ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ================
TRỊNH VĂN SÚY
CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚCCỦA TỈNH THANH HÓA LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC KINH TẾ
HÀ NỘI - 2004
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
================
TRỊNH VĂN SÚY CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC CỦA TỈNH THANH HÓA
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC KINH TẾ
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
Kinh tế chính trị XHCN
Chuyên ngành
5 02 01
_________________________________________
Mã số:
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Phan Thanh Phố
Lời cam đo
LỜI CAM ĐOAN
HÀ NỘI – 2004
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
CPH : Cổ phần hóa
CP : Cổ phần
CTCP : Công ty cổ phần
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CPH DNNN : Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
CTTNHH : Công ty trách nhiệm hữu hạn
DN : Doanh nghiệp
DNCP : Doanh nghiệp cổ phần
DNNN : Doanh nghiệp nhà nước
HĐQT : Hội đồng quản trị
KTTT : Kinh tế thị trường
SXKD : Sản xuất kinh doanh
TSCĐ : Tài sản cố định
TSLĐ : Tài sản lưu động
TTCK : Thị trường chứng khoán
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
TBCN : Tư bản chủ nghĩa
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
Trang Mở đầu .......................................................................................................... 1
Chương 1: Lý luận và kinh nghiệm chung về cổ phần hóa doanh
nghiệp Nhà nước .......................................................................................... 5
1.1. Khái niệm và tính tất yếu khách quan về cổ phần hóa doanh
nghiệp Nhà nước ....................................................................................... 5
1.2. Quan điểm của Đảng ta về cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ...... 18
1.3. Một số kinh nghiệm chung về cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
ở nước ta và một số địa phương .............................................................. 22
Chương 2: Thực trạng cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước của tỉnh
Thanh Hoá thời gian qua .......................................................... 29
2.1. Tình hình thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở tỉnh
Thanh Hóa ............................................................................................... 29
2.2. Đánh giá chung và những vấn đề bức xúc đặt ra ............................... 50
Chương 3: Phương hướng giải pháp cơ bản đẩy mạnh cổ phần hóa
và hậu cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước của tỉnh
Thanh Hóa thời gian tới ........................................................... 54
3.1. Phương hướng .................................................................................. 54
3.2. Những giải pháp cơ bản, đẩy mạnh cổ phần hóa, hậu cổ phần
hóa doanh nghiệp Nhà nước của tỉnh Thanh Hóa trong thời gian tới ....... 59
Kết luận ....................................................................................................... 83
Danh mục tài liệu tham khảo ..................................................................... 85
Phụ lục ........................................................................................................ 88
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hơn một thập kỷ tổ chức triển khai thực hiện chủ trương cổ phần hóa
DNNN, một vấn đề kinh tế - xã hội nhạy cảm, thu hút sự chú ý của nhiều nhà
nghiên cứu và hoạt động thực tiễn, một vấn đề cho đến nay vẫn còn khá mới
Ở Thanh Hóa, cấp Uỷ Đảng, Chính quyền bước đầu đã quán triệt các
mẻ, thực hiện chưa nhiều và tốc độ còn quá chậm đối với nước ta.
Chỉ thị của Trung ương và của Chính phủ về cổ phần hóa DNNN và cho đến
nay qua triển khai thực hiện bước đầu đã thu được những kết quả nhất định.
Tính đến 31 tháng 12 năm 2003 đã cổ phần hóa được 60 DNNN, nhiều doanh
nghiệp sau cổ phần hóa hoạt động sản xuất kinh doanh có tiến bộ. Song vẫn
còn một số hạn chế như: tiến độ CPH còn chậm, các mục tiêu chủ yếu của
CPH đạt còn thấp, việc xác định giá trị doanh nghiệp trước khi CPH có chổ
chưa hợp lý, còn lúng túng trong việc xây dựng chiến lược sản phẩm và chiến
lược phát triển doanh nghiệp,v.v . Những hạn chế này cần có lời giải thoả
đáng trên cả 2 mặt lý luận và thực tiễn. Nghiên cứu đề tài: “Cổ phần hóa
DNNN của Thanh Hóa”, làm luận văn thạc kinh tế, chuyên ngành kinh tế
chính trị, mã số 5.02. 01 của tác giả là trên ý nghĩa đó.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cổ phần hoá DNNN, một vấn đề kinh tế – xã hội đã và đang thu hút sự
chú ý của nhiều nhà nghiên cứu và hoạt động thực tiễn. Đã có khá nhiều công
trình nghiên cứu khoa học và những bài viết xoay xung quanh vấn đề cổ phần
hóa DNNN. Chẳng hạn:
-“Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam” của PGS – PTS
Hoàng Công Thi và PTS Phùng Thị Đoan , thông tin chuyên đề, Viện Khoa
học Tài chính, Bộ Tài chính, xuất bản năm 1992;
- Những vấn đề lý luận và thực tiễn của cổ phần hóa khu vực kinh tế quốc
1
doanh”. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, mã số 91-98 – 017 của Uỷ Ban
Vật giá Nhà nước, Hà Nội 1992;
- “Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực
tiễn” của PTS Nguyễn Ngọc Quang;.
- “Góp ý kiến về chính sách đối với người lao động khi cổ phần hóa hóa
doanh nghiệp nhà nước” của PTS. Đặng Quang Điệu, kinh tế dự báo tháng
2/1998;
- “Phân vân khi mua cổ phần” của Nguyễn Hoàng, Thời báo kinh tế Việt
Nam, số 6, ngày 21/1/1998;
-“ Một số vấn đề lý luận về công ty cổ phần và vận dụng vào Việt Nam”-
Luận án tiến sĩ kinh tế của Đặng Thị Cẩm Thúy- năm 1999.
--“Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam”- Luận án tiến sĩ kinh
tế của Nguyển Thị Thơm- năm 1999.
-“Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước: mấy vấn đề lý luận và thực tiễn”
của Nguyễn Minh Thông – Phó chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, Tạp chí
cộng sản, số 16, tháng 6/2002…
Các công trình nói trên đã nghiên cứu và luận giải được những vấn đề cơ
bản, có tỉnh chuyên biệt về cổ phần hóa DNNN ở bình diện chung.
Ở Thanh Hóa, các nhà khoa học và các nhà hoạt động thực tiễn của tỉnh
những năm qua cũng đã có những công trình nghiên cứu, nhằm vận dụng và
lý giải các vấn đề thực tiễn để thúc đẩy tiến độ cổ phần hóa DNNN của tỉnh.
Song chưa có công trình nào trình bày một cách hệ thống từ thực trạng đến
định hướng giải pháp của vấn đề cổ phần hóa DNNN ở Thanh Hóa một cách
chuyên biệt. Vì vậy trên cơ sở kế thừa có chọn lọc, luận văn tiếp tục phân
tích, luận giải nhằm góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận và thực
tiễn đang đặt ra về cổ phần hóa DNNN ở Thanh Hóa hiện nay.
3- Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài:
Mục đích:
2
Trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn, kinh nghiệm ở một số tỉnh
khác ở nước ta về cổ phần hóa DNNN, từ đó đề xuất phương hướng và giải
pháp tiếp tục đẩy nhanh tiến độ thực hiện cổ phần hóa DNNN ở Thanh Hóa
trong thời gian tới.
Nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước.
- Đánh giá kết quả và thực trạng cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở
Thanh Hóa; khảo sát một số doanh nghiệp đã cổ phần hóa để rút ra nguyên
nhân thành công, những hạn chế vướng mắc cần được giải quyết.
- Phân tích những quan điểm có tính nguyên tắc và đề xuất các giải pháp
cơ bản nhằm đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa DNNN của Thanh Hóa những
năm tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
- Luận văn lấy việc cổ phần hóa DNNN, một trong các biện pháp sắp
xếp, củng cố và đổi mới DNNN – làm đối tượng nghiên cứu.
- Về phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ nghiên cứu các DNNN mà Nhà
nước không cần nắm 100% vốn của Thanh Hóa.
- Về thời gian: Nghiên cứu từ khi có chủ trương cổ phần hóa DNNN đến
nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Luận văn lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử
làm phương pháp luận chung. Đặc biệt chú trọng sử dụng các phương pháp
đặc trưng của kinh tế chính trị, phương pháp trừu tượng hóa. Ngoài ra còn sử
dụng các phương pháp khác như: thống kê, định lượng, so sánh; phương pháp
mô hình, điều tra v.v…
6- Đóng góp mới và ý nghĩa của luận văn
- Làm rõ thêm tính tất yếu khách quan của cổ phần hóa, nhất là đối với
3
các DNNN của tỉnh Thanh Hóa.
- Thông qua phân tích đưa ra những đánh giá có căn cứ lý luận và phù
hợp với thực tiễn ở Thanh Hóa.
- Đề xuất những phương hướng có tính nguyên tắc và giải pháp tiếp tục
đẩy mạnh cổ phần hóa DNNN ở Thanh Hóa trong thời gian tới.
Kết quả của luận văn có ý nghĩa:
- Góp thêm luận chứng khoa học cho việc hoàn thiện chủ trương cổ phần
hóa DNNN trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá.
6- Kết cấu luận văn
Luận văn ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung được chia thành 3 chương với 7 tiết.
4
Chƣơng 1
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CHUNG
VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC
1.1. KHÁI NIỆM VÀ TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC.
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
Công ty cổ phần
Công ty cổ phần, một khái niệm xuất hiện khá lâu trong lịch sử và mang
tính phổ biến hiện nay. Do vậy, mặc dù, còn có một vài quan niệm hoặc khía
cạnh khác nhau nào đó về khái niệm CTCP, đó cũng là lẽ bình thường.
Theo tôi, có thể hiểu: CTCP là loại công ty đối vốn được hình thành trên
cơ sở liên hợp nhiều vốn cá biệt bằng cách phát hành và bán cổ phiếu; những
người góp vốn bằng cách mua cổ phiếu do công ty phát hành là những cổ
đông. Thực chất CTCP là một loại hình tổ chức doanh nghiệp trong đó các
thành viên cùng góp vốn để sản xuất kinh doanh, cùng hưởng lợi nhuận và
chịu rủi ro tương ứng với phần vốn góp khi công ty thua lỗ .
Công ty cổ phần xuất hiện đầu tiên ở các nước Tây Âu. Đến nay CTCP
đã phát triển qua 3 giai đoạn và đang ở giai đoạn thứ tư.
Giai đoạn 1: Từ đầu thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVIII, giai đoạn này
đã hình thành các công ty đầu tiên trong lĩnh vực lưu thông ở nước Anh, Hà
Lan và một số nước Tây Âu khác.
Giai đoạn 2: Từ cuối thế kỷ XVIII đến cuối thế kỷ XIX giai đoạn này
các CTCP đã phát triển mạnh mẽ sang cả các lĩnh vực sản xuất công nghiệp,
nông nghiệp.
Giai đoạn 3: Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, giai đoạn này
CTCP tiếp tục phát triển mạnh mẽ và sâu rộng: đến những thập niên cuối của
thế kỷ XX: 21% dân cư Thụy Điển có cổ phần; gần 40 triệu người nước Mỹ,
trong đó có khoảng 12 triệu người lao động làm thuê có cổ phần… đến cuối
5
thập niên 80 của thế kỷ XX nước Mỹ có khoảng 10.000 CTCP, trong đó công
nhân có từ 1 – 10% tư bản cổ phần [6, 83, 84].
Cùng với sự phát triển của CTCP qua các giai đoạn cho thấy sự ra đời
và phát triển của CTCP không phải là ngẫu nhiên mà là kết quả của trình độ
phát triển xã hội hoá sản xuất, là kết quả của quá trình giải quyết mâu thuẫn
giữa nhu cầu tập trung vốn với quy mô lớn trong một thời gian ngắn để đáp
ứng nhu cầu phát triển sản xuất với sự hạn chế của tích tụ vốn trong từng xí
nghiệp riêng lẻ.
Trong lịch sử cho đến nay, có 3 con đường chính để hình thành CTCP:
Thứ nhất: Phát triển theo con đường truyền thống bằng sự liên kết các
tư bản riêng lẻ, các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và sự liên kết giữa các
công ty tư nhân do nhu cầu tăng vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, từ đó
hình thành nên các công ty cổ phần.
Thứ hai: Do sự liên doanh, liên kết giữa tư bản trong và ngoài nước.
Chẳng hạn, CTCP liên quốc gia giữa nước Anh và nước Pháp trong việc xây
dựng đường sắt (1860 – 1880) hoặc việc sản xuất máy bay Boing của Mỹ đã
phải huy động tới 65 công ty của trên 30 nước, đặc biệt với xu thế toàn cầu
hóa nền kinh tế hiện nay sự liên kết tư bản quốc tế đã không còn dừng lại ở
phạm vi tư bản tư nhân và các tổ chức độc quyền với nhau mà còn có sự tham
gia của các Chính phủ, giữa các nước với nhau. Theo số liệu thống kê của
UNCTAD đến nay, trên thế giới có khoảng 60 nghìn CTCP tồn tại dưới hình
thức Tập đoàn kinh tế. Trong lĩnh vực công nghiệp trên thế giới có khoảng
2000 công ty độc quyền thu hút khoảng 33 triệu lao động làm thuê, kiểm soát
khoảng 40% sản lượng công nghiệp thế giới; 60% ngoại thương và khoảng 80
- 85% kỹ thuật mới của thế giới.
Thứ ba: Do cổ phần hóa doanh nghiệp hoặc một phần doanh nghiệp nhà
nước. Vào nửa đầu thế kỷ XX, cùng với các thành tựu mới của khoa học kỹ
6
thuật và sự xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất mới đã xuất hiện những
doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò là đầu tầu, là công cụ điều tiết kinh tế của
các nhà nước xong sau một thời gian tồn tại và hoạt động, các doanh nghiệp
nhà nước nhìn chung làm ăn kém hiệu quả.
Chẳng hạn, ở Italia là nước có tỷ trọng sở hữu nhà nước trong nền kinh
tế cao nhất thì thâm hụt của DNNN là 4,5% GDP; Bồ Đào Nha khu vực kinh
tế quốc doanh thua lỗ là 1/3 GDP trong suốt thời gian từ 1974 - 1986 [28] các
nước tư bản khác đều có hiện tượng tương tự. Vì vậy từ những năm 80 của
thế kỷ XX lại đây ở khắp các nước trên thế giới đã diễn ra quá trình tư nhân
hóa và cổ phần hóa các DNNN. Đến nay đã có hơn 80 nước đang phát triển
thuộc mọi hệ tư tưởng chính trị khác nhau đã tiến hành cổ phần hóa rất tích
cực. Có thể nói cổ phần hóa là một trong những nội dung chủ yếu của công
cuộc cải cách DNNN nói riêng và cải cách kinh tế nói chung ở các nước đang
phát triển. Trong năm 1997 Đài Loan đã tiến hành cổ phần hóa một số DNNN
trong các ngành công nghiệp và nông nghiệp. Malayxia nhà nước đã nhượng
nhiều cổ phần chủ yếu trong 29 doanh nghiệp tại thị trường Kulalumpua và
năm 1990 nhà nước đã mở cửa cho tư nhân hóa tham gia đến 30% cổ phần
trong ngân hàng quốc gia.
Đối với nước ta, những năm qua trong từng bước đẩy mạnh hình thành
CTCP theo cả 3 con đường trên, trong đó cổ phần hóa DNNN đã và đang
được Đảng, nhà nước quan tâm chỉ đạo, cổ phần hóa được coi là trung tâm
của quá trình cải cách và cấu trúc lại DNNN.
Như vậy, tuy có nhiều con đường hình thành CTCP, song thực chất của
CTCP là sự chuyển sở hữu tư nhân thành sở hữu tập thể của các cổ đông, đó
là sự phát triển tất yếu. Đúng như Các Mác đã khẳng định: “Sự xuất hiện
CTCP là kết quả của sự phát triển của lực lượng sản xuất và là bước quá độ từ
sở hữu tư nhân lên sở hữu tập thể của các cổ đông”. [ 22 ]
7
Khái niệm doanh nghiệp Nhà nước
DNNN là hình thức doanh nghiệp do nhà nước lập ra đầu tư vốn và quản
lý vốn với tư cách sở hữu đồng thời là pháp nhân kinh tế, hoạt động theo pháp
luật và bình đẳng trước pháp luật. Hoạt động theo định hướng của nhà nước
để thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do nhà nước giao.
Theo NĐ 388, ngày 20 tháng 11 năm 1991 của HĐBT, nay là Chính phủ,
DNNN là tổ chức kinh doanh do nhà nước thành lập, đầu tư vốn và quản lý
với tư cách chủ sở hữu.
Luật doanh nghiệp (sửa đổi) cũng đã khẳng định “DNNN là tổ chức kinh
tế do nhà nước đầu tư vốn thành lập và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh
hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do nhà
nước giao”.
Như vậy, DNNN là doanh nghiệp do nhà nước thành lập, đầu tư vốn và
quản lý với tư cách chủ sở hữu, có 2 loại: các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh thu lợi nhuận và các doanh nghiệp hoạt động nhằm mục đích công ích,
thực hiện các chính sách xã hội của nhà nước hoặc phục vụ Quốc phòng an
ninh.
Khái niệm cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Để có nhận thức đúng về khái niệm cổ phần hoá DNNN, cần có sự phân
biệt giữa 2 khái niệm tư nhân hóa và cổ phần hóa.
Trước hết về mặt phương pháp luận để nhận thức đúng các khái niệm nói
trên không được tách rời mà phải gắn liền với với đối tượng cần được giải
quyết là DNNN ở các nước trên thề giới trong đó, có nước ta. Từ phương
pháp luận đó, có thể hiểu:
Tư nhân hóa là quá trình chuyển sở hữu nhà nước sang sở hữu tư nhân,
đồng thời chuyển hóa lĩnh vực sản xuất kinh doanh từ độc quyền của nhà
nước cho tư nhân và do tư nhân đảm nhiệm.
8
Cổ phần hóa DNNN về thực chất là là phương thức thực hiện xã hội hóa
sở hữu về vốn theo hướng chuyến sở hữu nhà nước trong DNNN thành công
ty cổ phần của nhiều chủ sở hữu để tạo vốn thông qua phát hành và mua bán
cổ phiếu nhằm tạo ra một mô hình doanh nghiệp phù hợp với nền kinh tế thị
trường, có sức cạnh tranh, sản xuất kinh doanh có hiệu quả đáp ứng được yêu
cầu phát triển doanh nghiệp bền vững phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực.
Cổ phần hóa và tư nhân hóa có liên quan đến hình thức sở hữu nhà nước
về vốn trước và sau CPH hay tư nhân hóa. Song cổ phần hóa và tư nhân hóa
là hai khái niệm có sự khác nhau nhất định:
- Về pháp lý: Cổ phần hóa DNNN là chuyển doanh nghiệp sở hữu vốn
từ một chủ là nhà nước sang sở hữu vốn của nhiều chủ là các cổ đông. Còn tư
nhân hóa là chuyển doanh nghiệp sở hữu vốn một chủ là nhà nước sang doanh
nghiệp một chủ sở hữu là tư nhân. Về mặt lý luận cũng như thực tiễn đã
chứng minh rằng: Nếu doanh nghiệp chỉ thuộc quyền sở hữu một chủ thì phát
sinh hiện tượng độc quyền, lũng đoạn (đối với sở hữu tư nhân) hoặc độc
quyền, cửa quyền, tiêu cực, kém hiệu quả (đối với sở hữu nhà nước).
- Về cơ chế quản lý: Cơ chế quản lý một chủ (tư nhân) thường kéo theo
sự độc đoán, chủ quan, tuỳ tiện, những khuyết tật đó vừa không phù hợp với
cơ chế thị trường vừa trái với định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng và Nhà
nước ta. Trái lại, cơ chế quản lý của CTCP do Hội đồng Quản trị chịu trách
nhiệm, giám đốc chỉ là người thừa lệnh thay mặt Hội đồng Quản trị để điều
hành sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần theo các chiến lược và chương
trình của Hội đồng quản trị nên vừa phù hợp với cơ chế thị trường vừa đảm
bảo phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng và Nhà nước.
- Về tài chính: Doanh nghiệp tư nhân luôn hạn chế về việc huy động
vốn, sử dụng vốn không hiệu quả và quản lý thiếu chặt chẽ, còn việc quản lý
9
tài chính của CTCP do bản chất của nó, nên việc quản lý tài chính có điều
kiện diễn ra chặt chẽ và hiệu quả hơn. Hơn thế trong cổ phần hóa DNNN, Nhà
nước có thể là cổ đông có thị phần vốn khống chế, hoặc cũng có thể không
còn là cổ đông , song dù trong trường hợp nào, các công ty cổ phần sau cổ
phần hóa DNNN vẫn không thể trở thành doanh nghiệp tư nhân. Vì trong quá
trình cổ phần hóa, tài sản của DNNN được bán cho nhiều đối tượng cổ đông
khác nhau, nên thuộc sở hữu của nhiều chủ khác nhau và nguồn vốn góp
không do từng cá nhân sử dụng mà được sử dụng mang tính chất chung của
CTCP.
Như vậy, hình thức sở hữu tại các doanh nghiệp sau cổ phần hóa chính là
sự chuyển từ sở hữu nhà nước duy nhất sang sở hữu tập thể của các cổ đông.
Còn tư nhân hóa thì DNNN sau tư nhân hóa sẽ tạo ra chủ sở hữu mới là tư
nhân và DNNN thành doanh nghiệp tư nhân và cổ phần hoá và tư nhân hóa
chỉ là một khi cổ phần hóa DNNN được thực hiện bằng hình thức bán toàn
bộ số cổ phần của doanh nghiệp cho một cá nhân. Đó chính là sự khác nhau
căn bản giữa cổ phần hóa và tư nhân hóa. Sự khác nhau này có ý nghĩa chính
trị - xã hội to lớn vì một DNNN trở thành một CTCP hoặc một doanh nghiệp
tập thể sẽ làm cho sức mạnh và khả năng phát triển của nó lớn hơn nhiều so
với doanh nghiệp tư nhân. Do vậy, tính xã hội và tính nhân văn trong hoạt
động và kết quả sản xuất kinh doanh của các công ty cổ phần cũng cao hơn
nhiều so với doanh nghiệp tư nhân.Từ sự thay đổi sở hữu sẽ dẫn đến sự thay
đổi về hình thức tổ chức, quản lý cũng như phương thức hoạt động của doanh
nghiệp. DNNN sau khi tư nhân hóa sẽ trở thành doanh nghiệp tư nhân và hoạt
động theo một doanh nghiệp tư nhân, còn DNNN sau cổ phần hóa sẽ trở
thành CTCP có điều lệ và có thể thức hoạt động theo cơ chế của công ty cổ
phần.
Sau cổ phần hóa DNNN, các công ty cổ phần sẽ có các dạng cơ bản sau.
10
+ Công ty cổ phần mà nhà nước là cổ đông có thị phần vốn chi phối,
hay thị phần vốn đặc biệt. Ở đây nhà nước là một cổ đông có ưu thế và chi
phối được công ty và các cổ đông khác. (Thường vốn của nhà nước ở các
doanh nghiệp này là 51% tổng số vốn của doanh nghiệp hoặc cổ phần của nhà
nước ít nhất gấp hai lần cổ phần của cổ đông lớn nhất khác trong CTCP).
+ Công ty cổ phần mà nhà nước là cổ đông có thị phần vốn thông
thường, nghĩa là nhà nước chỉ chiếm một lượng vốn nào đó để hưởng lợi tức
không có giá trị chi phối, đặc biệt.
+ Công ty cổ phần mà nhà nước không có thị phần vốn, ở đây về hình
thức sở hữu đã biến đổi từ sở hữu nhà nước sang sở hữu tập thể của các cổ
đông
- Căn cứ tính chất sở hữu về vốn của cổ đông, có các dạng công ty cổ
phần như:
+ Công ty cổ phần tư bản tư nhân. Loại công ty này dựa trên hình thức
sở hữu tư nhân TBCN về vốn và dựa trên lao động làm thuê.
+ Công ty cổ phần hợp tác xã (HTX) được hình thành từ việc bán DNNN
cho tập thể người lao động của doanh nghiệp, cổ đông đồng thời cũng là
người lao động trực tiếp nên thu nhập của họ gồm hai phần: phần hưởng theo
công lao động (tiền lương) và phần lãi cổ phần (gọi là cổ tức). Loại công ty cổ
phần này người lao động đã là chủ thực sự tránh được “tình trạng tài sản của
nhà nước không có người làm chủ trực tiếp” [4 ] , có tác dụng ngăn chặn từ
gốc tệ tham nhũng, thiếu trách nhiệm làm thất thoát tài sản công như trước
đây của một số DNNN. Dạng công ty cổ phần này cần có sự quan tâm hỗ trợ
của nhà nước về cơ chế, chính sách.
+ Công ty tư bản - nhà nước, là sự hợp doanh hoặc liên doanh liên kết
giữa nhà nước với các nhà tư bản trong hoặc ngoài nước. Công ty này có vai
trò, tác dụng to lớn đối với các nước đang phát triển nói chung và ở nước ta
11
nói riêng, vì một mặt nhà nước vẫn giữ được sự kiểm soát công ty, mặt khác
lại tranh thủ được nguồn ngoại lực góp phần thúc đẩy CNH, HĐH đất nước
và tăng trưởng kinh tế.
12
1.1.2. Thiên hướng hình thành DNNN và tính tất yếu khách quan cổ
phần hoá DNNN
1.1.2.1- Thiên hướng hình thành DNNN
Trong lịch sử phát triển thế giới đã tồn tại hai thiên hướng khác nhau đối
với sự hình thành và tồn tại các DNNN.
