể về các tội XHTD với
người chưa thành niên với các nhóm độ tuổi cụ thể (từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, từ
13 tuổi đến dưới 16 tuổi, dưới 13 tuổi) gồm: tội hiếp dâm, tội cưỡng bức, tội dâm ô,
tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi XHTD khác, tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào
30
mục đích khiêu dâm… Đây là các tội phạm có tính nguy hiểm trong xã hội, xâm
phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của các em (không phân biệt
nam hay nữ), khung hình phạt đối với tội này rất nghiêm khắc.
Tóm lại, yếu tố chính sách pháp luật đóng một vai trò quan trọng trong việc
hoạch định, xây dựng các chương trình, kế hoạch liên quan đến công tác quản lý,
chế tài xử lý và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các em.
1.4.2. Nhận thức và triển khai thực hiện của chính quyền địa phương
Môi trường là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách.
Nếu môi trường tốt thì chính sách tốt, chính sách sẽ dễ dàng thực hiện và ngược lại
nếu môi trường không thuận lợi thì việc thực hiện chính sách gặp nhiều khó khăn,
không hiệu quả.
Yếu tố quan trọng trong hoạch định, xây dựng chính sách xác định mục tiêu,
nhiệm vụ và thể chế phòng, chống XHTD trẻ em. Đây là yếu tố có tác động trực
tiếp đến cách giải quyết vấn đề bằng chính sách và gắn liền với mỗi vấn đề chính
sách, tổ chức thực thi chính sách. Vấn đề của chính sách phòng, chống XHTD trẻ
em là vấn đề bức xúc hiện nay được nhà nước và xã hội quan tâm, giải quyết theo
mục tiêu đã định hướng. Tính chất của vấn đề chính là yếu tố khách quan có ảnh
hưởng trực tiếp đến việc tổ chức thực thi chính sách nhanh hay chậm, thuận lợi hay
khó khăn.
Sự tham gia phối hợp giữa các đối tượng thực hiện chính sách và đối tượng
thụ hưởng chính sách là một trong những tác nhân gây ảnh hưởng đến chính sách
tuy nhiên rất ít địa phương quan tâm, chú trọng; lợi ích của các đối tượng trong quá
trình thực hiện mục tiêu chính sách phải đồng nhất với nhau. Nếu lợi ích của các đối
tượng tham gia thực hiện chính sách mâu thuẫn với lợi ích của đối tượng thụ hưởng
thì thực hiện chính sách sẽ khó khăn, thậm chí còn thất bại và ngược lại nếu lợi ích
của các đối tượng tham gia thực hiện chính sách đồng nhất với đối tượng thụ hưởng
thì chính sách sẽ được thực hiện dễ dàng hơn. Nhìn chung mối quan hệ giữa các đối
tượng thực thi chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em ở nước ta cơ bản là đồng thuận.
Để các hoạt động liên quan đến việc thực hiện chính sách phòng, chống
XHTD trẻ em có hiệu quả thì nhà nước phải chú trọng đầu tư nguồn lực vật chất cả
về số lượng và chất lượng; chế độ tiền lương, các ưu đãi đối với đội ngũ cán bộ
31
công chức trực tiếp thực hiện chính sách. Những điều kiện về vật chất có ảnh hưởng
rất lớn đến hiệu quả thực hiện chính sách, nó giúp cho thực hiện chính sách được
thuận tiện nhanh chóng, giúp cho các nhà nghiên cứu có thể triển khai những ý
tưởng sáng tạo của mình thành hiện thực, giúp cho đội ngũ cán bộ thực hiện chính
sách yên tâm làm việc, tâm huyết với nhiệm vụ được giao góp phần đạt được mục
tiêu đã đề ra của chính sách.
1.4.3. Đặc điểm gia đình
Trong khi các vụ XHTD có chiều hướng gia tăng, khiến dư luận lo lắng cho
con em thì nhiều đối tượng gây ra lại là những người thân quen với trẻ [25]. Điều
này cũng chính là vấn đề các bậc cha mẹ quan tâm và lo lắng nhiều nhất. Vậy, câu
hỏi đặt ra là cha mẹ làm sao có thể yên tâm khi không phải lúc nào cũng ở bên trẻ
em cả ngày? Câu trả lời đó là dạy kỹ năng cho trẻ. Các kỹ năng cần thiết như: Kỹ
năng xử lý khi có kẻ dụ dỗ, ép buộc trẻ em làm đều trẻ em không thích; kỹ năng tìm
người giúp đỡ; kỹ năng từ chối, nói không… Nhưng thực tế các kỹ năng này còn
chưa được nhiều cha mẹ quan tâm chủ động dạy con kỹ năng tự bảo vệ, thậm chí vì
e ngại ảnh hưởng đến tương lai của con em mình nên cũng không tố giác kẻ phạm
tội; việc cha mẹ sao nhãng, bỏ mặc con cái ở một số gia đình cũng là mầm mống
nảy sinh các hành vi XHTD đối với trẻ em. Ngoài ra, một thực trạng là bản thân các
bậc cha mẹ cũng chưa hiểu hết về hành vi xâm hại và càng chưa nhận biết được
nguy cơ con mình sẽ bị xâm hại [57]. Nhiều bậc cha mẹ cũng như người thân trong
gia đình trẻ thiếu hụt kiến thức về sự phát triển thể chất, tâm sinh lý ở từng lứa tuổi
của trẻ em, không biết cách trò chuyện, hướng dẫn trẻ về cơ thể, các nguy cơ và kỹ
năng tự bảo vệ mình. Cha mẹ giao trẻ cho người khác chăm sóc mà hoàn toàn
không có sự giám sát, nghi ngờ, không có ý thức về bảo vệ trẻ em khỏi bị XHTD
[28].
Một số gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn; cha mẹ ly hôn, ly thân; cha
mẹ mắc các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật… cũng là nguyên nhân dẫn đến việc
trẻ em bỏ học, lang thang kiếm sống và bị bạo lực, XHTD. Một bộ phận gia đình
mải mê kiếm sống làm giàu đã bỏ mặc cho con cái đi lang thang, trẻ em không có
người bảo vệ nên đã bị các đối tượng xấu XHTD [28]. Chưa kể, sự xuất hiện của
các ấn phẩm, trò chơi, thông tin trên mạng internet, phim ảnh ngoài luồng có tính
chất bạo lực, khiêu dâm cũng góp phần dẫn đến nguy cơ trẻ em bị XHTD.
32
1.4.4. Đặc điểm trẻ em
Với lứa tuổi của các em còn nhỏ nên việc thiếu nhận thức về các vấn đề và
các mối nguy hiểm từ việc xâm hại, lạm dụng tình dục. Đa phần khi sự việc xảy ra
rồi, khi các em có dấu hiệu khủng hoảng về tâm lý thì người lớn mới phát hiện. Hơn
nữa, các em khi bị XHTD đa phần đều có tâm lý sợ hãi, mặc cảm, tự ti nên không
dám chia sẻ, không dám tố giác kẻ phạm tội. Trong khi đó, cha mẹ ít chủ động dạy
con kỹ năng tự bảo vệ và đôi khi e ngại ảnh hưởng đến tương lai của con em mình
nên cũng không tố giác kẻ phạm tội [55].
Một yếu tố chủ quan mà trẻ em vô ý tạo nên những kẻ hở của sự quá hớ hênh
như mặc đồ quá mát mẻ so với độ tuổi của trẻ, hay có những tư thế ngồi hay đi thiếu
ý tứ. Chính điều đó, khi tình huống xâm hại tình dục xảy ra với các em, các em
chưa nhận thức mức độ nghiêm trọng, thậm chí khi bị đe dọa các em chỉ biết một
mình xử lý và sợ hãi.
1.4.5. Trình độ, kỹ năng của người thực hiện công tác phòng, chống xâm
hại tình dục trẻ em
Đội ngũ cán bộ làm công tác trẻ em có vai trò quyết định đến kết quả tổ chức
thực hiện chính sách phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em. Năng lực thực thi của
cán bộ là thước đo bao gồm nhiều tiêu chí phản ánh về đạo đức công vụ, thiết kế tổ
chức, phân tích, dự báo… để có thể chủ động ứng phó được với những tình huống
phát sinh. Với chính sách phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em thì năng lực thực
hiện chính sách của cán bộ là kiến thức, kỹ năng và tinh thần trách nhiệm của họ
trong thực hiện nhiệm vụ. Một chính sách thực hiện có hiệu quả, đòi hỏi đội ngũ
cán bộ thực hiện chính sách phải nắm vững kiến thức chuyên môn, am hiểu mục
tiêu, nội dung, nhiệm vụ, phạm vi, đối tượng, quy mô, tầm quan trọng của chính
sách đồng thời phải có kỹ năng thực tế, phổ biến tuyên truyền chính sách, có tinh
33
thần, thái độ trách nhiệm trong thực hiện chính sách.
Tiểu kết chương
Thông qua chương 1, luận văn đã làm rõ được các khái niệm như: khái niệm
về trẻ em là người dưới 16 tuổi, khái niệm XHTD là dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo,
dụ dỗ trẻ em tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục bao gồm hiếp dâm,
cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với trẻ em và sử dụng trẻ em vào mục đích mại dâm,
khiêu dâm dưới mọi hình thức. Trong đó, lý luận về công tác phòng, chống XHTD
trẻ em được hiểu là trang bị những kiến thức, kỹ năng, những hiểu biết về cơ thể
mình về bảo vệ bản thân trước những nguy cơ khi người khác có ý đồ xấu đồng thời
nâng cao năng lực xử lý các tình huống nguy cơ có thể xảy ra với các em.
Chương này nêu lên những vấn đề lý luận về nguyên nhân, hậu quả và các
vấn đề gặp phải của trẻ là nạn nhân của XHTD. Xác định được các yếu tố ảnh
hưởng đến thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống XHTD trẻ em đó là: Hệ
thống luật pháp; nhận thức và triển khai thực hiện của chính quyền địa phương; đặc
điểm từ gia đình; đặc điểm từ trẻ.
Chương 1 đã xác định sự cần thiết về thực hiện chính sách phòng, chống
XHTD trẻ em thông qua các hoạt động như: hoạt động truyền thông trong phòng,
chống XHTD trẻ em; hoạt động giáo dục trong phòng, chống XHTD trẻ em; hoạt
động phát triển kỹ năng trong phòng, chống XHTD trẻ em; hoạt động tư vấn trong
phòng, chống XHTD trẻ em.
Những căn cứ pháp lý hỗ trợ trong thực hiện phòng, chống XHTD trẻ em
cũng đã được trình bày: Quyền trẻ em theo quy định của pháp luật quốc tế; một số
quyền cơ bản của trẻ em theo pháp luật của Việt Nam hiện hành; các chế tài hình sự
xử lý đối với các hành vi bạo lực và xâm hại trẻ em theo quy định của pháp luật
34
Việt Nam hiện hành.
Chương 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÒNG,
CHỐNG XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG
2.1. Khái quát về địa bàn và khách thể nghiên cứu
2.1.1. Khái quát điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh An Giang
An Giang hiện có 1.908.601 người (năm 2019) là một tỉnh thuộc vùng đồng
bằng sông Cửu Long có diện tích tự nhiên là 3.536,8 km2, một phần nằm trong tứ
giác Long Xuyên, phía tây bắc có chung đường biên giới giáp với tỉnh Kandal và
tỉnh TaKeo của Vương quốc Campuchia (104 km), phía tây nam giáp tỉnh Kiên
Giang (69km), phía nam giáp thành phố Cần Thơ (44km), phía đông giáp tỉnh Đồng
Tháp (107km) [62].
Nhiều năm qua, tỉnh luôn quyết tâm triển khai thực hiện hướng đến mục tiêu
nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ, hiệu quả quản lý của chính quyền, phát
huy dân chủ, kỷ cương, khai thác mạnh mẽ lợi thế trong liên kết vùng và lợi thế so
sánh của địa phương, huy động nguồn lực xã hội và tranh thủ ngoại lực tập trung
phát triển nông nghiệp theo chiều sâu tạo nền tảng phát triển thương mại, dịch vụ,
du lịch và công nghiệp nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân.
Đồng thời, đẩy mạnh thực hiện nâng cao chất lượng phong trào toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa, xây dựng nếp sống văn minh đô thị, xây dựng nông
thôn mới; thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, công tác bình đẳng giới và các
quyền trẻ em...
2.1.2. Khái quát về tình hình trẻ em
Toàn tỉnh có 463.747 trẻ em, chiếm 24,3% tổng dân số (năm 2019). Số trẻ
em đang học mầm non, mẫu giáo và các cấp học phổ thông là 423.677, chiếm tỉ lệ
91,35% tổng số trẻ em. Số trẻ em không được đến trường, phải tham gia lao động
trái pháp luật là 03, chiếm tỉ lệ 0,065% tổng số trẻ em. Số trẻ em bỏ nhà đi lang
thang, không có nơi cư trú ổn định là 41, chiếm tỉ lệ 0,0088% tổng số trẻ em. Số trẻ
em có cha, mẹ ly hôn là 889, chiếm tỉ lệ 0,19% tổng số trẻ em. Số trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt là 4567, chiếm tỉ lệ 0,98% tổng số trẻ em. Số trẻ em dưới 6 tuổi đã
35
được cấp 231.340 thẻ bảo hiểm y tế, chiếm tỉ lệ 49,88% tổng số trẻ em [62].
Tổng số trẻ em bị xâm hại 198, trong đó 191 trẻ em nữ, 07 trẻ em nam. Với
các hình thức xâm hại: bạo lực 01, xâm hại tình dục 147, mua bán 01, các hình thức
gây tổn hại khác 49, so với 5 năm trước đã giảm đáng kể, nhất là hành vi mua bán
trẻ em [62] .
2.2. Tình hình thực hiện chính sách phòng, chống xâm hại tình dục trẻ
em trên địa bàn tỉnh An Giang
2.2.1. Bộ máy quản lý phụ trách triển khai thực hiện chính sách phòng,
chống xâm hại trẻ em
Tỉnh An Giang đã thành lập Ban Điều hành Hệ thống Bảo vệ trẻ em dựa vào
cộng đồng và Nhóm công tác Bảo vệ trẻ em (Quyết định số 1985/QĐ-UBND ngày
22/9/2015 của UBND tỉnh kiện toàn Ban Điều hành Hệ thống Bảo vệ trẻ em dựa
vào cộng đồng và Nhóm công tác Bảo vệ trẻ em tỉnh An Giang) gồm 20 thành viên,
do đồng chí Phó Chủ tịch UBND tỉnh làm trưởng ban. Thành phần Ban điều hành:
Sở LĐTB&XH, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh, Sở Giáo dục và Đào tạo,
Sở Y tế, Sở Tư pháp, Công an tỉnh, Tỉnh Đoàn, Hội LHPN tỉnh, Ban Bảo vệ, chăm
trẻ em của Sở LĐTB&XH có nhiệm vụ triển khai thực hiện tốt các chương trình, kế
hoạch, dự án của tỉnh liên quan đến công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em.
Sở LĐTB&XH là cơ quan tham mưu giúp UBND tỉnh thực hiện các chức
năng quản lý Nhà nước về lĩnh vực công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em, phòng, chống
xâm hại trẻ em; đã bố trí 05 công chức tham mưu thực hiện. Có Trung tâm công tác
xã hội tỉnh thực hiện chức năng cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em, đảm bảo các yếu tố
về năng lực cán bộ, cơ sở vật chất phù hợp đã góp phần rất lớn trong việc trợ giúp
trẻ em bị xâm hại.
Tại 11/11 huyện, thị, thành phố có 11 chuyên viên phụ trách đều kiêm
nhiệm. Tại 156/156 xã, phường, thị trấn có 180 cán bộ không chuyên trách làm
công tác xóa đói giảm nghèo – gia đình và trẻ em.
2.2.2. Định hướng chỉ đạo, xây dựng chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em,
pḥng, chống xâm hại trẻ em
Thời gian qua, công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em cũng như phòng, chống xâm
hại trẻ em tỉnh An Giang luôn được các cấp ủy Đảng, chính quyền và cộng đồng xã
36
hội quan tâm, là một trong những mục tiêu xuyên suốt trong tiến trình phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh. Đồng thời, Tỉnh ủy, HĐND, UBND cũng đã ban hành các
Chỉ thị, Nghị quyết, Chýõng trình, các dự án, xây dựng tổ chức bộ máy, bố trí và
đào tạo cán bộ quản lý, xây dựng và phát triển các tổ chức, cung cấp dịch vụ liên
quan nhằm mục tiêu BVCS&GD trẻ em.
Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Chỉ thị số 14-CT/TU, ngày 29/5/2012 về
tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng cơ sở đối với công tác chăm sóc và
giáo dục trẻ em; đồng thời thực hiện Chỉ thị số 20-CT/TƯ, ngày 05/11/2013 của Bộ
Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục
và bảo vệ trẻ em trong tình hình mới, Quyết định số 2361/QĐ-TTg, ngày
22/12/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình bảo vệ trẻ em giai
đoạn 2016 -2020 và Chỉ thị số 18/CT-TTg ngày 16/5/2017 về việc tăng cường giải
pháp phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em.
Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành 12 văn bản quản lý, điều hành, chỉ đạo tổ
chức thực hiện về các chính sách trong công tác phòng, chống xâm hại trẻ em khá
kịp thời, cụ thể hóa các chính sách của trung ương quy định, nhiệm vụ chính trị của
địa phương trong từng giai đoạn: Công văn số 1161/UBND-KGVX ngày 16/8/2016
về việc định mức kinh phí hỗ trợ đối với trẻ em bị xâm hại; Kế hoạch số 247/KH-
UBND ngày 24/5/2016 về phê duyệt Chương trình thúc đẩy quyền tham gia của trẻ
em vào các vấn đề trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang giai đoạn 2016-2020; Kế
hoạch số 257/KH-UBND ngày 11/5/2017 thực hiện công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ
em bị bạo lực, bị xâm hại tình dục giai đoạn 2017-2020; Công văn số 2127/UBND-
KGVX ngày 07/12/2017 về tăng cường phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em trên
địa bàn tỉnh; Công văn số 557/UBND-KGVX ngày 29/5/2018 về việc tăng cường
các biện pháp bảo vệ trẻ em; Công văn số 1396/UBND-NC ngày 24/12/2018 về
việc tăng cường phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em; Kế hoạch số 475/KH-
UBND ngày 16/8/2017 và Kế hoạch số 536/KH-UBND ngày 10/7/2018 về việc
kiểm tra thực hiện quyền trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang năm 2017, 2018; Kế
hoạch số 756/KH-UBND, ngày 16/11/2018 về thực hiện Dự án 4 “Đấu tranh phòng,
chống tội phạm xâm hại trẻ em và người chưa thành niên vi phạm pháp luật và
phòng, chống bạo lực gia đình, mua bán người” tỉnh An Giang giai đoạn 2018-
37
2020; Quyết định số 2977/QĐ-UBND ngày 26/11/2018 về thành lập Ban chủ hiệm
Dự án 4 tình và Kế hoạch số 756/KH-UBND, ngày 26/11/2018 về thực hiện Dự án
4; Quyết định số 1985/QĐ-UBND, ngày 22/9/2015 về kiện toàn Ban Điều hành hệ
thống bảo vệ trẻ em dựa vào cộng đồng và nhóm công tác bảo vệ trẻ em; Quyết
định số 605/QĐ-UBND, ngày 27/3/2018 về triển khai thí điểm Mô hình “Địa chỉ
tin cậy – Nhà tạm lánh tại cộng đồng” giai đoạn 2018-2020.
Trong đó, nổi bật là việc UBND tỉnh ban hành Quyết định số 2977/QĐ-
UBND, ngày 26/11/2018 về thành lập Ban Chủ nhiệm Dự án “Đấu tranh phòng,
chống tội phạm xâm hại trẻ em và người chưa thành niên vi phạm pháp luật và
phòng, chống bạo lực gia đình, mua bán người” giai đoạn 2018 – 2020 (gọi tắt là
Dự án 4) và Kế hoạch số 756/KH-UBND, ngày 26/11/2018 về thực hiện Dự án 4
giao cho ngành Công an là đơn vị chủ trì.
Đặc biệt 07 sở, ngành: Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) tỉnh, Công an tỉnh,
Viện Kiểmsát Nhân dân (KSND) tỉnh, Tòa án nhân dân (TAND) tỉnh, Sở Tư pháp,
Sở Y tế, Sở Giáo dục-Đào tạo, Sở Lao động-Thương binh và Xã hội (LĐTB&XH)
đã xây dựng, ký kết Chương trình phối hợp số 02/CTPH-HLHPN-CA-VKSND-
TAND-STP-SYT-SGD&ĐT-SLĐTB&XH,ngày 30/5/2019 về công tác bảo vệ an
toàn cho phụ nữ và trẻ em gái, giai đoạn 2019 – 2021 với mục tiêu phát huy vai trò,
trách nhiệm và tăng cường sự phối hợp trong đấu tranh phòng chống tội phạm, vi
phạm pháp luật về quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và trẻ em gái. Trong giai
đoạn 2019 - 2021, các cơ quan, tổ chức trong phạm vi chức năng nhiệm vụ của
mình phối hợp thực hiện có hiệu quả các nội dung: phối hợp xử lý tố giác tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố trong đầu tranh phòng chống tội phạm, vi phạm pháp
luật về quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và trẻ em gái; phối hợp tổ chức các hoạt
động truyền thoông đối với các vụ viêc nghiêm trọng liên quan đến phụ nữ, trẻ em
gái gây bức xúc trong dư luận tổ chức hội thảo, tọa đàm, chia sẻ kinh nghiệm thực
tiễn triển khai hoạt động; nhân rộng mô hình hiệu quả, cách làm hay trong công tác
bảo vệ an toàn cho phụ nữ và trẻ em gái. Các bên phối hợp nâng cao năng lực thực
hiện nhiệm vụ liên quan đến bảo vệ phụ nữ và trẻ em gái thông qua bồi dưỡng tập
huấn kiến thức, kỹ năng cần thiết cho cán bộ Hội LHPN các cấp và cán bộ công
chức các ngành; phối hợp biên soạn, xây dựng tài liệu tuyên truyền liên quan công
38
tác bảo vệ phụ nữ, trẻ em gái. Phối hợp giám sát hoạt động tư pháp đối với các vụ
việc liên quan đến phụ nữ, trẻ em gái theo quy định tại Điều 33 Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015 và phối hợp tổ chức sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm, thi đua
khen thưởng trong thực hiện Chương trình phối hợp.
2.2.3. Kết quả triển khai thực hiện chính sách
2.2.3.1.Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, pháp luật, kiến thức, kỹ năng về
phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em
Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về trẻ em, phòng, chống
xâm hại trẻ em luôn được các cấp ủy, chính quyền địa phương quan tâm lãnh đạo, chỉ
đạo kịp thời, các ngành chủ trì, tham gia khá thường xuyên, như: Công an, Hội LHPN,
Đoàn TNCS, Tư pháp, LĐTB&XH, Phát thanh - Truyền hình... để thực hiện cả chiều
rộng lẫn chiều sâu.Nổi bật là hệ thống chính trị ở cơ sở đã phổ biến đến cán bộ tổ dân
phố, phụ nữ, các ông bố, bà mẹ có con dưới 16 tuổi, trẻ em tại địa bàn dân cư... các
tầng lớp nhân dân.
Nội dung tuyên truyền, phổ biến, giáo dục tập trung nhất là Luật BVCS&GD trẻ
em, Luật Trẻ em, Luật Hôn nhân - Gia đình, Luật Hình sự, các văn bản quy phạm pháp
luật của Quốc hội, Chính phủ về công tác phòng, chống xâm hại trẻ em; chế tài xử lý vi
phạm, hình phạt đối với hành vi xâm hại trẻ em; phương thức, thủ đoạn hoạt động,
nguyên nhân của các đối tượng thực hiện hành vi xâm hại trẻ em; kiến thức về sức
khỏe sinh sản vị thành niên; giáo dục kỹ năng sống cho trẻ vị thành niên; vai trò của gia
đình, nhà trường trong việc giáo dục đạo đức, nhân cách trẻ em; tâm sinh lý lứa tuổi vị
thành niên. Qua đó, cấp tỉnh tổ chức 03 diễn đàn trẻ em với chủ đề “Trẻ em với vấn
đề phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em” và các chủ đề liên quan đến quyền trẻ em
thu hút hơn 200 trẻ em tham gia; 11/11 huyện, thị, thành phố tổ chức diễn đàn trẻ
em thu hút gần 10.000 trẻ em tham gia, qua đó hướng dẫn các em về kiến thức, kỹ
năng phòng ngừa bạo lực, xâm hại trẻ em và tạo điều kiện cho các bày tỏ ý kiến,
nguyện vọng với các cấp lãnh đạo. Song song đó, các ngành có liên quan phối hợp
tổ chức được nhiều hoạt động thiết thực:
- Sở LĐTB&XH, Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Tư pháp, Công an, Sở Y tế,
Hội LHPN tỉnh, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Trường Đại học An Giang tổ chức
tuyên truyền các nội dung phòng, chống XHTD trẻ em, bạo lực học đường, kỹ năng
39
chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên trong trường học, tư vấn pháp luật, trợ
giúp pháp lý, các văn bản luật có liên quan đến tội phạm bạo lực, xâm hại trẻ em
được 500 cuộc, có hơn 6.000 lượt tham dự;
- Sở Tư pháp, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Đài Phát thanh - Truyền
hình phối hợp biên soạn, ghi hình và phát sóng các tình huống pháp luật, tình huống
liên quan đến trẻ em.. bằng hình thức tuyên truyền trên các phương tiện thông tin
đại chúng như đưa tin bài viết trên webside tỉnh, phóng sự trên đài, bài viết trên báo
An Giang từ 200 – 300 nội dung/năm như đưa bài viết trên wibside của sở, phóng
sự trên Đài truyền hình An Giang, tin bài trên Báo An Giang. Ngoài ra, phối hợp
với Sở Thông tin – Truyền thông hướng dẫn tuyên truyền trên loa truyền thông cấp
huyện, cấp xã 26 chuyên mục, 47 câu chuyện truyền thanh, 10 đợt xe phóng thanh
lýu ðộng về bảo vệ trẻ em; treo 10.725 bãng rôn, 222 pano, 550 phýớn, 86.000 tờ
rõi tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình và bảo vệ trẻ em; phối hợp với
các ngành có liên quan tổ chức mittinh, hội thi, tọa đàm, văn nghệ và sinh hoạt lồng
ghép vào hoạt động của Câu lạc bộ ”Gia đình phát triển bền vững” với 2.898 cuộc,
có 103.142 lượt người tham dự.
- Hội LHPN tỉnh phối hợp với Nhóm từ thiện trẻ Thành phố Hồ Chí Minh
mời Thạc sĩ Lê Minh Huân - Giảng viên Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ
Chí Minh chia sẻ kiến thức và kỹ năng phòng, chống XHTD trẻ em tại các trường
THCS trên địa bàn Thành phố Long Xuyên, có trên 1.000 lượt học sinh, phụ huynh
đến dự.
Đặc biệt, đã hướng dẫn quy trình hỗ trợ, can thiệp đối với trẻ em bị xâm hại
(theo Nghị định 56 của Chính phủ), kiến thức, kỹ năng phòng, chống xâm hại trẻ em,
kỹ năng tự bảo vệ; thông tin các cơ sở trợ giúp trẻ em; địa chỉ, số điện thoại liên hệ khi
cần trợ giúp; kỹ năng về công tác tuyên truyền phòng, chống và can thiệp khi xảy ra
các vụ việc liên quan xâm hại trẻ em, công tác xã hội với trẻ em, công tác xã hội với trẻ
em có hoàn cảnh đặc biệt, kỹ năng quản lý được triển khai lồng ghép kế hoạch, chương
trình, đề án của các đơn vị về công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm hại trẻ em
và lồng ghép vào các mô hình thực hiện công tác bảo vệ trẻ em, trong đó có mô hình
địa chỉ tin cậy, hiện toàn tỉnh duy trì và nhân rộng 546 Câu lạc bộ “Gia đình phát
triển bền vững”, 471 nhóm phòng chống bạo lực gia đình và 333 địa chỉ tin cậy
40
cộng đồng..
Các sở, ban, ngành, đoàn thể đã phối hợp tổ chức trên 500 lớp tập huấn, hội
thảo, tọa đàm… có 12.000 lượt cán bộ làm công tác trẻ em các cấp tham dự. Qua
đó, có giải pháp nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ và người chăm sóc trẻ về
nhận thức, kiến thức pháp luật, kỹ năng phòng, chống xâm hại trẻ em, công tác xã
hội với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, kỹ năng quản lý...
2.2.3.2. Công tác xây dựng môi trường sống an toàn lành mạnh
Các địa phương trong tỉnh đã lồng ghép công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em vào
các phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, thực hiện quy chế dân
chủ cơ sở, xây dựng nông thôn mới... trong đó quan tâm triển khai thực hiện khá tốt các
tiêu chí có liên quan đến trẻ em như: xây dựng, nâng cấp các thiết chế văn hóa, khu vui
chơi trẻ em; không có bạo lực gia đình dưới mọi hình thức; trẻ em trong độ tuổi đi học
đều được đến trường, chăm ngoan, hiếu học để làm căn cứ bình xét, công nhận danh
hiệu “Gia đình văn hóa” hàng năm… Duy trì và nhân rộng những mô hình đã phát
huy hiệu quả về phòng, chống xâm hại trẻ em, bạo lực gia đình tại cơ sở như mô hình
Câu lạc bộ “Ông - Bà - Cháu”; “Không sinh con thứ 3”; “Gia đình trẻ”; “Gia đình
hạnh phúc”; “Tiền hôn nhân”; mô hình gia đình - họ tộc tiêu biểu nhiều thế hệ... được
củng cố, kiện toàn dựa vào cộng đồng, tính chất là câu lạc bộ của những người tình
nguyện tham gia, có cả phụ nữ, nam giới, trẻ em, người cao tuổi nhằm can thiệp các vụ
xâm hại trẻ em, bạo lực gia đình, nhất là các vụ bạo lực gia đình có liên quan đến trẻ
em. Đặc biệt, mô hình Câu lạc bộ “Gia đình phát triển bền vững” với chủ đề, nội dung
sinh hoạt phong phú tập trung tuyên truyền, cung cấp và giáo dục những kiến thức về
kỹ năng sống, cách ứng xử giữa các thành viên gia đình, giáo dục tiền hôn nhân để các
gia đình chủ động phòng, chống các tệ nạn xã hội đã và đang xâm nhập vào gia đình,
không để thành viên gia đình mắc các tệ nạn xã hội, phòng tránh gây tổn hại đến trẻ
em.Điển hình Câu lạc bộ “Gia đình phát triển bền vững” ấp Bình Phú II, xã Bình
Hòa, huyện Châu Thành, An Giang thành lập thành lập tháng 9/2016, có 23 thành
viên, trong đó Ban chủ nhiệm gồm có Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm và Thư ký cùng
các thành viên là các hộ gia đình có nhu cầu tham gia sinh hoạt. Câu lạc bộ sinh
hoạt định kỳ 1 lần/tháng, theo hình thức nói chuyện chuyên đề lồng ghép các hoạt
động truyền thông trong lĩnh vực hôn nhân gia đình, tuyên truyền Luật bình đẳng
41
giới, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, Luật An toàn giao thông…
Hội LHPN các cấp phát huy vai trò đại diện của tổ chức hội trong bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ, trẻ em gái. Phối hợp xây dựng địa chỉ tin cậy,
các mô hình như câu lạc bộ “Xây dựng gia đình hạnh phúc”, câu lạc bộ “Phòng,
chống bạo lực gia đình”, câu lạc bộ “Giáo dục cha mẹ nuôi dạy con tốt”… giúp
mọi người cùng thực hiện hành động tốt hơn đối với trẻ em, hạn chế bạo lực đối với
phụ nữ và trẻ em gái, giúp trẻ em gái phát triển toàn diện vì mục tiêu bình đẳng,
phát triển và tiến bộ của phụ nữ.
Các cơ sở giáo dục thực hiện nghiêm túc việc xây dựng quy tắc ứng xử văn
hóa trong trường học; xử lý nghiêm các cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên, người
lao động có hành vi bạo lực, xâm hại thể chất, tinh thần đối với học sinh như khi
phát hiện có trường hợp xâm hại tình dục của H.V.P (sinh năm 1975) là nhân viên
bảo vệ của trường đối với P.T.N.H (sinh năm 2012) là học sinh Trường tiểu học B
Lương An Trà, huyện Tri Tôn, An Giang, phụ huynh phối hợp với Ban giám hiệu
trường trình báo ngay cho Công an xã Lương An Trà. Kết quả xác minh, cơ quan
Cảnh sát điều tra Công an huyện Tri Tôn xác định H.V.P có hành vi dâm ô với cháu
H, từ đó đã ra quyết định khởi tố vụ án và quyết định khởi tố bị can đối với P về
hành vi “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” để điều tra xử lý; quan tâm, nhắc nhở
cán bộ, giáo viên, nhân viên trong toàn đơn vị thực hiện tốt công tác nêu gương
trước học sinh, có hành vi giao tiếp, ứng xử văn hóa, văn minh trong môi trường sư
phạm và sử dụng mạng xã hội; xử lý nghiêm các hành vi, phát ngôn vi phạm đạo
đức nhà giáo và pháp luật (Luật Trẻ em, Luật viên chức, Luật An toàn giao
thông,...).
