ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

CAO THỊ NGUYỆT

CON NGƯỜI TRONG PHÓNG SỰ VIỆT NAM

GIAI ĐOẠN 1932 - 1945

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 60 22 02 21

Người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Thị Thanh Minh

Thái Nguyên – 2017

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu

trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều

trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.

Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017

Tác giả luận văn

Cao Thị Nguyệt

ii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn

Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Văn – Xã hội, Trường Đại học Khoa

học – Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, giúp

đỡ trong suốt quá trình học tập.

Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng

dẫn TS. Vũ Thị Thanh Minh đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt thời

gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.

Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã

giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.

Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017

Tác giả luận văn

Cao Thị Nguyệt

iii

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1

2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 3

3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu .............................................................. 12

4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ....................................................... 13

5. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 14

6. Cấu trúc của luận văn .................................................................................. 14

7. Đóng góp của luận văn ................................................................................ 14

NỘI DUNG ..................................................................................................... 15

CHƯƠNG 1: ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH CON NGƯỜI TRONG VĂN HỌC

VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 – 1945 ............................................................. 15

1.1. Điều kiện lịch sử, văn hóa, xã hội hình thành con người trong văn học Việt

Nam giai đoạn 1930 – 1945. ........................................................................... 15

1.2. Vài nét quan niệm về con người trong văn học hiện đại Việt Nam (từ đầu

thế kỉ XX đến 1945) ........................................................................................ 20

1.2.1. Khái niệm quan niệm về con người trong văn học ............................... 20

1.2.2. Con người trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến trước Cách

mạng tháng Tám 1945 ..................................................................................... 22

CHƯƠNG 2: CÁC TẦNG LỚP CON NGƯỜI TRONG PHÓNG SỰ .......... 34

VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1932 – 1945 ......................................................... 34

2.1. Một số tầng lớp dưới đáy xã hội .............................................................. 35

2.1.1. Người lao động nghèo lương thiện ....................................................... 35

2.2.1. Quan lại ................................................................................................. 72

2.2.2. Phụ nữ tân thời ...................................................................................... 75

2.2.3. Nhà văn, nhà báo ................................................................................... 78

CHƯƠNG 3: CÁC HÌNH THỨC THỂ HIỆN CON NGƯỜI TRONG PHÓNG

SỰVIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1932 – 1945 ..................................................... 81

3.1. Phương thức lựa chọn, tiếp cận con người của phóng sự 1932 - 1945 .... 81

3.1.1. Phương thức lựa chọn con người làm đối tượng phản ánh của phóng sự ... 81

3.1.2. Phương thức tiếp cận và khai thác thông tin ở những con người cụ thể ... 83

3.2. Bút pháp tả chân khi phản ánh con người của phóng sự 1932 – 1945 .... 89

iv

3.2.1. Bút pháp tả chân khi miêu tả con người. .............................................. 89

3.2.2. Bút pháp tả chân khi kể sự việc, tả cảnh ............................................... 94

3.3. Ngôn ngữ thể hiện con người trong phóng sự 1932 – 1945 .................... 96

3.3.1. Sử dụng khẩu ngữ và tiếng “lóng” đặc thù của từng tầng lớp con người ... 96

3.3.2. Ngôn ngữ châm biếm .......................................................................... 100

3.3.3. Hệ thống ngữ liệu dân gian và ngôn ngữ đậm chất “Âu hóa” ............ 102

KẾT LUẬN ................................................................................................... 106

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 114

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Văn học là tấm gương phản chiếu cuộc sống. Qua con người trong văn học,

ta có thể hiểu cuộc sống của con người trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Là

nhân vật chính trong văn học, nên qua con người trong văn học ta có thể hiểu

một thời đại hay một giai đoạn văn học cụ thể. Tìm hiểu vấn đề Con người trong

phóng sự Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945 có thể giúp nhận thức sâu sắc thêm

về văn học và xã hội Việt Nam trong giai đoạn lịch sử này.

Phóng sự là một thể loại giữa văn học và báo chí, có nguồn gốc Tây phương,

chính thức xuất hiện ở thế kỉ XIX. Là một thể loại khó viết nhưng phóng sự

nhanh chóng khẳng định được vị trí của mình trên văn đàn. Sau Tôi kéo xe - đứa

con tinh thần đầu tiên của Tam Lang là hàng loạt các thiên phóng sự - kết quả

của những cuộc điều tra, lăn lộn với hiện thực của những cây bút tâm huyết như:

Đĩa mứt gừng (1937), Lọng cụt cán (1939), Tập ảnh (1936), Người …ngợm

(1940) của Tam Lang, Thanh niên trụy lạc (1938), Từ ái tình đến hôn nhân

(1938), Ngoại ô (1941), Ngõ hẻm (1942) của Nguyễn Đình Lạp; Hà Nội ban đêm

(1933) Hà Nội băm sáu phố phường (1943) của Thạch Lam; Làm no (1938), Tập

án cái đình (1939), Lều chõng (1939), Việc làng (1940) của Ngô Tất Tố; Một

chuyến đi (1938), Ngọn đèn dầu lạc (1941), Tàn đèn dầu lạc (1941) của Nguyễn

Tuân; Cạm bẫy người (1933), Kĩ nghệ lấy Tây (1934), Cơm thầy cơm cô (1936),

Lục xì (1937), Một huyện ăn Tết (1938) của Vũ Trọng Phụng, Hà Nội lầm than

(1937), Làm dân (1938) của Trọng Lang…

Khác với truyện ngắn và tiểu thuyết, phóng sự mang đến cho người đọc

những thông tin cụ thể, số liệu chính xác và thời sự về các vấn đề của cuộc sống,

xoay quanh một tâm điểm là con người. Nhà nghiên cứu, phê bình Vũ Ngọc Phan

cho rằng: “Phóng sự là ký sự, là có lời thẩm bình, phóng sự ghi những điều mắt

thấy tai nghe, có tính cách thời sự và có chỉ trích… Không có lối văn nào giúp

2

ích cho việc cải cách, cho nhà đương chức, nhà pháp luật và nhà xã hội học

bằng các thiên phóng sự” [30; tr. 504,505]. Vì lẽ trên, nghiên cứu con người

trong phóng sự Việt Nam giai đoạn 1932 - 1945 chính là tìm hiểu những mảng

hiện thực đời sống muôn màu của xã hội Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945 - một

giai đoạn lịch sử đầy biến động từ chính trị đến kinh tế, văn hóa, xã hội.

Phóng sự không chỉ phản ánh hiện thực mà với tư cách “là một thể loại

đứng giữa văn học và báo chí” [3; tr. 83], phóng sự còn có “cái chất chủ quan

của chủ thể cầm bút…, ý thức xã hội - công dân chi phối mạnh mẽ đến từng sự

kiện, từng vấn đề của đời sống” [45; tr. 5,6]. Tác phẩm phóng sự thể hiện được

những quan điểm cá nhân, cách kiến giải hoặc những đề xuất giải pháp của tác

giả trước một vấn đề nóng hổi đang diễn ra trong hiện thực xã hội. Vấn đề con

người trong xã hội Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945 đã được phản ánh sâu sắc

từ nhiều góc độ trong phóng sự giai đoạn này. Các tầng lớp con người, từ tầng

lớp trên như quan Ta, quan Tây, me Tây, cường hào, chức dịch làng xã đến

những tầng lớp dưới như nông dân, phu xe, gái bán dâm, vợ lẽ nàng hầu, thầy

lang, trộm cắp, cờ bạc bịp, thanh niên trụy lạc… đều được các nhà phóng sự điều

tra và đưa lên trang giấy. Ở mỗi tầng lớp, các nhà văn không chỉ đơn thuần ghi

lại những điều tai nghe mắt thấy mà còn tìm hiểu những góc khuất, những căn

nguyên của hiện tượng, đưa ra quan điểm riêng, thậm chí có những kiến nghị,

giải pháp cụ thể, có ý nghĩa lịch sử, xã hội nhất định.

Một số tác phẩm văn học thuộc giai đoạn 1930 – 1945 được đưa vào

chương trình sách giáo khoa phổ thông như Hai đứa trẻ (Thạch Lam), Chữ

người tử tù (Nguyễn Tuân), Hạnh phúc của một tang gia (Trích “Số đỏ” của

Vũ Trọng Phụng), Chí Phèo (Nam Cao), Đọc thêm Nghệ thuật băm thịt gà

(Trích “Việc làng” của Ngô Tất Tố). Do vậy, việc nghiên cứu “Con người

trong phóng sự Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945” sẽ cung cấp những tư liệu

hữu ích về xã hội – con người giai đoạn này cho giáo viên và học sinh trong

việc tiếp cận các tác phẩm văn học.

3

Vì những lí do cấp thiết trên, chúng tôi lựa chọn vấn đề Con người trong

phóng sự Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945 làm đề tài nghiên cứu cho luận văn

của mình.

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Lịch sử nghiên cứu về con người trong văn học

Vấn đề con người trong văn học được rất nhiều nhà nghiên cứu quan

tâm. Trong cuốn Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa (Nxb Giáo

dục, 2008) GS. TS Trần Nho Thìn đã đề cập đến sự thể hiện con người trong

văn chương thời cổ. Tác giả đã chỉ ra con người trong văn học nhà nho gồm

con người được thể hiện ở cấp độ nhân vật văn học (trong các truyện thơ, khúc

ngâm) và con người không được thể hiện ở cấp độ nhân vật văn học (trong thơ

vịnh sử). Chuyên luận Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam (Nxb

Giáo dục, 2010), nhóm tác giả Nguyễn Hữu Sơn, Trần Đình Sử, Huyền Giang,

Trần Ngọc Vượng, Trần Nho Thìn, Đoàn Thị Thu Vân đã nghiên cứu con người

cá nhân trong văn học cổ Việt Nam. Các tác giả đã chỉ ra hoàn cảnh lịch sử, xã

hội dẫn đến sự xuất hiện và đề cao con người cá nhân trong văn học, những

biểu hiện của con người cá nhân trong những tác phẩm tiêu biểu của thời đại

và ý nghĩa của bước tiến này trong dòng chảy phát triển của văn học.

Con người trong văn học hiện đại được đề cập đến trong nhiều công trình

nghiên cứu. Gần gũi với đề tài là bài viết Con người trong văn học Việt Nam

hiện đại (1987) của GS Trần Đình Sử, các luận văn, luận án: Quan niệm về con

người trong tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn qua ba tác giả Nhất Linh – Khái

Hưng – Hoàng Đạo (LATS, 1994, Lê Thị Dục Tú); Con người trong truyện

ngắn Việt Nam 1945 – 1975 (bộ phận văn học cách mạng) (LATS, 1996, Phùng

Ngọc Kiếm); Con người trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới (LATS,

2012, Nguyễn Thị Kim Tiến). Các tác giả đã lí giải quan niệm về con người,

biểu hiện của nó trong tư duy nghệ thuật và trong tác phẩm cụ thể. Tác giả Lê

Thị Dục Tú nghiên cứu hình tượng con người trong tiểu thuyết từ góc nhìn bản

4

chất xã hội và loại hình văn học. Tác giả Phùng Ngọc Kiếm chỉ ra con người sử

thi và con người cá nhân trong truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975.

Tác giả Nguyễn Thị Kim Tiến lại triển khai theo hướng tìm hiểu con người cá

nhân, thế giới nội tâm và vẻ đẹp thể chất của con người trong tiểu thuyết Việt

Nam thời kì đổi mới. Các công trình trên đã nghiên cứu về con người trong văn

học theo các giai đoạn lịch sử văn học hoặc theo thể loại, có những nhận định

bao quát, sâu sắc về sự thể hiện con người trong văn học. Tuy vậy, con người

trong thể loại phóng sự Việt Nam giai đoạn 1932-1945 vẫn chưa được các nhà

nghiên cứu đề cập đến một cách toàn diện và sâu sắc.

Kế thừa và phát triển thành tựu của những người đi trước, chúng tôi triển

khai vấn đề con người trong phóng sự Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945 theo

hướng chỉ ra môi trường sống và làm việc, đời sống vật chất, đời sống tinh thần

của từng tầng lớp con người cụ thể được phản ánh trong phóng sự giai đoạn này.

2.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Con người trong phóng sự Việt Nam giai

đoạn 1932 – 1945

Vấn đề Con người trong phóng sự Việt Nam 1932 – 1945 thực chất đã

được các nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu phê bình quan tâm từ khi thể loại

phóng sự Việt Nam chính thức ra đời (1932), bởi con người là tâm điểm của

văn học và thể loại phóng sự cũng không ngoại lệ. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Con người trong phóng sự Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945 có thể chia thành

ba thời kì: Thời kì 1932 – 1945; thời kì 1945 – 1985; thời kì sau 1986.

a. Thời kì 1932 – 1945

Ở thời kì 1932 – 1945, con người trong phóng sự đã được một số nhà phê

bình đề cập đến. Năm 1932, Tôi kéo xe ra đời như một phát súng lệnh khẳng định

sự xuất hiện của thể loại phóng sự và vấn đề hiện thực đời sống, quyền sống, quyền

làm người của tầng lớp phu kéo xe mà Tam Lang đặt ra trong thiên phóng sự này

5

đã tìm được sự thấu hiểu, đồng tình của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình. Trên tạp

chí Tiểu thuyết thứ bảy, số ra ngày 26/10/1935, nhà nghiên cứu Hoài Thanh đã

nhấn mạnh ý nghĩa của phóng sự Tôi kéo xe trong việc đánh thức thái độ trân trọng

đối với tầng lớp “dưới đáy” của xã hội lúc bấy giờ:“Nếu trong bao nhiêu người

xem thiên phóng sự này, mà có một người nhân đó, mà để ý đến cái thế giới u ám

của người kéo xe, biết động lòng trắc ẩn vì người kéo xe, biết nới tay ra một tí

trong lúc đi xe thì cái việc ông Tam Lang đã làm là việc có ích rồi” [32; tr. 83].

Cũng vì đã phản ánh hiện thực cuộc sống của những kiếp phu xe, mạnh dạn đưa

ra những giải pháp để phu xe được làm Người chứ không phải làm ngựa mà Tôi

kéo xe của Tam Lang được nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan trong cuốn Nhà văn

hiện đại (Nxb Tân Dân, năm 1942) đã khẳng định “Tôi kéo xe là một quyển phóng

sự có giá trị” [30; tr. 562]. Không chỉ nhìn ra những vấn đề bức thiết về tầng lớp

phu xe trong Tôi kéo xe, Vũ Ngọc Phan còn nhấn mạnh đến giá trị hiện thực của

Đêm sông Hương trong việc phản ánh chân xác đời sống của những người hành

nghề mãi dâm.

Vấn đề con người trong các thiên phóng sự của Vũ Trọng Phụng được

giới nghiên cứu phê bình đề cập đến trong nhiều bài báo, chuyên luận. Trong

lời tựa cuốn Kĩ nghệ lấy Tây, nhà phê bình Phùng Tất Đắc đã khẳng định tác phẩm

là một cuộc khảo cứu về một tầng lớp con người (me Tây) trong xã hội đương thời,

nên “có thể vạch phương hướng cho văn nghệ… giúp được tài liệu cho đời sau

khảo xét về buổi này” [37; tr. 132]. Tác giả Lê Thanh trên tờ Tin văn (in lại trên Hà

Nội báo số 34 ra ngày thứ tư 26/08/1936) thì cho rằng trong Kĩ nghệ lấy Tây, Vũ

Trọng Phụng đã phản ánh “một tấn bi kịch...hiện đang diễn ra ở xứ ta, do sự gặp

gỡ của hai làn sóng, của hai thế giới gây nên”[37; tr. 137]. Đó là bi kịch về sự xuất

hiện của tầng lớp me Tây – kết quả của sự gặp gỡ của hai làn sóng Tây và Ta trong

xã hội đương thời. Bằng cách khảo cứu chi tiết về cả nội dung và nghệ thuật các

phóng sự của Vũ Trọng Phụng, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan đã nhận thấy mỗi

tác phẩm của Vũ Trọng Phụng chính là một thiên điều tra giá trị về một tầng lớp

6

người trong xã hội đương thời. Cơm thầy cơm cô được nhà nghiên cứu nhận xét là

“tập hay nhất của Vũ Trọng Phụng. Ngòi bút tả chân của ông thật là tuyệt xảo khi

ông tả những cảnh nghèo khổ”[30; tr. 577], còn Lục xì thì được đánh già “là một

thiên nghị luận về nghề mại dâm” [30; tr. 580].

Cũng trong giai đoạn này, một số nhà phê bình như Thái Phỉ, Nhất Chi

Mai lại phê phán Vũ Trọng Phụng khi ông viết về những me Tây, những phụ

nữ làm nghề mãi dâm, những tay cờ bạc bịp, những kẻ ăn cắp, “làm tiền” trong

xã hội đương thời, vì họ cho rằng Vũ Trọng Phụng đã “nhìn thế gian qua cặp

kính đen, có một bộ óc đen và một nguồn văn càng đen nữa”[37; tr. 139]. Vũ Trọng

Phụng đã miêu tả các tầng lớp con người là nạn nhân của đồng tiền, hoặc là “làm

tiền”, hoặc là “bán trôn nuôi miệng”, đến mức Nhất Chi Mai thấy rằng “Đọc xong,

ta phải tưởng tượng nhân gian là một nơi địa ngục và chung quanh toàn những kẻ

giết người, làm đĩ, ăn tục nói càn, một thế giới khốn nạn vô cùng”[37; tr. 139]. Đáp

trả lời phê bình của Thái Phỉ, Nhất Chi Mai, Vũ Trọng Phụng đã có hai bài bút chiến

để bày tỏ nhân sinh quan, quan niệm viết văn của mình. Họ Vũ đã không ngần ngại

khẳng định quan điểm: “Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi, muốn tiểu

thuyết là sự thật ở đời” [4; tr. 919], coi mình không chỉ là một nhà văn mà còn là

một nhà báo nên có trách nhiệm miêu tả hiện thực xã hội với các tầng lớp người,

với những mặt trái để người đọc biết mà ghê tởm, mà tránh xa. Như vậy, khi nói về

con người trong phóng sự 1932 – 1945, các nhà phê bình giai đoạn này chủ yếu đi

sâu phân tích bút pháp tả chân, quan niệm nghệ thuật khi phản ánh hiện thực của

nhà văn. Những góc khuất trong cuộc sống của các tầng lớp con người cụ thể chưa

được phân tích sâu sắc. Bên cạnh Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, các phóng sự của

Ngô Tất Tố, Trọng Lang, Nguyễn Đình Lạp, Thạch Lam… cũng được giới phê

bình quan tâm. Tuy nhiên, những vấn đề nhức nhối về hiện thực đời sống của

những con người “dưới đáy” trong xã hội đương thời chưa được nghiên cứu

một cách hệ thống và đánh giá một cách toàn diện.

7

Phóng sự Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945 chính là một bức tranh toàn

cảnh về xã hội Việt Nam đương thời với đa dạng các tầng lớp được phản ánh

chân thực, sâu sắc. Những tư tưởng tiến bộ nhằm cải tạo xã hôi, nâng cao giá

trị và đời sống con người của các văn sĩ cũng được gửi gắm qua các thiên phóng

sự. Tuy nhiên, những vấn đề đó chưa được các nhà phê bình giai đoạn 1932 –

1945 quan tâm đích đáng.

b. Thời kì 1945 - 1985

Bước sang thời kì1945 – 1985, phóng sự vẫn là thể loại được giới nghiên

cứu quan tâm, tuy nhiên vấn đề con người trong phóng sự giai đoạn này chưa

được nghiên cứu xứng tầm quan trọng của nó. Đáng chú ý là ý kiến của Tố Hữu

về Vũ Trọng Phụng trong Hội nghị tranh luận văn nghệ tại Việt Bắc năm 1949

khi ông cho rằng “Vũ Trọng Phụng đã vạch rõ cái thực xấu xa thối nát của xã

hội ấy”(xã hội 1932 - 1945)[16; tr. 157]. Nhà văn Nguyên Hồng (trong lời tựa

cho tiểu thuyết Giông tố do nhà xuất bản Hà Nội tái bản năm 1956) đã khẳng

định phóng sự Cạm bẫy người là tác phẩm mở đầu của khuynh hướng văn học

hiện thực vì đã phơi bày thực trạng về một tầng lớp người (những tay cờ bạc

bịp), phản ánh chân xác đời sống xã hội đương thời – một xã hội điên đảo trước

sức mạnh của đồng tiền. Bằng cái nhìn xã hội học, Tố Hữu và Nguyên Hồng

đã đề cao giá trị hiện thực của phóng sự Vũ Trọng Phụng, tuy chưa đi sâu vào

phân tích những tầng lớp con người cụ thể. Những bài viết trong tập san Vũ

Trọng Phụng với chúng ta (do Minh Đức xuất bản) cũng đánh giá cao chất hiện

thực, giá trị nhân đạo trong tiểu thuyết, phóng sự của Vũ Trọng Phụng. Trong

đó, Phan Khôi coi phóng sự Cơm thầy cơm cô, Kỹ nghệ lấy Tây, Cạm bẫy người

đều là những tác phẩm thông cảm và “tố khổ” cho hạng người cùng khổ ở Việt

Nam. Tác giả Nguyễn Trác trong công trình Giáo trình lịch sử văn học Việt

Nam tập V (1930-1945) đã đánh giá cao công phu, tâm huyết của các nhà phóng

sự trong việc phản ánh những bức tranh hiện thực về đời sống các tầng lớp con

người trong xã hội đương thời: “Họ đã đi vào bóng tối của các thành phố lớn,

8

đến các nhà chứa, nhà lục xì, tiệm hút… Họ đã công phu theo dõi quá trình

trụy lạc của bao nhiêu thanh niên, cuộc sống của những gái đĩ me tây, cảnh sát

phạt, lựa bịp nhau của những người sống bằng nghề đỏ đen” [50; tr. 122].

Vấn đề hiện thực đời sống tầng lớp gái mãi dâm trong phóng sự của Vũ

Trọng Phụng một lần nữa bị nhiều nhà phê bình phê phán khi những người đứng

đầu nhóm Nhân văn – Giai phẩm đề cao Vũ Trọng Phụng nhằm thực hiện mưu

đồ chính trị. Với cái nhìn phiến diện, Hoàng Văn Hoan trong Một vài ý kiến về

vấn đề tác phẩm Vũ Trọng Phụng trong văn học Việt Nam đã cho rằng trong Lục

xì và ở các tác phẩm khác của Vũ Trọng Phụng “đâu chỉ là loã lồ, dâm uế, mà

còn là cả một ý thức thừa nhận thú tính, cổ lệ nhục dục”[36; tr. 282]. Những lời

văn miêu tả, phân tích chân thực, khách quan về bi kịch cuộc đời và cả những

“mánh khóe làm nghề” của những người phụ nữ “bán trôn nuôi miệng” – một

tầng lớp hạ đẳng trong xã hội thành thị đương thời trong phóng sự của Vũ Trọng

Phụng bị Vũ Đức Phúc cho là “lối văn khiêu dâm”và nó “còn tệ hại hơn gấp

mấy lần văn chương lãng mạn”[37; tr. 294].

Cũng trong thời gian này, một số tác giả, tác phẩm phóng sự tiền chiến

cũng được ca ngợi ở miền Nam. Vấn đề con người trong phóng sự 1932 – 1945

được đề cập đến trong bài viết của nhà văn học sử Phạm Thế Ngũ trong cuốn

Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập III. Tác giả đã giới thiệu tóm tắt

bốn phóng sự của Vũ Trọng Phụng (Cạm bẫy người, Kỹ nghệ lấy Tây, Cơm

thầy cơm cô, Lục xì) và khẳng định giá trị của phóng sự Vũ Trọng Phụng trong

việc phản ánh hiện thực đời sống xã hội đương thời với những tầng lớp con

người cụ thể, “moi móc những vết thương xã hội ấy ... và nói ra với một giọng

mỉa mai chua chát, đôi khi đượm vẻ căm hờn [28; tr. 513-514]. Trong Bảng

lược đồ văn học Việt Nam, Thanh Lãng nhìn thấy giá trị hiện thực sâu sắc trong

ngòi bút tả chân của Vũ Trong Phụng khi lột trần những hiện tượng giả dối, xấu

xa, tội lỗi ẩn giấu trong các tầng lớp người trong xã hội đương thời. Thanh Lãng

nhận xét: “Vũ Trọng Phụng trong “Cạm bẫy người” (1933) cho chúng ta thấy

9

cái xã hội mà Phạm Quỳnh đã ca ngợi chỉ là một xã hội giả dối, tội lỗi, xấu

xa... còn gì sống động và cũng sượng sùng cho bằng những thiên điều tra của

Vũ Trọng Phụng trong “Cơm thầy cơm cô” hay “Lục xì”! Truyện như trốn

tránh kết cấu, chỉ còn là một sự diễn hành”[17; tr. 722-744]. Phạm Thế Ngũ

và Thanh Lãng đã nhìn những phóng sự của Vũ Trọng Phụng ở ý nghĩa xã hội,

thấy được giá trị phản ánh hiện thực trong tác phẩm của nhà văn này, cũng có

nghĩa đã quan tâm đến cuộc sống của những kiếp người được “ông vua phóng

sự đất Bắc” điều tra và đưa lên trang giấy.

Như vậy, ở thời kì 1945 – 1985, bút pháp tả chân, giá trị hiện thực của

phóng sự 1932 – 1945 vẫn là đối tượng nghiên cứu chủ yếu của các nhà phê

bình. Các tầng lớp con người là nhân vật chính trong các thiên phóng sự tuy có

được đề cập đến nhưng chủ yếu là những nhận xét khái quát, chưa cụ thể, đôi

khi có tính chất phiến diện và chỉ tập trung vào một số tác phẩm của một vài

tác giả tiêu biểu.

c. Thời kì từ 1986 đến nay

Sau 1986, các nhà nghiên cứu đặc biệt chú ý đến phóng sự của Vũ Trọng

Phụng, nhấn mạnh ý nghĩa phản ánh hiện thực, khả năng phơi bày những ung

nhọt xã hội, những quẩn quanh bế tắc của những kiếp người trong xã hội 1932

– 1945 trong phóng sự của nhà văn này. Trong đó, chúng tôi đặc biệt chú ý đến

ý kiến của PGS Trần Hữu Tá trong cuốn Tuyển tập Vũ Trọng Phụng (Nxb Văn

học, 1987): “Đằng sau những nhân vật “Cạm bẫy người”…, người đọc phần

nào thấy được hình ảnh của xã hội thành thị trụy lạc hóa hồi những năm 30 và

tình trạng bần cùng, bế tắc, lưu manh hóa của loại tiểu tư sản lớp dưới và dân

nghèo thành thị lúc bấy giờ” [23; tr. 8]. PGS đã thực sự quan tâm đến những

vấn đề về hiện thực đời sống con người được phản ánh trong phóng sự của cây

bút thiên tài này. Đó là thực trạng một bộ phận tư sản lớp dưới và dân nghèo ở

thành thị bị bần cùng, bế tắc và tha hóa nhân cách.

10

Những năm đầu thế kỉ XXI, trên văn đàn cũng có một số bài viết đề cập

đến vấn đề con người trong phóng sự Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945 như

“Trọng Lang – cây bút phóng sự tiên phong” (2002) của Trần Thị Trâm; “Vũ

Trọng Phụng bàn về phóng sự và tiểu thuyết tả chân” (2002) của Nguyễn Ngọc

Thiện; “Thể loại phóng sự trong văn học thế kỉ XX” (2006) của Tôn Thảo Miên.

Tuy nhiên, vấn đề con người chỉ chiếm một dung lượng nhỏ trong nội dung bài

nghiên cứu và chỉ tập trung vào một vài tác giả tiêu biểu như Trọng Lang, Vũ

Trọng Phụng.

Trong những năm gần đây, khi những tác phẩm phóng sự 1932 – 1945

được tuyển tập, giới thiệu, được các nhà nghiên cứu lão thành phân tích, bình

giá thì đã có một số luân án tiến sĩ (LATS) và luận văn thạc sỹ (LVThS) nghiên

cứu về phóng sự, trong đó có đề cập đến vấn đề con người trong phóng sự Việt

Nam giai đoạn 1932 – 1945. Trong LATS Phóng sự Việt Nam 1930 – 1945

(Qua Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố) (2009), tác giả Phạm Thị My

đã chỉ ra mục đích của phóng sự Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố là

phanh phui những “ung nhọt” xã hội. Đó là những tệ nạn xã hội như mãi dâm,

cờ bạc bịp, trộm cắp… Đó là tình trạng bần cùng hóa và tha hóa diễn ra trong

một số tầng lớp con người trong xã hội đương thời. Luận văn Phóng sự Việt

Nam giai đoạn 1930 – 1945 của Đỗ Chỉnh (1996) đã phân tích hiện thực đời

sống nhân dân ở đô thị và thôn quê được phản ánh trong phóng sự 1932 – 1945

để khẳng định giá trị của thể loại văn học này. Tác giả Nguyễn Thị Loan trong

luận văn Thể loại phóng sự trong văn học Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945

(2001) đã nhận thấy ý nghĩa hiện thực của phóng sự giai đoạn này khi phơi bày

cuộc sống đau thương của nhiều tầng lớp “dưới đáy” trong xã hội. Luận văn

Đề tài nông thôn trong phóng sự văn học Việt Nam 1930 – 1945 (2008) của

Nguyễn Thị Bích Hòa thì đi sâu phân tích các vấn đề về cuộc sống con người

ở nông thôn trong phóng sự 1932 – 1945. Luận văn Đặc trưng phóng sự Vũ

Trọng Phụng (2012) của Trần Thị Huyền đã chỉ ra những nét tiêu biểu về nội

11

dung và nghệ thuật trong phóng sự Vũ Trọng Phụng. Các tầng lớp con người ở

đô thị như me Tây, gái mại dâm, cờ bạc bịp… cũng được tác giả phân tích để

chi ra tính chân thực trong phóng sự của nhà văn họ Vũ này.

Gần đây, công trình Phóng sự Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945, đặc điểm

và quá trình phát triển (2013) của Tiến sỹ Vũ Thị Thanh Minh đã nhận diện và

nghiên cứu khá cụ thể về giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của phóng sự

1932-1945. Qua công trình nghiên cứu, hiện thực đời sống xã hội, văn hóa ở

đô thị và nông thôn được phản ánh trong các thiên phóng sự 1932 – 1945 được

tìm hiểu sâu sắc. Bằng góc nhìn xã hội học, văn hóa học, tác giả đã chỉ ra thực

trạng phân hóa giai tầng, những tệ nạn xã hội ở đô thị, cảnh bùn lầy nước đọng,

cuộc sống khổ cực và phong tục, tín ngưỡng, sinh hoạt văn hóa ở thôn quê.

Đây là một định hướng quan trọng cho chúng tôi triển khai đề tài Con người

trong phóng sự Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945.

Trong mấy năm gần đây, vấn đề con người trong phóng sự 1932 – 1945

được đề cập đến ở một số bài báo. Tác giả Cát Đằng trong bài viết “Phu kéo xe

và nỗi tủi nhục một thời” đăng trên trang http://www.baocantho.com.vn ngày

10/09/2014 đã phân tích nỗi khổ cực của phu kéo xe – một tầng lớp dân nghèo

thành thị được thể hiện trong phóng sự Tôi kéo xe của Tam Lang.

Năm 2015, tại buổi ra mắt cuốn sách Nguyễn Đình Lạp tuyển tập (Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội, 2015), Đại tá, nhà văn Nguyễn Hồng Thái góp thêm

tiếng nói về con người trong phóng sự của Nguyễn Đình Lạp: “Ngòi bút

Nguyễn Đình Lạp hướng đến cuộc sống của những người có thân phận hèn

mọn, địa vị thấp kém, cảnh đời lầm than, bế tắc”.[44] Tiến sỹ Đỗ Hải Ninh

trong buổi ra mắt sách cũng cho rằng: “Tác giả (Nguyễn Đình Lạp) không chỉ

phản ánh hiện thực mà còn nghiền ngẫm những quan hệ nhân sinh, xã hội. Từ

đó đưa ra thông điệp về khát vọng đổi thay những bất công phi lý, khuyên thanh

niên sống có lý tưởng, lành mạnh” [44]. Các ý kiến đã đề cao giá trị hiện thực

của văn chương Nguyễn Đình Lạp, trong đó có các tác phẩm phóng sự - những

12

thiên điều tra về lối sống trụy lạc của thanh niên đô thị hay đời sống bần cùng

của dân nghèo ven đô.

Nhìn lại lịch sử nghiên cứu vấn đề con người trong phóng sự Việt Nam

1932 – 1945, chúng tôi nhận thấy: Các nhà văn, nhà nghiên cứu, các học viên,

nghiên cứu sinh mới quan tâm làm rõ đặc điểm, quá trình hình thành và phát

triển của phóng sự Việt Nam 1932 – 1945, đóng góp của các cây bút phóng sự

giai đoạn này vào nền văn học dân tộc, đặc biệt chú ý đến bút pháp tả chân,

chứ chưa nghiên cứu chuyên sâu vấn đề con người trong phóng sự 1932 – 1945.

Vấn đề này mới được đề cập đến như một phần nhỏ trong các công trình nghiên

cứu và bằng những nhận xét khái quát, ngắn gọn. Từng tầng lớp con người với

những éo le, những góc khuất vẫn chưa được tìm hiểu chi tiết. Kế thừa những

thành tựu của các nhà nghiên cứu đi trước, chúng tôi định hướng tìm hiểu vấn

đề Con người trong phóng sự Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945 trong luận văn

này. Chúng tôi khảo sát và nghiên cứu chuyên sâu về các tầng lớp con người

được phản ánh trong phóng sự, nhận diện về môi trường sống và làm việc, đời

sống vật chất và đời sống tinh thần của họ để thấy được bức tranh hiện thực về

con người Việt Nam trong xã hội đương thời. Chúng tôi tìm hiểu cách tiếp cận,

cách thể hiện, đánh giá con người của các tác giả phóng sự để thấy được nhân

sinh quan, thế giới quan của nhà văn và làm rõ quá trình hình thành các nhân

vật văn học mới trong giai đoạn văn học mới, làm rõ các hình thức thể hiện mới

về con người của văn học nói chung, của thể loại phóng sự nói riêng. Đó là

những vấn đề quan trọng, cần thiết, không chỉ để hiểu rõ hơn về một thể loại

có nhiều đóng góp cho văn học giai đoạn này mà còn để hiểu về đời sống con

người Việt Nam trước Cách mạng, từ đó có cái nhìn soi chiếu về con người

trong cuộc sống hôm nay.

3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

13

Chúng tôi hướng đến đối tượng là Con người trong phóng sự Việt Nam

giai đoạn 1932 – 1945, tập trung vào các tầng lớp con người được phản ánh

trong phóng sự của ba tác giả tiêu biểu là Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn

Đình Lạp.

3.2. Mục tiêu nghiên cứu

Khảo sát và nghiên cứu nhsững tầng lớp con người được phản ánh trong các

thiên phóng sự giai đoạn 1932 – 1945 (qua Tam Lang, Vũ Trọng Phụng,

Nguyễn Đình Lạp), nghiên cứu môi trường sống, công việc, đời sống vật chất

và đời sống tinh thần của họ để thấy được bức tranh hiện thực về con người

trong xã hội Việt Nam trước Cách mạng.

Nghiên cứu cách tiếp cận, cách thể hiện con người của các cây bút phóng

sự để thấy được cái nhìn hiện thực, lối văn tả chân xuất sắc của các tác giả.

Chỉ ra những đóng góp ý nghĩa của các nhà phóng sự 1932 – 1945 về vấn

đề con người cho các nhà xã hôi học, nhà quản lý đương thời và hiện nay

4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu

4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu

Khảo sát toàn diện, thống kê đầy đủ và phân tích sâu sắc về những tầng

lớp con người được thể hiện trong phóng sự của ba tác giả tiêu biểu: Tam Lang,

Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Đình Lạp. Đồng thời, chúng tôi tìm hiểu cách tiếp

cận, cách thể hiện con người của các cây bút phóng sự này.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Thực hiện luận văn, chúng tôi sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên

cứu sau: Phương pháp hệ thống, phương pháp thống kê, phương pháp xã hội

học, văn hóa học, tâm lí học, sinh lí học, phương pháp so sánh, tổng hợp

14

5. Phạm vi nghiên cứu

Khảo sát một số phóng sự của ba tác giả tiêu biểu giai đoạn 1932 – 1945:

Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Đình Lạp trong Tuyển tập Phóng sự Việt

Nam 1932 – 1945 (NxbVăn học, 2000) của nhóm tác giả Phan Trọng Thưởng,

Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn.

- Các phóng sự của Tam Lang: Tôi kéo xe, Đĩa mứt gừng, Lọng cụt cán, Tập

ảnh.

- Các phóng sự của Vũ Trọng Phụng: Cạm bẫy người, Kĩ nghệ lấy Tây,

Cơm thầy cơm cô, Lục sì, Một huyện ăn Tết.

- Các phóng sự của Nguyễn Đình Lạp: Thanh niên trụy lạc, Ngoại ô, Ngõ

hẻm.

6. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, luận văn được tổ chức thành ba chương.

Chương 1: Điều kiện hình thành con người trong văn học Việt Nam giai

đoạn 1930-1945

Chương 2: Các tầng lớp con người trong phóng sự Việt Nam giai đoạn

1932 – 1945.

Chương 3: Các hình thức thể hiện con người trong phóng sự Việt Nam

giai đoạn 1932 - 1945

7. Đóng góp của luận văn

Luận văn góp thêm một tiếng nói khẳng định vai trò, vị trí của phóng sự

1932 – 1945 trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Luận văn tiến hành nghiên

cứu chuyên sâu về một vấn đề còn nhiều bỏ ngỏ, chưa được tìm hiểu toàn diện,

hệ thống – vấn đề “Con người trong phóng sự Việt Nam 1932 – 1945” làm tư

liệu cho các nhà nghiên cứu và những người yêu văn học.

