ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ------------------------------------------ BÙI THỊ HẢO
CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
Ở KHÁNH HOÀ
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ HÀ NỘI - 2005
16
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ------------------------------------------------- BÙI THỊ HẢO
CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
Ở KHÁNH HOÀ
Chuyên ngành
Mã số
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ : Kinh tế chính trị : 5.02.01 Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Tất Thắng HÀ NỘI - 2005
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: Lý luận về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước 5
1.1. Khái luận chung về cổ phần hóa 5
1.1.1. Sự hình thành công ty cổ phần 5
1.1.2. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước 8
1.1.3. Tính tất yếu khách quan của việc cổ phần hóa DNNN 13
1.2. Quan điểm của Đảng về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước 19
1.2.1. Về mục tiêu cổ phần hóa 19
1.2.2. Đối tượng DNNN lựa chọn để cổ phần hóa 20
1.2.3. Về hình thức tiến hành cổ phần hóa 22
1.2.4. Về quy trình tiến hành cổ phần hóa 22
1.2.5. Đặc điểm của doanh nghiệp cổ phần hóa 23
1.3. Quá trình và kinh nghiệm thực hiện cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước ở Việt Nam 24
1.3.1. Khái quát quá trình cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam 24
1.3.2. Thực tiễn cổ phần hóa DNNN ở một số địa phương 29
Chương 2: Thực trạng cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
39 tỉnh Khánh Hòa
2.1. Chủ trương của tỉnh Khánh Hòa về cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước 36
2.1.1. Thực trạng hệ thống DNNN tỉnh Khánh Hòa 39
2.1.2. Chủ trương của tỉnh Khánh Hòa về cổ phần hóa DNNN 48
2.2.
Thực tiễn cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Khánh Hòa từ 1995 đến 2004 49
2.2.1. Quá trình triển khai cổ phần hóa 49
2.2.2. Kết quả quá trình cổ phần hóa 53
2.2.3. Một số hạn chế và nguyên nhân 58
1
2.3. Những vấn đề đặt ra để thúc đẩy quá trình cổ phần hóa 65
doanh nghiệp nhà nước ở Khánh Hòa
Chương 3: Phương hướng và giải pháp thúc đẩy quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước của Khánh Hòa trong thời gian tới 68
3.1. Chủ trương và phương hướng của tỉnh Khánh Hòa trong
thời gian tới 68
3.2. Các giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình cổ phần hòa doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Khánh Hòa 70
3.2.1. Nâng cao nhận thức lý luận và thực tiễn về vấn đề cổ phần
hóa DNNN ở Khánh Hòa 70
3.2.2. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước trong tiến trình CPH DNNN tỉnh Khánh Hòa 73
3.2.3. Thực hiện có hiệu quả các biện pháp tài chính thúc đẩy tiến
trình CPH DNNN 75
3.2.4. Xác định rõ lĩnh vực, lựa chọn đúng doanh nghiệp cần cổ
phần hóa 78
3.2.5. Giải pháp nhằm đảm bảo quyền lợi của người lao động 79
3.2.6. Nhóm giải pháp đối với các DNNN đã CPH 83
KẾT LUẬN
92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
94
PHỤ LỤC
2
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cổ phần hoá DNNN là biện pháp quan trọng của chương trình cải cách
DNNN, là một quá trình tất yếu có tính phổ biến của sự phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu, tạo động lực cho cổ đông và người
lao động trong doanh nghiệp hăng say lao động vì lợi ích chính đáng. Việc cổ
phần hoá còn góp phần tích cực vào việc cơ cấu lại nền kinh tế quốc dân, cải
tiến quản lý kinh tế một cách có hiệu quả, hạn chế những can thiệp phi kinh tế
của các cơ quan quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, tạo điều kiện cạnh
tranh lành mạnh và phân phối thoả đáng lợi nhuận thu được trong xã hội, bảo
đảm thực hiện tốt các chính sách xã hội. Việc cổ phần hoá còn góp phần tích
cực cho việc hình thành thị trường vốn, tiến đến hình thành thị trường chứng
khoán, một yêu cầu cần thiết cho sự vận hành của nền kinh tế thị trường.
Vì vậy, làm thế nào để DNNN chuyển mạnh sang kinh doanh xoá bỏ dần
bao cấp, xác lập quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, cạnh tranh bình đẳng
trong nền kinh tế hàng hóa ... đang được Đảng, Nhà nước và tỉnh Khánh Hòa
quan tâm. Bằng cách sắp xếp, tổ chức lại DNNN, xây dựng phương hướng
phát triển kinh tế có hiệu quả, trong thời gian qua, Khánh Hòa đã đạt được
một số kết quả nhất định; tuy nhiên, việc cổ phần hoá DNNN tỉnh Khánh Hoà
diễn ra còn hết sức chậm chạp, chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Để
Khánh Hoà có thể theo kịp với tiến độ và yêu cầu cổ phần hoá các DNNN của
cả nước nói chung và các DNNN Khánh Hoà sau cổ phần hoá có các giải
pháp hoạt động hiệu quả, cần có cái nhìn bao quát, hệ thống cả về mặt lý
luận và thực tiễn phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương... Đó là lý do
2
tôi chọn đề tài “Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nƣớc ở Khánh Hoà” làm
đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN ở nước ta đang đi vào giai
đoạn đẩy mạnh tiến độ CPH và đã gây được sự chú ý của hầu hết mọi
người dân trong toàn xã hội. Trong thời gian qua, đã có nhiều nhà lý luận
và thực tiễn nghiên cứu, luận giải khá thấu đáo những vấn đề cơ bản của
tiến trình cổ phần hoá DNNN trên phạm vi cả nước, cũng như ở một số địa
phương cụ thể, có so sánh với việc cổ phần hoá của các nước trên thế giới.
Những kết quả nghiên cứu đó cả về mặt lý luận và thực tiễn đã góp phần
tích cực phục vụ cho quá trình cổ phần hoá DNNN ở nước ta như:
- “Cổ phần hoá DNNN những vấn đề lý luận và thực tiễn” của
PGS.TS. Lê Hồng Hạnh (chủ biên), NXB chính trị Quốc gia, năm 2004.
- “Cổ phần hoá và quản lý doanh nghiệp sau cổ phần hoá” của
PGS.TS. Lê Văn Tâm (chủ biên), NXB chính trị Quốc gia, năm 2004.
- “Cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam”Luận án tiến sĩ kinh tế của Nguyễn
Thị Thơm, năm 1999.
- “Cổ phần hoá DNNN cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn” của
PTS. Nguyễn Ngọc Quang, năm 2002.. .
Thực tế ở Khánh Hoà cho thấy, quá trình cổ phần hoá DNNN thuộc
quyền quản lý của tỉnh, trong thời gian qua, còn hết sức rời rạc, tiến trình thực
hiện còn trì trệ, chậm chạp chưa tương xứng với khả năng, tiềm lực của tỉnh.
Mặt khác, việc nghiên cứu có tính lý luận về vấn đề cổ phần hoá DNNN của
tỉnh lại hết sức mới mẻ, chủ yếu chỉ dừng lại ở các cuộc hội thảo khoa học và
một số cuộc khảo sát về đổi mới, sắp xếp lại DNNN nói chung. Để góp phần
hoàn thiện cơ sở lý luận và thực tiễn phục vụ cho tiến trình cổ phần hoá
3
DNNN ở Khánh Hoà, luận văn cố gắng nghiên cứu, phân tích quá trình cổ
phần hoá DNNN của tỉnh, nhận rõ những mặt được, chưa được; từ đó, đưa ra
một số giải pháp có tính khả thi cho việc đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN của
Khánh Hoà trong giai đoạn tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
* Mục đích:
- Thông qua việc nghiên cứu lý luận cổ phần hoá DNNN, luận văn đi
đến thống nhất và khẳng định việc cổ phần hoá DNNN ở nước ta nói
chung, ở Khánh Hoà nói riêng là một tất yếu khách quan phù hợp với thực
tế nền kinh tế nước ta và xu thế thời đại.
- Qua việc nghiên cứu, đánh giá thực tiễn cổ phần hoá DNNN của
Khánh Hoà và một số địa phương tiêu biểu, luận văn đề xuất một số giải
pháp có tính định hướng phù hợp với đặc điểm địa phương góp phần thúc
đẩy tiến độ cổ phần hoá DNNN của tỉnh Khánh Hoà trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ:
- Một là, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, sự cần thiết phải cổ phần hoá
DNNN ở nước ta trong tiến trình đổi mới đất nước. Thấy được việc cổ phần
hoá DNNN là giải pháp cơ bản, mang tính chiến lược để DNNN sau cổ phần
hoá hoạt động có hiệu quả hơn. Đồng thời, nghiên cứu quá trình cổ phần ho á
DNNN của một số địa phương để thấy những mặt được, chưa được làm bài
học kinh nghiệm cho việc cổ phần hoá DNNN của tỉnh Khánh Hoà.
- Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng CPH DNNN ở Khánh Hoà .. từ
đó thấy được những thuận lợi, khó khăn của DNNN Khánh Hoà trong quá
trình cổ phần hoá.
4
- Ba là, đề xuất một số phương hướng, giải pháp cơ bản phù hợp với đặc
điểm địa phương góp phần đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá DNNN của tỉnh
trong thời gian tới.
4. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
4.2. Nguồn tài liệu
4.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu kinh tế nói chung, đặc
biệt chú trọng các phương pháp logic, lịch sử, phương pháp phân tích, so
sánh, tổng hợp, kết hợp giữa tình hình chung trong nước với những đặc
điểm riêng biệt trên địa bàn tỉnh Khánh Hoà và các số liệu đã tổng kết.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tiến trình cổ phần hoá DNNN của tỉnh Khánh Hoà.
- Phạm vi nghiên cứu: Tất cả các DNNN thuộc quyền quản lý của tỉnh
mà tỉnh không cần giữ 100% vốn trên địa bàn tỉnh Khánh Hoà.
6. Đóng góp mới của luận văn
* Đóng góp của luận văn:
- Hệ thống hoá lý luận về cổ phần hóa DNNN trên góc độ kinh tế
chính trị, qua đó làm rõ việc cổ phần hoá DNNN ở nước ta nói chung, ở
Khánh Hoà nói riêng là một tất yếu khách quan.
- Khảo sát, phân tích tiến trình cổ phần hoá DNNN của tỉnh một cách
hệ thống, từ đó thấy được những bức xúc của DNNN tỉnh trong việc thực
hiện cổ phần hoá.
- Luận văn đưa ra những phương hướng cơ bản, đề xuất một số giải pháp
để đẩy nhanh việc cổ phần hoá DNNN của Khánh Hoà trong thời gian tới.
5
- Những nghiên cứu của luận văn là những đóng góp nhất định làm cơ sở
thêm cho việc hoàn thiện chủ trương cổ phần hoá DNNN của Khánh Hoà;
Làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác giáo dục, đào tạo, thông tin tuyên truyền.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương 7 tiết.
Chương 1: Lý luận về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Chương 2: Thực trạng việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tỉnh
Khánh Hoà.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp thúc đẩy quá trình cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước của Khánh Hoà trong thời gian tới.
6
Chƣơng 1
LÝ LUẬN VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC
1.1. Khái luận chung về cổ phần hoá
1.1.1. Sự hình thành công ty cổ phần
Công ty cổ phần có mầm mống vào khoảng cuối thế kỷ XVI và trở thành
phổ biến vào đầu thế kỷ XX. Lịch sử ra đời của CTCP gắn liền với quá trình xã
hội hoá sản xuất TBCN.
Phương thức sản xuất TBCN ra đời vào đầu thế kỷ XVI với đặc trưng là
chế độ sở hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư. Khi
đó, do ít vốn nên nhà tư bản chỉ xây dựng được những xí nghiệp theo kiểu hiệp
tác giản đơn và những xí nghiệp có quy mô nhỏ với kỹ thuật thủ công. Do yêu
cầu của quá trình sản xuất, đã nảy sinh nhu cầu phân công lao động chuyên môn
hoá khiến cho trình độ xã hội hoá sản xuất phát triển lên một nấc thang mới và
trên cơ sở đó, xuất hiện công trường thủ công. Để chiến thắng trong cạnh tranh,
các công trường thủ công khác nhau đã kết hợp lại với nhau, làm quy mô sản
xuất tăng lên gấp nhiều lần, xí nghiệp một chủ đã dần dần nhường chỗ cho xí
nghiệp nhiều chủ do sự kết hợp tư bản của nhiều cá nhân góp lại. Dù vậy, công
trường thủ công TBCN vẫn thuộc trình độ sản xuất nhỏ, xã hội hoá sản xuất
thấp, do đó, chưa tạo được tiền đề kinh tế cho sự ra đời của CTCP.
Với sự ra đời của máy móc trong giai đoạn công nghiệp cơ khí, lực
lượng sản xuất đã có sự nhảy vọt về chất, làm “đảo lộn bản thân phương t hức
lao động”[25, tr.585], dẫn đến quá trình xã hội hoá về mặt kỹ thuật của
TBCN, “biến dần quá trình sản xuất rời rạc, thủ cựu thành quá trình sản xuất
phối hợp theo quy mô xã hội và xếp đặt một cách khoa học”[25, tr. 884]. Lúc
này, xuất hiện người đi vay và người cho vay trong quan hệ sở hữu và sử dụng
vốn tiền tệ.
7
Theo tiến trình lịch sử, các xí nghiệp hỗn hợp với nhiều chủ sở hữu ra
đời từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ đơn ngành đến đa ngành, từ
một quốc gia đến nhiều quốc gia và xuất hiện một hình thức tổ chức mới, đó
là công ty đối vốn với hình thức tổ chức đầu tiên là công ty trách nhiệm hữu
hạn. Thế nhưng do công ty trách nhiện hữu hạn vẫn còn hạn chế về quy mô và
khả năng chuyển đổi vốn nên đã xuất hiện một hình thức tổ chức cao hơn, phù
hợp với nền sản xuất lớn, đó là công ty cổ phần. CTCP ra đời với ba con
đường khác nhau. Một là, được hình thành bằng con đường truyền thống,
nghĩa là bằng sự liên kết giữa các tư bản riêng lẻ, các nguồn vốn nhàn rỗi
trong dân cư. Hai là, sự liên kết giữa tư bản trong và ngoài nước. Ba là, CPH
các DNNN. Trải qua vài trăm năm phát triển, ngày nay mô hình CTCP đã
được áp dụng phổ biến ở tất cả các nước là nước công nghiệp hay kém phát
triển, dù đó là nước đi theo xu huớng chính trị nào.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam (xuất bản năm 1995) CTCP là “công
ty được hình thành trên cơ sở liên hợp nhiều tư bản cá nhân bằng cách phát
hành và bán cổ phiếu, lợi nhuận của công ty được phân phối giữa các cổ đông
theo số lượng cổ phần. Tuỳ theo pháp luật từng nước mà công ty được tổ chức
dưới các hình thức khác nhau” [19, tr.592]. Theo định nghĩa này thì tính chất
trách nhiệm hữu hạn của CTCP chưa được nhấn mạnh
Theo Luật Công ty của Việt Nam:” Công ty trách nhiệm hữu hạn và
CTCP gọi chung là công ty là doanh nghiệp trong đó các thành viên cùng góp
vốn, cùng chia lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp và chỉ
chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi phần vốn của
mình góp vào công ty”[21, tr.312]. Theo định nghĩa này thì đặc trưng được
phát hành cổ phiếu của CTCP chưa được đề cập tới.
Do đó, theo tôi, CTCP là loại công ty đối vốn được hình thành bằng
cách góp vốn của nhiều thành viên thông qua phát hành cổ phiếu. Các thành
viên góp vốn ( thông qua việc mua cổ phiếu) trở thành cổ đông của công ty.
8
Cổ phiếu của công ty cổ phần được ghi danh và được trao đổi tự do trên thị
trường chứng khoán. Thực chất, CTCP là một loại hình tổ chức DN, trong đó
các thành viên cùng góp vốn để sản xuất kinh doanh, cùng hưởng lợi nhuận
khi thu được và cùng chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp. Tuy nhiên, giữa
công ty và các thành viên góp vốn có địa vị pháp lý độc lập. Cho đến nay,
CTCP đã trải qua 3 giai đoạn:
Từ nửa cuối thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVIII: Các CTCP đầu tiên xuất
hiện ở Tây Âu. Lúc này,do sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp sản xuất
len, dạ, đã kéo theo sự phát triển của nông nghiệp và thương nghiệp và do đó,
nảy sinh nhu cầu rất lớn về vốn, vượt ra khỏi khả năng tích luỹ của mỗi cá
nhân trong các hoạt động kinh tế. Điều đó thể hiện rất rõ ở nước Anh.
Năm 1553, CTCP đầu tiên với số vốn 6.000 bảng Anh được thành lập
bằng cách phát hành 240 cổ phiếu, mỗi cổ phiếu là 25 bảng để tổ chức đội
buôn gồm 3 chiếc thuyền lớn tìm đường sang Ấn Độ theo hướng Đông Bắc
[27, tr.65]. Do sức hấp dẫn về khả năng thu được lợi nhuận lớn từ thị trường
Ấn Độ, khoảng 100 thương nhân Anh đã góp vốn cổ phần tạo thành Công ty
Đông Ấn vào năm 1600. Chuyến buôn đầu tiên của công ty này sang Ấn Độ
được thực hiện vào 1/1601 với số vốn cổ phần là 68.373 bảng Anh. Đến năm
1617, số vốn cổ phần của công ty đã lên tới 1.620.040 bảng Anh với 954 cổ
đông và là công ty lớn nhất nước Anh hồi đó [27, tr.68].
Từ những năm 70 của thế kỷ XVIII đến cuối thế kỷ XIX: Dưới tác động
của cách mạng công nghiệp, nhu cầu tập trung vốn được đẩy mạnh một cách
khác thường ở các ngành sản xuất mới có ưu thế cạnh tranh và có khả năng
thu được khối lượng lợi nhuận lớn. Điều đó đã giúp ra đời và phát triển các
công ty cổ phần mới. Ban đầu, các công ty cổ phần có mặt ở các ngành xây
dựng đường sắt, nhà máy điện, nhà máy luyện kim và cơ khí lớn. Cùng với sự
phát triển của các CTCP, các sở giao dịch chứng khoán cũng mọc lên một
cách phổ biến ở các nước phương Tây.
9
Từ đầu thế kỷ XX đến nay: Từ khi ra đời và phát triển CNTB độc quyền
nhà nước, CTCP phát triển rất nhanh ở khắp mọi ngành, lĩnh vực. Các CTCP
lại xâm nhập vào nhau, hình thành “chế độ tham dự”, dẫn đến sự ra đời của tư
bản tài chính với sức mạnh về vốn nắm giữ cổ phiếu khống chế. Sự phát triển
của CTCP tạo thành kết cấu chuỗi: công ty mẹ, công ty con, công ty cháu; hình
thành nên một loạt tập đoàn DN, vượt ra ngoài biên giới quốc gia. Nhờ đó, giao
dịch cổ phiếu mọc lên ở khắp các nước, dẫn đến sự hình thành công ty tài chính
quốc tế; thậm chí giao dịch cổ phiếu còn trở thành “phong vũ biểu” về giao động
kinh tế và chính trị, đồng thời là “sân chơi” của các nhà đầu cơ.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, các CTCP phát triển với những đặc
điểm mới: 1) tập trung vào việc phát triển các công ty xuyên quốc gia và đa
quốc gia để liên hợp kinh tế và quốc tế hoá DN cổ phần, hình thành các tập
đoàn kinh doanh quốc tế; 2) thu hút công nhân, viên chức mua cổ phần; 3) cơ
cấu ngày càng hoàn thiện, pháp luật ngày càng được kiện toàn. Tuy nhiên, sự
phát triển CTCP ở mỗi nước đều có đặc điểm riêng.
Từ những thực tế trên đây cho thấy, CTCP đã có lịch sử hàng trăm năm,
gắn chặt với trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội hoá và trình độ phát
triển của nền kinh tế thị trường. Sự ra đời và phát triển của công ty cổ phần
thực sự là một quá trình kinh tế khách quan, hoàn toàn nằm ngoài ý muốn chủ
quan của bất cứ lực lượng nào.
1.1.2. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
* Doanh nghiệp nhà nước: DNNN cũng là một tổ chức kinh tế nhưng
khác với công ty cổ phần. CTCP là một trong các loại hình DN chịu sự điều
chỉnh của Luật doanh nghiệp (được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thông qua ngày 12/6/1999). Điều 3 của Luật này quy định:
“DN là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định,
được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực
hiện các hoạt động kinh doanh” Còn DNNN được Điều 1 của Luật doanh
10
nghiệp nhà nước (Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua
ngày 20-4-1995) quy định: “Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà
nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt
động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước
giao. Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ
dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi
số vốn do doanh nghiệp quản lý. Doanh nghiệp nhà nước có tên gọi, có con
dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam” [21, tr.285].
Như vậy, DNNN do nhà nước thành lập, đầu tư vốn và quản lý với tư cách
là chủ sở hữu. DNNN thuộc sở hữu của Nhà nước (hoặc sở hữu của Nhà nước
chi phối) và hoạt động theo Luật DNNN. Với vị trí là một bộ phận chủ yếu của
thành phần kinh tế nhà nước, DNNN là đơn vị nắm giữ những lĩnh vực, những
khâu quan trọng trong quá trình tái sản xuất xã hội và là công cụ để Nhà nước
điều tiết nền kinh tế nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội do Nhà nước
giao. Tuy nhiên, DNNN có thể hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận hoặc công ích.
* Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước: Để hiểu rõ bản chất của CPH
DNNN, trước hết chúng ta phải hiểu rõ hai quá trình cổ phần hoá và tư
nhân hoá.
Tư nhân hoá là quá trình: 1) Thay đổi một phần chế độ sở hữu của xí
nghiệp, chuyển một phần sở hữu nhà nước sang sở hữu tư nhân; 2) Tự do hoá
những hoạt động mà trước đây chỉ dành cho khu vực nhà nước; 3) Ủy quyền
kinh doanh hoặc cho phép tư nhân ký kết hợp đồng thực hiện những dịch vụ
công cộng hoặc cho khu vực tư nhân thuê các tài sản công công [28, tr.799].
Do đó, tư nhân hoá chỉ nhằm thay đổi cơ cấu sở hữu doanh nghiệp, trong
đó quyền sở hữu, quản lý, điều hành được chuyển từ Nhà nước sang những
cá nhân hoặc nhóm người có tiềm lực tài chính mạnh. Tư nhân hoá làm tăng
quá trình tích tụ vốn và tài sản vào một số ít cá nhân hoặc một nhóm người.
11
Như vậy, tư nhân hoá thực chất là thị trường hoá “nới lỏng” hay bỏ bớt
các hạn chế pháp lý dưới nhiều hình thức khác nhau đối với sự cạnh tranh
chống lại các xí nghiệp công cộng [11, tr.60], bao gồm: “các chính sách để
khuyến khích khu vực tư nhân tham gia các việc cung cấp dịch vụ công cộng
và hạ tầng cơ sở và có khuynh hướng loại trừ hoặc thay đổi vị trí độc quyền
của các DNNN” [6, tr.4].
Liên Hiệp Quốc cho rằng: “Tư nhân hoá là sự biến đổi tương quan giữa
Nhà nước và thị trường trong đời sống kinh tế của một nước theo hướng ưu
tiên trên thị trường” [22, tr.41]. Quan niệm đó cho thấy, toàn bộ những chính
sách, luật lệ, thể chế đều nhằm khuyến khích, mở rộng và phát triển khu vực
kinh tế tư nhân hay các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, giảm bớt sự can
thiệp trực tiếp của Nhà nước vào các hoạt động kinh doanh của các đơn vị cơ
sở, dành cho thị trường vai trò điều tiết đáng kể tự do hoá giá cả. Thực chất,
quan niệm đó muốn giảm bớt vai trò của nhà nước và nới rộng phạm vi của
khu vực tư nhân, đồng thời làm cho các DNNN phải chịu sức ép lớn hơn của
thị trường; việc giảm bớt vai trò của nhà nước có thể được thực hiện bằng
nhiều cách khác nhau, trong đó có biện pháp bán cổ phần cho công chúng hay
còn gọi là CPH DNNN.
Chủ trương tư nhân hoá DNNN là chủ trương khá phổ biến ở các nước
tư bản. Tuy nhiên, đây không phải là cứu cánh cho CNTB mà ngược lại, có
khi trở thành mối đe dọa cho sự tồn vong của TBCN. Ví dụ: Cuộc khủng
hoảng tiền tệ xảy ra ở một số nước Châu Á. Do đó, xu hướng hiện nay của các
nước là thiết lập công ty hỗn hợp: Nhà nước - tư nhân. Trong đó, nhà nước
có thể khống chế hoặc không nắm giữ phần vốn chủ yếu nhưng vẫn có khả
năng kiểm tra, chi phối hoạt động của công ty.
Lịch sử cho thấy, có 2 cách thức để chuyển DNNN thành CTCP: Một là,
bán toàn bộ hoặc một phần tài sản hiện có thuộc sở hữu nhà nước tại DN cho
các tổ chức kinh tế - xã hội và cá nhân (công chúng) bằng phương thức phát
12
hành cổ phiếu; hai là, giữ nguyên toàn bộ giá trị vốn hiện có của nhà nước tại
DN, nhưng phát hành cổ phiếu ra công chúng để thu hút thêm, mở rộng vốn
DN. Cả hai cách thức này đều là CPH DNNN.
Cách thứ nhất, thực chất đây là quá trình chuyển DN từ sở hữu của nhà
nước sang CTCP dưới hình thức sở hữu xã hội, có chủ sở hữu cụ thể; là quá
trình đa dạng hoá sở hữu tại DN vốn thuộc sở hữu Nhà nước nhằm đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế thị trường và kinh doanh hiện đại, đồng thời giúp
chuyển quyền quản lý trực tiếp DN từ chủ sở hữu nhà nước thành quản lý
gián tiếp từ chủ sở hữu là các cổ đông thông qua hội đồng quản trị.
Xem xét một cách tổng quát, cổ phần hoá DNNN theo đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước ta được thực hiện theo hướng không chỉ quan
tâm đến khía cạnh kinh tế của riêng Nhà nước hay của một số cá nhân hoặc
nhóm người, mà quan tâm một cách toàn diện đến hoạt động và lợi ích của
doanh nghiệp, việc làm và lợi ích của người lao động cũng như sự ổn định của
nền kinh tế. Sau cổ phần hoá, người lao động được hưởng những thành quả
mà họ đã đóng góp cho doanh nghiệp trước đó, được tạo điều kiện làm việc
và có thu nhập, được tham gia quyết định những vấn đề quan trọng trong hoạt
động của doanh nghiệp. Còn tư nhân hoá thì những người lao động làm việc
trong các DNNN trước khi cổ phần hoá thực sự trở thành những người làm
thuê (nếu tiếp tục làm việc cho doanh nghiệp) hoặc bị sa thải; những quyền
lợi, phúc lợi trước đây họ được hưởng khi làm việc trong DNNN sẽ không
còn nữa. Do đó, tư nhân hoá, đặc biệt là với những DN có quy mô lớn, có vai
trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, dễ dẫn đến nguy cơ tăng khoảng
cách giàu nghèo trong xã hội, tăng tỷ lệ thất nghiệp, giảm phúc lợi xã hội,
thậm chí gây bất ổn cho toàn bộ nền kinh tế.
Công ty cổ phần là một hình thức tổ chức kinh tế dựa trên chế độ sở hữu
hỗn hợp, do đó nó có tính xã hội hoá về vốn rất cao, cơ cấu tổ chức chặt chẽ,
phức tạp, đan xen bao gồm: hội đồng quản trị, ban giám đốc, ban kiểm soát và
13
đại hội cổ đông, hoạt động với cơ chế phát hành cổ phiếu, trái phiếu và mua
bán chúng công khai, phổ biến trên thị trường chứng khoán. Một mặt, cổ phần
hoá có thể thu hút, huy động vốn rộng rãi và sử dụng được các nguồn vốn
trong nhân dân; Nhà nước thu hồi vốn đã đầu tư vào các doanh nghiệp nhà
nước để tập trung đầu tư cho các lĩnh vực then chốt trong nền kinh tế, đồng
thời đảm bảo quyền lợi cho các nhà đầu tư và người lao động. Mặt khác,
CTCP là một pháp nhân kinh doanh độc lập với các thành viên góp vốn. Điều
này giúp các thành viên góp vốn hạn chế bớt rủi ro trong trường hợp CTCP
bị phá sản. Do đó, CTCP rất thích hợp với nền kinh tế thị trường hiện đại.
Xem xét ở góc độ các quan hệ kinh tế (về sở hữu tài sản, vốn) lại càng
thấy, CPH không phải là tư nhân hoá. Sau khi thành CTCP, chủ sở hữu của
DN không còn là các cá nhân riêng lẻ nữa mà là tập thể các cổ đông. Điều này
cũng có thể hình thành từ công ty tư nhân hoặc DNNN. Đối với tư nhân hoặc
một nhóm chủ, thông qua việc phát hành cổ phiếu đã thu hút thêm vốn của
các chủ sở hữu khác ngoài xã hội để chuyển thành CTCP. Còn đối với DNNN
(đại diện Nhà nước là ban CPH), dựa trên cơ sở giá trị thực tế của DN cần
được CPH để xác định số lượng cổ phần, giá trị mỗi cổ phần, các loại cổ
phiếu, phương thức phát hành cổ phiếu, sau đó bán cổ phiếu cho các cá nhân,
tổ chức kinh tế- xã hội... và chuyển DN từ chỗ chỉ có một sở hữu là Nhà nước
thành DN có nhiều chủ sở hữu là CTCP.
Cách thứ hai, là quá trình chuyển DN từ chủ sở hữu là nhà nước trực tiếp
sang chủ sở hữu gián tiếp là các cổ đông thông qua hội đồng quản trị. Quá
trình này không phải chỉ là chuyển tài sản thuộc sở hữu Nhà nước sang sở hữu
của các cổ đông, mà là chuyển DN thuộc sở hữu Nhà nước thành CTCP, là
quá trình đa dạng hoá sở hữu DN trước kia là sở hữu Nhà nước, đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế thị trường và kinh doanh hiện đại.
Khi các DNNN chuyển sang CTCP, nhà nước có thể nắm một phần hoặc
toàn bộ cổ phần. Các công ty này hoàn toàn chịu sự chi phối của quy luật thị
14
trường, chấp nhận cạnh tranh và chịu sự điều chỉnh của pháp luật như đối với
công ty tư nhân; vì vậy, quyền của nhà nước lúc này giống như quyền của các
chủ thể sở hữu khác trong công ty.
Như vậy, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là việc đa dạng hoá sở
hữu, thừa nhận yếu tố cạnh tranh là động lực sản xuất, kinh doanh nhằm xác
lập mô hình kinh tế mới phù hợp hơn trong nền kinh tế thị trường, là việc
chuyển từ hình thái kinh doanh chủ yếu dựa vào vay mượn thông qua tín dụng
sang hình thái kinh doanh dựa vào huy động vốn trên thị trường tài chính mà chủ
yếu là trên thị trường chứng khoán. Do đó, cổ phần hoá DNNN chính là việc
chuyển doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước (đơn sở hữu); thành công ty cổ
phần (đa sở hữu), là quá trình chuyển hình thức DN đang một hoặc một vài
chủ thành DN nhiều chủ sở hữu, chuyển DN từ chưa là CTCP thành CTCP.
Đây chính là quá trình CPH. Quá trình CPH không những diễn ra ở các
DNNN mà còn ở các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn,
công ty liên doanh, v.v. Tuy nhiên, do phạm vi luận văn hạn hẹp nên tôi chỉ
nghiên cứu việc CPH ở các DNNN của Khánh Hoà mà tỉnh không cần nắm
giữ 100% vốn.
