Luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội : Dịch vụ công tác xã hội trong hỗ trợ người cao tuổi cô đơn tại xã Liên Hiệp, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội
lượt xem 14
download
Luận văn tập trung nghiên cứu về thực trạng dịch vụ công tác xã hội trong hỗ trợ người cao tuổi cô đơn tại địa bàn nghiên cứu, qua đó đề xuất giải phát phát triển dịch vụ công tác xã hội tại xã để thực hiện tốt hơn trong việc hỗ trợ người cao tuổi cô đơn tại đây.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội : Dịch vụ công tác xã hội trong hỗ trợ người cao tuổi cô đơn tại xã Liên Hiệp, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ LAO ĐỘNG – THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG – XÃ HỘI ĐỖ THỊ THU TRANG DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG HỖ TRỢ NGƯỜI CAO TUỔI CÔ ĐƠN TẠI XÃ LIÊN HIỆP, HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI. LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI
- HÀ NỘI – 2018 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ LAO ĐỘNG – THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG – XÃ HỘI ĐỖ THỊ THU TRANG DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG HỖ TRỢ NGƯỜI CAO TUỔI CÔ ĐƠN TẠI XÃ LIÊN HIỆP, HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI. Chuyên ngành: Công tác xã hội Mã ngành: 8760101 LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI
- NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ĐỖ THỊ VÂN ANH HÀ NỘI – 2018
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Đỗ Thị Vân Anh. Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này hoàn toàn trung thực. Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình. Hà Nội, tháng 12 năm 2018 Tác giả luận văn Đỗ Thị Thu Trang
- LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu nhà trường và các thầy giáo, cô giáo trong Trường Đại học Lao động Xã hội, đặc biệt là PGS.TS. Đỗ Thị Vân Anh người hướng dẫn khoa học đã nhiệt tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận văn. \ Tôi cũng xin chân thành cảm ơn của tập thể cán bộ chính quyền và người cao tuổi cô đơn hiện đang sinh sống tại địa bàn xã Liên Hiệp, huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội đã giúp tôi rất nhiều để tôi hoàn thiện luận văn này. Trong phạm vi của công trình nghiên cứu này, Mặc dù đã có nhiều cố gắng nghiên cứu, khai thác tài liệu, học hỏi cũng như bản thân tác giả còn hạn hẹp về kinh nghiệm. Vì vậy, nghiên cứu không tránh khỏi những thiếu sót, tôi mong nhận được sự chia sẻ, góp ý của quý thầy cô cùng toàn thể bạn đọc. Chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày tháng năm 2018 Tác giả Đỗ Thị Thu Trang
- 6 MỤC LỤC
- 7 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT NCT : Người cao tuổi BTXH : Bảo trợ xã hội LĐTB&XH : Lao động Thương binh và Xã hội CSSK : Chăm sóc sức khỏe TDTT : Thể dục thể thao CTXH : Công tác xã hội CLB : Câu lạc bộ
- 8 DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
