VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
------------
NGUYỄN XUÂN NHÃ
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH THI ĐUA,
KHEN THƯỞNG Ở HUYỆN CHÂU PHÚ,
TỈNH AN GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
Hà Nội - 2021
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
------------
NGUYỄN XUÂN NHÃ
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH THI ĐUA,
KHEN THƯỞNG Ở HUYỆN CHÂU PHÚ,
TỈNH AN GIANG
Ngành: Chính sách công
Mã số: 8 34 04 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. PHÙNG NGỌC TẤN
Hà Nội - 2021
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ trước và sau khi đất nước ta được giải phóng, thống nhất hai miền
Nam Bắc và kể cả trong công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế hiện nay, thì thi
đua, khen thưởng luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, chú trọng.
Trong mỗi giai đoạn cách mạng, công tác thi đua, khen thưởng là một trong
những nhiệm vụ chính trị quan trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp cách mạng
và sự phát triển của đất nước. Trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, phong
trào thi đua được khởi xướng với Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh (ngày 11/6/1948). Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thi đua là công việc
của tất cả mọi người không phân biệt già hay trẻ, trai hay gái; không phân biệt
tín ngưỡng, tôn giáo; không phân biệt thành phần dân tộc; không phân biệt
ngành, nghề; không phân biệt tầng lớp giàu hay nghèo…, mà thi đua phải trở
thành phong trào rộng lớn, sao cho: “Người người thi đua, ngành ngành thi đua,
ngày ngày thi đua”. Cho nên, trong Lời kêu gọi thi đua ái quốc năm 1948, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã động viên tất cả mọi người tham gia vào các phong trào
thi đua, Người nói: “… sĩ, nông, công, thương, binh, gái trai già trẻ, toàn thể
quốc dân ta, vô luận ở địa vị nào, làm công việc gì, phải ra sức tham gia” phong
trào thi đua ái quốc. Phát biểu tại Đại hội chiến sỹ thi đua và cán bộ gương mẫu
toàn quốc ngày 01-5-1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Thi đua là yêu nước,
yêu nước thì phải thi đua”. Theo đó, có thể thấy được, mỗi người chúng ta nếu
thật sự yêu nước thì phải ra sức thi đua.
Từ khi đất nước được giải phóng đến nay, trong từng giai đoạn cách
mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định và ban hành những chủ trương, chính
sách, văn bản pháp luật về thi đua khen thưởng và từng bước bổ sung, sửa đổi
hoàn thiện để phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Trong bối
cảnh đất nước hội nhập quốc tế hiện nay, trước những thời cơ và thách thức
mới thì tầm quan trọng của công tác thi đua, khen thưởng càng được khẳng
1
định và tổ chức thực hiện tốt hơn nữa để kịp thời động viên, khuyến khích, phát
huy tính chủ động, tinh thần yêu nước, ý chí sáng tạo, ý chí quyết tâm, năng
lực hoạt động thực tiễn của các tổ chức và cá nhân để thực hiện thắng lợi nhiệm
vụ chính trị của từng địa phương, đơn vị trên tất cả các lĩnh vực, góp phần thực
hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Châu Phú là huyện trọng điểm về nông nghiệp của tỉnh An Giang, có
vai trò chiến lược, quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, có đường
Quốc lộ 91 và sông Hậu chạy qua, là cầu nối giữa thành phố Long Xuyên và
thành phố Châu Đốc. Vị trí của huyện khá thuận lợi cho phát triển đô thị, thương
mại và dịch vụ. Trong những năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng,
toàn quân và toàn dân; kinh tế - xã hội của huyện Châu Phú đã có những bước
phát triển mới, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững và ổn
định; hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở luôn được thường xuyên củng cố,
kiện toàn. Trình độ và năng lực thực tiễn của đội ngũ cán bộ, công chức ngày
càng nâng cao, từng bước đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới,
các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội hàng năm đều hoàn thành vượt mức kế
hoạch so với nghị quyết đề ra; các phong trào thi đua yêu nước có nhiều đổi
mới theo hướng thiết thực, hiệu quả, ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn
chiều sâu đã tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, nhận thức của cán bộ, công chức
và quần chúng nhân dân, qua đó đã xuất hiện nhiều điển hình tiên tiến trong tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội được biểu dương, khen thưởng. Tuy nhiên
bên cạnh những kết quả đạt được, công tác thi đua khen thưởng của huyện Châu
Phú vẫn còn bộc lộ những mặt hạn chế, vẫn còn một số địa phương, đơn vị
chưa thực sự quan tâm đến công tác thi đua, khen thưởng, nội dung phong trào
thi đua còn nghèo nàn, chưa bám sát nhiệm vụ cụ thể của địa phương, đơn vị
và từng giai đoạn công tác hoặc có phát động nhưng không tổ chức sơ, tổng kết
đánh giá kết quả, rút kinh nghiệm, do vậy hiệu quả của các phong trào thi đua
còn thấp, chưa đạt yêu cầu đề ra; cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng chủ
2
yếu là kiêm nhiệm nên công tác tham mưu còn hạn chế; nhiều đơn vị chưa tổng
hợp các văn bản của cấp trên, cụ thể hóa thành văn bản phù hợp với địa phương
mình để tổ chức thực hiện; sự phối kết hợp giữa các cơ quan, ban, ngành chưa
được thực hiện nhịp nhàng, một số lĩnh vực không được quan tâm phát động
phong trào thi đua để tổ chức thực hiện nhiệm vụ của đơn vị đạt hiệu quả; việc
xây dựng các mô hình, điển hình tiên tiến, phát hiện gương người tốt, việc tốt
và công tác tuyên truyền nhân rộng điển hình tiên tiến chưa được quan tâm và
chú trọng thực hiện; việc đánh giá kết quả thi đua và bình xét khen thưởng của
một số ít đơn vị chưa thực sự dân chủ, có nơi còn mang tính cào bằng.
Vì vậy, việc nghiên cứu tìm ra các giải pháp khắc phục những hạn chế
nêu trên nhằm thực hiện tốt công tác thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện
Châu Phú, tỉnh An Giang, kịp thời động viên, khuyến khích, phát huy tính chủ
động, tinh thần yêu nước, ý chí sáng tạo, ý chí quyết tâm, năng lực hoạt động
thực tiễn của các tổ chức và cá nhân, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, chỉ
tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong tình hình mới, góp phần thực hiện thắng
lợi công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Từ những trình bày nêu trên đã đặt ra yêu cầu bức thiết trong việc nâng
cao chất lượng chính sách TĐKT nhất là trong thời kỳ đất nước ta đổi mới, hội
nhập như hiện nay. Do vậy, tôi lựa chọn đề tài “Thực hiện chính sách thi đua,
khen thưởng ở huyện Châu Phú, tỉnh An Giang” làm đối tượng nghiên cứu
trong luận văn thạc sĩ chuyên ngành chính sách công.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đến nay, các công trình nghiên cứu liên quan đến thi đua, khen thưởng
(TĐKT) và chính sách TĐKT đã có rất nhiều nhà nghiên cứu về các nội dung
này. Mặc dù mỗi tác giả sẽ có quan điểm hay cách tiếp cận khác nhau nhưng
chung quy vẫn là nghiên cứu về TĐKT và chính sách TĐKT. Sau đây là một
số công trình nghiên cứu mà tác giả tìm hiểu:
3
Ban Thi đua - khen thưởng Trung ương (2008), Đảng, Bác Hồ với thi đua
yêu nước và công tác thi đua, khen thưởng”, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
Nguyễn Minh Mẫn (2010), Quy định của pháp luật về TĐKT và tổ chức
làm công tác thi đua, khen thưởng, đề tài khoa học cấp Nhà nước, Bộ Nội vụ.
Phùng Ngọc Tấn (2016), Pháp luật về TĐKT ở Việt Nam hiện nay, luận
án tiến sĩ luật hiến pháp và luật hành chính, Học viện Khoa học xã hội.
Nguyễn Đình Châu (2014), Tăng cường làm tốt công tác thi đua, khen
thưởng góp phần thực hiện thắng lợi chiến lược xây dựng con người mới của
Đảng trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 213 (tháng 5), tr.
58-60.
Phùng Ngọc Tấn (2014), Giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm
thực hiện pháp luật về TĐKT, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 10, tr. 3-13.
Lê Văn Phong (2014), Công tác thi đua, khen thưởng ở Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2009-2014), Tạp chí Lịch sử Đảng, số 9, tr. 52-56.
Các công trình nghiên cứu kể trên đã đề cập đến một số vấn đề lý luận
và thực tiễn về công tác TĐKT như: khái niệm, vai trò, nội dung, các yêu cầu
công tác thi đua, công tác khen thưởng, kinh nghiệm thực tiễn… để từ đó đề ra
các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và thực hiện pháp luật TĐKT mà các
công trình tiến hành nghiên cứu. Những nguồn tài liệu nêu trên rất có giá trị
phục vụ cho việc nghiên cứu của tác giả. Từ đó, tác giả có thể chọn lọc để xác
định nội dung kế thừa hoặc phát triển thêm nhằm hoàn thành luận văn của mình.
Qua các công trình nghiên cứu trên thì công tác TĐKT được đề cập với nhiều
phương diện không giống nhau. Tuy nhiên, cho đến nay việc nghiên cứu một
cách hoàn chỉnh về việc thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng ở huyện
Châu Phú, tỉnh An Giang thì chưa có.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
4
Phân tích làm rõ thực trạng thực thi chính sách thi đua, khen thưởng
trên địa bàn huyện Châu Phú thời gian qua; đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu
quả thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện Châu Phú,
tỉnh An Giang đến năm 2025.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về chính sách thi đua, khen thưởng;
Làm rõ việc thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng ở huyện Châu
Phú, tỉnh An Giang; nhất là những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân
của hạn chế trong lĩnh vực này;
Xác định được mục tiêu, nhiệm vụ và đề ra các giải pháp phù hợp với
tình hình thực tế huyện Châu Phú nhằm hoàn thiện chính sách và nâng cao hiệu
quả thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện đến năm
2025.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là thực hiện chính sách thi đua,
khen thưởng ở huyện Châu phú, tỉnh An Giang, cụ thể là các quy định về điều
kiện, thủ tục, quy trình; việc tổ chức thực thi chính sách thi đua, khen thưởng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về không gian: huyện Châu Phú, tỉnh An Giang.
Phạm vi về thời gian: Thời gian nghiên cứu, khảo sát thực trạng giai
đoạn 2015-2019 và đề xuất các giải pháp đến năm 2025.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Việc triển khai nghiên cứu đề tài Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp
luận khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; Chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước về thi đua, khen thưởng; Các chỉ thị,
nghị quyết của Trung ương Đảng, của tỉnh An Giang và huyện Châu Phú về thi
đua, khen thưởng.
5
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác-Lênin vận dụng vào điều kiện thực tế của huyện Châu Phú.
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của chuyên ngành chính
sách công, phương pháp nghiên cứu lý thuyết, phương pháp phân tích, tổng
hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, khái quát dựa trên số liệu
thống kê của các cơ quan Đảng và chính quyền, các báo cáo tổng kết thực tiễn,
số liệu điều tra xã hội học trong các công trình khoa học đã công bố, số liệu của
cơ quan thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng.
Để đưa ra các nhận định tác giả luận văn dựa vào các phương pháp so
sánh, phương pháp quy nạp, diễn dịch, nghiên cứu thực trạng thực hiện chính
sách thi đua, khen thưởng ở huyện Châu Phú, tỉnh An Giang hiện nay; để từ đó
đề xuất mục tiêu, giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách và nâng cao hiệu quả
thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện Châu Phú, tỉnh
An Giang đến năm 2025.
Ngoài ra, có thể sử dụng các số liệu điều tra của các tổ chức khác không
thuộc hệ thống chính trị của huyện, ....
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Thứ nhất, là tài liệu tham khảo, nghiên cứu chính sách thi đua, khen thưởng.
Thứ hai, là tài liệu tham khảo cho học viên khi nghiên cứu, học tập các
chuyên đề liên quan và tổ chức, cá nhân quan tâm đến hoạt động thi đua, khen
thưởng ở huyện Châu Phú, tỉnh An Giang.
Thứ ba, là tài liệu tham khảo cho lãnh đạo Huyện ủy, HĐND, UBND
huyện Châu Phú trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chính sách thi đua khen
thưởng trên địa bàn huyện.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Thứ nhất, khẳng định sự cần thiết phải tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa
chính sách thi đua, khen thưởng ở huyện Châu Phú, tỉnh An Giang trong giai
đoạn hiện nay nhằm kịp thời động viên, khuyến khích, phát huy tính chủ động,
6
tinh thần yêu nước, ý chí sáng tạo, ý chí quyết tâm, năng lực hoạt động thực
tiễn của các tổ chức và cá nhân để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của
từng địa phương, đơn vị trên tất cả các lĩnh vực, góp phần thực hiện thắng lợi
công cuộc đổi mới đất nước, qua đó góp phần hoàn thiện khung lý luận về chính
sách thi đua, khen thưởng ở nước ta.
Thứ hai, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng
ở huyện Châu Phú, tỉnh An Giang giai đoạn 2015-2019.
Thứ ba, đề xuất các giải pháp khả thi để khắc phục những hạn chế trong
thực hiện và tiếp tục thực hiện tốt chính sách thi đua, khen thưởng ở huyện
Châu Phú, tỉnh An Giang đến năm 2025.
7. Kết cấu của Luận văn
Phần nội dung chính của luận văn gồm 3 chương (không tính phần mở
đầu, kết luận và danh mục tài liệu kham khảo).
Chương 1: Lý luận chung về thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng ở
huyện Châu Phú, tỉnh An Giang.
Chương 3: Mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp nâng cao hiệu quả thực
hiện chính sách thi đua, khen thưởng ở huyện Châu Phú, tỉnh An Giang.
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH THI ĐUA, KHEN THƯỞNG
1.1. Khái niệm, nội dung về chính sách thi đua, khen thưởng
1.1.1. Khái niệm chính sách thi đua, khen thưởng
Chính sách được hiểu là tập hợp các quyết định hay chương trình hành
động do tập thể các nhà lãnh đạo, nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề
nào đó thuộc phạm vi thẩm quyền của mình. “Chính sách công là một tập hợp
các quyết định chính trị có liên quan của Nhà nước nhằm lựa chọn mục tiêu và
giải pháp, công cụ chính sách nhằm giải quyết các vấn đề xã hội theo mục tiêu
7
tổng thể đã xác định”. Chính sách công là chính sách của Nhà nước là tập hợp
các quyết định chính trị có liên quan của Nhà nước với mục tiêu giải pháp cụ
thể nhằm giải quyết một vấn đề kinh tế, xã hội nhất định, theo ý chí của Đảng
cầm quyền.
Theo Luật Thi đua, Khen thưởng số 15/2003/QH11 ngày 26 tháng 11
năm 2003 của Quốc hội, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2004 thì: “Thi
đua là hoạt động có tổ chức với sự tham gia tự nguyện của cá nhân, tập thể
nhằm phấn đấu đạt được thành tích tốt nhất trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Khen thưởng là việc ghi nhận, biểu dương, tôn vinh công trạng và khuyến khích
bằng lợi ích vật chất đối với cá nhân, tập thể có thành tích trong xây dựng và
bảo vệ tổ quốc. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về TĐKT trong phạm
vi cả nước”.
Như vậy, chính sách TĐKT ở Việt Nam có thể được hiểu như sau:
Chính sách TĐKT là tập hợp các quy định của Chính phủ nhằm đưa ra
các công cụ chính sách và cách thức giải quyết các vấn đề liên quan đến công
tác TĐKT và hoạt động TĐKT của các tổ chức và cá nhân. Các cơ quan trong
hệ thống hành pháp và mọi cá nhân, tổ chức có nhiệm vụ chấp hành các quy
định này và thực hiện các hoạt động TĐKT theo đúng quy định của pháp luật.
1.1.2. Vấn đề chính sách thi đua, khen thưởng
Thực tiễn cho thấy, công tác TĐKT đã có bước chuyển biến tích cực từ
khi Nhà nước ban hành Luật TĐKT; các bộ, ngành, địa phương, các đơn vị cơ
sở đã phát động nhiều phong trào thi đua một cách toàn diện và có chiều sâu
gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị. Từ đó, công tác khen thưởng ngày càng
đi vào nề nếp, thiết thực hơn và đạt được nhiều thành tích cơ bản trên các
phương diện như: khen thưởng thành tích trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ
và chống thực dân Pháp, khen thưởng niên hạn, khen thưởng quá trình cống
hiến, khen thưởng theo chuyên đề, khen thưởng thành tích đột xuất, khen
thưởng thường xuyên và khen thưởng đối ngoại. Nhờ vậy, mà công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc đã được các tầng lớp nhân dân cả nước, đặc biệt là cán
8
bộ, công chức, viên chức và chiến sĩ góp phần tích cực vào. Bởi vì thông qua
thi đua, khen thưởng thì họ đã được động viên, cổ vũ kịp thời. Luật Thi đua,
Khen thưởng số 15/2003/QH11 đã được Quốc hội ban hành ngày 26 tháng 11
năm 2003 và có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2004. Theo đó, Chính Phủ
và Bộ Nội vụ cũng đã ban hành Nghị định, Thông tư để hướng dẫn thi hành.
Chỉ thị 34-CT/TW ngày 07-4-2014 của Bộ Chính trị “về tiếp tục đổi
mới công tác thi đua, khen thưởng” khẳng định: “công tác thi đua, khen thưởng
đã có chuyển biến tích cực, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm
vụ phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, đối ngoại và tăng
cường đoàn kết dân tộc. Phong trào thi đua yêu nước đã được tổ chức sâu rộng,
từng bước đổi mới nội dung, hình thức phát động thi đua, bám sát thực tiễn,
gắn với Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"
và thực hiện nhiệm vụ chính trị ở từng địa phương, đơn vị. Công tác khen
thưởng cơ bản bảo đảm theo quy định của pháp luật, đã động viên, tôn vinh kịp
thời tập thể, cá nhân đạt thành tích xuất sắc. Việc phát hiện, bồi dưỡng, tổng
kết và nhân rộng điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt đã được quan
tâm hơn. Hệ thống pháp luật về thi đua, khen thưởng từng bước được hoàn
thiện. Bộ máy làm công tác thi đua, khen thưởng các cấp được củng cố, kiện
toàn. Các cơ quan truyền thông đại chúng có nhiều hình thức tuyên truyền về
các phong trào thi đua và biểu dương người tốt, việc tốt”.