Các ngành liên quan phối hợp tổ chức các hoạt động an toàn, lành mạnh, nhằm
phòng, chống xâm hại trẻ em, đẩy lùi các tệ nạn xã hội xâm nhập vào học đường như:
dạy bơi, phòng, chống đuối nước, mặc áo phao khi tham gia các phương tiện giao
thông đường thủy cho học sinh, giải bóng đá U11, các sân chơi năng khiếu giúp học
sinh phát triển năng khiếu tư duy… toàn tỉnh tổ chức được 1.750 lớp tập huấn cho
trên 120.000 lượt thiếu nhi.
Công an tỉnh đã phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương lồng ghép vào
trong một số mô hình liên quan đến bảo vệ, chăm sóc, quản lý, giáo dục trẻ em tại
42
địa bàn dân cư như mô hình “Tổ dân phố tự quản về ANTT”: tuyên truyền, vận
động người dân chấp hành pháp luật và tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm;
đẩy mạnh công tác quản lý ngành nghề kinh doanh có điều kiện, trong đó trọng tâm
là các khách sạn, nhà nghỉ, quán trọ, quán Internet... về việc chấp hành các quy định
của nhà nước.
Tỉnh triển khai văn bản hướng dẫn các sở, ngành, địa phương, cơ quan báo chí
của tỉnh triển khai Thông tư số 09/2017/TT-BTTTT ngày 23/6/2017 của Bộ Thông tin
và Truyền thông quy định về tỷ lệ nội dung, thời điểm, thời lượng dành cho trẻ em và
cảnh báo nội dung không phù hợp với trẻ em trên báo nói, báo hình, báo in, báo điện tử
và xuất bản phẩm; phối hợp cung cấp thông tin về trẻ em cho các cơ quan báo chí trên
địa bàn tỉnh tại các buổi giao ban báo chí. Qua đó, nhiều thông điệp truyền thông ý
nghĩa được gửi đi trong Tháng hành động vì trẻ em như: Nói “không” với xâm hại
trẻ em; Chung tay bảo vệ trẻ em, phòng, chống xâm hại trẻ em; Roi vọt không làm
trẻ nên người, yêu thương mạnh hơn lời quát mắng; Lắng nghe trẻ em bằng trái tim,
bảo vệ trẻ em bằng hành động; Bảo vệ trẻ em sống an toàn ngay tại gia đình là trách
nhiệm của cha mẹ và các thành viên gia đình; Trẻ em hãy tự học cách bảo vệ mình
khỏi bị xâm hại; Pháp luật nghiêm trị mọi hành vi xâm hại trẻ em; Gọi Tổng đài
điện thoại quốc gia bảo vệ trẻ em (111) để thông báo mọi hành vi xâm hại trẻ em….
Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 247/KH-UBND, ngày
24/5/2016 về việc phê duyệt Chương trình thúc đẩy quyền tham gia của trẻ em vào
các vấn đề về trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang giai đoạn 2016-2020; Qua đó, chỉ
đạo các đơn vị, địa phương triển khai các hoạt động đảm bảo thực hiện quyền tham
gia của trẻ em, triển khai các mô hình thúc đẩy quyền tham gia của trẻ em, để các
em có thể bày tỏ ý kiến, nguyện vọng của mình như diễn đàn trẻ em, câu lạc bộ
quyền tham gia của trẻ em.
Các ngành chức năng của tỉnh đã tiến hành thanh tra đối với các đại lý
Internet, điểm cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử công cộng; thanh tra đối với mạng
xã hội và kiểm tra đối với các trang thông tin điện tử tổng hợp. Nội dung kiểm tra
tập trung vào việc chấp hành các quy định của pháp luật về hoạt động cung cấp, sử
dụng dịch vụ Internet và trò chơi điện tử tại các đại lý Internet; kiểm tra nội dung
truy cập Internet; việc cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử (khoảng cách từ điểm cung
43
cấp dịch vụ trò chơi điện tử công cộng đến trường học, danh mục trò chơi điện tử tại
điểm cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử công cộng,...). Thực hiện rà soát nội dung
thông tin trên các cổng/trang thông tin điện tử, mạng xã hội có tên mien.vn, tên
miền nước ngoài có chủ thể tại tỉnh An Giang.
Địa phương xây dựng các chương trình văn hóa, nghệ thuật, tổ chức sự kiện
văn hóa, nghệ thuật phù hợp độ tuổi, giới tính và sự phát triển toàn diện của trẻ em
nhằm phòng, chống XHTD trẻ em thông qua các hoạt động như: tổ chức các hội thi
về gia đình, hội thi vẽ tranh và triển lãm tranh về phòng, chống XHTD trẻ em….
Trong chương trình mục tiêu quốc gia nông thôn mới của tỉnh đã quy hoạch,
bố trí quỹ đất để xây dựng các Trung tâm Văn hóa - Thể thao cấp xã và Nhà Văn
hóa - Khu thể thao cấp thôn từng bước đạt chuẩn theo quy định của Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch, có sân bóng đá, sân bóng chuyền, sân cầu lông... nhằm phục
vụ nhu cầu vui chơi giải trí cho trẻ em và các ngày lễ, kỷ niệm như Tết Trung thu,
Ngày Quốc tế Thiếu nhi 1/6 và Ngày Đại đoàn kết toàn dân tộc...
Tỉnh đã tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các cơ sở
kinh doanh dịch vụ Internet và trò chơi điện tử công cộng, hạn chế tối đa việc kinh
doanh các loại hình trò chơi bạo lực, nguy hiểm không phù hợp với lứa tuổi trẻ em;
kiên quyết xử lý nghiêm tình trạng hoạt động quá thời gian quy định làm ảnh hưởng
đến sức khỏe và học tập của trẻ em. Thường xuyên kiểm tra, chấn chỉnh hoạt động
kinh doanh các loại băng đĩa, ấn phẩm sách đang bày bán trên thị trường nhằm
tránh ảnh hưởng xấu đến việc tìm hiểu kiến thức, thu thập thông tin của trẻ em.
2.2.3.3. Công tác giải quyết ý kiến, kiến nghị của trẻ em về phòng, chống xâm
hại tình dụctrẻ em
Các tổ chức Đoàn, Đội thông qua hoạt động đã khá chủ động và kịp thời tiếp
nhận, giải quyết 20 ý kiến, kiến nghị các phát sinh liên quan về phòng, chống xâm
hại trẻ em xoay quanh nhóm vấn đề như nguyện vọng của thiếu nhi, các vấn đề thực
hiện quyền trẻ em và chế độ chính sách liên quan đến trẻ em. Tuy nhiên, vẫn còn
một số tổ chức Đoàn, Đội, nhất là ở địa bàn dân cư chưa thường xuyên chủ động
nắm bắt thông tin, dư luận xã hội, nhu cầu nguyện vọng chính đáng của trẻ em đến
với các diễn đàn “Lắng nghe trẻ em nói, nói trẻ em hiểu và làm theo”, “Hòm thư
góp ý”; phối hợp với các cấp chính quyền để gặp gỡ, trao đổi, lắng nghe ý kiến, tâm
44
tư nguyện vọng và những đề xuất thiết thực của trẻ em đóng góp cho sự phát triển
của địa phương, những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền trẻ em theo pháp luật.
Hội đồng Đội tỉnh tổ chức Lễ ra mắt mô hình thí điểm Hội đồng trẻ em và
phiên họp trẻ em với sự tham gia của 25 đại biểu thiêu nhi, góp phần khẳng định
tiếng nói và quyền tham gia của trẻ em vào việc giải quyết các vấn đề liên quan đến
trẻ em. Tỉnh đã xây dựng tổng đài (111) hoặc (18008077) để trẻ em được hỗ trợ giải
quyết những tâm tư, nguyện vọng chính đáng.
Tuy nhiên, thời gian qua, một số tổ chức Đoàn, Đội hoạt động còn nặng tính
hình thức, thậm chí hành chính hóa; chưa bám sát tâm tư, nguyện vọng các thành
viên; một số phong trào thiếu hấp dẫn do chưa xuất phát từ nhu cầu của thanh thiếu
niên, trong đó có nhu cầu tìm hiểu và nâng cao kiến thức, kỹ năng về phòng, chống
XHTD trẻ em.
2.2.3.4. Công tác cung cấp, tiếp nhận, xử lý thông tin, thông báo, tố giác
nguy cơ và hành vi xâm hại tình dục trẻ em
Công tác tiếp nhận thông tin, theo dõi, xử lý các vụ việc bạo lực, xâm hại trẻ
em tại địa phương được thực hiện nghiêm túc. Các trường hợp bạo lực, xâm hại xảy
ra được thu thập thông tin, lập hồ sơ quản lý trường hợp thông qua Hệ thống bảo vệ
trẻ em dựa vào cộng đồng (BVTEDVCĐ) và nhóm công tác xã hội liên ngành, đó là
khi có trường hợp xâm hại xảy ra hệ thống này sẽ phối hợp với nhau để giải quyết.
Chỉ đạo, điều hành quá trình xử lý do Phó chủ tịch UBND cấp xã, huyện, tỉnh là
Trưởng ban Hệ thống BVTEDVCĐ. Một Trưởng ban Hệ thống BVTEDVCĐ cấp
xã điều hành cho biết việc thực hiện quy trình hỗ trợ, can thiệp đối với trẻ em bị
xâm hại, trẻ em có nguy cơ bị bạo lực, bóc lột, bỏ rơi và trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt theo các bước cụ thể như: Các cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình, cá
nhân nếu phát hiện hoặc có thông tin về hành vi xâm hại trẻ em hoặc trẻ em có nguy
cơ bị xâm hại có trách nhiệm thông báo ngay cho cơ quan công an hoặc UBND cấp
xã nơi xảy ra vụ việc (nơi tiếp nhận thông tin); Nơi tiếp nhận thông tin có trách
nhiệm ghi chép đầy đủ thông tin về hành vi xâm hại trẻ em, trẻ em bị xâm hại hoặc
có nguy cơ bị xâm hại (theo Mẫu số 01 ban hành kèm theo Nghị định số
56/2017/NĐ-CP); Cơ quan lao động - thương binh và xã hội các xã, cơ quan công
an xã, UBND cấp xã nơi xảy ra vụ việc hoặc nơi trẻ em cư trú thực hiện việc kiểm
45
tra tính xác thực về hành vi xâm hại, tình trạng mất an toàn, mức độ nguy cơ gây
tổn hại đối với trẻ em. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc,
giáo dục trẻ em có trách nhiệm cung cấp thông tin và phối hợp thực hiện khi được
yêu cầu; Phó Chủ tịch UBND xã là Trưởng ban chỉ đạo nơi xảy ra vụ việc, chỉ đạo
người làm công tác bảo vệ trẻ em cấp xã tiến hành việc đánh giá nguy cơ ban đầu,
mức độ tổn hại của trẻ em (theo Mẫu số 02 ban hành kèm theo Nghị định số
56/2017/NĐ-CP) để có cơ sở áp dụng hoặc không áp dụng các biện pháp can thiệp
khẩn cấp; Người làm công tác bảo vệ trẻ em cấp xã (có thể yêu cầu Tổng đài điện
thoại quốc gia bảo vệ trẻ em và các cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em hỗ trợ)
thực hiện việc thu thập thông tin, đánh giá nguy cơ cụ thể (theo Mẫu số 03 ban hành
kèm theo Nghị định số 56/2017/NĐ-CP); trường hợp trẻ em cần được áp dụng kế
hoạch hỗ trợ, can thiệp, Phó Chủ tịch UBND cấp xã chủ trì cuộc họp với các cá
nhân, tổ chức có trách nhiệm bảo vệ trẻ em, đại diện địa bàn dân cư nơi trẻ em cư
trú, sinh sống hoặc nơi xảy ra vụ việc, cha, mẹ hoặc người chăm sóc trẻ em để xác
định các biện pháp bảo vệ trẻ em; Căn cứ mức độ tổn hại và nhu cầu cần hỗ trợ, can
thiệp đối với trẻ em, trong thời hạn 05 ngày làm việc, người làm công tác bảo vệ trẻ
em cấp xã xây dựng kế hoạch hỗ trợ, can thiệp trình Phó Chủ tịch UBND cấp xã
phê duyệt (theo Mẫu số 04 ban hành kèm theo Nghị định số 56/2017/NĐ-CP).
Ngoài ra, nhóm công tác xã hội liên ngành bao gồm các cán bộ chuyên môn
có trách nhiệm phối hợp tham mưu cho lãnh đạo về công tác chuyên môn để giải
quyết khi có các trường hợp bạo lực, xâm hại trẻ em xảy ra. Đối với tỉnh An Giang
hoạt động hệ thống BVTEDVCĐ và nhóm công tác xã hội liên ngành được triển
khai thực hiện nhịp nhàng, đạt hiệu quả khá tốt.
Công tác cung cấp, tiếp nhận, xử lý thông tin, thông báo, tố giác nguy cơ và
hành vi xâm hại trẻ em được các ngành quan tâm xử lý triệt để. Cụ thể: Viện KSND
tỉnh nhận được 8.604 tin; đã kiểm tra, xác minh 8.604 tin (tỷ lệ kiểm tra, xác minh
100%); làm rõ và giải quyết 216 tin. Trong số 216 tin đã giải quyết, gồm: số tin đủ
căn cứ và khởi tố vụ án để điều tra: 200 tin; tạm đình chỉ việc giải quyết: 09 tin; ra
quyết định không khởi tố vụ án: 07 tin. Trong quá trình xử lý không có tin báo về
tội phạm, kiến nghị khởi tố quá thời hạn thụ lý, giải quyết; đồng thời được cơ quan
điều tra thụ lý, giải quyết theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các cấp
46
Hội LHPN trong tỉnh có phân công cán bộ phụ trách công tác gia đình và chăm sóc
trẻ em, thường xuyên chủ động nắm bắt và cung cấp thông tin về bạo lực gia đình,
xâm hại trẻ em cho các cơ quan chức năng xử lý đạt kết quả cao:
- Phối hợp với Sở LĐTB&XH chủ trì tổ chức tọa đàm “Giải pháp thúc đẩy
hiệu quả công tác giải quyết các vụ việc xâm hại, bạo lực đối với trẻ em”, trên cơ
sở ý kiến thảo luận việc nghiên cứu, xây dựng quy trình chuẩn về công tác phối hợp
liên ngành trong quá trình tham gia xử lý các vụ việc xâm hại, bạo lực đối với trẻ
em tŕnh UBND tỉnh phê duyệt; tiếp đó đã tổ chức nội dung tọa đàm tại 11 huyện,
thị, thành có hơn 850 lượt hội viên tham gia.
- Hội LHPN các cấp duy trì, nâng cao chất lượng hoạt động của 333 địa chỉ
tin cậy ở cộng đồng tại các xã, phường, thị trấn trên toàn tỉnh; phối hợp với Sở
LĐTB&XH tuyên truyền đường dây nóng bảo vệ trẻ em với đầu số (111) – Tổng
đài quốc gia (từ đường dây nóng 18008077 chuyển sang); triển khai Quyết định số
605/QĐ-UBND ngày 27/3/2018 của UBND tỉnh An Giang về việc triển khai thí
điểm mô hình “Địa chỉ tin cậy – Nhà tạm lánh tại cộng đồng” giai đoạn 2018 –
2020 tại 11 huyện, thị, thành phố trên toàn tỉnh.
Việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị xử lý những vi
phạm pháp luật còn một số tồn tại, hạn chế, như: thời hạn, thời hiệu, trình tự, thủ tục
giải quyết và việc tiếp nhận, xử lý, xác minh ban đầu đối với một số nguồn tin về tội
phạm chưa đúng quy định của pháp luật. Một ví dụ như việc ra quyết định phân công
Phó Thủ trưởng, Điều tra viên giải quyết nguồn tin về tội phạm và công văn đề nghị
Viện kiểm sát gia hạn thời hạn kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm thường quá
thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 9; khoản 2 Điều 11 Thông tư liên tịch số
01/2017/TTLT ngày 29/12/2017 và khoản 2 Điều 147 Bộ luật Tố tụng hình sự và
thông tư liên tịch số 06 ngày 02/8/2013 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ tài chính,
Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Viện KSND tối cao.