Bản chất của CPH DNNN là chuyển đổi cơ cấu sở hữu, quan hệ giữa các
chủ sở hữu DN. Thể hiện về mặt pháp lý của CPH DNNN là sự chuyển đổi
hình thức pháp lý của DN và các quy định điều chỉnh của pháp luật. CPH
DNNN còn kéo theo sự thay đổi về quyền quản lý, quyền sử dụng và tạo nên
sự gắn kết chặt chẽ giữa ba quyền liên quan đến tài sản của DN, làm thay đổi
quy chế hoạt động của DN từ chỗ hoàn toàn bị Nhà nước chi phối sang tự chủ
kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Tham khảo kinh nghiệm của các nước khi tiến hành CPH DNNN, chúng
ta có thể phân DNNN ra làm 3 loại: Loại DN không CPH - sở hữu 100% vốn
của nhà nước; loại DN chỉ CPH một phần, trong đó có trường hợp nhà nước
nắm tỷ lệ vốn khống chế, cũng có trường hợp nhà nước chỉ nắm một phần
15
vốn nhỏ; loại DN mà nhà nước không cần thiết phải tham gia góp vốn. Ở Việt
Nam, dù ở loại hình kinh tế nào, nhà nước vẫn điều hành chung đi đúng định hướng
XHCN mà mình đã đặt ra.
Rõ ràng, CPH DNNN và tư nhân hoá là hai khái niệm khác nhau. Sự khác
nhau này phụ thuộc vào mức độ chuyển đổi sở hữu. Và như vậy, việc sử dụng
thuật ngữ CPH DNNN là chính xác. Nhận thức đúng nội dung này không chỉ có
ý nghĩa về lý luận - xác định đúng đắn quan điểm đối với vấn đề kinh tế - mà còn
có ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn CPH DNNN ở nước ta hiện nay.
1.1.3. Tính tất yếu khách quan của việc cổ phần hoá doanh nghiệp
nhà nước
Cổ phần hóa DNNN là hình thức kinh tế mới xuất hiện khi nước ta
chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần. Từ năm 1991 đến tháng 2/1998,
ước tính cả nước có khoảng 223 CTCP được thành lập ở nhiều thành phần
kinh tế với tốc độ ngày càng tăng. Điều đó cho thấy, CPH DNNN là một xu
thế phát triển tất yếu, hợp quy luật trong nền kinh tế thị trường.
Thứ nhất, CPH DNNN nhằm nâng cao hiệu quả của DNNN, đồng thời qua
đó cấu trúc lại toàn bộ nền kinh tế cho phù hợp với mô hình kinh tế thị trường.
Đến nay, kinh tế nhà nước luôn giữ vai trò trọng yếu trong toàn bộ nền
kinh tế. Năm 2000 các DNNN đã sản xuất ra 39,5 % tổng sản phẩm trong
nước (GDP), trên 50% giá trị xuất khẩu, đóng 39,2 % tổng thu ngân sách. Tuy
nhiên, trong khu vực kinh tế nhà nước hiện nay, nhiều DNNN đang trên đà
giảm sút. Nếu đến cuối năm 1990 toàn quốc có 12.300 DNNN thì đến năm 2002
còn 5.655 DNNN (giảm 55%). Trong số 5.655 DNNN nắm giữ hơn 88% tổng
số vốn của toàn bộ nền kinh tế và đóng góp vào ngân sách nhà nước chiếm
80% đến 85% có khoảng 40% DNNN làm ăn có lãi, 31% DN làm ăn chưa
đạt hiệu quả, chưa ổn định và 29% DN còn lại làm ăn thua lỗ liên tục. Tuy
nhiên, nếu tính tất cả các loại thuế (thuế tài nguyên, thuế tiêu thụ, thuế xuất
nhập khẩu...), đặc biệt là nếu trừ đi cả chi phí, khấu hao tài sản cố định, trả
16
tiền thuê đất đúng với giá trị thị trường thì DNNN hoàn toàn không tạo được
tích luỹ. Do đó, để sử dụng nguồn vốn nhà nước một cách hiệu quả, thiết
thực, khắc phục tình trạng thua lỗ kéo dài của DNNN thì chuyển dịch nền
kinh tế theo hướng đa dạng hoá sở hữu, xác định nhiều chủ sở hữu đích thực,
thay đổi phương thức quản lý và hoạt động kinh doanh của DN để thích nghi
với cơ chế thị trường là việc làm tất yếu đối với DNNN. Tiến trình cổ phần hóa
ở nước ta hiện nay nói chung, ở Khánh Hòa nói riêng đang được đẩy nhanh tốc
độ dưới các hình thức như: sát nhập, cho thuê, sở hữu hỗn hợp, bán cho tư
nhân, giải thể...
Qua khảo sát 500 DN đã CPH trên 1 năm, cho thấy: vốn điều lệ tăng
50%, doanh thu tăng 60%, lợi nhuận trước thuế tăng 13,7%, nộp ngân sách
tăng 45%, thu nhập của người lao động tăng 63%, cổ tức trung bình tăng
15,5%, số lao động tăng 23%. Những số liệu trên phần nào phản ánh việc
CPH DNNN là hiện tượng kinh tế lành mạnh, là chủ trương đúng đắn để nâng
cao hơn thế và lực của Nhà nước trong quá trình xây dựng đất nước [32].
Cổ phần hóa DNNN nhằm sắp xếp, đổi mới lại các DNNN là một giải
pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả của lĩnh vực kinh tế nhà nước. Thực
chất, đó là một sự cấu trúc lại nền kinh tế cho phù hợp với kinh tế thị trường
theo hướng thu hồi vốn đầu tư trong những lĩnh vực mà nhà nước không cần
nắm giữ và chuyển giao cho các thành phần kinh tế khác để nhà nước tập
trung đầu tư vào những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế quốc dân. Đồng
thời, qua đó khẳng định được vai trò, vị thế đích thực của DNNN, tạo điều
kiện thực hiện con đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn là đi lên
CNXH. Đây là một vấn đề khó khăn, phức tạp nhưng không được trì hoãn và
lảng tránh, thu hẹp sở hữu của nhà nước và hạn chế sự can thiệp trực tiếp của
nhà nước vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh, nâng cao vai trò điều tiết
của cơ chế thị trường; qua đó, xác định rõ quyền sở hữu tài sản, tiền vốn của
17
các DN hiện nay, khắc phục tình trạng “vô chủ” làm thất thoát tài sản của nhà
nước và của xã hội.
Thứ hai, CPH DNNN sẽ tạo động lực mới trong sản xuất kinh doanh. Để
hoạt động sản xuất kinh, doanh đạt hiệu quả cao thì vốn, thị trường, thiết bị
công nghệ, con người là những yếu tố không thể thiếu. CPH DNNN sẽ giải
quyết một cách triệt để việc sử dụng các yếu tố trên.
Mô hình CTCP là môi trường hữu hiệu để thu hút và sử dụng các nguồn
vốn nhàn rối trong nhân dân, các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, thiết
lập quan hệ lâu dài với người lao động, các nhà cung cấp và khách hàng, cũng
như di chuyển nguồn vốn sang lĩnh vực khác một cách linh hoạt, hiệu quả,
phù hợp với sự năng động của nền kinh tế thị trường. Nó còn là nơi lý tưởng
để người có vốn lựa chọn các cơ hội đầu tư, cũng như phân tán rủi ro cho tất
cả mọi người..., tạo điều kiện xác lập thị trường tài chính mà nòng cốt là thị
trường chứng khoán để huy động vốn trên thị trường tài chính.
Khi cổ phần hoá DNNN, trong các công ty cổ phần, một cổ phần góp
vốn được ghi trên mặt phiếu ( mệnh giá cổ phiếu) thường được quy định ở
mức rất thấp. Tại Pháp, mức tối thiểu của một cổ phiếu là 3 Frăng, ở Mỹ từ 1
đến 5 USD, ở Đức từ 1 đến 7 DM, ở Nhật là 100 Yên, ở Việt Nam là 10.000
đồng... Vì thế, cách huy động vốn ở công ty cổ phần không chỉ thu hút được
vốn từ những nhà đầu tư lớn mà còn tạo cơ hội để người lao động, kể cả
người nghèo đều có thể mua được cổ phiếu, giúp chuyển hoá quỹ tiêu dùng
thành quỹ sản xuất, đồng thời giảm bớt lượng tiền mặt dự trữ trong toàn xã
hội, thúc đẩy quá trình tái sản xuất, nâng cao hiệu quả vận động vốn xã hội
Ngoài ra, việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu, kỳ phiếu... làm cho các
doanh nghiệp vượt khỏi giới hạn của mình, tạo thành những công ty cổ phần
xâm nhập vào nhau, có quan hệ đa chiều, rộng rãi, tạo điều kiện xã hội hoá
sản xuất, kinh doanh; khắc phục quan niệm đã lỗi thời coi công hữu là tiêu chí
18
số một để đánh giá từng bước quá độ lên CNXH, hay sự định kiến về sở hữu cá
nhân người lao động - coi đó là sự đối lập với CNXH và là mầm mống của
CNTB.
Theo C. Mác, sự phát triển của công ty cổ phần là sự phát triển đầy đủ
của chế độ tín dụng. Tuy nhiên, so với tiền gửi vào quỹ tín dụng và các ngân
hàng thì đầu tư vào công ty cổ phần thường hấp dẫn và có sức lôi cuốn hơn vì
người mua cổ phiếu ngoài mong đợi thu được một khoản lợi tức bằng lợi tức
khi họ gửi vào ngân hàng còn hy vọng tương lai của công ty cổ phần làm ăn
phát đạt sẽ đưa lại thu nhập cao hơn. Do đó, công ty cổ phần sẽ thu hút được
nhiều vốn để đầu tư sản xuất, kinh doanh, tăng quy mô sản xuất trong xã hội,
tạo điều kiện để kinh tế hàng hoá phát triển cao.
Cổ phần hoá DNNN nhằm phát triển có hiệu quả khu vực kinh tế nhà
nước, thu hút để mở rộng kinh doanh, đổi mới thiết bị máy móc đã cũ kỹ, lạc
hậu. Nước ta hiện nay có 54,3% DNNN cấp trung ương và 74% DNNN cấp
địa phương sản xuất còn ở trình độ thủ công, quy mô sản xuất nhỏ, ít vốn;
trong đó, vốn đưa vào thực tế chỉ chiếm 80% vốn ghi trên sổ sách, vốn lưu
động chỉ còn 50% được huy động vào sản xuất, kinh doanh, số còn lại là nợ
khó đòi; tài sản, vật tư mất mát, kém phẩm chất. Tất cả thực tế nghiệt ngã ấy
đã đẩy DNNN vào tình trạng lẩn quẩn: vốn không có để đổi mới trang thiết bị,
nhưng không có cách nào để huy động vốn. Ngoài ra, việc cổ phẩn hoá
DNNN thành các công ty cổ phần còn tạo ra cơ chế phân bố rủi ro đặc thù, tạo
cơ hội tồn tại lâu bền cho doanh nghiệp. Cách huy động vốn ở các công ty cổ
phần tạo điều kiện cho các nhà đầu tư tài chính mua cổ phiếu ở nhiều công ty,
rải vốn ra nhiều ngành để giảm bớt tổn thất nếu một công ty nào đó không tồn
tại được. Mặt khác, vốn tự có của CTCP cũng là vốn của nhiều cổ đông góp
lại nên nếu công ty có bị phá sản thì đây cũng là hình thức san sẻ rủi ro cho
nhiều cổ đông, giảm nhẹ thiệt hại vào một chủ sở hữu. Đây là nét đặc thù mà
các loại hình doanh nghiệp khác không có được.
19
Trong CTCP, việc phân phối căn cứ vào mức đóng góp vốn và đóng góp
lao động vào công ty, cũng như gắn trách nhiệm của người có vốn và người
lao động với kết quả sản xuất, kinh doanh. Do đó, khi người lao động nhận
thức được rằng, nếu DN làm ăn có lãi thì họ cũng có một phần trong số lợi
nhuận mà công ty đã kiếm được. Ngược lại, nếu DN làm ăn thua lỗ thì nguồn thu
nhập của họ cũng bị đe doạ. Từ đó, họ có ý thức và trách nhiệm cao hơn trong
hoạt động sản, xuất kinh doanh của công ty nhằm tạo ra nhiều của cải vật chất,
điều mà lâu nay người lao động tỏ ra dửng dưng (vì trong DNNN nếu DN thua lỗ
thì họ cũng không bị giảm lương; nếu DN có lãi hoặc lãi nhiều thì họ cũng không
được tăng lương). Việc phân phối đó khiến cho người lao động, người chủ mới
của DN gắn chặt với sự thành bại của hoạt động sản xuất, kinh doanh, vì thế họ
đoàn kết, gắn bó và nhất trí trong việc tìm kiếm và đưa ra phương án hoạt động
phù hợp nhất cho DN, tạo điều kiện để DN cạnh tranh, tăng cường vị thế của mình
trên thị trường. Như vậy, động lực lợi ích là cơ sở bên trong thúc đẩy việc nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cho các DN được CPH.
Bên cạnh đó, hoạt động của các công ty cổ phần còn kích thích sự phát
triển của thị trường chứng khoán. Thông qua thị trường này, người chủ tiền tệ
mới có điều kiện tiếp cận thông tin, lựa chọn và quyết định đầu tư vào cổ
phiếu ở các doanh nghiệp mà mình mong muốn nhất. Thị trường chứng khoán
cũng là nơi các nhà kinh doanh có thể tìm kiếm được các nguồn vốn đầu tư, là
nơi dẫn nguồn tích luỹ tiết kiệm của những người tích luỹ đến nhà đầu tư, là
cơ chế phân bổ các nguồn đầu tư theo yêu cầu của kinh tế thị trường, đồng
thời cũng là cơ sở quan trọng để Nhà nước thông qua đó sử dụng các chính
sách tiền tệ can thiệp vào hoạt động của nền kinh tế nhằm đạt được những
mục tiêu lựa chọn. Mặc dù thị trường chứng khoán ra đời không phải do ý
muốn chủ quan của con người nhưng nếu thiếu nó thì sẽ hạn chế sự phát triển
nói chung. Rõ ràng, sự hình thành các công ty cổ phần là điều kiện quyết định
của sự hình thành thị trường chứng khoán.
20
Cổ phần hóa DNNN góp phần làm lành mạnh hoá tình trạng tài chính
trong các DNNN nói riêng và trong toàn bộ nền kinh tế nói chung; làm cho
các mối quan hệ tài chính của DN với nhà nước và các DN khác với các tổ
chức, cá nhân trong và ngoài DN được xác định một cách chính xác, giải
quyết một cách rõ ràng, nhất là các khoản nợ, đặc biệt là nợ khó đòi, các loại
tài sản được kiểm kê, đánh giá lại theo giá trị thực tế, tạo điều kiện để DN
hoạt động lành mạnh sau CPH.
Thấy được tầm quan trọng của việc CPH DNNN đối với nền kinh tế đất
nước trong thời kỳ đổi mới, trong thời gian qua, toàn Đảng, toàn dân ta đã nỗ
lực phấn đấu để từng bước chuyển DNNN sang CTCP. Theo kết quả của dự
án VIE 97/ 016 [12], thì mặc dù số DNNN được CPH qua từng năm có nhiều
biến động và tăng không đều (đạt trung bình 60% so với kế hoạch), nhưng
đến nay, tổng số DNNN đã được CPH chiếm 6% tổng số DNNN hiện có.
Tóm lại, sự ra đời của công ty cổ phần là biểu hiện mới của xã hội hoá
sản xuất. Nó sẽ giúp cấu trúc lại hệ thống kinh tế của toàn xã hội; tăng cường
sức mạnh kinh tế đất nước, lành mạnh hoá, năng động hoá và hiệu quả hoá
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cổ
phần hoá DNNN thực sự là giải pháp cơ bản để điều chỉnh mối tương quan
giữa sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân trong nền kinh tế thị trường hỗn hợp,
nhằm đạt mục tiêu phát triển có hiệu quả, bảo đảm công bằng xã hội. Trên
thực tế, một số DNNN sau CPH còn gặp nhiều khó khăn, phát triển chậm so
với yêu cầu và năng lực của DN, nhưng hầu hết các CTCP đều khẳng định
được vai trò, vị thế và năng lực nội tại, cũng như sự phù hợp với nền kinh tế
thị trường và xu hướng toàn cầu hoá kinh tế. Điều này một lần nữa khẳng
định việc CPH DNNN ở nước ta là một tất yếu khách quan, phù hợp với quy
luật phát triển và xu thế thời đại.
1.2. Quan điểm của Đảng về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc
21
Chủ trương CPH DNNN được chính thức đề cập trong Hội nghị lần thứ hai
Ban Chấp hành Trung ương khoá VII. Nghị quyết của Hội nghị xác định rõ:
”Chuyển một số xí nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và
thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới”[13]. Tiếp theo, Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VIII xác định: ”Triển khai tích cực và vững chắc cổ
phần hoá DNNN để huy động vốn và tạo thêm động lực thúc đẩy DN làm ăn
có hiệu quả, làm cho tài sản nhà nước ngày càng tăng lên, không phải để tư
nhân hoá” [15].
1.2.1. Về mục tiêu cổ phần hoá
Nghị định 28/CP, ngày 7/5/1996, của Chính phủ về chuyển một số
DNNN thành công ty cổ phần khẳng định: ”Cổ phần hoá DNNN là huy động
vốn của công nhân viên chức trong doanh nghiệp, cá nhân, các tổ chức trong
và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ phát triển doanh nghiệp và tạo
điều kiện cho những người góp vốn và công nhân viên chức trong doanh
nghiệp có cổ phần nâng cao vai trò làm chủ, thực sự tạo thêm động lực thúc
đẩy doanh nghiệp khi doanh nghiệp có hiệu quả.”[10]. Theo đó, Hội nghị lần
thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khoá IX tháng 8/2001 khẳng định: ”Mục
tiêu thực hiện Cổ phần hoá trước hết nhằm tạo ra loại hình DN có nhiều chủ
sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động, để sử dụng có hiệu quả vốn, tài
sản của Nhà nước và huy động thêm vốn xã hội vào phát triển sản xuất, kinh
doanh; tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động, có hiệu quả cho
DNNN, phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của cổ đông; khắc
phục tình trạng trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước của các DN”[14]. Còn tại Điều 1,
Nghị định 187 của Chính phủ ngày 16/11/2004, một lần nữa khẳng định mục
tiêu của CPH DNNN là: ”chuyển đổi những công ty nhà nước mà Nhà nước
không cần giữ 100% vốn sang loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu; huy
động vốn của cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và ngoài
22
nước để tăng năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản
lý mhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”[8].
Như vậy, mục tiêu của Đảng ta về cổ phần hoá DNNN nhằm:
a) Góp phần nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp; tạo ra
loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao
động; tạo ra động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động cho doanh
nghiệp để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của Nhà nước và doanh nghiệp.
b) Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm: cá nhân, các tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển
doanh nghiệp.
c) Phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của các cổ đông;
tăng cường sự giám sát của nhà đầu tư đối với doanh nghiệp; bảo đảm hài hoà
lợi ích của Nhà nước, nhà đầu tư và của người lao động.
Theo Ban Đổi mới quản lý DN Trung ương, lộ trình đổi mới, sắp xếp
DNNN tính đến năm 2005 còn khoảng 2.000 DN, giảm 62%. Số DNNN còn
lại tập trung vào các DN công ích nhà nước, các tổng công ty và các DN độc lập
có ý nghĩa quan trọng. Số lao động làm việc trong các DNNN sẽ giảm 25%, từ
1.681 nghìn người xuống còn 1.260 nghìn người. Vốn chủ sở hữu của các
DNNN sẽ giảm 11,4%, từ 106.892 tỉ đồng xuống còn 94.703 tỉ đồng. Nợ của
các DNNN giảm 18,5% từ 113.965 tỉ đồng xuống còn 92.799 tỉ đồng trong đó
nợ ngân hàng giảm 21%, từ 47.734 tỉ đồng xuống còn 22.750 tỉ đồng. [26].
1.2.2. Đối tượng doanh nghiệp nhà nước lựa chọn để cổ phần hoá
Trong chương trình cụ thể hoá và đưa Nghị quyết Đại hội IX vào cuộc
sống, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3, khoá IX (9/2001) chủ trương “đẩy
mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước không cần giữ 100% vốn” [17]
xem đó là khâu quan trọng để tạo chuyển biến cơ bản trong việc nâng cao
hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Đặc biệt, Nghị quyết đã có những định
23
hướng quan trọng như chỉ ra những lĩnh vực mà nhà nước giữ 100% vốn,
những lĩnh vực mà Nhà nước phải giữ cổ phần chi phối; quy định chi tiết đối
với những doanh nghiệp hoạt động kinh doanh và hoạt động công ích. Theo
đó, việc lựa chọ DN để CPH xuất phát từ vị trí của DN đối với nền kinh tế
quốc dân chứ không phụ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
DN, còn danh mục các công ti nhà nước mà Nhà nước giữ 100% vốn điều lệ
sẽ được Thủ tướng Chính phủ quyết định trong từng thời kỳ. Đến Hội nghị
Trung ương 9 (khoá IX) thì quan điểm về CPH đặc biệt thông thoáng: a) Kiên
quyết đẩy nhanh tiến độ CPH và mở rộng các DNNN cần CPH, kể cả những
DN lớn và một số tổng công ty kinh doanh có hiệu quả. b) Gắn CPH với phát
hành cổ phiếu và tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán. c) Giá trị
DNNN được CPH, trong đó có giá trị quyền sử dụng đất về nguyên tắc phải
do thị trường quyết định. d) Việc mua, bán cổ phiếu phải công khai trên thị
trường, khắc phục tình trạng CPH khép kín trong nội bộ DN.
Tóm lại, đối tượng CPH DNNN hiện nay đã chuyển sang một giai đoạn
nâng cao về chất lượng trên cả hai mặt sau: một là, từ CPH DNNN là ăn thua
lỗ, DNNN có vốn nhỏ sang CPH cả những DN lớn, các tổng công ty, các DN
làm ăn có lãi; hai là, từ CPH DNNN trong một số lĩnh vực rất hạn chế sang
CPH các DN ở hầu hết các lĩnh vực kinh tế, văn hoá.
Còn về chỉ đạo thực hiện, Nghị quyết Hội nghị Trung ương chín, khoá
IX quyết định: “ đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá và mở rộng diện các doanh
nghiệp nhà nước cần cổ phần hoá, kể cả một số công ty và doanh nghiệp lớn
trong các ngành như điện lực, luyện kim, cơ khí, hoá chất, phân bón, xi măng,
xây dựng, vận tải đường bộ, hàng không, đường sông, hàng hải ....viễn thông,
ngân hàng, bảo hiểm. Khắc phục tình trạng cổ phần hoá khép kín trong nội bộ
doanh nghiệp” [14].
1.2.3. Về hình thức tiến hành cổ phần hoá
24
Theo Nghị định số 64/NĐ-CP, ngày 19/6/2002, CPH DNNN ở nước ta
hiện nay có 4 hình thức sau: a) Giữ nguyên vốn hiện có tại doanh nghiệp, phát
hành thêm cổ phiếu để thu hút thêm vốn. b) Bán một phần vốn hiện có tại doanh
nghiệp. c) Bán toàn bộ vốn hiện có tại doanh nghiệp. d) Thực hiện các hình thức
b hoặc c kết hợp với phát hành cổ phiếu để thu hút thêm vốn. Còn theo quy định
mới nhất tại Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 thì việc chuyển đổi
công ty nhà nước thành công ty cổ phần bao gồm các hình thức sau:
1- Giữ nguyên vốn hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu để thu
hút thêm vốn áp dụng đối với những DN CPH có nhu cầu tăng thêm vốn điều
lệ. Mức vốn huy động thêm tuỳ thuộc vào quy mô và nhu cầu vốn của công ty
cổ phần. Cơ cấu vốn điều lệ của CTCP được phản ảnh trong phương án CPH.
2- Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại DN hoặc kết hợp vừa bán bớt
một phần vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để thu hút vốn.
3- Bán toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại DN hoặc kết hợp vừa bán toàn
bộ vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để thu hút vốn.
Và cơ quan nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào điều kiện thực tế của
từng DN mà quyết định chuyển DNNN hiện có thành CTCP, trong đó Nhà
nước có cổ phần chi phối, CP đặc biệt, CP ở mức thấp hoặc Nhà nước không
giữ CP. Sau đó thực hiện “ CPH đơn vị phụ thuộc của DN hoặc chuyển toàn
bộ DN thành CTCP. Trường hợp CPH đơn vị phụ thuộc của DN thì không
được gây khó khăn hoặc làm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh các
bộ phận còn lại của DN”[14], như vậy, chuyển hình thức CPH từ nội bộ là
chính sang bán cổ phần ra bên ngoài, kể cả cho các nhà đầu tư nước ngoài.
1.2.4. Về quy trình tiến hành cổ phần hoá
Gồm 4 bước:
Bước 1: Chuẩn bị cổ phần hoá. Căn cứ vào vị trí của DNNN đối với nền
kinh tế quốc dân mà phân loại và lập danh sách, xác định giá trị DN cần CPH.
25
Bước 2: Xây dựng phướng án cổ phần hoá.
Bước 3: Phê duyệt và triển khai phương án cổ phần hoá.
Bước 4: Ra quyết định cổ phần hoá.
1.2.5. Đặc điểm của doanh nghiệp cổ phần hoá
- Hầu hết các doanh nghiệp được đưa vào chương trình CPH đều có đặc
điểm sở hữu tư liệu sản xuất thuộc về Nhà nước. Nhà nước chi phối mọi hoạt
động sản xuất, kinh doanh và phân phối của DN. Mặc dù Nhà nước có chủ
trương giao quyền chủ động cho DN nhưng giám đốc và tập thể lãnh đạo DN
không thể vượt qua những chế định của Nhà nước. Thực tế cho thấy, chức sắc
trong DN càng cao thì tư tưởng ỷ lại vào Nhà nước lại càng lớn. Mọi trang
thiết bị đều là của Nhà nước, nhưng mất mát, hư hỏng không ai quan tâm... vì
những thứ đó không hề ảnh hưởng đến thu nhập thực tế của các thành viên
trong DN. Do đó, hiện tượng “vô chủ” khá phổ biến trong các DN cũng như
trong các hợp tác, xã làm cho tình trạng tham ô, lãng phí, ăn cắp của công
ngày càng tăng. Khấu hao tài sản không tính vào chi phí hoặc có tính thì
không đáng kể, vì thế nhiều DN đã ”ăn” vào máy móc, thiết bị. Kết quả là,
khu vực kinh tế nhà nước ngày càng lún sâu vào thua lỗ và càng trông chờ
vào sự bao cấp của Nhà nước.
Sau khi DNNN đã CPH, người lao động trong DN, kể cả bộ phận lãnh
đạo DN, đều trở thành đồng sở hữu tư liệu sản xuất của DN. Do đó, tất cả các
thành viên trong DN đều quan tâm đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của
DN. Nếu DN làm ăn có lãi thì cùng được chia, lỗ thì cùng chịu, vì trong
CTCP, người lao động được hưởng quyền lợi theo 2 phương thức phân phối:
phân phối theo lao động dựa vào số lượng và chất lượng lao động và phân
phối theo lợi nhuận dựa vào mức góp vốn thông qua việc mua cổ phiếu. Điều
này làm thay đổi nhận thức kinh tế, giảm sự trông chờ vào Nhà nước, tạo điều
kiện cho Nhà nước chăm lo các lĩnh vực khác của xã hộ i, tạo động lực mới
26
trong sản xuất, kinh doanh, quyền bình đẳng trong xã hội được xây dựng trên
nền tảng vững chắc.
Đối với các DN được CPH, họ được tự chủ trong sản xuất, kinh doanh
nhưng vẫn hoạt động dưới sự chỉ đạo chung vì lợi ích của xã hội, của đất
nước, được đối xử bình đẳng như các DN khác trong nền kinh tế, hoạt động
theo Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp.
Cho đến nay, hầu hết các DNNN thuộc diện CPH đều là các DN có vốn
và quy mô nhỏ. Số DNNN có vốn dưới 10 tỉ đồng chiếm 75% và thuộc những
ngành mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn. Trong tổng số 2.280 DNNN
thuộc diện sắp xếp đến 2005 có 216 DNNN có vốn nhà nước trên 10 tỉ đồng
(chiếm 9,5%), từ 1-10 tỉ đồng là 1.233 DNNN (chiếm 54%) và dưới 1 tỉ đồng là
831 DNNN (chiếm 36,5%).
1.3. Quá trình và kinh nghiệm thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp
nhà nƣớc ở Việt Nam
1.3.1. Khái quát quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
Cổ phần hóa DNNN nhằm đổi mới, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh
doanh của DNNN là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Quá
trình này được thực hiện hết sức cẩn trọng. Cho đến nay, CPH DNNN ở nước
ta có thể được chia thành 3 giai đoạn khác nhau:
Giai đoạn thí điểm CPH, từ đầu tháng 6 /1992 đến tháng 4/1996. Giai
đoạn này, Chính phủ có Quyết định số 202-CT ngày 8/6/1992 về chủ trương
thí điểm chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần. Trong gần 4 năm thực
hiện, chỉ CPH được 5 DN trong đó có 3 DN Trung ương và 2 DN địa phương.
Giai đoạn mở rộng CPH, từ tháng 5/ 1996 đến tháng 5/1998. Trong giai
đoạn này có Nghị định 28/CP ngày 7/5/1996 của Chính phủ, nên việc CPH
ngày càng được mở rộng. Nghị định quy định rõ về đối tượng, yêu cầu, mục
đích, CPH, cách thức tiến hành, các chế độ đối với DN, về vấn đề người lao
27
động trong DN CPH... Tiến trình CPH đã được thực hiện khá nhanh chóng.
Qua 2 năm thực hiện, có 25 DNNN được CPH. Trong đó bao gồm 3 bộ, 9 tỉnh,
thành phố có DN CPH.
Giai đoạn đẩy mạnh CPH, từ tháng 7/ 1998 đến nay. Rút kinh nghiệm từ
giai đoạn trước, ngày 29/6/1998 Chính phủ ban hành Nghị định 44/CP nhằm
xác định rõ và giảm thiểu DN hành nghề mà Nhà nước cần nắm giữ 100%
vốn, Nhà nước nắm giữ cổ phần đặc biệt, cổ phần chi phối, không hạn chế
quy mô DN... nhờ vậy, chỉ trong 6 tháng thực hiện (đến 31/12/1998) cả nước
đã CPH được 86 DN, tăng gấp 3 lần so với hai giai đoạn trước.
Kết quả:
- Về số lượng doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá:
Giai đoạn
Số DN CPH
Giai đoạn thí điểm CPH từ 6 /1992 đến 4/ 1996
5
Giai đoạn mở rộng CPH, từ 5/1996 đến 5/1998
25
Giai đoạn đẩy mạnh CPH, từ 7/ 1998 đến nay
745
Đẩy mạnh CPH theo Nghị định 64/2002/NĐ- CP
2002
164
2003
611
Tổng số: 1550
Bảng 1: Số lượng doanh nghiệp cổ phần hoá qua các giai đoạn
Nguồn: Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp
Trong hơn mười năm thực hiện chương trình CPH DNNN, số DN được
CPH khá nhiều nhưng vẫn chưa đạt mục tiêu đặt ra. Kết quả thực hiện giai
đoạn 2002 - 2003 mới đạt 63% so với kế hoạch, riêng 6 tháng đầu năm 2004
chỉ đạt 16% kế hoạch của cả năm. Do đó, lịch trình CPH DNNN của chúng ta
còn tương đối chậm.