15

NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH CON NGƯỜI TRONG VĂN

HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 – 1945

1.1. Điều kiện lịch sử, văn hóa, xã hội hình thành con người trong văn

học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945.

Đầu thế kỉ XX, dưới tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế và chính

sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam có sự phân hóa

sâu sắc, đời sống của các giai cấp, tầng lớp nhân dân Việt Nam đều vô cùng

cực khổ. Giai cấp nông dân và giai cấp vô sản là hai bộ phận đông đảo nhất

trong xã hội, cũng là hai đối tượng chủ yếu của chính sách bóc lột vơ vét của

tư bản Pháp ở thuộc địa nên họ bị bần cùng hóa và bị đe dọa trực tiếp bởi nạn

chết đói, thất nghiệp. Có tới một phần ba số công nhân rơi vào tình trạng thất

nghiệp. Chỉ tính riêng ở miền Bắc đã có 25.000 công nhân bị sa thải, trong đó

có 12.000 công nhân ngành mỏ. Những công nhân có việc làm đều bị giảm

lương từ 30% đến 50%. Một nhà báo nữ người Pháp là Viôlít (Andree Viollis)

đã viết trong một dịp sang Đông Dương: “Lương công nhân không bao giờ

vượt quá từ 2 đến 2,5 phơrăng mỗi ngày (tức là 20 - 25 xu/ ngày). Trong các

xưởng dệt, ngày làm việc từ 7 giờ sáng đến 9 giờ tối. Đàn ông lương từ 1,75

phơrăng đến 2 phơrăng, đàn bà từ 1,25 phơrăng đến 1,5 phơrăng, trẻ em từ 8

đến 10 tuổi được lĩnh 0,75 phơrăng…công nhân phải làm việc từ 15 đến 16 giờ

mỗi ngày, và được trả từ 1,2 đến 2,2 phơrăng mỗi ngày”. [18; tr. 298]. Nông

dân cũng bị bần cùng hóa, phải chịu sưu cao, thuế nặng và là nạn nhân của nạn

cho vay nặng lãi. Giá sưu thuế ngày một tăng, một suất sưu năm 1929 bằng giá

50 kg gạo, đến năm 1932 là 100 kg gạo và đến năm 1933 là 300 kg gạo. Theo

điều tra của Phòng canh nông Bắc Kì trong tháng 5 – 1934, đời sống của nông

dân ở các tỉnh Bắc Giang, Hà Đông, Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định, Thái

Bình rất thấp. Mức thu nhập là 12 xu cho 6 người trong một ngày. Vì đói khổ,

người nông dân phải vay của địa chủ với bất cứ tỉ lệ lãi nào để sống qua ngày

16

và sau đó phải bán mọi thứ tài sản nghèo nàn của mình, thậm chí phải bán cả

con để nộp sưu thuế và trả nợ. Tác giả Guru (P. Gourou) trong tác phẩm “Nông

dân Bắc Kì” đã viết: “Người ta có thể cầm chắc là nông dân sống ở mức cùng

cực của đói kèm và nghèo khổ” [18; tr. 299]. Các tầng lớp lao động khác như

tiểu thương, tiểu chủ, thợ thủ công, viên chức, trí thức cũng sống điêu đứng.

Địa chủ nhỏ cũng bị sa sút. Một số tư sản dân tộc bị phá sản, vỡ nợ.

Cùng với những biển đổi lớn về kinh tế, xã hội, văn hóa Việt Nam thời

kì này cũng có nhiều thay đổi do sự giao lưu, tiếp biến với văn hóa phương Tây.

Các giá trị văn hóa Tây phương du nhập vào Việt Nam từ đầu thế kỉ XX, dẫn

đến những chuyển biến lớn trong đời sống của nhân dân, trước hết ở nhận thức.

Sự phát triển của ý thức về cái tôi cá nhân, tự do cá nhân là một điểm mới trong

nhận thức của người Việt Nam. Nếu như ở thời kì trung đại, dưới tác động, ảnh

hưởng của Nho giáo, quan hệ họ hàng, gia tộc, quốc gia được đề cao, cái tôi cá

nhân bị lu mờ thì bước sang thế kỉ XX, quan hệ họ hàng gia tộc lại mờ nhạt

trước cái tôi cá nhân. Từ chỗ bị chìm trong cái Ta, cái Tôi đã trở thành những

cá thể độc lập, là bản vị của xã hội, có nghĩa vụ và lợi ích độc lập. Đặc biệt, đến

đầu thế kỉ XX, vấn đề “nữ quyền” đã được nhiều người quan tâm và cổ vũ. Nếu

như ở thời kì trung đại, người phụ nữ bị đối xử bất công, không được đi học,

không được thể hiện cái tôi, không được tham gia các hoạt động xã hội, chính trị

quốc gia đại sự… thì đến đầu thế kỉ XX, những người phụ nữ, nhất là ở thành

thị, đã nhận thức được giá trị bản thân, đấu tranh đòi nữ quyền, chống lại những

tập tục lạc hậu, luân lý Nho giáo lỗi thời, lên tiếng đòi quyền tự do, dân chủ, bình

đẳng cho giới mình. Phụ nữ cũng được đi học, cũng làm các công việc như nam

giới như công nhân, viên chức, công chức, buôn bán, kinh doanh…, khẳng định

mình trong tình yêu và hôn nhân, mạnh dạn trong giao tiếp xã hội, tiếp cận các

mẫu trang phục hiện đại, Âu hóa…

Cùng với những thay đổi trong nhận thức về cái tôi cá nhân, cách nhìn

nhận phong tục tập quán của con người đầu thế kỉ XX đã khác trước. Một mặt

17

tôn vinh bản sắc tinh tế riêng biệt của văn hóa dân tộc qua các lễ hội, sinh hoạt

gia đình, tình nghĩa làng xóm, đạo thầy trò, nghĩa cha con, vợ chồng, để cao

tình nghĩa thủy chung, nhân hậu. Mặt khác đã phê phán nhẹ nhàng các hủ tục

lạc hậu, xuất hiện những hành vi ứng xử mới trong phong tục như: thay đổi

cách đặt tên cho con, dùng tên của những loài hoa đẹp hoặc ước vọng của cha

mẹ để đặt tên cho con chứ không phải chỉ là “thằng cu”, “con hĩn” nữa; đem

hoa ra viếng mộ người đã khuất; ở thành thị thì đơn giản hóa ngày Tết. Trong

hôn nhân, con cái được quyền tự do yêu đương chứ không còn “cha mẹ đặt đâu

con ngồi đấy”, cũng không nhất thiết phải môn đăng hộ đối, không phân biệt

giàu nghèo, không có hiện tượng cưỡng ép duyên con nặng nề như trước.

Nhận thức về nghề nghiệp của người Việt cũng khác xưa. Nếu xưa kia

người Việt say mê bia đá, bảng vàng, chăm lo dùi mài kinh sử nên coi thường

công nghệ thì đến đầu thế kỉ XX, giới sĩ phu đã viết “văn minh tân học sách”,

phê phán thái độ coi rẻ công thương, nhận thấy buôn bán giữ một vị trí quan

trọng đối với một quốc gia. Cũng từ đó, hàng quán, cơ sở kinh doanh buôn bán

mọc lên nhiều và ngày càng phát triển mạnh mẽ, nhất là ở các đô thị. Kéo theo

đó là sự xuất hiện của tầng lớp thương nhân, những người buôn bán nhỏ, những

người làm thuê cho các cửa hàng, cơ sở kinh doanh. Họ là một bộ phận của

tầng lớp thị dân mới với những nhu cầu mới về văn hóa.

Nói tới những bước chuyển của văn hóa Việt Nam đầu thế kỉ XX không

thể không nói tới sự xuất hiện và ngày càng phổ biến của chữ quốc ngữ. Từ chỗ

chỉ là một phương tiện truyền đạo của một số nhà truyền giáo phương Tây tại

Việt Nam ở thế kỉ XVII, đến đầu thế kỉ XX chữ quốc ngữ đã trở thành ngôn

ngữ phổ biến, một thứ ngôn ngữ phổ thông thay thế cho chữ Hán và chữ Nôm

vốn giữ vị trí độc tôn từ hàng ngàn năm trước. Chữ quốc ngữ diễn tả được tâm

tư tình cảm, suy nghĩ, tư tưởng của người Việt. Các nhà văn đã sử dụng chữ

quốc ngữ để sáng tác văn học, dịch các tác phẩm văn học nghệ thuật, các công

trình nghiên cứu nước ngoài. Đồng thời, một số chữ nước ngoài cũng được du

18

nhập để làm phong phú thêm vốn ngôn ngữ dân tộc, diễn tả những khái niệm

mới của thời đại.

Cùng với sự phát triển của chữ quốc ngữ, thể loại báo chí, dịch thuật đã ra

đời và phát triển. Các tờ báo Tiếng Việt như Nam Phong (1919), Thực nghiệp

dân báo (1920), Nam Kỳ kinh tế (1920), Thanh niên (1925), Tiếng dân (1927),

Phụ nữ tân văn (1929), Tiểu thuyết thứ bảy (1934), Phong Hóa (1932), Ngày nay

(1936)… lần lượt ra đời với hàng loạt bài viết phản ánh đời sống tư tưởng, tình

cảm, nếp suy nghĩ mới của con người Việt Nam. Phóng sự là một trong những

thể loại báo chí ra đời sau nhưng phát triển mạnh mẽ, đã phản ánh chân thực

muôn mặt đời thường, từ kinh tế, chính trị đến xã hội, văn hóa của con người

Việt Nam. Các cây bút phóng sự như Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Trọng Lang,

Ngô Tất Tố, Vũ Bằng, Thạch Lam, Nguyễn Đình Lạp… với bút lực dồi dào và

tinh thần nhập cuộc đã “lăn lộn” với đời để đưa lên trang báo những bài phóng

sự phản ánh chân thực, sâu sắc đời sống của các tầng lớp nhân dân cùng rất nhiều

những góc khuất mà không phải ai cũng dễ dàng nhận thấy được.

Như vậy, từ đầu thế kỉ XX, đời sống văn hóa tinh thần của người Việt

Nam đã có nhiều thay đổi theo hướng tiếp thu những ảnh hưởng của văn hóa

phương Tây. Phong trào Âu hóa diễn ra mạnh mẽ nhất ở các đô thị, nơi không

bị níu giữ bởi văn hóa làng xã. Thị dân sống ở thành thị không phụ thuộc vào

lề thói văn hóa cũ, ít bị ảnh hưởng bởi văn hóa làng xã, tách dần với nếp suy

nghĩ, nếp cảm của người nông dân, dễ thích nghi với những biến chuyển mới

của xã hội. Thị dân đã chấp nhận một lối sống văn hóa mới. Họ chọn cách sinh

hoạt của người phương Tây như mặc đồ Tây, ở nhà Tây, thích đi ô tô, xe điện,

chụp ảnh, xem phim, đọc sách báo, nhảy đầm… Thị dân tìm đến với văn hóa

phương Tây để thỏa mãn những nhu cầu của mình, thực hiện lối sống mới – tự

do, phóng khoáng, đề cao cái tôi cá nhân.

Văn hóa phương Tây có nhiều mặt tích cực, song cũng có những mặt trái

của nó. Ở xã hội mới này, sức mạnh của đồng tiền quá lớn. Vì tiền mà người ta

19

sẵn sàng chà đạp lên những phẩm chất đạo đức, luân lý và nhân phẩm con

người, ảnh hưởng tiêu cực đến các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của Việt

Nam. Trong đời sống tinh thần của người Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, ở

thành thị, không khó để bắt gặp những cảnh tượng con khinh bố, vợ chửi chồng,

thanh niên ăn chơi trụy lạc, cờ bạc, lừa lọc, phụ nữ làm mãi dâm, làm vợ Tây để

kiếm tiền. Thân xác người phụ nữ đôi khi trở thành thứ đồ chơi để thỏa mãn thú

vui dâm dật của nhóm người nhiều tiền, lắm của, háo sắc. Trong giới thượng lưu

thành thị, do chịu ảnh hưởng của lối sống buông thả, phóng túng thái quá trong

hôn nhân, gia đình của phương Tây nên đã có không ít trường hợp cha không ra

cha, con không ra con, vợ ngoại tình, chồng ngoại tình…

Con người là sản phẩm của hoàn cảnh và chịu tác động của hoàn cảnh.

Các điều kiện lịch sử, xã hội, văn hóa ở nước ta từ đầu thế kỉ XX đến trước

Cách mạng tháng Tám 1945 đã tác động, ảnh hưởng đến đời sống con người

trong giai đoạn này, đặt ra nhiều vấn đề về con người. Ở đây chúng tôi tập trung

đến những con người sống ở thành thị: Trong khi một bộ phận quan trên sống

dư giả, thừa thãi thì đời sống vật chất của các tầng lớp nhân dân lao động là vô

cùng khó khăn, thiếu thốn, nhất là tầng lớp thị dân nghèo – những con người

dưới đáy như phu kéo xe, người đi ở, gái nhà thổ, dân nghèo ngoại ô. Con người

điêu đứng, thậm chí trở nên tha hóa trước sức mạnh đồng tiền. Con người đề

cao cái tôi cá nhân, sống phóng túng, buông thả, trụy lạc, sẵn sàng chà đạp lên

luân thường đạo lý. Tất cả những hiện tượng nhức nhối đó đã được các nhà

văn, nhà báo đương thời khám phá, tìm hiểu và đưa lên trang báo bằng các bài

phóng sự đậm chất hiện thực, đầy máu và nước mắt. Tam Lang, Vũ Trọng

Phụng, Nguyễn Đình Lạp là những cây bút phóng sự tiêu biểu, đã phản ánh

chân thực các vấn đề về con người ở đô thị trong giai đoạn 1930 – 1945.

20

1.2. Vài nét quan niệm về con người trong văn học hiện đại Việt Nam (từ

đầu thế kỉ XX đến 1945)

1.2.1. Khái niệm quan niệm về con người trong văn học

Con người là đối tượng chủ yếu của văn học. Tác phẩm văn học dù viết

về đối tượng nào, là con người hay đồ vật, con vật, dù thần linh hay ma quỉ, dù

miêu tả thế giới nào, là thượng giới, âm giới hay trần gian thì đều hướng tới một

mục đích là thể hiện con người với tất cả sự đa dạng, phức tạp của nó.Thực tế cho

thấy, không có một tác phẩm, một tác giả hay một nền văn học nào lại chỉ đơn

thuần nói về thiên nhiên, cảnh vật mà không liên quan đến con người. Mỗi thể

loại văn học có những cách diễn đạt, thể hiện khác nhau nhưng tựu chung lại đều

hướng đến thể hiện con người. Ví dụ: Truyện cổ tích, thần thoại miêu tả thần

linh, ma quỷ, địa ngục, đồ vật...là nói đến cái hiện thực tồn tại trong đầu óc con

người, góp phần thể hiện ước mơ, khát vọng con người. Ngay cả những nhân vật

không thực, ví như trong tiểu thuyết Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân (các thần tiên,

yêu quái) thì cũng hướng đến bóc trần hiện thực xã hội Trung Quốc hỗn

loạn thời bấy giờ, đồng thời thể hiện sự khái quát về triết lí làm người. Hay

những dòng thơ viết về thiên nhiên, cảnh vật không phải chỉ là miêu tả, phác thảo

bức tranh mà là sự gửi gắm những tâm tư, tình cảm của chủ thể trữ tình. Nhìn

chung, trong văn học, yếu tố con người được nói đến như một điều tất yếu. Con

người chính là nhân vật trung tâm của văn học. Tuy nhiên, mỗi nhà văn ở mỗi

thời đại lại có những quan niệm khác nhau về con người, chi phối đến cách xây

dựng và thể hiện tính cách nhân vật trong tác phẩm văn học.

Quan niệm về con người trong văn học là nội dung cơ bản nhằm thể hiện

khả năng khám phá, sáng tạo của nhà văn trong lĩnh vực miêu tả, thể hiện con

người. Cho đến nay, mặc dù được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu,

song khái niệm quan niệm về con người vẫn còn nhiều cách định nghĩa và diễn

đạt khác nhau. Cụ thể như sau:

21

Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng: "Quan niệm nghệ thuật về con người

là một cách cắt nghĩa, lí giải tầm hiểu biết, tầm đánh giá, tầm trí tuệ, tầm nhìn,

tầm cảm của nhà văn về con người được thể hiện trong tác phẩm của mình”[5;

tr. 15]. Phân tích, mổ xẻ đối tượng con người đã được hóa thân thành các

nguyên tắc, phương tiện, biện pháp thể hiện con người trong văn học của tác

giả, từ đó, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cho các hình tượng nhân vật

trong đó. Giáo sư Huỳnh Như Phương nhận xét bao quát: “Quan niệm nghệ

thuật về con người thể hiện tầm nhìn của nhà văn và chiều sâu triết lí của tác

phẩm”. Từ điển Thuật ngữ văn học định nghĩa như sau: “Quan niệm nghệ

thuật là hình thức bên trong, là hệ quy chiếu ẩn chìm trong hình thức tác phẩm.

Nó gắn với các phạm trù khác như phương pháp sáng tác, phong cách của nhà

văn, làm thành thước đo của hình thức văn học và cơ sở của tư duy nghệ thuật.”

[8; tr. 275]

Từ sự phân tích các quan điểm trên, chúng tôi đi đến khái quát cách hiểu

quan niệm về con người trong văn học như sau:

Quan niệm về con người được hiểu là cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ,

cách cắt nghĩa lí giải của nhà văn về con người. Đó là quan niệm mà nhà văn

thể hiện trong từng tác phẩm. Quan niệm ấy bao giờ cũng gắn liền với cách

cảm thụ và biểu hiện chủ quan sáng tạo của chủ thể, ngay cả khi miêu tả con

người giống hay không giống so với đối tượng. Con người cũng là đối tượng

thẫm mĩ chủ yếu để tác giả thể hiện quan niệm của mình về cuộc sống. Chủ thể

sáng tác sẽ là người vận động và suy nghĩ về con người, cho con người, nêu ra

những tư tưởng mới để hiểu về con người. Từ việc hướng đến xác định khái niệm

quan niệm về con người trong văn học, có thể khẳng định rằng: Chúng ta

sẽ không thể hiểu một cách đầy đủ những đổi thay trong nội dung phản ánh cũng

như nghệ thuật biểu hiện của văn học, nếu không quan tâm tới sự vận động của

con người trong văn học, đặc biệt là vấn đề quan niệm của các tác giả về con

22

người trong văn học. Cho nên, tìm hiểu quan niệm về con người trong văn học

là điều hết sức quan trọng.

1.2.2. Con người trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến trước Cách

mạng tháng Tám 1945

Cuộc sống luôn vận động theo từng giai đoạn lịch sử nên văn học ở mỗi

giai đoạn khác nhau sẽ thể hiện con người với những đặc điểm riêng biệt.Trước

khi trình bày chi tiết về con người trong Văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến

trước Cách mạng tháng Tám 1945, chúng tôi điểm qua một số nét cơ bản đáng

chú ý về con người trong văn học dân gian và văn học trung đại Việt Nam.

Trong văn học dân gian, con người được thể hiện là sản phẩm của tự

nhiên (“Người ta là hoa đất”), nhưng là sản phẩm cao nhất, hoàn mỹ nhất của

tự nhiên, vừa có vẻ đẹp về thể xác, vừa có vẻ đẹp về tâm hồn, trí tuệ. Đó không

chỉ là thiên nhiên tự nó, mà còn là thiên nhiên cho nó. Con người chẳng những

có khả năng nhận thức thiên nhiên, mà còn có khả năng cải tạo thiên nhiên. Con

người là chúa tể của muôn loài vì có trí khôn (“Trí khôn của ta đây”). Ngoài

những nhu cầu bản năng, con người còn có ý thức, có khả năng thăng hoa những

nhu cầu ấy thành chất Người. Chẳng hạn, con người thăng hoa nhu cầu ăn uống

thành văn hoá ẩm thực, thăng hoa nhu cầu tình dục thành tình yêu. Con người

ham sống nhưng không sống bằng mọi giá. Họ hiểu sống phải có vật chất nhưng

còn hiểu sống cần có cả những cái cao hơn vật chất, đó là tinh thần, là tình

thương và danh dự (“Có xáo thì xáo nước trong/ Đừng xáo nước đục đau lòng

cò con”. “Sống vì mồ mả, ai sống bằng cả bát cơm”...). Như vậy, trong văn

học dân gian, con người được thể hiện là con người tự nhiên, gồm cả yếu tố

bản năng và ý thức. Đặc điểm con người bản năng đã được kế thừa, phát triển

với những điểm mới trong văn học hiện đại Việt Nam.

Trong văn học trung đại Việt Nam, quan niệm về con người chi phối cả

một thời kì văn học là quan niệm con người vũ trụ, con người đạo đức, con

người đấng bậc. Vì thế, con người được thể hiện trong văn học là người anh

23

hùng đối diện đàm tâm với thiên nhiên vũ trụ, sánh ngang tầm vũ trụ “Trí chủ

hữu hoài phù địa trục / Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà” (Cảm Hoài – Đặng Dung).

Con người được thể hiện trong văn học trung đại còn là con người đạo đức,

luân lí, con người của chí khí và việc tỏ lòng, tỏ chí khí là nét đặc trưng của họ

“Dù nội ngoại bên nào cũng vậy / Đừng tranh giành bên ấy, bên này / Cù Lao

đội đức cao dày /Phải lo hiếu kính đêm ngày khăng khăng.” (Gia huấn ca –

Nguyễn Trãi). Đó còn là con người đấng bậc, nhân vật được nói đến trong tác

phẩm văn học là những “đấng”, những “bậc” đáng kính trọng. Họ là “đấng tài

hoa” (Đạm Tiên); “bậc tài danh” (Kim Trọng); “bậc bố kinh” (Thúy Kiều);

“đấng anh hùng” (Từ Hải)... Đối với những nhân vật ấy, tác giả dành cho những

lời trang trọng, tượng trưng.

Trong văn học trung đại Việt Nam, con người cá nhân cũng được thể

hiện ở mức độ đậm nhạt và qua nhiều bình diện khác nhau, đậm nét nhất trong

các sáng tác giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX. Ví như, con người cá

nhân với ý thức khẳng định vẻ đẹp và tài năng (thơ Hồ Xuân Hương); con người

với nhu cầu bộc lộ tình cảm riêng tư, tâm sự u uẩn (thơ Nôm Nguyễn Trãi, thơ

Nguyễn Bỉnh Khiêm,...); con người thể hiện cảm hứng sống ẩn dật, hành lạc

(thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm); con người với tình yêu lứa đôi, hạnh phúc, khát

vọng nhu cầu trần thế (Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái và Truyền kỳ mạn

lục); con người cá nhân với niềm lo sợ tuổi trẻ chóng tàn (Chinh phụ ngâm);

con người cá nhân công danh hưởng lạc ngoài khuôn khổ (thơ văn Nguyễn

Công Trứ, Cao Bá Quát); con người cá nhân giải thoát bằng hưởng lạc (thơ ca

trù cuối thế kỉ XIX); con người cá nhân trống rỗng, mất hết ý nghĩa (thơ Nguyễn

Khuyến),… Đây là tiền đề cho sự thể hiện một cách mạnh mẽ, sâu sắc con người

cá nhân trong văn học hiện đại Việt Nam.

Đến thời kì hiện đại, từ đầu thế kỉ XX, khi điều kiện lịch sử, văn hóa, xã

hội có nhiều đổi khác thì quan niệm về con người trong văn học cũng thay đổi

theo. Con người tự nhiên, bản năng từng được thể hiện trong văn học dân gian,

24

bị kiềm tỏa bởi những quy định khắt khe của văn học Nho giáo thời trung đại,

đến thời kì hiện đại khi gặp được luồng gió Tây phương đã xuất hiện trở lại với

những biểu hiện mới mẻ hơn. Con người cá nhân từng được ghi dấu trong văn

học trung đại giai đoạn cuối đến thời kì hiện đại đã được khẳng định rõ nét. Sự

vận động nội tại của văn học gặp luồng gió văn hóa phương Tây đầu thế kỉ XX

đã tạo nên sự thể hiện con người cá nhân trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ

XX đến trước Cách mạng tháng Tám 1945.

Trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến trước Cách mạng tháng

Tám 1945 có ba hiện tượng văn học lớn với những quan niệm về con người

đáng chú ý.

Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn mà tiêu biểu là các tác phẩm của Nhất Linh,

Khái Hưng, Hoàng Đạo đã thể hiện một quan niệm con người mới làm nền tảng

cho việc xây dựng cốt truyện và miêu tả nhân vật trong tác phẩm. Đó là con

người cá nhân với khát vọng tìm cách thoát ly mọi quan hệ xã hội để thỏa mãn

tự do bản năng. Con người cá nhân không chịu gò mình trong khuôn khổ lễ giáo

phong kiến, muốn vượt ra ngoài vòng cương tỏa để hướng đến quyền tự do quyết

định hạnh phúc. Tình yêu đi theo nhịp đập của trái tim chứ không theo sự xắp

xếp của cha mẹ. Đó không phải là thứ tình yêu tài tử giai nhân Thúy Kiều – Kim

Trọng, Lục Vân Tiên – Kiều Nguyệt Nga… Đó là những mối tình lãng mạn

không theo thông lệ xã hội cũ như mối tình của Dũng và Loan trong Đoạn tuyệt,

Mai và Lộc trong Nửa chừng xuân, Trương và Tuyết trong Đời mưa gió, Nhung

và Nghĩa trong Lạnh lùng..vv.. Tất nhiên, để đến được với hạnh phúc họ gặp vô

vàn những cản trở của gia đình trọng phú quý, cổ hủ và từ phía chính bản thân

họ. Thế nhưng những rung động tinh tế trong tâm hồn mỗi nhân vật thì không

thể nào giấu nổi. Có thể nói một trong những cách tân quan trọng về nội dung

tiểu thuyết Tự lực văn đoàn là thay đổi cách nhìn về con người. Nhà văn đưa con

người ra đấu tranh trực diện với xã hội cũ. Kết thúc tác phẩm có thể là những

tương lai xán lạn cho nhân vật hoặc còn để lại nhiều trăn trở trong lòng người

25

đọc. Nếu như ta gọi tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn là tiểu thuyết luận đề thì

dường như họ đã có một luận đề nhất quán từ trước đến sau – Luận đề về con

người cá nhân: Từ con người cá nhân xã hội mang đậm màu sắc chính trị qua

con người cá nhân lãng mạn lập dị đến con người cực đoan liều lĩnh.

Thơ mới cũng thuộc khuynh hướng văn học lãng mạn, là một hiện tượng

thơ ca nổi bật trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945, đánh dấu sự

chuyển mình theo hướng hiện đại hóa của thơ Việt Nam. Thơ mới xuất hiện

mang theo một quan niệm mới mẻ về con người, không phải con người vũ trụ,

con người đạo đức, con người đấng bậc như trong thơ Trung đại mà là con người

cá nhân với tất cả những biểu hiện trần thế nhất. Nếu con người trong thơ trung

đại là cái Ta chung thì con người trong Thơ mới là cái Tôi riêng, một cái Tôi

“mang ý nghĩa tuyệt đối của nó” [39; tr. 59]. Trong thơ ca Trung đại, ta không

thể tìm đâu những câu thơ khẳng định cái Tôi như thế này: “Tôi chỉ là một khách

tình si”, “Tôi là kẻ bộ hành phiêu lãng”, “Tôi là con chim đến từ núi lạ”, “Tôi

là con nai bị chiều đánh lưới”…Cái Tôi không nấp đằng sau, bên trong cái Ta

nữa, nó như đứng giữa cuộc đời để khẳng định sự xuất hiện của mình, thể hiện

những xúc cảm một cách thành thực. Nếu con người trong thơ trung đại chủ yếu

hướng đến nói chí, tỏ lòng, thể hiện tình yêu thiên nhiên, lòng yêu nước, tâm

sự thời thế… thì con người trong Thơ mới thể hiện những cung bậc cảm xúc

thầm kín, riêng tư, cá nhân. Có được điều này là bởi ở Thơ mới có sự thay đổi

điểm nhìn so với thơ trung đại: nhìn từ bên trong cái tôi, qua lăng kính của cảm

giác. Cái Tôi thi sĩ tự nhìn thấu tâm hồn mình và thể hiện trên trang thơ những

cảm xúc chân thực, sâu sắc nhất của tâm hồn trước cuộc đời. Đó là tình yêu say

đắm nồng nàn, là nỗi buồn thê lương trước không gian và thời gian, là nỗi cô

đơn, cảm giác bơ vơ lạc lõng giữa dòng đời… Thế Lữ -"người khách đi qua

trần thế" đã thoát ly để đi tìm cái đẹp “Tôi chỉ là một khách tình si/ Ham vẻ

Đẹp có muôn hình, muôn thể”, mộng mơ trong chốn Bồng Lai tiên cảnh. Xuân

Diệu tự xem mình “Ta là Một, là Riêng, là Thứ nhất” luôn băn khoăn, rạo rực

26

trong tình yêu với nỗi phấp phỏng muốn chiếm lĩnh thời gian: “Mau với chứ,

vội vàng lên với chứ/ Em, em ơi, tình non sắp già rồi”; Huy Cận mang cái tôi

“sầu vạn kỷ” nơi quán chật đèo cao, sông dài trời rộng “Một chiếc linh hồn

nhỏ/ Mang mang thiên cổ sầu”. Chế Lan Viên mang cái tôi tiếc thương quá

khứ, lạc trong thế giới điêu tàn siêu hình, thần bí, băn khoăn nghi nghờ bản thể

“Hồn của ai trú ẩn ở đầu ta/ Ý của ai trào lên trong đáy óc”. Dường như trước

sự biến suy của xã hội cùng ảnh hưởng văn hóa Tây phương, cái tôi trong Thơ

mới bấy lâu dồn nén chợt vỡ òa. Cái tôi đó vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của

nền văn hoá mới.

Văn xuôi hiện thực nhìn xã hội trong quan hệ với số phận và ứng xử cá

nhân. Văn học hiện thực xem con người là sản phẩm của hoàn cảnh, là tiêu bản

của hoàn cảnh. Nhà văn mổ xẻ con người chính là khám phá tác động hoàn

cảnh lên con người. Đó là quan niệm mới về con người, khác với quan niệm

con người là kẻ mang đạo lý chống lại kẻ vô đạo, là anh hùng thay trời hành

đạo trong văn học trung đại.

Đối với Nguyễn Công Hoan, mỗi con người là một diễn viên đóng vai

trong tấn trò đời, vì "Đời là sân khấu hài kịch": Đây là kẻ làm trò chung thuỷ

("Oẳn tà roằn"); kia là kẻ làm trò thể dục −Tinh thần thể dục); nọ là kẻ làm trò

báo hiếu (Báo hiếu : trả nghĩa cha, Báo hiếu :trả nghĩa mẹ); cụ Chánh Bá làm

trò mất giày để kiếm đôi giày mới; anh kép Tư Bền đóng trò vui khi cha hấp

hối chết;... Làm trò là trạng thái không thật của con người. Khi mọi người đều

đóng trò, đều diễn thì ta có một xã hội giả dối, đánh mất bản chất chân thật.

Con người bị tha hoá, không còn chung thuỷ, không còn hiếu, không còn tình,

không còn vui, thích thật nữa! Bề ngoài cái gì nó cũng có, mà bên trong thì

không có gì cả, bên trong một đằng bên ngoài một nẻo. Quan niệm về con người

của Nguyễn Công Hoan còn có điểm mới, ông miêu tả con người bị vật hoá:

ngựa người, người ngựa, người tranh cơm với chó, người biến thành cây thịt,

bộ xương,... Bằng quan niệm con người làm trò và con người bị vật hoá,

27

Nguyễn Công Hoan đã cười vào cái xã hội giả dối, phi nhân tính trong thực tại.

Nguyễn Công Hoan đã đề cập đến một khía cạnh sâu sắc nhất trong xã hội đồng

tiền: sức mạnh của đồng tiền đã biến con người thành hàng hóa, thành đồ vật.

Đó là cái hiện thực tất nhiên, trực tiếp, là hậu quả của xã hội tư sản.

Nhà văn Ngô Tất Tố trong tiểu thuyết Tắt đèn lại có quan niệm khác hẳn.

Nhân vật chính diện của ông không bị tha hoá. Các phẩm chất của nhân vật

chính diện như chị Dậu, anh Dậu, cái Tý là những phẩm chất tốt đẹp, không bị

thay đổi trước sức ép tàn bạo của hoàn cảnh, hay đúng hơn, chúng bị đe doạ

thay đổi. Chị Dậu đói ăn triền miên, chạy vạy vay nợ, bán con bán chó mà sắc

đẹp không suy suyển, ai thấy cũng mê. Quan phủ giăng bẫy, quan cụ gần kề mà

chị không thất tiết. Cái Tý đói cơm đến thế mà nhất quyết không ăn cơm chó

của nhà bà Nghị. Điều đó chứng tỏ trong bức tranh hiện thực khắc nghiệt nhà

văn vẫn dành một khung trời lãng mạn cho các nhân vật thân yêu của mình, để

các nhân vật giữ được phẩm chất cao quí trong hoàn cảnh hiện thực đầy đen tối

và chỉ trực chờ đẩy con người vào vũng lầy tha hóa.

Nam Cao là nhà văn hiện thực tiêu biểu của văn xuôi hiện đại trước Cách

mạng tháng Tám 1945. Ông tiếp thu quan niệm con người cảm giác, ông chấp

nhận con người bị tha hoá, dị dạng trước những tác động của hoàn cảnh nhưng

ông cũng thấy con người ở nơi sâu thẳm vẫn còn giữ được tính người. Ngọn roi

đời đau rát có thể khiến cho nhân hình, nhân tính bị vùi lấp chứ không thể bị

mất đi, bị hủy diệt hoàn toàn. Dưới lớp tro tàn tha hóa, bản chất người vẫn như

một đốm than le lói, chờ ngọn gió tình người là sẽ bùng cháy trở lại, đưa con

người hoàn lương. Tuy nhiên, quá trình hoàn lương ấy không đơn giản, không

phải lúc nào cũng xuôi chiều mát mái. Vì vậy tác phẩm của Nam Cao vừa đau

đớn, vừa mạnh mẽ, nhức nhối. Có thể nói, Nam Cao là nhà văn đặt ra được

những vấn đề con người bức xúc nhất, sâu sắc nhất, nan giải nhất trong văn học

hiện thực Việt Nam trước 1945.

28

Như vậy, sự xuất hiện của văn xuôi lãng mạn Tự lực văn đoàn, Thơ mới

và văn xuôi hiện thực với những cây bút xuất sắc trong văn học Việt Nam giai

đoạn 1930-1945 đã thể hiện quan niệm mới mẻ về con người, khác biệt với

quan niệm về con người trong văn học dân gian và văn học Trung đại. Bước

chuyển mình từ quan niệm con người vũ trụ, con người đạo đức, con người

đấng bậc, nói chí tỏ lòng trong văn học Trung đại đến con người cá nhân, cá

thể với những cảm xúc riêng tư, thầm kín, thành thật trong văn học hiện đại

chính là kết quả của quá trình hiện đại hóa văn học diễn ra từ đầu thế kỉ XX

dưới tác động của các điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa. Sự thay đổi trong quan

niệm về con người phù hợp với hoàn cảnh thời đại có ý nghĩa quan trọng, giúp

văn học thực hiện được chức năng của nó là phản ánh chân thực bộ mặt của xã

hội mới với những con người mới, tâm tư, tình cảm mới.

Phóng sự là một thể loại văn xuôi xuất hiện khá muộn, cũng vì thế được

kế thừa thành quả của quá trình hiện đại hóa văn học đã diễn ra từ những năm

đầu thế kỉ XX, trong đó có quan niệm mới mẻ về con người. Phóng sự 1932 –

1945 khám phá con người ở góc độ cái Tôi cá nhân, thể hiện đặc điểm tính cách

của từng lớp người cụ thể, cá tính của từng con người cụ thể được phản ánh.

Trong một xã hội có sự giao thoa giữa hai luồng văn hóa Đông – Tây, con người

đã dám sống là chính mình, với những mong muốn, sở thích của cá nhân chứ

không phải uốn mình theo khuôn vàng thước ngọc của lễ giáo phong kiến. Các

tác giả phóng sự giai đoạn này cũng đã lắng nghe và thể hiện trên trang viết

những suy nghĩ, thái độ, xúc cảm riêng tư của con người, gồm cả những điều

cao cả và thấp hèn - những điều không được nói đến trong văn học trung đại.

Đặc điểm của phóng sự là phản ánh các vấn đề xã hội một cách chân

thực, phi hư cấu nên các nhân vật trong phóng sự không phải là kết quả của sự

tưởng tượng mà là con người có thật ngoài đời, từ tên tuổi, nghề nghiệp, đến

suy nghĩ, thái độ trước cuộc đời. Những con người cụ thể được lựa chọn tiếp

cận, thể hiện trở thành bằng chứng thuyết phục cho một hiện tượng xã hội mà

29

nhà văn phản ánh. Các nhà phóng sự nhìn thấy con người chịu tác động, ảnh

hưởng lớn từ hoàn cảnh nhưng chính con người cũng là một tác nhân tạo nên

sự thay đổi của chính mình. Trước một vấn đề xã hội, nhà văn có cái nhìn khách

quan và có tư duy biện chứng, không chỉ phản ánh hiện thực mà còn đi vào

“hang cùng ngõ hẻm” để tìm hiểu nguyên nhân căn cốt của hiện thực đó, thậm

chí hướng đến giải pháp cho hiện thực. Với quan điểm này, các tầng lớp con

người trong xã hội Việt Nam những năm 1930 – 1945 đã được các nhà phóng

sự thể hiện một cách chân xác, sinh động như nó vốn có. Những con người cụ

thể là những bằng chứng hiện thực giàu thuyết phục để nhà văn phản ánh những

vấn đề của xã hội Việt Nam đương thờ.

