ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
LƯU THẾ VINH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN Ở PHÚ THỌ
LUẬN VĂN THẠC SĨ Hà Nội - 2008
1
MỤC LỤC 1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................ 4 2. Tình hình nghiên cứu ................................................................................ 5 3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................. 7 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 7 5. Phƣơng pháp nghiên cứu .......................................................................... 7 6. Dự kiến đóng góp mới của luận văn ......................................................... 7 7. Bố cục của luận văn ................................................................................... 8 CHƢƠNG 1 ................................................................................................... 9 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ, ........................... 9 HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN ..................................... 9 1.1. Quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn............................................................ 9 1.1.1. Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ................................. 9 1.1.2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn .............. 15 1.2. Sự cần thiết của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn .............................................................................................................. 18 1.3. Nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn24 1.3.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, hiện đại .............................................................. 24 1.3.2. ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ, kỹ thuật hiện đại trong sản xuất nông nghiệp..................................................................... 28 1.3.3. Phát triển công nghiệp và dịch vụ nông nghiệp, nông thôn ......... 30 1.3.4. Phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn .......................................................................... 31 1.3.5. Xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật – xã hội hiện đại ở nông thôn, đưa nông thôn phát triển ngày càng văn minh, hiện đại ........................ 33 1.4. Kinh nghiệm quốc tế và một số địa phƣơng ........................................ 34 1.4.1. Kinh nghiệm quốc tế ...................................................................... 34 1.4.1.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc .................................................... 34 1.4.1.2. Kinh nghiệm của Đài Loan ........................................................ 36 1.4.2. Kinh nghiệm trong nước ............................................................... 38 1.4.2.1. Kinh nghiệm của Vĩnh Phúc ...................................................... 38 1.4.2.2. Kinh nghiệm của Hà Tây ............................................................ 39 1.4.3. Bài học kinh nghiệm...................................................................... 40 CHƢƠNG 2 ................................................................................................. 43 THỰC TRẠNG CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ....................... 43 NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN TỈNH PHÚ THỌ .................................. 43 2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Phú Thọ ............................... 43 2.1.1. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên ............................... 43
1
2.1.2. Điều kiện kinh tế – xã hội .............................................................. 46 2.2. Nhận thức và công tác lãnh chỉ đạo của các cấp ủy đảng và chính quyền tỉnh Phú Thọ trong việc vận dụng các Nghị quyết của Đảng về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn............................. 49 2.2.1. Về nhận thức của các cấp uỷ đảng và chính quyền ...................... 49 2.2.2. Về công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ đảng và chính quyền tỉnh trong việc vận dụng Nghị quyết của Đảng về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ............................................................. 53 2.3. Tình hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở Phú Thọ từ năm 1997 đến nay ..................................................................... 55 2.3.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn .................... 55 2.3.2. ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, nông thôn .......................................................................................................... 63 2.3.3. Xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn.......................... 67 2.3.4. Phát triển công nghiệp nông thôn và ngành nghề ở nông thôn.... 70 2.3.5. Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn .......................................................................... 74 2.4. Đánh giá chung về quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Phú Thọ những năm qua ...................................... 76 2.4.1. Một số thành tựu và nguyên nhân................................................. 76 2.4.2. Những tồn tại và nguyên nhân ...................................................... 78 2.4.3. Một số bài học kinh nghiệm rút ra ................................................ 81 CHƢƠNG 3 ................................................................................................. 87 PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY ................................... 87 CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ .................................................. 87 NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN TỈNH PHÚ THỌ .................................. 87 3.1. Những quan điểm và mục tiêu cơ bản thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Phú Thọ .......................... 87 3.1.1. Quan điểm thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Phú Thọ ............................................................. 87 3.1.2. Những mục tiêu cơ bản ................................................................. 90 3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Phú Thọ................................... 95 3.2.1. Nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước trong quá trình phát triển ................................................................................................. 95 3.2.2. Phát triển các thành phần kinh tế, đa dạng hoá nguồn vốn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ......... 97 3.2.3. Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ trong nông nghiệp, nông thôn ............................................................... 101
2
3.2.4. Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại ...................................................................................... 104 3.2.5. Phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm cho người lao động ............................................................................................................... 106 3.2.6. Các giải pháp và điều kiện hỗ trợ khác ....................................... 108 3.2.6.1. Chính sách tài chính .............................................................. 108 3.2.6.2. Chính sách ruộng đất ............................................................. 110 3.2.6.3. Phát triển các làng nghề truyền thống, các làng nghề mới, xây dựng và hình thành các cụm công nghiệp làng nghề ở nông thôn ....... 110 3.2.6.4. Củng cố và hoàn thiện mô hình hợp tác xã nông nghiệp ........ 112 3.2.6.5. Tăng cường công tác xúc tiến đầu tư, thương mại và tiêu thụ sản phẩm ............................................................................................ 113 KẾT LUẬN ................................................................................................ 115 DANH MỤC BẢNG BIỂU........................................................................ 117 Tµi liÖu tham kh¶o ......................................................................... 118
3
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói chung và công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn nói riêng là một quá trình tất yếu để chuyển một
nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế hiện đại, đặc biệt là những nước
đang trong thời kỳ đầu phát triển …
Đối với Việt Nam, một nước trong thời kỳ chuyển đổi và đang phát triển
ở trình độ thấp, thì công nghiệp hoá và hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
lại càng có vai trò hết sức quan trọng. Từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
III (1960) của Đảng Lao động Việt Nam, công nghiệp hoá đã được khẳng
định “là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ”. Tuy nhiên, hoàn cảnh
điều kiện trong nước cũng như quốc tế hiện nay đã có nhiều thay đổi so với
những năm đầu của công cuộc đổi mới. Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ, xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa nền kinh tế
thế giới và sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế tri thức... đã làm thay đổi lôgic
của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sự thay đổi đó đặt ra nhiều vấn
đề cả về lý luận và thực tiễn đòi hỏi phải có sự nhận thức lại quan niệm về
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn. Đây không phải chỉ là vấn đề thuần túy lý thuyết mà nó còn có ý
nghĩa quan trọng trong việc xác định con đường, bước đi và các giải pháp
chiến lược trong việc thực hiện nhiệm vụ đầy khó khăn này.
Tại Đại hội lần thứ VIII (1996), Đảng ta đã xác định mục tiêu chính của
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời gian tới là phấn đấu đến
năm 2020 đưa nước ta "cơ bản trở thành một nước công nghiệp", đồng thời
huy động tất cả các nguồn lực cần thiết để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp, nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp,
nông thôn và nông dân, đưa nông nghiệp lên một trình độ mới. Quá trình này
đã được tiến hành trên cả nước, đã thu được nhiều thành công bước đầu, song
4
cũng đang còn nhiều bất cập và đặt ra một số vấn đề mới, cả về lý luận, lẫn
thực tế chưa có lời giải thỏa đáng…
Phú Thọ là một tỉnh thuộc Trung du miền núi phía Bắc, nằm ở đỉnh tam
giác châu thổ sông Hồng, cách Thủ đô Hà Nội khoảng 80km, trong hành lang
kinh tế Hải Phòng - Hà Nội - Lào Cai (Việt Nam) - Hà Khẩu - Côn Minh
(Trung Quốc), nên Phú Thọ có nhiều cơ hội cho phát triển kinh tế và giao lưu
văn hoá. Tuy vậy, Phú Thọ hiện vẫn là một tỉnh nghèo, kinh tế vẫn chủ yếu
phụ thuộc vào nông nghiệp là chính. Trong những năm vừa qua cùng với
những chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển nông nghiệp, nông
thôn, tỉnh Phú Thọ đã có nhiều chính sách và biện pháp tác động thúc đẩy
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn và đạt được những
thành tựu đáng kể. Song kinh tế Phú Thọ phát triển chưa thật vững chắc, chất
lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh thấp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn
chậm, nông nghiệp và nông thôn đều đang phải đối diện với nhiều vấn đề bức
xúc cần được nhận diện đầy đủ và giải quyết một cách kịp thời, hiệu quả, đặc
biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế…Tuy nhiên, cho đến nay vẫn
chưa có đề tài nghiên cứu nào về vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn ở Phú Thọ. Vì vậy, tôi đã chọn đề tài: "Công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở Phú Thọ" làm đề tài nghiên cứu luận
văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nói chung là một
trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong tiến trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, do vậy, đã có một số công trình khoa học đề cập về vấn
đề này, tiêu biểu như:
- GS.TS. Nguyễn Kế Tuấn (2006), "Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp nông thôn ở Việt Nam con đường và bước đi", NXB Chính trị Quốc
5
gia, Hà Nội.
- TS. Mai Thị Thanh Xuân (2004), "Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp nông thôn ở Bắc Trung bộ", NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- GS.TS. Đỗ Hoài Nam (2004), "Một số vấn đề công nghiệp hoá, hiện
đại hoá ở Việt Nam", NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
- GS.TS. Nguyễn Trọng Chuẩn, PGS.TS. Nguyễn Thế Nghĩa, PGS.TS.
Đặng Hữu Toàn (2002) "Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam lý luận
và thực tiễn", NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- TS. Đặng Kim Sơn (2001), “Công nghiệp hoá từ nông nghiệp, lý luận
thực tiễn và triển vọng áp dụng ở Việt Nam", NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
Nhìn chung, các công trình đều tập trung nghiên cứu những vấn đề lý
luận chung, vai trò, sự cần thiết, các yếu tố tác động, và nội dung của công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn trong nền kinh tế quốc dân.
Tuy vậy, mỗi tác giả có cách tiếp cận và luận giải khác nhau về công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Về Phú Thọ, đã có một vài công
trình khảo cứu, giới thiệu về địa phương như:
- Uỷ ban nhân dân tỉnh Phú Thọ (2007), "Quy hoạch phát triển ngành
nghề nông thôn tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2006-2010 và định hướng đến năm
2020"
- Ths. Phạm Ngọc Thước: "Một số kết quả ban đầu và phương hướng
nhiệm vụ trong thời gian tới về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông
thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá", Báo Phú Thọ xuân 2006.
- Tỉnh uỷ Phú Thọ (2000), "Phú Thọ vào thế kỷ 21".
Song cho đến nay, cả ở cấp Trung ương cũng như địa phương chưa có
một công trình nào đề cập trực tiếp, chuyên sâu đến vấn đề công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Phú Thọ, nhất là theo quá trình lịch
sử từ năm 1997 đến nay.
6
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản về công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, luận văn tập trung phân tích, làm
rõ thực trạng, thành công và những bất cập trong quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Phú Thọ thời gian qua. Từ đó, mạnh dạn
đề xuất và làm rõ một số định hướng và giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Phú Thọ.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung và quan điểm của
Đảng về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
- Tập trung vào những nội dung cơ bản về thực trạng, phương hướng và
giải pháp của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
tỉnh Phú Thọ:
+ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn
+ ứng dụng khoa học công nghệ, kỹ thuật hiện đại trong nông nghiệp,
nông thôn
+ Xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn
+ Phát triển công nghiệp và dịch vụ nông nghiệp, nông thôn
Những vấn đề trên được giới hạn trong khoảng thời gian từ năm 1997
đến nay (từ khi tỉnh Phú Thọ được tái thành lập).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên quan điểm biện chứng và lịch sử, luận văn sử dụng đồng bộ, linh
hoạt các phương pháp và công cụ nghiên cứu cơ bản truyền thống, nhất là
phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, kế thừa khoa học và phương pháp
chuyên gia...
6. Dự kiến đóng góp mới của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ tính tất yếu khách quan và các nội dung cơ
7
bản của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở
Việt Nam nói chung và tỉnh Phú Thọ nói riêng.
- Góp phần phân tích, đánh giá có căn cứ khoa học về thực trạng quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Phú Thọ thời
gian qua.
- Góp phần làm rõ một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm
thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Phú
Thọ.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
kết cấu gồm 3 phần:
Chương 1: Một số vấn đề chung về công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn
Chương 2: Thực trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn tỉnh Phú Thọ
Chương 3: Phương hướng và giải pháp thúc đẩy công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Phú Thọ
8
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ,
HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
1.1. Quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá và công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
Từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III (1960) của Đảng Lao động
Việt Nam, công nghiệp hoá đã được khẳng định “là nhiệm vụ trung tâm trong
suốt thời kỳ quá độ”. Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ, xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa nền kinh tế thế giới và sự
phát triển mạnh mẽ của kinh tế tri thức... đã làm thay đổi cả về khái niệm, nội
dung và lôgic của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Đây không phải chỉ là vấn đề thuần
túy lý thuyết mà nó còn có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định con đường,
bước đi và các giải pháp chiến lược trong việc thực hiện nhiệm vụ đầy khó
khăn này.
1.1.1. Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Một số học giả quan niệm rằng công nghiệp hóa đồng nghĩa với quá
trình phát triển công nghiệp, là đưa đặc tính công nghiệp cho một hoạt động.
Họ tách rời, thậm trí đối lập sự phát triển công nghiệp với nông nghiệp và một
số ngành khác. Họ coi đối tượng của công nghiệp hóa chỉ là ngành công
nghiệp, còn sự phát triển của nông nghiệp và các ngành khác dường như chỉ
là hệ quả của quá trình phát triển công nghiệp. Công nghiệp hóa theo họ là
làm cho công nghiệp chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong kết quả hoạt động
của nền kinh tế, còn cơ cấu hay loại hình công nghiệp đó như thế nào thì
không quan trọng. Tuy nhiên, quan niệm này không đề cập gì tới tính lịch sử
của công nghiệp hóa, điều này dễ làm người ta hiểu là công nghiệp hóa sẽ kéo
dài vô tận, đưa đến một sự nhầm lẫn, đồng nhất công nghiệp hóa với quá trình
9
phát triển công nghiệp, không làm rõ được mục tiêu và điểm dừng của công
nghiệp hóa.
Một thời gian dài ở các nước xã hội chủ nghĩa có những sự giải thích
khác nhau về phạm trù công nghiệp hóa. Song trên thực tế đều thống nhất với
quan điểm của các nhà kinh tế Liên Xô trước đây. Họ coi công nghiệp hóa là
quá trình biến một nước nông nghiệp thành nước công nghiệp, bằng cách phát
triển công nghiệp nhanh hơn nông nghiệp và ưu tiên phát triển các ngành sản
xuất tư liệu sản xuất; là quá trình xây dựng nền đại công nghiệp cơ khí, có khả
năng cải tạo cả nông nghiệp, với trung tâm là ngành chế tạo máy, nhằm đảm
bảo cải tạo toàn bộ nền kinh tế quốc dân trên cơ sở kỹ thuật cơ khí tiên tiến.
Quan điểm này xuất phát từ thực tiễn Liên Xô khi bắt tay vào công nghiệp
hóa còn là một nước nông nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá, bị đế quốc
bao vây, sự trợ giúp bên ngoài không có. Vì vậy, để bảo vệ đất nước, đẩy
mạnh tốc độ công nghiệp hóa, buộc Liên Xô phải dốc toàn lực tập trung phát
triển công nghiệp nặng. Đường lối công nghiệp hóa của Liên Xô đã đạt được
những thành tựu nhất định và từng được coi là kỳ tích của chủ nghĩa xã hội.
Trong điều kiện kinh tế- xã hội lúc đó quan niệm này được coi là hợp lý.
Một số học giả khác lại cho rằng công nghiệp hóa là quá trình không chỉ
phát triển một lĩnh vực công nghiệp chủ chốt nào đó hay toàn bộ nền công
nghiệp thành lĩnh vực đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, mà còn biến tất
cả các hoạt động sản xuất thành loại hình hoạt động công nghiệp. Như vậy, có
thể nói công nghiệp hóa là quá trình phát triển kinh tế diễn ra lâu dài, bắt đầu
từ khi xuất hiện mầm mống của công nghiệp và vẫn chưa kết thúc ngay cả ở
những nước đã có nền kinh tế phát triển.
Cùng quan điểm đó Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hiệp quốc
(UNIDO) đã coi công nghiệp hóa là một quá trình phát triển kinh tế, trong đó
một bộ phận nguồn lực quốc gia ngày càng lớn được huy động để xây dựng
10
cơ cấu kinh tế nhiều ngành, với công nghệ hiện đại, để chế tạo ra tư liệu sản
xuất và tư liệu tiêu dùng có khả năng đảm bảo cho nền kinh tế phát triển với
nhịp độ cao, đảm bảo đạt tới tiến bộ kinh tế và tiến bộ xã hội. ở khía cạnh nào
đó, quan niệm này tránh được một số khiếm khuyết như những quan điểm
trước đã trình bày. Quan niệm này coi công nghiệp hóa là quá trình bao trùm
toàn bộ quá trình phát triển kinh tế - xã hội nhằm đạt nhiều mục tiêu (cả kinh
tế và xã hội) chứ không phải chỉ là mục tiêu kinh tế - kỹ thuật. Nó nhấn mạnh
công nghiệp hóa là quá trình phát triển kinh tế, khẳng định xây dựng cơ cấu
kinh tế đa ngành, nâng cao trình độ kỹ thuật áp dụng công nghệ hiện đại là nội
dung cơ bản của quá trình công nghiệp hóa. Tuy nhiên, nó còn mang nặng
tính dung hoà những ý kiến khác nhau, hơn nữa cũng chưa nêu lên được tính
lịch sử cụ thể của quá trình công nghiệp hóa.
Ngày nay, với sự phát triển nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ và sự liên kết kinh tế thế giới, rõ ràng công nghiệp hóa theo kiểu
cổ điển không còn phù hợp nữa. Cách mạng khoa học - kỹ thuật bùng nổ đã
làm thay đổi căn bản trình độ phát triển của các nước, khoảng cách chênh lệch
giữa các nước phát triển và nước chậm phát triển ngày càng lớn. Ngay cả ở
một số nước đi trước trong quá trình công nghiệp hóa, trước sự phát triển
nhanh chóng của khoa học, công nghệ cũng trở nên lạc hậu. Dường như việc
đạt tới trình độ phát triển hiện đại nhất ngày càng trở thành một thách thức
khó vượt qua đối với quá trình công nghiệp hóa ở các nước đi sau, buộc các
nước này phải nghĩ đến những chiến lược phát triển gồm nhiều giai đoạn, mà
một trong những nhiệm vụ của giai đoạn sau là hiện đại hóa những gì mà giai
đoạn trước đã đạt được. Vì vậy, sự xâm nhập, đan kết của công nghiệp hóa -
hiện đại hóa là không thể tránh khỏi và đó cũng là cơ hội để các nước lạc hậu
có thể bắt kịp các nước phát triển trên thế giới. Do vậy, cả hai quan điểm
đồng nhất hóa hay cô lập hóa hai quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa
11
đều không có chỗ đứng trong thực tế. Công nghiệp hóa trong điều kiện hiện
nay phải bao hàm cả ý nghĩa hiện đại hoá, mục tiêu của công nghiệp hóa là
tiến tới hiện đại hóa, song bản thân hiện đại hóa với nội dung rộng hơn đã
xâm nhập vào quá trình công nghiệp hóa. Mặt khác, cũng phải thấy rằng công
nghiệp hóa tự bản thân nó không thể bao chứa hết nội dung của hiện đại hóa.
Nhiều lĩnh vực của phạm trù hiện đại hóa về bản chất khác hoàn toàn với mục
tiêu của công nghiệp hóa như: Công nghệ trí tuệ, công nghệ sinh học, sự phát
triển đa dạng của truyền thống văn hoá...
ở Việt Nam, ngay từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng
Lao động Việt Nam (năm 1960) đã xác định, thực chất của công nghiệp hoá
“là quá trình thực hiện cách mạng kỹ thuật, thực hiện sự phân công mới về lao
động xã hội và là quá trình tích luỹ xã hội chủ nghĩa để không ngừng thực
hiện tái sản xuất mở rộng”. Quan niệm này đã thể hiện rõ nội dung toàn diện,
mục tiêu và tính lịch sử của quá trình công nghiệp hoá và nó được xem là
quan niệm chính thống về công nghiệp hoá ở nước ta thời gian đó.
Khi bước vào thời kỳ đổi mới năm 1986, cùng với việc từng bước phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải phóng các lực
lượng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng và Nhà nước ta đã xác định ngày càng rõ quan
điểm mới về công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đảng ta đã chỉ rõ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá không phải là hai quá trình, mà là một quá trình
thống nhất, tuy có phần trùng khớp, nhưng về cơ bản vẫn là hai quá trình tách
biệt và nối tiếp nhau. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 Khoá VII của Đảng
(năm 1994) đã chỉ rõ “công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi
một cách căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và
quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính, sang sử
dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với phương tiện, phương pháp tiên
12
tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và khoa học công nghệ,
tạo ra năng suất lao động xã hội cao”. Coi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá là một cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực đời
sống kinh tế - xã hội. Theo đó, công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ đơn
thuần là phát triển công nghiệp, mà còn phải thực sự chuyển dịch cơ cấu trong
từng ngành, từng lĩnh vực trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo hướng sử
dụng công nghệ tiến bộ. Không chỉ thực hiện một cách tuần tự qua các bước
cơ giới hoá, tự động hoá, tin học hoá, mà còn phải kết hợp đồng thời các
thành tựu trên nhiều lĩnh vực; Phải biết tận dụng, hiện đại hoá các công nghệ
truyền thống và áp dụng những công nghệ, kỹ thuật hiện đại; Phát triển có
chọn lọc, có mũi nhọn để thực hiện đi tắt đón đầu.
Bước sang thế kỷ 21, Đảng ta nhận định: “Thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có
nhiều biến đổi. Khoa học và công nghệ sẽ có bước phát tiến nhảy vọt. Kinh tế
tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản
xuất”[13]. Xu hướng toàn cầu hoá kinh tế và sự phát triển của nền kinh tế tri
thức trên thế giới đã, đang và sẽ làm thay đổi mạnh mẽ logic của tiến trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Sự kết hợp hai xu hướng này đòi hỏi quá trình
các nước đi sau như Việt Nam phải đồng thời thực hiện hai quá trình, đó là:
vừa xây dựng nền đại công nghiệp, vừa từng bước tiếp cận đến nền kinh tế tri
thức trong khuôn cảnh hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Đây là hai nội dung
của một quá trình duy nhất, diễn ra đồng thời và phải được thực hiện đồng
thời. Trong giai đoạn này công nghiệp hoá không chỉ gắn với các mục tiêu,
giải pháp truyền thống, mà còn phải có mục đích và giải pháp hiện đại.
Những quan điểm này ngày càng chi phối và định hướng tư duy chiến lược về
cơ cấu kinh tế, về xây dựng hệ thống thể chế, đặc biệt là môi trường pháp lý,
chính sách phù hợp với luật chơi toàn cầu. Trong bối cảnh ấy, nhận thức của
Đảng ta về công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cũng có bước đổi mới và
13
phát triển quan trọng khi cho rằng: “Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá
ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có
những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt”. Nói cách khác, đối với nước ta
hiện nay không nên và không thể dừng lại ở quan niệm công nghiệp hoá
truyền thống hay thậm chí quan niệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói
chung, mà phải thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn. Ngoài ra,
cần phải bổ sung một số nội dung mới vào quan niệm công nghiệp hoá truyền
thống, như phải thực hiện các yêu cầu của quá trình hội nhập vào nền kinh tế
toàn cầu hóa. Nội dung này bao hàm không chỉ các mục tiêu nâng cao sức
cạnh tranh (như cải tiến kỹ thuật, giảm chi phí, đa dạng hoá sản phẩm...), mà
quan trọng không kém là các quá trình thể chế liên quan đến xu hướng tự do
hoá, phân công lao động quốc tế và liên kết kinh tế toàn cầu.
Như vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa với tư cách một quá trình bao
gồm nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau là một kết cấu động và rất phức tạp.
Việc đưa ra một định nghĩa ngắn gọn bao chứa được đầy đủ nội dung, đặc
trưng của nó không phải là đơn giản, dễ dàng. Khái niệm công nghiệp hóa,
hiện đại hóa cần bao quát được những điểm cơ bản sau:
Công nghiệp hoá là một tất yếu lịch sử mà Việt Nam phải trải qua. Đó là
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội theo hướng phát triển mạnh công
nghiệp, đi đôi với đổi mới công nghệ, tạo ra sự phát triển vượt bậc của công
nghiệp trong cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, làm cơ sở cho sự tăng trưởng
vững chắc và có hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế.
Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam là: Cải biến
nước ta thành một nước công nghiệp, có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có
cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng và an ninh
vững mạnh, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
14
Nội dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là trang bị và tái
trang bị công nghệ ngày càng hiện đại cho tất cả các ngành của nền kinh tế
quốc dân, trước hết là các ngành mũi nhọn, có lợi thế và tạo được sức bật lớn
để thúc đẩy các ngành khác phát triển, trên cơ sở cải tiến và hiện đại hóa dần
các công nghệ truyền thống, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp.
Từ sự phân tính trên có thể rút ra nhận định khái quát: Công nghiệp hoá,
hiện đại hoá là một quá trình lịch sử tất yếu mà Việt Nam phải trải qua, nhằm
cải biến nước ta thành một nước công nghiệp, có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện
đại, trang bị và tái trang bị công nghệ ngày càng hiện đại cho tất cả các ngành
kinh tế quốc dân, chuyển từ lao động thủ công, lạc hậu, sang lao động sử dụng
máy móc, thiết bị công nghệ tiên tiến, hiện đại, có hàm lượng trí tuệ cao, đồng
thời giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái,
nâng cao chất lượng cuộc sống, giữ vững an ninh quốc phòng một cách vững
chắc và có hiệu quả nhất.
Để thực hiện tốt mục tiêu và nội dung cơ bản trên của tiến trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam cần phải có những điều kiện, bước đi và
giải pháp thích ứng trong từng giai đoạn cụ thể.
1.1.2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
Quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nêu trên là cơ sở để xây
dựng quan niệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn với
nội dung chủ yếu là cải biến khu vực kinh tế nông nghiệp, nông thôn cổ
truyền theo định hướng kinh tế công nghiệp - thị trường hiện đại.
Trước đây, có quan niệm cho rằng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn là việc đưa công nghiệp vào nông thôn, đảm bảo cho sản
xuất nông nghiệp mang tính công nghiệp. Quan niệm khác lại cho rằng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là quá trình đô thị hoá nông
15
thôn, biến nông thôn thành thành thị. Các quan niệm này đều phản ánh các
khía cạnh khác nhau của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn, nhưng còn phiến diện, chưa thấy hết các mối quan hệ nội tại và
khách quan của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn.
Xuất phát từ yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, khái
niệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn cần phải phản
ánh đầy đủ mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong
quá trình này ở nông nghiệp, nông thôn, cũng như phải thể hiện được mục
tiêu, biện pháp, phương tiện thực hiện quá trình đó.
Công nghiệp hoá nông nghiệp là việc áp dụng các phương pháp sản xuất
công nghiệp vào nông nghiệp, là việc sử dụng các máy móc thiết bị hiện đại
và phương pháp quản lý tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp, nhằm giảm thiểu
mức độ lệ thuộc của con người vào thiên nhiên, giúp con người chế ngự được
thiên nhiên trong sản xuất nông nghiệp, cải thiện được điều kiện lao động cực
nhọc, nâng cao năng suất lao động nông nghiệp và thu hẹp sự cách biệt giữa
công nghiệp và nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn.
Công nghiệp hoá nông thôn có nội dung cốt lõi là chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn theo hướng: Giảm dần tỷ trọng của nông nghiệp, tăng dần
tỷ trọng của tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, trong đó toàn bộ nền
kinh tế nông thôn được cải biến dần trên nền tảng của phương thức sản xuất
có tính chất công nghiệp.
Hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình ứng dụng các thành tựu và sử
dụng các phương tiện sản xuất hiện đại do khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện
đại cung cấp và áp dụng các phương pháp quản lý hiện đại vào nông nghiệp
để cải biến phương thức sản xuất nông nghiệp lạc hậu thành phương thức sản
xuất tiên tiến, biến nền nông nghiệp truyền thống thành nền nông nghiệp hiện
16
đại. Cốt lõi của hiện đại hoá nông nghiệp là để nâng cao năng suất lao động
nông nghiệp.
Như vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là quá
trình chuyển đổi căn bản, toàn diện quá trình sản xuất trong nông nghiệp và
bộ mặt kinh tế nông thôn, biến lao động thủ công thành lao động cơ khí, đưa
sản xuất nhỏ lên sản xuất hàng hoá lớn; là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp, kinh tế nông thôn theo hướng tăng tỷ trọng các hoạt động sản
xuất phi nông nghiêp (công nghiệp nông thôn, dịch vụ...), từ đó biến đổi bộ
mặt kinh tế xã hội nông thôn theo hướng gần với thành thị. Nhưng trong điều
kiện hiện nay thì công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn còn
phải là quá trình chuyển khu vực nông thôn từ trạng thái nông nghiệp cổ
truyền thành khu vực có quan hệ thị trường phát triển, với hệ thống phân công
lao động đạt trình độ cao, dựa trên nền tảng kỹ thuật - công nghệ hiện đại và
hội nhập kinh tế toàn cầu, trong khuôn khổ quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nền kinh tế. Đây cũng là quá trình đô thị hoá, cải biến xã hội nông
thôn lên một trình độ văn minh cao hơn, bảo đảm cho mọi người dân có đời
sống vật chất và tinh thần ngày càng cao.
Ta có thể thấy rằng việc vượt qua giới hạn kỹ thuật cơ khí của quá trình
công nghiệp hoá cổ điển để từng bước đạt đến các công nghệ - kỹ thuật hiện
đại do kinh tế tri thức tạo ra là một nguyên tắc bắt buộc của quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nó hàm ý sự nhảy vọt về cơ cấu, về công nghệ kỹ
thuật trong sản xuất nông nghiệp, nông thôn. Đối với một quốc gia đang trong
giai đoạn phát triển, mà phần lớn dân số là lao động nông nghiệp như Việt
Nam hiện nay, thì thành quả công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn có ý nghĩa quyết định rất lớn tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói
chung, đến sự phát triển của các lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn nói riêng.
Chính vì vậy việc làm rõ mối quan hệ giữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá
17
nông nghiệp, nông thôn và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế là yêu
cầu bắt buộc của quá trình xây dựng chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại
hoá.
Quan niệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói chung và công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nói riêng trên là cơ sở để tổng kết, đánh
giá tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở nước ta
giai đoạn vừa qua, cũng như để luận chứng, thiết kế khuôn khổ chiến lược
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn tới.
1.2. Sự cần thiết của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn
Trong thư gửi điền chủ nông gia Việt Nam đăng trên báo Cứu quốc, số
229, ngày 1-1-1946, Bác viết “Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp.
Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng nước
nhà, Chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một
phần lớn. Nông dân ta giàu thì nước ta giàu, nông nghiệp ta thịnh thì nước ta
thịnh”. Vì thế, trong khi luôn coi công nghiệp hoá là nhiệm vụ trọng tâm
trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng ta vẫn xác
định nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong những năm
trước mắt là: “coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn” và “huy động mọi nguồn lực cần thiết để đẩy nhanh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn”. Điều đó bắt nguồn từ một số nguyên
nhân sau:
- Trước hết, xuất phát từ vai trò của nông nghiệp, nông thôn trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội và những lợi thế so sánh của Việt Nam
Việt Nam là một nước nông nghiệp. Tiềm năng và lợi thế của Việt Nam
cũng là tiềm năng về phát triển nông nghiệp, gồm: tài nguyên đất, tài nguyên
rừng, biển, tài nguyên mặt nước, và cả yếu tố con người…Đây là vừa điều
18
kiện, phương tiện, vừa là mục đích của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn hiện nay ở nước ta. Việc tiến hành công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp, nông thôn là nhằm khai thác triệt để và phát huy tối đa
hiệu quả tiềm năng của các nguồn lực này. Nguồn tài nguyên phong phú của
Việt Nam cho phép chúng ta phát triển một nền nông nghiệp đa dạng. Diện
tích đất nông nghiệp nước ta chiếm khoảng 39,2% diện tích đất tự nhiên,
trong đó đất có độ màu mỡ cao chiếm tỷ lệ tương đối lớn (chủ yếu tập trung ở
các tỉnh cùng đồng bằng sông Hồng, sông Cửu Long và một số tỉnh cùng Bắc
Trung Bộ). Đây là điều kiện để phát triển các vùng chuyên canh sản xuất hàng
hoá tập trung quy mô lớn. Tài nguyên rừng Việt Nam cũng khá phong phú,
trong đó diện tích rừng sản xuất chiếm 53%, được phân bố chủ yếu ở Tây
Nguyên, các tỉnh miền núi Trung du Bắc Bộ, các tỉnh Bắc Trung Bộ và
Duyên hải miền Trung. Ngoài ra, Việt Nam còn có hơn 3200km bờ biển với
hệ thống sinh vật biển đa dạng và phong phú, với hơn 1700 loài cá biển, cung
cấp sản lượng bình quân 1 triệu tấn/năm.
Với khoảng gần 80% dân số sinh sống ở nông thôn, Việt Nam có lực
lượng lao động nông nghiệp khá dồi dào, với trình độ học vấn tương đối cao.
Đó là điều kiện quan trọng để người lao động tiếp thu và ứng dụng những
thành tựu mới của khoa học công nghệ thế giới, đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, đồng thời góp phần đẩy
mạnh phát triển công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn.