- 9 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ai trong cuộc sống này cũng muốn có một cuộc sống no đủ, hạnh phúc. Nhưng thực tế thì có một bộ phận những người yếu thế trong xã hội đang có một cuộc sống rất khó khăn, họ thiếu hụt cả những nhu cầu cơ bản của con người như ăn, mặc, nhu cầu có một chỗ ngủ, nhu cầu an toàn … và khi xã hội càng phát triển thì đằng sau nó bộ phận những người yếu thế càng lớn dần lên đòi hỏi cộng đồng và xã hội cần phải có những sự trợ giúp cho họ. Đặc biệt vai trò của Nhân viên công tác xã hội nhất là vai trò cung cấp dịch vụ giữ một vị trí quan trọng giúp họ đáp ứng được những nhu cầu cơ bản, nâng cao năng lực, giải quyết vấn đề để đáp ứng những nhu cầu cấp cao trong cuộc sống. Công cuộc đổi mới của Việt Nam đã trải qua gần ba thập kỷ. Để đất nước thực sự phát triển bền vững trong những tiêu chí cần đạt được, phải có một nền an sinh vững chắc để mọi người trong xã hội được sống an toàn, được nâng đỡ, bảo vệ, che chở và hạnh phúc. Theo thống kê, hiện nay số người cần trợ giúp của các dịch vụ công tác xã hội ở nước ta chiếm khoảng 28% dân số, trong đó có 7,5 triệu người cao tuổi, 6,4 triệu người khuyết tật, 1,4 triệu trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, hơn 180.000 người nhiễm HIV đươc phát hiện, gần 170.000 người nghiện ma túy, hơn 15.000 người bán dâm [27]. Việt Nam là một trong những nước có tốc độ già hóa rất nhanh trên thế giới. Tỷ lệ NCT năm 2012 là 10,2%, năm 2013 là 10,3%, năm 2014 là 10,5% và sẽ tang gấp đôi lên 23% vào năm 2040 (UNFPA, 2014) [48]. Tốc độ già hóa nhanh đã đặt ra những thách thức chính sách cho NCT khi thu
- 10 nhập bình quân đầu người chưa cao và hệ thống an sinh xã hội còn hạn chế, đặt ra nhiều thách thức trong chăm sóc và đảm bảo an sinh cho NCT. Theo kết quả Điều tra quốc gia về người cao tuổi năm 2011, tới năm 2014, cả nước có hơn 9,5 triệu người NCT, tỷ lệ nữ cao hơn nam (xu hướng tang cao ở nhóm từ 80 tuổi trở lên cùng tình trạng đơn thân). Dù kinh tế xã hội phát triển nhưng đời sống của nhiều NCT còn hạn hẹp. Gần 1/5 NCT sống dưới ngưỡng nghèo, hơn 1/3 trong số họ vẫn đang phải làm việc, chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp và phí chính thức, với thu nhập thấp và không ổn định. Gần 70% NCT không có tích lũy vật chất, 27,6% cho rằng kinh tế đang kém đi. Khoảng 18% NCT sống trong hộ nghèo, hơn 30% không biết chia sẻ buồn vui cùng ai, 22% thất rất cô đơn (VNAS, 2012). Nguồn sống chính thức của NCT từ con cháu chu cấp (41,2%), từ lương hưu và trợ cấp (25,5%) và từ lao động của họ (29,4%). Tính đến tháng 6/2015, lương hưu, trợ cấp xã hội có tỷ lệ bao phủ đối với NCT là 37,4%, giảm hơn 1,24% tử năm 2012 đến nay. NCT tuổi càng cao thì sự lệ thuộc vào chu cấp của con cháu càng lớn (tang từ 25,6% ở nhóm 6069 lên 41,7% ở nhóm 7079 và 68,3% ở nhóm 80+). Nguồn sống từ của cải tích lũy từ trước và các nguồn khác 3,9% (UNFPAGAIPrudential, 2015). Trong số đó có một bộ phận người cao tuổi với các hoàn cảnh kém may mắn như không chồng (vợ), không có con cái, hoặc có con nhưng con đã chết vì bệnh tật, tai nạn … Nhiều người không có nhà cửa phải chung sống dựa vào nhà anh, em họ hàng, nhiều người không có thu nhập nuôi sống bản thân, có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn phải dựa vào hàng xóm láng giềng, các nhà hảo tâm trong cộng đồng, nhiều người phải đi tha phương cầu thực, làm thuê, nhặt rác, lang thang đầu đường xó chợ, màn trời chiếu đất.