1.3. Phóng sự - thể loại giao thoa giữa báo chí và văn học

Lí luận báo chí và lí luận văn học đã từng khẳng định: phóng sự là thể

loại có tính chất “bắc cầu” giữa báo chí và văn học. Có phóng sự báo chí và

phóng sự văn học. Đặc điểm chung nhất của hai loại phóng sự này là cùng lấy

sự kiện người thật, việc thật, rất thời sự làm đối tượng phản ánh. Điểm khác

biệt của hai kiểu phóng sự này là một bên thì phản ánh sự kiện một cách thời

sự nhằm đạt được mục đích là thông tin bản chất vấn đề đến đối tượng tiếp

nhận, còn bên kia ngoài mục đích thông tin ra còn muốn thông qua nhận thức

lí tính đạt tới mục đích nhận thức cảm tính của đối tượng tiếp nhận. Người đọc

không những hiểu rõ bản chất của sự việc mà còn có dịp thể hiện cảm xúc của

mình trước sự dẫn dắt tài tình của nhân chứng – tác giả.

Cũng phản ánh người thực, việc thực ở thế trực tiếp nhưng phóng sự báo

chí phải phản ánh người thực, việc thực một cách trực tiếp nhất. Tác giả là nhân

chứng số một, dẫn dắt độc giả đến với hiện thực phải là người trực tiếp “tai

nghe, mắt thấy” chứ không phải qua hiện thực đời sống hàng ngày mà tưởng

tượng ra. Tác giả phải là người chịu trách nhiệm trực tiếp cao nhất trước dư

luận về những vấn đề đưa ra, đảm báo tính trung thực, khách quan, có nguồn

gốc, thời điểm rõ ràng với những con người, sự kiện có địa chỉ cụ thể. Lối văn

30

chương trong phóng sự báo chí phải đạt yêu cầu cao hơn lối viết khô khan, liệt

kê nhàm chán sự kiện, nghĩa là phải linh hoạt trong kết cấu, sáng tạo trong lựa

chọn sự kiện với giọng điệu, ngôn ngữ phong phú nhưng thiên về phản ánh

đúng thông tin, diễn tả chính xác cụ thể về người thực - việc thực, không dùng

lời lẽ khoa trương, hư cấu, phóng đại.

Để tác dộng vào nhận thức lí tính của độc giả một cách nhanh chóng và

hiệu quả, “cái Tôi” trần thuật hải sử dụng ngôn ngữ, lời lẽ mang ý nghĩa tường

minh, đơn nghĩa, phản ánh đúng bản chất sự việc. Bên cạnh đó, phóng sự báo chí

phải đảm bảo yêu cầu “tính thời sự” của sự việc, tìm ra được những mâu thuẫn

gay gắt trong sự kiện, hoặc khám phá, lật tẩy những vấn đề còn chưa “lộ tẩy”.

Nếu phóng sự báo chí tường thuật sự kiện một cách trần trụi thì phóng

sự văn học tuy phản ánh sự kiện có thật nhưng lại sử dụng một số biện pháp

nghệ thuật của tiểu thuyết, truyện ngắn.

Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan cũng đã nhấn mạnh rằng: “Viết được một

thiên phóng sự cho hay nhà báo không những cần phải có tài đặc biệt về nghề

báo mà còn cần phải có nhiều “chất văn sỹ” [32; tr 560]. Lí luận văn học Việt

Nam hiện đại cũng từng coi phóng sự là một trong những tiểu loại của thể ký

văn học, nằm xếp hàng cùng với bút ký, ký sự, tùy bút, hồi ký, nhật ký, truyện

kí… Tiêu biểu cho cách xếp này là Hà Minh Đức trong công trình Loại thể văn

học (xuất bản năm 1962).

Thực tế cho thấy, ở những tác phẩm được coi là phóng sự văn học thì tuy

vẫn đảm bảo tính xác thực và tính thời sự nhưng tính thời sự không còn là yêu

cầu gay gắt và tính xác thực cũng không phải là yêu cầu tuyệt đối nữa. Trong

phóng sự văn học, hiện thực được lấy sự kiện làm “tiêu điểm” khai thác, nhưng

bên cạnh đó, cái quan trọng hơn và cao hơn là vấn đề mang tính chất rộng lớn

toàn xã hội. Nét độc đáo của phóng sự văn học là cái tôi tác giả được tự do lựa

chọn sự kiện, chọn tình huống tiêu biểu để thể hiện ý tưởng thẩm mỹ, tự do lựa

chọn phương thức phản ánh sự kiện, tình huống, nhân vật. Bằng năng lực phán

31

đoán, tưởng tượng của một nhà văn, nhà viết phóng sự có thể tô đắp, trang điểm

một chút cho tình huống, cho nhân vật để tình huống và nhân vật mang tính

điển hình cho một lớp người trong xã hội. Hư cấu trong phóng sự văn học không

phải là hư cấu theo lối tưởng tượng bay bổng, ngồi một chỗ mà nghĩ ra, mà là

hư cấu mang mức độ tiểu xảo kĩ thuật, tô đậm hoặc làm mờ nhạt bớt đi sự kiện

mà theo tác giả là cần thiết trong tác phẩm. Cũng có thể hư cấu phần người ta

không thể nhìn và nghe thấy như nội tâm của nhân vật, nhân chứng. Nhân vật

trong phóng sự văn học cần đạt đến độ điển hình hóa nhưng chỉ là sự bồi đắp

thêm da thịt chứ không phải tưởng tượng để thay hình, đổi dạng nguyên mẫu.

Ở góc độ dẫn dắt tình tiết câu chuyện, với phóng sự báo chí, người viết

có thể thể hiện thái độ khách quan, có gì phản ánh nấy. Nhưng ở phóng sự văn

học, để đảm bảo giá trị nhận thức cũng như giá trị thẩm mỹ của độc giả sau khi

đọc tác phẩm, thì tác giả có thể thể hiện cảm nhận chủ quan của mình trước

hiện thực bằng những triết lý chân thành, bằng lời bình phẩm mang đậm dấu

ấn cá nhân. Không chỉ nhằm tới giá trị phản ánh – thông tin mà phóng sự văn

học còn ước muốn đạt tới giá trị phản ánh – thông tin – thẩm mỹ. Điều này

không những chi phối đến cách xây dựng hình tượng nhân vật mà còn chi phối

ngôn ngữ trong tác phẩm. Ngôn từ trong phóng sự báo chí đòi hỏi cô đọng, súc

tích, gọi đúng tên sự vật, hiện tượng, chuẩn về mặt ngữ nghĩa mà chỉ có một

lớp nghĩa – nghĩa tường minh. Kết cấu tác phẩm ngắn gọn, ý tưởng của tác giả

nằm ngay trong văn bản, người đọc bình dân cũng có thể hiểu được. Ngôn ngữ

trong phóng sự văn học là ngôn ngữ hình tượng, ngôn ngữ mang tính khái quát

cao; nó bao hàm hai lớp nghĩa: tường minh và hàm ẩn. Điều này lí giải được

nguyên nhân ngoài mục đích phản ánh thông tin một cách thời sự, đề xuất với

các nhà quản lý những biện pháp hữu hiệu, phóng sự văn học còn giúp người

đọc có thái độ yêu ghét rõ ràng trước hiện thực. Kết cấu phóng sự văn học

thường dài và kết thúc theo hướng mở. Từ giá trị đó, phóng sự văn học ở lại lâu

hơn trong lòng người đọc.

32

Trong phóng sự văn học có phóng sự tiểu thuyết. Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn

hiện đại (1942) cũng đã chia tiểu thuyết thành 10 loại, trong đó có phóng sự

tiểu thuyết. Một số tác giả khi sáng tác cũng đề dưới tác phẩm của mình là

phóng sự tiểu thuyết như Cạm bẫy người, Một huyện ăn Tết (Vũ Trọng Phụng),

Ngoại ô, Ngõ hẻm (Nguyễn Đình Lạp), Bút nghiên (Chu Thiên), Lều chõng

(Ngô Tất Tố).Với tư cách là chủ thể sáng tạo, họ đã dự báo và đưa đến cho công

chúng một cái nhìn toàn diện, một vấn đề có tính chất xã hội, đầy triết lý sâu

sắc về một kiếp người, một số phận con người. Chính tính chất tiểu thuyết yêu

cầu các tác phẩm phóng sự không những năng động, công phu trong việc lấy

sự kiện nóng bỏng mà còn phải chọn lọc sự kiện, tổng hợp tư liệu, có cái nhìn

linh hoạt trước hiện thực dưới nhiều góc nhìn khác nhau. Đồng thời cũng yêu

cầu tác giả phải có khả năng phân tích, đánh giá xã hội.Tác giả phải xây dựng

được những hình tượng nhân vật đại diện cho một lớp người có thực ở ngoài

đời. Tác giả không những chỉ có dùng từ ngữ mà điểm nhìn, góc nhìn hiện thực

của họ cũng chi phối nhiều đến giá trị của tác phẩm. Sự kiện, hiện thực ở đây

không còn trần trụi, khô cứng, với những con số cụ thể, đơn lẻ mà trong phóng

sự, hiện thực ấy đã được khái quát hóa. Có nhiều trường hợp, tác phẩm không

chỉ dừng lại nói đến chính đối tượng phóng sự phản ánh mà còn nói về cái rộng

lớn bao la, bao trùm hơn và có ý nghĩa xã hội. Chính việc sử dụng có chọn lọc

những phương tiện của bút pháp tiểu thuyết khiến các phóng sự này có dung

lượng tương đối lớn, kết cấu chặt chẽ, nhân chứng – nhân vật sống động, nghệ

thuật kể chuyện hấp dẫn.

* Tiểu kết

Lịch sử, xã hội, văn hóa Việt Nam đầu thế kỉ XX đã có những thay đổi,

chuyển biến sâu sắc so với thời kì trung đại. Đáng chú ý nhất là chính sách cai

trị, công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp dẫn đến đời sống lầm than

của nhân dân lao động Việt Nam. Cuộc sống vật chất thiếu thốn và sự suy

33

nhược về tinh thần của những con người dưới đáy là một vấn đề nhức nhối, lay

động tư tưởng, tình cảm của những nhà văn – nhà nhân đạo chủ nghĩa.

Bước sang thời kì hiện đại, quan niệm về con người trong văn học có sự

thay đổi, góp phần tạo nên một diện mạo văn học mới mẻ. Nếu như con người

được thể hiện trong văn học dân gian là con người tự nhiên với cả phần bản

năng và ý thức, con người trong văn học trung đại chủ yếu là con người vũ trụ,

con người đạo đức, con người đấng bậc thì con người trong văn học hiện đại

Việt Nam giai đoạn từ đầu thế kỉ XX đến trước Cách mạng tháng Tám 1945

chủ yếu là con người cá nhân, con người là sản phẩm của hoàn cảnh. Phóng sự

là thể loại giao thoa giữa văn học và báo chí, có phóng sự báo chí và phóng sự

văn học. Đối tượng chúng tôi tìm hiểu trong luận văn này là những tác phẩm

thuộc phóng sự văn học. Trong phóng sự Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945, con

người được nhìn nhận không chỉ là sản phẩm của hoàn cảnh, chịu ảnh hướng,

tác động từ hoàn cảnh mà chính con người cũng tạo nên sự thay đổi của chính

mình. Với quan niệm này, các nhà phóng sự đã chỉ ra những đặc điểm về đời

sống vật chất, đời sống tinh thần của con người, tìm hiểu các nguyên nhân dẫn

đến bi kịch và sự tha hóa của họ. Điều này được chúng tôi trình bày cụ thể ở

chương II của luận văn.

34

CHƯƠNG 2: CÁC TẦNG LỚP CON NGƯỜI TRONG PHÓNG SỰ

VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1932 – 1945

Sự thay đổi về điều kiện lịch sử, xã hội, văn hóa Việt Nam đầu thế kỉ XX

đã dẫn đến sự xuất hiện những tầng lớp xã hội mới, ngoài nông dân và địa chủ còn

có công nhân, tư sản, tiểu tư sản. Ở đô thị, bộ phận dân nghèo thành thị xuất hiện

như phu kéo xe, người đi ở, người buôn bán nhỏ ở ngoại ô; những con người bán

thân nuôi miệng như gái mãi dâm, gái nhảy, gái nhà săm, nhà thổ, cô đầu… Họ là

nạn nhân của hoàn cảnh, chịu kiếp sống bị đày ải, khổ cực nhưng chính họ cũng

tha hóa theo hoàn cảnh. Công cuộc kết hợp giữa Tây và Ta còn dẫn đến sự xuất

hiện của lớp người me Tây. Họ xem việc lấy chồng Tây là một nghề để kiếm sống

và có đủ những ngón nghề chuyên nghiệp. Sự khủng hoảng kinh tế xã hội dẫn đến

sự xuất hiện và gia tăng những tệ nạn xã hội như nạn cờ bạc, nghiện hút, mãi dâm,

trộm cắp… Kéo theo đó là sự xuất hiện những lớp người sống bằng nghề lừa lọc

để kiếm tiền như những tay cờ bạc bịp, dân làng chạy (kẻ trộm cắp), ma cô dắt

gái, bồi săm….và những lớp người sa ngã vào tệ nạn đó như học sinh, viên chức,

người buôn bán…mà nhà văn Nguyễn Đình Lạp gọi chung bằng cái tên “Thanh

niên trụy lạc”. Đó là những con người đã bị tha hóa trước sức mạnh của đồng tiền,

bởi sự cám dỗ của những tệ nạn xã hội. Ở tầng lớp trên của xã hội, ngoài quan lại

còn xuất hiện tầng lớp ông chủ, phụ nữ tân thời (vợ, con của những ông chủ, ông

quan). Sự thừa thãi về vật chất, gặp luồng gió văn hóa mới đã khiến những con

người này trở thành những thành viên tích cực của phong trào Âu hóa. Tuy nhiên,

sự Âu hóa rởm hợm, lai căng cùng với thói trưởng giả học làm sang đã khiến họ

trở thành đối tượng châm biếm của các nhà phóng sự.

Ở nông thôn, đời sống của người nông dân vô cùng cực khổ, nghèo đói. Sự

hống hách của cường hào, lí dịch cùng những hủ tục lạc hậu, nặng nề ở làng xã đã

khiến họ rơi vào cảnh bần cùng, làm lụng vất vả cả đời mà không khá lên được.

Dù hàng rào Nho giáo còn khá kiên cố ở nông thôn nhưng những luồng tư tưởng,

35

văn hóa phương Tây cũng đã dần xâm nhập, làm đảo lộn, thay đổi lối sống của

những con người sau lũy tre làng.

Sự đa dạng các tầng lớp con người mới – cũ trong một bối cảnh xã hội

Tây – Ta lẫn lộn, mưa Âu gió Mỹ xâm nhập mà nền tảng cương thường của

Nho giáo đã lung lay tạo nên một bức tranh đa diện, phức tạp, nhiều vấn đề

nhức nhối về con người nảy sinh. Đời sống vật chất, tinh thần của mỗi tầng lớp,

giai cấp đều được thể hiện đậm nét trong các thiên phóng sự giai đoạn này.

Trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi hướng đến các giai cấp, tầng lớp ở đô

thị, được phản ánh trong các phóng sự của nhà văn Tam Lang, Vũ Trọng Phụng

và Nguyễn Đình Lạp.

2.1. Một số tầng lớp dưới đáy xã hội

Ở mọi thời đại, người lao động luôn là đối tượng quan tâm của các tác

giả văn học. Người lao động nghèo với sự thiếu thốn về vật chất, khổ cực về

tinh thần luôn lay động trái tim, thôi thúc sự phản ánh của người cầm bút. Về

cuộc đời, số phận của người lao động nghèo giai đoạn 1930 – 1945, các tác giả

Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng…đã có những phản

ánh sâu sắc trong các thiên tiểu thuyết, truyện ngắn như “Lão Hạc”, “Chí

Phèo”, “Tắt đèn”, “Bước đường cùng”, “Bỉ vỏ”… Đối tượng phản ánh trong

các sáng tác của những tác giả trên chủ yếu là người nông dân nghèo với bi

kịch bị bần cùng hóa và lưu manh hóa. Ở thể loại phóng sự, bên cạnh người

nông dân nghèo ở nông thôn, các tầng lớp lao động nghèo ở thành thị cũng trở

thành đối tượng phản ánh với những tìm hiểu cặn kẽ về đời sống vật chất và

tinh thần. Đó là những phu kéo xe, người đi ở, gái mãi dâm, dân nghèo ngoại

ô…- những cuộc đời, số phận bất hạnh ở các đô thị phồn hoa.

2.1.1. Người lao động nghèo lương thiện

Dưới chính sách cai trị, khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, đời sống

của nhân dân Việt Nam đã rất nghèo khó, nhất là những người nông dân và lao

36

động nghèo đô thị. Người lao động làm việc chăm chỉ nhưng cái nghèo cái khó

cứ đeo đuổi, đẩy họ vào hoàn cảnh bi kịch. Ngay cả khi việc làm ăn buôn bán

diễn ra bình thường thì họ cũng đã khó mà có thể khấm khá được, đằng này lại

thêm chính sách cai trị vô lý, những cấm đoán của chính quyền. Tuy nhiên, điều

đáng quý nhất là ở họ vẫn luôn sáng lên phẩm chất lương thiện, không bị tha hóa

bởi hoàn cảnh. Bộ phận người lao động nghèo lương thiện được phản ánh trong

phóng sự tiểu thuyết Ngoại ô, Ngõ hẻm của nhà văn Nguyễn Đình Lạp.

Trong hai tác phẩm này, Nguyễn Đình Lạp đã tìm hiểu và phản ánh sâu

sắc đời sống của những người dân lao động nghèo vùng ngoại ô Hà Nội, khu

vực Ô Cầu Rền, Bạch Mai. Họ là những người làm nghề giò chả như vợ chồng

bác Vuông, bán phở như bác Mỗ, bán thịt chó như bác Cả Thìn, bán thịt lợn

như bà Cả Nẫm, bán cháo lòng như bà ba Sửu, bán thịt trâu, làm đồ tể (Nhớn,

Sẹo), làm cô đầu (Huệ)… Trong đó, nhân vật chính của Ngoại ô là vợ chồng

bác Vuông giò chả và của Ngõ hẻm là vợ chồng Khuyên (con gái bác Vuông).

Viết phóng sự này, nhà văn Nguyễn Đình Lạp muốn phản ánh chân thực

nỗi thống khổ, bi kịch của những người dân nghèo ngoại ô trước những giông

tố cuộc đời. Cuộc sống bình yên thì họ cũng đã sẵn cái nghèo truyền kiếp, thêm

những giông tố bất ngờ thì họ điêu đứng và gục ngã. Gia đình bác Vuông ở

trong xóm Hàng Mã, Ô Cầu Rền, trong “Một căn nhà tranh lụp xụp …rất thấp,

rất hẹp, tựa hồ như một cái nón úp xuống mặt đất, khí trời và ánh sáng bên

ngoài khó lòng mà vào được tận nơi, cũng như những mùi ẩm mốc bên trong

không bao giờ bay hết được ra ngoài” [45; tr. 367] . Mỗi khi trời mưa, nước

ngập cả xóm, nhà bác Vuông có khi nước mấp mé chân giường, giun và cóc

đều nhoai lên, ẩm ướt nên gián vỡ tổ bay tung rúc vào đống quần áo còn muỗi

thì nhiều vô kể, có thể giơ tay vốc được. Họ làm ăn chăm chỉ, chất phác nhưng

dường như ông giời chưa cho khá. Hai vợ chồng bác Vuông chăm chỉ bảo ban

nhau làm ăn, chẳng mấy khi cãi vã, nhưng cái nghèo cứ như truyền kiếp và bám

theo đeo đẳng. Của cải ba mẹ bác để lại chỉ là “cái thúng đi hàng và cái đèn

37

chai”. Đến bây giờ, gia tài của bác có lẽ cũng chỉ có vậy. Nhưng đó là cuộc

sống lúc bình yên. Đằng này, lệnh trên ban xuống cấm những người bán hàng

rong ở ngoại ô vào thành phố bán đã như một tiếng sét ngang tai, cướp đi sinh

kế vốn đã khó khăn của họ. Sự khám xét, bắt bớ diễn ra, hàng làm ra bị ế không

bán được, những người làm hàng ở xóm Hàng Mã, Bạch Mai, Văn Chỉ… rơi

vào cảnh điêu đứng. Gia đình bác Vuông cũng không ngoại lệ. Vợ chồng bác

cũng tìm mọi cách để cứu thoát cái gia đình đương cơn hấp hối, nhưng “họa

vô đơn chí”, của cải trong nhà thì bị kẻ vô nhân lừa lọc vào chuyện đút lót quan

để được vào thành phố bán hàng, bác Vuông gái giả chửa đeo thịt vào người

đem bán trong thành phố thì bị bắt, rồi bị tả mà đột ngột qua đời, con gái lớn –

Khuyên thì bỏ nhà đi theo tiếng gọi của tình yêu khiến bác Vuông bị coi thường,

khinh bỉ... Ngần ấy cơn giông tố ập đến một cách gần như liên tiếp, chưa đỡ

nổi cơn này thì cơn khác lại ập đến, khiến cho một trụ cột gia đình như bác

Vuông trở nên mất phương hướng, điêu đứng và gục ngã: Kinh tế sa sút, thiếu

ăn từng bữa, sức khỏe sa sút. Bác Vuông vì khổ quá, uất ức quá mà hóa điên.

Đêm, bác chỉ toàn mơ thấy những cảnh tượng chết chóc, máu me ghê gớm và

tỉnh dậy thì bàng hoàng sợ hãi. Bác Vuông thực sự bị suy nhược cả về thể xác

lẫn tinh thần, luôn sống trong lo lắng, sợ sệt. Những cơn điên ban đầu còn thi

thoảng, rồi sau thì điên thật, cứ xé toang quần áo rồi tung tăng ra ngoài phố đâm

cả vào người qua lại. Tên của vở chèo mà người ta đem đi quảng cáo“cũng một

kiếp người”[45; tr. 481] cũng là câu nói đầy trăn trở của cô đầu Huệ ở cuối

phóng sự Ngoại ô đã là một lời than đầy đau xót cho số kiếp người lao động

nghèo vùng ngoại ô những năm 30 của thế kỉ XX dưới những chính sách cai trị

bất công của chính quyền thực dân nửa phong kiến.

Ngõ hẻm chính là một sự tiếp nối từ Ngoại ô, nhà văn khai thác sâu hơn

về số phận con người với những éo le, góc khuất. Cũng như cuộc đời bố mẹ,

cuộc đời vợ chồng Khuyên – Nhớn cũng không khá hơn là mấy. Hai người

cùng nhau bỏ làng đi ra Hải Phòng, nhưng vì công việc phu mỏ vất vả, sức khỏe

38

Khuyên yếu dần nên họ lại về ở xóm Bạch Mai, làm những công việc lao động

nặng nhọc để kiếm sống qua ngày. Những con người nghèo khổ muốn ra đi để

tìm một cuộc sống mới với hi vọng sẽ tốt đẹp hơn, nhưng sự nghèo khó, hoàn

cảnh éo le lại mang họ về với “chốn cũ” – nơi sự đói nghèo và tù túng luôn bủa

vây lấy họ. Cũng như gia đình bác Vuông, gia đình Nhớn cũng liên tiếp gặp

cơn sóng gió, từ việc vợ anh – Khuyên gặp tai nạn phải sinh non, con ốm yếu

lên sài lên đẹn đến việc anh bị bắt tạm giam, bị Ba Sự và Cún móm lừa, Khuyên

vì bảo toàn trinh tiết mà giết Ba Sự… Sóng gió ào ạt không ngừng khiến vợ

chồng Nhớn điêu đứng, có lúc tưởng như gục ngã hoàn toàn.

Viết Ngoại ô, Ngõ hẻm, tác giả Nguyễn Đình Lạp không chỉ tìm hiểu đời

sống vật chất mà còn muốn khắc họa đời sống tinh thần của những người

dân nghèo ngoại ô. Xóm Hàng Mã – nơi gia đình bác Vuông ở, mọi người tuy

nghèo nhưng đều yêu thương chia sẻ với nhau, theo đúng lối “hàng xóm tối lửa

tắt đèn có nhau”. Gia đình bác Vuông có việc thì các bác hàng xóm đều xắn

tay giúp sức. Vào dịp Tết, vợ chồng bác Vuông nhận được nhiều đơn hàng bánh

chưng, giò chả, thì hàng xóm xa gần đều giúp đỡ, từ gia đình bác bán thịt trâu

bên cạnh đến bác Nhớn, bác Sẹo đồ tể. Cuộc sống lao động vất vả nhưng họ

vẫn luôn tràn ngập tiếng cười. Những người dân nghèo vẫn yêu thương đùm

bọc nhau. Bác Vuông vất vả mới bán được thúng hàng độ đồng bạc nhưng đã

không ngần ngại đưa cho cô đầu Huệ vay để mua thuốc, vì cô này mới bị một

kẻ ghen ăn tức ở thuê người đánh đập, hành hạ. Hành động nghĩa hiệp cứu

người của bác Vuông, bác Mỗ, bác Thịnh khiến người đọc phải khâm phục.

Không chỉ vậy, ở những người dân nghèo, khát vọng hạnh phúc vẫn luôn cháy

bỏng. Sự việc bác phở Mỗ hỏi Khuyên – con gái lớn của bác Vuông cho thằng

Pháo con trai mình, sự ngượng ngùng e thẹn của Khuyên khi bố mẹ nói đến

chuyện “lấy chồng” cũng như tình yêu đến bất ngờ và mãnh liệt giữa Khuyên

và bác đồ tể Nhớn chính là sự thể hiện mạnh mẽ khát vọng hạnh phúc của người

39

dân lao động, muốn vượt thoát ra khỏi thế giới tù túng, chật hẹp của những luật

lệ hà khắc, cổ hủ “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”.

Trong tiểu thuyết phóng sự Ngõ hẻm, nhà văn Nguyễn Đình lạp cũng

khẳng định, đề cao những phẩm chất tốt đẹp, trong sáng ở người lao động

nghèo: sự thủy chung, lòng vị tha, tương thân tương ái. Khi nhận ra ý định đen

tối của Ba Sự, Khuyên đã một mực chống cự, một lòng chung thủy với chồng,

đâm chết Ba Sự để bảo toàn danh tiết. Lão Ất, dẫu chỉ là người hàng xóm,

nhưng rất ân cần quan tâm mọi người, nhất là gia đình Khuyên. Khi sự việc xảy

ra, lão Ất đã nhận là mình giết Ba Sự, để Khuyên được bình yên lo cho chồng

con. Trong khi gia đình Nhớn gặp khó khăn, vợ chồng Sẹo – Bưởi đã hết lòng

giúp đỡ. Sau những hiểu nhầm, tình bạn của Nhớn, Sẹo vẫn thắm thiết như xưa.

Tin sau những ghen tuông đã rộng lượng mở lòng để yêu thương Còi. Có thể

nói, những người dân lao động nghèo, họ thật thà, chất phác và sẵn lòng yêu

thương, vị tha. Những phẩm chất đáng quý đó là sợi dây gắn kết họ với nhau

sau bao nhiêu giông bão cuộc đời, giúp họ cùng nhau đối phó với sự độc ác,

nham hiểm của bọn người có quyền và có tiền.

Phóng sự Ngoại ô và Ngõ hẻm nối tiếp nhau, cho người đọc thấy được

bức tranh khá hoàn chỉnh về cuộc đời, số phận của những người dân nghèo

ngoại ô – một tầng lớp người trong xã hội Việt Nam những năm 30, 40 của thế

kỉ XX. Cái nghèo truyền kiếp đeo bám họ. Những chính sách hà khắc của chính

quyền, những thủ đoạn nham hiểm của bọn người có tiền, có quyền đã khiến

số phận những người lao động nghèo càng thêm điêu đứng, suy nhược cả về

thể xác lẫn tinh thần. Tuy nhiên, trải qua bao sóng gió dập vùi, ở người lao động

vẫn sáng lên những phẩm chất đáng quý, đó là khát vọng hạnh phúc, tình cha

con, nghĩa vợ chồng, tình bè bạn, xóm làng. Đó là những cái phao tinh thần họ

còn giữ được để giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn. Nhà văn đã thể hiện niềm tin

vào bản chất tốt đẹp của những con người lao động lương thiện. Tư tưởng nhân

40

đạo này, ta đã từng thấy trong sáng tác của Nam Cao, Ngô Tất Tố. Phẩm chất

cao quý của người lao động luôn là điểm nhấn làm nên giá trị của tác phẩm.

41

2.1.2. Người lao động bị tha hóa bởi hoàn cảnh

2.1.2.1. Phu kéo xe

Xe kéo là một phương tiện giao thông “hiện đại” đã theo chân thực dân

Pháp vào Việt Nam, đầu tiên ở Hà Nội vào cuối thế kỉ XIX. Từ chiếc xe tay

đầu tiên do công sứ Bonnal đem về từ Nhật Bản, số lượng xe tay ngày càng

tăng lên, đến năm 1901, Hà Nội có tới 728 chiếc và như thế cũng có từng ấy

người phu xe. Khái niệm “anh xe” đã xuất hiện cùng với những chiếc xe kéo

như vậy. Vấn đề đời sống của tầng lớp phu xe kéo cũng từ đó trở thành đối

tượng quan tâm của văn học. Truyện ngắn Người ngựa, ngựa người (1931) của

nhà văn Nguyễn Công Hoan khi ra đời đã gây xúc động mạnh ở độc giả về một

bộ phận dân nghèo thành thị mới xuất hiện trong xã hội Việt Nam đương thời.

Đến năm 1932, khi phóng sự Tôi kéo xe của nhà báo Tam Lang được trình làng

thì vấn đề đời sống tầng lớp phu kéo xe đã được đặt ra, tác động đến không chỉ

người đọc mà còn là nhà quản lý, nhà xã hội học.

* Nỗi cơ cực của phu kéo xe

Trong vai một người phu kéo xe mới vào nghề, Tam Lang trải nghiệm

những nỗi cơ cực của phu xe. Đồng thời, ông đã lân la bắt chuyện, làm quen

với một phu xe lành nghề là anh Tư S, chứng kiến nơi ăn chốn ở và lắng nghe

câu chuyện của cuộc đời làm cu-li xe của anh. Mới hay, phu xe kéo là kiếp

“người ngựa” khổ nhục, cái ăn - ở - mặc đã thiếu thốn mà việc làm thì cực nhọc,

lại thường xuyên bị đánh đập thậm tệ nếu không đủ tiền nộp thuế.

Theo chân một phu xe, tác giả biết được rằng nơi ở qua đêm của họ là

bãi Cơ – Xá – Nam – cái tổ của một bọn người nghèo khổ, “cái sọt rách chứa

đầy rác rưởi dưới chân những dinh thự nguy nga” [45; tr. 32], trong những

“gian nhà lá vách xiêu cột vẹo”[45; tr. 32]. Thức ăn của họ là những món “lợm

lòng” như món “sáo bò”, “cá rán”, “đậu phụ rán”, “giả cầy” của một hàng cơm

“tối mà thấp như cái hang chuột” [45; tr. 30]. Bát canh sáo bò ngùn ngụt khói,

42

nóng sốt kì thực chỉ là một bát canh đục ngầu như nước cống với “mấy khoanh

lòng bò lều bều nổi như xác chết đuối dưới mấy đám hành răm”[45; tr. 30], chỉ

mới và vào miệng mà “dạ dầy…nó đi một mạch từ bụng lên cổ”[45; tr. 30].

Quần áo họ mặc là loại quần áo cũ kĩ, đặc mùi chuồng ngựa – mùi mồ hôi sà

vằn. Đó là mùi mồ hôi của hàng trăm người nó đã ăn chết vào những sợi vải

kinh niên thỉnh thoảng mới được rũ giặt một lần, mà có giặt, chắc cũng chỉ ngã

qua vào chậu nước [45; tr. 20]. Trời nắng hay mưa thì phu kéo xe cũng chỉ có

độc một chiếc nón lá ba đồng xu trên đầu, lúc nào cũng dùng đến. Ngôn ngữ tả

thực có chút cường điệu của Tam Lang đã cho thấy đời sống vật chất của những

cu-li kéo xe đều ở mức dưới đáy, không đáng là của một con người.

Vật chất thiếu thốn nhưng họ phải làm việc cật lực, vất vả, kiếm được

bát cơm mà như chan cả mồ hôi, nước mắt. Chỉ một cuốc xe mà Tam Lang đã

thấy “như mất hết thịt ở hai gót chân, chỉ còn trơ cái xương nhói buốt”, “miệng

thở, mũi thở rồi đến cả tai cũng thở”, “mồ hôi thì toát ra như mồ hôi trõ” [45;

tr. 23]. Vậy mà phu kéo xe phải kéo bao nhiêu cuốc một ngày? Bao nhiêu ngày

một tháng? Bao nhiêu tháng một năm? Đấy là còn chưa kể những cuốc kéo xe

mà cảnh tượng nhìn thấy là một nghịch lí: một phu kéo xe gầy ốm kéo trên xe

là một anh chàng béo như con trâu trương và bốn đứa con, hay một cu-li hai

chân như hai ống sậy kéo một ông vai so, đầu mượt, to lớn như Hộ pháp, nằm

sõng sượt trên chiếc xe đi giờ….với cái giá 15 xu một giờ. Khi đích thân cầm

hai chiếc càng xe mà kéo, nhà báo Tam Lang mới hiểu rõ sự mệt nhọc của kiếp

phu xe, để rồi rút ra một nhận định: Nếu “Quả ở xứ nóng, quả chín sớm” thì

“Người làm cu-li xe kéo, người chết non!” [45; tr. 27].

Vì xe bánh sắt nên trọng lượng của xe rất nặng, nhất là với phu trung

tuổi. Sau này, có loại xe bánh cao su, nhẹ hơn chút nhưng phu xe vẫn phải dùng

đến sái thuốc phiện mới đủ sức kéo. Trong thiên phóng sự Tôi kéo xe, Tam

Lang cũng đã ghi lại lời kể của anh Tư S về món canh đen của mụ Cai-Đen –

một món canh được nấu từ trăm thứ bà dằn và một thứ gia vị “đặc biệt” là sài

43

sảm – sái thuốc phiện đen như than. Món canh đen 5 xu một bát này vì thế là

cứu cánh của những cu-li mắc nghiện mà chưa có tiền hút, đồng thời giúp phu

xe dai sức mà kéo. Tuy nhiên, nghiện canh đen thì không chết về chứng nọ

cũng chết về bệnh kia, “nước da đen đi, hai mắt chũng vào, cổ thì ngẳng ra,

ăn không được, ngủ không được, đến lúc đi ra máu loãng như nước vỏ nâu là…

về, về với ông bà ông vải”[45; tr. 64]. Phu xe dùng sái thuốc phiện để có sức

kéo, kéo xe để có tiền dùng sái thuốc phiện… Giữa cái vòng luẩn quẩn ấy,

người phu xe chỉ còn nước…chết non.

Nếu chỉ cực nhọc mà kiếm được tiền, dù là vài ba hào ít ỏi thì cũng đã là

may đối với những phu xe. Kiếp cu-li còn gặp nhiều tình huống éo le ứa nước

mắt hơn nữa. Đó là những cuốc “xe xoay” (xe chạy xoay quanh để xoay tiền),

“xe măng-ca” (xe kéo những thằng chết đường). Anh mang thân “người ngựa”

lại kéo phải chị mang kiếp “ngựa người”, đang tìm cách “bắt khách” mà không

được thì chỉ còn nước ứa nước mắt mà khóc.

Nỗi cơ cực của những kiếp cu-li xe không chỉ có mồ hôi và nước mắt mà

bát mồ hôi còn pha máu của người. Thời điểm đó, vì cho thuê xe tay mang lại

nhiều lợi nhuận nên thuế xe tay cũng tăng cao, gấp 2,5 lần thuế đánh vào lò mổ

và chỉ kém tí chút thuế chợ. Cho nên, phu xe thuê xe để kéo sẽ phải chịu khoản

thuế nộp rất cao cho nhà xe, có khi số tiền kéo không đủ nộp thuế. Phu xe thiếu

thuế sẽ phải nhận một trận đòn “thừa sống thiếu chết” từ những tên cai xe thiếu

tình người. Có anh phu xe thiếu thuế 2 hào mà bị đánh đập đến nỗi phải gục

xuống, “máu ở lỗ mũi ồng ộc đổ ra như hai vòi nước, đọng thành vũng trên

sàn gạch”[45; tr. 29]. Còn Tư S vì thiếu thuế, phản kháng lại cai xe mà bị một

trận đòn hội chợ ở nhà cai Đ.“Giam tôi vào một gian buồng hẹp, trói ghì cánh

khuỷu tôi lại, bốn thằng nó chuyền tay nhau đấm đá. Đá chán, chúng nó thay

lượt nhau túm tóc lật ngửa mặt tôi lên mà vả, rồi lại buộc thừng vào chỗ trói

cánh khuỷu, mà giật tôi lên xà nhà” [45; tr. 55] đến nỗi khi được thả ra chỉ còn

44

là “một bộ xương rũ với một đống rẻ rách”, ốm mất 12 ngày và gia đình khánh

kiệt vì thuốc thang.

Văn học Việt Nam mấy chục năm đầu thế kỉ XX có nhiều tác phẩm viết

về đời sống của những người dân nghèo – những con người ở đáy cùng xã hội

như các tác phẩm của Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan… Họ đa

phần là nông dân bị dồn vào con đường cùng không lối thoát. Từ góc độ lịch

sử, xã hội, ta biết rằng, chính một bộ phận những con người bần cùng ở nông

thôn này đã tìm ra đô thị, đi theo sự vẫy gọi của ánh sáng kinh thành những

mong gặp vận may để thay đổi cuộc đời. Nhưng họ biết đâu lại phải“chết đói

một lần thứ hai” khi hoặc là thất nghiệp, hoặc phải làm phu kéo xe, người đi

ở…với những cơ cực trăm bề, vật chất thiếu thốn mà thân xác bị hành hạ.