Có thể nói, việc xác định chiến lược phải đẩy nhanh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn của Việt Nam là hoàn toàn phù hợp
với điều kiện thực tiễn và cũng phù hợp với quy luật phát triển từ sản xuất
nhỏ lên sản xuất lớn hiện đại. Phải công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn thì mới tạo được sức bật vực dậy khu vực nông thôn, và
nhờ đó đẩy mạnh phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Việc Đảng ta đặt ra
19
nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn lên hàng đầu
trong những năm trước mắt vừa hợp với quy luật, vừa hợp với yêu cầu của
thực tiễn nền kinh tế.
- Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu đảm bảo an ninh lương thực quốc gia
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “sản xuất lương thực và thực phẩm là rất
quan trọng”, nông nghiệp có một vị trí đặc biệt đối với xã hội, phát triển nông
nghiệp là nhân tố đầu tiên, là cội nguồn của mọi vấn đề xã hội. Người cho
rằng nông nghiệp được đề cao bởi vấn đề lương thực, thực phẩm là vấn đề hết
sức quan trọng đối với mỗi quốc gia.
Trong khi nước ta còn nghèo, công nghiệp kém phát trển, quy mô dân số
ngày càng tăng thì nhu cầu về lương thực thực phẩm cũng tăng lên rất nhanh.
Do đó, để có thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu lương thực cho hơn 80 triệu dân đòi
hỏi nông nghiệp phải được công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phải có sự phát
triển vượt bậc về năng suất cây trồng, vật nuôi. Hơn nữa, nếu nông nghiệp
không sản xuất đủ lương thực thì việc nhập khẩu lương thực sẽ là gánh nặng
đè lên chi tiêu của Chính phủ, làm giảm đầu tư cho đổi mới thiết bị máy móc,
công nghệ phục vụ cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thực tế nói
lên rằng, nếu trong cơ cấu kinh tế quốc dân mà không có nền nông nghiệp
phát triển đảm bảo cung cấp đủ lương thực cho xã hội thì toàn bộ nền kinh tế
sẽ gặp khó khăn. Vì vậy, vấn đề đảm bảo an ninh lương thực quốc gia là
nhiệm vụ thường xuyên của mỗi quốc gia và cũng là nhân tố quan trọng hàng
đầu để ổn định kinh tế, chính trị, xã hội, nhờ đó thúc đẩy nhanh quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, thực hiện phân công lại lao động xã hội
một cách hợp lý hơn.
- Thứ ba, xuất phát từ yêu cầu của việc phát triển công nghiệp và dịch vụ
Nông nghiệp và nông thôn không chỉ sản xuất ra sản phẩm tiêu dùng trực
tiếp cho người dân, mà còn là nơi cung cấp nguồn nguyên liệu cho công
20
nghiệp, trước hết là cho công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm, công
nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Vì vậy, sự lạc hậu hay tiến bộ của
nông nghiệp, nông thôn có ảnh hưởng rất lớn đến phát triển công nghiệp và
dịch vụ, muốn mở mang công nghiệp thì phải có đủ lương thực, nguyên liệu.
Thực tế nhiều nước đã chỉ ra rằng, sự lạc hậu của lực lượng sản xuất tại
nông thôn đã làm hạn chế sự tăng trưởng của công nghiệp thành thị. Trong
trường hợp đó, khu vực công nghiệp ở thành thị không đủ sức để cải tạo khu
vực nông nghiệp cổ truyền ở nông thôn như vai trò vốn có của nó, mà ngược
lại cả công nghiệp và nông nghiệp đều rơi vào tình trạng kém phát triển. Chỉ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn làm cho năng suất lao
động nông nghiệp tăng lên, khối lượng nguyên liệu cung cấp cho công nghiệp
nhiều hơn, khi đó công nghiệp mới có cơ hội phát triển và đến lượt nó công
nghiệp sẽ thúc đẩy trở lại đối với sự phát triển nông nghiệp và các ngành
khác. Như vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đã tạo
ra quy mô và tốc độ tăng trưởng của các nguồn nguyên liệu nông nghiệp, là
nhân tố có tác động quan trọng đến quy mô và tốc độ tăng trưởng của công
nghiệp, dịch vụ và các ngành kinh tế khác.
Mặt khác, nông nghiệp, nông thôn là thị trường tiêu thụ hàng hoá rộng
lớn cho lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ và cũng là động lực thúc đẩy công
nghiệp, dịch vụ phát triển. Tốc độ tăng trưởng thu nhập và quy mô dân số
trong lĩnh vực nông nghiệp sẽ tác động đến dung lượng của thị trường nội địa
đối với hàng hoá khu vực công nghiệp, dịch vụ. Nói cách khác, tăng trưởng
của lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ phụ thuộc rất nhiều vào việc tăng trưởng
của khu vực nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Ngoài ra, nông nghiệp, nông thôn còn là nơi cung cấp nguồn nhân lực
dồi dào cho các ngành kinh tế khác. Dưới tác động của khoa học và công
nghệ, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ giải phóng một bộ phận lao
21
động ra khỏi nông nghiệp để chuyển sang lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, do
đó, công nghiệp và dịch vụ sẽ có cơ hội phát triển nhanh. Quá trình phát triển
kinh tế theo hướng hiện đại đều gắn liền với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
và lao động từ nông thôn ra thành thị, từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp,
sang các ngành công nghiệp và dịch vụ có năng suất cao hơn. Quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá tuy không đòi hỏi tăng nhanh số lượng lao động vào
các hoạt động thuần túy công nghiệp, nhưng nó đòi hỏi nhiều lao động dịch
vụ hỗ trợ như: vận chuyển hàng hoá, đóng gói, phân loại sản phẩm, thông tin
thị trường, tiếp thị, y tế, văn hoá, giáo dục khi các hoạt động này tăng nhanh
cả về số lượng và năng lực thì nó đòi hỏi nguồn lao động bổ sung rất lớn từ
nông nghiệp.
- Thứ tư, xuất phát từ yêu cầu phát triển bền vững và nâng cao đời sống
xã hội nông thôn
Ngày nay, vai trò quan trọng của nông thôn đối với sự ổn định chính trị,
xã hội là không thể phủ nhận. Không riêng gì ở Việt Nam và các nước đang
phát triển khác mà ngay cả các nước công nghiệp phát triển và các nước mới
công nghiệp hoá cũng hết sức chú trọng đến khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Nông thôn phát triển, đời sống nông dân no đủ họ sẽ tin tưởng vào cuộc
sống, vào chế độ xã hội, từ đó yên tâm làm giàu, xây dựng nông thôn hiện đại,
góp phần giữ vững chính trị và ổn định xã hội của cả nước. Việt Nam hiện
vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu lại trải qua nhiều năm chiến tranh, do
đó, đang tồn tại sự chênh lệch khá xa về kinh tế và văn hoá giữa thành thị và
nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi. Hơn nữa, sự lạc hậu của nông nghiệp
và nông thôn đã làm tăng thêm làn sóng di cư tự do từ nông thôn ra thành thị,
tạo nên hiện tượng quá tải ở thành thị và tiềm ẩn nguy cơ của sự bất ổn. Do
vậy, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước coi trọng đầu tư cho
nông nghiệp, nông thôn nhưng cũng cần phải gắn công nghiệp hoá, hiện đại
22
hoá nông nghiệp với công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn để giảm dần sự
cách biệt về trình độ phát triển giữa các vùng trong cả nước.
- Cuối cùng, xuất phát từ tình trạng yếu kém của nông nghiệp, nông thôn
Việt Nam
Nước ta hiện nay căn bản vẫn là nước nông nghiệp, phần lớn người dân
sống và lao động ở khu vực nông thôn và hơn 58% lao động ở nông thôn làm nông nghiệp. Ruộng đất bình quân đầu người thấp (khoảng 800m2 /người) và
đang có xu hướng giảm xuống do quá trình đô thị hoá, mở rộng kết cấu hạ
tầng và phát triển khu công nghiệp. Trình độ sản xuất nông nghiệp còn thấp,
chủ yếu là kỹ thuật thủ công truyền thống. Vì vậy, dù nông dân đã thâm canh
tăng vụ, quay vòng đất nhanh, thực hiện kinh doanh tổng hợp, nhưng việc
làm, thu nhập của họ vẫn còn khó khăn dẫn đến sức mua hạn chế, dung lượng
thị trường nông thôn không lớn (khoảng 75% số dân nông thôn đang có thu
nhập dưới mức bình quân chung của xã hội). Bên cạnh đó, kinh tế nông thôn
đang ở tình trạng yếu kém, chậm phát triển, năng suất lao động thấp. Hệ
thống kết cấu hạ tầng chậm phát triển, trình độ khoa học công nghệ lạc hậu,
làm cho hiệu quả sản xuất kinh doanh nông nghiệp thấp. Cơ cấu kinh tế còn
mang nặng tính thuần nông, giá thành sản phẩm cao, sức cạnh tranh của nông
sản và hàng hoá sản xuất từ nông thôn trên thị trường thấp. Đời sống nhân
dân nhìn chung còn nhiều khó khăn. Nhiều tiềm năng chưa được khai thác và
khai thác một cách có hiệu quả. Việc ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ,
nhất là các loại giống cây trồng, vật nuôi còn hạn chế. Công nghiệp chế biến
và ngành nghề kém phát triển. Thị trường nông sản gặp nhiều khó khăn, khả
năng cạnh tranh của hàng nông sản nước ta còn thấp. Cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, nông thôn chuyển dịch chậm, chưa gắn bó hiệu quả với thị trường.
Sản xuất nông nghiệp còn phân tán, manh mún, mang nhiều yếu tố tự phát.
Công nghiệp nông thôn chậm phát triển, nhất là trong chế biến nông sản, dịch
23
vụ còn bất cập, nhỏ lẻ. Trước thực tế đó, vấn đề cần ưu tiên đối với nước ta
lúc này là phải tập trung cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng sản xuất lớn hàng
hoá, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn gắn liền
với quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, trong bối cảnh xu thế quốc tế hoá, khu vực hoá nền kinh tế. Nói cách
khác, để phát huy những lợi thế tiềm năng, khắc phục tình trạng yếu kém và
sớm xây dựng được một nền nông nghiệp hàng hoá lớn, hiện đại, hiệu quả,
bền vững, có năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao trên cơ sở ứng dụng
các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, đáp ứng nhu cầu trong nước và
xuất khẩu, xây dựng nông thôn ngày càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn
minh, thì công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một tất yếu
đối với Việt Nam.
1.3. Nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn
Theo chủ trương chung của Đảng và Nhà nước ta, quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn cần tập trung vào một số nội dung
chính sau:
1.3.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng
sản xuất hàng hoá lớn, hiện đại
Biến đổi cơ cấu kinh tế là một quá trình căn bản của sự phát triển kinh tế.
Một sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế liên quan đến sự thay đổi vai trò của các
khu vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ; của các ngành nông nghiệp,
lâm nghiệp và thuỷ sản, của trồng trọt và chăn nuôi trong một thời gian dài.
Những thay đổi đó được đánh giá bằng sự thay đổi tương quan về tỷ trọng của
các khu vực, các ngành hay bộ phận trong nội bộ ngành. Một xu hướng biến
đổi cơ cấu kinh tế được coi là hợp lý, hiện đại khi tỷ trọng giá trị của các
ngành phi nông nghiệp, nhất là dịch vụ trong tổng sản phẩm quốc dân ngày
24
càng tăng, tỷ trọng giá trị của nông, lâm, thuỷ sản ngày càng giảm và trong
nội bộ ngành nông nghiệp thì tỷ trọng giá trị lâm nghiệp và thuỷ sản ngày
càng tăng, còn giá trị nông nghiệp thuần ngày càng giảm. Để tạo sự thay đổi
tích cực trong cơ cấu kinh tế theo hướng đó, tiến trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay cần thực hiện:
* Chuyển nền nông nghiệp độc canh sang nền nông nghiệp đa canh đi
đôi với việc hình thành các vùng sản xuất chuyên canh quy mô lớn
Tình trạng độc canh, thuần nông là đặc trưng của nền sản xuất nhỏ, tự
cấp, tự túc. Hậu quả của nó là không tạo được sức bật cho sự phát triển của
nông nghiệp, nông thôn. Vì vậy, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
theo hướng tạo nên sự đa dạng trong sản xuất và sản phẩm, biến nền nông
nghiệp chủ yếu chỉ sản xuất lúa gạo và hoa mầu thành nền nông nghiệp hàng
hoá đa dạng sẽ đáp ứng tốt hơn nhu cầu xã hội.
Chuyển nền nông nghiệp độc canh sang nền nông nghiệp đa canh - đây
là một xu hướng cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong nông nghiệp.
Trước đây, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, cơ cấu nông nghiệp ở nước ta
được bố trí theo ý đồ chủ quan, đưa ra mô hình cơ cấu cây trồng, vật nuôi
thoát ly thực tế các mối quan hệ kinh tế, kỹ thuật, môi trường và thể chế do
đó, ít mang lại hiệu quả. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn đòi hỏi phá bỏ cơ cấu lạc hậu đó, hướng vào phát triển nền
nông nghiệp đa dạng về cây, con phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu,
thời tiết của đất nước cũng như của địa phương, nhằm tạo giá trị thu nhập cao.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi hỏi nông nghiệp
phải thực hiện ba nhiệm vụ lớn và trực tiếp là: đảm bảo an ninh lương thực
quốc gia; đảm bảo tối đa nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và tăng
giá trị nông sản xuất khẩu. Để thực hiện các nhiệm vụ đó, nông nghiệp, nông
thôn không thể là một nền nông nghiệp sản xuất nhỏ, lạc hậu mà phải là nền
25
nông nghiệp phát triển toàn diện, hiện đại. Việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp
lý cho nông nghiệp và nông thôn sẽ cho phép lựa chọn những công nghệ thích
hợp để phát huy thế mạnh của nông nghiệp, nông thôn, nhờ đó sẽ khai thác tốt
nhất các nguồn lực hiện có ở nông thôn, tạo nên sức bật mới trong nông thôn.
Xã hội càng phát triển, nhu cầu tiêu dùng của người dân càng cao, càng
đa dạng thì sản xuất nông nghiệp cũng không thể chỉ tập trung sản xuất lương
thực, mà còn phải đa dạng hoá sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Đồng thời phải hướng tới xây dựng và phát triển những vùng sản xuất hàng
hoá tập trung quy mô lớn để có thể áp dụng có hiệu quả những thành tựu mới
của khoa học - công nghệ, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, tăng
khả năng cạnh tranh của hàng nông sản trên thị trường trong nước và quốc tế.
* Chuyển nền nông nghiệp và kinh tế nông thôn từ trạng thái khép kín
sang nền nông nghiệp đa hàng hoá, hướng mạnh vào xuất khẩu
Phát triển kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá, mở rộng
phân công hợp tác lao động là xu thế tất yếu, phù hợp với xu thế phát triển
chung của các nước đang phát triển, mà Việt Nam cũng không nằm ngoài
những vấn đề mang tính quy luật đó. Chỉ trên cơ sở sản xuất hàng hoá phát
triển mới kích thích và thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản
xuất, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tạo sự phát triển kinh tế nói chung
và nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Kinh tế hàng hoá phát triển sẽ thúc đẩy
quá trình xã hội hoá sản xuất, đẩy mạnh phân công và hợp tác, mở rộng thị
trường, tạo sự tích tụ và tập trung sản xuất nhanh chóng, từng bước chuyển
nền sản xuất nhỏ, lạc hậu lên nền sản xuất lớn, hiện đại.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất
hàng hoá là phải giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng lâm nghiệp và
ngư nghiệp trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp; phải giảm dần tỷ trọng giá
trị những cây, con cho năng suất và giá trị thương phẩm hàng hoá thấp, tăng
26
dần tỷ lệ diện tích và tỷ trọng giá trị các loại cây, con có giá trị thương phẩm
cao và có thị trường tiêu thụ lớn. Trước mắt, phải giảm giá trị trồng trọt, tăng
tỷ trọng giá trị chăn nuôi; trong trồng trọt thì giảm tỷ trọng cây lương thực,
tăng tỷ trọng giá trị cây thực phẩm, cây ăn quả, cây lâm nghiệp và cây công
nghiệp, đặc biệt phải mở rộng diện tích các loại cây đặc sản cho giá trị xuất
khẩu cao, giảm tỷ trọng giá trị sản phẩm thô, tăng tỷ trọng giá trị chế biến
trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp. Đó là cách để khai thác tốt hơn tiềm
năng các vùng, ngành, địa phương.
* Giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng tiểu thủ công
nghiệp, công nghiệp chế biến và dịch vụ nông thôn
Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc rất lớn vào điều kiện tự nhiên nên năng
suất lao động và hiệu quả thường không ổn định, việc kết hợp phát triển nông
nghiệp với công nghiệp (đặc biệt là công nghiệp chế biến), tiểu thủ công
nghiệp và dịch vụ có ý nghĩa to lớn trong việc làm tăng hiệu quả kinh tế nông
thôn, tạo việc làm cho người lao động, nâng cao mức thu nhập và đời sống
cho nhân dân mà trước nhất là cư dân nông thôn. Vì vậy, công nghiệp hoá,
hiện đại hoá phải tác động tích cực vào nông nghiệp, nông thôn theo hướng
phát triển kinh tế nông thôn tổng hợp, bao gồm cả nông nghiệp, công nghiệp,
thương mại, du lịch và dịch vụ, trong đó giảm tỷ trọng giá trị nông nghiệp,
tăng tỷ trọng giá trị các ngành sản xuất phi nông nghiệp. Từ đó, một bộ phận
lao động nông nghiệp sẽ được giải phóng và chuyển sang hoạt động trong lĩnh
vực công nghiệp và dịch vụ. Xu hướng đó sẽ làm cho nông thôn thuần nông
trở thành một nông thôn với kết cấu đa dạng và năng động, người nông dân sẽ
dần thoát khỏi sự phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên, tạo sự phát triển bền
vững của nông nghiệp, nông thôn. Như vậy, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn, sự đổi mới bộ mặt xã hội nông thôn không chỉ là nội dung của
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, mà còn là thước đo
27
hiệu quả của quá trình đó.
1.3.2. ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ, kỹ thuật hiện đại
trong sản xuất nông nghiệp
Để có thể đạt được mục tiêu lớn của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn là cải tạo nền nông nghiệp thủ công lạc hậu, năng suất thấp,
tự cấp, tự túc thành nền nông nghiệp cơ khí, có năng suất cao, khối lượng
nông sản hàng hoá lớn, xây dựng nông thôn mới, văn minh hiện đại, thì nền
nông nghiệp, nông thôn phải được cơ giới hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá và
sinh học hoá.
Trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, trình độ của nông cụ là điều kiện
trực tiếp quyết định hiệu quả và năng suất lao động. Do vậy, muốn có một nền
nông nghiệp bền vững, năng suất lao động cao thì không thể dựa vào những
nông cụ truyền thống, thô sơ, mà phải thay thế về cơ bản lao động thủ công
bằng lao động sử dụng máy móc. Chỉ có trang bị các công cụ cơ giới cho
nông nghiệp trong tất cả các khâu, từ sản xuất đến thu hoạch, vận chuyển và
chế biến thì mới xoá được tình trạng nghèo nàn và lạc hậu ở khu vực nông
thôn nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Đẩy mạnh cơ giới hoá sản xuất nông nghiệp không chỉ làm tăng năng
suất lao động nông nghiệp, mà còn có tác động đến chuyển dịch cơ cấu lao
động nông thôn thông qua việc giải phóng một số bộ phận lao động nông thôn
ra khỏi lĩnh vực nông nghiệp. Hơn nữa, năng suất lao động tăng lên, đất trồng
sớm được giải phóng, vì thế có thể tăng thêm mùa vụ, tăng sản lượng và giá
trị thu nhập. Với tác động đó, cơ giới hoá sản xuất nông nghiệp là nội dung
quan trọng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn hiện
nay.
Điện khí hoá là điều kiện tiên quyết để các công cụ cơ giới hoá phát huy
tác dụng. Sự phát triển của lĩnh vực điện năng tạo cơ hội sử dụng điện rộng
28
rãi trong sản xuất, do đó, làm tăng sức sản xuất của các công cụ lao động.
Trong những năm trước mắt cần đẩy mạnh việc xây dựng các trạm điện với
công suất khác nhau đến các huyện, các xã, thôn, trên phạm vi toàn quốc theo
hướng phủ kín mạng lưới điện đến 100% số xã với chất lượng điện đảm bảo
về công suất và cường độ. Chuyển đổi nhanh hình thức quản lý kinh doanh
điện với hướng ưu tiên cho phát triển điện nông thôn ít nhất là bằng và thấp
hơn giá điện thành phố và khu vực công nghiệp, để đến năm 2010 giải quyết
cơ bản nhu cầu dùng điện ổn định và có chất lượng cao ở khu vực nông thôn.
Đây là một quá trình lâu dài, bởi nó đòi hỏi một lượng vốn đầu tư rất lớn mà
khả năng của nhà nước và nhân dân ta có hạn, do đó, phải thực hiện dần dần
từng bước.
Với nước có nền nông nghiệp lúa nước như Việt Nam, điều kiện cơ bản
nhất cho sản xuất là vấn đề thuỷ lợi. Năng suất cây trồng, vật nuôi cao hay
thấp phụ thuộc rất nhiều vào việc có cung cấp đầy đủ nước cho nó một cách
khoa học hay không. Đây là một thực tế ở nông thôn nước ta, chúng ta có điều
kiện đất đai thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, nhưng do thời tiết không
thuận lợi nên hàng năm đã bị mất hàng ngàn tấn lương thực, thực phẩm, do
hạn hán hoặc mất mùa. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải thường xuyên tu bổ,
nâng cấp hệ thống trạm bơm, kênh mương, hồ đập, để giải quyết vấn đề cung
ứng tưới, tiêu, đảm bảo yêu cầu đáp ứng kịp thời cho sản xuất nông nghiệp.
Sự phát triển của công nghệ sinh học có vai trò ngày càng lớn đối với
nền kinh tế nông nghiệp. Nó không chỉ tác động đến việc cải tạo giống cây,
con hay tạo ra những loại giống mới có năng suất, chất lượng cao, mà còn tác
động rất lớn đến khâu chế biến, bảo quản sản phẩm. Vì vậy, công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam hiện nay cần đẩy mạnh áp
dụng nhanh các thành tựu của cách mạng sinh học để tạo ra nhiều loại cây,
con giống có năng suất, chất lượng cao; áp dụng công nghệ sản xuất phân vi
29
sinh thay thế dần các loại phân hóa học, các hoá chất độc hại với người và gia
súc, tập trung vào các khâu giống và khâu sau thu hoạch để nâng cao giá trị
nông phẩm. Đây vừa là con đường làm tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, vừa
tạo được nông phẩm sạch đảm bảo an toàn sức khoẻ cho người tiêu dùng.
1.3.3. Phát triển công nghiệp và dịch vụ nông nghiệp, nông thôn
Công nghiệp nông thôn là bộ phận của công nghiệp với các trình độ phát
triển khác nhau phân bố ở nông thôn, gắn liền với sự phát triển kinh tế – xã
hội ở nông thôn. Phát triển công nghiệp nông thôn có tác động tích cực và có
tác động tới toàn bộ sự phân công lao động nông thôn, tới chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và đẩy mạnh sản xuất hàng hoá ở nông thôn. Phát triển công nghiệp
nông thôn là quá trình có tính quy luật bắt nguồn từ sự phát triển của lực
lượng sản xuất và phân công lao động xã hội theo vùng lãnh thổ. Thực trạng
nghèo đói, sự phân hoá về kinh tế và xã hội giữa các vùng lãnh thổ đã và đang
đặt ra yêu cầu cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng hệ
thống các cơ sở công nghiệp nông thôn đồng bộ và rộng khắp trên địa bàn
nông thôn. Đây là con đường cơ bản trong trước mắt cũng như lâu dài để tăng
năng suất và hiệu quả của sản xuất ở nông thôn, cải biến phong cách sống và
thị hiếu tiêu dùng ở nông thôn. Sự phát triển công nghiệp nông thôn sẽ tạo
thêm việc làm và tăng thêm thu nhập cho cư dân nông thôn, tạo điều kiện để
nâng cao mức sống, nhờ đó sẽ làm giảm sự khác biệt giữa thành thị và nông
thôn cả trong sản xuất lẫn tiêu dùng.
Sự phát triển công nghiệp nông thôn, đặc biệt là công nghiệp chế biến
nông, lâm, thuỷ sản có tác động mạnh đến sự phát triển của sản xuất nông
nghiệp và đời sống cư dân nông thôn. Quy mô, tốc độ và cơ cấu phát triển
công nghiệp chế biến phụ thuộc rất lớn vào trình độ và tính chất phát triển của
các ngành nông, lâm, ngư nghiệp. Nhưng mặt khác, nhờ phát triển các ngành
công nghiệp chế biến mà các ngành nông, lâm, ngư nghiệp được phát triển
30
theo hướng đa ngành, chuyên canh, năng suất cao, tỷ suất hàng hoá lớn.
Khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống và các ngành nghề tiểu
thủ công nghiệp đa dạng ở nông thôn cũng là nội dung phát triển công nghiệp
nông thôn. Sự phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp có ưu thế là sử
dụng nguồn nguyên liệu và lao động tại chỗ nên nó khai thác được lợi thế của
mỗi vùng, mỗi địa phương. Do đó, các địa phương phải tiến hành phân công
lại lao động trên địa bàn theo hướng gắn sự phát triển công – nông nghiệp,
đồng thời tăng cường và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân
tộc.
Sự phát triển của công nghiệp và làng nghề ở nông thôn sẽ làm thức dậy
tiềm năng to lớn về nguồn vốn trong dân cư, về một thị trường rộng lớn, một
nguồn lao động dồi dào, đồng thời kéo theo sự phát triển của nhiều hoạt động
dịch vụ, thương mại, xây dựng, vận tải, thông tin, văn hóa. Sự phát triển các
dịch vụ này vừa thúc đẩy nông nghiệp và công nghiệp nông thôn phát triển,
vừa thu hút số lao động dư thừa ở nông thôn, làm thay đổi cơ cấu lao động ở
nông thôn nói riêng và cơ cấu kinh tế nông thôn nói chung. Vì vậy, trong quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
việc kết hợp phát triển công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ nông thôn ngay
từ đầu là hết sức cần thiết đối với một nước thực hiện công nghiệp hoá từ
nông nghiệp như nước ta.
1.3.4. Phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là sự nghiệp của
toàn dân, nhưng trước hết và trực tiếp là sự nghiệp của nông dân. Vì vậy, trình
độ của nông dân, đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản lý các cấp ở nông thôn có
ảnh hưởng rất lớn đến việc thành bại của quá trình này.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đòi hỏi
31
phải nâng cao trình độ dân trí cho dân cư nông thôn, đặc biệt là đối với lực
lượng lao động, mà điều này chỉ có được khi có sự tác động tích cực của hệ
thống giáo dục đào tạo. Việc phổ cập giáo dục cho cư dân nông thôn là điều
kiện đầu tiên tạo cho nông dân khả năng tiếp cận được với những thành tựu
khoa học kỹ thuật hiện đại trên thế giới, từ đó cho phép họ nâng cao trình độ
kỹ thuật canh tác, tăng năng suất lao động. Đây là cơ sở để người nông dân
làm chủ hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, chủ động lựa chọn các
phương án sản xuất tối ưu, hiệu quả cao. Cùng với phát triển hệ thống giáo
dục đào tạo phải chú ý phát triển hệ thống truyền thanh truyền hình, thư viện,
nhà văn hoá để nâng cao trình độ cho người lao động ở nông thôn. Hệ thống
này sẽ cung cấp và cập nhật những thông tin về khuyến nông cho lực lượng
lao động nông thôn, nhờ đó tiếp cận được những phương thức canh tác tiên
tiến. Tuy nhiên, để làm tốt điều này cần phải xây dựng các trung tâm khuyến
nông, trung tâm chuyển giao công nghệ, xây dựng các trung tâm dạy nghề ở
nông thôn để đào tạo đội ngũ lao động có văn hóa, tay nghề cao, năng động
trong sản xuất kinh doanh và tiếp thu khoa học kỹ thuật sản xuất nông nghiệp.
Có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn và thúc đẩy quá trình này sớm đi đến thành công.
Một bộ phận có vai trò rất lớn đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp, nông thôn là đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ hợp tác xã.
Những năm gần đây, các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh ở nông thôn
có chiều hướng phát triển mạnh, nhưng lực lượng cán bộ quản lý chưa đáp
ứng được cả về số lượng và chất lượng, điều đó đã làm ảnh hưởng không nhỏ
đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp và quá trình phát triển kinh tế
nông thôn. Thực tiễn này đang đặt ra yêu cầu cấp bách cho các địa phương
phải có kế hoạch bồi dưỡng kiến thức về chuyên môn, cũng như kiến thức
quản lý sản xuất kinh doanh cho đội ngũ này.
32
Dưới tác động của cơ chế thị trường, sự tồn vong của một số ngành nghề
truyền thống đang đòi hỏi sự phát huy tinh thần tự chủ, năng động và sáng tạo
của các cấp quản lý ở địa phương. Vì vậy, trí thức hoá đội ngũ cán bộ quản lý
cho các địa phương vừa là điều kiện, vừa là mục đích của công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở nước ta.
1.3.5. Xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật – xã hội hiện đại ở nông
thôn, đưa nông thôn phát triển ngày càng văn minh, hiện đại
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn còn có nội dung
là xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và đời
sống ở nông thôn. Nói đến kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội nông thôn là nói tới
những điều kiện phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt ở nông thôn như: điện,
nước, giao thông, thông tin liên lạc, phương tiện đi lại, bệnh viện, trường học,
thư viện, bưu điện văn hóa xã.
Trong tiến trình phát triển nền kinh tế nói chung và nông nghiệp, nông
thôn nói riêng, vai trò của kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội ngày càng được
khẳng định. Thiếu hệ thống thông tin, viễn thông hiện đại, thiếu hệ thống giao
thông thông suốt, thiếu dịch vụ tín dụng ngân hàng thì kinh tế, xã hội khó có
thể phát triển mạnh. Phải thấy rằng, sự hình thành và phát triển các vùng sản
xuất chuyên canh hàng hoá tập trung quy mô lớn, ứng dụng khoa học công
nghệ tiên tiến chỉ có thể có được khi có một hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại.
Bởi vậy, việc xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng trở thành một nội dung quyết
định của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nói
riêng và công nghiệp hoá đất nước nói chung.
Cùng với việc phát triển kết cấu hạ tầng, cần quan tâm xây dựng mạng
lưới đô thị nhỏ phù hợp với điều kiện của từng vùng nông thôn. Đó là những
trung tâm giao lưu kinh tế, chính trị, văn hóa có tác động lớn trong việc nâng
cao mức sống vật chất và tinh thần ở nông thôn, xoá dần khoảng cách chênh
33
lệch giữa nông thôn và thành thị.
Hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội ở nông thôn phát triển sẽ tạo sự
thay đổi về chất của bộ mặt nông thôn và đặt nền tảng cho một tiến trình phát
triển lâu dài, hiện đại. Đây cũng là cách thức để xoá bỏ sự cách biệt về địa lý,
xã hội, hình thành những cơ sở cho việc tăng cường giao lưu kinh tế, văn hóa,
phá bỏ sự khép kín của nông thôn truyền thống, tạo cơ hội cho nông dân tiếp
cận được với những dịch vụ mới và đưa nông dân vào sự chuyển động chung
của tiến trình phát triển hiện đại.
1.4. Kinh nghiệm quốc tế và một số địa phƣơng
1.4.1. Kinh nghiệm quốc tế
1.4.1.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Trung
Quốc phát triển nhanh trong những năm cải cách và mở cửa. Trước hết, Trung
Quốc đã thực hiện những cải cách kinh tế theo hướng tập trung khai thác thế
mạnh của kinh tế nông nghiệp và nông dân trên cơ sở coi trọng vai trò kinh tế
hộ. Nhờ đó kinh tế đã có sự thay đổi, tạo việc làm cho hơn 80 triệu lao động ở
nông thôn (thời kỳ 1980 - 1989) và thu nhập của nông dân tăng bình quân từ
2% đến 3% một năm.
Thành công nổi bật trong cải cách kinh tế Trung Quốc đó là từ năm 1978
đến năm 1992, Trung Quốc đã tiến hành cải cách và mở cửa kinh tế, mở ra
một thời kỳ mới cho công nghiệp hoá nông thôn, thực hiện phương châm “ly
nông bất ly hương” và “ nhập xưởng bất nhập thành” để phát triển công
nghiệp. Từ đây, mô hình công nghiệp hương trấn ra đời và phát triển mạnh
mẽ cả về số lượng và quy mô thu hút lao động nông nghiệp. Doanh nghiệp
hương trấn (Township and Village Enterprises) là doanh nghiệp sở hữu tập
thể ở các thị trấn hay huyện, xã và thuộc quyền quản lý của chính quyền địa
phương, cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp nhà nước, có quyền huy
34
động vốn từ cộng đồng, từ các khoản vay cá nhân hoặc từ ngân hàng nhà
nước, tự chủ trong quản lý sản xuất. Doanh nghiệp hương trấn là hình thức
mới, cao hơn của công nghiệp hoá nông thôn Trung Quốc. Bước đi này của
Trung Quốc là thận trọng từ thấp đến cao, không còn chạy theo phong trào,
chủ nghĩa thành tích như thời kỳ công xã nhân dân trước đó. Kết quả, về sản
lượng của doanh nghiệp hương trấn giai đoạn 1978 -1995 tăng trưởng ở mức
24,7%/năm, chiếm 56% sản lượng công nghiệp, giải quyết việc làm cho 130
triệu lao động, gấp 2 lần doanh nghiệp nhà nước. Năm 1996 cả nước có 23,36
triệu doanh nghiệp hương trấn, thu hút 130 triệu lao động nông thôn chuyển
sang làm công nghiệp và dịch vụ với tổng giá trị 213 tỷ USD, chiếm 30%
GDP cả nước, giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp từ 70% xuống dưới 50%.