- 11 Xã Liên Hiệp, huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội là địa phương đi đầu trong các phong trào của các hội đoàn thể của huyện Phúc Thọ. Theo thống kê đến cuối năm 2017, xã Liên Hiệp có tổng số 1.062 NCT, số NCT nghèo có 35 người, NCT cận nghèo có 39 người, NCT cô đơn có 59 người. Chính quyền địa phương đã quan tâm, chăm sóc, trợ giúp NCT đặc biệt là người cao tuổi cô đơn, cụ thể các cơ quan đoàn thể như: Hội NCT, Cán bộ chính sách xã hội, Mặt trận tổ quốc, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân, cán bộ y tế xã, tình nguyện viên trợ giúp NCT tại cộng đồng… Đặc biệt chính quyền địa phương luôn quan tâm, hỗ trợ cung cấp dịch vụ xã hội cho người cao tuổi cô đơn. Hầu hết tất cả người cao tuổi cô đơn tại xã đều được quan tâm và đảm bảo về đời sống vật chất, tinh thần và sức khỏe và được hưởng đầy đủ các chính sách xã hội nếu có. Xã Liên Hiệp từ nhiều năm qua luôn phát huy truyền thống tốt đẹp, gia đình và cộng đồng cùng chung tay chăm sóc và phát huy vai trò NCT nói chung đặc biệt là người cao tuổi cô đơn. Cùng với xu hướng già hóa dân số nhanh và nhiều vấn đề nảy sinh từ phía NCT cô đơn, rất cần được cung cấp các dịch vụ công tác xã hội trong việc hỗ trợ NCT cô đơn hiện đang sinh sống tại cộng đồng nhằm bảo đảm những quyền, lợi ích hợp pháp đáp ứng nhu cầu về mọi mặt cho NCT cô đơn. Dịch vụ công tác xã hội tại cộng đồng đã phần nào đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng của số đông NCT cô đơn và nguyện vọng của xã hội, có những tác động tích cực, góp phần nâng cao đời sống cho NCT cô đơn nói riêng cũng như NCT nói chung trên địa bàn huyện và Thủ đô, trong đó có NCT cô đơn tại địa bàn nghiên cứu thuộc xã Liên Hiệp, huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội. Vì những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài: “Dịch vụ Công tác xã hội
- 12 trong hỗ trợ người cao tuổi cô đơn tại xã Liên Hiệp huyện Phúc Thọ Thành phố Hà Nội”. Luận văn tập trung nghiên cứu về thực trạng dịch vụ CTXH trong hỗ trợ người cao tuổi cô đơn tại địa bàn nghiên cứu, qua đó đề xuất giải phát phát triển dịch vụ công tác xã hội tại xã để thực hiện tốt hơn trong việc hỗ trợ người cao tuổi cô đơn tại đây. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài. 2.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài Trước tình hình già hóa dân số diễn ra mạnh mẽ ở nhiều quốc gia trên thế giới, đã có nhiều tác giả tiến hành nghiên cứu các công trình nghiên cứu về NCT với các mặt của đời sống xã hội để từ đó đưa ra các đề xuất, giải pháp là các mô hình chăm sóc, trợ giúp NCT phù hợp với bối cảnh hiện nay. Trong Nghiên cứu “Barriers to Health Care Access Among the Elderly and Who Prerceives Them” [40] (Những rào cản trong chăm sóc sức khỏe NCT và nhận thức về chúng” của Anntte L.Fitzpatrick, Neil R. Powe, Lawton S. Cooper, Diane G. Ives và John A. Robbins (Đại học Washington, Đại học John Hopkins, Đại học Pittsburgh, Đại học California Davis và Đại học Wake Forest). Nghiên cứu này được tiến hành từ năm 1993 1994 tại Viện Nghiên cứu sức khỏe tim mạch bằng phương pháp nghiên cứu định lượng bao gồm 5.888 người đàn ông và phụ nữ từ 65 tuổi trở lên được chọn ngẫu nhiên từ danh sách đủ điều kiện chăm sóc y tế ở 4 cộng đồng: quận Forsyth, quận Sacramento, quận Washington và quận Alleghny. Kết quả nghiên cứu trong hai năm cho thấy, các rào cản chủ yếu trong chăm sóc sức khỏe như nhu cầu chăm sóc của các bệnh nhân lớn hơn những đáp ứng của các bác sỹ; tình trạng bệnh nhân không có bảo hiểm y