- Về hiệu quả sản xuất, kinh doanh: Theo thống kê của Ban Chỉ đạo đổi
mới và phát triển DN Trung ương, sau khi CPH, doanh thu bình quân của các
28
DN tăng 23,6%, lợi nhuận tăng 140%, hơn 90% số CTCP làm ăn có lãi, nộp
ngân sách bình quân tăng 24,9%, cổ tức bình quân đạt hơn 17% năm, các DN
đều giảm được trung bình 25% chi phí gián tiếp, số lượng công nhân viên tăng
5,1%. Trong số các DN được CPH, có 45 DN trước khi CPH làm ăn thua lỗ,
số DN còn lại thì khi lãi, khi lỗ, nhìn chung thì có lãi ở mức độ thấp và là lãi
trên số vốn nhà nước chưa được đánh giá lại... Mặc dù thời gian kinh doanh
chưa dài, cần phải theo dõi và bổ sung thêm kinh nghiệm từ thực tiễn, nhưng
nhìn chung, phần lớn các DN đều sản xuất, kinh doanh phát triển, đều tăng
doanh thu và lợi nhuận so với trước khi CPH. Bên cạnh đó, vẫn có DN còn
yếu kém về mặt này, mặt khác nhưng chưa có DN nào thua lỗ hoặc phá sản.
- Về khả năng huy động vốn trong xã hội: Trong các DN trước khi CPH
số lượng vốn thấp so với giá trị thực, lại kéo theo cả nợ khó đòi, sản phẩm,
vật tư ứ đọng, không có khả năng sử dụng; máy móc, thiết bị không còn sử
dụng được hoặc không thể sản xuất ra sản phẩm mà thị trường có thể chấp
nhận được cho nên phải định giá lại phần tài sản này và có quyết định phân
tích, xử lý trước khi CPH. Đến năm 2000, trong các DNNN đã CPH, giá trị
tài sản trên sổ sách kế toán trước khi CPH là 2.388 tỉ đồng, khi CPH được
đánh giá là 2.714 tỉ đồng (chưa kể giá trị quyền sử dụng đất), tăng 13,7%. Khi
CPH, Nhà nước giữ lại 978 tỉ đồng, còn lại 1.736 tỉ đồng được bán cho người
lao động trong và ngoài DN, số tiền thu được được đưa vào Quỹ hỗ trợ sắp
xếp và CPH DNNN. Sau khi CPH, các CTCP phần phát hành thêm 1.011 tỉ
đồng cổ phiếu để thu hút vốn. Do quy mô vốn nhà nước của các DN CPH nói
chung là nhỏ (trung bình: 3,78 tỉ VNĐ/DN) nên huy động vốn trong xã hội
thời kỳ này còn thấp, mới đạt 2.747 tỉ. Dù vậy, điều đáng mừng là chỉ sau một
thời gian hoạt động, các công ty cổ phần đã tăng được giá trị tuyệt đối phần
vốn nhà nước. Theo báo cáo của 202 DN, khi mới CPH được trên một năm
thì phần vốn nhà nước không những được bảo toàn mà còn tăng lên 65.420 tỉ
đồng (từ 377.343 tỉ đồng tăng lên 443.763 tỉ đồng), bằng nguồn lợi nhuận để
29
lại. Một số công ty phát hành thêm cổ phiếu để tăng thêm vốn trong khi phần
vốn nhà nước ở DN vẫn giữ nguyên, và có công ty cổ phần đã bán bớt phần
vốn nhà nước tại đó, như Công ty Nam dược, Dịch vụ văn hoá quận Tân
Bình... nên tỉ lệ vốn Nhà nước giảm từ 35% khi CPH xuống còn 26% tại thời
điểm ngày 31/12/1999. Với mẫu 500 DNNN đã CPH được chọn ngẫu nhiên,
người ta thấy kết quả như sau: vốn điều lệ tăng 50%, doanh thu tăng 60%, lợi
nhuận trước thuế tăng 137%.
Cho đến nay, nhờ quá trình CPH, hơn 12.411 tỉ đồng của các cá nhân, tổ
chức ngoài xã hội được đầu tư vào DN. Phần vốn Nhà nước tại các DN không
bị giảm đi mà còn được bảo toàn và tăng lên. Tuy vậy, trong hơn mười năm
qua, chúng ta phần nhiều chỉ CPH các DN vừa và nhỏ nên lượng DN CPH
nhiều, nhưng số lượng đồng vốn lại tương đối ít ( tỷ trọng vốn của các DN
CPH trong khối DNNN vẫn còn khá khiêm tốn, khoảng 17.700 tỉ đồng, chỉ
bằng 8,2% tổng số vốn của toàn bộ khối DNNN; vốn huy động ngoài xã hội
chỉ chiếm 53,4%, chưa tương xứng với tiềm năng).
- Về các hình thức cổ phần hoá: Trên cơ sở phân loại các DN, chúng ta
có thể thấy việc tiến hành CPH ở DNNN theo 3 hình thức sau:
+ Hình thức tách một bộ phận DN để CPH: Vừa qua, hình thức này được
áp dụng chủ yếu với các bộ phận DN mang tính độc lập tương đối, có dây
chuyền sản xuất riêng biệt, là sản xuất phụ hoặc có vai trò phụ trợ đối với sản
xuất chính ( như các phân xưởng bao bì của công ty xi măng; phân xưởng
may của nhà máy dệt; phân xưởng bánh kẹo của nhà máy đường; phân xưởng
sản xuất gạch của xí nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng...). Khi CPH một bộ
phận, hầu hết các DNNN vẫn giữ cổ phần với tỉ lệ cao, đủ chi phối được hoạt
động của công ty cổ phần. Trên thực tế, công ty cổ phần không làm cho
DNNN yếu đi, mà vốn nhà nước tại DN được sử dụng hiệu quả hơn, huy động
thêm được vốn bên ngoài, tạo thêm động lực và quản lý tốt hơn.
30
+ Hình thức bán một phần giá trị DN rồi huy động thêm vốn: Hình thức
này được nhiều lao động trong DN và các cổ đông ngoài DN ưu tiên lựa chọn,
vì nó đạt được tốt hơn cả hai mục tiêu huy động vốn và tạo động lực.
+ Hình thức chuyển toàn bộ DNNN thành công ty cổ phần: Hình thức
này, cổ phần chủ yếu được bán cho người lao động trong DN. Trong 167 DN
thuộc hình thức này (60 DN có vốn từ 1 tỉ đồng trở xuống), có 151 DN được
người lao động trong DN mua cổ phần từ 50% trở lên, 94 DN được người lao
động mua 100% cổ phần. Thực tế cho thấy, việc cổ phần hoá DNNN tạo ra loại
hình DN có nhiều hình thức sở hữu làm cho người lao động có cổ phần làm chủ
thực sự trong DN, có quyền và nghĩa vụ rõ ràng theo luật định. Điều đó tạo động
lực trong sản xuất, kinh doanh và làm hình thành cơ chế kiểm soát có hiệu quả
hơn của người lao động và xã hội đối với DN; dẫn đến tăng năng xuất lao động,
tiết kiệm chi phí (trung bình, các công ty cổ phần giảm 20% chi phí, cá biệt có
công ty giảm đến 50% chi phí so với trước khi cổ phần hoá), hạ giá thành sản
phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Theo đó,bản thân người lao động
có được lợi ích lớn hơn (từ thu nhập và cổ tức), đồng thời lợi ích của DN và lợi
ích của Nhà nước cũng được bảo đảm. Việc thu hút và phát huy trí tuệ của các
cổ đông bên ngoài DN cũng tạo điều kiện nâng cao trình độ quản lý của công ty
cổ phần. Đã từng có cổ đông bên ngoài DN được bầu làm Chủ tịch Hội đồng
quản trị (ví dụ, Công ty Thuỷ tinh Gò Vấp, Công ty Cổ phần giấy Viễn Đông...).
Hạn chế:
Mặc dù vậy, việc cổ phần hoá DNNN trong thời gian qua nhìn chung
vẫn còn khá nhiều hạn chế:
- Nhận thức về cổ phần hoá đã được chú trọng và cải thiện bước đầu
nhưng chưa có sự nhất quán trong các cấp, các ngành; chưa quán triệt và thể
chế hoá đầy đủ Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII và Nghị quyết Hội nghị
lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII về CPH DNNN, nên tốc độ
31
CPH chưa cao. Ví dụ, năm 2003 dự kiến CPH 986 DNNN, nhưng trên thực tế
chỉ đạt 156 DN, bằng 15,82% kế hoạch.
- Cơ chế, chính sách về CPH chưa đồng bộ, quy trình và thủ tục còn
phức tạp, chồng chéo, nhiều quan điểm chưa phù hợp, rõ ràng, tính khả thi
chưa cao, chưa khuyến khích nhiều người lao động hăng hái thực hiện, như:
khống chế tỷ lệ mua cổ phần lần đầu; chính sách ưu đãi cho tất cả các DNNN
cổ phần hoá còn mang tính đổ đồng; chưa có chính sách để người lao động
giữ được cổ phần ưu đãi sau khi mua; chưa tạo ra môi trường thực sự bình
đẳng trong kinh doanh, nhất là về quyền sử dụng đất, vay vốn, xuất nhập
khẩu, bảo hộ, chính sách cán bộ...; chưa tổng kết, sửa đổi, bổ sung cơ chế
chính sách, quy trình, thủ tục...; chưa tạo động lực thu hút vốn từ các nhà đầu tư
kinh doanh có tiềm lực về vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý thị trường. Điều
đó, làm cho các DNNN thuộc diện CPH lo lắng, thiếu hăng hái và quan tâm.
- Về chỉ đạo thực hiện: Chính phủ chưa tổ chức đủ mạnh; nhiều bộ,
ngành, địa phương chưa thực sự chú trọng đến công tác CPH, chưa có chương
trình, kế hoạch cụ thể để triển khai thực hiện, còn trông chờ vào sự tự nguyện
của DN, công tác tuyên truyền, giáo dục chưa được chú trọng. Bên cạnh đó, ở
nhiều DN việc xác định giá trị tài sản còn rất phức tạp, thực trạng tài chính
thiếu lành mạnh, minh bạch, việc tính toán, xử lý nợ còn gặp nhiều khó khăn,
thậm chí nhiều DN không đủ điều kiện tồn tại, có nguy cơ phá sản ( do nợ
xấu, tồn đọng nhiều kéo dài, kinh doanh thua lỗ, mất vốn) vẫn đưa vào diện
CPH làm cho quá trình CPH trở nên phức tạp, đặc biệt là về tài chính.
Quy trình CPH rườm rà, phức tạp, cứng nhắc, chưa gắn với cải cách
hành chính, làm cho các DN, các cơ quan chủ quản bị động, lúng túng. Quá
trình xây dựng đề án chưa sát với thực tế, thiếu kết hợp giữa các ngành với
địa phương, không ít nơi thiếu dân chủ với DN, thiếu thống nhất trong chỉ đạo
thực hiện. Đối với DN có quy mô lớn thì ngoài các vướng mắc trên còn có thể
32
nảy sinh một số khó khăn khác, chẳng hạn như khung pháp lý quy định các
điều kiện tiến hành CPH, cách xác định giá...
- Về tổ chức đảng: Sau khi CPH các tổ chức đảng chưa được đổi mới về
nội dung, phương thức hoạt động nên lúng túng trong sinh hoạt, chưa phát
huy tốt vai trò của mình.
- Về thị trường chứng khoán: Trong những năm qua, do chưa thực hiện
CPH tốt nên chưa tạo điều kiện, tiền đề để hình thành và phát triển nhanh thị
trường chứng khoán, ngược lại, việc hoạt động kém sôi động, kém hiệu quả
của thị trường vốn này đã không tạo nên sự hấp dẫn cho người đầu tư cổ
phần.
1.3.2. Thực tiễn cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở một số địa phương
* Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở thành phố Hà Nội:
Hà Nội là một trong những địa phương có nhiều DNNN được CPH.
Trong số 880 DNNN trên địa bàn Hà Nội có 320 DN do địa phương quản lý
với khoảng 75.240 lao động hoạt động trong 14 ngành kinh tế- kỹ thuật. Qua
khảo sát cho thấy, phần lớn số DNNN do địa phương quản lý có quy mô nhỏ:
87 DN, chiếm 26,5%, có quy mô vốn dưới một tỉ đồng. Xét về hiệu quả, trong
số 320 DN có 219 DN làm ăn có lãi; gần 1/3 DNNN kinh doanh chỉ hoà vốn
hoặc thua lỗ, trong đó có 33 DN thua lỗ kéo dài. Do đó, sắp xếp lại DNNN
bằng hình thức CPH trên địa bàn thành phố Hà Nội đã trở thành một yêu cầu
cấp thiết. Tuy vậy, trong 5 năm từ 1992 đến 1997, Hà Nội chỉ mới thực hiện
CPH được 5 DN.
Đứng trước tình trạng này, nhiều người nhận xét, CPH không vào được
thành phố Hà Nội. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, trong đó có
nguyên nhân về quan điểm, nhận thức, chẳng hạn như quan điểm cho rằng,
CPH sẽ làm biến chất xã hội chủ nghĩa. Điều này đã tác động đến hầu hết
những người lao động và cả những nhà quản lý. Để CPH DNNN đạt hiệu quả
mong muốn, Hà Nội đã nhấn mạnh bước đi thận trọng và vững chắc, vừa làm,
33
vừa rút kinh nghiệm; chú ý giải qyết vấn đề lao động và bảo đảm vai trò chủ
đạo của kinh tế nhà nước; thu hút đông đảo cán bộ cốt cán “vào cuộc” và đặc
biệt coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục. Nhờ công tác tư tưởng, tổ chức
được chuẩn bị chu đáo, từ chỗ e ngại, dè dặt, năm 1998 Hà Nội hoàn thành
CPH được 30 DNNN, hết tháng 10 /1999 lại tiếp tục CPH được 30 DNNN;
trên chỉ tiêu 40 DNNN đề ra. Tiếp tục tiến độ đó, trong giai đoạn 1998 - 2001,
Hà nội có 87 doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá. Năm 2002, trong
danh mục thực hiện cổ phần hoá 28 doanh nghiệp nhà nước, mới có 21
DNNN có quyết định của Uỷ ban nhân dân thành phố. Nhìn chung, các
DNNN sau cổ phần hoá đều hoạt động tương đối tốt, vốn hoạt động tăng.
Sau khi cổ phần hoá, quy mô vốn của các công ty cổ phần tăng bình
quân 1,7 lần. Trong đó nổi bật là Công ty Cổ phần Thành Công tăng từ 5,7 tỉ
đồng lên 15 tỉ đồng; Công ty cổ phần Việt Hà tăng từ 3,1 tỉ đồng lên 12,6 tỉ
đồng. Quy mô vốn hoạt động của các DNNN sau cổ phần hoá được tăng
bằng cách phát hành cổ phiếu. Điều đó đã giúp các doanh nghiệp này có khả
năng đầu tư mở rộng sản xuất.
Theo điều tra sơ bộ tại 65 DNNN được tiến hành cổ phần hoá, doanh thu
tăng 1,8 lần, lợi nhuận tăng 236% so với trước khi cổ phần hoá.[3]. Trường
hợp Công ty cổ phần Dệt 10.10 là một ví dụ điển hình. Sau 2 năm cổ phần
hoá, công ty này đã đạt được những kết quả khả quan trên các mặt hoạt động.
Trong đó, doanh thu tăng 2,5 lần, giá trị sản lượng tăng 50%, lợi nhuận tăng
10 lần, kim nghạch xuất khẩu đạt 3 triệu USD/năm (tăng gấp 4 lần so với
trước khi cổ phần hoá). Đáng chú ý là số lao động, kể cả lao động nghèo, đều
được tạo điều kiện để mua cổ phần trong DN; số cổ phần nhà nước trong DN
không bị thất thoát mà còn tăng lên so với sổ sách. Nguyên nhân cơ bản thúc
đẩy các DNNN ở Hà Nội thực hiện cổ phần hoá nhanh chóng và hoạt động
của các doanh nghiệp sau cổ phần hoá đạt kết quả, theo ông Phan Văn Vượng,
Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội, là:
34
Một là, có sự nhất trí và quyết tâm cao cả Thành uỷ, Uỷ ban nhân dân
trong quá trình triển khai công tác CPH DNNN. Điều đó được thể hiện rõ nét
nhất ở chương trình 18 về sắp xếp DN. Các lãnh đạo cuả thành phố là người
trực tiếp chỉ đạo, phát biểu, truyền đạt, đồng thời đi kiểm tra... nên đã tạo ra
một khí thế mới của công tác CPH.
Hai là, ban Đổi mới DN thành phố Hà Nội là bộ máy có năng lực tổ
chức. Ban còn có sự tham gia của Ban Kinh tế thành uỷ, Liên đoàn Lao động
thành phố.Về phía doanh nghiệp, ban lãnh đạo các doanh nghiệp trong kế
hoạch CPH thấu suốt được chủ trương của Đảng và Nhà nước, có sự quan
tâm trong quyết định chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần
nên họ là những người tiên phong trong công tác tuyên truyền, thực hiện cổ
phần hoá một cách tích cực, vận động lực lượng công nhân viên trong doanh
nghiệp cũng như các nhà đầu tư ngoài doanh nghiệp hưởng ứng mua cổ phiếu.
Điển hình là Công ty Dệt 10.10 phát hành cổ phần không đủ bán, 100% công
nhân viên Công ty đều là cổ đông của công ty. Như vậy, có thể nói, công tác
CPH DNNN ở Hà Nội được triển khai một cách đồng bộ cả bề rộng và bề
sâu; hầu như không có cơ quan nào đứng ngoài công việc.
Ba là, quy trình CPH DNNN đơn giản, rõ ràng, cụ thể, khoa học.
Bốn là, lựa chọn những cán bộ nhiệt tình công tác, tinh thông nghiệp vụ
tham gia công tác CPH DNNN.
Năm là, Ban Đổi mới DN thành phố chỉ đạo một cách sâu sát, thường
xuyên quá trình tổ chức CPH DNNN. Hàng năm, Uỷ ban nhân dân thành phố
đều ban hành chỉ thị, giao chỉ tiêu CPH cho các cấp, các ngành, các DN thuộc
thành phố. Ban Đổi mới DN thành phố còn có chế độ giao ban hàng tuần để
kịp thời giải quyết xử lý các khó khăn, vướng mắc cho từng DN; kiểm tra,
đôn đốc tiến trình CPH của từng cấp, từng ngành; kịp thời xin ý kiến chỉ đạo
35
của Thành uỷ, Uỷ ban nhân dân cũng như các cơ quan trung ương đối với các
vấn đề vượt quá thẩm quyền giải quyết.
* Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở thành phố Hồ Chí Minh:
Quá trình sắp xếp lại DNNN ở thành phố Hồ Chí Minh rất khả quan.
Cho đến nay, số lượng DNNN đã thu gọn còn gần 300 DNNN đang hoạt
động. Với số lượng khiêm tốn như vậy nhưng đa số các DNNN đều có quy
mô lớn. Tính bình quân mỗi doanh nghiệp thu hút khoảng 380 người lao động
(trong khi doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ thu hút khoảng 10 người và
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng không quá 165 người); Tổng số
vốn sản xuất, kinh doanh của các DN là 14.000 tỉ đồng (chiếm 14% tổng số
vốn SXKD trên đị bàn thành phố)... Theo kế hoạch từ năm 2001 đến năm
2005, thành phố phải thực hiện cổ phần hoá tiếp 100 doanh nghiệp.
Chỉ tính riêng 8 tháng đầu năm 2003, thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành
cổ phần hoá thêm được 16 DNNN, nâng tổng số DNNN được CPH lên 199 DN.
Nhìn chung, các DNNN sau cổ phần hoá đạt mức tăng trưởng cao và khá ổn định.
Theo thống kê chưa đầy đủ, tại 92 doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá, doanh
thu tăng bình quân khoảng 35%/năm, lợi nhuận trước thuế tăng 119%/năm, thu
nhập của người lao động tăng bình quân 17%/năm[5]. Theo Sở Công nghiệp
thành phố ngày 08/02/2001, trong năm 2000, lợi nhuận tích luỹ trên một người
lao động từ các công ty cổ phần thuộc Sở Công nghiệp thành phố quản lý đạt
mức cao nhất, 24 triệu đồng lợi nhuận/người lao động/năm, trong khi đó,
một người lao động làm việc trong các ngành như may, điện tử chỉ tích luỹ
được 1 triệu đồng lợi nhuận/ năm, còn ngành cơ khí, nhựa, dệt, da thì cao hơn
nhưng cũng chỉ ở mức 3 triệu đồng lợi nhuận/ người/ năm.
Cũng trong năm 2000, lợi nhuận thực hiện được của các doanh nghiệp
trực thuộc Sở Công nghiệp thành phố là 267 tỉ đồng, tăng 34% so với năm 1999,
trong đó 110 tỉ đồng thuộc về các công ty cổ phần. Các công ty có lợi nhuận
36
thực hiện khá là Công ty cổ phần Cơ điện lạnh, Công ty Cổ phần bông Bạch Tuyết,
Công ty cổ phần Kim Đan.[20]. Nguyên nhân chính là do việc lựa chọn đúng
DNNN có đủ điều kiện để cổ phần hoá; phương án thực hiện cổ phần hoá phù
hợp và kịp thời; bộ máy lãnh đạo “cách tân”; có mặt hàng và thị trường ổn
định, có nhiều triển vọng để hoà nhập với xu thế phát triển của thế giới; có sự
thống nhất cao từ ban giám đốc đến tập thể người lao động đã gây nhiều hấp
dẫn cho cổ đông (ví như Xí nghiệp Cơ điện lạnh, REE). Trong khi đó, Đảng
uỷ, Uỷ ban nhân dân thành phố cũng rất quyết tâm, thận trọng khi thực hiện
công tác CPH DNNN.
Vai trò của các tổ chức đoàn thể trong DNNN cũng góp một phần quan
trọng trong tiến trình thực hiện cổ phần hoá của doanh nghiệp. Họ là động lực
chính trong việc vận động, tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước về cổ phần hoá DNNN đến đội ngũ công nhân viên. Thực
tế cho thấy, ở những doanh nghiệp tiếng nói và hành động luôn gắn chặt với
nhau từ tổ chức cơ sở đảng, công đoàn, giám đốc..., đều nhất quán, phối kết
hợp chặt chẽ chỉ đạo về chủ trương, đường lối, phương án cổ phần hoá đối với
từng bộ phận, tổ, phòng ban trong doanh nghiệp một cách thấu đáo thì việc
tiến hành cổ phần hoá sẽ được thực hiện suôn sẻ, đạt hiệu quả và mục đích
như mong muốn.
Tâm lý người lao động là một trong những vấn đề quan trọng trong
doanh nghiệp. Khi chuyển sang công ty cổ phần, người lao động có suy nghĩ,
lo lắng các chính sách đối với họ có được giải quyết thoả đáng hay không. Do
đó, khi đại hội cổ đông, các thành viên hội đồng quản trị của các công ty đã
công khai khẳng định chính sách đối với người lao động không những được
bảo đảm mà còn có sự ưu đãi hơn hẳn khi công ty còn là DNNN. Và ngay sau
khi công ty đi vào hoạt động, các chính sách như Quy chế hợp đồng lao động,
Hợp đồng lao động được thực hiện theo đúng mẫu quy định của Bộ Luật lao
động; ngoài ra còn bổ sung rất nhiều quyền cũng như trách nhiệm đối với
37
người lao động. Từ đó, lòng tin của người lao động được khẳng định, và
chính họ lại là những người có quyết tâm cao trong việc thúc đẩy cho công ty
cổ phần nhanh chóng ra đời và phát triển.
Trong các DNNN thuộc diện CPH, các bước thực hiện cổ phần hoá khá
chu đáo, tình hình tài chính khá lành mạnh. Công nợ minh bạch và không
đáng kể, do đó tạo được sự thống nhất trong nội bộ doanh nghiệp và sự đồng
tình từ các ngành chủ quản và quản lý nhà nước, tạo bước đi vững chắc trong
tiến trình cổ phần hoá DN.
* Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh Bình Định:
Tính đến hết năm 2001, toàn tỉnh Bình Định đã CPH được 16 DNNN,
trong đó có 8 đơn vị áp dụng hình thức bán và phát hành thêm cổ phiếu để
huy động vốn, tăng vốn điều lệ, nhằm phục vụ mở rộng sản xuất, kinh doanh
sau khi CPH. Nhìn chung, các DNNN sau khi chuyển đổi sở hữu đã đi vào
hoạt động ổn định và thu được kết quả kinh tế cao. So với trước khi CPH, doanh
thu bình quân tăng 65%; nộp ngân sách tăng 2,41 lần; lợi nhuận bình quân tăng
2,76 lần; thu nhập bình quân của người lao động từ 703.000 đồng/người/tháng
lên 865.000 đồng/ người/ tháng.
Ngay từ khi có chỉ đạo của Chính phủ về CPH DNNN, Tỉnh uỷ và
UBND tỉnh đã tiến hành thí điểm CPH 1 DNNN (Xí nghiệp Đóng mới và sửa
chữa tàu Bình Định). Nhưng do lúc đó có quá nhiều thủ tục và chưa được phân
cấp cho tỉnh nên từ khi tiến hành làm thí điểm đến khi ra đời công ty cổ phần đầu
tiên phải mất hơn 3 năm nghiên cứu và chuẩn bị triển khai hoạt động vào ngày
1/7/1996. Qua 6 tháng hoạt động, doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, thu nhận
thêm một số lao động và thu nhập của người lao động đã tăng, và qua 2 năm
thực hiện theo Luật Công ty, vốn đã tăng 20,7%, doanh thu tăng 13,6 lần, lợi
nhuận tăng trên 100 lần, thu nhập của người lao động tăng 2,78 lần, lợi tức cổ
phần bình quân đạt 1,77%/ tháng- cao hơn lãi xuất tiền gửi ngân hàng. Trong đó,
38
3 đơn vị đạt mức lợi tức cổ phần từ 2% đến 2,7%/ tháng so với trước CPH
[29,2].
Việc CPH DNNN ở Bình Định bước đầu đạt kết quả và thành công là do
địa phương đã tích cực chuẩn bị đầy đủ các điều kiện, vận dụng sáng tạo chủ
trương, chính sách, chế độ của Nhà nước, đồng thời có sự nhất trí cao trong
lãnh đạo, chỉ đạo một số công tác rất cụ thể về CPH như: kiểm kê, phân loại,
xác định giá trị tài sản, xác định lợi thế của DN; lập đề án CPH, nhất là việc
xây dựng điều lệ hoạt động và phương án sản xuất, kinh doanh sau khi cổ
phần mang tính khả thi cao.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được rất đáng khích lệ trên thì CPH
DNNN ở các địa phương cũng còn khá nhiều hạn chế:
- Đối với người lao động làm công ăn lương, đa số có thu nhập thấp nên
khả năng tham gia mua cổ phiếu thấp (Công ty Khách sạn Đông phương là
10,3%; Công ty cổ phần In và bao bì là 10,2%...). Mặt khác, về tâm lý cán
bộ, công nhân viên chưa thật sự tin tưởng vào hiệu quả của công tác cổ phần;
một số khác mua cổ phần chỉ với mục đích giữ chỗ làm sau khi chuyển sang
công ty cổ phần. Bên cạnh đó, sự quan tâm, hưởng ứng của xã hội chưa đúng
mức và tư tưởng coi thường buôn bán tư thương còn ảnh hưởng rất lớn, trong
khi đó lợi tức cổ phiếu chưa hấp dẫn và chưa đảm bảo, cộng với việc chưa có
thị trường giao dịch, mua bán trao đổi khi có nhu cầu rút vốn về của các cổ
đông...nên chưa thu hút được sự tham gia của người lao động.
- Vấn đề ưu đãi cho người lao động khi chuyển sang CTCP cũng còn
nhiều bất cập. Trong 16 DN ở Bình Định thì có tới 3 DN người lao động không
mua hết và không mua được cổ phần ưu đãi đã giảm giá 30% do họ quá nghèo.
- Vấn đề định giá trong DN để CPH đã có sự phân cấp, cải tiến theo
Nghị định 44/NĐ-CP nhưng vẫn còn lúng túng khi gặp các DN có giá trị thực
39
tế nhỏ hơn sổ sách. Theo quy định của Thông tư 104/1998/TT-BTC ngày
18/7/1998 của Bộ Tài chính, những trường hợp trên phải do Bộ trưởng Bộ Tài
chính quyết định. Việc quyết định này là không cần thiết và quá nhiều phiền
phức. Việc định giá đã có hội đồng thẩm định ở các bộ, ngành, địa phương
với sự tham gia của nhiều ngành, nhiều chuyên gia am hiểu trên nhiều lĩnh
vực nên kết quả đánh giá là sát thực tế. Do đó, quyết định này chỉ làm chậm
tiến trình CPH mà không có kết quả thiết thực. Kế hoạch năm 2000 của Bình
Định là CPH 5/32 DN nhưng đến cuối quý IV/2000 mới hoàn thành CPH
được 4/32 DN, còn 1 DN phải chuyển sang cổ phần trong năm sau...
* Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh Nam Định:
Nhận thức rõ về vai trò, tầm quan trọng của việc CPH DNNN, trong hơn
7 năm qua, tỉnh uỷ, UBND tỉnh Nam Định đã triển khai và thực hiện CPH như
sau:
- Về số lượng DN chuyển thành công ty cổ phần: Tính đến tháng 7/2004,
toàn tỉnh đã CPH được 39 DN độc lập và 5 bộ phận DN. Tại thời điểm CPH,
vốn điều lệ được xác định 114 tỉ đồng, tăng 76% so với giá trị thực tế vốn
nhà nước tại DN.
- Về hình thức cổ phần hoá: Các DNNN chuyển thành CTCP trong
những năm qua chủ yếu chọn hình thức bán một phần hoặc bán toàn bộ phần
vốn nhà nước để chuyển thành CTCP. Một số ít DNNN chọn hình thức bán
- Về cơ cấu vốn điều lệ của CTCP: Trong 39 DN CPH, Nhà nước nắm
một phần vốn nhà nước kết hợp với phát hành cổ phiếu.
cổ phần chi phối đối với 1 DN; tham gia 30% đến 40% vốn điều lệ đối với 17
công ty và có 25 CTCP, Nhà nước không tham gia góp vốn.
- Về kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh: Theo tổng hợp báo cáo kết
quả sản xuất, kinh doanh trong 26 CTCP trong năm 2003 như sau: tổng doanh
thu tăng bình quân từ 15% đến 25%/năm, cá biệt có một số công ty tăng bình
40
quân 50% như Công ty Cổ phần Thành Công, Công ty Cổ phần dược phẩm
Nam Hà, Công ty Cổ phần thực phẩm công nghiệp. Thu nhập bình quân đầu
người từ 500.000 đồng đến 1.500.000 đồng/ người/ tháng.
Một số kinh nghiệm thành công của quá trình CPH DNNN tỉnh Nam Định:
Một là, thực hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh nghiệp. Trong quá
trình chỉ đạo thực hiện phương án CPH, lựa chọn một số DN vừa và nhỏ để
CPH đợt đầu là hợp lý.
Hai là, công tác tuyên truyền, tổ chức học tập chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước được chú trọng ngay từ đầu, do đó, đã có sự thay đổi về
nhận thức của cán bộ, công nhân viên trong DN về sự cần thiết phải CPH.
Ba là, tác nghiệp CPH được tiến hành đúng quy trình, thực hiện công
khai dân chủ, đảm bảo được chính sách, chế độ.
Bốn là, sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng, hoạt động có hiệu quả của các
thành viên Ban Đổi mới quản lý DN tỉnh trong việc tư vấn, tham mưu trong
việc phân loại, sắp xếp và lựa chọn DN thực hiện CPH.
Năm là, khẩn trương, chính xác trong việc thẩm định, xác định giá trị
DN; việc kiểm kê, phân loại thực hiện một cách hợp lý, điều đó có tác dụng
thúc đẩy các DNNN khẩn trương tự nguyện CPH.
Sáu là, các chính sách đối với người lao động như: quyền được mua cổ
phần ưu đãi, cổ phần ưu đãi cho người lao động nghèo trả chậm, chế độ bảo
hiểm cho người lao động đến tuổi hoặc nghỉ trước tuổi theo Nghị định
41/2003/NĐ-CP được quan tâm, giả quyết thoả đáng trong phạm vi quyền hạn
và điều kiện thực tế.
Bảy là, phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ chủ chốt bước đầu đã
đáp ứng được yêu cầu của CPH.