2.2.3.5. Công tác hỗ trợ, can thiệp khi trẻ em có nguy cơ bị xâm hại tình dục
hoặc bị xâm hại tình dục
Công tác hỗ trợ trẻ em có nguy cơ bị xâm hại luôn được chú trọng thực hiện
thông qua việc hỗ trợ các chính sách theo quy định hiện hành của nhà nước (về trợ
cấp xã hội thường xuyên, trợ cấp đột xuất). Các trường hợp hỗ trợ kinh phí theo
47
Thông tư số 98/2017/TT-BTC quy dịnh việc quản lý và sử dụng kinh phí sự nghiệp
thực hiện Chương trình Mục tiêu phát triển hệ thống trợ giúp xã hội giai đoạn 2016
– 2020 và Công văn số 1161/UBND-KGVX ngày 16/8/2016 của UBND tỉnh về
việc định mức kinh phí hỗ trợ đối với trẻ em bị xâm hại, cụ thể hỗ trợ từ nguồn
ngân sách của tỉnh: hỗ trợ giải quyết khó khăn ban đầu 01 triệu đồng/em, hỗ trợ tiền
ăn trong thời gian điều trị bệnh 100.000đ/ngày/em, hỗ trợ tiền thuốc (đối với trẻ
không BHYT) 01 triệu đồng/em, hỗ trợ mua sách giáo khoa trở lại trường
500.000đ/em. Ngoài ra, đối với nhóm trẻ em mồ côi, có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn không có người chăm sóc được hướng dẫn đưa vào chăm sóc, nuôi dưỡng tại
các cơ sở trợ giúp xã hội, đảm bảo môi trường sống an toàn giúp phòng ngừa các
nguy cơ xâm hại, tai nạn thương tích, bạo lực, bóc lột, xảy ra đối với các em.
Các trường hợp XHTD trẻ em được cộng tác viên, cán bộ chuyên trách trẻ
em tiếp nhận thông tin và thực hiện quản lý các trường hợp theo quy định. Ngoài ra,
việc tiếp nhận từ tổng đài điện thoại quốc gia bảo vệ trẻ em (số điện thoại 111),
đường dây nóng của Trung tâm Công tác xã hội-bảo vệ trẻ em tỉnh (18008077) đã
kịp thời can thiệp, trợ giúp khẩn cấp và kết nối các dịch vụ trợ giúp xã hội để hỗ trợ
khó khăn cho các em như chuyển đổi chỗ ở, trường học do tâm lý mặc cảm, khủng
hoảng tâm lý, khám sức khỏe, phá thai ngoài ý muốn của trẻ bị xâm hại tình dục. Số
trẻ em có nguy cơ bị xâm hại được áp dụng biện pháp hỗ trợ là 198 em, địa phương
chủ động vào cuộc, kịp thời chỉ đạo, phối hợp thực hiện các biện pháp chuyên môn,
nghiệp vụ để hỗ trợ, can thiệp đối với trẻ em là nạn nhân theo quy định của Nghị
định số 56/2017/NĐ-CP, cụ thể như địa phương lập hồ sơ quản lý, theo dõi và thực
hiện hỗ trợ, can thiệp. Nhiều địa phương, 100% trẻ em bị bạo lực, xâm hại được hỗ
trợ, can thiệp, được cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, trợ giúp xã hội, hỗ trợ
giáo dục, đào tạo và giáo dục nghề nghiệp, hỗ trợ sử dụng các dịch vụ trợ giúp pháp
lý, tư vấn, trị liệu tâm lý và các dịch vụ bảo vệ trẻ em khác.
Tỉnh có Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thuộc Sở Tư pháp đã thường
xuyên thực hiện dịch vụ pháp lý miễn phí trong hoạt động bảo vệ trẻ em, giúp trẻ
em bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức
tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến giáo dục pháp luật,
giải quyết các vướng mắc, tranh chấp pháp luật bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng
48
xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật. Thực hiện tư vấn pháp
luật, cử người tham gia tố tụng và đại diện ngoài tố tụng cho người được trợ giúp pháp
lý theo quy định. Từ năm 2017 – 2019 thực hiện dịch vụ pháp lý miễn phí hỗ trợ tư vấn
pháp luật cho 198 trường hợp, trong đó tham gia tố tụng 113, đại diện ngoài tố tụng 01
trường hợp; hỗ trợ kỹ năng sống cho 100% trẻ bị bạo lực, xâm hại…
Ngoài ra, Quỹ bảo trợ tỉnh, Trung tâm Công tác xã hội bảo vệ trẻ em tỉnh đã
vận động các mạnh thường quân để hỗ trợ cho các trường hợp bạo lực, xâm hại trẻ
em về học tập, y tế, vật dụng sinh hoạt cá nhân, sinh kế cho gia đình, học nghề, việc
làm, hồi gia, ... với tổng số tiền trên 500 triệu đồng, hỗ trợ bồi dưỡng cho tất cả trẻ
em bị hại về kiến thức, kỹ năng phòng, chống xâm hại, nhất là XHTD.
2.2.3.6. Công tác khám chữa bệnh và giám định đối với trẻ em bị xâm hại tình dục
Các trường hợp XHTD trẻ em dẫn đến mang thai, luôn được ngành y tế thông
báo ngay bằng điện thoại cho Trung tâm Công tác xã hội – Bảo vệ trẻ em để tiếp
nhận và quản lý theo quy định, như trường hợp em N.T.N.T (sinh1999) ở ấp Phú
Bình, xã An Bình, huyện Thoại Sơn, An Giang bị N.H.K cùng địa phương có hành
vi giao cấu và uy hiếp không cho nói với gia đình vào tháng 4/2017. Đến tháng
9/2017, gia đình phát hiện T mang thai báo với các ngành chức năng của xã, T
được Hội LHPN huyện giới thiệu đến Bệnh viện đa khoa trung tâm An Giang thực
hiện phương pháp kết thúc thai kỳ; đồng thời được Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công
an huyện Thoại Sơn và Phòng Kỹ thuật hình sự tỉnh tiến hành thu mẫu rốn của thai
nhi và mẫu chân tóc, niêm mạc miệng của T để trưng cầu Phân viện khoa học hình
sự - Bộ Công an tại thành phố Hồ Chí Minh giám định ADN, kết luận giám định
xác định K là cha ruột của thai nhi với xác suất là 99,9999%. K bị xử phạt 18 năm
tù với tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi”.
Các trường hợp bạo lực, XHTD trẻ em được tiếp nhận, xử lý thông tin, thông
báo tại các địa chỉ tin cậy tại cộng đồng do Sở LĐTB&XH, Hội LHPN và Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch quản lý.
2.2.3.7. Công tác xử lý hình sự các hành vi phạm tội xâm hại tình dục trẻ em
Công tác phối hợp với Viện KSND cùng cấp trong giải quyết, xử lý tố giác,
tin báo về tội phạm xâm hại trẻ em luôn chặt chẽ, tuân thủ theo quy định của pháp
luật. Quá trình khởi tố, điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra các cấp đều thực hiện
theo đúng trình tự, thủ tục của pháp luật Tố tụng hình sự quy định về thời hạn điều
49
tra, thẩm quyền gia hạn điều tra.
Công tác tiếp nhận tin báo ban đầu, nhất là công an cấp cơ sở thiếu kinh
nghiệm, thậm chí chưa làm hết trách nhiệm, chưa nhận thức hết tầm quan trọng
trong việc tiếp nhận, nên xác minh ban đầu sơ sài và chậm chuyển cho cơ quan có
thẩm quyền.
Khi xảy ra hành vi XHTD trẻ em, để có căn cứ khởi tố cần có kết luận giám
định pháp y và những vật chứng có liên quan để xác định người phạm tội; tuy nhiên
trên thực tế có nhiều gia đình nạn nhân phát hiện và tố giác chậm, các dấu vết,
chứng cứ không còn, không đầy đủ gây khó khăn trong điều tra, xử lý vụ án và bị
kéo dài thời gian. Hầu hết các vụ XHTD trẻ em không có nhân chứng, vụ việc xảy
ra lâu, việc bảo vệ hiện trường, thu thập chứng cứ thường gặp nhiều khó khăn khi
vụ việc được phát hiện; việc lấy lời khai người bị hại rất khó khăn do phần lớn còn
nhỏ tuổi, dễ bị tổn thương về tinh thần, nhận thức chưa đầy đủ, khai thiếu chính xác,
thậm chí khai theo gợi ý của người thân hoặc người giám hộ, có trường hợp phải
thông qua phiên dịch…
Có những vụ án XHTD đối với trẻ em, đối tượng và người bị hại, gia đình
của người bị hại có mối quan hệ thân thuộc, quen biết nên e ngại, lo sợ ảnh hưởng
đến danh dự nạn nhân hoặc tự thương lượng bồi thường, từ đó không chịu tố giác
hoặc yêu cầu xử lý, có trường hợp phía người bị hại không hợp tác trong quá trình
điều tra, gây khó khăn cho công tác điều tra xử lý vụ án.
Theo quy định tại khoản 6 Điều 421 của Bộ Luật Tố tụng Hình sự năm 2015 “
Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ tiến hành đối chất giữa bị hại là người dưới
18 tuổi với bị can, bị cáo để làm sáng tỏ tình tiết của vụ án trong trường hợp nếu
không đối chất thì không thể giải quyết vụ án”. Đối với nội dung này, Hội đồng Thẩm
phán đã ban hành Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP, ngày 01/10/2019 hướng dẫn
áp dụng một số quy định tại các Điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của Bộ
Luật Hình sự và việc xét xử vụ án XHTD người dưới 18 tuổi quy định chi tiết tại
khoản 4, Điều 7 “Khi xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi, Tòa án
không được yêu cầu bị hại là người dưới 18 tuổi tường thuật lại chi tiết quá trình
phạm tội, đối chất giữa người bị hại với người phạm tội…..”.Vì thế, trong các vụ
xâm hại tình dục với trẻ em, nhất là các trẻ em còn quá nhỏ tuổi, tâm lý kém ổn định,
50
vụ việc lại nhạy cảm, đối tượng không thừa nhận hành vi, không có chứng cứ vật chất,
không người chứng kiến trực tiếp, từ đó áp dụng quy định để xét xử chưa có thống
nhất, gặp khó khăn và hiệu quả không cao.
Công tác thực hành quyền công tố: Viện kiểm sát thụ lý, giải quyết 191
vụ/196 bị can, không có trường hợp để quá hạn luật định hay truy tố sai tội danh, sai
khung hình phạt. Viện kiểm sát tăng cường phối hợp liên ngành tố tụng trong việc
xử lý, giải quyết nguồn tin về tội phạm xâm phạm trẻ em, nên những năm qua chất
lượng và hiệu quả điều tra, truy tố trong các vụ án xâm phạm trẻ em từng bước
được nâng lên, Kiểm sát viên sau khi được phân công kiểm sát điều tra vụ án đều đề
ra yêu cầu điều tra sát đúng với quy định của pháp luật, phản ánh đúng thực trạng
những mâu thuẫn, vướng mắc về chứng cứ, tội danh đối với từng vụ án cụ thể và có
căn cứ. Chính vì vậy, đã hạn chế việc phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ
quan tiến hành tố tụng, không có bị can, bị cáo phải đình chỉ điều tra vì không phạm
tội hoặc Tòa án tuyên không phạm tội. Tuy nhiên, việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra còn để vi phạm
về thời hạn, thủ tục giải quyết và việc tiếp nhận, xử lý, phân công Phó Thủ trưởng,
Điều tra, gia hạn thời hạn kiểm tra, xác minh... nhưng có lúc chậm khắc phục.
Công tác xét xử các vụ án XHTD trẻ em: Các bị cáo đã bị xét xử về các tội
danh như hiếp dâm người dưới 16 tuổi, hiếp dâm trẻ em, cưỡng dâm người từ đủ 13
đến dưới 16 tuổi, giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Sơ thẩm thụ lý 154
vụ/157 bị cáo, giải quyết 145 vụ/147 bị cáo (đạt tỷ lệ 94,16%). Phúc thẩm thụ lý 42
vụ/43 bị cáo, giải quyết 42 vụ/43 bị cáo (đạt tỷ lệ 100%). Xét xử sơ thẩm, phúc thẩm
TAND hai cấp đều áp dụng hình phạt tù và không cho hưởng án treo; không có trường
hợp kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
Công tác xét xử của TAND các cấp nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, hình phạt nghiêm khắc, đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung,
cụ thể Tòa án đã tuyên hình phạt tù chung thân 01 bị cáo; phạt tù có thời hạn từ trên 15
năm tù đến 20 năm tù 05 bị cáo; phạt tù có thời hạn trên 7 năm tù đến 15 năm tù 42 bị
cáo; phạt tù có thời hạn từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù 31 bị cáo; phạt tù có thời hạn
đến 03 năm tù 91 bị cáo. TAND hai cấp đã quyết định trả hồ sơ vụ án để Viện Kiểm sát
điều tra bổ sung gồm 04 vụ/05 bị cáo.
51
2.2.3.8. Các biện pháp bảo vệ trẻ em là nạn nhân trong quá trình giải quyết
các vụ án xâm hại tình dục trẻ em
Cơ quan điều tra, kiểm sát trong giai đoạn điều tra, khởi tố, truy tố, xét xử
các vụ án: thực hiện trợ giúp pháp lý theo đúng luật định; áp dụng các biện pháp tốt
nhất để bảo vệ bí mật cá nhân tránh ảnh hưởng đến học tập, sinh hoạt, tương lai của
trẻ em; bố trí địa điểm lấy lời khai tại nơi học tập (trường học bán trú), nơi cư trú
hoặc nơi tiến hành điều tra, trường hợp lấy lời khai tại nơi tiến hành điều tra thì bố
trí phòng lấy lời khai, phòng xét xử đảm bảo thân thiện, phù hợp với tâm lý người
dưới 18 tuổi; lấy lời khai không quá 02 lần trong 01 ngày, mỗi lần lấy lời khai
không quá 02 giờ (trừ trường hợp luật quy định khác); nhiều trường hợp Tòa án tổ
chức xét xử kín, áp dụng biện pháp cách ly bị hại đối với bị cáo, không công bố bản
án trên trang thông tin điện tử Tòa án…
Việc áp dụng các biện pháp bảo vệ trẻ em là người bị hại trong các vụ án
XHTD trẻ em còn gặp nhiều khó khăn, phổ biến là trong giai đoạn điều tra. Do các
vụ xâm hại trẻ em, nhất là XHTD trẻ em là loại án có yếu tố mang tính nhạy cảm,
liên quan đến đời tư cá nhân của trẻ em chưa phát triển toàn diện, hầu hết các trẻ em
bị xâm hại thường lo sợ tiếp xúc, tự ti, mặc cảm, trạng thái tâm lý không ổn định,
thiếu hiểu biết pháp luật, trình bày hành vi xâm hại thiếu chính xác.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn kiến thức, kỹ năng về chuyên môn,
nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp luôn được quan tâm và tổ chức
thực hiện khá thường xuyên, nhưng nội dung chuyên đề về phòng, chống xâm hại
trẻ em lại chưa được chú trọng, cá biệt có nhiều năm không tổ chức, là một trong
những nguyên nhân làm hạn chế đến kết quả, hiệu quả, chất lượng hoạt động phòng,
chống xâm hại trẻ em. Chẳng hạn, 01 cán bộ điều tra cho biết, do yêu cầu sắp xếp
của bộ máy tổ chức ngành Công an, phải thực hiện điều chuyển cán bộ thực hiện
nhiệm vụ phòng, chống xâm hại trẻ em sang vị trí công tác khác. Anh là người mới
được phân công nhiệm vụ phòng, chống xâm hại trẻ em, chưa được tham gia tập
huấn kiến thức, kỹ năng về phòng, chống xâm hại trẻ em nên chưa đáp ứng được
yêu cầu đặt ra. Một cán bộ khác, là Kiểm sát viên trẻ, chưa có kinh nghiệm và chưa
được đào tạo tập huấn về kỹ năng tâm lý làm việc với trẻ em, nên đã gặp khó khăn
trong việc xác định độ tuổi của bị hại đối với trường hợp bị hại không có giấy khai
52
sinh gốc hoặc có giấy khai sinh nhưng ngày, tháng, năm sinh không chính xác….
Anh phải đề nghị tiến hành các thủ tục để giám định tuổi của bị hại làm kéo dài thời
gian giải quyết.
2.2.3.9. Công tác tổ chức, cán bộ, kinh phí bảo đảm cho phòng, chống xâm
hại tình dục trẻ em
Cơ quan quản lý, phụ trách công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em là Sở Lao động
- Thương binh và Xã hội. Sở có Phòng trẻ em và Bình đẳng giới, bố trí 06 biên chế,
hiện chỉ có 05 công chức, gồm: 01 Trưởng phòng, 01 Phó Trưởng phòng và 03
chuyên viên; Phòng Lao động - Thương binh & Xã hội cấp huyện có 11 chuyên
viên phụ trách đều kiêm nhiệm.