* Những ngón nghề và sự tha hóa của phu kéo xe

Khi Tam Lang khoác lên mình bộ quần áo xanh cũ để làm phu xe, để

điều tra về cuộc sống của một hạng người thấp bé trong xã hội đô thị thì việc

được gặp gỡ, làm thân với anh Tư S là một điều may mắn đối với tác giả. Vì

Tư S là một phu xe lành nghề, là một kho tư liệu sống về không chỉ những vất

vả, khổ cực của nghề làm cu-li xe kéo mà còn đầy ắp những “ngón nghề” –

những kinh nghiệm mà anh đã tự đúc rút ra sau 12 năm lăn lộn để kiếm sống.

Bên hến thuốc phiện, anh Tư S không giấu giếm mà truyền lại một cách chân

thành những “kĩ thuật hành nghề” phu xe như bài thuốc giảm đau nhức cơ bắp,

cách kéo xe sao cho đỡ mệt và đặc biệt là bí kíp“kéo xe cũng phải biết đến cả

bụng của người ngồi xe”, chân chạy nhưng cái đầu phải nghĩ, phải biết bụng

của khách, biết ý của khách thì xin thêm một đồng hào không lấy gì làm khó.

Hãy nghe kinh nghiệm của anh Tư S: “Kéo ông già thì phải ếp cho nhiều, chạy

cho chậm; kéo ông Tây, phải chạy cho khỏe, tối, có chậm thắp đèn cũng đừng

sợ; kéo tiểu thư công tử thì phải chạy cho ngênh ngang… Nghĩa là cứ tùy mặt

khách mà làm…”[45; tr. 44, 45]

45

Mỗi nghề đều có những “bí kíp” riêng và nghề làm phu kéo xe cũng vậy.

Những ngón nghề ấy là một thứ phương thức hữu hiệu giúp họ có thể tồn tại

với cái nghề cực nhọc này. Tuy nhiên, không phải phu xe nào cũng được sống

yên thân với cái nghề dưới đáy ấy. Phóng sự Tôi kéo xe của nhà văn Tam Lang

còn phản ánh một thực trạng nữa, đó là: sự bất công của xã hội cùng sự bóc lột

giữa người với người đã khiến con người bị tha hóa; là đạo đức bị đồng tiền

đạp đổ. Tư S là một minh chứng điển hình. Từ con trai của một thầy đồ, Tư S

bị người khác hãm hại mà nhà cửa tan nát, chịu cảnh tù tội, ra tù phải làm phu

xe kiếm sống. Tuy làm việc cực khổ, anh vẫn sống trong sạch, đàng hoàng,

nhưng chỉ vì dám kháng cự lại bọn cai xe tàn nhẫn mà anh bị chúng đánh đập,

hành hạ dã man đến nỗi suýt bỏ mạng. Sau trận đó, anh biến thành một người

khác: vừa làm phu xe, vừa làm ma cô chăn dắt gái, ăn chơi, nghiện ngập, lừa

đảo… Xót xa thay khi nghe lời tâm sự của Tư S: “Thế là những việc trước kia

tôi cho là khốn nạn, tôi đã dúng tay làm cả. Làm mà không hối hận. Mà hối

hận cũng không có nghĩa gì”. [45; tr. 57] Anh Tư S trở thành một “con cáo áo

xanh”, trước mắt chỉ trông thấy một vật, là tiền, “ngoài đồng tiền, không còn

có cái gì hơn. Nhân, đức, lễ nghĩa… vứt đi, vứt đi hết”[45; tr. 57]. Anh thông

thạo đủ các mánh khóe của một ma cô nhà nghề, không chỉ “láu” mà còn “bịp”,

đứa thì lừa giắt dụ dỗ, đứa thì dọa nạt, đứa lại “khấu bộp”, đứa phải “thuốc”…

Những “thuật ngữ nhà nghề” của một tay ma cô già đời được nói ra từ miệng

anh Tư S một cách thông thạo, trôi chảy và không chút ngượng miệng. Một con

người từng đau khổ vì bị vu oan bắt bỏ tù, từng cảm thấy xấu hổ khi chỉ vì ba

bát cơm hẩm với mấy ngọn rau muống không đáng năm xu mà người ta chửi

bới đến tổ tiên nhà mình thì nay “nghiện thuốc phiện… ăn nói đểu cáng, vạch

quần đứng đái vào chân ngay giữa phố không thẹn, vừa chạy xe ngoài đường

vừa đánh trung tiện không ngượng…”[45; tr. 56]. Một con người từng được

học chữ thánh hiền và đề cao nhân nghĩa thì nay quan niệm “Đời bây giờ chỉ

có tiền, trinh tiết mà làm gì, nhân nghĩa mà làm gì, tiền! Chỉ có tiền là hơn cả”

[45; tr. 61]. Thế mới hay rằng, sự bóc lột tàn nhẫn giữa người với người không

46

chỉ làm kiệt quệ sức khỏe của một con người, đẩy họ vào ngõ cụt mà còn làm

xói mòn cả nhân cách của họ, đẩy họ thêm một bước, đến cái chỗ không còn

được là con người theo đúng nghĩa.

* Đề xuất của Tam Lang

Thấu hiểu nỗi khổ nhục của phu kéo xe cũng như sự tha hóa nhân cách

của một bộ phận những con người làm cái nghề “người kéo người”, Tam Lang

đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh xã hội và đưa ra lời đề xuất bỏ hẳn xe kéo,

thay thế dần loại xe kéo người thành xe đạp người, bởi lẽ “người đạp xe cho

người, coi nó lịch sự mà có vẻ nhân đạo hơn, vì người đạp cũng được ngồi,

không phải co hai chân, cắm cổ cắm đầu mà chạy” [45; tr. 68]. Ông cho rằng,

cái nghề người ngựa này “có nhục đến quốc thể” nên phải “giết chết nó đi mà

phải giết ngay vì nó sống ngày nào còn để nhục cho mình ngày ấy” [45; tr. 69].

Loại xe đạp người mà Tam Lang đề xuất chính là chiếc xe xích lô như bây giờ

và ước nguyện của ông đã thành hiện thực khi hơn 10 năm sau, ở Hà Nội đã

không còn một chiếc xe kéo nào. Phóng sự Tôi kéo xe của Tam Lang đã góp

phần làm thay đổi một phần xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.

Cuộc đời, số phận, phẩm chất của tầng lớp phu kéo xe đã được nhà báo

Tam Lang điều tra và thể hiện chân thực, đậm nét trên trang giấy. Thiên phóng

sự của ông vì thế không chỉ làm xúc động người đọc mà còn tác động đến cá

nhà quản lí, nhà xã hội học đương thời.

2.1.2.2. Người đi ở

Không phải đến phóng sự đời sống của những kiếp đi ở mới được phản

ánh trong văn học. Từ văn học bình dân, nỗi cơ cực của kẻ đi ở đã được tác giả

dân gian thể hiện dưới hình thức những bài ca than thân hay những câu chuyện

cổ tích. Người đi ở than thân: “Cơ khổ cho đứa giữ trâu / Ăn quán nằm cầu khóc

mẹ kêu cha / Hai hàng nước mắt nhỏ sa / Cách sông trở hói biết nhà mẹ đâu?”(ca

dao). Hình ảnh anh Khoai (Cây tre trăm đốt), Sọ Dừa (Sọ Dừa) chính là sự thể

47

hiện những cuộc đời đi ở. Đến văn học hiện đại, ở thể loại phóng sự, số phận

người đi ở được thể hiện với những nét mới, mang tính thời sự.

Xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XX đã diễn ra sự phân hóa giai cấp sâu sắc.

Cuộc sống hào nhoáng, tráng lệ của phố phường đối lập gay gắt với cảnh tù

túng, nghèo khổ của dân nghèo thành thị. Nếu như những kiếp phu xe chấp

nhận làm công việc “người kéo người” vô cùng nặng nhọc để kiếm mấy xu lẻ

thì những kiếp đi ở cũng phải chấp nhận muôn ngàn nỗi cay cực, kể cả việc bi

chủ bạc đãi, chửi rủa, hãm hại để nhận đồng lương rẻ mạt.

Phóng sự Cơm thầy cơm cô của Vũ Trọng Phụng là một cuộc điều tra

sâu sắc đến tận chân tơ kẽ tóc về thân phận của những kiếp tôi đòi trong xã hội

Việt Nam những năm 30, 40 đầu thế kỉ XX. Học tập Maryse Choisy khoác áo

con đòi để viết nên thiên phóng sự “Carnet d’une femme de chambre 1933”,

Vũ Trọng Phụng cũng nuôi tóc dài, khoác lên mình bộ quần áo rẻ tiền của

những kẻ đi ở để viết thiên phóng sự về nghề cơm thầy cơm cô.

* Những cảnh ngộ bi kịch của kiếp “cơm thầy cơm cô”

Theo sự điều tra của Vũ Trọng Phụng thì người đi ở hầu hết là những

người dân quê nghèo, họ đã “bỏ những nơi đồng khô cỏ héo đến đây để chết

đói một lần thứ hai sau khi bỏ cửa bỏ nhà” [47; tr. 737]. Họ góp mặt vào đám

chợ người ở các phố Hà Thành mà chưa biết khi nào mới có việc làm khi mà

“hàng ế”, người lại cứ thêm mãi. Ế ẩm ở chỗ chợ người thì tất nhiên họ không

còn xu mà lo chỗ ăn nghỉ, chỉ còn nước qua đêm ở “đằng sau” của các hàng

cơm, cái nơi bẩn thỉu mà hôi hám, màn trời chiếu đất. Trong số họ, có người

rơi vào cảnh vỡ đê, trôi cả nhà cửa, trâu bò đến nỗi vợ đi làm vú em còn mình

dấn thân đi ở; có thằng bé bố chết, mẹ đi lấy chồng, ở với người cô ruột giàu

có nhưng bị chửi nhiều quá nên phải bỏ mà đi ở; có bà lão dắt ba đứa cháu nội

ra Hà Nội tìm bố làm phu kéo xe mà tìm mãi không thấy; có thằng bé bị mẹ bắt

đi ở thuê; lại có thằng nhỏ mới chỉ độ 8 tuổi, chẳng biết gì cả cũng đem thân đi

ở… Mỗi người một số phận, một cảnh ngộ nhưng họ chung nhau ở cái nghèo,

48

đã đi đến đường cùng. Họ đã như con thiêu thân, bay vào đống lửa, cho nên

mới bị quáng mắt về những ánh sáng của kinh thành.

Trong xã hội Việt Nam những năm 30 của thế kỉ XX, khi mà sự phân

hóa giai cấp ngày càng rõ rệt, đạo đức bị băng hoại và đồng tiền lên ngôi thì

những kiếp con sen thằng quýt bị chủ nhà đối xử một cách thậm tệ. Khoác chiếc

áo của một kẻ tôi đòi, ra mặt đàn anh đàn chị trong giới cơm thầy cơm cô, Vũ

Trọng Phụng đã được nghe biết bao câu chuyện về nỗi khổ cực, nhục nhã của

những người đi ở. Câu chuyện về con sen Đũi đã khiến nhà văn phải xúc động,

bàng hoàng. Vì bố làm Lý trưởng mà của cải trong nhà cứ “đội nón ra đi” nên

cái Đũi phải ra Hà Thành làm con sen. Nó mới 13 tuổi nhưng đã bị mụ chủ

thông đồng với một chú oẳn, mụ nhét giẻ vào mồm rồi giữ chân cái Đũi rồi để

cho tên này “hiếp lấy hiếp để”, đến nỗi nó nằm liệt như sắp chết mất nửa ngày.

Nghe cái Đũi kể một câu chuyện bất bình đã xa lắc xa lơ mà tác giả vẫn thấy

nóng cả mặt cả mày như nó đang diễn ra trước mắt vậy. Số phận đi ở của cái

Đũi để lại trong lòng tác giả nỗi trăn trở về bi kịch của những kiếp “con sâu

cái kiến” trong xã hội đương thời. Thật bất bình thay khi cái Đũi là nạn nhân

mà đi kêu oan lại bị người có chức có quyền (ông đội xếp) mắng là vu oan giá

họa. Thì ra, trong xã hội “khốn nạn”, “chó đểu” đó, những người có quyền như

ông đội lại chỉ hiểu cho cái lẽ của giới thượng lưu mà không thấu nỗi khổ của

những kẻ nghèo hèn.

Bi kịch của kẻ đi ở thật muôn vạn nẻo. Có con sen vốn là một cô gái thôn

quê, ra tỉnh làm thuê hầu hạ cho nhà người, phơi quần áo trên bao lan bị điện giật,

trở thành động kinh, rồi nó bị chủ thải ra như người ta vứt một cái vỏ chuối ra

đường. Đi làm cho nhà khác, vì động kinh mà nó làm vỡ một cái lọ quý trị giá cả

trăm bạc. Nó sợ hãi bỏ trốn nhưng bị chủ nhà vu oan là ăn cắp. Có những thằng

bé nghèo khổ phải đi ở kiếm sống. Nó bị chủ nhà lừa, bạc đãi. Chủ bắt nó phải

“gánh đầy ba bể nước, bổ hết hai mươi tạ củi” [47; tr. 764 ] nhưng đến khi mọi

việc đã xong xuôi thì mụ chủ thượng lưu tìm cách kiếm chuyện để chửi mắng suốt

49

ngày, khiến thằng bé không chịu nổi nữa mà phải bỏ. Có những đứa đày tớ bị chủ

nhà đánh chết; có những con sen bị ông Tham hiếp dâm; có đứa ở bị chủ bắt làm

quá sức, người này sai chưa làm xong việc này thì người khác đã lại ới; có thằng

nhỏ đi ở lương tháng chỉ bốn hào mà không bữa nào được ăn no…

Tình cảnh của những thân phận đi ở thật trớ trêu, bi đát. Rời chốn đồng

khô cỏ héo, đi theo sự vẫy gọi của ánh sáng hào quang chốn nghìn năm văn vật,

có lẽ những người dân quê cũng không ngờ ra đến kinh thành, mình bị biến

thành một thứ hàng hóa giữa chốn chợ người để người ta cân lên đặt xuống,

mặc cả từng xu lẻ, nếu có việc thì làm nhiều ăn ít, bị lừa hãm hiếp, bị vu oan,

bị chửi mắng, nếu không có việc thì một ngày kia “sẽ được nằm trong một xó

sân ngửi mùi nước cống, mùi cứt gà và cứt người, nhịn đói nằm co mà nhìn

trời” [47; tr. 755].

* Sự tha hóa của những người đi ở

Có một thực tế là “Con giun xéo lắm cũng quằn”, con người bị đàn áp,

đày ải đến cùng cực sẽ phản ứng lại. Những con sen, thằng nhỏ trong xã hội

Việt Nam những năm 30, 40 đầu thế kỉ XX chẳng có đủ sức mạnh, dũng khí,

vũ khí để làm một cuộc cách mạng, nhưng họ có những cách tự vệ của riêng

mình. Tuy nhiên, vấn đề chúng tôi bàn đến ở đây là: Sự độc ác, keo bẩn của chủ

khiến những người đi ở cũng mất dần sự hiền lành, chất phác của người nhà quê.

Có kẻ trở thành tay anh chị trong giới cơm thầy cơm cô, lừa dối chủ nhà thiện

nghệ, nói xấu chủ nhà như điên bởi chúng thường xuyên bị lăng nhục, bị đối xử

tàn bạo. Hành động tự vệ, báo thù đã khiến họ hoặc trở nên lưu manh, côn đồ,

hoặc trở thành đĩ điếm. Con sen Đũi là một nhân vật điển hình.

Trong vai một tay đàn anh đàn chị trong giới những người đi ở, nhà văn

họ Vũ đã bắt nhân ngãi với con sen Đũi để lắng nghe nó kể về cuốn tiểu thuyết

cuộc đời mình. Vũ Trọng Phụng không chỉ bất bình thay khi nghe cái Đũi kể

về những khổ cực của nó khi mang thân đi ở, mà còn trăn trở về nhân cách của

một con người vốn là một cô gái quê hiền lành trở thành “một ả thiện nghệ

50

trong việc khiêu dâm và mãi dâm”[47; tr. 745]. Bằng một cái nhìn thực tế đầy

chua chát, nhà văn phải thốt lên rằng: “Than ôi! ta đi hiếp dâm người ta là một

tội ác đấy ư? Thưa không ạ! Ta hiếp dâm người… Ấy thế mà có khi đã dậy cho

người một bài học về “thực nghiệp” rất hữu ích và rất chóng có kết quả nữa”

[47; tr. 745]. Cái Đũi đi ở cho nhà chủ thứ hai, một nhà giầu mà vô cùng keo

bẩn, chó đểu, đã bị nhà chủ mắng chửi, bạc đãi thậm tệ. Những hãm hại, những

đau khổ, tủi nhục mà con sen Đũi buộc phải trải qua đã khiến nó có ý muốn báo

thù mới hả dạ và nó đã tìm được một cách báo thù độc ác, đáng khinh: đưa con

trai và con gái của chủ còn đang ở tuổi đi học vào con đường dâm bôn. Cô con

gái 13 tuổi và cậu con trai 12 tuổi của chủ lần lượt bị cái Đũi dựng trò để khơi

dậy lửa tình, mắc vào dâm bôn mà sa đà học hành. Có lẽ tiền chưa phải là mục

tiêu của cái Đũi trong những vụ báo thù trên mà nó muốn cho con gái của chủ

trở thành đĩ rạc, con trai của chủ thành dâm ô, làm bại hoại gia phong, để trả

thù ông bà chủ - kẻ đã chửi mắng vô lí, đã bạc đãi một con sen là nó. Không

dừng lại ở đó, cái Đũi còn muốn “vươn lên” làm một cô đầu chứ không thể suốt

đời là một con sen, để có cơ hội lên làm bà Phán, bà Ký, để trả thù đời: “Rồi

anh xem, con này mà lên làm nhà tơ thì rồi nhiều thằng khổ”[47; tr. 751]. Vậy

là, cái sức ám thị của một cuộc hiếp dâm thật ghê gớm. Nó làm một cô gái quê

“nhị rữa hoa tàn” nhưng ghê gớm hơn, nó khiến cô gái quê muốn trèo cao từ

cái thang tanh hôi đó, để rồi, còn đâu dấu vết cũ của một cô thôn nữ “ngoan

ngoãn, hay làm, có những cái mơ màng bình dị nhưng mà trong sạch” [47; tr.

751]. Cái Đũi từ một cô gái quê sa cơ bị hãm hiếp đến tội nghiệp đã trở thành

“một đứa hư hỏng, giả dối, rất nguy hiểm cho đời”[47; tr. 752]. Nhà văn Vũ

Trọng Phụng đã rất đồng cảm, thương xót cho cảnh ngộ éo le, cơ cực của cái

Đũi, đã rất bất bình khi nghe câu chuyện bất công mà nó là nạn nhân nhưng cũng

không vì thế mà bênh vực cái Đũi khi nó đã bắt đầu tha hóa. Nhà văn nhìn thấy

rõ sự biến chất đang diễn ra trong một con người lao động nghèo khổ, đi từ hiền

lành, chất phác đến tinh ranh, quỷ quái, từ ngây thơ trong sáng đến dâm bôn và

đầy nguy hiểm. Nhà văn cũng thẳng thẳn chỉ ra căn cớ tại đâu dẫn đến sự tha hóa

51

biến chất ấy ở con sen Đũi. Chính sự độc ác, ghê gớm của những ông chủ, bà

chủ đã để lại nỗi căm hận trong những con người mang thân phận con sâu cái

kiến. Sự uất ức, tủi nhục và căm phẫn khi lên đến tột cùng quả thực rất nguy

hiểm, nó có thể đốt cháy kẻ khác nhưng cũng có thể thiêu rụi lương tri, nhân

phẩm của chính người hành động, mặc dù ban đầu họ là nạn nhân, là người hiền

lành, lương thiện.

Đâu chỉ cái Đũi, những ai đã dấn thân làm kiếp cơm thầy cơm cô thì đều

đã từng bị đánh đập hoặc chửi rủa, hoặc lao dịch nặng nhọc mà ăn không đủ no

hoặc là tất cả những cái đó. Nên cũng dễ hiểu tại sao khi những kiếp tôi đòi này

ngồi cạnh nhau, trong một dịp nào đó, họ “nói xấu chủ nhà như điên”. Tất cả

những thói hư tật xấu, những thói tham lam hay dâm uế của chủ nhà như: trưởng

giả học làm sang, con khinh bố, vợ chửi chồng, ăn nói độc địa…đều được phanh

phui bằng lời lẽ uất ức mà khinh bỉ của những con sen, thằng quýt.

Giới cơm thầy cơm cô tưởng chừng đơn giản bởi họ đều là những con

người thật thà chất phác từ nhà quê ra. Nhưng kì thực, những éo le, những góc

khuất thì có vạn nẻo. Thiên phóng sự điều tra của Vũ Trọng Phụng đã mang

đến cho người đọc những sự thật ít được biết rõ về một tầng lớp con người

trong xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XX, cũng qua đó, đưa đến những sự thật về

loài người – có những điều ta tưởng là chuyện bịa và thấy vô cùng kinh ngạc.

2.1.2.3. Gái mãi dâm

Mãi dâm bắt nguồn từ tiếng Latinh là prostituere, có nghĩa là "bày ra để

bán", chỉ việc bán thân một cách tùy tiện, không thích thú. Trong Xã hội học

và Tội phạm học theo nghĩa rộng, mãi dâm có thể được định nghĩa như việc

trao đổi sự thỏa mãn tình dục để lấy tiền hoặc bất cứ một giá trị vật chất nào.

Như vậy, mãi dâm là sự cung cấp hành vi tình dục ngoài phạm vi vợ chồng, là

một hiện tượng xã hội tiêu cực, biểu hiện của sự lệch lạc về chuẩn mực xã hội.

Ở Việt Nam, thời phong kiến, do kết cấu làng xã với hệ thống tôn ti chặt chẽ,

quy chuẩn đạo đức và thuần phong mỹ tục nghiêm ngặt, nên mãi dâm ở Việt

52

Nam dường như không chính thức tồn tại. Các bộ luật Việt Nam thời phong

kiến đều không thấy nhắc đến vấn đề này. Đến thời Pháp thuộc, chính sách khai

thác thuộc địa và sự du nhập kinh tế thị trường dẫn đến ra đời các phố thị. Nhu

cầu mua dâm của thị dân và binh lính dẫn đến mãi dâm xuất hiện và hình thành

các ổ nhiều tầm cỡ. Gái mãi dâm cũng gồm nhiều dạng khác nhau, là các cô

đầu, gái nhảy, gái nhà săm, nhà thổ. Những me Tây cũng thực chất là gái mãi

dâm – một hình thức bán dâm cao cấp hơn mà thôi.

Hiện tượng xã hội nhức nhối này đã được các nhà phóng sự Việt Nam

đương thời quan tâm. Đầu tiên là phóng sự Hà Nội ban đêm (1933) của Thạch

Lam và sau đó là Hà Nội lầm than (1937) của Trọng Lang và Kỹ nghệ lấy Tây

(1934), Lục sì (1937) của Vũ Trọng Phụng. Ở đây, trong phạm vi đề tài, chúng

tôi tìm hiểu về cuộc đời, số phận của những cô gái làm nghề bán thân nuôi

miệng trong thiên phóng sự Kỹ nghệ lấy Tây và Lục sì của Vũ Trọng Phụng.

a. Me Tây

Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam đã dẫn đến những thay đổi lớn trong

xã hội Việt, mà một trong số đó là sự xuất hiện của me Tây - những người phụ

nữ làm nghề lấy Tây, xem đó là một cách để kiếm tiền. Là một nhà báo xông

xáo, muốn tìm đến tận cùng của hiện thực, Vũ Trọng Phụng đã vào tận “hang

ổ” của làng me để tìm hiểu về cuộc đời, số phận và cả những suy nghĩ, tình cảm

của một tầng lớp người có nhiều tai tiếng trong xã hội bấy giờ.

* Những “mẫu hàng” me Tây với “ái tình có hơi đồng”

Trong thế giới me Tây, họ chia chồng Tây ra làm ba hạng: Xi-vin, Cô-lô-

nhần và lê dương. Thiên phóng sự này, tác giả tìm hiểu về hạng thứ ba – hạng

hạ giá nhất – là những người phụ nữ An Nam lấy chồng là lính lê dương. Họ

phần lớn là me Tây hết lứa, cùng đường như bà Kiểm Lâm. Bà này “xuất thân

lấy chồng xi-vin hẳn hoi. Sau chồng về Tây, phải giang hồ lưu lạc, lâm đến cảnh

phải đi lấy cô-lô-nhần. Bây giờ thì đến với các anh lính lê dương

53

[47; tr. 689]. Đó còn là những gái quê chán chồng như Duyên, những cô gái đã

bẻ nhị đào cho người tình chung như Tích hay đã mất tân với ông chủ và bị bà

chủ đuổi ra như Ái. Họ đã sa ngã, dù tự mình hay bị người khác xô đẩy thì cũng

thế, họ sẽ lại cứ ngã mãi. Tấm thân như ngọc có vết, họ chỉ có nước theo chân

bà Đội Tứ để nhập vào làng “me”, để kiếm một anh lính lê dương làm chồng.

Sau những chuyến dấn thân vào hang ổ của nghề lấy Tây, tác giả đã thu

thập được những “mẫu hàng” khác nhau như thế. Thực là, có muôn nẻo để đến

với cái nghề làm me Tây nhưng họ đều giống nhau ở một điểm: vì tiền. Vũ Trọng

Phụng cũng đã cất công tìm kiếm xem trong làng me có ai lấy Tây vì tình hay

không, nhưng đã công toi, vì hai chữ ái tình thật xa xỉ đối với những người hành

nghề “lấy Tây” này. Họ có thể nói một cách thẳng thắn không chút ngập ngừng:

“Việc gì mà lại chẳng vì tiền?”, “cứ viết phăng rằng chúng tôi lấy họ là vì tiền,

thế thôi!”[47; tr. 705]. Những cuộc nhân duyên có hơi đồng này chỉ là những

cuộc mua bán, anh lính lê dương bỏ tiền để mua thứ đồ chơi nhục dục còn người

phụ nữ kia cũng chỉ lấy anh ta để có tiền ăn mặc, chưng diện với đời. Cho nên,

với những người như bà cai Bu Dích thì “lấy chồng hay bỏ chồng, bà này chỉ

thấy là tậu được một cái chén, hay nhỡ tay đánh vỡ mất mà thôi” [47; tr. 707],

còn Bà Kiểm Lâm - một tay cự phách trong làng me thì nhận lời với cả hai người

(một người lính giá và một anh lính trẻ - Hiếc Tôn), và ai mang tiền đến trước

thì bà lấy. Đến ngay cả cuộc tình giữa Hiếc Tôn và con gái bà Ách Nhoáng,

những tưởng lấy nhau vì ái tình nhưng câu đáp cuối cùng của Hiếc Tôn đã làm

tác giả hết ảo tưởng: “Vả lại, hôm nay là ngày lĩnh lương của tôi!”[47; tr. 728].

Khi những cuộc hôn phối giữa đàn bà An Nam và đàn ông Tây phương chỉ vì

tiền và nhục dục thì những kẻ mối lái cũng nhằm vào đó để kiếm hoa hồng. Gả

chồng Tây cho Duyên – cô cháu gái “trốn chúa lộn chồng”, bà Cẩm đã bỏ hòm

được hai chục bạc tiền hoa hồng. Lại như bà Đội Tứ - một me Tây đáo để ít ai

bì kịp, có tiếng ở Thị Cầu thì bà có thể khẳng định chắc chắn rằng: Nếu Tích

còn tân, đến tay bà dựng vợ gả chồng thì “cái gì chứ vài chục bạc tiền hoa hồng

54

thì dễ như bỡn” [47; tr. 715]. Vậy là, từ đầu chí cuối, ở các công đoạn khác

nhau, những sự kết hợp giữa đàn bà An Nam và đàn ông Tây phương chẳng

qua là “ái tình có hơi đồng” mà thôi.

* “Kỹ nghệ lấy Tây”

Trong Kỹ nghệ lấy Tây, Vũ Trọng Phụng đã khám phá được một sự thực:

lấy Tây là một nghề và làng me có đủ tôn ti trật tự. Làng me là một thứ tổ chức

được hình thành theo luật “mạnh được yếu thua”. Chẳng hạn, ở làng “me” Việt

Trì có bà hoàng hậu Ách Nhoáng. Me nào lên đó kiếm chồng “mà không có

chút chè lá cho bà thì đố ở được”[47; tr. 727]. Dưới quyền “bà hoàng” ấy là

những bà Đội, bà Cẩm, bà Kiểm Lâm – những kẻ có không ít uy quyền trong

chuyện “lá gió cành chim”, gả bán những cô gái mới lên nhập làng cho Tây

như Duyên, Ái, Tích… Và sau đó, nhát búa của me cai Phăng Xoa đã làm cho

cái “ngai vàng” của “bà hoàng” Ách Nhoáng sụp đổ một cách thảm hại. Lần

theo cái tôn ti trật tự ấy sẽ thấy bao nhiêu vấn đề trong nội tình của cái làng

“me”.

Tiêu đề phóng sự Kỹ nghệ lấy Tây có phần “giật tít” nhưng nó đã nói

đúng một sự thực: Lấy Tây thời buổi đó là một “nghề” thực thụ còn Vũ Trọng

Phụng chỉ làm động tác đặt cho nó một cái tên mà thôi: nghề lấy Tây. Tính đến

thời điểm nhà văn họ Vũ viết thiên phóng sự này thì nghề lấy Tây đã có lịch sử

phát triển với những bước thăng trầm của nó. Tổ sư của nghề là bà Đội Chóp,

người đã“có can đảm đánh trống ra lệnh cho chị em hậu sinh chúng tôi không

nơm nớp lo sợ những ông khổng lồ tóc đỏ mắt xanh… cứ “lấy bừa đi”, “đừng

đắn đo suy nghĩ”[47; tr. 706]. Cũng vì đã có bề dày “truyền thống” như thế nên

nghề lấy Tây có những công đoạn đã được “chuyên môn hóa” (cách dùng từ

của Hoài Thanh): có hẳn một lớp “thợ già” như bà Ách Nhoáng, bà Kiểm Lâm,

bà Đội Chóp, … chuyên tiếp nhận và giúp sửa sang dung nhan cho những “cô

thợ trẻ” như Duyên, Ái, Tích…, truyền dạy cho họ những chiêu thức, mánh

khóe – những ngón nghề cần thiết để hành nghề. Sự cạnh tranh trong nghề lấy

55

Tây cũng rất dữ dội. Họ “gièm pha”, “phá giá”, “hớt tay trên” nhau. Luật “cung

cầu” cũng chi phối mạnh mẽ cái “thị trường” me quái gở này, cuốn hút cả những

khách hàng (là đám Tây lê dương đủ mọi quốc tịch khác nhau) vào những pha

đụng đầu gay gắt, chẳng khác nào một cuộc giáp chiến giữa “Sơn Tinh và Thủy

Tinh” trong huyền thoại.

Vì lấy Tây là một nghề để kiếm xu nên cái cô thợ cũng có đủ những bí

quyết để hành nghề. Họ dùng ái tình làm bùa mê, làm cho nhiều gã lê dương

phải “gục ngã”. Phương châm của các me là “cứ gãi về mặt tình cảm là các

cậu bị ngay” [47;tr. 709]. Họ thành công trong những pha giả đánh ghen, hoặc

tỏ ra mình “có một mảnh hồn u uất và một trái tim đau thương” [53; tr. 211]

khi viết những lá thư tình rất “mùi” để tỏ tình, xin tiền. Chính họ cũng đã tự nói

về mình là “ăn gian nói dối như quỷ”[47; tr. 709], cho nên nói với người này

thế nào phải ghi lại để tránh “râu ông nọ cắm cằm bà kia”, “tiền hậu bất

nhất”[47; tr. 709]. Lành nghề như me Kiểm thì hứa với cả hai người lính, ai

mang tiền đến trước thì lấy để tránh mình “thất nghiệp”. Thì ra, phụ nữ làm

nghề me Tây cũng có đầy đủ những mánh khóe, quỷ kế như vậy.

* Những bi kịch của một đời me

Xem qua cung cách “làm ăn” ấy, nghề lấy Tây quả là một “kỹ nghệ”. Tuy

nhiên, sự kiện lấy Tây của những người phụ nữ vong quốc kì thực là một sự cực

chẳng đành, một “nghiệp chướng”. Đằng sau cái “kỹ nghệ” quái gở ấy là cả một

sự đau đớn trăm bề của những kiếp me, phú quý thì “giật lùi” cùng cuộc đời lỡ

dở và cái số phận đầy tủi hờn của những đứa con lai “không Tổ quốc”.

Trước hết phải nói đến một bi kịch đau đớn của những người phụ nữ dấn

thân vào “nghề lấy Tây” đó là có thể phải đón nhận những trận đòn ghê gớm,

bạo tàn từ những kẻ không cùng Tổ quốc. Khi hôn nhân được quyết định một

cách chóng vánh dựa trên cơ sở của đồng tiền và nhục dục thì người đàn ông

và người đàn bà sống với nhau chẳng bao giờ có chữ tình, chữ nghĩa, càng

không thể có tình yêu và tình thương. Không ít trường hợp, không ít lần, me

56

Tây bị chồng đánh đập không thương tiếc. Một người đàn bà yếu đuối mà “trao

xương gửi thịt” cho “những ông khổng lồ tóc đỏ mắt xanh, nói thì oang oang

như gắt, chân tay giơ lên như sự sừng sộ” [47; tr. 706], họ có thể đã từng đâm

chết một vài người trước hoặc trong khi làm lính thì làm gì mà không “nơm

nớp lo sợ”. Một cái tát của họ cũng đủ để khiến một người phụ nữ An Nam bé

nhỏ phải đi đời.

Tuy nhiên, đấy chưa phải là tất cả nỗi khổ của cuộc đời làm me Tây. Khi

cái nghề cần đến một phương tiện là nhan sắc và tuổi trẻ thì đến khi “hết lứa”,

nhan sắc tàn tạ và tuổi trẻ qua đi, người phụ nữ sẽ rơi vào tình cảnh khổ sở,

thảm hại. Cái phú quý của họ là “phú quý giật lùi”. Me Kiểm đã than thở một

cách rất thẳng thắn với tác giả về nỗi khổ tâm ấy của mình. Bà Đội Chóp – tổ

sư nghề lấy Tây đến khi về già con cái chẳng có, “chẳng giàu, chẳng nghèo”,

làm cái việc khóc ma mướn. Bà Ách Nhoáng, từng một thời “thét ra lửa ở Việt

Trì” [47; tr. 723], nhưng theo luật thừa trừ, bà Ách Nhoáng đã bị me cai Phăng-

Xoa biến thành một “bà hoàng hậu mất ngôi”, về già sống cuộc đời nghèo kiết,

“thuở trẻ khá giả bao nhiêu, về già lại càng nghèo túng bấy nhiêu” [47; tr.

726]. Cái nghèo đã khiến bà phát điên, cứ thỉnh thoảng, cơn điên nổi lên, bà lại

lột quần áo cô con gái một và đánh bằng roi mây. Nhiều me lúc về già chỉ có

thể kiếm sống bằng cái nghề “lá gió cành chim”, “ông Tơ bà Nguyệt”, dẫn dắt

mối lái cho những cô gái muốn lấy chồng Tây để kiếm hoa hồng, như bà Đội

Tứ, bà cai Bu-Dích, bà Cẩm.

Làm thiên phóng sự Kỹ nghệ lấy Tây, nhà báo Vũ Trọng Phụng còn muốn

tìm hiểu sâu về một nỗi bi kịch nữa của đời me, cũng là vấn đề nhức nhối đối

với xã hội, đó là số phận của những đứa con lai “không Tổ quốc”. Chúng ra đời

chẳng phải do sự mong đợi của cha mẹ. Nhà văn đã chua chát mà viết ra sự

thực: chúng là kết quả của những cuộc “cẩu hợp” không có sự đề phòng sinh

dục. Con cái thường được quan niệm là “của trời cho”, nhưng điều đó chỉ đúng

với ai thôi, chứ với hạng vợ chồng lấy nhau vì tiền, vì nhục dục này thì “có con

57

là một cái họa”[47; tr. 707]. Bởi vậy, khi ra đời rồi, chúng chẳng được cha mẹ

yêu thương, nâng niu chăm sóc như những đứa trẻ khác. Nếu chúng làm phiền

sẽ bị mẹ mắng chửi như đối với kẻ thù. Vũ Trọng đã được tai nghe mắt thấy

cảnh bà cai Bu-Dích mắng chửi mấy đứa con nhỏ của mình khi chúng quấy rầy

và nhận thấy cử chỉ của bà “như của cai ngục với tù nhân” [47; tr. 707] vậy.

Tác giả cũng đã có dịp được “tâm sự” với Suzanne – một sản phẩm của cuộc

hôn phối giữa Tây và Ta. Cô đau khổ khi sinh ra là kiếp con lai vì “Người Tây

đã không hẳn quý trọng mình, mà người Nam cũng không yêu thương hẳn

mình” [47; tr. 700]. Cô đã đến tuổi trưởng thành nhưng không biết tương lai sẽ

ra sao. Cô không muốn lấy chồng Tây vì “cả cái chân tướng cuộc đời” lấy Tây

ra sao, cô đã nom thấy rõ từ cuộc đời của mẹ mình. Cô cũng không thể lấy

chồng An Nam vì những người sống cuộc đời nề nếp thì đã không có can đảm

hỏi một người lai; còn người gan nhất dám hỏi mình thì chắc chắn gia đình

không công nhận. Thêm nữa, cô cũng đã từng được nghe câu chuyện về một

chàng rể An Nam lấy vợ là con lai chẳng phải vì tình mà chỉ coi nhà vợ là cái

mỏ vàng để đục khoét. Một người hiểu sự đời thì lại càng thêm đau khổ. Nỗi

khổ tâm của Suzanne có lẽ cũng là nỗi niềm chung của những người sinh ra đã

là phận “không có Tổ quốc”.