Nhận xét chung: Có thể nói, việc CPH DNNN ở các địa phương trong
thời gian qua mặc dù số lượng CTCP chưa nhiều, quy mô vốn bình quân của
41
một DN còn nhỏ, thời gian hoạt động còn ít, cần tiếp tục uốn nắn, chỉ đạo
thực hiện tốt hơn, nhưng bước đầu cho thấy việc hình thành loại hình DN có
nhiều hình thức sở hữu đã huy động được vốn của xã hội vào sản xuất, kinh
doanh, tạo được động lực thực sự và hình thành cơ chế kiểm soát của người
lao động, của xã hội đối với hoạt động của DN; tiết kiệm được chi phí, hạ giá
thành, ngăn chặn được tham ô; tài sản Nhà nước được đánh giá đúng hơn, sử
dụng hiệu quả hơn; các công ty cổ phần có tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm,
năng động trong sản xuất, kinh doanh theo cơ chế thị trường, sức cạnh tranh
của sản phẩm tăng lên, doanh thu, lợi nhuận, việc làm, thu nhập và đời sống
của người lao động được cải thiện tốt hơn.
Tóm lại, cơ cấu lại nền kinh tế, thu hẹp sở hữu nhà nước và hạn chế sự
can thiệp của Nhà nước vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh của các DN,
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp,
coi trọng hơn vai trò điều tiết của cơ chế thị trường.. .là những công việc rất
cần thiết trong tiến trình đổi mới, phát triển kinh tế phù hợp với định hướng
XHCN ở nước ta. Vì vậy, tiến hành CPH các DNNN ở Việt Nam nói chung,
các DNNN của Khánh Hoà nói riêng là một việc làm thiết yếu, là một nội
dung quan trọng của công cuộc đổi mới và cũng là một đòi hỏi khách quan để
chuyển sang nền kinh tế thị trường dựa trên các động lực của thị trường và vai
trò quản lý, định hướng của Nhà nước, tạo ra một mô hình hữu hiệu, đáp ứng
các yêu cầu kinh doanh hiện đại. Đây thực sự là một xu hướng khách quan
trong quá trình CPH các DNNN ở nước ta. Thực tiễn CPH DNNN ở Việt
Nam nói chung và của các địa phương nói riêng là những bài học kinh
nghiệm bổ ích, quý báu giúp cho việc nhìn nhận tiến trình CPH DNNN ở tỉnh
Khánh Hoà một cách khoa học và khách quan. Nghiên cứu kỹ vấn đề này,
chúng ta có cơ sở cho việc đề ra các giải pháp đẩy nhanh và tiến hành có hiệu
quả CPH DNNN ở Khánh Hoà trong thời gian tới.
42
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC
TỈNH KHÁNH HÒA
2.1. Chủ trƣơng của tỉnh Khánh Hòa về cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nƣớc
2.1.1. Thực trạng hệ thống doanh nghiệp nhà nước tỉnh Khánh Hoà
* Vài nét về tỉnh Khánh Hoà:
Là tỉnh ven biển cực Đông của Việt Nam, Khánh Hoà có diện tích tự
nhiên 5258 km2, chiếm 1,6% diện tích cả nước; có 200 km bờ biển ở phía
Đông, liền kề với Tây nguyên ở phía Tây, phía Bắc giáp tỉnh Phú Yên, phía
Nam giáp tỉnh Ninh Thuận. Thành phố Nha Trang là tỉnh lỵ của Khánh Hoà,
cách Đà Nẵng 550 km về phía Nam và cách thành phố Hồ Chí Minh 450 km
về phía Bắc. Có trục quốc lộ 1A và đường sắt xuyên suốt chiều dài tỉnh.
Khánh Hoà được nối liền thuận lợi với các tỉnh trong khu vực miền trung.
Quốc lộ 26 nối Khánh Hoà với Đắc Lắc và Tây Nguyên. Tỉnh có nhiều cảng
biển như cảng Cam Ranh, Nha Trang, thuận lợi cho việc giao lưu giữa Khánh
Hoà với cả nước và quốc tế. Phần lãnh hải có huyện đảo Trường Sa - một vị
trí rất quan trọng về quốc phòng và kinh tế của cả nước.
Khánh Hoà vừa có núi, vừa có biển với hơn 200 đảo lớn nhỏ ven bờ, tạo
điều kiện để tỉnh phát triển một nền kinh tế đa dạng, đặc biệt là ngành du lịch,
công nghiệp đánh bắt, nuôi trồng và chế biến thuỷ sản. Về du lịch, Khánh Hoà
là một trong mười trung tâm du lịch lớn của cả nước. Dân số trung bình của
Khánh Hoà năm 2002 vào khoảng 1.094.000 người, trong đó dân số ở độ tuổi
lao động vào khoảng 569.000 người, chiếm 52% dân số.
Thu ngân sách của Khánh Hoà hàng năm tăng đều với tốc độ cao, tỷ lệ
huy động GDP vào ngân sách ở mức hợp lý. Tổng huy động ngân sách nhà
43
nước trên địa bàn tỉnh từ năm 1996 đến năm 2000 chiếm 18,4% GDP, những
năm gần đây chiếm 20% GDP. Tổng thu ngân sách nhà nước, năm 1990 là
52,050 tỉ đồng, năm 1995 là 615 tỉ đồng (đứng vào Câu lạc bộ 500 tỉ), năm
2000 là 1.072,456 tỉ (đứng vào Câu lạc bộ 1.000 tỉ), năm 2003 là 2.300 tỉ
(đứng vào Câu lạc bộ 2.000 tỉ). Sau 15 năm tái lập tỉnh, số thu ngân sách tăng
gấp hơn 40 lần và Khánh Hoà đã tự hào đứng vào hàng ngũ một trong 15 tỉnh
trong cả nước tự cân đối được ngân sách và có đóng góp về Trung ương[30].
Định hướng cơ cấu kinh tế từ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII là Công
nghiệp - nông nghiệp- dịch vụ và du lịch, đến Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ
XIV là Công nghiệp - dịch vụ, du lịch- nông nghiệp. Hiện nay, nền kinh tế
tỉnh đang chuyển dịch phát triển nhanh dịch vụ, du lịch để đến nhiệm kỳ tiếp
theo thúc đẩy quá trình chuyển dịch theo hướng Dịch vụ, du lịch- công
nghiệp- nông nghiệp [16].
Những điều kiện nói trên tạo thuận lợi cho Khánh Hoà phát triển sản
xuất, mở rộng giao lưu kinh tế với cả nước và quốc tế.
* Thực trạng hệ thống DNNN tỉnh Khánh Hoà:
- Tình hình chung:
Thực hiện chủ trương đổi mới, sắp xếp DNNN của Đảng, từ năm 1990
đến nay, cùng với cả nước, Khánh Hoà đã tiến hành 3 đợt sắp xếp lại DNNN.
Kết quả, số lượng DNNN giảm từ 140 DN năm 1990 xuống còn 64 DN vào
đầu năm 2004. Nhìn chung các DNNN còn lại, sau khi sắp xếp, có những
chuyển biến tích cực. DNNN sản xuất, kinh doanh về cơ bản, chuyển sang
hoạt động theo cơ chế thị trường, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hạch toán kinh
doanh độc lập; chủ động trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch
sản xuất, kinh doanh, đầu tư xây dựng, đổi mới thiết bị công nghệ. UBND
tỉnh chỉ giao một pháp lệnh cho DNNN, đó là nộp ngân sách. DNNN được
UBND giao vốn, tự chủ sử dụng vốn và các quỹ để kịp thời phục vụ nhu cầu
44
sản xuất, kinh doanh theo nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn; được quyền
huy động vốn và sử dụng các quỹ khấu hao, quỹ phát triển sản xuất để đầu tư
đổi mới thiết bị, công nghệ. Ngoài ra, được quyền tổ chức lại bộ máy quản lý,
tuyển chọn, đào tạo, sử dụng lao động theo quy định của pháp luật. Nhìn
chung, các DNNN thích ứng được và hoạt động có hiệu quả trong cơ chế mới,
làm ăn có lãi, trình độ quản lý, thiết bị công nghệ có nhiều tiến bộ; vốn được
bảo toàn và tăng thêm; bước đầu đa dạng hoá các nguồn vốn để phát triển sản
xuất, kinh doanh, làm nòng cốt trong việc huy động vốn liên doanh, liên kết
với các thành phần kinh tế trong và ngoài nước, đóng góp phần lớn trong hoạt
động xuất nhập khẩu của tỉnh và thu hút toàn bộ vốn đầu tư nước ngoài, thực
hiện được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần, là lực lượng
nòng cốt trong tương lai và phát triển kinh tế địa phương, phát huy vai trò chủ
đạo của nền kinh tế tỉnh Khánh Hoà.
Tại thời điểm năm 1999, trong tổng số 81 DN được khảo sát, có tới 69
đơn vị làm ăn có lãi (gộp chung tổng số lãi ròng khoảng 59 tỉ 600 triệu đồng);
7 DN lỗ (gộp lại khoảng 2,5 tỉ đồng).
Căn cứ vào tài liệu lưu trữ 13 năm gần đây (1990-2003) của Cục thuế
tỉnh Khánh Hoà, chúng ta thấy, số thu vượt hàng năm của tỉnh diễn biến khá
sinh động. Năm 1991, thu vượt 39,9%; năm 1992, thu vượt 12,3%;năm 1993,
thu vượt 33,1%; năm 1994 thu vượt 8,9%; năm 1995, thu vượt 17,5%; năm
1996, thu vượt 1,8% (ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế); năm 1997, thu
vượt 15,5%; năm 1998, thu vượt 5,1%; năm 1999, thu vượt 20%; năm 2000,
thu vượt 25%; năm 2001, thu vượt 23%; năm 2002, thu vượt 25%; năm
2003, thu vượt 27% [7]. Tuy mức tăng trưởng không đều, số thu vượt cũng
không ổn định song xu thế chung của nền kinh tế tỉnh là, phát triển không
ngừng, liên tục vững mạnh.
Chỉ tính riêng năm 2003, các DNNN thực hiện được 4.284 tỉ đồng doanh
thu; nộp ngân sách 655 tỉ đồng; lãi thực hiện 150 tỉ đồng. Tính trung bình một
45
đồng vốn trong DN làm ra 0,14 đồng lợi nhuận trước thuế (cả nước là 0,095 );
doanh thu tăng 2,7 lần; lợi nhuận tăng 3,3 lần; số nộp ngân sách tăng 4,9 lần
so với năm 1991, đóng góp trên 50% tổng thu ngân sách địa phương. Tiêu
biểu là các DN: Tổng công ty Khánh Việt, Công ty Thương mại và đầu tư
Khánh Hoà, Công ty Xổ số kiến thiết...
Số lao động bình quân năm 2003 tại các DNNN của tỉnh Khánh Hoà là
15.593 người, tăng 9% so với năm 2002, với tổng quỹ lương thực hiện là
220.830 triệu đồng; lương bình quân là 1.155.000 đồng/ người/ tháng, xấp xỉ
mức lương bình quân năm 2002, nhưng nếu tính cả các khoản thu nhập khác thì
mức lương trung bình của người lao động năm 2003 tại các DNNN là 1.309.000
đồng/ người/ tháng, tăng khoảng 80.000/ người/ tháng so với năm 2002.
- Tình hình cụ thể năm 2004:
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước tỉnh năm 2004
nhìn chung ổn định nhưng các chỉ tiêu về doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân
sách... có nhiều biến động. Cụ thể:
Doanh thu thực hiện kế hoạch năm 2004 là 4.28 tỷ đồng, đạt 129% kế
hoạch năm và tăng 29% so với thực hiện năm 2003.
Lợi nhuận thực hiện đạt 64.344 triều đồng. Tổng lãi năm 2004 là
150.189 triệu đồng, đạt 134% kế hoạch năm và tăng 3,4% so với 2003. Tổng
lỗ phát sinh trong năm 85.845 triệu đồng, lỗ lũy kế 128.370 triệu đồng.
Những doanh nghiệp đạt mức lãi cao tiêu biểu: Tổng công ty Khánh Việt:
65.327 triệu đồng; Công ty Xổ số kiến thiết Khánh Hòa: 18.776 triệu đồng;
Công ty Chế biến thủy sản xuất khẩu: 10.625 triệu đồng; Công ty Khai thác
chế biến khoáng sản xuất khẩu: 9.693 triệu đồng; Công ty Cấp thoát nước
Khánh Hòa: 6.192 triệu đồng, Công ty Thương Mại - đầu tư Khánh Hòa:
5.275 triệu đồng.
46
Số phát sinh nộp ngân sách: 728.351 triệu đồng, đạt 121% kế hoạch năm
và tăng 25% so với năm 2004. Thực nộp ngân sách 655.00 triệu đồng, đạt 107%
kế hoạch năm và tăng 14,5% so với năm 2003. Trong đó, thuế tiêu thụ đặc biệt
481.043 triệu đồng, đạt 107% kế hoạch năm và tăng 15% so với năm 2003,
thuế thu nhập doanh nghiệp 42.217 triệu đồng đạt 112% kế hoạch năm. Riêng
thuế giá trị gia tăng thực nộp 78.236 triệu đồng, tăng 18% so cùng kỳ nhưng chỉ
đạt 89% kế hoạch năm, nguyên nhân do một số doanh nghiệp có chỉ tiêu kế
hoạch nộp thuế giá trị gia tăng lớn nhưng không đạt như: Công ty Đường thực
nộp 5.298 triệu đồng chỉ bằng 27% kế hoạch, Công ty Cung ứng tàu biển -
Thương Mại - Du lịch Nha Trang nộp 900 triệu đồng bằng 35% kế hoạch.
Cụ thể các khối doanh nghiệp nhà nước tỉnh Khánh Hòa như sau :
- Các doanh nghiệp trực thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh :
+ Tổng công ty Khánh Việt: Doanh thu của các doanh nghiệp thuộc
Tổng công ty Khánh Việt thực hiện 2.444.590 triệu đồng, đạt 157% kế hoạch
năm và tăng 43% so cùng kỳ năm trước.
+ Công ty Đường Khánh Hòa: Năm 2004, Công ty Đường Khánh Hòa
sản xuất 25.116 tấn đường, đạt 49,5% kế hoạch năm và tăng 68% so với năm
2003. Trong năm tiêu thụ 24.188 tấn, bằng 96% sản lượng sản xuất. Doanh
thu thực hiện 131.545 triệu đồng đạt 47% kế hoạch. Kết quả năm 2004 lỗ
79.424 triệu đồng. Tình hình kinh doanh của công ty tiếp tục gặp nhiều khó
khăn do thiếu nguyên liệu, sản lượng mía thu mua chỉ đạt 42% so với kế
hoạch, giá bán đường xuống thấp, lãi vay phát sinh trong năm hạch toán vào
giá thành là 77.128 triệu đồng.
Số phát sinh phải nộp ngân sách 6.786 triệu đồng, thực nộp 5.297 triệu
đồng, tăng 15% so với năm 2003, nhưng chỉ đạt 28% kế hoạch năm.
47
+ Công ty Thương mại và đầu tư Khánh Hòa: Doanh thu năm 2004 thực
hiện 133.166 triệu đồng, đạt 170% kế hoạch và gấp 4,3 lần năm 2003. Lợi
nhuận 5.275 triệu đồng đạt 76% kế hoạch năm và bằng 8,3 lần năm 2003.
Số nộp ngân sách và lợi nhuận tăng trưởng nhanh do Công ty đã mua lại
khu nghỉ mát Ana - Mandara từ liên doanh với nước ngoài đem lại hiệu quả
cao, riêng lãi từ hoạt động của khu nghỉ mát Hải Dương, bao gồm Ana-
Mandara là 4.977 triệu đồng.
- Các doanh nghiệp thuộc các sở, ngành quản lý :
+ Công ty xổ sổ kiến thiết, là doanh nghiệp có tốc độ tăng trưởng khá
và nhiều năm liền hoàn thành kế hoạch Nhà nước giao. Doanh thu thực hiện
năm 2004 là 118.776 triệu đồng, tăng 31% so với năm 2003 và đạt 105% kế
hoạch. Lợi nhuận thực hiện 18.776 triệu đồng, tăng 12,8% so với năm 2003
và đạt 158% kế hoạch năm. Thực nộp ngân sách 29.000 triệu đồng, đạt 112%
kế hoạch năm và tăng 3,4% so với năm 2003.
+ Các doanh nghiệp thuộc ngành Công nghiệp: Doanh thu thực hiện
118.247 triệu đồng, đạt 100% kế hoạch năm và tăng 3,5% so với năm 2003.
Lợi nhuận 11.688 triệu đồng, đạt 98% kế hoạch năm và bằng số thực hiện
năm trước. Thực nộp 6.673 triệu đồng, đạt 80% kế hoạch năm và bằng 82%
số nộp năm 2003.
Công ty Khai thác chế biến khoáng sản xuất khẩu: Là đơn vị duy nhất
của ngành hoàn thành toàn diện các chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận và nộp ngân
sách năm 2004.
Công ty Nước khoáng Khánh Hòa: Năm 2004 tiêu thụ được 25 triệu lít
nước khoáng các loại, đạt 90% kế hoạch. Tình hình tiêu thụ có mặt thuận lợi
nhờ thời tiết nhưng do cạnh tranh gay gắt với quá nhiều chủng loại loại nước
khoáng, nước tinh khiết trên thị trường nên sản lượng tiêu thụ cũng như
48
doanh thu không đạt kế hoạch, nộp ngân sách 2.010 triệu đồng, chỉ đạt 65%
kế hoạch năm và bằng 62% thực hiện năm 2003.
Công ty cơ khí Khánh Hòa: Sản xuất, kinh doanh vẫn không có hướng
phát triển. Doanh thu thực hiện 2,5 tỷ đồng, bằng 63% kế hoạch. Kết quả kinh
doanh tiếp tục lỗ 183 triệu đồng, lỗ lũy kế 2 tỷ đồng.
+ Các doanh nghiệp thuộc ngành Giao thông vận tải: Doanh thu năm 2004
đạt 92.954 triệu đồng, bằng 114% kế hoạch năm và tăng 9% so với năm 2003.
Lợi nhuận thực hiện 3.361 triệu đồng, đạt 99% kế hoạch năm, tăng 8% so với
năm 2003. Thực nộp ngân sách 2.612 triệu đồng, đạt 106% kế hoạch năm và
tăng 20% so với năm 2003.
+ Các doanh nghiệp thuộc ngành Xây dựng: Lợi nhuận thực hiện 18.706
triệu đồng, đạt 156% kế hoạch năm và tăng 42% so cùng kỳ. Những doanh
nghiệp có kết quả kinh doanh khá là Công ty Quản lý Kinh doanh và Phát
triển nhà lãi 7.449 triệu đồng, bằng 141% kế hoạch; Công ty Tư vấn Kiến trúc
và Xây dựng đạt mức lợi nhuận 905 triệu đồng, bằng 232% kế hoạch.
+ Các doanh nghiệp ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Thực hiện
doanh thu 67.984 triệu đồng, đạt 110% kế hoạch và bằng 80% so cùng kỳ.
Các đơn vị lâm nghiệp: Năm 2004, các lâm trường đã khai thác được 24.266m3 gỗ, đạt 120% kế hoạch năm. Trong đó, Công ty Lâm sản Khánh
Hòa, Lâm trường Bắc Khánh Vĩnh, Lâm trường Ninh Hòa, Lâm trường Sông
Trang là những nơi đạt kết quả cao, doanh số thực hiện là 41.668 triệu đồng,
đạt 118% kế hoạch năm. Lợi nhuận thực hiện năm 2004 là 2.768 triệu đồng,
đạt 133% kế hoạch năm.
Các doanh nghiệp thủy lợi: Ngoài Công ty Tư vấn Xây dựng thủy lợi và
Công ty Xây dựng thủy lợi có tình hình hoạt động kinh doanh khá tốt, chỉ tiêu
lợi nhuận vượt kế hoạch và có tăng trưởng so với năm trước. Thì số doanh
nghiệp còn lại doanh thu đều thấp chỉ bằng 82% kế hoạch do thực hiện chủ
49
trương giảm một phần thủy lợi phí khi kiên cố hóa kênh nương, thêm vào đó
tình hình hạn hán mất mùa trên địa bàn huyện Vạn Ninh và huyện Ninh Hòa
làm sản lượng tưới tiêu đạt thấp nên việc thu thủy lợi phí trong kỳ của các
đơn vị thủy nông gặp nhiều khó khăn.
Các doanh nghiệp ngành Thủy sản: Hoạt động sản xuất kinh doanh của
ngành thủy sản trong năm gặp nhiều khó khăn do nguyên liệu đánh bắt giảm
nhiều so với các năm trước, nguồn hải sản nuôi như tôm thường bị mất mùa,
dịch bệnh. Tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm của thị trường xuất khẩu
ngày càng nghiêm ngặt hơn. Ngoài ra, do ngày càng có nhiều doanh nghiệp
chế biến hải sản ra đời nên việc cạnh tranh gay gắt trong thu mua nguyên liệu
và tiêu thụ làm cho tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà
nước chế biến hải sản không thuận lợi như các năm.
+ Các doanh nghiệp thuộc ngành Thương mại và du lịch: Doanh thu thực
hiện 191.841 triệu đồng, đạt 91% kế hoạch và bằng 99% năm 2003. Lợi nhuận
thực hiện 4.039 đạt 78% kế hoạch và bằng 59% năm 2003 do có phát sinh lỗ của
Công ty Thương mại Tổng hợp 1.677 triệu đồng. Thực nộp ngân sách 7.877
triệu đồng, chỉ đạt 77% kế hoạch năm và bằng 85% cùng kỳ năm trước.
+ Các doanh nghiệp ngành văn hóa thông tin: Doanh thu thực hiện 48.924
triệu đồng, đạt 124% kế hoạch năm và tăng 18% so với năm 2003. Lợi nhuận
thực hiện 529 triệu đồng, đạt 69% kế hoạch và bằng 64% thực hiện năm 2003.
Công ty Sách và Thiết bị trường học: Thực hiện doanh thu 14.891 triệu
đồng, đạt 216% kế hoạch và tăng 122% so với năm 2003, doanh thu 14.891 triệu
đồng, đạt 194% kế hoạch năm và tăng 38% so với số thực hiện năm 2003.
Nộp ngân sách vượt 58% kế hoạch giao.
+ Các doanh nghiệp công ích môi trường đô thị các huyện, thành phố, lợi
nhuận thực hiện của các doanh nghiệp là 889 triệu đồng, đạt 118% kế hoạch
năm. Nộp ngân sách 680 triệu đồng đạt 161% kế hoạch năm.
50
* Những hạn chế nổi bật:
Mặc dù đã đạt được những thành quả nói trên nhưng các DNNN nói chung,
các DNNN của tỉnh Khánh Hoà nói riêng, vẫn còn nhiều hạn chế. Cụ thể:
- Hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, tốc độ phát triển chưa cao, chưa tương
xứng với tiềm năng của doanh nghiệp. Nhiều DNNN chưa quan tâm đến việc
xây dựng thương hiệu sản phẩm, cộng với số lượng các mặt hàng xuất khẩu hạn
chế nên giảm khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước.
- Số lượng DNNN nhiều nhưng không mạnh, tỉ trọng giữa các ngành,
giữa các năng lực sản xuất hàng hoá mất cân đối. Khánh Hoà sản xuất thuốc
lá vẫn chiếm tỷ trọng đặc biệt lớn về số thu trong toàn bộ những chỉ số thuế
thu được. Phần lớn vốn tích luỹ và phần lớn số nộp ngân sách chỉ phát sinh
chủ yếu ở 16 DN (có năm 17DN) so với 81 DN của địa phương được khảo
sát. Chỉ tính riêng các DN thuộc Khatoco thì đã chiếm tới 35% tổng số vốn
của tất cả các DNNN của Khánh Hoà và mức nộp ngân sách của DN này lên
tới 70% tổng số thu nội địa kinh tế quốc doanh Khánh Hoà. Sự mất cân đối về
tỉ trọng, về cơ cấu kinh tế giữa các ngành, các đơn vị trên cùng một địa bàn
như vậy gây khó khăn cho việc phát triển kinh tế đa dạng ở Khánh Hoà.
- Hầu hết các DNNN đều thiếu vốn khá nghiêm trọng, do đó để có vốn
hoạt động, DNNN phải tăng cường vay ngân hàng, chiếm dụng vốn của các
đơn vị khác, ăn dần vào vốn kinh doanh, trì hoãn và chiếm dụng cả thuế phải
nộp. Riêng năm 2002, lãi vay của các DNNN của tỉnh Khánh Hoà phát sinh đã
hạch toán vào chi phí là 105.780 triệu đồng. Bên cạnh đó, số DNNN của tỉnh
có vốn chủ sở hữu trên 10 tỉ đồng chỉ chiếm 16%, loại DNNN có vốn từ 1 đến
5 tỉ đồng chiếm tỷ lệ cao, khoảng 56%; vả lại, nợ xấu, nợ chồng nợ cũng làm
xấu đi tình hình tài chính của DN và tiềm ẩn những rủi ro lớn dễ dẫn đến phản
ứng dây chuyền, kéo theo sự suy thoái cả mảng lớn trong nền kinh tế Khánh
Hoà.
51
- Tỉ trọng phải trả trên tổng số tài sản là 69,7% và tỉ xuất tự tài trợ là
30,3% cho thấy, vốn chủ sở hữu còn thấp so với nhu cầu của DNNN. Hầu hết
các DNNN hoạt động bằng vốn vay, lãi vay phải trả lớn nên làm tăng chi phí,
giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh. Mặt khác, việc đầu tư không được tính
toán kỹ nên đã sử dụng không hết công suất thiết kế, lại phải cạnh tranh (chủ
yếu là cạnh tranh về giá) dẫn đến việc thua lỗ. Theo tài liệu của Sở Tài chính -
Vật giá tỉnh Khánh Hoà, tính từ năm 1992 đến năm 1998, tỉnh đã phải hỗ trợ
cho các DNNN là 179.104 triệu đồng và được tiến hành bằng nhiều hình thức
như: để lại một phần trong tổng số tiền phải nộp ngân sách theo nghĩa vụ; cấp
vốn xây dựng cơ bản; cấp vốn lưu động (định kỳ và bất thường), đó là chưa
kể đến việc bảo lãnh các khoản vay vốn đối với các DNNN.
- Trình độ cán bộ quản lý DN phần lớn còn yếu, chưa đạt yêu cầu mà cơ
chế thị trường đòi hỏi. Nhiều cán bộ quản lý chưa được đào tạo, đào tạo lại và
chưa được thường xuyên bồi dưỡng nâng cao trình độ; kỹ năng quản lý, điều
hành sản xuất, kinh doanh... chưa tương xứng với tiềm lực vốn có. Trong
nhiều năm qua, các DN vẫn chưa có phương án khắc phục.
Bên cạnh đó, lực lượng công nhân có tay nghề cao còn ít, kèm theo khả
năng tài chính có hạn, dẫn đến việc tìm kiếm cơ hội trong kinh doanh còn hạn chế.
- Đầu tư đổi mới công nghệ còn chậm, trang thiết bị công nghệ còn lạc
hậu so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Bên cạnh một số DN
mới được đầu tư như Nhà máy dệt Tân Tiến, Nhà máy thuốc lá Khánh Hoà,
Nhà máy đường Cam Ranh, Công ty Nước khoáng Khánh Hoà, Công ty Vật
liệu may Nha Trang... có thiết bị máy móc tiên tiến, hiện đại, còn đại bộ phận
các DN có thiết bị máy móc, trình độ công nghệ đều lạc hậu so với thế giới.
Do đó, hậu quả là, sản phẩm đạt chất lượng thấp nhưng luôn có giá thành cao
nên khả năng cạnh tranh kém; định hướng hoạt động sản xuất, kinh doanh
chưa thực sự vững chắc.
52
2.1.2. Chủ trương của tỉnh Khánh Hoà về cổ phần hoá doanh nghiệp
nhà nước
Nhằm thực hiện triệt để những chủ trương, quan điểm về CPH DNNN
của Đảng, Nhà nước và nâng cao năng lực DNNN của tỉnh, qua đó phát triển
nền kinh tế tỉnh tương xứng với khả năng vốn có của nó. Trong thời gian qua,
cùng với cả nước, Đảng uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh Khánh Hoà đã đề ra những
chủ trương, quan điểm nhằm phát triển DNNN, trong đó có việc cấu trúc lại
DNNN cho phù hợp với nền kinh tế thị trường. Suốt từ năm 1995 đến nay,
trong tất cả những nghị quyết của các hội nghị Đảng bộ tỉnh, Ban Chấp hành
Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ... đều thể hiện rõ quan điểm về vấn đề
CPH, đặc biệt là giai đoạn từ 1998 đến nay.
Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XIV Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa nhiệm
kỳ 2001-2005 đã đề ra những giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế - xã hội
như sau: “Tiếp tục sắp xếp lại DNNN, đẩy nhanh CPH, thực hiện giao, bán,
cho thuê một số DNNN, tạo nguồn vốn để đầu tư chiều sâu những DNNN còn
lại, đồng thời xây dựng một số DNNN hiện đại sản xuất hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu”[16]; “ tiếp tục đưa Khánh Hòa trở thành một trong những
tỉnh có nền kinh tế phát triển ở mức cao của cả nước, đạt mục tiêu tăng thu
nhập bình quân 9 - 10 % năm”[16]...
- Trong báo cáo thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2001 và
phương hướng phát triển năm 2002 và những năm tiếp theo, Uỷ ban nhân dân
tỉnh Khánh hòa đã đề ra phương hướng “Kịp thời giải quyết những vướng
mắc của các DNNN, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư kinh doanh
phát triển, chỉ đạo sắp xếp, cổ phần hóa các DNNN, nhất là các doanh nghiệp
hoạt động trong các lĩnh vực như : công nghiệp, nông nghiệp, du lịch, thủy
sản...”
53
- Tại cuộc họp sơ kết công tác cổ phần hóa DNNN tỉnh Khánh Hòa
năm 2002, Uỷ ban nhân dân Tỉnh cho ý kiến: “Cục thuế Khánh Hòa khẩn
trương giải quyết các thủ tục để các doanh nghiệp đã cổ phần hóa được hưởng
ưu đãi về thuế; vay vốn bình đẳng như DNNN để đầu tư mở rộng sản xuất kinh
doanh; ban đổi mới quản lý, sắp xếp DNNN phải thường xuyên, kịp thời nắm
bắt tình hình thực tế, những khó khăn, vướng mắc, tâm tư, nguyện vọng... tại
các doanh nghiệp cổ phần hóa để giải quyết kịp thời, giúp đẩy nhanh cổ phần
hóa”.
2.2. Thực tiễn cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc ở Khánh Hòa
từ 1995 đến 2004
2.2.1. Quá trình triển khai cổ phần hóa
Từ năm 1990 đến nay, theo chủ trương của Chính phủ, tỉnh Khánh Hoà đã
thực hiện 3 đợt sắp xếp các DNNN. Đợt thứ nhất từ năm 1990 đến năm 1993;
đợt thứ hai từ năm 1994 đến năm 1997, và đợt thứ 3 từ tháng 3 /1998 đến nay.
Đợt thứ 1 (1990-1993): Đợt này chủ yếu tập trung vào việc chấn chỉnh
và tổ chức lại sản xuất, kinh doanh các doanh nghiệp quốc doanh theo Nghị
định 135/HĐBT và tiến hành thành lập, đăng ký lại, giải thể doanh nghiệp
quốc doanh theo Nghị định số 388/HĐBT. Mục tiêu của đợt sắp xếp này là rà
soát lại số lượng DNNN đã được thành lập trước đó, đăng ký lại ngành nghề
kinh doanh. Kết quả đã thành lập được 140 DNNN. Các DNNN được sắp xếp
trong đợt này đã bước đầu tạo được động lực mới trong hoạt động sản xuất,
kinh doanh và hình thành cơ chế kiểm soát có hiệu quả hơn của cổ đông và
người lao động đối với DN; bước đầu tiết kiệm được chi phí, năng suất lao
động tăng, một số DN đã đầu tư thêm máy móc, thiết bị, đổi mới công nghệ,
mở rộng ngành nghề, tăng cường liên doanh, liên kết...