Cấp xã có 180 cán bộ không chuyên trách làm công tác xóa đói giảm nghèo-
gia đình và trẻ em và được bố trí ở 156 xã, phường, thị trấn, hưởng phụ cấp hệ số
1,5 mức lương cơ sở. Trong đó trình độ chuyên môn: Đại học là 81, Cao đẳng là 12,
Trung cấp là 71 và chưa qua đào tạo là 16.
Tỉnh có 11 cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em, (02 trung tâm bảo trợ xã hội,
01 Trung tâm Công tác xã hội và 01 Trung tâm Trợ giúp pháp lý, 2 văn phòng công tác
xã hội bảo vệ trẻ em). Trong đó, 09 cơ sở công lập và 02 cơ sở ngoài công lập; 04 cơ sở
có chức năng, nhiệm vụ chuyên biệt cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em và 12 điểm tư vấn
công tác xã hội học đường. Bên cạnh đó, tỉnh còn tổ chức triển khai 333 địa chỉ tin cậy
tại cộng đồng. Công tác quản lý việc thành lập, hoạt động của các cơ sở cung cấp dịch
vụ bảo vệ trẻ em thực hiện đúng thẩm quyền.
Công tác quản lý việc thành lập, hoạt động của các cơ sở cung cấp dịch vụ
bảo vệ trẻ em: Thực hiện Nghị định số 103/2017/ND-CP, ngày 12/9/2017 của
Chính phủ về thành lập, tổ chức, hoạt động, giải thể và quản lý cơ sở trợ giúp xã
hội; Thông tư số 33/2017/TT-BLĐTBXH ngày 29/12/2017 của Bộ LĐTB&XH về
việc hướng dẫn cơ cấu tổ chức, định mức nhân viên và quy trình tiêu chuẩn trợ giúp
xã hội tại các cơ sở trợ giúp xã hội và các quy định hiện hành, Sở Lao động –
Thương binh và Xã hội, Sở Tư pháp đã triển khai và hướng dẫn các địa phương
công tác quản lý, thành lập cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em theo thẩm quyền.
Các dịch vụ liên quan đến phòng, chống xâm hại trẻ em hoạt động rất hiệu
quả. Bên cạnh việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt thì các dịch
53
vụ phòng, chống xâm hại trẻ em đã bố trí nơi tạm lánh, thực hiện các biện pháp bảo
vệ khẩn cấp, tư vấn tâm lý, kết nối dịch vụ hỗ trợ trẻ em (y tế, giáo dục, dinh dưỡng,
...); Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh thực hiện trợ giúp pháp lý qua các
hình thức như tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng và đại diện ngoài tố tụng để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho các đối tượng là trẻ em bị xâm hại trên địa bàn tỉnh.
Trong 03 năm qua, có khoảng 125 em vào Trung tâm Trợ giúp pháp lý, khi đối
tượng đến, các cơ sở sẵn sàng và nhanh chóng tiếp nhận, kịp thời cung cấp các dịch
vụ theo nhu cầu của trẻ và trong khả năng của cơ sở. Trường hợp nào vượt quá khả
năng thì cơ sở kịp thời báo cáo với các ngành chức năng để được phối hợp hỗ trợ
giải quyết.Ngân sách địa phương đã bố trí kinh phí 01 tỷ đồng để thực hiện các
chính sách của trung ương và địa phương về triển khai công tác phòng, chống xâm
hại trẻ em từ năm 2015 - 2019. Đồng thời, hỗ trợ quản lý 198 vụ việc (trẻ em bị
xâm hại) với kinh phí trên 500 triệu đồng. Ngoài ra, các địa phương trên địa bàn
tỉnh đã tăng cường công tác vận động các cơ quan, tổ chức, cá nhân đóng góp xây
dựng Quỹ Bảo trợ trẻ em các cấp, qua đó, triển khai nhiều chương trình, hoạt động
kịp thời hỗ trợ cho trẻ em, đặc biệt trẻ em có hoàn cảnh khó khăn nói chung,
vớitổng kinh phí vận động được từ năm 2015 đến tháng 6 năm 2019 trên 15 tỷ
đồng. Quỹ Bảo trợ trẻ em tỉnh phối hợp với các tổ chức, đơn vị tài trợ triển khai các
chương trình hỗ trợ trẻ em nói chung, như: trao tặng học bổng, xe đạp, sữa, đồ dùng
học tập, hỗ trợ mổ tim, phẫu thuật,... với tổng kinh phí gần 9 tỷ đồng.
2.2.3.10. Công tác phối hợp phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em
Ủy ban nhân dân tỉnh kiện toàn Ban Điều hành hệ thống bảo vệ trẻ em dựa
vào cộng đồng và Nhóm công tác bảo vệ trẻ em, gồm các ngành: Công an tỉnh, Hội
LHPN, Sở LĐTB&XH, Sở Y tế, Sở Giáo dục và Đào tạo, Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh tỉnh, Sở Tư Pháp nhằm bảo vệ, hỗ trợ trẻ em dựa vào cộng đồng. Qua đó,
Nhóm công tác bảo vệ trẻ em phối kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng và hoạt động ngày
càng có hiệu quả; từ năm 2017 đến 2019, Nhóm công tác bảo vệ trẻ em tỉnh đã tiếp
nhận, tư vấn, hỗ trợ tổng cộng 208 ca giúp người dân, trẻ em được tư vấn, hỗ trợ,
giải quyết kịp thời, đảm bảo quyền và lợi ích của trẻ em.
Tỉnh xây dựng và triển khai thực hiện chương trình phối hợp về công tác bảo
vệ an toàn cho phụ nữ và trẻ em gái giai đoạn 2019 - 2021, gồm: Hội LHPN, Công
54
an, Viện KSND, TAND, Sở Tư pháp, Sở Y tế, Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở
LĐTB&XH. Công tác phối hợp giữa các ngành, đoàn thể trong công tác phòng
chống xâm hại trẻ em đạt được kết quả bước đầu tích cực, trong đó công tác truyền
thông, phát hiện, xử lý các vụ bạo lực, xâm hại trẻ em khá kịp thời, chặt chẽ hơn.
Công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án XHTD trẻ em luôn được phối hợp
chặt chẽ, đảm bảo tuân thủ nghiêm quy trình tự tố tụng, tính khách quan, tôn trọng
nguyên tắc độc lập xét xử và chỉ tuân thủ pháp luật. Đồng thời, khá chủ động với cơ
quan hành chính nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội có liên quan để áp dụng tốt
các biện pháp tư pháp trong hoạt động tố tụng, nên các quyền của trẻ em được tôn
trọng và bảo vệ khá tốt.
Công tác phối hợp giữa Hội LHPN các cấp trong tỉnh và các đơn vị có liên
quan cùng cấp được tăng cường. Hiện nay nạn nhân và gia đình nạn nhân đã mạnh
dạn hơn trong việc tố cáo hành vi phạm tội, phối hợp, tạo thuận lợi cho các ngành
chức năng trong quá trình điều tra, khởi tố tội phạm, góp phần đưa các vụ việc được
xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Tuy nhiên, công tác phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành đoàn thể và các
tổ chức xã hội trong phòng, chống xâm hại trẻ em đôi lúc chưa được thường xuyên,
việc sơ, tổng kết, khen thưởng chưa chú trọng nhiều; chưa kịp thời củng cố, kiện
toàn đội ngũ làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em nói chung, công tác phòng,
chống xâm hại trẻ em nói riêng để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong từng giai đoạn.
2.2.3.11. Công tác hợp tác quốc tế về phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em
UBND tỉnh; các huyện, xã có chung đường biên giới giáp tỉnh Takeo, tỉnh
Kandal Vương quốc Campuchia, định kỳ tổ chức hội nghị của từng cấp về quan hệ
hữu nghị, hợp tác về kinh tế - xã hội, an ninh trật tự biên giới; phòng, chống ma túy,
buôn bán người... Ngoài ra, cơ quan Công an, Tòa án định kỳ tổ chức hội nghị về
quan hệ hữu nghị, hợp tác, trao đổi kinh nghiệm chuyên môn, nghiệp vụ với cơ
quan cùng cấp của tỉnh Takeo, tỉnh Kandal Vương quốc Campuchia về phòng,
chống tội phạm xuyên quốc gia, trong đó có phòng, chống tội phạm xâm hại tình
dục trẻ em. Hội LHPN tỉnh và Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh cũng thường xuyên
quan hệ hữu nghị, hợp tác với các tổ chức cùng cấp của tỉnh Takeo, tỉnh Kandal
Vương quốc Campuchia về các hoạt động thuộc nhiệm vụ được giao, trong đó có
tham gia giải cứu các nạn nhân bị buôn bán người là phụ nữ, trẻ em làm nghề mại
55
dâm, cụ thể đầu năm 2017 giải cứu 01 vụ “Mua bán trẻ em” xảy ra tại phường Mỹ
Thạnh, thành phố Long Xuyên, An Giang, do N.N.L (sinh năm 1980) là mẹ ruột của
bé N.K.P (sinh năm 2015) phối hợp với N.T.C.T (sinh năm 1982) để đem bán bé P
cho T.V.L (sinh năm 1987) đang sinh sống tại tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc với giá
20 triệu đồng, vụ việc bị, bà N.T.M (sinh năm 1970) là bà nội của bé P phát hiện
nên đến Công an phường trình báo. Nội vụ: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh
đã khởi tố vụ án, khởi tố 03 bị can.
2.2.3.12. Công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết kiến nghị, khiếu nại, tố cáo
về phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em
Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Kế hoạch số 475/KH-UBND ngày 16/8/2017
và Kế hoạch số 536/KH-UBND ngày 10/7/2018 về việc kiểm tra thực hiện quyền
trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang năm 2017, 2018; các cơ quan đoàn thể theo chức
năng, nhiệm vụ được giao chủ động xây dựng kế hoạch và tổ chức kiểm tra công tác
trẻ em hoặc kết hợp lồng ghép với kiểm tra, giám sát công tác chuyên môn ngành
nên đã giải quyết tốt các vấn đề nổi cộm về trẻ em trên địa bàn.
Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến phòng, chống xâm hại trẻ
em từ năm 2016-2019, trên địa bàn tỉnh không có đơn thư khiếu nại, tố cáo liên
quan đến việc thực hiện chính sách về phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em còn
tồn đọng.
Qua thanh tra, kiểm tra có một số địa phương mặc dù có triển khai các biện
pháp hỗ trợ, can thiệp trẻ em bị xâm hại nhưng chưa có đầy đủ hồ sơ theo quy định.
Công tác thanh tra, kiểm tra của các cơ quan quản lý nhà nước đối với việc thực hiện
trách nhiệm bảo vệ trẻ em, xử lý vụ việc bạo lực, xâm hại trẻ em; việc xử lý vi phạm
hành chính đối với các hành vi vi phạm quyền trẻ em, trong đó có bạo lực trẻ em, chưa
được chú trọng đúng mức, nên chưa có tác động phòng ngừa, răn đe tích cực.
2.2.3.13. Công tác giám sát việc thực hiện chính sách phòng, chống xâm hại
tình dục trẻ em tại địa phương
Công tác giám sát của HĐND cùng cấp: thường xuyên tổ chức giám sát tình
hình thực hiện kinh tế - xã hội hàng năm, giám sát chuyên đề về chăm sóc, bảo vệ
trẻ em. Qua đó, đã kiến nghị UBND tăng cường quản lý nhà nước nhất là quan tâm
phân bổ nguồn lực về chăm sóc, bảo vệ trẻ em.
56
Với mục tiêu phát huy vai trò, trách nhiệm và tăng cường sự phối hợp của
Hội LHPH tỉnh với các đơn vị có liên quan nhằm thực hiện bảo vệ, chăm sóc và
đảm bảo các vụ việc liên quan đến phụ nữ và trẻ em gái được phát hiện, khởi tố,
điều tra, xét xử kịp thời và đúng quy định của pháp luật. Hội LHPN tỉnh xây dựng
Chương trình phối hợp trong công tác bảo vệ an toàn cho phụ nữ và trẻ em gái giai
đọan 2019-2021 với Công an tỉnh, Viện KSND tỉnh, TAND tỉnh, Sở Tư pháp, Sở Y tế,
Sở Giáo dục – Đào tạo và Sở LĐTB&XH nhằm phòng ngừa, bảo vệ phụ nữ và trẻ em
gái tránh bị xâm hại, đảm bảo các vụ việc liên quan đến phụ nữ và trẻ em gái được phát
hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, đúng quy định của pháp luật.
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh đã nắm bắt tình hình thực tế của địa phương,
phối hợp với các ngành chức năng trong việc truyền thông, giáo dục, nâng cao năng
lực thực thi pháp luật về thực hiện quyền trẻ em, trong đó tập trung vào việc nâng
cao ý thức chấp hành pháp luật, phòng ngừa và ngăn chặn các hành vi xâm hại trẻ
em nói chung, XHTD trẻ em nói riêng. Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh phối hợp với
Sở LĐTB&XH và các ngành có liên quan thành lập đoàn kiểm tra thực hiện quyền
trẻ em tại huyện, thị, thành trên địa bàn tỉnh.Nội dung kiểm tra tập trung vào việc
triển khai thực hiện quyền trẻ em theo Kế hoạch số 247/KH-UBND ngày 24/5/2016
của UBND tỉnh về Kế hoạch thực hiện Quyết định só 1235/QĐ-TTg phê duyệt
Chương trình thúc đẩy quyền tham gia của trẻ em vào các vấn đề về trẻ em giai
đoạn 2016 - 2020 qua đó tháo gỡ những khó khăn, định hướng giải pháp thực hiện
tốt hơn trong thời gian tới.
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách phòng, chống xâm hại
tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang
2.3.1. Hệ thống luật pháp
Hiện nay, từ trung ương đến địa phương có nhiều văn bản được ban hành
nhằm quy định chặt chẽ hơn về công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Tại An Giang, Tỉnh ủy ban hành Chỉ thị số 14-CT/TU, ngày 29/5/2012 của
Ban Thường vụ Tỉnh ủy; thực hiện Chỉ thị số 20-CT/TƯ, ngày 05/11/2013 của Bộ
Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục
và bảo vệ trẻ em trong tình hình mới. UBND tỉnh ban hành Kế hoạch số 247/KH-
UBND ngày 24/5/2016 về phê duyệt Chương trình thúc đẩy quyền tham gia của trẻ
57
em vào các vấn đề trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang giai đoạn 2016-2020, Kế
hoạch số 257/KH-UBND, ngày 11/5/2017 thực hiện công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ
em bị bạo lực, bị xâm hại tình dục giai đoạn 2017-2020; Kế hoạch số 475/KH-
UBND ngày 16/8/2017 và Kế hoạch số 536/KH-UBND ngày 10/7/2018 về kiểm tra
thực hiện quyền trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang năm 2017, 2018; Kế hoạch số
756/KH-UBND, ngày 16/11/2018 về thực hiện Dự án 4 “Đấu tranh phòng, chống
tội phạm xâm hại trẻ em và người chưa thành niên vi phạm pháp luật và phòng,
chống bạo lực gia đình, mua bán người” tỉnh An Giang giai đoạn 2018-2020…
Theo đó, các sở, ngành, đoàn thể, UBND các huyện, thị, thành đã xây dựng kế
hoạch triển khai thực hiện một cách nghiêm túc, đồng bộ, hiệu quả, phù hợp tình
hình thực tế từng địa phương, đơn vị; các vụ việc xâm hại tình dục trẻ em được phát
hiện và giải quyết kịp thời, dứt điểm theo quy định của pháp luật; 100% trẻ em
trong các vụ việc được phát hiện, can thiệp, trợ giúp hiệu quả.
Nhiều văn bản quy định khác liên quan đến công tác phòng, chống xâm hại
trẻ em, XHTD trẻ em được ban hành, thể hiện sự quan tâm của cả hệ thống chính trị
trong công tác BVCS&GD trẻ em. Xây dựng và thành lập Ban chủ nhiệm Dự án 4
“Đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm hại trẻ em và người chưa thành niên vi
phạm pháp luật và phòng, chống bạo lực gia đình, mua bán người” tỉnh An Giang
giai đoạn 2018-2020; Quyết định số 1985/QĐ-UBND, ngày 22/9/2015 của UBND
tỉnh An Giang về kiện toàn Ban Điều hành Hệ thống BVTEDVCĐ và Nhóm công
tác bảo vệ trẻ em. Xây dựng và thực hiện việc bố trí, nâng cao năng lực, ổn định đội
ngũ làm công tác bảo vệ trẻ em ở địa phương, đặc biệt ở cấp xã theo quy định của
Luật Trẻ em năm 2016.