Có thể thấy, cuộc đời làm nghề “lấy Tây” cũng “lên voi xuống chó”. Họ

cũng tự nhận thấy rằng: “hạng đàn bà chúng tôi là hạng bỏ đi, xã hội không

cần kể đến nữa” [47; tr. 705]. Họ cũng là hiện thân của bao nỗi bi thương của

một đời nô lệ - nô lệ cho đồng tiền, nô lệ cho nhục dục. Tuy cái nghề của họ có

nhiều cái đáng chê cười, đáng giận nhưng rất đáng được cảm thông.

b. Cô đầu, gái nhảy, gái nhà săm

Phóng sự Lục sì của Vũ Trọng Phụng chính là một công cuộc khảo cứu về

nạn mãi dâm, từ lịch sử nạn mãi dâm, lịch sử nhà Lục sì đến những con số đáng lo

ngại về hiện trạng nạn mãi dâm cũng như hậu quả ghê gớm của vấn nạn này. Nhà

văn cũng đã chỉ ra các loại gái mãi dâm với những hình thức và mức độ khác nhau

58

trong xã hội đương thời, bàn bạc về phương hướng đối phó, giải quyết. Ở đây, chúng

tôi giới hạn đi sâu luận bàn về cuộc đời, số phận, đời sống vật chất cũng như đời

sống tinh thần của những gái mãi dâm – một tầng lớp dưới đáy trong xã hội Việt

Nam những năm 30, 40 của thế kỉ XX.

* Lực lượng đông đảo

Theo sự điều tra của Vũ Trọng Phụng, Hà Nội “ít ra cũng có năm nghìn

gái sống về nghề mãi dâm” [47; tr. 771], ấy là còn chưa kể đến bọn ả đào và

gái nhảy ở các vùng ngoại ô. Trong thiên phóng sự “Thanh niên trụy lạc”, nhà

văn Nguyễn Đình Lạp cũng cung cấp những con số mà chỉ xem qua đã đủ giật

mình: dân số Hà Nội có 18 vạn người mà có 5000 người làm nghề mãi dâm –

“5000 cuộc đời vứt bỏ, 5000 tấm linh hồn vất vưởng như ngọn đèn trước

gió”[45; tr. 210 ] Một đất Hà Thành, về mọi phương diện, không thể “to” bằng

một phần mười Paris mà về số người làm đĩ thì lại gần được bằng một phần

mười. Một phép so sánh đơn giản nhưng cũng đã đủ để cho thấy số gái đĩ ở Hà

Nội nhiều đến mức nào, nạn mãi dâm hoành hành ghê gớm đến mức nào.

Gái mãi dâm với lực lượng “hùng hậu” như vậy được chia thành hai

hạng: “giống da vàng, giống da trắng” [47; tr. 830]. Giống da vàng gồm: gái

đĩ có giấy, gái đĩ lậu, cô đào, gái nhảy ở các tiệm khiêu vũ và me Tây. Giống

da trắng gồm đầm lai và đầm thật. Nhà văn Vũ Trọng Phụng đã kì công tìm

hiểu về từng loại một cách cụ thể để viết ra cho độc giả rõ về đặc điểm của họ.

Gái đĩ có giấy “là hạng đĩ có môn bài, phải chịu mọi luật lệ nói rõ trong đạo

nghị định ngày 3 Février 1921” [47; tr. 831], gồm hai hạng: hạng ở chung trong

nhà số đỏ và hạng “cầm giấy riêng” tiếp khách tại nhà. Gái đĩ lậu thuộc đủ mọi

giai cấp khác nhau trong xã hội, nhưng phần nhiều là hạ lưu. Nhóm này gồm

có đĩ nhà nghề và đĩ lâm thời - nghĩa là làm đĩ vì bần cùng trong chốc lát, nhưng

chẳng bao lâu cũng sa vào đĩ nhà nghề mà thôi. Những cô đầu - ả đào xưa kia

oanh liệt, là đối tượng tìm thú vui tao nhã của những sĩ phu, thì giờ đã bị xem

là “nguồn gốc đích xác trong nạn phong tình gieo vào gia đình người Việt Nam

59

lương thiện” [47; tr. 835]. Gái nhẩy – thứ hóa sản của cuộc Âu hóa cũng nhanh

chóng trở thành đệ tử chính thức của thần Bạch My. Với họ, “nhảy đầm chỉ là

một phương sách lấy cớ mỹ thuật để cho họ bán mình một cách dễ dàng hơn và

đắt hơn” [47; tr. 839] mà thôi. Còn các me Tây cũng được liệt vào hàng gái

mãi dâm lậu thuế, vì về bản chất, “nghề lấy Tây” cũng chẳng khác nghề mãi

dâm là mấy. Bên cạnh những gái mãi dâm người Nam còn có những gái mãi

dâm mang trong mình dòng máu Tây. Những cô đầm lai “bị người này chểnh

mảng, bị người kia khinh bỉ” [47; tr. 841] và họ bị lôi cuốn vào nghề mãi dâm,

phần đông là mãi dâm lậu thuế. Những cô đĩ đầm thật ở Hà Nội cũng không

phải không có, nhưng hầu hết là đĩ đầm lậu thuế, gồm đĩ đầm thực thụ và đĩ

đầm bất thường.

Những con người ấy là những “con thiêu thân”, trở thành những “cô thợ”

của cái “kĩ nghệ mãi dâm” ở đất Hà Thành nghìn năm văn vật, là những “chủ

thể” gieo rắc bệnh hoa liễu trong dân chúng. Họ có một lực lượng đông đảo mà

nhà cầm quyền không phải lúc nào cũng quản lý hết. Những gái mãi dâm bị

giam trong nhà Lục sì chỉ là con số 200, nhưng những gái đĩ lậu bên ngoài là

con số 5000. Tại sao ở đất Hà Thành văn hiến, lực lượng “gái đĩ” lại hùng hậu

và đa dạng đến vậy? Nhà văn Vũ Trọng Phụng đã tìm hiểu từ nhiều nguồn để

đưa đến cho độc giả những lời nhận xét. Chính “cái làn sóng văn minh vật chất,

nghĩa là cuộc Âu hóa của thanh niên nam nữ”[47; tr. 844] là một nguyên nhân

quan trọng. Những tinh hoa của đạo Phật, đạp Khổng, đạo Lão đã không còn

nhiều ý nghĩa trong các gia đình người Nam, luân lý gia đình không còn bền

vững, nên không thể ngăn ngừa sự suy đồi của phong hóa, mỹ tục.Thêm nữa,

“cái máu tham tiền rất ghê” là một ngọn gió đưa đường dẫn đến “mọi sự suy

đồi về đức hạnh ở người đàn bà”[47; tr. 844]. Những gái mãi dâm, mỗi người

có một “cuốn thiểu thuyết của họ” với một cách “vào nghề” khác nhau nhưng

đều vì một chứ “tiền”. Cái “ái tình có hơi đồng” đã khiến họ trở thành những

60

cô thợ của cái “kĩ nghệ mãi dâm”, góp phần làm nên cái lực lượng đông đảo

trên 5000 gái đĩ ở đất Hà Thành.

* Những “ngón nghề” và sự tha hóa của gái mãi dâm

Khi mãi dâm là một nghề, ái tình giả hiệu là một phương cách để kiếm

tiền, thì người hành nghề - gái đĩ cũng dần hình thành những kĩ năng, những

“ngón nghề” cần thiết. Cái công cuôc kiếm sống bằng thân xác khiến họ trở nên

trơ trẽn, thậm chí tha hóa. Những gái này, “mỗi ngày mười lần bán phá giá ái

tình” [47; tr. 813], đâu có thể trung thành, chung thủy với ai, mặc dù họ vẫn

luôn miệng ngọt ngào và hứa hẹn với tình nhân. Một thiếu nữ “lãng mạn”, là

con gải chủ nhà trọ đã quyết “một chữ đồng” với một thiếu niên trọ trong nhà

mình nhưng cũng là người “đã vào bốn nhà săm khác nhau với bốn chàng

thanh niên khác nhau trong khoảng mười một tháng nay”[47; tr. 862]. Tình

yêu vốn cao quý và thiêng liêng, nhưng với gái mãi dâm, đó chỉ là “lời nói đầu

môi” để kiếm tiền. Cùng vì tiền, rất nhiều bà, nhiều cô đã có chồng nhưng

chồng ít lương, không đủ cung ứng cho cái thú ăn chơi bài bạc, mua sắm của

mình nên đã giấu chồng “đi ngang về tắt” với một hoặc nhiều anh chàng nào

đó. Phụ nữ Việt Nam xưa kia nằm trong cái vòng cương tỏa của tam cương ngũ

thường, đức hạnh của họ là “công, dung, ngôn, hạnh”, là “tại gia tòng phụ,

xuất giá tòng phu”, nhưng nay, dưới ảnh hưởng của phong trào Âu hóa, trước

sức cám dỗ của đồng tiền, những cái đức hạnh ấy đã bị thổi bay, những phẩm

chất tốt đẹp đã bị tha hóa, biến chất.

Nhờ một cuộc điều tra, nhà văn họ Vũ biết rằng, cứ đến ngày thứ tư và

thứ 6 – ngày phiên, gái đĩ có giấy và gái đĩ lậu phải đi khám ở nhà Lục sì. Cái

cảnh tượng đi khám Lục sì phần nào cho thấy những “thủ đoạn” và sự tha hóa

biến chất ở gái mãi dâm. Họ dường như không còn là phụ nữ, mà là “đám đàn

bà yêu tinh”[47; tr. 813]. Đi khám Lục sì nhưng họ vẫn tìm đủ mọi cách để giấu

bệnh, vì không muốn bị giam lại nơi này. Những cách giấu bệnh của họ, chỉ

nghe đến thôi cũng đã thấy “lợm giọng”: có thị rửa âm hộ bằng nước ấm pha

61

phèn; có thị hút vài điếu thuốc phiện trước khi đi khám; có thị rửa âm hộ bằng

nước lá trầu không; có thị đổ thứ tiết lợn chưa đông vào âm hộ, vờ là có kinh

nguyệt; lại có thị bị bệnh nặng phải rửa bằng nước pha phèn thật đặc, rồi rắc

một thứ bột được làm từ phèn và đồng kẽm tán nhỏ. Ở một góc độ nào đó,

những cách giấu bệnh tinh quái mà gái mãi dâm đã nghĩ ra và thực hiện đủ cho

thấy sự ranh ma, biến chất ở nhóm người này. Họ trốn tránh không muốn bi

giam trong nhà lục sì chẳn qua vì sợ “thất nghiệp”, không có xu tiêu chứ không

vì sợ phải cầm giấy, vì với họ việc cầm giấy hay không cầm giấy, đĩ có môn

bài hay đĩ lậu cũng không khác gì nhau. Dù chưa cầm giấy thì họ “cũng đã sẵn

có cái linh hồn của gái thanh lâu rồi” [47; tr. 856]. Cho nên, việc phải cầm

giấy không còn là một tai nạn nhỏ nữa. Mới hay, khi đã làm gái đĩ, cái phần

nhân cách con người đã bị tha hóa, họ cũng không thiết tha với việc giữ cho

mình một con đường “hoàn lương”.

Với những thị bị giam trong nhà Lục sì, khi chỉ là những gái đĩ với nhau,

sự thô lỗ, tục tằn của họ được lộ rõ hơn bao giờ hết. Họ là những nữ sinh rất

đặc biệt của “Vệ sinh nam nữ giao cấu học đường”, là đám học trò bất trị. Họ

đã một lần xúm nhau lại đánh bà đầm dạy học khâu, “ăn gian nói dối như quỷ,

ngoan ngoãn đấy nhưng chửi sỏ lại thầy ngay đấy, giở mặt như bàn tay” [47;

tr. 821]. Bọn ma cũ thì bắt nạt, đánh đập ma mới một cách thậm tệ. Những sự

tha hóa biến chất của gái mãi dâm khiến nhà văn vô cùng trăn trở.

* Nỗi bi kịch của gái mãi dâm

Khi viết phóng sự Lục sì như một cuộc khảo cứu về nghề mãi dâm, nhà

văn Vũ Trọng Phụng không chỉ thấy được hiện trạng một vấn nạn trong xã hội

Việt Nam đương thời với những con số cụ thể mà còn nhận ra bi kịch cuộc đời

của những phụ nữ “bán trôn nuôi miệng”.

Gái bán dâm, đã đành là làm đĩ vì tiền, nhưng kì thực cuộc sống của họ

trong nhà số đỏ vô cùng nghèo khó. Ngoài hai bữa cơm hàng ngày, họ không

được nhận một xu tiền công của chủ. Cho nên, hình ảnh của họ khi đi khám ở

62

phúc đường là “cái nghèo đói hoàn toàn rách rưới, bệ rạc” [47; tr. 831]. Cái

phần tiền thưởng của khách làng chơi chỉ là một vài hào, nhưng họ còn phải lo

“có quần, có áo, có cái kiềng giả, cái khăn nhung”[47; tr. 813] để kiếm khách.

Đó là lí do vì sao họ dẫu có bệnh hoa liễu cũng tìm mọi cách giấu bệnh để được

tiếp tục “hành nghề”. Họ phải dùng đến những biện pháp mà chỉ nghe đã thấy

rợn người như đã nói ở trên. Vì vậy, từ một góc độ nào đó, ta thấy họ là “đàn

bà yêu tinh”, ma lanh, nhưng đứng từ góc độ khác sẽ thấy họ cũng thật đáng

thương. Bản thân họ cũng không muốn mang thứ bệnh nguy hiểm ấy vào người.

Nhiều lúc, họ bị rơi vào hoàn cảnh nếu không sẵn lòng tiếp khách thì “nó bóp

cổ con chết mất” như Thị Tý, mà “nó” ở đây là một thằng da đen.

Nhà văn họ Vũ đã rất xót xa khi ghi lại lời của ông Abadie–Bayro – một

thầy thuốc nhà binh về tình cảnh thảm đạm của một “vết thương xã hội”. Thật

chua chát khi phải tưởng tượng cái cảnh 10-15 gái đĩ lậu – “những người đàn

bà đủ các thứ tuổi, quần áo lam lũ, rách rưới, rận chấy nhiều gớm chết, trên

mặt mũi và mình mẩy có những dấu hiệu của bệnh giang mai”[47; tr. 834] hoặc

đứng tựa gốc cây hoặc ngồi một lượt quanh rẫy tường của trại nhà binh. Họ bán

dâm với một cái giá mà không phải sợ bất cứ “sự cạnh tranh phá giá nào nữa”.

5 xu cho cả phòng và gái, 3 xu nếu ở một bãi cỏ chỉ có cây cối là bình phong là

những cái giá rẻ mạt của một cuộc bán dâm. Nếu“Không có sẵn tiền ư? Thì

người ta giao dịch bằng hóa vật...” [47; tr. 834], có khi chỉ là cái quần lính Tây

cũ. Đọc những lời văn của Vũ Trọng Phụng mới hay nỗi tủi nhục của gái bán

“trôn nuôi miệng”.

Theo lời của bà Limongie – một bà giám thị trong nhà Lục sì, những

người đàn bà sa vào trụy lạc bị giam giữ trong nhà Lục sì đa phần vì nghèo đói,

phần nhiều là gái quê, thất nghiệp. Nhưng, khi bị bắt vì tội bán dâm lậu thuế,

họ sẽ bị bắt phải “cầm giấy”, phải nộp thuế, nghĩa là“Khi một con bé khốn nạn

đã phải bán thân nuôi miệng thì tức khắc Nhà nước vồ lấy nó, rồi bắt nó hải

đóng một thứ thuế mà có người kêu ca là vô nhân đạo. Sắp chết đói thì lại đến

63

cái nhục nhã…” [47; tr. 801]. Quả thực, những người phụ nữ cùng đường làm

nghề mãi dâm để kiếm sống là “nô lệ tình dục” cho kẻ có tiền với tiền công rẻ

mạt, lại bị bắt bớ, bị khinh thường, nộp thuế. Thêm nữa, họ cũng là đối tượng

để kiếm ăn, sống bám của các ông chủ săm, bồi săm, mụ chủ thanh lâu, bọn ma

cô, phu xe đêm. Đây cũng là lí do vì sao mà gái thanh lâu phục vụ khách làng

chơi có đến 10 lần mỗi ngày nhưng họ chẳng được xu tiền công nào, ngoài hai

bữa cơm. Nhà văn đã nhìn thấy rõ những bi kịch của cuộc đời làm gái đĩ ở đất

Hà Thành, thấy được “cái nghèo đói, sự bệ rạc về vật chất cũng như bệ rạc về

tinh thần” của họ. Lời của Thị Lành – một gái đĩ vừa già vừa xấu, có thâm niên

trong nghề có lẽ cũng là lời chung cho số kiếp gái đĩ: “Anh hỏi thì tôi phải nói,

chứ cái đời tôi thì còn đáng kể cho ai nghe làm gì! Nhàm tai ra mà thôi” [47; tr.

849]. Họ đã chẳng còn hi vọng gì cho tương lai.

Không chỉ khổ nhục với xã hội, vì bị coi thường, khinh bỉ, vì bị “bòn rút”

sức lao động, mà họ còn khổ sở khi bị giam trong nhà Lục sì, nghĩa là khi ở

chung với những người “cùng cảnh ngộ”. Lời của Thị Lành kể lại câu chuyện

thị bị vào nhà Lục sì 20 năm trước đã cho thấy sự chua chát của kiếp gái đĩ.

Nhà Lục sì khi đó còn nhỏ, ở một cái đền cũ trong khu vực tòa Đốc lý, thực sự

là một ngục tù ghê gớm cho bọn kỹ nữ. Chật chội, nóng nực, chửi rủa, và ghê

gớm nhất là cảnh những ma mới sẽ bị bắt nạt, bị đánh đập, hành hạ cực kỳ khổ

sở bởi bọn ma cũ. Chúng“không còn một cách nào…lại không dùng đến” [47;

tr. 853], thậm chí lấy cả một nắm tóc tọng vào hậu môn kẻ yếu thế.

Vấn nạn mãi dâm là một vấn đề nhức nhối làm đau đầu nhà cầm quyền

và cuộc đời số phận của những gái đĩ cũng làm đau lòng những nhà nhân đạo,

những người biết thiết tha với giống nòi. Phóng sự Lục sì của Vũ Trọng Phụng

đặt ra một vấn đề đáng trăn trở, là làm thế nào xóa bỏ nghề mãi dâm, để người

phụ nữ không còn là “nô lệ tình dục” cho kẻ có tiền, nhưng cũng phải làm thế

nào để giải quyết vấn đề sinh kế cho mấy nghìn người đang sống về nghề này,

bao gồm cả gái đĩ và những kẻ sống bám vào nghề làm đĩ.

64

2.1.2.4. Những tay cờ bạc bịp

Xã hội Việt Nam những năm 30 của thế kỉ XX là một xã hội mà quan lại

thì tham nhũng, đàn bà thì hư hỏng, đàn ông thì dâm bôn, một tụi văn sỹ thì đầu

cơ, xảo quyệt…. Góp phần để làm nên cái bộ mặt xã hội “khốn nạn”, “chó đểu”

ấy là những tay cờ gian bạc lận, họp thành một “đảng bịp”. Mấy tháng lăn lộn

trong làng bịp, nhà văn Vũ Trọng Phụng đã được nghe, được tận mắt chứng

kiến những ngón nghề cao siêu của dân bịp, những câu chuyện về cuộc đời, số

phận của những kẻ cờ gian bạc lận, thu về kho tài liệu vô giá về một nghề trong

xã hội Việt Nam bấy giờ: nghề bạc bịp.

Theo sự phản ánh của Vũ Trọng Phụng trong thiên Cạm bẫy người, trong

xã hội Việt Nam đương thời, cờ bạc đã không còn là một thú vui tiêu khiển lúc

nhàn rỗi của một bộ phận người nữa mà đã trở thành một nghề có tổ chức, có

ông trùm với rất nhiều tầng lớp đệ tử. Đứng đầu là ông trùm Ấm B…- quân sự

của bạc bịp. Cùng với ông có Cả Ủn – người giữ cái két lớn nhất của làng bịp.

Đây cũng là hai người “cầm cân nảy mực” cho đảng bạc bịp ở Hà Thành. Sau

những ông trùm này là những đệ tử kề cận như Tham Ngọc, Kỹ Vũ, Ba Mỹ Ký,

bồi An, Vân… Sau họ còn rất nhiều tạ là những tay chân được bố trí vào sòng

bạc để cản trở hoặc là những tay đi săn mòng cho ông trùm.

Cờ bạc bịp là một nghề, nên những thay thợ lành nghề đã hình thành cho

mình“kỹ nghệ bạc bịp”là những ngón đòn, thủ đoạn hiểm độc để lừa lọc trên

chiếu bạc. Theo khảo sát của chúng tôi, có đến 29 thủ đoạn đánh bạc được Vũ

Trọng Phụng đưa vào phóng sự Cạm bẫy người. Có những thủ đoạn hạ gục

mòng trên chiếu bạc như giác mùi, giác bóng, đòn ve, đòn Vân Nam, trạc

xếch…Có những mồi họ đem ra để đe nẹt nhau như mồi quân tử, mồi chí hiếu…

Có cả xưởng chế tạo khí giới để chiến binh bắt mòng khi ra trận… Với sự nhạy

bén, Vũ Trọng Phụng đã nhanh chóng nắm bắt các thủ đoạn lừa bịp và miêu tả

một cách rất có nghề, rất sống động. Tuy nhiên, ở đây, chúng tôi không nhằm

mục đích dựng lại bức tranh về các thủ đoạn lừa lọc trong làng bịp mà tập trung

65

hướng đến tìm hiểu cuộc đời, số phận, sự tha hóa của những con người được

phản ánh trong phóng sự này của Vũ Trọng Phụng, bao gồm cả những tay thuộc

“làng bịp” và những nạn nhân của Thần Đổ Bác.

Khi cờ bạc đã trở thành một nghề thì tiền chính là mục đích hướng đến

cuối cùng của những canh bạc. Đồng tiền thể hiện sức mạnh vạn năng của nó

trong việc làm cho phẩm chất con người bị tha hóa. Ông trùm Ấm B… có cả

một đội ngũ tay chân săn mòng, bắt mòng cho mình. Còn những kẻ dưới quyền

ông thì cũng không từ một thủ đoạn nào để đưa con bạc vào tròng, bất kể con

bạc có quan hệ thế nào với mình, là người dưng hay người thân cũng vậy. Anh

Vân đã biến chính ông thân sinh của mình thành mòng và mời tay bạc anh chị

về săn. Thái độ vui mừng của anh Vân lúc chia tiền với Tham Ngọc đã chứng

tỏ, với tay cờ bạc, trên chiếu bạc sẽ không có tình nghĩa cha – con. Sức mạnh

của đồng tiền đã thổi tình nghĩa dạt một bên. Anh Vân cũng không phải trường

hợp hi hữu gì trong làng cờ bạc bịp khi mà “máu tham hễ thấy hơi đồng là mê”

là bản chất của những người này. Bồi An là một tay chân của ông Ấm B…, đã

biến chú họ thành mồi cho đảng bịp xơi. Vì căm tức ông chú họ mà mặc dù số

tiền ba, bốn chục của ông chú là để mua sâm cho con giai ông ấy đang ốm thập

tử nhất sinh thì bồi An cũng không tha. Bồi An cầu cứu đến ông Ấm B… cử

người đến cản, giở đến ngón đòn cao siêu là đòn Vân Nam để thịt ông cụ - một

tay bạc đã khá thạo, đã biết rõ cả lối đánh giác mùi lẫn giác bóng. Trước cái sự

ốm thập tử nhất sinh, đang nằm chờ thuốc của cậu em họ ở quê, bồi An tổng

kết bằng một câu lạnh lùng: ““Ốm no thì bò dậy” vậy… Thôi, chẳng qua là số

nó chết, nó có vô phúc thì mới sinh vào làm con lão ta!...”[47; tr. 592]. Lại có

những kẻ lợi dụng cả ái tình để săn mòng. Dung – một cô ả đào là người tình

của Vân, là một mẻng mà Vân say mê nên anh này đã tin tưởng tuyệt đối mà

không chút đề phòng cô ả. Chính Dung đã dẫn dắt Vân đến canh bạc để Sính

đưa vào xiếc, đến nỗi thua ba chục bạc. Nhà văn Vũ Trọng Phụng đã tận mắt

chứng kiến những canh bạc lọc lừa đó, “không khỏi thấy trong mình khó chịu,

66

hình như bốc hỏa lên vậy” [47; tr. 593] trước sự tha hóa của con người. Vì tiền,

người ta có thể giở đến bất cứ thủ đoạn gì, với bất cứ ai. Tình cha con, chú

cháu, tình yêu – những thứ tình cảm thiêng liêng, những tưởng có thể bền vững

trước sóng gió thì lại không có nghĩa lí gì trước sự cám dỗ của đồng tiền.

Về nạn nhân của những canh bạc bịp, nhà văn Vũ Trọng Phụng

cũng đã không ngần ngại đưa lên trang giấy sự bi thảm của họ. Khi ham mê bài

bạc đã ăn vào máu, người ta có thể quên đi tất cả. Chú của bồi An mang tiền đi

cân sâm cho cậu con giai đang ốm nặng, mười phần chỉ còn mong có một,

nhưng đã nướng tất cả số tiền ấy vào canh bạc. Trong lúc hăng máu với những

ngón bài giác mùi, giác bóng, Vân Nam, ông bố vô lương tâm này đã quên hẳn

đứa con giai đang ốm chờ thuốc của mình. Một con thiêu thân, “con bò vắt

sữa” cho đảng bịp mà nhà văn họ Vũ am hiểu tường tận chính là ông chú họ

của mình. Sự ham mê đỏ đen của ông chú họ ấy là “bút khôn tả xiết”. Thần Đổ

Bác đã khiến ông ta, dù lương tháng hơn hai trăm đồng mà vẫn rơi vào cảnh

túng thiếu, vợ con khốn khổ, Cảnh thiếu thốn của vợ con cũng như những lời

nói như “sẻo từng miếng thịt” của vợ không khiến ông động lòng hay mất bình

tĩnh. Hễ có bạc là ông phải đánh cho thua nhẵn, thậm chí “lột áo người sống,

bán áo người chết”[47; tr. 605] để nướng cho Quỉ Đỏ Đen. Ông đã không làm

tròn trách nhiệm của một người chồng, một người cha, nhưng cũng không thực

hiện được cái đạo nghĩa làm người.

Cả những tay thuộc đảng bịp hay những nạn nhân đều đã bán cả linh hồn

cho Thần Đổ Bác, đều đã bị thói mê cờ bạc, sức mạnh của đồng tiền làm cho

tha hóa nhân phẩm. Cạm bẫy người viết về nạn cờ bạc bịp như một quốc nạn,

nhưng không chỉ mang giá trị phê phán hiện thực xã hội mà còn thể hiện nỗi

trăn trở của nhà văn về sự tha hóa, biến chất của con người trong nạn đó.

Những tay cờ bạc bịp dùng mọi thủ đoạn để lừa lọc, kiếm chác rồi cuộc

đời họ sẽ đi về đâu? Cuộc đời của một tay thợ nghề trong làng bịp là Ba Mỹ Ký

khiến nhà văn phải trăn trở. Cũng thạo đủ các ngón nghề và ra trận nhiều lần,

67

nhưng một lần lộ tẩy đã bị một trận “thượng cẳng chân hạ cẳng tay” đến nỗi

mắc chứng ho kinh niên. Tiền kiếm được từ xưởng chế tạo khí giới, tiền đi đánh

chác cũng chẳng đủ để chữa bệnh. Cho nên, Ba Mỹ Ký mới chỉ trong vòng 30

tuổi nhưng “thân thể rạc như xác ve, hai vai so lên gần đến mang tai” [47; tr.

614] và cứ “ho sù sụ như một lão tám mươi sặc thuốc lào vậy” [47; tr. 615].

Cái chết của Ba Mỹ Ký cũng không gây chút lòng thương xót nào ở những

người “cùng hội cùng thuyền” với hắn. Khi người ta làm huynh đệ với nhau

chỉ là kết bè kết đảng để săn mòng, thịt mòng, kiếm tiền thì đâu còn tình nghĩa

mà thương với xót? Chỉ có ông Ấm B…, người đã vô ý phái Ba Mỹ Ký đi trong

một lần ra trận, để đến nỗi Ba Mỹ Ký bị trận đòn, mắc ho lao, cảm thấy áy náy

và nghĩ đến chữ “nghĩa tử, nghĩa tận” mà tụ họp các anh em đến đưa tang “cho

phải đạo và cho…thiên hạ trông vào” [47; tr. 665]. Đám tang Ba Mỹ Ký rất sơ

sài, chỉ có “sáu người vận tang phục, mười hai người áo quần cũng khá sang

trọng”. Trong lúc đưa tang, họ cũng chỉ nói chuyện với nhau về con bạc các

lối đánh đặc biệt, về bài văn tế khôi hài của Ký Vũ mà thôi. Họ đến và tham dự

đám tang là vì nể ông Ấm B…, cũng vì thế, khi ông có việc phải đi gấp thì mọi

người đều tìm đường chuồn cả. Suy nghĩ của ông Mỹ Bối đáng để cho người

đọc phải suy ngẫm về cuộc đời, phận những con người kiếm sống bằng nghề

lừa lọc người khác trên chiếu bạc: “Đám ma anh Ba Mỹ Ký đã khiến tôi có

những cảm tưởng lạ lùng và lấy làm chán chường về cuộc “đời theo bịp” của

tôi”. [47; tr. 672]

Chuyện lừa lọc trên chiếu bạc không phải chuyện mới lạ, nhưng ở những

năm 30 của thế kỉ XX, nó trở thành một vấn đề nhức nhối, một vấn nạn xã hội.

Khi người ta coi chuyện lừa lọc người khác là một nghề để kiếm sống thì cũng

là lúc bản chất người đã bị tha hóa. Cho nên, Cạm bẫy ngườikhông chỉ có giá

trị phản ánh hiện thực mà còn là hồi chuông cảnh báo về sự xuống cấp của đạo

đức xã hội.

68

2.1.2.5. Thanh niên trụy lạc

Công cuộc khai hóa, những chính sách cai trị của Pháp đã mang theo

luồng tư tưởng văn hóa Tây phương, giữa lúc văn hóa Hán học với những luật

lệ, phép tắc trói buộc con người đã mất dần vị trí. Tư tưởng giải phóng con

người cá nhân, đề cao lối sống tự do, phóng túng đã tác động mạnh mẽ đến lối

sống của con người Việt Nam đương thời, đặc biệt là các thanh niên đô thị, bởi

đó là bộ phận cấp tiến nhất, dễ tiếp thu và thay đổi theo cái mới nhất.

Phóng sự Thanh niên trụy lạc của Nguyễn Đình Lạp đã điều tra, phản

ánh tư tưởng, lối sống của thanh niên Hà Thành những năm 30 của thế kỉ XX.

Đặt trong bối cảnh, phía trước là là luồng gió Âu Tây đang ào ạt thổi với đầy

sức mê hoặc, quyến rũ bởi sự mới lạ, hấp dẫn, phía sau lại không có sợi dây

nào trói buộc, bởi hàng rào lễ giáo phong kiến hà khắc đã lung lay, phía trên lại

không có ai cầm cương dẫn lối chỉ đường, thành ra, thanh niên Hà Thành lúc

bấy giờ như con ngựa bất kham, hăng máu một cách vô phương hướng. Họ sa

vào ăn chơi trụy lạc, đàng điếm, hút sách, cờ bạc… trở thành một vấn đề nhức

nhối của xã hội.

Họ là những ai? Trong thiên phóng sự Thanh niên trụy lạc, nhà văn

Nguyễn Đình Lạp đã liệt kê và phân nhóm đủ mặt các bộ phận thanh niên Hà

Thành. Theo đó, thanh niên Hà Nội chia ra thành 4 phái rõ rệt: viên chức nhà

nước, buôn bán, học sinh và bọn vô nghề nghiệp chỉ ăn bám vào gia đình và

những cặn bã bị xa thải ở 3 phái trên. Trong đó, phái thứ tư là bọn ăn chơi bạt

mạng nhất, vì không phải chịu bất cứ một sự kiềm tỏa nào, cũng không có gì

phải lo lắng về chiếc ghế ngồi sẽ bị mất hay miếng cơm manh áo cho gia đình.

Phái thứ tư “là những con ngựa lỏng cương phi nước đại, họ chỉ biết vung tay

mua tìm khoái lạc mà không cần nghĩ tới ngày mai” [45; tr. 211].

Thanh niên Hà Nội nướng ngày tháng, tìm thú vui trong các nhà cô đầu,

nhà săm, tiệm hút, tiệm nhảy, sòng bạc. Với họ, đó mới là thiên đường. Mỗi

khi Hà Nội lên đèn là họ lại từ các nhà hoặc chật hẹp hoặc lộng lẫy bước ra, với

69

bộ quần áo bóng mượt, gọn gàng nhưng “một ý nghĩ bẩn thỉu trong óc” và

“một cảm giác sôi nổi trong da thịt” [45; tr. 208]. Họ có thể đã hẹn hò từ trước

hoặc chẳng cần hẹn hò gì thì cũng vẫn có thể gặp nhau ở một trong các địa điểm

mà họ lui tới. Họ đến hoặc nhà cô đầu, hoặc tiệm nhảy, tiệm hút, sòng bạc, hoặc

cũng có thể là tất cả những loại nhà đó trong một đêm, vì cuộc chơi của họ

không bao giờ dừng ở “tăng 1” mà có thể là “tăng 2”, “tăng 3”. Họ ăn chơi, đập

phá suốt đêm mà không biết chán, không biết mệt. Trong tiệm nhảy, họ sẽ quấn

rít lấy các cô gái nhảy mà say sưa theo điệu nhạc, mặc cho vũ nữ ốm yếu có thể

phải khạc ra máu. Họ trao hết cả linh hồn và trí não vào những “giọt” âm nhạc

thánh thót. Trong cơn say sưa, họ quên hết tất cả, chỉ nghĩ làm thế nào mua cho

đời mình thật nhiều phút vui. Trên chiếu rượu, họ và các cô đầu say sưa chúc

rượu rồi phạt rượu nhau. Chỉ với họ thì mới có những khái niệm như “rượu

quay thìa”, “rượu thuận”, “rượu nghịch”, “rượu Ngũ Phúc”, “rượu riêm”.

Họ tìm mọi dạng thức khác nhau để cuộc rượu được vui, được kéo dài để say

sưa và thỏa mãn. Trong những cuộc vui, họ khoe với nhau thành quả của mình

trong việc “thó” tiền cuả bà mẫu được hơn “tam bách”. Họ cho đó là ăn cắp cừ

khôi, ăn cắp một lối lịch sự, rồi cả bọn lại tung hô: “Ăn cắp vạn tuế”. Trong

suốt mấy tiếng đồng hồ, “họ ăn rất ít. Họ uống nhiều. Họ cười ròn rã. Họ kêu

hò inh ỏi. Họ bấu, véo nhau. Họ hôn nhau chùn chụt. Họ bắt bẻ nhau. Và sỏ

siên nhau. Và văng tục. Và chửi rủa luôn mồm” [45; tr. 221]. Họ tạo nên một

cảnh tượng hỗn độn, ồn ào như cướp chợ. Những cảnh tượng thác loạn, hoan

lạc một cách đồi bại của thanh niên khiến tác giả phải ghê người.

Nếu nhóm này đang tìm say sưa trong hát, nhạc hay rượu chè, hoan lạc

thì sẽ có nhóm khác đang thiêu mình trên sòng bạc. Trên chiếu bạc, họ hăng

máu “sấp”, “ngửa”, “rút”, “bất”, thiêu đốt đến đồng xu cuối cùng, càng muốn

gỡ lại càng thua nặng, có kẻ đi đến chỗ cay cú mà cướp sòng bạc. Trước khi

đến với cái cướp này thị họ đều đã ăn cướp một cách ngang nhiên và trắng trợn

ở nhà mình. Câu chuyện của một thanh niên tên Thanh mà tác giả ghi lại được

70

đáng để người đọc suy ngẫm. Ham mê cờ bạc, hát xướng đã khiến Thanh tiêu

hết tiền, vay nợ tứ tung, khiến chủ nợ cứ về đòi mẹ của Thanh là một bà cụ già.

Cụ phải cắn răng bán mẫu ruộng của nhà đi để trả nợ, nhưng chưa kịp cầm trên

tay thì Thanh đã vội mang đi “gỡ” bạc nhưng chỉ ngay tối hôm ấy thì Thanh đã

không có lấy một xu để ăn cơm. Lại có kẻ tên Trọng đam mê cờ bạc đến mức

mẹ đẻ đang cơn hấp hối cũng bỏ mặc. Khi ván bài của hắn kết thúc thì cũng là

lúc mẹ hắn đã qua đời. Minh – một thanh niên ăn chơi ở đất Hà Thành, bỏ mặc

vợ con để lăn vào các cuộc vui. “Có đồng nào là nghĩ ngay đến “tổ chức” rồi.

Chưa đủ thì cố xoay xở thằng này thằng nọ, vá chằng vá đụp cho thành một

đêm oanh liệt mới nghe, mặc dầu thằng bé khóc, chớ, sài, đẹn” [45; tr. 285].

Với họ, ăn chơi là lẽ sống ở đời, ngoài chuyện ăn chơi, không có gì đáng quan

tâm hết.