- Thiên hướng thứ nhất là xây dựng nền kinh tế chủ yếu dựa vào các
DNNN mà nguyên nhân do quá đề cao vai trò nhà nước trong quản lý kinh tế
quốc dân, nhiều nước đã cường điệu khả năng và sức mạnh của kinh tế nhà
nước trong phát triển kinh tế nên đã phát triển quá mức quy mô và tốc độ xây
dựng DNNN. Thiên hướng này, một thời các DNNN đã góp phần không nhỏ
đối với việc đáp ứng được các mặt hàng và dịch vụ thiết yếu cho nhân dân,
làm tròn được nhiệm vụ đặc biệt đối với quốc phòng - an ninh. Song DNNN ở
các nước này đều có một căn bệnh chung là: hiệu quả lợi ích kinh tế thấp
nhiều so với các công ty tư nhân. Theo điều tra của ngân hàng thế giới vào
những năm 80 của thế kỷ XX. Trong 244 DNNN của Tây Ban Nha thì gần
200 doanh nghiệp bị thua lỗ, hầu hết các DNNN của Bồ Đào Nha đều thu
không đủ chi, trong đó có nhiều doanh nghiệp bên bờ vực phá sản.
Để duy trì DNNN, các chính phủ đều phải bù lỗ từ ngân sách nhà nước.
Đó là nguyên nhân chính dẫn đến thâm thủng ngân sách ở các nước đi theo
thiên hướng này.
- Thiên hướng thứ hai, một số nước lại quá tin tưởng vào sự điều tiết của
“bàn tay vô hình” sự tự điều tiết của thị trường, xem nhẹ vai trò của Nhà nước
và kinh tế nhà nước, từ đó muốn tư nhân hoá hoàn toàn DNNN. Thiên hướng
này, dựa trên cơ sở lợi dụng những mặt tích cực, có khả năng tự điều chỉnh
của cung cầu, điều phối các yếu tố sản xuất, kích thích tiến bộ kỹ thuật thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển cả chiều rộng
và chiều sâu tạo điều kiện cho các nền kinh tế có thể tăng tốc nhanh và cất
13
cánh. Nhưng thiên hướng này không thấy rằng kinh tế thị trường cũng mang
trong mình nó những khuyết tật như: tính tự phát, bất ổn định, chạy theo lợi
nhuận thuần tuý, là nguyên nhân của những tiêu cực như: làm hàng giả, lừa
dối, trốn thuế, và các hiện tượng kinh tế khác. Cũng vì lợi nhuận các doanh
nghiệp đã lao vào cạnh tranh để săn tìm lợi nhuận cao nên ít quan tâm tới
những ngành nghề không có lợi nhuận hoặc lợi nhuận thấp gây ra sự mất cân
đối khủng hoảng, thất nghiệp, phân hóa giàu nghèo quá đáng v.v…
Lý luận và thực tiễn cho thấy Nhà nước nào hoàn toàn đi theo lý thuyết
“Bàn tay vô hình”, đặt sự phát triển của nền kinh tế thuần tuý trên cơ sở kinh
tế thị trường và khu vực kinh tế tư nhân, xem nhẹ vai trò quản lý kinh tế của
nhà nước và kinh tế nhà nước, sẽ làm cho nền kinh tế không thể tăng trưởng
và phát triển bền vững, sớm muộn sẽ rơi vào khủng hoảng dẫn đến mất ổn
định chính trị, xã hội. Ngược lại, nếu chỉ dựa hoàn toàn vào khu vực kinh tế
nhà nước và vai trò quản lý kinh tế của nhà nước, xem nhẹ thị trường và khu
vực kinh tế tư nhân, sẽ làm mất đi động lực, nền kinh tế không sống động,
kìm hãm tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Sau những thành công và thất bại, cho đến nay hầu hết ở các nước
nghiêng về xu hướng xây dựng mô hình kinh tế hỗn hợp, trong đó kinh tế nhà
nước, kinh tế tư nhân, cơ chế thị trường và các công cụ điều tiết của nhà nước
như: kế hoạch, pháp luật, các đòn bẩy kinh tế… đều được coi trọng.
Để khắc phục những hạn chế cố hữu, kinh doanh kém hiệu quả của các
DNNN, xu hướng chung của các nước là thực hiện tư nhân hóa các DNNN
trong đó có CPH.
Ở Việt Nam, doanh nghiệp quốc doanh trước đây (nay là DNNN, một bộ
của kinh tế nhà nước) ra đời và phát triển trong bối cảnh các nước XHCN
trước đây đã thực thi mô hình kinh tế kế hoạch hóa chỉ huy dựa trên nền tảng
công hữu XHCN về tư liệu sản xuất vận động theo cơ chế bao cấp, nên khi
chuyển sang kinh tế thị trường định hướng XHCN nhiều DNNN khó thích
14
nghi, đã bộc lộ những hạn chế và bất cập. Có nhiều nguyên nhân song nguyên
nhân cơ bản là do trong nhận thức có sự ngộ nhận cho rằng xây dựng DNNN
càng nhiều, thì càng nhanh đến mục tiêu của CNXH. Do chạy theo số lượng,
nhiều DNNN ra đời khi chưa hội đủ các điều kiện cần thiết, hình thành
DNNN một cách ồ ạt, dẫn đến những năm đầu của thập kỷ 90 của thế kỷ XX,
số lượng DNNN phát triển quá nhiều. Theo đánh giá của nhiều tài liệu khác
nhau, năm 1991 trên phạm vi cả nước số DNNN sản xuất kinh doanh có lãi
chỉ chiếm khoảng 20 - 25%, số xí nghiệp thua lỗ cần giải thể khoảng 30 –
35%, số còn lại đang gặp nhiều khó khăn về tài chính và thị trường. Tình
trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau trở thành phổ biến, nợ và khả năng mất vốn
của các DNNN ngày càng tăng.
Sau nhiều năm đổi mới, tổ chức, sắp xếp lại, theo thống kê cho đến nay
nước ta còn khoảng 5000 DNNN, đang nắm giữ những ngành nghề, những
lĩnh vực then chốt là xương sống của nền kinh tế. Một số doanh nghiệp đã chú
trọng đổi mới thiết bị, tích cực ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật nâng
cao được chất lượng và hiệu quả tăng thu nhập cho người lao động, đã thực
hiện được một số nhiệm vụ kinh tế xã hội cơ bản, đóng góp một phần quan
trọng vào ngân sách nhà nước, góp phần không nhỏ vào việc khắc phục sự
mất cân đối, giảm bớt sự lệ thuộc với bên ngoài, giải quyết được khoảng 1,8
triệu lao động. Tuy vậy, việc củng cố, sắp xếp, đổi mới DNNN chưa tương
xứng với yêu cầu đặt ra. Nhìn chung hiệu quả kinh tế - xã hội của nhiều
DNNN chưa cao, không ít DNNN còn yếu kém bất cập, sản xuất kinh doanh
thua lỗ.
Để DNNN có thể đứng vững trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực, phải tiếp tục tổ chức sắp xếp lại DNNN với nhiều hình
thức trong đó có chủ trương đẩy mạnh CPH DNNN.
1.1.2.2. Cổ phần hóa DNNN là một tất yếu khách quan
Một là: CPH DNNN đáp ứng yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất phải phù
15
hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Ở nước ta, CPH DNNN thực chất là thực hiện xã hội hoá sở hữu về vốn
nhằm tạo ra các hình thức sở hữu phù hợp với đặc điểm nền kinh tế tồn tại
nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Nói cách khác, CPH
DNNN là bắt nguồn từ yêu cầu hoàn thiện quan hệ sản xuất cho phù hợp với
tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nhằm thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển, phát huy các nguồn lực trong và ngoài nước, không
ngừng nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của DNNN
Hai là: Cổ phần hoá DNNN là do yêu cầu nội tại của bản thân các
DNNN.
Muốn đứng vững và chiến thắng trong cạnh tranh trên thương trường
trong nước và thế giới phải xác định đúng chiến lược sản xuất kinh doanh,
chiến lược đầu tư, chiến lược sản phẩm của từng doanh nghiệp, phải đẩy
mạnh liên doanh, liên kết, chủ động tìm kiếm thị trường sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm, không ngừng đổi mới trang thiết bị hiện đại, tạo ra bước đột phá
về chất lượng, giảm giá thành sản xuất, cải tiến mẫu mã đáp ứng ngày càng
cao thị hiếu người tiêu dùng. Muốn vậy, phải chuyển đổi DNNN thành
CTCP, chính cổ phần hoá DNNN nó sẽ tạo ra được bước đột phá đảm bảo cho
các DNNN có điều kiện phát triển hơn so với trước ngày CPH DNNN.
Ba là: CPH DNNN đáp ứng yêu cầu của việc sử dụng vốn nhà nước phù
hợp hơn, hiệu quả hơn. Mục đích chung nhất của CPH DNNN là tối ưu hóa
việc bố trí vốn nhà nước trên thương trường sao cho: với một lượng vốn ít
nhất của ngân sách nhà nước nhưng lại tạo ra được vị thế tối đa cho sự hiện
diện của vốn nhà nước trong hệ thống các doanh nghiệp của các thành phần
kinh tế để nhà nước tác động vào nền kinh tế có hiệu quả nhất. Điều đó chỉ có
thể đạt được thông qua CPH DNNN, vì CPH DNNN vừa đạt được mục đích
giải phóng vốn nhà nước ra khỏi một số ngành lĩnh vực mà nhà nước không
16
cần nắm giữ 100% vốn, vừa khắc phục được mâu thuẫn cố hữu giữa một bên
là vốn nhà nước còn hạn hẹp với một bên là yêu cầu đầu tư quá dàn trải ở mọi
ngành, mọi lĩnh vực. Đồng thời qua CPH đã loại được các DNNN lâu nay làm
ăn thua lỗ, không còn lý do tồn tại với tư cách DNNN, nhưng chưa được giải
quyết để kéo dài.
Bốn là: CPH DNNN là phương thức quan trọng để nhà nước phát huy tốt
nguồn nội lực, đồng thời thu hút và kiểm soát được nguồn ngoại lực một cách
có hiệu quả nhất, góp phần. Quan trọng vào việc hình thành và phát triển thị
trường chứng khoán rất cần thiết choa các doanh nghiệp ở nước ta. Vì muốn
cho doanh nghiệp phát triển thì cần phải có các yếu tố: thị trường, vốn, thiết
bị công nghệ và con người, trong đó vốn và con người là những thành tố quan
trọng nhất, hai yếu tố này là nội lực tiềm ẩn trong các thành phần kinh tế và
trong nhân dân lao động, một thời kỳ dài nhưng chưa được khai thác. Thông
qua CPH DNNN sẽ giải quyết được vấn đề bức xúc đó, làm cho người lao
động trở thành người chủ sở hữu thực sự gắn với lợi ích mà họ được hưởng
bằng cổ tức theo cổ phần đã mua.
Doanh nghiệp CPH hình thành không chỉ thu hút nguồn vốn trong nuớc
mà còn có tác dụng thu hút vốn và công nghệ tiên tiến của nước ngoài, một
trong những nhiệm vụ quan trọng của tất cả các nhà nước nhất là các nước
chậm và đang phát triển như nước ta. Muốn vậy, nhà nước một mặt thông qua
luật đầu tư và chính sách kinh tế đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa để tạo
được niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài, mặt khác nhà nước phải có vốn
thông qua những hình thức hợp tác và liên doanh ,liên kết mà nhà nước là một
cổ đông chính, Từ đó tạo khả năng khai thác được lợi ích khi có sự đầu tư của
nước ngoài vào nước ta, tạo thế đứng về kinh tế để nhà nước thực hiện được
hai mặt trên.
17
Năm là: CPH DNNN, cùng với việc làm tăng vốn cho các doanh nghiệp
sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả quản lý, đổi mới công
nghệ từ đó làm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, đồng thời CPH cũng làm
cho DNNN có chủ thực sự, khắc phục được những yếu kém cố hữu trong quản
lý sản xuất kinh doanh , các tệ nạn tham ô, lãng phí, thiếu trách nhiệm, gây nên
những hậu quả nghiêm trọng trong các DNNN trước đây.
Có thể nói, CPH DNNN, một giải pháp có nhiều tính ưu việt. Điều này đã
được chứng minh không chỉ ở Việt Nam mà với cả các nước khác trên thế
giới. Vào đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, CPH diễn ra đầu tiên ở nước Anh
và lan nhanh sang nhiều nước khác ở châu Âu, châu Mĩ La Tinh. Tuy mỗi
nước có phương thức tiến hành đặc thù song CPH đã thực sự mang lại sức
sống mới cho DNNN. Thực tế tại Việt Nam, qua kết quả hoạt động của 11
doanh nghiệp CPH trong thời kỳ thí điểm cho ta thấy rất rõ điều đó:
- Khả năng huy động vốn của 11 doanh nghiệp CPH đã tăng lên rõ rệt.
Trước khi CPH, tổng vốn của 11 doanh nghiệp là 26 tỷ đồng, khi chuyển
thành CTCP vốn điều lệ là 75,1 tỷ đồng. Hơn thế chỉ sau 3 năm đi vào hoạt
động các công ty này đã bổ sung vốn từ lợi nhuận sau thuế vào vốn điều lệ,
tính đến 31/12/1997 tổng vốn điều lệ của 11 doanh nghiệp đã lên tới 157 tỷ
đồng, tăng gấp 2,1 lần vốn điều lệ ban đầu.
- Về lao động và việc làm tăng lên rõ rệt. Sau CPH tổng số lao động ở 11
công ty là 4.263 người tăng 1.113 người so với trước khi CPH. Thu nhập của
người lao động cũng tăng từ 564.000đ/người/tháng lên 1.157.000đ/người/ tháng.
- Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của 11 doanh nghiệp sau CPH
cũng tăng lên: doanh thu tăng 3,1 lần, lợi nhuận tăng 6,2 lần, nộp ngân sách
tăng 3,6 lần, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu trước là 27% nay tăng lên
52,5%, thu nhập cổ tức trên vốn góp bình quân 2 - 3%/ tháng. [5]
18
Thực tiễn những năm qua mặc dù tốc độ CPH còn chậm, một số doanh
nghiệp sau CPH vẫn còn gặp nhiều khó khăn do cơ chế chính sách chưa đồng
bộ, đôi khi chồng chéo, hiểu biết của người lao động và các nhà quản lý về
CPH còn nhiều hạn chế. Song với những tính ưu việt của các CTCP sau CPH
từ DNNN đã chứng minh chủ trương CPH DNNN là rất đúng đắn của Đảng
và Nhà nước, một trong những con đường để DNNN giữ vững thế đứng và
phát triển bền vững trong kinh tế thị trường và xu hướng toàn cầu hóa, khu
vực hóa.
19
1.2. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA VỀ CPH DNNN 1.2.1. Quan điểm về mục tiêu, đối tƣợng và hình thức CPH DNNN
- Cổ phần DNNN là nhằm mục tiêu: “Huy động thêm vốn, tạo thêm động
lực thúc đẩy DNNN kinh doanh có hiệu quả làm cho tài sản nhà nước ngày
càng tăng lên, không phải để tư nhân hóa” [5]. CPH những DNNN mà nhà
nước không cần nắm giữ 100% vốn là một nội dung, một mục tiêu quan trọng
trong tiến trình đổi mới và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh
tranh của DNNN. Đó là những tư tưởng chủ đạo xuyên suốt quá trình lãnh
đạo đổi mới sắp xếp doanh nghiệp nhà nước của Đảng ta hơn 12 năm qua.
Hội nghị BCH TW lần thứ 3 khoá IX tháng 8/2001 đã nhấn mạnh thêm
về: “Mục tiêu CPH DNNN là nhằm tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều
chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động, để sử dụng có hiệu quả
vốn, tài sản của nhà nước và huy động thêm vốn xã hội vào phát triển sản
xuất kinh doanh, tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động, có hiệu
quả cho DNNN; phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của cổ
đông và tăng cường giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp, bảo đảm hài
hòa lợi ích của nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. CPH DNNN
không được biến thành tư nhân hóa DNNN”. [13]
- Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành TƯ 3 khoá IX đã chỉ rõ: “Đối
tượng CPH là những DNNN hiện có mà nhà nước không cần nắm giữ 100%
vốn, không phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh. Cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, căn cứ vào điều kiện thực tế của từng doanh nghiệp mà quyết
định chuyển DNNN hiện có thành CTCP, trong đó nhà nước có cổ phần chi
phối, cổ phần đặc biệt, cổ phần ở mức thấp hoặc nhà nước không giữ cổ
phần”.
- Hình thức cổ phần bao gồm: Giữ nguyên giá trị doanh nghiệp, phát
hành cổ phiếu để thu hút thêm vốn; Bán một phần giá trị hiện có của doanh
20
nghiệp cho các cổ đông, trong đó nhà nước có cổ phần chi phối, cổ phần đặc
biệt; CPH đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp; chuyển toàn bộ doanh nghiệp
thành CTCP. Trường hợp CPH đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp thì không
được gây khó khăn hoặc làm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh các
bộ phận còn lại của doanh nghiệp. [13]
1.2.2- Quan điểm về lộ trình và biện pháp giải quyết các vấn đề mới
nãy sinh trong tiến trình CPH DNNN
- Hội nghị Ban chấp hành TW 2 (Khóa VII), tháng 12/1991 Đảng ta đã
khẳng định: việc chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành
CTCP và thành lập một số công ty quốc doanh mới, phải làm thí điểm chỉ đạo
chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng trong phạm vi thích hợp.
- Sau thời kỳ thí điểm, Đảng ta đã khẳng định phải triển khai tích cực và
vững chắc việc CPH DNNN để huy động thêm vốn, tạo thêm động lực thúc
đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, làm cho tài sản nhà nước ngày càng
tăng, không phải để tư nhân hóa. Bên cạnh những doanh nghiệp 100% vốn
nhà nước, cần có nhiều DNNN nắm đa số hay nắm tỷ lệ cổ phần chi phối. Gọi
thêm cổ phần hay bán cổ phần cho người lao động tại doanh nghiệp, cho các
tổ chức và cá nhân ngoài doanh nghiệp tuỳ từng trường hợp cụ thể, vốn huy
động được phải dùng để đầu tư sản xuất kinh doanh. Tư tưởng CPH DNNN
của Đảng ta luôn gắn chặt với việc đổi mới cơ chế quản lý, đổi mới cơ sở vật
chất của doanh nghiệp, không ngừng nâng cao năng lực sản xuất và kinh
doanh, đồng thời đảm bảo tính định hướng của nhà nước trong một số lĩnh
vực quan trọng của đời sống kinh tế xã hội. “CPH DNNN phải gắn liền với
đổi mới cơ chế quản lý, để tạo động lực, phát huy mạnh hơn vai trò làm chủ
và tính năng động, sáng tạo của người lao động trong quản lý doanh nghiệp,
đồng thời phải đảm bảo vai trò quản lý của nhà nước trên cơ sở giữ vững số
cổ phần cần thiết chi phối của nhà nước tại doanh nghiệp". [5].
21
- Bên cạnh đó trong CPH phải luôn chú ý có chính sách khuyến khích
cán bộ công nhân trong doanh nghiệp CPH mua cổ phần, không để chênh
lệch quá lớn giữa lãnh đạo doanh nghiệp và người lao động. Có chính sách hỗ
trợ công nhân nghèo mua được một số cổ phần cần thiết nhằm tạo động lực,
góp phần xóa đói, giảm nghèo và thực hiện công bằng xã hội.
Sau giai đoạn thí điểm, Đảng chủ trương triển khai rộng khắp CPH
DNNN trong cả nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tháng
4/2001, đã tiếp tục khẳng định nhất quán quan điểm CPH DNNN và nhấn
mạnh cần phải: “Hoàn thành cơ bản việc CPH các DNNN mà nhà nước không
cần nắm giữ 100% sở hữu vốn. Ưu tiên bán cổ phần cho người lao động, mở
rộng việc bán cổ phần cho nhà đầu tư trong và ngoài nước”. [11].
Để đẩy nhanh lộ trình CPH DNNN, Hội nghị BCH TW lần thứ 3 khoá
IX tháng 8/2001 đã ra NQ chuyên đề về: tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển
và nâng cao hiệu quả DNNN. Trong đó, tiếp tục coi CPHDNNN là một giải
pháp quan trọng của cải cách DNNN và đã chỉ rõ thêm đối tượng của CPH và
các hình thức CPH.
Đồng thời Đảng còn định hướng rõ các giải pháp để tháo gỡ những khó
khăn trong CPH DNNN như phương pháp xác định tài sản doanh nghiệp,
chính sách giải quyết công nợ, chính sách đối với người lao động dôi ra trong
CPH DNNN. Trên cơ sở đó Chính phủ đã ra nhiều nghị định để cụ thể hóa
chủ trương CPH của Đảng.
Có thể nói CPH DNNN, một khâu trong tổng thể của quá trình cải cách
và cấu trúc lại DNNN làm cho DNNN ngày càng hoạt động có hiệu quả sản
xuất kinh doanh cao, giữ vững vai trò nòng cốt trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN.
1.2.3. Quan điểm về nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh các
CTCP từ DNNN
22
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3, BCH TW Đảng khoá IX đề ra :“Sắp xếp
đổi mới, phát triển nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của DNNN để DNNN
góp phần quan trọng bảo đảm tạo ra các sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu
của xã hội và nhu cầu cần thiết của Quốc phòng, an ninh, là lực lượng nòng
cốt đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và tạo nền tảng cho CNH, HĐH đất nước
theo định hướng XHCN”.
- Đảng còn nhấn mạnh: Trong 8 hình thức tổ chức sắp xếp lại DNNN,
hình thức CPH DNNN được xem là khâu trung tâm để tạo ra chuyển biến cơ
bản trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của DNNN . Đó là vì:
Thứ nhất, các hình thức giao khoán, cho thuê DNNN đều có một đặc điểm
chung là không làm thay đổi quyền sở hữu. Nghĩa là sau khi giao khoán thì chỉ
thay đổi quyền sử dụng tài sản của doanh nghiệp là thuộc những người nhận
khoán và đi thuê còn quyền sở hữu vẫn thuộc nhà nước, nên họ không được
làm chủ tài sản, không được quyết định các vấn đề về sử dụng tài sản để cho
thuê hoặc thế chấp vay vốn, nên hạn chế hiệu quả phát triển sản xuất kinh
doanh…
Thứ hai, các hình thức: sáp nhập, giải thể, bán và phá sản DNNN. Thông
thường các doanh nghiệp được sáp nhập là những doanh nghiệp nhỏ, sức cạnh
tranh thấp; những doanh nghiệp được bán cũng là những doanh nghiệp có quy
mô nhỏ (vốn dưới 5 tỷ đồng và những DNNN không cần nắm giữ và không
CPH, các DNNN phải giải thể và phá sản thường là những doanh nghiệp làm
ăn thua lỗ kéo dài hoặc vi phạm pháp luật. Nhìn chung các hình thức này
thường chỉ được áp dụng như những hình thức hỗ trợ trong quá trình sắp xếp,
đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của DNNN.
Có thể nói, CPH DNNN làm thay đổi hình thức sở hữu, từ chỗ một chủ
sở hữu nhà nước sang chủ sở hữu là tập thể các cổ đông. Hình thức này không
chỉ đem lại sức sống mới cho các DNNN, cho người lao động mà còn đem lại
thu nhập ngày càng cao cho Chính phủ và phù hợp với xu thế hội nhập và
23
phát triển kinh tế. Thực tế những năm qua Chính phủ đã áp dụng tất cả các
hình thức chuyển đổi trên song số lượng các DNNN được CPH của cả nước
nói chung và Thanh Hoá nói riêng đã chiếm đa số trong tổng số các DNNN đã
chuyển đổi sở hữu. Điều đó một lần nữa chứng tỏ CPH DNNN đã phát huy
được tính ưu việt của nó trong quá trình đổi mới DNNN. Chính vì vậy, mà
Đảng ta coi CPH DNNN là khâu trung tâm, đặt trong tổng thể của quá trình
cải cách và cấu trúc lại DNNN.
1.3. MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ CPH DNNN Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG
TRONG NƯỚC
1.3.1. Kinh nghiệm chung cả nước
Từ những thành công và hạn chế của CPH DNNN cả nước qua các giai
đoạn: thí điểm, giai đoạn CPH, giai đoạn đẩy mạnh CPH, có thể rút ra một số
bài học kinh nghiệm bước đầu như sau:
Thứ nhất: Phải thực hiện tốt công tác tuyên truyền về chủ trương CPH
DNNN của Đảng và Chính phủ.
Công tác tuyên truyền phải đảm bảo sao cho các ngành, các cấp, lãnh
đạo các DNNN và người lao động trong các DNNN nhận thức sâu sắc được
rằng: CPH DNNN là một yêu cầu tất yếu khách quan, là con đường có nhiều
tính ưu việt, là điều kiện để DNNN phát triển bền vững, trong cơ chế kinh tế
thị trường, trong xu thế hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Đồng thời tuyên
truyền sao cho mọi tầng lớp nhân dân hiểu được bản chất của CTCP và thấy
được lợi ích khi tham gia mua cổ phần để nhân dân tích cực hưởng ứng mua
cổ phần của các DNNN khi CPH. Phải làm cho mọi người hiểu đúng quan
điểm điểm của Đảng ta là CPH không phải là tư nhân hóa .
Thứ hai: Phải giải quyết kịp thời những vấn đề mới nảy sinh, đảm bảo
thực hiện đúng tiến độ và lộ trình CPHDNNN.