- 13 tế; rào cản ở bản thân bệnh nhân như tâm lý, thể chất ... chính những rào cản đó đã ảnh hưởng đến công tác chăm sóc sức khỏe cho người đàn ông và phụ nữ từ 65 tuổi ở đây. Nghiên cứu này không chỉ là rào cản riêng ở nước Mỹ mà là thực trạng chung, phổ biến ở mọi nơi ngay cả ở đất nước nhỏ bé phía Đông Nam Á của chúng ta. Trong Báo cáo “Report prepared for the Asian Population Conference Pacific Fifth” [44], Bangkok Thái Lan (1114/12/2002) của tác giả M.Nizamuddin, báo cáo đã đề cập tới vấn đề già hóa dân số và đề xuất những giải pháp cho tình hình già hóa dân số tại khu vực châu Á Thái Bình Dương, thực trạng quá độ nhân khẩu học đưa đến già hóa dân số, một hậu quả không thể tránh khỏi của giảm sinh nhanh và duy trì cải thiện mức tử vong là già hoá dân số được nghiên cứu khá sâu cùng với đó là những tác động về mặt kinh tế xã hội... đối với già hóa dân số; Từ đó đưa ra các chính sách, chương trình, và các mô hình chăm sóc, trợ giúp NCT, nhấn mạnh với vai trò của gia đình, xã hội hoá trong chăm sóc NCT ở cộng đồng để cùng ứng phó với vấn đề già hóa. Tuy nhiên, do cấu trúc gia đình đang chuyển dần từ gia đình đa thế hệ thành gia đình hạt nhân vì vậy việc người thân và NCT cùng chung sống đang ngày càng trở thành vấn đề khó khăn. Để giải quyết tình trạng đang diễn ra này trong cấu trúc gia đình, giải pháp mà nhiều nước đã đưa ra là xây dựng nhà ở và các chương trình dựa trên cơ sở cộng đồng cho NCT. Tại Hội nghị thế giới lần thứ 2 về già hóa [11] được tổ chức tại Madrid, Tây Ban Nha (do Đại hội đồng Liên Hợp Quốc triệu tập) năm 2002, Đây là hội nghị tham gia của nhiều quốc gia trên thế giới đã đưa ra tuyên bố chính trị bao gồm 19 điều, trong đó điều 14 đã khẳng định vai trò của NCT trong đời sống, tầm quan trọng của cộng đồng, các cơ quan và tổ
- 14 chức trong việc chăm sóc, hỗ trợ NCT; giúp NCT được tiếp cận các quyền bình đẳng trong chăm sóc sức khỏe, chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần; Hội nghị đưa ra sự cần thiết phải có các chính sách và bổ sung chính sách về chăm sóc, điều trị và trợ giúp NCT về mọi mặt. Cùng với đó là đưa ra những chiến lược hành động cụ thể, thiết thực mang tính toàn cầu trong việc can thiệp, trợ giúp và chăm sóc NCT nói chung, trong đó có NCT cô đơn. Điều này sẽ được vận dụng phù hợp vào từng điều kiện cụ thể và tình hình đời sống của NCT ở từng quốc gia khác nhau. Tại một nghiên cứu “Đánh giá một dự án nghiên cứu có sự tham gia của cộng đồng về chăm sóc sức khỏe tâm thần cho người cao tuổi nông thôn Mỹ” (2008) của Dean Blevins, Bridget Morton và Ren MCGovern [42]. Nghiên cứu này đánh giá sự tham gia của của các bên trong cộng đồng về chăm sóc sức khỏe tâm thần cho người cao tuổi ở nông thôn. Kết quả của nghiên cứu cho thấy đa số mọi người đều hài lòng với vai trò của họ và mức độ thành công của chương trình. Từ đó tác giả của nghiên cứu cũng đề xuất