Lối sống sa đọa, trụy lạc tất yếu dẫn đến hậu quả. Minh là một trong

những nhân chứng cho cái hậu quả ấy. Ăn chơi, đàng điếm, hút sách khiến

Minh rước bệnh vào người. Bệnh rề rề liền sáu tháng mà không có tiền chữa,

đến mức đái ra máu, “chân hắn run run và ngã vật ra thềm. Hắn ngất đi” [45;

tr. 286]. Khi tỉnh dậy thì hắn lại “ôm bụng kêu đau, vật vã chân tay, lăn lộn

trên giường. Rồi kêu. Rồi rên. Rồi thở. Rồi khóc” [45; tr. 286]. Nhà văn Nguyễn

Đình Lạp đã cố sức vận dụng tối đa sức biểu đạt của ngôn ngữ để tả cho được

cái sự đau khổ của một nạn nhân của Dâm Thần, rồi chẳng bao lâu sẽ là nạn

nhân của Tử thần. Tuy nhiên, theo lời của Kính và “giáo sư nhảy đầm” thì còn

nhiều đứa nặng hơn thế, “giặn hàng giờ mới bật ra được vài cái “bong bóng

cá” hoặc một cục kén to bằng hạt ngô” [45; tr. 286]. Điều khến nhà văn trăn

trở nữa là chứng kiến sự đau khổ của Minh, hai người bạn của hắn vẫn thản

nhiên. “Yêu? Thương? Ghét? Không ráo” [45; tr. 286]. Tại sao vậy? Vì bầu

tình cảm của họ đã nguội lạnh thì còn rung động làm sao được? Như con thiêu

thân lao mình vào lửa, đám thanh niên trụy lạc đã thiêu rụi cả thân xác lẫn linh

71

hồn trong những cuộc vui hoan lạc, bên bàn đèn thuốc phiện, trên chiếu rượu

hay sòng bạc.

Với thanh niên trụy lạc tìm vui say trong những cuộc hoan lạc thì hai chữ

“ái tình” là xa xỉ. Tình yêu với họ thực tế không tồn tại, chỉ là để thỏa mãn dục

vọng tầm thường. Nhà văn Nguyễn Đình Lạp đã điều tra để rồi tổng kết về cái

quan niệm của thanh niên Hà Nội về tình yêu một cách đầy chua chát. Theo đó,

quan niệm của thanh niên về ái tình có thể chia thành 4 phái khác nhau: “Không

có ái tình, hoàn toàn chỉ là để thỏa mãn dục vọng đê hèn, chơi xong thì đạp

đổ… Tình yêu gây ra bởi tính tự phụ;… Tình yêu gây ra bởi tình

thương;…Hoàn toàn ái tình” [45; tr. 275, 276]. Nhà văn ước lượng một vài con

số cụ thể để người đọc dễ hình dung. Trong 100 người thì có một người biết

yêu, còn 99 người thuộc về ba hạng còn lại, trong đó, “90 người mê vì vật dục,

6 người yêu vì tính tự phụ, 3 người yêu vì tình thương” [45; tr. 277]. Đó không

chỉ là một vấn đề nhức nhối của xã hội, đó còn là một “vết thương sâu” đau đớn

của loài người, khi con người đối với nhau không hề có tình yêu, tình thương,

chỉ là hoan lạc, thỏa mãn nhục dục tầm thường.

Lối sống của thanh niên Hà Thành những năm 30 của thế kỉ XX được

phản ánh trong phóng sự Thanh niên trụy lạc của Nguyễn Đình Lạp có thể ví

như một “cái nhọt đầy máu mủ” mà bên trong là máu “óc cá” đầy ghê tởm. Nó

cũng rất dễ lây lan, như giọt phẩm tím trong cốc nước, có thể nhanh chóng biến

một cậu học trò ngây thơ thành một tay chơi biết tham gia “tổ chức”, biết nói

tiếng lóng, văng lời nói tục tằn, biết “bộp mụ chủ nhà xăm, đánh đập gái giang

hồ, chửi rủa thằng bồi. Mà lường gạt, mà ức hiếp, mà tai ác một cách tàn nhẫn,

thiểm độc vô cùng” [45; tr. 252]. Cuộc đời người thanh niên như một chai rượu

mạnh, “chỉ đánh đốp một cái là nút bật lên, rượu tóe ra ngoài. Cái vỏ chai dù

đẹp đẽ đến đâu nếu không bị vứt ở xó đường thì cũng dùng để đựng mắm, đựng

muối” [45; tr. 214]. Đó là những cuộc đời vị vứt bỏ.

72

Mỗi trang trong phóng sự Thanh niên trụy lạc của nhà văn Nguyễn Đình

Lạp là một thực tế đầy nhức nhối về sự tha hóa của thanh niên Hà Thành bấy

giờ, rung lên hồi chuông cảnh báo đối với xã hội về sự bệ rạc cả về thể chất lẫn

tinh thần, sự tàn tạ cả về thể xác lẫn linh hồn của một bộ phận người trong xã

hội, tiếc thay khi đó lại là bộ phận người cấp tiến nhất mà xã hội đã trông mong

2.2. Một số tầng lớp trên trong xã hội

Phóng sự giai đoạn 1932 – 1945 là một bức tranh hiện thực sống động về

các tầng lớp con người trong xã hội Việt Nam lúc đương thời. Dẫu không có một

tác phẩm nào chỉ viết riêng về những tầng lớp trên trong xã hội, nhưng bóng

dáng của các tầng lớp này vẫn luôn xuất hiện trong từng trang phóng sự đầy chất

liệu hiện thực của mỗi nhà văn. Đó là những ông quan lớn, những bà đầm, bà

chủ thuộc lớp phụ nữ tân thời, những nhà văn, nhà báo thuộc tầng lớp trí thức.

Những gương mặt của họ xuất hiện đã làm nổi rõ số phận của những người lao

động nghèo và hoàn thiện bức tranh hiện thực xã hội đa dạng, phong phú của cái

xã hội Tây – Tàu – Ta lẫn lộn ở Việt Nam những năm 30, 40 đầu thế kỉ XX.

2.2.1. Quan lại

Quan lại là tầng lớp trên trong xã hội, có trong tay đủ cả quyền lực và

tiền bạc. Trong các phóng sự của Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Đình

Lạp, tầng lớp quan lại được phản ánh chủ yếu là quan Ta, nhưng có lối sống

Tây, giàu có nhưng hội tụ đủ những thói hư, tật xấu như Quan Phán Khâm,

Quan huyện Gia Lộc, Quan phủ Lập Lễ trong phóng sự Lọng cụt cán, ông quan

được giấu tên trong Đĩa mứt gừng, Quan Hàn, Cụ Thừa Hào trong phóng sự

Tập ảnh của nhà văn Nguyễn Đình Lạp. Chúng tôi gồm vào đây cả những ông

chủ lắm tiền nhiều của, là những thành viên tích cực của phong trào Âu hóa,

hội tụ những thói xấu của một ông chủ tân thời ở đô thị. Đó là, ông Morit…Vồ,

73

ông chủ Mồ, ông Hường Lồ trong Tập ảnh. Những con người này được phản

ánh trong các thiên phóng sự ở góc nhìn phê phán, có khi châm biếm, mỉa mai.

Những ông quan Ta dưới thời thuộc Pháp phần nhiều dùng tiền mua quan

bán tước, như cụ Thừa Hào, Quan Hàn trong phóng sự Tập ảnh của nguyễn Đình

Lạp. Cụ Thừa Hào, gọi là cụ nhưng thực chất mới chỉ hai mươi nhăm tuổi, đã bán

đi thửa ruộng của bà mẫu để giật giải, tranh lèo trong cuộc thi thừa phái và cụ đã

đỗ ở hạng cao. Quan Hàn thì không phải thuộc dòng dõi nhiều đời làm quan, hay

“trâm anh thế phiệt” gì mà một “bố cu”, vẫn thường cùng với “mẹ đĩ” làm cái

công việc “thu thiên hạ chi nhân tâm”[45; tr. 192] mỗi sáng. Vậy mà, một lần gặp

vận, “bố cu” ấy đã trở thành Quan Hàn. Rõ ràng, chức quan của các ngài không

phải có được do học hành, thi cử mệt nhọc gì.

Có quyền lực trong tay, các quan tìm cách bóc lột, vơ vét tiền của từ nhân

dân. Quan Hàn thì cho vay lãi một cách khôn khéo để cướp cả cơ nghiệp của thằng

có nợ. Cụ Thừa Hào thì chỉ có một công việc chính là “phải khoét xu thiên hạ”,

khoét từ một mụ đàn bà góa có con khai sinh quá hạn đến anh dân muốn xin phép

“thịt” một con bò, từ vài ba hào đến dăm ba đồng bạc cụ cũng không từ chối bao

giờ. Trong phóng sự Lọng cụt cán, nhà văn Nguyễn Đình Lạp đã châm biếm mỉa

mai Quan Phán Khâm – người giữ việc kiểm bạc tỉnh đã bí mật giở trò quỷ thuật

“ăn bẩn” 15 đồng của thầy Lý Đạo Xá. Quan huyện Gia Lộc thì nọc chị Hiền ran

sân mà đánh chỉ vì thị không bán thịt rẻ cho lính của quan. Những hành động “bòn

rút, vơ vét” trắng trợn, bất công đó chính là cách để kiếm xu, để “túi tham được

đầy mãi”, rồi quan lại đi lo lót quan trên để có được chút thế lực, uy quyền. Nhà

Quan Hàn hầu như ngày nào cũng có cuộc tiếp tân, từ ông Phó Đoan về bắt rượu

lậu ở làng đến ông Tây đi bắn qua làng. “Quan đã cướp từng đồng chinh của bọn

áo ôm khố rách để tiệc tùng yến ẩm với những hạng người quan cho là sang”[45;

tr. 193]. Những viên quan lại này thực sự là những kẻ “ăn cướp có giấy phép”,

chuyên đục khoét và làm hại nhân dân.

74

Ngoài tầng lớp quan lại, những ông chủ giàu có cũng là đối tượng được

phản ánh trong các phóng sự của Nguyễn Đình Lạp, Tam Lang, Vũ Trọng

Phụng, đặc biệt là ba tác phẩm Đĩa mứt gừng, Lọng cụt cán, Tập ảnh của Tam

Lang. Những ông chủ này giàu có phần nhiều là do bóc lột sức lao động của

công nhân, người làm thuê. Ông chủ Mồ, khi còn là một tay cai mộ phu (ông

chủ Mộ) đã từng “ăn lần từng hào chỉ về mỗi đầu phu mộ đi Tân thế giới” [45;

tr. 188]. Ông Hường Lồ thì bòn rút đến sức lao động cuối cùng của dân cày,

nên ông lo lắng, bức xúc khi có nghị định áp dụng tuần lễ làm việc 40 giờ đối

với mọi người lao động.

Không chỉ là hành động bóc lột sức lao động một cách tàn nhẫn, các nhà

văn với góc nhìn chân thực, sâu sắc đã phản ánh tất thảy những thói hư tật xấu của

những ông chủ lắm tiền nhiều của này. Họ là những kẻ háo danh. Ông chủ Mồ

khi đã có nhiều tiền, ông tích cực làm từ thiện nhưng không phải vì ông đã “bỏ

tà theo chính” mà chỉ vì ông ta muốn tên tuổi của mình thêm danh giá mà thôi.

Không chỉ háo danh mà các ông chủ giàu có này còn háo sắc. Ông Hường Lồ

đã gần 60 tuổi nhưng còn thắm thịt đỏ da nên đã mua một cô vợ trẻ chỉ đáng

tuổi cháu ông để “thỏa lòng dục” và để báo thù những ngày quá khứ ông còn

trẻ mà phải nhắm mắt lấy một “bà cụ già”. Những ông chủ đó, từ khi nhiều tiền

của thì cũng trở thành thành viên tích cực của phong trào Âu hóa, nhưng là Âu

hóa rởm hợm, lố bịch, đánh mất cái “gốc An Nam” của mình. Họ chê bai những

gì của An Nam và ngợi ca những gì thuộc về đất Pháp. Ông Morit…Vồ vốn tên

là Võ Văn Ba nhưng đổi tên thành Maurice Vo, chỉ quen nói tiếng Tây, uốn tóc

quăn, ăn bữa sáng với bánh mì, hộp bơ và tách cà phê. Ông than thở sao mũi

mình không được “lõ”, chê người An Nam là “giống ngu dốt” và “khen lấy

khen để những thuần phong mỹ tục của dân quê Pháp” [45; tr. 181] – nơi ông

chưa từng bước chân đến bao giờ. Có tiền của mà lại có thời gian rảnh, các ông

ham mê bài bạc (ông Phán – ông thân sinh ra anh Vân trong Cạm bẫy người)

và đua đòi lối trưởng giả học làm sang. Trong phóng sự Cơm thầy cơm cô, qua

75

lời kể của những kẻ đi ở, ta biết đến những ông chủ thuê một thằng nhỏ chỉ để

“dắt cho đi dong chơi ngoài đường”, cho chó ăn toàn những “thịt bò với súp”,

bắt đầy tớ tắm rửa cho chó hàng ngày và “lấy giấy bản chùi đít cho chó” [47;

tr. 765].

Khi xã hội tồn tại những ông “quan mua” và những ông chủ bòn rút của

dân đen để nịnh nọt quan trên, để cờ bạc, để thỏa thú dâm dật thì sẽ còn nhiều

người lao động nghèo phải vắt kiệt sức lực mà không đủ miếng cơm manh áo

như phu xe, người đi ở, người bán hàng rong hay kẻ bán trôn nuôi miệng. Các

thiên phóng sự giai đoạn 1932 – 1945 đã cho người đọc thấy rõ bộ mặt của

những quan trên và những ông chủ trong giới thượng lưu của xã hội Việt Nam

đương thời với thái độ phê phán, mỉa mai châm biếm.

2.2.2. Phụ nữ tân thời

Chúng tôi muốn nói đến ở đây là những bà chủ, cô chủ - những người tự

mệnh danh là tân tiến, biết theo thời. Họ thuộc đủ mọi thành phần, nghề nghiệp

khác nhau trong xã hội, như Bà chủ mỏ, Mợ Đốc Bốn, Bà chủ đất trong phóng

sự Tập ảnh, mấy bà trưởng giả ở Hà Nội trong phóng sự Lọng cụt cán, bà Thị

Cả đồng bóng, vợ bác Tập chủ hiệu may trong phóng sự Đĩa mứt gừng hay

những mụ chủ nhà, chủ xe trong phóng sự Cơm thầy cơm cô, Tôi kéo xe. Những

nhân vật này được các nhà văn miêu tả bằng bút phát tả thực, có phần cường

điệu và ít nhiều mỉa mai, châm biếm sâu cay.

Là phụ nữ tân thời, là vợ, là con của các ông quan, ông chủ lắm tiền nhiều

của nên các bà, các cô cũng dát vào mình những thứ đồ trang sức đắt tiền, “cổ

tay đầy những vàng” cùng những bộ trang phục kiểu mới. Nhưng, bên trong

cái “mã” đẹp và tốt ấy là những thói hư tật xấu, những lời nói cay nghiệt, độc

địa đáng lên án. Cũng như rất nhiều những ông chủ tân thời, các bà trưởng giả

ở đất Hà Thành cũng tập cái thói “học làm sang”. Sự đầy đủ về vật chất đã

khiến các bà không phải lo miếng cơm manh áo nên chỉ lo cách trưng diện thế

nào cho “phải lẽ”. Các bà khởi xướng một vấn đề tối quan trọng là: phụ nữ nên

76

dùng giầy hay dép để đi lượn [45; tr. 113]. Các bà trăn trở và phải tìm đến cụ

Hội Quang – một người có tiếng là ăn mặc sành điệu nhất nước để hỏi ý kiến.

Với một giọng văn mỉa mai, châm biếm, nhà văn Nguyễn Đình Lạp đã cho thấy

cái lố bịch của thói trưởng giả học làm sang của những phụ nữ tân thời ở đất Hà

Thành. Trong khi rất nhiều phu xe phải còng lưng kéo mà còn bị các bà “cò kè

bớt một thêm hai”, trong khi rất nhiều con sen, thằng nhỏ còng lưng bổ củi, gánh

nước, hầu hạ dạ vâng mà còn bị các bà “chửi như vặt thịt” và lương trả chỉ có

1-2 đồng thì các bà lại chỉ lo việc nên dùng giày hay dép để đi lượn cho nền, cho

đẹp. Đó chính là sự bất công, ngang trái của xã hội, cũng là sự vô lương tâm của

một bộ phận người.

Cũng có lẽ vì hoàn cảnh sống đầy đủ, sung sướng, nên những bà, những

mợ đâu biết đến “nữ công gia chánh” – cái nét đẹp truyền thống của người phụ

nữ Việt Nam. Khi trong nhà nuôi con sen, thằng nhỏ, các bà chỉ có việc ăn,

chơi và làm đẹp, trưng diện. Mợ Đốc Bốn trong phóng sự Tập ảnh của nhà văn

Tam Lang là một người phụ nữ “cà không biết nén, dưa không biết muối, cơm

không biết thổi, đậu không biết kho” [45; tr. 181]. Công việc của mợ hàng ngày

chỉ là “cạo tường, quét vôi, kẻ hoa” cho cái mặt ra cái mặt, hai lần mỗi ngày,

sau mỗi lần thức dậy. Ở nhà mãi chán thì mợ tổ chức cuộc rút bất tiêu khiển

hoặc tiệc nem chua chả rán… Sự giàu sang, sung sướng của mợ - một phụ nữ

tân thời khiến nhiều người phải ghen tị và cũng khiến ta không khỏi suy ngẫm

về cái số phận con người. Cũng là phụ nữ, nhưng có người được nằm giường

ngủ lát hoa để cho người phụ nữ khác (con sen) bưng tách nước với cái ống

nhổ hầu hạ. Sự bất công trong xã hội không thể hiện ở đâu xa, ở chính hai người

phụ nữ trong một bối cảnh mà nhà văn đã miêu tả trong phóng sự Tập ảnh này.

Nhà văn Tam Lang đã còn đưa lên trang báo hình ảnh những phụ nữ tân

thời vụng về, mới chỉ “nhuốm”qua màu thành thị một nước, như “một thứ cỏ

đồng được đánh vào trồng trong chậu sứ” [45; tr. 185] nhưng lại cứ thích khoe

khoang với những người nhà quê ra thăm như Bà Chủ Đất, người phụ nữ mua

77

chức cho chồng hai nhưng có lúc bất bình lại đe dọa gọi người “xích cổ ông

lại”, coi “thằng thành hoàng làng” nhà ông cũng chỉ đáng để bà “đặt dưới gót

giầy” như Bà Chủ Mỏ. Lại có người phụ nữ ham mê đồng cô bóng cậu như bà

Thị Cả ở Cầu Giấy, cô gái già 79 tuổi còn có chửa với thằng nhãi con 27 tuổi

hay vợ ông chủ hiệu may ăn nằm với thằng thợ học khi chồng đi vắng trong

phóng sự Đĩa mứt gừng. Cái bức tranh về những phụ nữ tân thời với những thói

xấu, sự dâm dật đã được nhà báo Tam Lang phản ánh một cách đầy châm biếm

trên mỗi trang phóng sự của mình, như một lời kết án cho cái Âu hóa rởm đời

đang diễn ra trong xã hội Việt Nam đương thời.

Không chỉ mang những thói hư tật xấu mà đối với kẻ ăn, người ở, người

làm thuê, họ là những con người độc địa. Trong phóng sự Cơm thầy cơm cô,

qua lời kể của con sen Đũi và những người đi ở khác, nhà văn Vũ Trọng Phụng

đã nhận thấy tâm địa độc ác của những bà chủ, cô chủ. Mụ Me Tây – bà chủ

thứ nhất của cái Đũi dẫu đã hết duyên về già nhưng vẫn liếc mắt đưa tình. Với

con ở, mụ vô cùng độc địa, không chỉ “chửi tiên sư cha đầy tớ” hàng ngày mà

còn bầy kế để thằng oẳn hiếp con sen mới chỉ 13 tuổi. Bà chủ thứ hai của cái

Đũi thì giàu có nhưng keo kiệt vô cùng. Cô chủ của con bé bị động kinh thì độc

ác đến mức vu oan cho nó lấy trộm tiền bỏ trốn, để nó bị bắt bỏ tù. Trong phóng

sự Tôi kéo xe, dẫu không phải trọng tâm, nhưng nhà văn Tam Lang cũng đã

khiến người đọc phải chú tâm đến một mụ chủ nhà xe “to lớn” với “cặp vú sọ

dừa to như hai chiếc ấm giỏ” [45; tr. 28]. Vì phu xe thiếu hai hào mà mụ “búi

tóc ngược, sấn sổ đứng dậy. Túm đầu người kia dìm xuống…vừa tát vừa lên

gối, chửi rủa một hồi” [45; tr. 29]. Sự giàu có nhưng độc ác, tàn nhẫn, không

chút tình người của những bà chủ, cô chủ này chính là một nguyên nhân dẫn

đến cuộc đời khổ cực của những kiếp lao động nghèo.

Các cây bút phóng sự đã không ngần ngại phô lên trang giấy tất cả những

sự giàu sang, độc địa và thói hư tật xấu của phụ nữ tân thời để người đọc nhận

được bộ mặt thật của một tầng lớp người được coi là văn minh, tân tiến trong

78

xã hội, để hoàn thiện thêm bức tranh nhiều màu về đời sống xã hội Việt Nam

những năm 30 của thế kỉ XX.

2.2.3. Nhà văn, nhà báo

Đầu thế kỉ XX, khi chữ quốc ngữ được phổ biến rộng rãi, báo chí ra đời,

nghề in xuất hiện thì văn chương cũng trở thành một nghề để kiếm sống chứ

không chỉ là thú vui tao nhã của các Nho sĩ như ở thời trung đại. Vì thế, tầng

lớp nhà văn, nhà báo chuyên nghiệp xuất hiện, lấy việc viết văn, viết báo là kế

sinh nhai. Đời sống của tầng lớp trí thức này cũng trở thành đối tượng phản ánh

của văn học. Vì “văn chương hạ giới rẻ như bèo” (Hẩu Trời – Tản Đà) nên đời

sống vật chất của tầng lớp này cũng rất nghèo khó, thiếu thốn. Giáo Thứ (Sống

mòn), Hộ (Đời thừa), Điền (Giăng sáng)… trong sự phản ánh của nhà văn Nam

Cao chính là điển hình cho đời sống khổ cực của những trí thức chân chính

trong xã hội Việt Nam đương thời. Trong xã hội đó, chỉ có một bộ phận những

ông chủ báo, những cây bồi bút mới có đời sống khá giả. Nếu các truyện ngắn,

tiểu thuyết của Nam Cao hướng đến phản ánh cuộc đời, số phận của những trí

thức nghèo thì phóng sự lại có góc nhìn khác, thể hiện quá trình điều tra hiện

thực rất “nhà nghề” của những nhà báo chuyên nghiệp hoặc phản ánh mặt tiêu

cực của một bộ phận trí thức này, đó là những ông chủ báo tác trách, chỉ quan

tâm đến tiền.

Những con người thuộc tầng lớp nhà văn, nhà báo được thể hiện khi trực

tiếp, khi gián tiếp trong các phóng sự. Một cách trực tiếp, hình ảnh ông chủ báo

được nhà văn Tam Lang phản ánh trong phóng sự Tập ảnh với thái độ châm

biếm, mỉa mai. Đó là một ông chủ nhiệm tờ báo nhưng tác trách và bất tài.

Công việc hàng ngày của ông ở tòa soạn chỉ là giở sổ xem “số thợ thiếu hay

đủ” hoặc “soát kĩ từng chữ cho biết những ai xin nghỉ nửa buổi, những ai xin

nghỉ cả ngày” [45; tr. 185]. Với tệp tin mà các phóng viên gửi về, ông Chủ

nhiệm đọc rà soát nhưng thỉnh thoảng ông lại nhổ râu mép, móc dáy tai, thành

ra, cuối cùng, bài viết được để y nguyên văn, chỉ thêm cái dấu chấm hoặc cái

79

dấu phẩy còn sót, và thêm một dòng phê “in bằng kiểu chữ đứng hơi đậm, cỡ

8” [45; tr. 187]. Suốt một buổi, ông chỉ nặn ra được một mẩu bài ngụ ý phá bỏ

chế độ giai cấp, binh vực anh em lao động thợ thuyền. Cái việc đáng kể của

ông chỉ có vài viêc lúc cuối ngày là thu tiền bán báo và nhập két. Ấy vậy mà cứ

đến ngày phát lương cho thợ là ông lại “có việc gấp phải về đồn điền”, và đến

khi trả lương thì ông trừ chi li từng người một vì làm mất cái này, làm rơi cái

kia. Một ông chủ báo “bù nhìn” về chuyên môn và chi li tiền công xá của thợ

thuyền như vậy là một sự mỉa mai cho cái tôn chỉ của tờ báo ông cầm quyền

mà ông vẫn thường hóm hỉnh trả lời: “Thưa các ngài, nó là cơ quan chung của

anh em bình dân” [45; tr. 187].

Đó là ông chủ báo, một ông chủ tân thời trong xã hội Việt Nam những

năm 30 của thế kỉ XX. Còn các nhà văn, nhà báo, là những trí thức làm công

trong các tòa soạn là những người lăn lộn với hiện thực để có được những bài

tin đưa đến với độc giả. Trong các phóng sự của Tam Lang, Nguyễn Đình Lạp,

Vũ Trọng Phụng, các nhà văn, nhà báo chính là nhân vật xưng tôi. Trong Tôi

kéo xe, Tam Lang đã biến mình thành một phu kéo xe mới học nghề để tìm hiểu

về cuộc đời, số phận của những kiếp phu xe. Vũ Trọng Phụng lại khoác lên

mình chiếc áo ngắn, để tóc dài để hóa thân thành dân anh chị trong giới cơm

thầy cơm cô để tìm hiểu về cuộc sống của những con người này. Nhà văn

Nguyễn Đình Lạp cũng từng vào tận các “hang hùm” là các ổ ăn chơi đàng

điếm thâu đêm để tìm hiểu sự trụy lạc của thanh niên Hà Thành. Phương pháp

tiếp cận hiện thực của các nhà văn, nhà báo sẽ được chúng tôi nói đến ở chương

sau, ở đây chúng tôi muốn nói đến tư tưởng, quan điểm của những con người

thuộc tầng lớp trí thức này. Các nhà văn muốn phản ánh một cách chân thực bộ

mặt các tầng lớp con người trong xã hội Việt Nam đương thời với tất cả những

góc khuất, đồng thời thể hiện tư tưởng muốn thay đổi, bài trừ các tệ nạn xã hội.

Các nhà văn, nhà báo tìm cách “bắt bệnh” xã hội Việt Nam đương thời, chỉ ra

những ung nhọt đang tồn tại, để nhà cầm quyền thấy được cần phải thay đổi.

80

Trong phóng sự Tôi kéo xe, nhà văn Tam Lang đã chỉ ra sự khổ sở, nhục nhã

của cái nghề “người kéo người” và đề nghị đổi xe kéo thành xe đạp, “người kéo

người” thành “người đạp người”. Sự đóng góp về tư tưởng của Tam Lang đã

dẫn đến kết quả là mười năm sau, ở Hà Nội đã không còn chiếc xe kéo tay nào.

Sự đóng góp về tư tưởng của các nhà văn, nhà báo là một yếu tố quan trọng

góp phần thay đổi xã hội.

* Tiểu kết

Xã hội Việt Nam những năm 1932 – 1945 với đủ các tầng lớp con người

được phản ánh chân thực trong các thiên phóng sự giai đoạn này. Trong các tác

phẩm của Tam Lang, Nguyễn Đình Lạp, Vũ Trọng Phụng, đời sống vật chất

cũng như đời sống tinh thần của các giai cấp, tầng lớp ở đô thị được thể hiện rõ

nét, từ những dân nghèo đô thị như phu kéo xe, người đi ở, me Tây, gái nhà

săm, nhà thổ, cô đầu, người bán rong, làm thuê, hàng thịt vùng ngoại ô đến tầng

lớp trên trong xã hội như quan lại, ông chủ, phụ nữ tân thời, nhà văn nhà báo.

Trong khi dân nghèo đô thị sống cuộc đời vất vả, cực nhọc mà vẫn thiếu thốn,

nghèo khổ thì những ông chủ, bà chủ, quan lại sống cuộc đời nhàn hạ trong

nhung lụa với đủ những thói hư tật xấu và sự độc ác, tàn nhẫn. Sự phân hóa giai

cấp là một vấn đề nhức nhối của xã hội Việt Nam đương thời. Thanh niên trụy

lạc và những tay cờ bạc bịp cũng được phản ánh chân thực từ lối sống, cách

nghĩ đến sự tha hóa nhân phẩm. Hiện tượng thanh niên ăn chơi sa đọa và những

tay bạc bịp lừa lọc để kiếm tiền đã là một vấn nạn xã hội mà nhà văn trăn trở.

Bức tranh hiện thực đa màu sắc về Con người trong xã hội Việt Nam đương

thời được phản ánh trong các thiên phóng sự có giá trị đối với các nhà cầm

quyền, nhà xã hội học và nhà nhân đạo đương thời và sau này.

81

CHƯƠNG 3: CÁC HÌNH THỨC THỂ HIỆN CON NGƯỜI TRONG

PHÓNG SỰVIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1932 – 1945

3.1. Phương thức lựa chọn, tiếp cận con người của phóng sự 1932 - 1945

3.1.1. Phương thức lựa chọn con người làm đối tượng phản ánh của phóng sự

Phóng sự đòi hỏi phản ánh hiện thực một cách thời sự, nhanh chóng,

chuẩn xác, đảm báo tính khách quan và không được hư cấu. Bởi vậy, việc lựa

chọn đối tượng điều tra, khám phá của các tác giả là vô cùng quan trọng. Giữa

dòng chảy bộn bề của hiện thực, việc lựa chọn đối tượng nào để bật lên “cái

thần” của hiện thực, bản chất của vấn đề phụ thuộc vào năng lực và góc nhìn

của người viết. Để phản ánh chân thực, rõ nét đời sống vật chất, tinh thần của

các giai cấp, tầng lớp người trong xã hội Việt Nam những năm 30 của thế kỉ

XX, các nhà phóng sự giai đoạn này đã rất nhanh nhạy, tinh tế và sắc sảo, lựa

chọn những con người tiêu biểu làm đối tượng phản ánh trong tác phẩm của

mình, để từ đó khái quát hiện thực, mang đến cho người đọc cái nhìn “toàn

cảnh” và chi tiết về một bộ phận người nào đó trong xã hội. Đối tượng lựa chọn

của các nhà phóng sự không phải là đám đông láo nháo đủ mọi giai cấp, tầng lớp

trong xã hội nhốn nháo mà họ là những con người cụ thể, đại diện cho một tầng

lớp. Để rồi, từ lớp người cụ thể ấy, tác giả lại tuyển chọn lấy một “mẫu người”

tiêu biểu nhất, xem đây là một “bằng chứng sống” đầy sức thuyết phục để phản

ánh chân xác mọi vấn đề của lớp người này, từ công việc, đời sống vật chất đến

những suy nghĩ, tình cảm, thái độ của họ trước cuộc đời. Tam Lang, Nguyễn

Đình Lạp, Vũ Trọng Phụng là những cây bút phóng sự tiêu biểu đã tỏ ra rất “nhà

nghề” trong việc lựa chọn những “mẫu người” làm đầu mối cho công cuộc điều

tra, khảo cứu của mình về một lớp người cụ thể nào đó trong xã hội thành thị

Việt Nam đương thời.

Viết phóng sự đầu tay Tôi kéo xe, nhà văn Tam Lang “muốn phác họa

một bức tranh tả cái cảnh sinh hoạt khổ sở cuả một hạng người trong xã hội”

[45; tr. 18] là những phu kéo xe và ông đã lựa chọn anh Tư S. – một phu xe lành

82

nghề để tìm hiểu về hạng người này.Với “thâm niên”12 năm trong nghề “người

kéo người”, anh Tư S. nắm rõ hơn ai hết mọi “bí kíp” của nghề và cũng từng

nếm trải tất cả nỗi cơ cực của một cuộc đời cu-li xe kéo. Anh Tư S có thể xem

là một con người tiêu biểu cho các “giai đoạn phát triển”, cho nội tâm cũng như

ngoại hiện, đời sống vật chất cũng như đời sống tinh thần của một hạng người

cùng đinh trong xã hội thành thị Việt Nam đương thời: phu kéo xe. Việc lựa

chọn Tư S để làm nổi bật cuộc đời, số phận của lớp này là một sự khôn ngoan,

tinh tế của nhà báo Tam Lang.

Lựa chọn con người cụ thể, tiêu biểu cho một bộ phận người muốn khám

phá, phản ánh cũng là phương thức mà nhà văn Nguyễn Đình Lạp đã sử dụng

trong thiên điều tra Thanh niên trụy lạc và phóng sự tiểu thuyết Ngoại ô, Ngõ

hẻm của mình. Để làm rõ cái sự ăn chơi sa đọa của thanh niên Hà Thành lúc

bấy giờ, nhà văn đã theo chân Minh và Kính, những “thanh niên tiêu biểu”,

những con người quên ngày tháng, quên cả bản thân và gia đình trong những

cuộc vui say, hoan lạc không có điểm dừng. Cái kết bệnh nặng của Minh cũng

như thái độ “lạnh lùng” của Kính trước sự đau đớn thảm hại của “bạn đồng

hành” cũng là tiêu biểu cho hậu quả và sự tha hóa của con người trong lối sống

trụy lạc. Trong Ngoại ô, Ngõ hẻm, nhà văn lại lựa chọn cuộc sống của gia đình

bác Vuông và gia đình anh Nhớn để làm nổi bật cuộc sống bần hàn, cơ cực của

người dân nghèo vùng ngoại ô. Những sóng gió mà gia đình bác Vuông, anh

Nhớn liên tiếp phải trải qua, đời sống vật chất cũng như đời sống tinh thần của

họ là tiêu biểu cho những người dân vùng ven đô này.

Vũ Trọng Phụng là một nhà văn có tài nắm bắt hiện thực, lựa chọn đối

tượng phản ánh. Phóng sự Cạm bẫy người của Vũ Trọng Phụng viết về hạng

người cờ bạc bịp, nhà văn đã lựa chọn ông Ấm B. – một ông trùm của “đảng

bịp” để hiểu tường tận mọi thủ đoạn được dàn dựng trong mỗi canh bạc. Trong

thiên Kỹ nghệ lấy Tây, nhà văn họ Vũ đã lựa chọn đối tượng là những me Tây

lấy lính lê dương – loại mạt hạng nhất của nghề lấy Tây để tìm hiểu về lớp

83

người này. Thâm nhập vào “làng me”, nhà văn cũng lựa chọn tiếp cận những

“me Tây cự phách”, thiện nghệ trong nghề là bà hoàng hậu Ách Nhoáng, bà

Kiểm Lâm…và đối tác của họ là anh lính già “cự môn thê thiếp” Đi-mi-tốp,

sau đó là nhân vật “sắp vào nghề” – cô đầm lai SuZanne và anh lính trẻ đẹp trai

Hiếc - Tôn để khám phá những “kỹ nghệ” của cái nghề đặc biệt này cũng như

cuộc đời, số phận của họ. Để tìm hiểu sâu sắc số kiếp gái mãi dâm, trong thiên

phóng sự Lục sì, nhà văn Vũ Trọng Phụng không chỉ lựa chọn tiếp cận những

“cô thợ” tiêu biểu của “kỹ nghệ mãi dâm” như Thị Lành, Thị Yến mà còn tìm

đến cả Giám đốc nhà lục sì kiêm Giám đốc ngạch vệ sinh thành phố, ông

Joyeux, người am hiểu tường tận về nghề này để tìm hiểu những bi kịch, những

ngón nghề và cả những tình cảm, suy nghĩ của những phụ nữ làm đĩ.

Phương thức lựa chọn con người làm đối tượng phản ánh để từ đó tìm hiểu

về một tầng lớp người trong xã hội chính là một biện pháp nghệ thuật thể hiện

sự nhạy bén của các cây bút phóng sự. Việc “khoanh vùng đối tượng” và lựa

chọn con người tiêu biểu, đại diện cho một lớp người đã giúp các nhà văn nắm

bắt được “cái thần”, khám phá ra những đặc điểm nổi bật nhất của lớp người đó.

Đó cũng là thành công đầu tiên của các nhà văn Tam Lang, Nguyễn Đình Lạp,

Vũ Trọng Phụng trong việc dựng lên bức tranh chân thực, sống động nhất về

Con người trong xã hội Việt Nam những năm 30 cuả thế của kỉ XX.

3.1.2. Phương thức tiếp cận và khai thác thông tin ở những con người cụ thể

Giá trị của một thiên phóng sự phụ thuộc nhiều vào việc khám phá, khai

thác thông tin của đối tượng qua các thao tác nghề nghiệp như điều tra, phỏng

vấn, trực tiếp trải nghiệm, thu thập tài liệu từ nhiều nguồn… Ở phóng sự 1932

– 1945, khả năng khám phá, tiếp cận, khai thác thông tin đối tượng của các tác

giả đã đạt đến trình độ cao. Các tác giả đã tiếp cận con người từ nhiều góc độ,

khoảng cách khác nhau để phát hiện ra bản chất của từng lớp người cũng như

sự đa dạng, phong phú của các giai cấp, tầng lớptrong xã hội Việt Nam đương

thời. Tùy thuộc vào cái “tạng” của từng nhà văn cũng như vấn đề được phản

84

ánh mà ở mỗi tác phẩm, tác giả lại lựa chọn những cách tiếp cận sáng tạo khác

nhau.Khi thì nhìn hiện thực một cách cận cảnh, chi tiết, cụ thể; khi thì tiếp cận

bằng bức tranh toàn cảnh, bao quát; có tác giả đã dấn thân vào hiện thực, đặt

mình vào hoàn cảnh của người trong cuộc để thấu hiểu đời sống của lớp người

mình đang điều tra như Tam Lang, Vũ Trọng Phụng. Rất nhiều khi, những cách

tiếp cận trên được kết hợp với nhau trong một tác phẩm, nhìn đối tượng từ nhiều

góc nhìn khác nhau để có những phát hiện đầy đủ nhất. Những chính sách tiếp

cận năng động này khiến phóng sự 1932 – 1945 thâu tóm hiện thực một cách

sâu sắc, toàn diện hơn.