Sự phát triển của công nghiệp hương trấn đã đem lại hiệu quả góp phần quyết
định thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội nông thôn Trung Quốc, làm giảm chênh
lệch giữa thành thị và nông thôn, công nhân với nông dân. Đó là sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế từ thuần nông, sản xuất tự cung, tự cấp sang sản xuất hàng
hoá, sử dụng được phần lớn lao động dư thừa của nông nghiệp ngay trên địa
bàn nông thôn, thúc đẩy quá trình hiện đại hoá nông nghiệp truyền thống.
Bước đi ban đầu của quá trình phát triển công nghiệp nông thôn Trung
Quốc là phát triển tiểu thủ công nghiệp và chế biến nông sản, bước cao hơn là
phát triển ở 5 ngành lớn: công nghiệp chế biến nông sản; công nghiệp dịch
vụ; kiến trúc; giao thông vận tải và dịch vụ thương nghiệp với quy mô tương
đối lớn. Tuy nhiên, thời kỳ đầu, một số doanh nghiệp hương trấn do kỹ thuật
lạc hậu, chất lượng sản phẩm không đạt yêu cầu dẫn đến phá sản. Từ năm
1986, chính phủ Trung Quốc đã đề ra chương trình “đốm lửa”. Thực chất đó
là bước thứ hai của công nghiệp hoá nông thôn, với mục tiêu chủ yếu là
chuyển giao công nghệ và khoa học, kỹ thuật tới những vùng nông thôn rộng
lớn, kết hợp khoa học kỹ thuật với kinh tế. Bốn nguyên tắc của chương trình
35
“đốm lửa‟ là : hướng vào thị trường; vốn hoạt động tự góp cộng với vay ngân
hàng; đường lối công nghệ là quay vòng ngắn; huy động mọi lực lượng khoa
học kỹ thuật tăng cường cho xí nghiệp hương trấn để giải quyết vấn đề chất
lượng sản phẩm. Nhờ cách làm đúng đó, trong những năm 1995 -2000 khoa
học công nghệ đã đóng góp tới 40,7% tổng sản phẩm nông nghiệp cả nước.
hiện nay, để thúc đẩy kinh tế nông nghiệp, nông thôn phát triển, Trung Quốc
chủ trương tập trung giải quyết „tam nông”: nông nghiệp, nông thôn và nông
dân.
1.4.1.2. Kinh nghiệm của Đài Loan
Bước đi của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Đài
Loan lại bắt đầu từ phát triển nông nghiệp toàn diện. Từ năm 1953, thực hiện
phương châm “nông nghiệp bồi dưỡng, hỗ trợ cho công nghiệp phát triển”,
Chính phủ Đài Loan đành ưu tiên hàng đầu cho nông nghiệp cả về vốn đầu tư
và cơ chế, chính sách. Khi nông nghiệp đã phát triển, nhân công dư thừa mới
chuyển sang các ngành công nghiệp nhẹ cần nhân lực, sau cùng mới phát triển
công nghiệp nặng.
Để tạo điều kiện cho nông nghiệp, nông thôn phát triển, năm 1953 Chính
phủ Đài Loan đã ban hành chính sách với 9 nội dung hỗ trợ tích cực cho nông
nghiệp và nông thôn: Bãi bỏ việc dùng lúa đổi phân hoá học; huỷ bỏ các
khoản phụ thu thuế ruộng; giảm nhẹ lãi suất tín dụng nông nghiệp; cải thiện
giao thông nông thôn; hiện đại hoá các công trình công cộng, kết cấu hạ tầng
nông thôn; đẩy mạnh kỹ thuật tổng hợp nuôi trồng trong nông nghiệp; khuyến
khích lập khu công nghiệp chuyên ngành; tăng cường nghiên cứu, thí nghiệm
phục vụ sản xuất; khuyến khích lập nhà máy ở khu vực nông thôn.
Những biện pháp này đã góp phần bù đắp thiệt thòi cho nông dân trong
bước đầu công nghiệp hóa, từ đó tăng sức mua của thị trường nông thôn, thúc
đẩy công nghiệp nông thôn phát triển. Thập kỷ 60 -70 của thế kỷ XX với
36
những chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp hướng về xuất khẩu,
doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển mạnh với nhiều lợi thế như khai thác nội
lực vốn của nhân dân, thu hút lao động rẻ, tạo nhiều việc làm, áp dụng công
nghệ đơn giản, phân bổ về nông thôn, uyển chuyển thay đổi mặt hàng theo
yêu cầu thị trường. Chính phủ Đài Loan thành lập 17 khu công nghiệp nông
thôn để hỗ trợ phát triển ngành thủ công và công nghiệp nông thôn. Các
doanh nghiệp với sự bảo trợ của Chính phủ, phối hợp với nông hội ký kết hợp
đồng với nông dân sản xuất nguyên liệu cho nhà máy và tiêu thụ nông sản cho
nông dân. Đài Loan chú trọng phát triển công nghiệp chế biến nông sản thực
phẩm tạo nên giá trị gia tăng cao cho hàng hoá nông sản, tăng sức cạnh tranh
hàng hoá xuất khẩu, tạo mối liên kết chặt chẽ giữa công nghiệp và nông
nghiệp, hình thành mối quan hệ hợp đồng giữa nông dân sản xuất nguyên liệu
với nhà máy chế biến. Có thể nói, Đài Loan đã áp dụng thành công mô hình
kinh tế liên kết. Các thành phần kinh tế đều kết nối chặt chẽ và chia sẻ lợi ích
với nhau: nông hội - chính phủ; doanh nghiệp nước ngoài - doanh nghiệp vệ
tinh trong nước - nông dân - nhà máy chế biến; sản xuất tiêu thụ nội địa - xuất
khẩu; công nghiệp thành phố - kinh tế nông thôn. Có thể nói đây là mô hình
công nghiệp hoá từ nông nghiệp thành công.
Mặt khác, Đài Loan đã lựa chọn mô hình phát triển công nghiệp theo
hướng phân tán với quy mô vừa và nhỏ ở đô thị và nông thôn để đẩy nhanh
tốc độ sử dụng các nguồn lực sẵn có của lãnh thổ, thông qua huy động nguồn
lực tại chỗ. Do đó, đã thúc đẩy sự hình thành các liên hợp nông - công nghiệp,
phát triển công nghiệp chế biến gắn với sản xuất nông nghiệp. Do sự phát
triển công nghiệp xen kẽ, nên không còn ranh giới rõ rệt giữa thành thị và
nông thôn, thu hút được lực lượng lao động dư thừa ở nông thôn, làm cho
nhiều hộ nông dân trở thành hộ kiêm ngành nghề. Cơ cấu kinh tế nông thôn
Đài Loan có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ, với 91% số hộ nông dân
37
tham gia hoạt động công nghiệp, dịch vụ và thu nhập từ các hoạt động này
chiếm 70% tổng thu nhập của các hộ nông dân. Có thể hình dung các bước đi
của công nghiệp hoá nông thôn Đài Loan theo một quy trình khép kín như
sau: nông nghiệp - công nghiệp - công nghiệp nông thôn - nông nghiệp. Quy
trình đó luôn gắn mục tiêu giải phóng lao động nông nghiệp chuyển sang
công nghiệp, tăng số lượng và chất lượng sản phẩm xã hội, tăng thu nhập cho
nông dân, rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa nông nghiệp với công
nghiệp, giữa thành thị và nông thôn, khăc phục xu hướng di cư từ nông thôn
ra thành thị. Đó là bài học đáng giá về sự lựa chọn bước đi của quá trình công
nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn của Đài Loan, một vùng đất không mấy
được thiên nhiên ưu đãi.
1.4.2. Kinh nghiệm trong nước
1.4.2.1. Kinh nghiệm của Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc là tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, những năm
qua, kinh tế của tỉnh đạt tốc độ tăng trưởng cao, GDP tăng bình quân
15,3%/năm, trong đó nông nghiệp tăng 6,3%, cao hơn so với bình quân chung
cả nước. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực: công nghiệp, xây dựng
chiếm 52,2%, dịch vụ chiếm 26,6%, nông nghiệp chiếm 21,2%. So sánh các
tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ thì Vĩnh Phúc xếp thứ 3 về giá trị
sản xuất công nghiệp và đứng thứ 4 về tổng vốn đầu tư toàn xã hội, tổng thu
ngân sách, thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Tỉnh chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhờ đầu tư thâm canh cây trồng, vật
nuôi, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào ngành trồng trọt, chăn nuôi
nên nông nghiệp đã phát triển dần theo hướng sản xuất hàng hoá. Cơ cấu nội
bộ ngành nông nghiệp chuyển dịch tích cực. Năm 2005 tỷ trọng trồng trọt
giảm xuống còn 61,1%, chăn nuôi tăng từ 25,5% lên 35,2%, dịch vụ nông
38
nghiệp tăng từ 3,5% lên 3,7%. Mặc dù diện tích đất nông nghiệp giảm do phát
triển công nghiệp và đô thị hoá, nhưng năng suất, sản lượng lương thực có hạt
vẫn tăng, diện tích cây công nghiệp phát triển khá. Trên địa bàn tỉnh đã hình
thành các vùng sản xuất chuyên canh, mô hình vùng trồng hoa ở huyện Mê
Linh, vùng nuôi trồng thuỷ sản huyện Lập Thạch, Vĩnh Tường, Bình Xuyên
với diện tích trên 5.400ha, đã thu được kết quả cả về giải quyết việc làm và
tăng thu nhập cho nông dân.
Nhằm khai thác lợi thế vị trí địa lý về giao thông tỉnh đã coi trọng ngay
từ đầu công tác quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội, quy hoạch ngành, lĩnh
vực sản xuất, vùng kinh tế. Nét nổi bật của Vĩnh Phúc là trên cơ sở quy
hoạch, tỉnh chủ trương phát triển thu hút đầu tư các khu công nghiệp. Đến
nay, trên địa bàn tỉnh hình thành 5 khu công nghiệp tập trung, 4 cụm công
nghiệp nhỏ và vừa, 28 cụm thủ công nghiệp, làng nghề với diện tích gần
1.400ha, thu hút hàng vạn lao động, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, đô
thị hóa, tạo thêm tiền đề cho nông nghiệp, nông thôn phát triển.
1.4.2.2. Kinh nghiệm của Hà Tây
Hà Tây là một tỉnh thuộc vùng Đồng Bằng Sông Hồng, nằm trong vùng
kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Trong sự nghiệp đổi mới, Hà Tây đã có bước tiến
đáng kể, tốc độ tăng trưởng bình quân thời kỳ 2001 - 2005 là 9,67%, GDP
bình quân đầu người đạt 6,1 triệu đồng/năm. Để nông nghiệp, nông thôn phát
triển, trước hết tỉnh coi trọng khai thác có hiệu quả tiềm năng và lợi thế so
sánh của một tỉnh liền kề thủ đô Hà Nội để phát triển toàn diện nông nghiệp,
nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá gắn liền với thị trường, có cơ cấu
tiến bộ: giảm tỷ trọng giá trị sản xuất nông nghiệp, tăng giá trị sản xuất công
nghiệp, dịch vụ, cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn được đầu tư xây dựng,
kinh tế nông thôn phát triển, đời sống nhân dân không ngừng nâng lên. Đặc
biệt, tỉnh chủ trương phục hồi và phát triển làng nghề truyền thống, khai thác
39
thế mạnh của vùng đất trăm nghề. Toàn tỉnh có gần 200 làng nghề, trên 75
ngàn hộ gia đình sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Để phát huy vai
trò và hiệu quả của làng nghề, tỉnh đã có nhiều giải pháp phát triển làng nghề
truyền thống với những cơ chế, chính sách quy định cụ thể như quy định ưu
đãi phát triển làng nghề, đào tạo nguồn nhân lực, mở rộng mặt bằng sản xuất,
vay vốn nhằm khuyến khích ngành nghề, làng nghề phát triển, xây dựng tiêu
chí làng nghề. Do khuyến khích đầu tư nên làng nghề phát triển, giá trị sản
xuất hàng năm tăng từ 23 - 25% góp phần làm tăng tỷ trọng công nghiệp
trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Tuy nhiên, hoạt động ngành nghề, làng nghề
truyền thống ở Hà Tây còn hạn chế và nhiều bất cập, nhất là công tác xây
dựng quy hoạch cụm công nghiệp, về trình độ quản lý đội ngũ cán bộ, nâng
cao tay nghề cho người lao động trong các làng nghề. Môi trường bị ô nhiễm
nặng, giải phóng mặt bằng để xây dựng phát triển công nghiệp, giao thông có
nơi diễn biến phức tạp.
1.4.3. Bài học kinh nghiệm
Thực tiễn phân tích trên cho phép, ở góc độ nhất định, có thể rút ra một
số bài học kinh nghiệm chung cho cả nước sau:
- Không thể có bài bản chung cho sự phát triển của mọi nước và địa
phương. Muốn tìm đúng hướng đi và giải pháp hữu hiệu cho mình, mỗi đất
nước, mỗi địa phương phải xác định được con đường, mục tiêu phát triển và
từ đó vạch ra được phương hướng, kế hoạch và giải pháp phù hợp với điều
kiện và hoàn cảnh của mình trong mỗi giai đoạn, khai thác tối ưu các lợi thế
so sánh về tài nguyên con người, tài nguyên thiên nhiên, vốn, công nghệ, thị
trường và vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi
quốc gia.
- Phải tập trung khai thác, tận dụng các yếu tố lợi thế về đất đai, nguồn
lao động dồi dào sẵn có để phát triển nông nghiệp, nông thôn, tạo khối lượng
40
nông sản hàng hoá lớn, đảm bảo an toàn lương thực, thực phẩm cho xã hội, từ
đó đảm bảo ổn định chính trị - xã hội. Trong điều kiện sản xuất nông nghiệp
của Việt Nam với đặc điểm diện tích canh tác bình quân đầu người thấp, cần
phải phát triển nông nghiệp đa dạng, tổng hợp theo hướng tạo việc làm và
phát triển chăn nuôi, ngành nghề nông nghiệp, dịch vụ.
- Chú trọng kết hợp đầu tư cho phát triển công nghiệp nông thôn với
khôi phục và phát triển làng nghề thủ công truyền thống nhằm giải quyết và
tăng thêm việc làm, thu nhập cho cư dân nông thôn; Phải chú trọng phát triển
nông thôn, khuyến khích mở mang ngành nghề thủ công nghiệp, làng nghề
truyền thống, phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa phân bố về nông thôn để thu
hút nhiều lao động, tạo việc làm ngay trong các làng xã, giảm lao động ở
nông thôn di cư ra thành thị, rút ngắn khoảng cách chênh lệch, tạo sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Coi trọng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển kinh tế - xã hội
nông thôn. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, chương trình phát triển giao
thông nông thôn, cứng hoá kênh mương, phát triển cơ sở hạ tầng giáo dục,
bệnh viện, đường điện, cấp thoát nước, hệ thống chợ, nhà văn hoá là những
công trình thiết yếu cần được đầu tư và hoàn thiện nhằm phát triển nông
nghiệp và xây dựng nông thôn mới văn minh, hiện đại.
- Chú trọng chuyển giao công nghệ về các vùng nông thôn, hỗ trợ sản
xuất, tiêu thụ sản phẩm cho nông dân và doanh nghiệp nhỏ ở nông thôn.
Trung Quốc đã cho thấy rõ vai trò chuyển giao công nghệ trong công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, cụ thể là thông qua mô hình đốm
lửa đưa khoa học kỹ thuật về giúp đỡ các xí nghiệp hương trấn, xây dựng
kinh tế nông thôn. Nói cách khác, bài học từ Trung Quôc còn là cần đẩy mạnh
chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp, nông thôn
nhằm tạo ra năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của cây trồng,
41
vật nuôi, đảm bảo tiêu dùng và có xuất khẩu.
- Vai trò của Nhà nước đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn là vô cùng to lớn. Để phát triển kinh tế - xã hội bền
vững, trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhà nước phải
rất quan tâm giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân; trước hết,
cần phải tăng cường công tác quản lý của chính quyền các cấp, từ việc xây
dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đến việc nâng cao năng
lực và hiệu quả điều hành, chỉ đạo thực hiện, kiểm tra, thanh tra. Thực hiện
cải cách hành chính, mở rộng dân chủ, đi đôi với đề cao kỷ luật, kỷ cương
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Những kinh nghiệm trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn các tỉnh, các quốc gia trên đây là những cơ sở thực tiễn quý
báu để nghiên cứu, áp dụng vào tỉnh Phú Thọ nhằm đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Song trong quá trình áp
dụng cần phải bám sát mục tiêu, nhiệm vụ nông nghiệp, nông thôn, đồng thời
vừa bám sát những đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của địa phương để vận
dụng vào tỉnh cho phù hợp và phải có những bước đi vững chắc với những
giải pháp hữu hiệu. Có như vậy, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh mới đem lại những kết quả và ý
nghĩa thiết thực.
42
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN TỈNH PHÚ THỌ
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Phú Thọ
2.1.1. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
Phú Thọ là tỉnh nằm ở vị trí tiếp giáp giữa Đông Bắc, đồng bằng Sông
Hồng và Tây Bắc, Phía Bắc giáp Tuyên Quang, phía Nam giáp Hoà Bình,
phía Đông giáp Vĩnh Phúc và Hà Tây, phía Tây giáp Sơn La và Yên Bái. Với
vị trí “Ngã ba sông”, cửa ngõ phía Tây thủ đô Hà Nội (Vùng tam giác kinh tế
trọng điểm Bắc Bộ: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh), Phú Thọ là cầu nối
các tỉnh đồng bằng sông Hồng với các tỉnh miền núi Tây Bắc và Đông Bắc.
Với thủ phủ của tỉnh là Thành phố Việt Trì - một trong năm trung tâm
lớn của miền núi phía Bắc, có các tuyến giao thông quan trọng chạy qua như
quốc lộ 2, quốc lộ 32, v.v… đặc biệt có tuyến đường cao tốc Hà Nội - Việt Trì
- Lào Cai sang Vân Nam (Trung Quốc). Đây là tuyến nằm trong hành lang
kinh tế Hà Khẩu, Côn Minh (Trung Quốc) - Lào Cai, Hà Nội, Hải Phòng,
Quảng Ninh (Việt Nam).
* Về địa hình, điểm nổi bật của tỉnh là địa hình bị chia cắt tương đối
mạnh vì nằm ở phía cuối dãy Hoàng Liên Sơn, nơi chuyển tiếp giữa miền núi
cao và miền núi thấp, gò đồi, độ cao giảm dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam.
Địa hình núi cao phía Tây, Tây Bắc và Tây Nam, phân bố chủ yếu ở các
huyện Thanh Sơn, Tân Sơn, Yên Lập, phía tây huyện Cẩm Khê và một phần
của huyện Hạ Hoà. Do ảnh hưởng địa hình núi chia cắt, đây là tiểu vùng đang
khó khăn về giao thông, tuy nhiên đây cũng là nơi có tiềm năng phát triển về
lâm nghiệp, khai thác khoáng sản, du lịch sinh thái. Địa hình núi thấp và đồi
gò bát úp xẽn kẽ đồng ruộng, chủ yếu tập trung ở Đoan Hùng, Hạ Hoà, Thanh
Ba, Cẩm Khê, Phù Ninh, thị xã Phú Thọ và một phần của các huyện Tam
43
Nông, Thanh Thuỷ. Đây là địa hình vùng trung du và là vùng được khai thác
lâu đời, đồi bị xói mòn rửa trôi nhiều, đồng ruồng lầy lụt, chua úng. Vùng này
thuận lợi cho việc trồng các loại cây nguyên liệu giấy, cây công nghiệp dài
ngày như chè, cây ăn quả, phát triển lương thực, chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ
sản. Vùng đồng bằng phân bổ chủ yếu ở Lâm Thao, Tam Nông, ven sông Lô,
ven Sông Đà. Dải đồng bằng phù sa mới tương đối bằng phẳng, đây là vùng
có tiềm năng thâm canh lúa, màu và cây công nghiệp ngắn ngày. Tuy nhiên,
đây cũng là vùng có nhiều khu vực trũng thường gây úng lụt.
Như vậy, Phú Thọ có địa hình đa dạng, vừa có miền núi, vừa có trung du
và đồng bằng ven sông, đã tạo ra nguồn đất đai đa dạng, phong phú để phát
triển nông lâm nghiệp hàng hoá khá toàn diện. Tuy nhiên, do địa hình chia cắt
mạnh, nên việc đầu tư phát triển kinh tế - xã hội cho tiểu vùng miền núi là khá
tốn kém, nhất là đối với giao thông, thuỷ lợi, cấp điện, cấp nước v.v.
* Về khí hậu, thời tiết, Phú Thọ nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình năm khoảng 230C, lượng mưa trung bình năm
khoảng 1600-1800mm. Độ ẩm trung bình năm khoảng 85-87%. Nhìn chung,
điều kiện khí hậu của Phú Thọ phù hợp với sinh trưởng, phát triển đa dạng
nhiều loại cây trồng nhiệt đới, á nhiệt đới, chăn nuôi gia súc với khả năng cho
năng suất và chất lượng cao. Tuy nhiên, yếu tố hạn chế của khí hậu là dễ bị
ngập úng về mùa mưa và hạn về mùa khô, do đó, để khắc phục, hạn chế yếu
tố bất lợi này trong các hoạt động sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp cần giải
quyết tốt khâu thuỷ lợi và bố trí cây trồng phù hợp với từng vùng sinh thái.
* Tài nguyên đất, tổng diện tích tự nhiên của Phú Thọ là 352,480ha
trong đó đất sản xuất nông nghiệp là 102,583ha, chiếm 29,1% diện tích tự
nhiên, đất lâm nghiệp có rừng chiếm 47,4%, đất đồi núi chưa có rừng chiếm
9% diện tích tự nhiên, đất phi nông nghiệp chiếm 13,7%, đất chưa sử dụng
chiếm 0,8% diện tích đất tự nhiên. Có thể thấy, Phú Thọ còn quỹ đất chưa có
44
rừng khá lớn, là điều kiện cơ bản cho phát triển rừng trồng tạo nguồn nguyên
liệu gỗ cho chế biến công nghiệp và sản xuất ngành nghề nông thôn trong
tương lai. Các loại đất có nguồn gốc phù sa đã biến chất và đá macma axít
chiếm tới 63,9% thuận lợi để phát triển cây lương thực, cây công nghiệp dài
ngày, phát triển đồng cỏ chăn nuôi, phát triển rừng. Nhóm đất feralit trên núi
và mùn trên núi chiếm 29,7% là đối tượng để phát triển lâm nghiệp, khoanh
nuôi tái sinh rừng tự nhiên.
* Về tài nguyên khoáng sản, có thể nói Phú Thọ là một trong ít các tỉnh
thành trong cả nước được thiên nhiên ưu đãi cho nguồn tài nguyên khoáng
sản với khoảng 215 mỏ và điểm quặng, trong đó có 20 mỏ lớn và vừa, 50 mỏ
nhỏ và 143 điểm quặng. Các khoáng sản có ý nghĩa nổi trội là: cao lanh,
penpat, trữ lượng 30,6 triệu tấn, chất lượng tốt; pyrit, quarit, đá xây dựng có ở 55 khu vực, trữ lượng 935 triệu tấn; cát sỏi khoảng 100 triệu m3. Các loại
khoảng sản đặc trưng của Phú Thọ tương đối đa dạng về chủng loại và có chất
lượng tương đối tốt, đó là nguồn lực rất to lớn cho phát triển kinh tế của tỉnh.
Phú Thọ luôn được đánh giá là một tỉnh có tiềm năng mặt nước rất lớn
phục vụ phát triển nuôi trồng và chế biến thuỷ sản. Với diện tích lưu vực của
3 con sông lớn đã có 14575ha, chứa một dung lượng nước mặt rất lớn. Sông
Hồng có chiều dài qua tỉnh 96 km, Sông Lô qua tỉnh 76km, và 130 sông suối
nhỏ cùng hàng nghìn hồ, ao lớn nhỏ phân bổ tương đối đều khắp trên lãnh
thổ. Toàn tỉnh có khoảng 4100 - 4200ha mặt nước các hồ, đầm tự nhiên và hồ
thủy lợi. Tài nguyên nước của Phú Thọ rất dồi dào đủ đáp ứng cho yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội với cường độ cao. Song cần có quy hoạch để bảo vệ
và khai thác hợp lý theo hướng lâu dài, bền vững.
* Về tài nguyên sinh vật, Phú Thọ có hệ động thực vật phong phú, đa
dạng: Toàn tỉnh có khoảng 167.118ha rừng, trong đó rừng tự nhiên là
63.530,2ha, chủ yếu là rừng non mới phục hồi; rừng trồng là 101.326,8ha với
45
trữ lượng gỗ ước đạt 3.5 triệu m3. Hiện tại gỗ làm nguyên liệu giấy có thể đáp
ứng được 40-50% yêu cầu của nhà máy giấy Bãi Bằng. Nghề rừng đã thu hút
khoảng 5 vạn lao động và đang dần lấy lại vị trí quan trọng trong nền kinh tế
của tỉnh. Bên cạnh đó, Phú Thọ có nguồn gỗ rừng trồng rất lớn, chủng loại
tương đối phong phú, đây là nguồn nguyên liệu quan trọng cho phát triển
ngành nghề nông thôn cả hiện tại và tương lai.
2.1.2. Điều kiện kinh tế – xã hội
Trong những năm qua kinh tế Phú Thọ tăng trưởng tương đối ổn định,
GDP tăng bình quân 9,79%/năm, tổng giá trị sản phẩm năm 2007 đạt 6.257 tỷ
đồng. Thu nhập bình quân đầu người liên tục tăng trong những năm qua, đạt
khoảng 7,411 triệu đồng/người/năm. Cơ cấu kinh tế của tỉnh tiếp tục chuyển
dịch theo hướng tích cực. Tăng trưởng kinh tế cao và ổn định là điều kiện tốt
để đầu tư cho phát triển ngành nghề nông thôn.
Sản lượng lương thực cây có hạt năm 2007 đạt 43 vạn tấn, bình quân
lương thực đầu người toàn tỉnh đạt khoảng 324,8kg/người/năm. Việc đảm bảo
ổn định lương thực tại chỗ là điều kiện thuận lợi để chuyển hướng sản xuất
nông - lâm nghiệp của tỉnh theo sản xuất hàng hoá. Ngoài ra, một số cây trồng
công nghiệp khác như chè, sơn và cây ăn quả cũng mang lại nguồn thu đáng
kể cho kinh tế hộ gia đình và địa phương. Nhìn chung, hiện nay nền kinh tế
của tỉnh chủ yếu vẫn là kinh tế nông nghiệp. Trong đó, kinh tế hộ là phổ biến,
kinh tế trang trại đang có xu hướng phát triển tốt (chủ yếu là trang trại hộ gia
đình) và kinh tế tập thể về cơ bản đã chuyển đổi từ hợp tác xã kiểu cũ sang
hợp tác xã kiểu mới.
Kim ngạch xuất khẩu của tỉnh tăng trưởng ổn định và đạt 180,5 triệu
USD năm 2007, với vai trò rất lớn của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài.
* Nguồn nhân lực: tỉnh Phú Thọ có 21 dân tộc anh em sinh sống, trong
46
đó đa phần là người Kinh, chiếm 89,24%, các dân tộc khác chiếm 10,76%.
Tổng số dân toàn tỉnh là 1.326.813 người, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên dưới 1%/năm. Mật độ dân số trung bình toàn tỉnh là 376 người/km2, nhưng phân bố
không đều giữa thành thị và nông thôn, giữa các huyện.
Số lượng lao động toàn tỉnh là 787.500 người (chiếm 59,35% tổng dân
số), lao động trong lĩnh vực nông lâm nghiệp là 480.000 người, chiếm 61%
tổng số lao động. Về chất lượng lao động: Phú Thọ có 12.469 người có trình
độ đại học, 142 người đạt trình độ thạc sĩ, 43 người có trình độ tiến sĩ. Ngoài
ra, trên địa bàn tỉnh có trên 10 viện, trung tâm nghiên cứu của Trung ương và
địa phương. Đây là nguồn lực quan trọng của tỉnh để phát triển kinh tế - xã
hội.
Dự báo năm 2010, toàn tỉnh sẽ có khoảng 845.000 lao động và năm 2020
có khoảng 976.000 lao động, trong đó lao động qua đào tạo đạt khoảng 60 -
65%. Qua đây cho thấy, nguồn nhân lực hiện tại của tỉnh khá dồi dào, đặc biệt
trong lĩnh vực sản xuất nông- lâm nghiệp, tuy nhiên cũng cần phải có chiến
lược đào tạo chuyên sâu đội ngũ cán bộ phát triển ngành nghề nông thôn của
tỉnh để đáp ứng yêu cầu phát triển trong những năm tới.
* Cơ sở hạ tầng phát triển nhanh trong những năm đổi mới. Tỉnh đã
hoàn thành điện khí hoá nông thôn sớm hơn so với một số tỉnh đồng bằng
sông Hồng (năm 2003). Hiện tại hệ thống đường dây trung, hạ thế, trạm biến
áp các loại đang từng bước được cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới.
Mạng lưới giao thông trên địa bàn tỉnh đã được cải thiện một bước đáng
kể, với tổng chiều dài 11.483km đường bộ, 248km đường sông, 90km đường
sắt. Đã đảm bảo 100% số xã có đường ôtô vào đến trung tâm xã. Mạng lưới
giao thông của tỉnh phân bố tương đối hợp lý, thuận tiện cho việc lưu thông
hàng hoá, vận chuyển hành khách nội, ngoại tỉnh.
Mạng lưới bưu chính viễn thông tỉnh Phú Thọ phát triển tương đối
47
nhanh, cơ bản có độ phủ sóng tốt, chất lượng cao, công nghệ hiện đại. Công
tác quản lý nhà nước về lĩnh vực bưu chính, viễn thông đã được triển khai từ
cấp tỉnh đến cấp huyện và đạt được những kết quả tốt. Tuy nhiên, đa số các
chỉ tiêu về bưu chính, viễn thông của tỉnh Phú Thọ còn thấp so với mặt bằng
chung của cả nước; mật độ người sử dụng và chất lượng dịch vụ còn chưa cao
và chưa đồng đều; hoạt động của các bưu điện văn hoá còn hạn chế.
* Toàn tỉnh hiện có ba tờ báo được cấp phép hoạt động: báo Phú Thọ,
Đài phát thanh- truyền hình Phú Thọ và Tạp chí văn nghệ Đất Tổ, ngoài ra
còn có một số bản tin, tạp san chuyên ngành của các đơn vị, tổ chức đoàn thể,
xã hội. Các nguồn báo viết và báo hình này đóng vai trò quan trọng trong việc
cập nhật các vấn đề phát triển của tỉnh nhà.
* Là tỉnh giàu truyền thống văn hiến và cách mạng, được coi là mảnh đất
phát tích của dân tộc Việt Nam. Nhắc đến Phú Thọ là người ta nghĩ ngay đến
Đền Hùng nhưng Phú Thọ không chỉ hấp dẫn du khách bởi khu di tích lịch sử
quý báu mang tầm cỡ quốc gia này mà còn bởi non nước hữu tình, người và
vật đều mến khách.
Phú Thọ nằm ở vị trí trung tâm miền Bắc Việt Nam, là cửa ngõ nối liền
giữa các tỉnh miền núi Tây Bắc với thủ đô Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc
Bộ. Phú Thọ có địa hình đa dạng: miền núi, trung du, đồng bằng nên có thể
phát triển nhiều loại hình du lịch có sức hấp dẫn du khách như tham quan, vui
chơi giải trí, nghỉ dưỡng, chữa bệnh, du lịch sinh thái. Các lễ hội diễn ra trên
quê hương Phú Thọ cũng rất đa dạng, mang nét văn hoá đặc sắc của những
bản làng, có thể thấy ở Phú Thọ đâu đâu cũng có những ngày lễ hội. Không
những thế Phú Thọ còn có kho tàng thơ, ca, hò, vè rất đặc sắc, những làn điệu
hát Xoan, hát Ghẹo, hát Đối, hát Ví mang âm hưởng của miền quê Trung du
rõ nét, từ lâu đã nổi tiếng làm say đắm lòng người.
Bên cạnh những yếu tố thuận lợi trên, đặc điểm kinh tế - xã hội của tỉnh
48
Phú Thọ cũng có nhiều khó khăn: Điểm xuất phát kinh tế của tỉnh thấp, kinh
tế chủ yếu vẫn là sản xuất nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp còn mang nặng
yếu tố truyền thống, tự cung, tự cấp, manh mún, phân tán, lạc hậu, cơ cấu
kinh tế nông nghiệp, nông thôn chuyển dịch chậm. Cơ sở công nghiệp nông
thôn chưa nhiều, nhất là công nghiệp chế biến. Diện tích đất nông nghiệp bình
quân đầu người thấp và có xu hướng ngày một giảm; kết cấu hạ tầng chưa đáp
ứng được yêu cầu sản xuất và đời sống; dịch vụ kém phát triển, trình độ và
khả năng cạnh tranh hàng hoá còn hạn chế. Trình độ năng lực quản lý, điều
hành của đội ngũ cán bộ trong cơ chế thị trường còn nhiều bất cập.