Trong tiến trình CPH, ngoài những việc nảy sinh đã có chính sách và cơ
chế giải quyết sẵn có, nhưng cũng có một số vấn đề mới nảy sinh, hoặc cách
24
giải quyết đã có không phù hợp với địa phương, vì vậy đòi hỏi Cấp uỷ, Chính
quyền và Ban cổ phần hoá địa phương một mặt phải kiến nghị nhà nước tạo ra
được môi trường pháp lý và môi trường tương tác tốt hơn. Mặt khác, tránh ỷ
lại chờ đợi cấp trên mà phải chủ động vận dụng những văn bản đã có một
cách sáng tạo cho phù hợp. Ví dụ: Khi giải quyết những ách tắc khó khăn
trong việc xác định giá trị doanh nghiệp CPH, giải quyết công nợ và bán được
cổ phần rộng rãi thì Nhà nước và địa phương cần sớm tạo điều kiện để thúc
đẩy sự hình thành và phát triển thị trường chứng khoán ,hoặc thành lập các
công ty mua bán tài chính để giải quyết tất cả các vấn đề nợ nần của các
DNNN. Bằng cách đó mới có thể thực hiện đúng tiến độ và lộ trình
CPHDNNN.
Thứ ba : Để các DNNN sau CPH có thể phát triển ổn định bền vững thì
trong và sau CPH phải gắn chặt với hiện đại hóa máy móc thiết bị, chuẩn bị
tốt con người, đổi mới tư duy quản lý kinh tế, sản xuất kinh doanh phải xây
dựng được chiến lược phát triển sản xuất ngay trong các phương án CPH để
làm sao cho các DNNN sau CPH ngày càng có tính tự chủ cao. Cần làm rõ
chức năng quyền hạn của các cơ quan quản lý với chức năng quản lý sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp trên tinh thần: tách quyền quản lý sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp sau CPH ra khỏi chức năng quản lý hành chính
nhà nước. Đồng thời trong CPH tạo điều kiện làm sao để giải quyết tốt vấn đề
sở hữu trên cơ sở làm như thế nào để người lao động và các cổ đông của
CTCP ngày càng có thực quyền, để họ thực sự là người chủ của công ty.
Thứ tư: Phải vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Như chúng ta đã biết CPH
diễn ra như một quá trình gồm nhiều giai đoạn như: chuẩn bị các điều kiện về
tổ chức, lựa chọn các mục tiêu, lựa chọn các phương pháp thực hiện, kiểm
soát và điều chỉnh… Trên thực tế không thể phân hóa rõ ràng, rạch ròi giữa
các giai đoạn được nhiều công trình nghiên cứu đều thống nhất cho rằng:
25
CPH như một quá trình với nhiều giai đoạn có ý nghĩa chỉ đạo về mặt thực
tiễn, song đây là vấn đề vẫn còn mới đối với nước ta. Vì vậy một mặt chúng
ta phải đấu tranh gạt bỏ tư tưởng bảo thủ muốn tiếp tục duy trì mô hình
DNNN kiểu cũ, đồng thời phản đối đấu tranh gạt bỏ những tư tưởng nóng vội
“muốn làm tất cả trong một thời gian ngắn”. Ngược lại cần xác định rằng:
Trong hoàn cảnh còn thiếu nhiều điều kiện cho CPH như nước ta thì việc
CPH DNNN ở Việt Nam là một quá trình phải vừa làm vừa rút kinh nghiệm
để đảm bảo cho chủ trương CPHDNNN thực hiện nhanh ,hiệu quả và vững
chắc với những bước đi cụ thể.
1.3.2. Kinh nghiệm thành công và chưa thành công ở một số tỉnh
* Thành phố Hà Nội với kinh nghiệm tháo gỡ vướng mắc để đẩy nhanh
tiến độ CPH DNNN.
Theo báo nhân dân số ra ngày 21 tháng 04 năm 2004, đến nay Thành
phhố Hà Nội đã tiến hành CPH 98 DNNN, trong đó 77 DNNN cổ phần hóa
toàn bộ. Các DN thực hiện CPH đều có sự tăng trưởng về vốn kinh doanh, thu
nhập của người lao động và lợi nhuận. Nhiều DN sau CPH , đã có đủ vốn cần
thiết để đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh, hiệu
quả hoạt động.
Những thành công nói trên có nhiều nguyên nhân, song không thể
không kể đến nguyên nhân (nếu không muốn nói là kinh nghiệm) là nhờ biết
cách tập trung phát hiện và tháo gỡ vướng mắc nãy sinh trước và trong tiến
trình CPH DNNN. Có thể nói, cái vướng mắc lớn nhất làm chậm tiến trình cổ
phần hóa là việc xác định giá trị doanh nghiệp, nhất là tính giá trị quyền sử
dụng đất vào giá trị doanh nghiệp. Thực tế cho thấy nếu không tính giá trị
quyền sử dụng đất thì giá trị doanh nghiệp quá thấp đễ dẫn đến tình trạng mua
bán ngầm cổ phiếu biến tài sản thuộc sở hữu nhà nước thành tài sản của sở
hữu cá nhân, nhất là đối với những DNNN có vị trí mặt đường , mặt phố tạo
lợi thế kinh doanh lớn. Ngoài những DNNN có lợi thế về vị trí, còn có nhiều
26
DNNN quản lý một diện tích đất khá lớn, nhưng không sử dụng hết, nếu
chuyển sang CTCP thì những diện tích này có khả năng biến thành hàng hóa
bất động sản của DN, tạo ra lợi thế cạnh tranh không hợp lý giiữa các DN
thừa đất và các DN thiếu mặt bằng sản xuất, kinh doanh, Thực tế đã xảy ra
tình trạng một số CTCP thừa đất đem cho thuê hoặc bán bớt đất để chia nhau.
Để giải toả những vướng mắc trên, Thành phố đã xử lý bằng 2 cách sau đây:
Thứ nhất, không chuyển thành tài sản của CTCP mà bán đấu giá tài sản
lấy tiền đầu tư vốn cho DN phát triển. Số lao động đang làm việc tại địa điểm
đó, Thành phố bố trí nơi làm việc thích hợp cho họ. Khoản tiền thu được, sẽ
sử dụng vào việc thực hiện chính sách đối với người lao động và bổ sung vào
Quỹ sắp xếp DNNN.
Thứ hai, nếu thực hiện CPH ở những DN này thì thực hiện theo cơ chế
riêng: Vốn điều lệ của CTCP sau khi trừ đi cổ phần được mua theo giá ưu
đãi cho người lao động thì Nhà nước nắm giữ số cổ phần còn lại này. Hoặc
Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối ( hơn 50%) của CTCP mặc dù không
nằm trong danh mục tại Quyết định 58 của Thủ tướng Chính phủ. Sau một
thời gian từ 3 đến 5 năm, thành phố sẽ cho phép bán hết hay một phần số vốn
này theo giá thị trường thông qua các tổ chức tài chính trung gian. Việc làm
này cho phép hạn chế được các tiêu cực trong việc mua bán cổ phiếu.Nhà
nước sau này sẽ thu được khoản tiền lớn về chênh lệch giá cổ phiếu.
Ngoài 2 cách nói trên, đối với những DNNN trong lĩnh vực thương mại,
dịch vụ đang quản lý nhiều cửa hàng, địa điểm kinh doanh, khi CPH, Thành
phố chỉ để các DN này giữ một số cửa hàng, địa điểm nhất định, số còn lại
Thành phố ra quyết định thu hồi trước khi CPH.
* Thành công từ một chủ trương đúng của Tỉnh Phú Thọ.
Ngay sau khi tỉnh mới được tái lập, Phú Thọ đã rất chú trọng việc sắp
xếp và đổi mới DNNN trong đó CPH luôn là hướng ưu tiên lựa chọn của tỉnh.
Tính đến tháng 6/2001; toàn tỉnh có 14 DNNN chuyển thành CTCP bằng 30%
27
DNNN hiện có của tỉnh. Theo thống kê của Sở Kế hoạch đầu tư tỉnh Phú Thọ,
sau CPH không còn doanh nghiệp nào làm ăn thua lỗ. Khả năng huy động
vốn, doanh thu, tỷ suất cổ tức đều đạt và vượt mức Đại hội cổ đông đề ra, lực
lượng lao động ở các CTCP tăng đáng kể, các chế độ bảo hiểm y tế, bảo hiểm
xã hội đều được thực hiện đầy đủ theo quy định hiện hành.Một trong những
kinh nghiệm thành công của Phú Thọ là ngoài phương thức CPH DNNN theo
chỉ dẫn chung.Tỉnh đã mạnh dạn đi đầu trong việc thực hiện thí điểm giao
doanh nghiệp cho tập thể lao động quản lý rồi sau đó mới chuyển thành
CTCP. Để CTCP mở rộng sản xuất kinh doanh tỉnh đã cho các CTCP vay lãi
từ 1- 2 năm không tính lãi tiền bán cổ phần thuộc vốn nhà nước, đồng thời
cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư với mức cao nhất, tạo mọi điều kiện để
CTCP nhận kế thừa toàn bộ tài sản (kể cả tài sản chưa cần dùng) và chủ động
giúp doanh nghiệp đi nhanh vào sản xuất kinh doanh không có thời gian gián
đoạn.
* Nghệ An với tiến độ CPH khá nhanh
Năm 1998 Nghệ An mới khởi động tiến trình CPH, nhưng đến tháng 9/2001
toàn tỉnh đã CPH được 25 DNNN. Tính đến hết năm 2003 Nghệ An chỉ còn
giữ lại khoảng 30% DNNN trong số 110 DNNN của tỉnh. Bài học để đẩy
nhanh tiến độ CPH theo ông Hoàng Tất Thắng Phó chủ tịch UBND tỉnh,
trưởng Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp của tỉnh cho biết cần phải phá bỏ 3
trở ngại lớn trong chuyển đổi DNNN và 5 vấn đề nổi cộm của việc CPH.
Ba trở ngại đó là:
- Cần có sự chỉ đạo cương quyết hơn để loại bỏ thái độ chần chừ làm
chậm tiến trình cổ phần hóa.
- Cần phá bỏ rào cản tài chính.
- Cần giải quyết dứt điểm vấn đề lao động dôi dư.
Năm vấn đề nổi cộm sau cổ phần hóa:
- Khó khăn trong việc giải quyết những khoản nợ khó đòi.
28
- Vấn đề quản lý và sử dụng tiền bán cổ phần của doanh nghiệp.
- Việc quy định về giá trị cổ phần do Nhà nước nắm giữ phải lớn gấp 2
lần cổ phần của cổ đông lớn nhất khác có cản trở sự thu hút thêm vốn bên
ngoài hay không?
- Quan hệ của các doanh nghiệp cổ phần hóa với Nhà nước có xu hướng
thoát khỏi sự quản lý tạo nên sự lúng túng khi thiếu những văn bản hướng
dẫn.
- Sau cổ phần hóa , việc điều hành của một số công ty cổ phần vẫn còn
mang dáng dấp DNNN. [4;tr 329]
* Đẩy mạnh hơn nữa tiến độ CPH ở tỉnh Ninh Bình
Cùng với cả nước công tác đổi mới, sắp xếp DNNN những năm qua
được tỉnh Ninh Bình luôn chú trọng, song đến hết năm 2001 toàn tỉnh số
DNNN được CPH không đáng kể. Kết quả này chưa tương xứng với yêu cầu
và thực tế của địa phương. Sự chậm trễ này theo lý giải của Ban đổi mới
doanh nghiệp tỉnh Ninh Bình là do nhận thức về chủ trương CPHDNNN của
một số cán bộ lãnh đạo các Sở, Ban, Ngành, DNNN chưa có chuyển biến tích
cực, còn có tâm lý nghi ngại, né tránh. Việc triển khai CPH thiếu tính kiên
quyết, bước đầu còn lúng túng. Đa số cán bộ trong Ban đổi mới doanh nghiệp
đều là kiêm nhiệm nên hạn chế về kinh nghiệm và năng lực chuyên môn.
Công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương chính sách về CPH chưa đáp ứng
yêu cầu dẫn đến người lao động trong doanh nghiệp cũng như các tầng lớp
nhân dân không tích cực hướng ứng chủ trương thông qua hoạt động mua bán
cổ phần. Bên cạnh đó, bản thân các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế về năng
lực tài chính, quản lý điều hành, nhiều vấn đề liên quan như lao động dôi dư,
nợ tồn đọng chưa có phương án giải quyết thỏa đáng.
Nhờ tìm được đúng nguyên nhân và sự quyết tâm lãnh đạo và chỉ đạo
của các Cấp uỷ đảng và chính quyền, nên việc CPHDNNN ở Ninh Bình
những năm gần đây đã có chuyển biến đáng kể. Tính đến tháng 5/2003, Ninh
29
Bình đã CPH được 42% DNNN.
Trên đây là một số kinh nghiệm bước đầu, nhưng rất quý báu, có tác dụng
gợi mở cho việc vận dụng một cách sáng tạo cho phù hợp với thực tiễn CPH
DNNN ở Thanh hóa hiện nay.
Tóm lại, DNNN không chỉ đóng vai trò nòng cốt mà còn là lực lượng
kinh tế quan trọng để nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Để thực hiện được vai trò nói trên, DNNN phải không ngừng đổi
mới, có nhiều hình thức đổi mới, song CPH là khâu trung tâm trong toàn bộ
quá trình cải cách, và cấu trúc lại DNNN. Cổ phần hóa DNNN là một tất yếu
khách quan, nó không chỉ khắc phục được mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất do sai lầm trong tư duy cũ trước đây mà còn đạt tới mục
tiêu huy động vốn toàn xã hội đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh tạo điều
kiện cho doanh nghiệp có thêm vốn để đầu tư thay đổi thiết bị công nghệ, góp
phần nâng cao năng suất lao động, hiệu quả và chất lượng sản phẩm, khắc phục
có hiệu quả, những yếu kém trong quản lý của các DNNN trước đây. Đó là một
trong những giải pháp có tính chất quyết định để DNNN cả nước và các địa
phương trong đó có tỉnh Thanh Hoá nâng cao sức cạnh tranh, phát triển bền
vững trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, khu vực.
30
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HÓA
DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC CỦA THANH HOÁ THỜI GIAN QUA
2.1. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CỔ PHẦN HÓA DNNN CỦA TỈNH THANH HÓA
2.1.1. Khái quát tình hình DNNN tỉnh Thanh Hóa trƣớc CPH DNNN
Cũng như các DNNN ở nước ta trước đây, DNNN của Thanh Hóa cũng ra
đời trong bối cảnh nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu,bao cấp, nên
số lượng DNNN phát triển quá nhanh và quá nhiều trong các ngành và cả các
lĩnh vực từ tỉnh đến huyện. Bức tranh tổng quát DNNN trên địa bàn Thanh
Hóa trước khi có chủ trương tổ chức sắp xếp lại DNNN thể hiện:
Về số lượng DNNN, quy mô vốn và lao động
Qua bảng số liệu 2.1 cho thấy: Hầu hết các doanh nghiệp của tỉnh quản
lý đều ra đời từ những năm 1970 về trước, cá biệt có doanh nghiệp ra đời từ
những năm 60 của thế kỷ XX. Trong 265 doanh nghiệp do huyện, thị quản lý
thì 80% ra đời từ 1983 - 1986, (thời kỳ thực hiện chủ trương xây dựng và tăng
cường cấp huyện). Với quy mô vốn và lao động còn nhỏ bé: Bình quân 124
triệu đồng/ 1 doanh nghiệp và 91 lao động/1doanh nghiệp
Sau 10 năm (1989-1999) tổ chức sắp xếp lại DNNN theo quyết định 315,
Nghị định 388, chỉ thị 500 TTG của Thủ tướng Chính phủ, tính đến ngày
1/1/1999, DNNN do tỉnh quản lý còn lại là 128 và huyện quản lý là 8, giảm
320 doanh nghiệp so với năm 1989. (Xem bảng 2.2)
31
Bảng 2.1. Doanh nghiệp nhà nƣớc phân theo cấp và ngành của
Thanh Hóa (tính đến 31/12/1989)
Đơn vị tính: Triệu đồng
Tổng nguồn vốn
Phân loại
Số lượng Doanh nghiệp 454
Tổng số lao động(người) 50.700
422.830
1. Tổng số
2. Theo cấp quản lý
189
26.400
389.932
Tỉnh
Huyện
265
24.300
32.898
3. Theo ngành quản lý
Công nghiệp – xây dựng
151
19.200
238.508
Nông – lâm nghiệp
94
13.900
385.870
Vật tư, xuất khẩu
137
12.000
125.740
Các ngành khác
104
22.000
172.642
Nguồn: Cục Quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp tỉnh Thanh Hóa
Bảng2. 2: Doanh nghiệp nhà nƣớc phân theo ngành của tỉnh Thanh
Hóa (tính đến 1/1/1999)
Doanh nghiệp nhà nước
Số doanh nghiệp Số lao động (người)
Tổng số 27.300 136
Ngành nông nghiệp 8.200 44
Ngành công nghiệp 5.200 18
Xây dựng 4.100 19
Giao thông vận tải 2.400 13
Thương mại 2.650 12
Thuỷ sản 1.050 10
Sản xuất vật chất khác 1.200 7
32
Nguồn: Từ Ban đổi mới, phát triển DNNN tỉnh Thanh Hóa
33
Qua số liệu bảng 2.2 cho thấy tổng số DNNN của tỉnh Thanh Hóa đến hết
1999 là 136 đơn vị được phân bố vào các ngành nông nghiệp, công nghiệp và
xây dựng là chủ yếu .Quy mô lao động còn nhỏ bé bình quân khảng 200
người /1 doanh nghiệp..
Về hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp
Hiệu quả sản xuất kinh doanh trong 10 năm tổ chức sắp xếp lại và đổi
mới DNNN thể hiện ở bảng sau:
Bảng 2.3: Hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNNN của tỉnh Thanh Hóa
1995 1996 1997
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn nhà nước 0,14 0,12 0,06
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh 0,09 0,07 0,03
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu 0,05 0,03 0,02
doanh nghiệp Thanh Hóa năm 1998
Nguồn: Báo cáo tài chính doanh nghiệp - Cục quản lý vốn và tài chính nhà nước tại
Bên cạnh các DNNN làm ăn có hiệu quả, vẫn còn không ít DNNN làm
ăn thua lỗ và nợ nần tồn đọng khó thu hồi. (Xem bảng 2.4)
34
Bảng 2.4: Số doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ và nợ khó đòi (tính đến
1/1/1995)
Đơn vị tính: Triệu đồng
STT Tên doanh nghiệp Tiền thua lỗ Nợ khó đòi Mất vốn
1 Công ty thuốc lá 7.700
2 Thủy sản 5.900 3.000
3 Công ty Điện Cơ 800
4 Công ty Phấn Lân 3.700
5 Công ty Thủy lợi 1 3.400 14.000
6 Công ty thuỷ nông sông Chu 1.700
7 Công ty Điện lực 817
8 Công ty điện máy 243
9 Xí nghiệp đông lạnh xuất khẩu 311
10 Công ty nông sản thực phẩm 783
nước tại doanh nghiệp Thanh Hóa năm 1995.
Nguồn: Báo cáo tình hình, tài chính doanh nghiệp - Cục Quản lý vốn và tài sản nhà
Có nhiều lý do song qua nghiên cứu cho thấy trước hết các DNNN của
tỉnh là DNNN vừa và nhỏ, vốn bình quân của một doanh nghiệp chỉ 3,3 tỷ
đồng.Trong 136 doanh nghiệp của tỉnh quản lý, chỉ có 17 doanh nghiệp có
vốn trên 5 tỷ đồng, 73 doanh nghiệp có vốn từ 1 tỷ đến 5 tỷ; 46 doanh nghiệp
có vốn dưới 1 tỷ đồng, cá biệt có doanh nghiệp vốn nhà nước chỉ có 75 triệu
đồng (XN vật liệu xây dựng Quảng Xương).
Do vốn ít, lại lúng túng trong việc sử dụng vốn nên đa số DNNN của
tỉnh không những không bổ sung được thêm vốn kinh doanh mà làm cho vốn
ban đầu cạn kiệt dần. Đặc biệt khi ngân hàng chuyển đổi phương thức kinh
doanh tín dụng, yêu cầu khi vay phải có phương án sản xuất kinh doanh khả
thi, có thế chấp thì nhiều doanh nghiệp đã không tiếp cận được nguồn vốn tín
35
dụng của nhà nước dẫn đến đi vay với lãi suất cao hơn nhiều so với lãi suất
ngân hàng. Tình hình đó làm cho ngày càng nhiều DNNN của tỉnh sản xuất
kinh doanh thua lỗ dẫn đến nợ khó thu ngày càng nhiều; có nhiều doanh
nghiệp đã hoạt động bằng 100% vốn vay. Điển hình như: xí nghiệp Phân Lân,
Gỗ Điện Biên, xí nghiệp gốm, xây lắp công nghiệp, Đá hoa xuất khẩu, Công
ty tằm tơ, Công ty chế biến cà phê, công ty xây dựng số 4, Xí nghiệp sứ, Điện
tử Lam Sơn… Đặc biệt công ty đá hoa xuất khẩu không có khả năng thanh
toán nợ.
Sau tổ chức sắp xếp lại theo cơ chế thị trường, DNNN của tỉnh có bước
phát triển mới song cơ bản vẫn bế tắc trong sản xuất kinh doanh. Năm 1997,
các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khá với lãi là 11,1 tỷ đồng, số còn lại
hầu hết làm ăn thua lỗ tới 13,5 tỷ đồng nên nợ lũy kế lên tới 43 tỷ 265 triệu
đồng. Nhiều doanh nghiệp thua lỗ kéo dài, công nhân thiếu việc làm phải nghỉ
tự túc và đóng bảo hiểm xã hội. Đặc biệt tình trạng khoán trắng ở các doanh
nghiệp thuộc ngành thương mại, dịch vụ trở nên phổ biến. Nhiều DNNN
không nộp được thuế, không đóng được bảo hiểm cho người lao động, tiêu
cực trong một số doanh nghiệp phát sinh ảnh hưởng đến vai trò nòng cốt
trong nền kinh tế. Bức tranh DNNN của tỉnh khá ảm đạm, sản xuất kinh
doanh vẫn chưa có lối thoát. Tình hình đó tồn tại đến tháng 10/2001 (trước
khi có NQ TWW3 khóa IX của Đảng về tiếp tục sắp xếp đổi mới, phát triển
và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Qua triển khai thực hiện Nghị
quyết trên đến tháng 7/2002, DNNN do tỉnh quản lý còn lại là 101 đơn vị
được chia theo ngành nghề kinh doanh như sau:
Ngành xây dựng: 10 doanh nghiệp
Ngành công nghiệp: 7 doanh nghiệp
Ngành giao thông: 12 doanh nghiệp
Ngành NN và PTNT: 41 doanh nghiệp
36
Ngành thủy sản: 8 doanh nghiệp
Ngành thương mại: 5 doanh nghiệp
Ngành văn hóa: 4 doanh nghiệp
Các ngành khác: 14 doanh nghiệp
Tổng nguồn vốn của tất cả các doanh nghiệp đến 31/12/2001 là 434.427
triệu đồng. Bình quân mỗi doanh nghiệp chỉ có 4.217 triệu đồng nhưng lại
phân bổ không đều, trong 101 doanh nghiệp chỉ có 9 doanh nghiệp có vốn
trên 10 tỷ đồng chủ yếu tập trung ở các doanh nghiệp của ngành nông nghiệp
và phát triển nông thôn. Vốn kinh doanh đã thấp, song việc phát huy công
suất cũng không cao số doanh nghiệp có mức sử dụng đạt 70% công suất của
TSCĐ chỉ có 10 doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp có hiệu suất sử dụng
TSCĐ rất thấp như: Công ty cơ điện - điện tử Lam Sơn khoảng 20% công
suất; Công ty giấy Đông Thành khoảng 40%; Công ty Phương Đông khoảng
23%; Xí nghiệp giấy Thanh Sơn khoảng 38%…. Việc TSCĐ công suất không
được phát huy cao không phải do hư hỏng mà chủ yếu do lạc hậu.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh rất thấp, năm 2001 trong tổng số 101
DNNN của tỉnh, có 50 doanh nghiệp kinh doanh có lãi, 30 doanh nghiệp kinh
doanh hoà vốn và 21 doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ. 50 doanh nghiệp kinh
doanh lãi đạt 15.568 triệu đồng, 21 doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ tới 9.649
triệu đồng, lỗ luỹ kế của các DNNN đến cuối 2001 là 119.862 triệu đồng, nợ
khó đòi lên tới khoảng 40 tỷ đồng. Nhiều doanh nghiệp đã mất hết vốn nhà
nước và không có khả năng trả nợ vốn vay. Đặc biệt có khoảng 20 DNNN
phương án sản xuất kinh doanh không rõ ràng, thua lỗ kéo dài khó khăn trong
việc sắp xếp, đổi mới DNNN của tỉnh. Mặc dù, tỉnh có bước tiến lớn trong cải
cách, sắp xếp đổi mới DNNN, tuy vậy theo đánh giá của nhiều nhà kinh tế:
Thanh Hóa vẫn còn “quá nặng nề về doanh nghiệp nhà nước” kể cả số lượng,
37
quy mô tài sản cố định, lao động và vốn.
Tóm lại, qua quá trình sàng lọc, sắp xếp lại DNNN của tỉnh Thanh Hóa,
tuy đã đạt được một số kết quả bước đầu, song trước bối cảnh mới và yêu cầu
mới, DNNN vẫn còn bộc lộ nhiều yếu kém, chưa thực hiện tốt vai trò nòng
cốt mà xã hội trông chờ ở nó. Điều đó chứng tỏ DNNN của Thanh Hóa cần
phải tìm ra một giải pháp đổi mới căn bản hơn. Có nhiều giải pháp, trong đó
phải chăng CPH là giải pháp mang tính đột phá và trọng tâm để cấu trúc lại
DNNN của tỉnh trong thời gian tới.
