ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
-------------------------------------
BÙI THANH TUẤN CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ TỈNH ĐIỆN BIÊN LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ Hà Nội - 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ------------------------------------
BÙI THANH TUẤN CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ TỈNH ĐIỆN BIÊN Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 603101 LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM THỊ HỒNG ĐIỆP Hà Nội - 2011
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG i
DANH MỤC HÌNH VẼ ii
Mở đầu 1
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ
VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ 6
1.1. Cơ cấu ngành kinh tế 6
1.1.1. khái niệm 6
1.1.2. Phân loại cơ cấu kinh tế 6
1.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và những nhân tố ảnh
hưởng đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 8
1.2.1. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 9
1.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế 15
1.3. Một số mô hình lý thuyết vế chuyển dịch cơ cấu kinh tế 23
1.3.1. Phương thức thực hiện chuyển dịch cơ cấu ngành - Mô hình
Rostow 23
1.3.2. Mô hình hai khu vực của Arthus Lewis 25
1.3.3. Mô hình hai khu vực của trường phái Tân cổ điển 26
1.3.4. Mô hình hai khu vực của Harry T. Oshima 26
1.4. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Lai Châu và bài học kinh
nghiệm cho tỉnh Điện Biên 29
1.4.1. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Lai Châu 29
1.4.2. Bài học kinh nghiệm cho tỉnh Điên Biên 34
Chương 2. THỰC TRẠNG CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ TỈNH
ĐIỆN BIÊN TỪ NĂM 2003 ĐẾN NĂM 2010 36
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế- xã hội ảnh hưởng tới cơ cấu kinh
tế ở tỉnh Điện Biên 36
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Điện Biên 36
2.1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế của tỉnh Điện Biên 39
2.2. Tổng quan quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh
Điện Biên 43
2.2.1. Tóm lược quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế giai
đoạn 1986-2003 43
2.2.2. Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế giai đoạn
2003-2010 45
2.2.3. Cơ cấu lao động phân theo ngành kinh tế 60
2.2.4. Cơ cấu hàng xuất khẩu 65
2.2.5. Đánh giá sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở tỉnh Điện Biên 66
2.3. Nguyên nhân chủ yếu của những thành tựu và hạn chế trong
quá trình chuyên dịch cơ cấu ngành kinh tế giai đoạn 2003- 2010
2.3.1. Nguyên nhân của những thành tựu chuyển dịch cơ cấu 71
ngành kinh tế
2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình chuyển 71
dịch cơ cấu ngành kinh tế
Chương 3. NHỮNG QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU 72
THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH
KINH TẾ Ở TỈNH ĐIỆN BIÊN ĐẾN NĂM 2015 77
3.1. Bối cảnh tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở
tỉnh Điện Biên 77
3.1.1. Bối cảnh quốc tế và trong nước 77
3.1.2. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam
trong thời gian tới 83
3.2. Quan điểm và mục tiêu về chuyển dich cơ cấu ngành kinh tế
đến 2015 ở tỉnh Điện Biên 84
3.2.1. Quan điểm về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 84
3.2.2. Mục tiêu phát triển 89
3.3. Một số giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở
tỉnh Điện Biên 90
3.3.1. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội 90
3.3.2. Tăng cường huy động và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư 91
3.3.3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 95
3.3.4. Phát triển hạ tầng kinh tế kỹ thuật 96
3.3.5. Giải pháp phát triển ngành 97
KẾT LUẬN CHUNG 102
DANH MỤC BẢNG
Tên bảng Bảng 1.1: Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế tỉnh Lai Châu 2004-2010 Bảng 1.2: Lao động đang làm việc phân theo ngành kinh tế
tỉnh Lai Châu 2004 - 2008
Bảng 1.3: Giá trị hàng xuất khẩu tỉnh Lai Châu 2004 - 2008 Bảng 2.1: Cơ cấu GDP phân theo ngành kinh tế tỉnh Điện
Biên 2004-2010
Bảng 2.2: Tỷ trọng vốn đầu tư theo ngành kinh tế tỉnh Điện
Biên 2005 - 2009
Bảng 2.3: Cơ cấu giá trị sản xuất trong nội bộ ngành nông,
lâm, thủy sản tỉnh Điên Biên
Bảng 2.4: Cơ cấu giá trị sản xuất ngành trồng trọt, chăn nuôi
và dịch vụ tỉnh Điện Biên 2003 - 2009
Bảng 2.5: Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp tỉnh Điện Biên
2004- 2009
Bảng 2.6: Hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Điện Biên
2005 - 2009
Bảng 2.7: Lao động và cơ cấu lao động phân theo ngành kinh tế Bảng 2.8: Cơ cấu lao động và cơ cấu GDP tỉnh Điện Biên
phân theo ngành kinh tế
Bảng 2.9: Lao động và cơ cấu lao động theo phân ngành
trong nội bộ ngành công nghiệp
Bảng 2.10: Giá trị hàng hóa xuất khẩu trên địa bàn tỉnh Điện
Biên 2005 - 2009
Bảng 2.11: Tỷ trọng vốn đầu tư và GDP của ngành nông,
lâm, thủy sản tỉnh Điện Biên 2005 - 2009 Trang 31 32 33 46 47 48 49 54 59 60 62 64 66 69
i
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 1.1. Cơ cấu GDP phân theo ngành kinh tế tỉnh
Lai Châu 2004-2010 31
Hình 2.1. Cơ cấu GDP phân theo ngành kinh tế tỉnh
Điện Biên 1985-2003 44
Hình 2.2. Cơ cấu GDP phân theo ngành kinh tế tỉnh
Điện Biên 2004-2010 46
ii
PHẦN MỞ ĐẦU
1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Cơ cấu kinh tế hay cấu trúc của nền kinh tế là yếu tố ảnh hưởng quyết
định đến sự tăng trưởng nhanh và bền vững của một nền kinh tế. Cơ cấu kinh
tế luôn vận động hay chuyển dịch và chịu tác động của các yếu tố kinh tế - xã
hội. Xu hướng vận động cơ cấu kinh tế mà nước ta hướng tới là một cơ cấu
kinh tế của một nước công nghiệp, tức có tỷ trọng ngành công nghiệp trong
cơ cấu ngành kinh tế là chiếm ưu thế. Một cơ cấu kinh tế hợp lí phù hợp với
giai đoạn, điều kiện kinh tế, xã hội cụ thể sẽ phát huy hiệu quả tối đa các
nguồn lực hiện có thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Xét trên
bình diện tổng thể đó thì chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đã được nghiên
cứu tương đối toàn diện, đầy đủ. Tuy nhiên, khi mà ranh giới hay sự tách biệt
giữa các thị trường địa phương, thị trường dân tộc vẫn còn lớn thì mỗi vùng
đều có cơ cấu kinh tế riêng. Hơn nữa, mỗi cấu trúc riêng đó lại phụ thuộc vào
các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của các vùng đó. Xét ở phương diện đó,
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế vẫn còn nhiều vấn đề cần được nghiên cứu
cụ thể hơn.
Điện Biên là một tỉnh miền núi thuộc khu vực Tây Bắc điều kiện kinh
tế, xã hội còn rất nhiều khó khăn. Điện Biên không có nhiều điều kiện thuận
lợi để phát triển kinh tế như một số tỉnh khác trong cả nước. Nhưng Điện Biên
cũng có những điều kiện riêng nếu phát huy hiệu quả có thể thoát khỏi tình
trạng khó khăn trở thành một tỉnh có kinh tế phát triển.
Vậy tại sao tỉnh Điện Biên cần chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế? Mô
hình cơ cấu ngành kinh tế như thể nào để phát huy được các điều kiện, tiềm
năng của Điện Biên? Những yếu tố gì tác động đến chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế của tỉnh Điện Biên? Cơ cấu ngành kinh tế của Điện Biên có điểm khác
biệt gì so với mục tiêu cơ cấu ngành kinh tế tổng thể của đất nước là ngành
1
công nghiệp chiếm ưu thế hơn hẳn các ngành khác không? Và Điện Biên cần
đưa ra những quan điểm, biện pháp gì để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế tới sự hợp lí đó?
Trên cơ sở những lí do đã phân tích ở trên, tác giả lựa chọn vấn đề
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Điện Biên làm đề tài luận văn thạc sỹ
chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế nói riêng đã có nhiều tác giả và nhiều công trình nghiên cứu như:
- Đỗ Hoài Nam “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và phát triển những
ngành trọng điểm, mũi nhọn ở Việt Nam” Nxb Khoa học-xã hội Hà Nội 1996.
Tác giả đã trình bày những vấn đề lí luận chung về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
và cơ cấu ngành kinh tế trên cơ sở đó soi xét nền kinh tế Việt Nam. Nghiên
cứu mối quan hệ giữa cơ cấu ngành kinh tế với có cấu vùng kinh tế gắn
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành với phát triển các vùng kinh tế trọng điểm
của Việt Nam.
- Bùi Tất Thắng “Những nhân tố ảnh hưởng đến sự chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hóa ở Việt Nam” Nxb Khoa học-xã
hội Hà Nội 1997. Tác giả tập trung nghiên cứu các nhân tố tác động đến
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa
nền kinh tế quốc dân. Đặc biệt nhấn mạnh đến nhân tố khoa học công nghệ.
- Lê Du Phong-Nguyễn Thành Độ “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong
điều kiện hội nhập khu vực và thế giới” Nxb Chính trị quốc gia 1999. Tác giả
nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiện hội nhập kinh tế thế
giới.
- Bùi Tất Thắng “Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam” Nxb
Khoa học xã hội Hà Nội 2006. Tác giả tập trung phân tích những vấn đề lí
2
luận và thực tiện về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam trong bối
cảnh mới về kinh tế quốc tế và trong nước, từ đó đưa ra những giải pháp cơ
bản nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại.
Tóm lại, các tác giả đã tập trung nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế trong điều kiện kinh tế xã hội mới; phân tích những nhân tố tác động
đến quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế; phân tích sư tương tác giữa cơ
cấu ngành kinh tế và phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn ở Việt Nam. Mỗi
tác giả nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở một góc độ khác nhau
và đây là nguồn tư liệu quan trọng làm tài liệu tham khảo cho luận văn. Tuy
nhiên, chưa có công trình nghiên cứu nào đặt vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế trong điều kiện cụ thể của tỉnh Điện Biên- một tỉnh đặc thù miên núi
vừa tách tỉnh còn nhiếu khó khăn. Vì vậy, tác giả chọn vấn đề chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế ở Điện Biên làm đề tài nghiên cứu của mình.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Điện
Biên giai đoạn 2003-2010 từ đó đề xuất phương hướng, giải pháp thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế sao cho khai thác hiệu quả tối đa các nguồn
lực kinh tế tạo mức tăng trưởng cao và bền vững.
- Để đạt được mục đích nghiên cứu đề ra, luận văn thực hiện các nhiệm
vụ cụ thể sau:
+ Hệ thống hóa một số vấn đề lí luận về cơ cấu ngành kinh tế và
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
+ Phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Điện
Biên giai đoạn 2003-2010, đánh giá thành tựu và hạn chế về chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế; chỉ ra nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế đó để
sự điều chỉnh thích hợp.
3
+ Đề xuất phương hướng, giải pháp từng bước xây dựng cơ cấu ngành
kinh tế phù hợp với tỉnh Điện Biên trong thời gian tới tạo cơ sơ cho tăng
trưởng bền vững đưa tỉnh ra khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn.
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế.
- Phạm vi nghiên cứu
+ Về không gian: đề tài nghiên cứu các nội dung cơ bản của chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Điện Biên
+ Về thời gian: trong giai đoạn 2003-2010 hướng tới năm 2015
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, đề tài sử dụng kết hợp các phương pháp sau:
- Phương pháp trừu tượng hóa khoa học là phương pháp loại bỏ khỏi quá
trình và hiện tượng được nghiên cứu những cái đơn nhất, ngẫu nhiên và tạm thời,
hoặc tạm gác lại những nhân tố nào đó để tách ra những quá trình và hiện tượng
vững chắc, ổn định, điển hình trong các quá trình và hiện tượng đó, nhờ vậy mà
nắm được bản chất của quá trình và hiện tượng đó. Ví dụ khi nghiên cứu các nhân
tố ảnh hưởng tới quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tác giả chỉ đề cập tới
những nhân tố cơ bản nhất (không phân tích tác động của tất cả các nhân tố) loại bỏ
những nhân tố ít tác động, những nhân tố mang tính chất tạm thời.
- Phương pháp lôgic kết hợp với phương pháp lịch sử là phương pháp
căn cứ vào tiến trình lịch sử kết hợp với tư duy và suy luận lôgic để vạch ra
những quy luật tác động chi phối. Ví dụ khi đánh giá xu hướng chuyển dịch
cơ cấu GDP qua các năm tác giả căn cứ vào số liệu thống kê qua các năm, các
sự kiện tác động tới xu hướng đó để phân tích để đưa ra kết luận về xu hướng
chuyển dịch đó là do cái gì chi phối chủ yếu.
4
- Phương pháp phân tích: trên cơ sở những số liệu thống kê, tài liệu về
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tác giả phân tích, đánh giá xu hướng chuyển dịch
cơ cấu ngành kinh tế qua các năm và trả lời tại sao nó lại chuyển dịch như thế.
- Phương pháp so sánh được sử dụng để so sánh tốc độ tăng tỷ trọng
trong GDP của các ngành kinh tế qua các năm…
- Ngoài ra luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác
như phương pháp tổng hợp…
6. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Phân tích, tổng hợp, đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế ở tỉnh Điện Biên trong giai đoạn 2003- 2010, chỉ ra những mặt được
và mặt hạn chế và nguyên nhân của những thành tưu và hạn chế đó.
- Trên cơ sở những đánh giá trên và bối cảnh về kinh tế đề xuất quan
điểm và những giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế một cách
hợp lí phát huy tối đa tiềm năng của tỉnh thúc đẩy tăng trưởng kinh tế một
cách bền vững.
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn gồm ba chương:
- Chương 1: Cơ sở lí luận về cơ cấu ngành kinh tế và chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế
- Chương 2: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Điện
Biên từ năm 2003 đến 2010
- Chương 3: Những quan điểm và giải pháp chủ yếu thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Điện Biên đến năm 2015
5
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ VÀ CHUYỂN
DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ
1.1. Cơ cấu ngành kinh tế
1.1.1. Khái niệm
- Cơ cấu là một khái niệm mà triết học duy vật biện chứng dùng để chỉ
cách thức tổ chức bên trong của một hệ thống, biểu hiện sự thống nhất của các
mối quan hệ qua lại vững chắc giữa các bộ phận của nó. Trong khi chỉ rõ mối
quan hệ biện chứng giữa bộ phận và toàn thể, nó biểu hiện ra như một thuộc
tính của sự vật, hiện tượng, và biến đổi cùng với sự biến đổi của sự vật, hiện
tượng. Như vậy, có thể thấy có rất nhiều trình độ, nhiều kiểu tổ chức cơ cấu
của các khách thể và các hệ thống.
Cũng như vậy, đối với nền kinh tế quốc dân, khi xem nó là một hệ
thống phức tạp thì có thể thấy rất nhiều các bộ phận và các kiểu cơ cấu hợp
thành chúng, tùy theo cách mà chúng ta tiếp cận khi nghiên cứu hệ thống ấy.
Đặc biệt, sự vân động và phát triển của nền kinh tế theo thời gian bao hàm
trong đó sự thay đổi bản thân các bộ phận cũng như sự thay đổi của các kiểu
cơ cấu. Vì vậy, có thể thấy rằng, " cơ cấu của một nền kinh tế quốc dân là
tổng thể về mối quan hệ về chất lượng và số lượng giữa các bộ phận cấu
thành đó trong một thời gian và trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất
định".[ 29]
1.1.2. Phân loại cơ cấu kinh tế
Mỗi loại cơ cấu phản ánh những nét đặc trưng của các bộ phận cấu thành
cơ cấu đó và các cách mà chúng tác động qua lại với nhau trong quá trình phát
triển của nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu kinh tế của một nước được xác định
theo nhiều tiêu thức, trong đó có ba tiêu thức chủ yếu: cơ cấu kinh tế ngành
(công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ) cơ cấu kinh tế vùng và cơ cấu thành
6
phần kinh tế. Trong các cơ cấu kinh tế nêu trên, cơ cấu ngành kinh tế là cơ cấu
có tầm quan trọng đặc biệt, thường được xem là cốt lõi của nền kinh tế.
- Cơ cấu ngành kinh tế
Là tương quan giữa các ngành trong tổng thể kinh tế, thể hiện mối quan
hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về số lượng và chất lượng giữa các ngành
với nhau. Các mối quan hệ này được hình thành trong những điều kiện kinh tế
- xã hội nhất định, luôn luôn vận động và hướng vào những mục tiêu cụ thể.
Sự phát triển của nền sản xuất xã hội từ kinh tế tự nhiên tới kinh tế
hàng hóa cũng có nghĩa là xuất hiện của những ngành sản xuất độc lập nhau,
dựa trên những đối tượng sản xuất khác nhau. Sản xuất càng phát triển thì tập
hợp ngành kinh tế quốc dân càng trở lên phức tạp và đa dạng. Ở đây, cơ cấu
ngành kinh tế biểu hiện ra dưới các hình thức ngành lớn (ngành cấp I): nông
nghiệp, công nghiệp, dịch vụ; các phân ngành (ngành cấp II): chăn nuôi, trồng
trọt… trong nông nghiệp; cơ khí, luyện kim, năng lượng… trong công
nghiệp…; ngành cấp III (lúa, màu…) trong trồng trọt, v.v… Sự vận động của
các ngành kinh tế và mối liên hệ của nó vừa tuân theo những đặc điểm chung
của sự phát triển sản xuất xã hội, lại vừa mang những nét đặc thù của mỗi giai
đoạn và mỗi quốc gia và nhỏ hơn nữa là của mỗi vùng mỗi địa phương trong
một quốc gia.
Vì vậy, việc nghiên cứu loại hình cơ cấu này là nhằm tìm ra những
cách thức duy trì tính tỉ lệ hợp lý của chúng và những lĩnh vực cần ưu tiên tập
trung các nguồn lực có hạn của quốc gia trong mỗi thời kỳ nhằm thúc đẩy sự
phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc dân một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất.
- Cơ cấu vùng kinh tế
Loại cơ cấu này phản ánh những mối liên hệ kinh tế giữa các vùng lãnh
thổ của một đất nước trong hoạt động kinh tế. Thường người ta phân tích
những thế mạnh hiện thực và tiềm năng của từng vùng để từ đó hình thành lên
7
tổng sơ đồ phân bố lực lượng sản xuất nhằm phát huy tới mức cao nhất sức
mạnh kinh tế của từng vùng và toàn bộ nền kinh tế. Ngoài các vấn đề kinh tế,
nó thường gợi ý về việc đẩy nhanh sự phát triển xã hội ở những vùng có điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển làm động lực cho cả nền kinh tế hoặc những
vùng nào đó bị lạc hậu trong mối tương quan với các vùng khác để nâng cao
mức độ đồng đều về phát triển kinh tế và xã hội của cả nước.
- Cơ cấu thành phần kinh tế
Loại cơ cấu này phản ánh mối quan hệ giữa con người với con người
trong quá trình sản xuất xã hội, trong đó nổi bật lên hàng đầu là quan hệ về sở
hữu đối với các tư liệu sản xuất. Xã hội loài người đã từng phát triển qua các
hình thái kinh tế - xã hội lần lượt từ thấp đến cao và trong mỗi hình thái kinh
tế - xã hội đều có các cơ cấu quan hệ sản xuất khác nhau.
Ở một số nước, những hình thức sở hữu cổ xưa không còn nữa; ở một
số nước khác, do những hoàn cảnh lịch sử khác, sự đan xen của nhiều loại
hình sở hữu cùng tồn tại. Các mối quan hệ này biểu hiện ra bên ngoài bề mặt
xã hội với tư cách là các thành phần kinh tế khác nhau. Do vậy, cơ cấu các
quan hệ sản xuất và cơ cấu các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân
được hiểu như nhau hay đồng nhất với nhau. Nghiên cứu cơ cấu các thành
phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân sẽ cho thấy xu hướng vận động của
từng thành phần kinh tế trong quá trình phát triển nền sản xuất xã hội.
Việc phân chia các loại cơ cấu kinh tế như trên không phải là cách phân
loại duy nhất, lại càng không phải có từng ấy loại cơ cấu kinh tế. Thực tế, tùy
theo mục đích nghiên cứu mà người ta có thể phân chia theo các cách khác nhau,
và trong mỗi loại cơ cấu này, đến lượt nó lại bao hàm nhiều kiểu cơ cấu khác
nữa. Đề tài văn chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề của cơ cấu ngành kinh tế.
1.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và những nhân tố ảnh
hƣởng đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
8
1.2.1. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và ý nghĩa của nó
1.2.1.1.Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và ý nghĩa của nó
Khái niệm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu ngành kinh tế là một phạm trù động, nó luôn thay đổi theo từng
thời kỳ phát triển bởi các yếu tố hợp thành cơ cấu không cố định. Quá trình
thay đổi của cơ cấu ngành từ trạng thái này sang trạng thái khác ngày càng
hoàn thiện hơn, phù hợp với môi trường và điều kiện phát triển gọi là sự
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế không
chỉ là sự thay đổi về số lượng các ngành, tỷ trọng của mỗi ngành mà còn bao
gồm sự thay đổi về vị trí, tính chất mối quan hệ trong nội bộ cơ cấu ngành.
Việc chuyển dịch cơ cấu ngành phải dựa trên cơ sở một cơ cấu hiện có và nội
dung của sự chuyển dịch là cải tạo cơ cấu cũ, lạc hậu hoặc chưa phù hợp để
xây dựng cơ cấu mới tiên tiến, hoàn thiện và bổ sung cơ cấu cũ thành cơ cấu
mới hiện đại, phù hợp hơn.
Nghiên cứu cơ cấu ngành và xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành có ý
nghĩa quan trọng. Bởi vì, quá trình phát triển kinh tế cũng đồng thời là quá
trình làm thay đổi các loại cơ cấu kinh tế nêu trên, cả những quan hệ về tỷ lệ
về số lượng và chất lượng. Đặc biệt trong thời kỳ công nghiệp hóa với những
đảo lộn cách mạng về phương thức sản xuất, cũng đồng thời là quá trình có sự
thay đổi rất lớn về các loại cơ cấu, trước hết là cơ cấu ngành kinh tế. Sự thay
đổi của cơ cấu ngành kinh tế phản ánh trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất xã hội. Lực lượng sản xuất càng phát triển tạo điều kiện cho phân công
lao động xã hội trở nên sâu sắc. Sự phát triển của phân công lao động xã hội
đến lượt nó lại càng làm cho các mối quan hệ kinh tế thị trường càng được
củng cố và phát triển. Trạng thái cơ cấu ngành kinh tế là dấu hiệu phản ánh
trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Quá trình chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế là một quá trình diễn ra liên tục gắn với quá trình phát triển
9
kinh tế. Ngược lại nhịp độ phát triển, tích chất bền vững của quá trình tăng
trưởng lại phụ thuộc vào khả năng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành linh
hoạt, phù hợp với những điều kiện bên trong, bên ngoài và các lợi thế tương
đối của nền kinh tế.
Mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế với sự phát triển
chung của nền kinh tế có ý nghĩa hết sức quan trọng vì gắn với nó là cả môt
động thái phân bổ các nguồn lực hạn hẹp của một quốc gia trong những thời
điểm nhất định. Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế cho biết tính hiệu quả
của việc phân bổ nguồn lực. Chính vì vậy, ngày nay kinh tế học phát triển coi
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là một trong những nội dung trụ cột phản
ánh mức độ phát triển của nền kinh tế. Sự khẳng định này là bước tiến rất
quan trọng trong nhận thức lý luận và tư duy chính sách kinh tế. Bởi vì, trên
thực tế cho thấy, có những quốc gia tuy đạt mức độ tăng trưởng kinh tế cao
nhưng cơ cấu của nền kinh tế lại ít có sự thay đổi, thậm chí có sự tách rời giữa
khu vực công nghiệp hiện đại với các khu vực nông nghiệp lạc hậu, và do đó,
khu vực nông nghiệp với đông đảo nông dân nghèo khổ vẫn không được chia
sẻ những thành quả của tăng trưởng kinh tế.
Sự thay đổi cơ cấu ngành kinh tế phản ánh mức độ thay đổi của phương
thức sản xuất theo hướng ngày càng hiện đại, những khu vực có năng suất lao
động cao, giá trị gia tăng lớn có tốc độ phát triển cao hơn và dần thay thế
những khu vực sản xuất, kinh doanh có năng suất lao động và giá trị gia tăng
thấp.
1.2.1.2. Những chỉ tiêu phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế những tiêu chí cơ
bản phản ánh sự chuyển dịch bao gồm:
+ Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế
10
Chỉ tiêu GDP được khoa học kinh tế hiện đại sử dụng như một trong
những thước đo khái quát nhât, phổ biến nhất để đo lường, đánh giá về tốc độ
tăng trưởng, trạng thái và xu hướng chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế.
Trong đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu
GDP giữa các ngành kinh tế là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất phản
ánh xu hướng vận động cơ cấu ngành kinh tế. Tỷ lệ phần trăm GDP của các
ngành cấp I (khu vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ) là tiêu chí đầu
tiên thường được dùng để đánh giá quá trình chuyển dịch của cơ cấu ngành
của nền kinh tế. Cùng với quá trình phát triển, tỷ lệ khu vực nông nghiệp có
xu hướng chung ngày càng giảm, còn tỷ lệ khu vực phi nông nghiệp có xu
hướng ngày càng tăng lên. Trong điều kiện khoa học công nghệ hiện đại, khu
vực dịch vụ đang trở thành khu vực chiếm tỷ trọng cao nhất, sau đó là công
nghiệp và cuối cùng là khu vực nông nghiệp.
Để đánh giá sát thực hơn sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, việc
phân tích cơ cấu các phân ngành (cấp II, cấp III…) có một ý nghĩa rất quan
trọng. Thông thường, cơ cấu phân ngành phản ánh sát thực hơn khía cạnh chất
lượng và mức độ hiện đại hóa của nền kinh tế. Ví dụ, trong khu vực công
nghiệp, những ngành công nghiệp chế biến đòi hỏi tay nghề kỹ thuật cao, vốn
lớn hay công nghệ hiện đại như cơ khí chế tạo, điện tử công nghiệp, dược
phẩm, hóa mỹ phẩm… chiếm tỷ trọng cao sẽ chứng tỏ nền kinh tế đạt mức độ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa cao hơn so với những lĩnh vực khai khoáng, sơ
chế nông sản, công nghiệp lắp ráp…
+ Cơ cấu lao động phân theo ngành kinh tế
Cơ cấu lao động làm việc trong các ngành kinh tế được coi là một chỉ
tiêu rất quan trọng để đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Các nhà kinh tế học đánh giá rất cao chỉ tiêu cơ cấu lực lượng lao động đang
làm việc trong nền kinh tế, vì ở góc độ phân tích kinh tế vĩ mô, cơ cấu lao
11
động xã hội mới là chỉ tiêu phản ánh sát thực nhất mức độ thành công về mặt
kinh tế - xã hội của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bời vì, công
nghiệp hóa, hiểu theo nghĩa đầy đủ của nó, không phải chỉ đơn thuần là sự gia
tăng tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp trong GDP, mà còn là quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đời sống xã hội con người, trong đó cơ sở quan
trọng nhất là số lượng lao động đang làm việc trong lĩnh vực phi nông nghiệp
chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng lực lượng lao động đang làm việc
trong nền kinh tế.
So với cơ cấu GDP, cơ cấu lao động phân theo ngành kinh tế được các
nhà kinh tế học đánh giá cao là do chỉ tiêu này không chỉ phản ánh xác thực
hơn mức độ chuyển biến sang xã hội công nghiệp của một đất nước, mà nó
còn ít bị ảnh hưởng bởi các nhân tố ngoại lai hơn. Ở một số nền kinh tế, trong
khi tỷ trọng lao động phi nông nghiệp nhất là khu vực sản xuất công nghiệp
còn chiếm tỷ trọng nhỏ, nhưng trong cơ cấu GDP lại chiếm tỷ trọng lớn hơn
nhiều. Để giải thích cho hiện tượng này, các nhà kinh tế học đã chỉ ra tình
trạng méo mó về giá cả, nhất là trong những trường hợp có sự chênh lệch giá
cánh kéo lớn giữa sản phẩm công nghiệp và dịch vụ so với sản phẩm nông
nghiệp. Do đó, cơ cấu GDP giữa các ngành kinh tế đôi khi không phản ánh
đúng thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
+ Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu
Trong điều kiện của một nền kinh tế đang công nghiệp hóa, cơ cấu các
mặt hàng xuất khẩu cũng được xem như một tiêu chí quan trọng đánh giá mức
độ thành công của quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hầu hết các nước đã trải qua quá trình công
nghiệp hóa để trở thành một nước công nghiệp phát triển đều cơ bản trải qua
một mô hình chung trong cơ cấu sản xuất và cơ cấu hàng xuất khẩu là: từ chỗ
chủ yếu sản xuất và xuất khẩu hàng sơ chế sang các mặt hàng công nghiệp
12
chế biến, lúc đầu là các mặt hàng công nghiệp chế biến sử dụng nhiều lao
động, kỹ thuật thấp như lắp ráp, hàng dệt may, chế biến nông lâm thủy
sản…chuyển dần sang các loại sản phẩm sử dụng nhiều công nghệ kỹ thuật
cao như sản phẩm cơ khí chế tạo, điện tử, hóa chất.v.v… Chính vì vậy, sự
chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu, từ những mặt hàng sơ chế sang các mặt
hàng công nghiệp chế biến dựa trên cơ sở kỹ thuật công nghệ cao luôn được
xem như một trong những thước đo quan trọng đánh giá mức độ thành công
của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tóm lại, khi phân tích đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế, các nhà kinh tế học thường sử dụng các tiêu chí chủ yếu gồm cơ cấu
GDP phân theo ngành kinh tế, cơ cấu lao động phân theo ngành kinh tế và cơ
cấu hàng xuất khẩu để xem xét. Ngoài ra còn có tập hợp các tiêu chí bổ trợ
khác như quan hệ giữa khu vực sản xuất vật chất và khu vực phi sản xuất vật
chất; giữa khu vực nông nghiệp và khu vực phi nông nghiệp; những tiêu chí
về chuyển giao khoa học công nghệ, cơ cấu hàng nhập khẩu, sự nâng cấp chất
lượng lao động, cơ cấu doanh nghiệp gia nhập thị trường phân theo
ngànhv.v… Mỗi tiêu chí nêu trên đều hàm chứa một ý nghĩa kinh tế nhất định
trong quá trình phân tích chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Một nhóm tiêu chí khác
góp phần đánh giá tính hiệu quả của cơ cấu kinh tế với tư cách là kết quả của
cơ cấu phân bổ nguồn lực xã hội, trước hết là cơ cấu đầu tư. Đó là chỉ số về
tốc độ tăng trưởng kinh tế, năng suất lao động xã hội, chỉ số ICOR, mức tiêu
hao năng lượng trên một đơn vị GDP tạo ra, số chỗ việc làm mới được tạo ra,
tỷ lệ thất nghiệp, tốc độ giảm nghèo…. Những tiêu chí này vốn là những tiêu
chí tổng hợp phân tích tình hình phát triển kinh tế chung, nhưng ở chừng mực
nhất định, chúng góp phần đánh giá tính hiệu quả của cơ cấu ngành kinh tế
đang xây dựng.