Các ngành, các cấp trên địa bàn tỉnh có triển khai kế hoạch “Tháng hành
động vì trẻ em” với từng chủ đề khác nhau đáp ứng với thực tiễn trong công tác bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em tại địa phương. Đồng thời, rà soát đối tượng trẻ em
có hoàn cảnh khó khăn trình cơ quan có thẩm quyền quan tâm giúp đỡ.
2.3.2. Nhận thức và triển khai thực hiện của chính quyền địa phương
Công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh được triển khai thực
hiện tích cực và đạt được những kết quả nhất định, góp phần giảm thiểu trẻ em bị
ngược đãi, XHTD…
Ủy ban nhân dân tỉnh luôn quan tâm, hỗ trợ cơ sở vật chất, kinh phí đã tác
động tích cực cho công tác điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh các vụ việc xâm
58
hại trẻ em, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; hoạt động hỗ trợ, thăm hỏi kịp
thời cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt trong đó có các em bị xâm hại hoặc có nguy
cơ cao bị XHTD; các đơn vị trường học trên địa bàn tỉnh đã triển khai thực hiện có
hiệu quả các hoạt động ngoại khóa, sinh hoạt ngoài giờ, giảng dạy lồng ghép về
giáo dục giới tính, phòng chống bạo lực, xâm hại trẻ em, XHTD trẻ em, tạo sân chơi
để các em phát triển toàn diện… đã góp phần tích cực, hiệu quả công tác phòng,
chống xâm hại trẻ em nói chung, phòng, chống XHTD trẻ em nói riêng của địa
phương.
Tuy nhiên, thời gian qua UBND tỉnh từng lúc từng nơi chưa thật sự sâu sát
trong quản lý, điều hành, chỉ đạo nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động phòng,
chống xâm hại tình dục trẻ em, nhất là việc xử phạt vi phạm hành chính (ví dụ như
về phía gia đình người bị hại thì trong nhiều vụ án mặc dù tại cơ quan điều tra và
trong hồ sơ vụ án đã thể hiện đủ chứng cứ chứng minh hành vi của bị cáo đã phạm
tội xâm hại tình dục đối với họ. Nhưng do trong quá trình xét xử, giữa gia đình bị
cáo và gia đình người bị hại đã thỏa thuận thống nhất với nhau những vấn đề có lợi
cho bị cáo, nên khi ra phiên tòa các bên đã thay đổi lời khai, gây nhiều khó khăn
cho Hội đồng xét xử trong đánh giá chứng cứ để phán quyết vụ án).
Riêng một vài địa phương, chưa quan tâm đầy đủ đến việc xây dựng chương
trình, kế hoạch về công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em theo giai đoạn và hằng năm;
chưa bố trí kinh phí hoạt động về trẻ em nên hoạt động thường chỉ diễn ra trong
những ngày lễ, tết: Quốc tế thiếu nhi, Tháng hành động vì trẻ em, Tết trung thu, Tết
Nguyên đán… chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, hoạt động chủ yếu lồng ghép nên
hiệu quả chưa cao. Các hoạt động hỗ trợ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt chỉ là thăm
hỏi, tặng quà, chưa giải quyết được cơ bản giúp trẻ em thoát khỏi tình trạng đặc
biệt.
Cơ sở vật chất trang bị cho Tòa gia đình và người chưa thành niên theo quy
định của pháp luật vẫn chưa thực hiện được, ngoại trừ một số Tòa án có trụ sở mới
được xây dựng hoặc sắp xếp được thì được cấp kinh phí để trang bị phòng xử thân
thiện. Điều đó đã làm hạn chế hiệu quả của Tòa Gia đình và người chưa thành niên
trong hoạt động phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em.
59
2.3.3. Công tác truyền thông
Nhận thức được tầm quan trọng và hiệu quả của hệ thống truyền thanh cơ sở
với đời sống kinh tế - xã hội nói chung cũng như trong thực hiện tuyên truyền
phòng, chống xâm hại tình dục nói riêng, chính quyền địa phương quan tâm chỉ đạo
phát triển hệ thống đài truyền thanh trên toàn tỉnh. Đài Phát thanh – Truyển hình
tỉnh đã xây dựng nhiều chuyên mục tuyên truyền về Luật phòng, chống XHTD,
chuyên đề giáo dục giới tính, Luật BVCS&GD trẻ em. Đặc biệt, trong các chương
trình phát thanh đã xây dựng được những chương trình riêng tuyên truyền XHTD
trẻ em hiện nay.
Hệ thống cơ sở vật chất thiết chế văn hóa, thể thao thông qua xã hội hóa còn
gặp nhiều khó khăn, phát triển chậm trong khi kinh phí hoạt động hàng năm còn
hạn chế; các phòng chức năng của các thiết chế còn thiếu; cơ sở vật chất, trang thiết
bị, phương tiện hoạt động chưa đầy đủ, một số nơi đã bị xuống cấp. Ở một số địa
phương các hoạt động vui chơi dành cho trẻ em chưa được bài bản; nội dung hoạt
động còn đơn điệu, thiếu hấp dẫn. Các biện pháp tổ chức vui chơi giải trí phù hợp
với điều kiện sinh hoạt của trẻ em nông thôn chưa nhiều.
2.3.4. Đặc điểm của trẻ em và gia đình trẻ
Cha, mẹ, người chăm sóc trẻ và gia đình có vai trò quan trọng trong việc bảo
vệ trẻ em với mọi hình thức xâm hại. Rất nhiều vụ XHTD trẻ em là do các em chưa
nghe hoặc nghe nhưng không biết XHTD trẻ em là gì, thế nào là động chạm an toàn
và động chạm không an toàn.
Ý thức chấp hành pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của một
bộ phận cha, mẹ, người chăm sóc trẻ, cộng đồng dân cư chưa tốt. Nhiều gia đình
chưa quan tâm đúng mức đến trẻ em, chưa có kiến thức và kỹ năng về bảo vệ trẻ em
để biết cách bảo vệ con em mình, bản thân trẻ em chưa được giáo dục kỹ năng sống
cần thiết để biết cách tự bảo vệ bản thân. Một số cha mẹ của trẻ bị xâm hại tình dục
lý giải rằng, do điều kiện gia đình khó khăn, cha mẹ đi làm ăn xa, trẻ em ở nhà với
ông bà, ông bà thì già chưa quan tâm nhiều đến thời gian sinh hoạt của trẻ, phần
không có nhiều kiến thức, kỹ năng về phòng, chống tội phạm XHTD nên chưa dạy
trẻ cách tự bảo vệ và kỹ năng phòng tránh.
Trẻ em nông thôn và gia đình của các em ít có điều kiện được tiếp cận truyền
60
thông, nhận thức kém nên khi xảy ra vụ việc bị XHTD trẻ em, gia đình phát hiện và
tố giác trễ, các dấu vết vật chứng không còn, không đầy đủ hoặc e ngại ảnh hưởng
đến danh dự nên tự thỏa thuận, không khai báo… Phần lớn trẻ em bị xâm hại còn
nhỏ tuổi, dễ bị tổn thương về tinh thần, nhận thức chưa đầy đủ, khai thiếu chính xác,
thâm chí khai theo lời người thân, người giám hộ.
2.3.5. Trình độ, kỹ năng của người thực hiện công tác phòng, chống xâm
hại tình dục trẻ em
Nhân sự làm công tác xã hội cần nghiên cứu các vấn đề xã hội, tham mưu và
đề xuất với lãnh đạo địa phương tổ chức thực hiện và quản lý các chính sách,
chương trình, dự án an sinh xã hội; nắm bắt được nhu cầu, những khó khăn về vật
chất, tinh thần trong cuộc sống của nhóm yếu thế từ đó tìm phương cách giúp đỡ và
ứng phó với những khó khăn trong cuộc sống; khi tiếp nhận các trường hợp là phụ
nữ, trẻ em bị sang chấn tâm lý sau bị xâm hại tiến hành lập hồ sơ quản lý, giúp đỡ
bày tỏ ý kiến, hỗ trợ về tâm lý và pháp luật trước tòa án; tham mưu phối hợp với tổ
chức, cá nhân cung cấp các dịch vụ hỗ trợ phù hợp… nhằm kịp thời can thiệp vào
đời sống của cá nhân, gia đình, các nhóm xã hội trong cộng đồng. Tuy nhiên, đội
ngũ cán bộ làm công tác xã hội thay đổi khá thường xuyên và hầu hết phải kiêm
nhiệm nhiều công việc, đã làm ảnh hưởng đến chất lượng công tác bảo vệ, chăm sóc
trẻ em, nhất là đội ngũ cấp huyện, cấp xã. Mặt khác, đội ngũ này ít được đào tạo, tổ
chức bồi dưỡng, tập huấn kiến thức, kỹ năng chuyên sâu về công tác trẻ em, nên
chưa nắm bắt kịp thời các chính sách mới và các dịch vụ hỗ trợ. Chẳng hạn, một số
cán bộ làm công tác bảo vệ trẻ em cấp xã cho biết gặp nhiều khó khăn, lúng túng
khi tiếp nhận vụ việc xâm hại trẻ em do là người mới, chưa có nhiều thời gian
nghiên cứu các văn bản quy định có liên quan đến bảo vệ quyền trẻ em, chưa có
kinh nghiệm trong quá trình phối hợp thu nhận thông tin, xử lý.
2.4. Đánh giá chung tình hình thực hiện chính sách phòng, chống xâm
hại tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang
2.4.1. Mặt tích cực
Công tác phòng, chống xâm hại trẻ em, đặc biệt là XHTD trẻ em được Tỉnh ủy
và UBND tỉnh được xác định là nhiệm vụ quan trọng và cần thực hiện xuyên suốt.
Chính vì vậy, công tác thực thi chính sách cho trẻ em được triển khai thực hiện tích cực
61
và đạt những kết quả nhất định, góp phần bảo vệ và chăm sóc tốt hơn trẻ em bị XHTD.
Các kế hoạch triển khai công tác phòng chống xâm hại trẻ em cùng với
chương trình, chính sách được triển khai kịp thời, từng bước nâng cao hiệu, góp
phần giữ vững ổn định chính trị và xã hội trên địa bàn tỉnh.
Công tác tuyên truyền về chính sách trẻ em được chú trọng thực hiện dưới
nhiều hình thức. Huy động được tổ chức, cá nhân và xã hội trên địa bàn tỉnh cùng
tham gia với chính quyền trong công tác chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích của trẻ
em. Các ngành, các cấp phối hợp triển khai có hiệu công tác phòng, chống xâm hại
trẻ em. Các trung tâm công tác trẻ em cũng như trung tâm trợ giúp pháp lý hỗ trợ
kịp thời khi trẻ em có yêu cầu cần được bảo vệ.
Tỉnh luôn quan tâm hỗ trợ cơ sở vật chất, kinh phí đã tác động tích cực cho
công tác điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh các vụ việc XHTD trẻ em, đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật. Hoạt động hỗ trợ, thăm hỏi cho trẻ em bị xâm hại
được thực hiện kịp thời. Các đơn vị, trường học trên địa bàn tỉnh đã triển khai có
hiệu quả các hoạt động ngoại khóa, sinh hoạt ngoài giờ, giảng dạy lồng ghép về
giáo dục giới tính, phòng chống bạo lực, xâm hại trẻ em, tạo sân chơi để các em
phát triển toàn diện và nâng cao hiểu biết cho các em về những vấn đề liên quan đến
phòng, chống XHTD trẻ em...đã góp phần tích cực, hiệu quả công tác phòng, chống
xâm hại trẻ em nói chung, phòng, chống tội phạm XHTD trẻ em nói riêng của địa
phương.
2.4.2. Mặt hạn chế
Chính quyền địa phương có quan tâm tổ chức công tác tuyên truyền phòng
ngừa các hành vi vi phạm pháp luật, tội phạm xâm hại trẻ em, nhưng đôi lúc chưa
thường xuyên, liên tục và còn hình thức chưa thật sự đi vào chiều sâu đúng đối
tượng, dẫn đến hiệu quả chưa cao,thiếu kinh phí dành cho công tác tuyên truyền in
ấn, nhân bản các sản phẩm truyền thông cung cấp cho địa phương như băng, đĩa, tờ
rơi, pano, áp phích nên hiệu quả đạt được chưa cao từ đó các mô hình trợ giúp trẻ
em như điểm tham vấn, tư vấn, mô hình Trung tâm Công tác xã hội bảo vệ trẻ em
cấp huyện, Hệ thống BVTEDVCĐ cấp xã chưa có độ bao phủ toàn tỉnh, chỉ mới
triển khai thí điểm ở một số xã, phường, thị trấn.
Công tác phối hợp liên ngành về phòng, chống XHTD trẻ em đã được thực
62
hiện nhưng chưa chủ động, thiếu chặt chẽ. Chế tài xử phạt các hành vi vi phạm
quyền trẻ em chưa đủ mạnh, chưa mang tính răn đe.
Các vụ XHTD trẻ em thường không được phát hiện kịp thời và khó thu giữ
được chứng cứ là vật chất. Từ đó, quá trình tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về
loại tội phạm này còn gặp khó khăn, mất thời gian, bị kéo dài việc xử lý, thậm chí
không đủ chứng cứ chứng minh tội phạm. Đa số các nạn nhân là trẻ em sau bị xâm
hại thường tâm lý không ổn định, có trường hợp nạn nhân còn quá bé nên quá trình
làm rõ sự việc, nhất là việc mô tả hành vi tội phạm luôn gặp nhiều khó khăn. Bên
cạnh đó, người thân và cha mẹ của các cháu cũng không có biện pháp, cách thức để
bảo vệ cũng như cung cấp chứng cứ cho cơ quan điều tra để phục vụ công tác xét xử.
Ngoài ra, đặc điểm tâm lý của trẻ em không ổn định nên việc xác định lời khai của
người bị hại để căn cứ xét xử trong nhiều vụ án chỉ mang tính tham khảo chứ không
phải là căn cứ để buộc tội đối tượng xâm hại.
Công tác phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội chưa chặt chẽ, chưa
có cơ chế phối hợp hiệu quả và truyền thông ngăn ngừa chung các vụ XHTE; chưa
đồng bộ, thống nhất trong việc quản lý trẻ em tham gia sử dụng mạng Internet, trò
chơi điện tử, làm cho các em dễ bị tiếp nhận các thông tin độc hại từ mạng xã hội
liên quan đến vấn đề này.
Đội ngũ cộng tác viên làm công tác bảo vệ trẻ em ở địa bàn dân cư không có,
do cán bộ xã kiêm nhiệm nên việc cập nhật, nắm bắt thông tin trẻ em bị xâm hại
chưa kịp thời, ảnh hưởng đến việc can thiệp, hỗ trợ trẻ em bị xâm hại. Trình độ và
kỹ năng về chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ làm công tác trẻ em, cán bộ điều tra,
kiểm sát viên…. còn hạn chế, đôi lúc chưa làm hết trách nhiệm, chưa thường xuyên
nghiên cứu, cập nhật văn bản pháp luật mới ban hành để vận dụng.
Cán bộ làm công tác trẻ em ở cấp cơ sở, cũng như trong các cơ sở trợ giúp xã
hội có thu nhập thấp so với mặt bằng chung của đời sống xã hội nên các địa phương
cũng như các cơ sở gặp nhiều khó khăn trong việc thu hút cán bộ gắn bó với nghề.
Hệ thống cơ sở vật chất phục vụ việc hỗ trợ các em bị XHTD còn hạn chế.
Một số ngành có liên quan từng lúc chưa thật sự sâu sát trong quản lý, điều hành,
chỉ đạo nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động phòng, chống xâm hại trẻ em, nhất
là việc xử phạt vi phạm hành chính; công tác khen thưởng quan tâm chưa nhiều.
63
2.4.3. Nguyên nhân của việc xâm hại tình dục trẻ em
Sự phân hóa giàu nghèo với những chênh lệch về điều kiện sống, những rạn
vỡ trong gia đình và sự sói mòn những giá trị truyền thống đã dẫn tới con số trẻ em
bị bỏ rơi, bị sao nhãng, bị lạm dụng và bóc lột ngày càng tăng.
Các bậc cha mẹ, gia đình, người chăm sóc trẻ thiếu hiểu biết về đặc điểm tâm
sinh lý trẻ em, thiếu nhận thức về nguy cơ, thiếu sự quan tâm chia sẻ vấn đề giới
tính với trẻ em, dẫn tới trẻ em thiếu hiểu biết về đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, về
kiến thức, kỹ năng phòng tránh XHTD.