những giải pháp để cải thiện hơn nữa các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần tại cộng đồng của Hoa Kỳ. Nghiên cứu này góp phần đánh giá thực trạng sức khỏe tâm thần của NCT cô đơn mà chúng ta đang quan tâm. Theo một nghiên cứu mới của Đại học California San Francisco, Mỹ nghiên cứu đã tiến hành trên 1.600 người cao tuổi (độ tuổi trung bình là 71) với thời gian trong vòng 6 năm, nội dung đánh giá sự cô đơn, tình trạng suy giảm chức năng và nguy cơ tử vong trong suốt thời gian nghiên cứu. Kết quả cho thấy, 23% những người già sống neo đơn đã qua đời trong 6 năm, nhưng chỉ có 14% người già sống bên người thân, bạn bè qua đời trong khoảng thời gian này. Đồng thời, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng có đến
- 15 43% người già trên 60 tuổi cảm thấy họ bị cô đơn. Theo kết quả nghiên cứu này thì vấn đề cô đơn mà NCT cô đơn đang phải đối mặt là rất lớn và rất nghiệm trọng; tác giả cũng nhận thấy vai trò quan trọng của người thân, bạn bè, cộng đồng trong việc hỗ trợ NCT cô đơn là rất cần thiết. Nghiên cứu này giúp tác giả hiểu về thực trạng cuộc sống của NCT cô đơn và đi sâu làm rõ thêm trong nghiên cứu của tác giả. Trong chương Lão hóa và người lớn tuổi của tác phẩm Sociology (2004) [43] của tác giả John J.Macionis, cho biết kết quả nghiên cứu từ Viện Nghiên cứu Pháp (INED), thực hiện tại các nước thành viên Châu âu (EU) bao gồm Bồ Đào Nha, Cộng Hòa Séc, Hà Lan, Đức, Italia,… nghiên cứu đã chỉ ra tình hình NCT ở phía nam EU thì thích sống với những người thân trong gia đình. Các nước phía bắc EU thì tình trạng NCT sống tại các trung tâm dưỡng lão đang có xu hướng ngày càng tăng. Cụ thể nghiên cứu đã chỉ ra ở Hà Lan, chỉ có 8% số NCT trên 75 tuổi đã ly hôn, góa bụa, hoặc độc thân sống chung với các thành viên khác trong gia đình, số còn lại sống trong cơ sở xã hội. Cộng hòa Séc và Bồ Đào Nha có đến 50% NCT sống chung với người thân. Đức và Hà Lan rất nhiều người sống một mình trong nhà của họ vì các dịch vụ tạo điều kiện chăm sóc tại nhà tương đối phát triển. Sự khác biệt trong cách chọn nhà của NCT ở nước EU là do chuẩn mực về văn hóa, lý do về kinh tế, chính sách xã hội của từng quốc gia là khác nhau. Đối với nước ta, sự khác biệt về văn hóa sẽ ảnh hưởng đến cách chọn nhà của NCT, hiện nay họ có xu hướng ở cộng đồng nhiều hơn là nhà ở xã hội. Trong nghiên cứu của United Nations World Population Prospects (2007): The 2006 Revision Highlights [46] Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã đưa ra những phân tích cảnh báo cho biết, trong giai đoạn từ năm 2000 đến
- 16 2050 trên quy mô toàn cầu, số người già sẽ nhiều hơn số trẻ em dưới 14 tuổi. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, già hoá dân số sẽ trở thành một vấn đề lớn ở các nước đang phát triển, nơi mà dân số sẽ bị già hoá nhanh chóng trong nửa đầu của thế kỷ XXI. Nghiên cứu cũng nhấn mạnh, các nước đang phát triển sẽ là nơi có tỉ lệ NCT tăng cao nhất và nhanh nhất, theo dự báo số NCT ở khu vực này sẽ tăng gấp 4 lần trong vòng 50 năm tới. Tỷ lệ NCT theo dự báo sẽ tăng từ 8% lên 19% vào năm 2025, trong khi đó tỷ lệ trẻ em sẽ giảm từ 33% xuống 22%. Hơn một nửa dân số tuổi 80+ sống ở những nước đang phát triển, dự