Những khó khăn và yếu kém trên tác động không nhỏ, làm hạn chế đến
quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn tỉnh
Phú Thọ.
2.2. Nhận thức và công tác lãnh chỉ đạo của các cấp ủy đảng và
chính quyền tỉnh Phú Thọ trong việc vận dụng các Nghị quyết của Đảng
về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
2.2.1. Về nhận thức của các cấp uỷ đảng và chính quyền
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là chủ trương đường lối lớn và nhất quán
của Đảng về đổi mới và phát triển kinh tế, xây dựng đất nước trong giai đoạn
hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII năm
1991 của Đảng thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, trong đó nhấn mạnh “phát triển lực lượng sản xuất, công
nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông
nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm, nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao năng suất lao động xã hội và
cải thiện đời sống cho nhân dân”; “thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh
theo con đường xã hội chủ nghĩa…,cải biến căn bản tình trạng kinh tế - xã hội
kém phát triển” của nước ta…
49
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, thời gian qua các cấp uỷ
đảng, chính quyền và nhân dân tỉnh Phú Thọ luôn thống nhất trong nhận thức,
nghiêm túc quán triệt tinh thần của Đảng và Nhà nước về công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Luôn bám sát những chủ trương, chính sách, định hướng của
Trung ương và vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với điều kiện
cụ thể địa phương trong từng thời kỳ; đồng thời coi đó là nhiệm vụ chính trị
trọng tâm, xuyên suốt, chi phối các chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng
bộ và chính quyền tỉnh.
* Đại hội lần thức XIV (1997 - 2000) Đảng bộ tỉnh Phú Thọ chủ trương
phát triển một nền nông nghiệp toàn diện, bền vững an toàn gồm sản xuất
lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp, cây ăn quả và các cây có giá trị kinh
tế, tạo ra khối lượng sản phẩm hàng hoá tập trung, phù hợp với môi trường
sinh thái và thị trường. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi và mùa vụ
theo hướng giảm tỷ trọng ngành trồng trọt, tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi.
Tập trung đầu tư nhanh chóng tạo ra sản phẩm hàng hoá có hiệu quả cao trên
một đơn vị diện tích; không ngừng nâng cao mức sống của nông dân. Tăng
cường đầu tư cho vùng sản xuất lương thực tập trung, gắn nâng cao năng suất
đồng đều trên địa bàn tỉnh. Nhanh chóng ổn định về lương thực, lấy lương
thực làm cơ sở để phát triển các cây, con khác.
Cùng với phát triển sản xuất phải xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất
trong nông thôn phù hợp với công cuộc đổi mới nền nông nghiệp theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đưa nhanh công nghệ sinh học vào sản xuất
trên tất cả các lĩnh vực. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, cơ sở chế biến, tiêu
thụ nông sản. Phát triển trồng trọt gắn với chăn nuôi. Chỉ đạo và khuyến khích
phát triển kinh tế nông trại, lâm trại coi đây là một trong những hướng cơ bản
làm giàu từ đồi rừng, phát triển kinh tế nông thôn miền núi.
* Đại hội lần thứ XV (2000 – 2005) Đảng bộ tỉnh Phú Thọ xác định
50
phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp toàn diện, chú trọng đầu tư phát triển các
chương trình trọng điểm, tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông
thôn. Thực hiện từng bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn trên cơ sở nâng cao trình độ kỹ thuật và chất lượng phát triển nông
nghiệp, phát triển ngành nghề, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội và xây
dựng các điểm thị trấn, thị tứ…nâng cao chất lượng cuộc sống nông thôn.
Đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng
điều chỉnh lại quy hoạch chuyên ngành sản xuất nông nghiệp. Tập trung sản
xuất hàng hoá, ưu tiên cho hàng hoá xuất khẩu, nâng cao sức cạnh tranh trong
quá trình hội nhập của các sản phẩm mũi nhọn: chè, nguyên liệu giấy và sản
phẩm chăn nuôi để tạo khâu đột phá phát triển nhanh kinh tế nông nghiệp,
nông thôn. Đổi mới và nâng cao năng lực tổ chức, quản lý của doanh nghiệp
quốc doanh nông, lâm nghiệp để thực hiện tốt vai trò là trung tâm chuyển giao
tiến bộ kỹ thuật, dịch vụ cho sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm trong
vùng. Tăng cường đào tạo nguồn lực, chú trọng đào tạo cán bộ khuyến nông,
khuyến ngư và đội ngũ nông dân chủ chốt ở cơ sở để có đủ năng lực đáp ứng
yêu cầu của sản xuất.
Đại hội cũng nhấn mạnh, tăng cường quản lý Nhà nước trong lĩnh vực
nông, lâm nghiệp; xem xét bổ sung kịp thời các chính sách; lồng ghép các
chương trình mục tiêu, các nguồn lực để kinh tế nông nghiệp, nông thôn phát
triển ngày càng hiệu quả. Chủ động đổi mới để phát huy mạnh mẽ vai trò chủ
đạo của kinh tế nhà nước, tăng cường vai trò quản lý kinh tế của các cấp
chính quyền, hỗ trợ và dẫn dắt các thành phần kinh tế khác phát triển. Tiếp
tục sắp xếp lại các cơ sở kinh tế nhà nước. Đổi mới hợp tác xã và phát triển
mạnh các loại hình kinh tế hợp tác đa dạng, kể cả tổ hợp tác trong lĩnh vực
sản xuất, dịch vụ. Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào công
nghiệp chế biến.
51
* Đại hội lần thứ XVI (2005 - 2010) Đảng bộ tỉnh Phú Thọ nhấn mạnh
tiếp tục đổi mới toàn diện, khai thác tiềm năng thế mạnh để phát triển, chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế. Đại hội đã xác định phát triển cơ sở hạ tầng là
khâu đột phá quan trọng. Nâng cao hiệu quả các nguồn lực đầu tư, cải thiện
chất lượng kết cấu hạ tầng, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
gắn với phát triển đô thị và các vùng sản xuất hàng hoá, thúc đẩy mạnh mẽ
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động trên địa bàn tỉnh. Phát triển giao
thông nội đồng, thuỷ lợi vùng đồi; đẩy nhanh việc đưa cơ giới hoá vào sản
xuất. Cơ cấu lại diện tích đất nông nghiệp và phấn đấu hoàn thành việc dồn
điền đổi ruộng. Tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ, nhất là công nghệ
sinh học; giải quyết tốt khâu giống, bảo vệ thực vật, thú y, khuyến nông…
Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở các khâu giống, thuỷ lợi, chế
biến bảo quản sau thu hoạch, điện, đường, trường, trạm…, hình thành các
vùng sản xuất chuyên canh sản xuất hàng hoá. Phát triển nhân rộng các mô
hình sản xuất kinh doanh nông nghiệp, phát triển các loại hình kinh tế tư
nhân, kinh tế tập thể và kinh tế trang trại; phát triển các ngành nghề dịch vụ;
chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn, tạo việc làm tại chỗ, đào tạo nguồn
nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá; tăng tỷ trọng công
nghiệp và tiểu thủ công nghiệp trong cơ cấu kinh tế nông thôn.
Trong các kỳ đại hội và các giai đoạn phát triển vừa qua, Đảng bộ và các
cấp chính quyền tỉnh Phú Thọ đều luôn coi trọng yêu cầu nâng cao nhận thức
và tăng cường việc triển khai nghiên cứu, quán triệt, tuyên truyền các Nghị
quyết của Đảng, tạo sự chuyển biến về nhận thức, thống nhất về ý chí và hành
động trong toàn Đảng bộ; tạo sự đồng thuận trong tầng lớp nhân dân toàn
tỉnh; tiếp thu chuyển hoá những quan điểm, nội dung của các Nghị quyết để
xây dựng thành các chương trình công tác toàn khoá và từng năm cụ thể, từ
đó định hướng cho các cấp, các ngành, địa phương và đơn vị tổ chức thực
52
hiện có hiệu quả
2.2.2. Về công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ đảng và chính
quyền tỉnh trong việc vận dụng Nghị quyết của Đảng về công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
Với phương châm chỉ đạo thực hiện theo tinh thần tập trung, kiên quyết,
hiệu quả; phân công rõ trách nhiệm và xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm, lộ
trình; kết hợp với tăng cường đôn đốc, hướng dẫn, kiểm tra, tổng kết rút kinh
nghiệm. Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban Nhân dân tỉnh Phú Thọ thời
gian qua đã ban hành nhiều Nghị quyết, chương trình hành động và nhiều
chính sách ưu đãi trong lĩnh vực phát triển nông nghiệp, nông thôn như: Nghị
quyết số 02/NQ-TU ngày 12/6/2001 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về Phát triển
lương thực giai đoạn 2001– 2005; Nghị quyết số 18/NQ-TU ngày 17/6/2004
của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về Tiếp tục dồn đổi ruộng đất nông nghiệp đến
năm 2006; Nghị quyết số 60/2006/NQ-HĐND ngày 17/5/2006 của Hội đồng
nhân dân tỉnh về Kế hoạch phát triển nông, lâm nghiệp - thuỷ sản tỉnh Phú
Thọ giai đoạn 2006 - 2010; Nghị quyết số 10-NQ/TU ngày 29/11/2006 của
Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về việc Thực hiện các chương trình sản xuất nông
nghiệp trọng điểm giai đoạn 2006 – 2010; Nghị quyết số 17–NQ/TU ngày
29/5/2007 của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh về Chương trình ứng dụng công
nghệ sinh học nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm nông, lâm
nghiệp - thuỷ sản giai đoạn 2006 – 2010 và định hướng đến năm
2015…Nhiều chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất như: chính sách hỗ trợ,
khuyến khích phát triển chăn nuôi bò sữa (Theo quyết định số 3035/2000/QĐ-
UB ngày 16/9/2002 của UBND tỉnh Phú Thọ); chính sách trợ cước vận
chuyển tiêu thụ sản phẩm sắn củ tươi; chính sách trợ giá, trợ cước vận chuyển
tiêu thụ sản phẩm chè búp tươi; trợ giá và giá bán giống lúa lai, lúa nguyên
chủng, lúa chất lượng cao…
53
Trong sản xuất nông lâm nghiệp: Thực hiện văn bản số 36 của Chính
phủ về Định hướng và những giải pháp đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp trong
tình hình mới và Nghị quyết số 02 ngày 12/6/2001 của Ban Thường vụ tỉnh
uỷ về Phát triển lương thực; Nghị quyết số 236/2005/QĐ-UB của Uỷ ban
nhân dân tỉnh Phú Thọ về Một số chính sách khuyến khích phát triển cây ăn
quả. Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh Phú Thọ đã tập trung chỉ đạo nhiệm vụ
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng
hoá. Tập trung quan tâm đến sản xuất lương thực; tăng cường chỉ đạo chuyển
dịch cơ cấu cây trồng, cơ cấu mùa vụ, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
sản xuất, chú trọng khâu giống, tiếp tục thực hiện trợ giá giống, nhất là giống
lúa lai, ngô lai, tăng số lượng giống và kinh phí trợ giá, mở rộng diện tích lúa
lai, ngô lai.
Trong sản xuất tiểu thủ công nghiệp và làng nghề, tỉnh đã và đang tập
trung sự lãnh đạo và coi đây là khâu hết sức quan trọng để phát triển nhanh
kinh tế của tỉnh. Tỉnh uỷ khoá XV có Nghị quyết 21-NQ/TU của Ban Thường
vụ tỉnh uỷ về Phát triển tiểu thủ công nghiệp thời kỳ 2001 – 2005; Văn bản số
2084/UBND-NL ngày 25/10/2006 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Phú Thọ và Nghị
quyết số 111/2007/NQ-HĐND về quy hoạch phát triển ngành nghề nông thôn
tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2006 – 2010 và định hướng đến năm 2020…Theo đó
Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã có những quy định, quyết định
đầu tư, hỗ trợ, khuyến khích kinh tế nông nghiệp, nông thôn như việc đầu tư
kinh phí hỗ trợ các lĩnh vực: sản xuất giống cây trồng, vật nuôi, kiên cố hoá
kênh mương, giao thông nông thôn, nước sạch và vệ sinh môi
trường…Những chủ trương và Nghị quyết trên được triển khai, phổ biến và tổ
chức chỉ đạo thực hiện nghiêm túc góp phần phát triển lực lượng sản xuất,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, củng cố quan hệ sản xuất,
tạo thêm việc làm, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân trong tỉnh.
54
Với việc xác định “phát triển cơ sở hạ tầng là khâu đột phá quan trọng”,
Tỉnh đã ban hành nhiều chính sách ưu đãi nhằm đẩy mạnh hoàn thiện, xây
dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng, đường giao thông nông thôn như: Nghị quyết
số 1975/QĐ-UB ngày 16/9/1998 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Phú Thọ về việc
Quy hoạch phát triển mạng lưới thương mại – dịch vụ giai đoạn 1998 – 2010
trên địa bàn tỉnh Phú Thọ; Nghị quyết số 1947/QĐ-UBND về việc xây dựng
công trình đường ô tô đến các xã khó khăn; Nghị quyết số 1956/QĐ-UBND
về Xây dựng và mở rộng mạng lưới điện nông thôn…Ngoài ra Tỉnh uỷ, Uỷ
ban nhân dân, Hội đồng nhân dân tỉnh còn đặc biệt quan tâm đến vấn đề y tế,
giáo dục, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, thu hút nhân tài và chương trình
nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn…
Các chủ trương, chính sách của địa phương đã tác động rất lớn đến sự
phát triển sản xuất nông nghiệp, công nghiệp nông thôn, thúc đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở Phú Thọ, và
trên thực tế những năm qua đã mang lại những kết quả khả quan. Song không
phải mọi chủ trương, chính sách về nông nghiệp, nông thôn của tỉnh đều được
thực hiện có hiệu quả trong thực tiễn. Bên cạnh những kết quả đạt được, quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở Phú Thọ cũng
đang gặp nhiều khó khăn, bất cập, nhiều vấn đề đặt ra đòi hỏi phải có phương
hướng, bước đi cụ thể, phù hợp với tình hình mới.
2.3. Tình hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn
ở Phú Thọ từ năm 1997 đến nay
2.3.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn
Sau một thập kỷ tái lập (1997 - 2007) Đảng bộ và nhân dân Phú Thọ với
sự phấn đấu nỗ lực đã giành được những thành tựu xuất sắc, đặc biệt trong
lĩnh vực phát triển kinh tế. Từ một tỉnh miền núi thiếu lương thực, Phú Thọ đã
vươn lên đứng thứ 2 trong 11 tỉnh vùng Đông Bắc bộ về sản xuất lương thực
55
và đứng đầu cả nước trong lĩnh vực sản xuất chè đen, đưa Phú Thọ vươn lên
vị trí số 1 trong 14 tỉnh Trung du miền núi Bắc bộ và đứng thứ 18 trong cả
nước về sản xuất công nghiệp. Sau khi tái lập, tỉnh Phú Thọ đã tập trung chỉ
đạo thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm để ổn định và phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương theo đơn vị hành chính mới. Hầu hết các huyện trong tỉnh đều
xây dựng chỉ tiêu phấn đấu cao hơn so với giai đoạn 1996 - 2000 và phù hợp
với định hướng phát trển chung của tỉnh và tổ chức thực hiện vượt hầu hết các
mục tiêu đề ra, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế chung của tỉnh. Tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định ở mức khá cao,
giai đoạn 1997 - 2000 đạt 8,16%, giai đoạn 2001 - 2005 đạt 9,73% và đạt
10,84% vào năm 2007. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực trong
tất cả các ngành, các lĩnh vực. Tỷ trọng nông lâm nghiệp liên tục giảm từ
33,1% năm 1997 xuống 29,8% năm 2000; 28,7% năm 2005 và năm 2007 còn
27%. Tỷ trọng công nghiệp - xây dựng tăng từ 33,2% năm 1997; 36,5% năm
2000 lên 38% năm 2007. Tỷ trọng các ngành dịch vụ trong GDP tăng từ
33,7% năm 1997 và tiếp tục duy trì ở mức 33,3 - 33,7% trong các năm 2001 -
2005, và đạt 35% vào năm 2007.
Bảng 2. 1: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành (Đơn vị tính: %)
Chỉ tiêu
1997
2001
2003
2005
2007
Toàn nền kinh tế
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
Công nghiệp - xây dựng
33,2
37,4
36,9
37,6
38,0
Nông lâm thuỷ sản
33,1
29,3
29,8
28,7
27,0
Dịch vụ
33,7
33,3
33,3
33,7
35,0
Nguồn 1: Niên giám thống kê tỉnh Phú Thọ năm 2003 – 2005, [46]
Một số huyện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh như huyện Lâm Thao
giảm tỷ trọng nông nghiệp xuống còn 37%, công nghiệp tăng lên 30,5%, dịch
vụ lên 32,5% năm 2005 (mục tiêu của nghị quyết đại hội đảng bộ huyện đến
56
năm 2005 là nông nghiệp 50 - 55%, công nghiệp 25 - 30% và dịch vụ 20 -
25%); huyện Tam Nông thực hiện theo tỷ lệ tương ứng là 54% - 13,5% và
32,5% (mục tiêu: 65% - 12% và 23%), huyện Thanh Sơn là 63,5% - 22,6% và
13,9% (mục tiêu: 72,9% - 15,8% và 11,3%), huyện Hạ Hoà là 42,2% - 38,8%
và 18,9% (mục tiêu là 47% - 29% - 24%) [48]...
Sau 10 năm tái thành lập, tình hình kinh tế xã hội Phú Thọ có chuyển
biến rõ rệt, khá toàn diện. Cơ cấu kinh tế nói chung, cơ cấu nông nghiệp và
kinh tế nông thôn nói riêng chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Mặc dù, gặp nhiều khó khăn song giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ
sản vẫn tăng trưởng với tốc độ cao, bình quân tăng 7,9%/năm vượt mục tiêu
đề ra (mục tiêu tăng trên 5%). Tỷ trọng ngành nông, lâm, ngư nghiệp trong
GDP giảm từ 33,1% năm 1997 xuống 27% năm 2007, trong khi đó tỷ trọng
công nghiệp - xây dựng liên tục tăng qua các năm. Với một tỉnh có điểm xuất
phát thấp, kinh tế phụ thuộc vào nông nghiệp như Phú Thọ, đặc biệt là sau khi
tái lập còn rất nhiều những khó khăn thì mức độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế
như vậy có thể coi là một thành tích đáng nể.
Giá trị sản xuất nông nghiệp (theo giá so sánh 1994) giai đoạn từ năm
1997 đến năm 2005 nhìn chung tăng khá, từ 961,2 tỷ đồng năm 1997 lên
2.025 tỷ đồng năm 2007; giá trị sản xuất lâm nghiệp từ 123,6 tỷ đồng lên
199,0 tỷ đồng; giá trị sản xuất thuỷ sản tăng từ 48,4 tỷ đồng lên 111,0 tỷ đồng
năm 2007.
Bảng 2. 2: Giá trị sản xuất nông nghiệp theo giá so sánh năm 1994 (Đơn vị tính: Tỷ đồng)
Chỉ tiêu
1997
2000
2001
2003
2005
2007
Nông nghiệp
961,2
1.317,520 1.454,159 1.792,782 1.928,882
2.025,0
Lâm nghiệp
123,6
121,241
128,253
170,884
198,764
199,0
Thuỷ sản
48,4
67,780
67,612
87,209
94,466
111,0
Nguồn 2: Niên giám thống kê tỉnh Phú Thọ năm 2000 – 2003 – 2005-[58]
Tốc độ tăng bình quân của giá trị sản xuất nông lâm nghiệp đạt
57
7,9%/năm, trong đó nông nghiệp tăng 7,8% (trồng trọt tăng 7,28%, chăn nuôi
tăng 9,14%), thuỷ sản tăng 8,4%, lâm nghiệp tăng 8,47%/năm. Song tỷ trọng
ngành lâm nghiệp vẫn giữ ở mức 8 - 8,4%, ngành thuỷ sản 4,2 - 4,4% trong
giá trị sản xuất toàn ngành.
* Cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp cũng có sự chuyển biến theo hướng
sản xuất hàng hoá, tỷ trọng ngành trồng trọt giảm, tỷ trọng ngành chăn nuôi,
dịch vụ tăng, từng bước nâng cao giá trị, thu nhập và hiệu quả kinh tế cho
người sản xuất. Tỷ trọng giá trị sản xuất lĩnh vực trồng trọt giảm từ 72% năm
2000 xuống còn 63% năm 2007, ngành chăn nuôi tăng từ 26% lên 34% và
chiếm 29,5% trong ngành nông nghiệp (tăng 1,6% so với năm 2000), ngành
dịch vụ tăng từ 2% lên 3%.
Trồng trọt vẫn là ngành sản xuất chính, những năm qua đã chuyển dịch
theo hướng sản xuất hàng hoá tập trung và từng bước nâng cao năng suất và
chất lượng sản phẩm. Trong 10 năm qua tỉnh Phú Thọ đã trồng mới được gần
100.000 ha rừng, trong đó có hơn 20.000 ha cây nguyên liệu giấy. Hàng năm
tổ chức chăm sóc 10 - 12 nghìn ha rừng trồng, khoanh nuôi bảo vệ 38 - 42
nghìn ha; nâng độ che phủ rừng tăng từ 35,8% năm 1997 lên 47% năm 2007.
Các huyện có giá trị sản xuất nông lâm nghiệp tăng cao phải kể đến như là
Thanh Ba tăng 10,7%, Đoan Hùng 10,8%, Thanh Thuỷ 7,9%, Yên Lập 8,8%,
Lâm Thao 6,9%...Ngành lâm nghiệp đã chuyển hướng từ lâm nghiệp Nhà
nước thuần tuý sang lâm nghiệp xã hội có sự tham gia của nhiều thành phần
kinh tế. Hình thành nhiều mô hình kinh tế đồi rừng, kinh tế trang trại tổng
hợp, liên doanh, liên kết hiệu quả kinh tế cao. Giá trị sản xuất nông nghiệp
trên một đơn vị diện tích canh tác tăng từ 15,6 triệu đồng/ha (năm 2001) lên
20,2 triệu đồng/ha (năm 2005); hệ số sử dụng đất nông nghiệp bình quân đạt
2,15 lần, tăng 0,13 lần so với năm 1997. Diện tích gieo trồng cây hàng năm
năm 2007 đạt 127,06 ngàn ha, trong đó cây lương thực có hạt 93,46 ngàn ha;
58
diện tích lúa 71,82 ngàn ha; ngô 21,63 ngàn ha; cây lương thực có củ: khoai
lang 4.050 ha, sắn 7.499 ha; rau đậu các loại 11,09 ngàn ha; cây công nghiệp
hàng năm 7,93 ngàn ha [59].
Diện tích chè tăng từ 7,1 ngàn ha năm 1997 lên 13.684 ha năm 2007,
đưa Phú Thọ lên vị trí thứ 5 trong số 32 tỉnh trồng chè của cả nước. Sản lượng
chè búp tươi tăng từ 23,2 ngàn tấn lên hơn 83 ngàn tấn; năng suất bình quân
liên tục tăng từ 23,2 tạ/ha năm 1997 lên 70,5 tạ/ha. Cơ cấu giống chè chuyển
biến rõ rệt, tỷ lệ diện tích các giống chè mới: các địa phương chủ yếu trồng
các giống LDP1, LDP2 (chiếm 45 - 47% diện tích), đồng thời đã đưa vào sản
xuất thử nghiệm một số giống chè chất lượng cao: Phúc Vân Tiên, Bát Tiên,
Keo Am Tích, Kim Tuyên, PT95 phù hợp với cả chế biến chè xanh và chè
đen, có năng suất, chất lượng khá cao.
Tổng diện tích gieo cấy lúa hàng năm giai đoạn 2001 - 2007 dao động
trong khoảng 71,1 - 73,4 ngàn ha, bình quân đạt 72,7 ngàn ha/năm so với
khoảng 69,1 ngàn ha năm 1997. Cơ cấu giống cũng có sự thay đổi lớn: diện
tích lúa lai, ngô lai được mở rộng tạo bước đột phá về năng suất. Diện tích lúa
lai và lúa chất lượng cao đạt 26,24 ngàn ha, chiếm 36,5% tổng diện tích lúa,
trong đó lúa lai 22.361,9 ha, lúa chất lượng cao 1.857,9 ha. Những địa
phương duy trì được tỷ lệ diện tích lúa lai cao là: Hạ Hoà (62,6%), Yên Lập
(43,6%), Thanh Thuỷ (59,3%), Đoan Hùng (38,1%), Phù Ninh (48,2%). Tỷ lệ
diện tích lúa lai từ 3% năm 1997 đã tăng lên 51,04% năm 2001- năm có diện
tích lúa lai lớn nhất (từ năm 2003 trở lại đây diện tích lúa lai ổn định ở mức
30 - 31%). Năm 2007, năng suất lúa bình quân đạt 49,8 tạ/ha, sản lượng thóc
đạt 358,675 ngàn tấn, so với mục tiêu vượt 17,75 ngàn tấn, đạt 105,26% kế
hoạch. Năng suất, sản lượng có bước tăng trưởng liên tục qua các năm, tuy
nhiên, tốc độ tăng năng suất, sản lượng có xu hướng chậm lại: từ năm 1997
đến năm 2003 năng suất trung bình đạt 3,97 tạ/ha/năm, sản lượng tăng 31,63
59
ngàn tấn/năm; từ năm 2003 - 2007 năng suất bình quân chỉ tăng 0,4
tạ/ha/năm, sản lượng tăng trung bình 3,25 ngàn tấn/năm.
Bảng 2. 3: Sản lƣợng một số cây trồng chủ yếu (Đơn vị tính: Tấn)
Chỉ tiêu
1997
2000
2003
2005
2007
Chè
23.155,4
29.346,0
45.059,2
69.505,9
83.331,0
Lúa
204.469
282.301
350.107
355.333
358.675
Bưởi
5.057,0
5.043,6
7.287,3
6.157,7
Ngô
33.968,0
42.497,2
66.501,4
74.782,2
82.175,41
Lương thực có hạt
267.437,0
324.798,4
416.607,9
430.200,3
406.063,0
Nguồn 3: Niên giám thống kê tỉnh Phú Thọ năm 2003 – 2005- [58]
Diện tích ngô năm 2007 tăng 7,194 ngàn ha so với năm 1997 (từ 13,12
ngàn ha lên 21,63 ngàn ha). Năng suất bình quân đạt 37,99 tạ/ha (năm 2007
đạt 38,5 tạ/ha), tăng 10,93 tạ/ha so với năm 1997 (25,89 tạ/ha). Sản lượng ngô
năm 2007 đạt 82,17 ngàn tấn, vượt 2,63 ngàn tấn so với mục tiêu, đạt 120%
kế hoạch (So với năm 2006 diện tích tăng 3,67 ngàn ha; năng suất tăng
1,35tạ/ha, sản lượng tăng 16,1 ngàn tấn). Khác với cây lúa, năng suất và sản
lượng ngô tăng liên tục qua các năm, có nguyên nhân chủ yếu là do tiềm năng
năng suất của giống ngô lai còn rất lớn.
Việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, tăng cường đầu tư thâm canh
tăng vụ đã tăng sản lượng lương thực từ 26,7 vạn tấn (năm 1997) lên 43 vạn
tấn (năm 2007), đảm bảo an toàn lương thực trên địa bàn.
Ngành thuỷ sản được chú trọng phát triển nhanh về diện tích và sản
lượng. Diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản tăng đáng kể từ 3.600 ha năm
1997 lên 8.545 ha năm 2007, sản lượng đạt 16.939 tấn tăng hơn gần 3 lần so
với năm 1997 (6.273 tấn); sản lượng khai thác đạt 1.276 tấn; sản lượng nuôi
trồng năm 2007 tăng 9.171 tấn so với năm 1997; giá trị sản xuất thuỷ sản tăng
đáng kể từ 48,4 tỷ đồng (1997) lên đạt 258.98 tỷ đồng (2007). Nhiều giống
thuỷ sản mới có giá trị kinh tế cao như cá rô phi đơn tính, chép lai V1, tôm
60
càng xanh công nghệ sản xuất cá rô phi đơn tính đực bằng hoóc môn được
ứng dụng có kết quả vào sản xuất. Phương thức nuôi đa dạng theo hướng tập
trung, thâm canh, quy mô sản xuất mở rộng. Nhiều địa phương đã mạnh dạn
chuyển diện tích đất sâu trũng trồng lúa kém hiệu quả sang nuôi cá chuyên
hoặc cá vụ đạt hiệu quả cao. Năm 2007 riêng 8 huyện vùng trọng điểm phát
triển thuỷ sản đã chuyển đổi được 390 ha diện tích đất úng trũng trồng lúa
kém hiệu quả sang nuôi trồng thuỷ sản.
Ngành chăn nuôi được chú trọng phát triển cả về số lượng và chất lượng
thông qua thực hiện chương trình sind hoá đàn bò, phát triển chăn nuôi lợn
hướng nạc. Đến nay tỷ lệ bò lai sind đạt trên 30% tổng đàn (năm 1997 mới
chỉ đạt 6,2%), lợn lai hướng nạc đạt 38 – 40% tổng đàn. Bước đầu hình thành
vùng sản xuất hàng hoá chăn nuôi quy mô trang trại, áp dụng công nghệ tiên
tiến theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đã hình thành nhiều mô hình
phát triển chăn nuôi theo quy mô trang trại, gia trại, đàn gia súc, gia cầm tăng
nhanh, nhất là phát triển chăn nuôi lợn và đại gia súc. Tổng đàn trâu hiện có
95,168 con so với 84.909 con năm 1997; đàn bò đạt 163,388 con; đàn lợn đạt
552,311 con tăng 194.183 con so với 385.817 con năm 1997; đàn gia cầm
được khôi phục khá nhanh (đặc biệt sau dịch cúm gia cầm năm 2004), tăng từ
5287 năm 1997 lên 6.559 ngàn con năm 2000 và 8.068 ngàn con năm 2007;
sản lượng thịt đạt 52 ngàn tấn, tăng 42,8%.
Bảng 2. 4: Giá trị sản xuất nông nghiệp Phú Thọ (Đơn vị tính: tỷ đồng)
Chỉ tiêu
1999
2001
2003
2005
2007
Trồng trọt
827,877
1.026,287 1.175,136 1.265,995
1.276
Chăn nuôi
322,359
393,683
561,572
588,094
667
Dịch vụ nông nghiệp
32,600
34,189
56,074
74,878
82
Nguồn 4: Niên giám thống kê tỉnh Phú Thọ năm 2003 – 2005, [58]
Các ngành dịch vụ phát triển khá toàn diện, từng bước nâng cao chất
61
lượng dịch vụ, đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống nhân dân. Mạng lưới
dịch vụ từ chỗ hoạt động phân tán, quy mô nhỏ bé, giá trị tăng bình quân mới
đạt 7,2%/ năm (năm 1997), đến nay đã được mở rộng về quy mô, đã hình
thành các chợ đầu mối trung tâm giao dịch, trung tâm phân phối hàng hoá,
trung tâm thương mại, dịch vụ siêu thị. Giá trị dịch vụ tăng bình quân trên
12%/năm.
* Cùng với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động có sự
chuyển dịch theo hướng tích cực: lao động trong ngành công nghiệp - xây
dựng tăng từ 10,7% lên 16,4% năm 2005, ngành dịch vụ tăng từ 9,4% lên
13,5%, ngành nông nghiệp giảm từ 79,8% xuống còn 70,1%. Lao động nông
nghiệp có xu hướng giảm từ 501.000 người năm 1997 còn 487.000 người
năm 2005; và lao động công nghiệp, dịch vụ có xu hướng tăng tương ứng là:
65.000 - 100.600 người; 55.000 - 86.900. Số lượng lao động toàn tỉnh khoảng
787.500 người (chiếm 59,35% tổng dân số), lao động trong lĩnh vực nông lâm
nghiệp chiếm khoảng 61% tổng số lao động. Lao động chưa có việc làm ở
nông thôn giảm từ 3,5% xuống còn 3,2%; tỷ lệ sử dụng thời gian của lao động
nông thôn tăng từ 75,15% lên 79,2% [45]. Theo xu thế giảm dần tỷ lệ tăng
dân số tự nhiên để phù hợp với tốc độ phát triển kinh tế - xã hội Phú Thọ dự
báo đến năm 2020 có khoảng 840.000 lao động, trong đó khoảng 60 - 65% số
lao động tham gia làm việc được đào tạo, trong đó có khoảng 60 - 70% là
công nhân kỹ thuật, công nhân có tay nghề cao.
62
Bảng 2. 5: Dự báo phát triển dân số tỉnh Phú Thọ đến năm 2020 (Đơn vị tính: 1000 người)
Nhịp độ tăng bình quân năm
2005
2010
2020
2006 – 2010
2011 - 2020
1.326,8
1.385
1.479
0,86
0,66
Tổng dân số
1. Thành thị
219
316
621
7,61
6,99
% tổng số
16,5
22,8
42,0
2. Nông thôn
1.107,8
1.069
858
- 0,71
- 2,17
% tổng số
83,5
77,2
58,0
Nguồn 5: Quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội tỉnh Phú Thọ thời kỳ 2005 – 2020
Qua đây cho thấy, nguồn nhân lực hiện tại của tỉnh khá dồi dào đặc biệt
trong lĩnh vực sản xuất nông - lâm nghiệp, tuy nhiên cũng cần có chiến lược
đào tạo chuyên sâu đội ngũ cán bộ trong nông nghiệp, nông thôn để đáp ứng
yêu cầu phát triển trong những năm tới.