1.2.1.3. Những tiêu chí đánh giá cơ cấu kinh tế hợp lí
13
Cơ cấu kinh tế hay cơ cấu ngành kinh tế cơ tính lịch sử, việc xác định
cơ cấu kinh tế như thế nào phụ thuộc vào nhiều yếu tố ở từng không gian và
thời gian xác định. Vì vậy, sẽ không có một cơ cấu kinh tế hợp lí chung cho
tất cả các nền kinh tế. Xét trên góc độ chung nhất, một cơ cấu kinh tế hợp lí
khi nó đáp ứng các tiêu chí cơ bản sau:
+ Phản ánh được và đúng quy luật khách quan
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình mang tính quy luật,
do đó con người phải nhận thức được quy luật khách quan đó để có những
chính sánh phù hợp nhằm xây dựng cơ cấu kinh tế phù hợp với quy luật khách
quan đó. Nhà nước với vai trò là người định hướng phải nhận thức được và
đúng đắn quy luật khách quan, trên cơ sở đó đưa ra được những chính sách
định hướng phù hợp thúc đẩy kinh tế phát triển. Ngược lại, nếu nhận thức của
nhà nước không đúng quy luật, do đó đưa ra chính sách không phù hợp sẽ kìm
hãm sự phát triển. Điều này đã được chứng minh qua thực tiễn xây dựng phát
triển kinh tế của Việt Nam. Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung việc xác định
mô hình kinh tế với mục tiêu "ưu tiên phát triển công nghiệp nặng" trong điều
kiện một nước nông nghiệp lạc hậu, thiếu lương thực trầm trọng, hầu như
không có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế. Do đó, nền kinh tế trở nên què quặt,
không cầm cự được trong thời gian dài, các ngành khác không phát triển được
do nguồn lực ít ỏi phân bổ ưu tiên cho công nghiệp nặng và bản thân ngành
công nghiệp nặng cũng không thể phát triển được do thiếu thị trường, mức
đầu tư chưa đạt quy mô hiệu quả, lao động không đáp ứng được….
+ Trình độ khoa học kỹ thuật phải không ngừng tiến bộ phù hợp với xu
thế phát triển của khoa học công nghệ
Quy luật chung là cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch từ những ngành có
giá trị gia tăng thấp, công nghệ lạc hậu sang những ngành có giá trị gia tăng
cao, công nghệ hiện đại hơn, năng suất lao động cao hơn. Và như vậy, cùng
14
với sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng tích cực hơn, hợp lí hơn
thì trình độ khoa học công nghệ phải không ngừng được nâng cao phù hợp
với xu thế phát triển chung của khoa học công nghệ nhằm tao ra năng suất lao
động cao hơn. Đó mới là thực chất của chuyển dich cơ cấu ngành kinh tế,
đúng quy luật phát triển.
+ Cho phép khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nước, của ngành,
của các thành phần kinh tế, của các xí nghiệp về cả chiều rộng lẫn chiều sâu
Cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu ngành kinh tế nói riêng đều mang
tính lịch sử, xác định cơ cấu kinh tế như thế nào phụ thuộc vào các điều kiện
đặc thù về không gian và thời gian, về các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
của một quốc gia, yếu tố thời đại…Một cơ cấu kinh tế hợp lí phải phù hợp với
từng hoàn cảnh lịnh sử nhất định để khai thác tối đa mọi tiềm năng kinh tế
cho phát triển kinh tế và do đó không có một cơ cấu kinh tế hợp lí cho mọi
quốc gia và cho mọi thời đại.
+ Thực hiện tốt sự phân công và hợp tác quốc tế theo xu hướng sản
xuất và đời sống ngày càng được quốc tế hóa
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thể hiện sự phát triển của lực lượng sản
xuất, phân công và phân công lại lao động giữa các ngành, các lĩnh vực. Ngày nay,
khi quá trình toàn cầu hóa diễn ra trên phạm vi toàn thế giới, phân công lao động vượt
ra khỏi biên giới gia vươn ra phạm vi quốc tế hình thành chuỗi giá trị toàn cầu, các
quốc gia phải chủ động tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu và từng bước nâng cao vị
trí của mình trong chuỗi giá trị đó.
1.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu ngành kinh
tế
Trong quá trình phát triển kinh tế của một đất nước các chủ thể kinh tế
luôn hành động theo hiệu quả kinh tế thiết thực. Ở một chừng mực nhất định
quy hoạch phát triển của Nhà nước có tác động đến cơ cấu đầu tư, nhưng kết
15
quả cuối cùng lại được thể hiện bằng cơ cấu trên các phương diện của nó. Cơ
cấu kinh tế luôn thay đổi theo chiều hướng hợp lý hơn, sự thay đổi đó chính là
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nhìn chung chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
một nước thường phụ thuộc vào một số nhân tố sau:
1.2.2.1. Sự phát triển của thị trường
Thị trường có ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu ngành kinh tế. Bởi lẽ, tín hiệu của thị trường
sẽ dẫn dắt, hướng dẫn và điều tiết các hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt
động đầu tư, phân bổ các nguồn lực của xã hội vào các lĩnh vực khác nhau với
mức độ khác nhau của nền kinh tế. Mỗi doanh nghiệp phải hướng ra thị
trường, xuất phát từ thị trường thông qua cung cầu, giá cả để định ra chiến
lược, chính sách kinh doanh của mình.
Độ lớn của dung lượng thị trường là một nhân tố rất có ý nghĩa trong
việc di chuyển các nguồn lực vào những lĩnh vực sản xuất khác nhau. Thông
thường dung lượng thị trường được quyết định bởi quy mô dân số và mức thu
nhập. Khi mức thu nhập của dân cư còn thấp, hầu hết nguồn thu nhập đó được
chi tiêu cho những mặt hàng thiết yếu như lương thực, thực phẩm… Đây là
những mặt hàng có hệ số cơ giãn thấp, nghĩa là nhu cầu tiêu dùng chúng ít
thay đổi khi thu nhập có sự thay đổi. Khi thu nhập của dân cư tăng lên, cơ cấu
tiêu dùng của dân cư cũng có sự thay đổi theo hướng tăng dần tỷ trọng chi
tiêu cho các mặt hàng cao cấp hơn và tỷ trọng chi tiêu cho các mặt hàng thiết
yếu có xu hướng giảm dần. Những loại hàng hóa cao cấp có hệ số co giãn cao
hơn ví dụ như xe hơi, thiết bị nghe nhìn, các dịch vụ vui chơi giải trí….Như
vậy, những dấu hiệu chuyển dịch cơ cấu cầu tiêu dùng trên thị trường có tác
động dẫn dắt hướng đầu tư kinh doanh của các nhà đầu tư và vì thế, tác động
không nhỏ tới sự hình thành cơ cấu ngành kinh tế.
16
Mức độ đồng bộ của các loại thị trường sẽ cho phép huy động hiệu quả,
di chuyển phân bổ các nguồn lực của xã hội vào các khu vực khác nhau của
nền kinh tế tốt hay không tốt và do đó tác động đến chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế.
1.2.2.2. Các nguồn lực
Các lợi thế về tự nhiên của đất nước cho phép có thể phát triển ngành
sản xuất nào một cách thuận lợi; quy mô dân số của quốc gia; trình độ nguồn
nhân lực; những điều kiện kinh tế, văn hóa của đất nước.
- Nguồn lực tự nhiên: Cơ cấu ngành kinh tế của một quốc gia được hình
thành như thế nào đều chịu ảnh hưởng sâu sắc của nguồn tài nguyên thiên
nhiên ban tặng. Quy mô đất đai, địa hình, khí hậu, nguồn nước … là điều kiện
tự nhiên của các loại hình sản xuất nông nghiệp khác nhau; những vùng rừng
mưa nhiệt đới ở Châu Á, Châu Mỹ Latinh… là điều kiện tốt để phát triển kinh
tế lâm nghiệp; những quốc gia có các mỏ khoáng sản có khả năng khai thác
kinh tế là điều kiện phát triển ngành công nghiệp khai mỏ…. Tóm lại, tài
nguyên thiên nhiên là cơ sở tự nhiên quan trọng để hình thành cơ cấu ngành
kinh tế của các nền kinh tế trên thế giới.
Tuy nhiên, tài nguyên thiên nhiên dù có phong phú đến đâu nếu khai
thác không hiệu quả thì cũng đến lúc cạn kiệt. Hơn nữa, một nền kinh tế chỉ
dựa vào khai thác tài nguyên để xuất khẩu dưới dạng sản phẩm thô mà không
có chính sách đúng đắn nhằm thúc đẩy áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ,
chuyển cơ cấu xuất khẩu và sản phẩm từ dạng sơ chế nguyên liệu sang những
ngành công nghiệp chế biến sâu thì cơ cấu ngành kinh tế sẽ trì trệ, lạc hậu
chậm chuyển đổi.
Như vậy, nhóm nhân tố đầu tiên tác động mạnh tới thiên hướng tự
nhiên của cơ cấu ngành kinh tế của một nền kinh tế là các nguồn tài nguyên
thiên nhiên được sử dụng của đất nước. Trong nhiều trường hợp chúng tạo
17
lên lợi thế tuyệt đối trong phân công lao động quốc tế của các nền kinh tế.
Song để thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa thì những nỗ lực chính sách hướng tới nâng cấp khoa học,
công nghệ và kỹ thuật nhằm chuyển chúng từ nơi cùng cấp sản phẩm thô
thành các sản phẩm của công nghiệp chế biến sẽ là một nội dung chủ chốt cần
lưu ý.
- Nguồn lực con người
Nguồn nhân lực khi được xem xét dưới góc độ là yếu tố đầu vào của
quá trình sản xuất, từ lâu đã được coi như một nhân tố có ý nghĩa quyết định
đối với quá trình sản xuất. Ở những thời điểm nhất định, việc phân bổ nguồn
lực này như thế nào có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc hình thành cơ cấu
ngành kinh tế của nền kinh tế. Để quyết định phân bổ nguồn nhân lực vào
những ngành sản xuất khác nhau như thế nào cần lưu ý các khía cạnh sau:
Thứ nhất, quy mô nguồn nhân lực
Quy mô nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quan trọng góp
phần hình thành cơ cấu ngành kinh tế. Để cho các hoạt động sản xuất kinh
doanh đạt được hiệu quả kinh tế theo quy mô trong những điều kiện về khoa
học công nghệ nhất định, cần phải có một lượng lao động thích hợp. Đối với
một số quốc gia, quy mô dân số và lao động nhỏ bé đã là một trong những
nguyên nhân khó phát triển ở một số lĩnh vực. Ngược lại, khá nhiều quốc gia
đang phát triển có hiện tượng "dư thừa" lao động. Vì vậy, hình thành một cơ
cấu ngành kinh tế "toàn dụng lao động" lại là một trong những ưu tiên hàng
đầu của họ. Ở góc độ kinh tế, quy mô nguồn nhân lực không chỉ phụ thuộc
vào quy mô dân cư đang sinh sống trên một vùng lãnh thổ hay đơn vị hành
chính nhất định, mà còn phụ thuộc vào độ cơ động của nguồn lao động, được
quy định bởi tình trạng giao thông và mức độ linh hoạt của thị trường lao
động.
18
Thứ hai, chất lượng nguồn nhân lực
Ngoài tố chất về sức khỏe, về phẩm chất và đạo đức (tính cần cù, siêng
năng, yêu lao động, có tránh nhiệm trước công việc, có tự trọng cao về mặt xã
hội, có kỷ luật lao động…), chất lượng lao động còn thể hiện ở trình độ tay
nghề, kỹ năng lao động và kiến thức (bao gồm cả kiến thức chuyên môn và
kiến thức xã hội cần thiết khác). Vì vậy, đối với nguồn nhân lực chất lượng
lao động là quan trọng nhất để hình thành cơ cấu kinh tế, đặc biệt đối với
những ngành, lĩnh vực đòi hỏi lao động qua đào tạo, tay nghề cao như một số
lĩnh vực dịch vụ gắn liền với công nghệ hiện đại, những lĩnh vực công nghiệp
cơ khí chế tạo, điện tử, hóa học… Về phần mình, chất lượng nguồn lao động
lại là sản phẩm của quá trình giáo dục và đào tạo. Vì thế, các nhà kinh tế học
đã chứng minh rằng đầu tư cho giáo dục là loại đầu tư trực tiếp cho sản xuất
chứ không phải là đầu tư cho lĩnh vực xã hội, vốn chỉ được xem xét đến sau
khi đã đầu tư cho các ngành sản xuất như trong hầu hết các báo cáo kinh tế
cũng như cách phân loại thống kê học.
Thứ ba, xu hướng nhân khẩu học
Xu hướng biến động nhân khẩu học có ý nghĩa khá quan trọng đối với
việc hình thành cơ cấu của nền kinh tế. Tác nhân này biểu hiện cả ở hai khía
cạnh cung và cầu. Về mặt cung, xu hướng biến động dân số sẽ quyết định xu
hướng biến động lực lượng lao động xã hội. Còn xu hướng biến động cầu sẽ
ảnh hưởng không nhỏ tới quy mô và cơ cấu cầu thị trường
- Nguồn vốn
Quy mô nguồn vốn đầu tư là nhân tố kinh tế quan trọng luôn ảnh hưởng
trực tiếp tới quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của mỗi quốc gia.
Vồn luôn là vấn đề khó khăn của hầu hết các quốc gia đang phát triển đối với
quá trình tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Ngày nay, quá
trình toàn cầu hóa kinh tế đang diễn ra sâu rộng trên phạm vi toàn thế giới,
19
dòng vốn đầu tư mang tính chất toàn cầu đang gia tăng với tốc độ nhanh và
quy mô lớn đã góp phần giải quyết bớt khó khăn này đối với các nước đang
phát triển. Nhưng vấn đề thiếu vốn của các quốc gia này vẫn là vấn đề khó
khăn dai dẳng. Vì vậy, việc xác định cơ cấu ngành kinh tế không thể không
tính tới khả năng huy động vốn của nền kinh tế. Do hạn chế về quy mô và
mức độ phân tán lớn, các doanh nghiệp sẽ tập trung đầu tư nhiều hơn vào
những ngành cần ít vốn đầu tư, khả năng thu hồi vốn nhanh như thương mại
bán lẻ quy mô nhỏ (tiểu thương), các ngành công nghiệp dệt may, sơ chế
nông sản, cung cấp dịch vụ dân sinh thường nhật v.v…
Tuy nhiên, tác động của nhân tố vốn đến sự hình thành cơ cấu ngành
kinh tế của những nền kinh tế đang phát triển trong thời đại ngày nay không
chỉ đơn giản như vậy. Sự tác động của toàn cầu hóa và tính chất, mức độ can
thiệp của nhà nước vào nền kinh tế, trước hết thông qua chính sách đầu tư có
một ý rất to lớn đối với sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Dòng vốn nước
ngoài cùng với nguồn vốn trong nước chảy vào lĩnh vực kinh doanh cụ thể
nào lại phụ thuộc phần lớn vào chính sách kinh tế của nhà nước. Ngoài nguồn
vốn tư ngân sách của nhà nước trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực, các chính
sách khuyến khích hoặc không khuyến khích đầu tư vào một số lĩnh vực cũng
góp phần đáng kể vào hướng dòng chảy của vốn vào những lĩnh vực, những
ngành khác nhau.
1.2.2.3. Môi trường thể chế
Thể chế được hiểu là các ràng buộc do con người tạo ra nhằm quy định
cấu trúc tương tác giữa người với người. Các thể chế chính trị -xã hội được
thừa nhận có tác động đến quá trình phát triển của đất nước, đặc biệt thông
qua tạo hành lang pháp lý và môi trường đầu tư. Vì nền tảng của kinh tế thị
trường là dựa trên trao đổi giữa các cá nhân và các nhóm người với nhau, bởi
vậy nếu không có thể chế thì các hoạt động này không thể diễn ra bời vì
20
người này không thể tương tác với người kia nếu không có chế tài nào đó
ngăn cản người kia hành động tùy tiện và ngược lại với thỏa thuận. Các cá
nhân và doanh nghiệp chỉ có thể mua, bán, thuê mướn hợp đồng, đầu tư nếu
họ có một mức độ tin tưởng nhất định rằng các thỏa thuận hợp đồng của họ sẽ
được thực hiện. Thông thường các cá nhân thường không đủ thông tin khi
tham gia giao dịch. Do đó sẽ có các chi phí phát sinh gọi là chi phí giao dịch.
Tất cả các chi phí này liên quan đến thể chế. Một thể chế không tốt sẽ làm cho
chi phí thực thi các hợp đồng cao và như vậy sẽ không khuyến khích các giao
dịch kinh tế. Hơn nữa, một cấu trúc thể chế tốt sẽ tạo ra sự khuyến khích nhất
định, ảnh hưởng quyết định đến phân bổ nguồn lực con người tốt hay xấu cho
tăng trưởng kinh tế. Theo tác giả Knack và Keefer ( 1995), để đánh giá chất
lượng của thể chế có thể sử dụng bốn tiêu chí để đo lường: (1) Tham nhũng,
(2) Chất lượng bộ máy hành chính, (3) Tuân thủ pháp luật, và (4) Bảo vệ
quyền tài sản.
Môi trường thể chế là yếu tố quyết định đến sự hình thành và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu ngành kinh tế. Nó thường gắn bó chặt
chẽ với thể chế chính trị, đường lối xây dựng kinh tế. Môi trường thể chế là
biểu hiện cụ thể của từng quan điểm, ý tưởng và hành vi của nhà nước can
thiệp, định hướng sự phát triển tổng thể cũng như sự phát triển của các bộ
phận cấu thành của nền kinh tế thông qua các công cụ mà nhà nước ban hành,
sử dụng như các chính sách kinh tế, hệ thống pháp luật…
Cơ chế chính sách có tác động rất mạnh mẽ đến xu hướng vận động
tổng quát của sự hình thành cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cả cơ cấu
ngành, cơ cấu vùng và cơ cấu thành phần kinh tế. Ví dụ trong một thời gian
dài trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, xu hướng hình thành cơ cấu kinh tế
tổng quát của Việt Nam là "ưu tiên phát triển công nghiệp nặng". Ở dạng cực
đoan hơn là những chiến dịch như kiểu "nhà nhà làm gang thép" của Trung
21
Quốc hồi thập kỷ 60 - 70. Từ sự chỉ đạo này, phần lớn nhất nguồn lực của
quốc gia Việt Nam trong thời kỳ dài cũng đã được dành cho phát triển lĩnh
vực công nghiệp nặng. Một chủ trương khác vào đầu những năm 1980 là " ba
chương trình kinh tế lớn: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng
xuất khẩu". Cơ cấu kinh tế được điều chỉnh do các nguồn lực đã được phân bổ
lại theo hướng ưu tiên hơn cho các chương trình kinh tế này.
1.2.2.4. Tiến bộ khoa học- công nghệ
Những thành tựu của cách mạng khoa học, kỹ thuật, đặc biệt sự bùng
nổ của công nghệ thông tin tạo nên những bước nhảy vọt trong mọi lĩnh vực
sản xuất, góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các
nước, vì thông tin nhanh chóng làm cho sản xuất, kinh doanh được điều chỉnh
nhanh nhạy, hợp lý hơn, dẫn đến cơ cấu sản xuất được thay đổi phù hợp hơn
với thị trường và lợi ích của từng nước. Mặt khác, khi khoa học công nghệ
phát triển sẽ làm xuất hiện nhiều ngành mới và thúc đẩy một số ngành phát
triển mạnh mà trước đây chưa có điều kiện phát triển. Ví dụ những năm gần
đây với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ thúc đẩy một số
ngành công nghệ cao phát triển như điện tử, công nghiệp phần mềm, công
nghiệp vật liệu mới… Khoa học công nghệ phát triển cũng cho phép khai thác
một số nguồn tài nguyên mà trước đây không có khả năng khai thác hoặc
không đạt hiệu quả kinh tế để khai thác, vì vậy cũng có tác động không nhỏ
tới chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Tóm lại, quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế chịu tác động của
nhiều nhân tố. Trong điều kiện hiện nay, dưới tác động của quá trình toàn cầu
hóa, thị trường hóa và tiến bộ của khoa học công nghệ diễn ra nhanh chóng,
bản thân các nhân tố đó cũng không ngừng biến đổi và hàm chứa những nội
dung kinh tế không hoàn toàn giống nhau. Vì vậy, khi đánh giá tác động của
từng nhân tố cũng như tác động tổng hợp của các nhân tố đó cần phải nhìn
22
nhận chúng như quá trình động để xem xét xu hướng tác động dài hạn lên quá
trình chuyển dịch cơ cấu của ngành kinh tế.
1.3. Một số mô hình lý thuyết về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
1.3.1. Phương thức thực hiện chuyển dịch cơ cấu ngành - Mô hình
Rostow
Trong cuốn " Các giai đoạn phát triển kinh tế", nhà lịch sử kinh tế nổi
tiếng người Mỹ, Walter W.Rostow đã đưa ra một cách tổng hợp theo lịch sử
về những bước khởi đầu về quá trình phát triển kinh tế hiện đại ở 6 lục địa.
Theo mô hình Rostow, quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia được chia
thành 5 giai đoạn và ứng với mỗi giai đoạn là một dạng cơ cấu ngành kinh tế
đặc trưng thể hiện bản chất phát triển của giai đoạn ấy.
Giai đoạn 1: Xã hội truyền thống
Đặc trưng cơ bản của giai đoạn này là: nền kinh tế thống trị bởi sản
xuất nông nghiệp, năng suất lao động thấp do sản xuất chủ yếu bằng công cụ
thủ công, tích lũy gần như con số không. Cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ
này vẫn là cơ cấu nông nghiệp thuần túy.
Giai đoạn 2: Giai đoạn chuẩn bị cất cánh
Trong giai đoạn này những hiểu biết về khoa học - kỹ thuật đã bắt đầu
được tiến hành áp dụng vào sản xuất trong cả nông nghiệp và công nghiệp;
giáo dục được mở rộng và có những cải tiến phù hợp với yêu cầu mới của sự
phát triển; nhu cầu đầu tư tăng lên đã thúc đẩy sự hoạt động của ngân hàng và
sự ra đời của các tổ chức huy động vốn. Tiếp đó giao lưu hàng hóa trong và
ngoài nước phát triển đã thúc đẩy sự hoạt động của ngành giao thông vân tải,
thông tin liên lạc. Cơ cấu ngành kinh tế trong giai đoạn này là cơ cấu nông -
công nghiệp.
Giai đoạn 3: Giai đoạn cất cánh
23
Thuật ngữ này bao hàm ý một đất nước bước vào giai đoạn phát triển
hiện đại và ổn định. Những yếu tố cơ bản đảm bảo cho sự cất cánh là: huy
động được nguồn vốn đầu tư cần thiết, tỷ lệ cho tiết kiệm tăng lên ít nhất
chiếm 10% trong thu nhập quốc dân thuần túy. Ngoài vốn đầu tư trong nước
nguồn vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng, khoa học, kỹ thuật tác
động mạnh vào nông nghiệp, công nghiệp, công nghiệp giữ vai trò đầu tầu, có
tốc độ tăng trưởng nhanh, đem lại lợi nhuận lớn, lợi nhuận lại được tái đầu tư
phát triển sản xuất, thông qua nhu cầu thu hút công nhân, kích thích phát triển
khu đô thị và các lĩnh vực dịch vụ. Cơ cấu ngành kinh tế của giai đoạn này là
công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ.
Giai đoạn 4: giai đoạn trưởng thành
Đặc trưng cơ bản của giai đoạn này là tỷ lệ đầu tư tăng lên liên tục, cao
tới 20% thu nhập quốc dân thuần túy; khoa học, kỹ thuật mới được ứng dụng
trên toàn bộ các mặt hoạt động kinh tế; nhiều ngành công nghiệp mới, hiện
đại phát triển; nông nghiệp được cơ giới hóa, đạt được năng suất lao động
cao; nhu cầu nhập khẩu tăng mạnh, sự phát triển kinh tế trong nước hòa dòng
vào thị trường quốc tế. Cơ cấu ngành kinh tế trong giai đoạn này là công
nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp.
Giai đoạn 5: giai đoạn tiêu dùng cao
Trong giai đoạn này có hai xu hướng cơ bản về kinh tế: thứ nhất, thu
nhập bình quân đầu người tăng nhanh, dân cư giàu có dẫn đến sự gia tăng nhu
cầu tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ tinh vi, cao cấp; thứ hai, cơ cấu lao động
thay đổi theo hướng tăng tỷ lệ dân cư đô thị và lao động có tay nghề, có trình
độ chuyên môn cao; cơ cấu ngành kinh tế trong giai đoạn này là dịch vụ -
công nghiệp.
Mô hình của Rosow mặc dù còn nhiều hạn chế về cơ sở của sự phân
đoạn trong phát triển kinh tế cũng như sự nhất quán về các đặc trưng của mỗi
24
giai đoạn so với thực tế, nhưng đứng trên góc độ mối quan hệ giữa chuyển
dịch cơ cấu ngành với quá trình phát triển thì mô hình này đã chỉ ra một sự
lựa chọn hợp lí về dạng cơ cấu ngành tương ứng với mỗi giai đoạn nhất định
của mỗi quốc gia.
1.3.2. Mô hình hai khu vực của Arthus Lewis
Đặc trưng chủ yếu của mô hình này là phân chia nền kinh tế thành hai
khu vực công nghiệp và nông nghiệp trong nền kinh tế nhị nguyên và nghiên
cứu quá trình di chuyển lao động giữa hai khu vực. Khu vực nông nghiệp, ở
mức độ tồn tại, có dư thừa lao động và lao động dư thừa này dần dần chuyển
sang khu vực công nghiệp. Sự phát triển của khu vực công nghiệp quyết định
mực độ tăng trưởng của nền kinh tế, phụ thuộc vào khả năng thu hút lao động
dư thừa ở khu vực nông nghiệp tạo nên và khả năng đó lại phụ thuộc vào tốc
độ tích lũy vốn của khu vực công nghiệp.
Như vậy, mô hình hai khu vực của Lewis xác định một hướng giải
quyết mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp trong quá trình thực hiện
mục tiêu tăng trưởng và phát triển. Mô hình này xây dựng trên cơ sở khả năng
dịch chuyển lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp theo khả năng tích lũy
vốn của khu vực này. Mô hình chỉ ra rằng khi khu vực nông nghiệp có dư
thừa lao động, tăng trưởng kinh tế được quyết định bởi khả năng tích lũy và
đầu tư của khu vực công nghiệp.
Tuy nhiên, mô hình này cũng có những hạn chế đáng kể. Các giả định
có thể không phù hợp với thực tế. Thứ nhất, mô hình giả định rằng tỷ lệ lao
động thu hút từ khu vực nông nghiệp tương ứng với tỷ lệ vốn tích lũy của khu
vực này. Thực tế, khi có vốn khu vực công nghiệp có thể đầu tư vào những
ngành thâm dụng vốn hoăc tìm nơi đầu tư có lợi hơn ở nước ngoài, và như
vậy ý nghĩa của việc giải quyết việc làm cho khu vực nông nghiệp không còn
nữa. Thứ hai, mô hình giả định chỉ có khu vực nông thôn mới dư thừa lao
25
động. Trên thực tế cả khu vực nông thôn và thành thị đều xảy ra thất nghiệp.
Hơn nưa, khu vực nông thôn có thể tự tạo việc làm tại chỗ để giải quyết vấn
đề dư thừa lao động mà không nhất thiết phải di chuyển ra khu vực thành thị.
Thứ ba, khu vực công nghiệp có thể tăng lương ngay cả khi khu vực nông
nghiệp vẫn còn dư thừa lao động do khu vực này đòi hỏi lao động có tay nghề
ngày càng cao hơn. Điều này khác với giả định mô hình đưa ra là khu vực
công nghiệp không phải tăng lương khi khu vực nông nghiệp còn dư thừa lao
động.
1.3.3. Mô hình hai khu vực của trường phái Tân cổ điển
Khu vực nông nghiệp: các nhà Tân cổ điển cho rằng với sự tác động
của khoa học công nghệ thì sản phẩm cân biên của lao động trong khu vực
nông nghiệp luôn dương nhưng có xu hướng giảm dần. Và do đó, đường cung
lao động trong nông nghiệp có xu thế dốc lên.
Khu vực công nghiệp: để chuyển lao động từ nông nghiệp sang, khu
vực công nghiệp phải trả mức tiên công cao hơn và ngày càng tăng theo xu
hướng sử dụng lao động ngày càng nhiều. Như vậy, trao đổi luôn gây bất lợi
cho khu vực công nghiệp so với nông nghiệp. Sự bất lợi ngày càng tăng lên
khi cầu về lao động trong khu vực này tăng lên trong quá trình thực hiện tái
đầu tư phát triển.