2.1.2. Quá trình triển khai thực hiện CPH DNNN
Quán triệt Nghị quyết Hội nghị ban chấp hành TW Đảng khóa VIII,
thông báo số 63/TB - TW của Bộ Chính trị, Nghị định 44/CP ngày 29/6/1998
của Chính phủ, từ cuối năm 1996, Ban thường vụ tỉnh uỷ Thanh Hóa đã có
định hướng và để chỉ đạo công tác CPH DNNN Uỷ ban nhân dân tỉnh đã đề
ra những nội dung chủ yếu sau đây:
Về nguyên tắc và phương châm tiến hành
- Nghiêm túc thực hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, thường xuyên của
thường trực UBND tỉnh và Ban đổi mới doanh nghiệp Trung ương.
- Vận động tất cả các ngành, các cấp cùng tham gia để quá trình CPH đạt
được cả bề rộng và chiều sâu.
- Tiến hành thận trọng, vừa làm vừa rút kinh nghiệm.
- Trong quá trình CPH phải giải quyết tốt vấn đề lao động, không để nảy
sinh các vấn đề phức tạp về mặt xã hội.
- Đảm bảo cho thành phần kinh tế nhà nước luôn giữ vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế quốc dân.
Về tổ chức triển khai thực hiện
Để DNNN đạt kết quả công tác CPH DNNN, tỉnh uỷ, UBND tỉnh đã ban
hành nhiều văn bản để chỉ đạo các cấp, các ngành phối hợp thực hiện.
38
Đầu năm 1997, Chủ tịch UBND tỉnh đã ra quyết định số 37/QĐ - UB,
ngày 11/1/1997 về việc thành lập ban chỉ đạo CPH doanh nghiệp của tỉnh.
Tiếp đó UBND tỉnh đã có kế hoạch số 2136/CPH - UB để tổ chức triển khai
CPH DNNN của tỉnh, kế hoạch đã nêu rõ số lượng, doanh nghiệp thuộc diện
CPH, thời gian thực hiện CPH và thời gian rút kinh nghiệm. Ngày 24/4/1999,
Tỉnh uỷ ra chỉ thị số 16/CT-TU về việc lãnh đạo, thực hiện chủ trương CPH
DNNN, Chỉ thị yêu cầu các cấp uỷ Đảng, Ban cán sự Đảng các ngành có biện
pháp tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, đồng thời giao nhiệm vụ cụ thể cho từng
ban ngành thực hiện.
Sau khi quán triệt NQ TW3 khoá IX về việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới
phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN đến các cấp các ngành, đảng viên và
nhân dân trong tỉnh, ngày 26/11/2001 UBND tỉnh Thanh Hóa đã có dự thảo
đề án sắp xếp DNNN tỉnh Thanh Hóa theo tinh thần NQ TW3 khóa IX. Đề án
đã đánh giá tình hình kết quả thực hiện sắp xếp, đổi mới DNNN của tỉnh theo
chỉ thị 20/TTg ngày 21/4/1998 của Thủ tướng Chính phủ và đề ra phương án
sắp xếp đổi mới và phát triển DNNN đến năm 2005 trên cơ sở đề án của
UBND tỉnh, ngày 10/12/2001 ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa đã xem
xét và có kết luận số 03 - KL/TU ngày 3/1/2002 tiếp tục sắp xếp, đổi mới,
phát triển, nâng cao hiệu quả của các DNNN tỉnh Thanh Hóa theo tinh thần
NQ TW3 (khóa IX). Trên cơ sở kết luận của Ban Chấp hành tỉnh uỷ, UBND
tỉnh Thanh Hóa đã xây dựng đề án số 3054/UB ra ngày 12/9/2002 về đề án
tổng thể sắp xếp doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Thanh Hóa. Trên cơ sở đánh
giá tình hình, kết quả chỉ thị số 20/1998/CT - TTg ngày 21/4/1998 của Thủ
tướng Chính phủ Tỉnh đã có đề án để xây dựng lộ trình cụ thể công tác sắp
xếp, đổi mới và phát triển DNNN giai đoạn 2002 - 2005, trong đó đã xây
dựng lộ trình CPH DNNN cụ thể cho từng năm.
Có thể nói, với việc sắp xếp lại DNNN triển khai như đã trình bày ở
39
trên, chứng tỏ sự quyết tâm của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Thanh Hóa mà kết quả
vừa làm tốt công tác sắp xếp, đổi mới DNNN của tỉnh nói chung vừa đồng
thời chuẩn bị cho công tác CPH DNNN nói riêng.
2.1.3. Tiến độ và kết quả thực hiện CPH DNNN
Tiến độ CPH DNNN
CPH DNNN của Thanh Hóa bắt đầu từ năm 1998, có thể chia thành 2
giai đoạn sau đây:
Giai đoạn 1998 đến 2000.
Trên cơ sở sắp xếp phân loại DNNN theo chỉ thị số 20/1998/CT – TTG
ngày 24/4/1998 của Thủ tướng Chính phủ, căn cứ vào tình hình thực tế các
DNNN của tỉnh; giai đoạn 1998 – 2000 UBND tỉnh Thanh Hóa đã quyết định
chọn 25 DNNN để CPH.
Số DNNN được chọn để CPH giai đoạn này có đặc điểm: Một là, diễn
ra ở hầu hết các ngành nghề và phần lớn là các DNNN có quy mô vừa và nhỏ.
Hai là, không thuộc diện nhà nước nắm giữ 100% vốn, đang làm ăn có lãi
hoặc trước mắt đang gặp khó khăn nhưng có triển vọng tốt. Ba là, có chú ý
hơn đến các doanh nghiệp thuộc các ngành dịch vụ thương mại cho tiêu dùng
xã hội để CPH trước.
Có thể nói đây là những định hướng sát đúng, cùng với công tác chỉ đạo
chặt chẽ, kịp thời và sự hưởng ứng của mọi cấp, mọi ngành, nên công tác
CPH của tỉnh bước đầu đạt những kết quả và đã cơ bản đạt được kế hoạch đề
ra.
Giai đoạn từ năm 2001 đến 2003.
Trên cơ sở sơ kết công tác CPH giai đoạn 1998 - 2000 và quán triệt
NQTW lần thứ 3 (khoá IX) về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng
cao hiệu quả DNNN, thực hiện các Nghị định 64, Nghị định 103, và Quyết
40
định số 292/QĐ - TTG, ngày 18/3/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê
duyệt phương án tổng thể sắp xếp, đổi mới DNNN tỉnh Thanh Hóa giai đoạn
2003 - 2005. Từ năm 2001 đến nay công tác sắp xếp đổi mới, phát triển
DNNN của tỉnh nói chung và công tác CPH DNNN nói riêng có bước phát
triển mới.Trong 3 tháng đầu năm 2004 đã có thêm 3 đơn vị CPH đó là: Xí
nghiệp vật liệu Hàm Rồng; Công ty Vĩnh Hòa; Công ty xây dựng 3.
Những kết quả cụ thể của CPH DNNN.
- Về số lượng doanh nghiệp và số vốn đã CPH.
Qua khảo nghiệm ở các CTCP cho thấy, mặc dù đa số doanh nghiệp đã
CPH là những doanh nghiệp vừa và nhỏ hoặc một bộ phận được tách ra từ
một DNNN để CPH, sản xuất kinh doanh trước đó rất khó khăn và không
hiệu qủa (trừ một số doanh nghiệp như: công ty giấy Lam Sơn, công ty Dược
- vật tư y tế là những đơn vị có vốn từ 1 - 20 tỷ và đang làm ăn hiệu quả). Có
doanh nghiệp từ khi thành lập đến khi CPH năm nào cũng lỗ, nhà nước luôn
phải trợ giá, trợ cước, công nhân vẫn không có việc làm như: công ty phân lân
Hàm Rồng, công ty thương mại Hậu Lộc, công ty thương mại hàng hóa…,
thậm chí có doanh nghiệp không chỉ không còn vốn nhà nước mà có doanh
nghiệp không có khả năng trả nợ vốn vay công nhân viên doanh nghiệp đã
giải quyết bằng thoả thuận mua cổ phiếu doanh nghiệp kế thừa nợ khi chuyển
thành CTCP.
Theo số liệu của Sở Tài chính- Vật giá, tính đến tháng 3 năm 2004 toàn
tỉnh đã có có 60 đơn vị và bộ phận DNNN đã CPH. Trong đó: 44 doanh
nghiệp và 16 bộ phận từ các DNNN tách ra để CPH.
Trong 60 doanh nghiệp CPH, nhà nước còn nắm giữ cổ phần ở 44 doanh
nghiệp với tổng số tiền là 49.547 triệu đồng bằng 40% tổng vốn điều lệ của
các CTCP. Ngoài vốn nhà nước tại các doanh nghiệp, thông qua CPH đã huy
41
động được 40 tỷ (theo đề án) của cán bộ công nhân viên chức và người ngoài
doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Đồng thời qua CPH đã bổ
sung… (theo đề án hơn 5 tỷ quỹ bổ trợ sắp xếp doanh nghiệp của tỉnh). Từ đó
đã góp phần thúc đẩy việc hình thành thị trường chứng khoán. Trên thị trường
chứng khoán, về cơ bản có 5 chủ thể là: người mua chứng khoán; người bán
chứng khoán, người môi giới chứng khoán và kinh doanh chứng khoán; người
điều hòa chứng khoán; người tổ chức hoạt động mua bán chứng khoán; người
tổ chức hoạt động mua - bán chứng khoán, trong đó chủ thể thứ nhất và thứ 2
mang tính chất quyết định bởi nó là nhân tố ban đầu tạo ra thị trường chứng
khoán, nguồn cung cấp chứng khoán gồm: Chính phủ, các cơ quan của Chính
phủ, các tổ chức tài chính, các DNNN, nhưng yếu tố quan trọng nhất tạo nên sự
hấp dẫn người mua chứng khoán vẫn là cổ phiếu của các CTCP.
- Về doanh thu
Sau khi chuyển thành CTCP với cơ chế quản lý mới, người lao động
thực sự trở thành chủ của doanh nghiệp, nên đã cơ bản khắc phục được những
hạn chế, trì trệ của DNNN trước đây, sản xuất kinh doanh tương đối ổn định,
phát triển và có hiệu quả, một số doanh nghiệp đã có bước phát triển nhảy
vọt.
Qua báo cáo của 60 CTCP cho thấy doanh thu của công ty tăng từ 3 - 5
lần so với trước khi CPH, như: công ty giấy Mục Sơn, CTCP đúc cột bê tông,
CTCP nước mắm Thanh Hương, CTCP vật liệu xây dựng Bỉm Sơn… Cụ thể:
+ CTCP cột bê tông doanh thu năm 1999 là 866 triệu đồng, năm 2000 là :
3.295 triệu đồng,năm 2001 là 7.527 triệu đồng
+ CTCP vật liệu xây dựng Bỉm Sơn doanh thu năm 1999 là: 8.681 triệu đồng,
năm 2000 là: 11.000 triệu đồng , năm 2001 là: 20.579 triệu
- Về lợi nhuận và lãi cổ tức:
Đa số CTCP đều cho lợi nhuận, một số CTCP có lợi nhuận cao như:
42
CTCP phân lân Hàm Rồng: lợi nhuận năm 2001 là: 615 triệu đồng, đạt 41%/
vốn điều lệ, năm 2002 là 327 triệu đồng đạt 25% vốn điều lệ. CTCP phân bón
tổng hợp, lợi nhuận năm 2001 là 489 triệu đồng đạt 61%/ vốn điều lệ, năm
2002 là 881 triệu đồng, đạt 110%/ vốn điều lệ; CTCP giấy Mục Sơn lợi nhuận
năm 2001 là 2196 triệu đồng, đạt 43%/ vốn điều lệ, năm 2002 là 908 triệu
đồng, đạt 18% vốn điều lệ. CTCP vật liệu xây dựng Bỉm Sơn lợi nhuận năm
2001 là 983 triệu đồng, đạt 116%/ vốn điều lệ, năm 2002 là 576 triệu đồng,
đạt 68%/ vốn điều lệ. Hầu hết các CTCP đều có lãi cổ tức từ 1 - 2%/ tháng
(cao hơn lãi suất tiền gửi ngân hàng).
- Về nộp ngân sách:
Hầu hết các DNNN khi CPH đều nộp ngân sách tăng hơn trước khi
CPH và đảm bảo đúng thời gian, không còn nợ như trước, nhiều CTCP nộp
tăng từ 2 - 3 lần so với trước CPH. Điều đó được chứng minh ở bảng sau:
Đơn vị: triệu đồng
Sau CPH
STT
Công ty
Năm 2000
Năm 2001
Trước CPH năm 1998
CTCP nước mắm Thanh Hương
1
240
320
525
CTCP bê tông và XD Thanh Hóa
2
30
160
347
CTCP vật liệu XD Bỉm Sơn
3
223
402
485
CTCP Giấy bao bì Thanh Hóa
4
72
125
170
CTCP phân lân Hàm Rồng
5
53
400
420
CTCP phân bón tổng hợp
6
37
92
85
CTCP giấy Mục Sơn
7
790
1622
2010
CTCP Bao bì giấy Lam Sơn
8
120
126
182
Bảng 2. 5: Nộp ngân sách của một số CTCP:
- Về việc làm và thu nhập của người lao động:
Do có phương án mở rộng sản xuất kinh doanh khả thi nên bình quân
các doanh nghiệp sau CPH đều mở rộng được sản xuất từ 10 đến 20% so với
43
trước. Nhìn chung sau CPH, việc làm và thu nhập của các CTCP có xu hướng
tăng, nhiều doanh nghiệp sau CPH đã thu hút thêm từ 30 - 150 lao động như:
CTCP giấy Mục Sơn, CTCP phân lân Hàm Rồng, CTCP xây lắp điện… thu
nhập của người lao động tăng đáng kể. Bình quân thu nhập của người lao
động tăng từ 30 - 80% so với trước khi CPH mức lương bình quân của công
nhân trước khi CPH chỉ khoảng 250 - 300 ngàn đồng/ tháng, sau CPH đã tăng
lên bình quaan 500 - 600 ngàn đồng/ tháng. Một số CTCP có mức thu nhập
bình quân của người lao động từ 1.000.000 đến 1.200.000 đồng/ tháng như:
CTCP nước mắm Thanh Hương, CTCP Dạ Lan. Các chế độ bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế, bảo hộ lao động của người lao động cũng được đảm bảo. Các
CTCP làm ăn có lãi có xu hướng tiếp tục đề nghị được mua thêm phần vốn
còn lại của nhà nước tại CTCP như: CTCP nước mắm Thanh Hương và
CTCP cơ khí ô tô 19/5. Từ đó vốn và tài sản của nhà nước không những được
đảm bảo mà còn tăng lên đáng kể, trước hết nhà nước không phải mất một
khoản ngân sách hỗ trợ vốn hoặc bù lỗ cho các DNNN hàng năm như trước
đây, mà với tư cách là cổ đông lớn, nhà nước còn thu được nguồn lợi từ cổ
phiếu của mình ở các CTCP. Từ đó khắc phục được những hoạt động tiêu
cực, vô trách nhiệm, lãng phí…căn bệnh nan giải trong cơ chế cũ.
- Về khoa học công nghệ:
Sau CPH, hầu hết các CTCP đã quan tâm hơn tới vấn đề đào tạo lại để nâng
cao tay nghề cho người lao động và một số CTCP đã mạnh dạn đầu tư đổi
mới công nghệ, tạo nên năng suất cao, chất lượng và mẫu mã sản phẩm cao
hơn điển hình là: CTCP phân lân Hàm Rồng đã đầu tư một dây chuyền sản
xuất phân NPK với 2,6 tỷ đồng, CTCP bao bì Mục Sơn đầu tư dây chuyền sản
xuất giấy, CTCP đúc cột điện đầu tư một xe chuyên dùng và thiết bị đúc cột
bích CTCP vật liệu xây dựng Bỉm Sơn xây dựng một lò ty len và dây truyền
nghiền xi măng, CTCP nước mắm Thanh Hương đầu tư thêm bể mới, nâng
44
công suất lên 2 triệu lít (tăng gấp đôi so với trước CPH)…
-Về nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, tạo điều kiện hội
nhập kinh tế của tỉnh với đất nước, khu vực và quốc tế.
Các nhà kinh tế đã khẳng định, không thể có nền kinh tế thị trường thực
sự khi nền kinh tế không có CTCP và thị trường chứng khoán (người ta ví
CTCP và thị trường chứng khoán như những chữ A, B trong bảng chữ cái).
Quá trình CPH DNNN sẽ đẩy nhanh quá trình chuyển đổi chung nền kinh tế
của tỉnh, đồng thời trực tiếp góp phần làm “năng động” và nâng cao sức cạnh
tranh của toàn bộ nền kinh tế. Điều này có ý nghĩa sống còn đối với kinh tế
tỉnh Thanh Hóa nói riêng và kinh tế của nước nói chung trong xu thế hội nhập
kinh tế quốc tế. Đó là những kết quả lớn bước đầu do CPH DNNN mang lại
cho tỉnh Thanh Hóa những năm qua. ( Xem bảng 2.6 )
45
Bảng 2.6: Kết quả sản xuất kinh doanh của một số CTCP
từ DNNN Tỉnh Thanh Hoá Năm 2003.
Đơn vị tính: Triệu đồng
11.363
1 Nước mắm Thanh Hương
1.949
1.934
2 Gạch ngói Mai Chữ
127
13.533
3
Phân lân Hàm Rồng
16
6.316
4 May Thanh Hóa
29
5
2.178
Lâm sản xuất khẩu
27
6
9.841
In vật tư Ba Đình
157
7
Bê tông và xây dựng Thanh Hóa
20.617
969
8
7.079
Cơ khí Ô tô 19/5
659
1.019
9 Đóng tàu Thanh Hóa
36
23.000
10 Đầu tư và xây dựng cầu đường
0
78.352
11 XDNN và PTNN
2.798
12 Xây dụưng và phát triển hạ tầng
10. 069
92
76.267
13 Xây lắp điện lực
3.180
10.250
14 Tàu cuốc và xây dựng 28
130
17.060
15 XD thuỷ lợi Lam Kinh
287
1.900
16 XD và PT đầu tư 25
0
17 Dược vật tư y tế
197.475
2.619
27.313
18 Thiết bị vật tư y tế
408
23.705
19 Thương mại và dịch vụ
0
54.991
20 Vật tư Nông nghiệp và PT Nông thôn
359
12.930
21 Bách hóa số 3
140
42.588
22 Thực phẩm nông sản và du lịch
323
12.357
23 Du lịch Thanh hóa
326
10.030
Dạ Lan
24
142
25
Xây dựng và PT hạ tầng kỹ thuật 381
1.347
18
7.586
Xe khách
26
28
5.055
Vận tải ô tô
27
40
TT Tên Công ty cổ phần Doanh thu Lợi nhuận trƣớc thuế
46
28
Đại lý vận tải biển
3.086
0
29
Bến xe khách
2.528
133
30
Tư vấn giao thông
8.313
746
31
Tư vấn thiết kế xây dựng
494
30
32
Tư vấn xây dựng thuỷ lợi
4.885
158
33
Giấy và bao bì Bỉm Sơn
76.424
11.046
34
Vật liệu xây dựng Bỉm Sơn
39.020
939
35
Cơ khí tàu thuyền
2.024
50
36
Mía đường Thanh hóa
9.777
109
37
Du lịch nhà hàng khách sạn Phố Cát
22
6
38
Sản xuất vật liệu Hà Trung
2.585
997
39
Bao bì Lam Sơn
19.452
424
40
Thương mại Nga Sơn
2.750
1
41
Cẩm Trướng
2.261
13
42
Thương mại Thiệu Yên
61.465
259
43
Giấy Mục Sơn
42.295
776
44
Thương mại Thọ Xuân
11.170
42
45
Thương mại Hậu Lộc
18.420
32
46
Thương mại Hoằng Hóa
20.624
22
47
Vật tư nông nghiệp Triệu Sơn
5.090
11
48
Vật liệu xây dựng Quảng Xương
86
0
49
Thương mại tổng hợp Nông Cống
20.733
190
50
Giống và phát triển chăn nuôi Thọ
1.150
-135
51
Xuân
2.529
-192
52
Chế biến thuỷ sản Thanh hóa
1.731
-16
53
Giống và phát triển gia cầm
27.346
-2994
54
Giống và cây trồng Thanh hóa
47.241
-1078
55
Khoáng sản xây dựng phụ gia Xi
12.873
-940
56
măng
180
-20
57
Thép Thanh Thái
62.262
-1991
58
Trường Thi
1.333
12
47
Bao bì Thanh hóa
Giống thuỷ sản Thanh Hóa
Nguồn: Sở Tài chính - Vật giá
2.1.4- Những hạn chế và nguyên nhân
2.1.4.1- Những hạn chế
Mặc dù tiến độ cổ phần hóa của tỉnh phát triển tương đối, song so với
yêu cầu đẩy mạnh đổi mới, sắp xếp lại DNNN thì công tác tiến hành CPH
DNNN của tỉnh Thanh Hóa những năm qua vẫn còn nhiều hạn chế, nhiều
mục tiêu của CPH chưa đạt được, nhiều vướng mắc chưa được giải quyết.
Giai đoạn từ 2000 đến nay tiến độ CPH DNNN của tỉnh đã diễn ra nhanh hơn,
nhưng nhìn chung vẫn còn chậm, chưa đảm bảo kế hoạch, chưa đáp ứng được
yêu cầu đổi mới, nâng cao hiệu quả DNNN của tỉnh và khó có khả năng hoàn
thành được lộ trình CPH mà Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt cho tỉnh thời
kỳ 2003 - 2005. Cụ thể:
Thứ nhất: Tiến độ tiến hành cổ phần hóa còn chậm và chưa đạt kế
hoạch
Điều đó thể hiện: Theo kế hoạch, giai đoạn 1998 - 2000 chỉ tiêu đặt ra là
CPH 25 DNNN nhưng thực hiện chỉ được 18 doanh nghiệp CPH. Một số
doanh nghiệp được xếp vào danh sách từ giai đoạn 1998 - 2000 nhưng đến
nay vẫn chưa CPH được,đã ảnh hưởng thậm chí làm gián đoạn sản xuất kinh
doanh như: Xí nghiệp giấy Thiệu Yên (nay là Yên Định), xí nghiệp sứ Thanh
Hóa, công ty vận tải sông biển, xí nghiệp gạch ngói Vĩnh Hoà. Việc xây dựng
phương án CPH ở một số doanh nghiệp CPH chưa tốt. Một số doanh nghiệp
trong phương án CPH chưa đề ra được các giải pháp khả thi để mở rộng sản
xuất kinh doanh, để tiếp cận thị trường vốn, lao động, kỹ thuật và thị trường
sản phẩm (hầu như các CTCP chưa đề ra được chiến lược phát triển sản
phẩm) nên sau CPH nhiều CTCP chưa có sự bứt phá, thậm chí có CTCP vẫn
48
chưa thoát khỏi khó khăn. Chẳng hạn: CTCP Trường Thi, công ty tầu thuyền
Thanh Hóa, công ty cơ khí ô tô 19/5. Số lượng nộp ngân sách của các CTCP
này so với trước CPH có chiều hướng giảm mạnh như: CTCP Trường Thi
trước CPH nộp ngân sách năm 1998 là 21 triệu thì sau CPH năm 2000 nộp 13
triệu, năm 2001 nộp 11 triệu hoặc CTCP tầu thuyền Thanh Hóa năm 1998
nộp ngân sách là 38 triệu, thì đến năm 2001 c hỉ nộp được 13 triệu…
Thứ hai: Các mục tiêu CPH DNNN đạt chưa cao
- Chưa thu hút được nhiều vốn từ các cá nhân và tổ chức ngoài doanh
nghiệp. Chẳng hạn tính đến tháng 9/2001 cả tỉnh có 32 CTCP với tổng vốn
điều lệ là 40.865 triệu đồng, bán cổ phần được 39.198 triệu đồng thì nhà nước
đã tham gia mua 13.136 triệu đồng bằng 33,5%. Người lao động trong các
doanh nghiệp CPH mua 23.724 triệu bằng 60,5% còn người ngoài doanh
nghiệp chỉ mua 2.338 triệu bằng 6%.
- Hiện tượng vốn nhà nước trong các CTCP còn quá nhiều, nên mục tiêu
huy động thêm vốn sau CPH tăng chưa đáng kể. Hiện tượng này làm cho việc
đổi mới tổ chức, thay đổi phương thức sản xuất kinh doanh chưa cơ bản, nên
chưa nâng cao chất lượng quản lý và tất yếu hiệu quả kinh doanh ở một số
CTCP chưa cao. Chẳng hạn, tại CTCP bến xe khách Thanh Hóa nhà nước
tham gia 3316 triệu bằng 60% vốn điều lệ của công ty thì lợi nhuận năm 2001
là 26 triệu đạt 1%/ vốn điều lệ, năm 2002 là 31 triệu đạt 1,2%/ vốn điều lệ.
Tại CTCP cơ khí đóng tầu Tân Châu vốn nhà nước tham gia là 1.431 triệu
đồng chiếm hơn 70% vốn điều lệ của công ty. Lợi nhuận năm 2001 là 8 triệu
đồng nên không có lãi cổ tức, năm 2002 không có lợi nhuận. Tại CTCP Du
lịch vốn nhà nước tham gia là 6.000 triệu bằng 50% vốn điều lệ của công ty,
lợi nhuận năm 2002 là 220 triệu đạt 2%/ vốn điều lệ.
2.1.4.2. Nguyên nhân của hạn chế
- Sự lúng túng trong nhận thức
49
Có thể khẳng định, lực cản lớn nhất của tiến trình CPH hiện nay nói
chung và ở Thanh Hóa nói riêng vẫn là yếu tố con người, trong đó đầu tiên
cần nói đến phải là đội ngũ giám đốc các DNNN.