2.3.2. ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, nông
thôn
Trong những năm qua, nhất là khi có Nghị quyết Trung ương 2 và Nghị
quyết số 08 của Ban thường vụ Tỉnh uỷ về Khoa học - công nghệ và môi
trường, công tác nghiên cứu, ứng dụng đưa các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ
mới phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp của tỉnh đã thu được nhiều kết
quả quan trọng.
* Từ năm 1999 đến nay Trung tâm giống cây trồng tỉnh đã sản xuất
thành công một số tổ hợp lúa lai, ngô lai F1, Bắc ưu 903, Nhị ưu 63, Bồi tạp
sơn thanh với tổng diện tích sản xuất khoảng 80ha, năng suất hạt lai F1 đạt
1,2 - 1,6 tấn/ha; hiện Trung tâm đang phối hợp cùng Trường Đại học Nông
nghiệp 1 - Hà Nội sản xuất thử tổ hợp lúa lai Việt lai 20, bước đầu cho kết
quả tốt. Việc đưa vào sản xuất giống lúa, ngô thương phẩm đã tạo bước đột
phá tăng nhanh năng suất, sản lượng lương thực, góp phần bảo đảm an toàn
lương thực trên địa bàn. Cơ cấu mùa vụ chuyển dịch theo hướng tăng diện
tích trà xuân muộn, giảm diện tích trà xuân trung. Tỷ lệ cơ cấu các trà lúa có
63
sự chuyển biến đã làm giảm tối thiếu sự thiệt hại do thời tiết gây ra. Trà lúa
chiêm và xuân sớm chiếm gần 30%, trà xuân muộn chiếm gần 50 - 55% và trà
xuân trung vẫn chiếm diện tích trên 15 - 20%. Công tác nghiên cứu khảo
nghiệm giống tiếp tục được duy trì với 154 lượt giống lúa, 64 lượt giống ngô,
13 lượt giống lạc, 21 lượt giống đậu tương chất lượng cao đáp ứng yêu cầu
của sản xuất. Đồng thời, hàng năm Trung tâm giống cây trồng và một số địa
phương đã phối hợp cùng Viện nghiên cứu ngô, các công ty giống sản xuất
thành công 1 số tổ hợp ngô lai với sản lượng 300 - 400 tấn/ha; giống lúa lai 3
dòng Nhị ưu 7 năng suất cao, ổn định đạt 61 – 77 tạ/ha...
Ngoài các giống cây lương thực, nhiều giống cây màu như lạc, rau đậu,
hoa...năng suất cao, chất lượng tốt được đưa vào sản xuất (giống sắn HN124
năng suất thực tế đạt 30 - 35tấn/ha, nhiều giống lạc, đậu tương năng suất đạt 2
-3 tấn/ha, bước đầu sản xuất thành công hoa ly...) làm thay đổi căn bản cơ cấu
giống cây trồng của tỉnh. Năm 2007 toàn tỉnh trồng mới được 360 ha bưởi
Đoan Hùng; 22,95 ha hồng không hạt. Tỉnh đã ứng dụng thành công công
nghệ sản xuất cây giống bưởi Đoan Hùng sạch bệnh bằng công nghệ vi ghép
đỉnh sinh trưởng, đảm bảo hệ số nhân giống cao, cây giống sạch bệnh và giữ
được các tính trạng tốt của cây đầu dòng; ứng dụng kỹ thuật giâm cành trong
sản xuất cây giống chè (toàn tỉnh có trên 4.000ha chè giống mới LDP1,
LDP2, Bát Tiên chất lượng tốt được nhân giống bằng phương pháp giâm
hom).
Trong lĩnh vực sản xuất giống cây lâm nghiệp đã nghiên cứu, sản xuất
thành công giống cây bạch đàn bằng phương pháp nuôi cấy mô tế bào và đang
từng bước nghiên cứu sản xuất thử nghiệm trên một số đối tượng cây trồng
khác; nhân giống keo lai, luồng Thanh Hoá bằng phương pháp giâm hom
đang được áp dụng phổ biến trong sản xuất. Đến nay có khoảng hơn 500 ha
rừng được trồng bằng keo lai, bạch đàn mô và 9/13 huyện đã trồng tre măng
64
với diện tích khoảng hơn 47 ha...
Trong chăn nuôi, Phú Thọ đã chủ động trong việc sản xuất tinh giống
lợn lai (năm 2007 sản xuất 40.000 liều tinh dịch lợn, hỗ trợ tinh bò 600 liều)
đáp ứng thoả mãn nhu cầu cho sản xuất. Đã thử nghiệm thành công phương
pháp bảo quản tinh dịch lợn trong thời gian 24h, góp phần giữ ổn định chất
lượng. Phương pháp thụ tinh nhân tạo đối với lợn, bò đã được áp dụng từng
bước mở rộng, nhờ đó hiện nay đã có khoảng 30% đàn bò được Zebu hoá; tỷ
lệ lợn lai chiếm trên 95% tổng đàn. Các giống vịt siêu trứng, gà thả vườn,
ngan Pháp...đang được phổ biến nuôi rộng rãi trong nhân dân.
Trong lĩnh vực thuỷ sản, Trung tâm giống thuỷ sản đã tiếp nhận và ứng
dụng thành công công nghệ sản xuất cá rô phi dòng Giff, công nghệ sản xuất
cá chép lai V1 và đang tiếp tục nghiên cứu sản xuất giống ba ba gai, ba ba hoa
Thái Lan. Năm 2007, trung tâm đã cung cấp 700 ngàn cá con cá chép lai, 500
ngàn con cá rô phi đơn tính, 500 ngàn con tôm càng xanh và 2.000 con cá
truyền thống các loại.
Trong việc bảo vệ và chăm sóc cây trồng, vật nuôi. Năm 2007, Phú Thọ
đã tổ chức tập huấn kỹ thuật và nghiệp vụ khuyến nông cho 14.488 lượt cán
bộ khuyến nông và nông dân, mở 42 lớp tập huấn kỹ thuật công tác khuyến
ngư; tổ chức 54 cuộc hội thảo đào tạo, tuyên truyền kỹ thuật thuốc bảo vệ
thực vật. Tỉnh đã ứng dụng chương trình quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) vào
sản xuất; thông qua chương trình đã có hàng vạn lượt hộ dân được đào tạo,
tập huấn về IPM trên lúa, rau và chè. Nhờ đó, đã làm thay đổi tập quán canh
tác của nông dân; giúp nông dân có hiểu biết nhất định về thiên địch, hệ sinh
thái, cách tự sản xuất và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật thảo mộc, giảm việc
sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, phân bón hoá học. Các chế phẩm sinh học
(phân bón vi sinh, thuốc bảo vệ thực vật vi sinh) từng bước được áp dụng
trong sản xuất. Phương pháp chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học đang
65
được khuyến cáo áp dụng, việc tiêm phòng vaccin phòng, chống các bệnh
truyền nhiễm trên gia súc, gia cầm được đẩy mạnh, đảm bảo an toàn cho sản
xuất.
Trong lĩnh vực xử lý chất thải. Toàn tỉnh hiện có khoảng 700 hầm Biogas, với dung tích trung bình khoảng 8 - 12m3/hầm. Đồng thời công nghệ
ủ phân compos đang từng bước được chuyển giao cho các hộ nông dân để sản
xuất phân hữu cơ phục vụ sản xuất rau, chè an toàn.
Công nghệ sinh học truyền thống trong lĩnh vực bảo quản, chế biến nông
lâm thuỷ sản được ứng dụng rộng rãi trong nhân dân để bảo quản hạt giống,
bảo quản các loại nông sản; chế biến chè, rượu bia, nước mắm, tương, cá
thính ủ chua thức ăn xanh phục vụ chăn nuôi. Đã ứng dụng thành công công
nghệ sản xuất nấm rơm, sản xuất mộc nhĩ, bước đầu mang lại hiệu quả kinh tế
cao và từng bước được rộng.
* Trong những năm gần đây, tốc độ cơ giới hoá nông nghiệp tăng lên
nhanh chóng, việc sử dụng máy móc thay thế lao động chân tay đã trở nên
khá phổ biến. So với năm 1997, việc ứng dụng cơ giới hoá vào sản xuất đã có
bước phát triển tốt, chủ yếu là khâu làm đất, ra hạt. Hiện có khoảng 15% diện
tích được cơ giới hoá khâu làm đất và trên 90% cơ giới hoá trong khâu ra hạt
lúa, các khâu khác như tưới nước, phun thuốc trừ sâu, vận chuyển, tuốt lúa,
xay xát gạo, chế biến thức ăn gia súc cũng được cơ giới hoá nhanh ở mức cao
hơn trước. Hoạt động xay sát là một trong những hoạt động phổ biến ở hầu
hết các xã, thị trấn trên phạm vi toàn tỉnh, hiện tỉnh có 3 nhà máy xay lớn với
tổng công suất 30.000 - 40.000 tấn/năm, nâng khối lượng xay sát toàn tỉnh
năm 2007 là 407.000 tấn. Toàn tỉnh hiện có 63 cơ sở chế biến chè công suất
đạt trên 1 tấn búp tươi/ ngày với tổng vốn đầu tư khoảng 437,623 tỷ đồng, tạo
việc làm cho 6.439 lao động.
* Nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của công tác thuỷ lợi đối với quá
66
trình phát triển của nông nghiệp, nông thôn. Những năm qua, hệ thống kênh
mương, thuỷ lợi nội đồng tiếp tục được quan tâm đầu tư nâng cấp và hoàn
thiện. Tỉnh đã chỉ đạo triển khai đầu tư xây dựng dự án cải tạo, nâng cấp hồ
chứa nước, dự án thuỷ lợi tưới cây vùng đồi tại các huyện Thanh Ba, Hạ Hoà,
Phù Ninh, Lâm Thao, Đoan Hùng, Yên Lập, Thanh Sơn, trong đó hoàn thành
đưa vào sử dụng một số hạng mục công trình đầu mối 4 hồ chứa và 10km
kênh tưới. Triển khai thực hiện 14 công trình tu bổ đê điều, chiều dài
102,6km; đào đắp được 50km nền đường các công trình gia cố nâng cấp đê
kết hợp đường giao thông; 19 công trình kè bảo vệ bờ vở sông chiều dài
26,5km và xây dựng xong 78,5km đường giao thông vùng chậm lũ.
Hiện nay, toàn tỉnh có 470 trang trại, 710 tổ hợp tác và 117 hợp tác xã
nông nghiệp, trong đó có 99 hợp tác xã có hoạt động dịch vụ thuỷ lợi. Các
hợp tác xã này có 135 máy bơm các loại, 150 hồ đập, gần 900km kênh mương
tưới cho gần 24 ngàn ha, tưới chủ động cho 21 ngàn ha, diện tích tiêu chủ
động tăng từ 3,5 ngàn ha lên 5,5 ngàn ha. Nhờ đó, tăng diện tích gieo cấy
được tưới đạt 90% tổng diện tích, góp phần quan trọng, tạo điều kiện đẩy
mạnh đầu tư thâm canh tăng năng suất. Hệ thống tiêu phần lớn là tiêu tự chảy;
các ngòi tiêu đang bị bồi lấp, lấn chiếm, hệ thống bờ vùng chưa hoàn chỉnh
nên hiệu quả thấp. Chất lượng một số công trình thuỷ lợi xuống cấp nghiêm
trọng, không đáp ứng được năng lực thiết kế. So với yêu cầu thâm canh tăng
vụ và đa dạng hoá cây trồng, vật nuôi thì thực trạng thuỷ lợi hoá của Phú Thọ
vẫn còn nhiều bất cập.
2.3.3. Xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn
Những năm qua được sự hỗ trợ của Trung ương, tỉnh Phú Thọ đã có
nhiều cố gắng trong việc đầu tư nâng cấp và hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ
tầng nông thôn. Tỉnh đã tập trung đầu tư phát triển hệ thống mạng lưới điện,
tạo tiền đề phát triển các ngành sản xuất và đời sống nhân dân. Tỉnh đã đầu tư
67
xây dựng 4 trạm 110KV, làm mới, cải tạo trên 100km đường dây 100KV và
lưới điện trung thế; hơn 50km đường dây 220KV để mua điện từ Trung Quốc.
Đến nay đã có 100% số xã trong tỉnh có điện lưới quốc gia; hệ thống đường
dây hạ thế, cao thế tiếp tục được mở rộng, nâng cấp, nâng tỷ lệ hộ được sử
dụng điện lên 97,3%, số hộ nông thôn được sử dụng điện đạt 98% (năm
2007). Tuy nhiên, lưới điện nông thôn nhiều xã chưa đảm bảo kỹ thuật, tiêu
hao điện năng còn cao, hiện tượng quá tải vào giờ cao điểm chưa được khắc
phục, phần nào ảnh hưởng đến sinh hoạt và sản xuất.
Giao thông nông thôn có bước phát triển cả về chiều sâu và chiều rộng.
Với sự phối hợp giữa nhà nước và nhân dân; bằng nguồn vốn đầu tư của nhà
nước, vốn vay đặc biệt là nguồn vốn ODA, Phú Thọ đã triển khai đầu tư nâng
cấp, cải tạo hàng loạt các tuyến đường quốc lộ, tỉnh lộ. Đã triển khai đầu tư 24
tuyến đường huyện lộ, với chiều dài trên 180km, tổng vốn đầu tư 972 tỷ đồng.
Chương trình giao thông nông thôn, đường liên thôn, liên xã được triển khai
tích cực, đến nay 100% số xã có đường ôtô đến trung tâm xã, đưa vào sử dụng
737km đường nhựa, 786km đường bê tông, 523km đường cấp phối đáp ứng
tốt nhu cầu đi lại, phục vụ sản xuất và giao lưu kinh tế. Mạng lưới giao thông
Phú Thọ phân bố tương đối hợp lý, thuận tiện trong giao lưu hàng hoá, hành
khách nội ngoại tỉnh. Tuy nhiên, với việc mật độ giao thông đường tăng
nhanh, chất lượng công trình không đảm bảo, vốn đầu tư xây dựng và bảo trì
chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; việc nạo vét luồng lạch không được tiến
hành thường xuyên phần nào đã ảnh hưởng tới quá trình phát triển của tỉnh.
Hệ thống các cơ sở giáo dục, y tế, chợ nông thôn tiếp tục được mở rộng.
Trong 10 năm qua, sự nghiệp giáo dục Phú Thọ có những chuyển biến tích
cực. Quy mô mạng lưới trường lớp được quy hoạch khá hợp lý, phát triển
theo hướng đa dạng hoá và từng bước xã hội hoá. Ngoài hệ thống các trường
trung học cơ sở, trung học phổ thông và dạy nghề thì Phú Thọ còn có năm
68
trường cao đẳng và một trường đại học là Đại học Hùng Vương, về cơ bản đã
tạo điều kiện nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục Phú Thọ đã hoàn
thành phổ cập tiểu học vào năm 2002, và phổ cập trung học cơ sở năm 2003.
Cơ sở vật chất trường học được tăng cường, tỷ lệ phòng học kiên cố hoá và
bán kiên cố đạt 96%; đến năm 2005 tỉnh có 121 trường đạt chuẩn quốc gia và
được công nhận là một trong những tỉnh miền núi dẫn đầu về phát triển sự
nghiệp giáo dục. Quy mô đào tạo, dạy nghề tăng với tốc độ cao, cơ cấu đào
tạo đã chuyển hướng theo sát với nhu cầu sử dụng lao động, nâng tỷ lệ lao
động qua đào tạo của tỉnh lên 33,6%. Góp phần nâng cao chất lượng lao động
toàn tỉnh nói chung và lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn nói
riêng.
Mạng lưới y tế từ tuyến tỉnh đến cơ sở được củng cố và nâng cấp. Hầu
hết các bệnh viện tuyến tỉnh, huyện được đầu tư nâng cấp về cơ sở vật chất về
trang thiết bị. Đến nay, toàn tỉnh có 90% trạm y tế xã được kiên cố hoá (năm
2007 có 30% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế), 100% số xã có bác sỹ, có đủ
thuốc thiết yếu cho nhu cầu khám chữa bệnh và 100% số thôn bản có nhân
viên y tế hoạt động. Các chương trình y tế quốc gia triển khai đạt hiệu quả
cao, chất lượng phục vụ trong các cơ sở y tế được nâng lên. Hệ thống cung
cấp dịch vụ y tế, các cơ sở hành nghề y dược tư nhân được mở rộng và
khuyến khích phát triển. Hoạt động y tế dự phòng, giám sát dịch bệnh được
duy trì thường xuyên và chủ động, đã kịp thời ngăn chặn dịch bệnh phát sinh
trên địa bàn.
Mạng lưới bưu chính, viễn thông Phú Thọ phát triển tương đối nhanh, cơ
bản có độ phủ sóng tốt, chất lượng cao, công nghệ hiện đại. Hệ thống thông
tin, văn hóa nông thôn phát triển mạnh góp phần cải thiện đời sống tinh thần
của nhân dân. Số máy điện thoại năm 1997 chỉ đạt 0,9 máy/100 dân, đến nay
đã đạt 26 máy; 100% số xã có điểm bưu điện văn hóa xã, số bưu điện văn hóa
69
xã có kết nối internet đạt 46,4%; đến năm 2004 đã hoàn thành mục tiêu 100%
số xã có đài truyền thanh, tỷ lệ phủ sóng đạt 98%. Toàn tỉnh có 1.055 nhà sinh
hoạt văn hóa khu dân cư, chiếm 36,8% số khu dân cư toàn tỉnh, khu dân cư
văn hóa đạt 72,1% năm. Tỷ lệ dân được dùng nước sạch đạt 70,3%, tỷ lệ dân
nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 69%. Tuy nhiên, đa
số các chỉ tiêu về bưu chính, viễn thông của tỉnh Phú Thọ còn thấp hơn so với
mặt bằng chung của cả nước; mật độ người sử dụng và chất lượng dịch vụ
chưa cao và chưa đồng đều; hoạt động của các điểm văn hóa xã còn hạn chế.
Đến nay, mạng lưới thương mại, dịch vụ tổng hợp đã phát triển rộng
khắp đến các huyện, thị và các xã trong tỉnh. Hình thành nên các trung tâm
buôn bán, thị trấn, thị tứ khá sôi động đáp ứng cơ bản nhu cầu hàng hoá phục
vụ sản xuất và đời sống của người dân một cách thuận tiện.
2.3.4. Phát triển công nghiệp nông thôn và ngành nghề ở nông thôn
Vận dụng sáng tạo quan điểm, đường lối của Đảng về phát triển công
nghiệp vào đặc điểm tình hình của địa phương, Phú Thọ đã có nhiều biện
pháp đổi mới cơ chế quản lý, tăng cường thu hút đầu tư, tập trung thực hiện
các chương trình công nghiệp trọng điểm, như chế biến nông lâm sản thực
phẩm, khai thác và chế biến khoáng sản, sản xuất vật liệu xây dựng, hoá chất,
phân bón. Vì thế, sản xuất công nghiệp liên tục phát triển, giá trị sản xuất
công nghiệp của tỉnh tăng bình quân 14,8%/năm. Cơ cấu kinh tế công nghiệp
xây dựng chuyển dịch theo hướng tích cực, chiếm 38,7% tổng thu nhập của
tỉnh.
Với quan điểm đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn. Ngay sau khi tách tỉnh, Đảng bộ tỉnh Phú Thọ đã ban hành
Nghị quyết chuyên đề về phát triển tiểu thủ công nghiệp và các cơ chế chính
sách khuyến khích phát triển ngành nghề truyền thống, nhân cấy nghề mới.
Đến nay, giá trị sản xuất tiểu thủ công nghiệp đã tăng trên 60% so với lúc mới
70
tách tỉnh. Số cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp đã tăng trên 30%, doanh thu
tăng 75% và nộp ngân sách tăng gần 70% so với năm 1997. Nhiều doanh
nghiệp đã chú trọng đầu tư đổi mới công nghệ, nâng công suất; đã chú trọng
đến đầu tư phát triển vùng nguyên liệu và khả năng tiêu thụ sản phẩm; nhiều
sản phẩm có thị trường tiêu thụ tốt cả trong và ngoài nước như: thảm trải nền,
chè, gạch xây dựng, đồ thủ công mỹ nghệ, trạm khắc gỗ, mây tre đan.
Những năm qua kinh tế nông, lâm nghiệp tỉnh đã có sự phát triển vượt
bậc cả về số lượng và quy mô, đồng thời cũng đa dạng hơn về loại hình và
ngành nghề. Các thành phần kinh tế nông lâm nghiệp, đặc biệt là khu vực
kinh tế tư nhân gồm: hộ sản xuất, trang trại, doanh nghiệp tư nhân đã có sự
đầu tư thiết bị và khoa học kỹ thuật để mở rộng phát triển sản xuất. Đến năm
2007, toàn tỉnh có 222.243 hộ nông dân, 470 trang trại, 380 hợp tác xã với
tổng số xã viên là 150.076 người trong đó có 117 hợp tác xã nông lâm nghiệp,
6 hợp tác xã thuỷ sản, 190 hợp tác xã dịch vụ điện năng, 2 hợp tác xã môi
trường, 28 hợp tác xã công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, 1 hợp tác xã
thương mại, 7 hợp tác xã vận tải, 33 hợp tác xã tín dụng; có 710 tổ hợp tác với
6.644 hộ thành viên, vốn góp từ 500.000 đồng – 5 triệu đồng, 178 doanh
nghiệp tư nhân hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản với giá
trị sản xuất đạt khoảng gần 5.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, hầu hết các loại hình
kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn tỉnh Phú Thọ đều có quy mô nhỏ và
thiếu vốn sản xuất, năng suất lao động và hiệu quả sản xuất chưa cao. Với
tổng số 470 trang trại, tổng nguồn vốn đầu tư cho các trang trại này chỉ đạt
105.134 triệu đồng. Doanh thu bình quân của mỗi trang trại lại chưa đến 200
triệu đồng/năm, số lao động thu hút trung bình cũng rất khiêm tốn 5 – 6 lao
động/trang trại. Toàn tỉnh có khoảng 150 doanh nghiệp làm chế biến và bảo
quản nông lâm thuỷ sản, với tổng số vốn đầu tư khoảng 640 tỷ đồng, bình
quân 4,3 tỷ đồng/doanh nghiệp; giá trị sản xuất đạt trên 600 tỷ đồng, thu hút
71
và giải quyết việc làm cho trên 5.200 lao động.
Nhìn chung, các doanh nghiệp trên đều có quy mô nhỏ, sản xuất manh
mún, thủ công là chủ yếu; giá trị sản xuất, vốn đầu tư của các doanh nghiệp
tham gia sản xuất nông lâm nghiệp còn thấp; số lao động thu hút không nhiều,
lao động chủ yếu theo thời vụ là chính, lao động trình độ tay nghề thấp. Điều
đó cho thấy các thành phần kinh tế trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp còn thiếu
đầu tư về trang thiết bị, phương tiện và cơ sở vật chất, trình độ cơ giới hoá
thấp và sản xuất kinh doanh chưa gắn với thị trường.
* Với thế mạnh của tỉnh là các làng nghề truyền thống, nhằm thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, thực hiện phân công lại lao động, tạo
thêm việc làm và thu nhập. Năm 1997, ngay sau khi tái lập tỉnh, Phú Thọ đã
quan tâm khôi phục và phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, làng nghề
truyền thống ở nông thôn. Đến nay, trên địa bàn tỉnh có 20 làng nghề được
tỉnh công nhận, phân bố trên địa bàn của 10 trên tổng số 13 huyện, thị, thành
phố. Các làng nghề của Phú Thọ có thể được chia thành 5 nhóm chính: nhóm
làng nghề mộc, nhóm làng nghề đan lát mây tre, nhóm làng nghề chế biến
chè, nhóm làng nghề chế biến nông sản thực phẩm, nhóm làng nghề làm nón.
72
Bảng 2. 6: Lao động làm nghề và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
Nhóm làng nghề
Lao động (ngƣời) 2005
2006
2004
Doanh thu (triệu đồng) 2005
2006
2004
1. Nghề mộc Dư Ba Phú Hà Minh Đức 2. Nghề mây tre đan Ngô xá Tùng Khê Đỗ Xuyên Minh Hoà Ba Đông 3. Ngành chế biến chè Chè Dốc Đen Chè Khuôn Chè Phú Thịnh Chè Chu Hưng Chè Phú ích Chè Vân Hùng 4. Chế biến nông sản Việt Tiến Đoàn Kết An Thọ Dục Mỹ 5. Nghề làm nón Sai Nga Làng Dền
447 325 2.308 825 3.000 130 700 177 525 105 125 523 129 124 158 232 1.100 145
834 509 325 2.308 850 3.100 136 900 287 201 534 117 143 546 129 192 165 279 1.338 160
1.000 547 344 2.308 865 3.300 145 1.200 290 216 542 125 183 568 129 205 170 305 1.338 160
10.616 7.135 17.993 4.815 12.900 864 7.574,8 3.831 9.896 10.840 2.038 7.948 2.656 8.774 4.300 5.776 2.600 790
7.500 11.890 7.835 22.333 4.978 13.000 993,6 12.089,5 3.667 4.089 22.549 13.152 2.355 8.902 3.991 8.863 4.949 8.032 3.100 869
11.000 13.376 8.690 22.333 5.005 13.800 1.142,6 15.438 3.667 4.498 23.720 13.414 6.060 9.971 4.080 11.183 5.100 9.398 4.800 895
Nguồn 6: Quy hoạch ngành nghề nông thôn Phú Thọ 2006 – 2010 và định hướng 2020
Một số sản phẩm ngành nghề có tốc độ tăng trưởng khá cao như xay xát
lương thực thực phẩm tăng 7,9%, chế biến gỗ nguyên liệu các loại tăng
34,4%, sản xuất hàng mộc gia dụng và mỹ nghệ tăng 26,2%...Mỗi năm trung
bình tạo thêm 2.985 việc làm mới. Thu nhập của lao động ngành nghề đạt
450.000 – 1.500.000đồng/tháng, cao gấp 1,2 – 3,0 lần so với thu nhập của lao
động thuần nông. Đặc biệt, năm ngành hàng trọng điểm trong sản xuất tiểu
thủ công nghiệp đều đạt mức tăng trưởng cao như: ngành chế biến nông sản
thực phẩm tăng 2,1 lần so với năm 2001 (năm 2007 đạt 370 tỷ đồng); sản xuất
vật liệu xây dựng đạt 370 tỷ đồng tăng 2,74 lần; khai thác chế biến khoáng
sản đạt trên 100 tỷ đồng, tăng gấp 6 lần; sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ đạt
giá trị xuất khẩu trên 35 triệu đôla…Trình độ sản xuất có tiến bộ rõ rệt theo
hướng cơ giới hóa, hiện đại hoá. Chất lượng sản phẩm ngày càng được nâng
73
cao, một số sản phẩm có thị phần và tính cạnh tranh trên thị trường trong
nước và xuất khẩu.
Bảng 2. 7: Các sản phẩm ngành nghề chủ yếu năm 2006
Sản phẩm chính
Đơn vị
Số lƣợng
Chế biến chè
Tấn
25.747,8
Bánh bún các loại
Tấn
807,7
Mì, miến
Tấn
828,3
Bột sắn, bột đao
32.643,0
Mành trúc, mành cọ
Tấn M2
50.925,0
Cái
41.918,0
Hàng gỗ trạm, khảm và đồ gia dụng
3.207,5
Hàng đan lát
1000 cái
Nguồn 7: Quy hoạch ngành nghề nông thôn Phú Thọ 2006 -2010 và phương hướng đến 2020
Đã có 1.841 khu của 100% số xã, thị trấn có các loại ngành nghề nông
thôn ở các quy mô khác nhau, xoá dần tình trạng thuần nông. Trong số đó,
nghề sản xuất vật liệu xây dựng có 195 làng (chiếm tỷ trọng lớn nhất); nghề
chế biến nông lâm thuỷ sản có 152 làng; sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ có
28 làng; xử lý chế biến nguyên vật liệu có 13 làng; đào tạo tư vấn nghề có 35
cơ sở. Ngành nghề nông thôn đã thực sự tạo cơ hội để khai thác tốt hơn tài
nguyên sẵn có, nâng cao giá trị các sản phẩm nông lâm thuỷ sản thông qua
chế biến.
2.3.5. Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn
Những năm qua sự nghiệp giáo dục Phú Thọ được quan tâm ở tất cả các
cấp học, ngành học. Mạng lưới giáo dục ngày càng phát triển đa dạng, chất
lượng giáo dục từng bước được nâng lên. Trên địa bàn tỉnh đã hình thành
mạng lưới trường đào tạo với 28 trường và trung tâm gồm: 1 trường đại học,
05 trường cao đẳng, 11 trường trung học chuyên nghiệp, trung cấp, trường
dạy nghề; 10 trung tâm dạy nghề. Cơ sở vật chất trang thiết bị trường học
được tăng cường, phòng học được kiên cố hoá, công tác xã hội hoá giáo dục
có nhiều tiến bộ.
74
Các hoạt động đào tạo nghề được tiến hành tương đối đa dạng, tuy
nhiên, đa số các lao động ở nông thôn khó tiếp cận với các trường đào tạo
nghề này. Nhiều địa phương đã quan tâm, khuyến khích các thành phần kinh
tế, các tổ chức đoàn thể tổ chức dạy nghề cho lao động nông thôn, truyền
nghề cho lao động nông thôn và du nhập nghề mới, nhằm phát triển ngành
nghề phi nông nghiệp và dịch vụ. Đến nay toàn tỉnh đã triển khai trên 60 dự
án với các nội dung nhân cấy, phát triển nghề và xây dựng làng nghề; đã có
hơn 5000 lao động được truyền nghề…
Các mô hình tư vấn sản xuất kinh doanh ngành nghề nông thôn bước đầu
được thiết lập dưới hình thức các tổ nhóm hoặc hợp tác xã. Duy trì hoạt động
162 câu lạc bộ khuyến nông cơ sở và tổ chức 328 lớp tập huấn khoa học kỹ
thuật cho cán bộ khuyến nông cơ sở. Hiện nay gần 100% cán bộ khuyến nông
cấp tỉnh, huyện đạt trình độ đại học trở lên; ở cấp xã, phường, thị trấn có tổ
khuyến nông từ 1 đến 3 khuyến nông viên…Công tác thông tin tuyên truyền
được tăng cường và thường xuyên cải tiến, đã biên soạn và phát hành 56 số
tạp chí nông nghiệp- nông thôn với số lượng gần 88.000 cuốn cùng nhiều tờ
gấp, các tài liệu chuyên ngành. Từ năm 2005 đến nay, tỉnh đã tổ chức được
hơn 10 lớp tập huấn khởi sự doanh nghiệp và quản trị doanh nghiệp, bồi
dưỡng kỹ năng kiến thức xây dựng chiến lược sản xuất kinh doanh cho hơn
400 cán bộ. Nhờ đó, đã hình thành được đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên
môn nghiệp vụ làm cơ sở để tiếp thu, chuyển giao hiệu quả các tiến bộ khoa
học kỹ thuật vào sản xuất.
Trình độ cán bộ quản lý hợp tác xã được nâng lên, bộ máy quản lý ngày
càng gọn nhẹ. Tỉnh đẫ cho phép mở 8 lớp bồi dưỡng ngắn hạn cho trên 600
các bộ chủ chốt các phòng ban nghiệp vụ cấp huyện. Tổ chức tốt công tác
tuyên truyền về luật Hợp tác xã và các chủ trương chính sách của Đảng và
Nhà nước về kinh tế tập thể, qua đó góp phần đổi mới nhận thức trong đội
75
ngũ cán bộ và nhân dân về kinh tế tập thể, về hợp tác xã và tổ hợp tác trong
thời kỳ đổi mới.
2.4. Đánh giá chung về quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn tỉnh Phú Thọ những năm qua
2.4.1. Một số thành tựu và nguyên nhân
* Thành tựu
Cùng với thành tựu hơn 20 năm đổi mới của đất nước, tỉnh Phú Thọ
bước vào chặng đường đầu thực hiện đường lối đổi mới và đã đạt được những
thành tựu quan trọng, tạo tiền đề để chuẩn bị cho giai đoạn sau phát triển tích
cực hơn.
Trước hết, tốc độ phát triển kinh tế của tỉnh trong suốt 10 năm qua luôn
vượt xa tốc độ tăng trưởng trong những năm trước đó, giai đoạn 2001 - 2005
đạt bình quân 9,73%. Tốc độ tăng trưởng này đánh dấu nỗ lực to lớn của tỉnh,
có ý nghĩa chính trị xã hội sâu sắc trên con đường đổi mới đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Hai là, cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn đã có bước chuyển biến
mới theo hướng đẩy mạnh sản xuất các loại nông sản hàng hoá có nhu cầu và
có giá trị kinh tế cao. Mặc dù diện tích lúa giảm để chuyển sang nuôi trồng
thuỷ sản và các loại cây trồng khác có giá trị kinh tế cao hơn, nhưng năng suất
và sản lượng lương thực vẫn tăng. Sự tiến bộ trong sản xuất lúa do tăng sản
xuất lúa có chất lượng cao và áp dụng kỹ thuật thâm canh cao là hướng đi
đúng. Sản xuất và tỷ trọng cây công nghiệp, cây ăn quả tăng lên phát triển
mạnh theo nhu cầu thị trường, hình thành bước đầu một số vùng sản xuất
hàng hoá tập trung. Cơ cấu sản xuất ngành trồng trọt đã giảm được diện tích
trồng lúa năng suất thấp sang sản xuất các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị
sản phẩm hàng hoá cao. Giá trị sản xuất nông, lâm, thuỷ sản tăng trưởng liên
tục và đạt mức cao, giai đoạn 2001 - 2005 đạt 8,1%. Cơ cấu kinh tế nông thôn
76
chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, ngành nghề dịch vụ, giảm
tỷ trọng nông nghiệp.