Công tác truyền thông, giáo dục, vận động xã hội chưa bao phủ được hết các
địa bàn, đối tượng. Số người thực hiện được nghiệp vụ truyền thông, tư vấn còn hạn
chế nên chất lượng truyền thông trực tiếp chưa cao; các sản phẩm truyền thông sản
xuất với số lượng ít, chưa đến tay các gia đình... dẫn đến nhận thức, trách nhiệm,
năng lực bảo vệ chăm sóc trẻ em của một số nơi, đặc biệt kỹ năng về bảo vệ trẻ em,
thực hành quyền trẻ em của cha mẹ, người chăm sóc trẻ còn thiếu hụt.Đặc biệt, do
tác động của phim ảnh bạo lực, khiêu dâm, những thông tin độc hại không được
kiểm soát lan tràn trên mạng internet... cũng dẫn đến các hành vi lệch chuẩn ở trẻ
em và người lớn.
Nhận thức pháp luật của một bộ phận người dân còn hạn chế; khả năng nhận
thức, phòng vệ và tự vệ của nạn nhân còn non nớt; công tác phát hiện, tố giác tội
phạm hiện nay còn gặp nhiều khó khăn, thậm chí có cả thái độ bất hợp tác từ phía
nạn nhân và gia đình nạn nhân; một số tội danh chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe tội
phạm, nhiều khi không tương xứng với hành vi bạo lực cần xử lý cũng là một
nguyên nhân gây nên tình trạng này.
Công tác xây dựng môi trường sống an toàn, lành mạnh cho trẻ em chưa thực
sự được quan tâm đúng mức, đâu đó còn tồn tại những yếu tố tiềm ẩn nguy cơ bạo
lực, xâm hại trẻ em; ý thức chấp hành, việc thực thi pháp luật về bảo vệ trẻ em của
một bộ phận cán bộ có thẩm quyền chưa nghiêm; hành vi bạo lực, xâm hại trẻ em
có lúc, có nơi bị bỏ lọt, bỏ qua, chậm bị xử lý; các loại thông tin, ấn phẩm, sản
phẩm độc hại, không phù hợp, đặc biệt trên môi trường mạng, thông qua con đường
du lịch trong thời gian dài không được ngăn chặn, kiểm soát kịp thời và không được
64
xử lý triệt để; gia đình, cha mẹ, người chăm sóc trẻ em và bản thân trẻ em chưa
nhận thức đầy đủ trách nhiệm bảo vệ trẻ em, chậm được bổ sung kiến thức, kỹ năng
về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em....
Công tác phối hợp liên ngành có xây dựng kế hoạch phối hợp nhưng đôi lúc
chưa xây dựng quy chế phối hợp, chưa tạo sự gắn kết hoạt động nên ảnh hưởng đến
quá trình can thiệp hỗ trợ các trường hợp trẻ em bị xâm hại.
Kinh phí bố trí cho công tác phòng, chống xâm hại trẻ em còn thấp so với tỷ
lệ trẻ em tại cộng đồng; nhiều xã, phường chưa phòng, chống xâm hại trẻ em riêng
cho công tác phòng, chống xâm hại trẻ em, các hoạt động chủ yếu được thực hiện
lồng ghép nê hiệu quả chưa cao.Kinh phí hỗ trợ cho cán bộ làm công tác bảo vệ trẻ
em cấp xã còn thấp, chưa đảm bảo đời sống kinh tế gia đình nên chưa yên tâm công
65
tác.
Tiểu kết chương
Chương 2 nêu khái quát tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh An Giang, tình
hình trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang và thực trạng thực hiện chính sách về phòng,
chống XHTD trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang. Được sự quan tâm của Ủy ban
nhân dân tỉnh, các ngành chức năng và toàn thể cộng đồng, việc thực hiện chính
sách về phòng, chống XHTD trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang đã được triển khai
và đạt được kết quả nhất định.
Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách về phòng, chống XHTD trẻ
em trên địa bàn tỉnh An Giang đã được phân tích, như hệ thống luật pháp, nhận thức
và triển khai thực hiện của chính quyền địa phương, công tác truyền thông, đặc
điểm từ trẻ và gia đình trẻ, trình độ kỹ năng của người thực hiện công tác phòng,
chống XHTD trẻ em. Nghiên cứu đã nhấn mạnh yếu tố gia đình có vai trò quan
trọng trong việc trang bị cho các em kỹ năng cần thiết về bảo vệ mình, tiếp đó là vai
trò của cán bộ làm công tác trẻ em tại địa phương trong việc giáo dục kỹ năng
phòng, chống XHTD cho các em. Do đó, những kết quả thực trạng của chương 2là
cơ sở để đề ra những mục tiêu, giải pháp để triển khai thực hiện tốt chính sách về
66
phòng, chống XHTD trẻ em tỉnh An Giang trong thời gian tới.
Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
PHÒNG, CHỐNG XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM
Thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em nói chung, chính
sách phòng, chống xâm hại trẻ em là chính sách được quan tâm hàng đầu trong bảo
đảm quyền con người, quyền công dân hiện nay.Theo Quyết định số 1863/QĐ-TTg,
ngày 23/12/2019 của Bộ Chính trị về việc phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia
phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em giai đoạn 2020 – 2025 với mục tiêu:
- Phấn đấu 100% gia đình có trẻ em được cung cấp kiến thức, kỹ năng về bảo
vệ trẻ em bằng các hình thức khác nhau; 100% học sinh được hướng dẫn, giáo dục
kiến thức, kỹ năng sống và kỹ năng tự bảo vệ trước các hành vi bạo lực, XHTD với
nội dung phù hợp với lứa tuổi.
- Phấn đấu 100% cán bộ làm công tác bảo vệ trẻ em các cấp, cộng tác viên,
tình nguyện viên được nâng cao năng lực về bảo vệ trẻ em; dịch vụ bảo vệ trẻ em,
đặc biệt là dịch vụ bảo vệ trẻ em trong trường hợp khẩn cấp được củng cố và phát
triển ở tất cả các tỉnh, thành phố.
- Phấn đấu 100% cơ quan quản lý giáo dục, cơ sở giáo dục tổ chức truyền
thông nâng cao nhận thức, năng lực, đạo đức nghề nghiệp, trách nhiệm về phòng
ngừa bạo lực học đường, XHTD trẻ em đến toàn thể cán bộ quản lý, nhà giáo, nhân
viên trong cơ sở giáo dục và người học; thực hiện các biện pháp hỗ trợ, can thiệp
kịp thời khi phát hiện người học bị bạo lực học đường, bị XHTD.
- 100% cơ sở y tế cấp xã, cấp huyện được tăng cường năng lực y tế cung cấp
dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho trẻ em.
- 100% cán bộ công an làm công tác điều tra các vụ việc bạo lực, XHTD trẻ
em được nâng cao năng lực thực hiện hoạt động điều tra thân thiện với trẻ em; 40%
các tỉnh, thành phố thành lập Phòng điều tra thân thiện với trẻ em.
Các mục tiêu được hoạt động thực hiện kế hoạch: Truyền thông, giáo dục,
vận động xã hội nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm, kỹ năng về bảo vệ trẻ em
và phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em cho chính quyền các cấp, các ngành, các tổ
67
chức, xã hội, cha mẹ và trẻ em; Phòng ngừa bạo lực học đường; hỗ trợ, can thiệp
đối với trẻ em bị bạo lực, XHTD trong các cơ sở giáo dục; cải thiện chất lượng dịch
vụ, nâng cao năng lực của cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em; tiếp nhận khám,
chữa bệnh, phòng ngừa và hỗ trợ, can thiệp của ngành y tế đối với trẻ em bị bạo lực,
XHTD; tăng cường công tác điều tra thân thiện đối với trẻ em; xây dựng cơ chế
phối hợp liên ngành và hình thành mạng lưới xã hội về bảo vệ trẻ em, phòng, chống
bạo lực, XHTD trẻ em giữa các cơ quan, tổ chức liên quan…
Từ kết quả thực hiện chính sách về phòng, chống XHTD trẻ em của tỉnh và
Quyết định số 1863/QĐ-TTg, ngày 23/12/2019 của Bộ Chính trị về việc phê duyệt
Kế hoạch hành động quốc gia phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em giai đoạn 2021
– 2025, xin đề xuất một số mục tiêu và nội dung góp phần thúc đẩy hiệu quả thực
hiện chính sách phòng, chống xâm hại trẻ em, đặc biệt phòng, chống XHTD trẻ em
của tỉnh trong thời gian tớicụ thể như sau:
3.1. Mục tiêu thực hiện chính sách phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em
Đảm bảo các quyền trẻ em được thực hiện đầy đủ, kịp thời theo Công ước
Liên hiệp quốc và Luật Trẻ em năm 2016.
Xây dựng môi trường an toàn, thân thiện, đảm bảo mọi trẻ em đều được bảo vệ
để giảm nguy cơ bị XHTD; trẻ em có nguy cơ bị XHTD và trẻ em bị XHTD được phát
hiện, can thiệp, hỗ trợ kịp thời để hòa nhập cộng đồng và có cơ hội phát triển.
3.2. Nội dung thực hiện
Đẩy mạnh, đổi mới các hoạt động truyền thông, giáo dục, vận động xã hội về
công tác trẻ em.
- Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách, pháp
luật của Đảng, Nhà nước về công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em, phòng, chống xâm
hại trẻ em, đặc biệt phòng, chống XHTD trẻ em bằng nhiều hình thức như phóng
sự, thông điệp, tin bài, tờ rơi, panô, sinh hoạt nhóm, nói chuyện chuyên đề… đặc
biệt quan tâm tuyên truyền Luật Trẻ em năm 2016 và Nghị định số 56/2017/ND-CP
quy định chi tiết một số Điều của Luật Trẻ em.
- Vận động sự tham gia rộng rãi, tích cực của các tổ chức, cộng đồng, gia
đình và trẻ em dể thực hiện các quyền trẻ em, giải quyết các vấn đề về trẻ em ở địa
phương; vận động đóng góp và sử dụng hiệu quả, minh bạch nguồn lực thông qua
68
Quỹ Bảo trợ trẻ em.
- Đẩy mạnh các hoạt động truyền thông, giáo dục, vận động xã hội về thực
hiện quyền trẻ em với sự tham gia tích cực, chủ động, trách nhiệm của các cấp, cơ
quan, các tổ chức. Chú trọng truyền thông, giáo dục kiến thức, kỹ năng thực hiện
quyền trẻ em, bảo vệ trẻ em trong việc phòng, chống XHTD trẻ em cho cha mẹ,
người chăm sóc trẻ em, người làm việc trực tiếp với trẻ em.
- Giáo dục, cung cấp kiến thức, kỹ năng cho trẻ em về tự bảo vệ, phòng,
chống xâm hại và thực hiện quyền được tham gia vào các vấn đề về trẻ em.
Thực hiện quyền trẻ em
- Tổ chức diễn đàn trẻ em các cấp theo Thông tư số 29/2019/TT- BLĐTBXH
ngày 26/12/2019 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội về việc hướng dẫn tổ
chức diễn đàn trẻ em.
- Tổ chức lấy ý kiến, nguyện vọng của trẻ em khi xây dựng các chương trình,
chính sách, quyết định, kế hoạch có liên quan đến trẻ em giai đoạn 2021-2030 theo
Thông tư số 36/2018/TT-BLĐTBXH ngày 26/12/2018 của Bộ Lao động – Thương
binh và Xã hội về việc hướng dẫn thực hiện lấy ý kiến của trẻ em trong quá trình
xây dựng chương trình, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật, quyết định, kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội về trẻ em hoặc liên quan đến trẻ em.
- Tiếp tục tổ chức và nâng cao chất lượng Hội thi tìm hiểu Luật Trẻ em,
trong đó tâp trung phát động đến đối tượng là học sinh từ cấp II trở lên.
Tăng cường công tác BVCS&GD trẻ em, thực hiện Chỉ thị số 18/CT-CP
ngày 16/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường các giải pháp phòng,
chống bạo lực, xâm hại trẻ em.
- Tiếp nhận, giải quyết kịp thời các vụ việc liên quan đến bạo lực, xâm hại
trẻ em theo đúng quy định của pháp luật và Nghị định 56/NĐ-CP ngày 09/5/2017
của Thủ tướng Chính phủ. Kiên quyết xử lý nghiêm các cơ quan, tổ chức, cá nhân
bao che, chậm trễ, cố tình kéo dài hoặc không xử lý vụ việc bạo lực, xâm hại trẻ em.
- Tăng cường các hoạt động truyền thông, các giải pháp phòng ngừa, cung
cấp kiếnthức, kỹ năng thông báo, tố cáo các hành vi xâm hại, bạo lực trẻ em cho
cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em. Giải quyếtvà hỗ trợkịp thời tình trạng trẻ em bị bạo
lực, bóc lột, xâm hại đặc biệt là XHTD. Thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo định
69
kỳ và đột xuất về trường hợp trẻ em bị XHTD.
- Duy trì, phát triển hệ thống cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em kết nối với các
dịch vụ công tác xã hội,bảo trợ xã hội, y tế, giáo dục và trợ giúp pháp lý nhằm đáp
ứng việc bảo vệ trẻ em ở cả ba cấp độ. Bảo đảm việc tiếp nhận, xử lý kịp thời thông
tin, thông báo, tố giác về bạo lực, xâm hại trẻ em.
- Phát huy hiệu quả hoạt động của các cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em,
điểm tư vấn bảo vệ trẻ em tại cộng đồng và trường học, Câu lạc bộ tư vấn, trợ giúp
trẻ em tỉnh An Giangtrong công tác tư vấn và thực hiện quyền trẻ em.
- Tiếp tục phát huy có hiệu quả đường dây nóng phòng, chống mua bán
người đặt tại Trungtâm công tác xã hội -Bảo vệ trẻ em tỉnh An Giang với điện thoại
(18008077). Tăng cường tuyên truyền Tổng đài quốc gia với đầu số(111).
- Xây dựng lắp đặt các pano, áp phich, in ấn tài liệu về phòng, tránh xâm hại
trẻ em, đuối nước và tai nạn thương tích trẻ em,…
Củng cố, kiện toàn Ban Chỉ đạo Hệ thống BVTEDVCĐ các cấp nhất là việc
thành lập tổ chức phối hợp liên ngành về trẻ em cấp xã; nhóm thường trực bảo vệ
trẻ em cấp xã để giúp UBND, Chủ tịch UBND cấp xã thực hiện quyền trẻ em ở địa
phương nhằm giải quyết các vấn đề trẻ em, xây dựng môi trường sống an toàn, lành
mạnh cho trẻ em.
Tổ chức đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác bảo vệ,
chăm sóc trẻ em, phòng, chống XHTD trẻ em các cấp. Củng cố đội ngũ cán bộ, viên
chức làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em cấp huyện, xã; phát triển mạng lưới
cộng tác viên làm nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc trẻ em tại khóm, ấp.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kịp thời hỗ trợ cơ sở giải quyết
vướng mắc nhằm đạt kết quả tốt trong công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em, phòng,
chống xâm hại trẻ em.
3.3. Một số giải pháp thực hiện
3.3.1. Giải pháp hoàn thiện luật pháp, chính sách
Hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình sự về tội phạm
XHTD trẻ em. Vấn đề xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi XHTD đang có
độ lùi, trễ về mặt thời gian, chưa tương thích, còn nhẹ nhàng, chưa đủ răn đe. Việc
xác định hành vi XHTD trẻ em cần cụ thể và bao quát để lường trước được những
70
hành vi mới sẽ xuất hiện trong tương lại.
Đảm bảo sự thống nhất nội hàm của khái niệm người chưa thành niên và trẻ
em. Việc xác định trẻ em là người dưới 18 tuổi là cần thiết. Tuy nhiên, việc thống
nhất hai khái niệm này trong hệ thống pháp luật Việt Nam là một vấn đề hết sức
phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều chủ trương, chính sách hiện hành. Do
vậy, cần có lộ trình nghiên cứu, rà soát, đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật cũng
như sự ảnh hưởng của nó khi thực hiện việc nhất thể hóa hai khái niệm này.
Cần có quy định chặt chẽ trong luật, chế tài xử phạt phải tương xứng với
hành vi bạo lực cần xử lý. Hiện tại pháp luật chưa bắt buộc những người phát hiện,
nghi ngờ trẻ em bị bạo lực xâm hại phải khai báo, trừ phi các hành vi đó có yếu tố
hình sự, chưa quy định về việc bảo vệ trẻ em là nạn nhân, nhân chứng hay thủ
phạm; quy trình, trách nhiệm thẩm quyền đánh giá nguy cơ và quản lý trường hợp
trẻ em bị bạo lực, xâm hại, cũng như những tiêu chuẩn cụ thể về đánh giá mức độ
nguy cơ gây tổn hại cho trẻ em của các hành vi bạo lực, xâm hại để từ đó có kế
hoạch và hạn chế tối đa những tổn hại có thể gây ra cho trẻ em… Tiếp tục nghiên
cứu, kiến nghị sửa đổi, ban hành các văn bản hướng dẫn với các quy định mở và dễ
hiểu về các hành vi xâm hại tình dục trẻ em, để thuận lợi trong việc tố tụng cũng
như tuyên truyền luật.