Đợt thứ 2 (1994- 1997): Thực hiện Chỉ thị 500/ TTg của Thủ tướng Chính
phủ về tiếp tục sắp xếp các DNNN với mục tiêu đưa các DNNN đi vào hoạt động
54
theo Luật Doanh nghiệp nhà nước; phân định tương đối rõ chức năng của cơ quan
quản lý nhà nước; xác định quyền chủ động sản xuất, kinh doanh cho DNNN; bổ
sung đủ 30% vốn lưu động cho những DNNN làm ăn có hiệu quả...
Đợt thứ 3 (từ 1998 đến nay): Đẩy mạnh việc sắp xếp và đổi mới DNNN
theo Chỉ thị số 20/ 1998/ CT- TTg ngày 21/ 4 /1998 của Thủ tướng Chính phủ
về đẩy mạnh sắp xếp và đổi mới DNNN; Nghị định số 44/ 1998/NĐ - CP
ngày 26/6/1998 về việc đổi mới DNNN thành công ty cổ phần; Nghị định số
103/1999/NĐ-CP về giao, bán, khoán, kinh doanh và cho thuê DNNN. Mục
tiêu của đợt này là tăng năng lực, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
DNNN, làm cho DNNN thực sự giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế tỉnh.
Phân loại và xác định danh mục DNNN, trong đó chỉ rõ loại DNNN nào mà
Nhà nước nắm giữ 100% vốn, loại DN nào thực hiện CPH, bán mà không chờ
tự nguyện đăng ký CPH. Cụ thể:
Ngày 12/1/1999 sau khi xin ý kiến của Thường trực Tỉnh uỷ và UBND
tỉnh, UBND tỉnh đã ra quyết định phê duyệt phương án CPH tại 3 DN thuộc
diện không cần giữ 100% vốn nhà nước, bao gồm: Công ty Du lịch Thắng
Lợi, Công ty Chế biến lâm thuỷ sản và Công ty Muối Cam Ranh để hình
thành 3 công ty cổ phần. Như vậy, mãi đến năm 1999, Khánh Hoà mới CPH
được 3 DNNN. Với DN Công ty Du lịch Thắng Lợi do lúc đó có quá nhiều
thủ tục nên từ khi tiến hành làm thí điểm cho đến khi ra đời công ty cổ phần,
đã mất nhiều thời gian nghiên cứu và chuẩn bị - đến ngày 2/2/1999 mới bắt
đầu đăng ký kinh doanh. Trong năm 1999, đối với 3 DN CPH này, Nhà nước
không giữ vốn; trong cơ cấu vốn điều lệ chỉ có người lao động giữ 58% vốn,
cá nhân ngoài DN giữ 42% vốn. Sau cổ phần hóa, hoạt động sản xuất, kinh
doanh của các doanh nghiệp tăng, doanh thu, lợi nhuận, lương bình quân, lợi
tức đều tăng khá cao, do đó đã thu hút được nguồn vốn đáng kể trong các bộ
phận công nhân viên tại doanh nghiệp và ngoài xã hội, tạo được động lực
trong quản lý và phát huy tốt hơn tính tích cực sáng tạo của người lao động.
55
Riêng Công ty Du lịch Thắng Lợi là đơn vị trước CPH đang làm ăn có hiệu
quả nhưng sau khi CPH thì kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh không
cao.
Năm 2000, cả tỉnh Khánh Hoà chỉ CPH thêm được 4 DN, đó là Dịch vụ ô tô
Cam Ranh, TNHH Gỗ Lương Sơn, Xây dựng Ninh Hoà và Chế biến gỗ Cam
Ranh.
Năm 2001, tốc độ CPH tăng lên đáng kể. Hết qúy I năm 2001, tỉnh đã
đưa ra kế hoạch tiếp tục hoàn thành thủ tục cổ phần hóa 5 doanh nghiệp và 3
doanh nghiệp trình Chính phủ phê duyệt; đến tháng 7/ 2001 thì hoàn thành.
Trong năm 2001, Khánh Hoà CPH thêm 11 DN, nâng tổng số DN đã CPH là
18 DN và tốc độ đó được giữ mãi.
Mặc dù tiến trình cổ phần hóa đã được đẩy mạnh nhưng vẫn còn chậm so
với kế hoạch. Việc thực hiện “chế độ ưu đãi về thuế, chế độ cho người lao
động, công tác Đảng, công đoàn trong các doanh nghiệp đã cổ phần hóa vẫn
còn nhiều vướng mắc cần được tháo gỡ trong thời gian tới” [23].
Hết năm 2001, tỉnh đã quyết định chuyển Công ty Xe khách Khánh Hòa
thành công ty cổ phần và trên thực tế, đến thời điểm đó, Khánh Hòa đã cổ
phần hóa được 18 doanh nghiệp, bán 2 doanh nghiệp cho người lao động,
giao 01 doanh nghiệp cho người lao động, giải thể 13 doanh nghiệp làm ăn
thua lỗ, sáp nhập 12 doanh nghiệp thành 6 doanh nghiệp, đang tiến hành cổ
phần hóa 6 doanh nghiệp.
Trong quá trình thực hiện cổ phần hóa, đối với các doanh nghiệp tự
nguyện đề nghị cổ phần hóa thì thời gian hoàn tất khá nhanh, các giám đốc
doanh nghiệp nhà nước trước đây đều được cổ đông tín nhiệm bầu vào hội
đồng quản trị và ban giám đốc công ty cổ phần...
Năm 2002, tỉnh Khánh Hoà đã trình và được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt “Phương án tổng thể sắp xếp, đổi mới DNNN trực thuộc UBND tỉnh
56
Khánh Hoà giai đoạn 2003-2005”. Trong tổng số DNNN còn lại, có 22 DN
mà Nhà nước tiếp tục giữ 100% vốn; 2 DN CPH một bộ phận; 19 DN thực
hiện CPH mà Nhà nước giữ cổ phần ở mức chi phối; 10 DN thực hiện CPH
mà Nhà nước giữ cổ phần ở mức thấp hoặc không giữ cổ phần; 1 DN thực
hiện bán, giao cho người lao động theo Nghị Định 103/NĐ-CP.
TT
Tên doanh nghiệp
Thời điểm
Độc lập/ bộ phận
Vốn nhà nước
Lao động
I Năm 2004
1 Công ty Xây dựng thuỷ lợi
3.907
56 Xong PA CP 10/04
/
2 Công ty Xây dựng giao thông
13.931
275 Xong PA CP 10/04
/
3 Công ty Đô thị Cam Ranh
14.901
115 Xong PA CP 10/04
/
4 Công ty Đô thị Ninh Hoà
10.783
67 Xong PA CP 10/04
/
5 Công ty Đô thị Vạn Ninh
10.780
41 Xong PA CP 10/04
/
6 Công ty Xây dựng
5.626
700 Xong PA CP 10/04
/
7 Công ty Đầu tư du lịch
5.980
94 Xong PA CP 10/04
/
8 Công ty Cung ứng tàu biển
12.443
320 Xong PA CP 11/04
/
9 Công ty Cơ khí
8.712
73 Xong PA CP 11/04
/
10 Công ty Nước khoáng
12.737
362 Xong PA CP 11/04
/
11 Công ty Du lịch Long Phú
2.049
127
/
12 Nhà máy Dệt Tân Tiến
106.765
295
/
13 Xí nghiệp KT & DV thuỷ sản
6.398
415 Xong PA CP 11/04
/
14 Xí nghiệp Chế biến hạt điều Bộ phận
2.308
350 Xong PA CP 11/04
15 Nhà máy Đường Ninh Hoà
Đang làm kiểm toán
/
16 Công ty Điện ảnh
Độc lập Đã chuyển thành đơn vị sự nghiệp
17 Công ty Quản lý cảng cá
/
có thu hoạt động theo Nghị định10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 của Chính phủ
18 Công ty Đô thị Diên Khánh
/
II Năm 2005
1 Công ty QL & SC giao thông Độc lập
5.930
300
Bảng 2: Kế hoạch CPH DNNN cuối năm 2004 và trong năm 2005
57
2 Công ty Môi trường & Đô thị
24.105
600
/
3 Công ty Dịch vụ vận tải
/
6.936
96
4 Công ty Kinh doanh nhà
/
60.216
85
5 Xí nghiệp In
/
1.365
131
6 Trạm Đăng kiểm phương tiện
/
2.709
23
7 Nhà máy Đường Cam Ranh
Bộ phận
Đang làm kiểm toán
Nguồn: Ban Đổi mới và phát triển DN Khánh Hoà
Đánh giá chung: Mặc dù số lượng DN CPH chưa nhiều, tốc độ diễn ra
trong các năm không đều, nhưng hầu hết các DNNN sau khi chuyển đổi sở
hữu ở Khánh Hòa đã đi vào hoạt động ổn định và đạt hiệu quả kinh tế cao.
2.2.2. Kết quả quá trình cổ phần hóa
Đến nay, Khánh Hoà vẫn tiếp tục đổi mới, phát triển, sắp xếp lại DNNN.
Nhìn chung, kết quả của 3 đợt sắp xếp, đổi mới trên là tích cực: năng lực và hiệu
quả sản xuất, kinh doanh của các DNNN, của các công ty cổ phần đều tăng; tiếp
nhận thêm lao động; đời sống của người lao động được cải thiện.
Đối với DNNN: Việc sản xuất, kinh doanh đã cơ bản chuyển sang hoạt
động theo cơ chế thị trường, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hạch toán kinh
doanh; được giao vốn và tự chủ sử dụng vốn cũng như các quỹ để kịp thời
phục vụ nhu cầu sản xuất, kinh doanh theo nguyên tắc bảo toàn và phát triển,
bước đầu đa dạng hoá các nguồn vốn để sản xuất, kinh doanh; được quyền
chủ động tổ chức bộ máy quản lý, tuyển chọn, đào tạo, sử dụng lao động theo
quy định của pháp luật. Nhiều DNNN thích ứng được và hoạt động có hiệu
quả trong cơ chế mới, làm ăn có lãi; trình độ công nghệ và quản lý có nhiều
tiến bộ; vốn được bảo toàn và tăng thêm. Tính riêng năm 2003, các DNNN
của tỉnh thực hiện được 5.596 tỉ đồng doanh thu, tăng 33% so với năm 2002;
tổng lãi 160 tỉ đồng, tăng 8,1% so với năm 2002; thực nộp ngân sách 962 tỉ
đồng, chiếm 622% tổng thu nội địa của tỉnh, tăng 44% so với năm 2002.
58
DNNN là lực lượng nòng cốt trong tăng tưởng kinh tế của Khánh Hoà, góp
phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế tỉnh.
Các DNNN sau khi được sắp xếp đã được đầu tư thêm vốn. Trong hơn 10
năm qua, nguồn vốn chủ sở hữu tăng thêm 4,5 lần; riêng năm 2003, ngân sách đã
cấp bổ sung cho các DNNN từ Quỹ sắp xếp DN trên 40 tỉ đồng. Do đó, vai trò,
vị thế của DNNN trong nền kinh tế của tỉnh ngày càng được củng cố. Nhiều sản
phẩm của DNNN đã và đang chiếm lĩnh thị trường trong và ngoài nước.
Đối với công ty cổ phần: Đến hết quý I năm 2005, toàn tỉnh đã CPH
được 51 DN và bộ phận (xem phụ lục 1). Việc chuyển đổi DNNN sang CTCP
đã tạo ra động lực mới trong sản xuất, kinh doanh và hình thành cơ chế kiểm
soát có hiệu quả hơn của cổ đông và người lao động đối với DN, tiết kiệm
được chi phí quản lý, năng xuất lao động tăng, hạ giá thành sản phẩm, hiệu
quả sản xuất, kinh doanh tăng, vốn điều lệ, doanh thu, nộp ngân sách... nhìn
chung đều tăng; lợi ích của DN, của Nhà nước được bảo đảm. Một số DN đã
đầu tư thêm máy móc, thiết bị; tăng cường liên doanh, liên kết nên năng lực,
hiệu quả sản xuất, kinh doanh tăng lên đáng kể. Tiêu biểu là các công ty cổ
phần : Phụ liệu may Nha Trang, Thuỷ sản Cam Ranh, Chế biến lâm thuỷ sản,
Vật tư thiết bị giao thông... Năm 2003, chỉ tính riêng 19 DN đã CPH trên 2
năm, bình quân lợi nhuận trước thuế trên vốn điều lệ đạt 24,5%; cổ tức được
chia bình quân là 12,6%/ năm, cá biệt có DN cổ tức được chia xấp xỉ
50%/năm (năm 2002 cá biệt là 40%/năm ).
59
Nộp ngân sách
Tên doanh nghiệp A
Vốn điều lệ 2 1
Doanh thu 4 3
5
6
Doanh nghiệp cổ phần hoá Du lịch Thắng Lợi Chế biến Lâm Thủy sản Muối Cam Ranh * Dịch vụ ô tô Cam Ranh Thương mại vật liệu khí đốt Vật tư Khánh Hoà Vật tư nông nghiệp Chế biến gỗ Việt Đức Xe khách Thuỷ sản Cam Ranh Phụ liệu may Vật liệu TB & XD giao thông Xe hàng Muối Khánh Hoà Khách sạn Hữu Nghị Xây lắp điện Trà Long Điện tử - ảnh màu May Khánh Hoà Chế biến th. phẩm Ninh Hoà Tư vấn kiến trúc & xây dựng Xây lắp & vật liệu xây dựng Sách & thiết bị trường học Bao bì Đông á Bao bì 3 tháng 2 Phát hành sách Tư vấn xây dựng Thuỷ lợi Tư vấn xây dựng giao thông Dịch vụ ô tô điện máy Doanh nghiệp bán, giao TNHH gỗ Lương Sơn Chế biến gỗ Cam Ranh Xây dựng Ninh Hoà Chế biến thực phẩm Vạn Ninh Xi măng Hòn Khói
2.131 3.125 3.100 2.131 2.270 16.000 27.000 2.270 1.932 1.603 1.733 1.932 14.625 11.845 3.296 3.296 4.000 120.000 160.000 4.000 1.092 1.092 4.700 4.700 2.800 2.800 3.500 3.500 10.182 10.182 18.000 21.500 2.241 2.241 1.250 1.250 17.111 17.111 1.550 1.550 1.500 1.500 1.380 1.380 2.900 2.900 4.200 1.582 2.000 4.663 1.200 12.000 12.000 2.900 2.900 1.400 1.400 1.100 1.100 1.400 1.400 1.600 1.600 1.009 1.009 344 344 2.080 400 1.454 1.454 4.200 4.200
/ 54.000 43.469 12.774 17.090 15.975 15.773 77.798 111.248 52.000 48.000 22.124 9.448 30.400 33.548 27.600 25.900 1.842 2.000 6.855 3.468 2.450 2.150 7.800 10.400 18.185 8.531 4.195 4.049 6.006 5.387 23.670 23.433 15.500 14.000 25.000 19.800 11.621 12.030 24.290 18.570 2.800 2.606 4.300 5.800 8.200 7.000 2.445 1.524 364 667 11.201 2.500 1.710 1.998 20.00 17.000
526 200 6 361 290 642 Không 255 121 800 1.202 5.200 722 1.800 865 163 148 106 62 145 241 367 533 100 748 674 443 318 660 367 120 44 125 138 1.000
420 800 56 490 1.034 13 270 166 908 434 5.700 756 1.200 1.254 265 152 76 197 692 197 506 632 120 874 648 744 325 450 400 19 54 560 41 1.200
Bảng 3: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh sau cổ phần hoá
60
Nguồn: Ban Đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước tỉnh Khánh Hòa
Ngoài ra còn có những kết quả khác như:
- Số lao động cũng như thu nhập của người lao động đều tăng. Số lao
động bình quân của các công ty cổ phần năm 2002 là 4.539 người. Thu nhập
bình quân của người lao động tại các CTCP năm 2002 là 903.000 đồng/
người/tháng, tăng 24% so với năm 2001, thì đến năm 2003 bình quân là 1
triệu đồng/ người/ tháng, tăng 11% so với năm 2002. Những công ty cổ phần
có mức thu nhập bình quân của người lao động đạt khá như: Công ty Tư vấn
kiến trúc và xây dựng Khánh Hòa (3.350.000 đồng/người/tháng); Công ty
Sách và thiết bị trường học (2.800.000 đồng/người/tháng); Công ty Vật liệu
thiết bị và xây dựng giao thông (1.450.000 đồng/người/tháng)...
Tên doanh nghiệp
Lợi nhuận
Lao động
Thu nhập
Cổ tức 7
A
1
2
3
4
5
6
Doanh nghiệp cổ phần hoá
Du lịch Thắng Lợi
200
470
65
50 1.100.000
900.000 15,0
Chế biến Lâm Thủy sản
700 2.800
494
632
750.000 1.050.000 45,0
Muối Cam Ranh
580
636
46
364.017
949.842 31,9
58
Dịch vụ ô tô Cam Ranh
159
485
32 1.150.000 1.200.000 12,0
36
Thương mại vật liệu khí đốt
208
963
800.000 1.500.000 18,0
76
86
Vật tư Khánh Hoà
Không
45
650.000
850.000
1,8
28
28
Vật tư nông nghiệp
264
320
570.000
800.000
4,0
97
80
Chế biến gỗ Việt Đức
831
222
282
784.800
460.100 19,0
606
Xe khách
772
265
225 1.000.000 1.100.000 12,0
636
Thuỷ sản Cam Ranh
3.668 3.998
263
450 1.756.000
970.000 26,0
Phụ liệu may
4.300 7.400
589
680 1.000.000 1.050.000 23,0
Vật liệu TB & XD giao thông
200 1.550
128
132
658.000 1.450.000 25,0
Xe hàng
541
300
375
323 1.020.000 1.000.000 12,0
Muối Khánh Hoà
1.900 5.300
772
713
844.000
733.000 20,0
Bảng 4: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh sau cổ phần hoá
61
10 Không
53
Khách sạn Hữu Nghị
46 1.000.000
875.000 Không
222
234
40
Xây lắp điện
30
700.000
850.000 10,0
31
64
33
Trà Long
32
750.000
820.000
3,6
62
615
42
Điện tử - ảnh màu
56
740.000
970.000 15,0
May Khánh Hoà
152 1.223
580
663
582.000
707.000 12,0
218
91
56
Chế biến th. phẩm Ninh Hoà
56
603.000
780.000
3,6
348
542
83
Tư vấn kiến trúc & xây dựng
95 2.770.000 3.350.000 12,0
976
934
41
Xây lắp & vật liệu xây dựng
42
800.000
850.000 20,0
250
270
18
Sách & thiết bị trường học
18 2.600.000 2.800.000 12,0
Bao bì Đông á
1.084 1.298
159
169 2.000.000 2.000.000 12,0
145
Bao bì 3 tháng 2
74
122
123 1.352.000 1.018.300 24,0
271
Phát hành sách
352
102
102 1.876.000 1.524.000 18,0
318
330
52
Tư vấn xây dựng Thuỷ lợi
55 2.150.000 2.200.000 18,0
368
230
88
Tư vấn xây dựng giao thông
85 1.100.000 1.200.000 12,0
350
Dịch vụ ô tô điện máy
415
102
105
850.000
900.000 15,0
Doanh nghiệp bán, giao
-271
45
35
TNHH gỗ Lương Sơn
434.787
770.682 Không
16
6
16
12
Chế biến gỗ Cam Ranh
450.000
600.000
4,4
25
11
11
Xây dựng Ninh Hoà
Không
403
300.000
700.000 15,0
24
Chế biến thực phẩm Vạn Ninh Không
6
24 1.051.000
867.100
1,0
Xi măng Hòn Khói
Không
600
281
303
900.000 1.100.000 12,6
Nguồn: Ban Đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước tỉnh Khánh Hòa
Sau khi DN chuyển đổi hình thức sở hữu, do nhu cầu phải sắp xếp lại lao
động hoặc do người lao động xin thôi việc... các công ty cổ phần đều giải
quyết đúng chế độ hiện hành. Đến cuối năm 2003, tỉnh Khánh Hoà đã giải
quyết chế độ theo Nghị định 41/2002/NĐ-CP ngày 14/4/2002 của Chính phủ
cho 73 lao động xin thôi việc với số tiền trợ cấp là 1.250 triệu đồng.
- Tinh thần, thái độ của người lao động có cổ phần trong công ty từng
bước được nâng cao. Người lao động ngoài thu nhập từ tiền lương hàng tháng
62
còn nhận được lợi tức cổ phần căn cứ vào số lượng cổ phần của mình trong
công ty. Do đó, họ quan tâm hơn đến năng xuất và hiệu quả công việc mà bản
thân họ đảm trách.
- Hoạt động của ban kiểm soát và hội đồng quản trị thể hiện được vai trò
của người chủ sở hữu và là người giám sát việc điều hành và sử dụng tài sản,
tiền vốn, chi phí của DN. Từ đó, thúc đâỷ việc tiết kiệm chi phí, sử dụng vốn
và tài sản một cách hợp lý cho công ty.
- Do xác định đúng tầm quan trọng cũng như hướng đầu tư cho sản xuất,
kinh doanh nên đến nay nhiều DN đã tự vươn lên khẳng định được mình.
Thậm chí, nhiều công ty cổ phần có vốn của Nhà nước rất ít hoặc không còn
so với trước khi CPH.
2.2.3. Một số hạn chế và nguyên nhân
Mặc dù đã đạt được nhiều thành quả như trên, nhưng do công tác tuyên
truyền chủ trương, mục tiêu cổ phần hóa còn yếu và chưa đồng bộ. Nên nhiều
doanh nghiệp có trong kế hoạch cổ phần hóa còn chờ đợi, chưa tí ch cực triển
khai vận động, do đó còn nhiều hạn chế:
- Việc quán triệt chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về đổi mới
sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước cho các cấp Uỷ Đảng, chính quyền, đặc biệt
là các doanh nghiệp chưa triệt để, sâu rộng. Một số sở, ban, ngành, chưa coi
trọng công tác này nên thiếu sự phối hợp, chỉ đạo các doanh nghiệp thực hiện.
- Một số lãnh đạo ở doanh nghiệp được sắp xếp sợ ảnh hưởng đến lợi ích
cá nhân sau sắp xếp, nên thiếu tích cực, thậm chí cản trở tốc độ chuyển đổi. Bên
cạnh đó, nhiều giám đốc DN không muốn chuyển sang CTCP, vì họ cho rằng
CPH chưa thật sự tạo ra động lực mới đối với giám đốc DN (do khống chế về tỷ
lệ cổ phần mà giám đốc DN được mua; tỷ lệ ưu đãi do công nhân nắm giữ còn
manh mún, nên chưa tạo được vị thế mới cho người lao động); trách nhiệm của
giám đốc DN trong CTCP nặng nề hơn nhưng lại bị giám sát chặt chẽ hơn, gò bó
hơn.
63
- Một số doanh nghiệp được sắp xếp, chuyển đổi theo Nghị định
44/1998/NĐ - CP ngày 29/06/1998 còn thiếu những ràng buộc cần thiết nên
ngay sau khi chuyển đổi đã có hiện tượng mua gom cổ phần vào một số ít cá
nhân.
- Đối với doanh nghiệp thì được xét giảm thuế lợi tức( đến mức 50%)
trong 1-2 năm đầu khi doanh nghiệp chuyển sang công ty cổ phần, còn đối
với công nhân viên chức, Nhà nước sẽ hỗ trợ về mặt tài chính bằng hai khoản
cho vay không lấy lãi hoặc vay với lãi xuất ưu đãi.Tuy nhiên, người lao động
trong các doanh nghiệp còn nghèo, không đủ tiền để mua hết số cổ phần ưu
đãi; số cổ phần phổ thông của người lao động “tập trung trong tay một nhóm
người”, do đó, biến người lao động thành người làm thuê...
- Việc đánh giá tài sản cần cổ phần hóa còn có nhiều hạn chế. Cụ thể,
doanh nghiệp vừa là người mua, vừa là người bán, người tham gia định giá tài
sản, tổ chức bán cổ phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp... cho nên có khi chỉ
bán cổ phần cho nội bộ, ít bán ra ngoài.
- Tốc độ tăng tiền lương chưa tương xứng với mức tăng cổ tức, trong lúc
đó người lao động đa số là nghèo phải vay ngân hàng, nên lượng cổ phần mua
được ít, dẫn đến thu nhập từ cổ tức không đáng kể.
* Nguyên nhân của những hạn chế:
Những tồn tại, yếu kém của doanh nghiệp nhà nước nói chung, công tác
cổ phần hoá nói riêng do những nguyên nhân chủ yếu sau đây :
- Nhận thức chưa thống nhất, chưa đầy đủ về vai trò của doanh nghiệp
nhà nước, nhất là vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong tổng thể nền kinh tế
tỉnh. Mặt khác, nhận thức về những chủ trương đổi mới, sắp xếp doanh nghiệp
Nhà nước chưa thống nhất, chưa đầy đủ; còn coi trọng số lượng hơn chất lượng
và hiệu quả của doanh nghiệp Nhà nước sau khi sắp xếp. Các cấp, các ngành của
tỉnh chưa quan tâm đúng mức, thiếu kiên quyết trong chỉ đạo, thực hiện.
64
- Tư tưởng và nhận thức về công tác cổ phần hoá của lãnh đạo, người lao
động còn nhiều hạn chế:
Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương lớn, nhưng các
văn bản chỉ đạo chưa rõ ràng, chưa đủ tầm cỡ về mặt pháp lý, hơn nữa trong
nhận thức và hành động thì các cấp, các ngành, cơ quan đoàn thể nói chung
chưa quán triệt hết sự cần thiết phải chuyển một bộ phận doanh nghiệp nhà
nước sang công ty cổ phần. Bên cạnh những tư tưởng tiến bộ thì vẫn còn có
những quan điểm cho rằng: Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là mất quyền
sở hữu tư liệu sản xuất của nhà nước, mất kinh tế nhà nước, có nguy cơ đi
chệch hướng xã hội chủ nghĩa, do đó e ngại, chần chừ trong quá trình cải cách
cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trong đó có chủ trương chuyển một bộ phận
doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần.
- Có những vướng mắc về cơ chế, chính sách của Nhà nước trong sắp
xếp đổi mới doanh nghiệp: thiếu đồng bộ, còn mâu thuẫn.. nhưng chưa được
bổ sung, sửa đổi, xử lý kịp thời; chưa cụ thể hoá vào điều kiện thực tế của địa
phương, gây nhiều lúng túng, chậm trễ trong tổ chức thực hiện, nổi rõ là :
+ Chính sách tài chính, tín dụng tuy đã được sửa đổi, bổ sung nhưng còn
nhiều điểm chưa phù hợp với doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh
trong cơ chế thị trường.
+ Chưa tạo đủ điều kiện thuận lợi, đồng thời chưa đòi hỏi đúng mức để
doanh nghiệp nhà nước tự chủ, tự chịu trách nhiệm, năng động trong sản xuất,
kinh doanh, tích tụ vốn cho đầu tư đổi mới công nghệ. Việc giao vốn cho
doanh nghiệp nhà nước vẫn còn theo phương thức hành chính, chưa gắn với
nghĩa vụ, quyền lợi rõ ràng: nhà nước giao vốn và quyền tự chủ kinh doanh
cho giám đốc, nhưng chưa ràng buộc trách nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn,
hiệu quả sản xuất kinh doanh. Khi DN làm ăn thua lỗ, mất vốn, giám đốc
không chịu trách nhiệm đền bù, ngược lại chưa có chính sách đãi ngộ vật chất
65
thoả đáng cho những giám đốc, doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả,
bảo toàn và phát triển được vốn.
+ Chính sách thuế tuy được bổ sung, sửa đổi nhưng vẫn còn bất cập như
chưa ổn định, chưa chú trọng đầy đủ đến việc nuôi dưỡng nguồn thu và thúc
đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tích luỹ
vốn. Một số quy định của chính sách thuế đã tạo nên cơ chế xin cho đối với
doanh nghiệp và còn có kẽ hở tạo nên tình trạng bất bình đẳng giữa các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
+ Chế độ kế toán chưa tạo điều kiện và buộc doanh nghiệp nhà nước
hoạch toán đúng kết quả kinh doanh, phương pháp tính giá thành còn tuỳ tiện,
do đó giá thành của sản phẩm DNNN chưa phản ánh đủ chi phí thực tế, mặt
khác các doanh nghiệp còn phải chịu thêm không ít chi phí đáng ra không
được tính trong giá thành, vì vậy việc đánh giá hiệu quả sản xuất, kinh doanh
của nhiều DNNN chưa chính xác.
+ Chế độ phân phối thu nhập chưa tạo được động lực mạnh mẽ, kể cả đối với
cán bộ quản lý lẫn người lao động. Chính sách tiền lương và phân phối lợi nhuận
còn bất hợp lý, mang tính bình quân nên không tạo động lực thúc đẩy giám đốc,
người lao động, đặc biệt là những lao động có tay nghề cao trong doanh nghiệp ,
tìm biện pháp tăng năng suất lao động, hiệu quả sản xuất, tăng lợi nhuận.
+ Việc phân cấp, giao quyền quyết định đầu tư cho doanh nghiệp chưa
phù hợp, không gắn với trách nhiệm và chưa có cơ chế kiểm soát để đầu tư có
hiệu quả. Người quyết định đầu tư không chịu trách nhiệm khi phương án đầu
tư không có hiệu quả.
- Quản lý nhà nước còn nhiều vướng mắc, chủ yếu là chưa phân định rõ
được quyền quản lý của nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước; quyền của cơ
quan nhà nước với tư cách là chủ sở hữu; quyền của chủ đại diện sở hữu trực tiếp
doanh nghiệp; quyền sử dụng vốn và quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp .
66
- Chính sách của Nhà nước trong CPH còn nhiều bất cập. Ví dụ, Nghị
định 44/1998/NĐ-CP và Nghị định 64/NĐ-CP.2002 quy định quyền được
mua cổ phần lần đầu đối với cá nhân không quá 5-10%; đối với một pháp
nhân không quá 10-20% đã làm hạn chế khả năng mua cổ phần của người lao
động trong doanh nghiệp và ngoài xã hội. Thực tế chứng minh rằng, tại các
doanh nghiệp mà cán bộ quản lý mua nhiều cổ phần thì công nhân trong
doanh nghiệp và người đầu tư ngoài doanh nghiệp mới tin tưởng, yên tâm bỏ
vốn mua cổ phần...
- Về phía tỉnh: Các thao tác cụ thể còn nhiều thiếu sót, chẳng hạn như
các văn bản mang tính pháp quy về cổ phần hóa vẫn có nhiều điểm hạn chế,
một số nội dung chỉ đạo còn chung chung, nên khi đi vào cụ thể thì không xử
lý được, phải chờ xin ý kiến. Việc phân công trách nhiệm phạm vi xử lý của
các cấp, các ngành còn thiếu cụ thể.
Hơn nữa, việc tổ chức và chỉ đạo thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp
nhà nước còn bị phân tán ở nhiều khâu, nhiều cấp nên mất nhiều thời gian, lại
khó xác định trách nhiệm. Một số sở, ngành và các doanh nghiệp nhà nước
còn chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa của chủ trương chuyển đổi sở hữu; họ lo
ngại chủ trương đó sẽ bị ảnh hưởng đến quyền lợi hoặc chưa thực sự yên tâm
về hiệu quả của DN sau CPH. Do đó họ chần chừ, né tránh, sợ trách nhiệm, e
ngại chệch hướng, có ý chờ chế độ mới của nhà nước về cổ phần hoá và
chuyển đổi sở hữu.
Việc tổ chức chỉ đạo thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước của
nhiều sở, ban, ngành thiếu dứt khoát, và do vậy dẫn đến tình trạng có những
doanh nghiệp đã tiến hành xác định giá trị doanh nghiệp nhưng lại chưa thực
hiện cổ phần hoá.
Huy động vốn toàn xã hội là mục tiêu chủ yếu của cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước nhưng tỷ lệ cổ phần dành cho xã hội còn thấp. Việc tuyên
67
truyền phổ biến chủ trương cổ phần hoá chưa được tiến hành sâu rộng trong
công nhân viên chức của doanh nghiệp.