Ba là, hơn 10 năm qua, do huy động nhiều nguồn lực, tỉnh đã đẩy mạnh
quá trình ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ trong nhiều lĩnh vực trong
đó có nông nghiệp, nông thôn. Số lượng máy móc nông nghiệp được trang bị
ngày càng tăng, nhất là các khâu thuỷ lợi, làm đất, tuốt lúa, xay xát, vận tải
nhiều công việc trong sản xuất được cơ giới hoá, giảm nhẹ cường độ và thời
gian lao động cho nông dân. Do đó, người dân có điều kiện để mở rộng ngành
nghề, phát triển các hoạt động kinh doanh khác ngoài nông nghiệp. Trình độ
trang bị kỹ thuật cho lao động trong các ngành kinh tế ở nông thôn được nâng
cao, việc ứng dụng công nghệ sinh học, hoá học ngày càng rộng rãi. Nhiều
loại giống mới có năng suất, chất lượng được triển khai trên diện rộng, đồng
thời tạo điều kiện luân canh, xen canh, tăng vụ và do đó đạt mức tăng trưởng
nhanh về năng suất, sản lượng về giá trị thu nhập trên một đơn vị diện tích.
Việc ứng dụng công nghệ trong các đơn vị sản xuất kinh doanh trong khu vực
nông thôn, trong các làng nghề cũng được người dân tiếp thu, thực hiện triển
khai và tạo ra được sự đột phá về năng suất lao động.
Bốn là, quan hệ sản xuất trong nông thôn Phú Thọ được củng cố, có sự
chuyển biến theo hướng xây dựng một nền nông nghiệp hàng hoá với nhiều
thành phần kinh tế tham gia, trong đó kinh tế hộ, kinh tế trang trại cùng với
kinh tế hợp tác xã dần từng bước đi vào hoạt động có hiệu quả.
Năm là, nông thôn có bước phát triển khá nhanh, cơ sở hạ tầng kinh tế
xã hội và dịch vụ nông nghiệp, nông thôn tiếp tục được chú trọng đầu tư từ
nhiều nguồn lực khác nhau và bước đầu phát huy tác dụng trong việc khai
thác lợi thế của các vùng nông thôn, phát triển sản xuất hàng hoá.
* Nguyên nhân
- Có nhận thức đúng đắn, vận dụng sáng tạo chủ trương, đường lối công
77
nghiệp hoá, hiện đại hoá nói chung, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn của các cấp, các ngành mà trước hết là Tỉnh uỷ, Hội đồng
nhân dân tỉnh; đồng thời đề cao công tác tuyên truyền vận động nhân dân,
được nhân dân đồng tình ủng hộ.
- Tỉnh đã xây dựng được quy hoạch, kế hoạch, mục tiêu, giải pháp phù
hợp với tình hình thực tế của địa phương, của từng vùng, có chiến lược lâu
dài, đồng thời tổ chức chỉ đạo thực hiện nghiêm túc quy hoạch, bám sát mục
tiêu đề ra.
- Có sự quan tâm, ủng hộ, sự chỉ đạo giúp đỡ của các bộ ngành Trung
ương; sự đầu tư của các doanh nghiệp trong và ngoài nước vào địa bàn trong
suốt quá trình xây dựng và phát triển những năm qua.
- Đã phát huy được lợi thế, tiềm năng của tỉnh, nội lực của các thành
phần kinh tế, của toàn xã hội cho đầu tư phát triển, hướng tới mục tiêu tăng
trưởng và phát triển bền vững.
2.4.2. Những tồn tại và nguyên nhân
* Tồn tại
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, song trước yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thì nông
nghiệp, nông thôn Phú Thọ còn một số những hạn chế khó khăn cơ bản sau:
- Tiềm năng kinh tế nông nghiệp của tỉnh chưa được khai thác đầy đủ và
hiệu quả, tính bền vững còn thấp. Nông nghiệp vẫn chưa thoát khỏi tình trạng
phân tán, manh mún, lạc hậu, không đồng đều giữa các vùng trong tỉnh. Sản
xuất hàng hoá còn đơn lẻ, vùng sản xuất hàng hoá tập trung có chất lượng và
phục vụ cho chế biến và xuất khẩu còn ít. Cơ cấu lao động nông nghiệp và
nhất là kinh tế nông thôn ở nhiều nơi chuyển dịch chậm, chưa rõ nét, thiếu
bền vững, sản xuất chưa gắn với công nghiệp chế biến và thị trường. Tỷ trọng
công nghiệp, xây dựng và dịch vụ trong tổng sản phẩm ở một số địa phương
78
còn thấp, không đều. Vì vậy, mục tiêu giảm lao động nông nghiệp còn khoảng
60% vào năm 2010 vẫn là một thách thức lớn đối với tỉnh.
- Sản xuất nông nghiệp tuy phát triển tương đối toàn diện, song tốc độ
chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp diễn ra còn chậm. Giá trị ngành
trồng trọt trong tổng giá trị nông nghiệp còn chiếm tỷ lệ cao, lúa vẫn đóng vai
trò chủ yếu trong cơ cấu cây trồng hiện nay, cây công nghiệp, cây ăn quả và
cây thực phẩm chưa đạt sự phát triển xứng tầm với vị trí của nó. Tiêu thụ gặp
nhiều khó khăn. Trình độ khoa học công nghệ trong nhiều lĩnh vực nông, lâm,
thuỷ sản còn thấp, nên năng suất, chất lượng nhiều loại nông sản hàng hoá
còn hạn chế. Việc ứng dụng công nghệ cao để xây dựng nền nông nghiệp
sạch, chưa ứng dụng được ở diện rộng do quá trình triển khai còn lúng túng.
- Trong 10 năm, công nghiệp nông thôn Phú Thọ phát triển với tốc độ
khá cao. Quy mô của các đơn vị sản xuất hầu hết là nhỏ và vừa, sản phẩm
hàng hoá nhất là hàng tiêu dùng và xuất khẩu đơn điệu, ít sản phẩm hàng hoá
chất lượng cao, thị trường hạn hẹp, khả năng cạnh tranh thấp. Nhiều cơ sở
công nghiệp chế biến lạc hậu, chủ yếu là sơ chế, giá trị gia tăng thấp, chưa
gắn kết được với vùng nguyên liệu.
- Chuyển dịch cơ cấu phải gắn với tập trung hóa sản xuất, nhưng hiện
nay trong sản xuất nông nghiệp và nông thôn Phú Thọ lại phân tán và manh
mún. Đây là khó khăn đối với nông dân khi tiến hành cơ giới hoá, thuỷ lợi
hoá, sản xuất tập trung quy mô lớn.
Cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu của chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp và nông thôn, nhiều mặt còn yếu kém. Nhiều công trình đầu tư
không đồng bộ, hệ thống thuỷ lợi phần lớn là cũ, công tác quản lý yếu kém
nên xuống cấp. Hệ thống giao thông trong tỉnh chủ yếu là cũ, nhiều tuyến
đường xấu chưa đáp ứng yêu cầu của đời sống và sản xuất hiện tại. Vấn đề
nước sạch mới chỉ tập trung ở các đô thị, còn vùng nông thôn rộng lớn chậm
79
được giải quyết. Hệ thống chợ nông thôn đã được đầu tư, mở mang nhưng
phân bố không đều, sản phẩm nông nghiệp thiếu đa dạng; vệ sinh an toàn thực
phẩm chưa đảm bảo.
- Chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh tuy khá cao, song để có thể đáp
ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn thì chất lượng lao động cần được quan tâm hơn nữa. Hơn thế, một bộ
phận lao động chất lượng cao được đào tạo cơ bản không muốn trở về quê
hương làm việc. Khả năng tiếp cận với giáo dục, nhất là ở bậc đại học, trung
học chuyên nghiệp của thanh niên nông thôn còn rất khó khăn.
Những hạn chế, yếu kém trên đang là những trở lực đối với việc phát
triển kinh tế, cũng như quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn Phú Thọ những năm qua.
* Nguyên nhân
Có thể thấy rằng nguyên nhân trước hết của những yếu kém trên đó là
Phú Thọ là một tỉnh miền núi nghèo mới tái lập, kinh tế của tỉnh có điểm xuất
phát thấp, hạ tầng kinh tế xã hội nông thôn yếu kém, thiên tai dịch bệnh liên
tục diễn ra song chủ yếu là do một số nguyên nhân chính sau:
- Sự phát triển nông nghiệp, nông thôn tỉnh còn thiếu một quy hoạch
tổng thể cũng như quy hoạch cụ thể có tính chiến lược trong phát triển chung
của tỉnh và của vùng. Chưa gắn kết đồng bộ giữa quy hoạch phát triển công
nghiệp địa phương với phát triển nông nghiệp toàn diện.
- Các chính sách của tỉnh đã ban hành trong những năm qua đã có tác
dụng thúc đẩy kinh tế nông nghiệp, nông thôn phát triển, song chưa đủ mạnh
để khai thác hết tiềm năng của tỉnh. Một số chính sách đã ban hành chưa được
thực hiện nghiêm chỉnh, một số chính sách chưa sát với thực tế, tính khả thi
thấp. Chẳng hạn chính sách thu hút nhân tài của tỉnh chưa đủ sức hấp dẫn để
khuyến khích những người tài về quê hương công tác. Tỷ lệ cán bộ khoa học
80
kỹ thuật có trình độ, số công nhân lành nghề còn thấp, hơn nữa đa số cán bộ
nói trên lại tập trung chủ yếu ở các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước, còn
trong nông nghiệp, nông thôn tỷ lệ này là rất thấp.
- Tình trạng thiếu vốn còn phổ biến, cơ chế huy động vốn cho nông
nghiệp, nông thôn còn nhiều bất cập.
- Việc tuyên truyền phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước về nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế, thiếu thường xuyên, không
đầy đủ. Hơn nữa điều kiện cho nông dân tiếp cận với những thông tin về chủ
trương phát triển nông nghiệp, nông thôn, về quy hoạch, khoa học kỹ thuật
nhiều bất cập.
2.4.3. Một số bài học kinh nghiệm rút ra
Thực trạng phát triển kinh tế – xã hội trong quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Phú Thọ những năm qua đã
đem lại những thành tựu quan trọng có ý nghĩa sâu sắc. Thực tiễn chứng tỏ
chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
là hoàn toàn phù hợp với đặc điểm của địa phương. Từ quá trình đó cho phép
rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
- Một là, cần nhận thức đầy đủ và vận dụng sáng tạo chủ trương, chính
sách của Đảng vào thực tiễn địa phương.
Chủ trương đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn phải được phổ biến tuyên truyền và vận dụng cụ thể vào điều kiện, hoàn
cảnh của địa phương bằng việc đề ra các nghị quyết, chương trình, dự án và
được tổ chức chỉ đạo điều hành thực thi. Nghị quyết Đại hội VIII, IX, X của
Đảng khẳng định ngày càng rõ vai trò, vị trí của công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn, mở ra hướng đi cho phát triển nông nghiệp theo
hướng sản xuất hàng hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
Thực tiễn những năm qua khẳng định các nghị quyết về nông nghiệp, nông
81
thôn đã đi vào cuộc sống, được đông đảo người dân đồng tình ủng hộ.
- Hai là, phát huy lợi thế so sánh, phát triển toàn diện nông nghiệp, nông
thôn.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải triệt để phát huy tối đa lợi thế
của tỉnh, nhất là về vị trí địa lý, môi trường đầu tư, nguồn lực, đất đai để phát
triển sản xuất nông nghiệp nhằm tăng sản lượng, năng suất cây trồng, vật
nuôi, chuyển dịch cơ cấu lao động, thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Đặc biệt khai thác những lợi thế so sánh
trong nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, nhằm tạo ra những ưu thế cạnh
tranh vừa phát huy, tận dụng khả năng nguồn nhân lực vừa có những sản
phẩm hàng hoá riêng có, đặc trưng đáp ứng yêu cầu thị trường trong và ngoài
nước. Trong thực hiện rất coi trọng giá trị và hiệu quả kinh tế, đồng thời tranh
thủ sự ủng hộ của các bộ, ngành trung ương, các doanh nghiệp trong và ngoài
nước.
- Ba là, coi trọng công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch
Quá trình phát triển của mỗi địa phương hay trên phạm vi quốc gia đều
phải dựa trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch phát triển và thường xuyên bổ sung,
điều chỉnh quy hoạch căn cứ vào tình hình cụ thể trong từng thời điểm phát
triển. Tỉnh cần coi trọng hơn việc nâng cao chất lượng công tác xây dựng quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội và lộ trình thực hiện công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn của các cấp vừa qua, hoặc bổ sung, điều
chỉnh quy hoạch để triển khai thực hiện trong giai đoạn tới cho phù hợp với
tình hình mới khi mà Việt Nam là thành viên chính thức của tổ chức thương
mại thế giới. Trong đó lưu ý việc quy hoạch, xây dựng các khu công nghiệp
tập trung, khu công nghiệp vừa và nhỏ, cụm công nghiệp làng nghề cần gắn
liền với quy hoạch phát triển giao thông vận tải, quy hoạch các khu đô thị,
khu dân cư dịch vụ; mặt khác quy hoạch các vùng sản xuất hàng hoá tập trung
82
đáp ứng thị trường trong nước và xuất khẩu nhằm đảm bảo phát triển bền
vững theo hướng hiện đại. Đồng thời cần thu hút, lựa chọn các dự án đầu tư
có công nghệ tiên tiến, hiện đại, giá trị sản xuất cao, thu nhập ngân sách lớn,
giải quyết được nhiều lao động và đảm bảo môi trường.
- Bốn là, cần coi trọng khôi phục và phát triển công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp nông thôn, các làng nghề truyền thống.
Nhân rộng, phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp trong nông thôn
là một trong hướng đi phát triển nhanh kinh tế nông thôn, tạo khâu đột phá
nhằm tăng trưởng kinh tế, tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập cho cư dân nông
thôn. Trong những năm mới, tỉnh cần tiếp tục có nhiều chủ trương, cơ chế,
chính sách để khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống, tạo môi trường
thuận lợi cho các địa phương, cơ sở sản xuất, hộ làm ngành nghề có điều kiện
về môi trường sản xuất kinh doanh, mặt bằng sản xuất, khuyến khích các
nghệ nhân trong các làng nghề, mở các lớp đào tạo tay nghề cho người lao
động, bồi dưỡng các chủ doanh nghiệp về công tác tổ chức quản lý kinh
doanh, tiếp thị, hạch toán kế toán.
- Năm là, coi trọng việc bồi dưỡng, phát triển nguồn lực con người.
Phát triển và sử dụng nguồn lực con người phục vụ có hiệu quả quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một trong những
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Ngày nay, chúng ta bước vào thời đại văn
minh trí tuệ, thời đại cách mạng khoa học công nghệ, không thể nói đến công
nghiệp hoá mà lại thiếu nhân tố nguồn lực con người tương xứng, thiếu những
nhà khoa học, chuyên gia kỹ thuật, quản lý giỏi, lực lượng lao động có tay
nghề chuyên môn kỹ thuật. Như vậy, nói tới nguồn lực con người ở đây
không chỉ là về vấn đề số lượng mà tương ứng với nó là vấn đề chất lượng
dựa vào khả năng chuyên môn của lực lượng lao động. Kinh nghiệm sử dụng
nguồn nhân lực của tỉnh những năm qua cho thấy: các nguồn lực tự nhiên tuy
83
đóng vai trò quan trọng và không thể thiếu, nhưng rõ ràng là chúng không đủ
đảm bảo cho thời kỳ cất cánh của nền kinh tế. Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải bồi
dưỡng, tập huấn, đào tạo nguồn nhân lực để họ có kiến thức, có khả năng nắm
vững và vận dụng khoa học kỹ thuật, làm chủ được công nghệ tiên tiến và
trình độ quản lý kinh doanh đủ sức nắm bắt nhu cầu thị trường, tạo ra sản
phẩm có sức cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường. Cần coi trọng giáo dục đào
tạo, tập huấn, hướng dẫn nguồn nhân lực bằng các hình thức và nội dung phù
hợp từ giáo dục phổ thông đến giáo dục chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học,
đào tạo nghề, đa dạng hoá các hình thức đào tạo. Chú ý đào tạo nghề cho
thanh niên nông thôn. Tăng cường công tác xã hội hoá giáo dục, mở rộng quy
mô gắn với nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo với nhu cầu thị trường lao
động. Chú trọng đào tạo nghề, tạo việc làm cho nông dân và cho lao động
nông thôn, nhất là các vùng chuyển đổi ruộng đất sang để xây dựng kết cấu hạ
tầng và phát triển cơ sở phi nông nghiệp, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp, nông thôn.
- Sáu là, huy động mọi nguồn vốn đầu tư cho phát triển nông thôn.
Kinh nghiệm cho thấy muốn thành công trong công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn thì phải huy động và tận dụng mọi nguồn lực kể
cả nguồn lực tự nhiên, nguồn lực vật chất, vốn đầu tư trong và ngoài tỉnh kể
cả vốn nước ngoài, nguồn lực con người. Đa dạng hoá hoạt động đối ngoại
thu hút đầu tư là một đòi hỏi cấp thiết trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá để tận dụng và phát huy nội lực và nguồn lực bên ngoài, trong đó
nguồn lực trong tỉnh là chủ yếu, nguồn lực bên ngoài là quan trọng. Vấn đề
đặt ra cho Phú Thọ hiện nay là làm thế nào để vừa thu hút nguồn lực từ bên
ngoài tỉnh phục vụ cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
đồng thời lại vừa khai thác triệt để, phát huy tốt mọi nguồn lực trong tỉnh đầu
tư cho phát triển. Thực tế cho thấy, việc huy động vốn trong tỉnh chủ yếu dựa
84
vào sức mạnh của toàn dân, các thành phần kinh tế, mà trong đó tiết kiệm và
tái đầu tư trong dân cư là nguồn vốn vô cùng quan trọng; cần khuyến khích
đầu tư trong tỉnh, tiết kiệm và đầu tư trong nhân dân, tăng tích luỹ của doanh
nghiệp để tái đầu tư; đẩy mạnh cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước; mở
rộng và phát triển thị trường vốn, thực hiện triệt để chủ trương tiết kiệm,
chống lãng phí, chống tham nhũng. Đồng thời, để thu hút vốn đầu tư nước
ngoài, tỉnh cần có quy hoạch tổng thể các vùng, các ngành để có kế hoạch kêu
gọi vốn đầu tư. Cần có giải pháp mạnh mẽ hơn, hấp dẫn hơn để thu hút các
nhà đầu tư trong và ngoài nước vào địa bàn tỉnh. Đồng thời hoàn thiện môi
trường đầu tư: cải cách hành chính, giảm thủ tục hành chính trong quá trình
thu hút đầu tư, thực hiện một cửa, một dấu, các ưu đãi về thuế, tín dụng, cơ sở
hạ tầng, chính sách đất đai phù hợp, chính sách thị trường và tiêu thụ sản
phẩm. Điều rất quan trọng là phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, bố trí, sắp
xếp cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, ưu tiên nguồn vốn đầu tư vào những ngành,
những lĩnh vực công nghệ cao, chế biến nông sản, thực phẩm và sử dụng
nhiều lao động.
- Bảy là, coi trọng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cho phát triển nông
nghiệp, nông thôn.
Hiện nay, nền kinh tế của cả nước nói chung và của mỗi địa phương nói
riêng đang ở trình độ phát triển thấp kém, vốn đầu tư cho phát triển từ ngân
sách nhà nước rất hạn hẹp. Trong điều kiện đó, cần giải quyết khó khăn bằng
cách khơi dậy phong trào quần chúng rộng rãi để huy động sức người, sức của
cho phát triển, nhất là trong xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, quan tâm chỉ
đạo phong trào làm đường giao thông nông thôn, theo phương châm “nhà
nước và nhân dân cùng làm” trong đó dân là chính, nhà nước hỗ trợ. Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là sự nghiệp của toàn dân
mà trước hết là của nông dân, vì vậy, việc huy động sức dân là việc làm đúng
85
đắn, có tính xã hội cao, tránh tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào nguồn tài chính
của nhà nước...
86
CHƢƠNG 3
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN TỈNH PHÚ THỌ
3.1. Những quan điểm và mục tiêu cơ bản thúc đẩy quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Phú Thọ
3.1.1. Quan điểm thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn tỉnh Phú Thọ
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Phú
Thọ trong thời gian tới cần quán triệt một số quan điểm sau:
Thứ nhất, quán triệt và thực hiện nghiêm túc, thống nhất chủ trương
chung của Đảng và Nhà nước về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn
Cả trong các văn kiện Đảng bộ và trong các kế hoạch phát triển kinh tế –
xã hội của các cấp chính quyền của tỉnh cần quán triệt và thực hiện Nghị
quyết Trung ương 5 khoá IX của Đảng về vấn đề phát triển nông nghiệp,
nông dân và nông thôn, cũng như tinh thần Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành
Trung ương khoá X (5/2008): "Nông nghiệp, nông dân, nông thôn là cơ sở và
lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định
chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân
tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước" [12]. Cụ thể, cần quán triệt
các điểm nguyên tắc sau đây:
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một trong
những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Phát triển công nghiệp, dịch vụ phải gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ đắc lực và
phục vụ có hiệu quả cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn.
87
- Phát triển nông nghiệp, nông thôn trước hết phải ưu tiên phát triển lực
lượng sản xuất, chú trọng phát huy nguồn lực con người, ứng dụng rộng rãi
thành tựu khoa học, công nghệ; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng phát huy lợi thế của từng vùng gắn với thị trường để sản xuất hàng hoá
quy mô lớn với chất lượng và hiệu quả cao; bảo vệ môi trường, phòng chống,
hạn chế và giảm nhẹ thiên tai, phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững.
- Dựa vào nội lực là chính, đồng thời tranh thủ tối đa nguồn lực từ bên
ngoài, phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền
tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; phát triển mạnh mẽ kinh tế hộ sản
xuất hàng hoá, các loại hình doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa ở
nông thôn.
- Kết hợp chặt chẽ các vấn đề kinh tế và xã hội trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nhằm giải quyết việc làm,
xoá đói giảm nghèo, ổn định xã hội và phát triển kinh tế, nâng cao đời sống
vật chất và văn hoá của người dân nông thôn, nhất là đồng bào các dân tộc
thiểu số, vùng sâu, vùng xa; giữ gìn, phát huy truyền thống văn hóa.
- Kết hợp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn với xây
dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân.
Đầu tư phát triển kinh tế xã hội, ổn định dân cư các vùng xung yếu, vùng biên
giới, cửa khẩu, hải đảo phù hợp với chiến lược quốc phòng và an ninh quốc
gia.[9]
- Phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của nông dân phải dựa trên cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng lĩnh vực, để giải phóng và
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, trước hết là lao động, đất đai, rừng
và biển; khai thác tốt các điều kiện thuận lợi trong hội nhập kinh tế quốc tế
88
cho phát triển lực lượng sản trong nông nghiệp, nông thôn; phát huy cao nội
lực; đồng thời tăng mạnh đầu tư của Nhà nước và xã hội, ứng dụng nhanh các
thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến cho nông nghiệp, nông thôn, phát
triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí nông dân
- Các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết
đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong
mối quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn, nông dân là
chủ thể của quá trình phát triển, xây dựng nông thôn mới gắn với xây dựng
các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là căn bản;
phát triển toàn diện, hiện đại hoá nông nghiệp là then chốt.
- Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ của
cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; trước hết, phải khơi dậy tinh thần yêu
nước, tự chủ, tự lực tự cường vươn lên của nông dân. Xây dựng xã hội nông
thôn ổn định, hoà thuận, dân chủ, có đời sống văn hoá phong phú, đậm đà bản
sắc dân tộc, tạo động lực cho phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn
mới, nâng cao đời sống nông dân.[12]
Thứ hai, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn ở Phú Thọ cần phát huy cao nhất lợi thế so sánh của địa phương và phù
hợp các nguyên tắc thị trường
Trên cơ sở quan điểm của Đảng và Nhà nước về đẩy nhanh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, đồng thời xuất phát từ những điều
kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của địa phương, quá trình đẩy nhanh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Phú Thọ trong giai đoạn tới
cần tập trung vào các khía cạnh sau:
- Phát huy lợi thế, hình thành các vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh. Mở
89
rộng, hình thành vùng nông nghiệp chuyên canh sản xuất hàng hoá phục vụ
nhu cầu trong tỉnh và vùng lân cận. Duy trì tốc độ phát triển kinh tế với nhịp
độ cao, chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế gắn với phân công lao động nông
thôn. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn phải đảm bảo phát
triển toàn diện và tăng trưởng bền vững, cải thiện đời sống vật chất và tinh
thần của dân cư, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
- Khuyến khích phát triển tất cả các thành phần kinh tế để tạo sức mạnh
tổng hợp. Đa dạng hoá loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh ở nông thôn
phát triển môi trường vừa hợp tác vừa cạnh tranh lành mạnh với nhau. Chú
trọng đến việc mở rộng phạm vi áp dụng các mô hình tổ chức sản xuất kinh
doanh đa lĩnh vực trên cơ sở quan hệ liên kết phù hợp các nguyên tắc kinh tế
thị trường.
- Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Gắn kết giữa cơ cấu
kinh tế nông nghiệp, nông thôn với công nghiệp hoá, đô thị hoá. Chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn phải phù hợp với xu hướng và tốc độ
công nghiệp hoá, đô thị hóa.
- Thay đổi cơ cấu lao động trong nông nghiệp, nông thôn theo hướng
chuyên môn hoá, chuyển dần lao động nông nghiệp sang sản xuất công
nghiệp, ngành nghề thủ công nghiệp và dịch vụ. Đẩy nhanh phát triển thị
trường lao động thích ứng với yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội
nhập kinh tế quốc tế.
- Phát triển nông nghiệp, nông thôn cả về quy mô và phương thức sản
xuất kinh doanh; xác lập mối liên kết lâu dài giữa sản xuất và thị trường.
Nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm nội địa
và xuất khẩu.
3.1.2. Những mục tiêu cơ bản
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (4/2006) đã đề ra chủ
90
trương: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn,
giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Phát triển
toàn diện nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn
theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao gắn với công nghiệp chế biến
và thị trường; thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, đưa nhanh tiến
bộ khoa học - kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất; nâng cao năng
suất, chất lượng và sức cạnh tranh, phù hợp với đặc điểm của từng vùng, từng
địa phương xây dựng các quy hoạch phát triển nông thôn và thực hiện chương
trình xây dựng nông thôn mới; hình thành các khu dân cư đô thị hoá với kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ; giảm dần tỷ trọng sản phẩm lao động
nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động làm công nghiệp và dịch vụ. Tạo điều
kiện để lao động nông thôn có việc làm trong và ngoài khu vực nông thôn, kể
cả ở nước ngoài”.
* Quán triệt chủ trương của Đảng, thời gian tới tỉnh Phú Thọ cần xác
định phương hướng quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn là:
- Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng sản xuất hàng hoá bền
vững, hiệu quả, đảm bảo an toàn lương thực, chú trọng đầu tư, phát triển các
chương trình trọng điểm, tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông
thôn.
- Nâng cao trình độ kỹ thuật và chất lượng sản xuất nông nghiệp và phát
triển ngành nghề nông thôn; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội và xây
dựng các điểm thị trấn, thị tứ nâng cao chất lượng cuộc sống ở nông thôn.
- Đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo
hướng tập trung sản xuất hàng hoá, ưu tiên cho sản xuất hàng hoá xuất khẩu,
nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm mũi nhọn (chè, nguyên liệu giấy,
cây ăn quả, cây lấy gỗ, sản phẩm chăn nuôi...), để tạo khâu đột phá phát triển
91
nhanh kinh tế nông nghiệp, nông thôn trong quá trình hội nhập.
- Nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp theo hướng đa canh, thâm
canh, sản xuất hàng hoá có giá trị thu nhập cao trên một đơn vị diện tích và an
toàn môi trường sinh thái. Tập trung đầu tư để tăng nhanh sản lượng lương
thực ở vùng sản xuất trọng điểm.
- Hình thành cơ chế kết hợp chặt chẽ giữa sản xuất, chế biến và tiêu thụ
sản phẩm. Phát triển ngành nghề ở nông thôn tạo thêm việc làm, tăng thu
nhập cho lao động nông thôn, tạo ra nhiều sản phẩm phục vụ tiêu dùng và
xuất khẩu.
- Có chính sách đồng bộ trong nghiên cứu khoa học, chuyển giao công
nghệ, xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, tạo đà cho nông nghiệp phát triển
nhanh, bền vững.
- Khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển như kinh tế hộ gia đình,
kinh tế trang trại làm động lực thúc đẩy kinh tế nông nghiệp, nông thôn phát
triển với tốc độ nhanh.
* Để góp phần thực hiện mục tiêu: “Xây dựng một nền nông nghiệp sản
xuất hàng hoá lớn, hiệu quả bền vững, có năng suất, chất lượng và sức cạnh
tranh cao trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến đáp
ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu; xây dựng nông thôn ngày càng giàu
đẹp, dân chủ, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp,
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển ngày càng hiện đại” [9]. Và hoàn
thành nhiệm vụ đưa Phú Thọ cơ bản ra khỏi tỉnh nghèo vào năm 2010. Trong
thời gian tới, Phú Thọ cần thực hiện tốt các mục tiêu cơ bản sau:
- Phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá. Nâng cao chất
lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh sản phẩm hàng hoá nông nghiệp trong
điều kiện Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) và hội nhập
kinh tế quốc tế.
92
- Đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, chuyển
đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Phát
triển ngành nghề nông thôn, hình thành cơ cấu kinh tế nông thôn hợp lý, tạo
ra nhiều sản phẩm phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu.
- Ưu tiên ứng dụng công nghệ cao (nhất là công nghệ sinh học) vào sản
xuất. Phát triển mạnh mẽ công nghiệp, ngành nghề thủ công nghiệp và dịch
vụ ở nông thôn (nhất là công nghiệp chế biến) để vừa tạo ra giá trị gia tăng
cao cho nông nghiệp, vừa tạo việc làm và thu nhập cho người dân nông thôn.
- Tăng đầu tư, hỗ trợ cho nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Nâng cấp
và xây dựng mới hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, mở rộng thị trường
tiêu thụ sản phẩm, để phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu cho sản xuất và đời
sống của các địa phương trong tỉnh.
* Một số chỉ tiêu chủ yếu
+ Trong chiến lược phát triển kinh tế, Phú Thọ phấn đấu tạo sự chuyển
biến mạnh trong cơ cấu kinh tế của tỉnh, đến năm 2010 cơ cấu kinh tế của
tỉnh: công nghiệp - xây dựng 45 - 46%, dịch vụ 36 - 37% và nông nghiệp là
17 - 18%; đến năm 2020, dự tính công nghiệp 50 - 51%; dịch vụ 39 - 40%,
nông nghiệp là 10 - 11%. Từng bước nâng dần tỷ trọng khu vực phi nông
nghiệp của tỉnh lên hơn 81% vào năm 2010 và trên 90% vào năm 2020. Tỷ
trọng kinh tế nông lâm thuỷ sản trong GDP toàn tỉnh đạt 18 - 19% năm 2010
và 10 - 12% vào năm 2020 trong tổng GDP của tỉnh.
+ Cơ cấu giá trị sản xuất ngành nông nghiệp: tỷ trọng chăn nuôi 38 -
40% (năm 2010) và đạt trên 50% năm 2020. Ngành trồng trọt 59 - 60% năm
2010 và khoảng 45 - 46% năm 2020, dịch vụ khoảng 3,4% năm 2010 và trên
3,5% năm 2020. Trong ngành trồng trọt: giảm cơ cấu cây lương thực, tăng cơ
cấu cây trồng hàng hoá.
+ Cơ cấu lao động: nông, lâm nghiệp 61 - 62%; công nghiệp - xây dựng
93
23 - 24%; dịch vụ 15 - 16%. Chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội theo hướng
giảm tỷ trọng lao động trong khu vực nông nghiệp. Đến năm 2010 tỷ lệ lao
động trong khu vực nông nghiệp đạt khoảng 60,6%, tỷ lệ lao động phi nông
nghiệp đạt khoảng 39,4%, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt khoảng từ 38 -
40% và tương ứng năm 2020 là: 40,8%; 59,2%; 50 - 60%.
Bảng 3. 1: Lao động tỉnh Phú Thọ đến năm 2010 – 2020
Chỉ tiêu
Đơn vị
2005
2010
2020
Stt
Tổng số lao động có khả năng lao động cần bố
1.000 người
718,0
757,0
810,0
trí việc làm
I
Số lao động bố trí vào các ngành trong tỉnh
670,0
718,0
797,0
1.000
ngƣời
1
Nông, lâm, thuỷ sản
1.000 người
469,0
435,0
325,0
Tỷ trọng
%
70,0
60,6
40,8
2
Công nghiệp – xây dựng
1.000 người
110,0
167,0
289,0
Tỷ trọng
%
16,5
23,2
36,2
3
Dịch vụ
1.000 người
91,0
116,0
183,0
Tỷ trọng
%
13,5
16,2
23,0
%
3,0
3,0
3,0
II
Xuất khẩu lao động
1.000
45,0
36,0
10,0
III
Số lao động chƣa bố trí đƣợc việc làm
ngƣời
IV Tỷ lệ qua đào tạo nghề nghiệp
%
29,0
38 – 40
50 – 60
Nguồn 8: Quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội tỉnh Phú Thọ đến năm 2010 – 2020.