Trước tình hình thực tiễn như hiện nay thì Luật TĐKT nói chung và
công tác TĐKT nói riêng đã không hoàn toàn đáp ứng và phù hợp. Vì thế, ngoài
những thành tích đã nêu thì việc thực hiện công tác TĐKT vẫn tồn tại những
hạn chế nhất định. Cụ thể như: “Phong trào thi đua phát triển chưa đồng đều,
liên tục, nhiều nơi còn mang nặng tính hình thức, chưa gắn kết chặt chẽ với
nhiệm vụ chính trị. Việc khen thưởng ở nhiều nơi còn thiếu chính xác, chưa kịp
thời; khen thưởng cho người lao động trực tiếp sản xuất, nông dân, công nhân
còn ít. Việc phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân rộng điển hình tiên tiến hiệu
9
quả chưa cao; biện pháp tuyên truyền thiếu đồng bộ... làm hạn chế động lực
phấn đấu của tập thể và cá nhân. Nguyên nhân chủ yếu của hạn chế, yếu kém
là: Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền ở một
số bộ, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị, nhất là người đứng đầu còn chưa
đầy đủ, toàn diện. Nhiều nơi, bộ máy làm công tác thi đua, khen thưởng chưa
ổn định, thống nhất; năng lực tham mưu của cán bộ, công chức làm công tác
này còn hạn chế”. Vì vậy, công tác TĐKT ở các ngành, các cấp cần được khắc
phục kịp thời.
Trước thực trạng đó, ngày 16/11/2013, Quốc hội khóa XIII đã thông
qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật TĐKT số 39/2013/QH13 (có
hiệu lực từ ngày 01/6/2014); Chính phủ đã ban hành Nghị định số 65/2014/NĐ-
CP ngày 01/7/2014 quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi bổ sung một số điều
của Luật TĐKT năm 2013. Để thay thế Nghị định số 42/2010/NĐ-CP ngày 15
tháng 4 năm 2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật thi đua, khen thưởng và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi
đua, khen thưởng, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 91/2017/NĐ-CP ngày
31 tháng 7 năm 2017 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật thi đua,
khen thưởng.
1.1.3. Mục tiêu chính sách thi đua, khen thưởng
Theo điều 4, Luật thi đua, khen thưởng năm 2013“Mục tiêu của thi đua
nhằm tạo động lực động viên, lôi cuốn, khuyến khích mọi cá nhân, tập thể phát
huy truyền thống yêu nước, năng động, sáng tạo vươn lên hoàn thành tốt nhiệm
vụ được giao vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Thật vậy, mục tiêu của chính sách TĐKT là thông qua các phong trào
thi đua mà phát huy tính tích cực trong công việc, vươn lên của các cá nhân,
tập thể, ra sức học tập, lao động để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Qua các phong trào, qua thi đua khen thưởng thì người có thành tích tốt sẽ có
động lực tiếp tục phát huy những thành tích của mình. Để từ đó, phấn đấu có
10
thêm những sáng kiến và đóng góp khác tiếp tục nâng cao năng lực của bản
thân. Đồng thời, cùng với cơ quan, đơn vị phấn đấu hơn nữa hoàn thành nhiệm
vụ chung ở mức độ cao hơn. Vì vậy, nhằm phát huy sức mạnh của toàn dân,
của toàn quân và của cả hệ thống chính trị trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc thì việc thực hiện tốt chính sách TĐKT là một trong những điều kiện
cơ bản nhất. Chẳng những phải thực hiện tốt công tác TĐKT mà phải thông
qua nhiều hình thức phong phú, nhiều phương pháp hay, thiết thực làm cho các
phong trào thi đua phát triển một cách toàn diện và có hiệu quả. Và có như thế thì
việc học tập, lao động, sản xuất, kinh doanh của toàn dân, của mọi thành phần
kinh tế sẽ có một động lực mạnh mẽ hơn, hiệu quả hơn mà cùng nhau thi đua hoàn
thành các chỉ tiêu trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, đời sống xã hội. Từ đó, góp phần
đáng kể vào công cuộc xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp hơn.
1.1.4. Giải pháp và công cụ chính sách thi đua, khen thưởng
Giải pháp chính sách thi đua, khen thưởng: Xét từ những góc độ tiếp
cận khác đối với mục tiêu của chính sách TĐKT, thì các giải pháp mà nhà nước
thực hiện cũng nhằm phát huy vai trò là động lực của sự phát triển nhằm tạo ra
bước đột phá mới, chuyển biến mạnh mẽ hơn, tích cực hơn để động viên cán
bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân hăng hái ra sức thi đua, lập nhiều thành
tích trong thực hiện các nhiệm vụ được giao, từ đó góp phần tích cực hơn vào
sự phát triển chung của đất nước vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh. Có thể rút ra nhận định rằng: một số giải pháp cơ bản luôn là vấn đề
mà chính sách TĐKT của nước ta hướng đến. Đầu tiên phải kể đến việc tạo sự
chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức trong toàn hệ thống chính trị và nhân dân.
Làm sao để các đối tượng này có thể nhận thấy được tầm quan trọng và ý nghĩa
của chính sách TĐKT trong tất cả các lĩnh vực. Để từ đó, việc ban hành các cơ
chế, chính sách cụ thể và tổ chức thực hiện đạt được hiệu quả cao nhất.
11
Giải pháp chính sách TĐKT được chia ra thành 2 nhóm nhỏ. Trong đó,
sẽ gồm nhóm giải pháp liên quan đến mục tiêu chính sách và nhóm giải pháp
liên quan đến công cụ chính sách. Cụ thể như sau:
Các giải pháp liên quan đến mục tiêu chính sách bao gồm: giải pháp
nâng cao hiệu quả hoạt động phong trào thi đua và giải pháp nâng cao chất
lượng công tác khen thưởng.
Các giải pháp liên quan đến công cụ chính sách bao gồm: giải pháp về
tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và vai trò của người đứng đầu
trong thực hiện chính sách TĐKT; giải pháp tạo sự chuyển biến trong nhận thức
đối với việc thực hiện chính sách TĐKT; giải pháp về phát huy vai trò của công
tác tuyên truyền và công tác phối hợp trong việc thực hiện chính sách TĐKT;
giải pháp nâng cao chất lượng công tác tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp
vụ TĐKT; giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của khối, cụm thi đua; giải
pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng TĐKT các cấp và giải pháp
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác TĐKT các cấp
Công cụ chính sách thi đua, khen thưởng:
Qua kinh nghiệm thực tế thì muốn thực hiện được một chính sách cần
phải có các giải pháp chính sách đồng bộ cùng với các công cụ chính sách phù
hợp. Công cụ chính sách là hệ thống các phương tiện truyền dẫn các phương
thức tác động lên đối tượng chính sách, bao gồm: công cụ dựa vào tổ chức;
công cụ dựa vào quyền lực; công cụ tài chính và công cụ truyền thông. Cụ thể
là:
Công cụ dựa vào tổ chức là các công cụ hành chính, tổ chức như kế
hoạch, quy hoạch của nhà nước, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, mô
hình tổ chức, bộ máy cán bộ công chức tham gia hoạch định, triển khai chính
sách TĐKT.
Công cụ dựa vào quyền lực là các quy định mệnh lệnh và kiểm soát,
quy định về trách nhiệm của từng cấp, từng ngành.
12
Công cụ tài chính là ngân sách, các quỹ, nguồn vốn, hệ thống đòn bẩy
khuyến khích về mặt kinh tế, vật chất.
Công cụ truyền thông là các chiến dịch truyền thông, tuyên truyền cổ
vũ và thuyết phục qua báo chí, truyền hình hay tài trợ nghiên cứu.
1.2. Quy trình tổ chức thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng
1.2.1. Cách tiếp cận thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng
Các ngành, các cấp và toàn quân, toàn dân cần nhận thức được tầm quan
trọng của việc thực hiện chính sách TĐKT. Vì có thực hiện tốt chính sách thi
đua khen thưởng thì công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nước ta sẽ càng
ngày càng có những bước tiến cao hơn, đưa đất nước phát triển lên một tầm cao
mới.
Việc thực hiện chính sách TĐKT được tiến hành đồng loạt ở tất cả các
cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang và mọi tầng lớp nhân dân. Các cấp uỷ
Đảng và chính quyền cần có những phương thức lãnh đạo, chỉ đạo tiến bộ hơn.
Cùng với đó là sự đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền của Mặt trận
Tổ quốc và các Hội đoàn thể sẽ nâng cao được nhận thức của nhân dân để họ ý
thức được bản thân vừa là chủ thể vừa là đối tượng thụ hưởng của chính sách
để từ đó sẽ tham gia tích cực vào các phong trào thi đua được phát động.
Luật TĐKT năm 2003 và Luật TĐKT sửa đổi, bổ sung năm 2013 quy
định: “Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ phát động, chỉ đạo phong trào thi
đua trong phạm vi cả nước; Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ, lãnh đạo ban, ngành, cơ quan, tổ chức ở trung ương phát
động, chỉ đạo phong trào thi đua trong ngành và lĩnh vực do mình phụ trách;
Chủ tịch UBND các cấp phát động, chỉ đạo phong trào thi đua trong phạm vi
địa phương; Lãnh đạo các cơ quan, tổ chức, đơn vị phát động, chỉ đạo phong
trào thi đua trong phạm vi cơ quan, tổ chức, đơn vị. Nhà nước thực hiện khen
thưởng qua tổng kết thành tích các giai đoạn cách mạng, khen thưởng theo công
trạng và thành tích đạt được, khen thưởng quá trình cống hiến và khen thưởng
13
đối ngoại. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về TĐKT trong phạm vi cả
nước”.
Mọi công dân thuộc mọi tầng lớp cũng như các tập thể đã đạt được
những thành tích xuất sắc qua các phong trào thi đua, qua học tập, lao động,
sản xuất đều được bảo vệ quyền lợi về vật chất, tinh thần theo đúng quy định
của pháp luật. Và để có được thành tích khen thưởng đó đòi hỏi các cá nhân,
tập thể phải thực hiện chính sách thi TĐKT trên tình thần tự giác.
1.2.2. Quy trình tổ chức thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng
Chính sách TĐKT đóng vai trò quan trọng, định hướng việc thực hiện
công tác TĐKT. Việc triển khai công tác TĐKT chịu tác động không nhỏ bởi
kết quả thực hiện chính sách TĐKT. Để làm được như vậy, cần phải tiến hành
các hoạt động TĐKH theo trình tự, cụ thể như sau:
1.2.2.1. Xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng
Khi khởi đầu thực hiện một việc gì đều cần phải xây dựng kế hoạch. Và
việc thực hiện chính sách TĐKT cũng không ngoại lệ. Bởi vì đó là nền tảng,
là cơ sở, là một bước quan trọng trong quá trình triển khai thực hiện chính sách.
Kế hoạch sẽ vạch ra những mục đích, yêu cầu cũng như các chỉ tiêu, nhiệm vụ
cụ thể mà việc thực hiện chính sách đang hướng đến. Kế hoạch kiểm tra, đôn
đốc thực thi chính sách và việc xác định hợp lý thời gian thực hiện chính sách.
Khi xây dựng kế hoạch thực thi chính sách, để xác định chính xác các mục tiêu,
nội dung nhiệm vụ, nguồn lực phục vụ cũng như thời gian và giải pháp cho việc
thực hiện chính sách thì người xây dựng kế hoạch cần phải có chuyên môn sâu,
sự am hiểu cần thiết cần thiết về một số vấn đề liên quan chính sách. Đó chính
là: mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ, phạm vi, đối tượng, quy mô, tầm quan trọng
của chính sách. Khi triển khai thực hiện chính sách sẽ không bị sơ hở, sai sót
và mang lại hiệu quả như mong muốn nếu bước này được chuẩn bị tốt. Điều đó
có nghĩa là đã xây dựng tốt kế hoạch triển khai thực hiện chính sách.
14
1.2.2.2. Phổ biến, tuyên truyền thực hiện chính sách thi đua, khen
thưởng
Ở giai đoạn này, chính sách thi đua, khen thưởng thông qua nhiều hình
thức phổ biến, tuyên truyền khác nhau sẽ đến được với các đối tượng mà chính
sách điều chỉnh. Đối tượng điều chỉnh của chính sách có thể hiểu và thực thi
chính sách thông qua các lớp tập huấn nghiệp vụ hoặc là báo chí, các trang
mạng thông tin điện tử. Để dễ dàng hơn trong tổ chức thực hiện chính sách thì
các văn bản hướng dẫn thực hiện chính sách phải được xây dựng đảm bảo một
số tiêu chí tối thiểu. Đó là: độ chính xác cao, rõ ràng, dễ hiểu và không khó, mà
tốt nhất là dễ thực hiện. Nếu như việc phổ biến, tuyên truyền chính sách được
thực hiện tốt thì các đối tượng mà chính sách điều chỉnh sẽ nhanh chóng được
tiếp nhận chính sách. Từ đó, quá trình triển khai thực hiện chính sách sẽ diễn
ra thuận lợi hơn.
Chính vì vậy, thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta chưa từng xem nhẹ
việc lãnh đạo, chỉ đạo tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật về TĐKT. Để
tạo được những chuyển biến tích cực trong phổ biến, giáo dục pháp luật về
TĐKT, toàn hệ thống chính trị đã phải cố gắng từ lãnh đạo, chỉ đạo đến trực
tiếp thực hiện. Và kết quả là tạo bước chuyển lớn trong nhận thức của nhân dân
trong ra sức thi đua góp phần phát triển đất nước giàu đẹp. Điều đó cho thấy
hiệu quả không nhỏ của công tác khen thưởng trong việc phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân.
Chỉ thị 34-CT/TW ngày 07-4-2014 của Bộ Chính trị khẳng định: “Tiếp
tục quán triệt, tuyên truyền đường lối, chủ trương của Ðảng, tư tưởng về thi
đua yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh; chính sách, pháp luật của Nhà nước
về thi đua, khen thưởng, trong đó chú trọng tuyên truyền Luật Thi đua, Khen
thưởng. Qua đó, làm chuyển biến nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân
về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của công tác thi đua, khen thưởng trong thời
15
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động hội nhập
quốc tế”.
1.2.2.3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng
Một chính sách nếu muốn được thực thi tốt cần phải có sự phân công,
phân nhiệm rõ ràng. Vì bước này tác động không nhỏ đến kết quả thực hiện
mục tiêu của chính sách. Để đạt được mục tiêu của chính sách thì trong quá
trình thực hiện chúng ta cần phải có sự phân công trách nhiệm cụ thể cho từng
ngành, từng cấp có liên quan. Tổ chức, cá nhân nào chủ trì và tổ chức, cá nhân
nào phối hợp, .... Tiêu chí xét đến khi phân công nhiệm vụ cho từng tổ chức, cá
nhân là: năng lực, bản lĩnh, trình độ chuyên môn, sự rõ ràng, tinh thần vì tập
thể, .... Phải chủ động tiến hành phân công một cách khoa học, khai thác được
thế mạnh của từng tổ chức, cá nhân. Nếu việc phân công được tiến hành đảm
bảo các tiêu chí vừa nêu thì chính sách sẽ được thực thi một cách có hiệu quả,
không mất nhiều thời gian.
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng: Khoản
1, Điều 91, Luật thi đua, khen thưởng năm 2003 quy định: "Chính phủ thống
nhất quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trong phạm vi cả nước. Cơ quan
quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng ở trung ương có trách nhiệm giúp
Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng". Chính phủ quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của cơ quan quản lý
nhà nước về thi đua, khen thưởng. Điều 91a, Luật thi đua khen thưởng năm
2013 quy định: "Hội đồng thi đua, khen thưởng trung ương là cơ quan tham
mưu, tư vấn cho Đảng và Nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng. Thành
phần Hội đồng thi đua, khen thưởng trung ương gồm Chủ tịch Hội đồng là Thủ
tướng Chính phủ, các Phó Chủ tịch Hội đồng và các thành viên khác là đại diện
lãnh đạo cơ quan của Đảng, Nhà nước, cơ quan trung ương của các tổ chức
chính trị - xã hội. Chủ tịch Hội đồng quyết định cụ thể thành viên Hội đồng" .
16
"Tổ chức và hoạt động của Hội đồng thi đua, khen thưởng do Chính phủ quy
định.”.
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ thuộc Chính phủ, giúp Chính phủ quản lý
nhà nước về thi đua, khen thưởng: Khoản 2, điều 91, Luật TĐKT năm 2003,
quy định: “Các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình, thực hiện quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng theo quy định của
pháp luật”.
Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương: Nghị định số 08/2007/NĐ-CP
ngày 8/8/2007 quy định chuyển giao Ban Thi đua hen thưởng Trung ương trực
thuộc Chính Phủ vào Bộ Nội vụ. Ban TĐKT Trung ương là cơ quan trực thuộc
Bộ Nội vụ, có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Nội vụ quản lý Nhà
nước về lĩnh vực TĐKT và là cơ quan thường trực Hội đồng thi đua khen
thưởng Trung ương.
UBND các cấp quản lý về thi đua, khen thưởng ở địa phương: Khoản
3, Điều 91, Luật thi đua khen thưởng năm 2003 quy định: Uỷ ban nhân dân các
cấp thực hiện quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trong phạm vi địa
phương mình theo quy định của pháp luật.
Ban Thi đua – Khen thưởng thuộc Sở Nội vụ tỉnh: là cơ quan thường
trực của Hội đồng thi đua, khen thưởng tỉnh, chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ
chức, biên chế và hoạt động của Sở Nội vụ, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng
dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ của Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương
trực thuộc Bộ Nội vụ.
Hội đồng TĐKT huyện Châu Phú thực hiện theo cơ cấu: Chủ tịch
UBND huyện làm Chủ tịch Hội đồng; Trưởng ban Ban Tổ chức kiêm Trưởng
phòng Nội vụ làm Phó Chủ tịch Hội đồng thường trực; Chủ tịch Liên đoàn Lao
động huyện làm Phó Chủ tịch Hội đồng; Các thành viên gồm: Chủ nhiệm
UBKT đồng thời là Chánh Thanh tra huyện, Chánh Văn phòng Huyện ủy, Hội
17
đồng nhân dân & UBND huyện, Trưởng phòng Tài chính – Kế hoạch, Trưởng
các Hội đoàn thể huyện và một số thành viên khác có liên quan.
Phòng Nội vụ thuộc UBND các huyện, thành phố, thị xã trực thuộc tỉnh:
là cơ quan thường trực của Hội đồng thi đua, khen thưởng huyện, chịu sự chỉ
đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và hoạt động của UBND huyện, đồng thời
chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ thi đua, khen thưởng của
Ban Thi đua – Khen thưởng tỉnh thuộc Sở Nội vụ. Phòng Nội vụ - Cơ quan
Thường trực Hội đồng TĐKT có nhiệm vụ: Chủ trì, phối hợp với các cơ quan,
ban, ngành xây dựng chương trình, kế hoạch, nội dung TĐKT cho từng thời kỳ
và từng lĩnh vực của huyện. Tham mưu cho Hội đồng TĐKT huyện cụ thể hoá
chủ trương, chính sách về công tác TĐKT của huyện. Giúp Chủ tịch Hội đồng
TĐKT tổ chức PTTĐ và thực hiện chính sách khen thưởng theo phong trào,
thường xuyên, theo từng thời kỳ, theo niên hạn trong phạm vi quản lý của
huyện. Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc các đơn vị trực
thuộc huyện thực hiện công tác TĐKT. Tham mưu tổ chức sơ kết, tổng kết cũng
như đề xuất hình thức và nội dung công tác TĐKT mới để nâng cao tính hiệu
quả; xem xét, thẩm định và đề xuất các hình thức khen thưởng đảm bảo chính
xác, kịp thời theo quy định của pháp luật và quy chế khen thưởng của huyện.