Quan điểm đầu tư: để cho quá trình trao đổi giữa hai khu vực không tạo
ra những bất lợi ngày càng nhiều cho công nghiệp thì các nhà Tân cổ điển cho
rằng cần phải đầu tư cả cho nông nghiệp ngay tư đầu chứ không chỉ quan tâm
đến đầu tư cho công nghiệp. Phái Tân cổ điển cũng cho rằng mặc dù phải
quan tâm đến đầu tư cho cả hai khu vực ngay từ đầu nhưng tỷ trọng đầu tư
cho nông nghiệp có xu hướng giảm đi và ưu tiên tăng dần tỷ trọng đầu tư cho
khu vực công nghiệp.
1.3.4. Mô hình hai khu vực của Harry T.Oshima
26
Với quan điểm hướng tới một nền kinh tế phát triển, Oshima đã đưa ra
hướng quan tâm đầu tư phát triển nền kinh tế theo ba giai đoạn với mục tiêu
và nội dung phát triển khác nhau.
- Giai đoạn bắt đầu của quá trình tăng trưởng: tạo việc làm cho thời
gian nhàn rỗi theo hướng tăng cường đầu tư phát triển nông nghiệp.
Ông cho rằng do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp nhất là ở các nước
châu Á gió mùa là mang tính thời vụ rất cao, lao động thất nghiệp mang tính
thời vụ lại càng trầm trọng hơn khi sản xuất nông nghiệp mang nặng tính độc
canh, nhỏ lẻ, phân tán. Vì vậy, mục tiêu của giai đoạn đầu trong quá trình tăng
trưởng là giải quyết hiện tượng thất nghiệp thời vụ ở khu vực nông nghiệp.
Biện pháp hợp lí nhất để thực hiện mục tiêu này là thực hiện đa dạng hóa sản
xuất nông nghiệp, xen canh tăng vụ, mở rộng chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi
và đánh bắt cá, trồng cây lâm nghiệp. Hướng phát triển này tỏ ra phù hợp đối
với khả năng vốn, trình độ kỹ thuật của nông nghiệp, nông thôn giai đoạn này.
Nhà nước cần có sự hỗ trợ về các mặt: xây dựng hệ thống kênh mương, đập
tưới tiêu nước, hệ thống vận tải ở nông thôn để trao đổi hàng hóa, hệ thống
giáo dục và điện khí hóa nông thôn. Theo đó, thực hiện cải tiến các hình thức
tổ chức sản xuất và dịch vụ nông thôn như: cải tiến tổ chức hợp tác xã nông
nghiệp, tổ chức dịch vụ nông thôn, hỗ trợ của tổ chức tin dụng để nông dân có
thể mua giống mới, áp dụng các biện pháp kỹ thuật, cải cách ruộng đất để
nông phát huy cao độ nỗ lực của mình. Tất cả các biện pháp này đòi hỏi đầu
tư và đổi mới không lớn lắm so với đầu tư vào công nghiệp.
Ông cho rằng dấu hiệu kết thúc giai đoạn đầu là: khi chủng loại nông
sản sản xuất ra ngày càng nhiều với quy mô lớn, nhu cầu cung cấp các yếu tố
đầu vào cho sản xuất nông nghiệp tăng cao và xuất hiện yêu cầu chế biến
nông sản với quy mô lớn nhằm tăng cường tính chất hàng hóa trong sản xuất
27
nông nghiệp, tức đặt ra vấn đề phát triển công nghiệp và thương mại dịch vụ
quy mô lớn.
- Giai đoạn hai: hướng tới có việc làm đầy đủ bằng cách đầu tư phát
triển đồng thời cả nông nghiệp và công nghiệp
Xuất phát từ mục tiêu hướng tới giải quyết đầy đủ việc làm cho người
lao động, quan điểm của Oshima trong giai đoạn này là đầu tư phát triển các
ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ theo chiều rộng, cụ thể: tiếp tục
thực hiện đa dạng hóa sản xuất cây trồng và vật nuôi trong nông nghiệp, thực
hiện sản xuất nông nghiệp theo quy mô lớn, xen canh tăng vụ nhằm tạo ra
khối lượng nông sản hàng hóa lớn; phát triển các ngành công nghiệp chế biến
lương thực thực phẩm, đồ gỗ, đồ uống, đồ thủ công mỹ nghệ nhằm tăng
cường việc làm và nâng cao tính hàng hóa; phát triển các ngành công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp sản xuất nông cụ thường, nông cụ cầm tay, nông cụ cải
tiến cho nông nghiệp, đồng thời phát triển các ngành sản xuất phân bón, thuốc
trừ sâu, giống và các yếu tố đầu vào khác cho nông nghiệp.
Như vậy, sự phát triển của nông nghiệp đã mở rộng thị trường công
nghiệp, tạo yêu cầu tăng thêm quy mô sản xuất công nghiệp cũng như các nhu
cầu về các hoạt động dịch vụ. Dấu hiệu kết thúc giai đoạn hai là tốc độ tăng
trưởng việc làm có biểu hiện lớn hơn tốc độ tăng trưởng lao động, làm cho thị
trường lao động bị thu hẹp, tiền lương thực tế tăng lên.
- Giai đoạn sau khi có đầy đủ việc làm: thực hiện phát triển các ngành
theo chiều sâu nhằm giảm cầu lao động
Kết quả của giai đoạn hai trong mô hình này làm cho các ngành kinh tế
trong nước phát triển khá mạnh. Trong nông nghiệp do quy mô nhu cầu việc
làm tăng mạnh dẫn tới tiền công ở khu vực này cũng được nhích dần lên với
tốc độ ngày càng tăng. Với khả năng sản xuất được nâng cao và tích lũy nhiều
kinh nghiệm trong quá trình sản xuất, các ngành công nghiệp trong nước phát
28
triển mạnh từ chỗ thay thế nhập khẩu đến bắt đầu tìm kiếm thị trường nước
ngoài. Do ưu thế của những ngành này cần ít vốn đầu tư, công nghệ dễ học
hỏi, thị trường dễ tìm và dễ thâm nhập, có khả năng cạnh tranh ở thị trường
ngoài nước làm cho xuất khẩu có xu hướng tăng nhanh. Khu vực dịch vụ
cũng ngày càng được mở rộng. Quan điểm của Oshima trong giai đoạn này là
phải đầu tư theo chiều sâu trên toàn bộ các ngành kinh tế. Một mặt trong nông
nghiệp cần hướng tới sử dụng máy móc thiết bị thay thế lao động và áp dụng
phương pháp công nghệ sinh học nhằm tăng sản lượng. Mặt khác, khu vực
công nghiệp tiếp tục phát triển theo hướng thay thế sản phẩm nhập khẩu và
hướng về xuất khẩu với sự chuyển dịch dần cơ cấu sản xuất sản phẩm. Các
ngành sản xuất sản phẩm có dung lượng lao động cao sẽ giảm dần và các
ngành sản xuất sản phẩm có dung lượng vốn cao sẽ tăng lên.
Như vậy, sự quá độ từ nông nghiệp sang công nghiệp được hoàn thành
và nền kinh tế chuyển sang giai đoạn tiếp theo, đó là sự quá độ tư công nghiệp
sang dịch vụ. Giai đoạn ba kết thúc tức nền kinh tế đã phát triển đến giai đoạn
phát triển cao nhất.
1.4. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Lai Châu và bài
học kinh nghiệm cho tỉnh Điện Biên
1.4.1. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Lai Châu
Lai Châu cũ được tách thành hai tỉnh Lai Châu mới và tỉnh Điện Biên,
có điều kiện tự nhiên, khí hậu, thổ nhưỡng, địa lí tương đồng với nhau. Tổng
diện tích đất tự nhiên của tỉnh Lai Châu là 9.070,19km2; chủ yếu là các loại
đấ t đỏ , vàng nhạt phát triển trên đá cát , đá sé t và đá vôi , kế t cấ u khá chặ t chẽ .
Đất nông nghiệp đã sử dụng khoảng 64.299,9ha, trong đó đấ t ruộ ng lú a mà u
là 13.781,44ha, đât vườ n tạ p 1.0993ha, đấ t trồ ng cỏ chăn nuôi 5.978ha, mặ t
nướ c nuôi trồ ng thuỷ sả n 409ha. Đất lâm nghiệp đang có rừng là 283,667ha,
độ che phủ đạ t 31,3%; hầ u hế t là rừ ng phò ng hộ , trong đó rừ ng tự nhiên là
29
274,651 ha; rừ ng trồ ng trên 9,015 ha. Đất chuyên dùng có khoảng 4.489,61ha,
trong đó đấ t giao thông 2.982,52 ha, đấ t xây dự ng 377,26 ha, đấ t ở 1.918,443 ha.
Đất trống, đồ i nú i trọ c có khả năng sử dụ ng cò n rấ t lớ n, khoảng 525.862 ha, trong
đó đấ t bằ ng chưa sử dụ ng là 1.743,69 ha và đấ t đồ i nú i chưa sử dụ ng có khoả ng
524.118,87 ha. Đây là một khó khăn cũng là một tiềm năng lớn mà tỉnh Lai Châu
có thể đẩy mạnh phát triển kinh tế nông, lâm theo hướng sản xuất hàng hóa.
Về khoáng sản, ngoài những khoáng sản giống như Điện Biên, điểm
khác biệt là ở quy mô của trữ lượng khoáng sản. Lai Châu được đánh giá là
tỉnh có tiền năng về đất hiến lớn nhất cả nước, hiện nay đã ghi nhận bốn mỏ,
điểm khoáng sản đất hiếm trên diện tích của tỉnh, trong đó 3 mỏ đã được thăm
dò tính trữ lượng; tổng trữ lượng được tính là trên 21 triệu tấn TR2O3. Khoáng
chất công nghiệp gồm có barit và fluorit, hai loại khoáng sản được đánh giá
cùng với đất hiếm, trữ lượng và tài nguyên dự báo quặng barit cấp C2-P1 đạt
4,2 triệu tấn BaSO4 và quặng fluorit cấp C2-P1 đạt 2,9 triệu tấn CaF2. (Nguồn:
http://www.dulichlaichau.com/tai-nguyen-thien-nhien.html)
Tài nguyên khoáng sản rắn của Lai Châu có trữ lượng khá lớn cho phép
đầu tư khai thác đạt hiệu quả kinh tế. Vì vây, Lai Châu có cơ sở để coi công
nghiệp là một ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Tuy nhiên, việc khai thác chế
biến khoáng sản cần được cân nhắc kỹ lượng về mực độ khai thác, công nghệ
khai thác và cần có sự quản lý thật chặt chẽ linh vực này đảm bảo cho sự phát
triển bền vững.
Tài nguyên du lịch với diện tích tự nhiên trải rộng, địa hình đa dạng đã
tạo cho Lai Châu tiềm năng du lịch tự nhiên phong phú, hấp dẫn làm cơ sở
cho việc phát triển nhiều loại hình du lịch như sinh thái, vui chơi giải trí, nghỉ
dưỡng chữa bệnh, du lịch mạo hiểm, du lịch nhân văn…
Sau khi tách tỉnh, Lai Châu là tỉnh khó khăn nhất cả nước, cơ sở hạ
tầng hầu như phải xây dựng từ đầu. Nhưng đến nay, nhờ sự ủng hộ của trung
30
ương, các bộ, ban ngành, các tỉnh bạn, kinh tế tỉnh Lai Châu đã có bước phát
triển đáng kể, cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội từng bước được cải thiện rõ rệt.
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2004 -2007 đạt 11,8%, riêng
năm 2007 tốc độ tăng trưởng đạt 15,8%. Cơ cấu GDP chuyển biến theo hướng
giảm dần tỷ trọng khu vực nông nghiệp-lâm nghiệp-thủy sản, tăng dần tỷ trọng
khu vực phi nông nghiệp.
Bảng 1.1 Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế tỉnh Lai Châu 2004 - 2010
Năm 2004 2005 2007 2008 8/2010
Nông, lâm, thủy sản 49,47 45,30 40,10 36,41 34,00
Công nghiệp, xây dựng 22,70 25,40 29,70 33,46 35,00
Dịch vụ 27,60 29,30 30,20 30,13 31,00
Nguồn:http://laichau.gov.vn/Default.aspx?tabid=76&catid=376&temidclicked=376
Hình 1.1. Cơ cấu GDP phân theo ngành kinh tế tỉnh Lai châu 2004 - 2010 Nguồn:http://laichau.gov.vn/Default.aspx?tabid=76&catid=376&temidclicked=376
Như vậy, từ năm 2004 đến nay (8/2010), tỷ trọng ngành nông nghiệp,
lâm nghiệp, thủy sản đã giảm từ 49,70% xuống còn 34%, giảm 15,70% trong
31
bảy năm; tỷ trọng công nghiệp-xây dựng tăng từ 22,70% lên 35%, bình quân
mỗi năm tăng 1,76%; tỷ trọng ngành dịch vụ tăng từ 27,60% lên 31%, tăng
3,40%. Tốc độ tăng trưởng luôn trên 10%/năm và có xu hướng tăng lên qua
các năm. Thời kỳ 2004-2010 đánh dấu sự tăng trưởng tỷ trọng ngành công
nghiệp nhanh chóng, tác động mạnh mẽ đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
của tỉnh. Đây là thời kỳ đầu vừa tách tỉnh, đòi hỏi đẩy mạnh việc xây dựng hạ
tầng kinh tế, xã hội, do đó làm cho tỷ trọng ngành công nghiệp- xây dựng
tăng lên nhanh chóng và tương ứng với nó là sự giảm sút tỷ trọng của ngành
nông nghiệp-lâm nghiệp-thủy sản.
- Cơ cấu lao động
Bảng 1.2. Lao động đang làm việc phân theo ngành kinh tế tỉnh Lai
Châu 2004 - 2008
Đơn vị: người, %
Năm 2004 2005 2006 2007 2008
Sơ bộ 2009 168.246 133.927 138.727 146.342 152.062 160.171
87,17% 85,58% 83,85% 81,13% 80,68% 80,03% Nông, lâm, thủy sản
5.614 7.156 9.219 10.688 11.646 12.630
3,65% 4,42% 5,28% 5,70% 5,87% 6,01% Công nghiệp, xây dựng
14.104 16.217 18.970 24.683 26.720 29.347
Dịch vụ 9,18% 10,00% 10,87% 13,17% 13,45% 13,96
Nguồn: tính toán trên cơ sở số liệu của Niên giám thống kê tỉnh Lai Châu, 2009
Cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng lao động
nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng lao động phi nông nghiệp. Tốc độ chuyển dịch
chưa mạnh, lao động nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng áp đảo trong tổng số lao
động đang làm việc trọng các ngành kinh tế.
- Cơ cấu hàng xuất khẩu
32
Bảng 1.3. giá trị hàng hóa xuất khẩu tỉnh Lai Châu 2004 - 2008
Đơn vị: 1000 USD
Năm 2004 2005 2006 2007 2008
Tổng số 3.000,0 3.666,0 5.238,0 6.602,7 5.663,4
Hàng CN nặng và khoáng sản 1.010,0 1.566,0 948,5 551,7 3.058,0
Hàng CN nhẹ và tiểu thủ CN 680,0 761,0 2.082,5 3.170,0 2.452,0
Hàng nông sản 1.060,0 1.089,0 1.615,0 2.331,0 0
Hàng hóa khác 250,0 250,0 592,0 550,0 153,4
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Lai Châu, 2009
Như vây, trong tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu thì giá trị hàng công
nghiệp là chủ yếu, trong đó công nghiệp nặng và khoáng sản là lớn nhất. Giá trị
hàng hóa xuất khẩu có xu hướng tăng lên qua các năm (2004-2007), riêng năm
2008 đã có dấu hiệu giảm sút. Giá trị xuất khẩu hàng công nghiệp chiếm tỷ
trọng lớn và có xu hướng tăng lên trong tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu cho thấy
tiềm năng của ngành công nghiệp đúng như tỉnh đã xác định công nghiệp là một
trong những ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Tuy nhiên, các mặt hàng xuất
khẩu chủ yếu là mặt hàng thô như: quặng các loại, đá đen, chè khô, thảo quả…
- Đánh giá chung
Trong giai đoạn 2004-2010 tỉnh đã đạt được những thành tựu nhất định
về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Cơ cấu
ngành kinh tế chuyển biến theo hướng tích cực và khá vững chắc phù hợp với
xu thế phát triển và điều kiện tự nhiên kinh tế, xã hội của tỉnh. Cơ cấu lao
động chuyển biến phù hợp với xu hướng chuyển dịch của cơ cấu ngành kinh
tế. Giá trị hàng hàng công nghiệp xuất khẩu tăng và chiếm tỷ trọng lớn trong
cơ cấu giá trị hàng hóa xuất khẩu của tỉnh. Đạt được những kết quả đó, trước
hết phải kể tới vấn đề quy hoạch tổng thể, lựa chọn ngành, lĩnh vực ưu tiên
trên cơ sở tiềm năng thế mạnh của tỉnh đồng bộ ngay từ đầu. Trên cơ sở đó
33
tỉnh đã xác định các mặt hàng chủ lực để phát triển sản xuất đáp ứng nhu cầu
thị trường trong nước và xuất khẩu mà tỉnh có lợi thế như chè, lúa gạo, thịt
trâu, thảo quả, khoáng sản, vật liệu xây dựng… Công tác đào tạo, đào tạo tại
chỗ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nghiên cứu ứng dụng khoa học công
nghệ cũng đã được tỉnh quan tâm, coi là giải pháp lớn cho phát triển.
Tuy nhiên, cũng còn có những hạn chế, yếu kém:
Quy mô nền kinh tế còn nhỏ, năng suất lao động thấp, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế chưa mạnh. Sản xuất công nghiệp nhỏ bé. Nguồn thu ngân sách
địa phương không ổn định. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn
nhiều bất cập, thiếu đồng bộ. Chất lượng một số công trình xây dựng cơ bản
chưa đảm bảo, công tác quản lý, sử dụng sau đầu tư còn hạn chế. Chương
trình phát triển kinh tế cửa khẩu hiệu quả thấp.
Nguyên nhân yếu kém: do khó khăn vốn có của một tỉnh biên giới
miền núi, vừa tách tỉnh, cơ sở vật chất phải xây dựng mới từ đầu. Chất lượng
nguồn nhân lực còn thấp chưa đáp ứng được yêu cầu của phát triển. Vốn đầu
tư cho phát triển kinh tế xã hội còn phụ thuộc vào nguồn đầu tư từ ngân sách
trung ương, chưa huy động được nguồn vốn trong dân đầu tư vào sản xuất
kinh doanh. Hạ tầng kinh tế kỹ thuật, kinh tế xã hội còn yếu kém. Trình độ
khoa học công nghệ còn lạc hậu. Hệ thống chính sách chưa hoàn thiện, chưa
phát huy được nội lực. Trong những vấn đề trên thì hai rào cản lớn nhất cần
tập trung ưu tiên tháo gỡ đó là hạ tầng cơ sơ và hoàn thiện hệ thống chính
sách.
1.4.2. Bài học kinh nghiệm cho tỉnh Điên Biên
Qua việc phân tích đánh giá sơ bộ quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế ở tỉnh Lai Châu, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệp cho quá trình
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Điện Biên như sau:
34
- Cần có quy hoạch phát triển tổng thể, đồng bộ ngay từ đầu trên cơ sở
bám sát với thực tế. Lai Châu khi tách tỉnh về cơ bản phải xây dựng mới hoàn
toàn về cơ sở hạ tầng kinh tế, quy hoạch các vùng, ngành, lĩnh vực kinh tế.
Đây là khó khăn vì đòi hỏi nguồn đầu tư lớn từ ban đầu, nhưng đây cũng là
điều kiện để tỉnh có quy hoạch tổng thể, đồng bộ, thống nhất với quy hoach
vùng, tránh được sự chắp vá, vừa lãng phí vừa không hiệu quả. Tỉnh đã có
đánh giá tổng thể về tiềm năng thế mạnh của tỉnh, tranh thủ được và sử dụng
hiệu quả các nguồn vốn đầu tư từ ngân sách vào các chương trình, dự án, mục
tiêu quốc gia đói với các tỉnh miền núi đặc biệt khó khăn, thu hút đầu tư của
các doanh nghiệp, dân cư váo sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh
tế. Tính đến hết thời điểm 30/3/2009, hệ thống doanh nghiệp trên toàn tỉnh có:
454 doanh nghiệp, với tổng vốn đăng ký kinh doanh là 3.598.266 triệu đồng
và 244 chi nhánh và văn phòng đại diện.
- Cần lựa chọn ngành lĩnh vực ưu tiên đầu tư cho từng giai đoạn, đẩy
nhanh tiến độ thực hiện các chương trình dự án nhằm phát huy hiệu quả đầu
tư, tiết kiệm vốn đầu tư. Có các chính sách khuyến khích đầu tư cụ thể, phù
hợp với đặc thù của địa phương thu hút đầu tư.
- Chú trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đẩy mạnh cải cách
thủ tục hành chính, coi hoàn thiện hệ thống chính sách là điểm đột phá cho
phát triển, tăng cường chống tệ quan liêu tham nhũng, cải thiện môi trường
đẩu tư. Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ vào
sản xuất nhất là sản xuất khu vực nông nghiệp.
- Xác định những sản phẩm chủ lực để đầu tư phát triển đáp ứng thị
trường trong nước và hướng tới xuất khẩu. Phát triển mạnh kinh tế cửa khẩu,
hoạt động đối ngoại, thúc đẩy thương mại hàng hóa đối với các nước có
chung đường biên giới, trên có sở bảo vệ vững chủ quyền lãnh thổ quốc gia.
35
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ
TỈNH ĐIỆN BIÊN TỪ NĂM 2003 ĐẾN NĂM 2010
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế- xã hội ảnh hƣởng tới cơ cấu kinh tế
ở tỉnh Điện Biên
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Điện Biên
- Vị trí địa lý kinh tế
Điện Biên là tỉnh miền núi cao, biên giới; có diện tích tự nhiên rộng
9.562,9 km2, 50% diện tích có độ cao trên 1000m so với mực nước biển, 70%
diện tích có độ dốc 25 độ trở lên. Địa hình chia cắt, có nhiều sông, suối, là vùng
đầu nguồn của sông Đà, sông Mã và sông Mê Công. Phía Bắc giáp tỉnh Lai
Châu, phía Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Sơn La, phía Tây Bắc giáp với tỉnh Vân
Nam - Trung Quốc, phía Tây và Tây Nam giáp với Lào. Trên tuyến biên giới
Việt - Lào có 2 cặp cửa khẩu đó là: cửa khẩu chính Huổi Puốc - Na Son và cửa
khẩu Quốc tế Tây Trang - Xốp Hùn; trên tuyến biên giới Việt - Trung, có cặp
cửa khẩu A Pa Chải - Long Phú hiện đang hoàn tất các thủ tục để trình Chính
Phủ hai nước cho phép thành lập cửa khẩu chính.
Điện Biên nằm cách thủ đô Hà Nội 500 km theo đường bộ, có cảng
Hàng không Điện Biên Phủ đi Hà Nội và đã được Chính phủ cho phép mở
đường bay tới một số nước trong khu vực như: Lào, Myanma, Cam Pu Chia.
Tỉnh có 9 đơn vị hành chính gồm 01 thành phố, 1 thị xã và 7 huyện với
106 xã, phường, thị trấn.
Là tỉnh có vị trí quan trọng về quốc phòng - an ninh, là đầu mối giao
thông quan trọng giữa khu vực các tỉnh Tây Bắc, Việt Nam với các tỉnh Bắc
Lào và Vân Nam Trung Quốc.
- Đặc điểm về địa hình, khí hậu, thổ nhưỡng
36
Điện Biên có khí hậu nhiệt đới gió mùa núi cao. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 21 - 230C, lượng mưa trung bình hàng năm từ 1.700 - 2.500mm
nhưng phân bố không đều trong năm. Mưa lớn thường tập trung vào các tháng
6, 7, 8 và chiếm tới 80% lượng mưa cả năm. Độ ẩm không khí trung bình
hàng năm từ 80 - 85%. Số giờ nắng hàng năm bình quân từ 1.580 -1.800 giờ.
- Về tài nguyên thiên nhiên
+ Tài nguyên đất
Điện Biên có tổng diện tích tự nhiên là 956.290 ha. Trong đó: diện tích
đất đang sử dụng vào sản xuất nông, lâm nghiệp của Điện Biên có 711.230,9
ha, chiếm 74,37% diện tích tự nhiên của tỉnh, trong đó đất sử dụng vào lâm
nghiệp chiếm 61,7% diện tích đất tự nhiên (diện tích đất có rừng là khoảng
401.000 ha, chiếm 44% diện tích tự nhiên); đất mặt nước nuôi trồng thủy sản là
778 ha, chiếm 0,08% diện tích tự nhiên của tỉnh. Đất chưa sử dụng của Điện
Biên còn rất lớn, với 225.594 ha, chiếm 23,6% tổng diện tích tự nhiên, cùng
với khoảng 189.000 ha đất lâm nghiệp chưa có rừng, tuy hầu hết là đất dốc chỉ
thích hợp để phát triển sản xuất lâm nghiệp nhưng được xác định là nguồn tài
nguyên quí giá, một thế mạnh cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
+ Tài nguyên nước và thủy năng
Với lượng mưa hàng năm khá lớn, hệ thống ao hồ và sông suối nhiều (toàn
tỉnh có hơn 10 hồ lớn và hơn 1.000 sông suối lớn nhỏ phân bố tương đối đồng đều
trong tỉnh) nên nguồn nước mặt ở Điện Biên rất phong phú theo 3 hệ thống sông
chính là sông Đà, sông Mã và sông Mê Kông. Sông Đà trên địa bàn Điện Biên có
các phụ lưu chính là Nậm Ma, Nậm Bum, Nậm Pô, Nậm Mức... với tổng diện tích lưu vực khoảng 5.300 km2, chiếm 55% diện tích tự nhiên của tỉnh.
Hệ thống sông Mã có các phụ lưu chính là sông Nậm Khoai thuộc
huyện Tuần Giáo và sông Nậm Mạ thuộc huyện Điện Biên với diện tích lưu vực 2.550 km2. Đây là hệ thống sông lớn thứ hai của tỉnh.
37
Hệ thống sông Mê Kông có diện tích lưu vực là 1.650 km2 với các
nhánh chính là sông Nậm Rốm, Nậm Núa.
Đặc điểm chung của các sông suối trong tỉnh là có độ dốc lớn, lắm thác
nhiều ghềnh, nhất là các sông suối thuộc hệ thống sông Đà và sông Nậm
Rốm. Chất lượng nước tương đối cao, ít bị ô nhiễm.
+ Tài nguyên khoáng sản
Tài nguyên khoáng sản ở Điện Biên chưa được thăm dò đánh giá kỹ.
Qua tra cứu các tài liệu lịch sử liên quan cho thấy, Điện Biên có nguồn tài
nguyên khoáng sản đa dạng về chủng loại, gồm các loại chính như: nước
khoáng, than mỡ, đá vôi, đá đen, đá granit, quặng sắt và kim loại màu,...
nhưng trữ lượng thấp và nằm rải rác trong tỉnh. Sơ bộ cho thấy, các khoáng
sản chính ở Điện Biên gồm có:
Sắt có phân bố rải rác ở các huyện Điện Biên, Tuần Giáo và Mường
Chà với quy mô nhỏ, chỉ ở mức điểm quặng và chưa xác định được trữ lượng.
Chì - kẽm phân bố tập trung quanh huyện Điện Biên, Điện Biên Đông,
Tủa Chùa và thành phố Điện Biên Phủ, hiện nay có điểm quặng chì kẽm ở
khu vực Tuần Giáo đang hoạt động.
Đồng qua khảo sát sơ bộ phát hiện mỏ đồng ở khu vực Chà Tở huyện
Mường Chà với trữ lượng khá lơn nhưng chưa được thăm dò đánh giá cụ thể.
Nhôm và nhôm - sắt có triển vọng ở xã Phình Sáng huyện Tuần Giáo
với trữ lượng cấp P khoảng 40 - 50 triệu tấn.
+ Tiềm năng du lịch: được thiên nhiên ưu đãi với địa hình đa dạng,
nhiều sông, hồ và những cảnh quan đẹp... Điện Biên các vùng sinh thái tự
nhiên khá lớn để phục vụ và phát triển du lịch, như: hồ Pa Khoang, rừng
nguyên sinh Mường Nhé, Mường Toong, rừng Mường Phăng, động Pa Thơm,
hang Thẩm Púa, các điểm suối khoáng nóng Hua Pe, U Va (Điện Biên), bản
Sáng (Tuần Giáo) tương lai có hồ thủy điện Sơn La... là một trong những điểm
38
du lịch hấp dẫn. Bên cạnh đó, Điện Biên còn có nhiều di tích lịch sử gắn với
công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc, tiêu biểu là các di tích như:
Tháp Mường Luân, thành Tam Vạn, thành Bản Phủ, đền thờ Hoàng Công Chất
và đặc biệt là cụm di tích chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ ... Đây là những
tiềm năng quý để khai thác phát triển dịch vụ du lịch. - Đặc điểm về dân số, văn hóa, nguồn nhân lực
+ Dân số toàn tỉnh hiện nay khoảng 493.007 người, trong đó nam
chiếm 50,17%, còn nữ chiếm 49,83%. Tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên là
1,728% cao hơn mức trung bình của cả nước. Xét về không gian sinh sống thì
toàn tỉnh tỷ lệ dân số sống ở nông thôn chiếm tới 84,84%. Mật độ dân số trung bình toàn tỉnh là 51,6 người/km2. Toàn tỉnh có 21 dân tộc anh em cùng
sinh sống với các đặc điểm văn hóa truyền thống khác nhau tạo nên bản sắc
văn hóa rất đa dạng đặc trưng của vùng Tây Bắc.