Cần có những quy định hoặc hướng dẫn cụ thể, thống nhất. Về thời hạn giám
định, trong Bộ Luật Hình sự chưa quy định cụ thể thời hạn giám định các loại tội
này nên đề nghị quy định thời hạn giám định cụ thể để các cơ quan tư pháp nhanh
chóng giải quyết vụ việc.
Luật cần cụ thể hóa hơn nữa vai trò của Nhà nước và các ngành chức năng,
truyền thông báo chí, cũng như gia đình trong phòng, chống XHTD trẻ em để giảm
thiểu đến mức thấp nhất những hành vi XHTD xảy ra.
3.3.2. Giải pháp tổ chức, bộ máy, cơ chế
Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền về công XHTD
trẻ em trong tình hình mới. Tăng cường trách nhiệm của chính quyền địa phương về
công tác bảo vệ trẻ em, phòng ngừa bạo lực, XHTD trẻ em; lồng ghép các chỉ tiêu
về thực hiện quyền trẻ em vào các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội tại địa
phương, đơn vị; huy động và sử dụng có hiệu các nguồn lực đầu tư nhằm bảo đảm
71
quyền trẻ em, tạo môi trường sống an toàn và lành mạnh cho trẻ em.
Quan tâm củng cố, kiện toàn Hệ thống BVTEDVCĐcác cấp. Phát huy hiệu
hoạt độngHệ thống BVTEDVCĐ các cấp. Xây dựng và thực hiện Đề án bố trí, nâng
cao năng lực, ổn định đội ngũ người làm công tác bảo vệ trẻ em ở địa phương.
Quan tâm lựa chọn, đào tạo đội ngũ báo cáo viên về phòng, chống xâm hại,
bạo lực trẻ em, ít nhất mỗi sở, ngành, đoàn thể liên quan, các địa phương, các
trường học trên địa bàn tỉnh có ít nhất 01 báo cáo viên. Tổ chức tập huấn cho cán bộ
làm công tác trẻ em các cấp, đội ngũ làm công tác trợ giúp pháp lý, điều tra viên, kiểm
sát viên, người trực tiếp làm việc với trẻ về các kiến thức, kỹ năng chuyên sâu về trẻ
em đặc biệt là về phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ, kỹ năng điều tra, kỹ năng truy tố,
kỹ năng trợ giúp pháp lý… nhằm nâng cao trình độ và năng lực công tác.
Xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành và mạng lưới xã hội giữa ngành
LĐTB&XH với các cơ quan, tổ chức liên quan về bảo vệ trẻ em, phòng, chống bạo
lực, XHTD trẻ em. Xác lập cơ chế phối hợp phòng ngừa, xử lý vụ việc xâm hại trẻ
em; nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của tổ chức phối hợp liên ngành trong
công tác bảo vệ trẻ em tại địa phương. phối hợp hiệu quả giữa chính quyền địa
phương với các tổ chức xã hội, trường học và gia đình nhằm xây dựng môi trường
an toàn, lành mạnh cho học sinh.
Tăng cường công tác phối hợp liên ngành, kiểm tra, thanh tra, hướng dẫn
thực hiện chính sách, pháp luật về trẻ em ở địa phương, nhất là nơi xảy ra nhiêu
việc xâm hại tình dục trẻ em; xử lý các hành vi bao che, không tố cáo, không phối
hợp, không thực hiện hoặc thực hiện không kịp thời trách nhiệm bảo vệ trẻ em của
các cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình và cá nhân đối với các vụ việc xâm
hại tình dục trẻ em. Biểu dương, khen thưởng kịp thời các tổ chức, cá nhân có thành
tích xuất sắc trong công tác phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em.
Tăng cường vai trò giám sát và phản biện của Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội với việc thực thi pháp luật, chính sách về bảo vệ trẻ em và
trách nhiệm tham gia giải quyết các vụ việc xâm hại trẻ em.
Tăng cường quản lý nhà nước về trật tự xã hội nhất là quản lý nhân hộ khẩu,
các ngành nghề kinh doanh có ðiều kiện về an ninh trật tự, các hoạt ðộng kinh
doanh dịch vụ vãn hóa, khu vui chõi, giải trí; kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm đối
với mọi hành vi tuyên truyền văn hóa phẩm đồi trụy; đẩy mạnh phong trào toàn dân
72
tham gia phòng, chống tội phạm.
Quan tâm xây dựng các thiết chế văn hóa, khu vui chơi cho trẻ em. Quản lý
các hoạt động vui chơi, giải trí nhằm phòng, chống xâm hại trẻ em. Tiếp tục xây
dựng và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ tự quản, xóm, ấp, khu phố an
toàn về an ninh trật tự. nhân rộng các mô hình chăm sóc và bảo vệ trẻ em có hiệu
quả như Câu lạc bộ “Gia đình phát triển bền vững”, “Gia đình trẻ”, “Ông - bà –
cháu”…;xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh. Bảo đảm khách quan, chính
xác, không hình thức trong đánh giá và công nhận, xã, phường, thị trấn phù hợp với
trẻ em theo Quyết định số 06/QĐ-TTg, ngày 03/01/2019 của Thủ tướng Chính phủ.
3.3.3.Giải pháp truyền thông, giáo dục
Thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về trẻ em phải thật sự
sâu rộng, có trọng tâm, trọng điểm, đặc biệt là vùng dân tộc miền núi và khu vực
nông thôn.
Phối hợp truyền thông, phổ biến chính sách pháp luật, kỹ năng về bảo vệ trẻ
em và phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em cho chính quyền các cấp, các ngành,
các tổ chức, xã hội, cha mẹ và trẻ em thông qua nghiên cứu, xây dựng các chương
trình, sản phẩm, tài liệu phục vụ công tác tuyên truyền trên các phương tiện thông
tin đại chúng, môi trường mạng và giáo dục về bảo vệ trẻ em, phòng, chống bạo
lực, xâm hại tình dục trẻ em; trách nhiệm phát hiện, thông báo, tố giác và ngăn ngừa
hành vi bạo lực học đường, XHTD trẻ em.
Truyền thông, phổ biến Luật Trẻ em; Nghị định số 56/2017/NĐ-CP ngày
09/5/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Trẻ em; Chỉ thị số
20-CT/TW ngày 05/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình hình mới; Chỉ thị số
18/CT-TTg, ngày 16/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường giải pháp
phòng, chống bạo lực xâm hại trẻ em; Chỉ thị số 23/CT-TTg, ngày 26/5/2020 của
Thủ tướng Chính phủ về tăng cường giải pháp đảm bảo thực hiện quyền trẻ em và
bảo vệ trẻ em và các văn bản pháp luật có liên quan…
Truyền thông vai trò, trách nhiệm của cha, mẹ và người thân nhằm xây dựng
thiết chế gia đình bền vững. Cha mẹ cần thường xuyên quan tâm chia sẻ với con
mình để nhận thấy những thay đổi tâm, sinh lý cần thiết. Trang bị cho con biết ý
73
thức cảnh giác, cách thức phòng vệ trước những đối tượng có ý định thực hiện hành
vi đồi bại. Không cho trẻ ăn mặc hở hang vì dễ gây kích thích sự ham muốn đối với
những kẻ có ý xấu. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em nhằm giúp các em ý thức
được trách nhiệm của mình đối với bản thân và có kỹ năng bảo vệ mình trước các
nguy cơ bạo lực, xâm hại.
Tăng cường quảng bá, phối kết hợp Tổng đài tổng đài Trung tâm Công tác
xã hội tỉnh An Giang (18008077), Tổng đài điện thoại Quốc gia bảo vệ trẻ em (số
111) để được miễn phí khi có nhu cầu: tư vấn, tham vấn, hỗ trợ, can thiệp trẻ em bị
bạo lực, bị xâm hại và có hoàn cảnh đặc biệt.
Tuyên truyền các gương điển hình trong công tác phòng ngừa, hỗ trợ can
thiệp đối với bạo lực học đường, XHTD trẻ em trên các trang mạng (website), cổng
74
thông tin điện tử, các phương tiện thông tin đại chúng và các hình thức khác.
Tiểu kết chương
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và tổng hợp các vấn đề đã phân tích có liên
quan đến đề tài chương này nêu mục tiêu, nội dung thực hiện một số giải pháp
nhằm thúc đẩy hiệu quả thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em như giải
pháp hoàn thiện thể chế chính sách, giải pháp truyền thông, giải pháp giáo dục.
Những giải pháp đã nêu nhằm hỗ trợ hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo
dục, phát triển kỹ năng cho trẻ em. Mỗi giải pháp đều nêu ra được ý nghĩa của giải
pháp, cách thức thực hiện cũng như yêu cầu thực hiện để các cơ quan chuyên môn,
người làm công tác trẻ em có thể thực hiện linh hoạt các giải pháp. Điều này mang
75
lại hiệu quả cao trong công tác phòng, chống XHTD trẻ em.
KẾT LUẬN
Thực trạng tình hình xâm hại trẻ em, đặc biệt là XHTD trẻ em đã và đang
diễn biến hết sức phức tạp, gây hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng đến phát triển
kinh tế - xã hội, văn hóa, đời sống vật chất, tinh thần của toàn xã hội, cũng như sự
phát triển chung của thế hệ trẻ.
Luận văn đã phân tích một cách cụ thể tình hình thực hiện chính sách về
phòng, chống XHTD trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang và các yếu tố ảnh hưởng.
Được sự quan tâm của UBND tỉnh, các ngành chức năng và toàn thể cộng đồng,
việc thực hiện chính sách về phòng, chống XHTD trẻ em tại địa phương đã đạt
được kết quả nhất định, góp phần bảo vệ và chăm sóc tốt hơn trẻ em bị XHTD. Tỉnh
luôn quan tâm hỗ trợ cơ sở vật chất, tạo điều kiện cho công tác điều tra, truy tố, xét
xử nghiêm minh các vụ việc XHTD trẻ em. Hoạt động hỗ trợ, thăm hỏi cho trẻ em
bị xâm hại được thực hiện kịp thời.v.v. Tuy nhiên, sự phối hợp giữa các ban ngành
đôi lúc chưa chặt chẽ; một số ngành có liên quan từng lúc chưa thật sự sâu sát trong
quản lý, điều hành để đảm bảo hoạt động phòng, chống xâm hại trẻ em có hiệu quả.
Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách về phòng, chống XHTD
trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang đã được nhận diện, như hệ thống luật pháp, nhận
thức và triển khai thực hiện của chính quyền địa phương, công tác truyền thông, đặc
điểm từ trẻ và gia đình trẻ, trình độ kỹ năng của người thực hiện công tác phòng,
chống xâm hại tình dục trẻ em. Nghiên cứu đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của
yếu tố gia đình trong việc trang bị cho các em kỹ năng cần thiết về bảo vệ mình,
tiếp đó là vai trò của cán bộ làm công tác trẻ em tại địa phương trong việc giáo dục
kỹ năng phòng, chống XHTD cho các em.
Căn cứ vào kết quả phân tích về quá trình thực hiện chính sách phòng, chống
XHTD trẻ em ở tỉnh, một số biện pháp cụ thể nhằm thúc đẩy hiệu quả công tác này
ở An Giang đã được đề xuất. Cụ thể như: nâng cao chất lượng công tác đối với các
cơ quan thực hiện chính sách tại địa phương cũng như hỗ trợ gia đình, trẻ em những
kỹ năng phòng ngừa, ứng phó được các tình huống có thể xảy ra.
Nhìn rộng ra ở phạm vi cả nước, công tác thực hiện chính sách, pháp luật
phòng, chống xâm hại trẻ em nói chung, thực hiện chính sách phòng, chống XHTD
76
trẻ em nói riêng cần được các ngành, các cấp từ trung ương đến địa phương quan
tâm xây dựng kế hoạch giám sát thực hiện chỉ rõ những tồn tại trong quá trình thực
thi chính sách phòng, chống XHTD trẻ em, làm rõ được trách nhiệm của từng chủ
thể trong thực hiện nhiệm vụ. Để góp phần cho mọi trẻ em đều được bảo vệ, giảm
nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt, chú trọng bảo vệ trẻ em để không bị xâm hại,
trẻ có hoàn cảnh đặc biệt được trợ giúp, chăm sóc để phục hồi, hòa nhập cộng đồng
và có cơ hội phát triển, xin đề xuất một số kiến nghị sau:
Đối với Chính phủ, bộ, ngành trung ương:
- Nghiên cứu ban hành Nghị định về nghề hoạt động công tác xã hội, làm rõ
vai trò, vị trí, nhiệm vụ của cán bộ xã hội; tiêu chuẩn thực hành nghề công tác xã
hội; quy định theo dõi giám sát chất lượng cung cấp dịch vụ công tác xã hội.
- Có đề án kiện toàn tổ chức, bộ máy; quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ,
quy chế phối hợp của hệ thống quản lý nhà nước với các ngành, đoàn thể có liên
quan về chăm sóc và bảo vệ trẻ em các cấp.
- Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức và kỹ năng cần
thiết cho đội ngũ điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, cán bộ bảo vệ trẻ em và
các cán bộ khác hoạt động trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em.
- Đưa nội dung bảo vệ trẻ em vào chương trình đào tạo tại các cơ sở đào tạo
chuyên ngành công an, kiểm sát, tòa án, tư pháp, lao động-xã hội..., nhằm tăng
cường bảo vệ, hỗ trợ trẻ em bị xâm hại, bạo lực một cách hiệu quả.
- Sớm đưa nội dung giáo dục giới tính và kiến thức, kỹ năng về phòng, chống
xâm hại trẻ em vào chương trình của các cấp học phổ thông cho phù hợp.
Đối với chính quyền địa phương:
- Hội đồng nhân dân các cấp tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động giám
sát, bố trí ngân sách thường xuyên chi cho công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ em nói
chung, phòng, chống xâm hại trẻ em nói riêng, nâng mức hỗ trợ đội ngũ cán bộ làm
công tác trẻ em tại địa phương.
- Ủy ban Nhân dân tỉnh sớm triển khai và ban hành Kế hoạch thực hiện công
tác phòng chống bạo lực, xâm hại trẻ em giai đoạn 2021 -2025; nghiên cứu xây
dựng văn bản quy phạm pháp luật về chính sách phòng, chống xâm hại trẻ em nói
chung và chính sách phòng, chống xâm hại XHTD trẻ em.
77
- Chỉ đạo các ngành, các cấp tổ chức thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 18/CT-
TTg ngày 16/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường giải pháp phòng,
chống bạo lực, xâm hại trẻ em, Luật Trẻ em năm 2016.
- Chỉ đạo ngành LĐTB&XH chủ động rà soát, tham mưu với UBND các cấp
củng cố và kiện toàn Ban điều hành Hệ thống Bảo vệ trẻ em dựa vào cộng đồng và
nhóm công tác Bảo vệ trẻ em khi có thay đổi nhân sự.
- Chỉ đạo các ngành, các cấp xây dựng chương trình, kế hoạch, quy chế phối
hợp trong công tác giải quyết các vụ XHTD trẻ em như chủ động phối hợp để xác
minh, điều tra, xử lý từng trường hợp trẻ em bị xâm hại, trong đó quy định rõ các
thủ tục, quy trình và trách nhiệm phòng ngừa, phát hiện, tố giác, trợ giúp và giải
quyết các trường hợp các trẻ em bị xâm hại …..
- Chỉ đạo các ngành, các cấp tăng cường tuyên truyền công tác chăm sóc,
bảo vệ trẻ em nói chung, phòng, chống xâm hại trẻ em nói riêng đảm bảo tính thiết
thực, mang lại hiệu quả cao nhằm nâng cao nhận thức cho toàn xã hội, hạn chế thấp
nhất các vụ xâm hại xảy ra.
- Thường xuyên thanh tra, kiểm tra công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ em , xử lý
kịp thời các vụ việc xâm hại trẻ em. Kịp thời kiến nghị những khó khăn vướn mắc
của địa phương với các cơ quan có thẩm quyền, đảm bảo thực hiện tốt công tác bảo
vệ, chăm sóc trẻ em nói chung, phòng, chống XHTD trẻ em nói riêng.
- Bố trí nhân sự công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ em cấp cơ sở hợp lý để đảm
bảo thực hiện đầy đủ trách nhiệm theo quy định của Luật Trẻ em. Đặc biệt, quan
tâm chế độ chính sách cho người làm công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ em cấp cơ sở
yên tâm công tác.
- Quan tâm phát động phong trào thi đua về bảo vệ, chăm sóc trẻ em; phong
trào thi đua về thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em; định kỳ có sơ kết,
78
tổng kết, khen thưởng kịp thời./.