Hỗ trợ các Hội đồng thi đua khen thưởng cấp dưới về mặt chuyên môn, nghiệp
vụ liên quan TĐKT. Kiểm tra việc thực hiện các quy định về chính sách khen
thưởng. Quản lý, cấp phát hiện vật khen thưởng của huyện theo phân cấp; thực
hiện việc tổ chức và trao tặng khen thưởng theo quy định của pháp luật và của
huyện; làm thủ tục cấp đổi hiện vật khen thưởng bị hư hỏng, thất lạc và xác
nhận các hình thức khen thưởng. Nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, xây
dựng hệ thống thông tin, lưu trữ cơ sở dữ liệu phục vụ công tác TĐKT. Quản
lý về tổ chức, công chức, viên chức, người lao động, tài sản, hồ sơ, tài liệu theo
quy định của pháp luật và phân cấp của Chủ tịch Hội đồng TĐKT. Chủ trì, phối
hợp với các đơn vị giúp Chủ tịch Hội đồng TĐKT theo Quy chế chủ trì, phối
18
hợp tổ chức và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn giữa các đơn vị
giúp việc Chủ tịch Hội đồng TĐKT, bảo đảm sự chỉ đạo, quản lý của Chủ tịch
Hội đồng TĐKT kịp thời và có hiệu quả. Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn
khác do Chủ tịch Hội đồng TĐKT giao.
Hội đồng TĐKT của các đơn vị, địa phương (gọi chung là đơn vị) thuộc
huyện, được củng cố theo quy định của pháp luật, cơ cấu gồm: Chủ tịch Hội
đồng là thủ trưởng đơn vị, Phó Chủ tịch Hội đồng là Chủ tịch công đoàn đơn
vị. Thành viên Hội đồng gồm các đồng chí đại diện các bộ phận chuyên môn
có liên quan, do thủ trưởng đơn vị quyết định trên nguyên tắc số lượng là 3, 5
hoặc 7 thành viên. Ủy viên thường trực, Thư ký Hội đồng là người được Thủ
trưởng đơn vị giao thực hiện công tác TĐKT hoặc là cá nhân phụ trách công
tác TĐKT của đơn vị. Hội đồng TĐKT của các đơn vị xây dựng kế hoạch thực
hiện nhiệm vụ chính trị gắn với phong trào thi đua yêu nước trong toàn đơn vị,
đồng thời tổ chức đăng ký giao ước thi đua tập thể, cá nhân bằng những việc
làm cụ thể, thiết thực.
1.2.2.4. Duy trì chính sách thi đua, khen thưởng
Việc làm cho một chính sách TĐKT vẫn tồn tại và tiếp tục phát huy tác
dụng trong thực tiễn được gọi là duy trì chính sách. Muốn duy trì được một
chính sách phải có sự đồng lòng, hợp sức của các bên có liên quan. Đó là: người
tổ chức, người thực hiện và môi trường để chính sách tồn tại. Việc vận động,
tuyên truyền toàn thể xã hội tích cực thực thi chính sách TĐKT phải là việc làm
thường xuyên của các cơ quan quản lý nhà nước, đặc biệt là quản lý nhà nước
về TĐKT. Trung ương sẽ có giải pháp tác động kịp thời khi môi trường duy trì
chính sách gặp phải những biên động không thuận lợi. Song song đó sẽ tiến hành
các bước điều chỉnh chính sách TĐKT cho phù hợp với tình hình thực tế. Khi thật
sự cần thiết thì các cơ quan nhà nước có thể sử dụng biện pháp hành chính để duy
trì chính sách TĐKT không để bảo vệ riêng cho cá nhân hay tổ chức nào mà là
nhằm vì lợi ích chung của toàn xã hội.
19
Mọi người, mọi tập thể phải tích cực tham gia thực thi chính sách
TĐKT. Thông qua việc chấp hành tốt các chính sách TĐKT có thể phát huy
quyền làm chủ của mỗi người. Mỗi chúng ta đều có thể chủ động đề xuất ý
tưởng, giải pháp hay để cùng nhau thực hiện mục tiêu của chính sách TĐKT
một cách thiết thực và hiệu quả nhất. Khi đã thực hiện được điều đó thì việc
duy trì thực hiện tốt chính sách TĐKT không gặp vấn đề trở ngại mà ngược lại
hiệu quả của việc thực hiện chính sách TĐKT sẽ ngày càng được nâng lên, trở
nên thiết thực hơn.
1.2.2.5. Điều chỉnh chính sách thi đua, khen thưởng
Một hoạt động không kém phần quan trọng và nên diễn ra thường xuyên
trong quá trình thực thi chính sách đó là điều chỉnh chính sách. Việc điều chỉnh
chính sách TĐKT nhằm giúp cho chính sách TĐKT ngày càng phù hợp hơn
với yêu cầu đặt ra trong bối cảnh mới. Việc bổ sung, điều chỉnh chính sách thực
hiện theo nguyên tắc: cơ quan nào ban hành thì cơ quan đó điều chỉnh, bổ sung
chính sách. Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc điều chỉnh, bổ sung chính sách
đang được thực hiện một cách sáng tạo, linh hoạt nhằm làm cho việc thực thi
chính sách TĐKT mang lại hiệu quả cao nhất, với điều kiện tiên quyết là không
làm thay đổi mục tiêu của chính sách TĐKT.
Mặt khác, khi điều hỉnh chính sách TĐKT chỉ có thể điều chỉnh cơ chế,
giải pháp thực hiện mục tiêu hoặc hoàn chỉnh, bổ sung mục tiêu cho phù hợp
tình hình thực tiễn chứ không điều chỉnh mục tiêu của chính sách. Nếu điều này
xảy ra sẽ làm thay đổi chính sách TĐKT, là chính sách đó chưa từng được ban
hành.
1.2.2.6. Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách thi đua, khen
thưởng
Đây là một công tác vô cùng quan trọng trong thực thi chính sách TĐKT.
Bởi vì công tác này đảm bảo cho việc thực hiện chính sách TĐKT không vi
phạm pháp luật. Từ đó, tăng cường lòng tin của mọi công dân để họ chủ động,
tích cực hơn khi tham gia các phong trào thi đua, để được khen thưởng và nắm
20
rõ thêm những quy định của pháp luật liên quan đến chính sách thi đua khen
thưởng.
Kiểm tra để nhằm phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm các vi phạm pháp
luật về TĐKT nhằm bảo đảm thực hiện tốt các chính sách, pháp luật về TĐKT
và phát huy mạnh mẽ những giá trị tốt đẹp của nó. Việc đôn đốc triển khai thực
hiện chính sách TĐKT cũng mang ý nghĩa không nhỏ trong thực hiện chính
sách TĐKT. Có đôn đốc thì sẽ có sự phấn đấu, đầu tư nhiều hơn trong thi đua.
1.2.2.7. Tổng kết, đánh giá việc thực hiện chính sách thi đua, khen
thưởng
Đây là hoạt động cần được tiến hành thường xuyên trong quy trình thực
hiện chính sách TĐKT. Để thực hiện tốt chính sách TĐKT, phải thực hiện việc
sơ kết, tổng kết để có thể đánh giá việc thực hiện chính sách thi đua, khen
thưởng. Đánh giá có thể từng phần hay toàn bộ kết quả thực hiện chính sách để
kiểm điểm việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước về TĐKT. Trong hoạt động này, các cơ quan quản lý nhà nước có
thẩm quyền sẽ tiến hành đánh giá kết quả thực hiện, cũng như có những kết
luận cụ thể để chỉ đạo điều hành thông suốt, nhất quán trong xử lý những khó
khăn, vướng mắc đang gặp phải.
Mặt khác, từ hoạt động sơ, tổng kết việc thực thi chính sách TĐKT mà
có thể nhận thấy được những thuận lợi, khó khăn cũng như đúc kết được các
bài học kinh nghiệm trong quá trình thực thi.
1.3. Các chủ thể thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng
Chỉ thị 34-CT/TW ngày 07-4-2014 của Bộ Chính trị khẳng định “Nâng
cao trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng trong chỉ đạo tổ chức các phong
trào thi đua, bảo đảm thiết thực, hiệu quả. Các cấp ủy, tổ chức đảng, người
đứng đầu cơ quan, đơn vị phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và chịu trách nhiệm
về chất lượng, hiệu quả công tác thi đua, khen thưởng; tăng cường kiểm tra,
giám sát, kịp thời phát hiện, ngăn ngừa tiêu cực trong công tác thi đua, khen
thưởng, tránh tình trạng khen thưởng tràn lan, không thực chất. Mỗi chi bộ,
21
đảng viên cần phát huy tốt vai trò tiên phong, gương mẫu và là hạt nhân trong
các phong trào thi đua ở cơ sở, gắn với việc "Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh", làm cho phong trào thi đua trở thành phong trào hành
động cách mạng sâu rộng trong toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân”. Theo đó:
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ,
lãnh đạo ban, ngành, cơ quan, tổ chức ở trung ương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân
các cấp, lãnh đạo các cơ quan, tổ chức, đơn vị chủ trì, phối hợp với tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ
chức xã hội - nghề nghiệp cùng cấp để tổ chức phát động, chỉ đạo tổ chức triển
khai phong trào thi đua trong phạm vi quản lý; chủ động phát hiện, lựa chọn
các tập thể, cá nhân có thành tích xứng đáng để khen thưởng hoặc đề nghị cấp
trên khen thưởng; tuyên truyền, tôn vinh các điển hình tiên tiến và tạo điều kiện
để tập thể, cá nhân được khen thưởng huân chương, danh hiệu vinh dự Nhà
nước, danh hiệu “Chiến sĩ thi đua toàn quốc” được trao đổi, giao lưu, phổ biến
kinh nghiệm, nhân rộng những sáng kiến, mô hình hay, cách làm hiệu quả.
Điều 17, 18 Luật TĐKT năm 2003 quy định: Cơ quan, tổ chức, đơn vị
phát động phong trào thi đua có trách nhiệm: “Tổ chức phong trào thi đua gắn
với lao động, sản xuất, học tập, công tác và chiến đấu. Tổ chức các hoạt động
thiết thực nhằm động viên, khích lệ mọi người tự giác, hăng hái thi đua lao
động, sản xuất, học tập, công tác, chiến đấu, cần kiệm, sáng tạo, cống hiến sức
lực, trí tuệ phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đôn đốc, kiểm tra
việc thực hiện, sơ kết, tổng kết công tác thi đua. Phát hiện, tuyên truyền, phổ
biến để học tập và nhân rộng các gương điển hình tiên tiến. Thực hiện tốt chính
sách khen thưởng nhằm động viên mọi người tích cực thi đua lao động, sản
xuất, học tập, công tác và chiến đấu”. “Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ
phát động, chỉ đạo phong trào thi đua trong phạm vi cả nước. Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; lãnh đạo ban, ngành, cơ
quan, tổ chức ở trung ương phát động, chỉ đạo phong trào thi đua trong ngành
22
và lĩnh vực do mình phụ trách. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp phát động,
chỉ đạo phong trào thi đua trong phạm vi địa phương. Lãnh đạo các cơ quan, tổ
chức, đơn vị phát động, chỉ đạo phong trào thi đua trong phạm vi cơ quan, tổ
chức, đơn vị”.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận, các
tổ chức xã hội khác trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách
nhiệm: Tổ chức hoặc phối hợp với các cơ quan nhà nước để phát động, triển
khai các cuộc vận động, các phong trào thi đua, phổ biến kinh nghiệm, nhân
rộng các điển hình tiên tiến; phối hợp, thống nhất hành động giữa các tổ chức
thành viên; tham gia với các cơ quan chức năng tuyên truyền, động viên đoàn
viên, hội viên, các tầng lớp nhân dân tham gia phong trào thi đua và thực hiện
chính sách khen thưởng; giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về thi
đua, khen thưởng; kịp thời phản ánh, đề xuất các giải pháp để thực hiện các quy
định của pháp luật về thi đua, khen thưởng.
Trách nhiệm của cơ quan làm công tác thi đua, khen thưởng: Cơ quan
làm công tác thi đua, khen thưởng các cấp, các ngành căn cứ vào nhiệm vụ, chỉ
tiêu cụ thể của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm, 5 năm và nhiệm
vụ chính trị được giao để tham mưu, đề xuất với cấp ủy đảng, chính quyền về
chủ trương, nội dung, chương trình, kế hoạch, biện pháp thi đua; đặc biệt
coi trọng công tác tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân tham gia phong
trào thi đua; chủ động phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
thành viên trong việc hướng dẫn, tổ chức các phong trào thi đua và kiểm tra
việc thực hiện; tham mưu sơ kết, tổng kết các phong trào thi đua, nhân rộng các
điển hình tiên tiến; đề xuất khen thưởng và các giải pháp nâng cao hiệu quả
công tác thi đua, khen thưởng. Điều 19, Luật TĐKT năm 2003 quy định: Cơ
quan làm công tác thi đua, khen thưởng có trách nhiệm: “Tham mưu, đề xuất
chủ trương trong công tác thi đua; xây dựng chương trình, kế hoạch, nội dung
thi đua; hướng dẫn tổ chức thi đua và kiểm tra thực hiện; tham mưu việc sơ kết,
23
tổng kết, đề xuất khen thưởng và kiến nghị đổi mới công tác thi đua, khen
thưởng”.
Hội đồng thi đua, khen thưởng trung ương có trách nhiệm tham mưu
cho Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ tổ chức phát động và chỉ đạo phong
trào thi đua trong phạm vi toàn quốc.
Trách nhiệm của cơ quan thông tin đại chúng: Cơ quan thông tin đại
chúng có trách nhiệm phản ánh đúng kết quả của phong trào thi đua và công
tác khen thưởng; thường xuyên tuyên truyền các chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước về thi đua, khen thưởng; phát hiện các cá nhân,
tập thể có thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua; biểu dương, tôn vinh, nêu
gương các điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt trên các phương tiện thông tin đại
chúng; đồng thời, đấu tranh, phản tuyên truyền đối với với các hành vi vi phạm
chính sách, pháp luật về thi đua, khen thưởng, góp phần đưa chính sách pháp luật
về TĐKT đi vào cuộc sống.
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách thi đua, khen
thưởng
Việc thực hiện chính sách TĐKT chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố,
trong đó có các yếu tố cơ bản như sau:
1.4.1. Các yếu tố khách quan
Một là, hệ thống chính trị chi phối toàn bộ nội dung và hình thức trong
việc thực hiện chính sách TĐKT do được quy định cụ thể trong Hiến pháp, mọi
hoạt động của các thể chế có liên quan đến thực hiện chính sách TĐKT đều
không nằm ngoài những quy định của Hiến pháp.
Hai là, vai trò điều hành và quản lý vĩ mô của Nhà nước đã tác động
lớn và toàn diện đến sự phát triển nói chung, việc thực hiện chính sách TĐKT
nói riêng. Nhà nước thực hiện các chức năng như định hướng, tạo điều kiện
môi trường, điều tiết và kiểm soát. Nhà nước thực hiện vai trò quản lý thông
qua việc vận dụng các quy luật khách quan, các chính sách, các nguyên tắc và
24
phương pháp quản lý nói chung một cách toàn diện. Thực hiện chính sách
TĐKT phải tính đến khả năng quản lý, điều hành của đội ngũ cán bộ. Việc thực
hiện chính sách TĐKT thành công khi có bộ máy quản lý, điều hành đáp ứng
yêu cầu.
Ba là, chính sách TĐKT chịu sự tác động bởi các yếu tố văn hóa, môi
trường sống, dư luận xã hội và đời sống kinh tế buộc chính sách TĐKT phải
thường xuyên điều chỉnh để đáp ứng tốt yêu cầu trong thời kỳ mới nhằm đạt
được những mục tiêu đề ra.
1.4.2. Các yếu tố chủ quan
Một là, các yếu tố do chủ thể thực hiện. Chính sách TĐKT muốn đạt
kết quả tốt cần phải đảm bảo chủ thể tổ chức thực hiện phải thực hiện đầy đủ
các bước trong quy trình thực hiện chính sách đó. Ngược lại, chính sách sẽ
không đạt đúng mục tiêu, mong muốn đề ra.
Hai là, điều kiện vật chất cho quá trình thực hiện chính sách. Đây là
một yếu tố tất quan trọng. Điều kiện vật chất, nguồn lực vật chất phải luôn được
tăng cường cả về số lượng và chất lượng. Trong thực tế, nếu thiếu các điều kiện
vật chất, kỹ thuật cho công tác tuyên truyền phổ biến chính sách thì các cơ quan
nhà nước khó có thể chuyển tải những nội dung chính sách TĐKT đến với chủ
thể tham gia và đối tượng thụ hưởng một cách thường xuyên và hiệu quả.
Ba là, sự đồng tình, ủng hộ của đối tượng thụ hưởng chính sách và các
đối tượng liên quan. Đây cũng là nhân tố có vai trò quan trọng quyết định sự
thành công hay thất bại của chính sách TĐKT, vì mỗi cá nhân không chỉ là
người trực tiếp tham gia hiện thực hóa mục tiêu chính sách, mà còn là đối tượng
trực tiếp thụ hưởng những lợi ích do chính sách mang lại. Do vậy, chính sách
TĐKT phải đáp ứng được nhu cầu thực tế, được sự ủng hộ, đồng tình của đối
tượng thụ hưởng thì mới có hiệu quả.
25
Kết luận chương
Chương 1 tác giả đã hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về chính sách
thi đua, khen thưởng bao gồm: khái niệm, vấn đề, mục tiêu, giải pháp và công
cụ chính sách thi đua, khen thưởng. Trình bày cách tiếp cận và yêu cầu đối với
tổ chức thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng. Các yếu tố ảnh hưởng đến
thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng được xác định bao gồm hệ thống
chính trị, vai trò điều hành của Nhà nước và các yếu tố bên trong như công
luận, truyền thông, các giá trị xã hội, hệ thống kinh tế... Chương 1 chính là cơ
sở để phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng
ở huyện Châu phú, tỉnh An Giang sẽ được trình bày cụ thể ở chương 2.