báo sẽ tăng lên 71% vào năm 2050. Nghiên cứu này cho thấychỉ 50 năm nữa thôi là hầu hết những nước đang phát triển phải giải quyết thực trạng dân số già, việc đề ra những giải pháp là vô cùng cần thiết. Nghiên cứu “Developing Model of Health Care management for the Elderly by Community Participation in Isan” [41] (Xây dựng mô hình quản lý CSSK cho NCT có sự tham gia của cộng đồng tại Isan) của Chanitta Soommaht, Songkoon Chantachon và Paiboon Boonchai. Nghiên cứu này được tiến hành từ tháng 2 đến tháng 8 năm 2008 tại 7 tỉnh Đông Bắc Thái Lan là Mahasarakham, Roiet, Sakon Nakhon, Nakhon Ratchasima, Bruriram, Surin và Khon kaen bằng phương pháp nghiên cứu định tính. Nghiên cứu đã phân tích và chỉ ra các vấn đề trong quản lý CSSK người cao tuổi tại các cộng đồng ở Isan cả về thể chất lẫn tinh thần. Đồng thời các tác giả cũng tiến hành phân tích sự phát triển của việc CSSK cho NCT là do các tổ chức cộng đồng Isan đảm nhiệm. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc quản lý các tổ chức cộng đồng trong việc CSSK người cao tuổi là phương pháp hiệu quả nhất. Tất cả công dân cao tuổi trong cộng đồng đều đồng ý rằng, việc chăm sóc y tế được cung cấp bởi các tổ chức cộng đồng giúp họ thoải mái
- 17 và ấm áp hơn, đây cũn là một trong những phát hiện lớn của nghiên cứu này. Tuy nhiên, đối với NCT có sức khỏe quả yếu thì mô hình quản lý CSSK tại cộng đồng có vẻ mang lại những khó khăn, trong nghiên cứu về dịch vụ CTXH này tác giả đi sâu về tìm hiểu các dịch vụ hỗ trợ NCT tại địa bàn nghiên cứu trong đó có dịch vụ hỗ trợ CSSK đối với NCT cô đơn. Trong phiên họp toàn thể ngày 18/12/2014, Liên Hợp Quốc đã thông qua Nghị quyết GA/RES/69/146 về công tác người cao tuổi [12], trong đó Nghị quyết đã đưa ra 52 điều cần thực hiện. Nghị quyết đã đánh giá cao hiệu quả của nhóm công tác mở của Liên Hợp Quốc về NCT (OEWG) được thành lập từ 2010, trong đó có dự thảo Công ước về Quyền của NCT để đệ trình tại phiên họp lần thứ 70 của Đại hội đồng Liên hợp quốc; nội dung Nghị quyết cũng kêu gọi các quốc gia thành viên đóng góp ý kiến, đề xuất biện pháp cụ thể trong việc đề xuất chiến lược chăm sóc, trợ giúp NCT; vấn đề đáng chú ý là Nghị quyết đã đồng ý tổ chức các phiên họp định kỳ để lấy ý kiến của các quốc gia thành viên và của các tổ chức phi chính phủ vào ngày 14 đến 16/07/2015 tại trụ sở của Liên hợp quốc tại New York, Hoa Kỳ về hoạt động chăm sóc, trợ giúp NCT. Hầu hết các nghiên cứu đi từ việc tìm hiểu thực trạng đời sống của NCT, những vấn đề họ đang gặp phải trong cuộc sống, những rào cản trong việc tiếp cận các dịch vụ, các mô hình chăm sóc cũng như việc xây dựng những mô hình, chương trình trợ giúp cho NCT phù hợp với điều kiện của mỗi quốc gia. Có thể nói vấn đề NCT đang là vấn đề được các nước quan tâm, đặc biệt là các nước phát triển khi mà dân số già đang diễn ra. Như vậy, có thể thấy chủ đề NCT và mô hình chăm sóc, trợ giúp NCT nhận được rất nhiều sự quan tâm của các cơ quan, tổ chức, các nhà