- Công thức tính giá trị thực tế phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp bằng
giá trị thực tế của doanh nghiệp trừ đi nợ thực tế phải trả và số dư quỹ phúc
lợi khen thưởng.
Đây là phương pháp định giá trị doanh nghiệp hiện nay, nó kế thừa
những ưu điểm của các phương pháp trước đây, đồng thời có những bổ sung
cần thiết. Có thể nói phương pháp định giá hiện nay được xây dựng trên cơ sở
kết hợp giữa phương pháp “giá trị tài sản ròng” là giá trị thị trường của vốn
chủ sở hữu bằng giá trị thị trường của tài sản trừ đi giá trị của công nợ và
phương pháp “định giá theo khả năng sinh lợi của tài sản mang lại”. phương
pháp hiện nay cho phép loại trừ ra khỏi giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá
những tài sản thuộc đối tượng chờ thanh lý không cần đến, các khoản công nợ
khó đòi. Tuy nhiên, phương pháp đánh giá doanh nghiệp hiện nay vẫn có
những bất cập, đó là:
+ Phương pháp xác định giá trị hiện hành là duy nhất do vậy không có
công cụ kiểm chứng tính xác thực, tính toàn diện của kết quả tính toán. hơn
nữa quan niệm về cấu thành giá trị doanh nghiệp chưa hợp lý. Theo phương
pháp xác định giá trị hiện hành, giá trị doanh nghiệp bằng tổng giá trị tài sản
hữu hình, vô hình và lợi thế doanh nghiệp nằm ngoài giá trị tài sản vô hình của
doanh nghiệp. Hiện nay phương pháp định giá doanh nghiệp chủ yếu dựa vào sổ
sách kế toán mà không căn cứ vào thị trường, do đó không phản ánh đúng giá trị
doanh nghiệp với giá trị thị trường mà thường thấp hơn giá trị thị trường.
+ Việc xác định thực tế của doanh nghiệp được thực hiện theo nguyên
tắc “giá trị thực tế của doanh nghiệp là giá trị toàn bộ tài sản hiện có của
doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hoá mà người mua, người bán cổ phần
đều chấp nhận được”, nguyên tắc này dường như phù hợp với nguyên tắc thị
trường song lại mang tính hình thức. Trên thực tế giữa người mua và người
68
bán cổ phần không có thoả thuận gì. Ở đây ngầm hiểu là thoả thuận chỉ được
thực hiện khi có người mua cổ phần của doanh nghiệp, nói cách khác sự thoả
thuận được chứng minh bằng việc người mua cổ phần có mua hay không mua
cổ phần. Những người tham gia mua cổ phần không trực tiếp biết nội dung và
phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp. Việc xác định giá trị doanh
nghiệp do một Hội đồng xác định, làm cơ sở xây dựng phương án cổ phần
hoá và định giá bán cổ phần cho các cổ đông. Do vậy, giá bán cổ phần vẫn
còn mang nhiều yếu tố chủ quan, không phản ánh đúng quy luật của thị
trường. Mặt khác cổ phần chủ yếu ưu tiên bán cho những người đang làm việc
trong doanh nghiệp, dẫn đến tình trạng người bán và người mua lẫn lộn.
- Đối với giám đốc doanh nghiệp: giám đốc doanh nghiệp nhà nước do
cơ quan chủ quản cấp trên bổ nhiệm, tiêu chuẩn và trình độ chưa được định
rõ. Không ít giám đốc doanh nghiệp nhà nước hiện nay chưa thích nghi với cơ
chế thị trường, chưa độc lập trong cạnh tranh vì vậy chuyển doanh nghiệp nhà
nước sang công ty cổ phần có thể các giám đốc doanh nghiệp nhà nước không
giữ được vị trí, do đó nhiều giám đốc không muốn cổ phần hóa.
- Đối với công nhân viên chức: công nhân viên chức trong DNNN
không phải góp vốn, không chịu rủi ro trong kinh doanh. Ở nhiều doanh
nghiệp “ăn nên làm ra”, ngoài phần lương được hưởng theo chức năng
công việc, người lao động còn nhận được các phần thu nhập khác (lớn hơn
lương) thông qua việc phân phối các quỹ. Khi chuyển qua công ty cổ phần,
các quyền lợi kia không còn, do đó, tâm lý không “thích” cổ phần hóa khá
phổ biến ở người lao động. Mặt khác họ chưa thông, còn luyến tiếc độ an
toàn cao về việc làm, biên chế, đảm bảo việc làm suốt đời trong các doanh
nghiệp nhà nước. Khi khó khăn, doanh nghiệp gặp rủi ro thua lỗ chưa có cá
nhân nào phải chịu trách nhiệm hoàn toàn với kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp nhà nước, trong lúc đó nếu là công ty cổ phần thì cổ đông và
người lao động phải chịu hậu quả ngay, vì vậy họ ngại mua cổ phiếu, họ lo
69
ngại cổ tức không bằng lãi suất tiền gửi tiết kiệm, nên không dám đầu tư
vào mua cổ phần, đặc biệt là cổ phần thường.
- Việc xây dựng kế hoạch sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp địa
phương sau cổ phần hóa chưa đủ sức thuyết phục đối với người lao động và
các cổ đông bên ngoài.
Mục tiêu cổ phần hóa đã được nêu một cách rõ ràng. Tuy nhiên, khi xây
dựng phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa
chưa có tính thuyết phục các nhà đầu tư cổ phẩn, đặc biệt là kế hoạch đầu tư
chiều sâu, đổi mới công nghệ, mở rộng và phát triển sản xuất, huy động
nguồn lực, nội dung nâng cao chất lượng sản phẩm truyền thống, mặt hàng và
luận chứng về thị trường tiêu thụ sản phẩm trong và ngoài nước chưa có cơ sở
chắc chắn, do đó người lao động trong doanh nghiệp cũng như nhà đầu tư cổ
phiếu không an tâm mua cổ phần.
2.3. Những vấn đề đặt ra để thúc đẩy quá trình cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nƣớc ở Khánh Hòa
Mặc dù đã đạt được một số kết quả quan trọng trên tất cả các lĩnh vực
như đã trình bày ở trên, nhưng để quá trình Cổ phần hoá ở Khánh Hoà diễn ra
nhanh chóng, thuận lợi thì tỉnh phải giải quyết một cách thoả đáng những vấn
đề bức xúc trong quá trình thực hiện Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước.
Thứ nhất, một số công ty cổ phần còn hạn chế về mức tăng trưởng trong
sản xuất, kinh doanh. Doanh nghiệp chưa quan tâm xây dựng thương hiệu sản
phẩm, sở hữu công nghiệp khiến sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường
trong nước và nước ngoài còn thấp, dẫn tới số lượng sản phẩm xuất khẩu
không đạt hiệu quả như mong muốn.
Thứ hai, việc bảo toàn và phát triển vốn ở một số doanh nghiệp nhà nước
thực hiện kém hiệu quả vẫn còn doanh nghiệp ăn dần vào vốn, mất vốn. Trừ
những đơn vị làm ăn có lãi chú trọng đầu tư thiết bị công nghệ hiện đại, nâng
70
cao chất lượng sản phẩm như: Công ty dệt Tân Tiến, Tổng công ty Khánh
Việt, Công ty cổ phần Phụ liệu may Nha Trang... hiện hàng chục doanh
nghiệp vẫn sử dụng thiết bị lạc hậu, công nghệ cũ, dẫn tới năng suất lao động
thấp, giá thành sản phẩm cao, trong khi chất lượng sản phẩm không đủ sức
cạnh tranh ngay tại thị trường trong tỉnh. Hầu hết doanh nghiệp hoạt động
bằng nguồn vốn vốn vay, lãi vay lớn càng làm giải hiệu quả sản xuất, kinh
doanh. Chỉ tính riêng năm 2003 lãi vay phát sinh phải hạch toán vào chi phí
của doanh nghiệp nhà nước là 105 tỷ đồng, gần bằng năm 2002.
Thứ ba, trình độ quản lý doanh nghiệp còn yếu, nhiều cán bộ chậm đào
tạo lại và không có điều kiện thường xuyên bồi dưỡng trình độ chuyên môn,
kỹ năng quản lý, điều hành chưa theo kịp với nền kinh tế thị trường. Bên cạnh
đó, tuy giao, bán được 34 doanh nghiệp nhưng vốn điều lệ chỉ ở mức 127 tỷ
đồng, bằng 7,5% tổng vốn sở hữu của doanh nghiệp nhà nước. Lượng vốn
Nhà nước thu về từ việc cổ phần hóa doanh nghiệp chỉ chiếm rất nhỏ so với
vốn nhà nước đầu tư cho doanh nghiệp trước đó. Đối tượng mua cổ phần phát
hành lần đầu cốt yếu là người lao động trong doanh nghiệp và chỉ bán phần
vốn nhà nước hiện nằm trong công ty mà không phát hành thêm cổ phiếu nên
nguồn vốn lớn từ bên ngoài bị bỏ ngỏ.
Thứ tư, vấn đề bức xúc nhất hiện nay của nhiều công ty cổ phần là tỉnh
chưa quy định cụ thể thời gian thuê đất cũng như việc cấp giấy chứng nhận
thuê đất của doanh nghiệp. Ngoài ra một số doanh nghiệp được sắp xếp theo
Nghị định 44/1998/NĐ-CP còn thiếu những ràng buộc cần thiết, cho nên ngay
sau khi chuyển đổi xảy ra hiện tượng mua gom cổ phiếu, tập trung vào một số
ít cá nhân, vô tình doanh nghiệp trở thành “tư nhân hóa”. Điều đó dẫn đến
tình trạng số công ty cổ phần làm ăn kém hiệu quả gia tăng. Năm 2002,
Khánh Hòa chỉ có hai công ty cổ phần thua lỗ. Năm 2003 số đơn vị kinh
doanh kém hiệu quả nâng lên bốn công ty đó là công ty TNHH Lương Sơn,
71
công ty cổ phần Vật tư nông nghiệp, Công ty cổ phần khách sạn Hữu Nghị,
Công ty cổ phần Trà Long.
Thứ năm, việc xác định giá trị của doanh nghiệp để cổ phần hóa chưa
được cơ quan quản lý cấp trên tính đến yếu tố lợi thế doanh nghiệp. Điều này
tạo nên mâu thuẫn: tuy giá trị tài sản như nhau nhưng ở vị trí khác nhau thì
sức cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp khác nhau. Cơ chế định giá còn mang
tính chủ quan, áp đặt từ “hội đồng” khiến giá trị một số doanh nghiệp nhà
nước tại thời điểm chuyển đổi không phản ánh đúng thực tế. Bên cạnh đó, còn
sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp nhà nước với công ty cổ phần trong
chính sách vay vốn, thuê đất... gây tâm lý cho những doanh nghiệp nhà nước
chưa cổ phần “ngại” chuyển đổi. Chính sách thuế có điểm bất hợp lý và thiếu
ổn định, nhất là việc coi trọng nuôi dưỡng nguồn thu bằng thúc đẩy phát triển
sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện để doanh nghiệp tích lũy vốn. Chính sách
ưu đãi thuế thiếu hấp dẫn đối với các doanh nghiệp đã cổ phần hóa.
Thứ sáu, chưa tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các loại hình
doanh nghiệp. Trong thời gian qua còn sự phân biệt giữa doanh nghiệp nhà
nước với các loại hình doanh nghiệp khác, trong đó có công ty cổ phần.
Doanh nghiệp nhà nước thường được ưu đãi hơn về quyền sử dụng đất, được
vay các Ngân hàng thương mại quốc doanh không phải thế chấp, với lãi suất
ưu đãi, được khoanh nợ, xóa nợ khi gặp rủi ro, được xét giảm, miễn thuế dễ
dàng..., khi chuyển sang hoạt động theo Luật Công ty, thì công ty cổ phần
không được hưởng “ân huệ” trên, đó là sự “thiệt thòi” và làm giảm khả năng
cạnh tranh của các công ty này.
Thứ bảy, về thị trường chứng khoán. Cổ phần hóa một số bộ phận doanh
nghiệp nhà nước và thị trường chứng khoán có mối liên hệ gắn bó với nhau,
làm tiền đề cho nhau tồn tại và phát triển. Trong những năm qua, cổ phần
DNNN ở Khánh Hòa làm chưa tốt nên cũng chưa có tiền đề để hình thành và
72
phát triển nhanh thị trường chứng khoán. Ngược lại, việc hoạt động kém sôi
động, kém hiệu quả của thị trường vốn này, đã không tạo ra sự hấp dẫn cho
những người đầu tư cổ phần.
73
Chƣơng 3
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY
QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC
CỦA KHÁNH HÒA TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Chủ trƣơng và phƣơng hƣớng của tỉnh Khánh Hoà trong thời
gian tới
Qua hơn 7 năm thực hiện Chỉ thị 20/1998/CT-TTg ngày 21/4/1998 của
Thủ tướng Chính phủ, Nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 về sắp xếp,
đổi mới quản lý doanh nghiệp, trên địa bàn tỉnh đã có những chuyển biến tích
cực.Tuy nhiên, so với kế hoạch đặt ra thì vẫn còn chậm. Để góp phần thực
hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế, xã hội, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV
nhiệm kỳ 2001-2005 đã có định hướng chỉ đạo cơ bản sau:
- Chấn chỉnh những thiếu sót trong giai đoạn cổ phần hóa trước kia của
tỉnh, tiếp tục tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và của
tỉnh về đổi mới, sắp xếp, cổ phần hóa DNNN cho cán bộ, nhân dân, nhất là
cho người lao động trong các DNNN, để giúp họ nhận thức đúng, và từ đó
mới huy động được vốn, tạo được việc làm...
- Ban cán sự Đảng, lãnh đạo các sở, ngành xây dựng phương án phân
loại và sắp xếp DNNN thuộc ngành mình quản lý theo hướng những doanh
nghiệp nào cần Nhà nước giữ 100% vốn, hoạt động theo luật DNNN để phát
huy vai trò nòng cốt, dẫn dắt trong quá trình CNH, HĐH; những doanh
nghiệp nào cần chuyển đổi cơ cấu...
- Ủy ban nhân dân tỉnh tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo các sở chủ quản,
các DNNN trong kế hoạch cổ phần hóa phải thực hiện tốt công tác đổi mới,
74
sắp xếp... và xem đây là nhiệm vụ chính trị. Kịp thời theo dõi, nắm chắc tình
hình, giải quyết vướng mắc, tạo điều kiện thuận lợi cho việc cổ phần hóa...
- Các cấp ủy đảng và lãnh đạo các doanh nghiệp cần nắm bắt những chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và của Tỉnh để thực hiện tốt vai trò hạt
nhân chính trị trong việc tuyên truyền, giáo dục cho nhân dân lao động rõ chủ
trương, chính sách đó. Đảng viên nên đi đầu, gương mẫu trong công việc này.
- Ban cán sự Đảng UBND tỉnh phối hợp với ban cán sự đảng các sở chủ
quản, đảng ủy khối doanh nghiệp... giúp Ban Thường vụ Tỉnh ủy hướng dẫn,
đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện những chủ trương, chính sách nói trên, đồng
thời đề xuất các khó khăn cần tháo gỡ trong quá trình thực hiện đổi mới quản
lý, sắp xếp và cổ phần hóa DNNN.
Chủ trương cổ phần hóa- chuyển một bộ phận DNNN thành công ty cổ
phần diễn ra tuy chậm nhưng mục tiêu này không hề thay đổi, bởi lợi ích của
nó rất rõ ràng trong việc huy động vốn cũng như tạo ra động lực, sức cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp. Đây là tư duy kinh tế đúng đắn của Đảng và Nhà
nước cũng như của tỉnh Khánh Hòa nhằm góp phần phát huy vai trò nòng cốt
của thành phần kinh tế nhà nước theo định hướng XHCN. Do đó, tỉnh Khánh
Hoà đã đề ra kế hoạch CPH cụ thể đến năm 2005 như sau:
TT
Tên doanh nghiệp
Lao động
Độc lập/ bộ phận
Vốn nhà nước
1 Công ty QL & SC giao thông
Độc lập
5.930 300
2 Công ty Môi trường & Đô thị
/
24.105 600
3 Công ty Dịch vụ vận tảI
/
6.936 96
4 Công ty Kinh doanh nhà
/
60.216 85
5 Xí nghiệp In
/
1.365 131
6 Trạm Đăng kiểm phương tiện
/
2.709 23
Bảng 5: Kế hoạch CPH DNNN trong năm 2005
75
7 Nhà máy Đường Cam Ranh
Bộ phận
Đang làm kiểm toán
Nguồn: Ban Đổi mới và phát triển DN Khánh Hoà
3.2. Các giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nƣớc của tỉnh Khánh Hoà
Sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh của các DNNN là để các DN sử dụng vốn, tài sản của Nhà nước
có hiệu quả hơn, góp phần quan trọng bảo đảm các sản phẩm dịch vụ công ích
thiết yếu của xã hội và quốc phòng, an ninh; để các DN trở thành lực lượng
nòng cốt trong việc đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế, tạo nền tảng cho sự nghiệp
CNH,HĐH đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền kinh
tế độc lập, tự chủ. CPH DNNN là một biện pháp quan trọng để đổi mới, sắp
xếp, đa dạng hoá sở hữu và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh
của các DNNN; là bước đi tất yếu trong phát triển nền kinh tế thị trường.
Để thực hiện thành công mục tiêu, kế hoạch CPH DNNN của tỉnh
Khánh Hoà trong thời gian tới, cần thực hiện một số giải pháp sau:
3.2.1. Nâng cao nhận thức lý luận và thực tiễn về vấn đề cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước ở Khánh Hoà
Nhận thức là khởi điểm cho hành động. Có nhận thức đúng, sâu sắc, triệt
để thì mới hy vọng có hành động tích cực. Do đó, để quá trình CPH DNNN ở
Khánh Hoà thành công, chúng ta phải quán triệt một cách sâu sắc đường lối,
chủ trương, chính sách và các giải pháp đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu
quả DNNN mà Đảng, Nhà nước đã đề ra, trên cơ sở đó nâng cao nhận thức lý
luận về cổ phần hoá. Thực tế cho thấy, một trong những nguyên nhân khiến
nhiều DN kéo dài việc thực hiện CPH là do chưa có sự nhất quán trong nhận
thức của không ít cán bộ quản lý doanh nghiệp. Đặc biệt, khi CPH một bộ
phận DN hoặc DN thành viên các tổng công ty, nhiều cán bộ lo ngại bị giảm
76
doanh thu, vốn, tài sản, lợi nhuận, giảm quy mô xếp hạng của công ty, tổng
công ty. [31]
CPH một số DNNN là chủ trương đúng đắn, song phải mất một thời
gian khá dài, chính thức là 5 năm, từ phác thảo đến mô hình; từ cách đặt vấn
đề đến triển khai thực hiện một cách có tổ chức, có hệ thống Khánh Hoà mới
CPH được một DNNN. Phải chăng đây là một vấn đề vừa mới mẻ, vừa phức
tạp, trong đó có phần chưa thông suốt về quan điểm, tư tưởng từ trung ương
đến địa phương, nhất là hầu hết các DNNN chưa quán triệt và thể chế hoá đầy
đủ Nghị quyết Đại hội VIII và Nghị quyết Trung ương 4 (khoá VIII) của
Đảng về CPH DNNN.
Thời gian qua, nhận thức được tầm quan trọng của bộ máy tổ chức, chỉ
đạo công tác CPH nên UBND tỉnh đã quyết định cho thành lập “Ban Đổi mới,
phát triển doanh nghiệp nhà nước” của tỉnh. Song song với việc kiện toàn và
tổ chức chỉ đạo, tỉnh phối hợp với các DNNN tăng cường, đẩy mạnh công tác
giáo dục, tuyên truyền đến từng người dân và cán bộ, công nhân viên ở các
DNNN, làm cho họ hiểu rõ mục tiêu, ý nghĩa, yêu cầu của việc sắp xếp lại
DNNN nói chung và CPH DNNN nói riêng. Việc làm này bước đầu đã giúp
các cấp, các ngành, các DN, các cán bộ chủ chốt, người lãnh đạo trong các
DN quán triệt sâu sắc và nhận thức đúng đắn về chủ trương, chính sách CPH:
nhằm sắp xếp lại một cách hợp lý về mặt tổ chức; khắc phục tình trạng phân
tán; tăng quy mô, tổ chức sản xuất - kinh doanh tập trung để tăng khả năng
cạnh tranh và phát huy vai trò chủ đạo mà không phải thôn tính, hạn chế, làm
yếu, làm mất đi cơ sở kinh tế của CNXH. Tuy nhiên, để đẩy nhanh tiến trình
CPH DNNN của Khánh Hoà trong những năm tới, Khánh Hoà phải xây dựng,
hoàn thiện hơn nữa bộ máy tổ chức và chỉ đạo, qua đó tăng cường công tác
tuyên truyền, giáo dục mọi người dân, nhất là người lao động trong các DNNN
thuộc diện chuyển đổi sở hữu, về ý nghĩa, mục đích, sự cần thiết của CPH nhằm
nâng cao nhận thức lý luận về vấn đề cổ phần hoá. Thực tế cho thấy, ở DN nào
77
có sự nhận thức tốt về mục đích, ý nghĩa ... của CPH thì ở đó tiến trình CPH diễn
ra nhanh , hiệu quả.
Để nâng cao nhận thức lý luận về CPH DNNN, quán triệt sâu sắc đường
lối, chủ trương, chính sách và các giải pháp đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu
quả DNNN mà Đảng, Nhà nước đã đề ra thì Khánh Hoà phải thực hiện thực
sự hiệu quả việc tuyên truyền. Có nhiều biện pháp, cách thức tăng cường công
tác tuyên truyền. Chẳng hạn:
- Phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng như: Đài phát thanh
và truyền hình, báo, tạp chí và các phương tiện thông tin đại chúng khác của tỉnh.
- Tổ chức hội thảo khoa học giữa các nhà kinh tế, các nhà quản lý với
người lao động về những vấn đề liên quan đến cơ sở lý luận và thực tiễn của
CPH; trao đổi kinh nghiệm với các địa phương khác để học hỏi cách thức
thực hiện cho hiệu quả. Tổ chức tổng kết tình hình các DN đã chuyển đổi cơ
cấu sở hữu, báo cáo kết quả sản xuất - kinh doanh của các DN CPH trong tỉnh
nhằm phổ biến cách làm, bước đi phù hợp với hoàn cảnh cụ thể. Tổ chức toạ
đàm giữa các đồng chí lãnh đạo Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, lãnh đạo các
sở, ban, ngành với người lao động trong DN về các chủ trương, chính sách
mới, đồng thời giải đáp thắc mắc cho họ, tháo gỡ những vướng mắc phát sinh
từ quá trình triển khai thực hiện CPH.
- Phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng như: Công đoàn, Đoàn
thanh niên.. .để vận động người lao động chấp hành, thực hiện chủ trương
CPH của Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh và các ban, ngành.
Qua kinh nghiệm của một số địa phương khác chúng ta thấy, việc giải
quyết vấn đề tư tưởng cho cán bộ, công nhân viên chức trong các DNNN
chuyển đổi hình thức sở hữu là rất quan trọng. Do đó, việc làm này phải được
tiến hành sâu, rộng, kiên trì để họ nhất trí, ủng hộ thì tiến trình CPH mới có
thể thực hiện đúng và có hiệu quả cao. Nội dung, hình thức tuyên truyền phải
78
thiết thực, ngắn gọn, phù hợp với từng đối tượng, tránh phô trương hình thức,
quan trọng hoá, phức tạp hoá vấn đề.
Thực hiện công tác phổ biến, tuyên truyền để nâng cao nhận thức của
cán bộ, công nhân viên chức, nhân dân trong toàn tỉnh về công tác CPH
DNNN cần chú ý mấy vấn đề cơ bản sau:
+ Xác định rõ những nội dung thiết thực của công tác CPH DNNN.
Ngoài những thông tin chung về công ty cổ phần và những chủ trương, chính
sách chuyển đổi DNNN thành công ty cổ phần, phải xác định trọng tâm nội
dung cần phổ biến, tuyên truyền cho từng đối tượng cụ thể, tránh dàn trải. Cụ
thể, người lao động trong DNNN thường quan tâm nhiều hơn những thông tin
liên quan đến quyền lợi được hưởng và trách nhiệm mà họ phải gánh vác khi
chuyển sang hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần. Họ cũng rất quan tâm
đến kết quả của những DNNN đã chuyển sang hoạt động dưới hình thức
CTCP. Do đó, tỉnh nên lập một bộ hồ sơ tài liệu hoàn chỉnh về CPH, đóng
thành quyển và phát hành cho các cấp, các ngành và các DN. Trong đó có đầy
đủ các văn bản của Bộ chính trị, Chính phủ, các bộ, ban, ngành trung ương,
Tỉnh uỷ, UBND tỉnh, đồng thời phổ biến một số kết quả, kinh nghiệm, hiệu
quả hoạt động, quyền lợi của người lao động trong một số DN đã CPH.
+ Xã hội hoá công tác phổ biến, tuyên truyền về đổi mới, sắp xếp
DNNN. Trong quá trình thực hiện phổ biến, tuyên truyền, cần bảo đảm không
khí dân chủ và cởi mở để người lao động bộc bạch một cách công khai, thẳng
thắn những vấn đề còn vướng mắc trong tư tưởng. Những thắc mắc của người
lao động, dù lớn hay nhỏ, phổ biến hay cá biệt, đều phải được đáp ứng cụ thể.
Tiếp tục duy trì và nâng cao hiệu quả của các chuyên đề về chương trình đổi
mới DNNN và CPH trên Đài phát thanh và Truyền hình cũng như trên Báo
Khánh Hoà. Mở rộng thêm hình thức toạ đàm, trao đổi, đối thoại giữa các cán
bộ quản lý DN và các cơ quan hoạch định chính sách về CPH.
79
+ Công tác phổ biến, tuyên truyền về chủ trương CPH phải được thực
hiện một cách thường xuyên trong suốt quá trình CPH chứ không phải chỉ
trong giai đoạn chuẩn bị CPH. Trong quá trình xây dựng phương án CPH,
Ban Đổi mới và phát triển doanh nghiệp Khánh Hoà cần nắm chắc diễn biến
tư tưởng của người lao động trong doanh nghiệp, phát hiện kịp thời những
băn khoăn, vướng mắc của họ để có biện pháp giải quyết kịp thời.
3.2.2. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao năng lực quản lý
của Nhà nước trong tiến trình CPH DNNN tỉnh Khánh Hoà
* Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng:
Sự lãnh đạo của Đảng là yếu tố quan trọng thúc đẩy quá trình CPH
DNNN ở Khánh Hoà. Do đó, để đẩy mạnh tiến trình CPH DNNN trong thời
gian tới, cần quán triệt và đưa được chủ trương của Đảng đi vào thực tiễn
cuộc sống. Muốn vậy, cần thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, tăng cường công tác tư tưởng trong toàn Đảng nhằm quán triệt
đầy đủ và thông suốt chủ trương CPH DNNN, đồng thời uốn nắn những nhận
thức, quan điểm còn lệch lạc, sai trái để có sự thống nhất cao trong các cấp uỷ
và chính quyền từ trung ương đến địa phương, trong toàn thể cán bộ, đảng
viên của tỉnh về chủ trương đúng đắn này.
Thứ hai, ban cán sự đảng các cấp cần phối hợp chặt chẽ với chính quyền
trong chỉ đạo triển khai nhằm thực hiện nghiêm túc chủ trương CPH DNNN
của Đảng, khắc phục tình trạng chần chừ, do dự, nghe ngóng, thiếu kiên quyết.
Thứ ba, tăng cường vai trò của tổ chức cơ sở đảng tại các DN trong chỉ
đạo triển khai CPH, chỉ đạo hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN sau CPH,
nhằm thực hiện nghiêm chỉnh đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Thứ tư, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ quản lý, nhà
doanh nghiệp và các chuyên gia có đủ đức, tài; lãnh đạo việc tuyển chọn cán
80
bộ, tuyển chọn nhân tài phục vụ có hiệu quả việc triển khai CPH và phát triển
DN đã CPH.
Thứ năm, thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, tăng cường công tác
kiểm tra và kỷ luật để chủ trương CPH DNNN của Đảng được thực hiện
nghiêm túc và đạt kết quả tốt đẹp, khắc phục những biểu hiện tiêu cực.
* Về nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước:
Nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước phải được cụ thể hoá bằng việc
nâng cao năng lực của các cơ quan nghiên cứu và ban hành các văn bản, quy chế
CPH DNNN. Rà soát lại và ban hành sớm những nghị quyết, nghị định, thông tư
hướng dẫn để tạo điều kiện pháp lý cho việc phát triển công ty CP và CPH
DNNN. Trong thời gian qua, Nhà nước ta đã thống nhất việc phân loại các DN mà
Nhà nước giữ 100% vốn, loại DN mà Nhà nước thực hiện CPH. Tuy nhiên, việc
nghiên cứu một cách hệ thống các hình thức tiến hành CPH, sở hữu của cổ đông,
định giá DN CPH, hệ thống tổ chức quyết định và thi hành CPH, quản lý và sử
dụng các nguồn vốn do bán cổ phiếu,…phù hợp với đặc điểm và phong tục tập
quán của địa phương sẽ tạo môi trường pháp lý thuận lợi để người có vốn yên tâm
đầu tư vào các công ty cổ phần và các DNNN CPH.
Cần nghiên cứu, ban hành cơ chế quản lý vốn nhà nước đầu tư vào các
DN thuộc mọi thành phần kinh tế để theo dõi, giám sát việc sử dụng vốn của
DN trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Có thể thành lập thí điểm Công ty
Đầu tư tài chính làm nhiệm vụ dùng vốn nhà nước đầu tư vào các DN, tổ
chức quản lý số vốn nhà nước đầu tư vào các DN khác, kể cả các công ty cổ
phần có vốn của Nhà nước.
Phát huy vai trò của các trung tâm nghiên cứu khoa học - kỹ thuật để làm
tốt việc cung cấp, trao đổi thông tin, bồi dưỡng nghiệp vụ; sớm có đủ lực
lượng cán bộ và nhân viên chuyên nghiệp đáp ứng nhu cầu CPH DNNN, quản
lý công ty cổ phần, xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán.
81
3.2.3. Thực hiện có hiệu quả các giải pháp tài chính thúc đẩy tiến
trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Việc chậm trễ tiến trình CPH ở Khánh Hoà còn do những vướng mắc về
mặt tài chính. Chính vì vậy, việc hoàn thiện các giải pháp tài chính là yêu cầu
bức thiết đối với tiến trình CPH DNNN ở Khánh Hoà.
* Cơ cấu nợ và thị trường hoá các khoản nợ:
- Theo tôi, hướng xử lý các khoản nợ như sau:
+ Đối với các khoản nợ khó đòi do nguyên nhân khách quan thì được
hạch toán vào các kết quả sản xuất, kinh doanh nếu là doanh nghiệp có lãi,
hoặc giảm giá trị doanh nghiệp nếu là doanh nghiệp không lãi.
+ Đối với các khoản nợ khó đòi do nguyên nhân chủ quan tạo quy định
được trách nhiệm cá nhân hay tập thể thì phải xử lý nghiêm theo quy định của
pháp luật; phần tổn thất không thể thu hồi được xử lý như khoản nợ do
nguyên nhân khách quan nói trên.
+ Đối với các khoản vay Ngân hàng Thương mại thì công ty cổ phần
phải tiếp tục kế thừa. Các công nợ tồn đọng khác đã xác định được chủ nợ mà
doanh nghiệp cổ phần hoá chưa giải quyết hết thì giao lại cho công ty cổ phần
tiếp tục xử lý.
Khi xác định giá trị phần vốn nhà nước có tại doanh nghiệp phải lấy giá
trị thực tế doanh nghiệp trừ đi tổng nợ phải trả.