26
Chương 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
THI ĐUA, KHEN THƯỞNG Ở HUYỆN CHÂU PHÚ, TỈNH AN GIANG
2.1. Khái quát về hoạt động thi đua, khen thưởng ở huyện Châu
Phú, tỉnh An Giang giai đoạn 2015 – 2020
Châu Phú là huyện nội địa của tỉnh An Giang, có Quốc lộ 91 đi ngang
dài 33km; là cầu nối giữa 2 thành phố của tỉnh là Châu Đốc và Long Xuyên.
Ngoài việc giáp sông Hậu thì huyện có hệ thống kênh mương chằng chịt tạo
điều kiện thuận lợi cho giao thông thuỷ và phát triển hệ thống tưới tiêu phục vụ
sản xuất nông nghiệp. Diện tích đất tự nhiên của huyện là 425,7 km². Huyện có
2 thị trấn và 11 xã.
2.1.1. Công tác tổ chức phong trào thi đua yêu nước
Theo báo cáo tổng kết phong trào thi đua yêu nước, công tác khen
thưởng giai đoạn 2015-2020 của huyện Châu Phú, tỉnh An Giang đã đạt được
nhiều kết quả quan trọng, góp phần to lớn cho thực hiện thắng lợi Nghị quyết
Đại hội Đại biểu Đảng bộ Huyện lần thứ XI, nhiệm kỳ 2015 – 2020, được thể
hiện trên các hoạt động phong trào cụ thể như sau:
Phong trào thi đua thực hiện các chỉ tiêu phát triển kinh tế góp phần
thúc đẩy kinh tế của huyện tiếp tục tăng trưởng: Các khu vực của kinh tế đều
phát triển, giá trị sản xuất (GO) khu vực nông nghiệp, thủy sản tăng 115,9%;
khu vực công nghiệp tăng 178,9%; khu vực xây dựng tăng 204,6%; thu nhập
bình quân đầu người đạt 63,519 triệu đồng, tăng 90,7% so với nhiệm kỳ trước.
Đề án phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao gắn với cơ cấu lại sản
xuất nông nghiệp đạt nhiều kết quả. Có 1.947 hecta được chuyển dịch cơ cấu
từ đất trồng lúa sang trồng cây ăn quả và nuôi trồng thủy sản. Hiệu quả kinh tế
cây ăn quả cao hơn từ 10 – 30 lần so trồng lúa. Qua kêu gọi đầu tư đã mang đến
cho huyện 11 dự án với tổng vốn đầu tư 7.157 tỷ đồng, tập trung cho lĩnh nông
nghiệp 07 dự án. Thực hiện đầu tư xây dựng cơ bản có trọng tâm, trọng điểm,
27
tập trung cho các công trình nông thôn mới và các công trình thủy lợi, giao
thông đến phúc lợi công cộng với tổng vốn đầu tư đạt 1.791,5 tỷ đồng, nâng
tổng mức đầu tư phát triển toàn xã hội đạt 8.191,5 tỷ đồng. Các trục giao thông
chính của huyện được triển khai đầu tư nhanh, với tổng số 223km đường được
nâng cấp và láng nhựa, đạt 111,46% Nghị quyết, xây mới 62/40 cây cầu các
loại, đạt 155% Nghị quyết để đồng bộ kết cấu, trọng tải với đường, tập trung ở
các trục giao thông chính của huyện. Huyện tập trung kêu gọi đầu tư, xây dựng,
chỉnh trang, nâng cấp với tổng mức đầu tư 9,6 tỷ đồng đảm bảo tiêu chí “trật tự
vệ sinh”, đạt 100% theo kế hoạch, đáp ứng tốt hơn yêu cầu kinh doanh và phục
vụ đời sống của Nhân dân. Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp tiếp tục phát
triển đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện; thu, chi
ngân sách đảm bảo quy định.
Phong trào thi đua “xây dựng nông thôn mới” được phát động và đã
đem lại hiệu quả thiết thực: Qua 03 năm triển khai, phong trào thi đua đã được
tổ chức, thực hiện khẩn trương, đồng bộ, nghiêm túc, kịp thời với nhiều biện
pháp, nội dung phù hợp, sát với thực tế, đáp ứng nguyện vọng của đông đảo
các tầng lớp nhân dân. Phong trào đã đạt được những kết quả khả quan, theo
đúng lộ trình, thực sự đi vào đời sống, huy động được cả sức mạnh của cả hệ
thống chính trị, góp phần tạo nên diện mạo nông thôn ngày càng đổi mới, đời
sống nhân dân được nâng cao, văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ, an ninh - chính
trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Mặt khác, duy trì, nâng chất các mô
hình tiêu biểu như: “Dân vận khéo”, “Dân vận khéo trong xây dựng nông thôn
mới”, “dòng họ hiếu học”, “ông bà mẫu mực, con cháu thảo hiền”, “câu lạc bộ
đờn ca tài tử”, “Ấp tự quản bảo vệ môi trường”, “xây dựng hành lang giao
thông thông thoáng, mỗi nhà làm hàng rào cây xanh, cột cờ thẳng tắp”, tổ hợp
tác trồng rau an toàn Thành Lợi, mô hình trồng bưởi da xanh,... thực hiện cuộc
vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” với
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” dưới nhiều
28
hình thức phong phú; phối hợp với các tổ chức thành viên, các ngành liên quan
tuyên truyền các mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới; phòng, chống
tội phạm, tệ nạn xã hội, bảo đảm an ninh trật tự và an toàn giao thông, dân số
kế hoạch hóa gia đình, môi trường; chú trọng xây dựng các mô hình điểm phù
hợp với địa bàn dân cư...
Bên cạnh đó, còn có các hoạt động nghiên cứu, xây dựng, ban hành, tổ
chức thực hiện các chính sách, phát huy sáng kiến trong đề xuất các giải pháp
đẩy nhanh tiến độ xây dựng nông thôn mới. Thực hiện Chương trình hành động
số 04-CTr/TU ngày 18/7/2016 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh thực hiện
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới 2016 – 2020. Đến
nay, huyện Châu Phú có 07 xã trong lộ trình xây dựng hoàn thành nông thôn
mới. Hàng năm, Ban chỉ đạo Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông
thôn mới huyện luôn được kiện toàn kịp thời. Hiện nay, Ban chỉ đạo huyện có
27 thành viên (theo Quyết định số 712/QĐ-UBND ngày 05/4/2017 của UBND
huyện), Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện là Trưởng ban, có 03 phó trưởng ban
(trong đó, có 01 Phó Chủ tịch UBND huyện là phó trưởng ban thường trực),
các thành viên gồm lãnh đạo các phòng chuyên môn, tổ chức đoàn thể có liên
quan. Đối với cấp xã: thành lập Ban Chỉ đạo và Ban quản lý xây dựng nông
thôn mới. Ban Chỉ đạo, Ban quản lý do đồng chí Bí thư Đảng ủy - Chủ tịch
UBND xã, thị trấn làm Trưởng ban.
Thực hiện có hiệu quả việc huy động nguồn lực, phát huy nội lực, tăng
cường hoạt động xã hội hóa xây dựng nông thôn mới: Với phương châm Nhà
nước và nhân dân cùng làm, các ngành, địa phương đã chủ động, tập trung lồng
ghép sử dụng có hiệu quả vốn của các dự án khác với xây dựng nông thôn mới.
Việc huy động người dân và cộng đồng dân cư đóng góp xây dựng nông thôn
mới được thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch và không có tình trạng huy
động quá sức dân. Từ năm 2016 đến nay, toàn huyện đã huy động các nguồn
quỹ được 53,72 tỷ đồng, qua đó, cất mới 1.078 căn nhà Đại đoàn kết, sửa chữa
29
68 căn; hỗ trợ cho 53.572 trường hợp khó khăn đột xuất; cất và sửa chữa 27
cây cầu, nâng cấp sửa chữa 132km đường nông thôn... Vận động từ các nguồn
mua mới 05 xe chuyển bệnh miễn phí với số tiền 3,7 tỷ đồng, nâng tổng số xe
lên 28 chiếc...
Về kết quả phấn đấu hoàn thành sớm, có chất lượng các chỉ tiêu, nhiệm
vụ xây dựng nông thôn mới và tiếp tục nâng cao chất lượng các tiêu chí sau khi
đạt chuẩn: Trên cơ sở kế thừa và lồng ghép các chương trình mục tiêu quốc gia,
chương trình hỗ trợ có mục tiêu, các chương trình dự án khác trên địa bàn, vốn
chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và huy động các khoản
đóng góp tự nguyện của nhân dân, bằng sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị,
huyện đã xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, giao thông nông thôn tương
đối hoàn chỉnh: Tất cả các xã đều có đường ô tô đến trung tâm xã, đi lại được
các mùa trong năm; đã triển khai xây mới, nâng cấp 29 công trình thủy lợi; đảm
bảo nước tưới tiêu cho 37.332ha diện tích canh tác; 12/12 xã có điện lưới quốc
gia, tỷ lệ hộ dân nông thôn được sử dụng điện là 99,22%; 24 trường vùng nông
thôn đạt chuẩn quốc gia; có 05 xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới; toàn huyện
có 26 chợ ở khu vực nông thôn. Nhằm thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp,
huyện đã thực hiện chuỗi liên kết sản xuất cánh đồng mẫu lớn, quy hoạch 04
vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng cao tại xã Bình Phú, xã Vĩnh Thạnh
Trung, xã Mỹ Phú. Bên cạnh đó, thực hiện chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật
nuôi từ đất lúa sản xuất kém hiệu quả sang cây trồng khác, đặc biệt là cây ăn
trái có múi... nhờ đó đã góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, cải
thiện đời sống người dân.
Phong trào thi đua phát triển văn hoá - xã hội góp phần làm tốt công
tác giáo dục và đào tạo; khoa học và công nghệ chuyển biến tích cực; các vấn
đề xã hội được chú trọng, đời sống tinh thần của nhân dân được nâng lên:
Bằng sự tập trung nguồn vốn xây dựng, chỉnh trang trường lớp, huyện
có 29 trường đạt chuẩn quốc gia, là kết quả cao nhất trong các nhiệm kỳ. Để
30
nâng cao chất lượng giáo dục, Huyện ủy chỉ đạo ngành giáo dục thực hiện nâng
cao chất lượng dạy học và cải tạo môi trường giáo dục thật sự xanh - sạch - đẹp.
Qua thực hiện bước đầu đã đạt được những chuyển biến tích cực trong ý thức
của đội ngũ giáo viên, nhất là cán bộ quản lý của ngành giáo dục; tình trạng
“dạy tủ”, “học tủ” cấp trung học cơ sở, ngồi nhầm lớp cấp tiểu học; dạy thêm,
học thêm trái quy định từng bước được khắc phục. Chất lượng dạy và học
chuyển biến tích cực so với đầu nhiệm kỳ. Hiệu quả đào tạo và tỷ lệ tốt nghiệp
các bậc học đều tăng, tăng nhiều nhất là bậc trung học sơ sở. Xã hội hóa giáo
dục, phong trào khuyến học, khuyến tài được đẩy mạnh, đã kêu gọi đóng góp
được trên 15 tỷ đồng. Toàn huyện có 100% xã đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm
non, tiểu học và THCS; tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS năm sau cao hơn năm
trước.
Mặt khác, đã tổ chức thực hiện có hiệu quả Chương trình hành động
của Tỉnh ủy về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng
yêu cầu phát triển bền vững đất nước gắn với cuộc vận động “Toàn dân đoàn
kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” và phong trào thi đua “Cả nước
chung sức xây dựng nông thôn mới”. Có 97,16% hộ đạt chuẩn gia đình văn
hóa, tăng 2,16% so đầu nhiệm kỳ. Đời sống văn hóa, văn học nghệ thuật ngày
càng phong phú, đa dạng. Công tác giáo dục truyền thống, lịch sử địa phương
được chú trọng, có sự tham gia của các nguồn lực xã hội. Công tác xã hội hóa
trong hoạt động thể dục thể thao được đẩy mạnh, được đầu tư thu hút người
dân tham gia rèn luyện sức khỏe và đạt nhiều thành tích trong phạm vi của tỉnh
và ở các giải toàn quốc.
Công tác đền ơn đáp nghĩa, chăm lo người có công với cách mạng luôn
được quan tâm và tổ chức thực hiện tốt; tổ chức thăm hỏi, tặng quà các đối
tượng chính sách và thân nhân vào các dịp lễ, tết với tổng kinh phí 10,154 tỷ
đồng. Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt chỉ tiêu Nghị quyết, giới thiệu việc
31
làm đạt 101,13%. Với chủ trương và các giải pháp đồng bộ, tỷ lệ hộ nghèo của
huyện là giảm 1,57%, đạt 105% Nghị quyết.
Mạng lưới y tế cơ sở được kiện toàn; chất lượng công tác bảo vệ, chăm
sóc sức khỏe Nhân dân có nhiều chuyển biến tích cực. Triển khai đồng bộ, hiệu
quả các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế, có 12/13 trạm y tế đạt chuẩn
quốc gia, 6/13 trạm y tế được xây dựng mới và đầu tư nhiều trang thiết bị hiện
đại. Chất lượng dân số được nâng lên, quy mô dân số ổn định, tốc độ tăng dân
số duy trì ở mức 0,1%/năm, đạt chỉ tiêu Nghị quyết. Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng
thể thấp còi giảm so đầu nhiệm kỳ và thấp hơn tỷ lệ chung của tỉnh. Tỷ lệ người
dân tham gia bảo hiểm y tế đạt 88,5%, vượt chỉ tiêu Nghị quyết.
Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường được tăng cường lãnh đạo, chỉ
đạo. Tổ chức thực hiện nhiều chương trình, kế hoạch phòng chống thiên tai,
ứng phó biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường. Các giải pháp, xử lý những vấn
đề liên quan đến môi trường được thực hiện đúng quy định trên phương châm
coi trọng tính hiệu quả, bền vững. Thực hiện kiểm tra, giám sát và xử lý vi
phạm quy định về bảo vệ môi trường ở khu công nghiệp, các dự án nuôi trồng
thủy sản, cơ sở sản xuất; quản lý chặt chẽ các khu vực khoáng sản được quy
hoạch, xử lý nghiêm các trường hợp khai thác không đúng quy định.
Phong trào thi đua thực hiện nhiệm vụ đảm bảo quốc phòng, an ninh;
công tác nội chính được tăng cường, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh
tế - xã hội: Triển khai, thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 01-NQ/TU của Tỉnh
uỷ về lãnh đạo củng cố quốc phòng - an ninh kết hợp phát triển kinh tế - xã hội
gắn với thế trận an ninh nhân dân. Công tác diễn tập chiến đấu phòng thủ và
phòng thủ dân sự được đổi mới theo hướng thiết thực phù hợp với tình hình
thực tiễn. Tổ chức thành công diễn tập khu vực phòng thủ cấp huyện, đạt mục
đích yêu cầu, ý định diễn tập đề ra. Tuyển chọn, gọi thanh niên nhập ngũ dân
chủ, công khai, đảm bảo số lượng, chất lượng, đạt chỉ tiêu được giao. Lực lượng
dân quân, tự vệ được củng cố, lực lượng dự bị động viên thường xuyên được
32
rà soát, bổ sung. Công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, huấn
luyện dân quân tự vệ, dự bị động viên luôn đảm bảo chất lượng theo yêu cầu.
Mặt khác, thực hiện có hiệu quả chương trình quốc gia về phòng chống tội
phạm, phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc gắn với xây dựng đời sống
văn hóa, thi đua xây dựng nông thôn mới, thực hiện hiệu quả mô hình camera
an ninh, phòng chống tội phạm. Công tác tuyên truyền, nâng cao ý thức cảnh
giác cách mạng cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân được duy trì thường xuyên,
ổn định. Tình hình cháy nổ, thiệt hại do cháy nổ và tai nạn giao thông được kéo
giảm. Các mô hình, tổ chức tự quản về an ninh trật tự luôn được củng cố; chất
lượng, hiệu quả phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” ngày càng được
nâng cao. Bên cạnh đó, Nghị quyết 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính
trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 được Ban Chấp hành Đảng bộ
chỉ đạo triển khai thực hiện nghiêm túc. Hoạt động điều tra, truy tố tuân thủ
quy chế phối hợp liên ngành, không xảy ra tình trạng oan sai, bỏ lọt tội phạm.
Hoạt động xét xử thực hiện nghiêm tinh thần cải cách tư pháp, đảm bảo quyền
dân sự, chính trị và quyền tranh tụng của các chủ thể tại phiên tòa. Công tác
tuyên truyền, phổ biến pháp luật được tăng cường, góp phần nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật trong cán bộ và Nhân dân. Công tác tiếp dân và giải quyết
khiếu nại tố cáo của công dân; phòng, chống tham nhũng được thường xuyên
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo nghiêm túc.
Phong trào thi đua xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh đạt
nhiều kết quả tích cực: Hoạt động giám sát của HĐND được đổi mới về nội
dung và phương thức.. Hoạt động tiếp xúc cử tri ngày càng đổi mới, trách nhiệm
của cử tri, của đại biểu trong tham gia góp ý xây dựng chính sách, pháp luật
ngày càng phát huy. Từng bước đổi mới và nâng cao chất lượng các kỳ họp,
đặc biệt dành nhiều thời gian thảo luận, chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp.
Ngoài ra, huyện đã tổ chức thực hiện tốt việc kiện toàn bộ máy, sắp xếp bộ máy
tinh gọn theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6, Trung ương 7 khóa XII. Mô
33
hình Bí thư cấp ủy đồng thời chủ tịch UBND cấp huyện và cấp xã thực hiện
đồng bộ trong cả huyện bước đầu mang lại kết quả tích cực. Vai trò, bản lĩnh
của người đứng đầu trong lãnh đạo, điều hành, được phát huy, giữ vững đoàn
kết, thống nhất trong nội bộ. Từng bước hoàn thiện các đề án sáp nhập các cơ
quan đảng và nhà nước có chức năng, nhiệm vụ tương đồng; thực hiện bố trí
kiêm nhiệm chức danh thủ trưởng một số cơ quan chuyên môn tạo sự thống
nhất trong lãnh, chỉ đạo và tham mưu cho cấp ủy, chính quyền. Hiện nay huyện
Châu Phú đang thực hiện Chánh văn phòng và Phó Chánh văn phòng Huyện
ủy đồng thời là Chánh văn phòng và Phó Chánh văn phòng HĐND và UBND
Huyện; Trưởng ban Tổ chức Huyện ủy đồng thời là Trưởng phòng Nội vụ
Huyện; Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Huyện ủy đồng thời là Chánh Thanh tra
Huyện; Trưởng ban Dân vận – Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Huyện;
Trưởng ban Tuyên giáo đồng thời là Giám đốc Trung tâm bồi dưỡng chính trị
huyện…
Phong trào thi đua xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh
đạt nhiều kết quả quan trọng:
Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng luôn được xem là nhiệm vụ hàng
đầu để xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh nên đã tập trung lãnh đạo, chỉ
đạo xuyên suốt. Huyện đã đầu tư kết nối hệ thống trực tuyến đến cấp cơ sở để
tiếp nhận thông tin trực tiếp, chính thống đến từng chi bộ. Công tác tuyên
truyền, định hướng dư luận xã hội, giáo dục truyền thống cách mạng được thực
hiện thường xuyên với mục đích nâng cao nhận thức đúng đắn của nhân dân,
cán bộ, đảng viên. Công tác nắm bắt tình hình dư luận xã hội, tư tưởng cán bộ,
đảng viên và các tầng lớp Nhân dân kịp thời, phục vụ tốt công tác chỉ đạo, xử
lý của cấp ủy. Kết quả thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ
Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) về tăng
cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng có nhiều chuyển biến tích cực. Nhận thức
34
trách nhiệm của người đứng đầu, của cán bộ, công chức, viên chức nâng lên;
tư duy đổi mới, tư tưởng thống nhất hơn. Sự đoàn kết, nhất trí trong tập thể và
ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng cao rõ nét.