Là người tiên phong của thể loại phóng sự ở Việt Nam, nhà báo Tam

Lang cũng là người mở đường cho lối dấn thân trải nghiệm để tìm hiểu hiện

thực trong giới văn sỹ nước ta lúc bấy giờ. Vì bản chất của phóng sự là điều

tra, khám phá sự thực, không hư cấu, nên để tìm hiểu về hạng người phu kéo

xe trong xã hội thành thị Việt Nam đương thời, Tam Lang đã chọn cách “đội

lên đầu chiếc nón phu xe kéo”, nhập vào đội quân quần nẹp trắng để trải nghiệm

mọi nỗi khổ cực của họ, để làm quen và lắng nghe mọi “tâm sự nghề nghiệp”

của họ. Đây là cách mà Tam Lang đã học tập ở nhà văn Marise Choisy– người

đã đổi lấy bộ áo con đòi vào ở thổ để viết lên thiên phóng sự “Carnet d’une

femme de chambre 1933”. Tam Lang cũng đã theo chân một anh cu-li xe mới

quen tìm đến “cái ổ” của phu xe là bãi Cơ Xá Nam. Ở đây, nhà văn gặp được

anh Tư S. – một phu xe lành nghề và sẵn sàng mở lòng tâm sự về mọi nẻo của

cái nghề mạt hạng này. Với sự “nhà nghề” của một cây bút điều tra, nhà văn đã

tiếp cận, làm thân và biến mình thành một học trò bên hến thuốc phiện của anh

Tư để được nghe giảng dạy về các ngón nghề, kĩ thuật kéo xe cũng như những

thủ đoạn ma cô, dắt gái của một phu xe tha hóa như anh. Lần đầu tiếp xúc, anh

Tư có khi tỏ ra nghi ngờ về thân phận của tác giả nhưng sự khôn khéo rất

chuyên nghiệp của một người đi điều tra đã giúp ông lấy được lòng tin ở anh

Tư, được nghe những điều chân thực nhất.

85

Trong các thiên phóng sự Đĩa mứt gừng, Lọng cụt cán, Tập ảnh, Tam

Lang đã kết hợp giữa góc nhìn bao quát toàn cảnh và chi tiết, cận cảnh để dựng

lên bức tranh nhiều màu về giới quan lại, ông chủ, bà chủ, phụ nữ tân thời trong

xã hội Ta trước sự ảnh hưởng mạnh mẽ của luồng gió văn hóa Tây. Mỗi tác phẩm

là tập hợp những mẩu chuyện về những con người cụ thể. Dẫu mỗi chuyện chỉ

là một lát cắt đời sống nhưng chân dung nhân vật được dựng lên một cách chân

thực, sống động dưới góc nhìn châm biếm mỉa mai của tác giả.

Viết phóng sự sau Tam Lang nhưng Vũ Trọng Phụng là người đã đưa

thể loại này đạt đến đỉnh cao của nó. Một trong những lí do khiến nhà văn họ

Vũ được phong ngôi “vua phóng sự đất Bắc” là bởi ông đã có cách tiếp cận đối

tượng và khai thác thông tin hiệu quả, rất “nhà nghề”. Nếu viết Tôi kéo xe, Tam

Lang “mượn bộ quần áo nâu của một bạn áo ngắn, khoác lên mình rồi mạnh

dạn đi làm xe” [45; tr. 18] thì Vũ Trọng Phụng cũng “nuôi tóc cho rõ dài” [47;

tr. 731], khoác chiếc áo mưa hào rưỡi và đeo kính đen để trở thành một tay anh

chị trong giới cơm thầy cơm cô để tìm hiểu về hạng người này. Có khác là, nếu

Tam Lang hóa thân thành một phu xe mới vào nghề để được nghe giảng giải về

những “bài học vỡ lòng” từ một phu xe lành nghề thì Vũ Trọng Phụng nhập vai

là một tay anh chị đáng nể trong giới đi ở để nghe những câu chuyện của những

kiếp con sen, thằng nhỏ, vú em… khác nhau. Với sự xông xáo của một cây bút

điều tra, nhà văn Vũ Trọng Phụng đã vận dụng mọi cách thức, “bờm xơm với ba

bốn con nhãi…bắt nhân tình với một vú em…kết bạn thân với mấy bác quýt, gọi

cái mụ già bây giờ làm nghề đưa người là mẹ nuôi” [47; tr. 731] để khai thác

được nhiều thông tin xác thực, để nhìn nhận về giới đi ở từ nhiều phương diện,

góc cạnh khác nhau. Kết thân, bắt nhân tình với con sen Đũi, nhà văn đã được

nghe kể về cuốn tiểu thuyết cuộc đời của nó, qua đêm tại những hàng cơm tồi

tàn – nơi trú tạm của những kẻ đi ở chưa có việc làm, nhà văn được nghe kể một

cách chân thực về nỗi khổ và cả những tâm sự của họ.

86

Là một nhà phóng sự xông xáo nhưng không thể viết về hạng người nào

là nhà văn có thể nhập vai là một thành viên của giới đó. Vũ Trọng Phụng luôn

sáng tạo những cách tiếp cận và khai thác thông tin khác nhau tùy thuộc vào đối

tượng. Viết Kỹ nghệ lấy Tây và Cạm bẫy người, nhà văn họ Vũ đã tiếp cận, làm

quen với những me Tây cự phách hay ông trùm bạc bịp, tỏ ra đứng về phía họ,

đồng cảm với họ để được lắng nghe những tâm sự chân thật nhất. Trong Kỹ nghệ

lấy Tây, khi tiếp xúc với những con người tiêu biểu của làng me, Vũ Trọng Phụng

với sự thạo nghề của mình đã luôn biết cách “lựa lời” để khai thác thông tin. Có

lúc, ông phải thể hiện sự đồng tình, thậm chí đề cao họ, để họ không bất bình

hay tự ái: “Ấy chết! Nếu vậy thì trong những cuộc Đông Tây hợp tác “Âu Á đề

huề”…các me là những kẻ hi sinh đầu tiên để tìm sự từng trải chẳng lẽ lại không

đáng kỷ công, gọi có chút đền bù [47; tr. 705, 706]. Thậm chí, để lắng nghe tâm

sự của SuZanne – một cô đầm lai, tác giả còn làm thân, còn tỏ ra như đang tán

tỉnh. Hoặc, tác giả còn kết bạn với Hiếc – Tôn – một anh lính trẻ đẹp trai, người

sẽ làm chồng của một số me. Những cách tiếp cận và gợi chuyện khôn khéo đó

đã khiến các me “cởi lòng cởi dạ” nói những điều rất thật về nghề lấy Tây và

cũng không e ngại gì khi thể hiện đời sống thực của mình. Trong Cạm bẫy người,

tác giả lại là một bạn thân đáng tin tưởng của anh Vân – người có bố là “mòng”,

để từ đó theo chân anh Vân đến mọi “hang hốc” của làng bịp, làm quen được với

ông trùm Ấm B, nghe ông này dẫn dắt, kể lệ mọi sự về nghề cờ bạc bịp. Tác giả

phải tỏ ra là người “chung một chiến hào” với họ để hiểu hết các thủ đoạn lừa

bịp của họ. Có lúc, tác giả phải giúp ông trùm Ấm B. đi cản để một người tay

chân của ông đánh đòn Vân Nam, qua đó được ông này dạy cho “mấy bài” để

lừa con bạc. Sự thân thiết này đã giúp tác giả điều tra được chân tướng nghề cờ

bạc bịp, thấy rõ cuộc đời, số phận những con bạc, gồm cả kẻ đi lừa và nạn nhân.

Viết Một huyện ăn Tết, tác giả đã có dịp năng nằm bên bàn đèn thuốc phiện với

một vị lục sự già, được chứng kiến những người ra vào nơi đây với những món

quà và những lí lẽ. Từ chỗ ngạc nhiên không hiểu đến chỗ khéo gợi, tác giả đã

87

được nghe lục sự giảng giải cắt nghĩa về cái cách “kiếm tiền tiêu Tết” của quan

lại và lính cơ trong tháng củ mật cuối năm.

Điều tra, thu thập thông tin đã khôn khéo, nhà văn Vũ Trọng Phụng lại

có góc nhìn mới lạ nên phát hiện được những vấn đề mới trong những hiện

tượng đã quen trong xã hội. Viết Cạm bẫy người, Một huyện ăn Tết và Kỹ nghệ

lấy Tây, tác giả đã nhìn những vấn đề từ góc độ cơ cấu tổ chức bên trong chứ

không chỉ là những biểu hiện bên ngoài. Với góc nhìn này, tác giả phát hiện ra

rằng: làng bịp có hai cánh: cánh ông Ấm B và cánh của Thượng Ký. Chúng là

“đồng nghiệp” nhưng cũng là kẻ thù của nhau, thanh toán nhau theo luật giang

hồ. Dưới trướng của mỗi ông trùm là một “bộ tham mưu” gồm những kẻ

“chuyên gia bạc bịp” như Tham Ngọc, Kỹ Vũ, Ba Mỹ Ký…và hàng trăm tên

“tạ” đầu trâu mặt ngựa đóng vai trò chân rết, đi săn mòng ở khắp nơi. Làng bịp

lại có cả “nơi giữ cái két lớn nhất” và “xưởng chế tạo khí giới” để làm ra những

công cụ hành nghề. Sự tổ chức của làng bịp thực là rất chặt chẽ và hoạt động

của nó cũng rất chuyên nghiệp. Cứ đến “mùa săn” (kỳ lĩnh lương của công

chức) thì cả làng bịp lại ráo riết ra quân dưới sự điều hành của những ông trùm

ở “sở chỉ huy”. Đối với tệ nhũng lạm trong Một huyện ăn Tết, tác giả vẫn dùng

lối khám phá cơ cấu tổ chức bên trong, nhưng không phải là “tổ chức ngầm”

như làng bịp mà là cả một bộ máy chính quyền hợp pháp trong xã hội thuốc

địa. Quy trình tham nhũng ở đây là: Quan huyện kí công lệnh cho lính đi tuần

tra, viên lục sự già chuyển mệnh lệnh này cho thầy cai, thầy đội, lính cơ, lính

lệ. Các đội quân thừa hành công vụ đó sẽ chia thành nhiều đợt khác nhau. Họ

hàng ngũ chỉnh tề, trống rong cờ mở rất “oai hùng” tiến về các làng xã mà “tuần

tra” nhưng thực chất là sục sạo buộc đám chức sắc địa phương phải hối lộ cho

chúng thì mới được yên. Số tiền có được từ những cuộc “tuần tra” ấy sẽ được

ăn chia theo tỷ lệ đã định: một nửa nộp lên ông quản cơ, ông này dùng tiền kia

để biếu quan trên, cụ bố, cụ Thượng, số còn lại trích biếu ông lục sự rồi mới

chia nhau bỏ túi. Cách tiếp cận này cũng cho thấy một sự thực chua chát: tham

88

nhũng không phải diễn ra ở một ông quan hay một ông lục sự mà là cả bộ máy

chính quyền từ trên xuống dưới. Cả một bộ máy hành chính “ăn cướp có giấy

phép” cho thấy cái xã hội đã đến độ thối nát, băng hoại. Trong Kỹ nghệ lấy Tây,

nhà văn lại phát hiện ra cái cơ cấu tổ chức của làng me, mới hay nghề lấy Tây

đã có cả một lịch sử phát triển của nó, có tổ sư nghề, có những “thợ già” như

bà Ách Nhoáng, Kiểm Lâm, Đội Tứ…, những “cô thợ trẻ” mới bước chân vào

nghề như Duyên, Ái, Tích…và cả những người “sắp vào nghề” như SuZanne.

Trong một tác phẩm, nhà văn Vũ Trọng Phụng có thể sử dụng nhiều góc

nhìn khác nhau để tiếp cận và tìm hiểu đối tượng. Trong Cạm bẫy người và Kỹ

nghệ lấy Tây, ngoài việc nhìn vấn đề từ góc độ cơ cấu tổ chức, ông còn sử dụng

ống kính “kỹ nghệ” để soi chiếu. Vì thế, nhà văn đã phát hiện ra rằng, trong xã

hội đương thời, cờ bạc không còn là một thú vui tiêu khiển mà là một nghề để

kiếm sống, nên những tay cờ bạc bịp sử dụng mọi thủ đoạn, ngón nghề để săn

mòng, bắt mồi. Xã hội Âu hóa nên cũng xuất hiện một nghề “rất mới” là nghề

lấy Tây. Những con người hành nghề này có những “kỹ nghệ” rất thành thạo

để kiếm tiền nhưng cũng khó tránh khỏi những “tai nạn nghề nghiệp”, gặp phải

những hậu quả bi kịch.

Tiếp cận đối tượng từ góc nhìn bao quát, toàn cảnh là phương thức mà

nhà văn Nguyễn Đình Lạp đã sử dụngtrong phóng sự Thanh niên trụy lạc để

tìm hiểu lối sống sa đọa của thanh niên Hà Thành. Tác giả đã rọi ánh mắt nhìn

khắp lượt Hà Thành ở các nhà chứa, nhà cô đầu, tiệm hút, sòng bạc để tận mắt

chứng kiến cảnh ăn chơi thác loạn của thanh niên sau mỗi lúc thành phố lên

đèn. Theo chân Minh và Kính, nhà văn tiếp cận nhiều đối tượng sành sỏi khác

trong làng ăn chơi như Thanh, Trọng, giáo sư nhảy đầm, cũng không ít lần mất

tiền với họ, để được nghe họ kể, để nhìn thấy sự hăng máu lúc tham gia và sự

rệu rã, thảm hại lúc tiệc tàn, thua bạc của họ. Viết Ngoại ô, Ngõ hẻm, nhà văn

Nguyễn Đình Lạp đã kết hợp cả lối tiếp cận bao quát toàn cảnh và cụ thể, chi

tiết. Ông không chỉ nhìn thấy bức tranh chung về dân nghèo ngoại ô mà còn

89

nhìn thấy nỗi bi kịch của từng số phận cụ thể, mà gia đình bác Vuông và gia

đình anh Nhớn là những tiêu biểu.

Phương pháp tiếp cận và khai thác thông tin từ đối tượng một cách đa

dạng, phong phú đã giúp các nhà văn có được những tư liệu quý báu, nhìn con

người từ nhiều phương diện, góc độ khác nhau để sự phản ánh được chân xác

nhất. Phương pháp tiếp cận và khai thác thông tin về con người chính là một

yếu tố “nhà nghề” của các cây bút phóng sự Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945.

3.2. Bút pháp tả chân khi phản ánh con người của phóng sự 1932 – 1945

Văn học hiện thực Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 với sự góp mặt của

nhiều cây bút tài năng thực sự đã gặt hái được những thành công nhất định. Nếu

văn học lãng mạn đề cao cái Tôi cá nhân với những xúc cảm thì hiện thực cuộc

sống lại chính là mục đích cuối cùng của các nhà văn hiện thực chủ nghĩa.

Phóng sự là một thể loại thuộc văn học hiện thực. Nếu “tiểu thuyết là sự thực

ở đời” thì ở phóng sự - một thể loại nửa văn nửa báo với mục đích tìm hiểu,

khám phá hiện thực và không chấp nhận hư cấu thì chất hiện thực lại càng rõ

nét hơn bao giờ hết, trở thành một yếu tố quan trọng đầu tiên của thể loại này.

Cho nên, bút pháp tả chân là một “công cụ” đắc lực của các cây bút phóng sự.

Bút pháp này được các nhà phóng sự sử dụng trong nhiều “công đoạn”, từ miêu

tả nhân vật đến sự kiện, hoàn cảnh…

3.2.1. Bút pháp tả chân khi miêu tả con người.

Ở bất cứ thể loại văn học nào, con người luôn là “tâm điểm”. Với phóng

sự, con người là “hạt nhân phản ánh” và với đặc trưng không chấp nhận hư cấu

của phóng sự thì con người ở đủ mọi giai cấp, tầng lớp khác nhau được miêu

tả một cách chân thực nhất, từ ngoại hình đến hành động, suy nghĩ và xúc cảm.

Ngoại hình là vẻ bên ngoài của con người, là yếu tố đầu tiên tác động

đến giác quan của người quan sát. Với chức năng phản ánh hiện thực, để thể

hiện một cách “thật” nhất đời sống của các giai cấp, tầng lớp con người trong

90

xã hội, ống kính phóng sự của các nhà báo đã lia nhanh và ghi lại những đặc

điểm ngoại hình của từng lớp người, từng con người cụ thể. Những kiếp người

lầm than, cơ cực là một “nỗi đau” của xã hội, khiến các nhà văn, nhà nhân đạo

hết mực quan tâm. Họ thảm hại, khổ sở ngay từ ngoại hình và mỗi người một

cách. Khi miêu tả ngoại hình của những con người nghèo khổ, các nhà phóng

sự không chỉ ghi lại chân thực sự thảm hại, tàn tạ của họ mà còn giáp tiếp thể

hiện thái độ xót thương cho những kiếp bần hàn dưới đáy xã hội. Phu kéo xe –

một bộ phận dân nghèo thành thị mà điển hình là anh Tư S được nhà văn miêu

tả có ngoại hình tiêu biểu cho vóc dáng của những kiếp cu-li kéo xe nhọc nhằn

và nghiện ngập: “Anh ta chừng 40 tuổi, xanh và gầy. Hai mắt chũng sâu, hai

cánh tay như ống sậy. Mảnh quần nâu vén lên quá gối, để phô ra hai cẳng chân

cũng chẳng béo gì hơn hai cánh tay” [45; tr. 32]. Còn những con sen, thằng

quýt thì “người ngợm và quần áo đã đủ tiêu biểu cho bao nhiêu nỗi thống khổ

của loài người, từ khi cuộc đời là cuộc đời” [47; tr. 753]. Hình ảnh những người

dân nghèo ngoại ô được nhà văn Nguyễn Đình Lạp miêu tả thảm hại một cách

chân thực. Bác Vuông là “một người đàn ông chạc băm nhăm, băm sáu

tuổi…bận cái áo cánh nâu và cái quần cùng một thứ vải nhưng mầu bạc hơn

một chút” [45; tr. 347]. Sau những sóng gió dập vùi cứ ào ạt kéo đến với gia

đình, bác Vuông “ngày càng xanh và gầy” [45; tr. 476], suy nhược cả về xác

thịt lẫn tinh thần.

Vũ Trọng Phụng dường như có “duyên” phản ánh những hiện tượng “bất

thường” trong xã hội loài người, bởi ông vua phóng sự này ưa sục sạo vào mọi

hang cùng ngõ hẻm của cuộc sống để khám phá, điều tra những điều người ta

không phơi bày ra. Gái mãi dâm dưới ngòi bút tả chân của Vũ Trọng Phụng có

ngoại hình đáng để người ta phải ngán ngẩm: “Có những cô ả mặt mũi khô héo

với những quần áo tươi tốt…Lại có thị vận cả măng-tô rất hợp thời trang. Những

cái môi tô son hình quả tim, những cái mi mắt quầng đen…trên những cái mặt

hoặc béo hoặc gầy” [47; tr. 811]. Thị Lành, một gái mãi dâm được tả không chỉ

91

vừa già vừa xấu mà “còn đáng ghê tởm đến buồn nôn lên nữa”với “hai cái má

bánh đúc…cặp môi giầy…hai mắt nhỏ tí…có một cái bụng và hai bắp đùi có thể

đựng lọt một người đàn ông…” [47; tr. 849]. Còn những me Tây thì “xấu như

bà Ách kể cũng đã là xấu” [47; tr. 698]. Các “cô thợ trẻ” mới vào nghề thì không

chỉ xấu mà còn vụng về. Duyên vốn là cô gái quê “một tháng chưa tắm, rận chấy

lúc nào cũng như sung” [47; tr. 693], sau khi được bà cô dạy “đánh phấn, bôi

môi, kẻ lông mày” [47; tr. 695] thì cái mặt cũng không có nổi vài nét…me, cũng

“quần trắng…áo len xanh, đôi bít tất hoa đào…răng trắng cẩn thận” nhưng

nhìn vẫn “quê kệch” [47; tr. 692]. Trong Cạm bẫy người, Vũ Trọng Phụng đã

làm sống dậy hình ảnh một tên trùm bạc bịp với những nét “không bịp” chút nào

để chứng tỏ cho cái tài biến hóa khôn lường của hắn: “ông ta người trông đẫy

đà, bệ vệ như một ông hậu hoặc một viên tri châu nào” [47; tr. 580]. Ông Ấm B

– vị quân sư của làng bịp ấy có cái tài hễ giao thiệp với hạng nào thì sẽ có lối ăn

mặc và nói chuyện của hạng ấy, để không bị “lộ tẩy”, nên ông cứ “ngã vào đâu

cũng có thể “rựt” nổi trăm bạc”. Ngòi bút tả chân khi miêu tả ngoại hình nhân

vât của nhà văn họ Vũ thực vô cùng sắc sảo và chân thực, bởi ông muốn tác

phẩm của mình phải là “sự thực ở đời”.

Với những tầng lớp trên của xã hội, nhất là những quan lại, ông chủ, bà

chủ thì bút pháp tả chân được vận dụng kết hợp với lối nói mỉa mai, châm biếm.

Tác giả không chỉ phác họa bức chân dung những con người lắm tiền nhiều của

mà còn ngòi bút miêu tả chân thực vẫn thấp thoáng thái độ đả kích, phán, thể

hiện rõ quan điểm hiện thực khi nhìn nhận các vấn đề xã hội. Cho nên, ngôn

ngữ tả chân khi miêu tả tầng lớp thượng lưu của các nhà phóng sự ít nhiều có

lối nói quá, cường điệu: Quan Hàn đã có đủ sâm nhung mà tẩm bổ “cho người

thêm phì nộn”, có “bộ râu “ghi đông” uốn theo kiểu Hoa Kỳ, chiếc áo gấm

lam thất thể, đôi giày ban bóng loáng” [45; tr. 192] tăng thêm cái vẻ bệ vệ; ông

Hường Lồ dù đã gần 60 nhưng vẫn còn “thắm thịt đỏ da”, cái đầu huê râm đã

húi trọc và nhất là bộ mặt “vuông chữ “điền” còn bụ bẫm như mặt một đứa trẻ

92

thơ” [45; tr. 190]. Các cô chủ, bà chủ, phụ nữ tân thời thì dù ăn mặc sang trọng,

hiện đại nhưng vẫn còn những nét “quê kệch”, vụng về chưa dứt bỏ được. Ngoại

hình đôi khi còn thể hiện rõ sự độc ác, tàn nhẫn của họ. Mụ chủ cho thuê xe trong

Tôi kéo xe được miêu tả là một “người to lớn”, lại đang “cởi trần”, “dưới mảnh

yếm rộng không hơn chiếc mù soa, thỗn thện cặp vú sọ dừa to như hai chiếc ấm

giỏ” [45; tr. 28]. Còn tên cai xe thì “soạc rộng cái mồm đầy hai hàm răng cáu

bựa như những múi na” [45; tr. 18]. Lối tả thực này hàm ẩn cả thái độ châm

biếm, đả kích sâu cay những tên chủ tham lam, độc ác, những tên cai tàn nhẫn,

vô lương tâm trước nỗi thống khổ của người dân lao động nghèo.

Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 đã đạt đến trình độ cao trong

việc miêu tả hành động, suy nghĩ và nhất là tâm trạng của con người. Phóng sự

chủ yếu hướng tới phản ánh nhân vật gắn liền với những sự kiện nhưng bên

cạnh các chi tiết về hành động thì các đặc điểm về suy nghĩ, tâm trạng con

người cũng được thể hiện một cách chân thực. Cử chỉ, suy nghĩ, cảm xúc của

những người lao động nghèo được các nhà văn tái hiện có gì đó khổ sở, đáng

thương, tội nghiệp nhưng không phải lúc nào nhà văn cũng tỏ sự đồng tình.

Trong một căn nhà thấp, tối, anh Tư S “ngồi lên, đưa hai đầu gối lên khỏi mang

tai, tháo cái lọ ở chiếc xe ra, phanh ngực, vén tay áo lên đến vai, nạo sái” [45;

tr. 33]. Anh đã từng xấu hổ, nhục nhã khi “sa cơ lỡ vận” nhưng sự đời bất công

đã khiến anh trước mắt chỉ có một vật là …tiền. “Ngoài đồng tiền, không còn

có cái gì hơn. Nhân, đức, lễ, nghĩa…vứt đi, vứt đi hết” [45; tr. 57]. Hạng cơm

thầy cơm cô thì có những cử chỉ “rất quê” của những con người “không sinh ra

ở chốn đế đô”: “anh chàng đầu trọc…thì ngửa cổ hề hề cười như một chú

Khách lòi rốn... Thằng bé con ho lao hết ho sù sụ như ông cụ. Bà lão già cũng

ngây người ra như một pho tượng sống… Đứa đã dậy rồi lấy chân đạp vào

mạng mỡ để đánh thức đứa khác còn ngủ say…hai con sen kia cùng đứng phắt

lên” [47; tr. 757]. Họ chỉ mong muốn được vào làm cho một gia đình tử tế

nhưng họ cũng sẽ nói xấu chủ nhà như điên khi bị chủ bóc lột, đối xử thậm tệ.

93

Thậm chí, họ sẽ nghĩ cách báo thù. Con sen Đũi từng đau khổ và sợ sệt khi bị

mụ chủ giữ chân tay, nhét giẻ vào mồm cho một thằng oẳn ra sức mà “hiếp”.

Nó cũng từng nhục nhã khi bị mụ chủ thứ hai đánh đập và chửi rủa. Cho nên,

cái Đũi có suy nghĩ sẽ “báo thù” cho hả dạ và muốn được làm cô đầu để có cơ

hội lên làm bà Phán, bà Ký, để “chúng nó phải mê tôi, yêu tôi, bắt nhân tình

với tôi, chiều chuộng tôi kia” [47; tr. 751]. Trong khi những dân nghèo ngoại ô

khổ sở, điêu đứng trước sự ngăn cấm, bắt bớ của quan trên, bác Vuông chỉ còn

biết nằm trong cái chiếu “mà nuốt những nỗi hậm hực, những tiếng thở dài, tha

hồ mà uống những giọt lệ âm thầm ứa ra hai khóe mắt sâu hoắm, quầng đen”

[45; tr. 472] thì những thanh niên trụy lạc chỉ nghĩ sao để tổ chức một cuộc vui

cho hoành tráng, không cần biết đến ngày mai, chỉ có vui, say, hoan lạc là đáng

để ngợi ca, tung hô, ái tình, tình nghĩa trở nên xa xỉ và dường như không tồn tại.

Những me Tây thì chỉ biết có tiền“Chứ không ư? Việc gì mà lại chẳng vì tiền?”

[47; tr. 705] , mọi suy nghĩ của họ cũng chỉ là làm sao để nhanh kiếm xu, ái tình

mùi mẫn chỉ là một cách để những ông chồng Tây phải xì tiền ra mà thôi. Họ

cũng tự thấy “hạng đàn bà chúng tôi là hạng bỏ đi, xã hội không cần kể đến

nữa”. Những gái mãi dâm thì hiếm thấy ai biết đau khổ khi phải bán thân xác

hàng đêm. Đã đăng thân làm nghề này thì với họ cầm giấy hay không cũng

chẳng can hệ gì, dẫu chưa cầm giấy thì họ“cũng đã sẵn có cái linh hồn của gái

thanh lâu rồi”. Cũng như thế, những tay cờ bạc bịp có khi nào viết thương kẻ

nạn nhân? Vì tiền, họ sẵn sàng lừa lọc, sát phạt nhau, đến người thân cũng

không tha, bởi lẽ “mình không xơi thì cũng đến lượt chán vạn thằng khác chúng

nó xơi” [47; tr. 590]. Một xã hội mà quan lại, lính lệ chỉ nghĩ cách để tham

nhũng, bóc lột kẻ dưới quyền và người dân lao động (Một huyện ăn Tết), những

tay cờ bạc thì dàn trận để săn mòng, thanh niên thì ăn chơi trụy lạc, phụ nữ thì

làm đĩ để kiếm tiền, người lao động nghèo thì cơ cực quá mà tha hóa, biến

chất… Đó thực là một xã hội “khốn nạn” và “chó đểu”. Ngoại hình, suy nghĩ,

hành động của họ làm nên một bức tranh chân thực, đầy xót thương, trăn trở

mà cũng đầy uất ức về hiện thực xã hội Việt Nam đương thời. Các biện pháp

94

nghệ thuật, ngôn ngữ được sử dụng để miêu tả ngoại hình, suy nghĩ, hành động

của nhân vật không chỉ nhằm mục đích phản ánh hiện thực, phản ánh – thông

tin cụ thể, chính xác mà còn nhằm mục đích tác động đến thái độ, cảm xúc của

người đọc, xây dựng nhân vật có tính chất điển hình tiêu biểu cho một lớp người

trong xã hội. Đây chính là yếu tố tiểu thuyết trong mỗi tác phẩm phóng sự văn

học giai đoạn 1932 – 1945.

3.2.2. Bút pháp tả chân khi kể sự việc, tả cảnh

Con người luôn được đặt trong một hoàn cảnh cụ thể, gắn liền với những

sự việc cụ thể. Bởi vậy, để làm nổi bật hình ảnh con người với những đặc điểm

về đời sống vật chất, đời sống tinh thần, nhà văn luôn chú ý miêu tả các yếu tố

thuộc về cảnh vật, sự việc có liên quan. Ở thể loại phóng sự - một thể loại yêu

cầu cao về tính hiện thực, bút pháp tả chân được sử dụng không chỉ trong khi

miêu tả con người mà còn lúc dựng cảnh, kể sự việc.

Các nhà phóng sự giai đoạn 1932 – 1945 cũng đồng thời là người viết

truyện ngắn, tiểu thuyết nên trong tác phẩm của họ, những cảnh tượng, sự việc

được tái hiện không chỉ mang tính hiện thực mà còn thể hiện quan điểm đánh

giá và tấm lòng nhân đạo sâu sắc. Người đọc thấy rõ được thái độ bất bình và

cả sự thương xót của nhà báo Tam Lang khi dựng lại cảnh tương anh Tư S bị

tra tấn: “Giam tôi vào một gian buồng chật hẹp, trói ghì cánh khuyủ tôi lại, bốn

thằng nó chuyền tay nhau đấm đá. Đá chán, chúng nó thay lượt nhau túm tóc

lật ngửa mặt tôi lên mà vả, rồi lại buộc thừng vào chỗ trói cánh khuỷu, mà giật

tôi lên xà nhà… [45; tr. 55]. Ta cũng hiểu được nỗi bất bình của Vũ Trọng

Phụng khi tưởng tượng cảnh con sen Đũi bị mụ chủ giữ chân cho thẳng oẳn

“hiếp lấy hiếp để” và sự thương xót của ông khi dựng lại cảnh tượng thảm hại

của những con sen, thằng quýt ở gác xép của hàng cơm tồi tàn: “Bọn cơm thầy

cơm cô nằm ngổn ngang như lợn cả, bọn đực nằm phía bên kia, bọn cái nằm

phía bên này. Bốn thằng nhỏ bằng chạc tuổi tôi với ba con sen, một con độ lên

mười, một con 15, còn một con nữa trông đã đứng tuổi [47; tr. 733] hay ở cái

95

sân sau “Chung quanh chỉ có những bức tường cao ngất ngưởng, bẩn thỉu vào

bậc nhất với những mái nhà đen sì sì. Bên tay phải chỗ chúng tôi nằm là một cái

chuồng gà, trước mặt là một cái cống nước đen…và bên tay trái là cái chỗ cho

người tứ xứ ra ngoài trút những cái thừa trong bụng” [47; tr. 753]. Lối so sánh,

miêu tả của nhà văn hiện thực đến mức táo bạo, cho thấy một hiện thực chua chát,

nhức nhối rằng những con sen, thằng nhỏ…sống cuộc sống không đáng của một

con người. Ở Ngoại ô, Ngõ hẻm, nhà văn Nguyễn Đình Lạp cũng đã lấy đi nhiều

nước mắt của độc giả khi miêu tả rất thực những cảnh tượng thương tâm, cho

thấy nỗi khổ nhục của dân nghèo ngoại ô trong công cuộc làm ăn khó nhọc. Và

đây là cảnh bác Vuông gái bị khám xét vì giấu thịt lậu đem vào thành phố bán:

“- Cởi áo ra để quan khám

Người đàn bà giơ bàn tay lóng cóng hất mớ tóc ra sau lương. Một khuôn mặt

tái nhợt hiện ra. Đôi mắt ướt nhòe những lệ lơ láo nhìn một cách sợ sệt, lo ngại,

van xin…

- Kìa, mày không cởi hả?

[…]Vút!

- Úi giời ơi! Con xin cởi! Con xin cởi.

[….]- Cởi nốt cái quần ra!

Mấy ngón tay lóng cóng lại vội vã tìm đầu giải rút:

Phịch!

Người đàn bà khóc nấc lên một tiếng. Hai bàn tay vội vã xoắn lấy cái cặp quần.

Nhưng bàn tay to lớn của một người đàn ông đã thò vào, nắm lấy, giằng ra.

Cái quần tụt xuống đất…Cái bụng chửa phơi ra” [45; tr. 422, 423].

Từng cử chỉ, thái độ của nhân vật đều được ghi lại chân thực trong cảnh tượng

trên, một ông quan và mấy tên lính đánh và khám xét một người đàn bà yếu

đuối, vừa lo lắng, sợ sệt vừa xấu hổ, nhục nhã. Phóng sự Ngoại ô của Nguyễn

96

Đình Lạp vì thế không chỉ có giá trị phản ánh mà còn khơi dậy cảm xúc chân

thành trong lòng độc giả trước hiện thực xã hội, có tính chất tiểu thuyết.

Với những hiện tượng là tệ nạn xã hội, các cây bút phóng sự khi dựng cảnh,

kể việc một cách chân thực còn gián tiếp thể hiện thái độ phê phán, không đồng

tình. Cảnh sát phạt nhau trên chiếu bạc của tay cờ bạc bịp, cảnh ăn chơi hoan lạc

thâu đêm suốt sáng của thanh niên trụy lạc hay cảnh “ra quân” bắt bớ, bòn rút

trong tháng củ mật của lính lệ đều được các nhà văn tái hiện chân thực, giúp độc

giả có thể hình dung rõ nét như đang xem một thước phim tư liệu.

Bút pháp tả chân khi miêu tả con người, tả cảnh và kể sự việc chính là

một công cụ đắc lực để các nhà văn phản ánh chân thực nhất con người Việt

Nam những năm 30, 40 đầu thế kỉ XX. Bút pháp tả chân thể hiện được tài năng

quan sát, sử dụng ngôn ngữ cũng như quan điểm sáng tác của tác giả, nói như

Vũ Trọng Phụng thì mỗi tác phẩm là một “sự thật ở đời”.

3.3. Ngôn ngữ thể hiện con người trong phóng sự 1932 – 1945

Ngôn ngữ là phương tiện đắc lực của nhà văn trong việc miêu tả, thể hiện

con người. Mỗi nhà văn lại có vốn từ và khả năng biểu đạt ý nghĩa ngôn từ

riêng. Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy các cây bút phóng sự Việt Nam giai

đoạn 1932 – 1945 đã tận dụng tối đa mọi yếu tố ngôn ngữ để diễn tả chân xác

nhất từng đối tượng con người cụ thể. Lớp ngôn ngữ đời sống tươi rói với những

khẩu ngữ, tiếng lóng, quán ngữ, thành ngữ, tục ngữ khiến những đối tượng

được phản ánh thật nhất, đời nhất trên mỗi trang viết. Những từ ngữ mới hiện

đại góp phần thể hiện đời sống, tính cách của con người trong bối cảnh xã hội

nửa Tây nửa Ta ở Việt Nam đương thời.

3.3.1. Sử dụng khẩu ngữ và tiếng “lóng” đặc thù của từng tầng lớp con người

Phóng sự đòi hỏi sự chính xác, cho nên các tác giả rất dụng công quan

sát, tìm hiểu về ngôn ngữ đặc thù của từng tầng lớp người mà họ điều tra. Khẩu

ngữ và những tiếng “lóng” mang tính riêng biệt đã được sử dung một cách phù

97

hợp và điệu nghệ trong các tác phẩm, khiến cho thế giới nhân vật hiện lên chân

thực nhất.

Khẩu ngữ là những từ ngữ thông tục trong đời sống thường ngày.Việc

đưa khẩu ngữ vào tác phẩm thể hiện quan niệm của người cầm bút: phản ánh

chân thật nhất đời sống sinh hoạt, suy nghĩ, xúc cảm của con người. Đây là

cách để nhà văn kéo cái điều đang được diễn tả đến gần hơn với thực tế. Không

chỉ vậy, sử dụng các từ ngữ văng tục, chửi rủa rất gai góc ấy, các tác giả phóng

sự có lẽ còn thể hiện sự phẫn uất, căm hờn trước những hiện tượng “khốn nạn”,

“chó đểu” đang diễn ra trong xã hội hay sự đau xót trước nỗi thống khổ của

người dân lao động. Theo khảo sát của chúng tôi, các tác giả Tam Lang, Nguyễn

Đình Lạp, Vũ Trọng Phụng đã sử dụng số lượng khẩu ngữ khá lớn trong các

phóng sự của mình và hầu hết là khẩu ngữ thành thị, khẩu ngữ nghề nghiệp.