- Việc tiến hành thị trường hoá các khoản nợ:
Tại Khánh Hoà hiện nay xảy ra tình trạng công nợ “lòng vòng” vào khoảng
hàng trăm tỷ đồng vẫn chưa được giải quyết xong. Vì vậy, phải tiến hành thể chế
hoá chi tiết và hướng dẫn cho các doanh nghiệp sử dụng công cụ thương phiếu
để giúp họ thoát khỏi tình trạng khó khăn về tài chính và có được sự lành mạnh
tài chính khi công ty đi vào hoạt động. Việc thành lập công ty mua bán nợ là một
82
giải pháp quan trọng để vừa xử lý triệt để các khoản nợ phải thu của các doanh
nghiệp, vừa tìm cách thu xếp thanh toán với các chủ nợ.
* Việc xác định giá trị doanh nghiệp CPH:
- Khi xác định giá trị tài sản cố định là vật kiến trúc của DN CPH, không
nên lấy giá đền bù giải toả để tính. Trong trường hợp vẫn áp dụng giá đền bù
giải toả để tính như hiện nay thì cần có quy định giảm một tỷ lệ phần trăm nào
đó để khuyến khích người mua cổ phần. Đối với nhà cửa, vật liệu kiến trúc
nằm ở vùng, vị trí không thuận lợi cho việc kinh doanh, UBND tỉnh nên cho
phép giảm một tỷ lệ phần trăm so với giá trị đánh giá lại.
- Tại Khánh Hoà hiện nay, nhiều DN đầu tư mua sắm tài sản cố định
bằng vốn vay và tích cực trả tiền vay nhanh trước thời hạn sử dụng của tài
sản, vì vậy đến thời điểm CPH không còn số dư tiền vay hoặc giá trị tiền lãi
của tài sản trên sổ sách kế toán rất thấp, trong khi tài sản vẫn còn sử dụng có
hiệu quả. Khi xác định giá trị thực tế DN để CPH sẽ phát sinh chênh lệch, làm
tăng giá trị phần vốn khi CPH. Do đó, cần có chính sách khuyến khích DN có
tài sản mua sắm sử dụng bằng vốn vay nói trên theo phương pháp đánh giá lại
giá trị tài sản này. Những chênh lệch tăng thêm không tính vào giá trị DN
trước khi CPH để bán cho cổ đông mà được cộng thêm vào giá trị DN sau khi
trở thành công ty cổ phần.
Việc xác định giá trị DN CPH: Việc xác định giá trị DN theo 3 phương
pháp như Nghị định 187/2004 của Chính phủ ngày 16/11/2004 đã khá linh hoạt
và khách quan, sát với thực tế. Khi định giá các DN bằng một phương pháp
chuẩn cần sử dụng thêm một số phương pháp khác để kiểm tra xem việc đánh
giá đã hợp lý chưa, mức độ chênh lệch là bao nhiêu. Tuy nhiên, nên tiến mạnh
hơn đến phương pháp đấu thầu vì phần lớn các DN CPH ở Khánh Hoà hiện nay
không đủ tiêu chuẩn niêm yết thị trường chứng khoán do phần lớn là các DN
vừa và nhỏ. Cơ chế định giá phức tạp như hiện nay sẽ gây tốn kém chi phí và
83
mất nhiều thời gian, vì vậy áp dụng phương pháp đấu thầu để định giá doanh
nghiệp sẽ thúc đẩy quá trình CPH, bởi đó là cơ chế định giá đơn giản hơn.
* Công khai hoá thông tin tài chính doanh nghiệp:
Công khai hoá thông tin tài chính nghĩa là thông báo cho các nhà đầu tư,
người lao động những thông tin quan trọng về tình hình tài chính của DN để
họ xem xét, đánh giá giá trị DNNN CPH và đưa ra quyết định đầu tư - mua cổ
phần. Việc công khai về thông tin tài chính giúp chúng ta bảo đảm tính công
bằng trong buôn bán, từ đó bảo vệ người lao động, nhà đầu tư và hình thành
nên giá bán cổ phần.
Công khai thông tin tài chính doanh nghiệp bao gồm: thông tin về cơ cấu
vốn; cơ cấu tài sản; hiệu quả sản xuất kinh doanh; kết quả thu nhập và phân phối
thu nhập; dự đoán xu hướng vận động của các chỉ tiêu tài chính quan trọng trong
tương lai. Để thực hiện được điều này, tỉnh Khánh Hoà cần phải:
-Ra quyết định bắt buộc phải công khai tài chính, bao gồm nội dung
công khai, hình thức công khai, thời gian công khai, số liệu công khai và phải
được cơ quan tài chính kiểm tra, xác nhận.
- Thành lập tạp chí chuyên ngành về cổ phần hoá thuộc Bộ Tài chính.
Đây là nơi phản ánh đầy đủ nhất về chủ trương, cơ chế, chính sách của Đảng
và Nhà nước; về hoạt động của các DNNN trong việc chuẩn bị CPH cũng như
những thông tin chi tiết về tình hình tài chính của DN.
3.2.4. Xác định rõ lĩnh vực, lựa chọn đúng doanh nghiệp cần cổ
phần hoá
Vấn đề CPH DNNN của Khánh Hoà tập trung trước hết vào lĩnh vực
thương mại và dịch vụ. Phần đông các doanh nghiệp này hoạt động vì mục
tiêu lợi nhuận, không thuộc loại kinh doanh các hàng hoá công cộng hoặc sản
phẩm mà nhà nước độc quyền. Các đơn vị kinh doanh này có quy mô vừa và
nhỏ (chiếm 90% tổng số) nên việc tiến hành CPH dễ thực hiện hơn các đơn vị
84
lớn ở các ngành công nghiệp, xây dựng cơ bản. Mặt khác, các DN này chỉ cần
huy động vốn lưu động là chủ yếu, không phải đầu tư xây dựng cơ bản và thiết
bị lớn. Vì vậy, DN dễ dàng thay đổi ngành nghề kinh doanh, đáp ứng nhanh
chóng nhu cầu đời sống và sản xuất, lại có lợi nhuận cao, từ đó dễ thu hút vốn
đầu tư bên ngoài xã hội cũng như người ngoài nước góp vốn cổ phần để mở rộng
quy mô kinh doanh trên cơ sở các doanh nghiệp đang hoạt động. Bên cạnh đó,
các DN vừa và nhỏ trong thời gian qua đã hoạt động trong môi trường cạnh
tranh với các DN thuộc các thành phần khác. Việc CPH thành công trong lĩnh
vực thương mại, dịch vụ sẽ là kinh nghiệm bổ ích cho việc thực hiện cổ phần
hoá ở các loại hình doanh nghiệp nhà nước trong các lĩnh vực khác.
Nhìn chung, việc lựa chọn các DNNN của Khánh Hoà trong thời gian
vừa qua đã được thực hiện một cách nghiêm túc và thận trọng, bám sát tinh
thần Nghị quyết Trung ương 3. Các phương án CPH đã được xây dựng từ cơ
sở, có ý kiến chỉ đạo của các cấp uỷ đảng; đã kết hợp được tiêu chí ngành,
nghề và quy mô với đặc thù kinh tế - xã hội của địa phương. Nhiều phương án
thể hiện rõ tính tích cực, quyết liệt trong chủ trương sắp xếp, CPH... Tuy vậy,
tỉnh vẫn còn giữ lại nhiều DN có 100% vốn của Nhà nước hoặc nhiều DN
chưa đạt tiêu chí CPH nhưng tỉnh vẫn đưa vào diện CPH; nhiều phương án
lại thiếu các phụ lục đánh giá thực trạng của DN hay thiếu các văn bản của
cấp uỷ đảng... do vậy phải bổ sung, điều chỉnh.. đã làm kéo dài thời gian xác
định và phê duyệt đề án; có đề án khi xây dựng chưa gắn liền với chiến lược
phát triển đầu tư nên việc sắp xếp có phần khiên cưỡng, không đưa ra được
những giải pháp đồng bộ và cụ thể để xử lý các vấn đề như lao động dôi dư,
giải quyết công nợ cho DN khi sắp xếp lại...
Thời gian tới, tỉnh sẽ phải triển khai CPH nhiều DN có quy mô lớn, cơ cấu
phức tạp. Do đó, trong quá trình thực hiện các phương án CPH, lãnh đạo tỉnh
phải giữ vững nguyên tắc triển khai lựa chọn DN, thực hiện CPH DNNN dưới
85
sự chỉ đạo của Chính phủ và của tỉnh, kiên quyết giao chỉ tiêu kế hoạch, không
thay đổi danh mục đơn vị có quyết định CPH để đạt mục tiêu mà tỉnh đã đề ra.
3.2.5. Giải pháp nhằm đảm bảo quyền lợi của người lao động
Thực tế cho thấy, cơ chế, chính sách về CPH DNNN của nước ta nói
chung, của tỉnh Khánh Hoà nói riêng còn thiếu đồng bộ, quy trình và thủ tục
còn phức tạp nên chưa khuyến khích người lao động và doanh nghiệp hăng
hái thực hiện CPH. Chẳng hạn: quy định khống chế tỷ lệ mua cổ phần lần đầu
như Nghị định 44/1998/NĐ-CP: Đối với DNNN giữ cổ phần chi phối, cổ
phần đặc biệt thì một pháp nhân được mua không quá 10%, một cá nhân được
mua không quá 5% tổng số cổ phần của DN. Còn đối với DNNN không giữ
cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt thì một pháp nhân được mua không quá 20
% tổng số cổ phần của DN, một cá nhân được mua không quá 10% tổng số cổ
phần của DN. Trong khi đó, Luật DN quy định số lượng cổ đông tối thiểu của
công ty cổ phần là 3 và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước quy định nhà
đầu tư nước ngoài mua cổ phần của DN Việt Nam với mức không quá 30%.
Việc quy định số cổ phần ưu đãi nói chung, đối với cán bộ, công nhân viên
nói riêng còn nhiều bất cập, và để khắc phục phần nào tình trạng đó, Chính
phủ đã ban hành Quyết định số 58/2002/QĐ-CP ngày 26 /4 / 2002 về việc ban
hành “Tiêu chí phân loại DNNN và tổng công ty nhà nước“ và Nghị định số
187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 thay thế Nghị định số 44/1998/NĐ-CP và
Nghị định số 62/2002/NĐ-CP ngày 16 / 6 / 2002 của Chính phủ. Việc làm
này đã tạo ra sự thông thoáng hơn, nhưng để CPH DNNN được đẩy mạnh ở
Khánh Hoà thì cần quan tâm hơn nữa đến chính sách đối với người lao động
bởi nó sẽ tác động tích cực đến tiến độ thực hiện CPH. Mặt khác, giải quyết
tốt vấn đề này còn có tác dụng tích cực về mặt xã hội - phản ánh tính ưu việt
của xã hội ta. Cụ thể:
- Tạo điều kiện thuận lợi để người lao động được hưởng đúng và đủ chế
độ ưu đãi khi mua cổ phần trong DN:
86
Thực hiện CPH DNNN với mục đích huy động vốn của cán bộ, công
nhân viên, DN, cá nhân, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước để tạo động lực
thúc đẩy DN hoạt động hiệu quả. Đáng buồn là việc đa dạng hoá sở hữu ở
một số DNNN tại Khánh Hoà còn rất hạn chế. Nguyên nhân là do hầu hết
người lao động đều là người làm công ăn lương và còn quá nghèo. Chính điều
đó đã dẫn đến tình trạng “nhiều người lao động trong doanh nghiệp chưa đủ
khả năng mua cổ phần với số lượng lớn ngoài số cổ phần ưu đãi, bên cạnh đó,
không ít người lao động lại bán cổ phần ưu đãi ngay sau khi mua”[31], và vì
thế người lao động không có cơ hội để trở thành người chủ có vai trò nhất
định trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN. Do đó, các chế độ ưu đãi
đã được quy định vẫn cần được tiếp tục nghiên cứu, bổ sung cho hợp lý, đồng
thời các quy định đó phải được thực hiện một cách nghiêm túc. Nhà nước nên
nghiên cứu nâng cao giá trị ưu đãi cho người lao động trong DNNN từ 40%
lên 60% so với 40% theo quy định tại Nghị định số 187/2004/NĐ-CP đối với
vốn tự bổ sung.
Đối với trường hợp người lao động không đủ tiền để mua cổ phần ưu
đãi thì Nhà nước nên tạo điều kiện cho họ được hưởng chế độ ưu đãi một cách
trọn vẹn, bằng cách mở rộng chế độ bán chịu trả chậm hơn nữa, hoặc chia
việc bán cổ phần cho họ thành nhiều đợt, không nhất thiết phải bán hết số cổ
phần mà Nhà nước không nắm ngay một lúc, một đợt như hiện nay.
Tỉnh uỷ, UBND tỉnh nên kịp thời phối kết hợp trong việc giải quyết chế
độ đối với người lao động để họ không cảm thấy bị thiệt thòi khi DNNN
chuyển thành CTCP (Ví dụ, dù có chế độ trợ cấp mất việc làm, nhưng có
người lại làm việc trong nhiều DN khác nhau; DN CPH nếu có Quỹ hỗ trợ lao
động dôi dư thì cũng chỉ chi trả cho người lao động trong thực hiện việc làm
tại DN của họ. Đây là một vướng mắc cần được Nhà nước kết hợp với DN để
kịp thời giải quyết)
- Giải quyết tốt vấn đề lao động dôi dư của các DNNN sau CPH:
87
Đến nay, việc giải quyết vấn đề lao động dôi dư vẫn là một bài toán nan
giải ngay cả với các DN đã hoặc đang thực hiện CPH ở nước ta. Theo ước
tính của Ngân hàng thế giới, trong 3 năm, từ năm 2003 đến năm2005, số
lượng lao động dôi dư trong các DNNN ở nước ta tiến hành CPH, bán khoán,
cho thuê là 96.660 người. Thực tế cho thấy, trong 464 DN và bộ phận DN
thực hiện thành CTCP, tính đến tháng 9/2004 thì Bộ Tài chính đã duyệt cấp
kinh phí giải quyết chế độ 21.169 người, chiếm 44,11% so với lao động dôi
dư. Tỷ lệ lao động dôi dư trong các DNNN trở thành công ty CP vào khoảng
16,35% so với lao động hiện có. Nguyên nhân là do các DN xây dựng phương
án sắp xếp, sử dụng lao động khi trở thành CTCP không thể dựa trên cơ sở
sắp xếp lao động theo yêu cầu sản xuất, kinh doanh mà dựa vào kết quả đăng
ký hoặc lấy phiếu tham khảo nguyện vọng hoặc người lao động có đơn tự
nguyện nghỉ việc, dẫn đến hiệu quả sắp xếp lao động trong DN cho đúng theo
quy định của pháp luật[4]. Chỉ tính riêng thành phố Hồ Chí Minh, trong số
45 DNNN đã tiến hành CPH thì có 30 DN có lao động dôi dư, trung bình 31
lao động/1DN (Nguồn: Khảo sát của Bộ Lao động - thương binh - xã hội tại
thành phố Hồ Chí Minh). Số lao động dôi dư này chủ yếu xuất hiện sau CPH.
Tại Khánh Hoà, số lao động mất việc làm do CPH rất ít, chỉ khoảng 500
người. Dù vậy, trong giai đoạn sắp xếp tới, khi đi vào đẩy mạnh cổ phần hoá
(các doanh nghiệp nhà nước không phải là doanh nghiệp làm ăn đạt hiệu quả
cao) thì chắc chắn số lao động dôi dư sẽ tăng lên. Để khắc phục vấn đề này, đòi
hỏi cả DN và Nhà nước cùng phối hợp.
+ Về phía doanh nghiệp: Doanh nghiệp phải chủ động tiến hành rà soát
định mức lao động để xác định số lượng lao động hợp lý theo nguyên tắc có
việc, có người, bảo đảm giờ công, ngày công, thu nhập theo luật định. Chấm
dứt việc chấp nhận lao động, thuê mướn công nhân lao động thời vụ một cách
tuỳ tiện, dẫn đến năng xuất lao động thấp, tỷ lệ thất nghiệp tuyệt đối, thất
nghiệp tạm thời tại các DN tăng cao.
88
Khi thực hiện CPH, giao, khoán, bán, cho thuê DNNN, cần chú ý
phương án đầu tư phát triển sản xuất - kinh doanh để thu hút tối đa người lao
động sau khi chuyển đổi.
Đối với lao động dôi dư ở tuổi nghỉ hưu nhưng thuộc diện đóng bảo
hiểm xã hội còn thiếu dưới 1 năm, tỉnh nên có chính sách để DN hỗ trợ đóng
bảo hiểm xã hội cho họ những tháng còn thiếu, nhằm giải quyết sớm chế độ
hưu trí. Còn những lao động không bố trí được việc làm thì DN nên có một
phần kinh phí hỗ trợ cho thôi việc hoặc để đào tạo lại.
+ Về phía Nhà nước: Nhà nước phải có quy chế tuyển dụng đối với các
DN một cách rõ ràng, tránh tình trạng tuyển dụng lao động không xác định
thời hạn tràn lan, đến lúc dư thừa không bố trí được việc làm thì Nhà nước lại
phải chịu hậu quả.
Đối với những người lao động tự nguyện thôi việc, nghỉ hưu sớm, nên
miễn giám định sức khoẻ và được cấp một khoản kinh phí tương ứng với số
năm nghỉ hưu sớm. Nhà nước nên có chính sách tạo lập môi trường thuận lợi
cho lao động dôi dư tìm việc làm mới. Chẳng hạn, tổ chức dịch vụ việc làm
cho thị trường lao động; tổ chức dạy nghề gắn với tìm việc làm; tổ chức cho
vay vốn giải quyết việc làm; đẩy mạnh xuất khẩu lao động và chuyên gia;
khuyến khích thành lập doanh nghiệp tư nhân.
Theo Nghị định số 62/2002/NĐ-CP, ban hành ngày 19 / 6 / 2002, thì chế
độ thanh toán trợ cấp cho các trưường hợp người lao động thôi việc hoặc mất
việc sau khi DNNN chuyển thành CTCP cũng có thêm nhiều ưu đãi hơn. Theo
đó, khi người lao động mất việc do nhu cầu tổ chức lại sản xuất của DN trong
thời hạn 12 tháng tính từ ngày chuyển sang CTCP, họ sẽ được hưởng trợ cấp từ
Quỹ hỗ trợ lao động dôi dư. Nếu bị mất việc trong 4 năm tiếp theo thì người lao
động vẫn được hưởng chính sách do Quỹ hỗ trợ lao động dôI dư cấp 50% và DN
chi trợ cấp 50% còn lại từ quỹ dự phòng trợ cấp mất việc. Tuy nhiên, ở nhiều
89
DN của Khánh Hòa, quỹ dự phòng này ở các công ty cổ phần chưa được thành
lập hoặc được thành lập nhưng nguồn quỹ có giới hạn do thời gian thành lập
chưa lâu nên gặp rất nhiều khó khăn khi chi trả. Do đó, các DN của Khánh Hoà
cần xúc tiến thành lập quỹ hỗ trợ CPH để giải quyết khó khăn của DN.
Tóm lại, thực hiện tốt những điều nêu trên, Nhà nước, tỉnh Khánh Hoà cũng
như các DN của Khánh Hoà sẽ sử dụng hiệu quả nguồn lao động trong xã hội.
3.2.6. Nhóm giải pháp đối với các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần
hóa
* Xây dựng kế hoạch sản xuất, kinh doanh của các CTCP mang tính
thuyết phục đối với người lao động và nhà đầu tư:
Việc xây dựng kế hoạch trong các doanh nghiệp bắt đầu từ khâu chuẩn
bị hoạch định và sản xuất, kinh doanh; kết thúc ở khâu đánh giá quyết định và
lượng hoá phương án. Việc xây dựng phương án sản xuất, kinh doanh muốn
có tính thuyết phục thì phải được thể hiện như sau:
Thứ nhất, phải nhận thức cơ hội kinh doanh là một bước quan trọng;
trong bước này, doanh nghiệp phải thực hiện một loạt các phân tích và dự báo
nhằm nhận biết các cơ hội dựa trên sự hiểu biết về thông tin thị trường, sự
cạnh tranh, quy mô và cơ cấu nhu cầu khách hàng, cùng với khả năng và
nguồn lực của DN.
Thứ hai, xác định các mục tiêu tổng quát của hoạt động sản xuất kinh
doanh trong thời kỳ dài hạn (định hướng các mục tiêu chiến lược); xác định
các mục tiêu sản phẩm và mục tiêu lợi nhuận trong thời kỳ ngắn hạn.
- Về mục tiêu sản phẩm: Việc xác định mục tiêu sản phẩm phải căn cứ
vào chu kỳ của sản phẩm để xác định tiêu chuẩn sản xuất, kinh doanh. Bất kỳ
sản phẩm nào cũng có chu kỳ đời sống kinh tế của nó. Các DN phải vận dụng
nguyên lý cơ bản về đường cong tuổi thọ để phân tích xem sản phẩm của DN
90
mình trong giai đoạn nào có hiệu quả nhất, nhằm đưa ra quyết định sản xuất,
kinh doanh chính xác.
Phải xác định mục tiêu sản phẩm là vì: Tái sản xuất mở rộng của doanh
nghiệp gồm hai mặt chất và lượng. Sản phẩm có chất lượng kém, tất sẽ dư ế,
không thể tính tới tái sản xuất mở rộng được. Đồng thời, nó cũng phải thể
hiện mục tiêu phát triển các sản phẩm mới. Phát triển sản phẩm mới là điều
mấu chốt trong sự sống còn của DN sau khi CPH. Chỉ có không ngừng phát
triển sản phẩm mới thì DN sau khi CPH mới giành được lợi thế cạnh tranh
trên thương trường.
- Về mục tiêu lợi nhuận: Mục đích của DN sau khi CPH là lợi nhuận. Do
vậy, trong việc xây dựng kế hoạch mở rộng sản xuất, kinh doanh, DN phải lập
cho được kế hoạch tăng sản lượng như thế nào, nhưng quan trọng hơn là phải
hạ giá thành từng sản phẩm.
- Các phương án sản xuất, kinh doanh thường được thực hiện bằng nhiều
con đường khác nhau.Tuy nhiên, yêu cầu cơ bản của việc hoạch định này là
xây dựng những phương án có nhiều triển vọng nhất vơí các điểm mạnh và
yếu đã được xác định một cách rõ ràng, phù hợp với thực tiễn của DN.
* Tạo lập môi trường kinh doanh cho các DN đã CPH:
Tạo sân chơi bình đẳng cho các loại hình DN: Việc bảo đảm bình đẳng
giữa các DNNN và các CTCP là việc làm quan trọng, không những khiến cho
tiến trình CPH DNNN được thực hiện nhanh chóng mà còn ảnh hưởng tích
cực đến các hoạt động sản xuất kinh doanh của DN sau CPH.
Hiện tại, việc phân biệt, đối xử vẫn còn. Các DNNN sau khi CPH vẫn
cảm thấy bị thiệt thòi hơn khi còn là DNNN . Ví dụ, việc DNNN sau khi CPH
vay vốn ngân hàng để đầu tư đổi mới công nghệ, tăng chất lượng, hạ giá
thành sản phẩm, tạo mức cạnh tranh cho sản phẩm là việc làm chính đáng
nhưng còn gặp nhiều khó khăn. Tại khoản 6, Điều 26, Nghị định số
91
64/2002/NĐ - CP quy định: Các DN CPH được tiếp tục vay vốn tại ngân hàng
thương mại, công ty tài chính, các tổ chức tín dụng khác theo cơ chế và lãi
suất như đối với các DNNN. Song, trên thực tế, theo quy định của ngân hàng,
nếu đất đai , nhà xưởng của CTCP không có sổ đỏ thì đất đai, nhà xưởng đó
không thể là vật thế chấp. Do đó, thủ tục vay vốn, thế chấp đối với các DNNN
sau CPH phức tạp hơn rất nhiều. Hơn nữa, các ngân hàng còn e ngại khi cho
công ty cổ phần vay tiền. Điều này cũng xảy ra đối với người tiêu dùng khi
lựa chọn giữa sản phẩm của DNNN với sản phẩm của CTCP . Do đó, cần phải
xoá bỏ sự phân biệt trong các chính sách và thực hiện các chính sách đối với
các DNNN sau CPH. Mặt khác tỉnh cũng nên tạo điều kiện cho các DNNN
đang gặp khó khăn trong hoạt động mà vẫn tiến hành CPH, nhằm tạo môi
trường kinh doanh thuận lợi cho các DN đó.
Tăng cường các mối quan hệ của DNNN sau CPH với các cơ quan quản
lý nhà nước: Từ DNNN chuyển sang công ty cổ phần là sự thay đổi về mọi
mặt. Mặc dù trong thời gian qua, các DNNN của Khánh hoà sau khi CPH đã
đạt được những kết quả đáng kể nhưng vẫn còn khá nhiều những vướng mắc,
khó khăn liên quan đến các mối quan hệ của DNNN sau CPH với các cơ quan
lý nhà nước cần phải giải quyết. DNNN sau khi tiến hành CPH mà không có
cổ phần của Nhà nước thì họ cho rằng họ bị bỏ rơi. Các DN khác có cổ phần
của Nhà nước lại cho rằng họ bị can thiệp quá sâu bởi các cơ quan chủ quản
mà điển hình là Uỷ ban nhân dân tỉnh. Một số DNNN sau khi tiến hành CPH
lại quan niệm mình vẫn còn như DNNN trước đây và đòi hỏi cơ quan chủ
quản phải đối xử với DN mình như trước. Để khắc phục tình trạng này, tỉnh
Khánh Hoà phải xác định rõ ràng các mối quan hệ của DN với các cơ quan
chủ quản cũng như vai trò của DN sau CPH.
Đối với cơ quan quản lý nhà nước: Các cơ quan có liên quan đến quy
trình CPH có trách nhiệm giải quyết những thắc mắc của DN sau CPH, đồng
92
thời có trách nhiệm cung cấp thông tin, phổ biến chính sách, hướng dẫn về sự
thay đổi hình thức quản lý cho các DN sau khi chuyển đổi. Đối với các cơ
quan chủ quản trước đây nếu còn đóng vai trò đại diện chủ sở hữu Nhà nước
trong DN sau khi chuyển đổi thì chỉ nên tác động đến DN thông qua vai trò là
cổ đông, chứ không nên giao nhiệm vụ, chỉ thị hay ra quyết định trực tiếp đối
với công ty cổ phần.
Đối với DN sau CPH: Các DNNN khác nếu có các mối quan hệ kinh tế
với DNNN sau CPH thì các mối quan hệ này phải được thể hiện thông qua
các hợp đồng kinh tế.
Quản lý nội bộ DNNN sau CPH: Khi chuyển sang công ty cổ phần, DN
có sự thay đổi về mặt pháp lý, đó là hoạt động theo Luật DN và Điều lệ Công
ty cổ phần. Do đó, việc tổ chức hoạt động đúng với loại hình công ty cổ phần
là việc làm cần thiết. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, hầu hết các DNNN của
Khánh Hoà sau khi chuyển sang hoạt động CTCP thì người lao động, người
quản lý và các mối quan hệ giữa các thành viên trong công ty vẫn chưa bắt
kịp với sự thay đổi nên chưa sử dụng đúng và hết thẩm quyền do Luật và
Điều lệ nói trên quy định. Điều đó, dẫn đến việc tranh chấp của các thành
viên trong công ty, làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh, quản lý DN sau cổ
phần hoá. Do đó, để quản lý nội bộ DN được tốt, chúng ta phải thực hiện một
số giải pháp sau:
- Đổi mới bộ máy quản lý cho phù hợp với địa vị pháp lý mới của DN.
Nếu các cán bộ quản lý chủ chốt của DN như giám đốc, phó giám đốc, kế toán
trưởng, chủ tịch hội đồng quản trị vẫn giữ nguyên chức vụ khi còn là DNNN thì
cần phải được bồi dưỡng, đào tạo thêm các kiến thức về quản lý, pháp luật... để
họ nhanh chóng thích nghi với môi trường kinh doanh sau cổ phần hoá.
Tại các DNNN đã cổ phần hoá ở Khánh Hoà, hầu hết các cán bộ quản
lý vẫn là cán bộ quản lý trước cổ phần hoá. Điều này cho thấy, mặc dù bề
ngoài doanh nghiệp có sự thay đổi lớn nhưng thực chất bên trong vẫn là lối tư
93
duy cũ, triết lý cũ, trình độ quản lý cũ. Có rất ít DNNN sau cổ phần hoá sử
dụng cơ chế thuê giám đốc điều hành (Khánh Hoà chỉ có 2 CTCP thuê giám
đốc điều hành là người nước ngoài) - những người có đầu óc kinh doanh
chiến lược, có thể nâng cao được khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong
xu thế hội nhập kinh tế thế giới. Đây mới là biện pháp quản lý hữu hiệu để
nhanh chóng đổi mới tư duy, cách hoạt động của DNNN sau cổ phần hoá. Cụ
thể:
- Cải tiến cơ chế tuyển chọn, đề bạt, đánh giá người lao động và cán bộ
quản lý DNNN sau cổ phần hoá. Thực tế, giám đốc hay các chức danh lãnh
đạo khác trong doanh nghiệp vừa là một chức vụ, vừa là một nghề. Do đó, có
thể xã hội hoá phương thức và tiêu chuẩn tuyển chọn, đề bạt người lãnh đạo
doanh nghiệp cũng như cơ chế đánh giá thành tích, hiệu quả kinh doanh.
- Bồi dưỡng nâng cao kiến thức kinh tế thị trường cho cán bộ lãnh đạo
doanh nghiệp cả trước và sau cổ phần hoá. Đặc biệt, nâng cao kiến thức về cơ
hội, thách thức của hội nhập, nhất là các phương thức xử lý vấn đề sẽ xảy ra
trong quá trình cổ phần và sau cổ phần hoá. Đây là vấn đề còn đặc biệt yếu
kém đối với các cán bộ quản lý DNNN sau CPH của Khánh Hoà hiện nay.
- Tỉnh cũng như các DN cần tạo ra cơ chế khuyến khích các cán bộ tham
gia thi tuyển các chức danh như giám đốc; khuyến khích và có giải pháp để
cán bộ thiếu năng lực tự nguyện xin rút khỏi ban lãnh đạo cũ của DN. Đồng
thời, cần nghiên cứu cách giải quyết thoả đáng quyền lợi đối với cán bộ lãnh
đạo doanh nghiệp, đặc biệt là khi họ không tiếp tục đảm trách các chức vụ tại
các công ty cổ phần.
- Hạn chế đến mức thấp nhất sự kiêm nhiệm chức danh thành viên hội
đồng quản trị doanh nghiệp cổ phần đối với cán bộ đang làm việc trong các cơ
quan quản lý nhà nước hay ở các DNNN khác để tạo điều kiện giải quyết các
vấn đề liên quan đến việc sản xuất, kinh doanh kịp thời.
94
Trong thời gian tới, các DNNN đã cổ phần hoá của Khánh Hoà cần áp
dụng rộng rãi hơn nữa việc thuê giám đốc điều hành từ những người có chuyên
môn, trách nhiệm và các năng lực cần thiết, nhằm bảo đảm tính chuyên nghiệp
và hiệu quả trong điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN. Thậm chí,
các DN có khả năng tài chính lớn như Công ty KHATOCO, Tổng công ty Khánh
Việt... nên mở rộng phạm vi thuê cả những nhà quản lý, giám đốc có trình độ
của nước ngoài phù hợp với bộ Luật lao động và các thoả thuận tự nguyện khác.