Xác định cán bộ và tổ chức bộ máy là nhân tố quyết định cho sự phát
triển bền vững, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã vận dụng kịp thời những chủ
trương mới của Đảng, của Tỉnh ủy trong công tác cán bộ và sắp xếp bộ máy.
Từ đó đã giúp bộ máy được tinh gọn, hoạt động hiệu quả hơn. Thực hiện đồng
bộ công tác đánh giá, luân chuyển và đào tạo cán bộ gắn với quy hoạch, đào
tạo; đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt có trình độ sau đại học đạt 166% Nghị
quyết. Việc điều động, giới thiệu cán bộ ứng cử được thực hiện dân chủ, công
khai, đúng quy định tạo sự thống nhất cao trong Đảng bộ.
Công tác kiểm tra, giám sát tổ chức đảng và đảng viên luôn được các
cấp uỷ, tổ chức đảng quan tâm và triển khai thực hiện có hiệu quả. Qua các
cuộc kiểm tra, giám sát đã phê bình, kiểm điểm theo quy trình đối với tập thể,
cá nhân vi phạm và thi hành kỷ luật nghiêm đối với tổ chức đảng, đảng viên.
Kết quả xử lý kỷ luật được công bố công khai đã nhận được sự đồng tình cao
trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân, có tác dụng giáo dục, hạn chế các sai lầm,
khuyết điểm tương tự.
Ban Chấp hành Đảng bộ huyện luôn tiên phong đổi mới phương thức
lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện đồng bộ bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện
của Đảng về cải cách thủ tục hành chính, về xây dựng chương trình, quy chế
hoạt động....; từ đó, phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan đảng từ huyện
đến cơ sở tiếp tục được nâng chất theo hướng sâu sát, gần gũi Nhân dân.
Phong trào thi đua trong công tác dân vận, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các đoàn thể chính trị - xã hội được phát động mạnh mẽ, được cán bộ, nhân
dân, đoàn viên, hội viên tích cực hưởng ứng:
Bộ máy tổ chức hệ thống dân vận, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính
trị - xã hội không ngừng được củng cố, kiện toàn. Số lượng đoàn viên, hội viên
35
được rà soát, phát triển theo thực chất, chiếm 46,5% so với số dân trong độ tuổi
có mặt tại địa phương. Công tác trao đổi thông tin, bám sát cơ sở, nắm chắc
tình hình được tăng cường, thu hút lực lượng quần chúng tích cực tham gia các
phong trào thi đua yêu nước. Các phong trào thi đua “Dân vận khéo” và “Dân
vận khéo trong xây dựng nông thôn mới” được tổ chức triển khai đồng bộ, có
định hướng góp phần to lớn trong thực hiện thắng lợi Nghị quyết của nhiệm kỳ.
Công tác dân vận có nhiều chuyển biến tích cực, trong giải quyết thủ
tục hành chính, tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo. Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội bên cạnh thực hiện các nhiệm
vụ chính trị thường xuyên đã thực hiện rất tốt công tác giám sát, phản biện xã
hội. Bằng các phương pháp linh hoạt, phù hợp trong giám sát với những nội
dung sát thực, liên quan trực tiếp đến đời sống người dân và nội dung điều hành
của bộ máy nhà nước. Kết quả giám sát, góp ý được cấp ủy, chính quyền, Nhân
dân đồng tình cao. Triển khai toàn diện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây
dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, vai trò, trách nhiệm, tính sáng tạo, nội
lực của Nhân dân được phát huy, đạt nhiều kết quả.
Với mục tiêu xóa đói giảm nghèo và nâng cao chất lượng đời sống cho
những đối tượng yếu thế trong xã hội, huyện đã xây dựng Đề án xóa nhà tre lá
tạm bợ, triển khai vận động kinh phí cất mới và sửa chữa được 2.155 căn nhà
giúp người nghèo yên tâm làm ăn, hạn chế tái nghèo, từng bước nâng cao chất
lượng cuộc sống cùng với làm tốt các hoạt động xã hội khác. Phối hợp tổ chức
các hoạt động tiếp xúc cử tri, giám sát thực hiện Nghị quyết HĐND đúng quy
định.
Thực hiện tốt công tác tuyên truyền chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước về dân tộc, tôn giáo. Cấp ủy, chính quyền luôn quan
tâm duy trì tốt mối quan hệ với chức sắc, chức việc thông qua thăm hỏi, trao
đổi thông tin, kịp thời hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở tín ngưỡng
hoạt động đúng tôn chỉ, giáo lý. Từ đó, tạo được niềm tin, sự phấn khởi và ủng
36
hộ của các tôn giáo, dân tộc trong lao động sản xuất, tham gia giữ gìn an ninh
trật tự, bảo vệ tổ quốc.
Phong trào “Cả nước chung tay vì người nghèo, không để ai bị bỏ lại
phía sau”: Nhiều phong trào thi đua làm việc tốt, việc thiện được nhân dân
hưởng ứng tích cực. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp với Đài
truyền thanh và Hội Khuyến học huyện thực hiện 02 chương trình “Chia sẻ
cảnh đời bất hạnh” và “Ươm mầm tài năng” để hỗ trợ các hộ gia đình nghèo
gặp khó khăn và học sinh nghèo hiếu học. Qua đó, đã hỗ trợ được 37 cảnh đời
và 29 học sinh nghèo với tổng số tiền là 743,61 triệu đồng. Hỗ trợ 91.739 các
trường hợp khó khăn đột xuất, học hành, khám chữa bệnh.
Phong trào thi đua phát triển doanh nghiệp, mở rộng hoạt động sản
xuất, kinh doanh, thương mại, hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch, phát triển kinh tế
- xã hội của huyện: Phong trào thi đua “Doanh nghiệp Việt Nam hội nhập và
phát triển” được các cơ quan, đơn vị trên địa bàn huyện tiếp tục triển khai thực
hiện tốt, đẩy mạnh phong trào thi đua, đồng hành và hỗ trợ doanh nghiệp thông
qua việc tham mưu triển khai thực hiện Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày
16/5/2016 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020,
thực hiện các giải pháp như: hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, cải thiện môi
trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh (PCI). Năm 2016,
huyện thành lập Ban hỗ trợ doanh nghiệp do Thường trực UBND huyện làm
Trưởng ban, qua đó đã hỗ trợ, tư vấn cho các doanh nghiệp trong việc thực hiện
các thủ tục đầu tư cũng như giải phóng mặt bằng khi thực đầu tư; tăng cường
xử lý, ngăn chặn có hiệu quả tình trạng nhũng nhiễu, gây phiên hà cho người
dân, doanh nghiệp trong giải quyết các thủ tục hành chính. Việc triển khai thực
hiện phong trào đã tác động tích cực, tạo động lực thi đua sôi nổi trong cộng
đồng doanh nghiệp, các cơ quan hành chính Nhà nước quan tâm việc đẩy mạnh
cải cách hành chính, đặc biệt là thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp đảm
bảo công khai, minh bạch và đúng quy định pháp luật.
37
Công tác xây dựng, nhân rộng điển hình tiên tiến: Cuộc vận động “Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đã tạo được sự lan tỏa và chuyển biến
sâu sắc trong nhận thức và hành động của các tầng lớp nhân dân, chất lượng
các danh hiệu gia đình văn hóa, cơ quan, đơn vị văn hóa được nâng cao. Cuộc
vận động đóng góp quỹ “Vì người nghèo” nhằm chăm lo cho hộ nghèo, hộ cận
nghèo và hộ khó khăn trên địa bàn huyện nhận được sự đóng góp của nhiều
mạnh thường quân điển hình (đóng góp từ 400 - 550 triệu đồng trong 5 năm)
như: ông Nguyễn Văn Tâm (xã Đào Hữu Cảnh), ông Trần Minh Hiển và ông
Phan Văn Dũng (xã Thạnh Mỹ Tây), ông Nguyễn Văn Danh (xã Vĩnh Thạnh
Trung), ông Hồ Việt Hùng (xã Bình Long), ông Nguyễn Văn Tùng (xã Bình
Phú),…. Phong trào “Nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi” đã thực sự
trở thành động lực quan trọng đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông
nghiệp, góp phần phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Qua 5 năm, công nhận
35.336 lượt nông dân đạt danh hiệu nông dân sản xuất - kinh doanh giỏi cấp
tỉnh, huyện, xã, nhiều hộ gia đình đã vươn lên thoát nghèo làm giàu chính đáng.
Công tác vận động “Hiến máu tình nguyện” được sự ủng hộ và chia sẻ của cán
bộ, đảng viên và cộng đồng xã hội. Trong 5 năm qua, toàn huyện đã vận động
hiến 10.687 đơn vị máu, xuất hiện nhiều cá nhân điển hình tham gia hiến máu
nhiều lần từ 25 - 30 lần được UBND tỉnh tặng bằng khen. Ngoài ra, mỗi địa
phương còn thành lập 01 đội hiến máu dự bị từ 10 - 15 thành viên. Nhiều tổ
chức thành viên của Mặt trận đã triển khai thực hiện tốt các phong trào thi đua
như: Hội Phụ nữ hưởng ứng và lồng ghép trong các cuộc vận động “Phụ nữ
tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”, “Xây dựng
gia đình 5 không, 3 sạch”, “Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp”; Liên đoàn lao động
đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, trọng tâm là phong trào “Lao động giỏi,
lao động sáng tạo”; Hội Cựu chiến binh phát huy bản chất truyền thống “Bộ
đội cụ Hồ”, Hội đã phát động phong trào thi đua “Cựu chiến binh gương mẫu”;
Huyện Đoàn với phong trào “Thanh niên lập nghiệp”, thành lập “Quỹ hỗ trợ
38
thanh niên” nhằm giúp đỡ phát triển các mô hình thanh niên làm kinh tế, thúc
đẩy phong trào khởi nghiệp trong thanh niên,... các phong trào đã tạo sự lan tỏa
sâu rộng, góp phần tích cực cùng cấp ủy, chính quyền địa phương có hiệu quả
công tác xây dựng Đảng, chính quyền, phát triển kinh tế và giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội ở cơ sở.
2.1.2. Công tác khen thưởng
Kết quả tuyên dương, khen thưởng (cấp huyện và các cấp có thẩm
quyền công nhận) cho các tập thể, cá nhân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ công
tác của huyện trong thời gian qua, cụ thể như sau: Ủy ban nhân dân huyện khen
thưởng cho 17.064 trường hợp (trong đó 5.389 chiến sĩ thi đua cơ sở; 1.925 tập
thể, 9.750 cá nhân lao động tiên tiến); đã được UBND tỉnh công nhận 49 chiến
sĩ thi đua cấp tỉnh; 96 tập thể lao động xuất sắc; 53 tập thể, 659 cá nhân được
tặng Bằng khen tỉnh; 34 tập thể được tặng Cờ thi đua tỉnh. Đã được tặng thưởng
01 Chiến sĩ thi đua toàn quốc, 11 Huân chương lao động hạng III; 32 Bằng khen
Chính phủ. Mặt khác, đối với các tập thể và cá nhân đạt thành tích xuất sắc
hàng năm trong thực hiện các phong trào thi đua chuyên đề, theo đợt do huyện
phát động, các ngành chuyên môn tổ chức cũng được trao giấy khen và thưởng
phù hợp.
2.2. Tổ chức thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng ở huyện
Châu Phú, tỉnh An Giang
2.2.1. Thực trạng xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách thi đua, khen
thưởng
Bảng 2.1: Công tác xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách TĐKT
Mức độ thực hiện
TT Nội dung
SL SL SL Tốt, khá Trung bình Yếu, kém Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%)
39
1 247 82.33 44 14.67 9 3.00
2 198 66.00 85 28.33 17 5.67
3 223 74.33 62 20.67 15 5.00
193 64.33 71 23.67 36 12.00
5 245 81.67 45 15.00 10 3.33
Lập kế hoạch tổ chức điều hành thực hiện chính sách Xác định kế hoạch cung cấp các nguồn lực thực hiện chính sách Xác định thời gian triển khai thực hiện chính sách 4 Lập kế hoạch kiểm tra thực hiện chính sách Xây dựng nội quy, quy chế điều hành tổ chức thực hiện chính sách Nguồn: Tác giả khảo sát tháng 12 năm 2020
Qua kết quả khảo sát đánh giá thực trạng xây dựng kế hoạch triển khai
thực hiện chính sách TĐKT trên cho thấy các đối tượng được khảo sát đánh giá
cao các nội dung xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách, trong đó
>64% đánh giá tốt, khá; đánh giá yếu, kém <15%. Riêng nội dung “Lập kế
hoạch tổ chức điều hành thực hiện chính sách” được đánh giá cao nhất với 247
phiếu, chiếm 82.33%. Vì vậy, có thể khẳng định huyện Châu Phú đã thực hiện
tốt việc xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách TĐKT trên địa bàn.
Thật vậy, huyện Châu Phú đã rất nghiêm túc trong hiện thực hóa chính
sách TĐKT nên việc xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách TĐKT
đã được tiến hành đầy đủ những nội dung cơ bản: đơn vị chủ trì trong Kế hoạch
tổ chức điều hành được xác định là phòng Nội vụ và phối hợp triển khai thực
hiện là toàn bộ các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể huyện và các xã, thi trấn. Đối
tượng thực hiện chính sách được xác định là toàn thể cán bộ công chức, viên
chức và người lao động huyện Châu Phú. Các nội dung khác phục vụ cho tổ
chức thực hiện chính sách đều được thể hiện trong Kế hoạch cung cấp các nguồn
lực, trong đó, xác định các yếu tố như: cơ sở kiến trúc, trang thiết bị kỹ thuật,
các nguồn lực tài chính, vật tư văn phòng phẩm… Vì vậy, để thực hiện chính
sách thi đua khen thưởng thì trưng dụng tất cả các trang thiết bị và trụ sở làm
việc của phòng Nội vụ huyện. Quỹ TĐKT của huyện là nguồn tài chính phục
40
vụ cho công tác thi đua, khen thưởng của huyện. Việc hình thành và vận hành
nguồn quỹ này được thực hiện theo quy định của Bộ Tài chính. Bên cạnh đó,
Hội đồng TĐKT huyện còn xây dựng những nội dung, quy chế tổ chức điều
hành thực hiện chính sách TĐKT và được phê duyệt của chủ tịch UBND huyện,
sau đó ban hành thực hiện trong toàn huyện. Trên cơ sở dự kiến về thời gian
duy trì chính sách, huyện đã xác định thời gian triển khai thực hiện cũng như
dự kiến các bước tổ chức triển khai thực hiện từ tuyên truyền chính sách đến
tổng kết rút kinh nghiệm. Đồng thời, huyện cũng ban hành kế hoạch kiểm tra
thực hiện chính sách bao gồm những nội dung về tiến độ, hình thức, phương
pháp kiểm tra, giám sát tổ chức thực hiện chính sách.
Quy chế TĐKT, quy định về công tác TĐKT của huyện năm 2015 gồm
6 chương, 24 điều quy định: nguyên tắc TĐKT; tổ chức thi đua, danh hiệu và
tiêu chuẩn xét, tặng danh hiệu thi đua; hình thức, tiêu chuẩn khen thưởng; thẩm
quyền quyết định, thủ tục, hồ sơ đề nghị xét, tặng danh hiệu TĐKT; Kinh phí
phục vụ TĐKT.
2.2.2. Thực trạng phổ biến, tuyên truyền thực hiện chính sách thi
đua, khen thưởng
Bảng 2.2: Công tác phổ biến, tuyên truyền, hướng dẫn thực hiện
các quy định về TĐKT
Mức độ thực hiện
TT Nội dung Tốt, khá Trung bình Yếu, kém
SL Tỷ lệ SL Tỷ lệ SL Tỷ lệ
(%) (%) (%) Công tác tuyên truyền, quán
1 triệt, phổ biến, phát động các 195 65.00 78 26.00 27 9.00
phong trào thi đua
41
2 Công tác tổng hợp 209 69.67 78 26.00 13 4.33
3 Ứng dụng công nghệ thông tin 220 73.33 65 21.67 15 5.00
trong thi đua, khen thưởng
Nguồn: Tác giả khảo sát tháng 12 năm 2020
Qua số liệu khảo sát cho thấy đối tượng khảo sát đánh giá công tác tuyên
truyền, phổ biến, phát động các phong trào thi đua của huyện là tốt, khá với 195
phiếu, chiếm tỉ lệ là 65.00%; đánh giá yếu là 27 phiếu, tỉ lệ là 9.00% và đánh
giá trung bình là 78 phiếu, tỉ lệ là 26%. Cũng như vậy, kết quả khảo sát thể hiện
việc hài lòng về công tác tổng hợp thành tích TĐKT để lập các báo cáo, mẫu
biểu thống kê, tiến hành sơ kết tổng kết vì mức độ đánh giá khá tốt với 209
phiếu, chiếm tỷ lệ 69.67%. Trong khi “Ứng dụng công nghệ thông tin trong
TĐKT” được đánh giá tốt, khá với số phiếu cao nhất trong 3 nội dung là 220
phiếu, chiếm tỉ lệ là 73.33%.