+ Phấn đấu sản lượng lương thực bình quân đầu người đạt
320 - 330kg/người/năm. Sản lượng lương thực cây có hạt toàn tỉnh vào năm
2010 đạt 45 - 46 vạn tấn, trong đó sản lượng lúa đạt 371 - 372 ngàn tấn, sản
lượng ngô đạt 85 - 87 ngàn tấn, năm 2020 đạt khoảng 47 - 48 vạn tấn; bảo
đảm an toàn lương thực trên địa bàn tỉnh, nhất là ở các địa phương vùng núi,
vùng sâu, vùng xa.
+ Hình thành những đô thị nhỏ, cụm dân cư, cụm làng nghề theo hướng
đô thị hoá nông thôn. Thực hiện tốt chương trình giảm nghèo, cải thiện đời
sống, giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 10%.
94
+ Phát triển kinh tế nhiều thành phần với các loại hình tổ chức kinh
doanh đa dạng, thích ứng với từng ngành nghề, từng vùng nông thôn trong
tỉnh. Phát triển kinh tế trang trại, doanh nghiệp nông thôn và ngày càng trở
thành loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh chiếm ưu thế ở nông thôn.
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Phú Thọ
3.2.1. Nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước trong quá
trình phát triển
Trong những năm qua công tác quản lý nhà nước trong phát triển kinh tế
tỉnh Phú Thọ đã có nhiều cố gắng, song nhìn chung chất lượng còn thấp,
nhiều mặt còn hạn chế. Việc triển khai thực hiện các chính sách còn nhiều
vướng mắc, chưa thực sự nhất quán trong cách hiểu, các làm giữa các cấp, các
ngành; việc phối hợp thực hiện các quy hoạch, kế hoạch, các chương trình, dự
án về phát triển kinh tế, về thu hút vốn đầu tư, khuyến khích và tạo điều kiện
cho các thành phần kinh tế phát triển chưa tốt. Công tác quy hoạch chưa đánh
giá đầy đủ lợi thế so sánh, các phương án phát triển đưa ra còn cứng nhắc,
thiếu tính năng động, sáng tạo và tính đột phá trong phát triển. Các giải pháp
thực hiện quy hoạch còn chung chung, thiếu sự vận dụng cụ thể cơ chế, chính
sách của nhà nước. Một số chương trình, dự án chưa thống nhất giữa mục tiêu
với giải pháp thực hiện, nhất là các giải pháp về huy động nguồn lực. Năng
lực điều hành, khả năng tổ chức thực hiện của các cấp, các ngành còn hạn
chế. Tình trạng quan liêu, trì trệ, thiếu năng động, thiếu kiểm tra giám sát và
buông lỏng kỷ luật ở một số cán bộ công chức, cơ quan quản lý nhà nước
chưa được khắc phục và xử lý kịp thời. Để tiếp tục chỉ đạo, điều hành phát
triển kinh tế, xã hội của tỉnh phù hợp với sự phát triển của cả nước và của
vùng, đáp ứng tầm nhìn chiến lược phát triển đến năm 2020, trong những năm
tới Phú Thọ cần:
95
- Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cải cách hành chính, xoá bỏ những thủ tục
phiền hà đang là những trở lực đối với công cuộc đổi mới. Tăng cường tính
kỷ luật, đảm bảo hiệu lực và tính tập trung thống nhất trong quản lý nhà nước,
tạo điều kiện phát huy tính chủ động sáng tạo của các ngành, các địa phương
và cơ sở. Rà soát lại và sửa đổi những chính sách theo hướng tạo ra một hành
lang pháp lý an toàn, khuyến khích mọi chủ thể tham gia vào quá trình sản
xuất kinh doanh; tạo sự đồng thuận, thống nhất cao từ nhận thức đến hành
động và tổ chức thực hiện.
- Xây dựng các kế hoạch, chương trình, dự án sát thực tiễn. Nhanh chóng
cụ thể hoá các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, của tỉnh thành
các chương trình, kế hoạch cụ thể.
- Rà soát, điều chỉnh các quy hoạch và chỉ đạo các chương trình nông
nghiệp trọng điểm. Bổ sung kịp thời các chính sách; lồng ghép tốt các chương
trình mục tiêu, các nguồn lực để kinh tế nông nghiệp, nông thôn phát triển
ngày càng hiệu quả. Quy hoạch phát triển công nghiệp nông thôn của tỉnh
theo hướng thu hút mạnh các nguồn lực đầu tư vào các ngành có lợi thế, các
sản phẩm có thị trường tiêu thụ, có khả năng tạo nguồn thu lớn cho ngân sách.
Tập trung phát triển các ngành sản xuất truyền thống có tiềm năng như chế
biến giấy và nông, lâm sản, chế biến thực phẩm. Đẩy mạnh phát triển tiểu thủ
công nghiệp, nhất là các ngành sử dụng nguyên liệu tại chỗ, sử dụng sản
phẩm của các ngành kinh tế trên địa bàn, bảo quản chế biến nông sản thực
phẩm, từng bước phát triển các làng nghề truyền thống.
- Thực tế cho thấy, quá trình đô thị hoá nông thôn không ít địa phương
còn mang nặng tính tự phát, đã để lại những hậu quả không nhỏ cả về tài lực,
về không gian và môi trường nông thôn. Vì vậy, cần xây dựng và hoàn chỉnh
quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn. Thực hiện chương trình nông
thôn mới nhằm xây dựng các làng xã có cuộc sống ấm no, văn minh, sạch đẹp
96
gắn với việc hình thành các khu dân cư đô thị, đảm bảo yêu cầu phát triển bền
vững, xây dựng nếp sống văn minh ở nông thôn, phù hợp với điều kiện tự
nhiên, kinh tế, văn hoá của từng vùng.
- Điều chỉnh quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội bảo
đảm tính đồng bộ và từng bước hiện đại hoá. Chú trọng phát triển giao thông
nông thôn, giao thông nội thị, cảng sông. Hiện đại hoá mạng lưới truyền tải
điện, mạng viễn thông, công nghệ thông tin. Mở rộng hệ thống cấp thoát nước
tới các vùng nông thôn. Tiếp tục điều chỉnh quy hoạch phát triển đồng bộ kết
cấu hạ tầng, giáo dục, y tế, trung tâm hoạt động văn hóa.
3.2.2. Phát triển các thành phần kinh tế, đa dạng hoá nguồn vốn trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
Phát triển kinh tế nhiều thành phần là một chủ trương, chiến lược lâu dài
của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Qua hơn
20 năm đổi mới, vấn đề phát triển kinh tế nhiều thành phần luôn được tỉnh
Phú Thọ quan tâm chỉ đạo thực hiện, tạo mọi điều kiện thuận lợi khuyến
khích phát triển. Trong thời gian tới để góp phần giải phóng sức sản xuất,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, thúc đẩy quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, Phú Thọ cần có những
chính sách phù hợp đối với từng thành phần kinh tế.
- Đối với khu vực kinh tế tập thể cần củng cố và phát triển các hợp tác xã
dịch vụ nông nghiệp, hợp tác xã đa chức năng, hợp tác xã kinh doanh tổng
hợp, hợp tác xã chuyên ngành, từ đó tạo mối quan hệ gắn bó giữa hợp tác xã
nông nghiệp với hộ nông dân và các thành phần kinh tế khác.
Đào tạo và đào tạo lại lực lượng cán bộ hợp tác xã nông nghiệp, thương
mại, dịch vụ theo chương trình phù hợp với yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn.
Cung cấp đầy đủ và kịp thời thông tin thị trường trong nước và quốc tế,
97
quy hoạch vùng, sản phẩm của từng ngành và địa phương để hợp tác xã chủ
động xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp.
Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các hợp tác xã nông nghiệp,
thương mại, dịch vụ phát triển các hoạt động dịch vụ đầu vào cũng như đầu ra
phù hợp với quy hoạch của tỉnh. Cần tạo điều kiện thuận lợi để các hợp tác xã
tiếp cận với các nguồn vốn nhằm mở rộng quy mô và phương thức hoạt động.
Hình thành và phát triển chuỗi hợp tác xã để tạo nên mối liên kết bền vững.
- Với kinh tế hộ nông dân. Đảm bảo quyền tự chủ của kinh tế hộ, nhưng
phương thức tổ chức sản xuất cần được đổi mới phù hợp với yêu cầu sản xuất
hàng hoá quy mô lớn, khắc phục tình trạng phân tán, nhỏ lẻ, manh mún, tự
cung, tự cấp. Trước hết tiếp tục thực hiện tốt chủ trương “dồn điền đổi thửa”
với sự chỉ đạo thống nhất giữa các cấp, các ngành và địa phương.
Hỗ trợ nông dân giải quyết khó khăn về vốn, kỹ thuật và kiến thức hoạt
động kinh tế. Khuyến khích các hộ liên kết với nhau và liên kết với các chủ
thể kinh tế trong và ngoài nước khác dưới những hình thức thích hợp để hỗ
trợ nhau trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
- Đối với kinh tế trang trại, cần xây dựng cơ chế, chính sách tiếp tục
khuyến khích đẩy mạnh kinh tế trang trại phát triển. Tạo điều kiện tích tụ đất
đai, ứng dụng khoa học kỹ thuật, nâng cao năng lực sản xuất để tạo ra sản
phẩm hàng hoá có chất lượng cao.
Có chính sách ưu đãi, đào tạo các chủ trang trại để có thêm kiến thức,
trình độ quản lý, tiếp thu các tiến bộ khoa học kỹ thuật và ứng dụng vào sản
xuất. Có chính sách hỗ trợ vốn, cho các trang trại được vay vốn trung và dài
hạn để nâng cao trang thiết bị sản xuất kinh doanh.
- Đối với kinh tế nhà nước. Trên cơ sở đổi mới, nâng cao sức cạnh tranh
và hiệu quả hoạt động để thực hiện tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế và
góp phần quyết định đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cần tiếp tục sắp
98
xếp và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước sau cổ
phần hóa.
Chuyển các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh sang thực sự
kinh doanh theo cơ chế thị trường, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cạnh tranh và
hợp tác với các thành phần kinh tế khác.
- Với những đóng góp quan trọng của mình vào thành quả phát triển đất
nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã trở thành một bộ phận hữu cơ
không thể thiếu của nền kinh tế nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
là cuộc cạnh tranh quyết liệt, nơi nào có môi trường đầu tư hấp dẫn, cùng với
sự ổn định tình hình chính trị, xã hội là nơi đó có lợi thế trong việc thu hút
đầu tư nước ngoài.
Vì vậy, vấn đề đặt ra cho Phú Thọ là phải có chiến lược, cơ chế và chính
sách rõ ràng, nhất quán để có thể khai thác, phát huy tối đa những lợi thế này
cho quá trình phát triển rút ngắn hơn. Thực hiện đa dạng hoá các hình thức
đầu tư, khuyến khích hơn nữa và tạo mọi điều kiện để thu hút đầu tư nước
ngoài vào nông nghiệp, nông thôn.
Tạo môi trường sản xuất kinh doanh thông thoáng, thống nhất các quy
định về ưu đãi đầu tư, tạo môi trường thuận lợi cho hình thức hợp tác liên
doanh giữa các doanh nghiệp trong tỉnh và doanh nghiệp nước ngoài, thông
qua đó để doanh nghiệp trong tỉnh học hỏi kinh nghiệm quản lý, phương thức
kinh doanh hiệu quả. Đây là giải pháp rất có ý nghĩa đối với mục tiêu chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn nhất là khi Việt Nam là thành viên
của tổ chức thương mại thế giới.
- Phát triển mạnh mẽ doanh nghiệp tư nhân trong nông nghiệp, nông
thôn. Thực tiễn ở Phú Thọ cho thấy để giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông
thôn và nông dân trong giai đoạn hiện nay không thể không phát triển đa dạng
99
các loại hình doanh nghiệp trên địa bàn nông thôn. Những doanh nghiệp này
có vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, tạo nhiều công ăn
việc làm cho người lao động.
Tạo điều kiện thuận lợi cho việc thành lập doanh nghiệp, tạo môi trường
kinh doanh bình đẳng, thông thoáng hơn nữa cho các doanh nghiệp vừa và
nhỏ nói riêng và khu vực kinh tế tư nhân nói chung phải được coi là nhiệm vụ
lâu dài và then chốt để đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tăng cường hoạt động cung cấp thông tin, hỗ trợ xúc tiến thương mại,
bảo vệ thương hiệu sản phẩm, phát triển các loại hình sản xuất kinh doanh
trong các doanh nghiệp. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp tiếp
cận các thị trường đầu ra lẫn đầu vào.
Xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích phát triển các doanh nghiệp
hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, bảo quản, chế biến và tiêu thụ sản phẩm
hàng hoá. Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp liên kết với nông
dân để ổn định và phát triển nguồn nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá
cho nông dân. Để các doanh nghiệp thực hiện tốt quan hệ với các hộ gia đình,
trang trại và hợp tác xã thông qua các hợp đồng dịch vụ kỹ thuật ứng trước
vốn cho sản xuất nguyên liệu và thu mua sản phẩm nông nghiệp đưa vào chế
biến bằng các thiết bị máy móc, dây truyền công nghệ tiên tiến.
Trong quá trình phát triển cần tạo sự liên kết giữa các chủ thể nông
nghiệp sản xuất nguyên liệu với các doanh nghiệp chế biến nông sản và các
chủ thể thương mại; với các cơ quan nghiên cứu khoa học công nghệ và
chuyển giao khoa học, công nghệ; liên kết theo hình thức đa tuyến giữa bốn
nhà: nhà nông, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học và nhà nước. Sự liên kết hiệu
quả giữa các chủ thể kinh tế là một trong những tiền đề quan trọng trong việc
phát triển kinh tế thị trường và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn.
100
3.2.3. Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ
trong nông nghiệp, nông thôn
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
Phú Thọ, việc đẩy mạnh ứng dụng những thành tựu mới của khoa học công
nghệ là điều kiện tiên quyết để nâng cao năng suất và hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh.
Phát triển, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ cần gắn với yêu cầu của
quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn;
gắn với công tác bảo vệ môi trường và phát triển bền vững; gắn với việc tạo
công ăn việc làm co người lao động. Phải phù hợp với điều kiện tài chính,
trình độ của nông dân, đáp ứng yêu cầu của tiến trình hội nhập và xu hướng
vận động của kinh tế thế giới.
Trong thời gian tới cần đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, phổ
biến thông qua các phương tiện thông tin đại chúng về vị trí của công nghệ
sinh học trong phát triển kinh tế xã hội. Tăng cường công tác tập huấn, hướng
dẫn nông dân ứng dụng có hiệu quả các sản phẩm công nghệ sinh học vào sản
xuất. Tập trung chỉ đạo, đầu tư xây dựng các mô hình điểm về ứng dụng,
chuyển giao các thành tựu công nghệ sinh học có hiệu quả, làm cơ sở chỉ đạo,
chuyển giao nhân rộng ra sản xuất.
Thu hút các cán bộ, chuyên gia có trình độ cao về lĩnh vực công nghệ
sinh học nông nghiệp làm lực lượng cán bộ kỹ thuật nòng cốt về công nghệ
sinh học của tỉnh trong thời gian tới. Lựa chọn một số kỹ sư trẻ chuyên ngành
trồng trọt, chăn nuôi - thú y, lâm sinh, thuỷ sản đang công tác trong ngành gửi
đi đào tạo dài hạn tại các Trường Đại học, Viện nghiên cứu trong và ngoài
nước; trước mắt cần ưu tiên đầu tư đào tạo một số kỹ sư, công nhân kỹ thuật
về sản xuất hạt giống lúa lai, ngô lai và nuôi cấy mô tế bào. Đào tạo đội ngũ
kỹ thuật viên về công nghệ sinh học để thực hiện nhiệm vụ về chuyển giao,
101
ứng dụng ở địa phương, cơ sở.
Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ khuyến nông,
khuyến lâm, khuyến ngư cơ sở, các chủ trang trại, các hộ nông dân sản xuất
giỏi làm hạt nhân ở cơ sở trong việc ứng dụng và chuyển giao các thành tựu
về công nghệ sinh học vào sản xuất. Tăng cường đào tạo, tập huấn nâng cao
kiến thức cho đội ngũ tiếp nhận và sử dụng công nghệ.
Phối hợp, liên kết hiệu quả trong công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức
quản lý, nghiên cứu, chuyển giao với đội ngũ cán bộ khoa học của các Viện
nghiên cứu về nông, lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Trong thời gian tới vấn đề ưu tiên phát triển công nghệ trong nông thôn
là phải phát triển công nghệ sinh học, công nghệ chế biến, công nghệ kỹ thuật
cao. Để có thể khai thác tối ưu, vừa bảo vệ và phát triển nguồn tài nguyên
sinh học đa dạng của tỉnh, đồng thời góp phần vào phát triển nông nghiệp bền
vững, bảo vệ sức khoẻ con người.
Bảng 3. 2: Dự kiến kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực phục vụ chƣơng trình ứng dụng công nghệ sinh học nhằm nâng cao năng suất, chất lƣợng sản phẩm nông, lâm nghiệp, thuỷ sản giai đoạn 2008-2010
Nội dung đào tạo
1. Đào tạo trình độ Tiến sĩ - Di truyền và chon tạo giống - Các kỹ thuật khác về gen 2. Đào tạo trình độ Thạc sĩ - Kỹ thuật di chuyền - Chọn tạo, sản xuất giống - Nuôi cấy mô tế bào thực vật - Công nghệ vi sinh - Bảo quản chế biến sau thu hoạch 3. Đào tạo trình độ Đại học - Di truyền và chon tạo giống - Bảo quản chế biến sau thu hoạch - Nuôi cấy mô tế bào - Công nghệ vi sinh 4. Đào tạo kỹ thuật viên - Kỹ thuật sản xuất giống lúa lai, ngô lai - Kỹ thuật nuôi cấy mô - Công nghệ vi sinh 5. Đào tạo phổ cập về công nghệ sinh học Tổng cộng
Số lƣợng đào tạo (ngƣời) Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 2 1 1 5 1 1 1 1 1 12 3 3 3 3 25 10 10 5 500 544
1 1 4 1 1 1 1 12 3 3 3 3 25 10 10 5 500 542
1 1 4 1 2 1 11 2 3 3 3 25 10 10 5 500 541
Cộng 4 2 2 13 3 4 2 2 2 35 8 9 9 9 75 30 30 15 1.500 1.627
102
Nguồn 9: Quy hoạch ngành nghề nông thôn Phú Thọ 2006 – 2010 và định hướng đến 2020.
Để có thể phát triển mạnh công nghệ này điều tiên quyết cần phải tập
trung vào các lĩnh vực như đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế nông
nghiệp, nông thôn đảm bảo đồng bộ về cơ cấu ngành nghề, cơ cấu trình độ lao
động nông thôn. Tăng cường năng lực ứng dụng triển khai thông qua việc
nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ khoa học, xây dựng các chương trình,
dự án phát triển công nghệ một cách cụ thể. Trước mắt đẩy mạnh chuyển giao
các tiến bộ khoa học công nghệ về nông thôn nhất là áp dụng công nghệ
giống, công nghệ bảo quản, chế biến nông sản, tạo bước đột phá về năng suất,
chất lượng sản phẩm nông nghiệp. Tăng cường cải tiến, áp dụng kỹ thuật đối
với các công nghệ truyền thống, tận dụng lao động, đất đai, tài nguyên, phát
triển công nghiệp, dịch vụ nông thôn.
Mặc dù trong thời gian vừa qua, công nghệ sau thu hoạch ở Phú Thọ đã
được cải thiện, song thực tế đòi hỏi cần phải được đầu tư hơn nữa, bởi nó ảnh
hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Công nghệ sau thu hoạch
kém cũng là nguyên nhân làm cho một số mặt hàng nông sản của tỉnh mất lợi
thế cạnh tranh. Sự khắc phục những yếu kém này cần được thực hiện bởi các
giải pháp đồng bộ, trong đó cần chú trọng đầu tư vào các khâu như: thu
hoạch, sơ chế, vận chuyển, bảo quản, chế biến, đóng gói và phân phối. Mức
độ đầu tư phụ thuộc vào nhu cầu từng khâu, từng loại nông sản và tính đặc
thù của sản phẩm từng địa phương.
Cần tăng cường công tác bảo vệ thực vật, hướng dẫn nông dân áp dụng
hệ thống chỉ tiêu chất lượng và quản lý chất lượng, xây dựng và thực hiện quy
chế quản lý an toàn thực phẩm, kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng thuốc trừ sâu
và các chất kháng sinh trong sản xuất và chế biến nông sản.
Hình thành và thúc đẩy phát triển của thị trường khoa học và công nghệ
là một giải pháp quan trọng nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của kinh tế
103
Phú Thọ nói riêng và Việt Nam nói chung. Phát triển thị trường khoa học
công nghệ là điều kiện tiên quyết để thực hiện thành công chiến lược công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Phú Thọ đến năm 2015.
Thực tế cho thấy, thời gian qua ở Phú Thọ cũng như nhiều địa phương khác
các yếu tố thị trường khoa học và công nghệ đã được hình thành, tuy nhiên,
thị trường này còn ở mức sơ khai, môi trường cho thị trường này vận hành
còn chưa hoàn thiện. Vì vậy, thời gian tới cần tập trung vào các biện pháp xây
dựng môi trường cạnh tranh để thúc đẩy các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất
kinh doanh đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh, đồng thời tạo
nhu cầu đối với hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ. Tiếp tục đổi mới
phương thức quản lý khoa học phù hợp với cơ chế thị trường nhằm tạo động
lực cho các tổ chức, các hoạt động khoa học công nghệ, đẩy mạnh nghiên cứu
và chuyển giao, ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiến sản xuất.
3.2.4. Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn theo
hướng hiện đại
Trên cơ sở bổ sung, hoàn chỉnh quy hoạch phát triển, tỉnh cần ưu tiên
ngân sách và huy động nguồn lực khác để đẩy nhanh việc xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội trong từng xã, từng huyện trong tỉnh.
Trước hết, tập trung mọi nguồn lực để ưu tiên đầu tư hoàn chỉnh cơ bản
hệ thống giao thông đường bộ đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Tập
trung phát triển đường giao thông nông thôn là yêu cầu cấp thiết phục vụ cho
sản xuất nông nghiệp, mở mang công nghiệp và dịch vụ nông thôn. Cần xây
dựng, nâng cấp tất cả các tuyến đường nội tỉnh, tuyến đường liên huyện, liên
xã, liên thôn. Phát triển hệ thống đường quốc lộ kết nối Phú Thọ với các tỉnh
lân cận trong vùng. Nâng cấp, cải tạo tuyến đường sắt, hệ thống đường sông,
đáp ứng nhu cầu đi lại, vận chuyển lưu thông hàng hoá.
- Phát triển mạng lưới điện, hệ thống bưu chính viễn thông. Kiên cố hoá
104
hệ thống mạng lưới cấp điện, giảm tỷ lệ thất thoát, tiêu hao điện năng, xây
dựng các trạm biến áp hạ thế vào các khu công nghiệp tập trung, các cụm
công nghiệp làng nghề. Phấn đấu trên 95% số hộ được sử dụng điện lưới quốc
gia. Những nơi thuộc vùng sâu, vùng xa không thể dẫn điện tới được thì sử
dụng nguồn khác nhau như pin mặt trời hoặc thuỷ điện nhỏ. Tăng nhanh năng
lực và hiện đại hoá bưu chính viễn thông, đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng
thông tin hiện đại, đồng bộ và ổn định.
- Về hệ thống các công trình thuỷ lợi, cần tiếp tục nâng cấp, sửa chữa các
công trình thuỷ nông bị xuống cấp và xây dựng mới các công trình đầu mối.
Hoàn chỉnh hệ thống kênh mương nội đồng, đẩy nhanh tốc độ kiên cố hoá
kênh mương để vừa tiết kiệm đất, vừa tránh lãng phí nước tưới, giảm chi phí
thuỷ lợi. Nâng cao diện tích tưới tiêu phục vụ thâm canh lúa, cây công nghiệp,
cây ăn quả, trước hết là ở các vùng chuyên canh và các nhu cầu khác. Đầu tư
chiều sâu tu bổ hệ thống đê, kè, cống, hệ thống hồ đập, trạm bơm...Xây dựng
danh mục các công trình thuỷ lợi để có kế hoạch phát triển phù hợp với quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đảm bảo hệ thống cấp nước sạch, đầu tư
hệ thống xử lý nước thải cho khu vực dân sinh và khu vực sản xuất. Tiếp tục
thực hiện chương trình, ưu tiên cho những vùng có nguồn nước bị ô nhiễm,
vùng có nguy cơ ô nhiễm cao và những xã khó khăn về nước sinh hoạt (Thạch
Sơn - Lâm Thao, Cẩm Khê, Thanh Sơn, Yên Lập), giảm tỷ lệ người mắc
bệnh, nâng cao đời sống nhân dân nông thôn.
- Xây dựng mạng lưới chợ nông thôn, cần tập trung phát triển các chợ
đầu mối bán buôn, các chợ chuyên doanh nông sản. Ngoài ra, cần quan tâm
đến phát triển các chợ bán lẻ để đáp ứng nhu cầu mua bán thường nhật của
nông dân. Nâng cấp sửa chữa và xây dựng mới các chợ ở huyện, xã, cụm.
Xây dựng và nâng cấp các trung tâm thương mại ở các trung tâm có điều kiện
về giao lưu hàng hoá. Xây dựng các cửa hàng mua bán thương nghiệp, các
105
hợp tác xã dịch vụ thương mại và các đại lý trên khắp địa bàn nông thôn trong
tỉnh nhằm cung cấp đầy đủ các dịch vụ vật tư nguyên liệu đầu vào cho sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của khu vực nông nghiệp, nông thôn. Cần
xây dựng hệ thống kỹ thuật bảo quản, chế biến nông sản hàng hoá, với sự
tham gia của các thành phần kinh tế.
- Hình thành và phát triển mạng lưới bệnh viện, trạm y tế ở nông thôn.
Đầu tư nâng cấp và từng bước hiện đại hoá bệnh viện tuyến huyện, trạm y tế
xã. Tăng cường trang bị các dụng cụ y tế cần thiết cho tuyến cơ sở, tập trung
đào tạo lại đội ngũ cán bộ y tế, thực hiện xã hội hoá ngành y tế.
- Hình thành hệ thống giáo dục toàn diện, tăng cường cơ sở vật chất
trường học. Chú ý phát triển hệ thống các trường dạy nghề ở nông thôn, đào
tạo nguồn nhân lực có tay nghề cao, giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho
nông dân, khuyến khích hình thành đa dạng các trường, lớp dạy nghề tư nhân.
3.2.5. Phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm cho người lao
động
Khai thác có hiệu quả lợi thế tiềm năng nguồn lực con người đồng thời
phát triển nguồn lực này đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu và trình độ là một
trong những giải pháp để thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Để phát triển bền vững nông nghiệp,
nông thôn cần lấy giáo dục đào tạo làm đòn bẩy nhằm biến gánh nặng dân số
nông thôn thành ưu thế nhân lực, xem đây là yếu tố quan trọng trong chiến
lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Vì vậy, để quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở Phú Thọ đạt
được mục tiêu đề ra, điều quan trọng hàng đầu, mang tính quyết định là nâng
cao chất lượng lao động thích hợp với điều kiện kinh tế thị trường và quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Một là, đào tạo nguồn nhân lực. Để có thể làm được điều đó cần tăng
106
ngân sách cho phát triển giáo dục, đào tạo ở nông thôn, đầu tư hơn nữa cho
xây dựng cơ sở cho giáo dục đào tạo, đồng thời bồi dưỡng cho lực lượng cán
bộ quản lý, giáo viên dạy nghề. Khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân đầu tư
cho phát triển giáo dục thông qua các kênh huy động khác nhau. Xây dựng
các chính sách hỗ trợ đào tạo nghề cho thanh niên, các chính sách khuyến
học, tín dụng đào tạo. Tạo mọi điều kiện để thu hút nhân tài về khu vực nông
thôn đầu tư, làm việc.
Tập trung đào tạo nghề cho lao động trẻ nông thôn, nghiệp vụ quản lý
cho cán bộ hợp tác xã, chủ trang trại, chủ doanh nghiệp nông nghiệp, quản trị
doanh nghiệp, cán bộ huyện, xã, cán bộ kỹ thuật. Đa dạng hoá các loại hình
và ngành nghề đào tạo, chú trọng đào tạo các ngành kỹ thuật tập trung cho các
chương trình nông lâm nghiệp trọng điểm của tỉnh (trồng trọt, chăn nuôi, thú
y, bảo vệ thực vật, thuỷ sản, chế biến nông sản…).
Hai là, giải quyết việc làm và sử dụng nguồn nhân lực. Đẩy mạnh hoạt
động của các trung tâm tư vấn giới thiệu việc làm, đồng thời mở rộng quan hệ
kinh tế giữa các tỉnh trong và ngoài vùng, với nước ngoài, cũng như tiếp cận
tri thức và nguồn vốn từ ngoài tỉnh.
Đa dạng hoá ngành nghề sản xuất kinh doanh, dịch vụ; đa dạng hóa việc
làm và thu nhập. Phát triển mạnh mẽ các ngành nghề phi nông nghiệp sử dụng
nhiều lao động ở nông thôn. Khôi phục và phát triển các ngành nghề truyền
thống, các làng nghề gắn liền với đô thị hoá nông thôn, hình thành các thị trấn
thị tứ. Cần có chính sách và cơ chế khuyến khích các hoạt động phi nông
nghiệp để giải quyết từng bước tình trạng thiếu việc làm và việc làm có thu
nhập thấp ở nông thôn hiện nay, hạn chế việc di chuyển quá mức lao động từ
nông thôn ra thành thị. Cần bố trí cán bộ đúng ngành nghề, chuyên môn được
đào tạo, đặc biệt ưu tiên cho các lĩnh vực sản xuất đang cần như chăn nuôi,
thú y, thuỷ sản, chế biến nông sản.
107
3.2.6. Các giải pháp và điều kiện hỗ trợ khác
3.2.6.1. Chính sách tài chính
Có chính sách ưu tiên cho vay vốn phát triển trang trại, miễn, giảm thuế
cho các hộ kinh doanh các cơ sở chế biến và tiêu thụ nông sản trong những
năm đầu. Xây dựng cơ chế bảo hiểm nông sản để chủ động bù đắp thiệt hại
khi có thiên tai hoặc khi giá cả biến động bất lợi.
Thực hiện chính sách đầu tư vốn, cho vay vốn ưu đãi phát triển sản xuất
đối với các hộ nghèo. Khai thác tốt các quỹ quốc gia về giải quyết việc làm,
quỹ phục vụ người nghèo thông qua dự án hướng dẫn, phổ biến kỹ thuật,
khuyến khích sản xuất, kinh doanh tạo việc làm cho người lao động, trước hết
là các đối tượng thuộc diện chính sách. Tạo cơ hội và điều kiện cho người
nghèo vươn lên thoát nghèo, được hưởng thụ các phúc lợi xã hội, từng bước
nâng cao dân trí.
Huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả là một trong những nhân tố
quan trọng hàng đầu để chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn và đẩy nhanh tốc
độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn. Trong vấn đề này vai trò của địa
phương là hết sức quan trọng, bởi họ là người trực tiếp đầu tư và phát triển
nông nghiệp, nông thôn, tạo môi trường thúc đẩy việc tái tích luỹ và thu hút
các nguồn vốn để phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn. Vì vậy, cần phải tập trung vào các vấn đề sau:
- Tăng tỷ lệ vốn đầu tư từ ngân sách cho nông nghiệp, nông thôn phù
hợp với yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đây là kênh vốn hết sức quan
trọng vì nguồn vốn từ ngân sách vừa là yếu tố vật chất để tăng cường cơ sở
vật chất, kỹ thuật phục vụ sản xuất nông nghiệp, vừa là để xây dựng và nâng
cấp kết cấu hạ tầng nông thôn nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đồng thời
đẩy nhanh tốc độ chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Vốn đầu tư từ ngân sách còn tạo
108
ra động lực thu hút nguồn vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế khác để đầu tư
vào nông nghiệp, nông thôn. Hơn thế, trong điều kiện hiện nay khi năng lực
tích luỹ của các chủ thể kinh tế ở khu vực nông thôn còn thấp và nông nghiệp,
nông thôn chưa phải là địa bàn hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Thì vốn đầu tư từ ngân sách cần phải được tập trung ưu tiên vào lĩnh vực thuỷ
lợi, giao thông, điện, thông tin liên lạc, các chương trình khoa học - kỹ thuật
trọng điểm mang tính đột phá vào các vùng có lợi thế cạnh tranh trong việc
phát triển vùng chuyên canh, sản xuất tập trung. Thực hiện quản lý chặt chẽ
trong đầu tư, tránh lãng phí, thất thoát và khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải,
phân tán.
- Khai thác nguồn vốn trong khu vực kinh tế tư nhân ở nông thôn. Dù
mới hình thành và phát triển, song khu vực kinh tế tư nhân đã đóng vai trò hết
sức quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh. Khu vực kinh tế này
đã khơi dậy tính sáng tạo, tinh thần sản xuất, kinh doanh của đông đảo nông
dân và trở thành động lực quan trọng thúc đẩy việc đổi mới và đột phá trong
tư duy kinh tế. Sự phát triển kinh tế tư nhân trong nông thôn đã góp phần giải
phóng sức lao động, thúc đẩy phân công lao động xã hội và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng hiện đại.
- Là một tỉnh với sản xuất nông nghiệp là chính, thu nhập thấp, tích luỹ
trong dân thấp, việc thiếu vốn diễn ra thường xuyên, do vậy, việc thu hút các
nguồn vốn từ bên ngoài vào phát triển kinh tế nông thôn có ý nghĩa hết sức
quan trọng đối với Phú Thọ. Tỉnh cần tạo môi trường thuận lợi, bình đẳng,
thông thoáng hơn nữa cho các nhà đầu tư, các thành phần kinh tế tham gia
đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp. Có chính sách ưu đãi hỗ trợ hợp lý, đồng
thời cải cách thủ tục hành chính để thu hút đầu tư vào địa bàn tỉnh, tuy nhiên
cần có lộ trình hợp lý và vững chắc.
- Yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
109
nông thôn Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi một mặt tăng vốn đầu tư
cả về lượng tuyệt đối và tỷ trọng, mặt khác phải đổi mới cơ cấu đầu tư. Cần
phải tăng sức cạnh tranh trên thị trường và phát triển kinh tế nông thôn toàn
diện và đồng bộ với một cơ cấu hợp lý. Cần tập trung vào các loại cây, con có
năng suất, chất lượng cao, những mặt hàng có tính đột phá và giá trị gia tăng
cao. Quan tâm đúng mức đến khôi phục các làng nghề truyền thống và phát
triển các ngành nghề mới để tạo việc làm, thu hút lao động dôi dư từ nông
nghiệp, tăng thu nhập cho nông dân. Giảm việc đầu tư dàn chải theo chiều
rộng.
3.2.6.2. Chính sách ruộng đất
Tiến hành quy hoạch sử dụng đất, giao quyền sử dụng đất lâu dài cho
nông dân; quản lý chặt chẽ, bảo vệ đất canh tác nhất là đất trồng lúa. Cần có
chính sách khuyến khích, hỗ trợ các hộ nông dân thực hiện chuyển đổi ruộng
đất, thực hiện dồn điền, đổi thửa để tăng quy mô đất canh tác. Sửa đổi, bổ
sung chính sách đền bù và ổn định cuộc sống, tạo việc làm cho các hộ nông
dân ở những nơi chuyển đổi đất nông nghiệp sang xây dựng các khu công
nghiệp, giao thông, đô thị.
3.2.6.3. Phát triển các làng nghề truyền thống, các làng nghề mới, xây
dựng và hình thành các cụm công nghiệp làng nghề ở nông thôn
Phát triển kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
khuyến khích phát triển khu vực kinh tế dân doanh, nhất là các làng nghề
truyền thống đóng vai trò là động lực hàng đầu trong thúc đẩy phát triển kinh
tế nông thôn. Trong kinh tế nông thôn Phú Thọ hiện nay, làng nghề có vị trí
rất quan trọng, nhiều làng nghề truyền thống phát triển mạnh và nhiều làng
nghề mới ra đời, các làng nghề trở thành hạt nhân và động lực cho phát triển
công nghiệp nông thôn. Tuy nhiên, còn nhiều tiềm năng vẫn chưa được khai
thác và phát huy. Sự phục hồi và phát triển các làng nghề còn mang tính tự
110
phát chưa có tính định hướng và quy hoạch chiến lược phát triển tổng thể. Vì
vậy, để có thể khai thác tốt những lợi thế tiềm năng, thời gian tới Phú Thọ
cần:
- Nâng cao nhận thức về vai trò và vị trí của các làng nghề, cụm làng
nghề trong điều kiện kinh tế thị trường đang hình thành và phát triển. Coi đó
là hướng quan trọng khai thác tiềm năng, giải quyết việc làm cho người lao
động ở nông thôn, nâng cao thu nhập và đời sống cho người dân nông thôn,
nâng cao quỹ mua và sức mua của thị trường nông thôn, góp phần tăng trưởng
kinh tế, đồng thời là nhân tố tích cực tạo nên sự phát triển bền vững kinh tế
nông thôn.
- Phát triển các làng nghề, xây dựng các khu, cụm công nghiệp phải gắn
với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn tỉnh, nhằm khai thác tốt
hơn các nguồn lực, nâng cao hiệu quả sản xuất ở nông thôn và đưa nông thôn
Phú Thọ ngày càng phát triển theo hướng văn minh, hiện đại.
- Khôi phục và phát triển các làng nghề, cụm công nghiệp phải đặt trong
cơ cấu kinh tế nông thôn hợp lý. Các ngành nghề phi nông nghiệp là bộ phận
cấu thành của kinh tế nông thôn. Phát triển các làng nghề gắn với phát triển
du lịch, gắn với phát triển nông thôn mới, giữ gìn và phát huy những giá trị
truyền thống, bảo đảm phát triển bền vững.
- Đẩy mạnh công tác xây dựng quy hoạch phát triển làng nghề. Tiếp tục
đổi mới chính sách và cơ chế quản lý thị trường đất đai, thị trường bất động
sản. Mặt khác, cần hoàn thiện công cụ, biện pháp điều tiết các thị trường để
tạo điều kiện góp phần ổn định sản xuất kinh doanh của các làng nghề, khu,
cụm công nghiệp. Tăng quyền tự chủ cho các hộ, doanh nghiệp trong sử dụng
đất để sản xuất kinh doanh các sản phẩm công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp.
- Đồng bộ hoá và cụ thể hoá chính sách đầu tư, hỗ trợ xây dựng các cụm
công nghiệp làng nghề, đơn giản hoá thủ tục đăng ký đầu tư và phân định rõ
111
ràng cơ chế quản lý các cụm công nghiệp làng nghề. Tiếp tục cải cách thủ tục
thuê đất theo hướng một cửa, ngăn chặn hiện tượng thu các khoản phí phi
chính thức, giảm giá thuê đất. Đặc biệt, cần tạo sự bình đẳng giữa các thành
phần kinh tế khi tham gia sản xuất kinh doanh ở nông thôn.
Tiếp tục hoàn thiện chính sách đầu tư, tín dụng nhằm hỗ trợ cho các làng
nghề, cụm, khu công nghiệp nông thôn. Nhà nước cần có chính sách lãi suất
hợp lý, đơn giản hoá các thủ tục cho vay đối với các ngành nghề và các sản
phẩm cần khuyến khích phát triển. Hoàn thiện chính sách khoa học - công
nghệ và chính sách bảo vệ môi trường nhằm hỗ trợ và nâng cao sức cạnh
tranh của các sản phẩm làng nghề truyền thống. Chính sách khoa học cần tiếp
tục hoàn thiện theo hướng tạo nhiều cơ hội tiếp cận thông tin khoa học cho
các doanh nghiệp.
Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật và tạo môi trường kinh doanh thuận
lợi cho các làng nghề, ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, tăng cường sự phối
hợp giữa các cấp, các ngành trên cơ sở phân công, phân cấp, giao trách nhiệm
trong việc thực hiện quy hoạch, xây dựng và tổ chức thực hiện.
3.2.6.4. Củng cố và hoàn thiện mô hình hợp tác xã nông nghiệp
Đổi mới hoạt động của hợp tác xã, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tập
thể và doanh nghiệp ở nông thôn phát triển. Khuyến khích mở rộng các hình
thức hợp tác, liên doanh, liên kết phát triển sản xuất, phát triển liên hiệp các
hợp tác xã chuyên ngành, đa ngành. Tạo điều kiện hình thành các hình thức
hợp tác xã mới, với việc tuân thủ các nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và bảo
đảm kinh doanh theo cơ chế thị trường.
Xây dựng phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả và xây dựng
chương trình đào tạo cán bộ quản lý hợp tác xã. Đẩy mạnh sản xuất hàng hoá,
đầu tư phát triển công nghiệp chế biến nông sản, mở rộng các dịch vụ chuyển
giao tiến bộ kỹ thuật về cây trồng, vật nuôi và chế biến sản phẩm nông
112
nghiệp.
3.2.6.5. Tăng cường công tác xúc tiến đầu tư, thương mại và tiêu thụ
sản phẩm
Cần đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến đầu tư cho các dự án công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đã thuộc quy hoạch được phê duyệt,
trên các phương tiện thông tin đại chúng và qua các kênh, hình thức thích hợp
khác…; Cần tiếp tục duy trì và củng cố các thị trường hiện có, mở rộng thị
trường mới trong đó chú ý đến thị trường các thành phố lớn, các khu công
nghiệp tập trung và đặc biệt là thị trường xuất khẩu trên cơ sở cải tiến và nâng
cao không ngừng chất lượng sản phẩm.
* Với thị trường nội tỉnh: Tổ chức mạng lưới tiêu thụ trong tỉnh trên cơ
sở phát triển hệ thống chợ và các trung tâm thương mại. Cần đặc biệt lưu ý
phát triển mạng lưới tiêu thụ này dựa trên tiềm năng du lịch rất lớn của Phú
Thọ. Gắn kết các trung tâm thương mại với quy hoạch các trạm dừng chân
ven đường tại các trung tâm du lịch và các làng nghề trọng điểm, các cửa
hàng giới thiệu sản phẩm tại các làng nghề trên quy mô toàn tỉnh. Phát triển
các sản phẩm phù hợp như rau quả chế biến phục vụ cho các khu công nghiệp
tập trung, tăng cường công tác quảng bá tiếp thị, tổ chức các cuộc thi chất
lượng.
* Thị trường ngoại tỉnh: Đẩy mạnh việc phát triển các thị trường truyền
thống như Yên Bái, Tuyên Quang, Hà Tây, Nam Định, Thái Bình đối với các
mặt hàng và dịch vụ thực phẩm, đan lát, xây dựng và vật liệu xây dựng,
* Thị trường xuất khẩu: Tập trung đầu tư phát triển theo chiều sâu các
mặt hàng xuất khẩu có tiềm năng hiện tại của tỉnh như mành trúc và mành cọ,
tre cuốn, than tre, mộc mỹ nghệ, nón lá cùng với các mặt hàng xuất khẩu tiềm
năng như mì khô, bánh đa nem, chuối sấy, sơn mài, bưởi, tơ lụa. Tham gia
các chương trình xúc tiến thương mại tại các thị trường mục tiêu và tham gia
113
các hội chợ triển lãm chuyên ngành (chế biến nông lâm thuỷ sản, hàng thủ
công mỹ nghệ)
* Xây dựng thương hiệu: Đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao ý thức và hỗ
trợ xây dựng thương hiệu cho các cơ sở sản xuất, làng nghề, sản phẩm ngành
nghề nông thôn của tỉnh. Cần xây dựng được những thương hiệu mạnh, có
sức cạnh tranh cao trên thị trường - đặc biệt thương hiệu gắn với văn hóa và
lịch sử Phú Thọ như chè, bưởi Đoan Hùng, sơn mài.
* Các hoạt động xúc tiến thương mại khác: Tổ chức định kỳ hội chợ về
các sản phẩm nông nghiệp, nông thôn của tỉnh. Đây không chỉ là nơi trưng
bày, bán mà còn trình diễn các kỹ thuật sản xuất, trình diễn các giá trị văn hóa
phi vật thể của Phú Thọ.
Tổ chức cho các doanh nghiệp tiềm năng, các cán bộ chủ chốt của ngành
đi khảo sát thị trường mục tiêu (Nhật, Nga, Châu Âu). Bên cạnh đó, cần xây
dựng các trang web và các tài liệu nhiều ngôn ngữ về các dự án kêu gọi đầu tư
và sản phẩm nông nghiệp của tỉnh.
* * *
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn tỉnh Phú Thọ, đòi hỏi phải giải quyết đồng bộ nhiều biện
pháp về kinh tế, hành chính, tổ chức, kỹ thuật. Những giải pháp nêu ra trong
luận văn này đều xuất phát từ sự phân tích thực tiễn quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn của tỉnh Phú Thọ trong thời gian
qua, đồng thời có vận dụng kinh nghiệm thành công của một số tỉnh, một số
quốc gia và vùng lãnh thổ. Mỗi giải pháp được tác giả nêu trên đều có vị trí
quan trọng riêng, đồng thời chúng có quan hệ hữu cơ với nhau. Tuy nhiên, tuỳ
theo tình hình thực tế, đặc điểm của từng địa phương, từng vùng có thể lựa
chọn, ưu tiên những giải pháp cho phù hợp nhằm mang lại hiệu quả kinh tế -
xã hội cao.
114
KẾT LUẬN
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một tất yếu
lịch sử đối với bất kỳ một nước nông nghiệp chậm phát triển nào trong quá
trình phát triển kinh tế bền vững.
Là một tỉnh nằm ở phía Bắc với phần đông dân số sinh sống ở nông
thôn, có nhiều thuận lợi để phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn, trong
những năm qua, đặc biệt từ khi tái thành lập tỉnh (năm 1997) đến nay, Phú
Thọ đã có nhiều nỗ lực trong việc thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp, nông thôn và đã đạt được những thành quả nhất định: cơ
cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng; một số vùng sản xuất chuyên canh tập
trung đã hình thành và ngày càng gắn bó với công nghiệp chế biến; tiểu thủ
công nghiệp, ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn được khôi phục và
phát triển mạnh; các tiến bộ khoa học kỹ thuật được áp dụng rộng rãi; hệ
thống kết cấu hạ tầng đã có bước tiến dài so với trước; đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân được cải thiện đáng kể, góp phần thực hiện tốt chính sách
xoá đói giảm nghèo.
Tuy nhiên, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn Phú Thọ vẫn còn nhiều hạn chế: cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn
chuyển dịch còn chậm, còn nặng về nông nghiệp; dịch vụ và công nghiệp chế
biến chiếm tỷ lệ còn thấp, nhiều tiềm năng chưa được khai thác đúng mức; kết
cấu hạ tầng nông thôn tuy được cải thiện nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu
sản xuất và lưu thông hàng hoá; các chính sách đã ban hành chưa đủ mạnh để
khai thác hết nội lực và thu hút đầu tư bên ngoài; hệ thống quản lý nhà nước
thuộc lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn chưa ngang tầm, cán bộ cơ sở nhất
là khu vực miền núi còn nhiều bất cập.
Trong thời gian tới với những giải pháp phù hợp với điều kiện và hoàn
cảnh cụ thể, đặc biệt là bám sát chủ truơng, đường lối chung của Đảng và Nhà
115
nước, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn địa phương, tuân thủ các nguyên tắc và
tín hiệu thị trường, tôn trọng và hài hoà các lợi ích, tập trung đầu tư vào
những lĩnh vực then chốt, nhất là cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực, nâng cao
năng lực khoa học công nghệ… tin rằng quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Phú Thọ sẽ có những bước tiến quan trọng
hơn nữa, góp phần to lớn thực hiện thành công mục tiêu thoát khỏi tỉnh nghèo
vào năm 2010, tạo động lực tích cực cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá chung của đất nước./.
116
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2. 1: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành ....................................... 56 Bảng 2. 2: Giá trị sản xuất nông nghiệp theo giá so sánh năm 1994 ............. 57 Bảng 2. 3: Sản lượng một số cây trồng chủ yếu ............................................ 60 Bảng 2. 4: Giá trị sản xuất nông nghiệp Phú Thọ ......................................... 61 Bảng 2. 5: Dự báo phát triển dân số tỉnh Phú Thọ đến năm 2020 ................. 63 Bảng 2. 6: Lao động làm nghề và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh .... 73 Bảng 2. 7: Các sản phẩm ngành nghề chủ yếu năm 2006 ............................. 74 Bảng 3. 1: Lao động tỉnh Phú Thọ đến năm 2010 – 2020 ............................. 94 Bảng 3. 2: Dự kiến kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực phục vụ chương trình ứng dụng công nghệ sinh học nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm nông, lâm nghiệp, thuỷ sản giai đoạn 2008-2010 ........................................ 102
117
Tµi liÖu tham kh¶o
1. TS. Ph¹m Ngäc Anh (2003), B íc ®Çu t×m hiÓu t t ëng Hå ChÝ Minh vÒ
kinh tÕ, NXB ChÝnh trÞ Quèc Gia, Hµ Néi.
2. Ban Tuyªn gi¸o TØnh ñy Phó Thä(2006), Th«ng tin sinh ho¹t chi bé, (12). 3. Ban Tuyªn gi¸o TØnh ñy Phó Thä (2008), Th«ng tin sinh ho¹t chi bé, (1). 4. Bé kÕ ho¹ch ®Çu t (1996), Bµi häc vÒ c«ng nghiÖp ho¸ - hiÖn ®¹i ho¸,
Hµ Néi.
5. Côc Thèng kª tØnh Phó Thä, Niªn gi¸m thèng kª 2003, 2004, 2005, 2006.
NXB Thèng kª.
6. GS.TS. NguyÔn Träng ChuÈn, PGS.TS. NguyÔn ThÕ NghÜa, PGS.TS. §Æng H÷u Toµn (2002), C«ng nghiÖp ho¸, hiÖn ®¹i ho¸ ë ViÖt Nam lý luËn vµ thùc tiÔn, NXB ChÝnh trÞ Quèc gia, Hµ Néi.
8.
7. NguyÔn Sinh Cóc (1998), "Kinh nghiÖm mét sè n íc Ch©u ¸ vµ b íc tiÕn c«ng nghiÖp ho¸, hiÖn ®¹i ho¸ n«ng nghiÖp, n«ng th«n ViÖt Nam", Kinh tÕ vµ dù b¸o, (8), tr 9-10. PGS.TS. NguyÔn Sinh Cóc (2003), N«ng nghiÖp, n«ng th«n ViÖt Nam thêi kú ®æi míi (1986 - 2002), NXB Thèng Kª, Hµ Néi.
9. §¶ng Céng S¶n ViÖt Nam (2002), NghÞ QuyÕt sè 15-NQ/TW, Héi nghÞ lÇn thø n¨m Ban chÊp hµnh Trung ¬ng §¶ng kho¸ IX vÒ ®Èy nhanh c«ng nghiÖp ho¸, hiÖn ®¹i ho¸ n«ng nghiÖp, n«ng th«n thêi kú 2001-2010. 10. §¶ng Céng S¶n ViÖt Nam (2005), V¨n kiÖn §¹i héi §¹i biÓu ®¶ng bé
11.
tØnh VÜnh Phóc lÇn thø XIV. §¶ng Céng S¶n ViÖt Nam (2005), V¨n kiÖn §¹i héi §¹i biÓu ®¶ng bé tØnh Hµ T©y lÇn thø XIV
12. §¶ng Céng S¶n ViÖt Nam (2008), NghÞ QuyÕt sè 26-NQ/TW, Héi nghÞ lÇn thø b¶y Ban chÊp hµnh Trung ¬ng §¶ng kho¸ X vÒ n«ng nghiÖp, n«ng d©n vµ n«ng th«n.
13. §¶ng Céng S¶n ViÖt Nam, V¨n kiÖn §¹i héi §¹i biÓu toµn quèc lÇn thø
14. VI, VII, VIII, IX, X, NXB ChÝnh trÞ Quèc Gia §¶ng Céng S¶n ViÖt Nam, V¨n kiÖn ®¹i héi §¹i biÓu ®¶ng bé tØnh Phó
Thä lÇn thø XIV, XV, XVI.
118
16.
17.
15. Lª §¨ng Doanh, NguyÔn ThÞ Kim Dung (1998), N©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh vµ b¶o hé s¶n xuÊt trong n íc, NXB Lao ®éng, Hµ Néi. PGS.TS. Vò N¨ng Dòng (2004), C¬ së khoa häc ®Ó x©y dùng tiªu chÝ, b íc ®i, c¬ chÕ chÝnh s¸ch trong qu¸ tr×nh c«ng nghiÖp ho¸, hiÖn ®¹i ho¸ n«ng nghiÖp, n«ng th«n, NXB N«ng nghiÖp, Hµ Néi. Lª V¨n D ¬ng (2002), "VÊn ®Ò ®æi míi lùc l îng s¶n xuÊt vµ quan hÖ s¶n xuÊt trong qu¸ tr×nh c«ng nghiÖp ho¸, hiÖn ®¹i ho¸ n«ng nghiÖp, n«ng th«n ", T¹p chÝ triÕt häc, (1), tr 5-9.
18. TS. Nghiªm Xu©n §¹t, TS. NguyÔn Minh Phong (2002), Gi¶i ph¸p tµi chÝnh thóc ®Èy ph¸t triÓn kinh tÕ Thµnh phè Hµ Néi, NXB ChÝnh trÞ Quèc Gia, Hµ Néi.
19. TS. Nghiªm Xu©n §¹t, TS. NguyÔn Minh Phong (2002), Hµ Néi trong
20.
21.
22.
qu¸ tr×nh héi nhËp quèc tÕ, NXB ChÝnh trÞ Quèc Gia, Hµ Néi. Ng« ThÞ Thu Hµ (2005), C«ng nghiÖp ho¸, hiÖn ®¹i ho¸ n«ng nghiÖp, n«ng th«n ë NghÖ An, LuËn v¨n th¹c sÜ kinh tÕ chÝnh trÞ, Khoa kinh tÕ, §¹i häc Quèc gia Hµ Néi, Hµ Néi. TS. NguyÔn Minh H»ng (2003), Mét sè vÊn ®Ò vÒ hiÖn ®¹i hãa n«ng nghiÖp Trung Quèc, NXB Khoa häc x· héi, Hµ Néi. NguyÔn Minh Hoµi (2002), "Nh÷ng kinh nghiÖm thµnh c«ng vÒ c«ng nghiÖp ho¸ n«ng th«n cña CHND Trung Hoa vµ §µi Loan", Th«ng tin phôc vô l·nh ®¹o, (19), tr 20-29.
23. Hå ChÝ Minh: Toµn tËp (2000), NXB ChÝnh trÞ Quèc Gia, Hµ Néi,
24.
25.
26.
(4,10,12). Héi ®ång nh©n d©n tØnh Phó Thä (2005), NghÞ quyÕt vÒ kÕ ho¹ch ph¸t triÓn kinh tÕ-x· héi 5 n¨m (2006-2010) tØnh Phó Thä. Héi ®ång nh©n d©n tØnh Phó Thä (2006), NghÞ quyÕt vÒ kÕ ho¹ch ph¸t triÓn n«ng, l©m nghiÖp, thuû s¶n tØnh Phó Thä giai ®o¹n 2006-2010. Héi ®ång Trung ¬ng chØ ®¹o biªn so¹n gi¸o tr×nh quèc gia c¸c bé m«n khoa häc M¸c- Lªnin, T t ëng Hå ChÝ Minh (2004), Gi¸o tr×nh kinh tÕ häc chÝnh trÞ M¸c- Lªnin, NXB ChÝnh trÞ Quèc Gia, Hµ Néi
27. NguyÔn §×nh Liªm (2005), “Ba b¯i häc kinh nghiÖm vÒ c«ng nghiÖp hãa, hiÖn ®¹i hãa n«ng nghiÖp, n«ng th«n ë §¯i Loan”, Nghiªn cøu
119
28.
Trung Quèc, (5), tr72-82. NguyÔn §×nh Liªm (2006), C«ng nghiÖp ho¸, hiÖn ®¹i ho¸ n«ng nghiÖp vµ n«ng th«n ë §µi Loan, NXB Khoa häc x· héi, Hµ Néi.
29. TS. NguyÔn Minh Phong (2004), Ph¸t triÓn kinh tÕ t nh©n ë Hµ Néi,
NXB ChÝnh trÞ Quèc Gia, Hµ Néi.
30. TS. NguyÔn Minh Phong (2004), Vèn dµi h¹n cho ®Çu t ph¸t triÓn kinh
tÕ ë Hµ Néi, NXB ChÝnh trÞ Quèc Gia, Hµ Néi.
31. TS. NguyÔn Minh Phong, Ths. Hoµng M¹nh HiÓn (2005), Ph¸t triÓn c¸c thµnh phÇn kinh tÕ ë Hµ Néi thêi kú ®æi míi, NXB Tµi chÝnh, Hµ Néi 32. TS. NguyÔn Minh Phong (2005), Ph¸t triÓn thÞ tr êng khoa häc c«ng nghiÖp gi÷a Hµ Néi víi c¸c tØnh, ®Þa ph ¬ng trong c¶ n íc, NXB Tµi chÝnh, Hµ Néi.
33. PGS.TS. Vò V¨n Phóc (2006), “C«ng nghiÖp hãa, hiÖn ®¹i hãa n«ng
34.
35.
36.
37.
nghiÖp, n«ng th«n”, T¹p chÝ kinh tÕ & dù b¸o, (2), tr2-5. GS. §ç Quèc Sam (2006), "VÒ c«ng nghiÖp ho¸, hiÖn ®¹i ho¸ ë ViÖt Nam", T¹p chÝ céng s¶n, (11). Tr 9-13, 51. GS.TS. NguyÔn KÕ TuÊn (2006), C«ng nghiÖp ho¸, hiÖn ®¹i ho¸ n«ng nghiÖp n«ng th«n ë ViÖt Nam con ® êng vµ b íc ®i, NXB ChÝnh trÞ Quèc gia, Hµ Néi. TS. TrÇn §×nh Thiªn (2002), C«ng nghiÖp hãa, hiÖn ®¹i hãa ë ViÖt Nam ph¸c th¶o lé tr×nh, NXB ChÝnh trÞ Quèc Gia, Hµ Néi. Ths. Ph¹m Ngäc Thíc (2006), “Mét sè kÕt qu° bíc ®Çu v¯ ph¬ng h íng nhiÖm vô trong thêi gian tíi vÒ chuyÓn dÞch c¬ cÊu kinh tÕ n«ng nghiÖp, n«ng th«n theo híng c«ng nghiÖp hãa, hiÖn ®¹i hãa”, B¸o Xu©n
38.
Phó Thä, tr7 TS. Vò Anh TuÊn (2000), “C«ng nghiÖp ho¸, hiÖn ®¹i ho¸ n«ng nghiÖp, n«ng th«n lý luËn v¯ kinh nghiÖm mét sè níc”, Ph¸t triÓn kinh tÕ, (119), tr 9 -11.
39. TØnh ñy Phó Thä (2000), Phó Thä vµo thÕ kû 21 40. TØnh uû Phó Thä (2004), Ch ¬ng tr×nh hµnh ®éng thùc hiÖn NghÞ quyÕt sè 37-NQ/T¦, ngµy 01/7/2004 cña Bé ChÝnh trÞ vÒ ph¸t triÓn kinh tÕ - x·
héi ®Õn n¨m 2010, Phó Thä.
120
41.
TØnh uû Phó Thä (2004), NghÞ quyÕt cña Ban Th êng vô TØnh uû vÒ tiÕp tôc dån ®iÒn ®æi ruéng ®Êt n«ng nghiÖp ®Õn n¨m 2006, Phó Thä.
43.
42. TØnh uû Phó Thä (7/2006), ChØ thÞ vÒ viÖc t¨ng c êng c«ng t¸c l·nh ®¹o, chØ ®¹o thùc hiÖn dån ®æi ruéng ®Êt n«ng nghiÖp theo NghÞ quyÕt 18- NQ/TU cña Ban Th êng vô TØnh uû, Phó Thä. TØnh ñy Phó Thä (2007), B¸o c¸o tæng kÕt thùc hiÖn nhiÖm vô chÝnh trÞ n¨m 2007, ph ¬ng h íng, nhiÖm vô n¨m 2008, Phó Thä.
45.
46.
47.
44. TØnh uû Phó Thä (2007), KÕt luËn cña Ban Th êng vô TØnh uû vÒ Quy ho¹ch ph¸t triÓn ngµnh nghÒ n«ng th«n tØnh Phó Thä giai ®o¹n 2006 - 2010 vµ ®Þnh h íng ®Õn n¨m 2020, Phó Thä. TØnh uû Phó Thä (2007), NghÞ quyÕt cña Ban chÊp hµnh §¶ng bé tØnh vÒ Ch ¬ng tr×nh øng dông c«ng nghÖ sinh häc nh»m n©ng cao n¨ng suÊt, chÊt l îng s¶n phÈm n«ng, l©m nghiÖp thuû s¶n giai ®o¹n 2006 - 2010 vµ ®Þnh h íng ®Õn 2015, Phó Thä. TØnh ñy Phó Thä (2008), KÕt qu¶ mét sè chØ tiªu kinh tÕ - x· héi, c«ng t¸c x©y dùng §¶ng, mÆt trËn, c¸c ®oµn thÓ, héi quÇn chóng, Phó Thä. TØnh uû VÜnh Phóc (12/2006), NghÞ quyÕt héi nghÞ lÇn thø t Ban chÊp hµnh §¶ng bé tØnh kho¸ XIV VÒ ph¸t triÓn n«ng nghiÖp, n«ng th«n, n©ng cao ®êi sèng n«ng d©n giai ®o¹n 2006- 2010, ®Þnh h íng ®Õn n¨m 2020,
48.
VÜnh Phóc. Uû ban nh©n d©n tØnh Phó Thä (2005), B¸o c¸o kÕt qu¶ kiÓm tra viÖc thùc hiÖn c¸c chØ tiªu c¬ b¶n vµ gi¶i ph¸p chñ yÕu ph¸t triÓn kinh tÕ- x·
49.
50.
héi cña tØnh theo NghÞ quyÕt §¹i héi §¶ng bé tØnh lÇn thø XV, nhiÖm kú 2000-2005, Phó Thä. Uû ban nh©n d©n tØnh Phó Thä (2006), B¸o c¸o ®¸nh gi¸ 3 n¨m thùc hiÖn ch ¬ng tr×nh ®Çu t kÕt cÊu h¹ tÇng kinh tÕ - x· héi träng ®iÓm; mét sè gi¶i ph¸p ®Èy nhanh tiÕn ®é ®Çu t c¸c dù ¸n ®Õn n¨m 2010. Uû ban nh©n d©n tØnh Phó Thä (2006), B¸o c¸o tæng kÕt ch ¬ng tr×nh s¶n xuÊt l ¬ng thùc giai ®o¹n 2001 - 2005. Ch ¬ng tr×nh s¶n xuÊt l ¬ng thùc giai ®o¹n 2006 - 2010, Phó Thä.
51. Uû ban nh©n d©n tØnh Phó Thä (2004), C«ng b¸o, (5, 6, 11).
121
52. Uû ban nh©n d©n tØnh Phó Thä (2005), V¨n b¶n ph¸p quy cña Uû ban
nh©n d©n tØnh Phó Thä, (1, 4,).
56.
57.
53. Uû ban nh©n d©n tØnh Phó Thä (2006), C«ng b¸o, (4, 5, 6, 12). 54. Uû ban nh©n d©n tØnh Phó Thä (2007), C«ng b¸o, (10, 14, 15, 16, 17). 55. Uû ban nh©n d©n tØnh Phó Thä (2007), Ch ¬ng tr×nh øng dông c«ng nghÖ sinh häc nh»m n©ng cao chÊt l îng s¶n phÈm n«ng, l©m nghiÖp thuû s¶n giai ®o¹n 2006 - 2010 vµ ®Þnh h íng ®Õn 2015, Phó Thä. Uû ban nh©n d©n tØnh Phó Thä (2007), Quy ho¹ch ph¸t triÓn ngµnh nghÒ n«ng th«n tØnh Phó Thä giai ®o¹n 2006 - 2010 vµ ®Þnh h íng ®Õn n¨m 2020, Phó Thä. Uû ban nh©n d©n tØnh Phó Thä, Së n«ng nghiÖp & ph¸t triÓn n«ng th«n (2007), B¸o c¸o t×nh h×nh thùc hiÖn kÕ ho¹ch 6 th¸ng ®Çu n¨m vµ ph ¬ng h íng nhiÖm vô 6 th¸ng cuèi n¨m 2007, Phó Thä.
58. Uû ban nh©n d©n tØnh Phó Thä, Së n«ng nghiÖp & ph¸t triÓn n«ng th«n (2005), B¸o c¸o tæng kÕt c«ng t¸c kÕ ho¹ch n¨m 2005 vµ ph ¬ng h íng nhiÖm vô chñ yÕu n¨m 2006, Phó Thä.
59. Uû ban nh©n d©n tØnh Phó Thä, Së n«ng nghiÖp & ph¸t triÓn n«ng th«n (2008), B¸o c¸o ®¸nh gi¸ t×nh h×nh thùc hiÖn kÕ ho¹ch n¨m 2007 vµ ph ¬ng h íng nhiÖm vô chñ yÕu n¨m 2008, Phó Thä.
60. ViÖn Nghiªn cøu qu¶n lý kinh tÕ Trung ¦¬ng – Bé KÕ ho¹ch vµ ®Çu t ,
B¸o c¸o kinh tÕ vn c¸c n¨m 2001-2006.
61. TS. Mai ThÞ Thanh Xu©n (2007), C¸c m« h×nh c«ng nghiÖp hãa vµ qu¸
tr×nh c«ng nghiÖp hãa ë ViÖt Nam, Hµ Néi.
62. www.baophutho.org.vn 63. www.cpv.org.vn 64. www.hatay.gov.vn 65. www.moi.gov.vn 66. www.phutho.gov.vn 67. www.tapchicongsan.org.vn 68. www.vinhphuc.gov.vn
122