+ Hiện nay, số lao động đang làm việc trong các ngành của nền kinh tế
là 260.471 người. Trong tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế có
26,90% số lao động đã qua đào tạo, trong đó trình độ trên đại học là 0,38%;
trình độ cao đẳng, đại học là 7,14%; trình độ trung cấp là 11,60%; và trình độ
sơ cấp, công nhân kỹ thuật là 7,78%. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị là 4,30%
còn ở nông thôn số ngày làm việc trung bình trong năm là 306 ngày. Tuy
nhiên, khó có thể thống kê chính xác tương đối mức độ thiếu việc làm ở khu
vực nông thôn (số liệu lấy tư niên giám thống kê tỉnh, năm 2009)
2.1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh
tế của tỉnh Điện Biên
- Đặc điểm các nguồn lực của tỉnh Điện Biên
+ Nguồn vốn
Như đã trình bày ở trên, vốn là nhân tố quan trọng có ảnh hưởng rất lớn
đến quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu
39
ngành kinh tế. Và vốn cũng là vấn đề khó khăn với hầu hết các nước đang
phát triển. Tỉnh Điện Biên là tỉnh miên núi còn nhiều khó khăn, vốn đầu tư
cho phát triển kinh tế chủ yếu dựa vào nguồn ngân sách của nhà nước, các
nguồn vốn trong dân chúng và các kênh khác không huy động được vì vậy
vốn là vấn đề khó khăn rất lớn của tỉnh. Tổng vốn đầu từ năm 2009 hơn 5000
tỷ đồng, trong đó, 58,75% là nguồn vốn tư ngân sách nhà nước, vốn ngoài
quốc doanh chiếm 27,29%. Với hạn chế về nguồn vốn như vậy, lựa chọn cơ
cấu đầu tư hợp lí là nhân tố quyết định rất lớn đến tốc độ tăng trưởng và
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế một cách bền vững. Trong thời gian trước
mắt Điện Biên không thể đầu tư vào những ngành, những lĩnh vực đòi hỏi vốn
đầu tư lớn mà chỉ nên đầu tư vào những ngành, lĩnh vực đòi hỏi vốn đầu tư ít,
thời gian thu hồi vốn nhanh mà tỉnh có lợi thế.
+ Nguồn lao động: Điện Biên có nguồn lao động tương đối dồi dào,
58% dân số trong độ tuổi lao động nhưng hầu hết lao động đang làm việc ở
khu vực nông, lâm, chiếm hơn 80%, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo thấp, chất
lượng cũng còn rất hạn chế. Trình độ văn hóa dân cư còn thấp, hàng năm có
khoảng hơn 14 nghìn học sinh phổ thông trung học, do rơi rụng qua các bậc
học dưới. Tác phong làm việc của người lao động còn rất tùy tiện, nhất là lao
động nông nghiệp, nông thôn.
Với số lượng và chất lượng nguồn lao động như vậy chưa thể phát triển
những ngành đòi hỏi lao động có trình độ, tay nghề cao trong tương lai gần.
Phát triển khu vực nông nghiệp hàng hóa hướng tới nền nông nghiệp chất
lượng cao là phù hợp, tạo công ăn việc làm, thu nhập cho người lao động
nông thôn, thúc đẩy chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp, nông thôn, nâng
cao chất lượng nguồn lao động tạo bước đà cho giai đoạn phát triển tiếp theo.
+ Nguồn tài nguyên
40
Tỉnh Điện Biên có diện tích đất đai lớn, diện tích đất đai bình quân trên
đầu người vào khoảng 1,94 ha/người, diện tích đất chưa sử dụng còn nhiều,
bên cạnh đó với tình hình khí hậu, thời tiết, thổ nhưỡng phong phú, đa dạng là
điều kiện thuận lợi để phát triển nhiều loại nông, lâm sản hàng hóa có giá trị
kinh tế cao như lúa gạo đặc sản ở cánh đồng Mường Thanh, ngô, đậu tương ở
Tuần Giáo, chè Tuyết Shan ở Tủa Chùa, Pú Nhi - Điện Biên Đông, Mường
Phăng - huyện Điện Biên; cà phê ở Điện Biên, Mường Ảng, chăn nuôi đại gia
súc ở địa bàn Mường Nhé, khu vực Si Pa Phìn huyện Mường Chà. Phát triển
rừng sản xuất với các loại cây cao su, thông, cọ khiết, nguyên liệu gỗ ván
dăm, bột giấy với diện tích quy hoạch 289 ngàn ha. Đặc biệt khu quy hoạch
bảo tồn thiên nhiên Mường Nhé với diện tích rừng nguyên sinh còn khá lớn
với các loài động thực vật phong phú là tài nguyên quý để bảo tồn và xây
dựng hình thành vườn quốc gia tại khu vực này. Đây là những lợi thế để khai
thác, phát triển nền nông nghiệp đa dạng (lương thực, chăn nuôi, cây công
nghiệp, rừng …) với chất lượng cao gắn với công nghiệp chế biến.
Tiềm năng phát triển sản xuất công nghiệp: Điện Biên có tài nguyên công
nghiệp khoáng sản và thủy điện khá phong phú nhưng chỉ cho phép khai thác ở
quy mô nhỏ, dẫn tới suất đầu tư khá cao, hiệu quả kinh tế thấp. Do đó, việc thu
hút đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp này là tương đối khó khăn trong điều kiện
hiện nay và trong cả giai đoạn trước mắt. Vì vây, việc khuyến khích đầu tư vào
lĩnh vực công nghiệp năng là chưa phù hợp. Tuy nhiên, với thuận lợi về đất đai
cho phát triển sản xuất nông lâm nghiệp, cùng với hệ thống giao thông được
nâng cấp, hoàn thiện sẽ là những cải thiện đáng kể để nâng cao lợi thế cạnh tranh
của Điện Biên trong phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản với các dự án
tiềm năng về chế biến gạo đặc sản xuất khẩu gắn với canh tác trên cánh đồng
Mường Thanh, chế biến các sản phẩm từ gỗ gắn với phát triển rừng nguyên liệu,
chế biến các loại nông lâm sản khác như chè, cà phê, cao su...
41
Về phát triển dịch vụ: Điện Biên nằm ở ngã 3 biên giới giáp với cả 2
nước Trung Quốc và Lào; trên khu vực biên giới Việt – Lào đã mở cửa khẩu
Quốc tế Tây Trang – Xốp Hùn và cửa khẩu chính Huổi Puốc – Na Son (hiện
đang hoàn tất các thủ tục để công bố khai trương cửa khẩu chính); trên tuyến
biên giới Trung Quốc có cặp cửa khẩu A Pa Chải – Long Phú, hiện đang hoàn
tất thủ tục để khai thông của khẩu với quy mô là cửa khẩu quốc gia.
Khu kinh tế cửa khẩu Tây Trang đã được đầu tư xây dựng một số hạng
mục chính là điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư tìm kiếm các cơ hội đầu tư
cơ sở sản xuất kinh doanh thương mại, xuất nhập khẩu với các tỉnh Bắc Lào
và khu vực Tây Nam Trung Quốc.
Điện Biên có đường biên giới với 2 quốc gia Trung Quốc và Lào, là
cầu nối thuận lợi của khu vực Bắc Bộ với các tỉnh Bắc Lào và khu vực Tây
Nam Trung quốc, bên cạnh các tuyến đường quốc lộ đang được đầu tư nâng
cấp, Điện Biên là tỉnh duy nhất ở khu vực miền núi phía Bắc có sân bay được
quy hoạch là sân bay Quốc tế tiểu vùng. Hiện đang khai thác đường bay Hà
Nội – Điện Biên với tần suất 2 chuyến/ngày.
- Mức độ phát triển các thị trường ở tỉnh Điện Biên và khả năng tiếp
cận các thị trường lớn hơn. Tỉnh có quy mô dân số không lớn lại phân bổ
phân tán, thu nhập trung bình của người dân còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao,
trình độ dân trí thấp. Do vậy dung lượng thị trường thấp và mới dừng chủ yếu
ở thị trường hàng hóa thiết yếu cho tiêu dùng và sản xuất. Trong đó nhu cầu
về hàng hóa tiêu dùng thiết yếu chiếm ưu thế cơ bản. Các loại thị trường như
thị trường vốn, thị trường lao động mới manh nha hình thành, còn rất lạc hậu,
về cơ bản là chưa có thị trường khoa học công nghệ… Khả năng tiếp cận các
thị trường bên ngoài của các sản phẩm hàng hóa của tỉnh còn rất hạn chế, chủ
yếu là các sản phẩm nông nghiệp như lương thực, thực phẩm, đồ gỗ, bột
giấy….tính cạnh tranh không cao.
42
- Môi trường thể chế, chính sách
Tệ quan liêu tham nhũng diễn biến phức tạp không chỉ làm ảnh hưởng
tới đời sống dân cư mà điều quan trọng là làm cho chất lượng môi trường đầu
tư không được cải thiện, làm mất lòng tin của nhân dân và không khuyến
khích các cá nhân, tổ chức đầu tư phát triển kinh tế. Cùng với điều đó là các
nguồn lực không được huy động và phân bổ có hiệu quả, vốn đầu tư từ ngân
sách nhà nước luôn chiếm ưu thế. Công tác cán bộ chậm đổi mới, trình độ
năng lực còn hạn chế, ý thức trách nhiệm của một bộ phận cán bộ chưa cao.
Một bộ phận cán bộ đảng viên và nhân dân còn tư tưởng ỷ lại, chưa đổi mới
tư duy về phát triển kinh tế, tập quán tự cấp, tự túc ở một số nơi vẫn còn nặng
nề, chậm tiếp cận với kinh tế thị trường.
- Trình độ khoa học công nghệ: nhìn chung trình độ, mức độ áp dụng
khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh ở tỉnh còn rất yếu kém. Đây là
một hiện thực tất yếu đối với một tỉnh miền núi biên giới, kinh tế đặc biệt khó
khăn.
2.2. Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Điện Biên
2.2.1. Tóm lược quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế giai
đoạn 1986-2003
Trong khuôn khổ của luận văn, tác giả chỉ tập trung phân tích cơ cấu ngành
kinh tế và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời gian từ năm 2003 đến năm
2010. Nhưng để có cái nhìn đầy đủ toàn diện quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế ở tỉnh Điện Biên, tác giả trình bày sơ lược quá trình chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế giai đoan trước khi tách tỉnh từ 1986 đến 2003. Tác giả sẽ sử dụng
chủ yếu các chỉ tiêu về cơ cấu GDP, cơ cấu lao động phân theo ngành kinh tế để
phân tích quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Điện Biên.
43
Năm 1985
Năm 2003
Hình 2.1. Cơ cấu GDP phân theo ngành kinh tế tỉnh Điện Biên 1985-2003 Nguồn: Niên giám thống kê Điện Biên năm 2005 Sau khi chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang cơ chế thị
trường đã thực sự tạo cho sức sản xuất được bung ra cơ cấu ngành kinh tế có sự
chuyển biến theo hướng tích cực. Tỷ trọng giá trị ngành nông, lâm nghiệp và
thủy sản có chiều hướng giảm dân từ 58,82% năm 1985 xuống còn 42,56%
năm 1995 và đến năm 2003 tỷ trọng này còn có 38,65%. Tỷ trọng ngành công
nghiêp, xây dựng có xu hướng tăng, từ 5,37% năm 1985 lên 27,84% năm 2003,
bình quân tăng hơn 1,2% một năm. Trong khi đó ngành dịch vụ lại có xu
hướng giảm mặc dù giảm không đáng kể, từ 35,81% năm 1985 xuống còn
33,51% năm 2003, bình quân giảm có khoảng 0,12% một năm. Như vậy, nhìn
một cách tổng quát thì cơ cấu ngành kinh tế thay đổi giai đoạn này chủ yếu là
do sự biến động của hai nhóm ngành công nghiệp và nông nghiệp là chủ yếu.
44
Cơ cấu lao động làm việc trong các ngành kinh tế gần như không có sự
biến đổi đáng kể nào trong thời gian từ 1986 đến 2003. Nếu như tổng số lao
động tăng từ 128.403 người năm 1985 lên 231.877 người, tăng thêm 80,59%
so với năm 1985, trong đó lao động tăng thêm trong khu vực nông nghiệp
chiếm tới 83,96% tổng số lao động tăng thêm. Chính vì vậy, tỷ trọng lao động
trong khu vực nông nghiệp lại có chiều hướng tăng lên, từ 81% năm 1985 lên
82,34% năm 2003. Điều này trái với xu hướng chuyển dịch cơ cấu GDP theo
ngành kinh tế. Sự tăng lên của tỷ trọng lao động trong khu vực nông nghiệp
tương ứng với sự giảm sút tỷ trọng lao động làm việc trong ngành dịch vụ,
còn ngành công nghiệp, xây dựng tỷ trọng lao động tăng lên không đáng kể.
Tóm lại, nếu xét về thực chất thì cơ cấu ngành kinh tế trong giai đoạn
này không có sự chuyển biến đáng kể nào, cơ cấu GDP có một chút biến đổi
theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, xây dựng và giảm tỷ trọng
ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản nhưng tỷ trọng lao động trong khu vực
nông nghiệp lại tăng lên. Điều đó chứng tỏ năng suất lao động trong khu vực
nông nghiệp còn rất thấp. Riêng ngành dịch vụ thì giảm cả về tỷ trọng trong
cơ cấu GDP và trong cơ cấu lao động.
2.2.2. Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế giai đoạn 2003-
2010
2.2.2.1. Cơ cấu ngành kinh tế vĩ mô
Sau khi tách tỉnh, kinh tế tỉnh Điện Biên có tốc độ tăng trưởng cao hơn
rõ rệt, tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm 2006-2010 đạt 11,55% một năm,
GDP theo giá so sánh năm 2010 tăng gấp 1,8 lần so với năm 2005. Cơ cấu
ngành kinh tế có sự chuyển biến theo hướng tích cực.
45
Bảng 2.1. Cơ cấu GDP phân theo ngành kinh tế tỉnh Điện Biên 2003 - 2010
Đơn vị: %
Năm 2003 2005 2006 2007 2008 2009 2010
Nông, lâm nghiệp, thủy sản 38,65 37,15 35,87 37,02 37,09 35,61 34,70
Công nghiệp, xây dựng 27,84 26,67 25,11 24,83 25,67 27,67 28,40
Dịch vụ 33,51 35,95 39,02 38,15 37,24 36,73 36,90
Nguồn: Niên giàm thống kê - Cục thống kê tỉnh Điên Biên năm 2005, 2009 và Báo cáo
chính trị Đại hội lần thứ XII Đảng bộ tỉnh 2010.
Hình 2.2. Cơ cấu GDP phân theo ngành kinh tế tỉnh Điện Biên 2003-2010 Nguồn: Niên giàm thống kê - Cục thống kê tỉnh Điên Biên năm 2005, 2009 và Báo cáo
chính trị Đại hội lần thứ XII Đảng bộ tỉnh 2010.
Bảng 2.1 cho thấy, nếu xét bình quân cả giai đoạn 2004-2010, cơ cấu
ngành kinh tế chuyển dịch theo hướng tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp, thủy
sản giảm dần, tỷ trọng ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng dần. Cụ
thể, tỷ trọng ngành nôn,g lâm nghiệp, thủy sản, giảm bình quân 0,56%/năm.
Tỷ trọng ngành công nghiệp, xây dựng tăng bình quân 0,08%/ năm. Tỷ trọng
ngành dịch vụ tăng với mức cao hơn mức tăng của ngành công nghiệp, xây
dựng, bình quân tăng hơn 0.48% một năm. Mức tăng tỷ trọng bình quân trong
46
thời gian 7 năm của ngành dịch vụ cao gần gấp đôi mức tăng bình quân tỷ
trọng của ngành công nghiệp, xây dựng là một dấu hiệu tốt thể hiệu mức sống
của dân cư đã từng bước được nâng lên. Tỷ trọng ngành công nghiệp tăng
chậm hơn rất nhiều so với giai đoạn 1986-2003 là vì: khu vực công nghiệp
chủ yếu dựa vào ngành chế biến lương thực, thực phẩm ở trình độ sơ chế do
cá thể đầu tư đã ở mức dung hòa nhưng lại không có điều kiện đầu tư chế biến
sâu trong khi nhà nước không quan tâm đầu tư vào lĩnh vực này.
Cũng tư số liệu về cơ cấu GDP qua các năm dễ dàng nhận thấy cơ cấu
ngành kinh tế của tỉnh biến đổi không vững chắc. Ngành công nghiệp, xây
dựng có xu hướng giảm trong giai đoạn 2004-2007, mức thấp nhất đạt
24,83% vào năm 2007, giảm 3% so với năm 2004; giai đoạn 2008-2010 có xu
hướng tăng trở lại.
Tỷ trọng đầu tư vào sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản có xu hướng
giảm mạnh qua các năm và tương ứng với nó tỷ trọng vốn đầu tư vào công
nghiệp, xây dựng thì tăng lên. Điều này là không hợp lí với điều kiện kinh tế
xã hội của tỉnh Điện Biên. Mặt khác cơ cấu vốn đầu tư cũng cho thấy một sự
thiếu ổn định trong đầu tư vào các ngành.
Bảng 2.2. Tỷ trọng vốn đầu tư theo ngành kinh tế tỉnh Điện Biên 2005- 2009
Đơn vị: %
Năm 2005 2006 2007 2008 2009
Nông, lâm, thủy sản 8,43 6,64 5,65 5,55 4,06
Công nghiệp, xây dựng 22,35 17,38 33,39 30,46 34,89
Dịch vụ 69,32 75,98 60,96 63,99 61,05
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Điện Biên 2009
Cơ cấu đầu tư trực tiếp ảnh hưởng tới cơ cấu ngành kinh tế, do đó, cơ
cấu đầu tư chưa hợp lí dẫn đến phân bổ nguồn lực không hiệu quả vừa gây
47
lãng phí vừa làm cho cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch không bền vững,
không khai thác được hết các tiềm năng của tỉnh cho tăng trưởng kinh tế.
2.2.2.2. Cơ cấu trong nội bộ ngành
Ở phần trên ta đã phân tích quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
qua các năm của thời kỳ 2003-2010 và đã thấy được sự biến động chung là
tích cực. Để có nhận xét đúng hơn về tốc độ và chất lượng chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế, cần đi sâu phân tích quá trình chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ
các ngành cấp một.
a. Ngành nông, lâm, thủy sản
Cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp tuy có sự chuyển dịch nhưng giá trị
sản xuất ngành nông nghiệp vẫn chiến ưu thế tuyệt đối và có xu hướng tăng
cả về giá trị sản xuất lẫn tỷ trọng.
Bảng 2.3: Cơ cấu giá trị sản xuất trong nội bộ ngành nông, lâm, thủy sản tỉnh
Điện Biên
Đơn vị: %
Năm 2003 2006 2009 ( 2009) trừ (2003)
Nông nghiệp 73,39 79,02 79,58 + 6,19
Lâm nghiệp 25,28 19,74 19,00 - 5,72
Thủy sản 1,33 1,24 1,42 + 0,09
Nguồn: Tính toán trên cơ sở số liệu của niên giám thống kê tỉnh năm 2005, 2009.
Qua số liệu cho thấy, cơ cấu ngành nông- lâm- thủy sản hầu như không
có sự thay đổi tích cực đáng kể nào, thậm chí còn có sự gia tăng tỷ trọng giá
trị sản xuất của ngành nông nghiệp từ 73,39% năm 2003 lên mức 79,58%
năm 2009. Tỷ trọng giá trị sản xuất của ngành thủy sản gần như không thay
đổi trong khi tỷ trọng giá trị sản xuất của ngành lâm nghiệp lại có sự giảm sút
tương ứng với mức tăng tỷ trọng của ngành nông nghiệp. Đây là điều cần
được quan tâm, vì điều kiện phát triển lâm nghiệp là rất lớn ở tỉnh Điện Biên:
48
với diện tích đất sử dụng vào sản xuất nông nghiệp là 120.359 ha, chiếm
12,58% diện tích tự nhiên; đất lâm nghiệp là 590.031 ha, chiếm 61,7% diện
tích đất tự nhiên, nhưng ngành lâm nghiệp mới đóng góp 8,05% vào GDP
toàn tỉnh.
- Ngành nông nghiệp
Từ năm 2003 đến nay, ngành nông nghiệp phát triển khá toàn diện và
ổn định. Cơ cấu các phân ngành trồng trọt, chăn nuôi có sự chuyển biến tích
cực và khá vững chắc. Tuy nhiên, mức độ chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ
khu vực nông nghiệp vẫn rất chậm, các ngành sản xuất truyền thống vẫn
chiếm vị trí chủ đạo trọng toàn ngành, trình độ sản xuất vẫn lạc hậu, tính chất
hàng hóa của sản xuất và các sản phẩm còn nhiều hạn chế.
Bảng 2.4: Cơ cấu giá trị sản xuất ngành trồng trọt, chăn nuôi và dịch vụ
tỉnh Điện Biên 2003 - 2009
Đơn vị: %
Năm 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Trồng trọt 83,55 81,29 77,76 77,48 74,43 73,50 73,46
Chăn nuôi 15,98 18,32 21,52 21,63 23,36 25,71 25,52
Dịch vụ 0,47 0,39 0,72 0,89 2,21 0,79 1,02
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Điện Biên 2005, 2009
Bảng 2.4 cho thấy, tỷ trọng ngành trồng trọt có xu hướng giảm xuống
còn tỷ trọng ngành chăn nuôi lại có xu hướng tăng đều qua các năm. Trong
thời gian 2003 - 2009, tỷ trọng ngành trồng trọt giảm gần 10%; tương ứng với
đó, tỷ trọng ngành chăn nuối tăng gần 10%; ngành dịch vụ trong nông nghiệp
vẫn chiếm một tỷ trọng rất khiêm tốn trong tổng giá trị sản xuất của ngành
nông nghiệp. Đây cũng là điều kiện không thuận lợi cho ngành nông nghiệp
phát triển mạnh theo hướng sản xuất hàng hóa. Như vậy, sự thay đổi cơ cấu
các phân ngành trong nội bộ ngành nông nghiệp là do sự thay đổi về tỷ trọng
49
giữa hai phân ngành trồng trọt và chăn nuôi và sự thay đổi tương đối đều đặn
qua các năm. Cơ cấu ngành nông nghiệp đã có sự chuyên dịch tích cực theo
hướng giảm dần tỷ trọng ngành trồng trọt và tăng dần tỷ trọng ngành chăn
nuôi. Nhưng xét tổng thể thì ngành trồng trọt vẫn là chủ đạo trong sản xuất
nông nghiệp cho dù chỉ số phát triên bình quân của phân ngành chăn nuôi và
dịch vụ có xu hướng cao hơn chỉ số phát triển của ngành trồng trọt.
Về cơ cấu cây trồng: nhìn chung giá trị sản xuất cây lương thực vẫn
chiếm tỷ trọng lớn so với các loại cây trồng khác và hầu như không có sự thay
đổi trong thời gian qua. Nếu như năm 2005 giá trị sản xuất cây lương thực
chiếm tỷ trọng 66% tổng giá trị sản xuất ngành trồng trọt thì đến năm 2009
vẫn chiếm tới 65%. Ngoài nhóm cây công nghiệp hàng năm có tỷ trọng giá trị
sản xuất giảm, cơ cấu giá trị sản xuất các loại cây râu đậu, cây ăn quả, cây
công nghiệp lâu năm đều tăng nhưng không đáng kể và vẫn chiếm tỷ trọng rất
khiêm tốn trong tổng giá trị sản xuất. Như vây, cơ cấu ngành trồng trọt đã
chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng sản xuất các nhóm cây trồng có giá
trị gia tăng thấp sang nhóm cây trồng có giá trị gia tăng và thị trường lớn hơn,
cho dù mức độ chuyển dịch còn chậm, chưa khai thác hết lợi thế của tỉnh có
đặc điểm đất đai, thổ nhưỡng phù hợp cho phát triển cây công nghiệp.
Đối với ngành chăn nuôi: chăn nuôi đại gia súc vẫn chiếm ưu thế phù
hợp với điều kiện của tỉnh, số lượng các loại gia súc đều tăng, năm 2005 lợn
có 210.616 con, trâu có 104.366 con, bò có 27.633 con và đến năm 2009 đã
tăng lên 262.948 con lơn, 111.052 con trâu và 36.341 con bò. Chỉ số phát
triển bình quân của ngành chăn nuôi là 12,196%/năm cao hơn chỉ số phát
triển của ngành nông nghiệp. Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi tăng bình quân
8,53%/năm cao hơn so với mức 6,4%/năm của ngành nông nghiệp trong giai
đoạn 2005 - 2010. Tuy vậy, để phát triển mạnh ngành chăn nuôi cần thay đổi
cách thức chăn nuôi phân tán thả dông tự nhiên, thiếu các biện pháp kỹ thuật
50
chăm sóc và phòng, chữa bệnh sang chăn nuôi tập trung hơn trên cơ sở tăng
cường các biện pháp kỹ thật và thú y, tạo ra khối lượng hàng hóa lớn đáp ứng
nhu cầu thị trường.
Kinh tế trang trại đã bước đầu hình thành và đạt được những kết quả
nhất định, tổng số trang trại trong tỉnh tăng từ 139 trang trại năm 2005 lên 186
trang trại năm 2009. Đây là sự phát triển tất yếu hợp với quy luật phát triển.
Như vây, nhìn một cách chung nhất thì cơ cấu ngành nông nghiệp tuy
có sự chuyển dịch tích cực nhưng vẫn còn chậm chưa phát huy hết tiềm năng,
sản xuất nông nghiệp truyền thống lấy việc trồng cây lương thực vẫn chiếm
ưu thế. Tuy nhiên ngành nông nghiệp cũng đạt được những thành tựu có ý
nghĩa đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói riêng và
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nói chung:
Thứ nhất, sản lượng lương thực bình quân đầu người đạt 435kg/người,
đảm bảo cân đối lương thực và có sản phẩm hàng hóa. Đây là cơ sở cho
những bước tiếp theo của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế cũng như công
nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
Thứ hai, sản xuất theo kiểu trang trại đã bước đầu được hình thành phù
hợp với kinh tế thị trường. Công cuộc đổi mới trong lĩnh vực nông nghiệp bắt
đầu từ chỉ thị 100 CT/TW (1/1981) và sau đó là Nghị quyết số 10-NQ/TW
(4/1988), đã giải phóng nền sản xuất nông nghiệp khỏi những hạn chế của
hợp tác xã nông nghiệp kiểu cũ, tái lập lại hình thức sản xuất nông nghiệp
hàng hóa với kinh tế hộ là đơn vị kinh tế cơ bản. Sự tái lập hình thức kinh tế
hộ trong khuôn khổ chuyển đổi cơ chế sang kinh tế thị trường tuy là loại hình
kinh tế hàng hóa nhỏ, nhưng phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất trong nông nghiệp. Do đó loại hình kinh tế hộ đã phát huy được vai trò
động lực chủ yếu tạo ra những thành tựu to lớn vế sản xuất lúa gạo. Sự phát
triển của sản xuất nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
51
chịu sự chi phối của quy luật thị trường. Nhưng đến nay, kinh tế nông hộ đã
bộc lộ những hạn chệ trong việc phát triển nền sản xuất hàng hóa nông sản
lớn hiện đại đáp ứng yêu cầu phát triển của kinh tế thị trường toàn cầu. Hiện
nay, kinh tế trang trại mới bước đầu hình thành nhưng đây là điều kiện quan
trọng của chính sách phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
trong những năm tới.
Thứ ba, bước đầu hình thành nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa. Tỷ lệ
các loại hàng hóa nông sản đang chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trên thị trường.
Người nông dân đã bước đầu hình thành thói quen sản xuất nhằm để bán trên
thị trường. Đây thực sự là tập quán có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển của
nền nông nghiệp hàng hóa và có tác động mạnh mẽ đến chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
- Ngành lâm nghiệp
Mặc dù không đáng kể nhưng giá trị sản xuất ngành lâm nghiệp vẫn có
xu hướng tăng qua các năm. Theo giá so sánh năm 1994, giá trị sản xuất
ngành lâm nghiệp năm 2003 là 131.149 triệu đồng, năm 2004 là 127.076 triệu
đồng, năm 2005 là 132.326 triệu đồng, năm 2006 là 134.651 triều đồng, năm
2007 là 137.637 triệu đồng, năm 2008 là 140.268 triệu đồng và năm 2009 là
156.894 triệu đồng. Về cơ cấu ngành lâm nghiệp trong toàn ngành nông, lâm
nghiệp, thủy sản có xu hướng giảm, từ 9,75% năm 2004 xuống còn 8,11%
năm 2008 và sơ bộ năm 2009 là 8,05%; tổng diện tích rừng hiện có năm 2009
là 397.619 ha, trong đó có 379.268 ha rừng tự nhiên và 18.351 ha rừng trồng.
Với một tỉnh miền núi chủ yếu là đồi núi, đất trồng rừng nhưng mức đống góp
của ngành lâm nghiệp còn khiêm tốn cả về giá trị tuyệt đối lẫn tỷ trọng trong
tổng giá trị sản xuất của ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản và có xu hướng
giảm đi. Người dân sống trong môi trường rừng là rất lớn nhưng số lao động
52
thực sự làm nghề rừng thì lại rất ít, đây là một thách thức đối với phát triển
bền vững của ngành lâm nghiệp cũng như của tỉnh Điện Biên.
- Ngành thủy sản
Ngành thủy sản vẫn có mực đóng góp rất nhỏ bé vào giá trị sản xuất
của ngành nông nghiệp nói chung. Giá trị sản xuất theo giá so sánh năm 1994,
năm 2005 ngành thủy sản đạt 7.150 triệu đồng đến năm 2009 đạt 11.685 triệu
đồng; về tỷ trọng, giá trị sản xuất của ngành thủy sản chỉ chiếm có 0,79% giá
trị sản xuất toàn ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản vào năm 2009, con số cao
nhất từ trước đến nay.
Ngành thủy sản phụ thuộc vào nguồn nước, trong khi nguồn nước lại
phụ thuộc rất nhiều vào khả năng điều hòa dòng chảy của rừng. Do đó, để
phát triển thuận lợi ngành thủy sản thì vấn đề trồng rừng, bảo vệ rừng để tăng
diện tích che phủ của rừng có ý nghía rất quan trọng reong việc điều hòa
nguồn nước. Như vây, phát triển rừng không chỉ vì bản thân ngành lâm
nghiệp, mà nó còn có ý nghĩa rất quan trọng nến không nói là sống còn đối
với ngành nông nghiệp, thủy sản, thủy điện và du lịch.