Kết quả trên thể hiện rằng: công tác tuyên truyền, phổ biến hướng dẫn
thực hiện chính sách về TĐKT luôn được huyện Châu Phú xem trọng và đề cao
vai trò. Bởi vậy, việc triển khai các văn bản liên quan đến TĐKT của các cấp,
của huyện đến cán bộ chủ chốt và các đối tượng có liên quan luôn được thực
hiện kịp thời và hiệu quả. Cụ thể, đã xây dựng kế hoạch phù hợp từng đối tượng
trong tổ chức tuyên truyền, phổ biến hướng dẫn đến cán bộ công chức, viên
chức và người lao động nên các kỹ năng của báo cáo viên cũng như giải pháp,
hình thức quán triệt phổ biến, tuyên truyền chính sách phù hợp với từng loại
đối tượng, bao gồm: để quán triệt các nội dung chính sách, huyện đã mở các
lớp tập huấn tập trung để bàn các giải pháp và phân công thực hiện, đây là hình
thức phù hợp với các đối tượng tham gia trực tiếp vào quá trình tổ chức thực
hiện và kiểm tra thực hiện chính sách; đối với cán bộ làm công tác tuyên truyền
thì tổ chức các lớp tuyên truyền chính sách riêng cho các đối tượng này. Ngoài
ra, huyện cũng đã xây dựng văn bản hướng dẫn, phổ biến cho các đơn vị trực
thuộc một cách cụ thể nghiên cứu xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách và
việc thực hiện chính sách. Song song đó, huyện thông qua các báo, tạp chí,
trang thông tin điện tử huyện đã đăng tải, tuyên truyền các nội dung này đến
42
toàn thể cán bộ công chức, viên chức và người lao động biết để thực hiện. Bên
cạnh đó, Hội đồng Thi đua, khen thưởng huyện cung đã phân công thành viên
triển khai, quán triệt các đơn vị trực thuộc những nội dung cơ bản của Luật
TĐKT và các văn bản hướng dẫn thi hành. Riêng việc tuyên truyền những nội
dung cơ bản của luật tới toàn thể cán bộ công chức, viên chức và người lao
động của các đơn vị trực thuộc thì do Hội đồng TĐKT của các đơn vị chịu trách
nhiệm thực hiện. Thông qua sự tham mưu của phòng Nội vụ cho cấp ủy đảng,
nhằm nâng cao nhận thức của toàn thể cán bộ công chức, viên chức và người
lao động về vị trí, vai trò, tác dụng của công tác TĐKT trong thời kỳ xây dựng,
bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế, Huyện ủy đã lãnh đạo, chỉ đạo Hội đồng
thi đua khen thưởng huyện ban hành các văn bản chỉ đạo thực hiện cho phù
hợp, hiệu quả. Hội nghị hoặc cuộc họp quán triệt, triển khai thường xuyên được
thực hiện lồng ghép với các hội nghị, cuộc họp của cơ quan, công đoàn. Thông
qua Hội nghị cán bộ, công chức của các cơ quan, đơn vị hàng năm, Luật TĐKT
và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng như các phong trào thi đua của cơ
quan, đơn vị đều được tổ chức quán triệt, phát động đến từng đoàn viên công
đoàn. Uỷ ban nhân dân huyện – Thường trực Hội đồng TĐKT huyện cũng đã
chỉ đạo xây dựng chuyên trang, chuyên mục để tuyên truyền, giới thiệu về Luật
TĐKT trên cổng thông tin điện tử huyện Châu Phú và tiến hành tin học hoá
trong TĐKT để quản lý thành tích của cá nhân, tập thể qua các năm (kể cả khen
thưởng đột xuất và khen thưởng chuyên đề), theo dõi quá trình khen thưởng
một cách hệ thống các thành tích đạt được của cá nhân và tập thể nhằm tăng
cường hiệu quả hoạt động của toàn bộ hệ thống trong việc thực hiện chính sách
TĐKT huyện Châu Phú. Nhờ vậy, tạo được sự thống nhất, chặt chẽ hơn trong
việc đưa các mẫu, thể thức văn bản quy định và nội dung cho từng mục xét
TĐKT đến từng cá nhân, đơn vị tập thể. Cũng thông qua việc sử dụng tin học
hoá trong TĐKT đã góp phần rất lớn trong công tác tuyên truyền cũng như đưa
ra những quyết định trong lĩnh vực TĐKT một cách nhanh chóng, chính xác,
kịp thời, tiết kiệm được nhiều thời gian và công sức của bộ phận làm công tác
này.
43
Nhìn chung, công tác tuyên truyền phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực
hiện chính sách thi đua khen thưởng đã được huyện Châu Phú thực hiện tốt.
Hội đồng thi đua khen thưởng huyện đã yêu cầu các đơn vị cụ thể hóa mục tiêu,
tiêu chuẩn chấm điểm trong công tác thi đua cũng như những quy định cụ thể
hóa về nguyên tắc, đối tượng, tiêu chuẩn, hình thức, thủ tục, hồ sơ quy trình xét
khen thưởng; cụ thể về nghiệp vụ như mẫu báo cáo, biểu thống kê, cách sơ,
tổng kết.và đã chỉ đạo áp dụng thống nhất trong toàn huyện.
2.2.3. Thực trạng phân công, phối hợp của các cơ quan trong việc
thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng ở huyện Châu Phú, tỉnh An
Giang
Hội đồng thi đua khen thưởng huyện đã phân công cụ thể trách nhiệm
cho các tổ chức, cá nhân có liên quan trong thực hiện chính sách TĐKT; xác
định tổ chức, cá nhân chủ trì, chịu trách nhiệm chính và các cá nhân, tổ chức
tham gia phối hợp trong quá trình thực hiện chính sách.
Bảng 2.3: Công tác phân công, phối hợp thực hiện chính sách TĐKT
Mức độ thực hiện
TT Nội dung Tốt, khá Trung bình Yếu, kém
SL Tỷ lệ SL SL (%) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%)
1 226 75.33 56 18 6.00 18.6 7
2 226 75.33 56 18 6.00 18.6 7 Xác định tổ chức, cá nhân chủ trì, chịu trách nhiệm chính Xác định tổ chức, cá nhân tham gia phối hợp thực hiện chính sách TĐKT
3 231 77.00 55 14 4.67 18.3 3 Phân công trách nhiệm cụ thể cho các cá nhân, tổ chức trong thực hiện chính sách TĐKT
44
Nguồn: Tác giả khảo sát tháng 12 năm 2020
Kết quả khảo sát thể hiện với 226 phiếu (trên 75%) đánh giá tốt, khá và
56 phiếu (trên 18%) đánh giá trung bình cho thấy cho thực trạng phân công,
phối hợp thực hiện chính sách TĐKT ở huyện Châu Phú được đánh giá khá
cao. Tuy nhiên, vãn chưa được đánh giá cao bằng việc xác định tổ chức, cá
nhân chủ trì, chịu trách nhiệm chính cũng như xác định tổ chức, cá nhân tham
gia phối hợp thực hiện chính sách, đây là nội dung được đánh giá cao nhất với
số phiếu 226 tốt, khá, tỷ lệ 75.33%. Thực tiễn cho thấy, để hạn chế tình trạng
chồng chéo nhiệm vụ và không rõ ràng trách nhiệm giữa các thành viên trong
Hội đồng, trên cơ sở đánh giá khả năng, trình độ năng lực chuyên môn và thế
mạnh của từng tổ chức, cá nhân, Hội đồng thi đua khen thưởng huyện thực hiện
đã phân công nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng theo hướng chủ trì và phối hợp phải cụ
thể, tách bạch, phù hợp. Sau thời gian thực hiện cho thấy việc tổ chức điều hành
và phối hợp diễn ra một cách, nhịp nhàng, chặt chẽ do việc phân công một cách
khoa học, hợp lý nên đã phát huy được những mặt mạnh, lợi thế của các thành
viên, đưa hiệu quả thực hiện chính sách TĐKT lên một bước tiến mới, giúp cho
quyền lợi và nghĩa vụ của toàn thể cán bộ công chức, viên chức và người lao
động trong toàn huyện được đảm bảo.
2.2.4. Thực trạng duy trì chính sách thi đua, khen thưởng ở huyện
Châu Phú, tỉnh An Giang
Xuất phát từ nhận thức đúng đắn về ý nghĩa và vai trò của chính sách
TĐKT trong việc tạo ra động lực thi đua tại các cơ quan, đơn vị nên từ năm 2015
đến năm 2020 huyện Châu Phú đã triển khai thực hiện một cách đầy đủ và hiệu
quả những quy định về chính sách trong công tác TĐKT. Cụ thể như sau:
Quan điểm của Huyện ủy, UBND huyện là tiếp tục thực hiện có hiệu
quả Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 21/5/2004 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới,
đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân
rộng điển hình tiên tiến. Vì vậy, trong thời gian qua, các cấp ủy Đảng, các đơn vị
thuộc huyện Châu Phú đã tổ chức quán triệt, triển khai thực hiện một cách nghiêm
túc và phát động các phong trào thi đua với nội dung, tiêu chí, hình thức từng bước
được đổi mới, bám sát nhiệm vụ chính trị của ngành, của địa phương. Nhất là, sau khi Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14 tháng 5 năm 2011 về tiếp
45
tục đẩy mạnh việc Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, sau đó
là Chỉ thị 05-CT/TW ngày 15 tháng 5 năm 2016 về đẩy mạnh học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thì các phong trào thi đua của huyện
cũng như của các đơn vị trực thuộc đã gắn với việc triển khai thực hiện 02 chỉ thị
nêu trên và đem lại hiệu quả ngày càng thiết thực. Kết quả Nhà nước các cấp, các
ngành đã phát hiện và khen thưởng nhiều tập thể, cá nhân đạt thành tích xuất sắc
trong các phong trào thi đua ấy.
Bên cạnh đó, huyện cũng đã quan tâm kiện toàn, củng cố Hội đồng Thi
đua - Khen thưởng, tổ chức bộ máy thi đua, khen thưởng của huyện và các đơn
vị trực thuộc nhằm từng bước nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động. Bằng nhiều
hình thức phong phú của công tác thông tin, tuyên truyền thì việc biểu dương
gương người tốt, việc tốt được triển khai thực hiện một cách tích cực cả chiều
rộng và chiều sâu. Trong những năm qua, việc nghiên cứu, xây dựng các văn
bản hướng dẫn thực hiện công tác TĐKT cũng đã có nhiều đổi mới và tiến bộ.
Chủ tịch Hội đồng TĐKT huyện đã chỉ đạo phòng Nội vụ tham mưu ban hành
đồng bộ hệ thống các quy chế, quy định hướng dẫn thực hiện công tác TĐKT
trên địa bàn huyện nhằm cụ thể hóa Luật TĐKT và các Nghị định hướng dẫn
thi hành. Cụ thể như: Quy chế Thi đua, khen thưởng, Quy định về Tiêu chí đánh
giá kết quả thi đua hàng năm đối với các đơn vị và cá nhân... Đây là cơ sở pháp
lý quan trọng cho các đơn vị trong toàn huyện tổ chức thực hiện phong trào thi
đua và thực hiện chính sách khen thưởng đạt được những kết quả lớn hơn, tích
cực hơn. Bên cạnh đó, cơ quan phòng Nội vụ huyện đã tích cực tham mưu cho
Chủ tịch Hội đồng ban hành nhiều văn bản phục vụ cho việc tổ chức triển khai
các văn bản của Đảng, của Nhà nước về công tác TĐKT. Những thành quả của
công tác TĐKT những năm qua thật sự đã trở thành mục tiêu, hướng phấn đấu
quan trọng trong việc thúc đẩy cán bộ, công chức, viên chức ra sức thi đua lao
động, học tập và sáng tạo.
2.2.5. Thực trạng điều chỉnh chính sách thi đua, khen thưởng ở
huyện Châu Phú, tỉnh An Giang
Bảng 2.4: Công tác điều chỉnh chính sách TĐKT
Mức độ thực hiện
46
TT Nội dung Tốt, khá Trung bình Yếu, kém
SL SL Tỷ lệ % SL Tỷ lệ %
86 Tỷ lệ % 28.67 189 63.00 25 8.33 1
Đề xuất các giải pháp, biện pháp, cơ chế thực hiện hiệu quả chính sách TĐKT
87 29.00 197 65.67 16 2
86 28.67 192 64.00 22 5.33 7.33 3
12.33 80 26.67 183 61.00 37 4
Điều chỉnh các biện pháp, cơ chế thực hiện mục tiêu Bổ sung, hoàn chỉnh mục tiêu chính sách theo yêu cầu thực tế Năng lực đề xuất các giải pháp, biện pháp, cơ chế điều chỉnh chính sách TĐKT của cán bộ chuyên trách
Nguồn: Tác giả khảo sát tháng 12 năm 2020
Việc điều chỉnh chính sách TĐKT ở huyện Châu Phú không được đánh
giá cao. Điều này được thể hiện qua kết quả khảo sát thì cả 4 nội dung khảo sát
đều nhận được rất nhiều phiếu tập trung đánh giá ở mức độ trung bình (trên 180
phiếu, tỷ lệ trên 60%) nhưng số phiếu cũng như tỷ lệ đánh giá mức độ yếu, kém
thì tương đối thấp (đều dưới 15%), trong khi số phiếu đánh giá tốt, khá xấp xỉ chỉ
khoảng 30%. Trong đó, về năng lực đề xuất các giải pháp, biện pháp, cơ chế điều
chỉnh chính sách TĐKT của cán bộ chuyên trách cũng được đánh giá chưa cao, có
80 phiếu đánh giá tốt, khá, chiếm tỷ lệ 26,67%. Kết quả này cho thấy việc hạn chế
trong khả năng của cán bộ công chức khi tham mưu, đề xuất điều chỉnh các giải
pháp, biện pháp, cơ chế thực hiện chính sách TĐKT. Tuy nhiên, việc điều chỉnh
chính sách chỉ được thực hiện khi môi trường thực tiễn thay đổi hoặc chính sách tồn
tại những bất cập, hạn chế không còn phù hợp thực tiễn, … dẫn đến phát sinh những
khó khăn trong quá trình thực hiện thì khi đó, nhu cầu điều chỉnh chính sách sẽ xuất
hiện nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý cho phù hợp tình hình của địa phương, đơn vị.
Vì vậy, nhìn chung, việc điều chỉnh các biện pháp, các cơ chế chính sách ở huyện
47
Châu Phú trong thời gian qua đã được tiến hành một cách cơ bản năng động và linh
hoạt.
2.2.6. Thực trạng theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thực hiện chính sách thi
đua, khen thưởng ở huyện Châu Phú, tỉnh An Giang
Bảng 2.5: Công tác theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thực hiện chính sách thi
đua, khen thưởng
Mức độ thực hiện
TT Nội dung Tốt, khá Trung bình Yếu, kém
SL Tỷ lệ (%) SL Tỷ lệ (%) SL Tỷ lệ (%)
1 28.33 85 146 48.67 69 23.00
2 84 148 49.33 68 22.67
Phát hiện sơ hở trong quản lý, tổ chức thực hiện chính sách TĐKT Các giải pháp chấn chỉnh thực hiện chính sách TĐKT Phòng ngừa và xử lý vi phạm chính sách TĐKT 3 28.00 27.67 151 50.33 66 22.00
83 Nguồn: Tác giả khảo sát tháng 12 năm 2020
Một chính sách nếu muốn quản lý thực hiện một cách có hiệu quả thì
cần xem trọng công tác theo dõi, kiểm tra, đôn đốc vì đây là một khâu quan
trọng, có ý nghĩa then chốt và quyết định. Chính sách TĐKT cũng vậy. Dù vậy,
khâu then chốt này ở huyện Châu Phú được đánh giá không cao ở cả 3 nội dung:
phát hiện sơ hở trong quản lý, tổ chức thực hiện chính sách; các giải pháp chấn
chỉnh thực hiện chính sách cũng như phòng ngừa và xử lý vi phạm. Cả 3 nội
dung đều có số phiếu đánh giá tốt, khá dưới 30%. Trong khi đó, số phiếu đánh
giá kết quả thực hiện nhiệm vụ này ở mức độ trung bình là cao nhất, chiếm tỷ
lệ xấp xỉ 50% và hơn 20% tổng số phiếu khảo sát đánh giá yếu, kém. Từ kết
quả khảo sát trên cho thấy mức độ chưa thường xuyên, thiếu quan tâm trong
theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách về TĐKT của các đơn vị,
địa phương. Công tác kiểm tra, đôn đốc chưa được quan tâm nhắc nhở, chỉ đạo
đúng mức. Vẫn còn ít nhiều những hạn chế trong thanh tra, kiểm tra định kỳ,
48
theo đợt hoặc đột xuất khi phát hiện có vấn đề về công tác TĐKT hoặc khi có
đơn thư khiếu nại, tố cáo đối với lĩnh vực này. Nhận thức của các cấp ủy đảng,
chính quyền chưa đồng đều. Một số địa phương, đơn vị chưa thấy được tầm quan
trọng của công tác thanh tra, kiểm tra, đôn đốc việc chấp hành các quy định của
chính sách nói chung và chính sách về TĐKT nói riêng. Dẫn đến quan tâm chưa
đúng mức, quản lý chưa chặt chẽ, còn xem nhẹ tầm quan trọng của công tác này
trong tổ chức thực hiện chính sách TĐKT, .... Cán bộ chuyên trách làm công tác
thi đua, khen thưởng vì cả lý do khách quan và chủ quan vẫn còn hạn chế nhiếu
mặt, cụ thể như: chưa hiểu rõ về mục tiêu, đối tượng, quy định, các công cụ, các
giải pháp thực hiện chính sách cũng như các nội dung thể hiện trong kế hoạch, các
quy chế, nội quy thực hiện chính sách; Kỹ năng thu thập, cập nhập đầy đủ các
nguồn thông tin, các cơ sở dữ liệu thông tin phản ánh về quá trình triển khai và kết
quả thực hiện chính sách từ các đơn vị; Khả năng phân tích xử lý thông tin, đối
chiếu so sánh; phát hiện việc không chặt chẽ trong quản lý, tổ chức thực hiện và
đề xuất các giải pháp chấn chỉnh việc thực hiện, điều chỉnh cơ chế, ….
2.2.7. Thực trạng tổ chức đánh giá, tổng kết thực hiện chính sách thi
đua, khen thưởng ở huyện Châu Phú, tỉnh An Giang
Bảng 2.6. Công tác tổng kết, đánh giá thực hiện chính sách TĐKT
Mức độ thực hiện
Nội dung Tốt, khá Trung bình Yếu, kém TT
SL Tỷ lệ SL Tỷ lệ SL Tỷ lệ
(%) (%) (%)
Tổ chức thực hiện công
1 tác đánh giá, tổng kết về 115 38.33 135 45.00 50 16.67
thực hiện chính sách
TĐKT
49
Mức độ quan tâm của
CBQL trong công tác
đánh giá, tổng kết về thực 117 39.00 189 63.00 14 4.67 2
hiện chính sách TĐKT Hiệu quả hoạt động của
cán bộ chuyên trách trong
3 công tác đánh giá, tổng 143 47.67 147 49.00 10 3.33
kết về thực hiện chính Công tác giải quyết khiếu sách TĐKT nại tố cáo xử lý vi phạm 4 210 70.00 78 26.00 16 5.33
chính sách về TĐKT
Nguồn: Tác giả khảo sát tháng 12 năm 2020
Thẳng thắn nhìn nhận rằng trong thời gian qua việc tổng kết, đánh giá
về thực hiện chính sách TĐKT ở huyện Châu Phú được thực hiện chưa tốt vì
cả 3 nội dung liên quan đến công tác đánh giá, tổng kết thực hiện chính sách
đều được đánh giá ở mức độ trung bình với số phiếu và tỷ lệ cao (từ 45% trở
lên). Thật vậy, công tác phối hợp giữa các đơn vị, địa phương trong tổng kết,
đánh giá chính sách thi đua, khen thưởng nhiều lúc, nhiều nơi chưa chặt chẽ,
nhịp nhàng. Giữa các xã, thị trấn và giữa các ngành với nhau chưa tổ chức được
các cuộc kiểm tra chéo nhằm đảm bảo tính khách quan, đánh giá đúng thực chất
của công tác thực hiện chính sách. Việc tổng kết, đánh giá về thực hiện chính
sách TĐKT chưa được đúc kết từ thực tiễn mà chủ yếu dựa vào báo cáo của các
ngành liên quan và của các đơn vị trực thuộc.