Tăng cường vai trò quản lý tài sản của Nhà nước: Thực tế các DNNN của
Khánh Hoà sau khi CPH vẫn còn một số DN có phần vốn nhà nước khá lớn. Do
đó, việc quản lý phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp sau cổ phần hoá là việc làm
cần thiết. Để làm được việc đó, cần sử lý tốt, hài hoà các mối quan hệ sau:
Thứ nhất: Nghị định số 73/ 2000/ NĐ-CP ngày 6/11/2000 của Chính phủ
ban hành Quy chế quản lý phần vốn của các DN khác quy định cụ thể về
người đại diện cho phần vốn nhà nước tại các DN nói chung và tại các công
ty cổ phần được chuyển từ DNNN thực hiện cổ phần hoá nói riêng là Bộ Tài
chính hoặc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Hội đồng quản trị ở
những DNNN có hội đồng quản trị và giám đốc DN ở những DN không có
hội đồng quản trị. Tuy nhiên, đối với các DN của địa phương, trước mắt
chúng ta nên giao cho người có chuyên môn quản lý tài chính cao, cụ thể là
giao cho Sở Tài chính - Vật giá và cụ thể hơn nữa là Vụ Tài chính DN; còn
về lâu dài, chúng ta nên thành lập các công ty tài chính nhà nước chuyên
ngành để nắm toàn bộ cổ phần nhà nước trong các DN cổ phần. Các công ty
này sẽ tổ chức đầu tư tài chính, tức mua vào, bán ra số cổ phần nhà nước tuỳ
theo mục tiêu quốc gia, mục tiêu của tỉnh, và tham gia quản lý DNNN sau cổ
phần hoá như các cổ đông khác.
Thứ hai: Tình trạng thiếu trách nhiệm, không rõ ràng trong quản lý tài
sản nhà nước vẫn diễn ra khi một số công ty sau cổ phần hoá tiếp tục giữ hộ
95
nhà nước số tài sản không cần dùng nhưng chưa được giải quyết dứt điểm. Do
vậy, cần xây dựng cơ chế xử lý dứt điểm các tồn tại về tài chính cho các
DNNN sau CPH, cho phép các DN thực hiện việc mua gán nợ, chuyển thành nợ
cổ phần để thực hiện lành mạnh hoá tài chính ngay trong quá trình hoạt động.
Bên cạnh đó, phải xác định rõ trách nhiệm các khoản nợ phải thu mà chưa thể xử
lý dứt điểm trong quá trình CPH. Thực tế cho thấy, các DNNN sau CPH của
Khánh Hoà vẫn còn tồn tại những khoản nợ khó đòi. Đây thực sự đang là một
gánh nặng cho DN. Kinh nghiệm của các nước cũng như các địa phương trong
nước cho thấy, việc thành lập các công ty nhà nước chuyên mua - bán nợ để xử
lý các khoản nợ phải thu trong các DNNN sau CPH tỏ ra rất có hiệu quả. Điều
này cũng cho thấy việc thị trường hoá các khoản nợ là cần thiết.
Thứ ba: Bên cạnh những tài sản hữu hình được xác định dựa trên giá cả
thị trường tại thời điểm hiện hành, cần xác định rõ quyền sử dụng đất và giá
trị các tài sản vô hình khác. Điều này rất cần thiết đối với một tỉnh có tiềm
năng du lịch và có nhiều DN kinh doanh trong lĩnh vực du lịch như Khánh
Hoà. Trong các DN, các tài sản có giá trị “ bề nổi” như nhà xưởng, máy móc,
vật tư, thiết bị chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ so với phần “chìm” là giá trị quyền sử
dụng đất, các giá trị thương hiệu và lao động kỹ thuật khác.Việc bỏ ngoài sổ
sách kế toán phần giá trị quyền sử dụng đất của doanh nghiệp và các tài sản
vô hình khác khi tính giá trị DN để CPH đã và đang gây tổn thất lớn cho tỉnh
khi thực hiện CPH. Vì vậy cần tính đúng, tính đủ theo giá gần sát thị trường
đối với loại tài sản đặc biệt này.
Quyền chủ sở hữu và quyền kinh doanh của DN: Để việc quản lý- kinh
doanh của các công ty cổ phần đạt hiệu quả tốtcầnphân định rạch ròi quyền sở
hữu tài sản, kinh doanh và quyền điều hành vĩ mô bằng các biện pháp sau:
Sau khi DNNN đã tiến hành CPH thì dựa vào tỷ lệ vốn tham gia vào
CTCP mà Nhà nước tham gia gánh vác trách nhiệm hữu hạn, đồng thời cũng
96
là để hưởng quyền lợi của người chủ sở hữu đối với công ty. Trong điều kiện
ràng buộc của quyền sở hữu, công ty với tư cách là chủ thể kinh doanh, tự chủ
kinh doanh theo pháp luật, tự chịu lỗ, lãi và tỉnh không trực tiếp can thiệp vào
hoạt động kinh doanh của DN. Hội đồng quản lý tài sản nhà nước của tỉnh
nên lấy việc bảo toàn và tăng thêm giá trị tài sản nhà nước làm mục tiêu kiểm
soát và quản lý tài sản nhà nước tỉnh cần tránh tình trạng can thiệp nhiều lần
vào sự vận hành của DN; đồng thời hình thành cơ chế vận hành tài sản của
nhà nước một cách linh hoạt, ngăn ngừa hiện tượng làm thất thoát tài sản của
nhà nước.
* Khuyến khích các CTCP tham gia thị trường chứng khoán:
Thị trường chứng khoán là nơi trao đổi cổ phiếu giữa các công ty cổ
phần. Nhờ có TTCK, các CTCP mới có thể bán và phát hành cổ phiếu, trái
phiếu. Do đó, TTCK là điều kiện, tiền đề cho quá trình CPH nói riêng, phát
triển CTCP nói chung. Tuy nhiên, TTCK có cơ chế hoạt động rất chặt chẽ,
thậm chí có thể nói là rất khắt khe, nên ban quản lý TTCK chỉ chấp nhận các
cổ phiếu, trái phiếu của những công ty kinh doanh hợp pháp, có tài chính lành
mạnh, có doanh lợi và người mua vì lợi ích của mình, cũng chỉ mua cổ phiếu
và trái phiếu của những công ty làm ăn phát đạt. Điều đó đòi hỏi các công ty
muốn tham gia có hiệu quả trong TTCK thì ngày càng phải làm ăn rõ ràng,
minh bạch, hiệu quả hơn.
Như vậy, bên cạnh việc tác động tích cực đối với nền kinh tế thị trường
và khuyến khích nhân dân tiết kiệm để thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi vào
đầu tư, TTCK còn có tác động qua lại, hỗ trợ tích cực đối với CTCP. TTCK là
một trong những điều kiện, tiền đề để CPH DNNN; mặt khác, nó còn giúp các
DNNN sau CPH hoạt động minh bạch, hiệu quả và năng động hơn.
* Đào tạo và bồi dưỡng để có đội ngũ cán bộ có trình độ quản lý giỏi:
97
Nhà kinh doanh giỏi là nhà kinh doanh hội đủ cả hai yếu tố khoa học và
quản trị trong một con người. Doanh nhân là gạch nối giữ vốn và lao động, là
yếu tố sản xuất không thể thiếu để biến các tiềm năng sản xuất thành sản
phẩm và hiệu quả kinh tế. Trong một quốc gia, việc phát triển các DN tuỳ
thuộc vào tốc độ phát triển của đội ngũ doanh nhân và những người lao động
có trình độ chuyên môn cao. Các doanh nghiệp nhà nước khi chuyển sang
công ty CP đòi hỏi nhà kinh doanh phải có những đặc điểm khác với khi quản
lý các DNNN trước đây.
Nước ta hiện nay, người được coi là doanh nhân thì ngoài sự sáng tạo,
thông minh còn cần có một đức tính không thể thiếu được, đó là lòng yêu
nước, tinh thần dân tộc. Có đủ những đức tính đó doanh nhân mới đưa DN
gắn liền với hiệu quả xã hội. Mục đích chủ yếu của DN là lợi nhuận nhưng ở
đây, DN luôn phải chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, luật pháp của
Nhà nước, nộp thuế đầy đủ cho Nhà nứơc; ngoài ra còn phải chú ý đến lợi ích
xã hội như bảo vệ môi trường, giữ gìn trật tự công cộng...
Cán bộ quản lý DNNN ở nước ta nói chung, ở Khánh Hoà nói riêng
trưởng thành trong nền kinh tế hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung
cao độ, cho nên khi chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường, họ gặp
nhiều khó khăn, thử thách. Những năm vừa qua, chúng ta đã đào tạo và đào
tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý nhưng so với yêu cầu, vẫn chưa đáp ứng được.
Chính vì vậy, phải có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý
để họ trở thành những doanh nhân thực sự trong cơ chế thị trường.
Để làm được điều đó, chúng ta phải kiện toàn và nâng cao năng lực của
các cơ sở bồi dưỡng, đào tạo cán bộ quản lý doanh nghiệp. Cần đổi mới nội
dung, chương trình bồi dưỡng, đào tạo. Đặc biệt, cần chú trọng bồi dưỡng,
đào tạo các mặt: đường lối, chính sách, pháp luật; kiến thức mới và kỹ năng
hiện đại, về quản lý sản xuất, kinh doanh trong điều kiện cơ chế thị trường và
98
hội nhập kinh tế quốc tế; tư duy chiến lược trong sản xuất, kinh doanh và
năng lực nắm bắt những xu thế hiện đại trong khoa học công nghệ, trong tổ
chức quản lý doanh nghiệp; phong cách làm việc và phương pháp phát huy trí
tuệ, nỗ lực của người lao động. Kết hợp bồi dưỡng, đào tạo trong nước và
nước ngoài; bồi dưỡng, đào tạo thông qua trường lớp với khuyến khích dám
nghĩ, dám hành động và trưởng thành qua hoạt động thực tiễn.
99
KẾT LUẬN
Xuất phát từ lý luận và thực tế đã được nghiên cứu, luận văn đã tập trung
giải quyết những vấn đề cơ bản sau:
1- Chứng minh và khẳng định CPH DNNN là nhằm huy động tối đa mọi
nguồn vốn trong toàn xã hội để đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh
tranh của DN, tạo điều kiện tốt cho người lao động và người tham gia góp vốn
thực sự làm chủ DN. Thông qua CPH DNNN, Nhà nước sẽ tập trung được
vốn để mở rộng đầu tư vào những ngành, những lĩnh vực then chốt của nền
kinh tế và phát huy vai trò nòng cốt của hệ thống DNNN. Do đó, CPH DNNN
ở nước ta nói chung,ở Khánh Hoà nói riêng là một tất yếu khách quan. Đây là
định hướng của Đảng, Nhà nước và cũng là xu hướng chung của nhiều nước
trên thế giới. CPH DNN là quá trình chuyển tài sản thuộc quyền sở hữu của
Nhà nước thành sở hữu của các cổ đông, chuyển DN từ một chủ sở hữu là
Nhà nước thành DN có nhiều chủ sở hữu, trong đó có cả Nhà nước. Đây
không phải là quá trình tư nhân hoá.
2- Phân tích những quan điểm của Đảng, Nhà nước về sắp sếp, đổi mới
DNNN. Qua đó, làm rõ chủ trương CPH DNNN là hoàn toàn đúng đắn và phù
hợp với điều kiện cụ thể của nước ta. Thực tế CPH DNNN ở nước ta nói
chung, ở một số tỉnh tiêu biểu nói riêng giúp Khánh Hoà học hỏi được nhiều
kinh nghiệm và tránh được những hạn chế khi thực hiện CPH.
3- Từ việc phân tích thực trạng DNNN ở Khánh Hoà cho thấy, việc CPH
DNNN của Khánh Hoà là cần thiết. Tuy nhiên, trong thời gian qua, bên cạnh
những thành tựu đã đạt được, việc CPH DNNN của Khánh Hoà còn rất nhiều
hạn chế. Những hạn chế này phải được khắc phục, tháo gỡ thì mới có thể đẩy
nhanh được tiến trình CPH, tăng cường vai trò của DNNN Khánh Hoà.
100
4- Trên cơ sở phân tích mục tiêu, định hướng của tỉnh đối với vấn đề
CPH DNNN trong thời gian tới, đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy quá
trình CPH DNNN ở Khánh Hoà. Đó là những giải pháp về nâng cao nhận
thức, tư tưởng; những giải pháp như là những công cụ nhằm đẩy nhanh tiến
trình CPH; và nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của
những DNNN sau cổ phần hoá. Trong mỗi giải pháp đều có những kiến nghị
về cách giải quyết cho phù hợp với tình hình thực tế và thực trạng hoạt động
của DNNN đã cổ phần hoá ở Khánh Hoà.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
101
1. Báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa X.
2. Báo cáo nghiên cứu đa dạng hoá sở hữu và những vấn đề phát sinh sau
đa dạng hoá sở hữu- so sánh với CPH DNNN, Thông tư số
104/1998/TT-BTT ngày 18/7/1998 của Bộ Tài chính.
(2002) Ban Đổi mới và phát triển doanh nghiệp thành phố Hà Nội.
3.
4. Thanh Mai (2005), “Lao động dôi dư - nhân tố kìm hãm sự phát
triển”, Báo Hà Nội mới, ngày 22/3/2005.
5. Báo cáo đầu tư chứng khoán, ngày 01/10/2003.
6. Brendan Martin (1999), Tư nhân hoá ở các nước có nền kinh tế chuyển đổi,
Dự án đào tạo quản lý kinh tế của Văn phòng Chính phủ Việt nam phối
hợp với Viện Adam Smith, Hà Nội.
7. Thống kê về tốc độ tăng trưởng kinh tế từ 1990-2003, Cục Lưu trữ Khánh
Hoà.
8. Chính phủ, Nghị định 187 của Chính phủ về chuyển công ty nhà nước
thành công ty cổ phần, ngày 16/11/2004, Hà Nội.
9. Chính phủ (7/2001), Đề án về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển doanh
nghiệp nhà nước.
10. Chính phủ, Nghị định số 28/CP về chuyển một số doanh nghiệp nhà
nước thành công ty cổ phần, ngày 7/5/1996.
11. David Heald (1985), Tư nhân hoá-chính sách, phương pháp và thủ tục,
Manila, Ngân hàng phát triển Châu Á.
12. Báo cáo nghiên cứu đa dạng hoá sở hữu và những vấn đề phát sinh sau
đa dạng hoá sở hữu - so sánh với CPH DNNN, Dự án VIE 97/016 và tin
từ TTXVN, Hà Nội, tháng 1/2002 và ngày 30/12/2003.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp
hành Trung ương khoá VIII.
102
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba
BCHTW khoá IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao
hiệu quả DNNN, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Bộ tỉnh Khánh Hoà (2001), Nghị quyết đại hội tỉnh Đảng bộ lần
thứ XIV, nhiệm kỳ 2001-2005.
17. Đặng Thị Cẩm Thuý (1999), Một số vấn đề lý luận về CTCP và vận
dụng vào Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế.
18. (2002), “Cổ phần hóa, giải pháp quan trọng trong cải cách DNNN, CTCP”,
Tạp chí Thông tin kinh tế đối ngoại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. (1995), Từ điển bách khoa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
20. Thời báo kinh tế Việt Nam, ngày 09/02/2001.
21. Lê Xuân Thọ, Trần Anh Minh (1995), Tìm hiểu Luật kinh tế, Nxb Thống
kê, Hà Nội, 1995.
22. Nguyễn Đình Tài (1992), “Cổ phần hoá và tư nhân hoá ở các nước Đông
Âu - Diễn biến, khó khăn và triển vọng”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế (4).
23. Tỉnh uỷ Khánh Hoà, Báo cáo chỉ đạo hoàn thành sắp xếp DNNN và xây
dựng kế hoạch sắp xếp DNNN năm 2001-2005.
24. Tỉnh uỷ Khánh Hoà- Ban cán sự Đảng UBND tỉnh, Tờ trình xin chủ trương
sắp xếp và đổi mới DNNN tỉnh Khánh Hoà đến 2005 và trong năm 2002.
25. C. Mác và Ph. Ăng ghen, Toàn tập, Tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
26. Sđd, Lộ trình sắp xếp DNNN 2000-2005.
27. Polianxki (1978), Lịch sử các nước ngoài Liên Xô, Tập 2, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
103
28. E.Wayne Nafziger (1998), Kinh tế các nước đang phát triển, Nxb Thống
29. UBND tỉnh Bình Định (1999), Báo cáo tình hình hoạt động của CTCP
kê, Hà Nội.
cơ khí tàu thuyền Bình Định.
30. UBND tỉnh Khánh Hoà (2003), Địa chí Khánh Hoà, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
31. Webside dangcongsan.org.vn, Những thách thức với DN CPH,
ngày 22/03/2005.
32. Webside dangcongsan.org.vn, Mấy vấn đề cơ bản về CPH DNNN,
ngày 13/8/2004.
PHỤ LỤC 1: KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH SAU CỔ PHẦN HOÁ
Tên doanh nghiệp
Vốn điều lệ
Doanh thu
Nộp ngân sách
A
1
2
3
4
5
6
Doanh nghiệp cổ phần hoá Du lịch Thắng Lợi * Chế biến Lâm Thủy sản Muối Cam Ranh * Dịch vụ ô tô Cam Ranh Thương mại vật liệu khí đốt Vật tư Khánh Hoà Vật tư nông nghiệp Chế biến gỗ Việt Đức Xe khách Thuỷ sản Cam Ranh Phụ liệu may Vật liệu TB & XD giao thông Xe hàng Muối Khánh Hoà Khách sạn Hữu Nghị * Xây lắp điện
Ngày QĐ cổ phần hoá B 12/01/99 17/03/99 08/07/99 13/12/00 16/09/01 16/01/01 23/05/01 12/06/01 11/09/01 02/07/01 31/08/01 11/01/01 20/11/01 17/01/01 21/02/01 06/12/01
2.131 2.270 1.932 3.296 4.000 1.092 4.700 2.800 3.500 10.182 18.000 2.241 1.250 17.111 1.550 1.500
2.131 2.270 1.932 3.296 4.000 1.092 4.700 2.800 3.500 10.182 21.500 2.241 1.250 17.111 1.550 1.500
3.125 16.000 1.603 11.845 120.000 / 43.469 17.090 15.975 77.798 48.000 9.448 33.548 25.900 2.000 3.468
3.100 27.000 1.733 14.625 160.000 642 54.000 12.774 15.773 111.248 52.000 22.124 30.400 27.600 1.842 6.855
526 200 6 361 290 Không 255 121 800 1.202 5.200 722 1.800 865 163 148
420 800 56 490 1.034 13 270 166 908 434 5.700 756 1.200 1.254 265 152
Trà Long
106
76
A
5
6
22/08/02 B 27/08/02 25/09/02 25/10/02 27/08/02 30/07/02 19/03/03 19/03/03 19/03/03 05/08/03 04/08/03 05/08/03 02/10/03 18/12/00 04/01/01 31/07/01 25/10/02 21/03/03
1.380 1 2.900 4.200 1.582 2.000 4.663 1.200 12.000 2.900 1.400 1.100 1.400 1.600 1.009 344 400 1.454 4.200
1.380 2 2.900 12.000 2.900 1.400 1.100 1.400 1.600 1.009 344 2.080 1.454 4.200
2.150 3 10.400 8.531 4.049 5.387 23.433 14.000 19.800 12.030 18.570 2.606 5.800 7.000 1.524 667 2.500 1.998 17.000
2.450 4 7.800 18.185 4.195 6.006 23.670 15.500 25.000 11.621 24.290 2.800 4.300 8.200 2.445 364 11.201 1.710 20.00
62 145 241 367 533 100 748 674 443 318 660 367 120 44 125 138 1.000
197 692 197 506 632 120 874 648 744 325 450 400 19 54 560 41 1.200
Điện tử - ảnh màu May Khánh Hoà Chế biến th. phẩm Ninh Hoà Tư vấn kiến trúc & xây dựng Xây lắp & vật liệu xây dựng Sách & thiết bị trường học Bao bì Đông Á Bao bì 3 tháng 2 Phát hành sách Tư vấn xây dựng Thuỷ lợi Tư vấn xây dựng giao thông Dịch vụ ô tô điện máy Doanh nghiệp bán, giao TNHH gỗ Lương Sơn Chế biến gỗ Cam Ranh Xây dựng Ninh Hoà Chế biến thực phẩm Vạn Ninh Xi măng Hòn Khói Ghi chú: * Là doanh nghiệp bộ phận.
PHỤ LỤC II.2: KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH SAU CỔ PHẦN HOÁ
Lao động
Thu nhập
Tên doanh nghiệp A
Lợi nhuận 2
1
3
4
5
6
Cổ tức 7
1.100.000
Doanh nghiệp cổ phần hoá Du lịch Thắng Lợi * Chế biến Lâm Thủy sản Muối Cam Ranh * Dịch vụ ô tô Cam Ranh Thương mại vật liệu khí đốt Vật tư Khánh Hoà Vật tư nông nghiệp Chế biến gỗ Việt Đức Xe khách Thuỷ sản Cam Ranh Phụ liệu may Vật liệu TB & XD giao thông Xe hàng Muối Khánh Hoà Khách sạn Hữu Nghị * Xây lắp điện Trà Long
200 700 580 159 208 Không 264 606 636 3.668 4.300 200 541 1.900 10 222 31
470 2.800 636 485 963 45 320 831 772 3.998 7.400 1.550 300 5.300 Không 234 64
65 494 58 36 76 28 97 222 265 263 589 128 375 772 53 40 33
50 632 46 32 86 28 80 282 225 450 680 132 323 713 46 30 32
900.000 750.000 1.050.000 949.842 364.017 1.150.000 1.200.000 800.000 1.500.000 850.000 650.000 800.000 570.000 460.100 784.800 1.000.000 1.100.000 970.000 1.756.000 1.000.000 1.050.000 658.000 1.450.000 1.020.000 1.000.000 733.000 875.000 850.000 820.000
844.000 1.000.000 700.000 750.000
15,0 45,0 31,9 12,0 18,0 1,8 4,0 19,0 12,0 26,0 23,0 25,0 12,0 20,0 Không 10,0 3,6
1
2
3
4
7
5 740.000 582.000 603.000
800.000
850.000 434.787 450.000 300.000 1.051.000
62 152 218 348 976 250 1.084 145 271 318 368 350 -271 6 Không Không Không
615 1.223 91 542 934 270 1.298 74 352 330 230 415 45 16 403 6 600
42 580 56 83 41 18 159 122 102 52 88 102 35 12 11 24 281
6 970.000 707.000 780.000 2.770.000 3.350.000 850.000 2.600.000 2.800.000 2.000.000 2.000.000 1.352.000 1.018.300 1.876.000 1.524.000 2.150.000 2.200.000 1.100.000 1.200.000 900.000 770.682 600.000 700.000 867.100 900.000 1.100.000
56 663 56 95 42 18 169 123 102 55 85 105 16 25 11 24 303
15,0 12,0 3,6 12,0 20,0 12,0 12,0 24,0 18,0 18,0 12,0 15,0 Không 4,4 15,0 1,0 12,6
A Điện tử - ảnh màu May Khánh Hoà Chế biến th. phẩm Ninh Hoà Tư vấn kiến trúc & xây dựng Xây lắp & vật liệu xây dựng Sách & thiết bị trường học Bao bì Đông Á Bao bì 3 tháng 2 Phát hành sách Tư vấn xây dựng Thuỷ lợi Tư vấn xây dựng giao thông Dịch vụ ô tô điện máy Doanh nghiệp bán, giao TNHH gỗ Lương Sơn Chế biến gỗ Cam Ranh Xây dựng Ninh Hoà Chế biến thực phẩm Vạn Ninh Xi măng Hòn Khói Ghi chú: * Là doanh nghiệp bộ phận
PHỤ LỤC I: DANH MỤC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC ĐÃ CỔ PHẦN HOÁ
Cơ cấu vốn điều lệ (%)
TT
Tên công ty
Lao động
Vốn điều lệ
Ngày ĐKKD
Vốn Nhà nước
Nhà nước
Người lao động
Nước ngoài
Ngoài doanh nghiệp
B
A I Doanh nghiệp cổ phần hoá 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15
Du lịch Thắng Lợi Chế biến Lâm Thủy sản Muối Cam Ranh Dịch vụ ô tô Cam Ranh Thương mại vật liệu & khí đốt Vật tư Khánh Hoà Vật tư Nông nghiệp Chế biến gỗ Việt Đức Xe khách Thuỷ sản Cam Ranh Phụ liệu may Vật liệu TB & XD giao thông Xe hàng Muối Khánh Hoà Khách sạn Hữu Nghị
1 1.642 2.300 1.932 2.218 2.374 1.092 4.721 2.776 12.240 15.774 2.074 6.441 10.392 1.460
2 65 494 58 36 76 28 97 204 265 345 589 128 375 770 53
4 2.131 2.270 1.932 3.296 4.000 1.094 4.700 2.800 3.500 10.182 21.500 2.241 1.250 17.111 1.550
5 / / / 80 / / / 35 45 / / 30 / 34 /
6 58 80 95 11 100 100 46 55 70 73 70 100 54 100
7 42 20 5 9 / / 19 / 30 27 / / 12 /
8 / / / / / / / / / / / / / / / /
9 02/03/99 13/04/99 06/04/00 20/02/01 02/03/01 20/04/01 18/06/01 11/07/01 22/10/01 26/10/01 23/11/01 20/12/01 26/12/01 22/01/02 03/05/02
Ngày ra quyết định phê duyệt phương án 3 12/01/99 17/03/99 08/07/99 13/11/00 16/09/01 16/01/01 23/05/01 12/06/01 11/09/01 02/07/01 31/08/01 11/01/01 20/11/01 17/10/01 20/02/01
B
1 2.840 4.200 1.582 3.310 4.807 1.240 15.798 3.343 1.040 1.353 1.343 1.444 1.215 4.215
2 34 42 630 56 83 40 18 119 122 102 52 88 91 32 281
3 01/07/02 25/09/02 25/10/02 27/08/02 30/07/02 19/03/03 19/09/03 19/03/03 05/08/03 04/08/03 05/08/03 02/10/03 18/12/00 21/03/03
4 1.500 1.382 2.900 4.200 1.582 2.000 4.663 1.200 12.000 2.900 1.400 1.400 1.400 1.800 1.009 344 2.080 1.455 4.200
5 30 27 / 23 28 26 51 77 40 11 28 17 18 / / /
6 70 45 100 77 72 74 49 23 60 89 72 83 82 100 100 100
7 / 28 / / / / / / / / / / / / / /
8 / / / / / / / / / / / / / / / / /
9 06/06/02 12/11/02 10/12/02 17/12/02 18/12/02 15/01/03 24/04/03 12/05/03 17/06/03 22/07/03 27/10/03 04/11/03 20/11/03 24/11/03 01/02/01 11/05/01 11/09/01 19/12/02 09/07/03
A 16 Xây lắp điện 17 Trà Long 18 Điện tử - ảnh màu Nha Trang 19 May Khánh Hoà 20 Chế biến thực phẩm Ninh Hoà 21 Tư vấn kiến trúc & xây dựng 22 Xây lắp & vật liệu xây dựng 23 Sách & thiết bị trường học 24 Bao bì Đông Á 25 Bao bì 3 tháng 2 26 Phát hành sách 27 Tư vấn xây dựng Thuỷ lợi 28 Tư vấn xây dựng giao thông 29 Dịch vụ ô tô điện máy II Doanh nghiệp bán, giao 30 TNHH gỗ Lương Sơn 31 Chế biến gỗ Cam Ranh 32 Xây dựng Ninh Hoà 33 Chế biến thực phẩm Vạn Ninh 34 Xi măng Hòn Khói
1
PHỤ LỤC 1
Bảng 1 : Doanh nghiệp Nhà nước tỉnh Khánh Hòa đã chuyển đổi sở hữu
Stt Danh mục Địa chỉ Số lao động
1 2 3 5
A Cổ phần hóa 3.975
3.804 I
Vốn nhà nước 4 116.410.65 2 110.887.53 1 2.270.256 411 1
189 Thống Nhất - NT
Doanh nghiệp độc lập Cty Chế biến Lâm Thủy sản XN Ôtô Cam Ranh 2 Qlộ I Thị trấn Ba 3.296.103 33 2
Cty V.liệu K.Đốt 2.374.137 76 3
1.283.000 27 4
2.241.724 128 5
4.700.000 127 6
2.772.576 237 7
11.008.907 288 8
13.952.876 566 9
4.061.505 107 10
6.391.480 60 11
2.338.514 39 12
16.050.000 627 13
Ngòi -CR 151 Thống Nhất - NT 7 Hoàng Hoa Thám - NT 2 Trần Quý Cáp - NT 27 Hai Tháng Tư -- NT Xã Diên Lạc -Diên Khánh 9 Nguyễn Trọng Kỷ - CR 2 Nguyễn Thiện Thuật - NT 2 Lê Hồng Phong - NT 2 Lê Hồng Phong – NT 1A Hai Bà Trưng - NT 108 Hai Tháng Tư - NT Qlộ I Ba Ngòi - CR 1.382.231 33 14
1.582.411 59 15
Cty Vật tư Khánh Hòa Cty V.tư Thiết bị G.Thông Cty Vtư Nông nghiệp Cty CB gỗ Việt Đức Cty CB T.sản Cam Ranh Cty VL may Nha Trang Cty xe khách Khánh Hoà Cty xe hàng Kh.Hòa Cty Xây lắp điện KH Cty Muối Khánh Hòa XN CB Thực phẩm CR XN CB Thực phẩm KH Công ty May 23 Nguyễn Trường Tộ - NH 12 Lê Thánh Tôn - 4.183.381 559 16
2
NT 11 Yersin - NT 2.916.701 52 17
3.309.676 77 18
27 Tô Hiến Thành - NT
Khánh Hòa Cty ảnh màu Điện tử NT Cty Tư vấn kiến trúc XD Cty XL VLXD KH 303 Lê Hồng 4.807.452 40 19
Phong- NT Vĩnh Hải - NT 15.798.532 119 20
1.230.952 17 21
2.935.117 122 22 Nhà máy Bao bì Đông á Cty Sách thiết bị Trường học XN gỗ giấy 3/2
03 Nguyễn Thị Minh Khai Xã Suối Hiệp Diên Khánh
1 / 56
2 / 275
3 / 115
4 / 67
5 / 41 Công ty Xây dựng thuỷ lợi Công ty Xây dựng giao thông Công ty Đô thị Cam Ranh Công ty Đô thị Ninh Hoà Công ty Đô thị Vạn Ninh
6 Công ty Xây dựng / 700
7 / 94
8 / 320 Công ty Đầu tư du lịch Công ty Cung ứng tàu biển
9 Công ty Cơ khí / 73
10 / 362 Xong PA CP 10/04 Xong PA CP 10/04 Xong PA CP 10/04 Xong PA CP 10/04 Xong PA CP 10/04 Xong PA CP 10/04 Xong PA CP 10/04 Xong PA CP 11/04 Xong PA CP 11/04 Xong PA CP 11/04
11 / 127
12 / 295
II 5.523.121 171
Công ty Nước khoáng Công ty Du lịch Long Phú Nhà máy Dệt Tân Tiến Bộ phận doanh nghiệp
3
2.131.000 60 1
1.932.000 58 2
1.460.121 53 3
/ 13 6.398
Bộ phận 14 2.308 Khách sạn Thắng 4 Pasteur - Nha Lợi Trang XN Muối Cam 15 Qlộ I - Cam Nghĩa Ranh Khách sạn Hữu 3 Trần Hưng Đạo - NT Nghị Xí nghiệp KT & DV thuỷ sản Xí nghiệp Chế biến hạt điều Xong PA CP 11/04 Xong PA CP 11/04
15 Nhà máy Đường Ninh Hoà 16 Công ty Điện ảnh 17 Công ty Quản lý cảng cá / Độc lập /
18 Công ty Đô thị Diên Khánh /
Đang làm kiểm toán Đã chuyển thành đơn vị sự nghiệp có thu hoạt động theo Nghị định10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 của Chính phủ
Bán Xí nghiệp Gỗ Lương Sơn Qlộ I xã 7.032.256 1.215.030 322 33 B 1
Vĩnh Lương - NT Xí nghiệp Gỗ Cam Ranh Qlộ I 147.231 16 2
3 XN CB T.phẩm Vạn Ninh 1.454.822 24
4 XN Xi măng Hòn Khói 4.215.173 249
C 1 Giao XN Xây dựng Ninh Hòa 302.950 302.950 14 14
phường Ba Ngòi - NT Trung Dõng - Vạn Bình - VN Xã Ninh Thủy - Ninh Hòa 4 Nguyễn Bỉnh Khiêm - NH