Khách quan mà nói phấn lớn giám đốc các DNNN không muốn CPH vì
không muốn trao doanh nghiệp vào tay người khác, không muốn từ bỏ vị trí
mà bấy lâu nay đã được Đảng, nhà nước tin cậy giao cho nắm giữ với tư cách
là người chủ sở hữu, vừa là người quản lý, định đoạt tài sản của doanh
nghiệp. Đối với các giám đốc có tâm huyết tìm mọi cách để phấn đấu cho sự
hưng thịnh của doanh nghiệp, đảm bảo tốt đời sống cho người lao động, hoàn
thành tốt nghĩa vụ đối với nhà nước thì tâm lý không muốn CPH càng rõ. Bởi
lẽ giản đơn doanh nghiệp là công lao thành quả, niềm tự hào, là đứa con tinh
thần tượng trưng cho sự thành đạt và uy tín của họ. Hơn thế một số giám đốc
DNNN không hào hứng CPH vì lo sợ CTCP làm ăn không hiệu quả, thua lỗ
sẽ mất chức. Bên cạnh đó có một số giám đốc DNNN đã sắp đến tuổi về hưu
thì càng không muốn CPH vì nếu CPH họ sợ mất uy tín nếu không được bầu
làm giám đốc CTCP… Việc đổi mới quản lý còn hạn chế, phần lớn cán bộ
chủ chốt của các CTCP là của DNNN trước đó chuyển sang nên phần nào
chưa thực sự đổi mới làm hạn chế tính năng động của các CTCP.
Cùng với đội ngũ giám đốc các DNNN một số cán bộ lãnh đạo các sở,
ngành cấp tỉnh cũng chưa thực sự nhiệt tình với công tác CPH vì một phần họ
chưa muốn dứt hẳn DNNN hoặc chỉ muốn CPH những DNNN đã và đang
làm ăn thua lỗ nhằm trút gánh nặng cho nhà nước. Chính vì vậy thời gian qua
một số ngành chủ quản và một số DNNN vẫn còn chần trừ chờ đợi, chỉ nói
nhiều đến khó khăn, ít tổ chức triển khai để CPH.
Đối tượng có nhiều lo lắng trăn trở hơn cả chính là người lao động
trong các DNNN, có nhiều lý do song lý do quan trọng nhất là, người lao
động trong các DNNN hiểu biết về tính ưu việt của CTCP còn nhiều hạn chế
50
nên tâm lý chung họ chỉ muốn duy trì DNNN vì DNNN có độ an toàn cao về
việc làm, biên chế và đảm bảo ổn định cuộc sống suốt đời. Đặc biệt do đã hằn
sâu thói quen làm công ăn lương nên việc bỏ tiền mua cổ phiếu vẫn là vấn đề
mới đối với nhiều người lao động. Đó chính là nguyên nhân ở một số CTCP
của tỉnh mua không hết cổ phiếu ưu đãi mặc dù có những công ty do vốn điều
lệ ít nên số cổ phiếu ưu đãi cũng ít.
51
- Công tác tuyên truyền CPH DNNN chưa thật tốt
Nhìn chung công tác tuyên truyền chưa thật quan tâm đúng mức, nội
dung và hình thức tuyên truyền chưa thật phù hợp, nhiều nội dung của CPH
chưa được tuyên truyền giải thích cặn kẽ đến cán bộ, công nhân viên chức
trong doanh nghiệp, nhất là trong nhân dân. Vì thế cho đến nay CPH DNNN
vẫn còn là một vấn đề trừu tượng xa lạ với nhiều người dân. Đặc biệt công tác
tuyên truyền có lúc có nơi chưa nhằm vào những vấn đề mà người lao động
thực sự quan tâm, đến tận bây giờ không ít người vẫn cho rằng CPH không
khác gì tư nhân hóa dẫn đến nảy sinh tư tưởng sợ chệch hướng XHCN. Nhận
thức về thị trường chứng khoán Việt Nam còn đối với người lao động và dân
cư còn khá mới mẽ. Như chúng ta đã biết, thị trường chứng khoán là trung
tâm phản ánh hoạt động kinh tế của các CTCP, là nơi cung ứng nguồn vốn và
phân phối các cơ hội đầu tư cho CTCP, hơn thế TTCK còn là điều kiện cho sự
ra đời và hoạt động của các CTCP, song những năm qua TTCK Việt Nam còn
quá sơ khai, các khái niệm cổ phần, cổ đông, cổ tức còn quá mới mẻ với đa số
nhân dân.
Vì vậy, chủ trương CPH DNNN chưa được các cấp, các ngành và nhân
tỉnh tích cực hưởng ứng.
- Thủ tục hành chính CPH còn quá phức tạp
Để tiến hành CPH các DNNN phải trải qua nhiều “cửa”, nhiều khâu
như: chọn doanh nghiệp để xây dựng phương án CPH, thẩm định giá trị
doanh nghiệp, phê chuẩn DNNN sang CTCP, đăng ký hoạt động kinh doanh
theo luật công ty… Năng lực tài chính hạn chế hầu hết các DNNN thời gian
qua CPH là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, thiết bị máy móc lạc hậu, vốn
điều lệ ít, có những công ty như CTCP gạch Quảng Xương. Vốn điều lệ có
75 triệu đồng, CTCp thương mại Nga Sơn: 150 triệu đồng… là những khó
khăn lớn cho việc đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh.
52
Trên thực tế các DNNN khi CPH không phải chỉ có 4 bước như quy
định tại công văn số 3395/VPCP - ĐMDN, ngày 29/8/1998 của Văn phòng
Chính phủ, mà trong các bước còn có nhiều công đoạn khác kèm theo. Chẳng
hạn: việc định giá doanh nghiệp phải ít nhất qua 3 công đoạn: doanh nghiệp
tự kiểm kê đánh giá, Hội đồng thẩm định xác định giá trị thực tế của doanh
nghiệp và giá trị thực tế phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp, cuối cùng là
quyết định của cấp có thẩm quyền. Đó là quy trình đúng song điều đáng nói là
mỗi công đoạn thường kéo dài dẫn đến các doanh nghiệp thường rơi vào tình
trạng chờ đợi; ví dụ Hội đồng xác định giá trị doanh nghiệp của tỉnh tuy đã có
nhiều cố gắng song giường như không thể hoàn thành được nhiệm vụ xác
định giá trị doanh nghiệp để CPH trong vòng 15 ngày như điểm 3 điều 29
Nghị định 64/2002/NĐ - CP. Hoặc để chuyển một DNNN thành CTCP thì
UBND tỉnh phải ra ít nhất 8 văn bản gồm: Quyết định tiến hành CPH, quyết
định thành lập Ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp, quyết định thành lập
Hội đồng xác định giá trị doanh nghiệp, quyết định phê duyệt giá trị doanh
nghiệp, quyết định phê duyệt phương án CPH doanh nghiệp, quyết định
chuyển DNNN thành CTCP, quyết định cử người đại diện quản lý phần vốn
nhà nước tại công ty và quyết định ưu đãi đầu tư. Việc chuyển bảo hiểm cho
người lao động từ DNNN sang CTCP đôi khi cũng kéo dài thời gian làm bận
thêm cho CTCP. Cá biệt việc đăng ký kinh doanh của CTCP sau khi thành lập
cũng có nhiều khó khăn như: CTCP vận tải xe khách Thanh Hóa muốn đăng
ký kinh doanh phải có dấu của công an phòng cháy, chữa cháy, Sở Thương
mại, Sở Kế hoạch đầu tư, Sở Giao thông, UBND tỉnh… Việc khắc dấu đôi khi
cũng mất nhiều thời gian, như: CTCP nước mắm Thanh Hương hơn một
tháng hoạt động không có dấu, đó là những khó khăn lẽ ra không đáng có cho
các CTCP.
- Vấn đề lựa chọn DNNN đưa vào CPH thuộc loại nhỏ và vừa, việc xác
53
định giá trị doanh nghiệp còn nhiều vướng mắc
Có thể khẳng định, việc xác định giá trị doanh nghiệp trước khi CPH là
một khâu phức tạp nhất trong toàn bộ quy trình CPH DNNN những năm qua
và cũng là một trong những vấn đề còn nhiều tranh cãi hiện nay. Vì thực trạng
nhà xưởng, máy móc, thiết bị của mỗi doanh nghiệp mỗi khác nên khó có một
tiêu thức thống nhất để đánh giá. Hoặc có đưa giá trị sử dụng đất vào giá trị
doanh nghiệp để CPH không? Bên cạnh đó, những tồn tại khác trong tài chính
của DNNN khi chuyển thành CTCP cũng là một trong những vấn đề trở ngại
không hấp dẫn người mua cổ phần, chẳng hạn hầu hết các DNNN có những
khoản nợ lớn thậm chí có những DNNN không có khả năng thanh toán nợ,
nhiều DNNN phương án sản xuất kinh doanh chưa rõ ràng trong và sau khi
CPH nên các doanh nghiệp rất khó khăn trong việc làm lành mạnh hóa tài
chính của mình dẫn đến lúng túng mất nhiều thời gian. Như đã biết một trong
những yếu tố góp phần thành công của CPH DNNN là doanh nghiệp phải có
phương án sản xuất kinh doanh mang tính khả thi, nói cách khác phải có
phương án sản xuất kinh doanh ổn định. Bởi vì nếu không có phương án kinh
doanh ổn định, nghĩa là doanh nghiệp cũng không có tương lai, không có tiền
đồ, điều đó sẽ không hấp dẫn người lao động mua cổ phần và kêu gọi các nhà
đầu tư khác mua cổ phần cũng khó khăn vì thiếu tính thuyết phục. Khi đầu tư
người ta bao giờ cũng tính được gì? Đặc biệt đối với người lao động cổ tức
chưa phải là yếu tố được chú ý đầu tiên mà đầu tiên phải là: việc làm có ổn
định không? Lương có tăng không? sản xuất có ổn định không?
Trả lời các câu hỏi đó, quả là một thách thức lớn đối với DNNN của tỉnh
vì phần lớn DNNN của Thanh Hóa không có sản phẩm chủ yếu và hầu hết các
doanh nghiệp chưa có chiến lược phát triển sản phẩm nên định hướng sản
xuất kinh doanh chưa vững, trong đó có khoảng 20 DNNN phương án sản
xuất kinh doanh không rõ ràng. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ tới tiến độ
54
CPH DNNN thời gian qua của tỉnh.
- Những bất hợp lý trong tổ chức bộ máy chỉ đạo CPH DNNN
Tuy tỉnh đã kịp thời thành lập Ban chỉ đạo CPH doanh nghiệp của tỉnh
sau này đổi thành Ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp của tỉnh song hầu
hết cán bộ của Ban là kiêm nhiệm nên hiệu quả hoạt động chưa thật cao.Bên
cạnh đó việc xây dựng quy chế phối hợp công tác giữa Ban đổi mới phát triển
DNNN của tỉnh và Ban đổi mới DNNN của các Sở, giữa các Ban nói trên với
Tổ thẩm định doanh nghiệp, giữa các cơ quan nhà nước với ban giám đốc các
DNNN còn chậm, đã ảnh hưởng không nhỏ tới tiến độ CPH DNNN của tỉnh
những năm qua.
2.2. ĐÁNH GIÁ CHUNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ BỨC XÚC ĐẶT RA
2.2.1. Đánh giá chung
Qua hơn 6 năm (1998-2003) tổ chức triển khai thực hiện chủ trương
CPH DNNN của Đảng và Chính phủ có thể khẳng định Thanh Hóa là một
trong những tỉnh có tiến độ CPH DNNN nằm trong nhóm trung bình khá của
cả nước. Qua kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các CTCP trong tỉnh
những năm qua cho thấy:
Thứ nhất: CPH DNNN không chỉ góp phần cơ cấu lại sở hữu nhà nước
làm cho hệ thống DNNN phù hợp với yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất
và nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, mà còn tạo điều kiện để nhà nước
rút bớt vốn của mình ra khỏi các doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm
giữ 100% vốn để đầu tư có chiều sâu cho việc đổi mới kỹ thuật, công nghệ,
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNNN, qua đó tăng cường được
vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Đồng thời thông qua cổ phần của mình trong các CTCP và bằng
chính sách pháp luật nhà nước vẫn thực hiện tốt vai trò điều tiết, định hướng
sự phát triển nền kinh tế của tỉnh
55
Thứ hai: CPH DNNN đã thúc đẩy quá trình chuyển quản lý DNNN từ
trực tiếp sang gián tiếp thông qua các công cụ chính sách pháp luật, từ đó
không ngừng củng cố, nâng cao vai trò quản lý kinh tế của nhà nước, nâng
cao năng lực quản lý kinh tế của các doanh nghiệp sau CPH. Các cơ quan
quản lý nhà nước không còn phải vướng mắc nhiều vào việc quản lý các vấn
đề cụ thể như: vốn, lao động, tác nghiệp của CTCP như DNNN trước đây để
tập trung nghiên cứu, tạo lập môi trường và hành lang pháp lý phù hợp cho
nền kinh tế phát triển lành mạnh trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN.
Thứ ba: CPH DNNN đã góp phần nâng cao thu nhập cho người lao
động, góp phần làm cho doanh nghiệp có chủ thực sự.
Tóm lại: Mặc dù còn một số hạn chế nhất định, song CPH DNNN thời
gian qua không chỉ là giải pháp trung tâm, quan trọng mang tính tất yếu để
cấu trúc lại DNNN mà nó đã và đang thực sự mang lại cho DNNN và nền
kinh tế của Thanh Hóa một sức sống mới đầy triển vọng.
2.2.2. Những vấn đề bức xúc đặt ra
Một là: Mối quan hệ giữa các CTCP với Sở chủ quản của tỉnh sau CPH
Các chính sách hỗ trợ về tài chính tín dụng cho CPH DNNN còn có chổ
chưa rõ ràng. Thói quen dựa vào sở chủ quản đã hằn sâu, đặc biệt có nhiều
vấn đề thuộc quyền quản lý của nhà nước như: nhà nước quản lý như thế nào?
(CTCP có phải nộp báo cáo tình hình sản xuất kinh doanh cho sở chủ quản
như trước đây nữa không? chế độ thanh kiểm tra như thế nào…?). Hoặc quản
lý sử dụng phần vốn còn lại của nhà nước ra sao cho hiệu quả mà CTCP chủ
động nhất… đang là những vấn đề còn nhiều lúng túng đối với các CTCP của
tỉnh.
Hai là: Chính sách giải quyết nợ tồn đọng, việc xác định giá trị doanh
nghiệp có lợi thế kinh doanh
56
Thực tế cho thấy: Trong tiến trình CPH, các DNNN có lợi thế khác nhau
như: DNNN có nhiều đất, ở vị trí đắc địa, có uy tín trên thương trường…, khi
xác định giá trị chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể, một khó khăn lớn trong
quá trình CPH DNNN của tỉnh.
Ba là: Nhiều DNNN khó xác định phương án sản xuất kinh doanh
Đến nay Thanh Hóa có khoảng 20 DNNN không có phương án sản xuất
kinh doanh ổn định, trong đó nhiều doanh nghiệp thực sự không còn khả năng
khôi phục lại sản xuất, kinh doanh, song việc phá sản gặp nhiều khó khăn do
luật phá sản quy định: chỉ có 3 đối tượng là: chủ nợ, giám đốc doanh nghiệp
và đại người lao động mới có quyền đề nghị tòa án cho phá sản. Trên thực tế,
chủ nợ hầu hết là các ngân hàng Thương mại nên không muốn phá sản doanh
nghiệp vì nếu doanh nghiệp phá sản ngân hàng sẽ mất đối tác; một số giám
đốc doanh nghiệp càng không muốn phá sản vì sợ mất chức, còn người lao
động cũng không muốn phá sản doanh nghiệp của mình vì sợ mất việc làm.
Bốn là: Một số chính sách đối với người lao động tại thời điểm CPH
chưa phù hợp.
Tại khoản 1, điều 14, NĐ 44/CP quy định: Tổng giá trị ưu đãi cho người
lao động không quá 20% giá trị vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Khống chế
như vậy chưa thật hợp lý vì DNNN của Thanh Hóa chủ yếu là vừa và nhỏ,
vốn ít mà người lao động lại đông, cho nên tỷ lệ cổ phần ưu đãi càng nhỏ.
Ví dụ: xí nghiệp nước mắm Thanh Hương, tại thời điểm CPH vốn nhà
nước chỉ có 600 triệu đồng, tổng số người lao động của xí nghiệp là 65 người
nên một cổ phần của một người lao động chỉ được ưu đãi có 13,8% như chính
sách đã ban hành. Ngược lại công ty bao bì thuộc công ty xi măng Bỉm Sơn
có vốn nhà nước tới 33 tỷ đồng nhưng chỉ có 200 lao động thì cổ phần ưu đãi
của họ được hưởng theo quy định, đương nhiên cao hơn nhiều so với DNNN
quy mô vốn nhà nước ít nhưng do trình độ kỹ thuật thấp nên số lượng công
57
nhân nhiều. Như vậy, vốn nhà nước trong doanh nghiệp càng ít bao nhiêu thì
người lao động càng thiệt bấy nhiêu, còn doanh nghiệp lớn công nghệ hiện
đại vốn nhiều, người lao động lại ít thì người lao động càng có lợi. Đó là, khó
khăn khó xử lý trong khi CPH DNNN. Hơn nữa về nguyên tắc CTCP nào
cũng muốn tối đa hóa lợi nhuận, để thực hiện được điều đó, một trong những
giải pháp quan trọng là phân loại để bố trí lại lao động một cách hợp lý nhất.
Nói cách khác là cần phải giảm bớt những người lao động không còn đáp ứng
được yêu cầu, song theo điểm 6, điều 27, Nghị định 64/2004/NĐ - CP quy
định phải sau CPH ít nhất 12 tháng CTCP mới được sắp xếp lại lao động
trong khi quỹ hỗ trợ nhà nước sau CPH của tỉnh cho đào tạo lại lao động
không nhiều, vì thế muốn nâng cao hiệu quả hoạt động của CTCP, công ty
vừa phải tự đầu tư một khoản tiền lớn để đào tạo lại, vừa phải tuyển thêm lao
động có tay nghề bổ sung cho sản xuất đồng thời phải tiếp tục trả lương cho
số lao động cũ không thể đáp ứng được yêu cầu nhưng chưa sắp xếp lại được.
Đó là gánh nặng lớn về tài chính và ảnh hưởng không nhỏ tới lợi nhuận của
CTCP mà hậu quả của cơ chế cũ để lại chứ không phải do bản thân CTCP gây
ra.
Trên đây là những vấn đề bức xúc nhất trong quá trình CPH DNNN của
Thanh Hóa những năm qua cần được giải quyết trong thời gian tới.
Tóm lại, sau một thời gian tổ chức sắp xếp lại và CPH, nhiều CTCP có
những chuyển biến nhất định, sản xuất kinh doanh có lãi ( Trừ một số ít bị lỗ).
Mặc dù còn những hạn chế, song kết quả mà các CTCP của tỉnh mang lại
những năm qua đã khẳng định tính tất yếu khách quan của chủ trương CPH
DNNN, khẳng định tính trội của hình thức tổ chức CTCP, nếu những vấn đề
bức xúc đặt ra đối với nó được giải quyết. Vì vậy tiếp tục đẩy mạnh tiến trình
CPH DNNN là trách nhiệm của mọi cấp, mọi ngành, là giải pháp cơ bản, cấp
bách để không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh
58
tranh của DNNN trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực ở Thanh
Hóa trong thời gian tới.
59
Chƣơng 3
PHƢƠNG HƢỚNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN
ĐẨY MẠNH CỔ PHẦN HÓAVÀ HẬU CỔ PHÂN HOÁ DOANH NGHIỆP
NHÀ NƢỚC CỦA TỈNH THANH HÓA THỜI GIAN TỚI
3.1. PHƯƠNG HƯỚNG
3.1.1- Định hƣớng tổ chức sắp xếp lại DNNN - buớc chuẩn bị cổ
phần hoá doanh nghiệp nhà nƣớc.
Quán triệt NQ Hội nghi Ban chấp hành TW Đảng lần thứ 3 (khoá IX),
việc tổ chức sắp xếp lại DNNN của Thanh Hóa trong thời gian tới sẽ là:
3.1.1.1- Về định hướng mục tiêu
“Mục tiêu cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là nhằm tạo ra loại hình
doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động, để
sử dụng có hiệu quả vốn, từ tài sản của nhà nước và huy động thêm vốn xã
hội vào phát triển sản xuất kinh doanh, tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản
lý năng động, có hiệu quả cho doanh nghiệp nhà nước; phát huy vai trò làm
chủ thực sự của người lao động, của cổ đông và tăng cường giám sát của xã
hội đối với doanh nghiệp, bảo đảm hài hòa lợi ích của nhà nước, doanh
nghiệp và người lao động. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước không được
biến thành tư nhân hóa doanh nghiệp nhà nước”.[4] Mục tiêu khái quát nói
trên, CPH và sau CPH DNNN đòi hỏi phải nhằm:
Thứ nhất: Thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn
Theo định hướng này nhằm thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn và kinh
nghiệm tổ chức sản xuất kinh doanh của mọi tổ chức cá nhân trong và ngoài
nước. để đầu tư chiều sâu theo hướng hiện đại nhằm từng bước hình thành
một vài tập đoàn kinh tế địa phương dưới hình thức công ty mẹ, công ty con
để có sức cạnh tranh ngày càng cao hơn và hiệu quả lớn hơn.
Thứ hai: Thực hiện đa dạng hóa chủ sở hữu đối với DNNN
60
Theo hướng này, kiên quyết CPH các doanh nghiệp mà nhà nước
không cần nắm giữ 100% vốn, thực hiện CPH tạo cơ sở cho việc đẩy mạnh
đổi mới các quan hệ quản lý và phân phối sản phẩm trên cơ sở tôn trọng các
nguyên tắc của kinh tế thị trường.
Thứ ba: Thông qua CPH phấn đấu làm cho đông đảo những người lao
động đều có cổ phần và trở thành chủ thực sự.
Định hương này nhằm tạo động lực mới, phát huy tốt quyền tự chủ
của của CTCP trong sản xuất, kinh doanh; chống được lãng phí, tham ô ,thất
thoát vốn và các tiêu cực khác không đáng có so với trước.
Thứ tư: Giải thể hoặc chuyển hình thức sở hữu
Đối với những DNNN thường xuyên thua lỗ và những DN mà Nhà
nước không cần nắm trên cơ sở giải quyết thỏa đáng với nhiều hình thức hợp
tình, hợp lý đối với người lao động.
Cuối cùng: Phải từng bước làm cho kinh tế nhà nước ngày càng mạnh
lên Thông qua CPH, giải thể, hoặc chuyển đổi hình thức sở hữu, nhưng phải
từng bước làm cho kinh tế nhà nước ngày càng mạnh lên để đủ sức phát huy
vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
3.1.1.2- Về định hướng cụ thể
Quán triệt nghị quyết hội nghị ban chấp hành Trung ương lần thứ 3
khóa IX về “tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp
nhà nước”. Căn cứ Quyết định số 58/2002/ QĐ - TTG, ngày 26/4/2002 của
Thủ tướng Chính phủ về “ban hành tiêu chí, danh mục phân loại doanh
nghiệp nhà nước và tổng công ty nhà nước”. Trên cơ sở định hướng chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh Thanh Hóa đến năm 2010 và thực
trạng DNNN của tỉnh, ngày 12/9/2002 UBND tỉnh Thanh Hóa đã có đề án số
3054/UB - ĐMDN trình Chính phủ, ngày 18/3/2003 Thủ tướng Chính phủ đã
có quyết định số 292/QĐ - TTg về “phê duyệt phương án tổng thể sắp xếp đổi
61
mới doanh nghiệp nhà nước tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2003 - 2005”.
Thứ nhất: Đối với những DNNN tiếp tục nắm giữ 100% vốn điều lệ
Trong đó:
- Các DNNN sản xuất hàng công ích
1. Các công thuỷ nông Bắc sông Mã
2. Công ty Thuỷ nông sông Chu
3. Xí nghiệp thuỷ nông Nam sông Mã
4. Công ty môi trường và công trình đô thị
5. Trạm đăng kiểm phương tiện cơ giới đường bộ Thanh Hóa.
- Các DNNN kinh doanh
1. Công ty thương mại và đầu tư phát triển miền núi Thanh Hóa
2. Nhà xuất bản
3. Công ty Sổ số kiến thiết
4. Nhà in báo Thanh Hóa
5. Công ty cấp thoát nước
6. Lâm trường sông Lò
7. Lâm trường Lang Chánh
8. Lâm trường Thạnh Thành
9. Công ty đầu tư và xây dựng Thanh Hóa (tên cũ là công ty xây
dựng số 1 Thanh Hóa).
Thứ hai: Đối với các nông trường quốc doanh (hiện có 12 nông trường)
Theo Nghị định số 01/NĐ - CP ngày 04/01/1995 của Chính phủ, sau
khi đã thực hiện giao đất khoán 20 năm cho các hộ nông trường viên, cần đổi
mới cách quản lý, chuyển hướng gắn với vùng nguyên liệu của các cơ sở chế
biến và cung ứng các dịch vụ kỹ thuật đầu vào, đầu ra cho các hộ nông trường
viên và nông dân trong vùng. Căn cứ quy định hiện hành, có thể nghiên cứu
việc góp vốn, tài sản với các nhà máy chế biến trong địa bàn để thành lập các
62
CTCP.
Thứ ba: Đối với các lâm trường quốc doanh. (Hiện có 9 lâm trường)
Theo Quyết định số 187/1999/QĐ - TTG ngày 16/9/1999 của Thủ
tướng Chính phủ, cần thực hiện đổi mới tổ chức và cơ chế quản lý.
Cụ thể:
1. Lâm trường Bá Thước
2. Lâm trường Sim
3. Lâm trường Cẩm Thủy
4. Lâm trường Sông Đằn
5. Lâm trường sông Chàng
6. Lâm trường Na Mèo
7. Lâm trường Thanh Kỳ
8. Lâm trường Như Xuân
9. Lâm trường Luồng Lang Chánh
Thứ tư: Đối với các doanh nghiệp nhà nước sáp nhập vào doanh nghiệp
nhà nước khác. Đó là:
1. Xí nghiệp thủy nông Nga Sơn (sáp nhập vào công ty thủy nông
Bắc Sông Mã).
2. Xí nghiệp thủy nông Vĩnh Lộc sáp nhập vào công ty thủy nông
Nam Sông Mã
3. Các xí nghiệp thủy nông Thạch Thành, Cẩm Thủy, Thọ Xuân và
các đơn vị thuỷ nông các huyện Ngọc Lạc, Bá Thước, Mường
Lát (sáp nhập vào công ty thuỷ nông Sông Chu).
4. Các xí nghiệp nuôi tôm xuất khẩu (sáp nhập vào công ty xuất
nhập khẩu thuỷ sản Thanh Hóa sau đó tiến hành CPH).
Thứ năm: Đối với các doanh nghiệp nhà nước thực hiện giải thể
1. Công ty thuỷ sản tươi sống xuất khẩu
63
Thứ sáu: Doanh nghiệp nhà nước chuyển thành đơn vị sự nghiệp có thu
1. Công ty điện ảnh (thực hiện năm 2003)
2. Công ty cơ điện, điện tử Lam Sơn
Thứ bảy: Số DNNN còn lại nằm trong diện được chọn để CPH. ( Sẽ
được trình bày cụ thể ở 3.1.2).
3.1.2. Định hƣớng về mức độ thị phần vốn của nhà nƣớc trong tiến
trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc
Qua khảo cứu tình hình thực trạng DNNN của tỉnh đến nay, theo
phương án tổng thể sắp xếp đổi mới DNNN của tỉnh Thanh Hóa do Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt, xuất phát từ đối tượng và phạm vi nghiên cứu
của luận văn, ở đây chỉ bàn về phương án CPH DNNN.
Về mức độ thị phần vốn của nhà nước:
Để hoàn thành lộ trình của Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt tạo điều kiện
cho các CTCP phát triển bền vững, định hướng về mức độ CPH DNNN trong
thời gian tới sẽ là:.
Thứ nhất: Doanh nghiệp nhà nước được chọn CPH, trong đó Nhà nước
nắm giữ cổ phần thấp nhất 51% khi bán cổ phần lần đầu tiên
Theo lộ trình loại doanh nghiệp này được thưc hiện vào năm 2004 gồm có:
1. Công ty xây dựng công trình kỹ thuật đô thị
2. Công ty xuất nhập khẩu thủy sản
3. Công ty xuất nhập khẩu Thanh Hóa
Thứ hai: DNNN được chọn để CPH, trong đó Nhà nước nắm giữ trên
50% vốn điều lệ
- Theo lộ trình loại doanh nghiệp này được thưc hiện vào năm 2004
gồm có:
1. Công ty quản lý đường bộ 1
2. Công ty quản lý đường bộ 2
64
3. Công ty quản lý đường sông
4. Xí nghiệp xây dựng và quản lý giao công chính Thạch Thành
5. Xí nghiệp xây dựng và quản lý giao thông công chính Nông Cống.
Thư ba: Doanh nghiệp nhà nước được chọn CPH, trong đó Nhà nước
nắm giữ dưới 50% vốn điều lệ hoặc không nắm giữ cổ phần
-Theo lộ trình loại doanh nghiệp này được thưc hiện vào năm 2004
gồm có:
1. Công ty xây dựng số 3
2. Công ty tư vấn xây dựng
3. Công ty công trình giao thông 1
4. Công ty công trình giao thông 2
5. Cảng Thanh Hóa
6. Công ty xây dựng số 2
7. Công ty điện cơ
8. Công ty dịch vụ thương mại
9. Xí nghiệp xây dựng giao thông Yên Định
10.Công ty cơ điện, điện tử Lam Sơn
11. Công ty dịch vụ kỹ thuật con nuôi Hoàng Hóa.
12. Xí nghiệp nuôi tôm xuất khẩu
13. Công ty xuất khẩu Thuỷ sản Thanh Hoá.
-Theo lộ trình loại doanh nghiệp này được thưc hiện vào năm 2005
3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN, ĐẨY MẠNH TIÊN TRÌNH CPH VÀ HẬU CPH DNNN
gồm có: Công ty cao su cà phê.
THỜI GIAN TỚI CỦA TỈNH THANH HÓA
Thực hiện phương hướng nói trên, trong thời gian tới cần tập trung thực
hiện tốt các giải pháp sau đây:
3.2.1. Nhóm giải pháp tiếp tục nâng cao nhận thức chủ trƣơng cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc.
65
Ngoài các biện pháp tuyên truyền thông qua các phương tiện thông tin
đại chúng để tiếp tục quán triệt Nghị quyết TW3 (khóa IX) và các Nghị định,
Quyết định của Chính phủ, Ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp của Tỉnh
cần tiếp tục có chương trình tổng thể để tuyên truyền, quảng bá thật sâu rộng
trong mọi tầng lớp nhân dân về chủ trương CPH DNNN. Song cách thức
tuyên truyền phải sao cho thiết thực, phù hợp với từng đối tượng như:
- Đối với Ban đổi mới, phát triển doanh nghiệp của tỉnh cần tăng cường
phối kết hợp với các cấp, các ngành liên quan tiếp tục tổ chức tốt các lớp tập
huấn về chuyên môn nghiệp vụ về CPH DNNN cho cán bộ trực tiếp tham gia
công tác CPH, làm sao để họ phải là những tuyên truyền viên giỏi về CPH
DNNN. Bên cạnh đó UBND tỉnh cần định kỳ có sơ kết tổng kết đúc rút
nghiệm để chỉ đạo kịp thời. Đồng thời, cần tuyên truyền làm sao để mọi người
hiểu rõ và thống nhất được các nhận thức rằng: Chuyển DNNN thành CTCP
không phải là sự thay đổi về hình thức mà là sự thay đổi căn bản về nội dung
nghĩa là CTCP khác cơ bản với DNNN cả về tư duy, chế độ sở hữu, cách thức
quản lý, quyền và nghĩa vụ. Đặc biệt trong tuyên truyền, phải giải tỏa hoàn
toàn tâm lý lo lắng của một số người rằng: Khi CPH DNNN có nhiều nhà tư
bản nước ngoài hoặc một số nhà giầu trong nước đã thâu tóm DNNN vào tay
mình, biến công ty cổ phần thành công ty tư nhân để lũng đoạn nền kinh tế
dẫn đến sự chệch hướng XHCN. Đó là những lo lắng thiếu cơ sở vì:
Một là, trước khi CPH, DNNN đều đã được phân loại: các doanh
nghiệp công ích quan trọng đều phải duy trì là DNNN hoặc trước mắt chúng
ta chưa tiến hành CPH; các DNNN do nhà nước độc quyền cũng chưa CPH,
còn các DNNN quan trọng khác thì nhà nước nắm cổ phần chi phối hoặc cổ
phần đặc biệt.
Hai là, CPH DNNN nào, với mức độ bao nhiêu đều do nhà nước quyết
định chứ không phải thả nổi. Hơn thế trong mỗi loại doanh nghiệp, mỗi đối
66
tượng mua cổ phần đều có sự ràng buộc.
Chẳng hạn: đối với các nhà đầu tư nước ngoài thì chỉ được mua tối đa
30% vốn điều lệ của CTCP. Các nhà đầu tư trong nước thì không hạn chế số
lượng cổ phần được mua, sau khi đã trừ đi số lượng cổ phần mà nhà nước cần
nắm giữ và số lượng cổ phiếu bán theo chế độ ưu đãi, vậy nên phần “không
hạn chế mà họ được mua” không thể đủ điều kiện để họ thâu tóm doanh
nghiệp vào tay mình.
- Đối với Ban giám đốc các DNNN trong diện cổ phần hóa phải trên cơ
sở nhận thức đúng chủ trương CPH để từ đó nâng cao tinh thần trách nhiệm
của mình, tạo điều kiện thuận lợi và cùng với Ban CPH cơ sở nhanh chóng
giải quyết khó khăn thực hiện tiến độ CPH DNNN.
- Đối với người lao động cần tăng cường tuyên truyên giáo dục để họ có
nhận thức đúng chủ trương CPH; giải thích để họ thấy được chính sách ưu đãi
của nhà nước trong việc đảm bảo cho họ có cổ phần để trở thành cổ đông của
CTCP và chính sách việc làm đối với họ.
- Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền cần thông qua những gương tốt
của các DN sau CPH, sản xuất, kinh doanh có lãi, thu nhập của người lao
động tăng lên, cổ tức tăng lên để nâng cao lòng tin của người lao động và các
DNNN hăng hái thực hiện chủ trương CPH DNNN.
Tóm lại, công tác tuyên truyền, công tác tư tưởng luôn phải đi trước và
công tác tuyên truyền cũng như tổ chức thực hiện CPH chỉ có thể đạt được
hiệu quả cao khi và chỉ khi có sự lãnh đạo thống nhất của các cấp uỷ Đảng, sự
đồng tình cao của các tổ chức công đoàn, sự gương mẩu đi đầu của đảng viên
trong việc thực hiện tốt chủ trương CPH DNNN.
3.2.2. Nhóm giải pháp đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nƣớc
Thứ nhất: Lựa chọn đúng DNNN để cổ phần hoá
67
Qua việc đúc rút kinh nghiệm của hơn 12 năm sắp xếp, đổi mới
DNNN, Chính phủ đã đưa ra được các tiêu chí danh mục các DNNN để CPH.
Các tiêu chí chủ yếu dựa vào để chọn DNNN CPH là: doanh thu, tỷ suất lợi
nhuận và nộp ngân sách của doanh nghiệp. Song khách quan mà nói, các tiêu
chí đó chưa phản ánh đầy đủ thực chất của doanh nghiệp, bởi vì thường các
DNNN hoạt động trong môi trường sản xuất kinh doanh có nhiều lợi thế do
nhà nước ưu đãi như: hoạt động trong các lĩnh vực dễ thu lợi nhuận, được vay
vốn ngân hàng bằng tín chấp, được khoanh nợ, treo nợ, giảm nợ, được giảm
miễn thuế dễ dàng hơn các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
Vì vậy việc lựa chọn hình thức chuyển đổi nào theo chúng tôi có lẽ cần phải
đặt DNNN của tỉnh trong một hệ thống phân tích cụ thể như sau.
- Đối với các DNNN, nhà nước cần nắm giữ 100% vốn.
Tuỳ theo loại doanh nghiệp kinh doanh có lãi hoặc không có lãi để có
giải pháp thích hợp. Loại DNNN này không thuộc diện CPH. .(Xem cách xử
lý như bảng 3.1).
Loại
Các DNNN hiện có lãi (theo
Các DNNN hiện không có lãi
DNSXKD
thống kê)
(theo thống kê)
Không có
Có khả năng tồn
Có khả năng tồn tại
Không có khả năng
khả năng
tại được
được
tồn tại
tồn tại
Các
DNNN thuộc
cơ cấu lại
nhóm nhà
Cơ cấu lại hoặc
và giảm
Tăng đầu tư để
Chuyển sang công
nước giữ
chuyển sang công ty
thuế trong
trở thành những
ty TNHH một thành
100% vốn
TNHH một thành
một thời
DN mạnh
viên
viên
gian nhất
định
Bảng 3.1: Lựa chọn các hình thức để tổ chức sắp xếp lại đối với các DNNN
- Đối với DNNN được chọn để cổ phần hóa.
68
Tuỳ theo loại doanh nghiệp kinh doanh có lãi hoặc không có lãi để có
hình thức, mức độ và giải pháp thích hợp). Loại DNNN này thuộc diện CPH.
(Xem cách xử lý như bảng 3.2)
Loại
Các DNNN hiện có lãi (theo thống
Các DNNN hiện không có lãi
DNSXKD
kê)
(theo thống kê)
Không có khả
Có khả năng tồn
Không có khả
Có khả năng tồn
năng
tại được
năng tồn tại
tại được
tồn tại
Các DNNN
CPH đến 60%
khi CPH nhà
vốn
CPH nhà nước
nước nắm CP
nhà nước tại DN,
Cổ phần hóa tối
nắm tỷ lệ cổ
CPH tối đa 49%
chi phối
hoặc giữ
đa 49% vốn nhà
phiếu lớn gấp 2
vốn nhà nước tại
nguyên vốn và
nước tại DN
cổ đông lớn nhất
DN hoặc chuyển
phát
sang công ty
hành cổ phiếu
TNHH một
thành viên
CPH thông qua
liên doanh liên kết
CPH, thực hiện
với các thành
Có thể CPH đến
CPH, giao khoán
Các DNNN
giao, khoán kinh
phần kinh tế khác
80% vốn nhà
thấp hơn giá trị
còn lại
doanh hoặc bán
(không hạn chế
nước tại DN
DN
100% giá trị DN
đối tượng mua cổ
phiếu)
Bảng 3.2: Lựa chọn các hình thức và mức độ cổ phần hóa đối với các DNNN
69
Nói chung việc lựa chọn DNNN để CPH phải là những DNNN có sức
hấp dẫn đối với những người mua cổ phiếu, với tư cách là cổ đông của CTCP.
Sức hấp dẫn đó được thể hiện qua các khía cạnh như: Xác định được chiến
lược sản phẩm, có chiến lược phát triển của doanh nghiệp rõ ràng và có khả
năng sinh lợi sau CPH.
Thứ hai: Giải quyết triệt để các vấn đề thuộc doanh nghiệp tạo điều
kiện thuận lợi cho việc xác định giá trị doanh nghiệp
Để các DNNN sau CPH phát triển bền vững, trong quá trình CPH cần
quan tâm làm tốt các vấn đề cơ bản sau:
-Phải kết hợp hài hòa giữa tính kế hoạch và tính bền vững trong CPH.
Điều đó có nghĩa khi xây dựng lộ trình và phương án CPH DNNN phải đảm
bảo sao cho sau CPH các CTCP có được các điều kiện phát triển bền vững
như: Có chiến lược phát triển sản phẩm phù hợp, có thị trường lao động đáp
ứng xu thế phát triển, tiếp cận nhanh được thị trường vốn, có thị trường bán
sản phẩm nâng cao sức cạnh tranh chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, khu
vực, không nên chạy theo số lượng CPH đơn thuần.
- Lành mạnh hóa tài chính
Một trong những cản trở lớn làm chậm tiến trình CPH DNNN của tỉnh
Thanh Hóa, đó là vì nhiều DNNN tình hình tài chính khá phức tạp, bởi vậy
lành mạnh hóa tài chính của các DNNN trước khi CPH sẽ làm cho tiến độ
CPH DNNN nhanh hơn. Vì một lẽ đơn giản không ai muốn mua cổ phần ở
những DNNN còn những khoản nợ chưa giải quyết dứt điểm. Muốn lành
mạnh hóa tài chính của các doanh nghiệp, trước hết phải tiến hành phân loại
các khoản nợ: nợ thông thường, nợ lâu năm, nợ khó trả, nợ khó đòi, nợ ngân
sách, nợ ngân hàng… cho thật rành mạch và doanh nghiệp phải tích cực giải
quyết trên tinh thần các bên chủ nợ và khách nợ đều phải chủ động, cởi mở để
70
thu hồi nợ và trả nợ.
Trước mắt chúng tôi xin mạnh dạn đề xuất biện pháp để giải quyết từng
loại nợ như sau:
+ Đối với các khoản nợ không có khả năng thu hồi được thì: trước hết
nên dùng vốn dự phòng tài chính để bù đắp. Nếu thiếu thì phần chênh lệch
được trừ vào kết quả kinh doanh, tức là giảm lãi tại thời điểm CPH. Nếu chưa
đủ thì phần chênh lệch còn lại được trừ vào phần vốn nhà nước tại doanh
nghiệp CPH.
Việc xử lý các khoản nợ không có khả năng thu hồi cũng theo trình tự
trên. Tuy nhà nước bị thiệt nhưng phù hợp với thực tế và dễ thực hiện. Tình
hình thực tế cho thấy nếu nhà nước không nhận phần thiệt về mình thì tình
trạng nợ của doanh nghiệp cứ kéo dài mãi mà cuối cùng nhà nước cũng phải
chịu thiệt nhiều hơn. Hơn thế, việc xử lý như vậy để xác định dứt khoát, rõ
ràng tình trạng tài chính của doanh nghiệp, giúp cho doanh nghiệp có một tư
thế mới, là điều kiện để các cổ đông yên tâm mua cổ phiếu.
+ Đối với các khoản nợ vay ngân hàng, cơ quan quản lý tài chính doanh
nghiệp cần chủ động phối hợp với ngân hàng để có thể xử lý theo các cách sau:
Một là, chuyển tổng nợ doanh nghiệp vay ngân hàng thành cổ phần của
ngân hàng tại doanh nghiệp sau khi CPH.
Hai là, thông qua ngân hàng để khoanh nợ cho doanh nghiệp khác trả
thay với mức giảm giá giữa doanh nghiệp mua nợ và ngân hàng để trở thành
cổ phần của doanh nghiệp mua nợ đầu tư vào doanh nghiệp CPH.
Ba là, ngân hàng cho phép doanh nghiệp khoanh nợ, giảm nợ nếu có thể
hoặc ngân hàng có thể đề xuất với Chính phủ cho phép xóa nợ đối với các
doanh nghiệp quá khó khăn về tài chính do gặp thiên tai hay các tình huống
bất khả kháng dẫn đến thua lỗ và hoạch toán vào khoản dự phòng rủi ro của
ngân hàng hoặc xử lý từ nguồn vốn ngân sách.
71
+ Đối với các khoản nợ ngân sách: trước khi CPH các doanh nghiệp phải
nỗ lực để thanh toán các khoản nợ đọng ngân sách. Trường hợp doanh nghiệp
khó khăn về tài chính do đã đầu tư vào tài sản cố định hoặc thiếu vốn kinh
doanh không có khả năng trả nợ thì nhà nước cho doanh nghiệp được ghi thu
ghi chi, coi như là khoản ngân sách cấp cho doanh nghiệp. Đối với những
doanh nghiệp trước khi CPH mà thua lỗ 3 năm liên tục trước đó thì cần xem
xét nguyên nhân thua lỗ, nếu thấy phù hợp thì chấp nhận cho xóa nợ đối với
ngân sách nhưng phải trên nguyên tắc: số nợ không vượt quá số lỗ của doanh
nghiệp.
+ Đối với tài sản không có nhu cầu sử dụng thì cơ quan quản lý trực tiếp
của doanh nghiệp điều chuyển cho các DNNN khác thuộc phạm vi quản lý,
hoặc thực hiện bán đấu giá hoặc thanh lý (nếu bán đấu giá trước khi CPH thì
tính vào giá trị doanh nghiệp, bán sau CPH thì nộp vào qũy hỗ trợ CPH của
tỉnh. Nếu sau CPH, các tài sản này vẫn không bán được, thì UBND tỉnh uỷ
quyền cho CTCP quản lý hộ và sau 90 ngày (kể từ khi DNNN CPH) UBND
tỉnh phải tổ chức bán đấu giá hoặc thanh lý thu hồi vốn về quỹ hỗ trợ CPH của
tỉnh.
+ Đối với tài sản thuê ngoài, nếu bên cho thuê đồng ý bán, bên thuê đồng
ý mua thì giá cả được xác định theo giá thị trường tại thời điểm mua bán. Nếu
bên cho thuê là DNNN, và bên đi thuê có nhu cầu sử dụng thì UBND tỉnh
quyết định chuyển giao tài sản cho bên thuê, bên giao tài sản được hạch toán
giảm vốn, bên nhận thì hạch toán tăng vốn và tính vào giá trị doanh nghiệp để
CPH.
+ Xử lý tài chính đối với các doanh nghiệp có tổng nợ lớn hơn giá trị
doanh nghiệp. Theo số liệu của Cục Tài chính doanh nghiệp, cả nước có trên
5% DNNN đang nằm trong tình trạng này, Thanh Hóa cũng có một số DNNN
như vậy. Hầu hết các doanh nghiệp này nằm ở những vùng khó khăn (miền
72
núi của tỉnh) nếu áp dụng biện pháp giải thể thì ngân sách nhà nước phải chi
trả một khoản tiền lớn để giải quyết chế độ chính sách cho người lao động
trong các doanh nghiệp này. Hơn thế nếu giải thể sẽ tạo nên sự hẫng hụt về
công ăn việc làm của đồng bào. Vì vậy đối với các doanh nghiệp này nên áp
dụng một trong hai biện pháp sau:
Một là, sau khi đã xử lý xong các khoản nợ, bán 100% giá trị doanh
nghiệp cho cán bộ công nhân viên chức để doanh nghiệp có điều kiện đổi mới
công nghệ, tỉnh cần hỗ trợ thêm một phần vốn lưu động với lãi suất ưu đãi từ
quỹ hỗ trợ CPH của tỉnh.
Hai là, giữ nguyên hiện trạng doanh nghiệp và các khoản nợ, bán 100%
giá trị doanh nghiệp thấp hơn giá trị thực tế cho một nhà đầu tư duy nhất.
- Xử lý khi cổ phiếu của doanh nghiệp CPH bán không hết.
Khi có quyết định của cơ quan có thẩm quyền chuyển DNNN thành
CTCP, các doanh nghiệp đều tổ chức thông tin rộng rãi trên các phương tiện
thông tin đại chúng và tổ chức bán cổ phần. Nhìn chung việc bán cổ phần ở
các DNNN được CPH của tỉnh cơ bản đạt được chỉ tiêu, kế hoạch và thời
gian. Song còn một số CTCP sau một tháng thông báo mà số người đăng ký
mua cổ phàn vẫn không đạt tỷ lệ cổ phần dự kiến bán ra, đây cũng là một
trong những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến tiến độ CPH DNNN của tỉnh
thời gian qua, để giải quyết vấn đề này chúng tôi xin đề xuất tỉnh cần áp dụng
một số biện pháp sau.
+ Nhà nước tạm nắm giữ lượng cổ phần không bán hết đó và trở thành
cổ đông nắm cổ phần chi phối, tạo điều kiện cho doanh nghiệp vẫn tiến hành
được đại hội cổ đông, thực hiện đăng ký kinh doanh và đi vào hoạt động, tạo
nên tâm lý tin tưởng trong công nhân viên chức của doanh nghiệp và các cổ
đông. Sau một thời gian khi doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh có lãi, Nhà
nước sẽ bán đấu giá một phần hoặc toàn bộ số cổ phần của mình tại doanh
73
nghiệp thông qua thị trường chứng khoán.
+ Cơ quan cấp trên trực tiếp (là các sở chủ quản nếu doanh nghiệp CPH
trực thuộc sở và là doanh nghiệp lớn, nếu CTCP là một bộ phận của doanh
nghiệp tách ra) mua hết số cổ phần đó và trở thành đồng sở hữu của doanh
nghiệp CPH, điều này một mặt buộc cấp trên phải gắn với doanh nghiệp CPH,
có trách nhiệm thực sự với sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp CPH, mặt
khác sự xuất hiện trực tiếp của cấp trên sẽ làm cho các cổ đông an tâm hơn sẽ tạo
thêm sinh khí cho CTCP. Khi CTCP sản xuất kinh doanh có hiệu quả, cơ quan
cấp trên sẽ chuyển nhượng số cổ phần này cho các cổ đông khác hoặc cổ đông
mới theo giá trị thời điểm chuyển nhượng hoặc thông qua TTCK. Tiền bán lại cổ
phần tiếp tục dự trữ để mua các cổ phần của các doanh nghiệp thuộc quyền khác
khi CPH bán không hết. Như vậy chu trình này cần được lắp đi lắp lại nhiều lần
nhằm mục đích tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp góp phần thực hiện có hiệu
quả chỉ tiêu kế hoạch CPH các doanh nghiệp thuộc phạm vi quản lý.
+ Sử dụng quỹ hỗ trợ CPH của tỉnh mua hết phần còn lại. Biện pháp này,
tương tự biện pháp thứ hai, song việc dùng quỹ hỗ trợ CPH để mua sẽ mang
tính chính thống hơn. Việc sử dụng quỹ hỗ trợ CPH mua có tác dụng trước
hết là tháo gỡ bế tắc cho doanh nghiệp CPH, sau nữa làm tăng vai trò của quỹ
hỗ trợ CPH, đồng thời với tư cách là một cổ đông khi mua cổ phần cũng sẽ
làm tăng vốn cho quỹ khi CTCP sản xuất kinh doanh có lãi.
+ Doanh nghiệp tổ chức bán đấu giá phần còn lại. Đây là biện pháp mới
một mặt làm cho giá cổ phần có thể cao hoặc thấp hơn giá dự kiến ban đầu, song
hoàn toàn có thể thực hiện được, điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh
nghiệp sớm đi vào đại hội cổ đông và chuyển sang hoạt động của CTCP, mặt
khác, thông qua bán đấu giá cổ phần, doanh nghiệp sẽ có điều kiện tiếp cận với
TTCK.
Trong 4 biện pháp trên, 3 biện pháp đầu chỉ là biện pháp tình thế nhằm
74
giải tỏa ách tắc cho doanh nghiệp khi bán không hết cổ phần dự kiến. Biện
pháp thứ 4 tuy mới, nhưng mang tính khách quan hơn, có thể áp dụng phổ
biến cho quá trình CPH khi TTCK phát triển.
Thứ ba: Xác định đúng giá trị doanh nghiệp trước khi CPH.
Một trong những khó khăn lớn nhất làm hạn chế tiến trình CPH DNNN
là việc xác định giá trị doanh nghiệp. Để xác định đúng cần giải quyết thoả
đáng các vấn đề sau :
- Sau khi phân loại tài sản, doanh nghiệp cần áp dụng các biện pháp:
Đối với tài sản tiếp tục được sử dụng, dựa vào các thông số kỹ thuật và trên
cơ sở thực trạng của tài sản để xác định chất lượng còn lại của từng tài sản,
loại hoặc nhóm tài sản. Chỉ đưa vào định giá những tài sản cố định nào không
lạc hậu có thể sử dụng và có khả năng sinh lợi. Còn đối với những tài sản cố
định nào đã quá lạc hậu không thể sử dụng được, cần thanh lý trước khi định
giá để CPH. Giá của tài sản được tính theo các căn cứ sau:
+Nếu trên thị trường đang lưu thông loại tài sản đó thì giá trị được xác
định là giá thị trường nhân với % còn lại.
+Nếu tài sản chuyên dùng hoặc là sản phẩm đầu tư xây dựng thì căn cứ
vào giá đầu tư ở thời điểm ban đầu nhân với tỷ lệ % còn lại.
+ Nếu tài sản đặc thù, không lưu thông trên thị trường thì áp dụng theo
giá tài sản cùng loại, có công suất và tính năng kỹ thuật gần giống nhau. Nếu
không có tài sản tương đương thì tính theo giá của tài sản đã ghi trên sổ kế
toán.
- Trên cơ sở phân loại các khoản nợ, khoanh các khoản nợ không đòi
được hoặc khó đòi để có biện pháp giải quyết đặc biệt, chỉ đưa các khoản nợ
bình thường phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh vào trong các danh
mục để định giá trước khi CPH DNNN.
- Toàn bộ vốn cố định và vốn lưu động được xác định theo giá hiện hành
75
bình quân trên thị trường.
- Đối với bất động sản (Đất đai) với mức độ không nhiều ở những
DNNN trong diện CPH, thì có thể vận dụng kinh nghiệm của Thành phố Hà
Nội( Chương 1) vào điều kiện cụ thể của Thanh Hóa để xác định giá quyền sử
dụng đất vào giá trị doanh nghiệp và Nhà nước nắm số cổ phần này toàn bộ
hoặc số cổ phần chi phối.
- Đối với các công ty thương mại, dịch vụ nhà nước nằm trong diện
CPH, nếu có nhiều cửa hàng, nhiều địa điểm kinh doanh, thì thu hồi bớt trước
khi CPH, chỉ để lại một số cửa hàng, địa điểm cần thiết vào danh mục định
giá trị doanh nghiệp khi CPH.
Thứ tư: Đảm bảo quyền lợi của người lao động ở các DNNN khi CPH
Một vấn đề dễ thấy là cùng với việc cho ra đời quá nhiều DNNN đã kéo
theo số lượng lao động trong DNNN của tỉnh cũng nhiều, điều đáng nói hơn
phần lớn số lao động chưa qua đào tạo, số lao động thuộc diện nghèo cũng
nhiều do có nhiều DNNN làm ăn không hiệu quả, thu nhập của người lao
động quá thấp. Làm thế nào để giải quyết cho thỏa đáng về quyền lợi cho
người lao động ở các DNNN khi CPH là vấn đề không đễ dàng. Chính nó là
một trong những lực cản lớn làm chậm tiến trình CPH của tỉnh những năm
qua. Về vấn đề này cần thực hiện tốt các biện pháp sau đây:
Một là, thực hiện một cách sáng tạo cho phù hợp với tình hình thực tế ở
Thanh Hóa Chính sách đối với người lao động được mua cổ phần ưu đãi tại
Nghị định 44/NĐ - CP của Chính phủ quy định tổng giá trị ưu đãi cho người lao
động không quá 20% vốn nhà nước cho tất cả các doanh nghiệp khi CPH là
không phù hợp, nên chăng nhà nước cần quy định thành 3 nhóm:
Nhóm 1: những doanh nghiệp nhà nước có quy mô vốn lớn, lao động ít
thì cổ phần ưu đãi cho người lao động không quá 20% vốn nhà nước tại
doanh nghiệp.
Nhóm 2: những doanh nghiệp vốn nhà nước ở mức trung bình và có số
lượng người lao động tương ứng thì tổng giá trị ưu đãi không quá 30%.
76
Nhóm 3: những doanh nghiệp vốn nhà nước ít, nhưng lao động lại nhiều
, trong trường hợp này theo chúng tôi không nên quy định tổng giá trị ưu đãi
không quá 20% mà là không quá 40%. Đề xuất như vậy vì qua khảo sát thực
tế hầu hết các doanh nghiệp của tỉnh người lao động chưa được mua đủ cổ
phần tối đa là 10 cổ phần cho một năm công tác. Tình hình đó được thể hiện
qua bảng 3.3.
77
Bảng 3.3: Số lƣợng cổ phần ƣu đãi cho một năm công tác của ngƣời
lao động ở một số CTCP
Số lượng cổ phần ưu đãi ST Tên công ty T thực tế
1 CTCP Bao bì Lam Sơn 4,1/10 cổ phần
2 CTCP Giấy Mục Sơn 5/10 cổ phần
3 CTCP Trường Thi 0,3/10 cổ phần
4 CTCP Phân lân Hàm Rồng 2,3/11 cổ phần
5 CTCP Nước mắm Thanh Hương 1,3/10 cổ phần
6 CTCP Bê tông và xây dựng 2,8/10 cổ phần
7 CTCP Cơ khí tầu thuyền 6,2/10 cổ phần
8 CTCP Cơ khí ô tô 19/5 3,1/10 cổ phần
9 CTCP Giấy bao bì Thanh Hóa 3/10 cổ phần
10 CTCP Vật liệu xây dựng Bỉm Sơn 1/10 cổ phần
11 CTCP Phân lân Tổng hợp 2,4/10 cổ phần
Nguồn: Sở tài chính –Vật giá
Hai là, giải quyết tốt vấn đề lao động sao cho đại đa số lao động ở
DNNN khi CPH đều có việc làm, tăng thu nhập, thể hiện bản chất nhân văn
của chế độ XHCN ở nước ta. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là không phải tất cả mọi
người lao động đều có tiền để mua cổ phần, để có việc làm, đặc biệt những
lao động trong các nông trường, lâm trường. Để giải quyết vấn đề này Nhà
nước cần có chính sách cho công nhân viên chức ở các doanh nghiệp CPH
được vay vốn tín dụng với lãi xuất thấp, thời hạn dài như nhà nước đã và đang
cho nông dân vay vốn sản xuất hoặc mở trang trại. Đối với các doanh nghiệp
nông nghiệp khi CPH, doanh nghiệp nên đứng ra vay tiền ngân hàng rồi thông
qua hiệp hội của ngành để cho người lao động vay mua cổ phần. Cách làm
này đã được thực hiện khá hiệu quả ở tổng công ty chè và công ty mía đường
Lam Sơn. Trong giai đoạn hiện nay nhà nước nên khuyến khích cách làm
78
trên, đó là con đường vừa tạo được sự ổn định việc làm cho người lao động
trong các doanh nghiệp nông nghiệp, vừa là con đường để giúp các doanh
nghiệp nông nghiệp của Thanh Hóa đẩy nhanh tiến độ, đạt kế hoạch đã đã đề
ra.
Ba là, đối với những người thôi việc tự nguyện và mất việc khi CTCP
sắp xếp lại sản xuất kinh doanh, Nhà nước cần có chính sách trợ cấp thỏa
đáng, sao cho người lao động có thể duy trì được sinh hoạt với mức bình quân
tối thiểu trong một thời gian cố định tương ứng với thời gian đã làm việc cho
doanh nghiệp.
Thứ năm: Kết hợp đồng bộ các biện pháp và đơn giản hóa các thủ tục
trong quá trình CPH DNNN
Các hình thức tổ chức thực hiện phải đảm bảo sao cho công việc diễn ra
đúng kế hoạch, đúng quy trình, không xáo trộn, không gây ách tắc mà thực
hiện được kế hoạch đã đề ra cũng là một giải pháp cơ bản để đẩy nhanh tiến
trình CPH DNNN. Muốn vậy cần:
- Có được sự thống nhất cao từ quan điểm đến cách thức tổ chức thực
hiện giữa cấp uỷ Đảng và Ban giám đốc các doanh nghiệp, đặc biệt phải có sự
nhất quán giữa ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp của tỉnh với lãnh đạo
các Sở chủ quản. Nếu không có sự thống nhất giữa hai cơ quan này rất dễ
phát sinh mâu thuẫn trong quá trình thực hiện CPH dẫn đến rằng co kéo dài
thời gian CPH.
- Bên cạnh đó phải luôn kiên quyết trong chỉ đạo thực hiện. Thực tế đã
chứng minh, công việc không thể trôi chảy được nếu không có sự tham gia
tích cực của các cấp, các ngành, của lãnh đạo các doanh nghiệp và của người
lao động. Chính thái độ do dự, thiếu quyết tâm của họ đã làm tiến độ CPH
chậm lại. Vì vậy, căn cứ theo lộ trình của Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt
UBND tỉnh cần sớm cụ thể hóa thành kế hoạch mang tính bắt buộc để giao
79
cho các cấp, các ngành thực hiện chứ không đơn thuần chỉ là sự vận động,
kêu gọi sự tự giác của họ. Nói cách khác, phải kết hợp vừa vận động, giáo dục
thuyết phục vừa bằng mệnh lệnh hành chính, với quyết tâm cao trong triển
khai thực hiện, không dây dưa, kéo dài thời gian. Chẳng hạn, một khi đã
thông suốt về tư tưởng thì quy định đồng loạt mua cổ phần tại một thời điểm
nhất định nào đó, ai đã đăng ký không mua thì chuyển cho người khác, kể cả
người nghèo nếu ở mức thứ nhất không có người mua thì chuyển sang mức
khác.
- Cần có thái độ kiên quyết đối với lãnh đạo các sở chủ quản và giám đốc
các doanh nghiệp.Vì hơn ai hết Sở chủ quản đóng một vai trò rất quan trọng,
là người cổ vũ cho tiến trình CPH các doanh nghiệp trong lĩnh vực mình quản
lý, nhưng trong thực tế có nhiều trường hợp khi chủ trương công bố chưa dứt
thì chính cơ quan chủ quản lại trở thành rào cản tiến trình CPH. Trong thực tế
vì lý do cục bộ không muốn mất đi nguồn lợi nhuận được chia từ các DNNN
của mình nên có một số ngành không muốn CPH DNNN tìm mọi cách né
tránh: giám đốc giao cho phó giám đốc, phó giám đốc giao cho các phòng
ban, tạo ra một vòng luẩn quẩn không ai thực hiện. Phải chăng cần có kỷ luật
thích đáng với những lãnh đạo ở những ngành như vậy.
- Đối với giám đốc DNNN, trong thực tế đã có không ít người có biểu
hiện cố tình kéo dài việc CPH doanh nghiệp của mình bằng cách tạo ra những
“sự cố” như: phương án đã duyệt xong nhưng khi bán cổ phần thì từ giám đốc
đến công nhân không ai đăng ký mua cổ phần, hoặc cố tình không thực hiện
bất kỳ một động tác nào, coi như “không biết”. Phải chăng đối với những
giám đốc như vậy nên đề nghị Sở chủ quản phải có biện pháp cứng rắn thay
thế. Thực tế đã cho thấy nơi nào giám đốc nhận thức đúng, hăng say thì công
tác CPH diễn ra nhanh, ngược lại những nơi giám đốc nhận thức chưa đúng
về CPH, cộng với sự chỉ đạo không đủ mạnh của cấp uỷ Đảng thì CPH diễn
ra rất chậm chạp.
- Để khắc phục tình trạng thủ tục hành chính phức tạp, nhiều tầng nấc,
80
nhiều khâu, trước hết cần rà soát lại để giảm bớt các khâu, các tầng nấc không
cần thiết trong lập hồ sơ và xét duyệt CPH, đối với mỗi khâu cần định ra thời
gian cụ thể. Đặc biệt để tập trung đầu mối, giải quyết tốt các vấn đề của tiến
trình CPH DNNN. Tỉnh cần tiếp tục tăng cường ngày một mở rộng và củng
cố Ban đổi mới phát triển DNNN theo hướng chuyên trách và đủ mạnh để đủ
sức chỉ đạo và xử lý tất cả các vấn đề chuyên môn nghiệp vụ liên quan đến
CPH DNNN như: hướng dẫn ban CPH của các doanh nghiệp chuẩn bị kiểm
kê đánh giá tài sản, thẩm tra giá trị doanh nghiệp, xây dựng phương án CPH,
tổ chức bán cổ phần, tổ chức các Hội đồng cổ đông và trực tiếp xử lý các vấn
đề liên quan đến tài sản, công nợ, giá trị doanh nghiệp … để trình chủ tịch
UBND tỉnh xem xét quyết định. (không nên chuyển về các sở chủ quản ra
quyết định).
3.2.3. Nhóm các giải pháp hậu CPH
Thứ nhất: Tiếp tục tạo sân chơi bình đẳng cho các loại hình doanh
nghiệp.
Thực tế doanh nghiệp CPH đang đứng trước một số khó khăn mà chủ
yếu là bị phân biệt đối xử vì mất đi danh hiệu DNNN.
Chẳng hạn: doanh nghiệp CPH không còn được vay vốn theo hình thức
tín chấp như khi còn là DNNN và tài sản thế chấp mà ngân hàng chấp nhận có
khi không phải là nhà xưởng vật kiến trúc, nguyên vật liệu như trước mà cơ
bản chỉ là máy móc. Việc hợp đồng thuê đất với sở địa chính khi có nhu cầu
mở rộng nhà xưởng cũng khó khăn hơn. Việc tiếp xúc với kho bạc nhà nước
để đăng ký mở tài khoản nộp tiền bán cổ phần, mua tờ cổ phiếu, xin rút tiền
để tăng vốn điều lệ… đều trở lên khó khăn hơn khi còn là DNNN. Thậm chí
các CTCP sau CPH cũng dường như đang bị đối xử như doanh nghiệp tư
nhân của không ít cán bộ viên chức trong cơ quan hành chính nhà nước đã
khiến cho nhiều doanh nghiệp cảm thấy đang từ “con đẻ” trở thành “con rơi”.
Để giải tỏa tâm trạng trên chúng tôi đề nghị thời gian tới, nhà nước cần điều
81
chỉnh các chính sách theo hướng: Có sự ưu đãi trong thời gian đầu cho các
CTCP đang gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh để thúc đẩy tiến trình cổ
phần hóa, đồng thời từng bước xóa bỏ sự phân biệt trong hệ thống cơ chế tạo
ra môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các DNNN với các CTCP và các
doanh nghiệp khác.
Thứ hai: Giải quyết tốt mối quan hệ giữa các CTCP từ DNNN với các
cơ quan nhà nước.
Mặc dù sau CPH các CTCP hoạt động theo luật công ty, việc quản lý nhà
nước của các sở chủ quản và các cơ quan nhà nước không còn trực tiếp như
trước, song trên thực tế đôi khi các cơ quan nhà nước vẫn còn can thiệp quá sâu
vào hoạt động của các CTCP đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới tính chủ động
của CTCP đó là một khuynh hướng. Một khuynh hướng khác lại coi như các
cơ quan nhà nước hết trách nhiệm khi DNNN đã CPH, cả hai khuynh hướng
này đều ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển của CTCP. Để tạo điều kiện cho
các CTCP đạt hiệu quả sản xuất kinh doanh ngày càng cao trong thời gian tới
cần:
Một là, Nhà nước một mặt vẫn phải làm tốt vai trò kiểm soát điều hành
về mặt vĩ mô, nhưng mặt khác không nên can thiệp quá sâu vào hoạt động của
các CTCP.
Hai là, cần lưu ý đặc điểm khác biệt giữa doanh nghiệp CPH với các
CTCP được thành lập mới đó là: các DNNN CPH trước đó là những doanh
nghiệp do nhà nước đầu tư tạo dựng, người lao động trong doanh nghiệp là
cán bộ công nhân viên của DNNN, nhiều người trong số họ đã có nhiều cống
hiến cho nhà nước do vậy nhà nước cần tiếp tục giải quyết tốt các vấn đề tồn
đọng của DNNN cũ như: bảo hiểm xã hội, chế độ cho người lao động dôi dư,
chính sách của giám đốc, phó giám đốc và kế toán trưởng nếu không trúng
các vị trí trong CTCP. Đặc biệt nhà nước cần có quy định cụ thể trách nhiệm
82
của các cơ quan nhà nước trong việc phải tiếp tục cung cấp thông tin, phổ
biến chế độ chính sách, tháo gỡ những vướng mắc thuộc về nghiệp vụ cho các
CTCP.
Thứ ba: Khuyến khích các CTCP tích cực tham gia TTCK.
Như phần 3.2.6 đã khẳng định TTCK và CTCP có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau, trong đó TTCK là điều kiện tiền đề cho sự ra đời phát triển của
CTCP và điều kiện bắt buộc các CTCP phải sản xuất kinh doanh phát triển cả
về chiều rộng lẫn chiều sâu, phải huy động thêm vốn. Nói cách khác, CTCP
muốn tăng nguồn vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh thì phải tích cực tham
gia TTCK. Thực tế cho thấy các CTCP của cả nước nói chung, Thanh Hóa
nói riêng đang ở trong tình trạng phổ biến là: những CTCP có đủ điều kiện
niêm yết lại không muốn tham gia TTCK, những CTCP muốn huy động thêm
vốn thông qua TTCK bằng việc phát hành cổ phiếu thì lại không đủ điều kiện.
Đó là nguyên nhân làm giảm tính xã hội trong CPH DNNN và làm mất đi một
kênh huy động vốn không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy,thời
gian tới Nhà nước cần khuyến khích các CTCP tích cực tham gia TTCK bằng
cách gắn chặt CPH với phát hành cổ phiếu ra công chúng trên cơ sở niêm yết
trên TTCK, ngoài ra cần tạo khung pháp lý cho việc hình thành TTCK phi tập
trung để giao dịch cổ phiếu của những CTCP chưa đủ điều kiện niêm yết.
Thứ tư: Tạo điều kiện để các DNNN đã CPH hoạt động ngày càng có
hiệu quả kinh tế - xã hội cao, tăng sức cạnh tranbh và tham gia hội nhập
kinh tế khu vực và quốc tế.
Thực tế cho thấy rằng: cho dù việc tuyên truyền cho CPH DNNN như
thế nào đi chăng nữa nhưng chắc chắn sẽ không đạt những kết quả mong
muốn, không thể hoàn thành được lộ trình CPH DNNN mà Chính phủ đã phê
duyệt, nếu như vẫn còn nhiều CTCP từ DNNN sản xuất kinh doanh không
hiệu quả, việc làm và thu nhập của người lao động không đảm bảo, lợi nhuận
cổ tức không có… Vì vậy cách tuyên truyền tốt nhất, hiệu quả nhất là bằng
83
các chính sách vĩ mô nhà nước cần làm sao để các CTCP tiếp cận được vốn,
công nghệ, thị trường và thông tin tốt nhất. đồng thời cần có chính sách “bà
đỡ” cho các doanh nghiệp sau cổ phần gặp nhiều khó khăn trong một thời
gian nhất định để các CTCP có điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh có
hiệu quả nâng cao sức cạnh tranh, hội nhập kinh tế và giải quyết tốt vấn đề xã
hội của các CTCP từ DNNN.
- Tiếp tục nghiên cứu bán tiếp phần vốn nhà nước ở các CTCP mà nhà
nước không cần giữ cổ phần chi phối cho người lao động.
Đó là những giải pháp cơ bản mà luận văn muốn đề cập tới, hy vọng sẽ
có những góp nho nhỏ cho tiến trình CPH DNNN của Thanh Hóa nói riêng và
cả nước nói chung.
3.2.4. Một số kiến nghị vĩ mô đối với nhà nƣớc
Thứ nhất, Nhà nước cần xóa bỏ mức khống chế về quyền mua cổ
phiếu lần đầu và mở rộng đối tượng mua cổ phiếu.
Vì quy định khống chế mức mua cổ phiếu của các pháp nhân và thể nhân
trong đợt phát hành lần đầu, hạn chế sự tham gia của các nhà đầu tư chiến
lược và quyền mua cổ phiếu của các đối tượng là cán bộ lãnh đạo quản lý
nghiệp vụ, vợ hoặc chồng, bố hoặc mẹ và các con của họ làm việc tại DNNN
thực hiện CPH như hiện nay là chủ hợp lệ. Những quy định này đã làm hạn
chế khả năng huy động vốn, mở rộng sản xuất kinh doanh. Vì thế nhà nước
chỉ cần quy định số lượng cổ đông tối thiểu và cổ phần chi phối của nhà nước
tại doanh nghiệp là được.
Thứ hai, Nhà nước cần nhanh chóng hoàn thiện phương pháp xác
định giá trị doanh nghiệp CPH.
Thực tế quá trình CPH DNNN của Thanh Hóa cho thấy; việc xác định giá
trị doanh nghiệp để CPH còn mang nặng tính chủ quan của hội đồng xác định
giá trị doanh nghiệp nên kết quả đôi khi thiếu chính xác, chưa phản ánh giá trị
84
thực của doanh nghiệp. Điều này dẫn đến những hiệu ứng: người lao động
trong doanh nghiệp sẽ mua hết cổ phần được bán ra nếu kết quả xác định doanh
nghiệp thấp, hoặc sẽ không bán được cổ phần nếu giá trị doanh nghiệp được
xác định quá cao. Vì vậy nhà nước cần sớm hoàn thiện một phương pháp định
giá trị doanh nghiệp, tuy nhiên sẽ không có một phương pháp hoàn toàn tối ưu
nhưng phải có phương pháp sao cho đảm bảo được lợi ích của cả người bán và
người mua. Vì vậy nhà nước cần xây dựng phương pháp định giá doanh nghiệp
gắn chặt với thị trường và thông qua đấu thầu. Để thực hiện được phương pháp
đó, cần bổ sung thêm các quy định về xác định phẩm chất tài sản, xác định uy
tín lợi thế của doanh nghiệp và giá trị doanh nghiệp, đồng thời phải áp dụng
thêm một số phương pháp khác nhằm kiểm tra độ chính xác và tính hợp lý kết
quả xác định giá doanh nghiệp trước khi công bố giá để bán cổ phần.
Thứ ba, giải quyết lao động dư dôi sau CPH.
Như đã trình bày ở phần “những bức xúc”; nhà nước quy định: không
được chấm dứt hợp đồng với người lao động sau khi doanh nghiệp thực hiện
cổ phần hóa trong năm đầu tiên đang là một khó khăn lớn của các CTCP và
việc cần phải chấm dứt ngay hợp đồng với người lao động không đáp ứng yêu
cầu trong cơ chế kinh tế thị trường để CTCP giảm bớt gánh nặng; sản xuất
kinh doanh có hiệu quả hơn là một đòi hỏi chính đáng. Song nhìn chung số
người dôi dư phần lớn đã có nhiều cống hiến cho doanh nghiệp nhà nước một
thời, vì vậy theo chúng tôi nhà nước cần điều chỉnh và sửa đổi cơ chế giải
quyết chính sách thôi việc mất việc ở các doanh nghiệp CPH theo hướng: tăng
mức trợ cấp cho người lao động, nâng cao trách nhiệm của người sử dụng lao
động khi để người lao động mất việc sau khi chuyển sang làm việc tại CTCP,
đơn giản hóa các thủ tục và tập trung sự hỗ trợ của nhà nước thông qua quỹ
hỗ trợ CPH DNNN, để làm sao người thôi việc tự nguyện và người mất việc
cần được chấm dứt hợp đồng sớm nhưng không bị hẫng hụt và xáo trộn cuộc
85
sống. Về mức trợ cấp thôi việc, mất việc cho người lao động dôi ra trong CPH
DNNN theo Nghị quyết số 177/1999/QĐ - TTg ngày 30/8/1999 của Thủ
tướng Chính phủ là quá thấp chưa khuyến khích được người lao động tự
nguyện thôi việc và cũng chưa tạo được điều kiện cho người thôi việc, mất
việc tự lập nghiệp được trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Vì vậy cần
nâng cao mức trợ cấp cho các đối tượng thôi việc và mất việc để chấm dứt
hợp đồng, có như vậy doanh nghiệp sau CPH mới có điều kiện nâng cao tay
nghề cho công nhân là điều kiện để đổi mới công nghệ và không phải chịu
sức ép từ số lao động không còn thích hợp với môi trường và yêu cầu mới.
Thứ tư, Nhà nước cần xác định rõ vai trò, chức năng, nhiệm vụ của
người đại diện vốn nhà nước tại CTCP.
Như đã biết DNNN sau CPH sẽ hoạt động theo luật công ty, kể cả khi
nhà nước giữ 51% cổ phần chi phối còn nếu sau CPH doanh nghiệp vẫn hoạt
động theo luật DNNN thì việc cổ phần hóa coi như bị thất bại. Vấn đề sẽ
không có gì để bàn nếu DNNN sau CPH có 100% của các cổ đông, không còn
phần vốn của nhà nước vì thực tế các CTCP loại này đã và đang hoạt động
khá trôi chảy. Vấn đề đáng bàn là khi CTCP vẫn còn phần vốn của nhà nước
và phải có một người trong HĐQT đại diện cho phần vốn này của nhà nước.
Vấn đề đặt ra là nếu CTCP hoạt động không hiệu quả thua lỗ hoặc phá sản thì
tính trách nhiệm mất vốn cổ phần vốn nhà nước thuộc về ai vì thực tế hiện
nay ở nhiều CTCP không ai trong HĐQT đích danh chịu trách nhiệm về phần
vốn đó. Hơn thế dù theo quy định hiện hành vai trò vị trí của người đại diện
cho phần vốn của nhà nước có ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển của
CTCP, song trên thực tế vì nhiều lý do nên người đại diện nhà nước tại CTCP
vẫn chưa thực hiện tốt vai trò, nhiều khi không rõ chức năng nhiệm vụ đôi thi
phần nào còn cản trở đến tính chủ động của CTCP. Vì vậy để quản lý có hiệu
quả phần vốn của nhà nước tại CTCP thiết nghĩ nhà nước cần: ban hành thống
86
nhất về tiêu chuẩn người đại diện sở hữu cổ phần nhà nước và người trực tiếp
quản lý cổ phần nhà nước tại CTCP, tăng thẩm quyền và trách nhiệm đối với
người đại diện. Bên cạnh đó quy định cụ thể những vấn đề quan trọng ảnh
hưởng trực tiếp đến lợi ích của nhà nước thì người trực tiếp quản lý phần vốn
nhà nước cần xin ý kiến cơ quan chủ quản trước khi biểu quyết ở đại hội cổ
đông. Đồng thời cũng phải quy định rõ cơ chế phối hợp, giữa những người
quản lý trực tiếp phần vốn nhà nước tại một doanh nghiệp nhằm tránh việc
các cá nhân quản lý trực tiếp phần vốn nhà nước có ý kiến biểu quyết khác
nhau để đảm bảo lợi ích thống nhất của cổ phần nhà nước…
Thứ năm, tạo điều kiện để hình thành và phát triển TTCK.
TTCK có vai trò tích cực đối với nền kinh tế thị trường, nó khuyến khích
nhân dân tiết kiệm và thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi vào đầu tư. Đặc biệt
TTCK là điều kiện, tiền đề quan trọng cho quá trình CPH vì TTCK và CPH
có mối quan hệ biện chứng tác động tương hỗ lẫn nhau. TTCK là nơi trao đổi
cổ phiếu giữa các CTCP, CTCP là nguồn cung cấp cổ phiếu cho TTCK. Nói
cách khác, nhờ TTCK các doanh nghiệp mới có thể bán và phát hành cổ
phiếu, trái phiếu, song theo quy luật cung cầu ban quản lý TTCK chỉ chấp
nhận các cổ phiếu, trái phiếu của những công ty kinh doanh hợp pháp, tài
chính lành mạnh, có doanh lợi… Và dân chúng cũng chỉ mua cổ phiếu, trái
phiếu của những công ty làm ăn phát đạt. Như vậy với sức ép của TTCK và
người mua cổ phiếu đòi hỏi các công ty phải tính toán làm ăn rõ ràng hơn,
minh bạch hơn và hiệu quả hơn. Hơn nữa khi tham gia TTCK buộc các doanh
nghiệp phải công bố công khai các loại báo cáo như: báo cáo cân đối tài
chính, kết quả kinh doanh hàng quý, hàng tháng, hàng năm trước công chúng,
qua đó công chúng có đủ điều kiện đánh giá được hoạt động kinh doanh của
công ty. Ngược lại doanh nghiệp và các CTCP lại tác động trở lại TTCK với
tư cách là chủ thể tham gia TTCK (là người cung cấp hàng cho TTCK).
Tóm lại TTCK và CTCP có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó
87
TTCK là một trong những điều kiện, tiền đề cho CPH. Vì vậy để thúc đẩy
tiến trình CPH DNNN nhà nước cần tạo điều kiện sao cho TTCK phát triển
sâu rộng là cần thiết khách quan.
Thứ sáu, thành lập được các tổ chức trung gian hỗ trợ các doanh
nghiệp thực hiên CPH.
Để giúp các doanh nghiệp tháo gỡ các khó khăn vướng mắc trong quá
trình thực hiện CPH, nhà nước cần nghiên cứu và thành lập các tổ chức trung
gian như: Công ty tư vấn bán nợ và tài sản doanh nghiệp, công ty tư vấn cổ
phần hóa, công ty định giá tài sản, công ty tư vấn xây dựng phương án CPH,
dịch vụ phát hành cổ phiếu… để cùng với công ty đầu tư chứng khoán sẽ đảm
nhận các nhiệm vụ tư vấn cổ phần DNNN, làm dịch vụ phát hành cổ phiếu,
đầu tư mua cổ phiếu, môi giới cho vay vốn đầu tư mua cổ phần, tư vấn quản
lý doanh nghiệp sau CPH, bán phần vốn nhà nước ở các CTCP…
Thứ bảy, cần tiếp tục củng cố ban đổi mới phát triển DNNN các cấp
đủ trình độ tinh thông nghiệp vụ, đồng thời phải đẩy mạnh và phát huy tốt
vai trò của quỹ hỗ trợ CPH DNNN
Để tiến độ CPH DNNN đảm bảo lộ trình đạt được các mục tiêu của CPH
nhà nước cần chú trọng đào tạo và đào tạo lại cán bộ quản lý kinh tế cho các
doanh nghiệp. Trong đó chú trọng đào tạo trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ
kiểm soát viên trong các CTCP vì đây là lực lượng đảm bảo cho các CTCP
hoạt động đúng luật, lành mạnh song hiện tại đội ngũ này ở Thanh Hóa còn
nhiều hạn chế. Qua điều tra mới có 22,5% kiểm soát viên có trình độ đại học,
60% có trình độ trung cấp, 17,5% chưa qua đào tạo. Bên cạnh đó Chính phủ
cần sửa đổi quy định về chi phí CPH DNNN cho phù hợp. Nên có quy định
tối thiểu và tối đa để khắc phục tình trạng: các doanh nghiệp lớn thì chi không
hết, các doanh nghiệp nhỏ lại không đủ chi. Đồng thời cần ban hành các cơ
chế quản lý CTCP như: xét thi đua khen thưởng, mức lương cơ bản và phụ
cấp cho thành viên HĐQT, rồi quy định các thành viên của HĐQT đi nước
ngoài như thế nào? Phải xin phép ai… đặc biệt nhà nước cần nghiên cứu để
88
sớm xây dựng được luật CPH...
Tóm lại, xây dựng phương hướng, lộ trình chung và định hướng cụ thể là
rất cần thiết. Điều đó không chỉ tạo điều kiện cho các DNNN trong diện CPH
nâng cao tính chủ động mà còn là cơ sở pháp lý, chổ dựa đảm bảo cho công
tác CPH DNNN của tỉnh Thanh Hóa đi đúng quỹ đạo và bảo đảm thực hiện
đúng tiến độ.
Tính hiện thực và tính khả thi của phương hướng nói trên cần có những
giải pháp cơ bản thích hợp và đồng bộ để giải quyết tốt những vướng mắc cho
các DNNN trong tiến trình CPH và cho các CTCP từ DNNN.
Việc bổ sung sửa đổi, hoàn thiện các chính sách là việc làm cấp thiết có
tính chất quyết định sự thành bại của công tác CPH DNNN. Vì vậy các chính
sách của Đảng, nhà nước phải có tác dụng khuyến khích các doanh nghiệp
phát triển trên cơ sở kết hợp hài hòa giữa lợi ích nhà nước, doanh nghiệp và
người lao động trong và sau CPH DNNN.
KẾT LUẬN
Thực hiện CPH DNNN theo lộ trình mà Chính phủ đã phê duyệt cho tỉnh
Thanh Hóa là một tất yếu khách quan, phù hợp với xu thế vận động của
DNNN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, phù hợp với xu thế
mở cửa hội nhập của nền kinh tế đất nước. Để góp phần vào tiến trình CPH
DNNN của tỉnh, luận văn đã tập trung luận giải một số vấn đề cơ bản sau:
Một là, đã lựa chọn và phân tích có hệ thống những vấn đề lý luận cơ
bản về CPH nói chung, khẳng định CPH DNNN là sự lựa chọn đúng đắn,
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, là vấn đề có tính phổ biến của
nhiều nước trên thế giới, là quan điểm nhất quán của Đảng và nhà nước ta
trong quá trình cải tạo, cấu trúc lại DNNN và khẳng định CPH không phải là
tư nhân hóa mà là thực hiện xã hội hoá về vốn.
Hai là, làm rõ mục tiêu CPH DNNN và kinh nghiệm thực tiễn CPH
89
DNNN ở nước ta và một số tỉnh, thành phố trong nước kể cả kinh nghiệm
thành công và chưa thành công có tác dụng gợi mở cho việc vận dụng và
tránh được những vấp váp trong tiến trình CPH DNNN ở Thanh Hóa.
Ba là, Trên cơ sở khái quát tình hình DNNN của tỉnh Thanh Hóa trên
nhiều phương diện như: số lượng, cơ cấu, vốn, công nghệ, hiệu quả sản xuất
kinh doanh … từ những năm 1990 đến nay,khẳng định trong quá trình vận
động DNNN của tỉnh Thanh Hóa tuy đã đạt được những thành tựu nhất định,
song cho đến trước ngày CPH DNNN vẫn còn bộc lộ nhiều khuyết tật và yếu
kém.
Bốn là, Bằng những số liệu có chọn lọc và cập nhật, luận văn phân tích
thực trạng CPH DNNN của tỉnh Thanh Hóa đưa ra những đánh giá về thành tựu
và hạn chế, đồng thời chỉ ra những nguyên nhân cơ bản làm chậm tiến độ CPH
DNNN của tỉnh thời gian qua. Đặc biệt đã đưa ra những vấn đề mới nãy sinh cần
giải quyết để thúc đẩy tiến trình CPH DNNN trong thời gian tới ở Thanh Hóa.
Năm là, khẳng định việc tiếp tục đẩy mạnh CPH DNNN ở nước ta nói
chung và Thanh Hóa nói riêng khi công cuộc cải cách kinh tế của đất nước đã đi
vào chiều sâu và mở cửa hội nhập quốc tế càng trở nên tất yếu và cấp bách hơn.
Sáu là, trên cơ sở khảo cứu thực tế DNNN trong diện CPH và các CTCP
từ DNNN của tỉnh, luận văn đã đề xuất phương hướng mục tiêu tổng quát,
và định hướng lộ trình mục tiêu cụ thể của CPH DNNN thời gian tới.
Bảy là, để thực hiện tốt phương hướng mục tiêu CPH DNNN, luận văn
đã đề xuất 3 nhóm giải pháp cơ bản như:
- Giải pháp tiếp tục nâng cao sự thống nhất về nhận thức trong các cấp
,các ngành và trong dân cư qua các phương tiện thông tin đại chúng về chủ
trương CPH DNNN
- Giải pháp tháo gỡ những mắc mứu, tồn tại trong tiến trình CPH DNNN
của những năm tới trên các mặt lựa chọn DNNN để CPH, xác định giá trị
doanh nghiệp, giải quyết đúng chính sách ưu đải đối với người lao động trong
90
qua trình cổ phần hóa v.v.
- Giải pháp sau CPH nhằm tạo điều kiện môi trường thuận lợi cho việc
nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh đối với các CTCP từ các DNNN.
Tám là, để tăng tính khả thi của các nhóm giải pháp trên, luận văn kiến
nghị với Nhà nước cần bổ sung, điều chỉnh và hoàn thiện một số điều khoản
trong một số chính sách liên quan đến CPH DNNN và liên quan đến việc
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các CTCP từ DNNN sau CPH ở
tỉnh Thanh Hóa trong thời gian tới.
91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Trương Văn Bàn, Bàn về cải cách toàn diện DNNN.
[2]. Nguyễn Thị Bằng, Góp thêm ý kiến về CPH DNNN tạp chí tài chính
tháng 3/1994
[3]. Nguyễn Trọng Bảo, Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo và đội ngũ cán
bộ quản lý doanh nghiệp trong nước trong thời kỳ CNH, HĐH đất
nước, NXB giáo dục, 1998
[4]. Báo nhân dân , “Một số kết quả cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở
Hà Nội”, số ra ngày 21 tháng 4 năm 2004
[5]. “Cổ phần hóa, giải pháp quan trọng trong cải cách DNNN, CTCP”,
thông tin kinh tế đối ngoại, NXB Chính trị Quốc gia, 2002
[6]. Phạm Văn Dũng - Phạm Mạnh Thường, Một số vấn đề tài chính khi tiến
hành CPH DNNN, tạp chí Tài chính tháng 8/196.
[7]. Đỗ Ngụ Điệp, Chủ nghĩa tư bản ngày nay tự điều chỉnh kinh tế, NXB
Khoa học xã hội, 1993.
[8]. Võ Văn Đức, Thử tìm nguyên nhân và giải pháp đẩy nhanh tiến trình
CPH DNNN, nghiên cứu lý luận số 6/1997.
[9]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã
hội đến năm 2000, NXB Sự thật Hà Nội, 1987.
[10]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, NXB Chính trị Quốc gia, 1991.
[11]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại Hội Đại biểu toàn quốc lần
VIII, NXB Chính trị Quốc gia, 1996.
[12]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại Hội Đại biểu toàn quốc lần IX,
NXB Chính trị Quốc gia, 2000.
[13]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba, BCH TW
Đảng khóa IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu
92
quả DNNN, NXB Chính trị Quốc gia, 2001.
[14]. Đảng uỷ Ban Kinh tế tỉnh Thanh Hoá, Đổi mới phát huy vai trò chủ đạo
của DNNN, Hội thảo khoa học tháng 12/1998.
[15]. Trần Quang Hà, Cổ phần hóa DNNN và thị trường chứng khoán,
Nghiên cứu kinh tế số 241, tháng 6/1998.
[16]. Trần Mai Hương, Cổ phần hóa với vấn đề người lao động, Nghiên cứu
kinh tế só 236 tháng 1/1998.
[17]. Hỏi - đáp về luật doanh nghiệp, NXB Giao thông vận tải, 2003
[18]. Luật doanh nghiệp nhà nước.
[19]. Luật DNNN sửa đổi
[20]. Nguyễn Đăng Liên, Một số vấn đề cổ phần hóa DNNN tại Việt Nam,
trong cơ chế kinh tế thị trường hiện nay, NXB trẻ, 1996.
[21]. K.Mác, tư bản tập 1, phần 1, NXB sự thật, Hà Nội, 1984.
[22]. K.Mác, Tư bản tập 2, NXB sự thật Hà Nội, 1985.
[23]. Nghị định số 48/NĐ - CP ngày 11/7/1998 của Chính phủ về chứng
khoán và thị trường chứng khoán.
[24]. Nghị định số 64/2002/NĐ, ngày 19/6/2002 của Chính phủ về việc
chuyển doanh nghiệp nhà nước thành CTCP.
[25]. Nghị định số 103/1999/NĐ - CP, ngày 10/9/1999 của Chính phủ về
giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN.
[26]. Nghị định số 49/2002 của Chính phủ về sửa đổi bổ sung một số điều của
Nghị định số 103/1999/NĐ - CP, ngày 10/9/1999 của Chính phủ về
giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê doanh nghiệp nhà nước.
[27]. Nghị định số 41/2001/NĐ - CP, ngày 11/4/2002 của Chính phủ về chính
sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp lại DNNN.
[27]. Phan Thanh Phố “Những vấn đề cơ bản về kinh tế và đổi mới kinh tế ở
Việt Nam - Công ty cổ phần và thị trường chứng khoán”, NXB Giáo
dục-1996
93
[28] Hoàng Xuân Tại, Báo cáo tóm tắt nghiên cứu, đánh giá công tác cổ phần
hóa tại các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và đề xuất giải pháp
thúc đẩy công tác cổ phần hóa ở Thanh Hóa.
[29]. Hoàng Đức Tảo, Cổ phần hóa DNNN, kinh nghiệm thế giới
[30]. Phạm Văn Tiệm, Đổi mới doanh nghiệp trong giai đoạn CNH, HĐH.
[31]. Nguyễn Minh Thông, CPH DNNN mấy vấn đề lý luận và thực tiễn, tạp
chí cộng sản số 16/2002.
[32]. Đòan Văn Trường, Thành lập tổ chức và điều hành hoạt động CTCP,
NXB KHKT, 1996
[33]. Uỷ Ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Báo cáo tình hình đổi mới DNNN của
tỉnh Thanh Hóa năm 2002.
[34]. Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Báo cáo tình hình đổi mới DNNN của
tỉnh Thanh Hóa năm 2003.
[35] Uỷ Ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Đề án sắp xếp đổi mới, phát triển
DNNN.
[36]. Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Hệ thống văn bản mới về sắp xếp, đổi
mới, phát triển DNNN.
[37]. Nguyễn Ngọc Quang, Cổ phần hóa DNNN, giải pháp chiến lược đổi
mới khu vực kinh tế nhà nước, nghiên cứu kinh tế tháng 12/1994.
[38]. Nguyễn Ngọc Quang, Cổ phần hóa DNNN cơ sở lý luận và thực tiễn,
NXB Khoa học xã hội, 1996.
[39]. Quyết định số 58/2002/QĐ - TTg, ngày 26/4/2002 của Thủ tướng Chính
phủ về ban hành tiêu chí danh mục phân loại DNNN và tổng công ty
nhà nước.
[40]. Quyết định số 117/1999/QĐ - TTg, ngày 28/6/1999 của Thủ tướng
Chính phủ về tổ chức và hoạt động của quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần
hóa DNNN.
[41]. Nguyễn Hữu Viện, Luật kinh tế, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001.
94
PHỤ LỤC
Thông số
1. Tổng số doanh nghiệp 1.1. Số DN công ích 1.2. Số DN sản xuất kinh doanh 1.3. Số doanh nghiệp có lãi 1.4. Số doanh nghiệp hòa vốn 1.5. Số doanh nghiệp lỗ vốn 2. Vốn kinh doanh 2.1. Vốn ngân sách 2.2. Vốn tự bổ sung 2.3. Vốn liên doanh
Đơn vị tính Đơn vị Đơn vị Đơn vị Đơn vị Đơn vị Đơn vị Tr.đồng Tr.đồng Tr.đồng Tr.đồng
1995 162 162 79 20 63 410.814 301.3150 109.499
1996 142 142 71 7 64 413.803 203.557 104.016
1997 136 18 118 79 8 49 485.608 296.540 187.439 1.594
2.4. Vốn HĐ các nguồn khác
35
7.230
3. Diện tích đất 4. Lao động 1.1. LĐ chờ sắp xếp việc 5. Kết quả kinh doanh 5.1. Doanh thu 5.2. Lãi thực hiện (trước thuế) 5.3. Lỗ (cộng dồn) 6. Tổng mức nộp ngân sách 6.1. Thuế doanh thu 6.2. Thuế lợi tức 6.3. Thuế xuất nhập khẩu 6.4. Thuế tiêu thụ đặc biệt 6.5. Thu sử dụng vốn 7. Tổng nợ phải trả 7.1. Nợ ngân sách 7.2. Nợ ngân hàng 8. Tổng nợ phải thu 8.1. Nợ khó đòi
Tr.đồng m2 Người Người Tr.đồng Tr.đồng Tr.đồng Tr.đồng Tr.đồng Tr.đồng Tr.đồng Tr.đồng Tr.đồng Tr.đồng Tr.đồng Tr.đồng Tr.đồng Tr.đồng
172.400 29.992 4.238 1.087.246 5.802 39.454 117.967 15.303 2.381 86.067 7.956 568.046 36.778 264.223 308.796 14.400
151.410 27.991 3.487 1.115.626 3.672 51.850 101.583 14.603 2.201 47.570 32.423 5.492 558.434 28.767 209.947 265.631 20.678
145.110 28.016 3.002 1.177.543 1.346 35.262 96.123 18.754 2.189 31.277 34.551 1473 534.755 21.115 211.710 269.560 757
Phụ lục 1: TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG DNNN TỈNH THANH HÓA ( 1995 - 1997)
Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động của doanh nghiệp nhà nước - Ban đổi mới
doanh nghiệp nhà nước tỉnh Thanh Hóa
95
Phụ lục 2: BÁO CÁO MỘT CHỈ TIÊU TÀI CHÍNH DNNN TỈNH QUẢN LÝ NĂM 2001
TT
CHỈ TIÊU
ĐVT
NGÀNH CN
NGÀNH GT
NGÀNH XD
NGÀNH NNPTNT
NGÀNH TM
NGÀNH KHÁC
TỔNG CỘNG
NGÀNH THUỶ SẢN
6
11 99
TỔNG SỐ DN DOANH THU
1 2 2.1 DN CÓ LÃI
TỔNG SỐ LÃI 2.2 DN HÒA VỐN 2.3 DN LỖ
2.4 3. 4
DN TR.Đ DN TR.Đ DN DN TR.Đ TR.Đ TR.Đ NGƯỜI TR.Đ
12 161.585 3 187 3 6 3.384 (3.197) 80.772 1.770 9.279
8 90.433 7 1.857 1 722 1.135 7.179 1.454 10.313
12 365.960 7 4.576 2 3 876 3.700 2.400 4.470 39.973
5 151.371 636.584 4 403 1 403 711 1.073 6.087
1 744 1 4 4.024 (3.280) 14.148 795 2.519
45 279.491 26 2.128 19 6.907 (4.779) 20.118 10.309 52.878
74.912 8 1.872 1 2 329 1.543 4.247 690 4.609
1.760.836 56 11.767 8 35 16.242 (4.475) 129.577 20.561 125.658
NGHÌN
500
591
550
427
264
650
652
509
TỔNG SỐ LỖ TỔNG SỐ LÃI – LỖ (-) LỖ LUỸ KẾ TỔNG SỐ LAO ĐỘNG TỔNG QUỸ LƯƠNG LƯƠNG BQ/ NGƯỜI/ THÁNG TỔNG VỐN CHỦ SỞ HỮU VỐN KINH DOANH TỔNG NỢ PHẢI TRẢ
TỔNG NỢ PHẢI THU
TỔNG PHÁT SINH NỘP NS
5 5.1 6 6.1 NỢ QUÁ HẠN 7 7.1 NỢ KHÓ ĐÒI 8 8.1 ĐÃ NỘP NGÂN SÁCH
TR.Đ TR.Đ TR.Đ TR.Đ TR.Đ TR.Đ TR.Đ TR.Đ
(57.726) 23.542 172.965 39.742 1.719 1.413
14.531 16.749 91.076 65.116 3.161 3.621
52.137 45.392 490.991 2.224 234.707 919 24.182 19.523
8.852 22.925 35.948 10.814 9.304 4.287 2.810 1.459
25.515 26.337 67.548 43.543 2.466 16.864 15.369
416.590 333.145 314.428 1.151 148.880 919 4.194 6.026
11.679 12.974 16.851 7.471 519 4.333 5.005
471.578 481.064 1.198.807 14.189 548.763 9.110 57.963 52.416
Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động của doanh nghiệp nhà nước - Ban đổi mới doanh nghiệp nhà nước tỉnh Thanh Hóa
Phụ lục 3: BÁO CÁO MỘT CHỈ TIÊU TÀI CHÍNH DNNN TỈNH QUẢN LÝ NĂM 2002 [
TT
CHỈ TIÊU
ĐVT
NGÀNH
NGÀNH
NGÀNH
NGÀNH
NGÀNH NGÀNH NGÀNH TỔNG CỘNG
96
GT
XD
NNPTNT
TM
KHÁC
THUỶ SẢN
5
TỔNG SỐ DN DOANH THU
1 2 2.1 DN CÓ LÃI
TỔNG SỐ LÃI 2.2 DN HÒA VỐN 2.3 DN LỖ
TỔNG SỐ LỖ 2.4 TỔNG SỐ LÃI – LỖ (-)
LỖ LUỸ KẾ TỔNG SỐ LAO ĐỘNG TỔNG QUỸ LƯƠNG LƯƠNG BQ/ NGƯỜI/ THÁNG TỔNG VỐN CHỦ SỞ HỮU
TỔNG NỢ PHẢI TRẢ
TỔNG NỢ PHẢI THU
TỔNG PHÁT SINH NỘP NS
3. 4 5 5.1 VỐN KINH DOANH 6 6.1 NỢ QUÁ HẠN 7 7.1 NỢ KHÓ ĐÒI 8 8.1 ĐÃ NỘP NGÂN SÁCH
DN TR.Đ DN TR.Đ DN DN TR.Đ TR.Đ TR.Đ NGƯỜI TR.Đ NGHÌN TR.Đ TR.Đ TR.Đ TR.Đ TR.Đ TR.Đ TR.Đ TR.Đ
CÔNG NGHIỆP 9 187.400 3 290 1 5 1.652 (1.362) 82.134 1.887 10.827 478 (55.751) 24.042 221.489 63.052 1.965 1.379
13 137.100 10 1.951 1 2 1.154 797 7.901 2.382 17.998 630 24.206 26.151 116.596 63.688 3.478 3.582
11 428.491 7 4.611 1 3 4.320 291 4.682 4.682 34.356 611 60.717 70.024 635.449 2.574 231.518 898 9.898 9.138
5 162.000 758.700 4 1 565 500 1 4 150 3.292 415 (2.792) 825 16.552 1.145 815 6.950 2.965 703 303 29.223 3.571 19.916 28.587 42.665 122.536 10.602 72.731 12.577 3.570 4.095 18.320 1.458 18.819 1.350
10 91.340 8 1.888 2 130 1.758 1.951 731 4.411 502 11.840 12.974 18.444 9.803 674 4.992 5.135
40 217.883 19 2.644 15 6 702 1.942 15.156 8.800 45.139 427 409.249 320.498 278.172 1.151 96.270 21.708 2.839 3.100
93 1.982.014 52 12.449 18 23 11.400 1.049 129.201 20.442 122.646 500 483.055 502.192 1.435.351 14.327 549.639 30.945 42.951 42.503
Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động của doanh nghiệp nhà nước - Ban đổi mới doanh nghiệp nhà nước tỉnh Thanh Hóa
97
98
98