Như vây, trong khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản trong thời
gian qua không có sự chuyển dịch đáng kể nào, tỷ trọng ngành lâm nghiệp
giảm nhẹ còn tỷ trọng ngành nông nghiệp và thủy sản lại tăng lên tương ứng.
b. Ngành công nghiệp và xây dựng
Mặc dù tỷ trọng ngành công nghiệp, xây dựng trong tổng GDP của toàn
nền kinh tế có sự gia tăng nhưng không ổn định. Năm 2003 đạt 27,84%, các
năm tiếp theo đến năm 2008 đều ở mức thấp hơn với biên độ khác nhau, năm
2009 có sự phục hồi nhưng vẫn chưa đạt tỷ trọng như năm 2003, riêng năm
2010 thì tăng và đạt tỷ trọng 28,40%.
Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá so sánh có tăng, năm 2003 đạt
194.094 triệu đồng, năm 2005 đạt 275.884 triệu đồng, năm 2008 đạt 411.683
53
triệu đồng và năm 2010 đạt 556.600 triệu đồng; nhịp độ tăng trưởng bình
quân đạt 16,6% /năm, cao so với tốc độ tăng bình quân của GDP (hơn
11%/năm).
Nếu tách riêng ngành xây dựng thành một chỉ số độc lập thì tỷ trọng
của ngành công nghiệp trong GDP là rất nhỏ và có xu hướng giảm đi. Nếu
năm 2005 tỷ trọng ngành công nghiệp chiếm 11,26% thì đến năm 2009 tỷ
trọng này giảm xuống còn có 9,4% trong tổng GDP. Sự giảm sút này là do sự
giảm sút của ngành công nghiệp chế biến từ 7,83% xuống năm 2005 xuống
còn 6,10% trong tổng GDP. Qua đó thấy được mức đóng góp của ngành công
nghiệp vào GDP là rất thấp so với ngành nông nghiệp và các ngành khác.
Thời kỳ này, ngành xây dựng có mức tăng trưởng tương đối khá, giá trị
sản xuất theo giá so sánh năm 2003 đạt 390.932 triệu đồng và năm 2009 là
452.957 triệu đồng, tăng 62.025 triệu đồng. Tỷ trọng trong GDP tăng từ
13,84% năm 2005 lên 18,28% năm 2009.
Về cơ cấu phân thành ba ngành, công nghiệp khai thác, công nghiệp
chế biến và công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước thì ngành
công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng rất lớn.
Bảng 2.5: Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp tỉnh Điện Biên 2004 - 2009
Đơn vị: %
Năm 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Công nghiệp khai thác mỏ 9,07 8,73 4,44 3,72 4,88 7,36
Công nghiệp chế biến 83,60 83,35 83,59 85,38 81,71 79,53
CNSX và PP điện, khí đốt và nước 7,33 7,92 11,97 10,90 13,41 13,11
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Điện Biên năm 2005, 2009
Như vây, tỷ trọng ngành công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng lớn trong
cơ cấu giá trị sản xuất của ngành công nghiệp nhưng lại có xu hướng giảm từ
83,60% năm 2004 xuống còn 79,53% năm 2009. Tỷ trọng giá trị sản xuất của
54
ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện, nước và khí đốt năm 2009 là
13,11% tăng 5,78% so với năm 2004. Nhóm ngành khai thác tỷ trọng giá trị
sản xuất giảm từ 9,07% năm 2004 xuống 7,36% vào năm 2009, giảm 1,71%.
Trong nhóm ngành công nghiệp chế biến thì giá trị sản xuất công
nghiệp chế biến thực phẩm và đồ uống lại chiếm tỷ trọng lớn nhất và cao hơn
mặt bằng chung của cả nước, năm 2005 chiếm 67,10% và năm 2009 là
69,09% và có tốc độ tăng trưởng trung bình giai đoạn 2003 - 2009 là 35,40%
một năm. Trong 16 ngành công nghiệp chế biến, năm 2009 chỉ có 5 ngành có
giá trị sản xuất trên 10 tỷ đồng, 6 ngành có giá trị sản xuất trên 2 tỷ đồng và
dưới 10 tỷ đồng và có tới 4 ngành có giá trị sản xuất dưới 500 triệu đồng theo
giá so sánh năm 1994.
Trong giai đoạn 2005 - 2009, có 3 ngành có mức tăng trưởng giá trị sản
xuất âm đó là sản xuất giấy và sản phẩm bằng giấy, ngành sản xuất hóa chất
và sản phẩm từ hóa chất, ngành sản xuất máy móc thiết bị, 7 ngành có mức
tăng trưởng bình quân trên 12%, trong đó ngành có mức tăng trưởng cao và
ổn định nhất là ngành sản xuất sản phẩm dệt.
Tóm lại, mặc dù ngành công nghiệp mấy năm gần đây đạt mức tăng
trưởng khá cao so với mức tăng trưởng chung của nền kinh tế nhưng chủ yếu là
những chỉ là tăng trưởng theo chiều rộng, tập trung ở những ngành không đòi hỏi
kỹ thuật công nghệ cao; số tuyệt đối vẫn còn nhỏ không có tác động mạnh đến
chuyển dịch cơ cấu kinh tế vĩ mô. Mặc dù ngành công nghiệp chế biến giữ vai
trò chủ đạo nhưng do chỉ dựa vào chế biến nông sản ở dạng sơ chế, do các cá thể
hộ gia đình đầu tư là chủ yếu, chưa có sự chế biến sâu đáng kể, khoa học công
nghệ lạc hậu nên có xu hướng giảm dần. Các ngành chế biến sâu đòi hỏi kỹ thuật
cao không thể phát triển. Kinh tế nhà nước không có vai trò đáng kể nào để định
hướng, thúc đẩy phát triển các nhóm ngành công nghiệp đúng hướng.
c. Ngành dịch vụ
55
Ngoài hai lĩnh vực sản xuất vật chất là nông nghiệp và công nghiệp nêu
trên, tập hợp các ngành phi sản xuất vật chất còn lại bao hàm trong khối
ngành dịch vụ. Khối ngành này bao gồm những ngành gọi là "dịch vụ trung
gian": thông tin, vận tải, trung gian tài chính, điện, phân phối, xây dựng và
dịch vụ thương mại và những ngành "dịch vụ thỏa mãn nhu cầu cuối cùng":
du lịch và đi lại, chăm sóc sức khỏe và các dịch vụ về môi trường [29]. Ở
Việt Nam các ngành xây dựng, sản xuất và phân phối điện nước vẫn được xếp
chung vào nhóm ngành công nghiệp. Cùng với sự phát triển, tỷ trọng của
ngành dịch vụ ngày càng tăng, nhất là khi công nghiệp hóa đã ở mức nhất
định, khi đó thu nhập của con người cao hơn và xuất hiện các nhu cầu mới để
nâng cao chất lượng cuộc sống của họ. Ở các nước công nghiệp phát triển, tốc
độ tăng trưởng của ngành dịch vụ còn cao hơn tốc độ tăng trưởng của ngành
công nghiệp. Thời đại ngày nay, có hai yếu tố tác động mạnh mẽ đến khu vực
dịch vụ trọng cơ cấu kinh tế đó là:
Thứ nhất, quá trình toàn cầu hóa ngày càng mở rộng và với tốc độ
nhanh chóng, kéo theo sự hòa nhập vào dòng chảy thương mại và sản xuất
toàn cầu. Điều này làm nảy sinh các dịch vụ hỗ trợ như du lịch, tư vấn, nghiên
cứu, khách sạn, hàng ăn…
Thứ hai, cách mạng tin học và sự phát triển của công nghệ thông tin
liên lạc khiến sự phát triển kinh tế len được đến cả các vùng sâu, vùng xa và
các dịch vụ cũng có cơ hội phát triển ở cả các vùng sâu, vùng xa chứ không
chỉ riêng ở khu vực thành thị.
Các ngành dịch vụ có tác động mạnh mẽ đến tăng trưởng kinh tế hiện
nay là:
- Dịch vụ viễn thông: sự phát triển của dịch vụ viễn thông sẽ giúp cho
có thể thực hiện được các dịch vụ chất lượng cao và sử dụng chuyên môn cao
có khả năng tiếp cận được đến với các cộng đồng vùng sâu, vùng xa. Qua đó
56
giúp thu hẹp khoảng cách về chất lượng cuộc sống giữa nước phát triển và
nước đang phát triên, tạo cơ hội cho cộng đồng nông thôn, vùng sâu, vùng xa
có thể tiếp cận với các dịch vụ cơ bản chất lượng cao.
- Dịch vụ máy tính và mạng internet giúp cho người dân tiếp cận với
mọi dịch vụ dễ dàng hơn như tìm kiếm khách hàng, tìm thông tin, thực hiện
giao dịch, thực hiện các thủ tục hành chính.
- Giáo dục và đào tạo giúp tạo ra nguồn lao động chất lượng cao
- Các dịch vụ chuyên môn như kế toán, tư vấn pháp lý, bảo hiểm, nghiên
cứu, thiết kế, tiếp thị… và các dịch vụ công như giao thông điện, nước…
Trong thời kỳ bao cấp trước đây, các hoạt động dịch vụ chỉ dừng lại ở
lĩnh vực lưu thông phân phối và do nhà nước cung cấp. Các loại dịch vụ khác
hầu như không có hoặc bị cấm. Cùng với quá trình chuyển đổi sang nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các ngành dịnh vụ cũng từng bước
hình thành và phát triển đa dạng với tốc độ nhanh chóng góp phần thúc đẩy
sản xuất của các ngành nông nghiệp, công nghiệp.
Các ngành dịch vụ mới ra đời như thông tin liên lạc, chuyển giao công
nghệ, tư vấn, nghiên cứu, khai thác thị trường … đã góp phần đáng kể vào sự
phát triển của nền kinh tế. Các loại dịch vụ mang tính chất kinh doanh đặc thù
như thông tin liên lạc, vận tải, du lịch, nhà hàng đã có đóng góp ngày càng
lớn vào tăng trưởng kinh tế và tạo ra nhiều việc làm cho xã hội.
Quá trình đổi mới đã mở của cho các ngành dịch vụ phát triển, mở ra
con đường rộng hơn thuận lợi hơn cho nền kinh tế phát triển. Nó cũng tạo cơ
hội cho kinh tế tư nhân và các thành phần kinh tế tham gia mạnh mẽ hơn vào
nên kinh tế và góp phần quan trọng cho phát triển kinh tế. Lĩnh vực mà kinh
tế tư nhân và kinh tế cá thể tham gia nhiều nhất là thương mại bán buôn, bán
lẻ. Vì vây, đã tạo nên sự phát triển mạnh mẽ của ngành dịch vụ sau ngày đổi
mới đến nay. Qua số liệu thống kê của cục thống kê tỉnh Điện Biên thì ngành
57
dịch vụ năm 2003 chiếm 33,51% trong tổng GDP và tăng lên 36,89% năm
2010 và đỉnh cao của giai đoạn này là 39,02% vào năm 2006. Từ năm 2006
đến nay tỷ trong ngành dịch vụ mặc dù có xu hướng giảm nhẹ nhưng vẫn
chiếm tỷ trọng cao nhất trong ba ngành nông- lâm nghiệp- thủy sản, công
nghiệp, dịch vụ và giá trị tuyệt đối của tất cả các ngành theo giá so sánh trong
khối ngành dịch vụ đều tăng. Xu hướng giảm của các ngành với mức độ khác
nhau và không phải tất cả các ngành dịch vụ đều có xu hướng giảm.
Có ba ngành có mức tăng mạnh nhất là ngành khách sạn nhà hàng tăng từ
0,56% năm 2005 lên 2,64% năm 2009; các hoạt động liên quan đến kinh doanh
tài sản và hoạt động tư vấn tăng từ 3,03% năm 2005 lên 5,25% năm 2009.
Ngành hoạt động khoa học và công nghệ tăng từ 0,03% năm 2005 lên 0,19%
năm 2009, mặc dù đạt mức tăng nhanh nhưng ngành này vẫn chiếm tỷ trọng rất
nhỏ trọng tổng giá trị GDP, giá trị tuyệt đối cũng chỉ đạt hơn 3 tỷ đồng theo giá
so sánh. Ngành tài chính cũng tăng dần tỷ trọng mặc dù không nhiều từ 1,82%
năm 2005 lên 2,69% năm 2009. Đây là một dấu hiệu tích cực cho ngành dịch vụ
khi những ngành dịch vụ hiện đại có giá trị gia tăng cao có dấu hiệu phát triển.
Trong số các ngành có sự suy giảm về tỷ trọng thì ngành thương nghiệp
sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy, đồ dùng cá nhân và gia đình có mức
suy giảm ít nhất từ 7% năm 2005 xuống còn 6,76% năm 2009. Nhưng về giá
trị tuyệt đối thì vẫn tăng từ 99.883 triệu đồng năm 2005 lên 151.171 triệu
đồng năm 2009 tính theo giá so sánh năm 1994.
Ngành du lịch được tỉnh xác định là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh
nhưng hoạt động của ngành du lịch vẫn còn rất khiêm tốn, các tiềm năng du
lịch vẫn bị bỏ ngỏ.
58
Bảng 2.6: Hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Điện Biên 2005 - 2009
Năm 2005 2006 2007 2008 2009
Số cơ sở lưu trú(cơ sở) 30 30 35 36 41
Số khách đến(lượt người) 53.371 103.880 162.589 202.308 262.921
Số khách quốc tế(lượt người) 5.112 9.691 12.593 13.545 15.973
Số khách nội địa(lượt người) 48.195 94.189 149.996 188.763 246.948
Thời gian lưu trú(ngày) 74.427 140.299 192.986 218.670 249.506
Thời gian lưu trú bình quân(ngày/người) 1,39 1,35 1,19 1,08 0,95
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Điện Biên, 2009
Số cơ sở lưu trú đã tăng lên nhưng là do số nhà nghỉ tăng lên, số khách
sạn lại giảm xuống. Năm 2005 có 10 khách sạn, năm 2006 cũng vậy, năm
2007 còn có 8, năm 2008 còn 7 và năm 2009 có 9 khách sạn. Số lượt khách
tăng lên đáng kể nhưng chủ yếu vẫn là khách nội địa. Năm 2005 số khách
quốc tế chiếm 9,58% trong tổng số lượt khách đến, đến năm 2009 con số này
giảm xuống 6,07%. Số lượt khách du lịch đến tăng lên làm tổng số thời gian
lưu trú tăng theo nhưng thời gian lưu trú bình quân lại có xu hướng giảm đáng
kể. Điều này cho thấy khách du lịch chỉ coi Điện Biên là nơi ghé qua, chưa
coi đây là điểm đến thực sự hấp dẫn. Kinh tế du lịch chưa đáp ứng mục tiêu
trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh.
Tóm lại, từ khi tách tỉnh năm 2003, tỷ trọng ngành dịch trong cơ cấu
GDP đã có sự tăng trưởng, từ 33,51% lên 36,90% năm 2010. Trong những
năm đầu từ 2003- 2006 tỷ trọng ngành dịch vụ tăng liên tục qua các năm và
đạt 39,02% vào năm 2006, mức cao nhất của cả giai đoạn; những năm sau đó
tỷ trọng này giảm dần nhưng vẫn ở mức cao hơn năm 2003 và năm 2010 đã
có dấu hiệu phục hồi tuy rằng còn chậm. Mặc dù chiếm tỷ trọng cao nhưng
ngành dịch vụ chủ yếu là những ngành truyền thống, trong đó ngành thương
mại hàng hóa vẫn chiếm vị trí chủ đạo với sự tham gia tích cực của khu vực
59
tư nhân. Các ngành dịch vụ theo chiều sâu chưa phát triển và vấn phụ thuộc
vào đầu tư từ nguồn vốn nhà nước. Tư tưởng kinh doanh chụp giật vẫn là phổ
biến, chưa quan tâm đến xây dựng hình ảnh thương hiệu.
2.2.3. Cơ cấu lao động phân theo ngành kinh tế
Cơ cấu lao động là tiêu chí đánh giá chính xác về thực chất mực độ
chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà trước hết là cơ cấu ngành kinh tế, vì chỉ tiêu này
không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố giá cả. Theo số liệu trong niên giám thống
kê tỉnh Điện Biên, số lao động đến năm 2009 tăng thêm so với năm 2003 là
28.594 lao động, bình quân mỗi năm tăng 4.765,67 lao động. Cơ cấu lao động
cũng có sự chuyển biến tích cực, từ khu vực nông nghiệp có năng suất lao động
thấp sang khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ có năng suất lao động cao
hơn. Bình quân mỗi năm lao động làm việc trong các ngành kinh tế trong tỉnh
tăng 4.765,67 lao động, trong đó, số lao động vào ngành nông-lâm-thủy sản là
915, chiếm 21% lao động, số lao động vào ngành công nghiệp, xây dựng
khoảng 758 lao động chiếm 16% và số lao động vào ngành dịch vụ là 3012 lao
động, chiếm 63%. Vây, cứ 100 lao động thì có 21 lao động vào ngành nông,
lâm, thủy sản; 16 lao động vào ngành công nghiệp, xây dựng; và 63 lao động
vào ngành dịch vụ ( 2003-2009). Điều đó cho thấy số lao động tăng thêm đi
vào khu vực nông nghiệp thấp hơn số lao động tăng thêm đi vào khu vực dịch
vụ và làm cho tỷ trọng lao động trong khu vực dịch vụ có xu hướng tăng.
Bảng 2.7: Lao động và cơ cấu lao động phân theo ngành kinh tế
Đơn vị: Lao động, % (2009) trừ ( 2003)
Năm 2003 2005 2007 2009
Nông, lâm, thủy sản
Công nghiệp, xây dựng
Dịch vụ 190922 82,34% 14.632 6,31% 29.863 11,35% 194409 80,55% 15.236 6,31% 31.705 13,14% 198902 78,79% 15.074 5,97% 38.473 15,24% 196896 75,59% 19.180 7,36% 44.395 17,05% + 5.974 - 6,75% + 4.548 + 1,05% +18.072 + 5,7%
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Điện Biên năm 2005, 2009, Xb năm 2010.
60
Nhìn một cách tổng thể thì cơ cấu lao động phân theo ngành kinh tế ở
tỉnh Điện Biên thời gian qua có sự chuyển dịch tích cực. Lao động ngành
Nông nghiệp-Lâm nghiệp- Thủy sản số tuyệt đối tăng lên với số lượng giảm
dần, tỷ trọng lại giảm đều qua các năm và năm 2009 giảm 6,75% so với năm
2003, chỉ còn 75,59%, vẫn chiếm một tỷ trọng cao hơn rất nhiêu so với mức
trung bình của cả nước ở cùng thời điểm. Lao động làm việc ở khu vực nông
nghiệp vẫn còn chiếm một tỷ trọng rất lớn trong cơ cấu lao động trong tỉnh
cho thấy vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn là rất cần thiết để giải
quyết vấn đề việc làm, nâng cao thu nhập, ổn định kinh tế, xã hội.
Với ngành công nghiệp-xây dựng, mức độ thay đổi là không đáng kể,
trong sáu năm từ 2003 đến 2009 số lao động làm việc trong ngành này chỉ
tăng 4.548 lao động; tỷ trọng tăng thêm 1,05% và đạt có 7,36% vào năm
2009. Sự gia tăng tỷ trọng lao động trong ngành công nghiệp-xây dựng chỉ
diễn ra trong hai năm 2008 và 2009 còn trước đó tỷ trọng này có xu hướng
giảm dần, năm 2003 là 6,31%, năm 2004 là 6,00%, năm 2005 là 6,31%, năm
2006 là 5,66% và năm 2007 là 5,97%. Sự thay đổi tỷ trọng lao động của
ngành công nghiệp-xây dựng vừa không ổn định vừa chậm.
Lao động trong ngành dịch vụ tăng cả về tỷ trọng và số tuyệt đối, năm
2003 lao động ngành này là 26.323 lao động chiếm 11,35% trong tổng lao
động đang làm việc trong các ngành kinh tế, đến năm 2009, tương ứng là
44.395 và 17,05%, tăng 18.072 và 5,7% so với năm 2003. Đây là dấu hiệu
tích cực cho sự phát triên sản xuất của các ngành sản xuất vật chất, trước hết
là phát triển nông nghiệp hàng hóa.
Tóm lại, sự chuyển dịch cơ cấu lao động phân theo ngành kinh tế chủ
yếu là do sự vận động của hai nhóm ngành nông nghiệp-lâm nghiệp-thủy sản
và dịch vụ. Ngành công nghiệp-xây dựng có sự tăng lên về tỷ trọng trong cơ
cấu lao động là do sự gia tăng tỷ trọng lao động trong ngành xây dựng, riêng
61
ngành công nghiệp, lao đông làm việc trong ngành này có sự suy giảm cả về
tỷ trọng và số tuyệt đối.
So với cơ cấu GDP cơ cấu lao động vẫn còn rất lạc hậu, đa số lao động
vẫn làm việc trong khu vực sản xuất nông nghiệp trình độ thủ công, kinh
nghiêm truyền thống là cơ bản, năng xuất lao động và giá trị gia tăng rất thấp.
Những năm gần đây thì tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động có sự chuyển biến
khả quan hơn và có phần nhanh hơn tốc độ chuyển dịch cơ cấu GDP phân
theo ngành kinh tế vĩ mô.
Bảng 2.8: Cơ cấu lao động và cơ cấu GDP tỉnh Điện Biên phân theo
ngành kinh tế
Đơn vị: %
Năm 2003 2005 2009 Chênh lệch
GDP 38,65 37,15 35,61 - 5,35
Nông, lâm, thủy sản Lao động 82,34 80,55 75,59 - 6,75
GDP 27,84 26,07 27,67 + 1,97 Công nghiệp, xây dựng Lao động 6,31 6,31 7,36 + 1,05
GDP 33,51 35,95 36,73 + 3,38
Dịch vụ 13,14 17,05 + 5,70 Lao động
11,35 Nguồn: rút ra từ các bảng 2.1 và 2.7
Ngành nông-lâm nghiệp-thủy sản, mức giảm tỷ trọng lao động nhanh
hơn mức giảm tỷ trọng trong GDP cho thấy năng suất lao động của khối
ngành này đang tăng lên. Ngành dịch vụ thì cơ cấu lao động lại tăng nhanh
hơn cơ cấu trong GDP biều hiện sự suy giảm năng suất lao động trọng ngành
này. Nguyên nhân chính là do ngành dịch vụ mới dừng lại ở các ngành truyền
thống có giá trị gia tăng thấp hơn và đòi hỏi lao động nhiều hơn trong khi các
ngành dịch vụ hiện đại có giá trị gia tăng cao và đòi hỏi ít lao động lại chưa
phát triển do trình độ của nền kinh tế còn ở mức rất thấp. Ngành công nghiệp,
62
xây dựng không có biến động đáng kể gì cả về tỷ trọng lao động, cả về cơ cấu
trong GDP và cả mức chênh lệch về tốc độ tăng của hai chỉ số này.
Trong nội bộ ngành nông nghiệp- lâm nghiệp- thủy sản, tỷ trọng và số
lao động làm việc trong ngành thủy sản tăng lên nhưng lao động vẫn tập trung
chủ yếu ở ngành nông nghiệp nhất là trồng trọt. Năm 2003, ngành thủy sản có
242 lao động chiếm gần 0,13% trong tổng số lao động trong ngành nông-lâm-
thủy sản, năm 2005 đã tăng lên 1.076 lao động chiếm 0,55%, năm 2009 tăng
lên 1.461 lao động chiếm 0,74%. Như vây, so với năm 2003, số lao động và
tỷ trọng lao động làm việc trọng ngành thủy sản đã tăng hơn năm lần. Mặc dù
tỉnh không có nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển ngành thủy sản nhưng
với hơn một nghìn lao động, chiến dưới 1% trong tổng số lao động đang làm
việc trong khu vực nông-lâm- thủy sản là rất khiêm tốn. Tóm lại, trong nội bộ
ngành nông- lâm nghiệp- thủy sản, lao động làm nông nghiệp, lâm nghiệp vẫn
chiếm ưu thế tuyệt đối; lao động làm việc trong ngành thủy sản có tăng lên
đáng kể nhưng cả số tuyệt đối và tỷ trọng vẫn rất nhỏ bé. Thực trạng này chủ
yếu là do cơ cấu nội bộ ngành nông- lâm - thủy sản còn rất lạc hậu và chậm
chuyển biến.
Trong nội bộ ngành công nghiệp, xây dựng: trong hai phân ngành công
nghiệp và xây dựng chỉ có lao động ngành xây dựng là có xu hướng tăng còn
lao động trong ngành công nghiệp thì lại có xu hướng giảm. Năm 2003, lao
động làm việc trong ngành xây dựng có 7.256 lao động chiếm 3,13% trong
tổng số lao động của cả nền kinh tế và chiếm 49,59% trong tổng số lao động
của nội bộ ngành công nghiệp- xây dựng, đến năm 2009 tương ứng là 12.413;
4,76%;64,72%. Riêng ngành công nghiệp có xu hướng ngược lại, năm 2009
số lao động làm việc trong ngành giảm 609 lao động so với năm 2003; tỷ
trọng trong cơ cấu lao động làm việc trong nên kinh tế còn gần 2,6% so với
3,18% năm 2003 và trong nội bộ ngành công nghiệp-xây dựng tỷ lệ này là
63
50,41% năm 2003, 35,28% năm 2009. Tuy nhiên, mức độ biến động này ở
các phân ngành là không giống nhau về độ lớn và chiều dịch chuyển trong nội
bộ ngành công nghiệp.
Bảng 2.9: Lao động và cơ cấu lao động theo phân ngành trong nội bộ
ngành công nghiệp
Đơn vị: lao động, %
Năm 2003 2009
1.003 (13,60%) 973 (14,38%)
5.750 (77,95%) 5.015 (74,11%)
Ngành công nghiệp khai mỏ Ngành công nghiệp chế biến Ngành sản xuất và phân phối điện 623 (8,45%) 779 (11,51%)
7.376 ( 100% ) 6.767 ( 100% ) Tổng số nước
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Điện Biên năm 2005, 2009, Xb năm 2010
Ngành khai mỏ, số lao động làm việc năm 2009 có giảm so vơi năm
2003 nhưng tỷ trọng lại tăng lên trong tổng số lao động đang làm việc trọng
ngành công nghiệp. Lao động làm việc trong ngành công nghiệp chế biến năm
2009 so với năm 2003 giảm cả số tuyệt đối và tỷ trọng. Riêng lao động làm
việc trong ngành sản xuất và phân phối điện, nước tăng cả về số lượng và tỷ
trọng. Từ năm 2005, tỷ trọng đầu tư cho ngành công nghiệp, xây dựng luôn ở
mức cao và có xu hướng tăng(22,35% năm 2005 và 34,89% năm 2006),
nhưng tỷ trọng lao động trong ngành này lại không tăng đáng kể cho thấy đây
là ngành thâm dụng vốn chứ không phải thâm dụng lao động. Bình quân mỗi
năm ngành công nghiệp, xây dựng chỉ tạo ra khoảng 758 chỗ làm mới trong
tổng số khoảng 4,7 nghìn lao động tăng thêm của tỉnh, chiếm xấp xỉ 15,91%.
Tỷ trọng lao động làm việc trong ngành dịch vụ tăng từ 26.323 lao
động năm 2003 lên 44.395 lao động, bình quân mỗi năm tăng 18.072 lao
động, chiếm 63,20% tổng số lao động tăng thêm của cả nền kinh tế, nhưng sự
chuyển dịch trong nội bộ ngành này cũng rất khác nhau ở các phân ngành.
64
Trong tổng số 18 phân ngành, có 12 phân ngành có xu hướng tăng và
6 phân ngành có xu hướng giảm về tỷ trọng trong cơ cấu lao động của ngành.
Có 4 phân ngành có tốc độ tăng nhanh nhất đó là khách sạn nhà hàng tăng
thêm 0,51 lần, hoạt động phục vụ cá nhân, cộng đồng tăng thêm 1,91 lần, hoạt
động đảng, đoàn thể tăng thêm 3,65 lần cao nhất trong tất cả các phân ngành,
hoạt động kinh doanh tài sản và tư vấn tăng thêm 2,67 lần. Ngành thương mại
chỉ tăng thêm 2,08% trong 6 năm nhưng vẫn chiếm tỷ trọng khá có trong cơ
cấu lao động của ngành dịch vụ (17,85%, năm 2009). Các ngành có mức tăng
cao nhất thì tỷ trọng là rất nhỏ, dưới 5%, cao nhất là ngành khách sạn nhà
hàng 4,42%. Trong những ngành có sự sụt giảm về tỷ trọng trong cơ cấu lao
động của toàn ngành dịch vụ thì đáng chú ý nhất là hoạt động khoa học công
nghệ, cho dù chiếm một tỷ lệ rất nhỏ (0,96% năm 2003) nhưng đã có sự giảm
sut một cách chóng mặt, xuống còn 0,1% năm 2009 tương ứng với 44 lao
động. Ngành tài chính cũng có mức sụt giảm đáng kể, từ 1,72% năm 2003
xuống 1,21% năm 2009. Các ngành giáo dục, quản lý nhà nước-an ninh quốc
phòng-bảo đảm xã hội bắt buộc đều giảm lần lượt là 2,66% và 1,49% nhưng
vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất, 28,02% và 30,38%. Như vậy, chuyển dịch cơ cấu
lao động trong nội bộ ngành dịch vụ vẫn còn nhiều hạn chế, sự gia tăng tỷ
trọng ở những ngành không đem lại nhiều giá trị gia tăng, những ngành
truyền thống cần ít vốn nhiều lao động do cá nhân đầu tư là chủ yếu như
thương nghiệp, sửa chữa xe có động cơ, đồ dùng gia đình, khách sạn nhà
hàng, hoạt động phục vụ cá nhân và cộng đồng; những ngành đòi hỏi lao động
có trình độ cao thì suy giảm mạnh mẽ như tài chính, khoa học công nghệ.