Từ bảng số liệu khảo sát cũng cho thấy thực tế sự quan tâm chưa đúng
mức của cán bộ quản lý đối với công tác tổng kết, đánh giá việc thực hiện chính
sách TĐKT. Chính vì thế, vẫn còn một vài Hội đồng TĐKT trực thuộc huyện
chưa đánh giá đúng đắn hiệu quả của việc thực hiện chính sách tại địa phương,
đơn vị dẫn đến tình trạng khen thưởng còn dàn trải, còn mang tính hình thức,
50
chưa gắn kết chặt chẽ giữa thi đua với khen thưởng nên chưa thật sự phát huy
được sức mạnh của TĐKT, đối tượng của chính sách chưa nhận thức được
TĐKT thật sự là đòn bẩy cho việc hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Việc bình xét và khen thưởng cá nhân là người lao động không giữ chức vụ còn
ít. Việc phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến chưa đáp ứng
được yêu cầu trong tình hình mới, nhất là theo tinh thần Chỉ thị 39-CT/TW của
Bộ Chính trị.
Kết quả khảo sát còn thể hiện được cán bộ chuyên trách chưa phát huy
hết vai trò, năng lực trong tổng kết, đánh giá việc thực hiện chính sách TĐKT.
Điều này có thể do nguyên nhân khách quan như số biên chế cán bộ chuyên
trách TĐKT còn ít, phần nhiều là kiêm nhiệm dẫn đến việc tổ chức và kiểm tra
các phong trào thi đua, công tác khen thưởng; sơ kết, tổng kết các phong trào
thi đua chưa được đầu tư, quan tâm đúng mức.
Tuy nhiên, việc giải quyết khiếu nại tố cáo xử lý vi phạm chính sách
TĐKT được đánh giá tương đối tốt. Trong những năm gần đây, hầu như không
tồn tại tình trạng khiếu nại, tố cáo các hành vi vi phạm chính sách về TĐKT
cũng như chưa có tình trạng khen thưởng sai đối tượng, sai tiêu chuẩn phải thu
hồi.
2.3. Đánh giá chung về việc tổ chức, thực hiện chính sách thi đua,
khen thưởng ở huyện Châu Phú, tỉnh An Giang
2.3.1. Những ưu điểm
Nhìn chung, giai đoạn từ năm 2015 - 2020, huyện Châu Phú đã tổ chức
thực hiện chính sách TĐKT đạt được nhiều kết quả đáng kể, cơ bản đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương. Các nội dung của chính sách TĐKT
đã được triển khai đầy đủ và nâng dần hiệu quả. Cụ thể là:
Thứ nhất, dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy, UBND huyện, các xã, thị trấn
cũng như các ngành trong huyện đã tích cực triển khai thực hiện một cách có
hiệu quả các chính sách thi đua khen thưởng bằng việc tổ chức phát động các
51
phong trào thi đua, khen thưởng theo hướng chủ động, thiết thực gắn với việc
học tập và làm theo tư tưởng đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Qua đó, các cơ quan có thẩm quyền từ Trung ương đến cơ sở đã tặng nhiều
Bằng Khen, giấy khen và các danh hiệu cao quý khác cho nhiều tổ chức và cá
nhân đạt được thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ và qua các phong
trào thi đua được phát động. Những cá nhân và tập thể sau khi được khen,
thưởng đều tiếp tục phấn đấu nhằm giữ vững và phát huy những thành tích đã
đạt được, tiến tới đạt được những thành tích cao hơn.
Thứ hai, các cấp ủy từ huyện đến cơ sở đã triển khai và quán triệt thực
hiện Chỉ thị 39-CT/TW ngày 21 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị nhằm nâng
cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân, nhất là người đứng đầu cơ quan, địa
phương đối với ý nghĩa và tầm quan trọng của TDDKT, nhằm đổi mới phương
thức lãnh đạo và chỉ đạo phong trào thi đua; xem việc phát hiện, bồi dưỡng và
nhân điển hình tiên tiến là một trong những động lực quan trọng để TĐKT đi
vào cuộc sống của cán bộ công chức, viên chức và người lao động. Nhờ đó,
công tác TĐKT ngày càng đi vào nề nếp và đạt được hiệu quả cao hơn.
Thứ ba, với nhiều hình thức đa dạng, thiết thực, phù hợp với tình hình
mới, huyện Châu Phú đã tuyên truyền, giáo dục về chính sách thi đua khen
thưởng một cách sâu rộng nhằm góp phần quan trọng trong thực hiện tốt chính
sách TĐKT. Nhờ vậy, trong từng giai đoạn, nhận thức của cán bộ lãnh đạo các
cấp, của công nhân viên chức và nhân dân về vị trí, vai trò, tác dụng của công
tác TĐKT ngày càng được nâng lên.
Thứ tư, quan tâm đúng mức, thường xuyên kiện toàn, củng cố tổ chức
bộ máy và cán bộ làm công tác TĐKT nên hiệu quả tham mưu về TĐKT cho
các cấp ủy Đảng, lãnh đạo chính quyền các cấp dần được nâng lên, tổ chức
nhiều phong trào thi đua thiết thực, có sức lan tỏa cao.
Thứ năm, đơn thư khiếu nại, tố cáo, liên quan đến chế độ, chính sách
khen thưởng luôn được quan tâm giải quyết kịp thời. Qua đó, giúp cho công tác
52
TĐKT ngày càng được thực hiện tốt, tránh phát sinh những sai sót, tiêu cực
trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách TĐKT trên địa bàn huyện.
2.3.2. Những mặt hạn chế
Thứ nhất, vẫn còn một vài Hội đồng TĐKT trực thuộc chưa chủ động
tham mưu với người đứng đầu địa phương, đơn vị trong triển khai thực hiện
chính sách TĐKT, cũng như chưa kịp thời tham mưu xử lý những khó khăn,
bất cập trong thực hiện chính sách TĐKT ở cơ quan, đơn vị mình.
Thứ hai, Luật TĐKT và các văn bản hướng dẫn thi hành luật cũng như
một số chủ trương, chính sách về TĐKT chưa được triển khai đầy đủ, đồng bộ,
kịp thời tới cán bộ công chức, viên chức và người lao động tại địa phương, đơn
vị. Điều này dẫn đến việc thực hiện còn lúng túng, hiệu quả mang lại chưa cao.
Thứ ba, một số địa phương, đơn vị chỉ đạo thực hiện các phong trào thi
đua chưa đồng đều, chưa cụ thể hóa các nội dung tiêu chí thi đua khi phát động,
việc thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng từng lúc, từng nơi còn mang tính
hình thức, chưa đi vào thực chất nên chưa thu hút được đông đảo người lao
động tham gia. Vì vậy, tác dụng, hiệu quả của phong trào phần nào còn hạn chế,
chưa được như mong muốn.
Thứ tư, chưa quan tâm đúng mức kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính
sách. Còn hạn chế, chậm trễ trong phát hiện, bồi dưỡng, biểu dương, khen
thưởng, nhân các điển hình tiên tiến nên công tác này đến nay vẫn chưa đạt yêu
cầu theo tinh thần Chỉ thị số 39/CT-TW ngày 21 tháng 5 năm 2004 của Bộ
Chính trị.
Thứ năm, chưa cụ thể hóa tiêu chuẩn khen thưởng cho từng đối tượng
điều chỉnh của chính sách TĐKT, dẫn đến nhiều khó khăn trong thực hiện của
các tổ chức, cá nhân và cũng khó khăn trong bình xét TĐKT. Việc khen thưởng
cho người lao động không giữ chức vụ còn ít. Tình trạng nể nang, ngại va chạm
trong bình xét TĐKT vẫn còn phổ biến. Quy trình, thủ tục trong thi đua, khen
thưởng chưa thực sự tinh gọn. Tính trang trọng trong tổ chức trao tặng các hình
53
thức khen thưởng hàng năm ở một số cơ quan đơn vị, thậm chí cấp huyện chưa
được đảm bảo, phần nhiều cử đại diện đến nhận về và phát lại cho đối tượng
được khen thưởng. Do đó, cũng không ít tập thể, cá nhân được khen thưởng
không có tinh thần tiếp tục phát huy và quyết tâm phấn đấu nhiều hơn nữa trong
thi TĐKT vì họ chưa thấy hết được vinh dự và trách nhiệm qua lần khen thưởng
đó.
Thứ sáu, một số Hội đồng TĐKT thuộc huyện còn chậm kiện toàn khi
có thay đổi về nhân sự là thành viên tham gia Hội đồng. Một vài Hội đồng
TĐKT chủ yếu khen thưởng theo đề nghị của cấp dưới, không có chính kiến.
Vì là các chức danh kiêm nhiệm trong Hội đồng nên sự đầu tư thời gian nghiên
cứu văn bản, khảo sát thực tiễn cho công tác TĐKT của một số thành viên còn
hạn chế dẫn đến thiếu am hiểu về chuyên môn, cũng như thiếu kinh nghiệm về
thực tiễn đã làm ảnh hưởng đến hiệu quả tổ chức chỉ đạo, thực hiện công tác
thi đua khen thưởng.
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế
Thứ nhất, mức độ quan tâm của một số cấp ủy Đảng đối với công tác
thi đua khen thưởng chưa đáp ứng yêu cầu nhất là đối với việc tuyên truyền và
tổ chức thực hiện chính sách TĐKT; tình trạng khoán cho hội đồng TĐKT và
cán bộ chuyên trách làm công tác TĐKT vẫn còn phổ biến; chưa dành sự quan
tâm đúng mức trong chỉ đạo công tác thi đua, nặng về khen thưởng; có một số
đơn vị chưa dành nhiều thời gian để lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện
chính sách TĐKT trong phạm vi cơ quan, đơn vị phụ trách.
Thứ hai, các quy định của chính sách TĐKT chưa được một số đơn vị,
địa phương quan tâm nghiên cứu và triển khai thực hiện nghiêm . Vì vậy, nhiều
trường hợp vận dụng khen thưởng chưa đúng theo quy định của luật TĐKT và
hướng dẫn của cấp trên nên phải điều chỉnh, hướng dẫn lại phải mất nhiều thời
gian và công sức cho các quy trình tiếp theo. Việc chỉ đạo triển khai các chủ
54
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về TĐKT của một số đơn
vị chưa kịp thời, có nơi còn hình thức, kém hiệu quả, chất lượng chưa cao.
Thứ ba, trình độ và năng lực của bộ máy làm công tác TĐKT và cán bộ
chuyên trách TĐKT ở một số nơi chưa đáp ứng tốt với yêu cầu đặt ra. Trong
quá trình hoạt động vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, sai sót và không ổn định; cán
bộ chuyên trách TĐKT từng cấp vẫn còn hạn chế về năng lực tham mưu, tổ
chức, đặc biệt là cấp cơ sở. Bởi vì, công tác bố trí và đào tạo, bồi dưỡng nghiệp
vụ cơ bản về TĐKT có lúc, có nơi còn chưa đồng bộ, kịp thời dẫn đến nhiều
khó khăn và thiếu sót trong quá trình thực hiện chính sách. Vẫn còn nhiều cán
bộ có tư tưởng nặng về khen thưởng mà không quan tâm đúng mức công tác
tham mưu, phát động các phong trào thi đua gắn với tình hình thực tế của địa
phương, đơn vị cũng như việc nhân điển hình tiên tiến.
Kết luận chương
Chương 2 tác giả giới thiệu khái quát về công tác TĐKT ở huyện Châu
Phú, tỉnh An Giang, trình bày tổ chức thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng
ở huyện Châu Phú, tỉnh An Giang. Trên cơ sở phân tích thực trạng các công tác
xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện, Phổ biến, tuyên truyền thực hiện, Phân
công, phối hợp thực hiện, Duy trì, điều chỉnh, theo dõi kiểm tra, đôn đốc việc
thực hiện và đánh giá tổng kết việc thực hiện chính sách TĐKT, tác giả phân
tích những ưu điểm, hạn chế, chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế trong thực
hiện chính sách TĐKT ở huyện Châu Phú, tỉnh An Giang. Cùng với chương 1,
chương 2 sẽ làm cơ sở đề xuất các giải pháp tăng cường thực hiện chính sách
TĐKT tại huyện Châu Phú, tỉnh An Giang được trình bày trong chương 3.
55
56
Chương 3
MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH THI ĐUA, KHEN THƯỞNG Ở HUYỆN CHÂU PHÚ,
TỈNH AN GIANG ĐẾN NĂM 2025
3.1. Mục tiêu, nhiệm vụ nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách thi
đua, khen thưởng ở huyện Châu Phú, tỉnh An Giang đến năm 2025
3.1.1. Mục tiêu
Đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động: “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh” theo tinh thần Chỉ thị 06-CT/TW, ngày 7/11/2006 của
Bộ Chính trị; Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 07/4/2014 của Bộ Chính trị về tiếp
tục đổi mới công tác TĐKT; Phong trào thi đua: “Cả nước chung sức xây dựng
nông thôn mới”, phát huy kết quả đạt được, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang
xác định các mục tiêu cần tập trung để nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách
thi đua, khen thưởng như sau:
Một là, tiếp tục quán triệt, làm chuyển biến nâng cao nhận thức, tư
tưởng của các cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận tổ quốc, các tổ chức đoàn
thể chính trị xã hội, cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai
trò, tác dụng của phong trào thi đua yêu nước, xem thi đua là động lực to lớn
thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, góp phần công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước; nêu cao trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu các cơ quan, đơn vị
trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác thi đua, khen thưởng và của
các thành viên Hội đồng Thi đua - Khen thưởng các cấp.
Hai là, gắn kết các phong trào thi đua yêu nước với việc học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14-5-
2011 của Bộ Chính trị. Coi trọng việc phát hiện, xây dựng điển hình và có nhiều
hình thức biểu dương, tôn vinh các điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo
tấm gương đạo đức, phong cách của Hồ Chí Minh, tạo sức lan toả sâu rộng
trong toàn huyện Châu Phú, lấy kết quả học tập và làm theo tấm gương đạo đức
57
Hồ Chí Minh là một trong những tiêu chuẩn đánh giá, bình xét thi đua, khen
thưởng hàng năm.
Ba là, tổ chức, phát động các phong trào thi đua theo hướng bám sát
nhiệm vụ chính trị để làm nội dung thi đua, tập trung vào mục tiêu phấn đấu
hoàn thành toàn diện, vượt mức các nhiệm vụ, chỉ tiêu trong chương trình, kế
hoạch đề ra. Mỗi phong trào thi đua phải xác định được mục tiêu, nội dung cụ
thể, thiết thực, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm tình hình của từng
cơ quan, đơn vị; cần tập trung về cơ sở và tổ chức, phát động thi đua với những
hình thức phong phú, hấp dẫn, có tiêu chí thi đua cụ thể. Thực hiện nghiêm túc
việc đôn đốc, kiểm tra, sơ kết, tổng kết phong trào; lựa chọn các tập thể, cá
nhân có thành tích tiêu biểu để khen thưởng kịp thời. Kết hợp phát động các
phong trào thi đua theo đợt, theo chuyên đề để hướng phong trào thi đua vào
việc giải quyết những khó khăn, vướng mắc, những tồn tại, yếu kém, những
nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách. Qua đó, đánh giá tính hiệu quả, thiết thực của
các phong trào thi đua yêu nước. Phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân rộng
các điển hình tiên tiến một cách thường xuyên. Điều này phải được coi là trọng
tâm trong đổi mới phương thức tổ chức chỉ đạo các phong trào thi đua hiện nay.
Công tác xây dựng điển hình tiên tiến phải thực hiện đồng bộ cả 4 khâu: Phát
hiện - bồi dưỡng - tổng kết - nhân điển hình tiên tiến.
Bốn là, tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác khen thưởng,
chống mọi biểu hiện hình thức, bệnh thành tích trong TĐKT. TĐKT thực sự
phải là động lực to lớn và là biện pháp quan trọng xây dựng con người mới.
Tăng cường khen thưởng đơn vị cơ sở và người lao động trực tiếp. Kịp thời
khen thưởng những tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong thực hiện cuộc
vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và trong đấu
tranh phòng, chống tham nhũng.
Năm là, tiếp tục kiện toàn tổ chức chuyên trách làm công tác TĐKT
theo hướng tinh gọn, 100% các xã, thị trấn bố trí một nửa số biên chế cán bộ
58
kiêm nhiệm làm công tác TĐKT, bảo đảm đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước
theo quy định của pháp luật TĐKT theo tinh thần Chỉ thị 39-CT/TW của Bộ
Chính trị Khoá IX và Kết luận số 83-KL/TW Ban Bí thư Khoá X và hiện nay
là Chỉ thị số 34-CT/TW.
3.1.2. Nhiệm vụ
Tập trung tuyên truyền các điển hình tiên tiến, phổ biến các bài học kinh
nghiệm được tổng kết từ thực tiễn. Tiếp tục quán triệt, nâng cao nhận thức về
vai trò, vị trí, tầm quan trọng của công tác TĐKT, đổi mới công tác TĐKT theo
nội dung, tinh thần Chỉ thị 34-CT/TW ngày 7/4/2014 của Bộ Chính trị về tiếp
tục đổi mới công tác TĐKT.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản hướng dẫn thực hiện pháp luật
TĐKT; đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn về TĐKT.
Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật
TĐKT. Tăng cường công tác tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước về TĐKT, đáp ứng và phục vụ kịp thời công tác lãnh
đạo, chỉ đạo cho lãnh đạo các cấp về TĐKT.
Phát huy vai trò của các cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận tổ quốc,
các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội, cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân
dân, huy động được sức mạnh của cả hệ thống chính trị tham gia các phong
trào thi đua yêu nước và công tác TĐKT trên phạm vi toàn huyện Châu Phú,
tỉnh An Giang.
Tiếp tục đổi mới công tác quản lý về TĐKT theo hướng tập trung thống
nhất từ huyện đến các đơn vị cơ sở, bảo đảm đáp ứng yêu cầu quản lý theo quy
định của pháp luật về TĐKT.
Tăng cường, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, nâng cao năng lực,
phẩm chất của đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ công tác
TĐKT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
59
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách thi đua, khen
thưởng ở huyện Châu Phú, tỉnh An Giang đến năm 2025
3.2.1. Giải pháp về mục tiêu chính sách
Thứ nhất, nâng cao hiệu quả hoạt động của các phong trào thi đua
Thi đua là một chủ trương chiến lược của Đảng, một nhiệm vụ quan
trọng, thường xuyên, liên tục của tất cả các cấp, các ngành, của mỗi cơ quan,
đơn vị; là một phương pháp tích cực để phát huy toàn diện khả năng sáng tạo
của người lao động. Trên cơ sở phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ thực hiện
chính sách thi đua, khen thưởng ở huyện Châu Phú đến năm 2025, Huyện Châu
Phú cần tập trung thực hiện tốt giải pháp về nâng cao hiệu quả hoạt động của
các phong trào thi đua, cụ thể là:
Trên cơ sở những kết quả đạt được cần tiếp tục quán triệt tinh thần và
phương châm “Chủ động, sáng tạo, chất lượng và hiệu quả”, huyện Châu Phú
nói chung, các địa phương, cơ quan, đơn vị trên địa bàn huyện nói riêng cần tổ
chức thực hiện các phong trào thi đua yêu nước sao cho thật thiết thực, tránh
hình thức; nội dung, tiêu chí thi đua phải cụ thể, thiết thực, rõ ràng, có tính định
lượng, dễ thực hiện, dễ kiểm tra, giám sát, không hình thức, tập trung, bám sát
chỉ đạo của cấp trên, nhiệm vụ chính trị của huyện và từng địa phương, đơn vị
để thực hiện và hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ; khi các mục tiêu kinh tế xã
hội có thay đổi phải điều chỉnh kịp thời để phụ hợp với yêu cầu, nhiệm vụ. Đối
tượng thi đua cần phải rộng rãi; bảo đảm hài hoà các lợi ích: Lợi ích của người
lao động; lợi ích của địa phương, cơ quan, đơn vị; lợi ích của xã hội. Triển khai
phong trào thi đua kịp thời, từ đầu năm, gắn các phong trào thi đua với việc tiếp
tục thực hiện có hiệu quả Chỉ thị 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị
về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh;
thực hiện tốt công tác phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí, cải tiến công tác quản lý, cải tiến lề lối làm việc đảm bảo minh bạch
và hiệu quả; thực hiện tốt kỷ cương, kỷ luật trong thực hiện nhiệm vụ.
60
Bên cạnh đó, tổ chức bồi dưỡng và nhân rộng các tập thể, cá nhân điển
hình tiên tiến trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đảm bảo thực hiện
đồng bộ cả 4 khâu: “Phát triển, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến”
với nhiều nội dung, hình thức tuyên truyền phong phú, đa dạng. Phối hợp với
ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện và các đoàn thể, các ngành, các địa
phương xây dựng kế hoạch, Chương trình phát động phong trào thi đua trên các
lĩnh vực. Đẩy mạnh và tiếp tục thực hiện tốt các phong trào thi đua do Thủ
tướng Chính phủ phát động gồm: Phong trào thi đua “cả nước chung sức xây
dựng nông thôn mới” theo Quyết định số 1620/QĐ-TTg ngày 20/9/2011 của
Thủ tướng Chính Phủ; Phong trào thi đua “Doanh nghiệp Việt Nam hội nhập
và phát triển”; Phong trào thi đua “Cán bộ, công chức, viên chức thi đua thực
hiện văn hóa công sở” theo Quyết định số 733/QĐ-TTg ngày 14/6/2019 của
Thủ tướng Chính Phủ. Tổ chức các đợt thi đua chuyên đề, từng đợt và đột xuất
để vừa tạo điểm nhấn của phong trào thi đua vừa tập trung giải quyết những
vấn đề bức xúc, cốt lõi đang đặt ra để đảm bảo phát triển kinh tế, ổn định quốc
phòng - an ninh và an sinh xã hội. Coi đây là một trong những nội dung thường
xuyên, quan trọng và là tiêu chí để chấm điểm, đánh giá thi đua, bình xét khen
thưởng.
Ngoài ra, thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực
hiện chính sách TĐKT; phối hợp với các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã
hội, tổ chức xã hội trong việc vận động cán bộ công chức, viên chức và người
lao động tham gia các phong trào thi đua yêu nước để thực hiện thành công các
mục tiêu kinh tế xã hội mà Nghị quyết đã đề ra.
Thứ hai, nâng cao chất lượng công tác khen thưởng
Khen thưởng để nhằm động viên, khích lệ người lao động, do đó phải
được thực hiện trên cơ sở kết quả phong trào thi đua, từ hiệu quả thi đua của
từng tổ chức, cá nhân; do đó việc xét khen thưởng phải cân nhắc kỹ càng, không
làm qua loa, chiếu lệ; phải kết hợp giữa khuyến khích, động viên tinh thần và
61
tặng thưởng vật chất theo đúng nguyên tắc, quy định tài chính của Nhà nước.
Cấp ủy các cấp và lãnh đạo các địa phương, cơ quan, đơn vị phải lấy kết quả
khen thưởng để làm căn cứ nhận xét, đánh giá cán bộ, đảng viên hàng năm,
cũng như phục vụ cho công tác xét lên lương trước thời hạn quy hoạch, đề bạt,
bổ nhiệm và bổ nhiệm lại cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp trong huyện.
Quan tâm phát hiện các điển hình, nhân tố mới, khen thưởng người trực
tiếp lao động, sản xuất; khen thưởng đột xuất, khen thưởng theo chuyên đề;
tăng cường phát hiện các điển hình tiên tiến để động viên, khen thưởng kịp thời.
Khen thưởng phải phù hợp với thành tích và kết quả đạt được.
3.2.2. Giải pháp về công cụ chính sách
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và vai trò người
đứng đầu trong thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng
Tăng cường sự lãnh đạo của Huyện ủy và cấp ủy các cấp; vai trò, trách
nhiệm của người đứng đầu các địa phương, cơ quan, đơn vị trên địa bàn huyện
trong việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác TĐKT. Hội đồng TĐKT các địa phương,
cơ quan, đơn vị phải chủ động, tích cực tham mưu, đề xuất với cấp ủy cùng cấp,
lãnh đạo đơn vị chỉ đạo, tổ chức triển khai công tác TĐKT một cách nghiêm
túc, đầy đủ, có hiệu quả. Thường xuyên tiến hành sơ kết, tổng kết, đánh giá hiệu
quả các phong trào thi đua để từ đó tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đạt hiệu
quả thiết thức, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội tại địa
phương; rà soát các phong trào, lồng ghép, gắn kết các phong trào thi đua hợp
lý, thiết thực, hiệu quả.
Thứ hai, tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức đối với
việc thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng
Thực hiện tốt việc tiếp tục phổ biến, quán triệt chính sách TĐKT và
nhiệm vụ thi đua giai đoạn 2021 -2025. Lãnh đạo huyện; các địa phương, cơ
quan, ban, ngành trên địa bàn huyện phải xem tuyên truyền, phổ biến là biện
pháp để nâng cao hiệu quả của công tác TĐKT. Công tác tuyên truyền phải
62
đúng phương pháp, đúng thời điểm và tác động đến đúng đối tượng để đạt kết
quả tốt nhất.
Các cấp, các ngành trong toàn huyện phải thực hiện tốt công tác xây
dựng kế hoạch tuyên truyền về chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, tư tưởng thi đua yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
các phong trào thi đua yêu nước và gương điển hình tiên tiến trong cán bộ công
chức, viên chức và nhân dân để tiếp tục tạo sự chuyển biến tích cực hơn về
nhận thức đối với chính sách TĐKT trong các cấp ủy, người đứng đầu các cơ
quan, đơn vị và cán bộ, công chức, viên chức, nhân dân để thực hiện có hiệu
quả các phong trào thi đua, ra sức thi đua học tập, rèn luyện đạo đức cách mạng,
vượt qua khó khăn, thử thách, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao,
qua đó tạo khí thế thi đua sôi nổi trong toàn huyện để thực hiện hoàn thành các
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần
thứ XII, nhiệm kỳ 2020 -2025 đề ra.
Tiếp tục đổi mới, đa dạng hóa các nội dung, hình thức tuyên truyền cho
phù hợp với từng đối tượng, từng ngành, lĩnh vực. Đẩy mạnh công tác tuyên
truyền các phong trào thi đua, phối hợp với cơ quan thông tin đại chúng phát
hiện, tuyên truyền, nhân rộng điển hình tiên tiến, nêu gương người tốt, việc tốt,
nhằm thúc đẩy, cổ vũ phong trào thi đua yêu nước, góp phần tạo động lực thi
đua hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị của huyện hàng năm và cả nhiệm
kỳ 2020 -2025.
Đầu tư các phương tiện vật chất, đào tạo cán bộ các cơ quan tuyên
truyền, truyền thông của huyện để thực hiện tốt nhiệm vụ tuyên truyền nói
chung và tuyên truyền về chủ trương, chính sách TĐKT nói riêng để công tác
phổ biến, tuyên truyền thực sự là nhiệm vụ quan trọng và trở thành việc làm
thường xuyên, liên tục của các ngành, các cấp, các địa phương, đơn vị trong
toàn huyện. Cần quan tâm thực hiện tốt việc sử dụng và kết hợp hài hòa các
hình thức tuyên truyền trong việc thực hiện chính sách TĐKT (qua các phương
63
tiện thông tin đại chúng, hội nghị báo cáo viên, tuyên truyền viên; hội nghị hoặc
tuyên truyền trên Đài truyền thanh gương điển hình người tốt, việc tốt trong các
phong trào thi đua...), lồng ghép tuyên truyền qua hoạt động của các cơ quan,
đơn vị, tổ chức ở cơ sở thông qua các hoạt động biểu dương, các tập thể, cá
nhân có nhiều thành tích trong các phong trào thi đua.
Thứ ba, tăng cường công tác phối hợp thực hiện chính sách TĐKT
Phòng Nội vụ huyện cần thực hiện tốt hơn nữa vai trò chủ trì, phối hợp
với các cơ quan trong khối tuyên truyền như Ban Tuyên giáo Huyện ủy, Phòng
Văn hóa & Thông tin, Đài truyền thanh huyện, Cổng thông tin điện tử huyện
đẩy mạnh công tác truyên truyền tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thi đua
yêu nước và chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về
TĐKT để nâng cao hơn nữa nhận thức của cán bộ, đảng viên, nhân dân về vai
trò, vị trí cũng như tầm quan trọng của công tác TĐKT trong tình hình mới để
cán bộ, đảng viên, nhân dân hiểu và thực hiện tốt.
Thứ tư, tăng cường công tác tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp
vụ thi đua, khen thưởng và kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác thi đua, khen
thưởng
Để công tác TĐKT đạt kết quả tốt, đúng chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước đồng thời phù hợp với thực tế của địa phương,
huyện Châu Phú cần chú trọng tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ làm
công tác tham mưu thực hiện chính sách TĐKT các cấp nhằm nâng cao năng
lực tham mưu, đề xuất cũng như năng lực thực tiễn. Xây dựng đội ngũ những
người làm công tác thi đua, khen thưởng có phẩm chất, đạo đức, bản lĩnh chính
trị vững vàng, nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước về thi đua, khen thưởng, có bề dày kiến thức và kinh nghiệm, gắn
bó với quần chúng và phong trào thi đua. Đặc biệt là cần hết sức công tâm,
khách quan, trong sáng. Đây là yếu tố quan trọng quyết định chất lượng công
64
tác tham mưu và kết quả triển khai tổ chức thực hiện có hiệu quả phong trào thi
đua và công tác khen thưởng.
Thứ năm, đẩy mạnh các hoạt động của khối, cụm thi đua
Tiếp tục đổi mới phương thức sinh hoạt của khối, cụm thi đua, nâng cao
vai trò, trách nhiệm và xây dựng tiêu chí hoạt động của các khối, cụm thi đua
làm cho khối, cụm thi đua trở thành nơi trao đổi, học tập kinh nghiệm, cùng
nhau phấn đấu, tôn vinh tập thể xuất sắc. Các khối, cụm thi đua, các địa phương,
đơn vị cần tổ chức tổng kết kịp thời công tác TĐKT tại địa phương, đơn vị và
tổ chức ký kết giao ước thi đua, đăng ký thi đua, phát động phong trào thi đua
với tinh thần năng suất, chất lượng và hiệu quả cao, hướng vào thực hiện các
chỉ tiêu, mục tiêu kinh tế xã hội và nhiệm vụ chính trị của từng địa phương, cơ
quan, đơn vị. Phấn đấu tập thể, cá nhân nào cũng tham gia thi đua để ngày càng
xuất hiện nhiều mô hình sản xuất kinh doanh giỏi và nhiều tập thể, cá nhân điển
hình tiên tiến. Mục tiêu thi đua là “Tập thể hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu,
kế hoạch, dẫn đầu phong trào thi đua yêu nước, cá nhân hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ”.
Thứ sáu, nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng thi đua, khen
thưởng
Tiếp tục củng cố kiện toàn Hội đồng TĐKT cấp huyện và cơ sở theo
hướng tinh, gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và bảo đảm năng lực tham mưu,
tư vấn, tổ chức phát động và chỉ đạo các phong trào thi đua, làm tốt công tác
khen thưởng. Phát huy vai trò, trách nhiệm của từng thành viên Hội đồng TĐKT
trong việc tham mưu cho cấp ủy, chính quyền tổ chức và triển khai thực hiện
các phong trào thi đua và thực hiện chính sách khen thưởng theo đúng quy định
của pháp luật. Thường xuyên kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện chính
sách TĐKT và các phong trào thi đua khen thưởng cũng như hoạt động của Hội
đồng TĐKT các cấp trong huyện.
3.3. Một số kiến nghị về thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng
3.3.1. Đối với Trung ương
65
Tiếp tục xây dựng Luật TĐKT (bổ sung, sửa đổi) đảm bảo chất lượng,
khắc phục được những hạn chế thời gian qua để trình Quốc hội thông qua và
trở thành văn bản tối ưu nhất giúp cấp ủy, lãnh đạo quản lý các cấp, người làm
công tác TĐKT có thể tổ chức thực hiện một cách thuận lợi và hiệu quả nhất.
3.3.2. Đối với huyện Châu Phú.
Một là, tiếp tục củng cố, kiện toàn Hội đồng TĐKT các cấp. Phát huy
vai trò, trách nhiệm của các thành viên hội đồng trong việc tham mưu cho cấp
ủy, chính quyền tổ chức triển khai các phong trào thi đua và thực hiện chính
sách khen thưởng. Phân công, phân nhiệm các thành viên đôn đốc, kiểm tra,
giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật về TĐKT.
Hai là, tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động của Hội đồng TĐKT
các cấp và công tác thanh tra, kiểm tra về công tác TĐKT.
Ba là, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm
công tác TĐKT. Tổ chức các lớp bồi dưỡng cán bộ chuyên trách, kiêm nhiệm
TĐKT; tổ chức tập huấn, triển khai Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
TĐKT và các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật.
Bốn là, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức thông qua việc
thường xuyên giáo dục chính trị tư tưởng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, nâng
cao tinh thần trách nhiệm trong thực hiện công tác thi đua, khen thưởng. Đối
với đội ngũ cán bộ làm công tác TĐKT các cấp nên theo hướng ổn định, tránh
việc thay đổi liên tục trong thời gian ngắn; cần nghiên cứu các cơ chế đặc thù
để phát huy hơn nữa vai trò và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ làm công tác
TĐKT cũng như cơ chế khen thưởng đặc thù nhằm động viên, khuyến khích
kịp thời các tập thể và cá nhân lập nhiều thành tích xuất sắc, đột xuất.
Tiểu kết chương
Chương 3, tác giả trình bày Mục tiêu và nhiệm vụ đổi mới công tác
TĐKT huyện Châu phú, tỉnh An Giang trong những năm tới. Căn cứ vào mục
66
tiêu, nhiệm vụ, chương 3 đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường
thực hiện chính sách TĐKT ở huyện Châu Phú, tỉnh An Giang bao gồm các
giải pháp: Nâng cao nhận thức đối với việc thực hiện chính sách TĐKT, Hoàn
thiện hệ thống các văn bản pháp luật về thực hiện chính sách TĐKT; Nâng cao
hiệu quả tổ chức các phong trào thi đua; Nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội
đồng TĐKT các cấp và Kiện toàn, nâng cao đội ngũ cán bộ làm công tác TĐKT
các cấp.
67
KẾT LUẬN
Thi đua, khen thưởng là lĩnh vực hoạt động có liên quan đến các mặt
đời sống xã hội, các tầng lớp nhân dân, các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Thi đua, khen thưởng còn là động lực thúc đẩy sự phát triển của kinh tế xã hội,
thông qua TĐKT phát huy một cách mạnh mẽ nội lực của mỗi người, mỗi cơ
quan, đơn vị, ngành trong cả nước. Công tác TĐKT được các cấp ủy Đảng quan
tâm, Nhà nước tăng cường quản lý, các tổ chức trong hệ thống chính trị tích
cực tham gia và phối hợp chặt chẽ; có nội dung thiết thực, hình thức phong phú
đa dạng thì sẽ huy động được nhiều người lao động tham gia như vậy sẽ phát
huy được nội lực của đội ngũ người lao động trong tổ chức.
Với các mục tiêu nghiên cứu được đề ra, luận văn “Thực hiện chính
sách thi đua, khen thưởng ở huyện Châu Phú, tỉnh An Giang” đã giải quyết
được một số lý luận và thực tiễn về thực hiện chính sách TĐKT ở huyện Châu
phú, tỉnh An Giang như sau:
Một là, xem xét một số lý luận cơ bản về chính sách TĐKT, cách tiếp cận,
yêu cầu đối với tổ chức thực hiện chính sách TĐKT và các nội dung cơ bản.
Hai là, phân tích thực trạng thực hiện chính sách TĐKT ở huyện Châu
Phú, tỉnh An Giang giai đoạn 2015-2020 nhằm đánh giá, xác định những kết
quả đạt được, ưu điểm và hạn chế trong thực hiện chính sách TĐKT ở huyện
Châu phú, tỉnh An Giang.
Ba là, đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường thực hiện chính
sách TĐKT tại huyện Châu Phú, tỉnh An Giang những năm tới.
Với những kết quả trên, tác giả mong muốn đóng góp cho công tác TĐKT
nói chung và cho sự phát triển của huyện Châu Phú, tỉnh An Giang nói riêng.
Luận văn được nghiên cứu và trình bày trong giới hạn về kiến thức nên
không tránh khỏi những khiếm khuyết. Tác giả mong muốn nhận được những
ý kiến đóng góp của Hội đồng, thầy cô, bạn bè và đồng nghiệp.
68