- 18 nghiên cứu trên thế giới. Quan điểm và cách tiếp cận trong nghiên cứu các vấn đề về NCT và mô hình chăm sóc, trợ giúp NCT cũng rất phong phú: từ góc độ gia đình, xã hội; từ góc độ văn hóa, y tế cho đến góc độ dân số, kinh tế, quản lý… Điều này cho thấy vai trò, vị thế của NCT tại các nước trên thế giới rất được quan tâm, đề cao. Tuy nhiên các nghiên cứu về dịch vụ công tác xã hội trong hỗ trợ NCT cô đơn vẫn còn chưa được nhiều và chưa được quan tâm cao. 2.2. Một số nghiên cứu về người cao tuổi cô đơn ở Việt Nam Tại Việt Nam các nghiên cứu về NCT đã được quan tâm nghiên cứu rất nhiều, từ các giai đoạn trước đó. Các nghiên cứu được tiến hành, các đề tài nghiên cứu xoay quanh các vấn đề như: Chăm sóc sức khỏe, chăm sóc đời sống vật chất tinh thần; các mô hình chăm sóc trợ giúp NCT; An sinh xã hội cho NCT; tạo việc làm cho NCT; những nghiên cứu mang tính can thiệp về các vấn đề tâm sinh lý, bệnh tật ở NCT... Trong nghiên cứu “Cơ sở thực tiễn và lý luận xây dựng chính sách xã hội với người già ở Việt Nam” [35] của Vụ Các vấn đề xã hội của Quốc hội (2000). Nghiên cứu đã góp phần giúp Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Người cao tuổi năm 2000 đặt nền móng cho những những chính sách lớn về NCT ra đời, hướng tới giúp đỡ NCT cải thiện đời sống của họ về mọi mặt. Nghiên cứu về “Đời sống người cao tuổi” [34] của Vụ các vấn đề xã hội, Văn phòng Quốc hội, thực hiện năm 2000, nghiên cứu đã mang lại kết quả như sau: về đời sống vật chất NCT: Trên 60% số cụ cho là khó khăn, 37% coi là trung bình, 1,0% dư dật. Hơn nữa, nghiên cứu còn cho thấy, đời sống vật chất ở địa bàn Hà Nội cao hơn ở Thanh Hóa nhưng tỉ lệ NCT cảm thấy không thoải mái lại cao gấp 5 lần ở Thanh Hóa. Ngược lại,
- 19 ở Thanh Hóa lại có tỉ lệ NCT cảm thấy có cuộc sống thoải mái cao gấp hơn 3 lần Hà Nội. Điều đó làm rõ bức tranh đời sống của NCT về sức khỏe, vật chất và tinh thần cùng những khó khăn của NCT ở mỗi địa phương, mỗi khu vực là khác nhau. Năm 2001 Tổ chức Hỗ trợ Quốc tế Người cao tuổi (HAI) đã có cuộc nghiên cứu về “Hoàn cảnh của người cao tuổi nghèo Việt Nam” [25] tại 5 điểm là khu ổ chuột TP. Hồ Chí Minh, một làng người H’mong tại tỉnh Lào Cai, một làng người Kh’me ở tỉnh Sóc Trăng, một làng người Chăm ở tỉnh Ninh Thuận và một làng người Kinh ở tỉnh Phú Yên. Nghiên cứu này đã mang lại bức tranh góc khuất là hoàn cảnh của NCT nghèo, về những đóng góp chưa được biết đến của họ và những mối quan tâm của họ và họ bị phân biệt. Điều mới mẻ là nghiên cứu đã sử dụng phương pháp có sự tham gia để khuyến khích người dân nông thôn nghèo, học vấn thấp có thể trao đổi cởi mở bằng ngôn ngữ và nhận thức của chính họ. Nghiên cứu này đã góp phần cho bức tranh về cuộc sống của NCT cô đơn thêm sinh động và dưới góc nhìn CTXH, cần có những phương pháp hỗ trợ kịp thời và hiệu quả. Nghiên cứu: “Thực trạng người cao tuổi tại Hà Tây” [32], của Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em tỉnh Hà Tây, năm 2003. Nghiên cứu này được triển khai tại 3 xã, phường, đó là: xã Liệp Tuyết, huyện Quốc Oai, đại diện cho khu vực nông nghiệp; xã Phú Yên, huyện Phú Xuyên, đại diện cho khu vực làng nghề; phường Nguyễn Trãi, thị xã Hà Đông đại diện cho khu vực thành thị. Kết quả nghiên cứu làm rõ bức tranh đời sống người cao tuổi tại Hà Tây. Những nhu cầu, nguyện vọng của NCT ở nơi đây... Nghiên cứu đã đưa ra những giải pháp, giúp NCT nâng cao chất lượng cuộc sống tại địa phương.