Khảo sát sơ lược, chúng tôi thấy trong Cạm bẫy người có 135 khẩu ngữ, Cơm

thầy cơm cô có 108 khẩu ngữ, Kĩ nghệ lấy Tây có 55 khẩu ngữ, Tôi kéo xe có

69 khẩu ngữ được sử dụng.

Trong khi sử dụng ngôn ngữ đời thường, các tác giả phóng sự cũng rất

chú ý sử dụngcác lớp khẩu ngữ tự nhiên phù hợp với từngloại nhân vật. Có lời

nói mộc mạc đầy vẻ cầu cứu của cô bé nhà quê ra thành thị đi làm thuê để kiếm

miếng ăn: “Khốn nạn, nào tôi có tài giỏi gì mà dám nếm cơm ai! Tôi chỉ cầu

vào một cửa đãi mình cho vừa phải,đừng bắt mình làm quá sức, đừng đánh

chửimình như cái nhà tôi vừa bỏ đi thì khốn nạn, nó năm cha ba mẹ quá, ai

cũng đánh chửi được mình. Người này sai chưa xongviệc này, người khác đã

lại ới. Thành ra mình là cái thân ba vạ” [47; tr. 735]. Có khẩu ngữ nhuốm màu

thị thành của những me Tây đã già đời trong nghề: “Việc gì mà sợ? Có đánh

chết cái ba vạn? Bọn họ toàn một thứ tính mềm nắn rắn buông mà thôi. Đã có

lần bị đấm một cái mà tát lại được ba cái đấy. Giơ dao lên dọa, gái này cũng

tốc phăng ngay cai cooc xe lên.” [47; tr. 715].Việc sử dụng các loại khẩu ngữ

tự nhiên phù hợp với từng loại nhân vật cũng như ngôn ngữ nghề nghiệp không

98

chỉ chứng tỏ sự am hiểu kĩ lưỡng của tác giả đối với từng đối tượng được miêu

tả mà còn góp phần đắc lực trong việc cá tính hóa ngôn ngữ nhân vật, phản ánh

đúng cuộc sống con người. Chẳng hạn, chỉ mấy lời “Giời đất cha mẹ ơi! Sao

lại không thích! Đang phải hầu hạ người ta mà nhẩy tót lên ngang hàng với

người ta” [47; tr. 751] đã phần nào lột tả được sự chua ngoa, ranh mãnh, lọc

đời của nhân vật cái Đũi trong phóng sự Cơm thầy cơm cô.

Bên cạnh khẩu ngữ, tiếng “lóng” là lớp từ ngữ được các nhà văn sử dụng

để làm nổi bật đặc điểm của một hạng người nào đó trong xã hội. Tiếng lóng là

những từ được dùng để gọi tên các sự vật, hiện tượng vốn đã có tên gọi, được

một tập thể xã hội nhất định sử dụng nhằm mục đích muốn che giấu những điều

mà người nói không muốn cho người ngoài tập thể biết hoặc muốn bộc lộ cái

vẻ riêng của tập thể mình hoặc bộc lộ thái độ một cách mạnh mẽ. Qua khảo sát

của chúng tôi, tiếng “lóng” được sử dụng khá nhiều trong các phóng sự của

Tam Lang, Nguyễn Đình Lạp và nhất là Vũ Trọng Phụng.

Những tiếng “lóng” được sử dụng rất tiêu biểu, đặc trưng cho từng lớp

người cụ thể. Viết về những cu-li xe kéo, Tam Lang đã không bỏ qua những

tiếng lóng mà có lẽ chỉ dân phu xe mới hiểu như “xe xoay”, “xe măng ca”.

Anh Tư S khi đã trở thành một “con cáo áo xanh”, biết kết hợp làm phu xe với

làm ma cô dắt gái thì đã tỏ ra rất thạo nghề khi sử dụng những tiếng lóng chỉ

các thủ đoạn dắt gái kiếm tiền như “láu”, “bịp”, “khấu bộp”, “thuốc”, “bắt

chợp”, “đánh nhựa” [45; tr. 59-60]. Viết về lối sống trụy lạc của thanh niên

Hà Thành, nhà văn Nguyễn Đình Lạp cũng tỏ ra rất “hiểu đời” qua các tiếng

lóng của riêng lớp người này như “kẻng”, “thó”, “ngôn”, “rượu Ngũ Phúc”,

“rượu riêm”, “rượu thuận”, “rượu nghịch”, “rượu quay thìa”, “gỡ gạc”,

“chếch một đôi”, “tế phệ”… Về việc sử dụng các tiếng lóng thì tài năng nhất

phải kể đến Vũ Trọng Phụng, bậc đại tài trong nghệ thuật tả chân. Là một nhà

văn xông xáo và sẵn sàng dấn thân vào hiện thực để tìm hiểu, điều tra, ông đã

có trong mình một kho tiếng lóng đặc trưng của mỗi lớp người, khiến họ hiện

99

lên trên trang giấy thật như ngoài cuộc đời. Tác phẩm của ông vì thế có giá trị

xã hội sâu sắc, có thể trở thành một cuốn tư liệu tham khảo đầy sức thuyết phục

về một “nghề” nào đó rất đặc biệt mà ông điều tra: nghề cơm thầy cơm cô, nghề

mãi dâm, nghề lấy Tây, nghề cờ bạc bịp. Đọc Kỹ nghệ lấy Tây, ta biết đến

những tiếng lóng rất riêng của “làng me” như “gãi về mặt cảm tình”, “thợ”,

“cẩu hợp”, “ tuých”, “chạy làng”, “mẫu hàng”… Đến Lục sì, ta lại được biết

thêm về các tiếng rất “chuyên” của nghề làm đĩ: “cầm giấy”, “xé giấy”, “bò

lạc”, “chắc chắn”, “làm việc”. Đặc biêt, trong phóng sự Cạm bẫy người, mật

độ các tiếng lóng xuất hiện dày đặc trên trang giấy, khiến người đọc có cảm

giác như mình đang lạc giữa một sòng bạc thực và mình là mòng cho kẻ khác

đang dàn trận để săn. Theo khảo sát của chúng tôi, xuyên suốt toàn thiên phóng

sự này, Vũ Trọng Phụng đã sử dụng 231 tiếng lóng, trong đó có những tiếng

chỉ tên ngón nghề lừa bịp như “giác mùi”, “giác bóng”, “đòn Vân Nam”, “đòn

ve”, “đòn kim”, “đòn cắm đinh”, “đòn thủy ngân”…, có những tiếng chỉ con

bạc như “mòng”, “mồi”…, tiếng lóng chỉ tay bạc bịp như “ông trùm”, “tạ” ,

“người giữ két”, “người hướng đạo”, “bộ tham mưu”,… Số lượng các tiếng

lóng cũng như việc sắp đặt chúng vào những vị trí rất phù hợp đã chứng tỏ Vũ

Trọng Phụng là một nhà phóng sự đại tài, đã điều tra tìm hiểu rất kĩ lưỡng về

đối tượng phản ánh. Ta hiểu vì sao ông được mệnh danh là “ông vua phóng sự

đất Bắc”.

Chính lớp từ ngữ xã hội đặc biệt này đã trở thành phương tiện nghệ thuật

ngôn từ đặc sắc giúp các nhà văn phản ánh chân thựcthực đời sống xã hội Việt

Nam những năm kinh tế khủng hoảng 1929-1933. Một xã hội bất chấp đạo lí,

đầy những bất công, giả dối, không còn gì là chuẩn mực thì ngôn ngữ chuẩn

mực làm sao có thể phản ánh trung thực đời sống của xã hội? Tiếng lóng là

phương tiện nghệ thuật tối ưu để vạch trần bản chất của con người và xã hội

đương thời, tiếng lóng là phương tiện trung thực để nói lên tiếng lòng của tác

100

giả trước thực trạng đau buồn của xã hội Việt Nam những năm 30, 40 của thế

kỉ XX.

3.3.2. Ngôn ngữ châm biếm

Trong xã hội Việt Nam những năm 30, 40 của thế kỉ XX, sự phân hóa

giai cấp diễn ra sâu sắc. Các tầng lớp thượng lưu như quan lại, ông chủ, bà chủ

thì giàu có nhưng keo kiệt và lố bịch, tìm đủ mọi cách để bóc lột những người

lao động nghèo khổ, bần hàn. Đồng thời, rất nhiều tệ nạn xã hội nảy sinh như

nạn mãi dâm, nạn cờ bạc, trộm cắp, thanh niên thì ăn chơi đàng điếm không

biết đến tương lai. Ngôn ngữ châm biếm được sử dụng triệt để để phán ánh

những lớp người này. Ngôn ngữ châm biếm được sử dụng nhiều nhất khi viết

về tầng lớp thượng lưu trong xã hội, là những ông quan lại, ông chủ, bà chủ, cô

chủ. Trong phóng sự Tập ảnh, nhà văn Tam Lang đã mỉa mai Quan Hàn một

cách sâu cay:“Rồi gặp vận tấy, “quan” đã trở nên quan Hàn; “quan” đã lấy

cái bài ngà Hàn lâm đeo trước ngực để che lấp cái quá khứ chẳng…thơm tho

gì của “quan”. “Quan” đã rắp chôn sâu cái mỉa mai của số phận ấy đến tận

bùn đen cho nó mất tăm mất tích”. [45; tr. 192]. Cụ Thừa Hào coi công việc

chính của mình là “khoét xu” thiên hạ được nhà văn đưa lên trang giấy với sự

đả kích mạnh mẽ: “Với số tiền chẳng phải là tiền mồ hôi nước mắt, cụ sắm một

bộ xa-lông lát, “mua” một thằng đầy tớ để tối tối cho nó chia tổ tôm hầu. Cái

chí khí hăng hái lúc còn là một anh thư sinh “mặt trắng”, cụ đã đem di dưới

gót, vùi thật chặt, thật sâu” [45; tr. 194]. Làm quan phụ mẫu nhưng những

người như Quan Hàn, Cụ Thừa Hào đã không những không chăm lo cho con

dân mà còn lợi dụng chức quyền để kiếm chác, để bóc lột dân lao động. Đôi

lúc, lời lẽ đả kích của nhà văn thật mạnh mẽ, quyết liệt khi phê phán sự xấu xa

của quan lại. Tam Lang đã phê phán quan phủ Nguyễn Lập Lễ “Có điều, trong

khi mở mồm chửi rủa những người làm báo…, có lẽ quan phủ Lễ cũng quên

bẵng hẳn cái nghề báo đã đẻ nổi ra những đứa con làm đến thượng thư, tổng

đốc, nghĩa là những người còn đáng bậc sư phụ, ngồi trên đầu trên cổ ông

101

Nguyễn Lập Lễ, Tri phủ Nho Quan.” [45; tr. 119]. Với những ông chủ phục sức

cho mình để “giống Tây” một cách lố bịch thì tác giả mỉa mai: Ông Morit…Vồ

luôn băn khoăn vì mũi mình không được “lõ”, “nhưng nhìn đến mớ tóc quăn,

mớ tóc mỗi tuần lễ phải chịu cái tội quằn mình một lần giữa hai càng kìm uống

của anh thợ cạo, ông lại tự yên ủi được ngay lúc đó, vì ngay lúc đó, ông tự

nghĩ: Tây cũng có lắm người mũi không lõ, còn An Nam thì “đích thật” là

không có ai tóc quăn bao giờ” [45; tr. 180]. Ngôn ngữ châm biếm của nhà văn

đã phê phán sự “mất gốc”, học đòi Âu hóa một cách lố bịch của những con

người tự xưng là thượng lưu này. Các bà, các cô phụ nữ tân thời cũng là đối

tượng châm biếm của các cây bút phóng sự. Trong Lọng cụt cán, nhà báo Tam

Lang đã mỉa mai các bà trưởng giả ở Hà Nội, vì quá sung sướng đầy đủ mà

khởi xướng những chuyện “chẳng đâu vào đâu”: Vấn đề phụ nữ nên dùng giầy

hay dép để đi lượn” [45; tr. 113].

Trong thiên Thanh niên trụy lạc, Nguyễn Đình Lạp đã châm biếm sự ăn

chơi sa đọa, lí tưởng sống đồi bại của thanh niên Hà Thành đương thời: “bây giờ

thanh niên thờ một lý tưởng: khoái lạc, đuổi một mục đích: tiền tài, dõi một ý

muốn: cười cợt. Thanh niên chỉ có một ý đinh thỏa mãn vật chất và giày xéo lên

hết để đạt cái ý định ấy” [45; tr. 208]. Những thói ăn chơi đó đã khiến thanh niên

ngày càng phạm vào tội lỗi, đến mức không còn thấy hành động của mình là tội

lỗi nữa: “Họ vui vẻ hứng lấy tội lỗi. Họ sung sướng nhúng tay vào tội lỗi. Họ

hăng hái lao đầu vào tội lỗi. Bởi vì, người nào càng làm nhiều tội lỗi phi thường

thì lại càng được bạn bè tôn phục là lịch duyệt..” [45; tr. 251]

Có thể thấy, việc sử dụng những từ ngữ có sắc thái châm biếm là một trong

những thủ pháp nghệ thuật làm tăng giá trị tả chân của các thiên phóng sự. Các tác

phẩm vì thế không chỉ có giá tị phản ánh hiện thực mà còn thể hiện rõ thái độ,

quan điểm của nhà văn.

102

3.3.3. Hệ thống ngữ liệu dân gian và ngôn ngữ đậm chất “Âu hóa”

Ngữ liệu còn được gọi là ví dụ, dẫn chứng, minh họa, tư liệu, dẫn liệu,

cứ liệu…có thể được dẫn dụng, trích dẫn, khai thác,lựa chọn từ nhiều nguồn

khác nhau tùy thuộc vào mục đích, nội dung, đối tượng và điều kiện cụ thể của

vấn đề, thể loại, nội dung phản ánh. Để phản ánh chân thực đời sống con người

Việt Nam những năm 30, 40 của thế kỉ XX, những ngữ liệu dân gian đã được

các tác giả phóng sự dụng tâm sử dụng. Đó là những thành ngữ, tục ngữ được

sử dụng một cách nguyên vẹn hoặc sáng tạo ở những vị trí phù hợp, giúp người

đọc có thể hình dung một cách rõ nhất, “đời” nhất về cuộc đời, số phận của các

nhân vật được phản ánh. Theo khảo sát của chúng tôi, những thành ngữ, tục

ngữ được sử dụng trong các phóng sự của Tam Lang, Nguyễn Đình Lạp, Vũ

Trọng Phụng khá lớn. Khảo sát sơ bộ số lượng quán ngữ, thành ngữ, tục ngữ

trong một số tác phẩm cho kết quả: trong Cạm bẫy người, Vũ Trọng Phụng sử

dụng 57 thành ngữ, quán ngữ và 2 tục ngữ, trong Cơm thầy cơm cô là 45 và 1,

trong Kĩ nghệ lấy Tây là 36 và 2, trong Tôi kéo xe là 32. Có thể thấy, số lượng

thành ngữ, quán ngữ, tục ngữ mang tính khẩu ngữ trong các phóng sự của Vũ

Trọng Phụng nhiều hơn trong tác phẩm của các tác giả khác. Trong các thiên

điều tra của Vũ Trọng Phụng, các thành ngữ, quán ngữ, tục ngữ được sử dụng

để nói về các giới người và nghề nghiệp của họ, xuất hiện dưới nhiều hình thức

khác nhau, có khi nguyên vẹn, có khi chỉ là một vế hoặc lấy ý của thành ngữ,

tục ngữ.

Thành ngữ, tục ngữ là những cụm từ, câu mang tính khái quát cao. Việc sử

dụng cácthành ngữ và tục ngữ không chỉ làm tăng hình ảnh và sắc thái biểu cảm

của câu văn mà còn có tác dụng lột tả hết bản chất của đối tượng được miêu tả,

làm cho người đọchiểu đến tận ngọn nguồn của nó. Chẳng hạn, “Ông ấm ấy vẫn

thản nhiên như người vô công rồi nghề đi dạo chơi phố xá, thản nhiên theo cái

lối viên tướng võ lão thành, đã từng được bách chiến bách thắng, đến nỗi một

cuộc khải hoàn cũng chẳng đủ làm cho say sưa” [47; tr. 657].

103

Qua khảo sát chúng tôi cũng nhận thấy rằng, khi phản ánh các giai cấp,

tầng lớp con người trong xã hội, trong ngôn ngữ phóng sự của Tam Lang,

Nguyễn Đình Lạp, Vũ Trọng Phụng, sự góp mặt của các thành phần ngôn ngữ

dân gian không đồng đều. Số lượng thành ngữ được sử dụng nhiều hơn tục ngữ.

Có lẽ giá trị thẩm mỹ và ý nghĩa biểu trưng của các thành ngữ không chỉ làm

tăng sức khái quát cho chủ đề, đề tài mà còn góp phần tạo nên tính sinh động,

trực quan và giàu hình ảnh biểu trưng cho lời thoại của các nhân vật. Việc vận

dụng thành ngữ, tục ngữ đã khẳng định phong cách ngôn ngữ đa dạng, linh

hoạt, gần gũi với phong cách khẩu ngữ quần chúng của các cây bút phóng sự.

Có thể khẳng định, đây là một điều kiện rất căn bản để những thiên phóng sự

điều tra của Tam Lang, Nguyễn Đình Lạp, Vũ Trọng Phụng đến gần và sống

mãi với độc giả.

Xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XX đã có những biến đổi lớn về mọi mặt.

Phong trào Âu hóa đã diễn ra, nhất là ở các đô thị, đã dẫn đến những thay đổi

trong lối sống, tư tưởng, tình cảm của con người Việt Nam ở mọi giai cấp, tầng

lớp. Vì thế, để phản ánh chân xác cuộc sống con người, các nhà phóng sự Việt

Nam đương thời vốn là những trí thức Tây học không chỉ sử dụng những khẩu

ngữ, tiếng lóng, thành ngữ, tục ngữ mà còn dùng lớp từ ngữ mới của thời đại,

chúng tôi gọi là ngôn ngữ Âu hóa. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy số lượng

từ ngữ mang tính chất Âu hóa được sử dụng khá lớn, xuất hiện ở hầu hết tác

phẩm nhưng đậm đặc nhất ở những phóng sự viết về tầng lớp trên của xã hội

như Đĩa mứt gừng, Lọng cụt cán, Tập ảnh. Những từ ngữ mang tính chất Âu

hóa được sử dụng để thể hiện con người trong phóng sự của Tam Lang, Nguyễn

Đình Lạp, Vũ Trọng Phụng gồm những từ tiếng Pháp được sử dụng nguyên

bản như cinema, tango, Java, valse hay đã được phiên âm như cát-cút (ăn bánh

với các thứ ăn nguội), “Va tăng! Ê tút-suýt! (bước ngay tức khắc), coóc xê, a-

lê-măng-te,… Có khi là những từ Tiếng Việt mới xuất hiện như “me”, “cô

đầm”, “tóc quăn”, “nhảy”, “săm”… Nếu việc sử dụng những thành ngữ, tục

104

ngữ khiến câu văn mang tính khái quát, đậm chất triết lý hoặc thể hiện tự nhiên

nhất lối sống, ngôn ngữ của con người thì việc sử dụng lớp từ Âu hóa khiến tác

phẩm mang hơi thở hiện đại, góp phần phản ánh chân thực nhất lối sống của

con người thời đại này. Sự kết hợp các thành ngữ, tục ngữ với lớp từ Âu hóa

thể hiện tài năng vận dụng sáng tạo ngôn ngữ của các tác giả phóng sự Việt

Nam giai đoạn 1932 – 1945.

* Tiểu kết

Để thể hiện chân xác đặc điểm của từng tầng lớp con người cụ thể trong

xã hội Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945, các cây bút phóng sự đã vận dụng

nhuần nhuyễn và sáng tạo các hình thức nghệ thuật. Sự “nhà nghề” của các nhà

báo thể hiện trong việc lựa chọn và tiếp cận, khai thác thông tin từ đối tượng

con người cụ thể. Các nhà phóng sự giai đoạn này là tiên phong cho lối thâm

nhập thực tế để điều tra, khám phá hiện thực.

Các tác giả sử dụng bút pháp tả chân để dựng lên một bức tranh chi tiết

và thật nhất về từng lớp người cụ thể. Các yếu tố thuộc về ngoại hình, suy nghĩ,

tâm trạng của nhân vật đều được tái hiện chân thực như ở ngoài đời. Từng cảnh

tượng, sự việc đều được miêu tả sinh động bằng góc nhìn hiện thực, giúp người

đọc hình dung cụ thể nhất về đời sống, tính cách, phẩm chất của từng lớp người

trong xã hội đương thời.

Ngôn ngữ là một phương tiện đắc lực và các nhà văn viết phóng sự giai

đoạn này đã thành công trong việc sử dụng sáng tạo và đa dạng phương tiện

này. Các khẩu ngữ, tiếng lóng, thành ngữ, tục ngữ hay từ ngữ Âu hóa đều được

các tác giả vận dụng một các triệt để, chứng tỏ khả năng thâm nhập sâu sát vào

thực tế đời sống, hấp thụ ngôn ngữ từ chính đời sống hàng ngày của con người.

Đây là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của các tác

phẩm phóng sự.

105

Những hình thức nghệ thuật trên là phương tiện phản ánh hiện thực, thể

hiện tài năng tiếp cận, quan sát, khám phá và thể hiện con người của các nhà

phóng sự. Phương pháp tiếp cận hiện thực và các hình thức nghệ thuật trên đã

được các nhà báo hiện đại kế thừa và phát huy.

106

KẾT LUẬN

Vấn đề con người trong văn học chưa bao giờ là cũ, bởi con người là tâm

điểm của mọi sáng tác ở mọi thời đại. Tuy nhiên, mỗi thể loại, mỗi giai đoạn sẽ

có cách khám phá về con người khác nhau. Tìm hiểu Con người trong phóng sự

Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945 chúng tôi nhận thấy rõ những vấn đề cơ bản

sau:

1. Quan niệm về con người trong văn học là một vấn đề lí luận quan trọng,

chi phối sáng tác văn học ở các thời đại. Nếu như con người được thể hiện trong

văn học dân gian là con người tự nhiên với cả phần bản năng và ý thức, con

người trong văn học trung đại chủ yếu là con người vũ trụ, con người đạo đức,

con người đấng bậc thì con người trong văn học hiện đại Việt Nam giai đoạn từ

đầu thế kỉ XX đến trước Cách mạng tháng Tám 1945 chủ yếu là con người cá

nhân, con người là sản phẩm của hoàn cảnh. Phóng sự là một thể loại văn học

hiện đại ra đời muộn nhưng đạt được những thành tựu lớn với nhiều tác phẩm

giá trị. Trong phóng sự Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945, con người được khám

phá ở góc độ con người cá nhân, chịu tác động bởi hoàn cảnh, nhưng chính con

người cũng tạo nên sự thay đổi của chính mình. Với đặc tính phi hư cấu của thể

loại, con người được phản ánh trong phóng sự là con người có thật ngoài đời chứ

không phải là sản phẩm của hư cấu tưởng tượng. Phóng sự 1932 – 1945 thuộc

đối tượng tìm hiểu của luận văn là những phóng sự văn học nên nhân vật được

xây dựng trong tác phẩm không chỉ đảm bảo tính phản ánh khách quan người

thật việc thật mà còn mang tính điển hình, tiêu biểu cho một lớp người trong xã

hội. Mỗi tác phẩm đều thể hiện cái nhìn, đánh giá chủ quan, nhiều chiều của tác

giả.

2. Đầu thế kỉ XX, xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi. Trong một xã hội

đang trên đường đô thị hóa, tình trạng phân hóa giai cấp diễn ra sâu sắc. Trong

khi một bộ phận quan lại, ông chủ, bà chủ sống sung túc, giàu sang nhưng độc

ác và lắm thói hư tật xấu thì người dân lao động nghèo sống kiếp cơ hàn, dẫu

107

cực nhọc mà cuộc đời không thể khá lên được. Trong xã hội Tây – Ta lẫn lộn

đó, rất nhiều tệ nạn xã hội nảy sinh, đầy rẫy những thói rởm đời, các nhân vật

dở ông dở thằng, dở cô dở cậu, dở người dở ngợm… Người ta sẵn sàng bịp

nhau để kiếm chác, dù là người thân thiết cũng không tha. Các tác giả cũng

không ngần ngại chỉ ra tình trạng tha hóa nhân cách của một bộ phận lớp người

dưới đáy trước sự bóc lột thậm tệ của tầng lớp trên. Các nhà phóng sự cũng

đồng thời thể hiện thái độ đồng cảm xót thương trước nỗi thống khổ của người

lao động nghèo, gián tiếp hoặc trực tiếp lên án những thủ đoạn bóc lột, những

thói hự tật xấu của bọn người có quyền và có tiền, chỉ ra sự bất công, tàn bạo,

thối nát của xã hội thực dân nửa phong kiến. Dựng lên một bức tranh xã hội

đầy sức tố cáo, các tác giả phóng sự không chỉ cảnh tỉnh xã hội mà còn cảnh

tỉnh lương tri của con người, đánh thức những thiên lương đang bị hủy hoại

hoặc còn lại của những con người bị coi là cặn bã của xã hội. Đề cập đến những

vấn đề nhức nhối về thân phận con người trong một xã hội “khốn nạn”, “chó

đểu”, các tác giả phóng sự đã viết bằng cả tình cảm chân thành và ý thức công

dân đầy trách nhiệm.

3. Để thể hiện chân xác đặc điểm của từng tầng lớp con người cụ thể

trong xã hội Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945, các cây bút phóng sự đã vận

dụng nhuần nhuyễn và sáng tạo các hình thức nghệ thuật. Sự “nhà nghề” của

các nhà báo thể hiện trong việc lựa chọn và tiếp cận đối tượng con người. Tác

giả đã “khoanh vùng đối tượng” và chọn lấy một “mẫu người” tiêu biểu nhất,

đủ để đại diện cho một lớp người, từ đó làm thân, làm quen để khai thác thông

tin chân thật và chi tiết về lớp người đó. Một số tác giả đã nhập vai là người

trong cuộc, tự mình trải nghiệm cuộc sống của người lao động nghèo để thấu

hiểu mọi nhẽ và tìm hiểu mọi góc khuất của hiện tượng. Tác giả sử dụng bút

pháp tả chân để phản ánh chân thật tất cả những điều đã ghi nhận được trong

quá trình điều tra. Từ việc tả người đến tả cảnh, kể sự việc, từ ngoại hình đến

hành động, suy nghĩ của con người đều được nhà văn viết một cách “đời” nhất,

108

khiến người đọc nhiều khi cũng phải ám ảnh, rùng mình hoặc căm tức, bất bình,

hoặc thương xót, hoặc chua chát trước hiện thực xã hội. Bên cạnh bút pháp tả

chân thì việc sử dụng sáng tạo và đa dạng các lớp ngôn từ khác nhau đã giúp

tác giả thể hiện tự nhiên và chân xác nhất về từng lớp người cụ thể trong xã hội.

Những khẩu ngữ, tiếng lóng, những thành ngữ tục ngữ, từ ngữ châm biếm hay

lớp từ Âu hóa đều được nhà văn vận dụng thanh thục khi viết những trang

phóng sự. Đó là tài năng và cũng là khả năng thâm nhập thực tế sâu sắc, sự trải

đời của những nhà văn, nhà báo. Những nghệ thuật phóng sự này đã được các

nhà báo ở giai đoạn sau học tập và phát huy. Phóng sự hiện đại sau này đã có

sự hỗ trợ của nhiều phương tiện kĩ thuật hơn nhưng cách lựa chọn, tiếp cận và

khai thác thông tin ở đối tượng, quan điểm hiện thực, cái nhìn biện chứng khi

điều tra, khám phá, tinh thần nhập cuộc, dấn thân của các nhà phóng sự giai

đoạn 1932 – 1945 vẫn là một bài học nghề nghiệp được các nhà báo hiện đại

kế thừa, phát triển để thực hiện được tôn chỉ, mục đích của thể loại này: phản

ánh thật nhất những vấn đề thời sự của hiện thực xã hội và con người.

4. Kế tiếp từ phóng sự giai đoạn 1932 – 1945, phóng sự hiện đại hướng

đến thể hiện chân thực mọi vấn đề của đời sống con người trong thời đại mới.

Vấn đề con người cá nhân, cái Tôi cá nhân được khai thác sâu sắc hơn. Phóng

sự hiện đại bên cạnh thể hiện đời sống vật chất, đời sống tinh thần còn có nhiều

tác phẩm đi sâu khám phá thế giới tâm linh của con người – một mảng hiện

thực bí ẩn mà khoa học cũng chưa có lời giải cuối cùng. Điều đó càng chứng

tỏ, thế giới con người có vô vàn vấn đề được đặt ra và phóng sự đã thực hiện

được chức năng của nó là phản ánh chân thực, cụ thể, sâu sắc hiện thực đời

sống, cung cấp nguồn tư liệu hữu ích cho các nhà xã hội học, sử học, văn hóa

học… Từ việc thực hiện đề tài này, chúng tôi có thể mở rộng hướng nghiên cứu

đến phóng sự hiện đại, tìm hiểu cách khám phá, thể hiện con người của phóng

sự thời đại mới, góp thêm tiếng nói khẳng định giá trị của thể loại phóng sự

trong văn học hiện đại Việt Nam.

109

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. M. Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Bộ văn hoá thông tin và

thể thao- Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.

2. Nguyễn Đình Chú (1991), Về giai đoạn văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX-1945

(tài liệu bồi dưỡng môn văn lớp 11), Vụ giáo viên, Hà Nội.

3. Nguyễn Đức Dũng (1996), Các thể ký báo chí, Nxb Văn hoá thông tin, Hà

Nội.

4. Phan Cự Đệ - chủ biên, Nguyễn Hoành Khung, Trần Hữu Tá - sưu tầm, biên

soạn (2000), Tổng tập văn học Việt Nam, 29, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

5. Hà Minh Đức (1962), Tác phẩm văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

6. Hồ Thế Hà (2015), Đặc điểm không gian nghệ thuật trong phóng sự của Vũ

Trọng Phụng, www.baomoi.com, ngày 20/08/2016.

7. Trần Thị Việt Hà (2006), Đặc điểm phóng sự của Vũ Trọng Phụng, LVThS

Ngữ Văn, Trường Đại học Vinh, Nghệ An.

8. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi - chủ biên (2007), Từ điển thuật

ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

9. Lê Thị Đức Hạnh (1989), “Nhìn lại việc đánh giá Vũ Trọng Phụng, suy nghĩ về

vấn đề đổi mới tư duy trong nghiên cứu văn học”, Tạp chí Văn học (1), Hà Nội.

10. Lê Thị Đức Hạnh (2013), Văn chương và nhân cách Nguyễn Đình Lạp,

nhavantphcm.com.vn, ngày 20/08/2016.

11. Nguyễn Thị Bích Hòa (2008), Đề tài nông thôn trong phóng sự văn học

Việt Nam 1930 – 1945, LVThS Ngữ Văn, Trường Đại học Sư phạm

Thành phố Hồ Chí Minh, Tp Hồ Chí Minh.

12. Trần Thị Huyền (2012), Đặc trưng phóng sự Vũ Trọng Phụng, LVThS

Ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2,

Thái Nguyên.

110

13. Phùng Văn Khai (2014), Vũ Trọng Phụng – Cây bút phóng sự lừng danh, nhà

văn tiền chiến xuất sắc, www.baomoi.com, ngày 20/08/2016.

14. Phan Khôi (1956), “Không đề cao Vũ Trọng Phụng chỉ đánh giá đúng”, Vũ

Trọng Phụng với chúng ta, Minh Đức xuất bản.

15. Phùng Ngọc Kiếm (1996), Con người trong truyện ngắn Việt Nam 1945 –

1975 (bộ phận văn học cách mạng), LATS Ngữ Văn, Trường Đại học Sư

phạm Hà Nội, Hà Nội.

16. Nguyễn Hoành Khung, Lại Nguyên Ân (1994), Vũ Trọng Phụng, con người và

tác phẩm, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

17. Thanh Lãng (1967), Bảng lược đồ văn học Việt Nam, quyển hạ, ba thế hệ của

nền văn học mới, Sài Gòn.

18. Đinh Xuân Lâm (Chủ biên), Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Đình Lễ (2005),

Đại cương lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

19. Phong Lê (1999), “Nguyễn Đình Lạp với thế giới Ngoại ô, Ngõ hẻm”, Vẫn

truyện văn và người, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.

20. Phương Lựu - Trần Đình Sử - Lê Ngọc Trà (1987), Lý luận văn học,1, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

21. Phương Lựu - Nguyễn Xuân Nam - Thành Thế Thái Bình (1988), Lý luận

văn học, 3, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

22. Nhất Chi Mai (1937), “Dâm hay không dâm”, Báo Ngày nay (51), Hà Nội.

23. Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Hữu Tá (1987), Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, 2,

Nxb Văn học, Hà Nội.

24. Vũ Thị Thanh Minh (2007), Thể loại phóng sự trong văn học Việt Nam giai

đoạn 1932 – 1945, LATS Ngữ Văn, Viện văn học, Hà Nội.

25. Vũ Thị Thanh Minh (2013), Phóng sự Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945 đặc

điểm và quá trình phát triển, Nxb Văn học, Hà Nội.

111

26. Tôn Thảo Miên (2006), “Thể loại phóng sự trong văn học thế kỷ XX”, Tạp

chí Khoa học xã hội Việt Nam (3), Hà Nội.

27. Phạm Thị My (2009), Phóng sự Việt Nam 1930 – 1945 (Qua Tam Lang,

Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố), LATS Ngữ Văn, Trường Đại học Khoa

học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.

28. Phạm Thế Ngũ (1965), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, III, Quốc

học tùng thư, Sài Gòn.

29. Đinh Phương Oanh (2009), Phóng sự Việt Nam 1932 – 1945 nhìn từ sự vận

động của thể loại, LVThS Ngữ Văn, Trường Đại học Khoa học Xã hội và

Nhân văn, Hà Nội.

30. Vũ Ngọc Phan (1998), Nhà văn hiện đại, 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

31. Thái Phỉ (1936), “Văn chương dâm uế”, Báo Tin văn (5), Hà Nội.

32. Thế Phong - sưu soạn (2004), Cuộc đời viết văn, làm báo Tam Lang- Tôi

kéo xe, Nxb tổng hợp Đồng Nai.

33. Nguyễn Hữu Sơn, Trần Đình Sử, Huyền Giang, Trần Ngọc Vượng, Trần

Nho Thìn, Đoàn Thị Thu Vân (2010), Về con người cá nhân trong văn

học cổ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

34. Trần Đình Sử - Phương Lựu - Nguyễn Xuân Nam (1987), Lý luận văn học,

2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

35. Trần Đình Sử (1993), Dẫn luận Giáo trình Thi pháp học, Nxb Đại học Sư

phạm TP HCM.

36. Trần Đình Sử (2007), Dẫn luận Giáo trình Thi pháp học (Sách dùng cho hệ

đào tạo từ xa), Nxb Đại học Huế, Huế.

37. Trần Hữu Tá - sưu tầm, biên soạn, giới thiệu (1999), Nhà văn Vũ Trọng Phụng

với chúng ta, Nxb TP. Hồ Chí Minh.

112

38. Văn Tâm (1956), “Vũ Trọng Phụng, “Người thư ký của thời đại””, Vũ

Trọng Phụng với chúng ta, Nxb Minh Đức.

39. Hoài Thanh – Hoài Chân (2003), Thi nhân Việt Nam, Nxb văn học tái bản,

Hà Nội.

40. Lê Thanh (1936), “Báo tin văn, với sách Kỹ nghệ lấy Tây”, Báo Hà Nội báo

(18), Hà Nội.

41. Trần Nho Thìn (2008), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn

hóa, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

42. Nguyễn Nhã Tiên (2015), Vũ Trọng Phụng, từ nhà văn đến “vua phóng

sự”, baoquangnam.vn, ngày 19/8/2016.

43. Nguyễn Ngọc Thiện (2002), “Vũ Trọng Phụng bàn về phóng sự và tiểu

thuyết tả chân”,Tạp chí Văn học (11), Hà Nội.

44. Lam Thu (2016), Hà Nội những năm 30 trong tác phẩm của Nguyễn Đình

Lạp, http://giaitri.vnexpress.net, ngày 20/08/2016.

45. Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm biên soạn

(2000), Phóng sự Việt Nam 1932-1945, 1, Nxb Văn học, Hà Nội.

46. Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm biên soạn

(2000), Phóng sự Việt Nam 1932-1945, 2, Nxb Văn học, Hà Nội

47. Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn - sưu tầm biên soạn

(2000), Phóng sự Việt Nam 1932-1945, 3, Nxb Văn học, Hà Nội.

48. Phan Trọng Thưởng (2000), “Phóng sự Việt Nam (1932-1945) - một thành

tựu đặc biệt của tiến trình văn học Việt Nam”, Tạp chí Văn học(5), Hà Nội.

49. Lê Thị Dục Tú (1994), Quan niệm về con người trong tiểu thuyết của Tự lực

văn đoàn qua ba tác giả Nhất Linh – Khái Hưng – Hoàng Đạo, LATS Ngữ

Văn, Viện văn học, Hà Nội.

113

50. Nguyễn Trác, Hoàng Dung, Nguyễn Đăng Mạnh (1962), Giáo trình lịch

sử văn học Việt Nam 1930-1945, V, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

51. Peter Zinoman (2012), Nhà văn – nhà báo Vũ Trọng Phụng với thể phóng sự ở

Việt Nam, baonghean.vn, ngày 25/08.2016.

52. A. Viollis, Indochine S.O.S., (Đông Dương cấp cứu) (1949), Les Esditeurs

Francais réunis, Paris.

53. Nhóm tác giả (2011), Vũ Trọng Phụng tác phẩm và lời bình, Nxb văn

học, Hà Nội.