2.2.4. Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu
Hoạt động xuất khẩu trên địa bàn tỉnh còn rất nhỏ bé. Các mặt hàng
xuất khẩu bao gồm gỗ xẻ, chè đen, song đoạn, đá lợp, gạo tẻ, thuốc lá, cót ép,
vật liệu xây dựng nhưng không ổn định. Về số liệu cụ thể chưa có thống kê cụ
65
thể nên tác giả không thể phân tích sâu về chỉ tiêu cơ cấu hàng xuất khẩu ở
tỉnh Điện Biên. Tuy nhiên, cũng có thể thấy rằng các mặt hàng xuất khẩu của
tỉnh Điện Biên về cơ bản vẫn còn rất ít cả về số lượng và chủng loại, các mặt
hàng xuất khẩu biến động thường xuyên, chưa có nguồn hàng xuất khẩu chủ
đạo và ổn định. Giá trị hàng hóa xuất khẩu còn rất nhỏ bé.
Bảng 2.10: Giá trị hàng hóa xuất khẩu trên địa bàn tỉnh Điện Biên 2005 - 2009
Đơn vị: Nghìn USD
Năm 2005 2006 2007 2008 2009
Giá trị hàng xuất khẩu 674 764 754 5200 3.206
Giá trị hàng nhập khẩu 450 946 906 11.250 4000
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Điên Biên, 2009 và Báo cáo tình hình thực hiện
nhiệm vụ phát triển kinh tế -xã hội năm 2009.
2.2.5. Đánh giá sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở tỉnh Điện Biên
2.2.5.1. Những thành tựu
- Nếu soi vào các đặc trưng cơ bản trong các giai đoạn của mô hình
Rostow, thì nền kinh tế tỉnh Điên Biên mới đang ở trong giai đoạn chuẩn bị
cất cánh. Nếu soi vào mô hình hai khu vực của Oshima thì nền kinh tế này
đang ở đầu giai đoạn hai: hướng tới việc làm đầy đủ. Quan điểm đầu tư đưa ra
trong giai đoạn này mà hai mô hình đưa ra là chú trọng đầu tư cho cả nông
nghiệp để tạo ra khối lượng hàng hóa nông sản lớn chứ không chỉ riêng đầu tư
cho công nghiệp. Như vây, dù còn ở mức thấp nhưng kinh tế cũng đã có bước
phát triển nhất định.
- Cơ cấu ngành kinh tế đã có sự chuyển biến nhất định, tỷ trọng ngành
dịch vụ đã tăng tư 33,51% năm 2003 lên 36,73% năm 2009 và nếu tính cả
ngành xây dựng thì tỷ trọng đó còn cao hơn nhiều. Ngành công nghiệp- xây
dựng tuy không có sự chuyển biến đáng kể nhưng riêng ngành xây dựng đã có
sự tăng lên khá từ 13,64% năm 2003 lên 18,28% năm 2009, tăng 4,64%. Đây
66
là xu hướng phù hợp, bởi vì tỉnh Điện Biên đang trong giai đoạn xây dựng cơ
sở hạ tầng nhất là hệ thống giao thông, điện, nước. Ngành nông-lâm- thủy sản
tuy vẫn chiếm tỷ trọng cao nhưng đã có xu hướng giảm từ 38,65% năm 2003
còn 31,65% năm 2009, bình quân giảm hơn 1% một năm. Tỷ trọng ngành
dịch vụ có xu hướng tăng lên, từ 33,51% năm 2003 lên 36,73% năm 2009.
Khoa học, kỹ thuật đã được tăng cường áp dụng vào sản xuất trong nhiều lĩnh
vực của sản xuất và đời sống.
- Cơ cấu nội bộ các ngành kinh tế có bước chuyển theo hướng sản xuất
hàng hóa, khai thác tiềm năng, lợi thế của tỉnh. Ngành nông nghiệp có sự
chuyên dịch tích cực: tỷ trọng ngành trồng trọt giảm 10% trong giai đoạn
2003- 2009 và tương ứng là sự tăng lên của ngành chăn nuôi và dịch vụ. Cơ
cấu cây trồng cũng có sự chuyển dịch tích cực theo hướng giảm dần diện tích
cây lương thực, tăng dần diện tích cây công nghiệp, nhất là cây công nghiệp
lâu năm có giá trị kinh tế cao hơn. Trong ngành công nghiệp, giá trị sản xuất
công nghiệp khai thác giảm từ 9,07% năm 2003 xuống 7,36% năm 2009; giá
trị sản xuất ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện, nước tăng lên, từ
7,33% năm 2003 đến 13,11% năm 2009; giá trị sản xuất của ngành công
nghiệp chế biến vẫn chiếm tỷ trọng áp đảo trong tổng giá trị sản xuất toàn
ngành công nghiệp. Tỷ trọng ngành xây dựng tăng lên đáng kể trong cơ cấu
GDP của tỉnh, đạt 18,28% năm 2009. Trong ngành dịch vụ đã nghi nhận sự
bứt phá của ngành khách sạn nhà hàng, hoạt động kinh doanh tài sản và tư
vấn. Đây là những ngành hiện đại, có giá trị gia tăng khá cao so với các ngành
dịch vụ truyền thống.
- Cơ cấu lao động chuyển dịch phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Theo tính toán tư số liệu thống kê, cơ cấu lao động có sự chuyển dịch khá tích
cực giữa các ngành kinh tế. Tỷ trọng lao động trong ngành nông- lâm- thủy
sản giảm từ 82,34% năm 2003 xuống còn 75,59% năm 2009, bình quân giảm
67
1,125% một năm. Tỷ trọng lao động ngành công nghiệp- xây dựng tăng từ
6,31% năm 2003 lên 7,36% năm 2009. Tỷ trọng lao động trong ngành dịch vụ
còn tăng cao hơn, nhanh hơn tốc độ tăng của ngành công nghiệp - xây dựng,
từ 11,35% năm 2003 lên 17,05%, tăng 5,7%. Bình quân cứ 100 lao động tăng
thêm thì có 21 lao động ở lại khu vực nông- lâm- thủy sản, 16 lao động
chuyển vào ngành công nghiệp- xây dựng và có tới 63 lao động chuyển sang
hoạt động ở ngành dịch vụ. Vây là số lao động tăng thêm đi vào ngành dịch
vụ cao hơn nhiều so với số lao động tăng thêm đi vào ngành nông nghiệp.
2.2.5.2. Những tồn tại
- Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế không bền vững: năm 2003 tỷ
trọng ngành nông-lâm-thủy sản chiếm 38,65%, năm 2006 xuống còn 35,87%,
nhưng năm 2008 lại tăng lên 37,09% và sau đó năm 2010 lại giảm xuống còn
33,30%; ngành công nghiêp- xây dựng cũng vậy, năm 2003 chiếm 27,84%,
năm 2007 lại giảm xuống 24,83% và năm 2010 lại tăng lên tới 29,81%.
- Cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch chưa thật sự hợp lí, chưa khai thác
hết được tiềm năng thế mạnh của tỉnh. Việc tăng đầu tư cho công nghiệp nặng
trong khi đầu tư cho nông nghiệp đã chiếm tỷ trọng nhỏ bé lại có xu hướng
giảm là không phù hợp vì các lí do sau:
Trước hết, cơ cấu đầu tư không nhất quán với hướng ưu tiên phát triển
nông, lâm nghiệp, thủy sản mà văn kiện đại hội của tỉnh đã khẳng định.
Thứ hai, đầu tư vào công nghiệp, xây dựng đỏi hỏi nguồn vốn lớn, kỹ
thuật công nghệ cao, lao động có trình độ trong khi các điều kiện trên của tỉnh
còn rất hạn chế không đáp ứng được dẫn tới không hiệu quả, gây lãng phí
nguồn lực.
Thứ ba, nông, lâm nghiệp là một lợi thế so sánh của tỉnh, đòi hỏi vốn
đầu tư không cao, đem lại hiệu quả đầu tư lớn hơn thể hiện qua tỷ lệ
GDP/Vốn trong khu vực nông nghiệp là 7,92 cao hơn rất nhiều so với khu
68
vực công nghiệp, xây dựng 0,72 ( của riêng ngành công nghiệp là 0,53). Năm
2009 vồn đầu tư vào nông, lâm, thủy sản là 204.865 triệu đông và tổng sản
phẩm tương ứng là 1.622.381 triệu đồng trong khi các chỉ tiêu tương ứng
trong ngành công nghiệp, xây dựng là 1.751.278 triệu đồng và 1.260.564 triệu
động ( Nguồn: tính toán trên số liệu của Niên giám thống kê tỉnh Điện Biên
2009).
Thứ tư, giá trị ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản vẫn chiếu tỷ trọng lớn
trong GDP trong khi tỷ trọng vốn đầu tư vào ngành này lại rất nhỏ và có xu
hướng giảm dần.
Bảng 2.11: Tỷ trọng vốn đầu tư và GDP của ngành nông, lâm, thủy sản
tỉnh Điện Biên 2005 - 2009
Đơn vị: %
Năm 2005 2006 2007 2008 2009
Tỷ trọng trong GDP 35,87 37,02 37,09 35,61 37,5
Tỷ trọng vốn đầu tư 6,46 5,65 5,56 4,06 8,43
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Điện Biên 2009
Cơ cấu đầu tư chưa phù hợp dẫn đến cơ cấu ngành kinh tế chưa phát
huy được các tiềm năng, lợi thế của tỉnh.
- Cơ cấu nội bộ các ngành chậm chuyển dịch và còn nhiều hạn chế
+ Ngành nông- lâm- thủy sản có sự chuyển dịch không hợp lí, khi giá
trị sản xuất ngành nông nghiệp tăng cả về tỷ trọng và giá trị tuyệt đối thì giá
trị sản xuất của ngành lâm nghiệp lại có xu hướng giảm mạnh. Năm 2003 giá
trị ngành lâm nghiệp chiếm 25,28% giá trị toàn ngành thì năm 2009 chỉ còn
19,00% là điêu không hợp lí với một tỉnh như Điện Biên. Tỷ trọng ngành thủy
sản gần như không thay đổi và chiếm một tỷ lệ rất nhỏ bé.
Ngành nông nghiệp tuy có sự chuyển dịch tích cực nhưng còn chậm.
Ngành trồng trọt vẫn là ngành chiếm ưu thế, chiếm 73,46% tổng giá trị sản
69
xuất của ngành nông nghiệp. Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi vẫn chiếm tỷ
trọng nhỏ, chiếm 25,52%. Đặc biệt, giá trị sản xuất ngành dịch vụ chỉ chiếm
1,02%, mức rất khiêm tốn. Tiến bộ khoa học kỹ thuật tuy đã được tăng cường
áp dụng nhưng còn rất hạn chế, sản xuất tiểu nông vẫn là chủ đạo, chưa khai
phát huy được lợi thế so sánh của tỉnh về nông nghiệp.
+ Ngành công nghiệp -xây dựng tuy có sự gia tăng cả về tỷ trọng trong
GDP và cơ cấu lao động nhưng là do sự tăng trưởng mạnh của ngành xây
dựng trong thời kỳ xây dựng cơ sở hạ tầng, riêng ngành công nghiệp lại có sự
giảm sút cả về tỷ trọng trong cơ cấu GDP và cơ cấu lao động. Hơn nữa trong
ngành công nghiệp chế biến- ngành được coi là ngành hiện đại của nền kinh
tế nhưng mới dừng lại ở công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm ở trình
độ sơ chế, bước đầu, công nghệ còn rất lạc hậu do các cá nhân, hộ gia đình
đầu tư là chủ yếu, nhà nước và các doanh nghiệp hầu như chưa quan tâm đến
lĩnh vực này, chưa có sự đầu tư phát triển theo chiều sâu với công nghệ kỹ
thuật hiện đại hơn. Vì vây, thời gian qua tỷ trọng của ngành công nghiệp chế
biến có chiều hướng giảm xuống.
+ Ngành dịch vụ chiếm tới 36,90% trong cơ cấu GDP nhưng vẫn chỉ
tập trung chủ yếu vào thương mại hàng hóa, dịch vụ đáp ứng nhu cầu cơ bản
của dân cư, những ngành hiện đại cần tập trung đầu tư theo chiêu sâu, những
ngành có giá trị gia tăng cao chỉ mới hình thành, chưa có sự tham gia đáng kể
của khu vực kinh tế tư nhân. Đặc biệt du lịch mặc dù có nhiều tiềm năng và
cũng đã được tỉnh xác định đây là ngành kinh tế mũi nhọn nhưng những năm
qua du lịch về cơ bản là không có sự phát triển, chưa khai thác được tiềm
năng du lịch vốn có của tỉnh.
- Cơ cấu lao động mặc dù đang có sự chuyển biến khá tích cực nhưng
nhìn chung lao động nông-lâm-thủy sản vẫn là chủ yếu (năm 2009 chiếm
75,59%), lao động phi nông nghiệp mới chiếm 24,41%. Phần lao động không
70
qua đào tạo, nhất là trong số hơn 75% lao động đang làm việc trong khu vực
nông-lâm-thủy sản, trình độ văn hóa còn thấp, do đó khó có thể tự chuyển đổi
một cách linh hoạt. Trong nội bộ các ngành, lao động làm việc trong các
ngành truyền thống chiếm vẫn là chủ đạo. Điều đó cũng chỉ ra răng trình độ
tiếp cận với khoa học công nghệ hiện đại còn rất chậm.
- Xuất khẩu còn rất nhỏ bé và chưa có nguồn hàng chủ lực, ổn định cho
xuất khẩu. Có thể nói khả năng thâm nhập mở rộng thị trường sang các nước
là rất hạn chế, chưa khai thác được kinh tế của khẩu. Như vậy, việc tham gia
vào phân công lao động, thâm nhập chuỗi giá trị toàn cầu trong điều kiện toàn
cầu hòa ngày càng sâu rộng còn rất khó khăn.
2.3. Nguyên nhân chủ yếu của những thành tựu và hạn chế trong
quá trình chuyên dịch cơ cấu ngành kinh tế giai đoạn 2003- 2010
2.3.1. Nguyên nhân của những thành tựu chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế
- Nhận thức về phát triển kinh tế hàng hóa đã có sự chuyển biến tích
cực. Việc chuyển đổi nền kinh tế từ hoạt động theo cơ chế kế hoạch hóa tập
trung sang hoạt động theo cơ chế thị trường là một bước ngoặt quan trọng tạo
tiền đề cho sự phát triển kinh tế, xã hội. Từ khi đổi mới đến nay đã hơn 20
năm, cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được hình thành, ngày
càng được hoàn thiện, mở rộng trên phạm vi cả nước. Tư duy kinh tế theo
kiểu bao cấp dần dần nhường chỗ cho tư duy kinh tế thị trường. Quy luật kinh
tế thị trường đã trở thành cơ sở trong việc hoạch định chiến lược, chính sách
phát triển kinh tế; thói quen sản xuất để bán đã bươc đầu hình thành trong mỗi
người sản xuất. Chính sự chuyển biến tích cực này đã tạo môi trường kinh
doanh tốt hơn và tạo điều kiện để phân bổ các nguồn lực hiệu quả hơn, hướng
vào những lĩnh vực mà tỉnh có lợi thế so sánh.
71
- Nhận được ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế xã hội cho tỉnh miền núi
biên giới từ ngân sách nhà nước. Những năm gần đây, nhà nước đã có nhiều
chính sách, chương trình phát triển kinh tê, xóa đói giảm nghèo cho các tỉnh
miền núi trong đó có tỉnh Điện Biên. Bình quân mỗi năm vốn đầu tư từ khu
vực nhà nước chiến khoảng 70% tổng vốn đầu tư của tỉnh, trong đó vốn từ
ngân sách nhà nước chiếm tới 50%. Đây là nguồn vốn chủ yếu cho phát triển
và tác động mạnh đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Điên Biên.
2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình chuyển dịch
cơ cấu ngành kinh tế
- Nguyên nhân khách quan
+ Những khó khăn vốn có của tỉnh miền núi biên giới, địa hình hiểm
trở, dân cư sinh sống phân tán, một số dân cư có tập quán cư trú không ổn
định.
+Tiềm năng thế mạnh của tỉnh đòi hỏi phải có số lượng vốn lớn để
khai thác
+Kết cấu hạ tầng còn rất hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển,
không thu hút được đầu tư cho phát triển kinh tế xã hội.
- Nguyên nhân chủ quan
+ Đã có biểu hiện nóng vội trong hoạch định chiến lược phát triển kinh
tế xã hội của tỉnh thể hiện thông qua việc ưu tiên đầu tư cho công nghiệp
không hợp lí với mục đính tăng tỷ trọng ngành đóng góp của ngành công
nghiệp trọng GDP để đến năm 2020 có một nền công nghiệp vững chắc.
Tỉnh đã xác định phương hướng chung về chuyển dịch cơ cấu kinh tế "
chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa;
khai thác tiềm năng thế mạnh, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa, nhằm tăng
nhanh tổng sản phẩm xã hội". Phương hướng nhiệm vụ cụ thể:
72
"Cơ cấu kinh tế của tỉnh xác định là Nông lâm - công nghiệp - dịch vụ.
Tập trung mọi nguồn lực đầu tư để khai thác hợp lí, có hiệu quả tiềm năng thế
mạnh của tỉnh, trọng tâm về nông - lâm, công nghiệp chế biến, khai khoáng
và du lịch. Phát triển mạnh những ngành, cây con, sản phẩm đã được xác định
rõ; hình thành những vùng sản xuất tập trung gắn với chế biến quy mô ngày
càng lớn, tạo ra những sản phẩm hàng hóa mũi nhọn với khối lượng ngày
càng tăng". [12]
Việc xác định hướng ưu tiên cho các ngành như trên là chưa thật sự
hợp lí. Thứ nhất, dịch vụ vẫn là ngành có tỷ trọng cao hơn tỷ trọng của công
nghiệp trong cơ cấu GDP. Thứ hai, với nguồn vốn chủ yếu dựa vào ngân sách
nhà nước, đầu tư từ nội bộ nền kinh tế không đáng kể, tiền năng về khoáng
sản không lớn do trữ lượng nhỏ đòi hỏi suất đầu tư lớn, trình độ khoa học
công nghệ rất thấp, hơn nữa khai thác khoáng sản để bán là không hiệu quả,
ảnh hưởng tới môi trường và các ngành kinh tế khác. Thứ ba, ngoài ưu tiên
phát triển phân ngành du lịch cũng không thể không tập trung phát triển
thương mại trên cơ sở khai thác kinh tế cửa khẩu.
Tiếp đến Đại hội XI nhiệm kỳ 2005 - 2010 đã xác định phương hướng
chung về chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Chủ động khai thác tiềm năng thế mạnh,
nội lực, kết hợp với tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác phát triển với bên
ngoài, sử dụng hiệu quả các nguồn vốn, tập trung đầu tư cho phát triển. Đẩy
mạnh phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phát triển
sản xuất nông nghiệp- lâm nghiệp- thủy sản, dịch vụ - du lịch, công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp;...[13]
Tỉnh vẫn xác định khu vực nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu
GDP và khu vực cần ưu tiên phát triển, tuy nhiên quá trình thực hiện lại mâu
thuẫn với nhận thức đó. Điều này thể hiện qua tỷ trọng đầu tư vào sản xuất
nông, lâm nghiệp, thủy sản có xu hướng giảm mạnh trong thời gian qua. Nếu
73
như đầu tư cho nông, lâm nghiệp, thủy sản năm 2005 chiếm 8,43% trong tổng
số vốn đầu tư thực hiện toàn tỉnh thì con số nay còn 6,46% năm 2006, 5,65%
năm 2007, 5,55% năm 2008 và 4,06% năm 2009.
Tỷ trọng vốn đầu tư cho công nghiệp có xu hướng tăng qua các năm
cho dù hiệu quả đầu tư cho công nghiệp thấp hơn nông nghiệp. Trong khi đó
ngành nông- lâm- thủy sản vẫn có tỷ trọng lớn trong GDP và hiệu quả đầu tư
vẫn cao hơn ngành công nghiệp nhưng tỷ trọng đầu tư lại giảm sút. Với tiềm
năng công nghiệp như ở tỉnh Điện Biên thì việc ưu tiên đầu tư phát triển
ngành công nghiệp nhất là công nghiệp nặng trong điều kiện hiện tại là không
hợp lí. Đúng là cần đầu tư cho phát triển công nghiệp mới thúc đẩy nền kinh
tế tăng trưởng cao, hay nói cách khác để phát triển thoát nghèo cần thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nhưng phát triển công nghiệp ngoài vì bản
thân ngành công nghiệp, điều quan trọng hơn là phải hướng vào phát triển
nông nghiệp, lâm nghiệp trong giai đoạn hiện nay. Hơn nữa, với khả năng về
vốn, khoa học công nghệ, kỹ thuật như hiện nay của tỉnh Điện Biên thì không
nên và sẽ không có đạt hiệu quả kinh tế nếu ưu tiên phát triển ngành công
nghiệp cần nhiều vốn, kỹ thuật cao.
Như vây, cần có nhận thức đúng đắn hơn về vai trò, khả năng phát triển
của các ngành nhất là ngành nông nghiệp.
+ Trình độ đội ngũ lao động, đội ngũ cán bộ còn nhiều hạn chế. Trong
tổng số 260.471 lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế năm 2009, có
26,90% đã qua đào tạo, trong đó từ trình độ cao đẳng trở lên chiếm 7,52%.
Vây, trong tổng số hơn 260 nghìn lao động chỉ có khoảng 70 nghìn lao động
đã qua đào tạo ở các trình độ khác nhau. Ngoài ra cũng cần tính đến chất
lượng của đội ngũ lao động đã qua đào tạo nay là rất thấp. Thậm chí số lao
động đã có trình độ văn hóa 12/12 cũng không nhiều. Đặc biệt trình độ năng
74
lực của đội ngũ cán bộ lãnh đạo còn yếu dẫn đến nhận thức, vận dụng quy
luật kinh tế vào thực tiễn còn chưa chính xác.
Quyền và nghĩa vụ trách nhiệm chưa tương xứng với nhau. Chưa gắn
tránh nhiệm cá nhân với hiệu quả công việc mà cá nhân chịu trách nhiệm, dẫn
tới không có căn cứ để động viên khen thưởng người làm tốt, phê bình, xử lý
trách nhiệm cá nhân người làm chưa tốt.
Chưa có chính sách cụ thể để thu hút những người đã qua đào tạo
chuyên môn, người có trình độ năng lực. Chế độ lương, làm việc đối với đội
ngũ cán bộ công chức còn nhiều bất cập, không kính thích được người làm
công ăn lương và là một lí do không nhỏ dẫn đến tiêu cực dưới mọi hình thức.
+ Môi trường đầu tư còn nhiều hạn chế không thu hút được các nhà đầu
tư trong nước và nước ngoài. Tình trạng quan liêu tham nhũng diễn biến rất
phức tạp, phổ biến ở tất cả các ngành các lĩnh vực, ảnh hưởng tới môi trường
đầu tư, làm mất dần lòng tin của nhân dân. Việc thu hút vốn đầu tư vào công
nghiệp là rất hạn chế, nhiều dự án không thực hiện được hoặc thực hiện quá
chậm như phát triển các nhà máy thủy điện vừa và nhỏ, nhà máy chế biến
thức ăn gia súc ở Tuần Giáo, cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng ở Mường
Nhé…Thiếu các chính sách cụ thể để huy động các nguồn lực đầu tư khai
thác tiềm năng, lợi thế phục vụ cho phát triển kinh tế-xã hội của địa phương.
Công tác cải cách hành chính ở các cấp, các ngành còn chậm chưa thực sự tạo
điều kiện cho các nhà đầu tư và doanh nghiệp phát triển kinh doanh.
+ Hạn chế trong việc huy động và hiệu quả sử dụng nguồn vốn
Về huy động vốn: tổng số vốn đầu tư thực hiện đều tăng qua các năm
từ 821.277 triệu đồng năm 2005 lên 1.695.762 triệu đồng năm 2009, tăng gấp
đôi so với năm 2005. Trong hơn 1.695 tỷ đồng thì có tới 1.233 tỷ đồng là vốn
tư khu vực kinh tế nhà nước, trong đó vốn từ ngân sách cũng xấp xỉ một
nghìn tỷ đồng, vốn ngoài nhà nước năm 2009 mới có khoảng 462 tỷ đồng.
75
Vồn nhà nước tăng cả về số tuyệt đối, cả về tỷ trọng, năm 2005 vốn nhà nước
chiếm 71,67%, năm 2009 là 72,71%, vốn ngoài nhà nước có tăng về số tuyệt
đối nhưng lại giảm về tỷ trọng. Nguồn vốn đầu tư cho phát triển kinh tế vẫn
chủ yếu dựa vào nguồn vốn nhà nước trên 70% tổng nguồn vốn, vốn ngoài
nhà nước chỉ chiếm 27,29% và về cơ bản là không có vốn đầu tư nước ngoài.
Về hiệu quả sử dụng vốn: vốn đầu tư phụ thuộc rất nhiều vào nguồn
vốn từ ngân sách nhà nước, trong khi hiệu quả đầu tư của khu vực nhà nước là
thấp nhất so với tất cả các khu vực khác, điều này đã được khẳng định qua
thực tế. Tỷ lệ Vốn/GDP trong khu vực kinh tế nhà nước bằng 2,04, trong khu
vực ngoài nhà nước bằng 0,39, thấp hơn rất nhiều so với khu vực kinh tế nhà
nước. Tỷ lệ Vốn/GDP toàn tỉnh tăng lên theo thời gian, năm 2005 là 0,71,
năm 2009 là 0,95, tức là hiệu quả đầu tư đã giảm dần qua các năm. Do vậy,
vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và huy động vốn cho phát triển kinh tế
xã hội là một bài toán khó đối với tỉnh miên núi như tỉnh Điên Biên.
+ Công tác quy hoạch chi tiết còn chậm, chưa sát với thực tế; quá trình
triển khai thực hiện còn yếu.
+ Dấu ấn của kinh tế bao cấp vẫn còn ảnh hưởng nặng nề. Vẫn còn tư
tưởng ỷ lại trông chờ vào ngân sách của chính phủ, chưa đổi mới tư duy về
phát triển kinh tế, một số nơi tập quán tự cấp tự túc còn nặng nề, chậm tiếp
cận với kinh tế thị trường. Chưa khai thác được tiềm năng thế mạnh của tỉnh
cho phát triển kinh tế, xã hội.
76
Chƣơng 3
NHỮNG QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU THÚC ĐẨY
QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ Ở TỈNH
ĐIỆN BIÊN ĐẾN NĂM 2015
3.1. Bối cảnh tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh
Điện Biên
3.1.1. Bối cảnhquốc tế và trong nước
- Bối cảnh quốc tế
+ Sự hình thành nền kinh tế tri thức với đặc trưng nổi bật là sự xâm
nhập nhanh của tri thức và công nghệ cao vào tất cả các ngành, các lĩnh vực
và quyết định xu hướng hình thành cơ cấu kinh tế mới. Trong nền kinh tế này,
những lợi thế truyền thống đang dần nhường chỗ cho lợi thế về tri thức, về
công nghệ và năng lực sáng tạo của con người. Sự di chuyển những ngành
công nghiệp sử dụng nhiều lao động và cả những ngành sử dụng nhiều vốn từ
các nước phát triển nhất ra nước ngoài để tập trung vào những ngành công
nghệ cao với tính cách là một chiến lược phát triển quy mô lớn, là một cơ hội
tốt cho các nước đang phát triển hiện nay.
+ Quá trình toàn cầu hóa ngày càng sâu sắc đã dần xóa nhòa biên giới
kinh tế quốc gia. Việc hình thành sự liên kết chức năng sản xuất làm cho các
chính sách kinh tế quốc gia ngày càng phải tính tới sự phối hợp với các yếu tố
bên ngoài chứ không chỉ mang sắc thái đôc lập như trước. Giờ đây các doanh
nghiệp quốc gia thường xuyên phải chịu sức ép cạnh tranh mang quốc tế. Về
phương diện tài chính, quy mô của sự lưu chuyển luông vốn đã đạt mức kỷ
lục.
Trong quá trình toàn cầu hóa, các dòng di chuyển lao động quốc tế diễn
ra thường xuyên với quy mô lớn đã đem lại những cơ hội lớn cho các nước
đang phát triển. Các nước đang phát triển dư thừa lao động có thể xuất khẩu
77
lao động ra nước ngoài nhất là sang các nước phát triển hơn. Các nước đang
phát triển cũng có cơ hội tốt hơn để thu hút lao động trình độ cao thuộc mọi
lĩnh vực mà họ đang cần. Bên cạnh đó, việc di chuyển lao động sẽ kéo theo
tăng cầu về các dịch vụ kèm theo như vận tải, thông tin liên lạc, nhà ở… tạo
sự kích thích đối với tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, các nước đang phát triển
cũng phải đối mặt với tình trạng "chảy máu chất xám" đang diễn ra. Điều này
đã làm cho qua trình bắt nhịp vào dòng chảy chung của toàn cầu hóa và kinh
tế trị thức trở nên càng khó khăn.
Sự vận động của quá trình phân công lao động quốc tế hình thành
chuỗi giá trị toàn cầu có ảnh hưởng rất quan trọng đối với các nước đang phát
triển. Một mặt, các quốc gia đang phát triển có thể thâm nhập ngay vào chuỗi
giá trị toạn cầu ngay cả khi các nước này chưa có một hệ thống công nghệ
hoàn chỉnh và hiện đại. Nhưng mặt khác, những biến đổi cơ cấu kinh tế của
các nước khó trành khỏi bị lệ thuộc vào chiến lược toàn cầu của các công ty
xuyên quốc gia.
Tóm lại, xu thế toàn cầu hóa kinh tế quốc tế hiện nay có tác động rất
mạnh mẽ đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của từng nước, vì chính sự phân
công lao động diễn ra trên phạm vi quốc tế ngày càng sâu sắc và cơ hội thị
trường rộng lớn được mở ra trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế quốc tế, cho
phép các nước có khả năng khai thác những thế mạnh của nhau để trao đổi
các nguồn lực, vốn, kỹ thuật, hàng hóa và dịch vụ một cách hiệu quả... Quá
trình đó vừa bắt buộc, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho các nước thực hiện
chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với sự phân công lao động trên quy mô
toàn thế giới.
+ Những năm gần đây giá cả nông sản trên thị trường thế giới có xu
hướng tăng mở ra cơ hội nâng cao khả năng cạnh tranh cho những quốc gia
còn đang dựa nhiều hơn vào nông nghiệp. Cùng với sự phát triển của tri thức
78
khoa học, mức độ áp dụng khoa học công nghệ vào lĩnh vực sản xuất nông
nghiệp đã nâng cao năng suất cũng như giá trị gia tăng trong nông nghiệp lên
rất nhiều. Đây là cơ hội để Điên Biên phát huy lợi thế so sánh về tiềm năng
nông nghiệp chất lượng cao thân thiện với môi trường.
+ Hậu khủng hoảng kinh tế toàn cầu
Sau cuộc khủng hoảng sẽ diễn ra quá trình cơ cấu lại một cách sâu sắc
nền kinh tế của các nước và toàn cầu. Một trong những đặc điểm của cuộc
khủng hoảng kinh tế - tài chính lần này là nó diễn ra đồng thời với cuộc
khủng hoảng năng lượng, khủng hoảng khí hậu và môi trường, do đó kinh tế
thế giới sẽ hướng mạnh vào công nghệ tiết kiệm năng lượng, thân thiện với
môi trường. Các nền kinh tế tùy thuộc quá nhiều vào xuất khẩu sẽ phải điều
chỉnh theo hướng chú trọng hơn tới thị trường nội địa. Hệ thống tài chính
ngân hàng có thể sẽ được cơ cấu lại. Điều này sẽ có tác động đáng kể tới
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam cũng như của tỉnh Điện Biên.
- Bối cảnh trong nước
+ Nền kinh tế Việt Nam chuyển từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập
trung sang cơ chế thị trường có sự định hướng của nhà nước xã hội chủ nghĩa
theo quan điểm đổi mới của đại hội lần thứ VI của Đảng năm 1986 đến nay đã
được hơn hai mươi năm. Thể chế kinh tế thị trường đã từng bước được hoàn
thiện hơn và đã được nhiều nước trên thế giới công nhận Việt Nam là nền
kinh tế thị trường hoàn thiện. Với sự hình thành, mở rộng và từng bước hoàn
thiện cơ chế thị trường, việc phân bổ nguồn lực vào các lĩnh vực sản xuất,
kinh doanh khác nhau, tức là quyết định trạng thái cơ cấu kinh tế quốc gia,
ngày càng dựa vào các quyết định mang tính thị trường. Tuy nhiên, Việt Nam
vẫn chưa có một nền kinh tế thị trường thực sự. Các loại thị trường chưa đồng
bộ, trong đó một số thị trường mới ở trạng thái manh nha như thị trường lao
động, thị trường khoa học công nghệ, thị trường chứng khoán…. Tình trạng
79
độc quyền còn tồn tại trọng một số lĩnh vực, trong đó có tình trạng độc quyền
nhà nước biến thành độc quyền công ty. Một trong những nguyên nhân cơ bản
là chưa có sự tách bạch quyền quản lý nhà nước và quyền kinh doanh của
danh nghiệp. Tư duy của thời kỳ kế hoach hóa tập trung như tư tưởng bao
cấp, đối xử không công bằng, cơ chế xin-cho, thiếu minh bạch, thiếu thông
tin… vẫn còn là trở ngại lớn.
Tóm lại, vai trò của yếu tố thị trường trong phân bổ nguồn lực còn hạn
chế do tình trạng bất đối xứng thông tin hoặc tình trạng méo mó thông tin còn
phổ biến.
+ Việt Nam ra nhập WTO đánh dấu sự phát triển mới của quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế. Trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại
thế giới tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận các
thị trường rộng lớn. Đồng thời cũng tạo áp lực nâng cao năng lực cạnh tranh,
cải thiện môi trường đầu tư. Mặc dù tỷ lệ đầu tư trên GDP tăng lên nhưng
hiệu quả đầu tư lại có xu hướng giảm thể hiện qua chỉ số ICOR tăng lên với
tốc độ cao hơn, trong khi tốc độ đổi mới công nghệ còn chậm khiến vấn đề cơ
cấu và chất lượng đầu tư cần được xem xét lại. Môi trường đầu tư tuy đã được
cải thiện nhưng vẫn còn nhiều vấn đề lớn cần giải quyết như: thủ tục hành
chính phức tạp, quan liêu tham nhũng tràn lan; hệ thống kết cấu hạ tầng vẫn
còn yếu kém, chưa đáp ứng được nhu cầu của các nhà đầu tư; thiếu hụt nguồn
nhân lực đã qua đào tạo, đặc biệt là công nhân kỹ thuật và kỹ sư ngày càng rõ
rệt; tiến độ giải phóng mặt bằng còn châm.
+ Xu hướng FDI vào Việt Nam : những năm vừa qua xu hướng nguồn
vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng nhanh là nguồn vốn bổ sung quan
trọng cho tăng trưởng kinh tế và qua đó cũng cho thấy môi trường đầu tư ở
Việt Nam đã được cải thiện. Năm 2008, năm thu hút FDI đạt mức kỷ lục 71,7
tỉ USD, số dự án có quy mô vốn đăng ký trên 1 tỉ USD là 11 dự án, mức vốn
80
đăng ký bình quân một dự án khoảng 65 triệu USD. Đến năm 2009, do ảnh
hưởng chung của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam trong năm 2009 cũng suy giảm đáng kể so với cùng kỳ năm 2008. Các
số liệu sơ bộ tính đến 15-12-2009 cho thấy, Việt Nam thu hút chỉ bằng 53,9%
về số dự án mới và 30% vốn đầu tư đăng ký so với cùng kỳ 2008. Tuy nhiên,
vốn đăng ký tăng thêm của các dự án đang hoạt động lại sụt giảm rất ít. Có
215 dự án đã được điều chỉnh tăng vốn với số vốn đăng ký tăng thêm là 5,14
tỉ USD, bằng 98,3% so với năm 2008 (mức cao nhất kể từ khi ban hành văn
bản pháp quy đầu tiên về đầu tư nước ngoài).
+ Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào, giá rẻ, tỷ lệ lao động biết chữ
khá cao so với các nước có cùng mức thu nhập bình quân đầu người. Đây là
tiềm năng để tiếp cận với kỹ năng lao động, tiếp cận với khoa học công nghệ
tiến tiến, với kiến thức quản lý hiện đại một cách nhanh chóng. Vế mặt địa lý,
Việt Nam nằm ở vị trí trung tâm Đông Nam Á- một khu vực đang phát triển
năng động của thế giới. Đây là điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư, tăng
cường giao lưu kinh tế với khu vực và thế giới.
Tình hình chính trị ổn định, vị thế quốc tế của Việt Nam đang được
nâng cao cùng với các hoạt động kinh tế đối ngoại tích cực trong năm 2009
của lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước ta sẽ tiếp tục củng cố lòng tin và
làm gia tăng mối quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài đối với nước ta
trong năm 2010 và thời gian tới.
- Bối cảnh của tỉnh
+ Tiếp tục thực hiện tái định cư thủy điện Sơn La với nguồn vốn của
chính phủ, tỉnh có thể tận dụng để nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật.
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế: tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai
đoạn 2004 - 2010 đạt ở mức khá, trên 11% một năm. Thu nhập bình quân đầu
81
người tăng lên 547 USD/người/năm chưa bằng một nửa mức thu nhập bình
quân của cả nước.
+ Năm 2010 tình hình kinh tế - xã hội vùng Tây Bắc phát triển khá với
mức tăng GDP 11,6%, , tổng sản lượng lương thực toàn vùng tăng 1,4%. Giá
trị sản xuất công nghiệp toàn vùng tăng 14,8% so với cùng kỳ năm trước, một
số địa phương có mức tăng khá cao như Lào Cai tăng 29,8%, Sơn La tăng
25%, Phú Thọ tăng 23%...Cơ sở hạ tầng, nhất là hạ tầng về giao thông của
vùng tiếp tục được cải thiện; đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào không
ngừng được nâng lên; tình hình quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội
trong vùng được giữ vững…
+ Điện Biên vẫn là tỉnh nghèo, kinh tế chậm phát triển, ngày càng tụt
hậu xa so với cả nước, đời sống dân cư còn rất khó khăn, đặc biệt là đồng bào
dân tộc ít người. Tỉnh có nhiều dân tộc cùng sinh sống, với phong tục tập
quán khác nhau, đặc biệt các thế lực thù địch đã lợi dụng điều này để chống
phá, gây mất đoàn kết, do đó tiềm ẩn nguy cơ bất ổn chính trị.
+ Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội là hạn chế lớn nhất không chỉ riêng với
tỉnh Điện Biên mà là khó khăn chung của các tỉnh thuộc khu vực Tây Bắc.
Nhận thức rõ điều này, thời gian qua tỉnh đã tập trung đầu tư cải thiện tình
hình cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội như đầu tư nâng cấp hệ thống giao thông,
thông tin liên lạc, mạng lưới điện, bệnh viên, trường học…Hiện nay, các quốc
lộ 6, quốc lộ 12, quốc lộ 279 đã hoàn thiện việc nâng cấp đưa vào sử dụng,
giảm thời gian và chi phí vận chuyển đáng kể, hệ thống đường đến các trung
tâm xã cũng được nâng cấp, 100% xã đã có đường ô tô đến trung tâm xã;
100% xã, phường có điện thoại và điểm bưu điện văn hoá xã; trung tâm các khu
đô thị, thị tứ đã được phủ sóng điện thoại di động. Mặc dù đã được đầu tư nâng
cấp đáng kể so với trước đây nhưng nhìn chung hệ thống cơ sở hạ tầng vẫn
còn nhiều yếu kém chưa đáp ứng được yêu cầu của phát triển kinh tế xã hội.
82
3.1.2. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam
trong thời gian tới
Trong bối cảnh hiện nay, xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
của nước ta vẫn được khẳng định theo tinh thần mà Đại hội X đã đề ra. Trong
giai đoạn mới 2011 - 2020, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế cần phải có sự
chuyển biến mạnh mẽ hơn, phải có sự biến đổi về chất và trình độ phát triển
hơn hẳn hiện nay, tạo nền tảng để nước ta về cơ bản trở thành nước công
nghiệp vào năm 2020. Theo đó, Đại hội XI nêu một số chỉ tiêu phải đạt được
vào năm 2020, khi nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại là: cơ cấu kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ hiện đại,
hiệu quả. Tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85%
GDP. Giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao
đạt khoảng 45% GDP. Giá trị sản phẩm công nghiệp chế tạo chiểm khoảng
40% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp. Nông nghiệp có bước phát triển
theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững, nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng
cao. Tỷ lệ lao động nông nghiệp chiếm khoảng 30 - 35% lao động xã hội. Yếu
tố năng suất lao động tổng hợp góp vào tăng trưởng đạt khoảng 35%. Kết cấu
hạ tầng tương đối đồng bộ với một số công trình hiện đại. Tỷ lệ đô thị hóa đạt
trên 45%. Chỉ số phát triển con người đạt mức trung bình cao của thế giới. Tỷ
lệ lao động qua đào tạo đạt trên 70%.
Xu hướng chung đó có ảnh hưởng đáng kể đến việc xác định xu hướng
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Điện Biên. Trong chiến lược phát
triển kinh tế- xã hội (2006 - 2020) tỉnh Điện Biên xác định: đến năm 2010, cơ
cấu kinh tế là: nông, lâm, thủy sản chiếm 29 - 30%, công nghiệp - xây dựng
chiếm 34%, dịch vụ chiếm 36 - 37%; đến năm 2020: nông, lâm, thủy sản
chiếm 18%, công nghiệp, xây dựng chiếm 40%, dịch vụ chiếm 42%; đến năm
2020, về cơ bản Điện Biên có một nền công nghiệp vững chắc với cơ cấu hợp lý,
83
phù hợp với điều kiện và tiềm năng, lợi thế của tỉnh, đồng thời có khả năng cạnh
tranh cao.
Việc xác định mục tiêu như trên của tỉnh là quá sức và chưa hợp lí chưa
phù hợp với đặc thù của tỉnh Điện Biên. Năm 2009 cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh
đạt được là: nông, lâm, thủy sản 35,61%; công nghiệp, xây dựng 27,67%; dịch
vụ 36,73%; 75,59% lao động đang làm việc trong khu vực nông, lâm, thủy sản,
trình độ sản xuất vẫn rất lạc hậu, manh mún; lao động làm việc trong ngành công
nghiệp, xây dựng mới chiếm 7,36%. Mặt khác, tiềm năng công nghiệp của tỉnh
là không lớn, thêm vào đó hạn chế về nguồn vốn và chất lượng nguồn lao động,
vì vậy chưa thể phát triển công nghiệp nhanh trong tương lai gần.
Theo tác giả, trong thời gian trước mắt cần tập trung đầu tư phát huy lợi
thế so sánh của tỉnh, đó là phát triển toàn diện ngành nông, lâm nghiệp gắn với
công nghiệp chế biến một cách bền vững thân thiện với môi trường kết hợp với
phát triển thương mại và du lịch. Phát triển công nghiệp trên cơ sở phục vụ cho
phát triển các ngành khác. Dự kiến đến năm 2020, cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh
là: nông, lâm, thủy sản 25%, công nghiệp, xây dựng 33% và dịch vụ 42%.
3.2. Quan điểm và mục tiêu của tỉnh Điện Biên về chuyển dich cơ
cấu ngành kinh tế đến 2015
3.2.1. Quan điểm về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Trên cơ sở phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở
trên, căn cứ vào bối cảnh kinh tế, xã hội hiện nay trên thế giới và trong nước,
căn cứ vào đặc điểm tự nhiên, kinh tế- xã hội của tỉnh Điện Biên, tác giả đề
xuất một số quan điểm về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế như sau:
Quan điểm chung: Cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng
nhanh tỷ trọng những ngành có năng suất lao động và giá tăng cao hoạt động
dựa trên cơ sở ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại và khai thác tối đa tiềm
84
năng kinh tế của tỉnh Điện Biên. Đây là nguyên lý chung đối với chuyển dịch
cơ cấu ngành kinh tế, trong những điều kiên nhất định cần cụ thể hơn:
- Về mặt nguyên lý, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là một quá trình
mang tính quy luật, do đó chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế về cơ bản phải
tuân theo quy luật chung về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Về mặt lịch sử, cơ cấu ngành kinh tế biến đổi hay chuyển dịch theo quy
luật chung là: bắt đầu tư nhưng ngành tập trung nhiều lao động, vốn ít, dân
chuyển sang những ngành nhiều vốn và cuối cùng là sang những ngành nhiều
kỹ thuật (tri thức). Phần lớn các nước, ở thời kỳ đầu công nghiệp hóa chỉ có
nguồn lao động là sẵn có với giá cả thấp nhưng lại thiếu vốn và kỹ thuật. Vì
vậy, để tận dụng lợi thế so sánh đó, những ngành tập trung nhiều lao động trở
thành những ngành xuất phát điểm cho chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Khi
lao động từ chỗ dư thừa dần đạt tới mức đầy đủ việc làm và nguồn vốn, kỹ
thuật đã được tích lũy ngày càng nhiều hơn, sẽ tạo điều kiện chuyển các
ngành chủ đạo của nền kinh tế sang những ngành tập trung nhiều vốn. Và khi
trình độ tri thức, và kỹ thuật đã được nâng cao, các ngành tập trung nhiều kỹ
thuật, ít lao động dần thay thế các ngành thâm dụng lao động và vốn để trở
thành những ngành chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Trên thực tế cho thấy
quốc gia nào không tuân thủ quy luật chúng đó mà ngày tư đầu đã tập trung
phát triển những ngành tập trung nhiều vốn và kỹ thuật đều đã phải trả giá.
- Cơ cấu ngành kinh tế cũng cần tích cực tiếp cận những ngành, lĩnh
vực khoa học công nghệ hiện đại dựa trên cơ sở những điều kiện về cơ sở vật
chất, con người, cơ chế chính sách của nền kinh tế.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới và cách mạng khoa học phát
triển như hiện nay cũng cho phép các quốc gia đi sau có thể rút ngắn thời gian
quá trình công nghiệp hóa trên cơ sở đúc rút kinh nghiêm và kế thừa những
85
thành tựu đã đạt được của các nước đã phát triển trước đây. Tùy từng điều
kiện cụ thể mà mức độ rút ngắn nhiều hay ít và lựa chọn khâu để rút ngắn.
Với điều kiện của tỉnh Điện Biên hiện nay không thể và không đủ điều
kiện để phát triển những ngành đòi hỏi vốn lớn, kỹ thuật cao như những
ngành công nghiệp chế tạo, hay điện tử tin học. Hiện nay, Điện Biên có tới
hơn 80% lao động làm nông nghiệp, trình độ lao động còn rất hạn chế, môi
trường đầu tư kém hấp dẫn. Do đó, đầu tư vào những ngành cần ít vốn, tập
trung nhiều lao động nhằm khai thác lợi thế so sánh của tỉnh. Để nâng cao
năng suất lao động và chất lượng sản phẩm đáp ứng một nền nông nghiệp
sạch đáp ứng yếu cầu của thị trường thì cần tăng cường áp dụng tiến bộ khoa
học công nghệ vào sản xuất. Mặt khác, việc đầu tư vào nông nghiệp không
đòi hỏi vế vốn đầu tư và sự thay đổi không quá lớn so với đầu tư cho công
nghiệp, và có thể làm ngay trong thời gian ngắn nhất phù hợp với điều kiện
của tỉnh Điện Biên
- Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời đại ngày nay cần dựa
trên thị trường và hướng vào đáp ứng yêu cầu thị trường.
Thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam đã và đang được từng bước hoàn
thiên và mở rông trên phạm vi toàn quốc. Các thị trường dần được hình thành
và hoàn thiện thành một hệ thống thống nhất, khoảng cách hay mức độ chia
cắt giữa các loại thị trường địa phương, dân tộc và với cả thị trường thế giới
giảm dần. Điều đó cũng đồng nghĩa với quá trình phân công lao động ngày
càng sâu sắc trên cả phạm vi quốc gia và trên cả phạm vi quốc tế. Mỗi lao
động cá nhân trở thành một nhân tố, một mắt xích của hệ thống lao động xã
hội. Mỗi cá nhân, mỗi địa phương, mỗi quốc gia giờ đây phải từ những nguồn
lực mình có thế huy động và sử dụng hiệu quả để đáp ứng nhu cầu của thị
trường và ngày tốt hơn nhu cầu của thị trường đem lại ngày càng nhiều lợi ích
cho mình. Điều đó dẫn đến đòi hỏi các chủ thể kinh tế phải lựa chọn và lựa
86
chọn cho đúng những sản phẩm thị trường cần mà mình có thể đáp ứng và
mình thu về được lợi ích. Hơn nữa, ngày nay quá trình toàn cầu hóa diễn ra
ngày càng sâu rộng trên phạm vi toàn cầu, do đó thị trường không chỉ có thị
trường quốc gia dân tộc mà cả một thị trường thế giới rộng lớn hơn, đa dạng
hơn, phức tạp hơn và cũng cạnh tranh gay gắt hơn.
Điện Biên là tỉnh lực lượng sản xuất còn kém phát triển, tỷ lệ thất
nghiệp cao, trình độ lao động và trình độ dân trí còn nhiều hạn chế, đất đai
chủ yếu là đồi núi chưa được khai thác, tài nguyên khoáng sản trữ lượng thấp,
nguồn vốn tư nội bộ cũng như thu hút đầu tư rất thấp. Vì vậy, tỉnh Điện Biên
không thể phát triển những ngành đòi hỏi vốn đầu tư lớn, lâu thu hồi vốn và
đòi hỏi công nghệ cao. Phát triển ngành nông nghiệp sạch, lâm nghiệp gắn với
công nghiệp chế biến nông sản hàng hóa chất lượng cao đáp ứng nhu cầu thị
trường trong nước, thị trường thế giới và giải quyết công ăn việc làm cho dân
cư, góp phần xóa đói giảm nghèo. Phát triển ngành nông nghiệp hàng hóa
theo nghĩa rộng là dựa trên những điều kiện kinh tế, xã hội đặc thù của tỉnh,
nhưng cần lưu ý một điểm là sản phẩm của ngành nông nghiệp phải đáp ứng
yêu cầu của thị trường trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, tức phải đáp
ứng được cả các tiêu chuẩn quốc tế về giá cả, chất lượng.
- Cơ cấu ngành kinh tế phải trên cơ sở khai thác tiềm năng thế mạnh
của nền kinh tế, nâng cao đời sống dân cư, thực hiện xóa đói giảm nghèo.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là để hướng tới một cơ cấu
ngành kinh tế hợp lí hơn. Một cơ cấu kinh tế hợp lí sẽ cho phép khai thác tối
đa tiềm năng lợi thế của nền kinh tế. Điện Biên có lợi thế phát triển ngành
nông nghiệp sạch chất lượng cao, thân thiện với môi trường, tạo thu nhập cho
lao động nông thôn, góp phần xóa đói giảm nghèo. Bên cạnh đó có thể kêu
gọi đầu tư phát triển một số cơ sở công nghiệp khai thác mỏ thật hiệu quả
phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế của tỉnh. Một số ngành dịch vụ có tiềm
87
năng phát triển như thương mai hàng hóa, dịch vụ du lịch cần có sự đầu tư
thỏa đáng.
- Công nghiệp hóa trước tiên phải hướng vào nông nghiệp, nông thôn.
Một cách tuần tự theo quy luật của sự phát triển, xã hội lần lượt trải qua
các nền văn minh khác nhau, từ nền văn minh nông nghiệp, sau đó đến nền
văn minh công nghiệp và nền văn minh hậu công nghiệp. Quá trình đó, ở các
quốc gia khác nhau có thể nhanh, chậm khác nhau nhưng về cơ bản vẫn phải
trải qua các bước tuần tự. Khi nông nghiệp phát triển năng suất cao hơn sẽ đòi
hỏi và tạo thị trường cho công nghiệp hình thành. Như vậy, công nghiệp hóa
trước tiên là để phục vụ cho nông nghiệp, thúc đẩy nông nghiệp phát triển ở
tầm cao mới.
Tỉnh Điện Biên hiện nay hơn 75% lao động làm nông nghiệp và tỷ
trọng nông nghiệp vẫn chiếm hơn 30% tổng sản phẩm quốc dân của tỉnh. Lao
động nông nghiệp không qua đào tạo gần như tuyệt đối, mức độ áp dụng khoa
học, kỹ thuật trọng sản xuất nông nghiệp ở mức thấp, năng suất lao động, chất
lượng sản phẩm thấp, giá trị gia tăng không đáng kể, không có tích lũy cho tái
đầu tư, cơ sở hạ tầng thấp kém, đời sống nông dân còn rất nhiều khó khăn.
Trong điều kiện đó, công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn là rất cần thiết
phải được coi là nhiệm vụ hàng đầu trong phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Hơn nữa, với những tiềm năng hiện có thì đầu tư vào sản xuất hàng hóa nông
nghiệp chất lượng cao là hướng đi phù hợp trong giai đoạn hiện nay, thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn tạo sự thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế một cách bền vững.
- Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế hướng tới sự phát bền vững
Phát triển bền vững hiện nay là vấn đề mang tính chất toàn cầu và cũng
là đòi hỏi đối với tất cả các nền kinh tế. Phát triển bền vững theo WB, là phát
triển theo nguyên tắc " sự thỏa mãn nhu cầu của thế hệ hôm nay không làm
88
tổn hại tới sự thỏa mãn nhu cầu của các thế hệ mai sau". Phát triển bền vững
phải bảo toàn và phát triển ba nguồn vốn: tài nguyên môi trường ( bao gồm cả
môi trường tự nhiên và môi trường xã hội), vốn nhân lực (chất lượng của lao
động) và vốn vật chất ( cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế). Trong đó tài
nguyên môi trường hiện nay đặc biệt được quan tâm, vì công nghiệp hóa, hiện
đại hóa của các quốc gia đều dẫn tới hủy hoại môi trường.
Tiêu chuẩn về môi trường là một tiêu chuẩn quốc tế mà các sản phẩm
hàng hóa cần phải đáp ứng, do đó để có thể cạnh tranh trên thị trường thì sản
phẩm sản xuất ra phải tiếp cận các tiêu chuẩn này.
3.2.2. Mục tiêu phát triển
Mục tiêu tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế mà tỉnh đặt
ra từ nay đến năm 2015 như sau:
- Tăng trưởng kinh tế GDP bình quân đạt 11 - 12%/năm; GDP bình
quân đầu người trên 1.100 USD/năm. Nhịp độ phát triển bình quân các khu
vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ là 5,1%; 15,37% và 12,66%.
- Tỷ trọng khu vực nông nghiệp là 28,08% ( giảm 5,22%), công nghiệp-
xây dựng là 33,54% (tăng 3,73%), dịch vụ 38,38% (tăng 1,49%) so với năm
2010.
Từ những phân tích về thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
như trên tác giả cho rằng, việc đề ra mục tiêu về cơ cấu ngành kinh tế đến
năm 2015 như trên là chưa thật phù hợp. Một là, nông nghiệp là lợi thế so
sánh của tỉnh Điện Biên, hiện có trên 75% lao động nông nghiệp và trên 80%
dân cư sống ở nông thôn. Hai là, công nghiệp không phải là ngành có tiềm
năng để đẩy mạnh phát triển. Ba là, đầu tư cho công nghiệp hiện hiệu quả rất
thấp so với đầu tư cho nông nghiệp, đòi hỏi vốn lớn, công nghệ hiện đại, lao
động có trình độ cao- điều mà tỉnh đang thiếu. Bốn là, công nghiệp, đặc biệt
là khai khoáng có ảnh hưởng lớn đến môi trường nếu công nghệ lạc hậu, ảnh
89
hưởng tới các ngành kinh tế khác tác động xấu đến mục tiêu tăng trưởng bền
vững.
Theo tác giả, dự kiến đến năm 2015 cơ cấu nông nghiệp, công nghiệp,
dịch vụ tương ứng khoảng 30; 31; 39 là phù hợp.
3.3. Một số giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở
tỉnh Điện Biên
Để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo quan điểm, mục
tiêu đã đề ra ở trên cần thực hiện đồng bộ rất nhiều giải pháp, ở đây tác giả
xin đề cập tới một số giải pháp cơ bản nhất.
3.3.1. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội tỉnh Điện Biên
Đẩy nhanh tiến độ quy hoạch chi tiết của các ngành, các huyện. Nâng
cao chất lượng quy hoạch nhất là quy hoạch phát triển ngành sát với điều kiện
của tỉnh và có tầm nhìn dài hạn hơn, tránh tư tưởng nóng vội trong quy hoạch
phát triển. Tiến hành rà soát lại quy hoạch vùng, quy hoach chi tiết của từng
ngành, từng địa phướng để xây dựng quy hoạch sát với thực tế và thống nhất
với quy hoạch tổng thể của vùng Tây Bắc. Đặc biệt là phát triển trục kinh tế
động lực quốc lộ 6 nói riêng của chính phủ, chú trọng phát triển lâm nghiệp
hàng hóa gắn với công nghiệp chế biến.
Để nâng cao chất lượng quy hoạch cần đổi mới công tác xây dựng
chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội; không ngừng nâng cao năng
lực đội ngũ cán bộ công chức lập quy hoạch nhằm nâng cao chất lượng quy
hoạch, sao cho quy hoạch sát với thực tiễn, phản ánh đúng nhu cầu của thị
trường và có tầm nhìn dài hạn hơn.
Thu hút sự tham gia sâu rộng của các doanh nghiệp, xã hội dân sự và
của người dân vào quá trình quy hoạch và thực hiện quy hoạch; nâng cao hiệu
lực thực hiện chính sách. Việc tăng cường sự tham gia của mọi tầng lớp dân
cư vào quá trình hoạch định và thực hiện chính sách có tác dụng tăng cường
90
sự bình đẳng, tăng cường sự tiếp cận của nhân dân với các nguồn lực phát
triển và từ đó có một sự phản biện để việc quy hoạch và thực hiện quy hoạch
sát với thực tiễn hơn. Muốn vậy, cần nâng cao tính minh bạch của nền hành
chính và trách nhiệm giải trình của các cơ quan và công chức nhà nước cung
cấp cho người dân có đầy đủ thông tin cần thiết.
Một vấn đề quan trọng nữa là nâng cao năng lực và phẩm chất đạo đức
của cán bộ công chức, những người có ảnh hưởng, chi phối quá trình quy
hoạch và thực hiện quy hoạch cần đặt lợi ích chung lên hàng đầu, không quy
hoạch vị lợi ích riêng của một cá nhân hay một bộ phận cá nhân.
Cần đưa ra cơ chế chính sách phù hợp cho thực hiện quy hoạch, nâng
năng lực thực hiện, có sự chỉ đạo, giám sát thật chặt chẽ để quá trình thực
hiện quy hoạch đảm bảo tiến độ và hiệu quả. Trong quá trình thực hiện căn cứ
vào điều kiện thực tiễn kịp thời chỉ ra những điểm chưa hợp lí cần điều chỉnh,
đồng thời nắm bắt sự biến động của các yếu tố để kịp thời có sự điều chỉnh
quy hoạch cho phù hợp tránh lãng phí nguồn lực.
3.3.2. Tăng cường huy động và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư
a. Tăng cường huy động vốn
Nhu cầu vốn đầu tư của Tỉnh trong giai đoạn 2006 - 2020 là rất lớn so
với nguồn lực và khả năng cân đối của Tỉnh và sự hỗ trợ của Trung ương. Để
đáp ứng được nhu cầu vốn đầu tư của tỉnh Điện Biên giai đoạn 2006 - 2020,
Tỉnh cần phải có các biện pháp để huy động vốn một cách tích cực, trong đó
cần tăng cường vai trò nguồn nội lực, sử dụng quỹ đất hợp lý để tạo vốn đầu
tư, chú trọng thu hút vốn từ các thành phần kinh tế trong và ngoài tỉnh, thu hút
vốn đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh xã hội hoá trong các lĩnh vực y tế, giáo dục,
văn hoá - thể thao v.v…
+ Nêu cao tinh thần thực hiện tiết kiệm trong mọi hoạt động, ở mọi lúc,
mọi nơi và mọi tầng lớp dân cư.
91
+ Cải thiện môi trường đầu tư, khuyến khích người dân đầu tư vào sản
xuất kinh doanh nhằm huy động nguồn vốn nhàn dỗi trong dân cư vẫn còn rất
lớn. Cụ thể hóa thành chính sách những ưu đại thu hút đầu tư với các tiêu chí
rõ ràng, chi tiết cho từng lĩnh vực. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính,
công khai hóa mọi thủ tục, thời gian quy định… để người dân nắm rõ. Nâng
cao trình độ nghiệp vụ, tư cách đạo đức, tránh nhiêm của đội ngũ cán bộ công
chức. Thực hiện quyết liệt hành động chống quan liêu, tham nhũng; nâng cao
hiệu quả hiệu lực thực thi pháp luật; nêu cao tinh thần sống và làm việc theo
pháp luật; xóa bỏ cơ chế xin-cho, bao cấp dưới mọi hình thức. Điện Biên cần
phải coi việc hoàn thiện các chính sách tạo thuận lợi về mặt thủ tục là điểm
đột phá để thu hút các nguồn vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh của các
thành phần kinh tế.
+ Giải pháp khai thông một nguồn vốn có sẵn trong xã hội trên cơ sở
tạo lập một cơ chế quyền sở hữu để đưa những tài sản của dân chúng vào hệ
thống tài sản sở hữu hợp pháp. Như vậy, vấn đề đặt ra ở đây là xây dựng và
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, trong đó đặc biệt nhấn mạnh nội dung
quyền tài sản trong hệ thống pháp luật. [ 29 ]
Số lượng vốn là rất quan trọng cho phát triển kinh tế và chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế, nhưng hiệu quả sử dụng vốn còn quan trọng hơn, và đặc
biệt quan trọng đối với tỉnh rất khó khăn về vốn như tỉnh Điện Biên.
b. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
- Để nâng cao hiệu quả đầu tư trước tiên cần giải quyết vấn đề chất
lượng quy hoạch đầu tư. Lựa chọn ngành, lĩnh vực, vùng cần tập trung đầu tư
nhằm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, vùng kinh tế, lĩnh vực, bảo đảm hiệu
quả đầu tư, khắc phục tình trạng co kéo, dàn trải, phân tán. Cần lựa chọn
những ngành, lĩnh vực tập trung phát triển trên cơ sở lợi thế so sánh của tỉnh.
92
Trong thời gian tới, việc xác định những ngành, lĩnh vực trọng điểm cần thỏa
mãn những điều kiện sau:
+ Một là, những lĩnh vực có lợi thế về tài nguyên thiên nhiên;
+ Hai là, những lĩnh vực tạo ra nhiều việc làm cho người lao động sẵn có;
+ Ba là, những lĩnh vực có hiệu quả đầu tư cao, vốn ít
Trên cơ sở các điều kiện trên, có thể chỉ ra mộ vài hướng cụ thể sau:
+ Nhóm ngành nông, lâm nghiệp: đây vẫn là ngành có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng đồi với tỉnh Điện Biên. Nông nghiệp là ngành sản xuất lương thực,
thực phẩm có vai trò ổn định đời sống, kinh tế, xã hội khi tỉnh vẫn còn trên
80% dân cư sống ở nông thồn và trên 75% lao động làm việc ở khu vực nông
nghiệp.Với diện tích đất lâm nghiệp chiếm đa số, địa hình có độ dốc khá cao,
phát triển lâm nghiệp vừa có ý nghĩa kinh tế, vừa nuôi dưỡng môi trường
sống, môi trường sản xuất cho các ngành khác không chỉ trên phạm vi tỉnh
Điện Biên. Hơn nữa, đây là ngành phù hợp với thực trạng về lao động, vốn
của tỉnh, là ngành tạo bước đệm cho chuyển dịch lao động sang khu vực hiện
đại, vì việc chuyển dịch lao động từ khu vực nông nghiệp sang các khu vực
hiện đại hơn không thể diễn ra trong một thời gian ngắn.
+ Nhóm ngành công nghiệp chế biến nông sản hàng hóa: để phát triển
nông, lâm nghiệp hàng hóa lớn thì cần có công nghiệp chế biến, bảo quản sản
phẩm nâng cao giá trị của sản phẩm nông nghiệp. Mặt khác những ngành này
sử dụng nhiều lao động, công nghệ không cao, thời gian thu hồi vốn nhanh và
khả năng linh hoạt, thích ứng với môi trường kinh doanh khá tốt.
+ Nhóm ngành dịch vụ sử dụng nhiều lao động như thương nghiệp, sửa
chữa xe có động cơ, đồ dùng gia đình, vận tải hành khách và hàng hóa...
Nhóm ngành này tuy không tạo ra giá trị gia tăng cao nhưng lại sử dụng nhiều
lao động trình độ phổ thông, công nghệ không cao, vốn ít, khả năng thu hồi
vốn nhanh phù hợp với điều kiện cụ thể của tỉnh Điện Biên hiện nay. Vì vây,
93
nhóm ngành này sẽ đem lại hiệu quả cao đối với nền kinh tế trong thời gian
trước mắt.
+ Nhóm ngành công nghiệp khai thác mỏ đòi hỏi vốn đầu tư lớn và
công nghệ cao, quy mô lớn mới đem lại hiệu quả kinh tế. Trong điều kiện hạn
chế về nguồn vốn, công nghệ hiên đại, nguồn lao động có trình độ, kỹ năng
nghề nghiệp cao thì việc phát triển nhóm ngành này cần có sự cân nhắc thật
kỹ lưỡng, chỉ nên phát triển ngành nào thật sự cần và có hiệu quả đối với nền
kinh tế. Hơn nữa, nhóm ngành này có sự "tranh dành" đối với một số ngành
khác như ngành khai thác và chế biến khoáng sản có tác động xấu đến nông
nghiệp, lâm nghiệp, du lịnh...và có ảnh hưởng xấu đến môi trường nhất là khi
trình độ công nghệ còn lạc hậu. Vì vậy, trong nhóm ngành này chỉ lên đầu tư
sản xuất khi nó thực sự cần thiết và hiệu quả đối với nền kinh tế còn lại nên
để đến khi các yếu tố về vốn công nghệ tích tụ đủ, khi đó khai thác mới đạt
được hiệu quả kinh tế, ít tác động đến môi trường.
+ Nhóm ngành dịch vụ hiện đại như du lịch, khách sạn nhà hàng, ngân
hàng tài chính nhất là ngành du lịch cũng cần tiếp cận.
- Đẩy nhanh tiến độ thi công để sớm đưa các công trình vào sử dụng để
sớm phát huy hiệu quả trong điều kiện chu kỳ khấu hao thiết bị, máy móc,
công nghệ đã rút ngắn hơn nhiều so với trước đây. Việc đầu tư xây dựng các
trụ sở, nhà văn hóa thôn bản...chỉ khi cần thiết và phát huy tác dụng hiệu quả,
tránh tình trạng xây dựng xong bỏ không gần như không sử dụng như hiện
nay. Hạn chế tình trạng thất thoát, đục khoét vốn đầu tư, nhất là vốn tư ngân
sách nhà nước.
- Khu vực kinh tế tư nhân là khu vực hiệu quả năng động và tạo nhiều
việc làm nhất, do đó khuyến khích đầu tư từ khu vực tư nhân, nâng cao tỷ
trọng vốn đầu tư của khu vực này cũng là một giải pháp hữu hiệu để nâng cao
hiệu quả đầu tư nói chung.
94
3.3.3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Chất lượng nguồn nhân lực là nhân tố quan trọng cho phát triển kinh tế
và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Để nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực ở tỉnh Điện Biên hiện nay cần thực hiện đồng bộ những giải pháp cơ
bản.
+ Nâng cao chất lượng dân số thông qua thực hiện tốt các chương trình
kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc bảo vệ bà mẹ, trẻ em, các chương trình tiêm
chủng; các chương trình phát triển liên quan đến phát triển thể lực, trí lực của
con người…
+ Nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo tại địa phương, đặc biệt quan
tâm đến chất lượng giáo dục phổ thông trước tiên. Đây là giai đoạn hình thành
nhân cách đạo đức, ý chí, kiến thức nền tảng cơ bản, phát triển thể lực và tinh
thần của mỗi con người. Do đó, giai đoạn này đặc biệt quan trọng cần được
quan tâm trước tiên. Thực trạng giáo dục nói chung và giáo dục phổ thông hiện
nay đã không chú trọng đến giáo dục nhân cách, ý chí nghị lực, lòng tự trọng,
tư duy sáng tạo và kỹ năng sống điều quan nhất đảm bảo cho sự thành công của
mỗi con người sau này, trong khi việc trang bị cho học sinh, sinh viên những
kiến thức hàn lâm cũng chưa thực sự tốt- cái mà từ trước tới nay vẫn được đặt
lên hàng đầu. Với đa số lao động sống ở nông thôn, làm nông nghiệp thì việc
nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông lại hết sức có ý nghĩa. Những kiến
thức cơ bản bước đầu về kinh tế thị trường, về kỹ năng nghề nghiệp cũng cần
đưa vào một cách hợp lí. Ngoài ra, đối với các trường chuyên nghiệp cũng cần
có quy hoạch cụ thể, đào tạo trên cơ sở đáp ứng nhu cầu về lao động của thị
trường về ngành nghề, số lượng, chất lượng lao động. Tỉnh cần hoàn thiện cơ
chế, thể chế về thị trường lao động, có chính sách đào tạo, hỗ trợ đào tạo nghề
nông, lâm nghiệp theo cách sản xuất hàng hóa, sản xuất bền vững cải thiện vấn
đề an toàn vệ sinh thực phẩm và bảo vệ môi trường.
95
+ Có chính sách sử dụng lao động một cách hiệu quả, đặc biệt là lao
động đã qua đào tạo. Lao động cần được bố trí sử dụng đúng chuyên mô đào
tạo, đúng năng lực, có thời gian làm việc hợp lí và hưởng kết quả tương ứng
kích thích tinh học tập, rèn luyện. Có chính sách đãi ngộ hợp lí để thu hút
nhân tài, trước hết là con em ở tỉnh đi học ở các trường trên cả nước. Trong
khu vực kinh tế nhà nước cần thay đổi dần cách tuyển dụng bằng cách xét
tuyển như hiện nay sang thi tuyển, tạo sự minh bạch, công bằng trong tuyển
dụng lao động.
+ Đoàn kết mọi tầng lớp lao động, tăng cường sự liên kết giữa nhà
nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và người lao động nhằm kết hơp, sử
dụng được sức mạnh tổng hợp của xã hội cho phát triển kinh tế- xã hội và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
3.3.4. Phát triển hạ tầng kinh tế kỹ thuật
Hệ thông cơ sở hạ tầng yếu kém vẫn luôn là trở ngại lớn đối với việc
thu hút đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh trên địa bàn. Để phát triển kinh
tế- xã hội nói chung và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nói riêng
thì trước tiên phải cải thiện được điều này. Trong thời gian trước mắt tỉnh cần
tiếp tục xây dựng, nâng cấp đồng bộ hệ thống hạ tầng kinh tế- kỹ thuật cho
phát triển kinh tế- xã hội. Tập trung nâng cấp hoàn thiện hệ thống điện, hệ
thống thủy lợi, hệ thống giao thông nông thôn, kết cấu hạ tầng cho khu, cụm
công nghiệp đã được phê duyệt. Nâng cao hiệu quả sử dụng hệ thống điện,
khai thác hiệu quả hệ thống thủy lợi hiện có đáp ứng tốt nhất nhu cầu tưới,
tiêu cho sản xuất nông nghiệp. Tiếp tục duy trì cơ chế đầu tư 40/60, 50/50 đối
với đường đến trung tâm các xã vùng thấp; đối với đường thôn, bản địa
phương tự huy động, với mục tiêu xã hội hóa để đầu tư. Đối với các xã vùng
cao, đường đến trung tâm xã và đường nối từ trung tâm xã đến các thôn, bản,
áp dụng cơ chế 60/40, (Nhà nước hỗ trợ tối đa 60% tổng mức đầu tư, kinh phí
96
còn lại do nhân dân địa phương đóng góp); đường thôn, bản do nhân dân tự
đóng góp, Nhà nước hỗ trợ vật liệu, thuốc nổ phá đá và xây dựng công trình
thoát nước. Các xã đặc biệt khó khăn, bên cạnh nguồn vốn các chương trình
mục tiêu quốc gia, tiếp tục hỗ trợ từ nguồn ngân sách của tỉnh với mức 70%
so với tổng mức đầu tư, số còn lại địa phương cần huy động nhân dân đóng
góp. Giải quyết tốt cơ chế đầu tư cũng như việc huy động vốn để hoàn thiện
mạng lưới giao thông nông thôn, góp phần phục vụ đắc lực mục tiêu phát
triển kinh tế-xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh của địa phương.
Gắn phát triển khoa học, công nghệ với sản xuất, tạo điều kiện ứng dụng
nhanh các thành tựu của khoa học, công nghệ mới. Tăng cường đầu tư kinh
phí cho công tác nghiên cứu khoa học và ứng dụng đại trà những tiến bộ khoa
học vào sản xuất. Có chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp đầu tư áp dụng
các công nghệ mới, tiên tiến vào sản xuất. Xây dựng và phát triển mạng lưới
thông tin. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện Đề án tin học hóa các cơ quan Đảng và
Nhà nước. Phát triển mạnh nguồn nhân lực cho khoa học, công nghệ, tăng
cường lực lượng khoa học cho cơ sở. Có chính sách thu hút các cán bộ khoa
học về công tác tại Điện Biên và chuyển giao công nghệ cho tỉnh.
3.3.5. Giải pháp phát triển ngành
a. Phát triển ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản
Nhóm ngành nông nghiệp vẫn chiếm một tỷ trọng cao trong cơ cấu
GDP và tỷ lệ lao động làm việc ở nhóm ngành này vẫn rất cao, tỷ lệ dân cư
sống ở nông thôn chiếm đa số với mức sống thấp, tỷ lệ nghèo đói cao. Năng
suất lao động khu vực nay rất thấp, mức đầu tư thấp và có xu hướng giảm
dần, cơ sở hạ tầng yếu kém. Hiệu quả sản xuất còn thấp do kỹ thuật công
nghệ lạc hậu, việc bảo quản, chế biến làm tăng giá trị còn hạn chế. Chuyển
dịch cơ cấu trong nông nghiệp là rất chậm và mang tính tự phát. Công tác an
toàn vệ sinh thực phẩm không đảm bảo, tâm lí tiểu nông còn rất nặng … Do
97
đó việc chuyển một bộ phận lao động ở khu vực nông nghiệp sang khu vực
khác là rất khó khăn. Như vây, phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn có ý
nghĩa quan trọng lâu dài thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế một cách bền vững.
Để phát triển nhóm ngành nông nghiệp, nông thôn trước hết tỉnh cần có
nhận thức đúng đắn về vai trò quan trọng của nông nghiệp, nông thôn đối với
tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế; coi
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là mặt trận hàng đầu,
tránh tư tưởng nóng vội muốn tăng nhanh tỷ trong công nghiệp, giảm nhanh tỷ
trọng nông, lâm, thủy sản khi chưa hội tụ đủ điều kiện. Trên cơ sở nhận thức
đúng đắn đó cần cụ thể hóa thành các chính sách ưu tiên phát triển trực tiếp
nhất là điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng tăng cường đầu tư hơn nữa cho
khu vực nông nghiệp thay vì tăng đầu tư cho khai thác khoáng sản. Cần thay
đổi cách sản xuất theo kiểu phân tán manh mún, lạc hậu bằng sản xuất tập
trung với quy mô lơn thích hợp để có thể áp dụng tiến bộ kỹ thuật cộng nghệ
vào sản xuất, nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, tăng khả
năng cạnh tranh của sản phẩm trong điều kiện hội nhập. Nhà nước cần hộ trợ
đào tạo nghề nông cho lao động nông nghiệp, đầu tư, hỗ trợ đầu tư công nghiệp
chế biến nông sản, công nghệ bảo quản và hỗ trợ đầu ra cho sản phẩm của nông
dân. Khuyến khích chuyển đổi hộ sản xuất cá lẻ thành hợp tác xã với quy mô
lớn, sản xuất theo kiểu trang trại; tỉnh cần có quy hoạch,dựng xây vùng nguyên
liệu phù hợp với thổ nhưỡng cho từng loại cây trồng, vật nuôi.
b. Phát triển ngành công nghiệp- xây dựng
Phát triển công nghiệp trên cở sở phục vụ cho các ngành kinh tế khác
và có ưu thế của tỉnh như thủy điện, công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp
hàng hóa, công nghiệp phục vụ các yếu tố đầu vào khác như phân bón, thuốc
bảo vệ thực vật…, công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng trên cơ sở nhu của
98
tỉnh là chủ yếu. Riêng công nghiệp khai khoáng nên cấp giấy phép đầu tư khai
thác, chế biến có công nghệ tiên tiến hiện đại, ít tác động đến môi trường và
các ngành nông nghiệp, du lịch, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Nhà nước nên
đầu tư bước đầu vào công nghiệp chế biến sâu nông sản hàng hóa cho khu
vực nông nghiệp. Nhìn chung, trong thời gian trước mắt tỉnh không nền đầu
tư mạnh cho công nghiệp nặng, công nghiệp đòi hỏi vốn lớn, thời gian thu hồi
vốn lâu, đòi hỏi trình độ công nghệ cao, lựa chọn những ngành công nghiệp
phù hợp với điều kiện vốn, lao động, công nghệ mà tỉnh có lợi thế và quan
trọng là phải có tác động thúc đẩy mạnh mẽ các khu vực kinh tế khác phát
triển, nhất là khu vực nông nghiệp, nông thôn. Các ngành công nghiệp tập
trung phát triển: công nghiệp chế biến sản phẩm từ nông, lâm nghiệp; công
nghiệp thủy điện; sản xuất vật liệu xây dựng.
c. Phát triển ngành dịch vụ
Phát triển tổng hợp kinh tế dịch vụ theo hướng đa dạng hoá các loại
hình dịch vụ và các thành phần kinh tế tham gia để khuyến khích mạnh sản
xuất và phục vụ đời sống nhân dân. Tiếp tục phát triển các ngành dịch vụ
truyền thống sử dụng nhiều lao động trình độ phổ thông, thu hút sự tham gia
tích cực của khu vực kinh tế tư nhân. Đẩy mạnh hoạt động thương mại, buôn
bán với Trung Quốc và Lào trên cơ sở phát triển kinh tế cửa khẩu. Khẩn
trương hoàn thành việc xây dựng cửa khẩu Tây Trang để nâng cấp thành cửa
khẩu quốc tế. Triển khai xây dựng cửa khẩu Huổi Puốc (Điện Biên) và cửa
khẩu A Pa Chải (Mường Nhé) thành cửa khẩu quốc gia; mở thêm một số cửa
khẩu khác để mở rộng buôn bán với nước bạn Lào và Trung Quốc nhằm thúc
đẩy thương mại của Tỉnh phát triển; đồng thời, tạo điều kiện mở rộng thị
trường, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu. Sớm hoàn thành Đề án Khu kinh tế
cửa khẩu đối với A Pa Chải để thu hút đầu tư phát triển. Điều chỉnh chiến
lược phát triển hàng xuất khẩu, hình thành một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực
99
của Tỉnh như: chè, hoa quả, thịt chế biến, gỗ chế biến, măng chế biến, xi
măng, vật liệu xây dựng v.v.
Xây dựng du lịch Điện Biên thành Trung tâm du lịch có tầm cỡ của
vùng Tây Bắc và là một trọng điểm du lịch trong hệ thống du lịch quốc gia.
Ngành du lịch Điện Biên được đánh giá là ngành kinh tế mũi nhọn trong phát
triển kinh tế của tỉnh, nhưng tiềm năng lớn này vẫn bị bỏ ngỏ. Theo số liệu
thống kê của Sở Văn hóa- Thể thao và Du Lịch tỉnh Điện Biên, hiện nay trên
địa bàn tỉnh có hơn 100 cơ sở kinh doanh du lịch và dịch vụ du lịch với gần
40 cơ sở lưu trú. Trong số các cơ sở lưu trú chỉ có 4 khách sạn, chiếm 10,5%,
được xếp hạng 2 sao, 2 khách sạn đạt tiêu chuẩn 1 sao. Đây là một hạn chế rất
lớn, bộc lộ trong thiếu hụt đầu tư của ngành. Một đặc điểm chung của các cơ
sở lưu trú trên địa bàn tỉnh Điện Biên là cơ sở tiện nghi, nội thất phòng ốc
không hiện đại, chưa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Chưa
xây dựng được nhiều tour du lịch độc đáo dựa trên những tiềm năng du lịch
của tỉnh Điện Biên, đội ngũ hướng dẫn viên còn nghèo nàn về số lượng và
thiếu tác phong chuyên nghiệp. Vốn ngoại ngữ, sự am hiểu về giá trị văn hóa,
lịch sử phi vật thể của từng bản, từng dân tộc chưa tốt nên khi phải phục vụ
đoàn khách nước ngoài, các hướng dẫn viên rất lúng túng. Một hạn chế nữa
trong hoạt động của ngành du lịch tỉnh Điện Biên là kinh doanh còn mang
nặng tính thời vụ vào các dịp lễ tết, những dịp kỷ niệm lớn của tỉnh và cả
nước. Trong khi đó, một tiềm năng lớn có thể khai thác phát triển du lịch ở
tỉnh Điện Biên là vẻ đẹp của hàng ngàn nếp nhà sàn, là vẻ đẹp hùng vĩ của núi
rừng Tây Bắc với khí hậu trong lành. Hiện tỉnh Điện Biên có 8 bản văn hóa
còn nguyên vẹn nét hoang sơ vốn có. Song đa phần các bản làng này không
có riêng một ngành nghề truyền thống nào có thể tạo ra sản phẩm đặc trưng
hay tạo nên nét riêng biệt cho từng thôn, bản để hấp dẫn du khách. Bởi thế,
khách tham quan khi đến các nơi này đều dễ nảy sinh tâm lý nhàm chán, tẻ
100
nhạt. Cùng với những bản sắc văn hóa rất riêng, Điện Biên còn có những địa
điểm du lịch nổi tiếng gắn với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ lẫy lừng.
Để phát triển ngành du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh thì
ngành du lịch cần khắc phục những hạn chế trên một cách triệt để. Theo tác
giả, cần đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng, đào tạo, đào tạo lại đội ngũ lao động
làm du lịch nhất là đội ngũ hướng dẫn viên du lịch. Cần có sự đầu tư quảng bá
giới thiệu về tiền năng, các sản phẩm du lịch rộng rãi và thường xuyên hơn.
Cùng với đó là xây dựng được các tour du lịch độc đáo, xây dựng được các
sản phẩm du lịch hấp dẫn trên cơ sở có sự phân cấp thị trường. Kết hợp phát
triển nông nghiệp sạch, nông nghiệp sinh thái với phát triển du lịch, phát triển
các ngành thủ công nghiệp truyền thống, các nghề truyền thống phục vụ nhu
cần về quà lưu niệm cho khách du lịch.
Các ngành dịch vụ khác: phát triển đồng bộ các ngành dịch vụ khác như
tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, dịch vụ vận tải, thông tin, bưu điện, tư vấn kỹ
thuật, chuyển giao công nghệ và các dịch vụ xã hội khác v.v…
101
KẾT LUẬN
Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế có ý nghĩa quan trọng tác
động đến việc phân bổ hiểu quả các nguồn lực khan hiếm của mỗi nền kinh tế
trong những thời điểm nhất định. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phụ thuộc
vào những nhân tố như: sự phát triển của thị trường, các nguồn lực, môi
trường thể chế.
Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế được phản ánh qua các tiêu chí cơ
bản như: cơ cấu GDP theo ngành kinh tế, cơ cấu lao động phân theo ngành
kinh tế, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu. Để đánh giá một cơ cấu ngành kinh tế hợp
lí cần căn cứ vào các tiêu chí xác định như: phản ánh được và đúng quy luật
khách quan; trình độ khoa học công nghệ phải không ngừng tiến bộ phù hợp
với xu thế phát triển của khoa học công nghệ; cho phép khai thác tối đa các
tiềm năng của nền kinh tế; và thực hiện tốt sự phân công và hợp tác quốc tế.
Qua nghiên cứu quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong điều
kiện cụ thể của tỉnh Điện Biên có thể rút ra một số điểm nổi bật sau:
- Cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch không vững chắc và chưa thật sự
hợp lí, chưa phát huy được lợi thế so sánh của tỉnh. Cơ cấu nội bộ ngành
chậm chuyển dịch.
- Cơ cấu lao động chậm chuyển dịch, lao động trong khu vực nông
nghiệp vẫn chiếm ưu thế, trình độ của người lao động còn nhiều hạn chế, tỷ lệ
lao động qua đào tạo còn thấp, đặc biệt trọng khu vực nông nghiệp nên việc
chuyển dịch là tương đối khó khăn.
- Trình độ khoa học công nghệ còn lạc hậu, chậm chuyển biến tích cực,
mức độ hiểu và ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất còn ít dẫn
tới chưa tạo ra được khối lượng hàng hóa lớn, khả năng cạnh tranh thấp, chưa
đáp ứng được mục tiêu xuất khẩu.
102
- Ngày nay, bối cảnh trong nước và thế giới có những thay đổi mới, nền
kinh tế thế giới đang chuyển dần sang nền kinh tế tri thức, biến đổi khí hậu
toàn cầu đang đặt ra vấn đề bảo vệ môi trường, vấn đề khủng hoảng lương
thực…. Trong bối cảnh mới đó, để tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững,
tỉnh Điện Biên cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp khác nhau nhằm khắc
phục những yếu kém và phát huy lợi thế vốn có của tỉnh.
- Trước hết phải giải quyết tốt vấn đề quy hoạch
- Tăng cường huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
- Phát triển hạ tầng kinh tế kỹ thuật
- Giải pháp phát triển ngành bao gồm giải pháp phát triển ngành nông-
lâm- thủy sản, giải pháp phát triển ngành công nghiệp-xây dựng và giải pháp
phát triển ngành dịch vụ.
Đến đây về cơ bản luận văn đã trả lời được những vấn đề nghiên cứu đã
đặt ra trong phần mở đầu. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của luận văn thạc sỹ
còn nhiều vấn đề mới chỉ mang tính chất gợi mở chưa thể nghiên cứu sâu.
Ngoài ra, năng lực của tác giả còn những hạn chế nhất định công thêm những
khó khăn khách quan khác nên chưa thể giải quyết thấu đáo những vấn đề đặt
ra. Vì vậy, luận văn khó tránh khỏi những thiếu sót, kính mong các thầy, cô
giúp đỡ, góp ý chân thành để tác giả thực hiện thành công đề tài nghiên cứu
này. Em xin chân thành cảm ơn!
103
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyên Thị Song An (1997), “Tổng quan về quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn Việt nam”, Tạp chí phát triển kinh tế, (85), Tr 12-15.
2. Nguyễn Bá Ân (2005), “Thành tựu và những vấn đề đặt ra trong cơ cấu
kinh tế Việt Nam qua gần 20 năm đổi mới”, Tạp chí kinh tế và dự báo,
(9), Tr 6-9-13.
3. Các Mác và Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 25, phần 1, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
4. Cục thống kê tỉnh Điện Biên, (2006), Niên giám thống kê 2005, Nxb Thống
kê, Hà Nội.
5. Cục thống kê tỉnh Điện Biên, (2009), Điện Biên 55 năm xây dựng và phát
triển, Nxb Thống kê, Hà Nội.
6. Cục thống kê tỉnh Điện Biên, (2009), “ Báo cáo thực hiện phát triển kinh tế
xã hội 5 năm 2006- 2010 tỉnh Điện Biên”.
7. Lê Phong Du, Nguyễn Thành Độ, (1999) Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong
điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
8. Đảng cộng sản Việt Nam, (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Đảng cộng sản Việt Nam, (1996) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Đảng cộng sản Việt Nam, (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Đảng cộng sản Việt Nam, (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Đảng bộ tỉnh Điện Biên, (2001), Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X.
13. Đảng bộ tỉnh Điện Biên, (2005), Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI.
104
14. Ngô Đình Giao (chủ biên), (1994), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
15. Tạ Ngọc Giao (2006), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, vai trò và
cơ chế tác động của tài chính”, Tạp chí Tài chính, (4) , tr 17-20.
16. Đinh Xuân Hạng, “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn”,
Tạp chí Tài chính, (12), tr 15-16.
17. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, (1996), kinh tế học về tổ chức
và phát triển nền kinh tế quốc dân ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
18. Nguyễn Thanh Huyền (1997), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp,
phát triển nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”, Tạp chí phát triển kinh tế, (83), tr 2-5.
19. Nguyễn Thị Bích Hường, (2005), Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở
Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
20. Đào Ngọc Lâm, (2005), “Cơ cấu ngành kinh tế: mục tiêu, tiến độ và cảnh
báo”, Tạp chí Cộng sản, (16), tr 57-61.
21. Đỗ Hoài Nam, (1996), Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và phát triển những
ngành trọng điểm, mũi nhọn ở Việt Nam,Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
22. Nguyễn Văn Phúc (2004), Công nghiệp nông thôn Việt Nam - thực trạng
và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Nguyễn Trần Quế chủ biên, (2004), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam
trong những năm đầu thế kỷ 21, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
24. Nguyễn Thị Sinh, (1997), “Những nhân tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông thôn ở đồng bằng sông Hồng”, Tạp chí Giáo dục lí
luận (2), tr 34-36.
105
25. Bùi Tất Thắng, (1997), Những nhân tố ảnh hưởng tới sự chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hóa ở Việt Nam,Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
26. Bùi Tất Thắng, (2006), Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
27. Bùi Tất Thắng, (2003), “Kinh tế tri thức những cơ hội và thách thức mới
của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thời kì công nghiệp hóa,
hiện đại hóa”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế (10).
28. Trần Đình Thiên, (1996), “Một số giải pháp thúc đẩy quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam”, Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế
giới, (4), tr 9-14, 1996.
29. Ngô Doãn Vinh chủ biên, (2005), Bàn về phát triển kinh tế, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
30. Ngô Doãn Vinh, (2006), Những vấn đề chủ yếu về phát triển kinh tế, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Viện chiến lược phát triển, (2003), Yêu cầu và giải pháp chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và điều chỉnh cơ cấu đầu tư trong thời gian tới, Đề tài
nghiên cưu khoa học cấp bộ.