- 20 Năm 2004, TW Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tiến hành điều tra “Thực trạng đời sống và tham gia Hội Phụ nữ của phụ nữ cao tuổi Việt Nam” [9] ở 7 tỉnh thành trên các vùng miền của cả nước với 557 phụ nữ từ 50 tuổi trở lên. Thông qua hình thức phỏng vấn về các thông tin liên quan đến nhu cầu của phụ nữ cao tuổi và nhận thức của các cấp Hội phụ nữ về các vấn đề liên quan đến NCT trong cộng đồng. Từ đó đưa ra các giải pháp đề xuất để phát triển đáp ứng nhu cầu tham gia của Hội viên Hội phụ nữ. Nghiên cứu về thực trạng bạo lực gia đình đối với NCT, Tác giả đã tiến hành nghiên cứu tại 3 tỉnh Quảng Trị, Phú Yên và Đắk Lắk của Viện nghiên cứu Người cao tuổi Việt Nam được xuất bản thành sách “Người cao tuổi và Bạo lực gia đình” [18] do tác giả Nguyễn Thế Huệ chủ biên, nghiên cứu đã chỉ ra thực trạng bạo lực gia đình đối với NCT, từ đó đã đề xuất những cơ chế pháp lý trong việc xử phạt hành vi bạo hành đối với NCT, đề xuất giải pháp hỗ trợ NCT bị bạo hành. Đây là nghiên cứu giúp tác giả thêm kiến thức về cuộc sống của NCT hiện nay. Trong “Nghiên cứu, điều tra thực trạng thu nhập và mức sống của NCT Việt Nam” [28] năm 2004 của Trung tâm Nghiên cứu và Hỗ trợ Người cao tuổi (Trung ương Hội NCT Việt Nam). Từ nghiên cứu đã chỉ ra đời sống của NCT còn gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là đời sống của hơn 70% NCT đang sống ở nông thôn không hưởng chính sách xã hội hoặc có lương hưu. Kết quả nghiên cứu là cơ sở để Nhà nước ban hành chính sách trợ giúp xã hội đối với nhóm người cao tuổi này giúp NCT cải thiện thu nhập và mức sống. Cũng về điều tra mức thu nhập và mức sống của NCT trong “Điều tra thực trạng thu nhập và mức sống của NCT Việt Nam” [30] được Trung tâm Nghiên cứu và Hỗ trợ Người cao tuổi (Trung ương Hội Người cao tuổi Việt Nam) triển khai thực hiện năm 2005, phạm vi điều tra
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội: Công tác xã hội nhóm trong phòng ngừa trẻ em có nguy cơ bị xâm hại tình dục
0 p | 436 | 45
-
Luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội: Hoạt động công tác xã hội trong phòng ngừa xâm hại tình dục trẻ em tại trường tiểu học Chi Đông, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội
0 p | 244 | 37
-
Luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội: Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong trợ giúp trẻ em bị xâm hại tình dục tại Trung tâm tư vấn và Dịch vụ truyền thông - Cục Trẻ em
0 p | 323 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội: Công tác xã hội nhóm với việc phòng ngừa quấy rối tình dục cho học sinh nữ trường THCS Bắc Hồng
0 p | 204 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội: Dịch vụ Công tác xã hội trong giải quyết việc làm cho người khuyết tật vận động từ thực tiễn Quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội
94 p | 134 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội: Hoạt động công tác xã hội cá nhân trong hỗ trợ trẻ em khuyết tật vận động tại Trung tâm Phục hồi chức năng cho người khuyết tật Thụy An
0 p | 200 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội: Dịch vụ công tác xã hội trong hỗ trợ người nghiện ma túy tại cơ sở điều trị Methadone thị xã Sơn Tây
0 p | 150 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội: Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong phòng chống bạo lực gia đình tại huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên
0 p | 197 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội: Dịch vụ công tác xã hội với người cao tuổi tại Trung tâm Bảo trợ và Công tác xã hội tỉnh Ninh Bình
124 p | 29 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội: Công tác xã hội trong hỗ trợ về giáo dục và y tế đối với trẻ em dân tộc Kơ Ho từ thực tiễn huyện Lâm hà, tỉnh Lâm Đồng
96 p | 101 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội: Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong việc thực hiện chính sách giảm nghèo trên địa bàn phường Liên Mạc - quận Bắc Từ Liêm - thành phố Hà Nội
0 p | 146 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội: Dịch vụ công tác xã hội đối với phụ nữ là chủ hộ nghèo trên địa bàn huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội
126 p | 26 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội: Dịch vụ công tác xã hội trong hỗ trợ tìm kiếm việc làm cho người nghèo tại xã Võng Xuyên, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội
154 p | 40 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội: Hoạt động công tác xã hội trong hỗ trợ trẻ em khuyết tật vận động tại quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội
96 p | 30 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội: Hoạt động công tác xã hội trong hỗ trợ việc làm cho người khuyết tật tại Hội người khuyết tật huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội
162 p | 27 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội: Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong hỗ trợ trẻ em lang thang tại tổ chức trẻ em Rồng xanh - Hà Nội
137 p | 110 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội: Công tác xã hội nhóm đối với người tâm thần tại Trung tâm chăm sóc và nuôi dưỡng người tâm thần số 2 Hà Nội
0 p | 123 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội: Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong trợ giúp người nghèo trên địa bàn quận Long Biên, thành phố Hà Nội
0 p | 122 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn